Chương 38: VIỆC THI CỬ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đời Quang Hưng (1), khoa thi năm Nhâm Thìn (1592) lấy đỗ đại khoa có ba người: Trịnh Cảnh Thụy, Ngô Trí Hòa, cùng với cha là Ngô Trí Tri mà thôi. Bấy giờ chưa khôi phục được Trung Đô, còn phải mở thi Hội ở hành tại Phổ Lại (2). Sau binh hỏa, học hành hoang phế, khi đầu bài yết ra, học trò không mấy người nhớ thuộc đựoc hết. Ngô Trí Tri bấy giờ đã năm mươi sáu tuổi, cũng còn đi vào thi Hội. Con là Trí Hòa vốn có tiếng là người học rộng hay chữ. Lúc vào thi, Trí Hòa thuộc lòng cả, cứ viết ra từng câu đưa cho cha. Song lều của cha đóng cách xa, lại phải nhờ một lều ở giữa là Trịnh Cảnh Thụy. Trí Hòa cứ vứt qua lều ấy nhờ đưa cho cha vì thế Trịnh Công và Trí Tri đều được vào trúng cách đỗ đại khoa. Xem thế thì biết văn vận thời bấy giờ và cái số khốn cùng hay phát đạt đã định cho người ta vậy. Họ Ninh ở xã Côi Trì, tổ tiên trước vốn là người Ninh Xá, huyện Chí Linh.

Khoảng năm Hồng Đức triều Lê, sau khi loạn lạc, điền thổ bỏ hoang nhiều, mới có lệnh cho mọi người khai hoang, làm được bao nhiêu là của mình bấy nhiêu. Các nhà thế gia hào hữu cứ tùy sức mà khai khẩn. Khi thành ruộng rồi thì khai số ruộng đưa lên bộ Hộ, xin làm ruộng tư, như thế gọi là phép “chiếm xạ”. Họ Ninh khi xưa khai khẩn ở huyện Yên Mô, sau nhiều người đến tụ họp, mới tách ra làm xã Côi Trì. Đời gần đây có Ninh Định đỗ Hội Nguyên, có tiếng hay chữ. Đến Ninh Tốn (3), biệt hiệu Mẫn Hiên (còn có hiệu Chuyết Sơn) là cháu gọi Ninh Định bằng chú. Khi hai mươi tuổi đã đỗ trường sinh, rồi đỗ hương cống, văn từ rất là cổ kính.

Khoảng năm Cảnh Hưng, sĩ tập suy kém, văn thể hủ lậu, Trịnh Tĩnh Vương muốn biến cải mà chưa thể được. Một hôm, Tĩnh Vương ngự chơi núi Dục Thúy, thấy khoảng vách chùa trên núi có đề một bài thơ, Vương biết là thơ của Mẫn Hiên liền cho triệu vào làm Phiên liên Thiêm phó, rồi thăng chức Tiến triều Thiêm sai Tri phiên. Ông rất được chúa Trịnh yêu mến. Trong tập thơ Nghệ An thi tập (4) ông Bùi Huy Bích có câu: “Mẫn Hiên cư sĩ kim tài tử. Chính phủ thiên sai liệt cổ khanh” nghĩa là “Ông Mẫn Hiên cư sĩ là tài tử đời nay, làm chính phủ thiên sai, là chức liệt khanh đời xưa”; đó là chỉ vào Ninh Tốn vậy.

Khoa thi Hội năm Giáp Ngọ (1774)[8], kỳ đệ tam, ông Mẫn Hiên được vào trúng cách, mà ông Phạm Nguyễn Du người Đặng Điền thì không được vào. Hai ông đều được chúa Trịnh yêu mến, mà chơi với nhau cũng tương đắc. Khi đã yết bảng kỳ đệ tam rồi, Thạch Động Phạm công (5) có đi võng qua nhà trọ ông Mẫn Hiên. Ông Mẫn Hiên biết ông ấy đi vào hầu trong Trịnh phủ để ra đầu đề, nên cứ đứng đón ở cửa. Đến khi trở về, Mẫn Hiên cứ trông theo vào võng Phạm công, hai ông không nói một câu gì cả. Phạm công chỉ đọc bài tiểu chú trong sách Luận ngữ (6) về đoạn: "tam trần cửu quái chung ư tốn dĩ hành quyền nhi dĩ".

Ông Mẫn Hiên biết ý, sớm hôm sau sắp vào kỳ đệ tứ, bèn xé hai trang về đoạn sách: "Tam trần cửu quái" trong Kinh Dịch hệ từ, giắt đem vào trường. Đầu bài văn sách yết ra, học trò không mấy người nhớ thuộc được hết. Chấm xong, được năm quyển dâng lên chúa Trịnh xem, thì quyển đầu là An Vĩ Nguyễn Lượng, cổ văn đều hơn cả, đến đoạn kim văn hỏi về việc khu xử cõi Nam thì trong quyển Nguyễn Lượng có câu "sái nhân tất vi ngô". Chúa Trịnh cười mà rằng: "Quyển này, học vấn thì đầy đủ, nhưng về thời cuộc thì không được am hiểu, hãy đánh hỏng đi để cho tài trí được già dặn". Còn bốn quyển được vào trúng cách là: Phạm Trọng Huyến, Chu Doãn Lệ, Nguyễn Thì, đều lấy đỗ về kim văn cả. Quyển ông Ninh Tốn thì kim văn am luyện (7), cổ văn có đoạn trên "Tam trần cửu quái" rất đầy đủ, duy đoạn dưới lại sót mất quẻ Kiền không nói đến, không được tường nghĩa sách. Đó là vì xé hai trang màhụt mất đoạn dưới. Sau Ninh Tốn đỗ Hội nguyên, Thạch Động Phạm công có mừng câu thơ nôm bỡn rằng: “Sinh đồ ba chuôi nhờ hòn đất, Tiến sĩ nửa câu cậy bảng trời”, là có ý ám chỉ vậy.

Xét đời xưa tuyển học trò ở trong nhà hương học, kén chọn lấy đức hạnh với văn nghệ, thì văn nghệ vẫn thứ yếu. Đến nhà Hán, thi tuyển người hiền lương mới lấy văn từ làm chủ. Nhưng chỉ ra văn thi hỏi về những đại nghĩa trong kinh truyện và tri đạo cổ kim, cùng còn có ý theo đời cổ. Vậy nên thời ấy có những người hiền là họ Đổng, họ Giả, họ Lưu, họ Dương (8) đều nhờ văn học mà nổi tiếng. Từ đời Tùy, đời Đường trở về sau, bỏ sách luận mà thi bằng thơ phú. Học trò đời ấy nhiều người hàm châu nhả ngọc, cũng có sở trường cả. Nhưng đem ra dụng thế thì văn chương với chính sự lại chia ra làm hai. Đến đời Tống, khoảng năm Hi Ninh, ông Vương An Thạch lại lấy sách luận thi học trò. Đời ấy sĩ tập đã quen rồi, họ cho rằng thi sách luận là mới lạ, nên đều nổi lên bài bác. Nhưng sau cũng phải theo, dần dần mới khôi phục được cái lối thi sách luận đời nhà Hán. Ông Trần Đồng Phủ khi vào đối sách chốn đại đình, vua Hiếu Tông khen là có cái học kinh bang tế thế, lấu lên cho làm chức Phán quan đất Kiến Khang. Ông Văn Thiên Tường có bài sách đình đối, các quan đã phải khen rằng văn ông "cổ nghị như qui giám, trung can như thiết thạch" (9), mừng là chọn được người hiền.

Vì lối văn sách luận, phi người học thông suốt cả kinh truyện, bao hàm cả cổ kim, thì không thể cấu tứ mà hạ bút viết được. Từ khi thi hành phép khoa cử mà phảng phất được cái ý cổ nhân lấy học trò, thì duy có một khoa ấy mà thôi. Đời Lê, năm Thuận Thiên (10), định phép khoa cử, lấy thể văn sách luận để thi học trò.

Từ năm Thiệu Bình (11) trở về sau, kén được nhiều người hiền tài lắm. Ta thường được xem những văn đình đối của Võ Duệ (12), Lương Thế Vinh (13), lối văn rộng rãi mông mênh, không phải những kẻ sĩ nông nổi đời sau có thể bắt chước được. Từ đời Trung hưng trở về sau, phép thi càng thiên lệch mãi đi. Những đầu bài văn sách thi Hội, thi Hương đều tự trong Súy phủ đưa ra. Nguyên trong Súy phủ phải mật triệu vài quan văn thần vào phụng soạn, gọi là ngự đề; các quan soạn đề thì chỉ ra những câu hiểm hóc để làm cho khó. Bài văn chế sách đình đối thì sai quan Đồng Tiến sĩ phụng soạn. Quan soạn đề nguyên đã đỗ cuối hàng tam giáp thì không muốn cho ai hơn mình, nên ra đầu đề thường rất hiểm hóc. Bởi vậy, hàng tam khôi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa thường không lấy được đủ, có khi chỉ lấy đỗ được đến Nhị giáp hoặc Tam giáp mà thôi. Ôi! Cái tệ khoa cử đến thế là cùng! Văn vận với thế đạo càng ngày càng kém, thực đáng than thay! Thạch Động Phạm công có câu thơ nôm rằng: “Sinh đồ ba chuôi nhờ hòn đất, Tiến sĩ nửa câu cậy bảng trời” (14).

Đời Lê có đặt ra khoa Đông các. Cứ lệ thì từ quan tam phẩm trở xuống, có đỗ đình nguyên, hội nguyên, hương nguyên, mới được vào thi khoa Đông các. Hoặc không đỗ tam nguyên thì người nào có thi đỗ đầu về khoa có ngự đề tuyển cử được đỗ đại khoa, cũng được thi khoa Đông các. Ân điển cho người thi đỗ có phần hậu hơn chế khoa tiến sĩ, thực là một khoa đặc cách vậy.

Võ Trấn, khi chưa đỗ, thường mộng thấy ra xem yết bảng ở Quảng Văn Đình, thấy hàng trên có một tên, nét chữ rậm quá, không thể nhớ được; đến tên thứ hai là Võ Trấn, thứ ba là Nguyễn Thế[25]. Võ Trấn nghĩ mình là một anh học trò áo vải, mà được đồng bảng với người hiển quí, tất không có lẽ ấy, nên trong bụng nghĩ vơ vẩn, chỉ thở dài mà bỏ qua. Đếnnăm Bảo Thái (15) Giáp Thìn (1724), Võ Trấn thi đỗ Đồng tam giáp tiến sĩ xuất thân, ông mới cười cái mộng trước là hão huyền. Đến năm Bảo Thái thứ chín (1728) chúa Trịnh Hi Tổ (Trịnh Cương) có bàn mở khoa thi Đông các. Bấy giờ Nguyễn Thế về triều mà ứng thí Đông các. Võ Trấn thuật lại cái mộng ngày trước để mừng. Sau quả nhiên khoa thi ấy lấy đỗ ba người: một người trúng cách thứ nhất là Phạm Khiêm Ích (16), chức Lại bộ tả thị lang Thuật quận công; hai người nữa trúng cách thứ hai là Võ Trấn, chức Binh bộ cấp sự trung thự Hàn lâm viện hiệu thảo và Nguyễn Thế, chức Tự khanh kiêm Tế tửu. Xem thế thì biết khoa giáp vốn có định số vậy.

Lệ cũ ai đỗ khoa Đông các, khi vinh qui cả dân bản tổng phải đến phục dịch; làm nhà tư thất bằng gỗ lim, lợp ngói, độ ba gian, tất cả dân phu trong bản tổng, bản huyện phải đến phục dịch. Khi Phạm Khiêm Ích đỗ khoa Đông các về vinh qui, ông thương hại người hàng tổng nghèo cùng, nên miễn cho không bắt chịu cái phí tổn làm nhà nữa. Ai cũng lấy làm cảm ơn, sau tôn ông làm hậu thần, thường năm xuân thu cúng tế, mổ trâu vào đám, báo cái ơn đức ấy. Sau khi nhà Lê mất, hậu thần các làng thường thường bỏ không cúng tế nữa, duy có giỗ hậu Phạm công thì làng vẫn lấy lợn thay trâu bò cúng tế , không dám bỏ. Xem thế mới biết cái ơn di ái (17) ở người ta thì người ta vẫn nhớ mãi không quên. Triều Lê đãi học trò rất hậu, nào là trâm, hốt, hoa bào, du nhai, tứ yến (18), lại phong cho cha mẹ, ấm cho con cháu, vinh qui áo gấm về làng, rất vinh dự. Hậu đãi như thế là đủ rồi.

Còn đến như làm nhà tư thất, phục dịch việc gì cũng đổ vào đầu dân cả, thì dân hàng tổng chịu làm sao được. Vả lại, người học trò mới đỗ đại khoa, mà cả hàng tổng đến phục dịch, làm nhà cửa cho mình, lại phải mở yến tiệc khao mừng, đãi dân hàng tổng để đền công lao, thế tất phải xoay xở đi vay mượn cho xong việc. Thậm chí có kẻ chỉ dòm lấy con gái nhà giàu mà bỏ vợ tao khang, hoặc chịu tiếng luồn lỏi đi vay lãi mà ký liều văn khế. Thói quen ấy tích tệ từ lâu, nên đã có cái tiếng ông Nghè đeo nợ, bà Nghè mua chồng; như thế mà mong người ra làm quan giữ liêm khiết, không trái phép làm càn, thì sao được. Xét khoảng năm Cảnh Hưng, cái tệ bà Nghè mua chồng không kể xiết được.

Khoa Đinh Sửu (1757), Phạm Tiến đỗ, có người nhà giàu gả cho con gái, giao ước xin chịu hết những tiền phí tổn lúc vinh qui. Lúc vinh qui, ả nhà giàu cứ tranh đi trước bà vợ cả. Bà vợ cả mới thưa vào trong triều, triều nghị bắt lỗi ông Nghè, đình việc cất nhắc.

Khoa Nhâm Thìn (1772), Võ Tôn Diễm, Nguyễn Bá Tôn, hai người cùng đỗ, Lê Quý Đôn đều đem cháu gái gả cho. Về sau, Võ Tôn Diễm, vợ cả vợ lẽ không chịu nhường nhau, mới phân rẽ ra ở làm hai nhà. Còn người vợ cả Nguyễn Bá Tôn, vì không đánh đổ được người vợ lẽ, tức giận quá thành chứng điên.

Cuối năm Cảnh Hưng có chỉ truyền ra cấm hẳn. Từ năm Mậu Tuất (1778) trở về sau, cái tệ ấy mới bớt dần đi. Quan Huyện thừa tên là Võ Độ, người Yên Thái, dòng nhà giàu; từ khi huyện thừa mất rồi, nhà cũng sút kém, có sinh hạ được một trai một gái. Bà vợ vốn là người cần kiệm chắt chiu nên vẫn giữ được nền nếp, thể diện, không sa sút mấy.

Năm Ất Mùi (1775) đời Cảnh Hưng, Nguyễn Quốc Ngạn đỗ đại khoa mà chưa vợ, bà vợ Huyện thừa trong bụng lấy làm hâm mộ, mới mua ơn cho vay mượn giúp đỡ, rồi nhờ mụ mối buộc gả người con gái cho Nguyễn công. Nguyễn công phải nhận, bao nhiêu tiền phí tổn lúc vinh qui, đều do bà tân phu nhân bỏ ra cả. Nguyễn công lúc đầu còn thụ chức khoa cấp, việc quan nhàn rỗi không đủ tiêu. Bà tân phu nhân liền về mưu tính với mẹ, đi vay giật được tám trăm quan tiền, chạy chọt đút lót trong nội phủ. Quan chính phủ mới phụng chỉ bổ cho Nguyễn công chức Đốc đồng xứ Sơn Nam. Ở phủ đường mới xướng danh xong, thì Nguyễn công phải bệnh chết. Không được bao lâu, bà Huyện thừa cũng mất, gia kế một ngày một kém. Sau khi nhà Lê mất rồi, bà Nghè vẫn còn mắc nợ mãi.
_______

(1) Quang Hưng (1578 – 1599) là niên hiệu Lê Thế Tông.

(2) Phổ lại tức là Phả Lại bây giờ. Hành tại là nơi vua nghỉ tạm thời ở ngoài kinh đô.

(3) Ninh Tốn (1743 - ?), người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, đậu tiến sĩ năm 1778.

(4) Tên tập thơ này không thấy viết trong bản dịch.

(5) Tức Phạm Nguyễn Du; Thạch Động là hiệu.

(6) Tên sách Luận ngữ không thấy viết trong bản dịch.

(7) Theo bản gốc.

(8) Ý nói am hiểu việc đời, văn chương tinh luyện.

(9) Tức Đổng Trọng Thư, Giả Nghị, Lưu Hâm, Dương Hùng.

(10) Nói văn chương của Văn Thiên Trường già dặn đáng làm mẫu mực, lòng dạ thì trung nghĩa như sắt đá.

(11) Thuận Thiên (1428 – 1433) là niên hiệu của Lê Thái Tổ.

(12) Thiệu Bình (1434 – 1439) là niên hiệu của Lê Thái Tông.

(13) Võ Duệ (thế kỷ XV), người làng Trình Xá, huyện Sơn Vĩ, tỉnh SƠn Tây (nay thuộc huyện Thanh SƠn, tỉnh Vĩnh Phú), đỗ Trạng nguyên năm 1490, được tuyển vào Hàn lâm viện, làm quan đến Lại bộ thượng thư. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, ông theo vua vào Thanh Hóa, đến Lam Sơn, mặc mũ áo lạy lăng miếu rồi tự vẫn.

(14) Lương Thế Vinh (1441 - ?) người làng Cao Lương, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Đỗ Trạng nguyên năm 1463, làm quan đến chức Hàn lâm thị Phụ, Chưởng viện sự, soạn các giấy tờ ngoại giao với Trung Quốc.

(15) Đoạn này không thấy trong bản dịch.

(16) Bảo Thái (1720 – 1729) là niên hiệu Lê Dụ Tông.

(17) Phạm Khiêm Ích (1679 – 1741) người huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

(18) Di ái là điều làm cho người đời sau còn yêu mến mình.

(19) Những người thi đỗ được nhà vua ban cho trâm vàng, hốt bạc, áo bào thêu hoa, rước đi chơi phố và dự yến.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro