vulinh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

I/Cơ sở lý thuyết 1

1.1. Những vấn đề cơ bản về trái phiếu. 1

1.1.1. Khái niệm trái phiếu. 1

1.1.2. Đặc điểm trái phiếu. 2

1.1.3. Phân loại trái phiếu. 2

1.2. Phương thức phát hành trái phiếu. 4

1.2.1.  Phát hành trái phiếu trực tiếp. 4

1.2.2.  Đấu thầu trái phiếu. 4

1.2.3.  Đại lý phát hành trái phiếu. 5

1.2.4.  Bảo lãnh phát hành trái phiếu. 5

II/ Liên hệ thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam.. 6

2.1. Phát hành trái phiếu chính phủ. 6

2.1.1. Các quy định về phát hành trái phiếu chính phủ hiện nay ở Việt Nam.. 6

2.1.2. Tiềm năng thị trường trái phiếu chính phủ Việt Nam.. 8

2.1.3. Thực trạng phát hành trái phiếu chính phủ ở Việt Nam.. 8

2.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 10

2.2.1. Điều kiện để một công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 10

2.2.2. Các loại trái phiếu doanh nghiệp có mặt trên thị trường Việt Nam.. 11

2.2.3. Tiềm năng thị trường. 13

2.2.4. Thực trạng phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay ở Việt Nam.. 14

III/ Nhận xét, đánh giá và giải pháp. 15

3.1. Đánh giá chung tình hình phát hành trái phiếu ở Việt Nam trong những năm gần đây  15

3.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay. 18

I/Cơ sở lý thuyết

1.1. Những vấn đề cơ bản về trái phiếu

1.1.1. Khái niệm trái phiếu

Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.

Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (Trái phiếu vô danh).

1.1.2. Đặc điểm trái phiếu

v            Một trái phiếu thông thường có những đặc trưng chính sau:

·        Mệnh giá trái phiếu: hay còn gọi là giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc. Mệnh giá trái phiếu là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn.

·        Lãi suất danh nghĩa: Lãi suất trái phiếu thường được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố được gọi là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất này được xác định theo tỷ lệ phần trăm so với mệnh giá trái phiếu và cũng là căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu.

·        Thời hạn của trái phiếu: là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả vốn lần cuối. Trái phiếu có thời hạn khác nhau, trái phiếu trung hạn có thời gian từ 1 năm đến 5 năm. Trái phiếu dài hạn, có thời gian từ 5 năm trở lên.

·        Kỳ trả lãi: Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Lãi suất trái phiếu được xác định theo năm, nhưng việc thanh toán lãi suất trái phiếu thường được mỗi năm hai hoặc một lần.

·        Giá phát hành: là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được xác định theo tỷ lệ phần trăm (%) của mệnh giá. Tùy theo tình hình của thị trường và của người phát hành để xác định giá phát hành một cách thích hợp. Có thể phân biệt 3 trường hợp:

- Giá phát hành bằng mệnh giá (ngang giá);

- Giá phát hành dưới mệnh giá (giá chiết khấu);

- Giá phát hành trên mệnh giá (giá gia tăng).

v    Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ-con nợ ( quan hệ tín dụng) giữa người phát hành và người đầu tư. Trái chủ có quyền đòi hỏi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn và không chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng vốn vay của người vay.

v     Trái phiếu là chứng khoán nợ nên khi công ty tuyên bố phá sản hoặc giải thể thì trái chủ có quyền nhận lại phần tài sản đã góp vào công ty trước các cổ đông.

v     Thu nhập của trái phiếu thường là khoản thu cố định, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty.

v     Lãi suất các trái phiếu rất khác nhau, thường phụ thuộc vào các yếu tố sau:

            - Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng.

            - Mức độ rủi ro của nhà phát hành và của từng đợt phát hành.

1.1.3. Phân loại trái phiếu

v      Phân loại theo người phát hành:

·        Trái phiếu  Chính phủ: đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính phủ phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong dân và các tổ chức kinh tế, xã hội. Chính phủ luôn được coi là Nhà phát hành có uy tín nhất trên thị trường; vì vậy, Trái phiếu Chính phủ được coi là loại chứng khoán có ít rủi ro nhất.

·        Trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh: là loại chứng khoán nợ do các doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉ định của Thủ tướng Chính Phủ, được Chính Phủ cam kết trước nhà đầu tư về việc thanh toán đúng thời hạn của tổ chức phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán (gốc và lãi) khi đến hạn thanh toán thì Chính Phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay tổ chức.

·        Trái phiếu Chính quyền địa phương: là một loại chứng khoán nợ, do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phát hành, có thời hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với ng−ời sở hữu trái phiếu.

·        Trái phiếu  doanh nghiệp: là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động. Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.

·        Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tín dụng: các tổ chức này có thể phát hành trái phiếu để tăng thêm vốn hoạt động.

v      Phân loại theo phương thức trả gốc và lãi:

·        Trái phiếu Coupon: là loại trái phiếu mà tiền lãi được thanh toán đều đặn theo kì, còn tiền gốc thanh toán tại ngày đáo hạn.

·        Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu mà tiền lãi thanh toán trước, tiền gốc thanh toán gọn tại ngày đáo hạn.

·        Trái phiếu hoàn trả theo niên kim cố định: tiền lãi và gốc được hoàn trả bằng những khoản đều đặn hang năm.

·        Consol: trái phiếu này được hoàn trả tiền lãi đều đặn theo kỳ còn tiền gốc thì không trả.

v      Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành

·         Trái phiếu bảo đảm: là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:

-          Trái phiếu có tài sản cầm cố: là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ.

-          Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu để làm tài sản bảo đảm.

·         Trái phiếu không bảo đảm: là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm mà chỉ bảo đảm bằng uy tín của người phát hành.

v      Phân loại dựa vào hình thức trái phiếu

·         Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu không ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành. Trái chủ là người được hưởng quyền lợi.

·         Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên của người mua và trong sổ sách của người phát hành.

v      Phân loại dựa vào tính chất trái phiếu

·         Trái phiếu có thể chuyển đổi: là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu.

·         Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu: là loại trái phiếu có kèm theo phiếu cho phép trái chủ được quyền mua một số lượng nhất định cổ phiếu của công ty.

·         Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu cho phép nhà phát hành được quyền mua lại một phần hay toàn bộ trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán.

1.2. Phương thức phát hành trái phiếu

1.2.1.  Phát hành trái phiếu trực tiếp

Phương thức này chỉ áp dụng với việc phát hành trái phiếu Chính Phủ (cụ thể ở đây là trái phiếu kho bạc) hoặc áp dụng với việc phát hành một số giấy tờ có giá của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Thông qua phương thức này đơn vị sẽ tự tổ chức tiêu thụ trái phiếu trong nước và thông qua hệ thống văn phòng đại diện ở nước ngoài. Phương thức này thường được áp dụng khi thị trường chứng khoán chưa hình thành hoặc thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã hình thành nhưng phát triển chưa đủ mạnh.

1.2.2.  Đấu thầu trái phiếu

v      Tổ chức phát hành trái phiếu được lựa chọn các phương thức đấu thầu sau:

·         Đấu thầu trực tiếp tại doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

·         Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian.

·         Đầu thầu thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán).

v      Nguyên tắc đấu thầu trái phiếu

·         Bí mật về thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu.

·         Bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

·         Cạnh tranh về lãi suất giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

v      Đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu là các tổ chức, cá nhân. Các đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu thông qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán) phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

v      Hình thức đấu thầu trái phiếu

·         Đấu thầu cạnh tranh lãi suất.

·         Kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất.

·         Tỷ lệ trái phiếu đấu thầu không cạnh tranh lãi suất trong từng đợt đấu thầu do tổ chức phát hành quyết định nhưng tối đa bằng 30% tổng khối lượng trái phiếu thông báo phát hành của đợt đấu thầu đó.

v     Phí đấu thầu trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức được ủy quyền tổ chức đấu thầu trái phiếu. Phí đấu thầu trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu (kể cả trường hợp tổ chức phát hành tự tổ chức đấu thầu trái phiếu). 

1.2.3.      Đại lý phát hành trái phiếu

Là việc tổ chức phát hành ủy thác cho tổ chức khác bán chứng khoán cho nhà đầu tư. Tổ chức đại lý phát hành trái phiếu là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

v      Phương thức đại lý phát hành trái phiếu

·         Tổ chức phát hành trái phiếu có thể uỷ thác cho một hoặc một số tổ chức cùng làm nhiệm vụ đại lý phát hành trái phiếu.

·         Đại lý phát hành thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư theo đúng cam kết với tổ chức phát hành. Trường hợp không bán hết, đại lý được trả lại cho tổ chức phát hành số trái phiếu còn lại.

v     Phí đại lý phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với đại lý phát hành trái phiếu. Phí đại lý phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu. 

1.2.4.      Bảo lãnh phát hành trái phiếu

Là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện một số thủ tục trước khi phát hành trái phiếu, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết trong đợt phát hành.

v   Tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp gồm các công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

v   Phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu:

·         Việc bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể do một hoặc một số tổ chức đồng thời thực hiện.

·         Trường hợp nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu, thực hiện theo phương thức đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu.

v   Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức nhận bảo lãnh phát hành. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu.

II/ Liên hệ thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam

2.1. Phát hành trái phiếu chính phủ

2.1.1. Các quy định về phát hành trái phiếu chính phủ hiện nay ở Việt Nam

v      Theo Nghị định số 141/2003/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 20/11/2003 về  việc phát hành trái phiếu Chính Phủ, trái phiếu được Chính Phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương quy định có 6 loại trái phiếu Chính phủ:

·         Tín phiếu Kho bạc.

·         Trái phiếu Kho bạc.

·         Trái phiếu công trình trung ương

·         Trái phiếu đầu tư

·         Trái phiếu ngoại tệ.

·         Công trái xây dựng Tổ quốc.

v      Tuy nhiên theo quy định mới được Bộ Tài Chính dự thảo cuối năm 2009 về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương sẽ chỉ có 4 loại trái phiếu Chính phủ:

·         Tín phiếu Kho bạc.

·         Trái phiếu Kho bạc.

·         Trái phiếu ngoại tệ.

·         Công trái xây dựng Tổ quốc.

Cũng theo dự thảo này chủ thể phát hành trái phiếu Chính phủ là Bộ Tài chính được Chính phủ uỷ quyền phát hành theo quy định tại Luật Quản lý nợ công và quy định tại Nghị định này.

v      Mục đích của việc phát hành trái phiếu chính phủ

a) Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.

b) Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.

c) Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.

d) Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại theo quy định của pháp luật.

đ) Đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất, đời sống, tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước theo quy định của Pháp lệnh phát hành công trái xây dựng tổ quốc

e) Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

v      Bên cạnh đó còn một số đặc điểm của trái phiếu Chính phủ ( trích dự thảo nghị định Bộ tài chính)

“ Điều 6. Kỳ hạn của trái phiếu

1. Kỳ hạn của trái phiếu là thời gian tính từ ngày phát hành đến ngày đáo hạn trái phiếu.

2. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về kỳ hạn của trái phiếu Chính phủ.

Điều 7. Mệnh giá trái phiếu

1. Mệnh giá của trái phiếu phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam được quy định tối thiểu là 100.000 đồng, các mệnh giá khác là bội số của 100.000 đồng.

2. Mệnh giá của trái phiếu phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ được quy định cụ thể cho từng lần phát hành.

Điều 8. Phân loại trái phiếu Chính phủ

1. Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dưới 1 năm

2. Trái phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên.

3. Trái phiếu ngoại tệ là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 1 năm trở lên và đồng tiền phát hành là ngoại tệ tự do chuyển đổi.

4. Công trái xây dựng Tổ quốc là loại trái phiếu Chính phủ được phát hành theo quy định của Pháp lệnh phát hành công trái xây dựng tổ quốc.

Điều 9. Đồng tiền phát hành và thanh toán trái phiếu

1. Trái phiếu được phát hành và thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển đổi.

2. Đồng tiền sử dụng để thanh toán trái phiếu cùng loại với đồng tiền khi phát hành.

Điều 10. Đối tượng mua trái phiếu

1. Đối tượng mua trái phiếu là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài.

2. Tổ chức của Việt Nam không được sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp để mua trái phiếu.

Điều 11. Hình thức phát hành trái phiếu

1. Trái phiếu phát hành dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử.

2. Bộ Tài chính quy định cụ thể về hình thức phát hành đối với từng đợt phát hành trái phiếu Chính phủ.

Điều 12. Phương thức phát hành trái phiếu

1. Tín phiếu kho bạc được phát hành theo phương thức đấu thầu qua Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước.

2. Trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngoại tệ được phát hành theo các phương thức sau:

a) Đấu thầu qua Sở giao dịch chứng khoán

b) Bảo lãnh phát hành.

c) Đại lý phát hành.

d) Bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.

3. Công trái xây dựng tổ quốc được phát hành theo phương thức bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước và các phương thức phát hành khác (nếu có) theo quy định về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc.

4. Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về các phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ.”

2.1.2. Tiềm năng thị trường trái phiếu chính phủ Việt Nam

 Tỷ lệ đầu tư của Việt Nam so với GDP tăng từ mức 2,9% vào năm 1990 lên 41% vào năm 2006 và 45.6% vào năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP tăng từ mức 2,9% năm 1990 lên 35,8% năm 2007, tương đương mức tiết kiệm trong nước của Thái Lan, cao hơn Philippines và Indonesia, nhưng thấp hơn so với mức 40% của Malaysia hay Trung Quốc.

        Phần thiếu hụt giữa tỷ lệ tiết kiệm trong nước và tỷ lệ đầu tư sẽ được tài trợ bởi các nguồn vốn từ bên ngoài (ODA, FDI, vay thương mại...) với giả định rằng, toàn bộ nguồn tiết kiệm trong nước đã được huy động đầy đủ. Để có thể huy động tối đa nguồn lực tiết kiệm của toàn xã hội, phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế, Chính phủ cần xây dựng chiến lược và kế hoạch huy động nguồn lực nội địa này.

 Xét theo tỷ trọng, tỷ lệ tiết kiệm trên GDP của Chính phủ chỉ khoảng 2-3% GDP, do ngân sách nhà nước liên tục thâm hụt xấp xỉ 5% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ đầu tư của Chính phủ so với GDP tăng nhanh, hiện đạt 12% GDP, chứng tỏ Chính phủ dựa chủ yếu vào nguồn vay nợ để tài trợ hoạt động đầu tư (vốn ODA chiếm khoảng 33 ,4% tổng đầu tư khu vực nhà nước).

        Mặc dù được Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam nằm trong giới hạn an toàn nhưng về xu hướng, nguồn vốn này đang tăng nhanh. Bên cạnh đó, từ năm 2010 trở đi các nguồn vốn ODA có điều kiện ưu đãi sẽ giảm đi, thay vào đó là các địều kiện vay gần với các khoản vay thương mại. Do đó, Chính phủ Việt Nam sẽ phải hướng tới các nguồn tài trợ mới với quy nô lớn, trong đó phải kể đến kênh vay nợ thông qua phát hành trái phiếu.

 Trong khi đó, dự báo tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam trong vòng 10 năm tới tương đối cao. Nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế để đáp ứng tốc độ tăng trưởng này cần được duy trì ít nhất tương đương với giai đoạn trước, vào khoảng 40% GDP.

 Tính tới cuối năm 2008, tổng dư nợ trái phiếu của Việt Nam tương đương 14,2% GDP, trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực luôn ở mức cao, như Singapore 66,8%, Thái Lan 52,4%, Philippines 34,2%... Trong đó, trái phiếu chính phủ (TPCP) chiếm tỷ trọng chủ yếu, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) chiếm tỷ trọng khá nhỏ, năm 2008 chỉ là 5,84% (ở Malayssia, Singapore, tỷ trọng này khoảng 70 - 80%). Như vậy, xét về nhu cầu và xu hướng, thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển.

2.1.3. Thực trạng phát hành trái phiếu chính phủ ở Việt Nam

Trong giai đoạn 2006-2010 nhu cầu vay trong nước thông qua thị trường TPCP ước tính khoảng 100.190 tỷ đồng. Huy động vốn thông qua thị trường TPCP thời gian qua đã đạt được những kết quả khả quan, là kênh huy động vốn quan trọng cho NSNN và cho đầu tư phát triển.Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thị trường TPCP ở Việt Nam còn bộc lộ không ít nhược điểm, chưa tương xứng với vị trí và tiềm năng của nền kinh tế; thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Sau đây là tình hình phát hành trái phiếu Chính phủ trong 2 năm gần đây 2009 và 2010:

Năm 2009 được xem là năm không thành công trong việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh

Trái phiếu chính phủ: cả sơ cấp lẫn thứ cấp đều ảm đạm.

“Theo Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội (HASTC), phiên đấu thầu 500 tỷ đồng TPCP kỳ hạn 10 năm, do Ngân hàng Phát triển Việt Nam phát hành, tổ chức cuối tháng 5-2009 đã không thành công. Trong phiên này có 500 tỷ đồng TP được đưa ra đấu thầu theo hình thức kết hợp cạnh tranh lãi suất và không cạnh tranh lãi suất. Khối lượng TP đấu thầu không cạnh tranh lãi suất không vượt quá 30% tổng khối lượng gọi thầu. 6 thành viên đã đăng ký tham gia, đặt mua khoảng 444 tỷ đồng, nhưng không ai thành công do không đạt được kỳ vọng về lãi suất. Bởi bên bán đặt lãi suất trần là 8,5%/năm, trong khi lãi suất kỳ vọng các bên mua yêu cầu thấp nhất là 9,25%/năm, cao nhất đến 13,5%/năm.

Phiên đấu giá 2.000 tỷ đồng TP Kho bạc Nhà nước ngày 19-5 có lãi suất trần 8,1%/năm cho kỳ hạn 2 năm và 8,3%/năm cho kỳ hạn 3 năm, nhưng bên đặt mua đề nghị lãi suất 8,8-10%/năm. Phiên đấu thầu 1.000 tỷ đồng TPCP, do Kho bạc Nhà nước phát hành đợt 6-2009 (tổ chức vào ngày 4-6) cũng thất bại, không có lãi suất trúng thầu do lãi suất đăng ký tới 9,2-9,5%/năm.

Không riêng phiên đó, trong tháng 4, 5, kết quả giao dịch 6 cuộc đấu thầu TPCP tại HASTC đều không có lãi suất trúng thầu.”

(theo ATP Việt Nam)

Theo Bộ Tài chính, trong năm 2009, nhu cầu huy động vốn bằng trái phiếu chính phủ cho ngân sách vào khoảng 200.000 tỉ đồng. Song, tổng khối lượng trái phiếu chính phủ đã phát hành trong năm chỉ được khoảng 20.000 tỉ đồng, đạt 14% kế hoạch đề ra.

Còn theo một  báo cáo khác của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, cho biết khối lượng trái phiếu chính phủ phát hành thành công trong năm 2009 là 15.000 tỉ đồng, tính cả giá trị quy đổi của đợt phát hành bằng ngoại tệ. Cũng theo báo cáo này, năm 2009 có khoảng 15.000 tỉ đồng trái phiếu chính phủ đến hạn, như vậy về cơ bản Chính phủ không huy động thêm được vốn trong năm qua.

Loại trái phiếu phát hành thành công nhất trong năm qua là trái phiếu Kho bạc nhưng tỷ lệ bán được cũng chỉ ở mức 15%, còn đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế hoạch. Đặc biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, còn trái phiếu của Ngân hàng Phát triển cũng chỉ bán được 2% so với tổng khối lượng chào bán.

Đợt phát hành trái phiếu Chính phủ đầu năm 2010 cũng đem lại kết quả không mấy khả quan, cụ thể:

- Ngày 28/5 vừa qua, Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã thực hiện đấu thầu trái phiếu Chính phủ theo lô lớn đợt 1-lô 1/2010 do Kho bạc Nhà nước phát hành. Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, phát hành ngày 1/6/2010, đáo hạn ngày 1/6/2015, mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu. Tổng khối lượng gọi thầu là 2.000 tỷ đồng. Lãi suất danh nghĩa là 11,33%/năm. Kết quả, 200 tỷ đồng được huy động thành công với lãi suất trúng thầu là 11,2%/năm, bằng lãi suất trần. Tổng số  tiền thanh toán trái phiếu trúng thầu là 200.956.118.201 đồng.

- Ngày 04/06/2010, Sở GDCK Hà Nội đã tổ chức phiên đấu thầu Trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành theo lô lớn  đợt 2-lô 1/2010. Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, phát hành vào ngày 08/06/2010, đáo hạn ngày 01/06/2015, mệnh giá 100.000 đồng, với tổng khối lượng gọi thầu 2000 tỷ đồng. Lãi suất dự thầu thấp nhất là 11,00%/năm, lãi suất dự thầu cao nhất là 11,50%/năm. Lãi suất danh nghĩa là 11,33%/năm. Kết quả, khối lượng trúng thầu đạt 1.200 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu là 11,20 %, bằng lãi suất trần và bằng lãi suất trái phiếu được huy động trong phiên đấu trái phiếu đợt 1, lô 1/2010.

-Ngày 11/6, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) đã tổ chức phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ theo lô lớn đợt 3-lô 1/2010, do Kho bạc Nhà nước phát hành qua Sở. Trái phiếu có kỳ hạn 5 năm, phát hành ngày 15/6/2010, đáo hạn ngày 1/6/2015.Lãi suất danh nghĩa là 11,33%/năm, mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu. Tổng khối lượng gọi thầu là 1.000 tỷ đồng. Phiên đấu thầu đã thu hút 11 thành viên tham gia với tổng số tiền đăng ký 4.950 tỷ đồng, nhiều gấp gần 5 lần khối lượng gọi thầu. Lãi suất đăng ký thấp nhất là 11%/năm, cao nhất là 11,5%/năm. Lãi suất trần ở mức 11,05%/năm. ‘Kết quả 1.000 tỷ đồng trái phiếu đã được huy động thành công với lãi suất 11,05%/năm, bằng lãi suất trần.

Như vậy, sau 3 phiên đấu thầu tổng cộng 5.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ theo lô lớn đợt 1/2010, đã có 2.400 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ được huy động thành công; trong đó có 1.400 tỷ đồng được huy động với lãi suất 11,2%/năm.

          Trong các đợt phát hành trái phiều chính phủ có một điều đáng lưu ý là đợt phát hành 300 triệu USD trái phiếu chính phủ cho tập đoàn Vinashin vay năm 2009. Trước đó, vào tháng 10/2005, Việt Nam cũng đã hoàn thành đợt chào bán trái phiếu quốc tế đầu tiên với giá trị phát hành là 750 triệu USD, thời hạn 10 năm và lợi suất 7,125% sau đó cho Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam vay lại.  ( Trong khi đó việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ là giúp thu hút nguồn ngoại tệ bù đắp dự trữ ngoại hối, hỗ trợ ổn định tỷ giá, tăng nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng trong nước. Mặt khác, hướng đi này cũng tạo thêm một công cụ tài chính mới cho các tổ chức, cá nhân nắm giữ ngoại tệ tham gia mà không phải quy đổi như trước đây, tạo thêm tính hấp dẫn cho thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với nhà đầu tư nước ngoài.)

Năm 2010 Chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm ra nước ngoài với lợi tức cao kỉ lục 6,95% vào ngày 26/01/2010. Số tiền thu được từ đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế này được tập trung vào các mục tiêu: (i) hoàn trả vốn ngân sách Nhà Nước, (ii) giao Bộ Kế hoạch&Đầu tư phối hợp Bộ Tài chính lựa chọn dự án phù hợp (dự kiến cho các Tập đoàn Dầu khí, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng Công ty lắp máy Việt Nam đầu tư bổ sung các dự án lọc hóa dầu Dung Quất, dự án xây dựng thủy điện Xê Ca Mản 3, nhà máy thủy điện Hủa Na và mua tàu vận tải biển).

2.2. Phát hành trái phiếu doanh nghiệp

2.2.1. Điều kiện để một công ty phát hành trái phiếu doanh nghiệp

v            Cơ sở pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong nước đang dựa trên Nghị định 52/2006/NĐ-CP và phát hành trái phiếu quốc tế tại Nghị định 53/2009/NĐ-CP.

v            Trong nước, trái phiếu được phát hành và thanh toán bằng Đồng Việt Nam dưới hình thức chứng chỉ (gồm trái phiếu có ghi tên và không ghi tên), bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Trái phiếu doanh nghiệp có mệnh giá tối thiểu là 100.000 đồng, các mệnh giá khác là bội số của 100.000 đồng.

v            Trường hợp phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, trái phiếu được phát hành và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Đồng tiền sử dụng để thanh toán trái phiếu cùng loại với đồng tiền phát hành.

v            Để phát hành trái phiếu trong nước, doanh nghiệp phát hành phải đáp ứng các điều kiện sau:

-   Doanh nghiệp thuộc một trong các loại hình: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần

-  Có thời gian hoạt động tối thiểu là 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động.

-  Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán bởi kiểm toán nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp ở Việt Nam.

-  Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi.

-  Có phương án phát hành trái phiếu được Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng thanh viên, đại diện chủ sở hữu vốn thông qua. Đối với trái phiếu bổ sung vốn tự có do các tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước và trái phiếu của các doanh nghiệp nhà nước, phương án phát hành phải được Bộ Tài Chính chấp thuận.

Trường hợp phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, ngoài các điều kiện trên còn phải đáp ứng thêm các điều kiện sau:

1-Trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm.

2- Đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành trái phiếu (trong trường hợp phát hành cần có hệ số tín nhiệm).

3-Doanh nghiệp phát hành hoàn chỉnh hồ sơ phát hành theo đúng quy định.

4-tuân thủ quy định về quản lý nợ nước ngoài, quản lý ngoại hối theo pháp luật hiện hành.

(Điều 17 Nghị định 52/2006/NĐ-CP)

v            Về phương thức phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các phương thức phát hành sau: Bảo lãnh phát trái phiếu; Đại lý phát hành trái phiếu và Đấu thầu trái phiếu.

Khi tiến hành phát hành trái phiếu, doanh nghiệp phải thực hiện công bố thông tin về việc phát hành trái phiếu ít nhất trên 3 số báo liên tiếp của 01 tờ báo Trung ương hoặc 01 tờ báo địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Đồng thời, doanh nghiệp phải niêm yết công khai các thông tin về phát hành trái phiếu tại trụ sở của doanh nghiệp, tổ chức bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành, tổ chức đấu thầu và các địa điểm phân phối trái phiếu. Tùy vào điều kiện cụ thể, doanh nghiệp có thể sử dụng thêm các phương tiện khác để công bố thông tin như đài phát thanh, truyền hình, báo điện tử, website... Nội dung thông tin được công bố gồm: Báo cáo tài chính năm trước năm phát hành được kiểm toán; Phương án phát hành trái phiếu đã được thông qua; Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với doanh nghiệp và loại trái phiếu phát hành (nếu có), quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của doanh nghiệp (Điều 42- 43 Nghị định 52/2006/NĐ-CP).

2.2.2. Các loại trái phiếu doanh nghiệp có mặt trên thị trường Việt Nam.

Theo Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 tại Chương III, mục I và II : Các loại trái phiếu doanh nghiệp gồm trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu không chuyển đổi.

“Mục I _ Trái phiếu chuyển đổi

Điều 20. Đối tượng phát hành trái phiếu chuyển đổi

Trái phiếu chuyển đổi do công ty cổ phần phát hành.

Điều 21. Nguyên tắc phát hành trái phiếu chuyển đổi

1. Công khai tại thời điểm phát hành các thông tin về điều kiện chuyển đổi, thời hạn chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu, biên độ biến động giá cổ phiếu, mục đích sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu và các quyền lợi khác của người sở hữu trái phiếu.

2. Đảm bảo tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam theo quy định của Thủ tướng Chính phủ trong từng thời kỳ.

3. Tổng mức phát hành không vượt hạn mức phát hành được duyệt.

Điều 22. Thời hạn chuyển đổi trái phiếu

Thời hạn chuyển đổi trái phiếu do tổ chức phát hành xác định và công bố công khai cho các nhà đầu tư biết khi phát hành trái phiếu.

Điều 23. Tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu

1. Tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu do tổ chức phát hành xác định tại thời điểm phát hành.

2. Tại thời điểm thực hiện chuyển đổi trái phiếu, giá cổ phiếu biến động vượt quá biên độ biến động giá cổ phiếu được công bố khi phát hành trái phiếu, chủ sở hữu doanh nghiệp có quyền điều chỉnh tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu cho phù hợp.

Điều 24. Bảo đảm thanh toán cho trái phiếu chuyển đổi

1. Trái phiếu chuyển đổi có thể là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có bảo đảm.

2. Trái phiếu được bảo đảm theo các phương thức:

a) Bảo lãnh thanh toán của các tổ chức tài chính, tín dụng;

b) Bảo đảm bằng tài sản của tổ chức phát hành;

c) Bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.

3. Bộ Tài chính quy định cụ thể việc bảo đảm thanh toán của trái phiếu phát hành.

Điều 25. Chứng quyền phát hành kèm theo trái phiếu chuyển đổi

1. Chứng quyền phát hành kèm theo trái phiếu chuyển đổi xác nhận quyền của người sở hữu trái phiếu được mua một số lượng cổ phiếu phổ thông nhất định của tổ chức phát hành theo các điều kiện đã xác định.

2. Tổ chức phát hành công khai các thông tin có liên quan đến quyền mua cổ phiếu phổ thông của người sở hữu chứng quyền khi phát hành trái phiếu, bao gồm:

a) Điều kiện được mua cổ phiếu phổ thông của người sở hữu chứng quyền.

b) Số lượng cổ phiếu được mua của từng đơn vị chứng quyền. 

c) Các quyền lợi và trách nhiệm khác của người nắm giữ chứng quyền.

Mục II _ Trái phiếu không chuyển đổi

Điều 26. Đối tượng phát hành trái phiếu không chuyển đổi

1. Doanh nghiệp nhà nước.

2. Công ty cổ phần.

3. Công ty trách nhiệm hữu hạn.

4. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Điều 27. Nguyên tắc phát hành trái phiếu không chuyển đổi

1. Công khai mục đích sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu.

2. Tổng mức phát hành không vượt hạn mức phát hành được duyệt.

Điều 28. Bảo đảm thanh toán cho trái phiếu không chuyển đổi

Trái phiếu không chuyển đổi có thể là trái phiếu có bảo đảm hoặc trái phiếu không có bảo đảm.   Việc bảo đảm thanh toán cho trái phiếu không chuyển đổi được thực hiện theo quy định tại Điều 24 Nghị định này.

Điều 29. Chứng quyền phát hành kèm theo trái phiếu không chuyển đổi

1. Chỉ có các công ty cổ phần mới được phát hành chứng quyền kèm theo trái phiếu không có khả năng chuyển đổi.

2. Việc phát hành chứng quyền kèm theo trái phiếu không chuyển đổi được thực hiện theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.”

2.2.3. Tiềm năng thị trường

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì nhu cầu thị trường đối với trái phiếu doanh nghiệp vẫn còn rất lớn, trên thị trường vốn, nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp vẫn là kênh huy động vốn mới và hứa hẹn tiềm năng tăng trưởng về quy mô.

Trên thực tế, đối với doanh nghiệp, phát hành trái phiếu cũng là một hình thức vay vốn, nhưng hình thức vay lại dài hạn (thường là 5 năm), đồng thời có thể chủ động sử dụng nguồn vốn huy động từ phát hành mà không phải chịu sự giám sát chặt chẽ cho từng mục đích sử dụng vốn như đối với nguồn vốn đi vay ngân hàng.Bên cạnh đó, doanh nghiệp phát hành trái phiếu thường có những lợi thế như không phải chịu sức ép về cổ tức chi phối từ cổ đông mới như phát hành cổ phiếu, được hưởng lợi từ chính sách thuế đối với khoản lãi trả trái phiếu. Chính vì thế ở nhiều nước trái phiếu doanh nghiệp được coi là kênh huy động vốn có rất nhiều thuận lợi so với phát hành cổ phiếu, vay ngân hàng thì chỉ chiếm tỷ trọng 10%, rất nhỏ so với trái phiếu chính phủ (90%) thì ở các nước khác, tỷ trọng này lại cân đối hơn rất nhiều so với Việt Nam. Đơn cử tỷ trọng lần lượt giữa trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ ở Trung Quốc: 35% - 65%; Hàn Quốc: 51% - 49%; Singapore: 44% - 56%; Malaysia: 50% - 50%; Thái Lan: 33% - 67%.

2.2.4. Thực trạng phát hành trái phiếu doanh nghiệp hiện nay ở Việt nam

Sau đây là thực tình hình phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong 2 năm gần đây:

- Năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp lại khá sôi động với nhiều đợt phát hành thành công, trong đó chủ yếu là hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi. Do lo ngại rủi ro biến động lãi suất ở mức cao mà cả nhà phát hành lẫn đầu tư đều tập trung vào loại hình trái phiếu này. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được (hơn 26.000 tỉ đồng). Bên cạnh đó, trái phiếu chuyển đổi cũng là kênh huy động vốn được nhiều doanh nghiệp sử dụng trong năm 2009, nhất là từ quí 3 trở đi, khi mà thị trường chứng khoán có sự phục hồi rõ rệt.

Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp có cổ phiếu thuộc hàng bluechips trên thị trường chứng khoán như Hòa Phát, FPT và nhiều ngân hàng cũng đã huy động một lượng vốn khá lớn thông qua kênh này. Chỉ tính riêng ba đợt phát hành của Hòa Phát, Hoàng Anh Gia Lai và FPT, thì lượng vốn huy động đã lên đến 4.370 tỉ đồng, chiếm hơn 15% tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong năm 2009 (theo thống kê của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển - BIDV).

Không chỉ phát hành trái phiếu trong nước, một số công ty đã triển khai phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế và bước đầu đạt các kết quả khả quan. Điển hình như Tập đoàn Vincom phát hành thành công trái phiếu chuyển đổi quốc tế với giá trị đạt 100 triệu USD. Tiếp đến, Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai công bố phát hành 1,1 triệu trái phiếu chuyển đổi tương đương 1.100 tỷ đồng cho đối tác chiến lược Temasek Holdings (Singapore)…

-Năm 2010, Tập đoàn Hòa Phát phát hành 800 tỷ đồng trái phiếu kỳ hạn 3 năm với lãi suất 14,5% cho năm đầu tiên và lãi suất cho các năm sau đó sẽ là lãi suất tiền gửi 12 tháng trung bình của 4 ngân hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam cộng thêm lãi biên là 3,5%; Tập đoàn Sông Đà đã phát hành thành công 1.500 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất năm đầu tiên là 15%/năm, các năm sau thả nổi theo mức lãi suất tiền gửi trung bình trong 12 tháng của bốn ngân hàng lớn của Việt Nam (BIDV, Vietcombank, Agribank và Vietinbank) cộng thêm 4%; Tổng công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam – Vinaconex (VCG-HNX) phát hành tối đa 2.000 tỷ đồng trái phiếu, kỳ hạn tối đa 3 năm, với mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu, lãi suất trái phiếu năm thứ nhất là 15%/năm và áp dụng lãi suất thả nổi từ năm thứ hai.

Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy số lượng các doanh nghiệp phát hành trái phiếu doanh nghiệp còn rất ít và chủ yếu là các tập đoàn hoặc  doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa như: PetroVietnam, Tổng công ty cao su, Vinashin, Electric Vietnam Copreration (EVN), Lilama, Vietnam Steel Corperation, Vilexim, Tổng Công ty cổ phần xây dựng điện Việt nam, Tổng công ty Sông Đà và Vinaconex. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể tổng kết một số như sau:

·          Một số doanh nghiệp bị lúng túng trong quá trình hoàn tất các thủ tục phát hành. Theo quy định, hiện nay có hai hình thức phát hành trái phiếu, đó là phát hành riêng lẻ (cho dưới 50 người) và phát hành ra công chúng (cho từ 50 người trở lên). Và mặc dù điều kiện quy định trong khung pháp lý đã "mở" hết sức thoáng: chỉ cần có thời gian hoạt động tối thiểu 1 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động; có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán; kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi... thì nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận được với hình thức này bởi nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta chủ yếu đăng ký vốn kinh doanh ở mức 1 - 3 tỷ đồng nên không đủ điều kiện về vốn.

·         Mặt khác, điều kiện doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu phải có báo cáo kiểm toán. Mà thông thường đầu quý II hàng năm, các báo cáo kiểm toán mới hoàn chỉnh, như vậy vô hình chung quý I sẽ không có đợt phát trái phiếu nào của doanh nghiệp.

·         Tính thanh khoản của thị trường hiện nay chưa cao, nên trái phiếu của nhiều doanh nghiệp sau khi phát hành hầu như không có giao dịch trên thị trường thứ cấp. Trong khi đó, việc định giá, xác định lãi suất trái phiếu doanh nghiệp hiện vẫn theo “cảm tính”, chứ chưa có cơ sở khoa học thực sự. Giới chuyên môn cho rằng, nguyên nhân của vấn đề trên là do ngay cả thị trường trái phiếu chính phủ chưa hoàn thiện, do đó, chưa có một mặt bằng lãi suất chuẩn của trái phiếu chính phủ để làm cở sở cho việc xác định lãi suất trái phiếu doanh nghiệp.

·         Bên cạnh đó, hiện nay, hoạt động định mức tín nhiệm vẫn còn là “khoảng trống”, trong khi đây là một yếu tố quan trọng để xác định rủi ro của từng đối tượng phát hành, qua đó mới xác định được mức giá, mức lãi suất của đợt phát hành trái phiếu của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến một hiệu ứng ngược: lãi suất thấp, đợt phát hành quy mô thành công là thước đo cho uy tín, xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp đối với nhà đầu tư trên thị trường, thay vì quy luật thông thường là xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp phải có trước và các yếu tố khác đến sau. Hiện Việt Nam chưa có những quy trình uy tín đánh giá xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp thống nhất, vì vậy các tổ chức tài chính tư vấn, bảo lãnh phát hành thường đánh giá doanh nghiệp dưới lăng kính của các khoản vay (như một sản phẩm tín dụng), điều kiện này dẫn đến thiệt thòi cho cả doanh nghiệp lẫn nhà đầu tư. Chỉ có một số ít doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm bởi các tổ chức quốc tế (một số ngân hàng hàng đầu) và nếu được xếp hạng thì ở mức rất thấp.

III/ Nhận xét, đánh giá và giải pháp

3.1. Đánh giá chung tình hình phát hành trái phiếu ở Việt Nam trong những năm gần đây

Thị trường trái phiếu là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính. Nó có chức năng thu hút, di chuyển các nguồn vốn từ nơi có khả năng sinh lợi thấp đến nơi có khả năng sinh lợi cao hơn và từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn; đáp ứng các yêu cầu về vốn để phát triển kinh tế và là công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế.

Trải qua hàng chục năm hình thành và phát triển, thị trường trái phiếu ở Việt Nam đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong việc huy động vốn cho NSNN và cho đầu tư phát triển; ổn định nền tài chính quốc gia; kiểm soát được lạm phát; thúc đẩy quá trình phát triển của thị trường tài chính. Với sự có mặt của TTCK nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng, đã góp phần khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường tài chính, tạo cơ hội cho việc luân chuyển vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu về vốn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ở Việt Nam, để thực hiện thành công mục tiêu nâng thu nhập quốc dân năm 2010 tăng gấp đôi năm 2000; duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 7%- 8%; phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá và đẩy nhanh tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải đầu tư một lượng vốn khá lớn để phát triển kinh tế - xã hội. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế,  trong giai đoạn 2001-2010 tổng nhu cầu vốn đầu tư của toàn xã hội khoảng 155-165 tỷ USD (trong đó vốn trong nước chiếm khoảng 65%).

Hiện nay thị trường trái phiếu Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển với sự tồn tại của thị trường trái phiếu, dư nợ trái phiếu còn rất thấp (khoảng 17% GDP)so với thị trường trong khu vực Trung Quốc 53%, Thái Lan 58%, Malaysia 82%, Hàn Quốc 109%, Singapore 74%; chủ thế phát hành không đa dạng; chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, thanh toán còn nhiều hạn chế…Hơn nữa, để giúp thị trường huy động vốn có hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp (các doanh nghiệp nhỏ lẻ SME) và chính quyền địa phương thì hầu như chưa phát triển đúng với tiềm năng. Các nghiên cứu cho thấy để phát triển kinh tế thì thị trường vốn phải phát triển. Để tăng trưởng 1% thì phải cần đến 0,527% vốn. Điều này cũng cho thấy vốn rất quan trọng đối với nền kinh tế và việc phát hành trái phiếu để huy động vốn được xem là công cụ tài chính hữu ích đối với nền kinh tế quốc gia mặc dù hiện nay mức độ phát hành còn nhỏ bé.

 Từ những thực trạng trên, có thể rút ra vài nhược điểm của thị trường trái phiếu Việt Nam:

v      Thứ nhất: Quy mô nhỏ, thanh khoản thấp

Thị trường trái phiếu Việt Nam có quy mô quá nhỏ. Chủ yếu trái phiếu Chính phủ đang ''thống lĩnh'' thị trường, trong khi trái phiếu của các DN phát hành rất hạn chế. Tính thanh khoản của các loại trái phiếu còn thấp.

Thị trường trái phiếu Chính phủ thiếu một cơ chế giao dịch có khả năng cung cấp thanh khoản cho các trái phiếu Chính phủ như các nhà tạo lập thị trường, hợp đồng mua lại. Trái phiếu Chính phủ phát hành với khối lượng và giá trị niêm yết lớn, trong khi những người nắm giữ trái phiếu Chính phủ trên thị trường sơ cấp là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ các đợt phát hành riêng lẻ qua hệ thống Kho bạc). Nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít mang tính tương thích thời điểm, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu.

Về năng lực hệ thống giao dịch, trái phiếu hiện được niêm yết theo giá và áp dụng nguyên tắc đấu giá giống như cổ phiếu (ưu tiên về giá, ưu tiên về thời gian), không áp dụng biên độ dao động giá. Tuy nhiên, cổ phiếu và trái phiếu là hai loại hàng hóa có đặc điểm và tính chất hoàn toàn khác nhau, việc áp dụng giao dịch trái phiếu và cổ phiếu như nhau trên cùng một hệ thống giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán là không có hiệu quả (tính đến ngày 24/9 mới chỉ thực hiện việc tách giao dịch cổ phiếu và trái phiếu trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội). Do đó, cần tách biệt giao dịch trái phiếu và giao dịch cổ phiếu ra thành 2 bảng giao dịch riêng biệt là cần thiết. Hơn nữa, giữa các trái phiếu cùng chủ thể phát hành nhưng khác đợt phát hành cũng khác nhau về lãi suất và thời gian đáo hạn. Việc yết giá trái phiếu theo thị giá cũng không làm nổi bật sự khác biệt đó.

v      Thứ hai: Hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển

Hệ thống các nhà đầu tư chưa phát triển, nhất là các nhà đầu tư tổ chức. Hiện nay thiết lập được hệ thống các nhà tạo lập thị trường; các thể chế trên thị trường chưa hoàn chỉnh. Nhiều định chế tài chính trung gian như các quỹ đầu tư tương hỗ, quỹ đầu tư mạo hiểm, công ty định mức tín nhiệm... chưa được thành lập.

Thị trường trái phiếu vẫn chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư và có rất nhiều nguyên nhân khiến các nhà đầu tư ít quan tâm đến loại chứng khoán này. Lý do là giao dịch trái phiếu đòi hỏi một lượng vốn lớn, chỉ thích hợp với các nhà đầu tư có tổ chức, trong khi thị trường trái phiếu hiện nay có rất ít các nhà đầu tư có tổ chức.

v      Thứ ba: Tính đồng bộ của thị trường này còn thấp

Khả năng tập trung và phân bổ nguồn lực tài chính qua thị trường chưa thực sự hiệu quả, còn có sự chưa ăn khớp giữa cơ cấu và kỳ hạn huy động vốn với sử dụng vốn. Sự phối hợp giữa các kênh huy động vốn còn chưa đồng bộ; vai trò của trái phiếu Chính phủ trong việc định hướng lãi suất thị trường còn hạn chế. tỷ lệ huy động vốn dài hạn qua kênh tín dụng ngân hàng hiện nay thấp. Trong khi đó, việc sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn cho đầu tư dài hạn, làm giảm hiệu quả sử dụng và tăng nguy cơ rủi ro tài chính; việc phối hợp điều hành lãi suất giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chưa thật ăn khớp, tiến trình cải cách hệ thống tổ chức tín dụng còn chậm; việc kiểm soát các dòng vốn trong nền kinh tế chưa thực sự có hiệu quả, vẫn còn tình trạng vốn dài hạn chuyển sang đầu tư ngắn hạn và ngược lại.

v      Thứ tư:  Hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh

Khung pháp luật mới được hình thành bước đầu; một số lĩnh vực vẫn chưa có hệ thống văn bản pháp lý hoàn chỉnh, nhất là lĩnh vực chứng khoán. Các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm  toán... tuy đã được áp dụng nhưng còn ở phạm vi hẹp.

Thể chế pháp luật còn thiếu các qui định cần thiết nên hạn chế sử dụng các công cụ bảo hiểm rủi ro như hoán đổi lãi suất, mua bán kỳ hạn hay tái mua lại nhằm giúp nhà đầu tư có thể bảo vệ rủi ro cho mình.

v      Thứ năm:  Tính cạnh tranh thấp

Trái phiếu Chính phủ chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức gửi tiết kiệm, đầu tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân.

Cơ chế xác định lãi suất đấu thầu trên thị trường sơ cấp hiện không mang tính thị trường vì áp dụng lãi suất chỉ đạo nên chưa thu hút được nhu cầu đầu tư của các cá nhân, tổ chức. Quy định lãi suất đặt thầu phải cao hơn lãi suất chỉ đạo sẽ khiến cho lãi suất trúng thầu mang tính khiên cưỡng chủ quan hơn là mang tính khách quan thị trường. Điều này cũng có thể dẫn tới tình trạng khối lượng trúng thầu sẽ bị hạn chế đi rất nhiều so với khối lượng dự định phát hành và sẽ chỉ bó hẹp trong phạm vi một số nhỏ các nhà đầu tư. Khối lượng trúng thầu thấp cộng với một số nhỏ các nhà đầu tư nắm giữ sẽ làm giảm tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.

v      Thứ sáu:  Từ phía các công ty, chưa quen với kênh huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu

Thị trường trái phiếu công ty kém phát triển do các công ty chưa quen với việc huy động vốn vay trực tiếp qua phát hành trái phiếu mà vẫn dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng, đặc biệt là các Tổng công ty lớn, các DN Nhà nước do có khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hàng, vay ưu đãi. Các đơn vị này cũng thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch cho các trái phiếu phát hành; chưa xây dựng được đường cong lợi suất phi rủi ro cho trái phiếu Chính phủ phát hành làm tiêu chuẩn cho việc định lãi suất phát hành các công cụ nợ khác như trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị...

v      Thứ bảy: Thông tin thị trường

Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính, nguyên nhân quan trọng khiến thị trường trái phiếu của Việt Nam kém hấp dẫn chính là việc thiếu một hệ thống cung cấp thông tin đầy đủ. Thể hiện rõ nhất là cho đến nay vẫn chưa có những công ty định mức tín nhiệm.

Hiện nay, trên thị trường đang có 5 loại trái phiếu và được phát hành bởi Chính phủ, chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, quy mô phát triển của thị trường này còn nhỏ bé (chỉ chiếm 17% GDP). Bên cạnh những vướng mắc xuất phát từ hệ thống văn bản chính sách khiến tính thanh khoản của trái phiếu không được cao, lượng doanh nghiệp có uy tín tham gia phát hành... thì việc thiếu thông tin cũng khiến cho các nhà đầu tư "dè dặt" hơn trong việc đầu tư vào loại hình này.

v      Thứ tám: Phí giao dịch cao

Theo quy định, việc giao dịch trái phiếu Chính phủ  phải thông qua các CTCK- là tổ chức trung gian thu phí cả người mua lẫn người bán. Để một giao dịch trái phiếu Chính phủ 100 tỉ đồng được hoàn tất  thì nhà đầu tư  phải mất đến cả 100 triệu đồng tiền phí, mà thông thường những giao dịch mua bán trái phiếu Chính phủ là những giao dịch lớn, ít nhất có giá trị từ 100-300 tỉ đồng. Chính điều này làm cho thị trường trái phiếu Chính phủ của VN không thu hút được nhiều nhà đầu tư giao dịch, nhất là các NH nước ngoài.

3.2. Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam hiện nay

Phát triển thị trường vốn là mục tiêu chiến lược quan trọng trong cơ cấu lại nền tài chính Việt Nam. Việc phát hành trái phiếu sao cho hiệu quả cũng là một trong những mục tiêu đó và cần phải được thay đổi theo hướng chuyên nghiệp hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Để tạo điều kiện cho việc phát hành trái phiếu như kênh huy động vốn quốc gia, Việt Nam sẽ có những cải cách và những biện pháp

·   Thứ nhất, đó là cần hình thành các nhà tạo lập thị trường và các đại lý. Đây sẽ là những nhà phân phối trái phiếu thường xuyên, có nghiệp vụ và có thể đưa trái phiếu giao dịch trên thị trường. Kế đến là thay đổi hình thức giao dịch của trái phiếu. Trái phiếu sẽ được giao dịch theo hình thức thỏa thuận như trên thị trường OTC (thị trường giao dịch chứng khoán không tập trung) thay vì ở trung tâm giao dịch chứng khoán. Thay vào đó sẽ thông qua các công ty chứng khoán để phát hành trái phiếu và đây là thông lệ mà các nước sử dụng vì sẽ giảm bớt thủ tục và thời gian cho việc phát hành.

·   Thứ hai là dần nới lỏng sự can thiệp và điều hành của cơ quan quản lý tức Bộ Tài chính về lãi suất trái phiếu như lâu nay. Sẽ bãi bỏ lãi suất trần trái phiếu, hay nói cách khác lãi suất trái phiếu sẽ không ổn định theo thời gian mà thay đổi theo thị trường. Đa dạng hình thức phát hành trái phiếu theo hướng linh hoạt về giá cũng là hướng thay đổi trong chính sách phát hành trái phiếu mà Việt Nam sẽ thực hiện.

·   Cơ cấu lại việc phát hành trái phiếu có thể được xem là biện pháp thứ ba trong chính sách cơ cấu lại thị trường trái phiếu. Theo đó, sẽ phát hành theo lô trái phiếu rồi cùng niêm yết thay vì theo đợt. Làm như vậy sẽ khắc phục tình trạnh quá nhiều trái phiếu giao dịch trên sàn thay vào đó tập trung một số lô để trong cùng một lô sẽ có nhiều nhà đầu tư sở hữu và giao dịch thuận lợi hơn.Giải pháp này nhằm mục đích tạo tính thanh khoản cho trái phiếu. Cùng với giải pháp này, liên kết thị trường tiền tệ và vốn nhằm tăng tính thanh khoản cho trái phiếu cũng được xem giải pháp cải cách tài chính của Việt Nam.

·   Thứ tư: Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá; hài hoà giữa mục tiêu huy động vốn thông qua thị trường trái phiếu cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường trái phiếu với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Ngoài ra, Việt Nam cũng cần khuyến khích hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm trong nước và quốc tế vì sự xuất hiện của các tổ chức này sẽ giúp đánh giá chính xác giá trị của trái phiếu phát hành cũng như đơn vị phát hành.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#vulinh