W.Petty

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

4.2.1. Học thuyết kinh tế của Wiliam Petty

a. Lý luận giá trị - lao động:

+ W.Petty không trực tiếp trình bày lý luận về giá trị nhưng thông qua những luận điểm của

ông về giá cả có thể khẳng định ông là người đầu tiên đưa ra nguyên lý về giá trị lao động

+ Nghiên cứu về giá cả, ông cho rằng có hai loại giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả chính trị.

Giá cả chính trị (giá cả thị trường) do nhiều yếu tố ngẫu nhiên chi phối, nên rất khó xác định

chính xác. Giá cả tự nhiên (giá trị) do hao phí lao động quyết định, và năng suất lao động có ảnh

hưởng tới mức hao phí đó.

+ Ông xác định giá cả tự nhiên của hàng hoá bằng cánh so sánh lượng lao động hao phí để

sản xuất ra hàng hoá với lượng lao động hao phí để tạo ra bạc hay vàng.

+ Theo ông giá cả tự nhiên (giá trị của hàng hoá) là sự phản ánh giá cả tự nhiên của tiền

tệ, cũng như ánh sáng mặt trăng là sự phản chiếu của mặt trời. Nhưng ông lại chỉ thừa nhận lao

động khai thác vàng là lao động tạo ra giá trị còn giá trị của hàng hoá chỉ được xác định khi trao

đổi với tiền.

+ Khi trình bày về mối quan của năng suất lao động đối với lượng giá trị hàng hoá: Ông

khẳng định giá cả tự nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng bạc.

+ Một lý luận quan trọng của ông đó là: ông khẳng định: "lao động là cha của của cải còn

đất đai là mẹ của của cải", luận điểm này đúng nếu xem của cải là giá trị sử dụng, song sẽ là sai

nếu hiểu lao động và tự nhiên là nhân tố tạo ra giá trị. Ông đã tìm thước đo thống nhất của giá trị

là thước đo chung đối với tự nhiên và lao động, ông đưa ra quan điểm "thước đo thông thường

của giá trị là thức ăn trung bình hàng ngày của mỗi người, chứ không phải là lao động hàng ngày

của người đó". Với luận điểm này đã chứng tỏ ông chưa phân biệt được rõ giá trị sử dụng và giá

trị trao đổi, chưa biết đến tính chất xã hội của giá trị. Ngoài ra ông còn có ý định giải quyết mối

quan hệ giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành công.

b. Lý luận về tiền tệ:

+ W. Petty nghiên cứu hai thứ kim loại giữ vai trò tiền tệ là vàng và bạc. Ông cho rằng,

quan hệ tỷ lệ giữa chúng là do lượng lao động hao phí để tạo ra vàng và bạc quyết định. Ông đưa

ra luận điểm, giá cả tự nhiên của tiền tệ là do giá cả của tiền tệ có giá trị đầy đủ quyết định. Từ đó

ông khuyến cáo, nhà nước không thể hy vọng vào việc phát hành tiền không đủ giá, vì lúc đó giá

trị của tiền tệ sẽ giảm xuống.

+ W. Petty là người đầu tiên nghiên cứu số lượng tiền tệ cấn thiết trong lưu thông trên cơ sở

thiết lập mối quan hệ giữa khối lượng hàng hoá trong lưu thông và tốc độ chu chuyển của tiền tệ.

Ông cho rằng thời gian thanh toán càng dài thì số lượng tiền tẹ cần thiết cho lưu thông càng lớn.

+ Ông phê phán những người trọng thương về tích trữ tiền không hạn độ. Ông cho rằng

không phải lúc nào tiền tệ cũng là tiêu chuẩn của sự giàu có, tiền tệ chỉ là công cụ của lưu thông

hàng hoá, vì thế không cần phải tăng số lượng tiền tệ quá mức cần thiết.

c. Lý luận về tiền lương:

+ W. Petty không định nghĩa về tiền lương mà chỉ là người nêu ra. Ông cho rằng tiền lương

của công nhân không thể vượt quá nhưng tư liệu sinh hoạt cần thiết. Ông là người luận chứng đạo

luật cấm tăng lương.

+ Quan điểm của ông về tiền lương được xem xét trong mối quan hệ với lợi nhuận, với giá

cả tư liệu sinh hoạt, với cung cầu về lao động. Ông cho rằng tiền lương cao thì lợi nhuận giảm và

ngược lại, nếu giá cả của lúa mỳ tăng lên thì sự bần cùng của công nhân cũng tăng lên, số lượng

lao động tăng lên thì tiền lương sẽ tụt xuống.

d. Lý luận về lợi nhuận, lợi tức, địa tô:

+ Wiliam Petty không trình bày lợi nhuận của các doanh nghiệp công nghiệp, ông chỉ trình

bày hai hình thái của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức.

+ Theo ông địa tô là khoản chênh lệch giữa thu nhập bán hàng và chi phí sản xuất. Chi phí

sản xuất bao gồm tiền lương và chi phí về giống. Ông đưa đồng nhất khái niệm địa tô và lợi nhuận

coi đó là số chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất, ngoài ra ông cũng đã nghiên cứu

địa tô chênh lệch nhưng chưa nghiên cứu địa tô tuyệt đối.

+ Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là tô của tiền, mức lợi tức phụ thuộc vào mức địa tô.

+ Về giá cả ruộng đất, ông cho rằng giá cả ruộng đất là do mức địa tô quyết định, với những

số liệu thực tế ông đưa ra công thức tính giá cả ruộng đất = địa tô x 20.

Tóm lại, các quan điểm của W.Petty mặc dù còn chưa thống nhất song đã đã đặt nền móng

cho việc xây dựng những nguyên lý của trường phái cổ điển.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro