xerjusrrkdtrktdijr57ir

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Goths/Gothic – một cái tên cổ xưa tồn tại qua bao thế kỉ và ngày nay vẫn được truyền giữ bởi một bộ phận giới trẻ tự gọi mình là người Goths. Không những vậy, trong âm nhạc còn có một nhánh của rock là gothic metal. Vậy Goths là gì? Đó là một câu hỏi khó vì những khái niệm và nguồn gốc của nó rất trừu tượng. Do đó, trước hết ta hãy giữ một tư tưởng rằng Goths hiện nay là tên gọi của một nền văn hóa (Gothic subculture hoặc Gothic counter-culture). Văn hóa này tuy khởi sinh từ một nền văn hóa khác nhưng vẫn có những đặc trưng của riêng mình.

Chữ “goths” ra đời vào thế kỉ thứ III (hoặc IV) thời kì hòang kim của đế chế La Mã đã nằm xa trong quá khứ, chính quyền hòan tòan suy yếu và có nguy cơ sụp đổ. Đây là thời điểm các nước láng giềng, các dân tộc xung quanh bước vào đánh cướp những mảnh đất La Mã. Họ đồng lọat tấn công khắp nơi từ ngòai vào trong, giống một bầy thú đang xé từng miếng mồi. Cũng theo trào lưu bấy giờ, một giống người ở Đức gồm hai bộ lạc: Visigoths sống ở nơi hoang mạc khô hạn và Ostrogoths sống ở vùng thảo nguyên phía đông đã tràn vào La Mã, đánh chiếm vùng đất là Thụy Điển ngày nay. Thời bấy giờ, từ “goth” được dùng để gọi người của hai bộ lạc này. Tuy nhiên nó cũng có nghĩa bóng ám chỉ những người có hành vi cư xử thô bạo, thiếu văn hóa. Người ta đặt tiếng lóng cho họ là “goth” là vì hành động của họ chẳng khác gì người bộ lạc Visigoths và Ostrogoths.

Đối với nhũng người thừa kế trào lưu Punk ROCK ở Anh. Từ Gothic gợi lên hình ảnh của nhũng lâu đài cổ u ám, tăm tối tọa lạc trên những ngọn đồi biệt lâpk với tiếng thét vang vọng tù những phòng giam tra tấn . Từ những hình ảnh liên tưởng và tâm trạng đó, một vài nhạc sỹ đã từ bỏ khuynh hướng nhạc PUNK để sang tạo ra một phong cách ROCK với cái tên GOTHIC ROCK hay DEATH ROCK. Trào lưu GOTHIC ROCK thu hút được rất nhiều "tín đồ" ở ANH những năm 80 và vào đâu thập kỷ 90, trở thành một trao lưu tiêu biểu ở MỸ.

   Những nhóm nhạc khác nhau chơi âm nhạc theo những phong cách khác nhau, việc phối hợp, sử dụng nhạc cụ cũng khác nhau nhưng  vẫn có nét chung cơ bản của một dòng nhạc. Nguồn gốc của GOTHIC ROCK được định hình từ những nỗi ám ảnh vè quyền lực siêu nhiên. Khi mà con người không thể khống chế , kiểm soát nó. Âm sắc có chiều hướng thiên về VOCAL trầm , nhạc cụ BASS và nhịp tương đối chậm, nhũng tiếng thét O đều đều phổ biến trong âm nhạc mang màu sắc trung đại. Rất thường gặp trong GOTHIC ROCK. Những nhân tố điện tử được thêm vào tao nên sự lôi cuốn của những giai điệu ngắn, dồn dập. Nhạc của PHILIP GLASS và STEVE REICH mang phong cách trầm, chậm hơn nữa. Những tiếng trống mạnh mẽ dường như xóa tan được sự u ám, tối tăm trong âm nhạc GOTHIC nên rất nhiều band sử dụng trống. Thế nhung trống không được chơi với âm thanh mạnh như phong cách ROCK vốn có ORGAN, tạo nên những âm thanh chân thực được sử dụng để tạo ra những âm thanh giống như trong nhà thờ lớn xây bằng đá thời ký trung cổ bởi những phương pháp xạ âm.

Tuy nhiên, hình ảnh của những lâu đai cổ trong tiểu thuyết Gothic và âm nhạc cổ đại chỉ là một phần nhỏ trong nguồn gốc ra đời của dòng GOTHIC ROCK. Ở PUNK ROCK, người ta thấy những cái nhìn bi quan, phủ nhận xã hội, Những ban GOTHIC trở lại với nhạc PROTO-PUNK. VELVET UNDERGROUND là ban nhạc đã kết hợp khéo léo những tiếng trầm và những tiếng "thình" mạnh mẽ trên nền nhịp đập tiêu chuẩn của trống ROCK. Giọng DAVID BOWIE vói âm sắc cực sâu đã được bắt trước bỏi nhiêu ca sĩ trong phong trào lưu GOTHIC ROCK.

   BELA LUGOSI'S DEAD (1979) Của BAUHAUS đã giới thiệu GOTHIC tới thị trường âm nhạc ANH, BELA LUGOSI là một nam tài tử của HUNGARY, diễn trong phim Dracula (1931). Bài hát 9m30s BELA LUGOSI'S DEAD với sự ám ảnh của những âm thanh điện tử giả tiếng gió rít ghê rợn và ớn lạnh, viết dành cho riêng người diễn viên ấy. Những nhịp đập mạng và những tiếng đập "thình" của tiếng trống trải suốt bản nhạc. đan xen những tiếng BASS trầm là những âm hưởng chư đạo. Ca sỹ của nhóm BAUHAUS, PETER MUSPHY với chất giọng đều đều buốn tẻ kéo dài. Cái cách được dùng để nói hơn là để hát. Lạp đi lạp lại từ "Bela's undead", bài hát mang đậm máu sắc u ám, huyền bí. Trong GOTHIC thường có những câu chuyện rùng rợn về mà cà rồng, ác quỷ .... BAUHAUS tan rã khi PETER MURPHY bỏ nhóm để đi theo sự nghiệp SOLO, 3 thành viên còn lại của nhóm đã làm việc với những nhà sản xuất khác và đã lập một nhóm có tên " LOVE AND ROCKETS" cố gắng vượt qua cái bóng của BAUHAUS. LOVE AND ROCKETS đã có một HIT lọt vào TOPTEN "SO ALIVE" (1989).

   SIOUXSIE và THE BANSHEES là một nhóm chơi PUNK đến từ BROMLEY, ANH. Họ đã có buổi biểu diễn đầu tiên tại FESTIVAL BRITISH PUNK năm 1976. Sau khi dòng GOTHIC được giới thiệu đến thính giả ANH. SIOUXSIE ( SUSAN JANET BALLEN ) và THE BANSHEES đã thêm thắt một số yếu tố và chơi theo phong cách GOTHIC ROCK ngay sau đó. THE STAIRCASE ( MYSTERY) (1979) là một ví dụ, sử dụng nhịp BASS chậm, trống mạnh và những âm thanh điện tử ảnh hưởng một phần của phong cách BAUHAUS. Giọng của SIOUXSIE tuy nhiên không cố gắng bắt trước PETER MURPHY. Nó mang phong cách PUNK vốn có của SIOUXSIE.

   Những truyền thuyết rùng rợn và những cảm giác sợ hãi được mô tả trong lyric " the Stair Case ( MISTERY )". SIOUXSIE kể về việc nghe thấy những bước chân của người lạ đang tiến về phía cô. Những bài hát ấn tượng với những tiếng gió rít ghê rợn , bước chân dồn dập...

Leeds, thành phố với hai nhóm GOTHIC ROCK tiêu biểu là THE SISTERY OF MERCY và MISSION. Tay VOCAL kiêm sáng tác ANDREW ELDRICH là linh hồn của THE SISTER OF MERCY với giọng ồm, nhưng sâu lắng , âm thanh nghe như vọng từ một cõi xa xôi nào đó. Giống của DAVID BOWIE. Họ đề cập nhiều đến chính trị. Tiêu đề của Album VERSION THING (1990) ra đời từ lời phát biểu của Tổng thống BUSH - người đã yêu cầu người viết diễn văn thay đổi hoàn toàn nội dung bài đọc vì " thiếu hình ảnh".

   THE SISTERS OF MERCY hạn chế dùng âm trống, thay vào đó họ dùng những âm trầm kéo dài , có những đoạn cao trào ngắn lặp đi lăp lại.

MISSION ( UK) hình thành bởi thành viên của SISTERS OF MERCY, tay guitar WAYNE HUSSEY và cây BASS CRAI ADAMS ( chữ UK đ.c thêm vào bởi một ban RHYTHM AND BLUES ở PHILADENPHIA có tên THE MISSION),GOD's OWN bởi thơ của T.S ELIO (1888-1965),The WASTELAND (1922) là bài hát mô tả thế giới với những con người , những linh hồn cằn cỗi. Trong những bản ghi âm sau này, ban nhạc đã khẳng định phong cách GOTHIC, cover lại TOMORROW NEVER KNOWS của the THE BEATLES và LIKE A HURRIAMCE của NEIL YOUNG, MR PLEASANT của THE KIND .... theo phong cách của GOTHIC

Từ những buổi ban đầu của Black Sabbath cho đến Death/Doom ngay hôm nay của My Dying Bride-Lịch sử của Doom metal,một chặng đường nhìn lại…

Nhũng nhóm Doom đầu tiên của thập kỉ 70…

Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng Black Sabbath là một trong những nhóm nhạc có ảnh huởng sâu sắc nhất đến Heavy metal nói chung và Doom metal cũng không phải là ngoại lệ. Không phải bàn cãi gì nữa, Những album đầu tiên của họ:’Black Sabbath’,’Paranoid’, Master of Reality’, ‘Vol. 4’, Sabbath Bloody Sabbath’, và ‘Sabotage’ thực sự là các kiệt tác mà thiếu chúng Doom metal(hay thậm chí cả metal nói chung) sẽ không thể tồn tại được như bây giờ.

Cùng thời với Black Sabath, các nhóm như Pentagram,Blue Cheer, Black Window cũng bắt đầu đưa vào âm nhạc của mình những mầm mống đâu tiên của Doom metal và hình thành nên một thứ metal được gọi là tiền thân của Doom metal sau này.

Những năm 80…

Những năm 80 là lúc mà Doom metal thực sự ra đời. Đây cũng là thời đại thống trị hoàn toàn của thrash/speed và Death metal.Và cũng là thời kì kết thúc của NWOBHM,một loại metal tốc độ trung bình.Khi tốc độ đang chíếm ưu thế trong toàn bộ nhạc metal thì việc các ban nhạc Doom hình thành,phát triển và tự tạo vị thế cho riêng mình là mộ điều rất đáng trân trọng.

Một ban nhạc của thời kì 80 đã góp phần đưa Doom vào thế giới metal đó là Trouble.Xuất thân từ Chicago,Trouble đươc thành lập từ năm 1979 nhưng chỉ thực sư đươc biết đến từ năm 1984.Họ chơi một thứ nhạc heavy metal vừa chậm vừa dài lê thê đồng thời lại chịu nhiều ảnh hưởng của Black Sabbath.

St.Vitus và sau đó là The Obsesed,Spirit Caravan cũng được coi là những ng*ời viết nên hưyền thoại của Doom metal.

Vào năm 1986, Candlemas một ban nhạc Thuỵ Điển cho ra Album .Epicus Doomicus Metallicus, đó thực sự là một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của Doom metal.Candlemass đã tiếp bứơc một cách xứng đáng Black Sabbath của những năm 70 đồng thời kết hợp với metal của thời đại mới để tạo nên Doom metal(traditional doom). Đối với những ngưòi bắt đầu nghe Doom thì Candlemass có lẽ là sự lựa chọn tốt nhất để bắt đầu.

Một người tiên phong khác trong những năm cuối của thap kỉ 80 là nhóm Cathedral của Lee Dorian.Khi rời Napalm Death năm1989,không ai có thể nghĩ đến sự trở về rất lạ lùng của anh.Hoàn toàn đối lập với Napalm Death cực kì nhanh,nhạc của Cathedral lại cực nặng và chậm,một thứ doom metal thuần khiết nhất.Các bạn hãy nghe thử Album ‘Forest ò Equilibrium’ sẽ thấy rõ.Về sau này nhạc của Cathedral lại mang âm hưởng của rock những năm 70 và chất doom dần nhạt đi.

Những năm 90…

Những năm đầu của thập kỉ 90 báo hiệu một sự thay đổi của Doom metal.Cùng với sự trỗi dậy mãnh mẽ của Death metal, Doom metal dường như bắt đầu xuất hiện dưới hình dạng mới.Nhiều nhóm nhạc thời kì này đã tìm kiếm sự pha trộn giữa Doom metal nguyên thuỷ và Death metal.Những người tiên phong cho xu hướng này là nhóm Winter với album ‘Into Darkness’ năm 1990 và nhóm Thergothon với bản demo xuất sắc’Fhragn-nagh Yog-Sotho’ năm 1991,và ta cũng không thể quên đuơc diSEMBOWELMENT.Họ chính là những người đặt nền móng đầu tiên cho Doom metal hiện đại từ chất liệu Doom truyền thống.

Nhưng đó mói chỉ là điểm khởi đầu,Những band Doom/death metal sau này còn đạt nhiều thành công hơn nữa.Ba ban nhạc đến từ nước Anh đã đưa Death/Doom metal đến vị trí mà nó đang đứng ngày hôm nay.Trước tiên là Paradise Lost với album’Lost Paradise’ năm 1990.Kế đó là My Dying Bride,họ đã mở toang cánh cửa cho một loạt các nhóm Doom metal mới ra đời. Album đầu tay của MDB ‘Symphonaire Infernus Et Spera Empyrium’ năm 1991 chỉ là sự báo trước cho thành công rực rỡ của họ sau này khi album thứ hai ‘Turn to loose the Swans’ vào năm 1993 ra đời.Album này đã đưa MDB đến địa vị cao nhất trong làng Death/Doom metal.Một ban nhạc khác có ảnh hưởng lớn đến dòng Doom metal mới sau Paradise Lost và MDB là Anathema.

Có một điều đáng chú ý là vào đầu những năm 90, một nhóm nhạc có tên là Earth(khôngphải tên ban đầu của Black Sabbath) đã tạo ra một dạng Doom metal cực đoan nhất gọi là ‘Drone Doom’.

Chúng ta cũng không thể bỏ qua sự ra đời và phát triển của Sludge Doom ,một thể loại dị thường nhất trong gia đình Doom metal-cực nặng, ảm đạm và tràn đầy giận giữ.

Giữa những năm 90, đã có rất nhiều sự thay đổi lớn trong Doom metal về cả phong cách lẫn nội dung(chẳng hạn nhiều band đưa giọng hát nữ chính vào điều mà trước kia chưa từng thấy ở Doom ).Những sự thay đổi đó đã sản sinh ra rất nhiều loại Doom metal mà ta biết ngày nay. Từ thứ nhạc chậm và vô cảm của Esoteric, Evoken,Skeptism đến Gothic/Doom metal lai tạp của Theatre of Tragedy.Và ta cũng không thể quên rằng có rất nhiều nhóm đã đang chơi Doom truyền thống vẫn tồn tại đến bây giờ.

Như vậy, ranh giới giữa các thể loại không còn rõ ràng nữa, đó là xu thế tất yếu và chúng ta đang chờ đợi rWhat is Doom_metal HuhHuh

Đây có lẽ là một câu hỏi rất khó trả lời và cũng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi.Tuy nhiên,chúng ta cũng cần phải có đôi điều về dòng nhạc metal này.

Doom-metal là một nhánh trong dòng metal vốn cực kì phong phú về các thể loại. Điều này có nghĩa là Doom trước hết phải là nhạc metal cái đã.Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cái gọi là ‘nhạc metal thực sự’ nhưng trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ không đi sâu vào vấn đề đó.

Trong khi phần lớn mọi người đều cho rằng tất cả âm nhạc thuộc cùng một thể loại đều giống nhau, nhưng nếu ta thực sự tìm hiểu kĩ thể loại đó thì sẽ thấy rõ ràng rằng thực tế hoàn toàn không phải như vậy.Cụ thể trong trường hợp này, điều gì đã làm nên sự khác biệt giữa Doom-metal với các loại metal khác? Câu trả lời ở đây là Doom-metal luôn nhuốm màu u tối, buồn thảm (và cũng rất nặng nữa). Ở Doom toả ra một không khí hết sức u ám và nặng nề mà ta không thẻ thấy được ở bất kì một dòng nhạc(metal) nào khác.

Nói đến những album đầu tiên của thể loại Doom phải kể đến hai album ban đầu của Black sabbath. Đặc biệt là album thứ hai ‘Paranoid’-đây có thể coi là album ‘tối nhất’ trong sự nghiệp của Black Sabbath. Điều này khiến cho nhiêù người cho rằng Black Sabbath là cha đẻ của Doom –metal. Mặc dù ý kiến trên có thể còn gây nhiều tranh cãi, nhưng rõ ràng rằng Sabbath là một trong những ngươì sáng lập ra một dòng nhạc metal hiện đại từ những năm 70.Nói rằng Black Sabbath là một ban nhạc Doom metal thì không hẳn là chính xác, bởi vì các band metal khác cũng đưa vào âm nhạc của họ khá nhiều màu sắc tối tăm, mặc dù vậy Sabbath là ban nhạc có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến các ban nhạc Doom thực sự sau này.

Về vấn đề lịch sử của Doom metal chúng ta sẽ đề cập cụ thể trong mốt bài viết khác. Tuy nhiên điều cần nói ở đây là những band đầu tiên của thể loại Doom metal được gọi là những band ‘traditional doom’,còn hiện tại có rất nhiều nhánh nhỏ khác nhau của doom mà trong số đó nổi tiếng hơn cả là ‘Doom thế hệ thứ hai’(2G doom) và Death/Doom .

Death/Doom metal có thể coi là dòng nhạc đối nghịch với death metal (vốn bắt ng*ồn từ Thrash metal).Trong khi Death có những cú riff với tốc độ cực nhanh thì những band Death/Doom lại chơi guitar cực chậm và trầm cùng với gầm gừ dài lê thê.Một ví dụ điển hình là trường hợp Lee Dorian cựu thành viên của Nalpalm Death(một band Death) khi chuyển sang chơi cho Cathedral.Những album đầu tiên của Cathedral là cực kì chậm.

Như vậy có một yếu tố khác để đánh giá một Doom metal band đó là tốc độ chậm khi chơi hoàn toàn đối lập với hầu hết các thể loại metal khác. Điều này có thể sẽ làm một số người cho rằng Doom metal thật tẻ nhạt. Đó là một quan điểm hết sức sai lầm,tôc độ chậm là một tính chất của doom điều đó khong có nghĩa là âm nhạc của nó tẻ nhạt.Không phải cứ đánh nhanh tít mù, điên cuồng thì mới là phê.

Nhưng đặc điểm nổi bật nhất của Doom metal chính là chất ‘nặng’ trong âm nhạc của nó. Điều đó được biểu hiện rất khác nhau trong phong cách của mỗi band, từ những âm thanh giật cục của diSEBOWELMENT đến những cú riff kiểu Sabbath của St.Vitus và sự buồn thảm đến ghê rợn của My Dying Bride.

Cũng có lúc người ta lẫn lộn giũa Doom metal với Stoner rock ,Gothic metal hay cả Black metal bởi chúng cũng có một số nét tương đồng.Như vậy, một cách công bằng nhất khi định nghiã Doom metal là chúng ta phải xem xét khá toàn diện. Ngày nay, trong thé giới Doom metal chúng ta có Doom-metal chậm, đầy đau đớn.Chúng ta có Doom metal tốc độ trung bình, mang sắc thái du dương .Cũng có khi ta lại thâý Doom metal thực sự nhanh,mạnh mẽ.Mặc dù không phải là phổ biến nhưng ta cũng có nhiều band sử dụng những nhạc cụ êm ái du dưong như violin, Flute , đàn harp….Thậm chí ta còn thấy sự hoà trộn giữa Doometal với nhạc Techno, black metal hay là cả nhạc cổ điển.

Quan điểm cho rằng nội dung t

oom Metal, chắc ai trong này cũng biết cái cụm từ này...

Nhưng có ai quan tâm đến nó không...

Trước hết, vì sao Doom lại xếp cạnh cùng Gothic/Dark...

Không cần phải quá đi sâu vào vấn đề này. Gothic Metal, Dark Metal luôn được biết đến là 2 dòng nhạc khá "uyển chuyển" và dịu dàng, chủ đề đa số là về tình yêu thương, nỗi buồn...

Doom thì khác, có thể Doom cũng "uyển chuyển" và dịu dàng, cũng là về tình yêu thương, nỗi buồn nhưng DOOM là những gì khô khan, đau đớn nhất của 2 phạm trù đó.

DOOM chơi không giống 1 loại nhạc Metal nào cả, khác hẳn Death Metal, khác hẳn Black, Heavy, Thrash, nó giống như bạn nghe 1 bài Gothic Metal với giọng nam chua chát... nhưng chỉnh cho tempo chậm hết cỡ... nó sẽ gần là Doom... Đó theo mình là lý do vì sao Doom lại xếp cạnh Gothic/Dark...

Doom trong từ điển là khổ hạnh, cái chết, sự sụp đổ về tâm hồn.

DOOM METAL cũng vậy! Buồn khổ, sự sụp đổ về tâm hồn...

Nếu ai nghe Doom Metal mà chưa biết đến những cái tên: My Dying Bride, Anathema... đặc biệt là Katatonia... thì chưa thể gọi là nghe Doom Metal.....

Trích

Doom Metal là một dòng nhạc, một cách nào dó thì nó chậm Grin

Doom Metal là chặt đầu kiểu Irak, người ta dùng con dao cùn để cứa dần dần

Muốn có một ngày mới tươi đẹp, sáng dậy đừng nghe "Veronika Deicide To Die" (Saturnus)

Draconian sẽ chơi Doom Metal nếu họ bỏ đi giọng nữ

Nếu Tristania bỏ đi giọng nữ, họ chơi **** Metal

Nếu mới nghe Doom, đừng ai mần Drone

Virgin Black là Goth

Cuộc đời là hành trình đến với cái chết, có thể ngắn hoặc... ngắn hơn

Nếu Type of Negative chơi Doom, họ định nghĩa nên thứ Doom tệ hại nhất

Khi bạn có ý định cưới vợ, đừng nghe My Dying Bride

Nếu Sludge là quằn qoại, thì Drone là huỷ hoại

Thường thì 2 người sẽ không cùng chết trong một Concept Doom Album, một trước một sau hoặc một sống một chết

Lần nữa, muốn có một ngày mới tươi đẹp, sáng dậy đừng nghe Mourning Beloveth (bất kỳ album nào)

Đừng ai nhầm giữa Tristitia và Tristania, họ khác nhau

Doom Metal là chặt đầu kiểu Irak, người ta không dùng kiếm hoặc dao sắc để chặt phăng một phát

Nếu có một bộ phim kinh dị tâm linh hãy dùng Ambient Doom làm nhạc nền

Đôi khi Funeral Doom không hát về đám ma nhưng khi có ai chết hãy nghe chúng để chia buồn

Hãy làm một bài thơ u ám và đọc trong sinh nhật của một người bạn, bảo đó là món quà

Khi nghe Shape of Despair mà ăn kẹo Caramen, hãy thốt lên " Ngọt ngào như vòng tay Doom ám"

Khanate là một ban nhạc thick tra tấn lỗ tai người khác

Funeral Doom Metal là một dòng nhạc, một cách nào dó thì nó siêu chậm

Khi bạn có ý định cưới chồng, đừng nghe "Dances of December Souls"

Nhạc của Empyrium dành cho Doom Fan

Iron Monkey không phải là một con khỉ sắt

Gloomy Sunday là tên một ban nhạc

Hãy vào một quán cafe tồi tàn, nhớ mang theo một cái máy nghe cùng nhạc của Mournful Congregation

Mùa đông thì khác nghiệt => chết rất nhanh. Mùa thu dành cho Doom Fan

Black Sabbath là ban nhạc đầu tiên ...phả bội Doom Metal

Doomed to Walk the Earth là tên một ca khúc của Swallow the Sun

Hãy ngồi vào một xó nhà, tắt điện và bật nhạc của Void Of Silence

Đừng trêu một Doom Fan, điều đó sẽ rất tẻ nhạt

"Vũ Khúc Những Linh Hồn Tháng Chạp" là một kiệt tác, không cần bàn cãi

Nghe "When Sorrow Embraces My Heart" của Desire và sắm cho mình một khẩu súng, đừng mua đạn nếu bạn vẫn còn thick nghe 

Đừng ai bắt đầu với Drone Doom

"Ashes to Ashes, Dust to Dust" là tên một ca khúc của Consummatum Est

Hãy ngắm bìa album Alone (Solitude Aeturnus) và tránh xa Doom Metal

Hãy ngồi vào một xó nhà, tắt điện và bật nhạc của Uaral

Đừng xui người khác nghe Doom, họ sẽ ghét dòng nhạc này hoặc nếu thick thì họ lại quay ra ghét bạn

Depressive Rock/Metal có họ hàng với Doom Metal

Doom Metal là một dòng nhạc, thật đơn giản

Định nghĩa về DOOM METAL của anh em nhà Tonia/Konlondo...

Hoàn toàn đúng... Mọi điều là như vậy...

Chỉ còn thiếu là nếu muốn chết... trước khi chết hãy nghe LIFE WITHOUT HOPE, DEATH WITHOUT REASON của LOSS...

Nói chung... nếu muốn có 1 ngày buồn... 1 chiều hoàng hôn ảm đạm... hãy nghe Doom...

Nếu không hãy tránh xa nó...

Doom là như vậy...

Ở đây mình muốn nói lên những band DOOM mà cả đời chỉ có thể gặp 1 lần....

1. FOREST OF SHADOWS - Melodic Doom

Không có âm nhạc nào lại hủy diệt tâm hồn, hủy diệt hy vọng... rồi lại đem hy vọng đến cho người nghe cả...

2. UARAL - Acoustic with Doom elements

"Lời than vãn" cùng cây đàn guitar gỗ...

3. DESIRE - Doom Metal... depressive and gothic metal elements....

Kết thúc luôn là cái chết...

4. AGALLOCH - Atmospheric Dark/Folk + DOOM

"sự kết hợp tuyệt vời giữa những nỗi u hoài  lạnh lẽo, đơn độc chồng chất lên những nét đẹp hoài cổ của thiên nhiên." - Ali

5. BURIED AT SEA - Droning Doom

Thứ Doom nghe nó có thể dẫn đến cái chết...

...

Ambient/Darkwave/Drone... là dòng nhạc chỉ phù hợp với người nghe nó ... hoặc nghe DOOM METAL...

Những Death head, Thrash, Speed head không thể là Doom head...

Đúng là Depressive Rock/Metal là họ hàng của Doom. Depressive Black nằm trong số đó...

ANTIMATTER là band depressive rock quá hay!!!

NOCTURNAL DEPRESSION - depressive black with DOOM elements

VUOTARE - ambient doom/depressive black

FUNERAL MOURNING - doom/depressive black

Gothic cũng có cả Doom...

SKUMRING là ban nhạc tuyệt vời! Vocal nữ, nhạc thật chậm rãi...

CONSUMMATUM EST - Vocal nữ... nhưng thật tối tăm và u tối...

Trong đám tang... cũng phải có DOOM METAL

FUNERAL DOOM

MOURNFUL CONGREGATION là band Funeral Doom tuyệt vời... Có thể nghĩ rằng trên nền nhạc dày đặc guitar nhưng chậm kinh khủng lại xuất hiện những đoạn guitar thùng hay tê tái...

Trong nỗi đau chua chát... cũng phải có DOOM METAL

Drone/Droning Doom

BURIED AT SEA - Đơn giản là chua chát, ai oán, guitar vẫn chậm là vậy, vocal gằn gọc là vậy nhưng ai oán, kéo dài, như thể nơi đâu vang lên tiếng kèn của người vậy...

SUN O)))

GINNUNGAGAP...

Những gì tồn tại trong Droning Doom chỉ đơn giản là cái chết...

Sludge Metal là họ hàng của Doom nhưng khác Doom rất nhiều...

Stoner Doom... nhàm chán và vô vị................................... HIT ME.......

Nhưng Sludge Doom... ẻo lả, cuốn hút và trống rỗng!!! Guitar, trống không quá chậm, đúng hơn là không thể chậm vì nó luôn vội vàng...

Guitar uốn éo, nhịp lộn xộn, trống lộn xộn, vocal giọng cao... Nhưng sludge doom nghe nhiều sẽ nghiện...

Sludge, Drone Metal có thể giống nhau...

Nghe 5'IVE sẽ rõ... Arachnotaur, A.M cũng vậy....v.v.

EXPLOSIONS IN THE SKY, MONO, RED SPAROWES, PELICAN..........

Ambient/Drone không hẳn là metal nhưng chỉ người nghe nó hoặc người nghe Doom mới thích nghe nó...

Folk/Acoustic music không hẳn là metal nhưng chỉ người nghe nó hoặc người nghe Doom mới thích nghe nó...

Empyrium chỉ dành cho Doom head...

Vali, Byla... cũng vậy...

The Elemental Chrysalis... ambient/acoustic chỉ dành cho người đang yêu...

............Vậy đâu là những gì thuộc về

Không thể post quá nhiều ảnh, cần lấy ví dụ thì vào metal-archives tìm thử những band Sludge Metal đáng nói như: 5ive's Continuum Research Project, A.M (band này là 1 band Sludge Underground, có thể coi là vậy vì thành viên trụ cột là người của Deathspell Omega......), Brainoil, Bongripper, Cardinale, Unearthly Trance, Vancouver, Impure Wilhelmina, Kylesa...........

Những gì bề ngoài của những band Sludge có thể biểu hiện 1 chút con người họ và lối chơi nhạc của họ, sạch sẽ, không quá tối tăm, ca từ cũng vậy, con người có thể hơi lập dị 1 chút nhưng dễ gần, hơi chút khó hiểu nhưng chân thành.... 

Đôi lúc, khi trạng thái, tâm trạng bị đảo lộn, họ buồn chán và tuyệt vọng thì những gì thể hiện sẽ rõ rệt, những bức ảnh nhiều đường sáng, sự mập mờ, vội vàng hiện ra rõ ràng! (xem gallery của ISIS, Unearthly Trance, 5'IVE....)

B. ÂM NHẠC

Sludge trong từ điển có nhiều nghĩa, đặc trưng là: bùn đặc, cặn dầu, cặn nồi xoong, nước cống, nước rác... Nói chung là khá bẩn thỉu.

Tuy nhiên nhạc Sludge thì khác! 

Nếu nói giữa Sludge và Rock, Sludge là họ gần với dòng Post-Rock, Metalcore, Hardcore Punk.

Còn nói về Metal, Sludge họ gần với Heavy, Doom và Stoner.

Lối chơi Sludge rất tinh tế, rất thăng hoa. Thường guitar và trống khá lộn xộn, nhưng trong đống lộn xộn các nhạc cụ dày đặc lại là 1 giai điệu vội vàng và thấp thỏm, bình yên, êm đềm nhưng ẩn chứa là đầy nỗi buồn mêng mông... Âm thanh rất atmospheric, trống và guitar thường tạo cảm giác khá xa so với vocal.

SLUDGE xuất hiện vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu những năm 90.

Vì mình ko thể nghiên cứu quá kỹ ,hầu hết kiến thức đều lấy ra từ những band đã nghe. Band Sludge Doom sớm nhất mà được nghe có lẽ là EYEHATEGOD, thành lập năm 1988. Thời điểm này Sludge Metal có vẻ khá nặng nhọc, nó là sự kết hợp giữa hardcore punk, heavy metal. Vocal chói tai và khó nghe.

EYEHATEGOD được coi là band tiêu biểu cho Old Sludge Metal. Thời kỳ đầu là vậy, chơi rất tốc độ và rất tàn bạo!

Sau EYEHATEGOD thì đến ban nhạc 13. Đây có lẽ là band Sludge Metal / Doom Metal đầu tiên hay đến vậy!

Có thể nói 13 là ban nhạc chuẩn mực cho Sludge Doom, guitar chầm chậm, trống lộn xộn, vocal harsh và giọng rất cao, ca từ chủ yếu xoay quanh cảnh xã hội nghiện ngập, tha hóa, mại dâm...v.v.

Cả EYEHATEGOD và 13 đều là những ban nhạc đến từ Mĩ.

ACID BATH cũng vậy! ACID BATH và 13 có lối chơi khá giống nhau, đúng hơn là khó so sánh khi nghe 2 band này.

ACID BATH nổi tiếng hơn. Những album sau này của ACID BATH chơi khá nặng, thiên về Doom/Metalcore nhiều hơn.

ISIS có lẽ là band được nhiều người nhắc đến nhất trong những ai nghiền Sludge Metal.

ISIS lại là ban nhạc đến từ Mĩ. Nhắc đến ISIS thì không thể không nhắc đến album Oceanic của họ, được coi là xuất sắc tuyệt đối! Đúng vậy!

Guitar chậm, giai điệu lấp lửng và nhẹ nhàng, trống lộn xộn và dồn dập, vocal không phải giọng death nhưng cao, xen kẽ những giai điệu ồn ào là những nốt gẩy guitar êm ái, mượt mà.

Lối chơi bác học cực kỳ đỉnh cao.

Coi ISIS là ban nhạc thành công nhất của Sludge Metal cũng không hề sai!

Cũng khá nhiều band SLUDGE METAL không lời.

Sự pha trộng đủ thể loại Hardcore Punk, Post-Metal/Rock, Heavy, Metalcore và không có lời hát!

PELICAN và ISIS chơi cực kỳ giống nhau... chỉ tội Pelican là ban nhạc không lời!

Bongripper, 5'ive... cũng thế....

EXTREME SLUDGE METAL/DOOM

Đầu tiên hãy nhắc đến BURIED AT SEA... thực ra đây là band Droning Doom nhưng chất Sludge trong đó khá rõ ở  lối chơi thô bạo, kỳ quặc, thăng hoa guitar và drum. Vocal death đặc trưng.

Guitar chua chát đặc trưng cho Droning, drum hỗn độn của Sludge, vocal gằn gọc của Doom Metal.

Âm nhạc của BURIED AT SEA khiến con người rụng rời chân tay, cảm giác hỗn loạn trong tâm thức, ức chế, dồn nén và căng thực cực độ!

BLOODY PANDA là ban nhạc tuyệt vời! Sự pha trộng chính là Sludge Metal và Extreme Doom/Death Metal!

BURIED INSIDE... khó hiểu và day dứt, sự kết hợp giữa Sludge Metal và Melodic Death, thử hình dung là trên nền nhạc khó kiềm chế của Sludge xuất hiện những đoạn solo guitar lead hay vãi tè!!!

Định nghĩa như vậy... mơ màng có thể hiểu.............

Chung quy lại, SLUDGE METAL là kết hợp của Metalcore, Hardcore Punk, Heavy, Post-Rock/Metal.

Sludge Doom Metal là extreme của những thế trên và Doom Metal.

Những ai muốn tìm hiểu về Sludge Metal không thể bỏ qua những band như:

ISIS, BURST, CULT OF LUNA, 13, PELICAN, KYLESSA, 5IVE, CAVITY, Impure Wilhelmina, Indian, Bloody Panda,

Beaten Back to Pure, BONGZILLA (Stoner/Slude), Cardilane, Jumbo's Killcrane..............

Tất nhiên còn vô vàn band hay nữa... Hãy nghe và tiếp tục nghiên cứu 

« Sửa Lần Cuối: Tháng Sáu 12, 2007, 09:41:13 bởi Người Điên »

 Đăng nhập

http://hatefulmetal.hnsv.com/uploads/hatefulmetal/images/1238422027.jpg

UNERAL DOOM

Doom được biết đến là dòng nhạc lề mề, chậm chạp... thì Funeral Doom còn lề mê, chậm chạp gấp nhiều lần!....

Theo em, Phần Lan là đất nước đầu tiên có những band Funeral Doom hoàn chỉnh. Nhưng sự khởi đầu của Funeral Doom có lẽ bắt nguồn từ lối chơi Death/Doom lề mề của My Dying Bride (Anh Quốc).

Sự kết hợp Death, Doom là chủ đạo, âm thanh ai oán của Drone Metal, 1 chút ambient, noise, 1 chút kỳ quặc của Sludge hay Stoner... chính là Funeral Doom.!

Trong mọi đĩa Funeral Doom đã nghe, album phát hành sớm nhất trong số đó có lẽ là "Fhtagn nagh Yog-Sothoth" (demo 1991) của THERGOTHON. Ban nhạc đến từ Phần Lan.

Đây chính là sự khởi đầu hoàn hảo cho những ai muốn tìm hiểu Funeral Doom, những đoạn solo day dứt, vocal growl (noise), những giây phút thả nhẹ trên nền guitar êm đềm, drum chậm chạp...

FUNERAL DOOM phát triển mạnh ở Châu Âu, và thời điểm phát triển mạnh là vào những năm cuối thế kỷ 20.

Châu Âu, tập trung là Phần lan, Pháp, Đức là những nước có nhiều band Funeral Doom đình đám. Ở các châu lục khác, ngoài Úc, Nam Mĩ là vùng đất của Doom Metal, những ban đến từ Chile, Peru, Colombia, Brazil.

FUNERAL DOOM là dòng nhạc của người tuyệt vọng, của sự chán nản, u sầu, ai oán. Âm nhạc Funeral Doom cũng vậy, nặng nề và chậm kinh khủng.

Trên thế giới hiện nay có khoảng 250-300 band Funeral Doom. Em đoán ở tầm đấy...

Funeral Doom thực ra phải là dòng nhạc cực kỳ chậm chạp, cực kỳ lề mề, ai oán. Và nó đáng nhẽ phải là dòng nhạc khó nghe nhất trong mọi dòng nhạc! Số band chơi Funeral Doom theo định nghĩa đó không nhiều cho lắm.

Khi khen một ban Funeral Doom hay thì đó chính là dấu hiệu cho sự lề mệ, chậm chạp, ai oán bội phần của band đó.

Những ban Funeral Doom có thể nghe đi nghe lại nhiều lần mà không thể nắm bắt được nó, không thể nhớ được âm nhạc của nó có khá nhiều...

Wormphlegm đến từ Phần Lan có review cao ngất ngưởng. Nghe 1 bản nhạc Funeral Doom dài 33 phút thật khó nuốt...

Luẩn quẩn, kỳ lạ, ai oán, day dứt... là những điều có thể thốt lên khi nghe!

Thực ra những band có tính Dark Ambient/Ambient Funeral Doom mới thật sự khó nghe và đáng kinh sợ...

Hay coi họ như kiểu Emotional Funeral Doom, âm thanh xa xăm tột độ, thi thoảng trên cái nền ai oán hiện lên tiếng ngân nga ẩn hiện của nữ tu sĩ hay tiếng chuông thê lương của nhà thờ cổ...

Voice Transmissions with the Deceased đến từ Chile là 1 ví dụ cho các band Nam Mĩ. Chậm là đặc điểm, u ám là tính chất, chết chóc là bản chất...

LAKE OF DEPRESSION là ban Funeral Doom của PANAMA! Một ban nhạc tởm, chậm ngang ngửa cái band đến từ Chile, nhưng độc nhất vô nhị, âm nhạc của LAKE OF DEPRESSION như 1 cái kèn thổi trong màn đêm dưới bầu trời không 1 ánh trăng, không 1 ông sao... Ám ảnh và sợ hãi.

Comatose Vigil đến từ Nga là ban Funeral Doom đáng sợ... Âm nhạc của band có lẽ không thể dành cho những ai đang yêu đời, sự thê thảm trong lối chơi guitar, thỉnh thoảng từ phía xa xăm nào đó vang lên tiếng đàn keyboard hay tiếng gió hiu quạnh. Điều đáng nói là độ "chua" của nó, chua chát, chua cay... Nhưng giai điệu thì hay đeo' chịu...

Nghe EA Teasse của EA sẽ hiểu rõ tâm linh (....)....

Nghe TYRANNY sẽ cảm tưởng sự khổ hạnh trong tâm thức...

Những band Funeral Doom đáng sợ nên xuất hiện ở những đám tang... để chia buồn số phận của người chết...

THE FUNERAL ORCHESTRA sẽ làm mọi thành viên trong gia đình người chết thỏa mãn....

EVOKEN, AUSTERITY, DICTATOR...

Có những band Funeral Doom dễ nghe hơn 1 chút... Dù tốc độ, lối chơi và ca từ vẫn vậy! Một số website gọi đó là Funeral Death Doom

MOURNFUL CONGREGATION là ban nhạc đỉnh cao của Úc! Hình dung rằng trên nền guitar sầu thảm ngàn lần, trên tiếng khóc trần gian lại được vỗ về bằng những tiếng guitar acoustic như hạt mưa mùa hạ...

Hay DOOMVS của Thụy Điển, lưu luyến và ngân nga... Sẽ lâu nữa mới được nghe 1 album như Aeternum Vale, truyền cảm...

CONSUMMATUM EST của Italy và FUNERAL của NaUy là ban 2 Funeral Doom/Gothic tuyệt vời nhất (thực ra vì kết hợp giữa Funeral Doom và Gothic... hình như mới chỉ 2 có band này) đỉnh cao trên nền guitar uất ức lại là giọng nữ ngọt ngào, đôi lúc lại chua chát...

Autumnia (Ukraina), Aurahiemis (Chile), Esoteric (UK), Abske Fides (Brazil), Deep Well of Horror (Italy), Ataraxie (France), Celestiial (USA)... là những band như vậy và không thể bỏ qua!!!

SKEPTICISM và FOREST STREAM chơi khá giống nhau, Funeral Doom giàu giai điệu, lối chơi không quá chậm, thanh thoát và day dứt! Hai band này đều đỉnh cao hết mức, vượt qua cả mức quy định, Skepticism chơi raw, thu âm tồi nhưng FOREST STREAM thì khác, chơi tuyệt vời!!!!!!!!!!!!!!!!!!!

SHAPE OF DESPAIR là band Funeral Doom ái ân (!), hiền lành nhân từ giả tạo... Shape of Despair lại là ban nhạc Phần Lan, khá dễ nghe và nhiều cảm xúc. Angel Of Distress xứng đáng là 1 trong những album Melodic Funeral Doom hay nhất!

MONOLITHE của Pháp là band Melodic/Atmospheric Funeral Doom đỉnh cao khác!!! Mọi album chỉ có 1 track dài lê thê duy nhất nhưng chính vì nó là Melodic/Atmospheric nên thật quyến rũ và lôi kéo ta chìm vào 1 tiếng đồng hồ như kéo dài vạn năm vậy ^^...

Có nhiều band chơi kết hợp giữa Funeral Doom và Black Metal tạo ra thứ âm nhạc gọi là Depressive Funeral Doom...

Đầu tiên phải kể đến NORTT của Đan Mạch. Giai điệu, phong cách Ambient, lối chơi lặp đi lặp lại của Depressive Black... Sự chậm chạp gằn gọc của Funeral Doom.

FUNERAL MOURNING, 1000 FUNERALS, ELYSIAN BLAZE... là những ban nhạc cả đời sẽ chỉ gặp 1 lần!!!

Đừng bỏ qua nó!!! 

DOOM/DEATH tạm coi là đứa con của Funeral Doom dù có thể nó có trước Funeral Doom (!?).......

MY SHAMEFUL (đến từ Phần Lan) là ban nhạc đỉnh của đỉnh!!! Chậm chạp vẫn là thứ vốn có của nó nhưng nặng nề và day dứt như vậy thì thật hiếm! "Of All the Wrong Things" xứng đáng là tuyệt tác của nhân loại!

LOSS (USA) là ban nhạc có tuyệt phẩm kinh dị nhất! "LIFE WITHOUT HOPE... DEATH WITHOUT REASON" - Cut Up!!! Depressed & Alone!!! Không thể hình dung khi cái chết cận kề thì hãy nghe ca khúc này!

Còn vô số band Doom/Death khác nhưng khôg nhiều band tempo lại chậm và nặng nề mang dấu ấn của Funeral Doom trong nó...

***************

Funeral Doom nói chung là dòng nhạc khó định nghĩa ở 1 chừng mừng nào đó...

Nó tất nhiên khó nghe, khó cảm nhận hơn nhiều dòng nhạc khác.

Funeral Doom tất nhiên là nói về cái chết là chính, sự tuyệt vọng, đau khổ, nỗi buồn ngàn năm...

Funeral Doom là dòng nhạc dành cho đám tang... Nhưng nhiều ban nhạc không cho phép làm điều đó... họ chơi nhạc giúp cho con người đến được đám tang... của chính mình.......................................

« Sửa Lần Cuối: Tháng Sáu 16, 2007, 09:52:36 bởi Người Điên »

Bài này của bác Tobias ( QB ) ( lại nhớ Ng' hóa thú  )

Tư tưởng Doom được ẩn sau trong mỗi con người , thời kỳ nào cũng thế . . . ngay cả khi nhạc Rock chưa ra đời . . . nhưng không có loại hình văn hóa nào thể hiện được tư tưởng này .

Vậy tư tưởng Doom là gì ? Trước hết chúng ta nên biết Doom Metal là loại Metal u tối thế nên tư tưởng của nó cũng chẳng trong sáng gì cho cam . Doom nghĩa tiếng Việt là u ám và tư tưởng của nó cũng thật u ám . Nội dung cơ bản được đề cập đến trong Doom Metal là sự tuyệt vọng , nếu bạn tìm hiểu kỹ lyrics của các band Doom bạn sẽ nhận thấy tư tưởng của họ - một vài album tiêu biểu của họ : My Dying Bride , Katatonia , Anathema , Paradise Lost . . . 

Doom Metal bắt đầu từ đâu ? Câu hỏi này đã gây ra bao cuộc tranh cãi trong các Doomster . Nó là một nhánh trong vô vàn nhánh khác của Metal nói chung . . . và Metal thì bắt nguồn từ Black Sabbath thì hiển nhiên Doom cũng là từ Black Sabbath – nói thế không chỉ là vì Black Sabbath chơi Metal đầu tiên nên là ông tổ của Metal mà vì ngay từ những album đầu tiên của Black Sabbath cũng đồng thời là các album Doom đầu tiên . . . . Tôi không dám nói Black Sabbath là một band Doom – sau khi Ozzy ra đi Black Sabbath là một band Heavy thuần tuý (nghe album Hell & Heaven bạn sẽ nhận rõ ) Album mang âm hưởng Doom đầu tiên tôi nghe là Paranoid của Black Sabbath nhưng thời kỳ đó tôi chưa có khái niệm gì về Doom – cái làm tôi ấn tượng là cái chất giọng nhừa nhựa , ma quái của Ozzy , tiếng guitar chậm rãi

Ngay từ thời kỳ mới ra đời mà khởi nguồn là Black Sabbath – Doom cũng manh nha trong nó tư tưởng kể trên nhưng không nặng nề như bây giờ . . . nổi bật của Black Sabbath là giọng hát của Ozzy đậm chất ma quái . 

Đến cuối những năm ‘80 Trouble, Vitus và Candlemass – đa phần các band nhạc thời kỳ này sử dụng chất giọng trong (clean vocal) sau này với sự xuất hiện của My Dying Bride vào đầu thập kỷ ’90 trong Doom Metal có khái niệm Doom/Death . . . Doom/Death là sao ? Death ai cũng nhận thấy là lối chơi tốc độ , những cú riff , những pha solo kinh điển hay những quả dồn trống khó quên – còn Doom thì gần như ngược lại . . . nhạc chậm , ít đột biến . . . tiếng trống tuy chắc nhưng chậm . Vậy sự kết hợp của Doom và Death là thế nào ? Là chất giọng gầm gừ (grunt vocal) trong Death xuất hiện trong Doom . Doom thực sự phát triển mạnh với sự ra đời của My Dying Bride - giọng clean được thêm vào là giọng gầm gừ (Grunt Vocal) và trở thành Doom/Death . Tất nhiên giọng gầm gừ không thể thay thế hoàn toàn giọng clean vẫn có những band Doom giọng clean rất thành công . . . ngay cả My Dying Bride cũng có những bài giọng clean mà không hề thoát ra khỏi tư tưởng đó .

Về nhạc lý - tôi mù – vì thế tôi không dám lộng ngôn về kỹ thuật chơi nhạc của các banb Doom mà chỉ mạn phép nói một chút về của cách chơi nhạc đến việc hình thành tư tưởng Doom . 

Ngay cả Black Sabbath thời kỳ đầu cho đến My Dying Bride hiện nay cũng cùng một kiểu đó . Nhịp trống rất chậm và đều , tiếng guitar cũng rất chậm chạp , như kéo lê trên mặt đất . . . Vocal rên rỉ ( . . . những tiếng rên rỉ từ địa ngục . . . ) quằn quại trong nối đau , giãy dụa không lối thoát - sự tuyệt vọng bao trùm từng lời ca . Tất nhiên cũng không phải là không có những bài Doom sáng sủa hơn một chút (?) là nỗi buồn nhẹ nhàng , man mác . Doom hiện đại sử dụng keyboard và đàn dây dường như làm Doom mượt mà hơn , bớt xù xì làm người nghe dễ cảm nhận thấy nỗi buồn trong đó . Những Doomster ở Việt Nam đã có những cuộc tranh luận nảy lửa thế nào là True Doom – Có kẻ bảo Doom/Death là True . . . có kẻ bảo Doom without keyboard mới là True . . . bản thân tôi không có ý kiến gì về vấn đề này . . . đối với tôi chúng đều mang tư tưởng và sắc mầu Doom và tôi yêu Doom !

Chính bởi tư tưởng này + cách chơi không nhiều cao trào , đột biến . . . Doom ở Việt Nam trở thành dòng nhạc kén người nghe . Thế giới âu sầu đầy rẫy những nỗi đau , sự thống khổ , bi quan và bế tắc . . . chìm ngập trong thế giới tăm tối này phải chăng là kết thúc . . . tất cả ?

 Đăng nhập

 Doom??? hehee... câu hỏi chưng hửng... band nào là doom.

Thần thoại Hy Lạp - Những bản trường ca bất tử

« lúc: Tháng Sáu 04, 2006, 23:32:03 »

Thần thoại Hy Lạp - Những bản trường ca bất tử    ( sưu tầm )

--------------------------------------------------------------------------------

Thoạt nhìn tựa đề "Thần thoại Hy Lạp", có vẻ chẳng díng dáng gì đến Rock hay Metal. Nhưng thực tế, có rất rất nhiều metal bands chịu ảnh hưởng từ các câu chuyện truyền thuyết xuất phát từ Hy Lạp, đất nước được mệnh danh là "Land of The Heroes & Myths". Những bản trường ca của Rhapsody hay các nhạc phẩm nói về sử thi The Odyssey của Symphony X và nhiều tác phẩm khác nữa của Metal đều lấy cảm hứng và tư liệu từ thần thoại Hy Lạp. Trong các bài post tiếp theo, mọi người sẽ thấy xuất hiện rất nhiều cái tên truyền thuyết được đặt làm tên band nhạc. Những câu chuyện về Hy Lạp có rất nhiều phiên bản khác nhau, nguồn gốc và sự phát triển của thần thoại Hy Lạp hiện vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu...

***

Phần I: Giới thiệu khái quát

Thần thoại Hy Lạp là những truyện thần thoại của người Hy Lạp, bao gồm các truyền thuyết về các vị nam thần, nữ thần và các vị anh hùng của người Hy Lạp. Ban đầu, thần thoại Hy Lạp là những câu chuyện thơ truyền khẩu qua nhiều thế hệ. Các câu chuyện đó tồn tại đến ngày nay là nhờ các ghi chép về các câu chuyện truyền miệng nói trên, đôi khi chúng được bổ sung thêm các lời giải thích về các ý nghĩa biểu tượng hoặc các hàm ý khác có thể là hiện đại hoặc cổ điển. Nhiệm vụ của các nhà nghiên cứu là tìm ra những ý nghĩa ban đầu được ẩn dấu trên các hình vẽ trên các bình gốm sứ, các bức họa,... hoặc đằng sau những nghi lễ tôn giáo còn tồn tại đến ngày nay.

Trong các truyền thuyết, câu chuyện và trường ca, tất cả các vị thần của Hy Lạp cổ đại đều được mô tả giống như hình dáng của con người, ngoại trừ một số sinh vật nửa người nửa thú như các nhân sư, số còn lại đều có nguồn gốc từ vùng Cận Đông và vùng Thổ Nhĩ Kỳ. Các vị thần Hy Lạp có thể sinh con nhưng trẻ mãi không già, không bị thương tổn, không ốm đau, có thể trở nên tàng hình, có thể di chuyển rất nhanh và có thể dùng người là phương tiện truyền đạt ý tưởng của họ mà người đó có thể biết hoặc không biết. Mỗi vị thần có một hình dáng, một nguồn gốc, một sở thích, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ quản lý; tuy nhiên, việc mô tả các thần thường xuất phát từ các dị bản khác nhau nên không phải lúc nào cũng ăn khớp với nhau. Khi các vị thần được vinh danh trong thơ ca hoặc khi cầu nguyện thì họ được coi như là một ý nghĩa tổng hợp gồm tên và trách nhiệm của các vị để phân biệt với các hình ảnh khác của các thần. Trách nhiệm của một vị thần có thể phản ánh một khía cạnh đặc biệt về vai trò của vị thần đó, ví dụ, Apollo, vị thần thơ ca là tên dành cho thần Apollo, được coi là người bảo trợ cho nghệ thuật: thơ, ca, nhạc, họa; người cầm đầu các tiên nữ thơ ca muse. Nhưng trách nhiệm của một vị thần cũng có thể dùng để phân biệt một khía cạnh đặc biệt nào đó của một vị thần.

Trong các truyện thần thoại Hy Lạp, các vị thần được mô tả là những người thuộc cùng một gia đình đa thế hệ. Vị thần già nhất tạo ra thế giới, nhưng các vị thần trẻ hơn đã thay thế các vị thần già. Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus là các vị thần quen thuộc nhất với tôn giáo Hy Lạp và nghệ thuật Hy Lạp và được mô tả trong các sử thi có hình dáng của con người trong "Thời đại của các anh hùng". Đó là các bài học mà tổ tiên người Hy Lạp phải học để có được các kỹ năng cần thiết, lòng kính sợ thần thánh, đề cao đức hành và trừng phạt tội lỗi. Các vị thần nửa người, nửa thần được gọi là các "anh hùng" và cho đến khi thiết lập được thể chế dân chủ, các hậu duệ người Hy Lạp xây dựng trên cơ sở của tổ tiên.

 Bản chất và nguồn gốc

Mặc dù tất cả các nền văn hóa trên thế giới đều có các thần thoại riêng của mình, thuật ngữ "thần thoại" trong các ngôn ngữ Tây phương (mythology trong tiếng Anh, mythologie trong tiếng Pháp, mitología trong tiếng Tây Ban Nha...) bắt nguồn từ người Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: μυθολογία - mythologia) và mang một ý nghĩa đặc biệt trong văn hóa Hy Lạp.

Thuật ngữ Hy Lạp mythologia là một từ ghép gồm hai từ đơn:

mythos — trong trường ca Homer của Hy Lạp cổ đại khái có nghĩa là "một bài diễn văn hay bài diễn ca được nghi thức hóa" của một thủ lĩnh ở một cuộc tập họp, hay của một nhà thơ hoặc một thầy tế. 

logos — trong Hy Lạp cổ mang nghĩa là "một câu chuyện có sức thuyết phục, một lập luận chặt chẽ". 

Vì thế, theo nguyên nghĩa, một thần thoại là một sự nỗ lực trong việc mang lại ý nghĩa cho các câu chuyện được cách điệu hóa mà người Hy Lạp đã kể trong các lễ hội, xì xào ở các đền đài và bàn tán trong các tiệc tùng của quý tộc. Vì ít người nào lại hay lý sự hơn các nhà thơ, các thầy tế và các quý tộc, các tài liệu thần thoại đầy dẫy các mâu thuẫn. Vả chăng, các mâu thuẫn này cũng mang một ý nghĩa hài hước.

Một vài nguồn tham khảo dùng trong việc nghiên cứu Thần thoại Hy Lạp bao gồm:

Thi ca của các thời kỳ Cổ Đại (bao gồm Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical)) — chủ yếu được sáng tác nhằm phục vụ cho các lễ hội tôn giáo hay các bữa tiệc quý tộc, cho nên là một phần của mythos theo nghĩa của Homer. Bao gồm: 

Các tác phẩm của Homer: Odyssey, Iliad và Sử thi Homer (Homeric hymns). 

Thần phả (Theogony) của Hesiod. 

Các tác phẩm kịch nghệ của Aeschylus, Sophocles, Euripides và Aristophanes. 

Các bài lễ ca của Pindarus và Bacchylides. 

Các tác phẩm của các sử gia như Herodotus và Diodorus Siculus, và các nhà địa lý học như Pausanias và Strabon, những người đã đi khắp thế giới Hy Lạp và ghi nhận các câu chuyện họ đã nghe được ở các thành phố khác nhau. 

Các tác phẩm của các nhà sưu tầm và ghi chép thần thoại, những người đã viết các chuyên luận bằng văn xuôi dựa vào các nghiên cứu học thuật mà cố gắng giải rối những chi tiết mâu thuẫn của các thi sĩ. Tác phẩm Bibliotheke của Apollodorus thành Athena là tác phẩm lớn nhất hiện có của thể loại này. 

Thi ca của các thời đại văn minh Hellen và Roman cổ, dù được sáng tác thiên về mục đích văn học hơn là tôn giáo, nhưng vẫn chứa đựng nhiều chi tiết quan trọng, bao gồm các tác phẩm của: 

Các thi sĩ thời Hellen như Apollonius của đảo Rhodes và Callimachus. 

Các thi sĩ thời Roman như Hyginus, Ovid, Statius, Valerius Flaccus và Virgil. 

Các thi sĩ Hy Lạp thời Hậu Cổ Đại như Nonnus và Quintus Smyrnaeus. 

Các tiểu thuyết cổ của Apuleius, Petronius, Lollianus và Heliodorus.

2. Tổng quan

Thần thoại Hy Lạp có phạm vi rất rộng lớn, bao gồm từ các tội ác khủng khiếp của các thần Titan và các cuộc chiến đẫm máu ở thành Troy và Thebes, đến các trò tinh nghịch trẻ con của Hermes và sự đau khổ đến động lòng của Demetra vì con gái Persephone. Không thể đếm nổi số lượng các nam thần (god), nữ thần (goddess), nam anh hùng (hero), nữ anh hùng (heroine), quái vật (monster), ma quỷ (demon), các nữ thần núi và sông (nymph), các nhân dương (satyr) và nhân mã (centaur) đã xuất hiện.

Thần thoại Hy Lạp có một bảng niên đại tuy không chính xác lắm. Các mâu thuẫn trong các tài liệu làm cho việc phân khúc thời gian của thần thoại Hy Lạp không được chính xác. Tuy nhiên, thần thoại Hy Lạp được phân tạm ra thành ba thời đại:

1. Thời đại của các vị thần, 

2. Thời đại thần và người sống hòa vào nhau một cách tự do, và 

3. Thời đại của các anh hùng, khi mà hoạt động của thần thánh bị hạn chế hơn. 

Trong khi các người nghiên cứu thường có hứng thú hơn về các huyền thoại thuộc về thời đại của các vị thần, các tác giả Hy Lạp trong các kỷ nguyên Tối Cổ (Archaic) và Thượng Cổ (Classical) rõ ràng lại tỏ ra ưa thích các huyền thoại thuộc về thời đại của các anh hùng, ví dụ như hai bản anh hùng ca Iliad và Odyssey, hơn hẳn các câu chuyện tập trung vào thần thánh như Thần phả và Sử thi Homer về cả quy mô lẫn tính đại chúng

3. Các giả thuyết về nguồn gốc:

Ngay từ cổ xưa, các tác giả như Herodotus đoán rằng người Hy Lạp đã vay mượn hàng loạt các vị thần từ người Ai Cập. Sau này, các tác giả Cơ Đốc đã cố gắng giải thích việc thờ nhiều thần của người Hy Lạp như là một sự thoái hóa của tôn giáo đến từ Kinh thánh. Tuy nhiên, vào các thế kỷ 19 và 20, các ngành khoa học khảo cổ và ngôn ngữ được dùng để giải thích nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp.

Một mặt, ngôn ngữ học lịch sử cho thấy một vài phần của thần hệ Hy Lạp đến từ xã hội Ấn-Âu cùng với cội nguồn của ngôn ngữ Hy Lạp. Vì thế, ví dụ, cái tên Zeus có cùng nguồn gốc với Jupiter trong tiếng Latinh, Dyaus trong tiếng Phạn và Tyr trong tiếng Đức, cũng như tên Ouranos với tên Varuna trong tiếng Phạn. Trong các trường hợp khác, các sự tương tự trong các nhân vật và chức năng của họ cũng chứng tỏ một cội nguồn chung, tuy nhiên, các chứng cứ ngôn ngữ học còn chưa đủ, nên khó có thể chứng thực được - như trong trường hợp Moirae của người Hy Lạp và Norns của thần thoại Bắc Âu.

Mặc khác, khảo cổ học lại cho thấy một sự vay mượn lớn của người Hy Lạp từ các nền văn minh Tiểu Á và Cận Đông. Kybele là một ví dụ rõ ràng của việc vay mượn từ văn hóa Anatolia, trong khi Aphrodite lại có nhiều đặc điểm hình tượng và danh hiệu từ nữ thần của văn hóa Semit như Ishtar và Astarte.

Các nghiên cứu văn bản đã hé lộ một vài tầng lớp trong các câu chuyện, ví dụ như những lời nói phụ dẫn Theseus vào trong câu chuyện Mười hai kỳ công của Heracles. Người ta cho rằng những câu chuyện có liên quan đến việc dùng tên người đặt cho một địa danh bắt nguồn từ các nỗ lực tiếp thu thần thoại của một tín ngưỡng này vào một tín ngưỡng khác để thống nhất các nền văn hóa.

Ngoài sự bắt nguồn từ Ấn-Âu và Cận Đông, một vài học giả còn cho rằng có sự liên quan giữa thần thoại Hy Lạp đối với các nhóm xã hội Hy Lạp trong thời kỳ trước thời văn minh Hellen mà cho đến nay người ta còn chưa hiểu rõ, ví dụ như những người Mino và những người được gọi là người Pelasgi. Điều này đặc biệt đúng trong trường hơp về các vị thần âm ty và thần mẫu. Lấy ví dụ, ba thế hệ thần chính trong Thần phả của Hesiod (Uranus, Gaia, v.v.; các Titan và rồi sau đó là các vị thần trên đỉnh Olympus) có thể là phản ánh về sự tranh đấu gữa các nhóm xã hội, với ba nền văn hóa đỉnh cao của nền văn minh Hy Lạp: Minoa, Mycenae và Hellen.

Sự giống nhau giữa câu chuyện của Hesiod và thần thoại của người Hurrian về Anu, Kumarbi và Teshub cho thấy rất có thể câu chuyện này là một sự phóng tác dựa trên các tài liệu vay mượn hơn là một sự bóp méo các dữ kiện lịch sử. Sự tương tự giữa các thế hệ thần sớm nhất (Chaos và các con) và Tiamat trong Enuma Elish là có khả năng (Joseph Fontenrose, Python: A Study of Delphic Myth and Its Origins: NY, Biblo-Tannen, 1974).

Các học giả thuộc trường phái phân tích tâm lý do Carl Jung sáng lập như Karl Kerenyi nghiêng về quan điểm nguồn gốc của các câu chuyện thần thoại (và sự mơ mộng) là từ các nguyên mẫu chung. Mặc dù không phải độc giả nào cũng đồng ý với sự diễn giải về thần thoại theo các thuật ngữ về sự mơ mộng/tưởng tượng của trường phái tâm lý học Carl Jung (ví dụ như theo Kerenyi hay Joseph Campbell), hầu hết mọi người đều đồng ý rằng thần thoại mang tính chất tưởng tượng trong hai mặt: chúng không hoàn toàn nhất quán với nhau, và có lẽ là không nhất quán ngay cả trong một chi tiết thần thoại riêng biệt, và chúng thường phản ánh một vài kinh nghiệm nhất thời về bản chất của thượng đế, một sự hiển linh nào đó, mà sau này phải được liên kết vào một sợi chỉ dẫn chuyện, giống như là sự tưởng tượng được tạo ra từ các sự kiện nối tiếp nhau.

Tóm lại, nguồn gốc của thần thoại Hy Lạp vẫn còn đang là một câu hỏi mở đầy lôi cuốn.

4. Người Hy Lạp có tin vào các vị thần của họ không?:

Đối với người Hy Lạp, thần thoại phản ánh một phần lịch sử của họ; một số người từng nghi ngờ về sự thật của câu chuyện Chiến tranh thành Troy trong tác phẩm Iliad và Odyssey. Người Hy Lạp đã sử dụng thần thoại để giải thích các hiện tượng tự nhiên, các sự khác biệt về văn hóa, các mối quan hệ thù địch và bằng hữu truyền thống. Sẽ là một niềm tự hào đối với họ nếu có thể truy ra tổ tiên của một người nào đó chính là một anh hùng hay vị thần huyền thọai.

Mặt khác, các triết gia như Xenophanes đã từng bắt đầu cho rằng các câu chuyện của các thi sĩ là các lời dối trá báng bổ vào thế kỷ thứ 6 TCN; dòng suy nghĩ này được biểu lộ chung chung trong các tác phẩm Nền Cộng hòa (Republic) và Luật pháp (Laws) của Platon. Thẳng thắn hơn, tác gia bi kịch Euripides trong thế kỷ thứ 5 TCN thường đùa nghịch với các phong tục truyền thống cũ, chế giễu chúng và thông qua tiếng nói của các nhân vật mà đưa ra sự nghi ngờ. Trong các trường hợp khác, Euripides có vẻ như hướng đến việc chỉ trích hành vi của các vị thần.

Các thi sĩ, đặc biệt trong thời kỳ Đế quốc La Mã về sau, thường phóng tác các câu chuyện về các nhân vật trong thần thoại Hy Lạp theo cái cách mà làm cho chúng không còn phản ánh các tín ngưỡng thật sự lúc ban đầu. Nhiều phiên bản thông dụng của các thần thoại Hy Lạp mà chúng ta có hôm nay thật ra lại có từ các câu chuyện kể hư cấu lại chứ không phải từ các câu chuyện thần thoại thật sự lúc ban đầu.

Qua tranh luận đôi khi chúng ta có thể rút ra một điều gì đó có ích cho mình, nhưng đôi khi tranh luận cũng làm chúng ta không rút ra được điều gì và thay vào đó là cảm giác muốn đánh nhau.

Việc tranh luận về các dòng nhạc đã kéo dài từ khi tôi bắt đầu biết nghe nhạc cho đến nay, và chưa hề có dấu hiệu sẽ chấm dứt trong tương lai xa. Trước đây, tôi đã từng chứng kiến một khoảng thời gian vấn đề này lắng dịu nhờ những bài viết phân biệt từng dòng một, rất hay và bổ ích. Nhưng sau những trận đại chiến vô tiền khoáng hậu của những hacker vốn chẳng mấy khi suy nghĩ khi bắt đầu sờ vào bàn phím, những bài viết ấy đã mãi mãi biến mất trên bản đồ Yahoo của tôi.

Nhờ một chút bộ nhớ còn lại về những viên ngọc quý ấy, tôi sẽ cố gắng viết một bài với mục đích giúp các bạn hiểu rõ hơn về những dòng nhạc vốn không bao giờ có ranh giới này. Nó không phải là định nghĩ về một dòng nhạc, mà chỉ là những đặc điểm chính về cách chơi nhạc của từng dòng, và càng ko thể giúp phân biệt được ban nào theo dòng nào, vì điều này vốn hoàn toàn cảm tính, và đôi khi là rất không rõ rệt.

Trước tiên cần nói qua một số định nghĩa mà nhiều cái đầu Metal bây giờ rất mù mờ:

Riff: Đây là nền tảng lớn nhất của Metal. Riff là một thuật ngữ, nói về những đoạn nhạc ngắn (đoản khúc) được chơi đi chơi lại (bằng nhiều nhạc cụ khác nhau). Trong Metal thì những câu riff bằng guitar là rất phổ biến. Hãy nhớ đến câu riff kinh điển của Sweet child of mine hay (I can’t get no) Satisfaction. Riff guitar có thể làm nền cho cả bài hát, có những bài thậm chí chỉ có 1 câu riff.

Solo: Thuật ngữ này thì quen thuộc hơn nhiều, vì người ta đều rất chú ý đến nó khi nghe nhạc.Có những đoạn solo bất tử mà chỉ khi mới vang lên, người ta đã có thể kể ngay tiểu sử của từng thành viên ban nhạc đó. Nghĩa gốc của nó là một đoạn nhạc chơi kiểu ngẫu hứng. Có thể nói rằng guitar solo là một nghệ thuật tuyệt đỉnh của âm nhạc.

Double pedal: Tôi không tìm được từ chuyên môn của món này, vì cũng đã quá quen mồm mà nói với nhau: “Bass đôi”. Một thuật ngữ nói về cách chơi trống với chân bass đôi, có thể tạo ra nhịp điệu dồn dập đến ngẹt thở khi được đẩy cao tempo. Khi nghe nhạc của Manowar chơi có thể thấy ngay thế nào là bass đôi.

Có lẽ tôi sẽ bắt đầu với Heavy Metal. Sẽ thật sự ngớ ngẩn nếu nói rằng đây là dòng nhạc đầu tiên được đặt tên Metal, trẻ con cũng biết. Được nhận ra bởi những cú riff guitar với tiếng distortion, trên nền trống mạnh bạo, Heavy Metal thời kỳ đầu thường có câu riff dài, do chịu ảnh hưởng của nhạc Blue. Band chơi Heavy Metal đầu tiên là Black Sabbath, vốn là cảm hứng bất tận cho New Wave Of British Heavy Metal (NWOBHM). Nằm trong bộ ba khủng long cùng Led Zeppelin, Deep Purple, nhưng Black Sabbath có vẻ ra chất Heavy Metal nhất, trong khi Led Zeppelin dù cũng có đóng góp nhiều nhưng hơi thiên về Blue Rock hơn là Heavy Metal, còn Deep Purple thì nặng về Hard Rock. Bộ ba album huyền thoại Led Zeppelin IV, Paranoid và Machine head chắc chắn không ai là không biết. Dù tồn tại thật ngắn ngủi nhưng NWOBHM đã đặt dấu ấn quan trọng, và đến giờ Iron Maiden vẫn đang theo đuổi Heavy Metal thuần chất.

Có lẽ khá gần gũi và quen thuộc. Khi nhắc tới những cái tên Metallica, Megadeth, Slayer, Anthrax, các bạn sẽ hình dung ra điều gì? Những người tự cho rằng mình hiểu biết cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn với câu hỏi này. Đâu là điểm chung cho Big Four of Thrash này? Và âm nhạc như thế nào thì được gọi Thrash Metal? Nó khác gì với cái người ta gọi là Heavy Metal?

Từ nền móng của Heavy Metal mà các band chơi Thrash xây dựng cho mình cách chơi riêng, với đặc điểm nổi bật nhất là phần guitar rhythm. Các tay guitar accord của dòng nhạc này đều chơi giằng giật với những câu riff rất rõ ràng, nền guitar chơi rất dày, với tiếng vè vè đặc trưng, cả khi có lẫn ko có vocal. Có rất nhiều bài, các band dùng nền guitar này làm intro (chỉ có guitar, ko trống, ko hát). Cách đánh guitar này khiến cho Thrash trở thành loại nhạc nặng nhất sau khi nó ra đời. Ở đây cần lưu ý là nặng, cả ở cách đánh, lẫn ở cách căn tiếng đàn. Bên cạnh đó là phần trống cũng thường được chơi dữ hơn hẳn so với các band Heavy Metal cuối những năm 70, với việc sử dụng chân bass đôi phổ biến. Đây chính là dòng nhạc đầu tiên thoát khỏi những âm thanh Heavy truyền thống, cũng có thể coi đó là một cuộc cách mạng (hãy tưởng tượng xem nhạc rock sẽ thế nào nếu người ta cứ chơi Heavy Metal mãi).

Power Metal đáng lẽ ra phải là dòng nhạc dễ nhận ra nhất, điển hình nhất, thì đến nay người ta có thể dễ dàng nhầm nó với Doom hay Gothic, hay thậm chí cả Progressive . Thật rõ ràng, Power có một số đặc trưng rất dễ nhận ra, đó là thường có tiết tấu cực nhanh. Trống chơi 2 chân bass ở tempo cao nên cảm giác chung là nhạc Power rất dồn dập. Nhạc Power thường có nền hợp âm rất đẹp, lời lẽ hoa mỹ nên dễ nghe, dễ thích. Những đoạn solo thường có một số kiểu: guitar bè đôi, hoặc guitar 1 solo rồi đến guitar 2, rồi lại guitar 1, guitar 2 (điển hình Helloween, chịu ảnh hưởng lớn từ Judas Priest); hoặc keyboard solo cùng guitar (kiểu Stratovarius). Các giọng hát dòng Power thường rất cao, thường là giọng soprano (cả nam lẫn nữ, nếu có). Nội dung của nhạc Power thì đa số liên quan đến epic, legend, … vì thế việc bắt gặp Dragon, Sword, Warrior,…  không mấy xa lạ. Dù được chơi rất nhanh nhưng do nét nhạc trong, thanh cao, ít dữ dội và giận dữ nên không hề nặng như Thrash. Một điều đáng nói ở Power là càng ngày, những câu riff càng hiếm. Các band chơi nhạc đôi khi chỉ bám theo 1 nền hòa âm duy nhất và làm nền cho giọng hát. Tất cả tinh hoa nghệ thuật họ dồn hết vào phần giai điệu và những đoạn solo. Riff – vốn là đặc trưng của Metal – đã ko được coi trọng đúng mức nên chúng ta rất dễ nhầm lẫn giữa các band chơi Power.

Có rất nhiều ban nhạc luôn lấy tempo 200 làm chuẩn (tempo = 200 có thể hiểu nôm na là 200 nhịp đập 1 phút). Để dễ hình dung tôi có thể ví dụ The Final Countdown mà Unlimited cover lại, tempo khoảng 130 – 140.

Progressive vốn vẫn được ca ngợi và tâng bốc như là dòng nhạc bác học nhất của Metal. Sự thật thì thế nào gọi là Progressive? Tôi đã từng đọc được những bài viết nói rằng Rhapsody yêu quý của mình chơi Progressive??? Và họ đưa ngay ra bằng chứng ở đĩa Power of the Dragonflame (2002). Thật khó có thể cãi nhau với họ, vì họ có cái đúng của riêng họ, nhưng rõ ràng cái chất Pro trong đĩa này chỉ phảng phất đâu đây nhờ chút ít những đoạn trống đập ngược nhịp và guitar đánh hơi trái tai một chút. Tất cả chỉ có vậy. Nhưng kết luận cuối cùng là đã có chất Pro. Và tôi cũng đành công nhận điều này.

Progressive, điều dễ nhận ra nhất của nó, chính là time signature (TS). Thuật ngữ này tuy quen thuộc nếu tôi ví dụ: 2/4, 4/4, 6/8, … nhưng thực sự rất khó dịch ra tiếng Việt (không thể gọi là nhịp đc, vì nếu vậy thì beat, rhythm dịch ra sao, tiết tấu thì càng không). Dù sao thì chúng ta vẫn quen gọi nó là nhịp  2/4, 3/4… Một thói quen xấu.

Sự thay đổi liên tục TS trong suốt bài hát là yếu tố chính tạo nên âm nhạc Progressive (nếu đi sâu vào hơn nữa thì đó là sự thay đổi trong từng khuông nhạc). Một câu nhạc Pro có thể bắt đầu bằng 4/4, chơi cả 4 khuông 3/4, rồi kết bằng một khuông 7/8. Rồi từ đó bắt đầu nảy sinh ra đủ thứ lạ lùng trên đời: 5/6, 9/10, 11/16, 15/32, 17/64, thậm chí 98/99,…. Tưởng tượng ra cũng không dễ dàng gì đối với một người nghe nhạc phổ thông. 

Chính vì điều này mà nhạc Pro thường khó nghe; và chơi nó thì còn khó hơn nhiều lần, vì các nhạc công nếu trình độ không thuộc hàng khiếp đảm thì ko thể nào theo được sự thay đổi liên tục trong nhịp điệu và tiết tấu như thế, và còn ở tốc độ cao. Và sau đó còn là sự phối hợp giữa 5, 6 người. Chỉ nói ra đã thấy kinh khủng!

Nhạc Pro cũng vì thế mà rất tự do, kết cấu một bài nhạc thường vượt ra ngoài khuôn khổ của nhạc truyền thống; các khái niệm chorus, brigde, intro, outtro trở nên tương đối, thời lượng của bản nhạc cũng vậy. Chẳng khó khăn gì khi bắt gặp một bài hát 00:12, và ngay sau đó là một bản nhạc 18:56, ….. Và ca sĩ trở nên không cần thiết hơn bao giờ hết. Không thể phủ nhận những ca sĩ của dòng nhạc Pro cũng có đẳng cấp cao và giọng hát của họ đôi khi cũng hay chẳng kém gì Freddie Mercury, nhưng rõ ràng là việc họ có tồn tại trong ban nhạc hay không, không còn có ý nghĩ quyết định. Bản thân Dream Theater trước đây cũng đã từng có thời được định hướng thành một band chuyên chơi Instrumental.

Về nội dung của nhạc Pro thì có lẽ tôi sẽ không trình bày vì nó quá đa dạng, và không có một tư tưởng chung nào. Đa số các band Progressive đều cố gắng xây dựng cho mình một nội dung thật khó hiểu, thật sâu xa, và đòi hỏi người nghe phải ngồi phân tích rất kỹ, về tất cả mọi mặt của cuộc sống. Dòng nhạc này luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn rất lớn để có thể hiểu một cách tường tận.

Ở đây tôi xin nói đến một vấn đề mà mọi người đôi khi rất hay lẫn lộn. Đặc biệt là trong một bài viết sưu tầm từ rockvn.com. Đó là khái niệm nhạc Progressive và khái niệm Concept album. Trong bài viết đó, tác giả đã vứt tất cả Concept album mà anh ta tìm được vào dòng nhạc Progressive. Đúng là các album Progressive thường được viết theo dạng concept, nhưng điều đó không có nghĩa tất cả concept album đều thuộc thể loại Progressive. Để có hình dung rõ rệt nhất về Progressive thì cái tên được nhắc đến nhiều nhất là Dream Theater. Một số band nên nghe thử: Symphony X, Evergrey, Pain of Salvation, Threshold.....

Gothic Metal (Goth), dòng cùng được manh nha từ cuối những năm 70, bởi những người có tư tưởng trái ngược với Punker. Trong khi Punk thường thể hiện sự nổi loạn và đập phá lộ liễu, thì Gothic đi ngược lại, thường thể hiện theo kiểu hướng nội. Đặc điểm của Gothic là luôn luôn xuất hiện synthesizers, hoặc ít nhất là tiếng effect guitar giả lập. Và đến những năm đầu 90 thì sự xuất hiện violon trong Goth không còn xa lạ, và dần chiếm phần chủ đạo. Guitar solo trong Gothic ít dần, và thay vào đó là làm nền cho violon solo.

Quả thực tôi cũng không biết phải diễn đạt về nhạc Gothic như thế nào vì đặc trưng lớn nhất của nó chỉ là nhạc cụ điện tử và violon. Việc kết hợp delay, chorus, reverb, flange có thể tạo ra một thứ âm thanh hỗn hợp mà chúng ta có thể bắt gặp trong Goth.

Giọng hát của Gothic thì phổ biến là giọng nữ cao.

Doom Metal cũng là một dòng nhạc được hình thành với tư tưởng ngược với death, black. Trong khi các nhạc công chơi death cố chơi càng nhanh càng tốt, thì Doom chơi có vẻ như càng chậm càng hay. Doom vẫn mang trong mình những cú riff nặng trịch của Metal, nhưng nền synth cũng tồn tại song song, và thỉnh thoảng chêm vào những đoạn nhạc buồn thê lương. 

Đến nay thì Doom càng ngày càng giống với Gothic với việc sử dụng violon và 2 giọng nam trầm và nữ cao. Chẳng có gì là lạ khi Paradise Lost được biết đến như một band nhạc đặt nền móng cho một subgerne gọi là Doom/Death, nhưng lại có ảnh hưởng nhất định đến Gothic.

Một cách để phân biệt giữa Gothic và Doom: Khi nghe Gothic, bạn sẽ có cảm giác lạc vào một vùng đất cảnh vật mơ hồ, phía trước toàn sương mù mờ ảo, lâng lâng giữa không trung, còn Doom tạo cho bạn cảm giác của vùng đất đầy tang tóc, chết chóc, dù không hề có dấu hiệu của máu hay đầu lâu.

Những khái niệm như Symphonic, Classical, Industrial, …. Không hề có ý nghĩa xác định 1 dòng nhạc như nhiều người vẫn nghĩ. Đây chỉ là những tiền tố bổ sung thêm đặc điểm cho dòng nhạc. Chẳng hạn khi nói Symphonic Metal, người ta chỉ có thể hiểu là band này chơi có thêm yếu tố giao hưởng, chứ ko thể biết được band này chơi nhanh hay chậm, chơi Death hay chơi Nu.

Death, Black Metal thì khỏi cần phân biệt vì trong lối chơi nhạc của hai dòng này hòan toàn không có sự phân định rõ ràng. Nếu thử ngồi phân tích kỹ một đoạn nhạc của hai dòng này, hẳn sẽ khó xác định đâu là Death, đâu là Black. Thông thường các band Death vặn dây đàn xuống nửa cung hoặc một cung, tăng thêm độ trầm cho bản nhạc, các câu riff thường ngắn ngủn và đầy bạo lực, tiếng phơ thường nặng trịch, đặc biệt những band Semi-Brutal hoặc Brutal, còn giọng growl thì khàn đặc, âm thanh chủ yếu được phát ra từ hơi trong bụng, hoặc vùng dưới sâu cổ họng. Chắc chắn trong Death Metal, keyboard không được sử dụng, ngoại trừ dòng Death theo xu hướng Melodic. Tốc độ của các band chơi Brutal thì khủng khiếp, với những bản nhạc có tempo 210, 220, …. Và chân bass đôi dồn dập, và mặt trống cũng căn với tiếng thật đục và chết chóc. Tư tưởng của Death Metal rất đa dạng trong thể hiện, văn hóa, xã hội, …. Nhưng cùng chung một cách giải quyết là bạo lực, Death có tác dụng kích động lớn.

Trong khi đó Black Metal không có tư tưởng đẩy âm nhạc tới cực điểm. Nhạc Black chỉ có tác dụng tạo cho người nghe một sự ma quái nhất định. Các câu riff thường không quá dữ dội, và tốc độ cũng không quá cao, tất nhiên là không phải tất cả. Việc sử dụng keyboard trong Black cũng khá phổ biến trong Symphony Black. Và tư tưởng chủ yếu chỉ là phản Chúa, thờ Satan (vốn chỉ liên quan đến vấn đề tôn giáo). Sau này Black có những bước đi khác, và mở rộng tư tưởng về vấn đề lịch sử, có ảnh hưởng tới một dòng nhạc xuất hiện vào giữa những năm 90 là Folk Metal.

Việc phân chia dòng nhạc hiện nay đã mất đi rất nhiều ý nghĩa, khi mà đến cuối những năm 90 thế kỷ trước, các dòng nhạc đã bị pha trộn quá nhiều. Tất nhiên những band chơi thuần chất vẫn có, nhưng sự xuất hiện ồ ạt xu hướng kết hợp giữa các dòng nhạc là một tất yếu khách quan. Bạn sẽ phân chia thế nào khi một ban nhạc chơi nhạc ở tốc độ cao, guitar và keyboard solo song song với nhau, nhưng giọng hát trầm đục, cùng với sự biến đổi liên tục trong tiết tấu, và cùng với đó nền guitar accord giằng giật đúng kiểu Megadeth? Không lẽ đây là Progressive Thrash Power Melodic Death Metal??? Và nếu có sự xuất hiện thêm yếu tố của dàn nhạc giao hưởng nữa thì liệu có nên thêm tiền tố Symphonic vào chăng? Và sẽ thế nào nếu những bản nhạc của họ lấy hình ảnh của Viking Metal??? Hoặc khai thác nội dung của Gothic? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt và tống band này vào Progressive Metal và bụng bảo dạ, xướng lên với thiên hạ lý do rằng Progressive rất rộng lớn? Xin mạn phép nói thêm, trong guitar của những band power đôi khi có thể hiện rõ những nốt nhạc kiểu Blue, Jazz.

Nếu như bản thân mình không hiểu thật tường tận đặc điểm của từng dòng nhạc, thậm chí từng ban nhạc, hay từng album,… thì lập tức người nghe sẽ choáng ngợp trước một rừng các thể loại nhạc, và nếu không có bản lĩnh, tham lam muốn tìm hiểu tất cả chỉ trong một sớm một chiều thì kết quả là họ rất am tường về vấn đề dòng nhạc nhưng tuyệt nhiên không thấy được cái hay của nó. Âm nhạc là một nghệ thuật chứ không phải một sở thích. 

Cách đây đã lâu, khi đĩa Tàu đổ bộ vào nước ta, 135 Hàng Bông cháy đĩa liên tục, người ta đã đổ xô đi nghe Power vì nét nhạc oai hùng và đẹp đẽ, để không lâu sau đó vứt nó vào góc tường quay ra nghe Gothic vì tính nhân văn sâu sắc, cũng không bao lâu sau người ta lại đâm đầu vào Progressive vì đó là một dòng nhạc bác học, xứng đáng với trình của họ, để rồi cũng chỉ một thời gian sau họ chúi mũi vào Death Metal vì đây mới thực sự là đỉnh cao của nghệ thuật. Để đến bây giờ, các band nhạc chơi Death ở Việt Nam mọc lên như nấm. Không nói là xu hướng này tốt hay xấu, nhưng rõ ràng con đường để họ đến với vinh quang vẫn chông gai như những bậc tiền bối đã trải qua. Sau hơn 15 năm phát triển mà vẫn không mấy khả quan, liệu phải trả lời câu hỏi này như thế nào?!?

Bài này sẽ còn tiếp tục được edit theo quá trình nghiên cứu của tác giả.

« Sửa Lần Cuối: Tháng Chín 29, 2007, 23:14:40 bởi NightMareX »

 Đăng nhập

When a man lies, he murders some part of the world 

These are the pale deaths which men miscall their lives 

All this I cannot bear to witness any longer 

Cannot the kingdom of salvation take me home

Thời đại của các vị thần

Như các láng giềng lân cận, người Hy Lạp tin vào một đền thờ đa thần (pantheon), một tập hợp các vị nam thần và nữ thần được liên kết đến các khía cạnh cụ thể của cuộc sống. Ví dụ như Aphrodite là nữ thần của tình yêu, còn Ares là thần của chiến tranh, và Hades là thần của cõi u minh. Một vài vị thần như Apollo và Dionysus có những nhân cách khá phức tạp và đảm trách nhiều nhiệm vụ khác nhau trong khi các thần khác như nữ thần Hestia (có nghĩa là "gia đình" hay "tổ ấm") và thần Helios (có nghĩa là "mặt trời") chỉ được nhân cách hóa một tí. Cũng có các vị thần gắn với một địa điểm cụ thể như các thần sông và các nữ thần (nymph) của các con suối và hang động, và các lăng mộ được sùng kính của các anh hùng.

Mặc dù có hàng trăm các nhân vật có thể được xem như các "thần" hay các "anh hùng" theo nghĩa này hay nghĩa kia, một vài nhân vật chỉ được nhắc đến trong các truyện dân gian hay được tôn sùng ở một địa phương cụ thể nào đó (như Trophonius) hay tại các lễ hội cụ thể nào đó (như Adonis). Các địa điểm chính của các nghi thức, các đền thờ lớn, được dành phần lớn cho một nhóm nhỏ các thần, chủ yếu là cho Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus, Heracles và Asclepius và ở một vài nơi có thờ cả Helios. Các vị này là các trung tâm của các tín ngưỡng có tầm ảnh hưởng rộng thời văn minh Hellen. Nhiều vùng và các ngôi làng có các tín ngưỡng riêng, thờ cúng các nymph, các thần linh, anh hùng thiểu số khác mà các nơi khác không hề biết đến. Hầu hết các thành phố cũng thờ cúng các vị thần chính với các nghi thức địa phương kỳ dị và có các truyền thuyết địa phương đặc biệt về các vị thần này.

Các vị thần đầu tiên:

Một loại truyện kể đầu tiên về thời đại các vị thần kể về sự ra đời và mâu thuẫn của các vị thần đầu tiên: Chaos, Nyx, Eros, Uranus, Gaia, các Titan và sự chiến thắng của thần Zeus và các vị thần Olympus. Thần phả (Theogony) của Hesiod là một ví dụ của loại này. Đây cũng là đề tài của nhiều bài thơ ca bị thất lạc như các bài được quy cho là của Orpheus, Musaeus, Epimenides, Abaris và các nhà tiên tri huyền thoại khác, được dùng trong các lễ tẩy uế riêng và các nghi thức huyền bí riêng. Một vài phần của các tác phẩm này tồn tại trong các trích dẫn của các triết gia trường phái Tân Plato và các phế vật bằng giấy cói (papyrus) được khai quật gần đây.

Những người Hy Lạp đầu tiên nghĩ về thơ ca xem Thần phả, hay bài ca về sự ra đời của các vị thần, như là thể loại thơ ca đầu tiên - mythos đầu tiên - và gán hầu hết các năng lực phép màu cho nó. Orpheus, thi sĩ nguyên mẫu, cũng là ca sĩ nguyên mẫu của các bài ca thần phả, đã sử dụng chúng để làm cho biển cả và các cơn bão lặng dần đi, và làm rung động con tim sắt đá của các vị thần của âm ty trong chuyến đi xuống cõi Hades (tên vị thần của cõi u minh, đồng thời cũng là danh từ để chỉ vùng quản hạt của vị thần này). Khi thần Hermes phát minh ra đàn lia (lyre) trong Vần thơ của Homer về Hermes (Homeric Hymn to Hermes), việc đầu tiên mà ông ta làm là hát bài ca về sự ra đời của các vị thần. Thần phả của Hesiod không chỉ là bản miêu tả về các vị thần đầy đủ nhất còn tồn tại mà còn là một bản miêu tả đầy đủ nhất về chức năng của các thi sĩ thời Tối Cổ còn tồn tại với các lời dẫn nhập dài cầu khẩn nàng thơ Muse (để mở đầu một bài anh hùng ca).

Các vị thần trẻ:

Một loại nữa kể câu chuyện về sự ra đời, các cuộc chiến đấu, các kỳ công và cuối cùng là việc trèo lên đỉnh Olympus của một trong thế hệ các vị thần trẻ như: Apollo, Hermes, Athena, v.v. Sử thi Homer là nguồn cổ nhất của thể loại này. Chúng thường gắn chặt với các trung tâm tín ngưỡng của vị thần được đề cập. Vần thơ của Homer về thần Apollo là một sự kết hợp của hai chuyện: một kể về sự ra đời của Apollo ở Delos, chuyện còn lại kể về sự thành lập đền tiên tri của Apollo ở Delphi. Tương tự như vậy, Vần thơ của Homer về Demetra, với câu chuyện Hades bắt cóc Persephone, kể về câu chuyện đằng sau các nghi thức tế lễ huyền bí của người Eleusis (Eleusinian Mysteries).

 Đăng nhập

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng ...!

Để làm gì ... ?  Em biết không ...?

Để gió cuốn đi ...!

                               Cuốn đi ...!

Thời đại của các vị thần và loài người

Bắc cầu cho thời đại các vị thần sống một mình và thời đại mà sự can thiệp của thần thánh vào cuộc sống của loài người bị hạn chế là thời đại chuyển tiếp khi thần và người cùng sống tự do với nhau.

Thể loại truyện kể thông dụng nhất về sự gặp gỡ của các vị thần và những con người đầu tiên có liên quan đến việc các nam thần (thường là Zeus) quyến rũ hay cưỡng bức một phụ nữ, rồi tạo ra những người con anh hùng. Trong một vài trường hợp, một nữ thần lại kết hợp với một người đàn ông, như trong Vần thơ của Homer về Aphrodite, trong đó nữ thần này kết hợp với Ankhises và sinh ra Aeneas. Cuộc hôn nhân của Peleus và nữ thần Thetis, sau đó sinh ra Achilles, là một ví dụ khác.

Một thể loại nữa có liên quan đến sự chiếm đoạt hay phát minh ra vật dụng văn hóa quan trọng nào đó, như khi Prometheus ăn trộm lửa từ các vị thần, khi Tantalus lấy trộm rượu và thức ăn trên bàn của Zeus đem về bàn tiệc của mình - tiết lộ cho họ về các bí mật của các vị thần, khi Prometheus hay Lycaon phát minh ra tế lễ, khi Demetra dạy nông nghiệp và các các nghi thức tế lễ bí mật cho Triptolemus, hay khi Marsyas phát minh ra aulos (một nhạc cụ giống như sáo) và thi đấu âm nhạc với thần Apollo.

Và một thể loại nữa dành riêng cho thần Dionysus: vị thần đến từ những vùng đất ngoại bang, lang thang khắp Hy Lạp để truyền bá tín ngưỡng của mình. Vua Lycurgus hay Pentheus, gây khó khăn và chống đối lại thần, cuối cùng bị thần trừng phạt tàn nhẫn.

Thời đại các anh hùng

Thời đại các anh hùng có thể được phân chia ra quanh các sự kiện vĩ đại của cuộc hải trình của nhóm thủy thủ tàu Argo (một nhóm các anh hùng cùng với người hùng Jason của thần thoại Hy Lạp) và Chiến tranh thành Troy. Cuộc chiến thành Troy tạm đánh dấu sự kết thúc của thời đại các anh hùng.

Những anh hùng đầu tiên:

Trong các anh hùng, Heracles hầu như nổi trội hơn hẳn. Các kỳ công mà người anh hùng này đơn độc lập được, với các chủ đề như trong truyện dân gian, đã trở thành tài liệu cho các huyền thoại được nhiều người biết đến. Khả năng ăn uống kinh khủng cộng với tính cách chất phác, mộc mạc cũng làm cho Heracles trở thành một hình tượng quen thuộc trong hài kịch; trong khi kết cục đáng thương lại trở thành tài liệu cho bi kịch.

Các nhân vật khác trong thế hệ đầu tiên của các anh hùng, như Perseus, Theseus và Bellerophontes, có nhiều đặc điểm giống với Heracles. Các chiến công của họ cũng lạ thường, cũng do họ đơn độc tạo ra và gần như là truyện thần tiên, như khi họ tiêu diệt các quái vật như Medusa và Chimera. Thế hệ này không được ưa chuộng trong việc trở thành đề tài cho các các thi sĩ về sau. Người ta biết đến họ chủ yếu là thông qua các nhà ghi chép huyền thoại và các lời nhận xét thoáng qua trong các tác phẩm văn xuôi. Tuy nhiên họ lại là các đề tài ưa thích của thể loại nghệ thuật thị giác.

Hậu duệ của nhóm thủy thủ tàu Argo:

Hầu như mọi thành viên của thế hệ anh hùng kế tiếp, cũng như Heracles, đều đi với Jason trong hành trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng. Thế hệ này cũng bao gồm cả Theseus, người đi đến Crete để tiêu diệt Minotaur; nữ anh hùng Atalanta; và Meleager, người đã từng có một thiên anh hùng ca của riêng mình có thể cạnh tranh với Iliad và Odyssey.

Tội ác hoàng gia:

Trong giai đoạn giữa cuộc hải trình trên tàu Argo và Chiến tranh thành Troy, có một thế hệ nữa được biết đến chủ yếu về các tội ác kinh khủng. Các tội ác này bao gồm các hành vi của Atreus và Thyestes ở thành Argos; và của Laius và Oedipus ở Thebes, cuối cùng dẫn đến sự cướp phá thành phố này dưới tay của Bảy người chống lại thành Thebes và Epigoni. Vì những lý do hiển nhiên mà thế hệ này cực kỳ được ưa thích bởi các tác giả bi kịch của thành Athena.

Troy và hậu quả:

Cuộc chiến thành Troy là điểm chuyển tiếp giữa thời đại các anh hùng và thời đại mà người Hy Lạp coi như là thời kỳ lịch sử (có thật chứ không phải hư cấu). Sự mở đầu và kết thúc của nó hơn hẳn các sự kiện khác trong thời đại các anh hùng về số lượng các nguồn tài liệu hiện có. Cuộc chiến thành Troy bao gồm:

Các sự kiện dẫn đến cuộc chiến: Sự phán xét của Paris về sắc đẹp của ba vị nữ thần, việc bắt cóc Helen, sự hiến thân của Iphigenia ở Aulis. 

Các sự kiện của Iliad, bao gồm cuộc tranh cãi giữa Achilles và Agamemnon và cái chết của Patroclus và Hector. 

Mưu kế con ngựa thành Troy và sự phá hủy thành Troy. 

Chuyến đi về nhà của các anh hùng từ thành Troy, bao gồm cuộc lang thang của Odysseus và án mạng giết Agamemnon. 

Con cái của thế hệ các anh hùng thành Troy: ví dụ như Orestes và Telemachus.

 Đăng nhập

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng ...!

Để làm gì ... ?  Em biết không ...?

Để gió cuốn đi ...!

Phần II: Các vị thần trong Thần Thoại Hy Lạp

1. Các vị thần nguyên thủy và các Titan: 

Các vị thần nguyên thủy:

Người Hy Lạp cổ đại có rất nhiều thuyết khác nhau về các vị thần nguyên thủy trong thần thoại của mình. Nhiều thần hệ đã được các nhà thơ của Hy Lạp tạo ra và mỗi người lại có các giải thích khác nhau về việc vị thần nào là vị thần đầu tiên.

- Theo Homer, Oceanus (Οκεανος) và Tethys (Τηθυς ) chính là cha mẹ của tất cả các vị thần. 

- Theo Hesiod, Chaos (χάος) là vị thần đầu tiên và sau đó lần lượt theo thứ tự là Gaia (Γαία), Tartarus (Ταρταρος), Eros (Έρος), Erebus (Έρεβος), Pontus (Πόντος), Ourea (Ουρεα), Chronos (Χρόνος), Nyx (Νύξ) và Aether (Αιθηρ). 

- Theo thơ của Orpheus thì Nyx là vị thần đầu tiên. Nyx cũng đồng thời là vị thần đầu tiên trong tác phẩm Những con chim của Aristophanes, là người đã sinh ra Eros từ một quả trứng. 

- Alcman thì lại cho rằng nữ thần biển Thetis (Θέτις) là vị nữ thần đầu tiên đã sinh ra poros "đường đi", tekmor "dấu" và skotos "bóng tối" từ khoảng không. 

Các nhà tư tưởng và triết gia Hy Lạp cũng xây dựng những thuyết riêng về nguồn gốc vũ trụ với những vị thần nguyên thủy riêng:

- Pherecydes của Syros cho Chronos ("thời gian") là vị thần đầu tiên trong tác phẩm Heptamychia của mình. 

- Aphrodite (Αφροδίτη) và Ares (Ἀρης) là những vị thần đầu tiên theo Empedocles, đã tạo nên vạn vật bằng bốn nguyên tố bằng quyền năng của họ về tình yêu và xung đột, bất hoà. 

- Trong tác phẩm Timaeus của Platon, đấng sáng tạo đã xây dựng vạn vật theo mẫu mực lý tưởng. 

Các Titan:

Trong thần thoại Hy Lạp, những thần khổng lồ Titan (tiếng Hy Lạp: Τιτάν, số nhiều Τιτάνες) là một nhóm các vị thần đầy sức mạnh đã thống trị suốt Golden Age huyền thoại. Các thần khổng lồ Titans khởi thủy bao gồm 12 người gắn liền với rất nhiều khái niệm như đại dương, trí nhớ, tầm nhìn và quy luật tự nhiên; sau đó, họ lại sinh ra các thần Titans khác, như là Prometheus (Προμηθεύς) và Atlas (Ἄτλας). Họ được dẫn dắt bởi vị thần trẻ nhất trong các vị thần thuộc thế hệ đầu tiên, Cronus (Κρόνος), người đã lật đổ cha mình là Uranus (Ουρανος, hay "bầu trời"), với sự hỗ trợ của mẹ là Gaia (Γαία, hay "quả đất"). Các thần khổng lồ Titan cuối cùng lại bị các vị thần trên đỉnh Olympus, dẫn đầu là Zeus, soán ngôi trong Titanomachy ("Cuộc chiến với các thần khổng lồ Titan"), và rất nhiều người trong số họ đã bị cầm tù tại Tartarus (Ταρταρος), tận cùng của địa ngục.

Titan trong Thần Phả của Hesiod:

Trong Thần phả của Hesiod mười hai thần khổng lồ Titan sau Hecatonchires (Έκατόνχειρες, hay "Trăm tay") và Cyclopes (Κύκλωφ, hay "Mắt tròn") là con của Uranus và Gaia:

"Sau đó, bà ăn nằm cùng Bầu trời và sinh ra Oceanus với sóng cuộn từ đáy sâu, Coeus, Crius, Hyperion, Iapetus, Theia, Rhea, Themis , Mnemosyne, Phoebe với đầu đội vương miện vàng và Tethys đáng yêu. Cuối cùng, bà hạ sinh Cronus quỷ quyệt, người trẻ nhất và kinh khủng nhất trong các anh em Titan, và hắn ta căm ghét cha hắn." 

Uranus thấy Cronos gớm ghiếc và quái dị đã đem giam hắn trong lòng đất. Cronus, được sự giúp đỡ của Hecatonchires và Cyclopes, sau này đã đánh bại cha mình, thiến ông ta và tự lên làm vua, lấy Rhea làm vợ và phong làm hoàng hậu.

Rhea lại sinh ra một thế hệ các vị thần mới cho Cronus, nhưng vì lo sợ rằng cuối cùng những đứa con này sẽ lật đổ mình, Cronus đã nuốt hết từng người một. Chỉ có Zeus là sống sót vì Rhea đã đưa cho Cronus một hòn đá quấn trong tã thay vì Zeus và đặt Zeus ở Crete trong sự bảo vệ của các Kouretes.

Khi Zeus đến tuổi trưởng thành, Zeus đã đánh bại Cronus. Sử dụng một loại độc dược được pha chế bởi Gaia, bà ngoại mình, Zeus đã buộc Cronus phải nôn ra trở lại các anh chị. Một cuộc chiến giữa vị thần trẻ và các vị thần Titan nổ ra. Zeus được sự giúp đỡ của Hecatonchires, Gigantes và Cyclopes, những người mà thêm một lần nữa đã thoát ra khỏi Tartarus. Zeus chiến thắng sau một cuộc chiến dài và nhốt nhiều vị thần khổng lồ Titans trở lại Tartarus.

Kể từ đó, các vị thần cũ không còn lưu lại dấu vết của họ trên thế giới. Vài người trong họ như Mnemosyne, Gaia, Rhea, Hyperion, Themis và Metis đã không chống lại đỉnh Olympus và trở thành những người đóng vai trò then chốt trong một hệ thống thống trị mới. Các vị thần khổng lồ Titan cũng để lại một số hậu duệ và một số trong họ cũng có thể được xem như là các thần khổng lồ Titan mà đáng chú ý nhất là các con trai của Prometheus, Epimetheus, Atlas và Menoetius.

Nhiều nguồn dữ liệu cổ đại khác cũng theo rất sát Hesiod chỉ với một khác biệt nhỏ: Apollodorus thêm Dione là thần Titan thứ mười ba.

Titan trong Titanomachy:

Người Hy Lạp cổ đại có rất nhiều các bài thơ nói về cuộc chiến giữa các vị thần và các Titan, thường được biết với tên Titanomachy ("Cuộc chiến chống các thần khổng lồ Titan"). Nổi trội hơn cả và tồn tại đến tận ngày nay là Theogony của Hesiod. Một thiên sử thi đã mất tên Titanomachy, được cho là tác phẩm của nhà thơ mù của Thracia Thamyris, người mà bản thân ông cũng là một nhân vật huyền thoại, đã được đề cập thoáng qua trong bài luận On Music vốn được cho rằng là của Plutarch. Và các vị thần khổng lồ Titan cũng đóng vai trò nổi bật trong những bài thơ của Orpheus. Dù chỉ còn những đoạn nhỏ, ngắn của tác phẩm Orphic còn tồn tại, chúng vẫn cho thấy những khác biệt thú vị so với Hesiod.

Những tác phẩm này của Hy Lạp rơi vào một nhóm các thần thoại quen thuộc khắp châu Âu và Cận Đông, theo đó, một thế hệ hay một nhóm các vị thần bị chống đối bởi một vị thần nổi trội khác. Đôi khi, các vị thần thuộc thế hệ trước thất bại và bị thay thế. Đôi khi, cuộc nổi dậy thất bại và người nổi dậy hoặc là bị mất hết quyền năng hoặc là được gia nhập vào pantheon. Các ví dụ khác gồm có những cuộc chiến của Æsir với Vanir và các Jotun trong thần thoại Scandinavia, sử thi Enuma Elish của người Babylon, tác phẩm "Vương quyền trên trời cao" của người Hittite, và các mâu thuẫn đa thế hệ trong các mẩ truyện về vùng Ugarit.

Titan trong các nguồn dữ liệu khác của Hy Lạp:

Tuy vậy, tác phẩm của Hesiod không phải là tác phẩm cuối cùng nói về các thần khổng lổ Titan. Những tác phẩm dở dang còn lại của Orpheus chứa đựng một số khác biệt.

Trong một đoạn của Orpheus, Zeus đã không chỉ đơn giản có thể đánh bại cha mình bằng vũ lực. Thay vào đó, Rhea đã chuẩn bị một buổi tiệc thịnh soạn cho Cronus và vì thế mà hắn ta đã bị say mật ong. Zeus trói hắn lại và thiến hắn. Thay vì bị giam xuống Tartarus, Cronus vẫn còn say mèm trong hang của Nyx, nơi hắn ta tiếp tục những giấc mơ và tiên tri vĩnh viễn.

Một thần thoại khác về các thần khổng lồ Titan không của Hesiod xoay quanh Dionysus. Trong thời gian trị vì của mình, Zeus quyết định sẽ nhường ngôi cho Dionysus, người cũng như Zeus là một đứa bé được bảo vệ bởi các Kouretes. Các thần khổng lồ Titan quyết định sẽ hạ sát đứa bé và cướp lấy ngôi báu: họ vẽ mặt trắng toát bằng thạch cao, dụ dỗ Dionysus bằng đồ chơi rồi sau đó chặt chân tay cậu bé và đem nấu nướng chúng. Zeus nổi giận, đã dùng sét tiêu diệt các thần Titan; Athena giữ trái tim của Dionysus trong một hình nhân bằng thạch cao để tái tạo lại một Dionysus mới. Câu chuyện này được các nhà thơ Callimachus và Nonnus kể lại và gọi Dionysus là "Zagreus", cũng như trong một số phần của tác phẩm Orphic.

Câu chuyện này lại được kể lại trong thời kỳ của Thiên Chúa giáo bởi một triết gia trường phái Tân Platon là Olympiodorus, theo đó, con người đã nhảy ra khỏi những cái xác cháy của các thần Titan. Các tác giả khác trước đó còn cho rằng con người đã được sinh ra từ máu của các thần Titan đổ xuống trong cuộc chiến với Zeus.

Pindarus, Platon và Oppianus đề cập đến "Bản chất Titan" của con người. Việc điều này có liên quan đến một dạng "original sin" bắt nguồn từ việc giết chết vẫn còn là đề tài tranh cãi của các học giả.

Titan trong thế kỷ 20:

Nhiều học giả của thế kỷ trước, mà trong đó nổi bật nhất là Jane Ellen Harrison, đã đưa ra ý kiến rằng chuyện về các thần Titan chặt tay chân của Dionysus, hay ăn thịt người, là một hình thức nghi lễ tôn giáo.

Ngoại trừ những mâu thuẫn về Gigantes, có rất nhiều vật có hình dáng to lớn đã được đặt tên theo các thần khổng lồ Titan ví dụ như là con tàu huyền thoại RMS Titanic.

Metal và thần thoại Hy Lạp

Cronus là 1 trong 12 đứa con của Gaea và Uranus, được mệnh danh the Titans, và chính Cronus cũng là người sau khi lật đổ ngai vị của Uranus, đã cưới em gái mình là Rhea, nhưng lo ngại cho ngôi vị của mình được báo trước sẽ bị lật đổ bởi chính 1 trong các đứa con, nên ông đã nuốt từng đứa vào bụng. Rhea bất mãn với việc này đã nhờ tới sự giúp đỡ của Gaea và Uranus, và Cronus đã bị lừa nuốt viên đá thay vì đứa bé --- đó chính là Zeus....

Cronos - với cái tên quen thuộc Conrad Lant hay quen thuộc hơn là Venom, 1 trong những cha đẻ của Black Metal, tay bass kiêm vocal lừng lẫy của nhóm tung hoành trong suốt thập niên 90

Dionysus - hay còn gọi Bacchus được coi như là vị thần ngoại bang đến từ Thessaly hay Phrygia. Cha của ông là Zeus (hiển nhiên rồi) và mẹ là Zemelo, vị nữ thần của mảnh đất Phrygian.Theo truyền thuyết Hy Lạp, Zemelo trở thành Semele, con gái của Cadmus, bị trở thành tiêu điểm của Zeus. Chuyện tình của họ hiển nhiên ko lọt qua tai mắt Hera, và kế hoạch ghen tuông của Hera bắt đầu. Dưới lốt 1 bà già, Hera đề nghị Semele thử thách tình yêu của Zeus bằng cách đòi hỏi Zeus phải xuất hiện dưới dáng vóc thật của mình, và Zeus chưa hề từ chối bất kỳ đề nghị nào của ng mình yêu đã vô tình hại chết Semele bởi lưỡi sét mà ông mang theo bên mình...

Sự xuất hiện của Dionysus có 2 phiên bản khác nhau, một kể rằng Zeus đã cứu sống đứa con chưa thành hình trong bụng mẹ bằng cách giấu nó vào bắp đùi của mình và sau đó nhờ Ino, em gái của Semele nuôi dưỡng; một tích khác kể rằng Dionysus, dưới lốt Zagreus, con của Zeus với Persephone (nữ hoàng của thế giới bên kia) bị The Titans dưới sự dụ dỗ của Hera, ăn thịt chỉ còn chừa lại quả tim được bảo vệ bởi 1 trong 3 vị thần sau Athena, Rhea, Demeter. Zeus sau đó tái tạo lại con người cho con trai mình và nhập vào đứa con trong bụng Semele

Dionysus được coi như là vị thần của rượu - box Rock chắc phải thờ ông này thêm thần Khuyển nữa là đủ  Ông du lịch khắp mọi nơi và giới thiệu rượu cho toàn thế giới. Ông đi từ Thrace tới Boeotia và Attica, tại đây ông được chào đón bởi vua Icarius, ng mà sai lầm chuốc rượu cho các vị mục sư của ông. Khi họ say xỉn đã tưởng lầm vua mưu hại bằng thuốc độc nên đã giết chết ông. Con gái Icarius, Erigone và con chó của mình, Maera phát hiện cái chết cha mình, vì quá đau đớn nên cũng đã tự sát. Các vị thần sau đó đã biến họ thành những chòm sao, The Waggoner, Virgo và the Lesser Dog Star... đây chỉ là 1 tích nhỏ về những chuyến phiêu lưu của Dionysus

Dionysus trong Metal - nhóm power metal đến từ Thụy Điển/Đức được thành lập vào năm 1999 bởi tay trống của Sinergy Ronny Milianowicz, Dionysus là sự kết hợp của các anh hào trong thế giới power như Olaf Hayer (Luca Turilli), Kaspar Dahlqvist (Stormwind), JOHNNY ÖHLIN(Nation) ... với phong cách lãng mạn mang âm hưởng Luca Turilli, Dionysus ko dễ dàng nhàm chán người nghe với những bản trường ca anh hùng bất tận

Persephone - trong Thần thoại Hy Lạp, nàng là vị nữ thần của lòng đất, là vợ của Hades, chúa tể địa ngục. Nàng là con gái của Zeus, chúa tể của các vị thần và Demeter, nữ thần của nông nghiệp. Persephone là một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, được loài người và tất cả muông thú yêu mến, đó là lý do mà Hades muốn chiếm đoạt nàng làm của riêng. Một ngày nọ, khi Persephone đang hái hoa trên vùng đồng bằng Enna, mặt đất đột nhiên rung động và rạn nứt, từ khe hở của lòng đất, Hades ngoi lên và bắt cóc nàng về địa ngục. Không một ai kể cả Zeus và vị thần mặt trời Helios biết được điều đó.

Đau buồn vì con gái bị mất tích, Demeter đi lang thang khắp nơi trên trái đất để tìm kiếm tông tích người con của mình, ngày này qua tháng nọ, cho đến khi Helios tìm ra được thủ phạm. Demeter vì quá tức giận, đã tự tách khỏi mặt đất, giam mình một nơi chịu cảnh cô đơn, vì thế đất đai trở nên cằn cỗi, cây cối đều chết khô. Vì không thể để tình trạng đó kéo dài thêm nữa, Zeus đã phái Hermes xuống địa ngục để thương lượng với Hades, và hắn bất đắc dĩ phải đồng ý thả Persephone. Nhưng trước khi Persephone quay trở về mặt đất, hắn đã đưa cho nàng 1 trái lựu (một vài tài liệu khác ghi là hạt lựu). Sau này khi Persephone ăn trái lựu đó, nàng đã bị ràng buộc vĩnh viễn với địa ngục, mỗi năm nàng bắt buộc phải xuống ở dưới đó 4 tháng. Thời gian còn lại nàng được phép sống với mẹ. Khoảng thời gian Persephone ở dưới địa ngục với Hades, Demeter không cho phép bất cứ cây cối nào được phép đâm chồi nảy lộc, và đó cũng chính là mùa đông. Câu chuyện này là truyền thuyết về 4 mùa trong năm. 

Trong Metal chúng ta có gì....

Persefone - một band Melodic/Symphonic Death Metal đến từ vùng đất Andorra bé nhỏ, ranh giới giữa Tây Ban Nha và Pháp. Persefone là sự giao thoa giữa Opeth và Novembre, với lối chơi kết hợp những giai điệu trí tuệ của Progressive với âm hưởng Death Metal. Album đầu tay Truth Inside The Shades đã gây được nhiều ấn tượng tốt

Với hai bài mở đầu sử dụng piano cổ điển“My Unwithered Shrine” & “The Whisper Of Men”, ta nhận thấy rõ ràng có sự hòa quyện giữa Melodic Death và Progressive, với tiết tấu nhanh kết hợp với harsh vocal.... Một album không thể thiếu trên kệ đĩa của fan Prog & Death

 Đăng nhập

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng ...!

Để làm gì ... ?  Em biết không ...?

Để gió cuốn đi ...!

Chương I: Legendary Tales

Ngày xửa ngày xưa……

Ồ không, không phải bắt đầu như vậy!

Câu chuyện tôi sắp kể không phải một truyền thuyết….. Oh, các bạn muốn gọi nó là truyền thuyết cũng được, vâng đúng thế, vì trong đó cũng có rồng, cũng có hiệp sĩ, có gươm thần, và có phép thuật! Có lẽ là một câu chuyện truyền thuyết….

Vào lúc đó, phép thuật phổ biến hơn bây giờ nhiều. Tôi cũng đã từng học phép thuật. Nhưng mọi thứ đã thay đổi, thời gian chỉ trôi đi chứ không trở lại….

Có lẽ cũng là hợp lý khi tôi bắt đầu từ đầu, ngay tại đây….

Thế giới hỗn mang, mặt đất đầy lửa, và những dòng sông đầy máu, …. ! 

Cách đây hàng trăm năm, những vùng đất xứ Algalord đã trải qua những ký ức khủng khiếp của lịch sử,  thời khắc đen tối của những cuộc chiến đẫm máu giữa The Holy Allies “liên minh thần thánh” và đạo quân quỷ từ địa ngục của “Black King” Kron, một tên bạo chúa độc ác và hiếu chiến. Hắn đã vượt qua những đỉnh núi hắc ám đầy bóng tối, mây đen và lạnh lẽo, với mục đích duy nhất: Đánh chiếm Algalord, thành lũy huyền bí của vùng đất tươi đẹp này, nơi ẩn chứa bí mật lưu truyền từ cổ xưa …… thanh gươm lục bảo ……. một vũ khí thiêng liêng, có thể quyết định được vận mệnh của chiến tranh, đảm bảo và gìn giữ hòa bình, …….

“Liên minh thần thánh” được thiết lập bởi bốn vị vua anh dũng nhất, liên kết lại với nhau, hình thành nên một đạo quân hùng mạnh nhất trong lịch sử. Algalord, Irengard, Elgard và Ancelot, tất cả được đặt dưới sự chỉ huy của Harold “the Brave”. 

Trận đánh đã diễn ra ngay tại nơi tôi và các bạn đang đứng. Đó là một trận đánh thần kỳ, một trận đánh kinh điển giữa người và quỷ, …. rất nhiều mạng sống đã bị cướp đi, để cuối cùng, trận đánh đã kết thúc với chiến thắng oai hùng của liên minh thần thánh trước bầy quỷ dữ, chiến thắng của ánh sáng công lý trước bóng tối của địa ngục, ……..

Hòa bình đã quay trở lại, nhưng cũng chẳng được bao lâu……

Cái xấu chẳng bao giờ biến mất khỏi mảnh đất tươi đẹp này. 

Sau những năm tháng êm đềm, giờ đây, cơn ác mộng đã quay trở lại và tồi tệ hơn bao giờ hết! Algalord lại một lần nữa bị đe doạ ... Ở phương bắc, máu của người dân vô tội đang chảy và nỗi đau tra tấn áp bức đang xé rách bầu trời... Đạo quân của lãnh chúa Akron, con trai của “Black King” Kron độc ác, lần này đông và đáng sợ hơn cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng ra. 

…….

Chúng vẫn đang tiến quân về phía nam,…. Một trận chiến lịch sử sẽ lại diễn ra, như hàng trăm năm trước….

Chúng đang tấn công theo hai hướng. Đạo quân được chỉ huy bởi shadowlord Dargor, đã vượt qua những đỉnh núi hắc ám và hướng tới Ancelot, còn đạo quân của Akron đã tiến tới vùng đất hỗn mang, và không còn cách bao xa những làng quê của vùng đất trung tâm.

Cần phải chuẩn bị đối mặt càng sớm càng tốt. Tướng lĩnh thành Algalord đã thống nhất: 

Harold III xứ Algalord, Agron IV xứ Algard và Eric xứ Elnor sẽ thiết lập lại liên minh thần thánh, như cách mà cha ông họ đã làm trước đây, và ngăn chặn đợt tấn công của lãnh chúa Akron.

Và quyết định thứ hai quan trọng hơn: đã đến lúc tìm đến sức mạnh của thanh gươm thần bằng ngọc lục bảo.

Nếu những lời tiên tri cổ xưa nói đúng, thanh gươm thần được cất giữ phía sau Cánh cổng Ngà (The Ivory Gate), một nơi nào đó ở vùng đất trung tâm và được canh gác bởi một Guardian khổng lồ. Nếu một ai đó có trong tay ba chiếc chìa khóa của sự thông thái (Three keys of wisdom) để mở được cánh cổng và đủ sức đánh bại Guardian, người đó sẽ có trong tay thanh gươm thần kỳ và giải thoát cho vùng đất tươi đẹp này khỏi chiến tranh. 

Đã từ rất lâu rồi, không biết bao nhiêu người đã tìm đường đến đó, nhưng chắc các bạn cũng đã đoán được kết quả… Người đến được cánh cổng huyền thoại đó, phải đối mặt với những tội lỗi, với phần xấu xa của chính mình. Chỉ có những người với trái tim tinh khiết như băng tuyết mới có thể vượt qua và có cơ may làm chủ của thanh gươm thần…

Câu chuyện của tôi không cò gì mới mẻ cho lắm, nên chắc các bạn cũng đoán ra người được cử đi tìm thanh gươm là ai. Người chiến binh phương Bắc ấy, là con của mùa đông lạnh giá, là bạn những cơn giận dữ của bão tuyết khắc nghiệt… hãy tạm gọi chàng là Chiến binh Băng giá – The Warrior of Ice.

Chàng nhận nhiệm vụ tới thành phố Irengard huyền bí, bằng con đường xuyên qua khu rừng của bầy ngựa thần Unicorn. Tại đó, chàng sẽ chỉ huy một đạo quân, của vị vua già Arius “The Tolerant”, tới tăng cường lực lượng cho Ancelot.

Sau khi ủy nhiệm lại đạo quân đó cho tướng Arwald của thành Ancelot, chàng lại phải tiếp tục lên đường, tới đây, vâng, để gặp tôi, lão phù thủy Aresius già nua này, để tôi có thể giúp chàng tất cả những gì tôi may mắn được biết về bí mật thanh gươm ấy.

………..

Trong lúc này, những đoàn quân hùng mạnh đang kéo về Algalord, làm hình ảnh của liên minh thần thánh ngày nào được tái hiện. Hàng vạn chiến binh đang đứng dưới cổng thành, chờ ngày được chết để bảo vệ thành phố này……

………..

Vượt qua những ngọn đồi của Algalord, gió bắt đầu thổi, kéo theo những hạt tuyết tuôn rơi như đang vuốt ve thung lũng của bầy ngựa thần. 

Chàng và đạo quân của mình ngây ngất ngắm nhìn khung cảnh tuyệt diệu 1 lần nữa và đối với nhiều người, có thể đây sẽ là lần cuối cùng…Màn đêm đã dần buông xuống, gió thổi ngày càng mạnh hơn như báo hiệu cơn cuồng nộ của mùa đông khắc nghiệt; đoàn quân dũng cảm đã tới được phía nam của khu rừng trung tâm. 

Quãng đường dài khó khăn đã ở lại đằng sau, đã đến lúc để nghỉ ngơi và những ngôi làng trong thung lũng sẽ là nơi dừng chân tốt nhất cho cả đoàn người.

Những điệu múa cổ xưa chào đón những chiến binh đã thấm mệt vì đường xa và giá lạnh, những chú hề đang cố gắng diễn trò để xua tan sự căng thẳng đang chất đầy trong tâm sự của những chiến binh. 

Trời đã sắp tối nhưng người chiến binh băng giá thấy bồn chồn không yên, chàng quyết định hoàn thành ước nguyện bấy lâu nay của mình: tới được nơi cha của cha chàng đã chiến đấu cho sự tự do của những miền đất tươi đẹp này. Nơi đó cách đây không xa và đây là cơ hội duy nhất để tới được đó: khu rừng thần thoại của những chú ngựa Unicorn, nơi gợi cảm hứng cho biết bao truyền thuyết, nơi mà sự thông thái của các vị vua đã chiến thắng trong những trận đánh đẫm máu với lũ quỷ tàn độc và khát máu. 

Chàng rời ngôi làng và bắt đầu hành trình xuyên qua thung lũng, nơi tận cùng là những khu rừng trung tâm. 

Bóng tối bao phủ xung quanh, không khí như có những bóng ma ẩn hiện, chập chờn khắp ni. Đột nhiên có tiếng nước chy róc rách báo hiệu khu rừng ma thuật đang ở rất gần. 

…trái tim người chiến binh như đập nhanh hơn… 

Khu rừng cuối cùng đã ở trước mặt và trong thâm tâm của người chiến binh phương Bắc chứa chan một cảm xúc không thể diễn tả được. Ánh sáng huyền bí chiếu sáng một khoảng rừng rộnglớn, hoàng hôn đã buông xuống, những tiếng thì thầm như mách bảo vang vọng khắp nơi. Một cảm giác rất lạ nhưng đầy sức sống tràn ngập xung quanh. Phép lạ tiếp tục ban xuống và chàng quyết định sẽ ở lại nơi chứa đầy sự kì diệu này suốt đêm. Chàng ngồi xuống chân một cây cổ thụ và ngay lập tức chìm vào những giấc mơ. 

Khi những tiếng vọng của những trận chiến cổ xưa đang lặng lẽ trôi trong ký ức của chàng, đột nhiên một tiếng động khiến chàng tỉnh giấc… Và trong khoảnh khắc đó, một con ngựa một sừng xuất hiện với tất cả vẻ tráng lệ và lộng lẫy của nó - một con Unicorn với màu lông trắng thuần khiết đang phi nước đại trên những cánh đồi, mang theo vẻ đẹp vô song, một vẻ đẹp mà ít người có may mắn được chứng kiến. 

Mặt trời đang từ từ chiếu sáng, chàng chiến binh tiếp tục bị mê hoặc bởi vẻ đẹp rực rỡ của khu rừng đang được phủ 1 lớp ánh sáng mỏng manh của bình minh. Ngay lập tức, chàng bắt đầu cầu nguyện với những hàng cây- người làm chứng lặng lẽ của những quá khứ huy hoàng đã qua, để nhận lấy từ đó sức mạnh của những kí ức cổ xưa: kí ức của những trận chiến và những chiến thắng đã thành thiên anh hùng ca bất hủ của những vùng đất tươi đẹp này.

Tại nơi đây, trên những đồng cỏ này, máu của không biết bao nhiêu chiến binh đã đổ, họ đã hi sinh để bảo vệ cho những cánh rừng, những dòng sông và những con suối, … nhưng trên hết đó là sự hoà bình cho tất cả mọi người. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ vì vào lúc này, lực lượng của lũ quỷ địa ngục đang mạnh hơn bao giờ hết và những ngày hoà bình đang hiện hữu có thể sẽ là những ngày cuối cùng… 

Thật là khó để rời nơi này, nhưng Mặt Trời đã lên cao và dưới thung lũng, các chiến binh đang đợi, cuộc hành quân tới Ancelot phải được tiếp tục. Trong tâm trí nhớ họ, ngọn lửa căm hận báo thù cho phương Bắc vẫn đang cháy bỏng, …. Người dân quê hương họ vẫn đang chịu bao đớn đau thống khổ,…..

Sau 3 lần trăng lặn, cuối cùng họ cũng tới được Ancelot. Sau khi uỷ thác đội quân của mình cho Arwald, chiến binh Băng giá bắt đầu cuộc hành trình dài tới những thung lũng xanh của Elgard, nơi mà cuộc tìm kiếm “Ba chiếc chìa khoá của sự thông thái” bắt đầu. Một cuộc hành trình đầy khó khăn đã tạm kết thúc, để chờ một cuộc hành trình mới khó khăn hơn, gian khổ hơn. Khi những ngọn cỏ đầu tiên xuất hiện trong tầm mắt từ phía chân trời, người chiến binh không thể kìm nén được cảm xúc của mình. Mặt trời sưởi ấm thẩn thể chàng và bầu trời xanh đem lại cho chàng những cảm giác kì ảo. 

Elgard xuất hiện với tất cả vẻ đẹp của nó. Thành phố nhỏ bé và yên bình của vùng đất bất tử chào đón chàng đầy ấn tượng. Chàng cần một chút thời gian, để nghỉ ngơi, để lấy lại sức, và ngày hôm sau, tôi sẽ dẫn chàng tới Argon hư ảo, để tại đây, chàng sẽ bắt đầu cuộc hành trình thật sự của mình…..

Cuộc hành trình thần bí sẽ chứa dầy trở ngại và trái tim dũng cảm cũng sẽ phải chấp nhận những thách thức kinh hoàng nhất của sự sợ hãi trước khi đối mặt với những điều bí ẩn không thể giải thích nổi và những sinh vật của bóng tối cổ xưa. 

Trong lúc chờ màn đêm buông xuống, chiến binh Băng giá cưỡi ngựa xung quanh Elgard để làm dịu đi xúc cảm của mình. Đột nhiên, trên con đường quay về, tiếng sấm từ nơi xa vọng tới tai chàng và gió bắt đầu thổi mạnh. Máu nóng tràn đầy huyết quản, giơ cao thanh gươm lên trời, người anh hùng gửi lại trời cao lời cầu nguyện của mình. 

Đêm đã xuống và trong khu rừng cạnh những bức tường thành, những người dân của Elgard đang kỉ niệm thêm một ngày nữa trôi qua trong hoà bình. Những chú hề hát vang những truyền thuyết về những trận chiến xa xưa chống lại “Black King”. Mọi người đều hát và nâng cốc uống mừng chàng chiến binh, bây giờ đã sẵn sàng đối mặt với những thử thách. Tiệc tan, chẳng mấy chốc, chàng chìm vào giấc ngủ say, và trong buổi đêm yên bình cuối cùng này, những giấc mơ của người anh hùng chứa đầy thảm kịch và đau thương, những dòng máu vô tội không bao giờ ngừng chảy và ước nguyện báo thù càng thôi thúc chàng hơn bao giờ hết.

Quãng đường tới đó còn quá dài, vâng, còn quá dài …..

« Sửa Lần Cuối: Tháng Mười 19, 2006, 17:52:08 bởi DecemberMoon »

 Đăng nhập

When a man lies, he murders some part of the world 

These are the pale deaths which men miscall their lives 

All this I cannot bear to witness any longer 

Cannot the kingdom of salvation take me home

Kill 'em all

Đại Hiệp

 Không Trực Tuyến

Giới Tính: 

Mood:

Bài viết: 131

Thank You

-Given: 0

-Receive: 65

Trả lời: Sử thi Algalord (full)

« Trả Lời #1 lúc: Tháng Hai 11, 2006, 21:40:48 »

Chương II: Symphony of Enchanted Lands

Những lời Aresius ẩn chứa điều gì đó, mà không ai biết chính xác đó là điều gì. Phù thủy thì vẫn luôn bí ẩn. Nhưng trong cuốn sách tiên tri của ông ta, có một hình ảnh mơ hồ về những bằng chứng những chiến công phi thường của lịch sử, về những chiếc chìa khóa bí ẩn kia, và về cánh cổng huyền thoại….

Và thời khắc cuối cùng đã đến… Khi tia sáng bình minh đầu tiên xuất hiện chúng tôi đã rời xa khỏi Elgard và gần tới những đồi núi đầy cát bụi của Argon, nơi cư ngụ của những người lùn già nua cùng với bí mật của những chiếc chìa khoá. 

Và thử thách đầu tiên, là sự thử thách giữa con người với con người. Giữa vùng đất hư ảo này là một bệ thờ thần bí, với chiếc gương bóng tối ma thuật,… đằng sau tấm gương đó là chiếc chìa khóa màu trắng của sự tinh khiết. Khi đứng trước nó, tất cả những hồn ma tội lỗi trong quá khứ của con người sẽ xuất hiện, ám ảnh đầu óc họ, khiến họ mê muội và phát điên, …. Vâng, chàng không phải người đầu tiên vượt qua được thử thách này! Cám ơn mùa đông khắc nghiệt đã gột rửa sạch tội lỗi của đoàn chiến binh phương Bắc, để họ can đảm bước qua tấm gương ma thuật,….

Một số người đã không thể vượt qua… họ bước vào tấm gương đó, và không bao giờ bước ra…

Dù sao thì trở ngại đầu tiên cũng đã ở lại phía sau, chàng cầm trong tay chiếc khóa đầu tiên, ánh sáng huyền ảo lung linh của nó làm mê hoặc tất cả bọn họ, khiến họ thêm phấn khích và quyết tâm để lên đường tìm những chiếc còn lại…

Chiếc chìa khoá thứ hai, một thử thách khắc nghiệt hơn nhiều đang đón chờ họ. Trên đỉnh núi lửa phía đông, con rồng Tharos bất tử đang canh giữ hang động của nó, với chiếc chìa khóa màu đỏ của lửa.

Chiến binh Băng giá cùng đoàn quân vượt qua khu đầm lầy Chaos, với nhện độc và trăn khổng lồ trước mặt, bên cạnh và đằng sau lưng…. Càng tiến vào sâu, quân số của họ ít  dần, ít dần… và khi tới được chân núi, chỉ còn một số người tài giỏi nhất cùng chàng tiếp tục cuộc tìm kiếm.Con đường lên đỉnh núi cũng gian nan không kém, nó thử thách tất cả những trái tim can đảm nhất, và không chấp nhận tất cả bọn họ,….

Chỉ còn mình chàng đứng trước cửa hang rồng… Ánh sáng đỏ lập lòe từ trong hang hắt ra, chàng lau nốt những giọt mồ hôi cuối cùng để tiến vào. Và cũng chẳng mấy khó khăn để tìm thấy nơi cần tìm…

Con rồng lửa đứng đó, như đã đợi chàng từ lâu, trận chiến của lửa, và của băng tuyết, liệu có thể có một kết thúc có hậu?

………….

Sau trận đánh khủng khiếp, con rồng đã kề dưới lưỡi gươm của chiến binh Băng giá. Những ngọn lửa của nó đã chịu thua sức mạnh của chàng,… và chỉ cần một nhát kiếm để kết thúc…

Nhưng chàng không làm thế! Chàng đứng dậy và tra gươm vào vỏ…..

Tharos đã ở đây từ bao giờ, chính nó cũng không biết. Ngày nó bị lời nguyền hắc ám nọ đẩy tới tận đây, đã quá lâu để nó có thể còn nhớ được chút gì, và còn nhiều điều nữa,… Nó ở đây, ngày ngày chờ những con người can đảm, với tham vọng đi tìm thanh gươm huyền thoại, để thiêu cháy họ, và nhờ đó có được ít thức ăn qua ngày,… Thực ra, nó cũng không muốn hại ai,… nó cũng đã từng có gia đình, có cha mẹ, và anh em….

Cũng đã có những lần, nó quá mệt mỏi sau nhiều ngày bị bỏ đói, và gặp phải những dũng sĩ quá phi thường, nó đã bị họ giết chết….

Nhưng cuối cùng, bản thân họ, đã không bao giờ thoát khỏi được hang động. Ngày qua ngày, họ cũng bị bỏ đói, cũng chết dần chết mòn. Cho đến khi,… họ nhận ra, … rằng họ, càng ngày càng nặng nề, da họ ngày càng chuyển sang màu đỏ như lửa, và vảy bắt đầu mọc trên đó, móng vuốt của họ ngày càng dài ra và nhọn hoắt,… Huyền thoại về con rồng bất tử bắt đầu từ đó. Lời nguyền kia, không bao giờ cho Tharos được giải thoát, kể cả là cái chết, nó sẽ bị giam giữ mãi ở đây, mãi mãi,… cho đến khi lời tiên tri được thực hiện…..

………..

Chiến binh Băng giá đứng lại hồi lâu để trấn tĩnh….

Mọi chuyện đã rõ. Lời nguyền đã được phá bỏ. Tharos đã hiểu rằng đây chính là người được lựa chọn.Lời tiên tri đã nói đúng, và cuối cùng thì Tharos đã có thể giang rộng đôi cánh của mình để đến được những chân trời xa nhất. Nhưng trước khi làm điều đó,con rồng đã đưa chàng tới nơi cất giữ chiếc chìa khoá thứ hai, và chỉ cho chàng đường tới bệ thờ thần bí - nơi giữ gìn bí mật của Iraken, nơi nằm trên ranh giới giữa khu rừng trung tâm với bờ nam của những vùng đất Chaos. Ở đó, người anh hùng sẽ có thể tìm ra chiếc chìa khoá cuối cùng cần thiết để mở được cánh cổng ngà.

Huyền thoại về Iraken thì tất cả mọi người của vùng đất mê hồn đều biết: nó là một vật báu, được đặt trong chiếc khay trên bệ thờ (Altar of Storm), chỉ hướng đi đến những cánh cổng thần thánh… 

Chàng từ biệt Tharos, hướng thung lũng bị quên lãng (Lost Valley), còn con rồng bay lên trời, hướng về một nơi xa xăm nào đó, nơi mà trước kia nó đã từng sống, nơi không có máu và nước mắt…….

…….cuối cùng chàng cũng tới được khu rừng trung tâm và sau đó là vùng sa mạc của Chaos…Trời đã khuya, và chàng cũng đã thấm mệt. Cũng đã mấy ngày chưa được ăn uống, người anh hùng vẫn mải miết đi tới trước…. Và rồi cửa hang cũng đã xuất hiện, chàng bước nhanh hơn, đi sâu xuống dưới, tối như mực, nhưng phía trước vẫn le lói ánh sáng, những đốm sáng kỳ lạ, trên con đường độc đạo, dẫn tới một khoảng rộng ở đáy hang…. Nhưng khi chàng đến đó, sự im lặng rợn người chờ đón chàng…. Chỉ là một phiến đá, xung quanh là những tượng đá, không hề có chiếc khay nào trên đó, một dấu hiệu, không một chỉ dẫn, không mảy may có một tia hy vọng…. 

Những tưởng mọi việc kết thúc, chàng gục xuống cạnh đó, mệt mỏi và vô vọng, chàng không còn tỉnh táo để tiếp tục tìm kiếm……. 

Những tia sáng đầu tiên làm chàng thức giấc. Chàng mơ hồ nhận ra, rằng còn có một vầng sáng nữa, ở gần hơn, ngay cạnh chàng…

Chàng choàng dậy và nhận ra, những tia sáng Mặt Trời đã giúp chàng nhận ra những điều đêm trước chàng không nhận ra. Hai chiếc chìa khoá rơi khỏi tay người chiến binh và nằm vào những vị trí rất đặc biệt trên phiến đá…và người chiến binh đã hiểu ra: ba chiếc chìa khoá này liên quan đến nhau, chiếc chìa khóa thứ ba đã hiện ra, và không chỉ có thế,… vâng, đúng thế, chỉ có thể là báu vật Iraken: bí mật cổ xưa đã được khám phá. Người chiến binh lập tức đặt vật báu vào khay trên bệ thờ và ngay sau đó,với sự giúp đỡ của ánh sáng ban mai, điều thần diệu đã xảy ra…

Ba con rồng bằng đá quây lại xung quanh bệ thờ,và khi ánh sáng mặt trời chiếu vào mắt chúng, một tia sáng xuất phát từ chúng chiếu thẳng vào báu vật trên bệ thờ và tạo ra một cảnh tượng kỳ diệu của ánh sáng…

Những tấm gương được giấu kỹ đã làm khúc xạ ánh sáng mặt trời ít nhất năm lần,và làm chúng hội tụ tại một điểm giữa những ngọn núi đá sừng sững bao quanh. Chàng cảm thấy rằng mục tiêu đã đến rất gần, nhưng chẳng ai có thể nói trước được điều gì đang chờ đón phía trước….

Những bờ đá được đánh dấu bởi những tia sáng ẩn dấu một lối mòn bí mật. Chàng không thể tin được vào những gì trước mắt…“Ivory Gate” huyền thoại từ từ hiện ra… Chàng sung sướng mở nó ra bằng những chiếc chìa khoá linh thiêng và một vùng đất tuyệt diệu hiện ra trước mắt với tất cả vẻ lộng lẫy của nó…những thung lũng, dòng sông, hồ nước đẹp mê hồn với một con đường độc đạo chạy hình xoắn ốc theo ngọn đồi và biến mất sau những bụi cây…Ở một nơi đây, thanh gươm ngọc lục bảo huyền bí đang được cất giấu đâu đó…và cuộc tìm kiếm cuối cùng sắp bắt đầu…

Con đường dẫn qua phía trước của một khu rừng bí ẩn và ngay sau một dãy những thác nước…thực vô cùng đẹp mắt…Vượt qua đó, chàng đặt chân tới một sa mạc…những tiếng kêu ai oán vang vọng, tiếng kêu của những chiến binh dũng cảm đã từng tìm kiếm thanh gươm báu, nhưng những cuộc tìm kiếm của họ đều phải kết thúc trong thảm cảnh…dù vậy linh hồn của họ vẫn sống mãi và giờ đây sẽ chung bước với người anh hùng của phương bắc…

Chiến binh Băng giá tiếp tục đặt chân đến một vùng đầm lầy với những ngọn gió lạnh lẽo chết chóc đầy vẻ hăm dọa…rồi đột nhiên cơn ác mộng trở thành hiện thực… 

Mặt đất bắt đầu rung chuyển, những xác chết đội mồ sống dậy, chui ra khỏi những ngôi mộ cổ và trận chiến khủng khiếp bắt đầu… Phía sau cánh cổng vĩnh hằng kia là sự  khủng khiếp của Địa ngục. Lần này chàng không có những chiến binh anh em của chàng; Chàng bắt đầu chạy…. Vừa chạy, chàng vừa đánh gục tất cả những gì xuất hiện trước mặt; nhưng Địa Ngục đang chiếm ưu thế so với sức mạnh của người anh hùng, để khi chàng tưởng chừng không chống lại nổi bọn chúng, thì trời lại giúp chàng một lần nữa…

Tharos - Con rồng lửa dũng mãnh, đã bay tới và cứu thoát người anh hùng, xin cảm ơn, rồng thiêng, lời cảm ơn thay mặt cho tất cả mọi người ở vùng đất mê hồn…

Người chiến binh đã phá vỡ lời nguyền và giờ đây, Tharos - để trả ơn chàng - đã tới giúp chàng đến cuối cuộc hành trình, bằng đôi cánh vĩ đại và ngọn lửa thiêng,….. 

Chuyến bay với Tharos thật không tưởng…người anh hùng cảm thấy thật mạnh mẽ và có những xúc cảm không thể tả…gió ve vuốt tóc chàng, phía dưới chàng là những thung lũng xanh tươi, là những cánh rừng bạt ngàn, những ngọn núi oai hùng, là biển cả bao la… Không, đây sẽ không phải là lần cuối chàng được ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ này… Trên đôi cánh của định mệnh, điểm đến cuối cùng đang gần hơn bao giờ hết…

………..

Nhưng sau đó cảnh vật bắt đầu thay đổi,những đám mây đen lại bắt đầu xuất hiện, trời bắt đầu tối hơn…những dòng sông đỏ như máu…màn sương mù bí ẩn bao trùm tất cả…và nó xuất hiện với lối kiến trúc gothic tráng lệ…đúng, chính nó…cái mà Tharos gọi là pháo đài của vực thẳm (the Dark Tower of Abyss)…và theo lời tiên tri thì thanh gươm ngọc lục bảo huyền thoại được cất giữ nơi đây, tại toà tháp cao nhất của pháo đài, được trông coi bởi con Guardian khổng lồ…

Khi đang bay đến đó thì bỗng nhiên trên bầu trời xuất hiện rất nhiều lũ quỷ có cánh,và tình hình càng trở nên khó khăn hơn…

Người anh hùng nhảy xuống ngọn tháp trong khi Tharos cố gắng chiến đấu với những sinh vật có cánh từ địa ngục…Chàng mở cánh cửa và lọt vào một sảnh đường đồ sộ…Thời gian ngừng lại, nước ngừng chảy…. được bao quanh bởi vầng sáng xanh ma thuật…Thanh gươm ngọc lục bảo huyền thoại… Chàng trấn tĩnh lại và tiến về phía nó, khi chàng chạm tay vào nó thì dường như tất cả những điều khủng khiếp bắt đầu sống dậy từ đáy sâu của vực thẳm… những tiếng gào khóc man dại như xé tan bầu trời và nó xuất hiện… Guardian, kẻ gác cổng Địa Ngục, một sinh vật quái dị không thể mô tả…

Trận chiến diễn ra rất ác liệt và khi con quái vật gần như đã chiến thắng thì điều may mắn lại xảy ra một lần nữa…vâng, Tharos đã anh dũng lao thẳng vào con quái vật… Một tiếng nổ khủng khiếp, làm rung chuyển toàn bộ tòa lâu đài, và cả ngọn núi, …chàng đủ thời gian nắm lấy thanh gươm thần và kết liễu kẻ canh giữ…

Bỗng nhiên những tia sáng mặt trời xé tan bóng tối và chiếu vào ngọn tháp…mọi thứ bắt đầu rung chuyển dữ dội hơn trước…hai người anh hùng thoát ra khỏi ngọn tháp và bay lên…

Và họ cưỡi trên những ngọn gió vĩnh hằng để trở về vùng đất mến yêu, để lại phía sau mọi thứ sụp đổ và chôn vùi xuống vực sâu…

Những ngọn gió thiêng dẫn họ về với những vùng đất đẹp mê hồn của họ và thậm chí những tiến sấm cũng đón chào chiến công đáng kinh ngạc này.Và sau đó, cơn mưa như đã rửa lành những vết thương cho họ.

Nhưng có một điều gì đó rất lạ…Người chiến binh nhận ra rằng Tharos đang khóc và chàng ra lệnh cho nó hãy ngừng bay…mọi chuyện trở nên rõ ràng…và thật bi thương!

Tharos đã bị thương nặng sau cú va chạm với kẻ canh giữ,và bây giờ tất cả đã quá muộn, không thể làm gì hơn…

Người anh hùng không kìm nổi nước mắt…chàng không muốn mất đi con rồng yêu quý… nhưng số phận nghiệt ngã đã định đoạt… Tharos cố gắng an ủi người bạn của mình rằng nó thật may mắn vì đã trở nên có ích cho Algalord và đã được tự do trước khi chết, nói xong nó giang rộng đôi cánh của mình bay về phía chân trời tối…để đối mặt với cái chết trên miền đất của nó,miền đất kỳ diệu của loài rồng, ở đó…nơi những thung lũng của phương bắc…

Người chiến binh đã vĩnh viễn mất đi người anh em Tharos, một con vật, chàng mới chỉ biết đến ít ngày trước…. Sự hy sinh này sẽ nuôi sống hy vọng cho vùng đất tươi đẹp này… Đúng, chàng sẽ phải đánh bại bạo chúa Akron vì người anh em tội nghiệp ấy.

Thanh gươm ngọc lục bảo chiếu sáng trên tay người chiến binh và giờ đây, ngay lập tức, chàng phải quay về Ancelot càng sớm càng tốt…Arwald không thể đợi lâu hơn nữa…

« Sửa Lần Cuối: Tháng Mười 19, 2006, 17:53:25 bởi DecemberMoon »

 Đăng nhập

When a man lies, he murders some part of the world 

These are the pale deaths which men miscall their lives 

All this I cannot bear to witness any longer 

Cannot the kingdom of salvation take me home

Kill 'em all

Đại Hiệp

 Không Trực Tuyến

Giới Tính: 

Mood:

Bài viết: 131

Thank You

-Given: 0

-Receive: 65

Trả lời: Sử thi Algalord (full)

« Trả Lời #2 lúc: Tháng Hai 11, 2006, 21:41:58 »

Chương III: Dawn of Victory

………. xin chào các bạn!

Các bạn còn nhớ tôi chứ? Phải tôi đây, Aresius xứ Elgard (Chắc các bạn không nhớ rồi) vị phù thuỷ xa xưa của vùng đất tươi đẹp này.

Tôi đã kể cho các bạn nghe mối đe doạ từ đạo quân quỷ của Lãnh Chúa Akron đối với vùng đất này, từ phần 1 của câu chuyện này. Ở phần 2, các bạn đã đến với bí mật vĩ đại của thanh gưom lục bảo, và người bạn của chúng ta, Hiệp sĩ băng giá, đã mở Cánh cổng Ngà và chiếm được nó ra sao. Tôi sẽ nói với các bạn rằng phần 3, sẽ không được hấp dẫn lắm đâu, vì nó bi thảm hơn những phần trước nhiều, ….. có thể là quá ư bi thảm, đối với riêng tôi.

Và bây giờ, hơn bao giờ hết, là lúc đưa các bạn quay trở lại thời khắc mà Ancelot bị vây khốn. Bốn mặt chỉ có máu, xác chết, xương trắng, đầu lâu, và trên đó, những con quỷ ghê tởm đang nhảy nhót. Chúng đông đến hàng nghìn, hàng vạn, chúng nhung nhúc chen chân nhau dưới cổng thành, và chúng đang chờ đợi để lặp lại tất cả những điều này, khi mà Ancelot thất thủ, khi mà chúng lọt vào bên trong thành, và …… Ôi, tôi không dám nghĩ nữa!!!

Còn người anh hùng của chúng ta, sau khi bỏ lại cánh cổng ma thuật sau lưng, phóng ngựa như bay về phía Ancelot, và đây, thung lũng xanh, vùng đất bị phù phép, và cuộc hành trình lại tiếp tục…..

Với thanh gươm thần sáng chói trong tay, người anh hùng cưỡi ngựa như bay, xuyên qua đồng cỏ, núi rừng, qua không biết bao nhiêu sông suối, ruộng đồng… Đâu đâu chàng đi qua, người ta cũng nhìn thấy thanh gươm thần đang loé sáng. Và không biết bao nhiêu chàng trai, bao nhiêu chiến sĩ, đã từ biệt gia đình, từ biệt người thân, từ biệt quê hương, để lên lưng ngựa, để cùng đi, để cùng chiến đấu, và để cùng nguyện chết với chàng, chết cho sự sống của loài người… Đoàn quân cứ thế, cứ thế, cứ đi, lớn dần, lớn dần, …. để rồi khi rặng núi đá quen thuộc, bao quanh thành Ancelot, hiện ra ở phía xa, đoàn quân của Chiến binh Băng giá đã có thể đương đầu với lũ quỷ lùn, với những tên Kỵ sĩ Đen, với những con quái điểu hai đầu, với những con ma cà rồng đội lốt những con dơi khổng lồ, và hơn hết là với Dargor, mãnh tướng của đỉnh núi Black Mountain, cánh tay đắc lực của Lãnh Chúa Akron.

Người anh hùng xứ Loregard của chúng ta, không thể chờ đợi thêm được nữa, vì tiếng gọi từ Ancelot, vì Arwald đơn độc đã kiệt sức chống cự, vì trái tim dũng cảm của chàng đã trải qua bao nhiêu thử thách, và giờ đây, vào lúc này đây, lúc này, ……. hoặc không bao giờ nữa…..

Một tiếng thét vang dậy, đoàn quân oai hùng ấy, tất cả bọn họ, giương cao những lưỡi gươm sáng loáng lên trời cao, tràn xuống trận địa của quân quỷ trong tiếng hét xung trận đang ngập tràn khắp không gian, với khí thế không gì cản nổi… Chiến binh Băng giá đang dẫn đầu, cưỡi trên con bạch mã, giáp trụ sáng chói, và thanh gươm lục bảo, vẫn ngời lên ánh sáng xanh biếc,…. và phía chân trời, những tia nắng bình minh đầu tiên, của một ngày mới đầy vinh quang và chiến thắng, đã dần dần bao phủ mặt đất, bao phủ lấy đoàn quân, bảo phủ lấy cả lũ quỷ, bao phủ thành Ancelot, ………..

Sau trận đánh thần kỳ trước Dargor, Ancelot đã ngập tràn trong chiến thắng, tất cả đã tự do, và người anh hùng của chúng ta, một mình phóng ngựa lên đỉnh đồi, đưa thanh gươm thần lên cao, hát vang khúc khải hoàn. Hai chiến binh dũng cảm, chàng và Arwald, người anh hùng phương Bắc, người đã lãnh đạo những người con dũng cảm của Ancelot tới một chiến thắng vĩ đại, sẽ được nhớ mãi, như những người cha, người anh của họ trước đây….

Nhưng ……….

Dargor, Hoàng tử của Bóng Đêm, kẻ bại trận, đã sống sót, đã tránh được cái chết, đã trốn thoát, và không chỉ có thế……..

Vâng!

Không chỉ có thế!

Vâng!

Cơn ác mộng dường như dài vô tận.

Airin, nàng công chúa yêu thương của Ancelot, và của Arwald, đã rơi vào tay bọn quỷ, trong trận đánh khốc liệt ấy. Và giờ đây, nàng, cùng với 12 kỵ binh tinh nhuệ nhất của quân đoàn phía Nam, trong nhữngchiếc cũi sắt, đang trên đường tới Hargor, thành phố chết chóc của vùng đất Bóng đêm, trung tâm địa ngục của Akron. Và đi sau cùng đoàn tù binh ấy, ….. là Dargor. Không thể đuổi kịp chúng trước khi chúng tới được đó.

Và Chiến binh băng giá, cùng với Arwald không thể làm được gì ngoài việc ngồi chờ đợi tin tức từ tên Lãnh Chúa độc ác gửi đến.

Ngày thứ nhất ……

Ngày thứ hai ……

Ngày thứ ba ……

………….………….

Tuần thứ nhất …..

Tuần thứ hai ……

……………………..

Và cái tin ấy, cuối cùng rồi cũng đến. Và nỗi sợ hãi của họ cuối cùng cũng thành sự thật: Lũ quỷ của Akron sẽ xé nát, và ăn tất cả tù binh, từng người một, nếu hắn không được cầm trong tay lưỡi thép thần kỳ ấy, …….. vâng, đúng thế ……… thanh gươm lục bảo. Ôi các đáng tối cao, …….. chuyện gì sẽ xảy ra, nếu hắn có được quyền lực của thanh gươm thần……!

Nhưng, cần phải làm gì đó, một việc gì đó, và thật nhanh chóng, …… quyết định được đưa ra! Arwald và Chiến binh Băng giá sẽ đến gặp Akron ở Hargor, thành phố của sự nguyền rủa, và Akron sẽ đổi mạng sống của các tù nhân để có được thanh gươm thần.

Chàng biết rõ rằng, trong tay hắn, thanh gươm thần sẽ làm cho mọi việc trở nên thật tồi tệ, giấc mơ chinh phạt của hắn, sẽ lớn lên bao nhiêu ………. Tôi đã kể với các bạn ở phần 1, rằng cuộc tử chiến giữa Liên minh thần thánh và quân đoàn của đế chế Akron đang diễn ra giữa vùng đất phương Nam và vùng đất của Bóng Đêm, và, như các bạn đã biết, quyền lực của thanh gươm lục bảo có thể quyết định số phận của cả trận chiến khổng lồ ấy. Vì thế nên, bạn của tôi, đã đến lúc, ngẩng mặt lên trời, để kêu gọi sự giúp đỡ cuối cùng, cảm xúc mãnh liệt nhất, sức mạnh khủng khiếp nhất, cơn thịnh nộ đáng sợ nhất, ……… vâng, ………. Cơn thịnh nộ của những người khổng lồ Titan.

Thưa các bạn, đây thực sự là những gì đã xảy ra. Hoàn toàn sự thật. Dù rằng tôi không bao giờ muốn kể.

Khi hai người anh hùng đến nơi, họ hiểu rằng, không thể quay trở về!

Khung cảnh thật bi thảm …... những kỵ sĩ kiêu hùng của quân đoàn Phương Nam, không còn gì của họ còn sót lại, ngoài những chiếc đầu lâu nhớp nháp, mắt vẫn mở trừng trừng trong cơn đau tột cùng, lăn lóc bên cạnh những mẩu thịt tươi còn thừa, đang bốc mùi giữa vũng máu đỏ lòm, ……..

Thông điệp của chúng đã quá rõ ràng, và hai người anh hùng của chúng ta đã quyết tử lao vào bọn chúng, chiến đấu một cách kiêu hãnh nhất.

Nhưng lần này thì không!

Những gì Lãnh Chúa đen đã chẩn bị cho họ thật khủng khiếp, và còn hơn thế. Tôi đã cảm thấy điều gì đó không ổn, và tôi không thể liên hệ tâm linh với họ trong một thời gian dài. Chỉ biết rằng, họ tỉnh dậy trong một hang tối, sau không biêt bao nhiêu ngày bị bắt giữ và tra tấn. Xung quanh họ là 7 ngọn đuốc. Chân tay họ nặng trịch bởi những dây xích sắt. Và …. Airin. Trời ơi, Airin! Công chúa tội nghiệp đang ở ngay trước mặt họ, nằm lịm đi trên một chiếc bàn đá tế thần, mang theo trên người một tấm vải đen. Còn Akron, với thanh gươm thần bên người, đang đứng đó, cùng với tất cả những tên kỵ sĩ đen, và nụ cười độc ác của hắn, làm cho chúng ta, tất cả chúng ta, có thể tưởng tượng ra được những gì sẽ xảy ra trong giây lát nữa ……….

Không, tôi không muốn, tôi không muốn kể cho các bạn. K….h…..ô…..n….g!!!!!!

Nhưng tôi phải kể!…… Bởi vì, tất cả các bạn, cần phải hiểu rằng, một CON NGƯỜI, có thể tàn nhẫn và vô nhân tính đến mức nào ……. mặc dù, thật khó để, thậm chí coi hắn, là một CON NGƯỜI!

Và ……. Airin, công chúa đáng thương của Arwald, đã bị cưỡng hiếp thật tàn bạo bởi tất cả những sinh vật địa ngục khiếp đảm đó, ngay trước mặt hai người anh hùng, và cả bởi chính Akron nữa, vẫn đang cười man rợ và nhận lấy nguồn năng lượng từ những nỗi đau khủng khiếp của Airin trong trắng.

Ngay cả mãnh tướng Dargor, cũng không sao chịu nổi cảnh tượng ấy. Dargor cố thuyết phục Lãnh Chúa của mình rằng những tất cả những điều này thật ghê tởm. Và cuối cùng Dargor bỏ ra ngoài và tự cảm thấy mình đang bị ép buộc vào nơi đầy rẩy sự kinh tởm và những điều khủng khiếp này. Hoàng tử Bóng đêm, đã thề trung thành với đoàn quân quỷ, con nuôi và cũng là học trò của một trong những đối thủ lớn nhất của tôi, phù thuỷ Vankar của xứ Helm, đã luôn phải cố gắng dung hoà giữa những hành động và suy nghĩ của bản thân vốn luôn đối lập với Akron độc ác,…….. và lần này cũng thế.

Trở lại với câu chuyện …… mọi chuyện kết thúc còn tồi tệ hơn lúc nó bắt đầu ……. Airin, với những hơi thở cuối cùng yếu ớt, ngẩng lên nhìn Arwald lần cuối, trước khi bị thả vào Sgral, nơi chứa những độc chất ma quỷ, có thể làm hỏng những thanh gươm tốt nhất.

Và, …….. nàng ra đi, ………. 

Xin lỗi tất cả các bạn, nếu giờ đây, trên đôi mắt già nua của tôi có tràn lệ, nhưng tấm bi kịch này thật quá sức chịu đựng với một người mà trái tim đã quá yếu ớt như tôi.

Arwald thét lên! Chàng thét lên với toàn bộ sức lực còn lại trong cơ thể, tiếng thét bi ai, để cầu xin những vị thần tối cao trong vũ trụ bao la, giải thoát chàng khỏi những cảnh tượng đó. Không ai trả lời! Không một ai! Và chẳng bao lâu, chàng hoàn toàn mất hết ý thức ……….

Akron đã chuẩn bị sẵn, ………những điều đặc biệt, …….cho tất cả. Và Arwald của chúng ta đã trải qua tất cả những cực hình, theo tất cả mọi cách có thể, và cuối cùng, cũng sẽ chết chìm trong cái hố đầy chất độc kia. 

Nhưng, đúng vào lúc đó, dường như, các vị thần tối cao, của vũ trụ bao la đã nghe thấy tiếng gọi của chàng, ….. và với nguồn năng lượng ít ỏi còn lại, với đôi chân đang tàn lụi trong acid, Arwald lấy tay, cũng đã lòi xương trắng, ném một hòn đá dính đầy acid về phía Người con của Băng giá. Acid bắn lên người chàng, da thịt cháy bỏng, đau đớn dữ dội, sức cùng lực kiệt. Nhưng số phận đã chọn chàng, và những sợi xích sắt tan chảy ra dưới cái nóng của acid. Chàng tự giật đứt tung chúng và thoát ra……. Arwald đã chết, nhưng cứu sống được người chiến binh tài giỏi nhất. Chỉ với những hòn đá trong tay, và sự giận dữ đến tột cùng, chàng đã chống lại cả quân đoàn quỷ và trốn thoát khỏi cơn thịnh nộ của Akron bằng cách lao mình xuống dòng sông Aigor, chảy xuyên qua hang núi. Dòng nước đưa chàng trở lại với bầu không khí trong lành, bên ngoài Hargor.

Nhiều ngày trôi qua, trốn thoát xuyên qua những rừng rậm tối tăm và những ngọn núi cao vút lởm chởm đá, cuối cùng, Chiến Binh Băng Giá cũng tới được thung lũng thân yêu, và rồi cánh rừng của bầy ngựa chúa….. Chỉ ở đó, chàng mới cảm thấy thực sự an toàn……… Mệt mỏi, buồn bã, đói khát, kiệt sức, giận dữ, căm thù…… nhưng trên hết, là an toàn…. Thanh gươm thần giờ đây đang sang lên trong tay Akron, và chàng phải làm một điều gì đó, trước khi mọi việc trở nên vô nghĩa.

« Sửa Lần Cuối: Tháng Mười 19, 2006, 17:54:06 bởi DecemberMoon »

 Đăng nhập

When a man lies, he murders some part of the world 

These are the pale deaths which men miscall their lives 

All this I cannot bear to witness any longer 

Cannot the kingdom of salvation take me home

Kill 'em all

Đại Hiệp

 Không Trực Tuyến

Giới Tính: 

Mood:

Bài viết: 131

Thank You

-Given: 0

-Receive: 65

Trả lời: Sử thi Algalord (full)

« Trả Lời #3 lúc: Tháng Hai 11, 2006, 21:42:36 »

Chương IV: Power of the Dragonflame

Mây đen phủ kín bầu trời khi chàng đến được khu rừng của bầy Unicorn, với đôi tay đầy máu. Lời thì thầm của khu rừng lại văng vẳng bên tai chàng, như đang cố gắng chữa lành một phần những vết thương của chàng …. Cái chết bi thảm của những người bạn vẫn đang hành hạ trái tim dũng cảm của chàng, vốn chỉ còn hai chữ báo thù ….

Sức mạnh thần bí của thanh gươm lục bảo giờ đây đang nằm trong tay Akron càng làm cho trái tim chàng thêm rực lửa …. Và rồi ….

Kiệt sức!!!

Chàng gục xuống thảm cỏ xanh mướt của thung lũng Elgard.

…………….

…………….

…………….

Aresius đã dùng mọi phép thuật để chữa trị, cả về tinh thần và thể xác. Khi họ mang chàng tới đây, chàng đã là một người anh hùng. Người dân của Elgard đã nhận ra người anh hùng của họ. Chàng sẽ sống, hãy tin tôi, chàng sẽ sống, vì chúng ta cần một kết thúc có hậu, hãy tin tôi, chàng sẽ sống ….

……………

Chúng bắt đầu nghi lễ hồi sinh lại những gì ghê tởm nhất, nhưng gì người ta phải quên đi bao lâu nay, giờ đây sắp quay lại, để tàn phá cuộc sống một lần nữa….

Lưỡi gươm lóe lên một tia sáng ….Cánh cổng đen từ từ mở ra, Chaos Portal.

Phép thuật của Vankar bí hiểm đến mức bản thân Aresius cũng chưa bao giờ biết hết. Từ những vùng đất ma quỷ sau cánh cổng đó, những con quỷ đầy máu chui qua và đông dần lên. Chúng vây quanh bệ thờ ở chính giữa hang núi …..

Trên bệ thờ đó, giữa mười ba cây nến, mụ dần hiện rõ hình dạng - Queen of the Dark Horizon. Mụ từng là tay sai đắc lực nhất cho bạo chúa Kron, và nay, cho con trai hắn, Akron….

…………….

Chống trả yếu ớt trước những làn sóng biển nhuộm đầy máu đỏ và cơn bão lửa tàn khốc, Elnor và Thorald dần sụp đổ. Họ không chống đỡ nổi những đợt tấn công từ những sinh vật quái đản đến từ dưới đáy biển, những con Naga của Dark Queen quá hung dữ, và cơn bão lửa của mụ chưa từng có ai được chứng kiến. Hàng ngàn quả cầu lửa từ không trung lao xuống, thiêu đốt tất cả những gì còn nguyên vẹn, và cả những gì đã không còn nhận ra hình dạng.

Hai thành trì láng giềng của Algalord đã thất thủ. Akron, Dark Queen và Shadowlord Dargor đang dẫn đoàn quỷ đến thẳng tới thành lũy cuối cùng, nơi những vị thần linh ngự trị, tàn phá và giết chóc tất cả những gì trên đường đi, để lại máu đỏ và xương trắng. Dường như chẳng còn gì cản nổi chúng vào lúc này.

Chiến binh Băng giá đứng thẳng người lên, tra gươm vào vỏ, đội nốt chiếc mũ giáp. Chắc hẳn chàng đã biết tin từ Algalord. Chàng không còn nhiều thời gian. Phải trở lại Algalord ngay. Quân đội của Elgard đã sẵn sàng theo chàng. Có lẽ chàng cần thêm vài lời khuyên của Aresius. Vị phù thủy đáng kính này có lẽ hiểu trận đánh hơn ai hết….

Sau ba lần trăng lặn, chàng đã nhìn thấy đám bụi mù mịt cùng với làn mây đen hắc ám của lũ quỷ, giữa vùng đầm lầy của vùng đất phía Nam. Từ rất xa, chàng đã có thể nhận ra người đi đầu đoàn quân, Dargor!

Trận đánh này hẳn phải được nhớ tới như một trong những trận đánh tàn khốc nhất, kịch liệt nhất, và bi thảm nhất trong lịch sử. Những dũng sĩ oai hùng của chúng ta ngoài việc chống chọi với những con quỷ khát máu, còn phải đối mặt với sự quái gở của tạo hóa, với sự điên loạn trong chính đầu óc họ, …. dù Aresius đã cảnh báo rằng hãy chuẩn bị tinh thần cho bất cứ điều gì …. và chẳng có lời khuyên nào hơn thế …. Quái điểu có cánh, sâu khổng lồ, ma cà rồng, và xác chết của chính những chiến binh đã từng chiến đấu bên họ, …. và cả những thứ quái quỷ khác đến từ cánh cổng Chaos Portal,…. Và cuối cùng là thanh gươm lục bảo trong tay Akron.

Mỗi chiến binh, giờ đều đã hiểu, nhiệm vụ của họ sẽ khó khăn đến nhường nào. Họ chỉ còn một động lực duy nhất, đó là lòng căm thù! Cho những anh em đã ngã xuống, cho gia đình họ, cho mảnh đất tươi đẹp này ….

Dẫm lên những xác chết la liệt, bước qua những vũng máu đen ngòm, chiến binh Băng giá bước tới đỉnh đồi, và đối mặt với trận đánh cuối cùng. Không ai khác, kẻ tài giỏi nhất, dũng mãnh nhất, lạnh lùng nhất, và bí ẩn nhất, Shadowlord of the black mountain, Dargor! Và lần này, chàng không có gươm thần….

Hai ánh gươm lóe lên, chạm vào nhau tóe lửa. Không ai biết chắc chắn rằng mình sẽ sống, …… hay chết, ……. sau vài đường kiếm nữa………..

…………………..

…………………..

Dính phải đòn kết liễu đầy dũng mãnh, Dargor rơi khỏi mỏm đá và kịp đưa tay bám lấy một rễ cây. Không còn đường thoát!..... Dargor sắp chết…. và hắn biết rõ điều đó……. Hắn gào thét điên loạn, cầu xin chiến binh Băng giá hãy ra tay kết thúc mọi việc. Thất bại hai lần trong tay một đối thủ, đối với hắn còn nhục nhã hơn cả cái chết…………

Trong một giây phút quyết định giữa trái tim và lòng căm thù, chàng đã đưa tay cho hắn. Chàng sẽ cứu hắn!?! Đúng thế! Vì chàng biết hắn chỉ là một học trò biết vâng lời, những lời dạy dỗ độc địa của Vankar, tên phù thủy nham hiểm của xứ Helm.

Dargor không sao hiểu nổi hành động của chàng, và càng không nhận ra nổi mục đích của chàng…. Từ khi sinh ra, hắn chỉ biết rằng đạo quân của Chiến binh Băng giá chính là người đã giết hại cả nhà hắn, và hắn tin vào điều đó, tin vào Vankar đến tận lúc này…. Chưa tròn 1 tuổi, lão đã tiêm thuốc độc vào đầu Dargor, và hắn không thể tin vào điều gì khác.

Và cùng với đường kiếm của Dargor,  người anh hùng của chúng ta - vốn không bao giờ nghĩ tới điều này – ngã gục xuống mặt đất, mất dần cảm giác xung quanh, dòng máu đỏ loang đầy mặt đất… và đôi mắt chàng, nhìn Dargor, như muốn hỏi: “Dargor! Tại sao? Tại sao?”

…..

Khi chàng dần lấy lại được ý thức, chàng nhận ra rằng mình đang bị trói chặt như hàng nghìn binh sĩ của chàng. Và chàng hiểu mọi chuyện đã kết thúc, với chàng, với bọn họ, với Algalord, với tất cả …….

Hai lần trăng lặn nữa, Algalord đã sắp thất thủ… Cổng thành đã mở toang……. Phụ nữ và lũ trẻ con, bị hãm hiếp và giết hại tàn bạo…… Algalord kiêu hãnh, thành lũy thần kỳ của những vị thánh, chỉ còn là những khối đá, và phủ đầy máu……

Tất cả đã kết thúc!

“Xin chào tất cả các bạn!” “Vâng, lại là tôi đây, Aresius già nua, các bạn thân yêu….”

Và xin lỗi các bạn nếu câu chuyện của tôi không được liền mạch. Thật khó lòng mà kể lại tất cả mà không có cảm xúc gì,… nhưng chẳng có gì diễn tả được nỗi đau trong tôi lúc này. Như tôi đã nói, tôi đã quá già yếu để xúc động như thế này.

Mọi việc đã quá hiển hiện….. sau trận công thành Algalord, tất cả đều trở thành tù binh, và những cảnh tưởng kinh hoàng lại chuẩn bị diễn ra một lần nữa….

Kết thúc của một bi kịch thật buồn quá sức, cuốn sách tiên tri, sau khi chứng kiến những giờ phút huy hoàng, từ xa xưa, cho tới hàng ngàn năm sau. Trang sách tiếp theo sẽ thật đen tối, sự im lặng sẽ ngự trị trong chết chóc……

Vâng, và vì câu chuyện quá ly kỳ này, tôi không để các bạn đợi thêm nữa.

Chiến binh Băng giá, cũng như đội quân của chàng, bắt đầu phải chứng kiến những trò chơi man rợ của Akron, dường như đã trở thành thói quen và thú tiêu khiển của hắn. Chàng vốn là kẻ thủ truyền kiếp của hắn, và cơ hội để hắn thỏa mãn lòng thù hận đã ở ngay trước mặt.

Và trên giá gỗ tử hình của thành Algalord, hắn bắt đầu đập nát đôi chân của người chiến binh anh hùng, và ném những mẩu thịt đó xuống khu đầm lầy Acheros đầy rắn độc, và chúng đang ăn ngấu nghiến ……

Cảnh tượng kinh hoàng ấy, không ai nghĩ là sẽ kết thúc, chàng không kêu một tiếng, đôi mắt chàng đỏ ngầu máu căm hờn, chàng vẫn còn sống,…. vẫn đang nguyện cầu một điều kỳ diệu…..

Đứng từ xa, chứng kiến tất cả, lẩm nhẩm mấy câu thần chú, văng vẳng trong tai tiếng cười man rợ của Akron và Dark Queen…

Vâng! Điều kỳ diệu đã tới từ một cái tên chúng ta không ngờ tới: Dargor! Không ai tin được điều này… Quá mệt mỏi vì những cảnh tượng ghê tởm kia, không còn chịu đựng nổi sự tàn ác của Akron, trong đầu vẫn bị ám ảnh bởi hành động cao thượng của chiến binh Băng giá, và hơn hết, từ lúc đó, dòng máu đỏ bắt đầu chảy lại trong huyết quản, thuốc độc của Vankar đã mất dần tác dụng, khi Dargor trở về từ cõi chết, …. Chàng vung gươm lên và lao tới trước, dùng hết sức đâm thẳng vào bụng mụ nữ hoàng ác độc, mụ gầm lên và ngã xuống…. Chàng hét lên đầy căm thù tên của kẻ lãnh chúa tàn bạo…. 

Akron, kịp nhận ra chuyện gì vừa xảy ra, vung tay lên trước khi lưỡi gươm của Dargor chạm vào hắn…. Thêm một cái phẩy tay, bầy quỷ lao tới Dargor, những tên kỵ sĩ đen ném thẳng vũ khí về phía chàng…. 

Không tránh khỏi sự tấn công ồ ạt, Dargor ngã xuống mặt đá, chàng kịp rút ra một lưỡi dao sắc nhọn từ vai trái, …. Akron cười ngạo nghễ, như thể đã tính trước được sự phản bội này, vì Dargor không có dòng máu đen như hắn, và rồi, chàng sẽ chết như những người khác, và xác chàng cũng sẽ bị đóng cọc trước thành Algalord, để làm gương cho kẻ khác….. Lũ quỷ vẫn tiến lại phía Dargor, mỗi lúc một gần hơn…..

Sức lực của một mãnh tướng như Dargor đủ để giúp chàng vùng dậy, thật nhanh, và lao vào Akron một lần nữa. Không thể làm gì được hắn bây giờ, nhưng đủ để đẩy hắn về phía người chiến binh đang kiệt sức trong vũng máu…..

Trong thời khắc định mệnh đó, người anh hùng của chúng ta kịp vung tay giật lấy thanh gươm lục bảo trên người Akron, và chớp mắt, ánh gươm lóe xanh ngang mặt hắn….. 

Ngay cả những con quỷ từ tầng địa ngục dưới cùng cũng có thể nghe thấy tiếng thét của hắn, khi lưỡi gươm thần kỳ xuyên qua mắt hắn…. nhưng, chưa đủ, chưa đủ để tiêu diệt Black King Akron, …. Và vì thế, chiến binh Băng giá dùng nốt chút sức còn lại, ghì lấy cổ hắn, siết chặt lại…. và hét lên với Dargor……

Lựa chọn duy nhất!

Dargor lao tới chỗ sợi dây, sợi dây người ta thường dùng để kết liễu những tên tử tù trên giá tử hình. Con đường tới đó như dài vô tận. Tay trái của chàng giờ đây cũng đã nhuộm đỏ máu, và xung quanh chàng nhung nhúc lũ quỷ ghê tởm. Chàng chỉ có một vũ khí duy nhất: chàng đã hiểu chúng quá rõ!

Nhưng lũ quỷ có đến hàng nghìn…. còn chàng, giờ đây, chỉ có một mình…. đơn độc….

Ồ không! Tôi đã quên mất! Vẫn còn! Chàng còn một vũ khí nữa. Vâng, đúng vậy, một vũ khí nữa!

Và những cầu thần chú của chàng đến bây giờ mới có tác dụng. Chàng đã không nhận ra chúng, khi ở quá xa, và do chàng đang kiệt sức chống đỡ với lũ quỷ. Chàng đã gọi chúng tới từ đỉnh Hargor xa xôi, đỉnh núi thân yêu, nơi mà chàng được người ta đặt cho cái tên Shadowlord.

Những con Gargoyles bằng đá đã sống lại theo lời gọi của chàng, và lao vút tới nơi chàng đang lâm nguy. Chúng bay cả quãng đường đoàn quân hành quân mấy ngày trời chỉ trong khoảnh khắc. Và giờ đây chúng đã tới nơi.

Bầy Gargoyles lao vào bầy quỷ địa ngục, cũng dũng mãnh như chủ tướng của chúng. Đã bao nhiêu năm rồi chúng mới lại được chiến đấu bên cạnh chủ tướng của mình. Và cái chết đối với chúng, cũng nhẹ nhàng, như sự sống mà chúng đã từng trải qua, như sự sống Dargor đã trao cho chúng. Và phía sau bầy Gargoyles, anh em chúng vẫn đang tiếp tục bay đến…..

Vung gươm chặt đứt sợi dây, sàn giá gỗ bắt đầu di chuyển, rời khỏi mặt đá, trượt dần xuống làn nước đen ngòm. Cùng nằm trên đó là người chiến binh Băng giá anh hùng, với thanh gươm vẫn đang tỏa ánh sáng xanh huyền ảo truyền thêm sức mạnh cho chàng, và tên lãnh chúa độc ác, vẫn đang cố vùng vẫy thoát khỏi tay chàng. Những giọt nước mắt của chàng đang cám ơn Dargor đã đền đáp ơn cứu mạng. Lần đầu tiên, người ta thấy Dargor lưỡng lự quyết định một việc gì đó……!

……

Chiếc giá gỗ chìm dần vào làn nước, hai thân thể trên đó, và cả ánh sáng xanh le lói giữa đầm lầy….. Xung quanh, đàn rắn độc đói khát đang bơi tới gần….. 

Bầy Gargoyles đá đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Sức mạnh của Vankar thật đáng sợ. Chính lão đã dạy Dargor cách hồi sinh bầy Gargoyles, nhưng có lẽ hắn không ngờ tới ngày chính phép thuật này lại chống lại mưu đồ quỷ quyệt của gã. Gã không nhận ra rằng từ khi Dargor học được phép, bầy Gargoyles đã không còn nghe theo gã nữa. Những chiến binh của vùng đất tươi đẹp này dần hiểu ra - Steelgods of the last Apocalypse - tiếng gọi cuối cùng của những vị thánh. Lời tiên tri đã thành sự thật. Từ những kẻ tử tù kiệt quệ, họ lại vùng lên, đầy căm thù và giận dữ, cơn giận dữ của những người khổng lồ Titans… và trước khi trăng lặn một lần nữa, họ đã thực sự thành công,…. Vâng….. một chiến công vĩ đại…..

Ánh chớp xé rách bầu trời…..

Mặt đất rung chuyển dữ dội……

Mưa ầm ầm trút xuống……

Những con Gargoyles quay lại với Dargor lần cuối để hoàn tất sứ mạng… Chúng dang rộng đôi cánh, mang theo những con quái vật khiếp đảm đang nằm la liệt trên mặt đất…

Điểm đến của chúng là cánh cổng Chaos Portal, vẫn đang mở ra đen ngòm giữa vùng đất ma quỷ. Linh hồn của lũ quỷ sẽ trở về nơi chúng sinh ra, một nơi xa xăm nào đó giữa vũ trụ bao la. Còn bầy Gargoyles kia, với sức mạnh huyền bí của mình, đủ sức đóng lại cánh cổng chết chóc, và ở đó, một lần nữa, chúng sẽ trở lại với cát bụi và trở thành những Guardian dũng mãnh canh gác cánh cổng, không cho phép một ai mở nó ra một lần nữa…

Các bạn của tôi… Tôi đã dùng toàn bộ phép thuật của mình chiến đấu với chúng… cả Vankar cũng đã bị tiêu diệt bởi White Magic của tôi… và bây giờ, tôi cũng đã mỉm cười dưới ánh nắng sớm tuyệt vời trên đồng cỏ Elgard…. Người anh hùng phương Bắc của chúng ta đã hy sinh… nhưng sự hy sinh ấy sẽ được tất cả chúng ta, con cháu chúng ta, và con cháu của chúng nhớ tới,…. như một điều thiêng liêng nhất….

Algalord, sẽ được xây dựng lại ngay sau khi Mặt trời mọc, và lần này, Gargoyles sẽ thành biểu tượng của thành phố. Khi tất cả chúng ta tưng bừng trong chiến thắng lịch sử, với một dòng sông đầy rượu vang, khắp nam bắc, đâu đâu người ta cũng nhắc tới người anh hùng phương Bắc

băng giá, và cả Dargor nữa,…. Sau trận đánh, Dargor biến mất, không ai biết anh ở đâu. Dù sao cũng xin được cảm ơn anh, khi mà ánh sáng gặp bóng tối, khi cái thiện gặp cái ác, điều gì cũng có thể xảy; The shadow can hold magic! Không ai biết Dargor ở đâu. Có phải anh đang ở đây?? Dù sao, cũng cám ơn anh một lần nữa, dù anh đang ở đâu, Dargor dũng mãnh,……….

Với những dòng cuối cùng của cuốn sử thi này, câu chuyện về thanh gươm lục bảo đến đây, đã chấm dứt… một trong số ngàn vạn cuốn sách về cuộc chiến bất tận giữa cái thiện và cái ác, mà giá trị của nó chỉ có thể được nhận ra từ chính bản thân nó….. Cái ác luôn tồn tại, luôn hiện hữu, nhưng sẽ không bao giờ chiến thắng, khi mà cái thiện vẫn còn đủ sức chống lại chúng, ……

Aresius of Elgard

THE END

Helloween 1 huyền thoại của Power Metal (Sưu tầm)

« lúc: Tháng Một 06, 2009, 23:19:22 »

       Helloween là một trong những ban nhạc đầu tiên và đóng rất nhiều cho Power Metal, sự nghiệp của họ lúc lên rất cao, lúc xuống thấp, thành viên thay đổi khá nhiều và họ cũng bị nhiều lời chỉ trích nhưng đóng góp của họ cho Metal vô cùng to lớn.

    Câu chuyện về Helloween bắt đầu vào năm 1979 tại thành phố Hamburg của nước Đức, hai tay guitar Kai Hansen và Piet Sielck tách từ ban nhạc Gentry. Họ thành lập ban nhạc Ironfist với Ingo Schwichtenberg chơi trống và Markus Grosskoph chơi bass. Tuy nhiên, Piet lại sớm tách khỏi nhóm để tham gia công việc ghi âm cho các ban nhạc. Kai mời Micheal Weikath từ ban nhạc Powerfool tham gia. Sau đó, họ đổi tên ban nhạc thành Helloween.

    Năm 1984, Helloween ghi âm hai ca khúc "Oernst For Life" và "Metal Invaders" với hãng Noise Records. Năm sau, họ cho ra một mini album rồi sau đó là album đầu tay hoàn chỉnh mang tên "Walls of Jericho". Năm 1986, họ phát hành một single album "Judas". Kai cảm thấy khó khăn trong việc đảm nhiệm cả hai vai trò guitar và hát.

    Năm 1987, Kai mời ca sĩ Micheal Kiske từ ban nhạc vô danh "Ill Prophecy" tham gia. Ban nhạc định phát hành album đôi nhưng hãng Noise yêu cầu phát hành từng album một. Trong năm đó, "Keepers Of The Seven Keys-Part 1" được phát hành. Album thành công rực rỡ trên toàn châu Âu, Mỹ và được vô số tạp chí khen ngơi. Năm 1988, họ còn thành công hơn nữa với "Keeper Of The Seven Keys-Part 2". Cho đến bây giờ, bộ đôi album này vẫn còn bán rất chạy. Đây là hai album rất kinh điển của Power Metal.

    Tuy nhiên, không rõ lý do gì thành viên chủ lực Kai Hansen lại ra đi ngay trong chuyến biểu diễn cho bộ đôi "Keeper...". Sau này, Kai gặt hái rất nhiều thành công với nhóm Gamma Ray. Tay guitar Roland Grapow của ban nhạc Rampage được mời vào thay thế cho Kai. Năm 1989, họ phát hành ba live album "Live In The UK" tại Anh, "Keepers Live" tại Nhật Bản và "I Want Out Live" tại Mỹ.

    Năm 1990, Helloween muốn chuyển sang ký hợp đồng với hãng EMI (hãng này góp phần đưa Iron Maiden lên đỉnh cao) nhưng hãng Noise không chịu kết thúc sớm hợp đồng. Một cuộc khẩu chiến giữa Helloween và hãng Noise diễn ra, Helloween muốn một hãng dĩa lớn hơn phát hành các album của họ ở Mỹ, Nhật Bản. Khán giả không hiểu chuyện gì xảy ra với họ. Cuối cùng, Helloween phá vỡ hợp đồng với hãng Noise nhưng cũng không ký với EMI. Năm 1991, Helloween ký hợp đồng với hãng dĩa mới IMO rồi cho ra album "Pink Bubbles Go Ape". Tuy nhiên, album này không thành công như bộ đôi "Keeper...". Tìn đồn về sự chia rẽ như các thành viên lan nhanh trong chuyến biểu diễn sau đó. Kiske và Ingo bất đồng với Roland và Markus còn Weikath cảm thấy chán nản.

   Năm 1993, Helloween cho ra một album tệ hại nhất trong sự nghiệp của họ "Chameleon". Họ nhận được rất nhiều lời chỉ trích trong khi nội bộ vẫn bất đồng. Nhận thấy không thể kéo dài được nữa, Ingo và Kiske tách khỏi nhóm.

    Năm 1994, Helloween ký hợp đồng với hãng Castle, lúc này ca sĩ Andi Deris từ nhóm "Pink Cream 69" và tay trống Uli Kusch của Gamma Ray tham gia. Helloween bước vào giai đoạn mới. Album đầu tiên trong kỷ nguyên Deris la'm thủ lĩnh "Master Of The Rings" được phát hành và họ được chào đón trở lại. Từ thời kỳ "Keeper..." họ mới cho ra một album xuất sắc nữa. Một năm sau, album này phát hành tại Mỹ gần ngày lễ Halloween.

    Sau khi thực hiện thành công tour "Master Of The Rings", Helloween cho ra album mới "The Time Of The Oath" lấy nguồn cảm hứng từ các bản thiên hùng ca. Cùng lúc đó, họ nhận được tin Ingo thiệt mạng trong một vụ tai nạn giao thông. Họ làm bộ đôi live album "High Live" vào cuối năm. Năm đó, Micheal Kiske cho ra album đầu tay "Instant Clarity" khá thành công.

    Năm 1997, Roland Grapow cho ra solo đầu tay "The Four Seasons of Life", Andi Deris cũng phát hành solo "Come In From The Rain" cho riêng mình. Các thành viên của Helloween đều có nhưng dự định riêng nhưng không vì thế mà họ chia rẽ. Năm 1998, Helloween cho ra bộ tứ album "The Pumpkin Box" bao gồm các ca khúc hay từ năm 1985 đến 1993 cùng với tiểu sử và các bài phỏng vấn. Cuối năm, họ cho ra album mới "Better Than Raw", đây tiếp tục là một thành công của họ.

    Năm 1999, các thành viên mới và cũ của Helloween liên tục cho ra các solo của mình, Roland Grapow cho ra một mini album "Kaleidoscope". Markus Grosskopf và Uli Kusch hợp tác với nhiều ban nhạc khác của Đức cho ra album "Catch The Rainbow" để ghi nhận đóng góp của Rainbow. Micheal Kiske hoàn thành album thứ hai của mình "Readiness to Sacrifice". Andi Deris cho ra một album riêng "Done With Mirros". Đến cuối năm , Helloween phát hành album "Metal Jukebox" bao gồm các ca khúc hay từ khi Andi Deris tham gia nhóm.

    Năm 2000, Helloween hoàn thành album "The Dark Ride" và phát hành vào tháng 10 tại châu Âu rồi vài tuần sau tại Nhật bản. Họ lại tiếp tục thành công vào đầu thế kỷ 21. [-] 

(Trích từ bài viết của Metalism

Bài mà mình thích nhất là bài: Forever and One (Neverland) nghe wai ko chán      

  Ai biết thêm những thông tin mới về Helloween thì vui lòngbổ sung thêm để mọi người cùng biết nha  Thanksán được miêu tả như “Metal Opera” vì nó có cốt truyện và mỗi nhân vật là một ca sĩ, chứ không phải là một vở opera theo cách nghĩ cổ điển. Nó đơn thuần chỉ là tập hợp lại các phần nhỏ của một cuốn sách.

Về phong cách, đa số các ca khúc theo thể loại Melodic Power Metal với những âm thanh “dày”, dàn nhạc và các đoạn hợp xướng, vì vậy Avantasia cũng được thừa nhận là chơi Symphonic Power Metal. Mỗi phần đều có một ca khúc, “Inside” ở phần I và “In Quest For” ở phần II, hầu như được đệm bằng piano. Phần I có 3 bài nhạc không lời ngắn.

Ca khúc có quy mô nhất là ca khúc đầu tiên của Phần II, “The Seven Angels”, được trình diễn bởi 11 ca sĩ. Ca khúc này dài hơn 14 phút và bao gồm một đoạn nhạc cổ điển, 2 đoạn guitar solos, hợp xướng, một đoạn nhạc với piano và đoạn cuối anh hùng ca. Ca khúc này là một phần quan trọng trong cốt truyện, nó tóm tắt phần I.

Cốt truyện

Nhân vật chính của câu chuyện là Gabriel Laymann, một thầy tu trẻ tại một tu viện của Dominica tại Mainz. Vào năm 1602, cùng với những người khác, Gabriel tham gia vào cuộc săn lùng phù thuỷ. Nhưng bất ngờ, Gabriel đã gặp lại chị gái mình là Anna Held, người đang chờ phán quyết vì bị kết tội là phù thuỷ, Grabiel bắt đầu nghi ngờ. Anh lẻn vào thư viện và đọc một cuốn sách cấm. Thầy của anh là Bruder Jakob đã phát hiện ra và Grabriel bị nhốt vào nhà giam.

Trong lúc ở nhà giam, anh gặp một ông lão, Lugaid Vandroiy, người tự giới thiệu mình là một tu sĩ ("Reach Out for the Light"). Ông kể với Grabiel về một không gian khác, thế giới Avantasia, nơi đang gặp nguy hiểm. Vandroiy đề nghị sẽ cứu Anna nếu Gabriel đồng ý trợ giúp Avantasia. Họ bàn bạc việc chạy trốn ("Breaking Away"), Vandroiy đưa Gabriel đến một hầm đá cổ, nơi che giấu cánh cổng giữa hai không gian, và sử dụng nó để đưa Gabriel tới Avantasia.

Trong lúc ấy, Johann Adam von Bicken, giám mục của Mainz, Bruder Jakob và Falk von Kronberg – một viên chức pháp luật – tới Rome để gặp giáo hoàng Clement VIII ("The Glory of Rome"). Họ mang theo cuốn sách mà Gabriel đã đọc. Các tài liệu cổ nói rằng quyển sách này là phần cuối cùng trong 7 phần của một miếng phong ấn, thứ sẽ giúp chủ nhân của nó kiến thức vô hạn nếu người đó mang nó đến toà tháp ở trung tâm Avantasia.

Khi Gabriel đến Avantasia (“Avantasia”), anh được chào đón bởi 2 cư dân nơi đây là yêu tinh Elderane và người lùn Regrin ("Inside"). Hai người nói với anh về cuộc chiến chống lại những thế lực ác quỷ, kế hoạch của giáo hoàng, và những hậu quả của nó. Nếu như giáo hoàng sử dụng miếng phong ấn, sự kết nối giữa Avantasia và thế giới con người sẽ bị phá vỡ cùng với những hậu quả đau thương cho cả 2 thế giới. Gabriel chỉ đến ngọn tháp vừa kịp lúc, và trong khi giáo hoàng nói chuyện với tiếng nói bí ấn sâu thẳm, Gabriel dự định lấy cắp miếng phong ấn. Gabriel gây hỗn loạn và mang miếng phong ấn về thành phố yêu tinh ("The Tower"). Phần I tới đây kết thúc.

Trong khi Gabriel rời khỏi toà tháp, mang theo bên mình mảnh phong ấn, tay giáo hoàng, viên giám mục và tên quận trưởng vẫn không thể tin được là mình đã thất bại. Giọng nói bí ẩn trong toà lâu đài gào thét và đe doạ rằng cả ba sẽ biết được cơn giận của các vị thần là thế nào.

Những ngày sau đó, trong khi đang ở lại Sesidhbana, khu vực đẹp nhất Avantasia, Gabriel ngày càng biết rõ hơn chuyện gì đang diễn ra, cũng như hiểu hơn về tầm quan trọng của việc anh ta đang làm: sự ảnh hưởng to lớn của những thế lực đen tối trong toà tháp lên những kẻ đầy tớ trung thành của nó, lấy đi linh hồn của họ... (The Seven Angels)

Trong những ngày ở lại Sesidhbana, Gabriel quyết định tìm hiểu thêm về thế giới tâm linh, vì vậy Elderane đưa anh tới Cây Thông Thái (tree of knowledge). Tại đó, Gabriel có thể tìm được câu trả lời cho những câu hỏi của mình, nhưng nó cũng có thể làm rối trí anh ta. Cái cây đã làm Gabriel lúng túng hơn là những gì anh tưởng tượng trước đó (The Looking Glass): Đôi khi bạn phải nhảy vào dòng nước xoáy mới có thể rửa sạch tâm hồn... (In Quest For)

Trên mặt hồ cạnh chiếc cây, Gabriel bất chợt nhìn thấy hình ảnh Bruder Jakob lúc trẻ đang phải chịu đựng sự tra tấn trong Hoả Hồ (a lake of flames) ("The Final Sacrifice"). Mặc dù rất nhớ và luôn mong muốn trở về nhà để giải cứu cho Anna, Gabriel vẫn đồng ý làm theo lời cầu xin của Jakob là giải thoát cho phần linh hồn lúc trẻ của ông đã bị đánh cắp và đang bị giam giữ ở Rome (Anywhere).

Khi trở về, Gabriel nói cho Elderane những gì anh thấy và việc mình đã giải thoát cho linh hồn của Jakob. Elderane kể cho Gabriel nghe về một chiếc cốc vàng ở một lăng mộ ở Rome, nơi giam giữ rất nhiều linh hồn, và khuyên Gabriel nên bảo vệ chiếc cốc. Bất chấp sự ngăn cản của những yêu tinh khác, Gabriel và Regrin trở lại thế giới con người. Họ tìm chiếc cốc và đánh đổ nó, nhờ vậy mà các linh hồn đã được giải thoát ("Chalice of Agony"). Cũng trong lúc chiếc cốc đổ, con thú dữ đã tỉnh dậy và tấn công họ; Regrin đã bị giết nhưng Gabriel đã chạy thoát. Khi trở về Avantasia, Gabriel được kể rằng sau khi chiếc cốc bị đánh đổ, đạo quân bóng tối đã bị suy yếu và thua trận.

Trở về thế giới con người, Gabriel quay lại chỗ Vandroiy, người vẫn đang đợi anh. Vị tu sĩ thực hiện lời hứa của mình và ông đã lẻn vào nhù tù lúc đêm khuya để giải thoát cho Anna. Trong lúc đang làm việc này, Vandroiy gặp Bruder Jakob, người cũng đang muốn làm việc tương tự. Falk von Kronberg, người đã có sự nghi ngờ từ trước ("Memory"), bắt được và giam giữ họ. Một cuộc tranh đấu đã nổ ra; Vandroiy đã bị sát hại bởi Kronberg. Tuy vậy, cuối cùng, Kronberg đã bị Bruder Jakob giết. Anna trốn thoát và hội ngội cùng Gabriel. Họ cùng đi tới một tương lai vô định ("Into the Unknown").

Tôn giáo trong Avantasia

Những tín đồ Cơ-đốc và tín đồ Thiên Chúa Giáo chiếm vị trí quan trọng trong cốt truyện. Những người của nhà thờ như Giáo hoàng Clement VIII đã bị chỉ trích bởi suy nghĩ họ nắm giữ sự thật và họ khiến cho mọi người mất đi bản tính tốt đẹp của mình, không nhận ra rằng những người của nhà thờ đang che giấu sự thật. Những lời phê bình như vậy cũng xuất hiện thường xuyên trong những tác phẩm của Tobias Sammet: một số ca khúc của Edguy như "The Kingdom" (1996) hay "Theater of Salvation" (1999) bao gồm đề tài, cốt truyện và những đoạn đối thoại đơn giản trong Avantasia.

“Hotel California” khẳng định sức sống

« lúc: Tháng Ba 23, 2006, 09:38:30 »

Ca khúc rock bất hủ Hotel California đã một lần nữa đưa các “chú đại bàng” The Eagles cất cánh bay xa khi đứng ở vị trí quán quân trong 100 ca khúc hay nhất thời đại trong một cuộc bầu chọn của ABC News.

Ra đời vào giữa những năm 70 khi mà phong trào rock thực sự phát triển mạnh mẽ với những cây đại thụ như Led Zeppelin, The Doors đặc biệt là sức hút của The Beatles và ông vua nhạc Rock’n roll Elvis Presley, Hotel California vẫn khẳng định được "sức công phá" mạnh mẽ của nó. Tấn công liên tiếp các bảng xếp hạng và dẫn đầu nhiều tuần liền ở Bildboard, chỉ với thành công của Hotel California, The Engles đã khiến cả thế giới phải biết đến tên mình".

Trong một cuộc bầu chọn khác do các thính giả của chương trình radio kỹ thuật số Planet Radio bỏ phiếu Hotel California cũng "chễm chệ" ở vị trí thứ bảy trong danh sách 10 ca khúc rock hay nhất của mọi thời đại. 

Chính nhờ những thành công này mà "chủ của khách sạn ở California" đã liên tiếp nhận được sự vinh danh "đáng mơ ước" của rất nhiều các bannhạc khác. Năm 1998, nhóm được đưa vào Viện lưu danh nhạc rock 'n' roll và trong buổi lễ công bố sự kiện này, tất cả 7 thành viên từng tham gia vào Eagles đã diễn chung trên sân khấu. Năm 2001, nhóm tiếp tục được ghi danh vào Viện lưu danh các nhóm hát (Vocal group Hall of fame). 

Trong thời gian gần đây, dù thực sự không còn giữ được phong độ như 30 năm về trước (tất cả các thành viên đều đã U60) nhưng sự trở lại của The Engles vẫn gây nhiều bất ngờ cho những người hâm mộ. Năm 2003, nhóm tung ra đĩa đơn mới về sự kiện ngày 11/9 mang tên Hole in the world, một ca khúc đầy triết lý về những rạn nứt không thể hàn gắn của thế giới. 

Năm 2004, còn lại 4 thành viên, nhóm thực hiện chuyến lưu diễn mang tên Farewell tour 1 với sự hỗ trợ của 8 nhạc công khác. Giữa năm 2005, bộ DVD gồm 2 đĩa mang tên Farewell 1: Live from Melbourne được phát hành. Phần nhạc mục trong đĩa trải rộng 30 bài hát thành công của nhóm trong sự nghiệp kéo dài 30 năm cùng với những bài quan trọng trong những chuyến bay solo của từng cánh đại bàng Joe Walsh và Don Henley. Giống như Hell freezes over, đây là một đĩa live xuất sắc đến mức nhiều nhà chuyên môn cho rằng "có lẽ nên đưa Eagles vào một trong những nhóm nhạc phải xem diễn live trước khi chết!". 

Những năm gần đây, nhiều bộ đĩa tổng hợp lại sự nghiệp của Eagles được tung ra với những chiêu thức khác nhau chứng tỏ nhu cầu về nhạc của Eagles vẫn còn rất lớn. Quyển sách kèm theo bộ đĩa đôi The complete greatest hits của nhóm phát hành năm 2003 là phần phỏng vấn của Cameron Crowe với Don Henley và Glenn Frey về từng bài hát trong đĩa, quan trọng hơn là đĩa đơn mới Hole in the world cũng có mặt trên đĩa. Một bộ đĩa khác mà người viết có được mang tên đơn giản Eagles gồm 9 đĩa phát hành đầu năm 2005. Box set được phát hành giới hạn 20.000 bản trên toàn thế giới này gồm toàn bộ các album nhóm thực hiện với hãng Asylum từ album mang chính tên nhóm năm 1972 đến album live năm 1980 và một đĩa bonus là đĩa đơn năm 1978 Please come home for Christmas và Funky new year. Hè năm nay, nhóm sẽ lưu diễn tại châu Âu. Đại bàng vẫn tiếp tục tung cánh mặc cho tour diễn có tên là Từ biệt...

Sau đây là danh sách 10 ca khúc đứng đầu bảng: 

10. Light My Fire - album The Doors của ban nhạc Doors (phát hành năm 1967); 

9. Every Breath You Take - Synchronicity, The Police (1983); 

8. Let It Be - Let It Be - The Beatles (1970); 

7. Losing My Religion - Out of Time, R.E.M. (1991); 

6. American Pie - American Pie, Don McLean(1971); 

5. Imagine - Imagine - John Lennon & Plastic o­no Band (1971); 

4. Stairway to Heaven - Led Zeppelin IV, Led Zeppelin (1971); 

3. Smells Like Teen Spirit - Nevermind, Nirvana (1991); 

2. Hey Jude - Hey Jude, Beatles (1968);

1. Hotel California - Hotel California, The Engles (1977)

Vũ Thược (tổng hợp) - (Theo VTV)

Chuyện về lời đồn Paul McCartney đã chết

Ai yêu thích The Beatles chắc cũng từng nghe nhiều về lời đồn Paul McCartney đã chết. Paul hiện tại chỉ là 1 ng' giả đc tuyển chọn trong 1 cuộc thi ai giống Paul nhất

Chuyện xảy ra trong 1 lần thu âm ngày 9/11/1966, Paul cãi nhau với các thành viên khác và anh tức tối bỏ về, và gặp tai nạn xe rất nặng, ko qua khỏi ! 

Có rất nhiều chi tiết đc ng' ta đồn thổi để chứng tỏ điều này, có những điều khá vớ vẩn, có những điều lại rất thú vị 

ví dụ như album Abbey Road:

John như God trong màu áo trắng, rùi Ringo thì áo đen như cha sứ, Paul là ng' đã chết ở giữa, bước lệch sang 1 bên, cuối cùng là Harrison như 1 ng' đào huyệt chôn (trong trang phục khác hẳn)

rồi chi tiết Paul cầm điếu thuốc trên tay phải, như 1 ý đồ cố tình, vì Paul thuận tay trái

Bìa album Let it be :

Tất cả 3 thành viên kia đều quay mặt sang cùng 1 hướng, phông nền màu trắng, riêng Paul thì nhìn thẳng trên phông màu đỏ 

cái mic thì che đi cái vết sẹo của paul.. 

----------------------------------------------------------------

rồi trong các lyric, có rất nhìu điểm nghi vấn, và ấn tượng nhất là chuyện nghe ngc lại, thủ thuật backwards masking, khi nghe xuôi thì bình thường, nhưng reverse lại ta sẽ nghe đc 1 lời khác đc ẩn trong đó (stairway to heaven của Led Zeppelin, hay Empty spaces của Pink Floyd là 1 ví dụ)

điển hình là bài Blue Jay Way trong album Magical Mystery Tour:

click here

khi nghe forward bình thường : 

Please don't be long, please don't you be very long. Please don't be long for I may be asleep.

khi nghe ngc lại

He said 'get me out'. Paul is what is. Paul is Hare Krishna it seems. Paulie is naughty.

nghe rất thảm 

Something trong album Abbey Road: clickhere

Forwards: Somewhere in her smile she knows that I don't need no other lover. Something in her style that shows me. I don't want to leave her now, you know I believe in how.

Backwards: I am a Beatle no one. I am a Beatle no one. For shall thou art, something is with us. A bottle? No, a demon idol. So unleash my answer, mirror with us.

--- kinh dị nhất là bài revolution 9 trong white album disc 2 :

tiêu biểu là đoạn hát number 9 number 9 http://homepages.tesco.net/harbfamily/opd/audio/revturn.mp3

reverse lại sẽ nghe thành : turn me on dead man, turn me on dead man... 

đoạn này nghe xuôi hay ngc đều cảm giác đc 1 sự chết chóc  

White Album là album bị nghi ngờ vì những đoạn reverse gần như là cố tình sắp đặt, bài I'm so tired 

http://homepages.tesco.net/harbfamily/opd/audio/tired.mp3

cuối bài, sau đoạn tiếng chim vỗ cánh bay, nếu bật lớn, sẽ nghe hình như John đang lầm rầm điều gì đó, nhưng ko tài nào nghe đc là cái gì, thế nhưng nếu reverse lại sẽ nghe thành thế này :

Paul is dead man. Miss him, miss him, miss him!

như vậy có lý lẽ cho rằng đây là 1 sự cố tình.

--------------------------------------------------------------------------

ngoài ra, trong các video clip cũng có sự bí ẩn

bài Hello, Goodbye. Ta thấy Paul trong trang phục áo màu xanh, khác hẳn với các thành viên khác, và cây đàn của anh đang chơi là Rickenbacker chứ ko phải cây Hofner thường thấy, hơn nữa, trên cây bass có những vệt màu đỏ như máu..

video bài Strawberry Fields Forever

mỗi lần John hát Nothing is real, là hiện lên 1 bức ảnh của paul, và bài hát có 3 lần như vậy

------------------------------------

vẫn còn rất nhìu bằng chứng đc đưa ra, tui ko thể kể hết :P

chuyện về Paul luôn là 1 bí ẩn, nếu lên google và type, Paul is dead, sẽ có rất nhiều trang web cho các bạn đọc  tin hay ko là ở mỗi ng' thôi, nhưng sự thật là đã có 1 cuộc thi: ai là ng' giống Paul nhất 

tui thì rất ấn tượng với bài Revolution #9  rất ấn tượng 

« Sửa Lần Cuối: Tháng Mười 19, 2006, 11:41:17 bởi X-rock »

 Đăng nhập

Elvis Presley - cuộc đời và sự nghiệp

« lúc: Tháng Mười 14, 2006, 16:55:22 »

Cuộc đời và sự nghiệp của Vua nhạc Rock kiêm diễn viên Elvis Presley

Từ một cậu bé nghèo khó. Elvis Presley trở thành ông vua nhạc Rock. Nhưng cũng như nhiều kẻ mới giàu khác, anh bị quật ngã bởi ma tuý, phụ nữ và những kẻ bợ đỡ quanh mình.

Trong thời kỳ suy thoái của nước Mỹ, Elvis là đứa trẻ tinh khôn, lễ phép thường giấu bơ và bánh mì Sandwich lúc khách đến vì... sợ họ ăn mất ! Anh có bà bác Dixie là dân sống nhờ phát chẩn bị hóa điên vì bệnh giang mai. Bà cố tổ của anh có 10 người con nhưng chưa bao giờ lấy chồng. ông Vernon cha anh bị tù tội vì tội giả mạo và bị đuổi khỏi thành phố vì buôn rượu lậu. Bà Gladys mẹ anh mang nửa dòng máu Do Thái, nửa dòng máu Scotland lại sẵn sàng làm bất cứ việc gì để nuôi sống gia đình...

Gia đình Elvis sống trong ngôi nhà hai phòng đơn giản hoặc sống nhờ nhà bà con. Vào giai đoạn khó khăn, bà Gladys mang vải quấn ở chân thay cho giầy. Bà uống rượu nhiều, sau đó ăn hành tươi để tẩy mùi rượu. Năm Elvis ra đời cha anh mới 18 tuổi, mẹ anh 22. Cùng sinh với anh ngày 8-1-1935 là cậu em (sinh đôi) Jesse Gabon nhưng bị chết.

Lúc Vernon vào tù, bà Gladys bảo con trai hãy xứng đáng làm người đàn ông trong gia đình và chăm sóc cho mẹ. Năm đó Elvis mới 3 tuổi ! Mỗi khi anh sợ hãi và lo lắng, người mẹ bảo anh đừng lo vì đã có Jesse phù hộ ở thiên đường.

Khi Vernon ra tù, ông thấy mình bị loại khỏi quan hệ thân mật gữa vợ và con trai. Năm lên 10, Elvis đã phải làm việc để phụ giúp gia đình. Có lúc cả cha mẹ đều thất nghiệp nên Elvis phải làm việc từ 3 giờ đến 10 giờ tối. Quà sinh nhật thứ 10 của anh là chiếc đàn guitar. Nhờ cây đàn này anh có thể chơi theo nhạc trên radio. Người bạn mới- ca sĩ Mississppi Slim đã dạy anh hát. Tại cuộc thi tài năng ở Hội chợ Albama/Mississppi anh đoạt giải hai (5USD tiền thưởng) với bài hát Old shep-Gladys bật khóc trước vinh quang nhỏ nhoi của con mình.

Năm Elvis 13 tuổi gia đình phải xa Tupelo vì cha anh phạm tội buôn rượu lậu. Họ đến Memphis. Tại đây anh thường xuyên ghé thăm các khu phố người da đen và nghe họ hát thánh ca. Anh cũng mơ có một bộ quần áo mua ở cửa hàng Lansky’s mà các nhạc sĩ da đen thường mặc.

Elvis muốn kiếm nhiều tiền hơn nữa, nhưng bà Gladys buộc anh phải đi học. Thậm chí bà theo anh đến tận trường một thời gian cho tới lúc Elvis yêu cầu mẹ đừng làm vậy vì mắc cỡ với bạn bè.

Thời niên thiếu, Elvis đã có bạn gái. Bà Gladys cực lực ngăn chặn việc này vì theo bà phụ nữ vừa là ...con điếm vừa là thiên thần! Một bên lương thiện một bên xấu xa.

Ngoài giờ học Elvis làm tài xế cho một công ty điện. Với mức lương 45 USD một tuần anh có thể giúp đỡ gia đình. Tâm sự với người anh họ, Elvis nói:"..Nếu tôi trở thành ca sĩ tôi sẽ cho Gladys những thứ mà Vernon không có."

Buổi biểu diễn đầu tiên của Elvis được tổ chức ở Hideaway. Anh bị ai đó ném chai nước vào người. Dù nghề nghiệp không tiến triển, Elvis lại sa đà với nhiều thiếu nữ hư hỏng. Tháng 6-1953 anh đến Sun Studio trả 4 USD để được ghi âm bài hát tự viết tặng mẹ nhân ngày sinh nhật. Một nhân viên studio tên Marion Keisker phát hiện ra giọng của anh- khi Elvis trở lại đây lần thứ 2 vào tháng 1-1954 để ghi âm bài hát khác tặng bạn gái- đã cho Elvis số điện thoại riêng.

Keisker mở bài hát của Elvis cho ông chủ Sam Phillips nghe. Từ lâu Sam tin rằng nếu tìm được một thanh niên da trắng có giọng hát da đen thì ông ta sẽ trở thành tỉ phú. Dù không tin Elvis là kẻ đó nhưng Sam linh tính là mình đã có một "món giá trị" trong tay. Tháng 7-1954 Sam Phillips ghi âm hai bài hát That’s all right(Mama) và Blue Moon of Kentucki của Elvis. Sau đó là Baby let’s play house và Mystery Train Elvis cũng xuất hiện tại nhiều buổi vũ hội trường học, các hội chợ nông thôn và trên cả show phát thanh The Lousiana Hayride.

Các cô gái hoá rồ xé cả quần áo của Elvis lúc anh xuất hiện. Nhưng anh chỉ bỏ công việc đang làm sau khi Sam đồng ý trả cho anh 200USD tiền hoa hồng mỗi lần thu băng. Vật đầu tiên anh mua là chiếc váy và giầy cho mẹ.

Vào lúc đó Ðại tá Tom Parker xuất hiện. Ông ta không hề có quân hàm đại tá (thậm chí họ tên Tom Parker cũng giả) mà là một dân nhập cư lậu Hà Lan có tên Andrean Van Kujik. Tom có hai tham vọng: trở thành giàu sụ và lẩn tránh được sự phát hiện của cơ quan cư trú Mỹ (Ðó là lý do giải thích tại sao Elvis không bao giờ lưu diễn bên ngoài nước Mỹ). Tom thuyết phục Elvis bỏ Sam Phillips để qua làm việc cho RCA Records. Ông bầu của "nhà Vua" này không quan tâm đến âm nhạc lắm nhưng cột Elvis vào một hợp đồng 50/50. Quan tâm của ông là điện ảnh và những sản phẩm ăn theo nhà vua như móc khoá, đàn...

Khi chuyển từ Sun Records của Sam qua RCA Paker đưa cho Elvis 5000USD. Anh mua cho Gladys và Vernon ngôi nhà ở một khu vực yên tĩnh. Sau đó anh lao vào cuộc sống trác táng.

Năm 1956 là năm đáng nhớ với Elvis. Nhân ngày sinh nhật thứ 21 anh ghi âm bài hát Hearbreak Hotel và đi lưu diễn nhiều nơi. Anh cũng xuất hiện trong The Ed Sulivan Show và nhân được nhiều lời mời đóng phim. Mọi việc xảy ra nhanh đến nỗi, Elvis không bắt kịp sự nổi tiếng của mình và cơn sốt Rock’n’Roll. Ðột ngột, đứa trẻ nghèo khó trở thành ông vua. Chính vì muốn giữ uy tín cho mình mà Elvis đã thu lại bản nhạc Hound Dod đến 31 lần mới vừa ý.

Trên bục diễn anh như một kẻ rối loạn thu hút phụ nữ. Tuy nhiên nhà vua lại cảm thấy rất cô độc trước đám đông. Anh xem bộ phim Nổi loạn không nguyên nhân đến 21 lần và rất lo người khác chỉ yêu anh ta vì tiền.

Elvis không có tham vọng trở thành ngôi sao điện ảnh vì biết tài năng của mình rất giới hạn trong lĩnh vực diễn xuất. Các bộ phim đáng chú ý nhất của anh là Love Mc Tender, Jailhouse Rock và King Creole. Anh cũng không thích Hollywood nhưng lại thích kết bạn với những con người như Ann-Margret, Natalie Wood và Nancy Sinatra. Tiền bạc nhiều đã giúp anh mua trang trại Graceland và đưa cha mẹ cùng bà ngoại Minnie về đó sống, ngoài ra còn một số bạn bè và anh em họ.

Năm 1958 Elvis nhập ngũ dù rất ghét làm lính. Tháng 8-1958, Gladys chết vì rượu huỷ hoại gan. Tại tang lễ, Elvis khóc trên quan tài : "Ðừng bỏ con, Mama. Con làm tất cả điều này là vì mẹ. Hãy cho con một cơ hội nữa".

Các nhà viết tiểu sử Elvis đều đồng ý một điều : Sau khi bà Gladys chết, cuộc sống của nhà vua đã thay đổi. Anh quan hệ bừa bãi và mua phụ nữ bằng của cải vật chất để rồi khinh bỉ họ.

Nghề nghiệp ca hát, đóng phim và thương mại hoá tên tuổi của Elvis vẫn sáng chói như xưa. Anh là ngôi sao được trả cao nhất Hollywood : 1 triệu USD mỗi phim dù anh diễn xuất không hay.

Trong suốt thập niên 1960, Elvis thực hiện từ hai đến ba bộ phim mỗi năm.

Tại Hollywood, Elvis sống sa đà với phụ nữ và ma tuý. Ông Vernon lấy vợ khác. Dù phản đối điều này nhưng Elvis vẫn để dì ghẻ sống chung dưới một mái nhà.

Năm 1967 anh cưới Priscilla. Có thai, Priscilla sinh Lisa Marie. Buồn chán vì phải ngồi ở nhà, chị rất mong được sống gần chồng càng nhiều càng tốt.

Năm 1968, chương trình Elvis TV Special trên kênh NBS được hoan nghênh nhiệt liệt. Parker muốn Elvis hát 20 bài hát Giáng sinh nhưng thay vào đó anh hát các bài hát cổ điển của thập niên 1950. Bài hát ì I can dream lại đưa nhà vua trở về vị trí Top 20 Mỹ. Trong năm 1969, Elvis trở lại với các vòng lưu diễn sống. Hai bài hát In The Ghetto và Suspicious Minds gây tiếng vang rất lớn.

Tuy nhiên, lối sống của Elvis vẫn hết sức căng thẳng. Anh vẫn phỉa dùng thuốc anh thần và thuốc ngủ. "Anh sử dụng ma tuý bình thường như người ta ăn trứng omelette" Priscilla kể lại.

Cuối cùng đến năm 1972, chịu hết xiết cách sống của chồng, Priscilla chạy theo huấn luyện viên karate Mike Stone. Vỡ nát con tim và tức giận, Elvis doạ giết Mike.

Sau khi Prisscilla ra đi, Elvis càng suy sụp. Anh lên cân khủng khiếp vì ăn quá nhiều. Năm 1976, ca sĩ Barbra Streisand muốn anh đóng một vai trong bộ phim Một ngôi sao mới sinh nhưng Parker không đồng ý.

Ma tuý, súng và phụ nữ vẫn kiểm soát cuộc sống của Elvis. Anh sống vào ban đêm với mảnh len thêm cocain nhét trong mũi và chung quanh là các cô gái mớm đủ thứ thức ăn vào miệng anh.

Năm 1977, hai cựu giai nhân của Elvis viết một cuốn sách về trang trại Graceland. Ðiên tiết, anh doạ sẽ bắn họ. Nhưng ngày 16-81977, trái tim anh đã ngừng đập vì quá mệt mỏi. Ngôi sao 42 tuổi này chết trên sàn phòng tắm. Phát hiện ra anh là vị hôn thê Ginger Alden, Hoa hậu An toàn giao thông Memphis năm 1976. Trước khi chết Elvis hứa với Alden là anh sẽ không bao giờ ngủ gật trong phòng tắm. Nhưng nhà vua Rock đã gục ngã và chết ở đó

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro