Xi bum bum-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mì gói xào bò

Xe đụng hất văng thằng đó vào chân lúc anh đang gọi thức ăn. Trong bán kính hai mươi mét của cơ quan vào buổi chiều chỉ có hai lựa chọn: hoặc mì gói xào bò hoặc cơm chiên hải sản. Ngày nào cũng vậy, cũng thằng nhóc đó đưa ra cái thực đơn buồn thỉu buồn thiu.

Thế là ngày nào anh cũng ăn món đó.

Lúc thằng đó vừa bị xe hất văng vào quán, văng đến chân anh (ruột tè le tét lét) cũng là lúc thằng phục vụ đem ra đĩa mì gói xào bò.

Nói sơ qua thằng bị nạn. Hình như anh đã nhìn thấy hắn rồi. Khi anh vừa vào căng tin thì hắn cũng vừa chuẩn bị đi ra. Tất nhiên hắn phải ăn mì gói xào bò, nếu như không muốn ăn cơm chiên hải sản. Ăn xong, bước ra ngoài đụng thằng taxi mù. Bùm. Bùm. Hai phát. Một phát văng vào nhà. Phát thứ hai văng vào chân anh bụng xổ ra một màu vàng tươi. Anh biết hắn gọi món gì rồi.

Và thế là xong đời hai thằng một lúc. Một thằng chết tại chỗ, một thằng sợ quá vù xe đi. Nạn nhân bụng gối lên chân anh và những cọng mì lòi ra thấy mà phát ớn.

Một chi tiết nữa, hình như anh có biết thằng lái taxi. Nếu không lầm hắn thường hay chạy qua đây. Thường đậu xe xéo xéo cơ quan anh. Thường nghe những bài hát não nề về tình yêu. Nếu nhớ không lầm nữa thì anh đã đi xe của hắn vài lần, lần nào cũng được tẩm bổ bởi đủ thứ âm thanh mắc dịch. Nhưng được cái hắn vui vui, biết đủ loại chuyện, tùy vào nhu cầu quý khách muốn nghe loại gì hắn sẽ tuôn ra thứ ấy. Trí nhớ của hắn quả là lợi hại. Hắn có thể nhớ những chuyện từ rất xưa, cũng như có thể nhớ từng con đường đã đổi đi đổi lại dăm ba lần tên gọi.

Nhưng lúc này khác, hắn thò đầu ra khỏi cửa xe, há hốc mồm, không thốt được một câu nào. Mặt trắng nhợt. Sau cùng thụt đầu vào, phóng vụt xe đi.

Thằng nhóc vừa đặt đĩa mì xuống bàn nói, mì gói xào bò của anh đây thì hét toáng. Chết người, chết người. Nói xong vù mất dạng. Công an ở đâu không biết nhanh chóng ập đến. Làm sao có thể nhanh thế nhỉ. Anh thấy những chiếc áo màu vàng. Họ khiêng cái xác nạn nhân ra khỏi chân anh. Trời ạ, lúc này anh mới nhận ra, mình đã trân trân nhìn những cọng mì gói xào bò vung vãi dưới đất mà không làm gì hết. Bàn chân anh tưởng chừng không thể nhúc nhích, như thể chân ai. Bấy giờ anh chạy vào toa lét, xịt nước thật mạnh vào chân, nói chung rất nhiều công đoạn mới nhận ra chân mình.

Tối nay sẽ mất ngủ đây, anh nguyền rủa. Chắc phải ghé tiệm thuốc tây mua dăm viên thuốc an thần. Tinh thần của anh vốn đã rệu rồi, bùm một nhát kiểu này đương nhiên trốc gốc. Trong tấm gương nhà vệ sinh, anh không nhận ra mình nữa. Như cái xác của ai đó bất ngờ đột nhập vào thân xác anh, đúng vào lúc này, chỗ này, xoán lấy anh.

Nhờn nhợn anh quay ra. Nhưng không xong rồi, ập vào mắt là đĩa mì gói xào bò đang còn nguyên vẹn trên bàn. Người ta đã hốt sạch máu lẫn mì gói vương vãi dưới đất, nhưng đĩa mì của anh thì vẫn còn đó như muốn nói, ăn đi chứ, cái thứ khoái khẩu của anh đây. À, mà phải ăn đúng cách đó nhé. Có nhiều cách để ăn, hoặc dùng muỗng, hoặc dùng muỗng kết hợp với đũa, hoặc gắp cọng mì dài bỏ vào miệng rồi hút cái rột. Anh khoái cách này mà, phải không.

Anh đi thẳng ra cửa. Có cái gì đó loang ra đau nhói. Căn bệnh của anh, mỗi lần sợ hãi là y như rằng, đau nhói, do trái tim tội nghiệp như một ống cống quá tải những cảm xúc ấy mà, như cái thang máy bị nhồi nhét cùng một lúc quá nhiều người ì ạch trôi giữa các tầng lầu ấy mà. Anh gắng gượng bước. Thằng nhóc "hai lựa chọn" chặn anh lại đòi tiền đĩa mì. Nó chẳng quên thứ gì. Xác chết, máu, cơn đau, nỗi sợ vẫn không ngăn được trí nhớ hoàn hảo của nó. Anh lập cập giúi vào tay nó mấy đồng bạc rồi thoát ra cửa.

Nhưng vẫn chưa buông anh, không, nó nói, trên kia kìa.

Có hai cọng mì gói xào bò, trời ạ, như hai con đỉa hút máu dính trên vạt áo anh. Sao chúng làm gì ở đây thế. Không biết chúng là hai cọng mì từ đĩa mì nào, đĩa của anh văng ra hay từ xác chết văng lên.

- Mày lấy giùm tao ra đi, ghê quá.

Anh thấy mình không có khả năng lấy hai cọng mì ra khỏi người mình.

Anh lết ra quầy thuốc tây, chân xụm xuống. Chắc chết mất nếu không thoát khỏi tình trạng tồi tệ này sớm hơn.

- Có lẽ thứ tôi cần là một loại thuốc ngủ gì đó cực mạnh. Anh nói với cô gái bán thuốc. Một loại gì có thể làm ngưng hoàn toàn, và ngưng thật nhanh.

- Cực mạnh? Hai con mắt của cô gái trố ra nhìn anh.

- Đúng rồi.

- Có chắc là anh muốn loại đó?

À, cô ta nghĩ anh có vấn đề. Mà đúng, anh đang có vấn đề. Tâm trí anh bóng tối thâm u mỗi lúc một loang ra như cái mũ to.

- Tôi không tự sát đâu mà cô sợ.

Anh điểm một phát ngay cái huyệt do dự của cô ta. Anh biết cái huyệt đó. Tưởng tượng mà xem, buổi sáng mở cửa bán cho ai đó những viên thuốc ngủ cực mạnh và từ đó không còn thấy anh ta đâu nữa. Đấy, huyệt do dự, trí tưởng tượng tuyệt vời khỉ đột khỉ khô của cô ta. Rồi dò dẫm hỏi, cô sẽ làm gì nếu không biết làm gì trong suốt một ngày như ngày hôm nay?

Cô gái lắc đầu. Anh biết ngay mà.

Anh có vấn đề, cô nói. Vấn đề của anh bây giờ là tìm chỗ khác, không phải chỗ này.

Và từ đó trơ ra như đá, không cách gì lay chuyển được.

Đó, cái sự dễ thương của cô ta. Cô ta thì biết cái quái gì. Có ai đó áp cái bụng vỡ đầy mì gói xào bò vào chân của cô ta chưa. Chưa kể hai cọng mì khác hút lên lên đùi non của cô ta như hai con đỉa đói thèm một miếng thịt trâu thiu!

Không mua được thuốc ngủ chán thật, ờ thì anh mua rượu, sao không? Ở quán nhậu, anh nhanh chóng nhận ra phương thuốc lãng quên tốt nhất mà từ bấy lâu nay không dùng đến. Có thể, trước đây anh muốn ghi nhớ tất cả mọi chuyện trên cõi đời tùm hum này, anh muốn nhớ tất cả vào cái bộ nhớ thẳng thớm sạch trơn không tì vết. Anh chẳng có gì để quên cả. Nhưng ngày hôm nay...

Vào quãng mười hai giờ đêm, rượu làm rất tốt, anh phải công nhận, trí não anh đã bị phá hỏng hoàn toàn. Có cái gì đó công phá như thuốc nổ nổ lung tung cái đầu vớ va vớ vẩn của anh.

Trí nhớ ư, tét lét rồi phải không mậy. Anh nói. Anh cười.

Thật bất ngờ, thằng lái taxi hồi sáng, tổ cha mày sao mày lại xuất hiện ở đây. Mày đã vứt cái xe ở đâu rồi? Công an chưa bắt mày sao? Chưa đầu thú sao? Định đi trốn ư? Hay là muốn uống thật nhiều trước khi đầu thú? Hay đơn giản tìm cách oánh một trận tù tì tủ tỉ quên đời.

Anh bước tới rồi ngồi xuống bên cạnh hắn. Nhìn chằm chằm vào gương mặt tội phạm của hắn. Đúng vậy tội phạm. Thật dễ chịu làm sao khi đại diện công lý để kết một cái tội.

Cả hai không nói năng gì. Uống uống uống. Ăn ăn ăn. Cố dằn xuống cái cục không thở nổi. Hồi lâu không chịu đựng được anh nói, tao biết mày. Nhưng thằng taxi đã say. Hắn nói, xạo, tao còn không biết tao là ai thì làm sao mày biết?

- Cũng có lý đó. Anh nói. Nhưng tao biết mày là thằng lái taxi.

- Xạo, hắn nói, mày nói có lý đó, nhưng xạo.

Ơ hay, có lẽ đây là lần đầu hắn uống rượu. Một thằng nghiện rượu thì không một thứ rượu nào có thể làm hắn quên được nỗi nhớ yêu ma của chính mình.

- Nhưng dù sao cũng tốt cho đêm nay, chúc mừng mày. Anh nói, tao thấy mày bắt đầu dễ thương rồi đó, ngày mai mày sẽ nhớ rõ hơn khi tao đi báo công an. À, mày sẽ nhớ mày là ai. Nhưng mà này, việc công an bắt mày cũng không quan trọng bằng việc mày gieo vào đầu tao một cái thứ khỉ gió khỉ đột đó. Đó đó.

- Chúc mừng chúc mừng. Hắn nói. Cái thứ khỉ gió khỉ đột. Chúc mừng.

- Chúc mừng. Anh nói theo.

Phải công nhận thằng này quên hết thật rồi.

Anh và hắn uống bí tỉ.

Vào nửa đêm, kỳ lạ thay, cũng như nó, anh quên hết sạch, anh đạt đến một tình trạng không thể tin nổi. Trời ạ, như đang triển khai "công án" vậy, làm sao anh có chuyện đó chứ. Bên trong đầu anh một cái ống cống to dài thòn lòn rỗng, và anh không còn thấy nhớ gì dù chỉ một tẻo.

- Tuyệt vời, tuyệt vời. Anh hét lên. Tao là thằng lái taxi. Còn mày, còn mày... Mày là một quý cô nương hành khách.

Cả hai cười cười, dô dô.

- Tuyệt vời, tuyệt vời. Tao là một quý cô nương hành khách. Còn mày là thằng lái taxi. Hắn nói. Một thằng lái taxi tầm thường.

Nhưng rồi hắn dừng lại, tao đã nhớ ra rồi. Ha, tự nhiên nhớ một cách từ từ, rất từ từ...

- Điên. Mày không thể vừa "quên béng" rồi lại "à ra là nhớ".

- Đúng, quá trời đúng, tao cũng không tin. Nhưng mà tao nhớ ra rồi. Hắn nói.

- Ừ. Cũng tạm đi.

- Mày say rồi

- Ừ. Thì tao say chứ sao.

Hai giờ đêm, thằng taxi lại thốt lên lần nữa, không được rồi, tao đã nhớ ra rồi. Giọng hắn ngập tràn hạnh phúc như một kẻ mất giọng lấy lại ngôn ngữ. Hắn bắt đầu nhớ, nhớ chuyện cũ trước, chuyện mới sau. Hắn nhớ hồi còn là một thằng bé. Lớn lên một chút, nhớ cuộc đời long nhong. Nhớ tuổi dậy thì. Đôi lúc hắn rạng ngời. À, hắn đang nhớ đến mối tình đầu, nhớ cái đoạn hay ho nhất. Một cô gái nào đó mắc kẹt trong quá khứ, e tưởng đã bị cái tính chất bội bạc lãng quên. Rồi hắn nhớ chuyện hơi gần gần hơn nữa, nhớ chuyện xin việc, chuyện đi làm.

Rồi hắn òa khóc.

- Rượu khóc hay mày khóc vậy? Nếu rượu khóc thì còn đường được.

- Không, cái này... Hắn nói. Không được chút nào.

Và rồi hắn lại mỉm cười có duyên.

Những gói mì trên biển Đông

Khi chiếc thuyền tị nạn cặp vào một hòn đảo thì một toán lính Mã với súng ống ào xuống quát tháo... Sương Sương mệt lả người không còn sức để nhìn diễn tiến chung quanh.

Nàng thiếp đi đến khi nghe tiếng con thoang thoảng bên tai, "Mẹ, họ cho lên bờ rồi kìa!". Nàng choàng dậy, hai tay quàng ôm hai đứa con mừng rỡ muốn bật khóc.

Họ bắt đầu cho trẻ em lên bờ trước, hai con của nàng cũng được kéo qua một phía để chuẩn bị đưa xuống boong tàu. Bé Xuân chưa đầy năm tuổi níu mẹ:

- Mẹ, mẹ đi với con!

Nàng dỗ dành:

- Ừ, con xuống trước lát mẹ xuống sau đừng làm ồn họ bắt mẹ bây giờ!

Bé Thành hơn em hai tuổi có vẻ hiểu biết hơn, bảo em:

- Lát nữa anh cũng đi với Xuân mà!

Trời sâm sẩm tối thì số trẻ con đã được đưa xuống đảo vừa hết. Người lớn được lệnh nhảy xuống để bơi vào, nhất là những người đàn ông có con đã được đưa xuống, một mặt nghe con khóc, một mặt vợ thúc hối, họ giành nhau nhảy xuống ầm ầm để bơi vào bờ. Sương Sương cũng cồn cào ruột gan khi nghĩ đến hai con của nàng đang dõi mắt nhìn lên boong tàu. Tình mẫu tử thúc giục, nàng nhắm mắt nhảy ào xuống bơi vào bờ...

Gặp lại hai con nàng ôm siết chúng vào lòng, nghẹn ngào. Khi mọi người đã xuống hết khỏi thuyền thì một chiếc tàu lớn kéo chiếc thuyền tị nạn đi ra xa...

Sương Sương chới với, hỏi thăm thì biết họ cho kéo ra xa để đánh chìm, nàng thờ thẫn nhìn theo vì tất cả tài sản cũng như vật dụng cần thiết nàng hoàn toàn không còn gì để lo toan cho những ngày sắp tới. Nàng bặm môi để ngăn tiếng khóc, nàng dặn lòng phải cương quyết phấn đấu không để cho hai con thấy được sự lo âu của mình.

Tiếng khóc la vì khát sữa, vì đói của đám con nít gây nên một sự hỗn loạn, hai con của nàng cũng như sực nhớ đến miếng ăn, Thành hỏi mẹ:

- Mẹ, mẹ có gì cho con ăn không?

Xuân cũng láu táu:

- Con nữa mẹ, con cũng đói bụng nữa, mà con cũng khát nữa!!!

Lòng nàng thắt lại, nàng cũng vừa đói, vừa khát nhưng cố trấn tĩnh hai con:

- Hai con chờ một chút đi, mẹ nghĩ lát nữa thế nào họ cũng cho mình ăn.

- Lát họ cho ăn mẹ xin cho con cục kẹo nha!

Bé Xuân liến thoắng. Nước mắt nàng ứa ra dù hết sức cố gắng, cổ nghẹn lại, giọng khàn đục:

- Ừ, mẹ sẽ xin.

Tuy bóng tối lờ mờ không thấy được những giọt nước mắt mẹ, Thành cũng đoán được mẹ đang khóc. Nó đưa tay sờ lên mặt mẹ:

- Mẹ! Bộ mẹ khóc hả?

Xuân cũng bắt chước anh đưa tay rờ rẫm lên mặt mẹ:

- Mẹ khóc à? Sao mẹ khóc vậy? Bộ mẹ sợ mấy ông lính hả?

Nàng bặm chặt môi khi nghe những lời thỏ thẻ của con... Ai ai họ ra đi cũng có vợ có chồng, có anh em bà con, riêng mẹ con nàng thật bơ vơ... Nàng ôm hai con vỗ về:

- Đừng hỏi nữa con!

Thành quay qua em:

- Xuân, mẹ nói Xuân đừng hỏi nữa. Xuân đừng hỏi mà mẹ khóc nhe!

Tựa má lên đầu con, nàng siết chặt hai con vào lòng như để che chở vừa như để tìm điểm tựa...

Rồi đêm cũng qua đi. Buổi sáng vừa lờ mờ Sương Sương bừng mắt dậy, thấy hai con và mình đang ngủ dưới cát. Nhìn ra biển mênh mông, bãi cát trắng mịn đêm qua gió đã xóa hết dấu chân, biển đẹp lạ lùng khiến nàng không khỏi rung động. Rồi vừa lạnh vừa đói đã kéo nàng về thực tế nàng đứng dậy nhẹ nhàng để khỏi kinh động hai con, nàng định tâm đi kiếm gì cho con ăn lúc chúng còn ngủ.

Mọi người cũng từ từ thức giấc tiếng xí xô xí xào của những người Hoa khiến nàng bật cười. Nàng đi loanh quanh hỏi thăm hết người này đến người nọ nhưng rồi hầu hết ai cũng như nàng, tất cả đều bỏ trên tàu những gì họ mang theo. Chỉ có ông chủ tàu được biệt đãi là đem nồi, gạo xuống. Cái nồi quá nhỏ so với số người hiện có, nàng thầm hỏi đến lúc nào mới đến phiên?

Chỉ mới hai ngày chủ tàu đã tuyên bố hết gạo sau hai hôm phát cháo cho mọi người húp để cầm hơi. Mọi người đành chịu vì ông ta có vàng, đã mua chuộc được lính Mã cho dựng căn lều và không ai được quanh quẩn vào lều ông chủ tàu để kiểm chứng điều đó.

Qua ngày thứ ba, Sương Sương thấy chân run, hai con nàng lơ láo cứ tiếp tục đòi ăn. Tất cả mọi người cùng số phận vì ngoài nước ngọt dưới giếng được "vét" lên để uống chứ chẳng có gì để ăn, ai cũng lo nghĩ đến cái đói. Nàng ra biển như mọi người để mong bắt được cá tôm gì... Nhưng rồi ai cũng tuyệt vọng vì không có dụng cụ, có người cởi phăng áo ra để thay lưới thỉnh thoảng cũng bắt được vài con cá nhỏ. Riêng Sương Sương chỉ một bộ độc nhất trên người đành chịu. Nàng vào bờ ngồi bên con với hy vọng cơn đói sẽ được giải quyết.

Nhưng suốt ngày đợi chờ, cơn đói đã đưa con nàng những ước mơ hão huyền... Bé Xuân níu áo mẹ hỏi:

- Mẹ, mẹ có đường không cho con một miếng đi!

Nàng khó khăn lắm mới trả lời được cho con:

- Mẹ không có con ạ, con chờ đi...!

- Mẹ, con thích đường quá mẹ cho con một chút thôi!

Sương Sương kiên nhẫn:

- Mẹ đã nói không có!

- Mẹ, chừng này thôi!

Bé Xuân cong hai ngón tay lên để diễn tả, Sương Sương không còn chịu đựng được nữa, "Bốp!" một cái tát xiết vào má con để nàng không còn phải nghe những lời đứt ruột ấy! Bé Xuân òa lên khóc, Sương Sương tê tái ôm con vào lòng để thay lời xin lỗi.

Trong tuyệt vọng nàng bừng lên oán hận chồng... Rồi nghĩ đến thân phận những người còn ở lại đang bị đày đọa trong chốn lao tù Cộng Sản nàng dịu lại, tha thứ cho chồng vì nếu không lựa chọn con đường thoát chạy thì chắc gì giờ này liệu chàng có được yên thân?

Lòng ngổn ngang với muôn vàn ý nghĩ, bỗng một cô gái trẻ mặc áo hoa, vận "xà rông" sà xuống cạnh Sương Sương hỏi:

- Chị, chị người Việt Nam hả?

Sương e dè gật đầu.

- Em nói chuyện với chị một chút được không?

Sương Sương vui vẻ:

- Được, được chứ! Có gì không vậy chị?

- Mấy bữa nay không có gì ăn chị đói không?

Sương Sương mừng rỡ:

- Đói quá trời, chị có gì ăn không? Cho hai đứa con em một ít đi!

- Em thì không có nhưng có người có cho chị!

Sương Sương không giấu được sự vui mừng:

- Ai vậy?

- Chị đi theo em đi!

Sương Sương quay nhìn hai con:

- Hai đứa ở đây chờ mẹ, mẹ theo dì này đi xin đồ ăn cho hai con nha!

- Dạ!

Hai cái miệng nhanh nhẩu như hai con chim non khiến Sương Sương vui sướng đi theo cô gái không một chút nghi ngại. Đi một quãng khá xa Sương Sương mới chợt hỏi:

- Chị dẫn em đi đâu đây?

- Chị cứ theo em đến đây rồi biết!

Cuối cùng Sương Sương theo chân cô gái bước vào một căn lều. Sương Sương giật mình khi thấy một người lính Mã đeo súng đang ngồi ở một góc giường. Cô gái lên tiếng:

- Chị đừng sợ, ông này tên Tidon mấy bữa nay ổng cứ ra biển, gặp chị ổng "mết" nên chạy về kêu em ra chỉ chị cho em gặp. Bữa nay ổng biểu em tới kêu chị tới đây rồi ổng cho chị năm gói mì!

Sương Sương nghi ngờ:

- Chỉ tới chơi mà cho năm gói mì?

- Trời! Sao chị khờ quá, đâu phải chỉ để nói chuyện không thôi!

Sương Sương hoảng hốt bỏ chạy một mạch về nơi đang trú ngụ. Bé Thành và Xuân tíu tít chạy a ra mừng mẹ:

- Mẹ, mẹ có gì ăn không mẹ?

Sương Sương quỳ bệt xuống cát ôm hai con vào lòng, mắt nhắm nghiền lại lắc đầu, nước mắt ứa ra... Bé Thành và Xuân ngơ ngác nhưng không hỏi một lời.

Lại một ngày đói trôi qua...

Sáng sớm hôm nay hai con còn yên giấc, Sương Sương theo đoàn người cùng số phận vào sâu trong rừng già, không tìm được một cây trái gì để ăn, Sương Sương bứt đại một số rau cỏ dại trong rừng, mọi người làm theo. Một bà bảo:

- Còn dừa thiếu giống gì mà tụi lính Mã nó không cho hái, nó bảo để tàu đánh cá tới nó bán. Hễ nó bắt được ai ăn trộm là chết với nó, đàn ông thì mười lon nước biển, đàn bà cởi trần truồng đứng dưới gốc cây một ngày!

Ai nghe cũng rùng mình, vì mấy ngày qua đã có năm thanh niên bị uống nước biển, họ đói quá đã bất chấp lệnh của lính Mã ban ra.

Về đến nơi trú ngụ, thấy hai con đã dậy và cô gái hôm qua đứng chờ, Sương Sương tức bực:

- Chị còn tới đây làm gì?

Cô gái đấu dịu:

- Em biết chị khó chịu lắm nhưng thằng Tidon nó cứ năn nỉ em hoài, kìa nó đứng bên kia kìa!

Cô gái hất hàm sang lều ông chủ tàu rồi tiếp:

- Nó bảo em hỏi chị chịu mười gói không?

Sương Sương tức giận:

- Chị nói với ổng mấy gói tôi cũng không chịu hết.

Rồi Sương Sương nhìn cô gái hỏi:

- Còn chị, chị là gì của ổng vậy?

- Em hồi trước cũng vượt biên giống chị vậy đó, sau em thương một thằng Mã Lai vì nó tốt, có nhiêu tiền nó cho em hết riết rồi em ở luôn với nó. Thằng Tidon là em của nó!

Nghe qua Sương Sương rụng rời:

- Bộ phải ở luôn nơi đây không có ngày thoát ra à?

- Không, cũng có mấy thuyền nhỏ không biết họ liên lạc cách nào mà Hội Lưỡi Liềm Đỏ biết được đón đi rồi!

- Còn chị, bộ chị ở luôn đây à?

Cô gái cười vui vẻ:

- Riết rồi quen chị ơi! Bị hồi đó em gặp ông chồng Việt đánh em hoài, giờ gặp thằng Mã Lai này nó thương em nên thôi ở với nó cũng được!

Sương Sương quan sát thấy cô gái vàng đeo đầy tay nên tin cô ta thành thật điều đang nói. Đến đó, tên Tidon với những bước chân ào ào đi về phía Sương Sương và cô gái. Sương Sương làm lơ, nhìn hai con và bảo:

- Mẹ hái được rau, lát mẹ luộc ăn nha!

Hai đứa nhỏ im lặng không mấy thích thú với món ăn... ngấy đến tận óc này vì vừa lạt lẽo vừa khó nuốt. Cô gái nói một tràng tiếng Mã với tên Tidon. Nó nhún vai xong nói nhỏ gì với cô gái, cô ta quay qua Sương Sương bảo:

- Nó trả giá... một thùng mì!

Sương Sương bỗng nhiên nghe tức giận nói như quát:

- Không! Không, mấy cũng không!!!

Tên lính Mã và cô gái hấp tấp bước đi trước sự giận dữ của nàng.

Những cọng rau được rửa sạch ở biển, mọi người trong nhóm ở gần nhau hùn chung một nồi luộc lên rồi chia đều ra. Tuy chẳng ngon lành gì nhưng cũng cho mọi người một chút sinh lực. Nàng nhủ thầm ngày mai sẽ vào rừng sâu hơn hy vọng tìm được măng non, nhưng ý nghĩ vụt tan biến khi nhớ ra mọi người không ai có dao hay vật nhọn vì Mã sợ mọi người làm loạn đã tịch thâu tất cả.

Nắng đã lên cao, Sương Sương mệt mỏi cố lê lết từng bước, rã rời vì đói. Những bước chân lún sâu xuống bãi cát trắng mịn mà ngày đầu nàng đã thấy thật đẹp, thật thơ mộng nhưng giờ đây nàng sợ hãi chỉ mong cho chóng thoát khỏi nơi này.

Suốt ba tuần lễ ăn rau dại, hôm qua Sương Sương lặn sâu xuống biển "lượm" được bảy con hải sâm ai cũng bảo đó là món ăn bổ dưỡng. Vì không đầy đủ củi lửa để hầm, nàng chỉ luộc vội vàng rồi cùng ăn với hai con, đã bị ói mửa một lúc tưởng chết đi rồi...

Mỗi lần đi sâu vào rừng nàng đều mang theo hy vọng có món ăn gì khác cho con nhưng rồi cuối cùng chỉ là những nắm rau dại trộn lộn với cỏ ở ven rừng, cũng đành phải cố nuốt để tìm sự sống!

Cầm bụm rau trong tay, Sương Sương cố lết về "nhà". Đến nơi, nàng mệt nhọc ngồi xuống. Chỉ thấy Thành đang nằm nàng hỏi:

- Em đâu con?

Nó đưa tay chỉ ra xa. Nàng dõi mắt trông theo, bỗng tim nàng như thót lại, dưới ánh mặt trời con nàng đang cầm cái gì óng ánh như miểng chai đưa vào miệng, vứt vội nắm rau xuống đất nàng băng mình chạy bay ra. Tới nơi, nàng thở phào nhẹ nhõm: chỉ là miếng giấy kiếng, Xuân nhìn mẹ nhoẻn miệng cười:

- Mẹ!

Nàng giật miếng giấy trên tay con quăng xuống đất và hỏi:

- Con làm gì vậy?

- Ông lính kia ăn kẹo bỏ giấy con lượm để... liếm!

Câu nói ngây thơ của con chẳng khác nào mũi dao nhọn xoáy thốc vào tim nàng. Nàng nghẹn ngào quỳ xuống ôm con vào lòng.

Bé Xuân úp mặt vào ngực mẹ nũng nịu:

- Mẹ ơi! Con đói quá à!

Đói. Đói. Đói... Những điệp ngữ của con thơ hàng ngày ra rả bên tai khiến nàng muốn điên lên. Dẫn con về, nhìn đống rau nằm vung vãi trên cát nàng chán nản ngồi bệt xuống, muốn khóc mà nước mắt tưởng chừng đã cạn... Bỗng tên Tidon ngang qua, nhìn về phía nàng đăm đăm. Nàng cúi đầu bặm môi muốn bật máu. Nàng thầm hỏi nó đã thấy được những gì trên khuôn mặt khổ đau, tan tác này? Câu nói hôm nào của cô gái: "Nó trả giá một thùng mì!". Mì? Nàng cũng thèm lắm chứ! Và hai con nàng nữa. Giờ đây mì là món cao lương mỹ vị... Nàng nuốt nước bọt để dằn xuống những ước mơ nhỏ bé nhưng xa tầm tay với.

Rồi cố làm ra vẻ bận rộn, nàng nói với con:

- Ngồi đây, mẹ qua bên kia luộc rau về ăn nha!

Và tất tưởi đi như trốn chạy.

Nhìn ánh lửa tí tách reo đợi nước sôi để bỏ rau vào luộc, nàng nhớ đến chồng. Nghĩ đến con, nghĩ đến tương lai mịt mờ xa thẳm... Ôi chao! Cái giá tự do sao mà quá đắt.

Trong thâm tâm muốn xua đuổi những ý nghĩ phiền muộn nhưng câu "Nó... trả giá một thùng mì" như mời gọi, như thôi thúc. Sương Sương đau khổ muốn bịt tai, nhắm mắt như để đừng nghe, đừng thấy gì nữa.

Lúc trở lại, thấy hai con nằm sóng sượt dưới cát vì đói, nàng muốn quỳ xuống xin lỗi hai con vì mẹ đã ích kỷ, đã quyết giữ tiết trinh để cho hai con phải èo uột thế này... Trong khoảnh khắc vô thức nàng gọi thầm tên chồng với một cầu xin tha thứ nếu... một ngày nào nàng đầu hàng số mệnh... và có thể đêm nay... Nàng chợt nghĩ đến cô gái trung gian.

Suy nghĩ rồi đến quyết định, nàng thấy mình như nghẹt thở, lòng rối bời hỗn loạn và có cảm giác như đang lạc vào sa mạc nóng bức với những sức gió vũ bão cuốn hút nàng đi. Nàng ngồi gục đầu xuống gối và khóc dễ dàng, tự nhiên chứ không khô cạn như nàng đã nghĩ.

- Mẹ! Ông lính kia dòm mẹ kìa!

Thành lay tay mẹ, Sương Sương ngơ ngác nhìn lên với ánh mắt đẫm lệ. Trời ơi! Nàng mơ hay tỉnh? Tay Tidon đang cầm năm gói mì, trao cho nàng, ánh mắt buồn bã rồi quày quả bước đi...

Nàng sững người không còn chút ý thức nào ngay cả việc nói lời cám ơn người lính Mã. Nàng vô tình nhưng trong tiềm thức cầu xin một sự độ lượng của người quân tử.

o O o

Ngày sau, một người đàn ông trong lúc trộm dừa buổi trưa đã can đảm cởi áo phất lên trời làm tín hiệu gặp lúc máy bay của Hội Lưỡi Liềm Đỏ ngang qua, họ sà xuống quan sát và ngay chiều hôm ấy một đoàn ghe nhỏ đã tuần tự chở đám người tị nạn sang đảo Pulau Bidong.

Chiều rời hoang đảo, Sương Sương mới biết địa danh - Kapass. Nàng cố dõi mắt tìm kiếm một bóng người nhưng tất cả như nhạt nhòa chỉ thấy những cánh tay phất phơ tạ từ... "Cám ơn, xin cám ơn người đã cho tôi hiểu được thế nào là sự "thi ân bất cầu báo", giã từ Kapass, nơi đã để lại cho tôi một kỷ niệm nghìn đời không quên", Sương Sương thì thầm giữa đại dương khi con tàu nhỏ đang lướt sóng về hướng Bidong.

Tô canh mỳ tôm

Đã hơn 9 giờ tối, đó là 1 đêm mùa khô gió nhiều, gió cuốn bụi tốc vào người đi đường, ông lão lao công ở góc cầu quay người che lại cái bếp nhỏ vừa mới nhúm lửa được của mình. đưa tay quệt mồ hôi trên khuôn mặt khắc khổ nhiều cảm xúc, ông bỏ vào đó 1 gói mỳ tôm. Ông ngồi xuống, nhìn lại cái chòi của mình, cũng nhanh thật, mới đó mà đã hơn 3 năm rồi ông gắn liền với cái gầm cầu này, làm nghề công nhân thu dọn rác, đây là 'bữa sáng' của ông trước lúc chuẩn bị cho công việc. Với ông, cuối đời cô độc của mình vẫn còn thong dong chán, cũng đã có nhiều 'đứa' đến ở với ông đấy chứ, đó là vài con chó hoang, loang lổ, đen nhẻm và mệt mỏi, chúng đến ông 1 thời gian cũng bỏ đi, ông biết đấy vì chúng không chịu được cái đói, mà ông cũng mừng, có lẽ đấy sẽ là điều tốt biết đâu chúng tìm được nơi nào tốt hơn thì sao...

Chợt trên đường xuất hiện 1 bóng người đi bộ, đèn đường leo lét soi vào mặt gã vàng vọt, xanh xao. Nét mặt gã thất thần, tiếng còi xe tải bên đường gã đi cũng không làm gã để tâm, bước chân gã chậm chạp như lê về 1 nơi xa lắm. Bộ đồ gã mặc cũ kĩ và lấm đầy bụi đất nhưng điểm đặc biệt là chiếc áo khoác gã đang mặc, chỉ cần nhìn qua là biết đó là hàng tốt, 1 gã lang thang lấy đâu ra 1 cái áo đắt tiền kia chứ ? Có người bên vệ đường nhìn gã với cái nhìn sắc lẻm, hắn đưa mắt nhìn tên đứng cạnh, tên này nói gì đó rồi hắn không thèm nhìn gã nữa, cứ như thế gã lại đi tiếp như 1 toa tàu không có điểm dừng.

Bước chân của gã bất chợt dừng lại, là do mũi của gã ngửi thấy 1 mùi thơm của đồ ăn, giây phút này gã để cho bản thân mình bị dẫn dắt theo bởi cái mùi ma thuật đó, gã dừng lại trước căng chòi dưới gầm cầu, tai gã lúc này đã nghe rõ tiếng sùng sục của nồi canh đang sôi trên bếp, bụng gã cồn cào khó tả, nước miếng gã đã ứa ra. Lúc này gã như con sói đang đứng trước miếng thịt cô bé quàng khăn đỏ thơm tho nhưng chân gã thì như chôn chặt, chỉ có đôi mắt là không thể che dấu được dục vọng.

- Đến đây con trai, đừng sợ !

Ông lão lên tiếng từ trong chòi, ông đã có tuổi nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Gã sượng sùng, tính quay bước đi mà sao chân lại chậm chạp bước vào, gã ngồi đó, ngay cửa chòi rồi đưa mắt nhìn ông.

- Để tôi lấy cho cậu ít nước nhé, hay cậu cần gì nào ?

Tay gã trong vô thức đưa lên và hướng về phía nồi canh, ông cười rồi đứng dậy, múc lấy 1 tô trao về cho gã.

- Cẩn thận coi chừng phỏng đấy - ông nói. Nhưng lúc này gã con thú săn đứng trước miếng mồi, chỉ kịp thổi vài cái lấy lệ rồi húp vài hơi là hết sạch, gã thở 1 hơi lớn, mắt gã nhắm nghiền trong phút chốt rồi mở ra.

- Đây là canh gì mà ngon quá vậy ? - gã cất tiếng, giọng thều thào như hơi thở.

- Nó ngon vì cậu đói quá thôi, mà cậu có vẻ như chưa từng ăn canh mỳ tôm với mồng tơi bao giờ nhỉ ? - ông cười nhẹ nói.

Gã ngẩn ra trong giây lát, đưa mắt nhìn lên trần rồi chậm rãi nói 'Phải'. Gã đưa lại tô cho ông, đầu cúi xuống tỏ vẻ hàm ơn.

Ông thấy gã ngồi đó, vừa mới ăn xong tô canh nóng mà gã không đổ 1 giọt mồ hôi mà trái lại lại có vẻ đang co người vì lạnh.

- Cậu bị nghiện, đúng không ?

Gã giật mình, đúng là không thể che dấu được với cái hình dạng hiện nay của mình. Gã sợ, sợ ông lại xua đuổi gã như tất cả những người trước đây đã làm. Gã nhìn ông 1 cách lén lút như nhìn những con người vô cảm kia, rồi cũng sẽ bị ném vào người với bất cứ thứ gì họ cầm trên tay hay nhẹ nhất là những lời đối xử phân biệt để xua đi 1 thứ cặn bã, 1 mầm bệnh di động. Đôi lúc gã muốn chết ngay tức khắc mà người ta cũng có cho đâu "Có chết thì đi chỗ khác mà chết", gã biết và chấp nhận chuyện đó, như lúc này đây nó lại sắp xảy ra lần nữa.

- Phải - Gã bình thản thừa nhận, đôi mắt mệt mỏi quay về phía cửa.

- Tôi thấy cậu chắc là rất mệt mỏi mà có vẻ như cũng chẳng có nơi nào để đi, hay là tối nay cậu cứ ngủ ở đây rồi mai tính tiếp.

Câu nói của ông làm ánh mắt thâm quần sau những làn khói thuốc của gã ánh lên 1 ánh sáng, ánh sáng của lòng cảm ơn và hy vọng...

- Ông không sợ tôi sao ?

- Tôi còn gì nữa để mà sợ, mà tôi chắc trước khi là thế này, cậu cũng từng là 1 người tốt, đúng không ?

"Trước đây" ư ? - Gã bật cười nghe giống như tiếng ho - Ông có muốn biết trước kia tôi thế nào không ?

- Nếu như cậu muốn kể.

Vậy là gã có dịp trút lòng mình, đã lâu rồi gã không còn có dịp nói chuyện với ai, mà người ta cũng đã loại bỏ cái quyền cơ bản này của gã từ lâu rồi mà. Rồi gã kể, kể rằng gã đã từng là công tử, sung sướng đến mức không không phải động đến 1 móng tay ngay từ bé, cha gã là 1 quan chức cấp cao trong ngành, với nhiều phi vụ lớn mà chỉ cần 1 vụ được phanh phui thì cũng đủ ngồi gỡ lịch dài hạn, mẹ gã có 2 căn liền kề ngay chợ bán tạp phẩm, công việc bận đến nỗi gần như ngày nào gã cũng ăn cơm 1 mình mà đến lúc được ăn chung thì cũng chỉ được dăm phút vì biết bao cuộc gọi của cả 2 người làm gián đoạn.

Gã lớn lên với đồng tiền chu cấp luôn đầy đủ trong túi, gã tập làm quen với những trò vui thâu đêm suốt sáng để quên đi cái cảm giác cô đơn, lạc lõng khi phải ở 1 mình. Trong 1 cuộc chơi chếch choáng men rượu, chẳng cần nói khích gã đã đồng ý ngay lập tức cuộc đua xe trong đêm, khi đặt chân ở vạch xuất phát tiếng reo hò của những kẻ tham gia làm máu trong người gã thêm phấn khích, tiếng rú ầm ĩ cả tai trên đại lộ Đông - Tây, hàng chục chiếc xe bóng lộn siết ga lao đi xé tan màn đêm.

Không khó để gã vượt lên dẫn đầu, dẫu sao thì bao nhiêu tiền đổ vào chiếc xe không hẳn là phí. Gã hả hê nhìn lại đám chiến hữu đang ngửi khói phía sau rồi phá ra cười lớn, khi quay lại thì gã không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra, gã chỉ nhớ là chiếc xe bay bổng trong không trung rồi đáp xuống đất theo cách tệ hại nhất, nó đâm thẳng vào trụ xi măng gần đó, chiếc xe cả trăm triệu phút chốc bốc cháy ngùn ngụt. Về phần gã, quả là kì diệu khi gã không hề bị tổn thương ở phần đầu nhưng chỉ trong tíc tắc để gã kịp nhận ra cơn đau khủng khiếp đến từ cái chân trái bị gãy lìa và phần xương gãy đang đâm vào thịt, giây phút này gã chỉ ước sao mình ngất đi để không phải chịu đựng nỗi đau thể xác, bọn chiến hữu nhanh chóng đến kiềm chặt gã rồi 1 tên đưa cho gã hít 1 loại bột mà nó kiến gã nhanh chóng đỡ hơn trong chốt lát.

Sau lần đó gã không chết nhưng bỗng đâm nghiện cái thứ bột kì diệu hít vào đêm đó, gã thử lần 2, lần 3... dù rằng biết đó là ma túy nhưng gã thèm cái cảm giác mà không có bất kỳ thứ gì khác mang lại được. Đến 1 ngày gã giật mình nhận ra hệ quả mà nó mang lại, thân xác gã tàn tạ, tiền bạc thì đã tiêu đến đồng cuối cùng, trong 1 lần bị công an bắt, người ta truy lần ra cha gã có dính líu tới hàng loạt vụ hối lộ phi pháp cùng số tiền trốn thuế rất lớn của người mẹ.

Số phận của họ nằm dưới tay luật pháp còn gã thì được đưa vào trường cai nghiện, có thể là quá muộn khi cố cứu chữa thân thể mà bệnh tật đã lan đến tận tủy. Gã leo tường ra khỏi đó, để đi lang thang vô tận và giờ thì đang ngồi đây kể lại câu chuyện này.

"Chiếc áo này là thứ duy nhất còn lại mà 1 người rất đặc biệt đã tặng cho tôi để nhắc nhớ đến tôi đã từng là ai".

Gã mỉn cười có lẽ vì đã mãn nguyện khi kể xong câu chuyện đời mình. "Cám ơn ông, nhưng giờ con phải đi, khi xuống đến địa ngục, con chắn chắn sẽ nói những điều tốt đẹp nhất về ông". Giây phút này gã không cần lòng thương hại hay những lời nói cảm thông, gã đã biết mục đích cho chuyến đi của mình và giờ là lúc lên đường.

Ông vẫn ngồi đó lặng im, nhìn theo cái dáng người nhỏ bé trong chiếc áo quá khổ, bước chân chậm rãi nhưng chắc chắn, bóng người xa khuấn rồi nhỏ dần, nhỏ dần theo làn khói bụi cuộc đời. Có lẽ ông sẽ nhớ đến chàng trai này mà cũng có thể lãng quên theo năm tháng, đồng hồ báo hiệu ông đã đến giờ đi làm ...

NƯƠNG SẮN(1)

Truyện Ngắn

Sơn chạy nhanh lên triền núi được một quãng khá xa thì thấy mệt lả, hơi thở dồn dập tức tức ở lồng ngực, đôi chân mỏi. Y bước chậm, thở đều, hai tay giãn suôi xuống đong đưa. Với động tác này y cảm thấy cơn mỏi mệt giảm xuống dần, một cảm giác nao nức êm ái đến cùng lúc với những làn gió dìu dặt còn nhiều hơi nước từ phía cánh đồng, vùng biển xa. Y cũng nhận thấy được sự mỏi rã, gấp gáp ở hơi thở y không hẳn vì đã chạy lên một đoạn triền núi, nhưng đã được dồn nén từ lâu như lòng phấn khởi của một chuyến trở về không hẹn trước. Những chuyến trở về (dù có hẹn trước hay không) dễ gây xao động bất chợt nơi Sơn những phút cảm thấy bồn chồn hối hả như thế. Ở những bận bắt gặp nơi mình tương tự những xúc cảm nóng nảy, y thấy mình còn quá trẻ. Y muốn tin vậy. Bộ đồ trận không dễ tạo y trở thành một người già, như đã huấn luyện y trở thành một người biết sử dụng các loại súng lớn nhỏ. Tuy bộ đồ trận cũng có nhiều nét phong trần như Ngân đã nói nhưng chắc là cái phong trần dày dạn kia sẽ không ở mãi trên người y. Y có thể cởi bỏ bộ áo quần tức khắc để lấy tấm áo chemise màu sặc sỡ cái quần xì gà của thằng em hippy mặc vào đến thăm Ngân như lần trước. Lần này thì y không kịp gặp thằng em để hỏi mượn cái áo rộng thùng thình rằn ri kiểu Mỹ để tìm gặp Ngân nữa. Y vội vã đến nỗi chưa cởi bỏ được bộ đồ phong trần ra khỏi người. Điều này hẳn sẽ khiến Ngân buồn? "Cái áo màu chim cò coi vui mắt hơn cái áo trận. Anh mặc bộ đồ trận trông buồn quá, sao không hỏi thằng Ân lấy cái áo hôm trước cho vui mắt?" - chắc Ngân sẽ lập lại lời đó với nụ cười buồn. Ngân đã bảo rằng nàng yêu cái áo lính, nhưng nàng không muốn y mặc cái áo lính chiến đa tình đó. Vì nhiều lẽ, "Cái áo dễ gợi cho em nhiều cảm giác ngậm ngùi. Em muốn anh ra đi, để lại cho em hình ảnh sặc sỡ của tấm áo rộng thùng thình của thằng Ân", nàng đã căn dặn y như một câu nhắn nhủ ám ảnh.

Từ phía trên cao, trong con đường mòn quanh co lẩn khuất cây lá, mấy người đàn bà mệt nhọc gánh những giỏ sắn vừa được nhổ hấp tấp đi xuống. Những củ sắn lớn hơn bát nước, cột lại thành chùm, đất cát và lá xanh còn bám bẩn; tình cờ gợi Sơn nhớ lại mùa sắn ba năm trước. Lúc đó ông Võ (dượng ghẻ của Ngân) đang dạy cha y quay qua chuyện trồng sắn thay vì trồng bắp. Đầu tháng giêng ông Thìn (cha của Sơn) lui cui ươm những củ sắn giống này lại của ông Võ. Cách nửa mét một củ, lấp đất vừa phủ kín phần củ phía dưới. Một tháng sau bắt giàn, tiếp tục tưới nước, bắt sâu. Tháng tư, những trái hột sắn thon dài như trái đậu đũa khô dần vỏ; ông Thìn bóc vỏ, phơi hột, lấy được hơn một dạ hột giống. Năm đó nắng muộn, ông Thìn đợi tới cuối tháng bảy mới gieo hột lên những vồng đất được thuê làm sẵn ở lưng chừng triền núi An Thạch. Khi nương sắn đã được cắt đọt tới lần thứ năm, bắt đầu chạy dây, lá trở màu xanh nhạt đang độ héo vàng; thì một buổi tối nghe có tiếng súng nổ ở phía dãy núi An Thạch. Không ngờ đêm đó nương sắn đã bị thiêu cháy, cày xới nát bấy như những xác chết nằm vắt vẻo ở bờ bụi nào đó chưa kịp mang đi. Cái mộng chiều chiều đi ngược lên núi, thơ thẩn bên nương sắn, săm soi từng vồng sắn tươi mượt đã mất hẳn trong lòng ông cùng với những xác chết rải rác bên những vồng sắn héo úa từ dạo đó. Còn Sơn, y hết nhắc nhở tới những củ sắn tươi ngon ngọt như những quả bom ăn với cối muối ớt, nhưng cái mộng làm chủ những nương sắn không bao giờ mất hẳn trong mơ ước sau này của y. Ông Thìn đã buồn rầu đợi Tết như để chấm dứt cái xui xẻo đã không ngớt đeo đẳng vào người ông từ đầu năm. Tết năm đó, với ông, để đón một hy vọng thế vào những tai ương cũ, và cũng để xóa tan cái hình ảnh đìu hiu của nương sắn cháy đen loang lổ vết máu. Riêng Sơn, cho dù nương sắn của cha không còn được trông thấy với những vồng lá xanh đến độ cắt đọt, nhưng y vẫn nuôi dưỡng một nương sắn bát ngát trên triền núi An Thạch bên giấc mộng trở về êm ái như hình dáng Ngân mỗi đêm.

Sơn bước nhẹ nhàng trên những vồng sắn đã được nhổ củ, nhìn Ngân đang lom khom phía cuối nương sắn với ba người đàn bà. Bên cạnh nàng mấy đứa nhỏ đi nhặt những củ sắn bỏ sót dưới vồng khi đã nhổ bị đứt cuống, cười nói ồn ào. Bà Võ đang ngồi buộc những bó sắn lại thành chùm lớn, ngẩng lên nhìn thấy Sơn, bà cười hớn hở: "Cháu về khi nào? Cháu mới về à?".

Ngồi xuống cạnh đống củ sắn vừa được nhổ còn thấm ướt đất cát, y nói:

-Thưa, mới về...

-Cháu về chờ ăn Tết chắc?

-Thưa, không. Lính tráng làm gì được ăn Tết, bác.

Bà Võ đưa cho Sơn một chùm sắn lớn nói của con Ngân lựa sẵn, để dành. Y bứt một củ, lột vỏ, cắn ăn. Những miếng sắn xốp, mát, ngọt trong cổ. Y bỗng dưng thấy mất hẳn sự mỏi rã ở chân tay, hơi thở cũng đã trở lại nhịp bình thường. Y đứng dậy đi lần lên chỗ Ngân, với chùm củ sắn cầm trên tay.

Y gọi :

-Cô Ngân ...

Ngân ngước lên:

-A, anh Sơn.!

-Cô chủ cho một chùm ăn đỡ khát đi, chạy từ dưới đường lên đây mệt quá rồi.

Nàng cười, không trả lời câu nói của y.

-Lại sắp sửa nhắc anh cởi cái áo này rồi phải không?

Ngân bước ra khỏi vồng sắn đang nhổ dở, đi chậm rải bên y như đang cùng y đi dạo trên triền núi. Giọng nàng nói trong tiếng cười: "Anh chưa kịp gặp thằng Ân phải không?".

-Chưa. Nhưng chân cẳng nó như những con cò vẽ trên áo, dễ gì nằm yên ở nhà mà tìm?

-Anh mới về sáng nay à?

-Xuống xe, ào vào nhà như đi lục soát, rồi chạy lên đây ngay.

Nàng thoáng quay lại nhìn sững lên mắt Sơn. Dầu đôi mắt Sơn hơi thấp xuống, nàng vẫn thấy y có vẻ hân hoan. "Anh nói giống lúc đi hành quân", nàng cười cung cúc. "Còn hơn lúc đi hành quân nữa. Bảy ngày phép qua một cái như nháy mắt", y nói nhưng mắt nhìn dõi xuống cánh đồng phía bên kia đường.

-À, này... anh, sao không rán chờ cho tới gần Tết?

Y bất thần nhìn chăm chăm vào mặt Ngân khi nghe giọng nói yếu lạc của nàng. Giọng nói giống lúc trách cái áo lính, nhắc nhở tìm cái áo rằn ri của Ân hôm nào. Chỉ có những lời nói phân vân này khiến y nhớ nàng với dáng điệu co ro ở bến xe ngã ba Chí Thạnh hôm tiễn y vào Sàigòn. Cũng với những câu hỏi làm y không biết trả lời sao cho nàng tin tưởng, còn y đỡ thấy buồn. "Sao không rán chờ cho tời gần Tết?" - y chợt cười lớn:

-Tết này anh giàu...

-Anh trúng số à?

-Nghe nói có lương tháng mười ba, cộng thêm "tiền tử" truy lãnh hôm trước, không giàu à?

Y tiếp tục cười, có vẻ dửng dưng.

Nàng gắt:

-Anh lại nói nhảm.

Họ đang đi dần lên phía trên triền núi. Cây lá ở đó có màu xanh đậm hơn. Chừng như hơi lạnh của những ngày cuối đông còn vương vất trong những bụi cây dày. Nhưng nương sắn trồng muộn đang bắt đầu trổ lá già, xanh thẫm. Từ chỗ họ đứng, nhìn xuống triền núi thoai thoải, những nương sắn nằm sát trông quang đãng, đám người mua vừa nhổ sắn quay xuống đường, từng chuyến xe Thuận Thành chạy vội vã như hãi sợ những trái mìn chôn lấp đâu đó. Tiết trời gây gây lạnh. Bầu trời xám bẩn mây.

Ngẩng nhìn lên một cụm mây đang lững thững bay dạt về hướng tây, y nói:

-Anh sẽ dành tiền mua cho được vài cái áo hippy như thằng Ân, sau Tết, mặc về cho em ngó.

Nàng cười ngây ngất:

-Nhưng cũng nhớ để dành tiền mà hớt tóc. Để tóc kiểu thằng Ân dễ sợ quá chừng.

Y nhớ tới thằng em trai hippy của y đang trọ học ở Tuy Hòa. Nếu bỏ nó vào lính, nó hết có thì giờ chui vào quán café mà kêu than buồn bã. Thảy nó ở trên rừng, nó sẽ có nhiều dịp sống theo kiểu hippy mà nó thích. Nghe cha than vãn buồn rầu về nó mãi, y nghĩ y hết cách để hiểu nó. Những điều thuộc về sở thích của nó không mảy may giống ai trong dòng họ. Cha y đã kêu: "Tao không có cái nòi hippy nhưng sao lại đẻ nhằm thằng con hippy?"- để khỏa lấp nỗi buồn thất vọng răn dạy nó. Y chỉ thích nó nhiều nhất ở những tấm áo trông vui mắt Ngân. Lâu lâu, ở rừng trở về, mượn tấm áo màu rực rỡ của nó mặc vài hôm, cũng thấy bớt buồn bã đi. "em muốn anh ra đi, để lại cho em hình ảnh sặc sỡ của tấm áo rộng thùng thình của thằng Ân", y mỉm cười nói với ý định sẽ lãnh tháng lương cuối năm ra chợ trời ở Sàigòn mua lại một mớ áo cũ của mấy thằng Mỹ về nước, để dành mặc trong những ngày về phép.

Y nhìn nàng, đôi mắt còn lé sáng nụ cười thầm:

-Em đã sắm áo mới chưa?

-Chưa.

-À, này, em phải chọn áo màu đỏ ấy...

-Màu gì dễ sợ vậy, anh ?

-Cho nó xứng đôi. Nếu em buộc anh mặc áo rằn ri cho vui mắt thì anh cũng muốn thấy em trong cái áo dài đỏ, cho nó rực rỡ.

Tiếng bà Võ gọi vọng lên chỗ họ đang ngồi. Thấy Ngân đứngvụt dậy, bà quay trở xuống núi. Nương sắn đã được nhổ sạch. Đám trẻ hình như còn nuối tiếc, cố bươi xới từng vồng đất, chăm chỉ. Y lột một củ sắn lớn, đưa lên miệng Ngân. Nàng nhìn thoáng lên mắt y, cười, cắn một miếng thực lớn, nhai. Y bước sau nàng một quãng ngắn. Nhìn bộ tịch lùi xùi của nàng, y nhớ tới nỗi giận với thằng em tóc dài. Lúc y đang cùng Ngân từ triền núi xuống tới đường, gặp nó cỡi Honda từ Tuy Hòa về. Chiều đó nó chê Ngân đủ thứ trước mặt y. Nó hỏi y có cần người tình thời đại giống hệt Mai Lệ Huyền nó sẽ dắt về cho. Nó vừa chải vuốt lại mái tóc dài lê thê, nói : "Anh mê cô gái giữ sắn rồi à? Tệ quá, chỉ nhìn bộ đồ cũng phải nhắm mắt rồi". Y nói thản nhiên : "Tao không thích là Hùng Cường như mày". Thằng Ân có vẻ giận vì bị xúc phạm. Từ ngày để tóc dài, mặc áo rằn ri, nó dễ nóng nảy. Chừng như là nó tập cho hợp với tính của cao bồi? Nó nói giọng cau có: "Sao anh xài xể tôi vậy?".

-Chính mày vô lễ với tao sao mày không hỏi.

-Tôi thương anh, tôi nói.

-Nhiều lần tao đã nói sự thương xót của mày tao không chịu được như cái đầu chờm bờm của mày rồi. Nếu mày thương tao, thương cha mẹ, thì mày đã không tốn thì giờ tập mấy bài ca rẻ tiền nhún nhẩy chướng mắt, để lo mà học.

-Nhưng có phải chị Ngân như vậy không?

-Vẻ thẩm mỹ của mày là Mai Lệ Huyền hay gì gì đó, còn tao tao khác. Mày có thấy tao chê một con bé mặc mini cong cớn nào tìm tới đây không? Tao đã cố hiểu cái tâm lý kỳ quặc của mày như vậy, nhưng sao mày ngu quá?

Y nói giọng lạnh lùng: "Kể từ ngày hôm nay, mày câm cái miệng ồn ào của mày lại đi". Thằng Ân bỏ vào nhà, choàng vào người chiếc manteau trắng, nhảy lên chiếc Honda, đạp máy nổ, rồ ga, chạy. Y nhìn nó vụt biến mất như một cái bóng đen buồn bã.Y vừa giận nó, vừa thấy mình hết còn cách hiểu nó nữa. Đó cũng là lần y cảm thấy thất vọng như cha y. "Có lẽ mình đã quá già để không hiểu nổi được lứa tuổi đang đi sau mình mấy bước?", y nghĩ thầm. Phải chăng thằng Ân là một biểu tượng phản kháng tuyệt vọng của tuổi trẻ như ông Tùy Anh đã viết trong bài "Tóc dài, váy ngắn, và sự phản kháng" ở một số Vấn Đề? Nó tuyệt vọng cái gì? Nó đã biết tuyệt vọng chưa?

Họ đã đi xuống tới con đường mòn băng qua một nương sắn đã nhổ trụi, những vồng đất cát xô lệch, dấu chân còn lún sâu. Mặt trời đã chui ra khỏi lớp mây màu xám. Ánh nắng ấm, trong, chiếu lan tràn khắp triền núi rộng. Khung cảnh, bầu trời, giống những ngày cuối năm nào đó trong trí nhớ êm ả của y. Y cảm thấy một niềm vui thật bất ngờ vừa hiện rõ. Y nắm một bàn tay của Ngân, nói : "Cứ coi như hôm nay là sáng mồng một cũng được".

-Anh giỏi tưởng tượng lắm, em chịu.

Tiếng của y gấp gáp bất ngờ:

-Không giỏi tưởng tượng làm sao sống được ở trong rừng? Nhiều lúc nằm ở dưới hầm lạnh ngắt nồng nặc xác lá mục, nghĩ đang nằm ở phòng ngủ có máy điều hòa không khí. Mồng một đói meo ở trên rừng cứ cho là đang đi dạo ở một khu vườn...

-Anh chắc làm thi sĩ được.

-Hẳn là vậy. Ít ra anh cũng có viết được một bài thơ "Yêu người như yêu mây bay" để gửi tặng em đọc.

Ngân bỗng cười giòn. Chắc nàng đang nhớ tới những câu thơ bóng bẩy, tha thướt không mấy hợp với giấc mơ trở về làm chủ mấy nương sắn của y? Y chợt cười theo nàng khi nghĩ, từ dao đi lính không biết sao cái tưởng tượng có cơ phát triển trong đầu y nhiều quá vậy. (...)

-Em chê thơ anh dở?

-Ai mà chê.

-Chớ sao em lại cười?

-Cười là cười mấy câu cuối anh viết ghê quá.

-Đoạn nào em thử đọc anh nghe coi nào.

Ngân liếc nhìn y rất nhanh, nàng đọc chậm:

Ta yêu người cầm như đã chết,

Nên làm sao mơ thấy nụ cười?

Ta đã nguyện ngồi làm bia đá...

Bia đá mòn nhưng tình sao nguôi ?

Nàng khẽ rung động bàn tay trong tay y :

-Đó, anh có thấy ghê không?

Y kéo nàng sát vào người, ôm chặt - cười thực lâu:

-Chưa có gì ghê lắm đâu. Mấy ông bạn thi sĩ của anh còn nói khủng khiếp hơn nữa. Họ có một khối óc tưởng tượng lớn hơn anh nhiều.

Hai chiếc xe autobus Thuận Thành chạy vụt qua phía dưới đường. Những chuyến xe gần ngày Tết bắt đầu đầy nghẹt hành khách, kồng kềnh hàng hóa trên mui, chạy ào ào như thể sợ ngày Tết dồn đuổi. Hẳn là mấy cha tài xế sẽ đẩy cái bao tử tham lam cho tới sang giêng.

Đám người mua sắn đã đón xe Lam đi Tuy Hòa hết, còn lại bên đường mấy đứa trẻ giữ bò đang ngồi tụm lại chia nhau hút một điếu thuốc Mỹ. Y dừng lại cuối con đường mòn, chờ Ngân bước xuống. Y lấy thuốc ra hút. Nghe mùi, cả lũ trẻ chạy tới bu quanh y, chìa bàn tay đen điu ra xin. Y nhìn khắp các khuôn mặt chúng, thấy không có đứa nào già hơn thằng em út của y đang học lớp tiểu học. Y gắt: "Tao không tiếc một bao thuốc, nhưng tao không muốn nhìn thấy lũ bây trở thành ông già sớm". Một đứa, lớn nhất trong đám, sấn tới sát y, nói : "Tui già rồi mà". Giọng nói của nó không có vẻ gì đùa giỡn. Y cười : "Già? Là bao nhiêu tuổi rồi?".

-Mười bốn tuổi.

Nhìn kỹ, y thấy thằng bé có nhiều nét khắc khổ của một người luống tuổi; bỗng dưng y nghĩ tới thằng Ân. "Nếu có để tóc dài phản kháng thì thằng bé này có quyền hơn nó", y tự nhủ. Gương mặt gầy xanh, phờ phạc; dôi mắt bạc thếch, đờ đẫn, hẳn rằng nó đã chịu đói mà làm việc với nhiều mối sợ hãi bao trùm. Y lấy gói thuốc chia cho nó mấy điếu. Nó mừng quýnh lên. Y dặn: "Không được cho mấy thằng nhóc con kia hút". Nhìn đám trẻ chạy dạt tới một lề đường, y tưởng tượng tới những ngày đón Tết của chúng ở đó, với những con bò.

-Em về...

Ngân nhìn y với đôi mắt hôm tiễn anh vào Sàigòn nhập ngũ. Y gắng giữ vẻ bình thản : "Mai anh lên thăm".

-Chỉ còn bốn ngày nữa.

-Bốn ngày nhưng phải chia ra thực nhiều chuyện. Một ngày phép của lính như chỉ có mười hai giờ đồng hồ.

Ngân bước đi, chợt quay lại cười cười : "À, này, anh Sơn, ngày mai lên anh nhớ mặc cái áo của thằng Ân nhé?". Y cười, gật đầu. Y muốn nói với nàng "Em cũng phải mặc cái áo dài có thêu "Trung học Nguyễn Huệ" để anh có một bóng áo dài trắng phất phơi trong những giấc ngủ trên rừng", nhưng ngại nàng buồn, nên thôi.

Chị Hai Cua Đồng

Học hết cấp hai ở xã, Hải phải lên thị trấn đi học vì xã không có trường trung học. Từ thị trấn về nhà hết tám cây số, thương con, chị Hai kêu nó ở trọ trong ký túc xá, để khỏi phải đạp xe hằng ngày vất vả. Nó kiên quyết lắc đầu.

Ngày hai buổi, nắng hay mưa, nó cũng đạp xe đi về như thế. Ngoài giờ học, công việc vườn rau nó làm thay chị. Nhưng năm nào nó cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi. Hàng xóm hay lấy nó làm gương cho con mình.

Người ta mừng cho chị có chỗ dựa an ủi tuổi già. Nó không cho chị bắt cua nữa nhưng những buổi sáng nó đi học, chị vẫn lén lút đi. Chị muốn chắt bóp thêm để cho nó ăn học bởi chị nghe người ta bảo, học trên Sài Gòn tốn kém lắm.

Sáng hôm nay, đầu xóm, tụi con nít "bu" lại, nhìn ngó chỉ trỏ một cái xe hơi đang đậu. Trong xe, ở băng ghế sau còn có một bà ăn bận thật đẹp, người cứ thơm phưng phức. Phía trước bên lề, có một bà kia đang hỏi lũ nhỏ nhà chị Hai Cua Đồng ở đâu chỉ giúp bà, bà cho tiền mua bánh. Gì chứ, chị Hai Cua Đồng, ai mà không biết, thế là lũ nhỏ nhao nhao chỉ trỏ. Một lát sau thì chiếc xe dừng trước nhà chị Hai. Bà kia nói với người đàn bà ngồi băng ghế sau:

- Dạ em hỏi kỹ rồi bà chủ, không sai đâu. Cậu nhỏ bây giờ học lớp mười. Mười sáu tuổi ạ! Ở xóm này, ai cũng biết chị ấy lượm được con hết. Em đã điều tra rõ ràng rồi.

Người đàn bà đẹp thở dài, đưa khăn lên lau giọt nước mắt vừa tràn ra.

Buổi trưa, thằng Hải đi học về nhà như thường lệ. Điều đập vào mắt nó là cái xe hơi đang đậu trước sân. Chưa hết ngạc nhiên, bước vào nhà, nó thấy má nó đang khóc. Kế bên có một người đàn bà lạ cũng đang sụt sùi. Bên bộ ván có một người đàn ông và một người đàn bà nữa đang ngồi. Khi nó bước vô nhà thì bà đó nói:

- Dạ, cậu Hải về kìa bà chủ.

Nó cởi nón, gật đầu chào theo thông lệ và hướng ánh mắt về chị Hai thay câu hỏi ai vậy. Bởi xưa giờ, trừ người ta đến mua rau nhà nó, có khách bao giờ đâu mà mua rau cũng đâu ai sang trọng vậy.

Chị Hai kêu nó:

- Đi rửa mặt cho mát rồi vô má biểu.

Khi nó trở vô, chị kéo nó ngồi xuống kế bên nói:

- Dì này là má ruột của con đó. Má ruột của con tìm con vất vả lắm! Lại gọi má đi con...

Nói tới đó thì chị Hai nghẹn lời vì nước mắt.

Người đàn bà kia òa khóc lớn và nắm tay nó nói :

- Má xin lỗi con, không phải má bỏ con đâu. Bao năm nay má ăn không yên, ngủ không ngon, kiếm tìm con...

Thằng Hải nghe như đất dưới chân nó sụt xuống vậy. Dù từ lâu, nó hiểu nó không do chị Hai sinh ra nhưng nó không ngờ rằng má ruột đến tìm nó trong hoàn cảnh này. Trong lơ mơ, giữa những đoạn kể đứt quãng vì nước mắt của người má ruột nó, nó nghe câu được câu mất là:

- Má con nhà giàu, sống cùng cha và mẹ kế. Má thương ba con từ thời đi học nhưng ba con nhà nghèo. Bà mẹ kế muốn má lấy cháu ruột của bà ta vì gia sản của ông ngoại. Khi má sinh ra con, vì sợ ông ngoại, má phải giao con cho bà ta. Bà ta nói sẽ đưa con cho người khác nuôi giùm nhưng thật sự bà ấy sai người vứt con đi. Sau đó, cả gia đình ngoại con đi nước ngoài. Trời thương, cuối cùng ba má gặp lại nhau. Sau khi mẹ kế qua đời, ông ngoại con cũng hiểu ra, không ngăn cản như trước. Hiện con còn có thêm một đứa em trai nữa. Khó khăn lắm má mới tìm được tung tích con. Vì ông ngoại con bệnh già nên ba con không về cùng má được. Gặp lại con như vầy, ông ngoại với ba con mừng lắm! Con thương má, đừng trách má tội nghiệp.

Khi má ruột kể thằng Hải nghe như vậy, chị Hai tới cái tủ thờ, lục lọi gì đó. Khi nó quay qua hỏi chị Hai:

- Như vầy là sao hả má?

Chị Hai mếu máo, đúng rồi đó con, má con nói đúng, cái bớt son của con và cái lắc bạc đeo ở chân con. Khi má mang con về không cho ai biết bí mật này hết. Má gói giữ đây, định con lớn, giao cho con để con biết gốc tích của mình. Má con khổ bao năm nay rồi.

Hải ngỡ ngàng sự thay đổi khi cuộc đời mình tự nhiên có thêm bà má, ba, em trai. Trước khi má ruột đi về, ba nói chuyện điện thoại với nó, bảo sẽ nhanh chóng đón nó qua đó cho trọn gia đình. Nó mừng vì mình có gia đình như bao người chứ không trơ trọi. Xóm làng ai cũng vui lây. Một bước sung sướng, con nhà giàu. Nhưng nhiều lần nó cũng dò ý chị Hai khi nó đi rồi chị làm sao? Nó hy vọng chị ngăn cản nó nhưng lần nào chị cũng nói:

- Đi đi con cho có tương lai, qua đó được ăn học, đỡ cực khổ, sống với má mười mấy năm cực khổ rồi con. Ráng học thành người, trả hiếu má chưa muộn, má còn khỏe, má lo được, không sao hết con, còn chòm xóm bà con.

Nó cũng yên tâm phần nào vì không thấy chị Hai buồn phiền gì hết. Nhưng có một lần, nó đi học về sớm, khi ra vườn, nó thấy chị Hai vừa tưới rau, vừa quệt nước mắt. Cái dáng xiêu vẹo của chị in trong trời chiều như một dấu chấm hỏi.

Má nó về, dẫn nó đi làm thủ tục. Sau khi đi tới đi lui cũng thở phào nhẹ nhõm khi cầm trên tay cái visa. Chiều ngày mai thì nó theo má về gia đình thật của mình. Nhưng sao nó không thấy vui hay háo hức như nó nghĩ. Ngược lại, nó thấy như nó đang đánh mất cái gì đó quý lắm! Nó ngồi trước sân, miên man suy nghĩ, nhìn ra cây xoài đang ra trái non. Nó thấy lại hình dáng ngày xưa của mình với má.

Hai má con cùng trồng rau. Nó nhớ cái dáng xiêu vẹo khi má xách thùng nước, nhớ đôi tay má chai sần và đầy vết cua kẹp chứ không mềm mại, mát rượi như tay má ruột nó. Bỗng tiếng chị Hai vang lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của nó:

- Ngồi chi ngoài đó gió lạnh đó con. Tranh thủ ngủ sớm, mai má con xuống đón sớm đó. Vô đây má có chút chuyện dặn con.

Khi nó ngồi ngay ngắn trên bộ ván, chị Hai miệng nói, tay kéo cổ nó xuống:

- Sợi dây chuyền này má tính để dành cho con sau này đi học, có cần thì dùng, bây giờ má nghĩ không cần nữa rồi. Má cho con làm kỷ niệm. Má biết má con dư giả nhưng vạn nhất, chuyện gì con cũng có cái phòng thân. Má nghe mấy dì ngoài chợ nói xứ đó lạnh lắm! Con nhớ cẩn thận sức khoẻ, con hay bị khò khè khi chuyển gió. Mới lại, về bên đó, ăn nói từ tốn, ngoan ngoãn cho người ta thương ha con. Cố gắng học nghe con...

Thằng Hải "nghe" vài giọt nước nhỏ lên cổ và giọng má đang nghẹn lại, nó biết má đang khóc. Nó an ủị:

-Dạ, con biết rồi má. Nhưng sợi dây má giữ đi, phòng thân có mình má bên đây, lỡ má đau bệnh. Con đi vài năm, con về với má liền.

Miệng nói, tay nó lần muốn tháo sợi dây chuyền ra. Chị Hai giơ tay ngăn lại, nói tiếp:

- Đừng lo cho má, từ đó tới giờ má cũng sống vậy. Má con có ngỏ ý gởi cho má số tiền ở trong ngân hàng phòng thân. Nhưng má bảo má không sao, để số đó lo cho con học hành. Giờ nhà mình cũng đâu khó khăn như xưa.

Sáng sớm, khi má ruột xuống đón Hải đi, bà con lại đến đưa tiễn, chúc nó lên đường bình an. Ai cũng ngỡ chị Hai sẽ khóc lóc nhưng trái với thông lệ, chị tươi cười vui vẻ, giống như thằng Hải đi học bao ngày chứ không phải là đi xa không biết bao lâu mới về. Khi xe chạy rồi, bà con ai về nhà nấy, chỉ còn duy nhất chị, chị ngồi bệt ngoài sân, dựa vô góc xoài nức nở khóc.

Xe Chạy tới Bình Chánh, ngoại ô Sài Gòn, má thằng Hải nói:

- Chút về tới khách sạn, ăn xong, kiểm tra hành lý rồi má con mình ra sân bay. Con đừng lo cho má con nhiều. Má mang ơn chị ấy không hết, má không để chị ấy thiếu thốn hay thiệt thòi gì đâu. Mỗi năm, má sẽ gửi tiền để chị ấy không phải vất vả, con yên tâm đi, vài năm con về thăm chị ấy.

Thằng Hải nhìn má nó rồi nói :

- Má kêu xe dừng lại chút được không má? Con khát nước quá! Con muốn nghỉ mệt chút, con đi xe không quen.

Xe tắp vô một cái quán võng bên lề. Sau khi uống nửa ly nước, thằng Hải tự nhiên xoay qua má nó, nói một hơi như sợ ai cướp lời nó:

- Má... con không giận, không buồn gì má hết, con vui vì con biết hồi xưa má không phải vứt con như con nghĩ. Gặp má, con mừng lắm bởi con có cội có nguồn. Con thương má nhiều vì con biết bao năm nay má tìm kiếm con vất vả, buồn rầu, lo lắng cho số phần con. Nhưng... con thương má của con hơn, má không có con, má còn có ba, có em. Còn má con có một mình con. Khi nào má con không còn nữa, con sẽ về bên má. Má... con xin lỗi má...

Trong khi má thằng Hải còn đang chưa biết phải làm sao trước sự cố bất ngờ vậy thì nó chạy ào qua thanh chắn phân cách hai làn xe...

- Hải... Hải...

Nó đưa tay vẫy chiếc xe đò ngược chiều mà không thèm nhìn coi xe đi tỉnh nào, nó nhảy phóc lên xe. Xe chạy đi trước sự ngỡ ngàng của má nó bên kia lề và chú tài xế đang cố băng qua đường về phía nó.

***

Trời về chiều, những tia nắng từ hướng tây chiếu xuống cái sân trước nhà. Bếp núc lạnh tanh dù sáng giờ, chị Hai chưa có hạt cơm bỏ bụng. Chị ngồi trong góc bếp hàng mấy giờ đồng hồ. Chị muốn đứng dậy đi ra sau vườn làm gì đó nhưng tay chân chị bủn rủn, không có sức lực. Chị thầm nghĩ: giờ này chắc Hải đang ngồi trên máy bay như mấy bà ở chợ nói. Chị tự dặn lòng phải mừng cho con chứ, sao mà ngồi ủ rũ như vậy?

Chợt chị nghe nhà trên có tiếng động, sợ con mèo mun nhảy lung tung như thường ngày, làm đổ bể cái gì, chị níu cây cột đứng lên, cố nheo mắt nhìn coi. Có cái bóng đen che ngang trước cửa nhà và tiếng thằng Hải gọi như bao lần đi học về:

- Má ơi...

Chị quỵ chân xuống, môi cười mà nước mắt tuôn như mưa. Ngoài sân, trời về chiều, gió ngoài sông thổi nhẹ từng cơn...

Truyện ngắn :Trốn, Đói!

Xe lửa vẫn chạy đều, không mau quá, có muốn mau cũng không được. Nó lượn mình vòng theo các khúc quanh đồi núi được bao phủ bằng màu xanh mát dịu, gợi nhiều cảm hứng. Đôi khi màu xanh tươi mát chứa chan niềm hy vọng của cây rừng bị xen lẫn bởi những lõm đất mang màu than đen trơ trụi, khô khan, chết chóc. Con người vì nghèo đói, nên lùng sục khắp nơi, kể cả rừng sâu núi cao, thản nhiên, lạnh lùng tàn phá thiên nhiên để mình được sống còn. Sống còn trong trạng thái sơ đẳng - có miếng ăn để tồn tại qua ngày như một thứ động vật hai chân - Sau cùng, khi đoàn tàu vẫn vươn tới trước, mọi thứ chung quanh từ từ chuyển thành màu đen tờ mờ, rồi âm u khi bóng mặt trời đã tắt.

Đoàn xe chuyển động có lúc như chính nó tự sắp các toa phía sau thành một đường thẳng, xuôi Nam. Những âm thanh rì rầm của các bánh xe sắt tròn nhỏ chạm trên tuyến đường ray vững chắc luôn vang lên đều đều. Đều đều một cách buồn bả, dễ gây cảm giác buồn ngủ cho người ngồi trên xe. Từng toa xe lắc lư qua lại, lên xuống, có lúc lại rung lên từng cơn nhỏ, theo nhịp những bánh sắt lăn chạm trên đường ray. Đoàn tàu lửa cũ kỹ, tiếp tục nhoài mình lên phía trước, không ít mệt nhọc vì sự già nua của cái thân xác kim loại quá thời, để mong đi tới đích : Sài Gòn. Sau khi băng mình vượt qua, bỏ lại những địa danh miền Trung quen thuộc.

Từ trưa đến chiều tối, đã hơn 7 tiếng đồng hồ rồi Sáu còn quanh quẩn ở chỗ ghế ngồi. Vị trí này gần nơi giáp hai toa tàu. Không xa cái cầu tiêu trần trụi, ẩm mốc, hôi hám. Vì nước tiểu của khách văng loạn xạ trong cái phòng hẹp, có lẽ, rất ít khi được chùi rửa. Trần trụi vì bên trong cầu, đồ trang bị phục vụ cho khách như đèn bọng, kệ, khung..... đã bị bọn trẻ bụi đời sống lang thang trên xe lửa, tháo đi bán ở đâu đó hết sạch từ khuya rồi. Nếu không, thì cũng bị những hành khách thất nghiệp, kẹt tiền, nên không do dự, băn khoăn chút nào, nhanh tay gỡ, lấy tất cả những gì có thể lấy được, chỉ để độ nhật, còn ai ra sao thì mặc kệ. Ngay cả chỗ ngồi cho khách đi đại tiện lúc xe đang chạy cũng trống phọc, trơ ra một lỗ nhỏ sét sẹt, đen ngòm, ngó thẳng xuống đường ray.

Chuyến xe cứ dằn sốc từng cơn, khiến Sáu khó ngủ mặc dù rất mệt sau gần tuần lễ vượt rừng. Nhưng cũng không dễ dỗ giấc ngủ trong những ngày như thế này, khi trạng thái thần kinh Sáu luôn căng thẳng, trong tư thế phải sẳn sàng đối phó. Đúng hơn, phải sẳn sàng tự vệ. Đúng nhất, sẳn sàng nhảy khỏi xe, trốn, chạy bỏ, tìm đường thoát thân mau chóng, nhằm tránh những hiểm nguy rất chết người, không thể nào lường trước được, có thể ập đến cho Sáu bất cứ lúc nào, nếu bị công an trại bắt lại. Bộ quần áo màu xanh kaki cũ mèm, nhăn nhúm, không còn lành lặn bao nhiêu, bốc mùi khai, vì ủ mồ hôi người lâu ngày, gây khó chịu cho chính Sáu chứ đừng nói chi tới những ai ngồi kế bên anh. Chúng đã được Sáu lượm, hay thật ra là lấy trộm từ một căn chòi nhỏ, trống trải, trên núi cao, lúc màn đêm vừa buông xuống, khi Sáu đang trên đường tìm ra quốc lộ 1, đoạn chạy ngang Phú Yên, Miền Trung.

Nhớ đến đây, Sáu thầm xin người nông dân nghèo khổ đó, bỏ qua cho. Thật sự Sáu không muốn lấy trộm, và Sáu cũng chưa từng trộm cướp của ai, thế nhưng trong cơn vượt thoát sự áp bức, Sáu đã phạm lỗi trộm lén của người. Như thế trong hành động trốn chạy tìm tự do, hướng Thiện của Sáu, đã mang một ẩn ý Ác trong đó rồi. Tuy nhiên, cái ác do Sáu gây nên chỉ là điều nhỏ, thế nhưng cũng đã gây bất bình cho một người nông dân nghèo, sáu biết chắc như thế, bởi vì, khi không vô cớ lại bị ai đó lấy trộm bộ đồ làm rẫy. Nếu cũng vì một mục đích "thiện" nào đó, theo suy nghĩ chủ quan của Sáu, mặc dù chưa biết có đạt tới đích hay không, Sáu lại tạo ra cái ác to lớn hơn. Điều đó có thể chấp nhận được không ? Một nhận thức dẫn dắt hành động : "Cứu cánh biện minh cho phương tiện", xem ra có rất nhiều tiềm năng đưa con người đi đến một xã hội nhân sinh vô đạo .

Bộ đồ này, theo Sáu đoán, chắc là của người đi làm rẫy máng lại trong chòi, khi ông ta xuống núi về xóm nghỉ ngơi, cơm nước lúc chiều tối. Thường thì nông dân đi làm rẫy xa nhà, có lúc phải nán lại một hai ngày trong chòi rẫy. Vì thế, họ vẫn để một bộ quần áo cũ, phòng khi có lúc thay đổi. Dù cũ rích và trông tồi tàn. Nhưng đối với Sáu cũng là may mắn quá rồi để thay cho bộ đồ xanh xám, thô kệch, áo không cổ của trại, mà Sáu mặc trên người lúc rời đi: Bộ đồng phục của phạm nhân đó, có thể dễ dàng bị công an hay du kích xã phát giác, nhận diện.

Hôm đó, sau khi thay đồ, Sáu cẩn thận đem bộ đồ trại dấu dưới mấy cục đá lớn ở lòng suối khô cạn, trên lưng chừng đồi, xóa đi dấu vết cũ, bỏ lại sau lưng Sáu một khoảng không gian chật hẹp về vật chất và tinh thần, cùng khổ, cay đắng, nhục nhả, đói ăn thường xuyên và nhiều dằn vật tâm trí, để bước đi tới, với một tương lai vô định !! Nhưng hé mở khung trời tự do trong mơ ước, đầy thèm muốn đối với Sáu. Khoảng không gian chật hẹp đó, nơi những đồng cảnh vong niên bịnh hoạn, kiệt sức của Sáu đang mòn mỏi đợi chờ: Đợi chờ một phép lạ xuất hiện : chính quyền tự tuyên bố giải thể, xóa bỏ điều 4 trong hiến pháp, cho phép đối lập hoạt động, tổ chức bầu cử dân chủ , thực hiện một xã hội đa nguyên ...v....v......

Sự đợi chờ này càng tăng thêm "hy vọng" sau khi đế quốc đỏ sụp đổ thảm hại. Tuy nhiên một năm sau đó và.... một năm nữa......phép lạ vẫn chưa đến. Mơ ước của người tù vẫn còn là ước mơ xa, xa tầm tay với ! Chưa biết đến chừng nào với được đây ? Cùng lúc đó, bộ máy thống trị cập nhật, điều chỉnh, tự sửa thầm, tạo dáng mới, thay màu sắc, cốt chỉ để đạt mục tiêu tối hậu : tiếp tục tồn tại trong xa xỉ, phóng đảng, đầy tự do trên bất công, đói nghèo, tù ngục của vạn vạn sinh linh. Trong tù, các đồng cảnh của Sáu vẫn kiên nhẩn trong thụ động, đợi chờ. Đôi khi lại phóng đại thật ấu trĩ dự phóng của mình để bù đắp lại một thực tế ê chề. Còn Sáu thì quyết định ra đi.

Trốn chạy là sự đề kháng. Tuy nhiên đó chỉ là hành động kháng cự tiêu cực. Nó chỉ tiếp sức vun bồi cho bạo quyền trì trệ lâu hơn trong tự mãn, kiêu căng, thối nát. Còn đứng lại, ngẩng mặt chiến đấu thì lẻ loi, cô độc. Anh hùng, hào khí, nhưng hậu quả là tự sát hay bị tàn sát. Tuy nhiên "không thành công thì thành nhân", thế nhưng, người đời lại ít chọn sự thành nhân, hoặc chỉ đi kiếm sự thành công cho riêng tư. Không thiếu chuyện sẳn sàng chối bỏ cội nguồn để đạt được mục tiêu này. Vì thế đụng mặt với bạo lực, con người lại tiếp tục chạy trốn tìm sự sống cho mình hoặc để tiếp tục đối đầu trong tương lai .

Từ sự trốn chạy đến cái tương lai đó kéo dài không biết bao lâu. Và trong thời gian kéo dài đấy, bạo lực tiếp tục sinh sôi, kiêu trị. Khoảnh không gian chật chội ấy, hàng ngày vẫn âm thầm diễn ra các nổ lực tự tồn của người tù. Trong đó bao hàm cố gắng của cả hai phía. Những " Sư đoàn trưởng", "Thủ Tướng" , "Bộ Trưởng" của các tổ chức trong hay ngoài nước, tự phát nổi dậy hay có tổ chức, chống lại sự cai trị đương thời. Hay các "phạm cán" - bọn quyền thế phạm tội vơ vét của công, đục khoét, ăn bám, ăn lường ,ăn lận, ăn giựt, ăn "vụng", ăn chận, ăn hối lộ, hãm hiếp con nít - bộ đội giết người, tù hình sự mang trọng án. Những phạm nhân này - theo định nghĩa của kẻ cai trị - cũng vì lý do tồn tại của cá nhân họ nên sẳn sàng thừa lịnh của Ban an ninh trại để theo dõi, gài bẫy, đánh đập, ám hại những tù nhân chân chính cô thế. Nổ lực sinh tồn của gần 1.000 sinh vật trong trại quyết liệt, một mất một còn, tất cả diễn ra trong "bóng đêm" nhà tù. Nhà tù vẫn sừng sững, vô tri, giám sát tuyệt đối mọi hoạt động của đám sinh vật đang nheo nhóc, lao đao một cách khốn nạn đó !

Thế hệ Sáu vừa lớn lên, khi miền Nam mới sụp đổ. Những thanh niên trẻ tuổi nhiều hoài bảo như Sáu "nhận" được "một gia tài" : Tổ quốc tan nát, cùm gông giăng khắp, xã hội cực bần cùng. Không ít người lãnh đạo thuộc thế hệ đi trước, khiếp nhược, bất lương, vô tâm làm mất miền Nam trù phú, trốn chạy tìm cuộc sống tàn, quăng bỏ trách nhiệm và lý tưởng lại phía sau. Rồi chính những người trẻ như Sáu đã đứng lên, mặt đối diện với bạo lực, nuôi Lý tưởng, mong khai phá một nền Tự Do. Bơ phờ, rã rời thân xác, đói !!! Sáu cứ ngồi lặng lẻ, cặp mắt lo âu, mỏi mệt ngó ra bên khung cửa sổ như mong cho chuyến tàu mau tới bến.

Cách đây hơn một tuần, sau một thời gian dài chủ tâm sẽ thực hiện, Sáu tự ý rời trại không có phép của Ban An Ninh hay Trại Trưởng, một thế lực khủng bố mọi rợ đối với tù nhân. Vào một trưa thứ bảy, lợi dụng hai công an quản chế đội trong phút chốc lơ là cảnh giác, (vì đói bụng hay vì nghỉ tới chuyện sẽ đi chơi vào tối thứ bảy?), Sáu chui qua một lổ nhỏ sau giàn dưa leo của đội rau xanh. Sau đó Sáu chạy nhanh qua một miếng rẫy ở ngoài hàng rào trại, rồi đâm nhanh vào đám mía rộng lớn, cao hơn đầu người của dân làng gần đó trồng. Đùng! Đùng! Đùng! 3 phát súng AK bắn báo động toàn trại: đã có phạm nhân vượt trại ! Ba phát súng báo động của công an quản chế đội 12 ( đội rau xanh ) cũng chính thức báo cho phạm nhân Sáu biết rằng : từ đây anh không còn là một phạm nhân bình thường. Lịnh kiên giam đặc biệt ! sẽ "dành" cho Sáu một khi trại truy tìm anh được.

Từ trưa hôm đó cho đến trời nhá nhem tối, Sáu rút mình, nằm co trong đám mía. Tiếng chó săn của trại sủa xa xa, loanh quanh, tiếng xe honda chạy vòng quanh thôn xóm, lùng sục hăng say hay chiếu lệ tên tội phạm vượt trại. Thỉnh thoảng có vài tiếng súng bắn chỉ thiên dọa dẫm. Sáu lo sợ bị công an trại tìm thấy, nhưng thật may, đám mía rộng lớn đã che chở cho Sáu. Nằm gần 7 tiếng đồng hồ trong cái rẫy mía sung mãn, Sáu luôn luôn nghe ngóng mọi động tịnh chung quanh. Đói, sẳn mía đó, Sáu bẻ mía ăn thay cơm, nhưng không dám bẻ mạnh tay sẽ gây tiếng dộng. Mía ngọt, nhiều nước giúp cho Sáu khỏe lại đôi chút. Kinh nghiệm đi rừng dạy cho Sáu phải thủ một cây mía, vừa làm gậy dò đường trong đêm tối, vừa là thực phẩm phòng hờ lúc đói.

Trời nhá nhem tối, Sáu ngồi dậy, bò nhẹ ra khỏi đám mía cao hơn hai thước, bóng đêm đang rớt dần xuống, bao phủ cảnh vật, xa xa có ánh đèn dầu của nhà ai. Một thoáng nuối tiếc cảnh ấm êm trong bần hàn của gia đình Sáu ngày xưa trên vùng đất kinh tế mới ở Xã Bảo Chánh, Huyện Xuân Lộc, nhưng không có thì giờ cho những phút giây kỷ niệm, không ít tê tái lòng, vào thời điểm này. Hơn 10 năm rồi, buổi chiều tối nay là lần đầu tiên Sáu được tự do đứng một mình giữa trời đất bao la, hít thở không khí trong lành. Sáu thật sự sung sướng nhưng kèm theo đó là cảm giác hồi hộp, lo sợ. Cuộc đời sắp tới đây của Sáu là một cuộc đời tự do, giang hồ chim trời tung cánh bay lượn, do chính Sáu quyết định, mặc dù còn chứa đựng nhiều rủi ro.

Sáu hạnh phúc, mừng rở. Sáu nhìn lên trời cao, tìm một ít dấu vết còn sót lại của ánh dương vừa lủi vào bóng đêm mênh mông, tìm hướng. Rồi Sáu ngó các vì sao lung linh yên lặng, định hướng đông, không chắc lắm. Nhưng quyết định tối hậu đầy cứng rắn, phải lên đường ngay, khởi đầu cho chuyến đi tìm tự do nhiều bất trắc, đầy đói khát, hiểm nguy trong những ngày dài tới đây. Sáu vẫn ngồi co đấy, lòng không yên.

đầu toa đàng kia chợt có tiếng người xao động, gọi nhau ơi ới. Sáu giựt mình, tái mặt, rướn cổ lên nghe ngóng, quan sát theo phản xạ sinh tồn. Chuyện gì ? Qua ánh đèn vàng mờ nhạt trong toa, Sáu thấy một bóng dáng công an đang đi kiểm tra vé xe của hành khách. Phản ứng thật nhanh, Sáu bật dậy, lách mình vào cái cầu tiêu bên cạnh. Bên trong lúc này có mấy cái thúng và đôi gánh của ai bỏ đây, khiến cái cầu tiêu còn chật hẹp hơn. Sáu đứng thẳng người ép sát vào góc cửa, hy vọng tên công an xét vé sẽ không ngó vào cầu tiêu để lục lọi, vì tối đen và chẳng vệ sinh gì. Sáu thở mạnh, tai vểnh lên tập trung nghe ngóng động tịnh. Mắt căng ra, ngó qua kẽ hở. Ánh đèn pin quét ngang, quét dọc, quét lên, quét xuống, rồi chiếu thẳng để kiểm tra hàng hóa và hành khách trong toa.

Sau cùng, cái không chờ đợi đã đến. Gã công an tinh quái đẩy cửa cầu tiêu và chiếu đèn pin vào trong. Gã thấy Sáu với một hình dạng rách rưới. Hơi ngạc nhiên vì có người đàn ông đứng núp trong cầu tiêu hôi thúi, gã quét đèn một lần nữa từ trên xuống dưới thân hình đối tượng nhiều khả nghi trước mặt để quan sát cho chắc. Những dấu trầy trụa trên tay, chân, mặt anh, vẫn còn đọng một ít máu khô. Các vết tích một tuần băng rừng, lột suối, té mương, ngủ trên cây cỏ rừng đọng sương khuya, vẫn còn đó, trên tấm thân tiều tụy, không bình thường. Nghiệp vu chuyên môn của một công an khiến gã nghi ngờ ngay. Gã quát với giọng hăm dọa :

- Anh kia ở đâu mà quần áo lấm lem thế này ? Làm gì trong cầu tiêu ? Sao không đứng bên ngoài ? Anh trốn cải tạo phải không ?

- Không, tui đau bụng nên dzô đây đi cầu, chứ có làm gì đâu .

- Láo khoét. Nhìn anh tôi biết ngay là anh trốn trại cải tạo. Ra đây.

- Tui là dân thất nghiệp đi làm mướn, có làm gì đâu mà cán bộ nói tui là trốn cải tạo. Sáu cố chống chế.

- Anh ngoan cố hử? Tính chống lại lịnh công an hả? Tôi bảo anh bước ra ngoài này ngay. Có nghe tôi bảo không?

Gã công an gằn giọng, hất mặt về phía Sáu như thách thức Sáu thử chống lại gã. Biết không thể đôi co thêm với gã công an. Sáu bước ra khỏi nơi ẩn núp, tim đập mạnh. Đi theo gã công an soát vé hay nhảy khỏi xe lửa ngay bây giờ. Toa xe chật hẹp, hành khách đang đứng lên chờ kiểm tra vé, có người chen lấn để trốn vé. Đòn gánh, thùng bọng ngổn ngang. Rất khó nhảy chạy. Trời đang về đêm, muốn nhảy phải có chuẩn bị. Nhưng để gã công an này bắt giao trả lại về trại thì rất nguy. Cầm chắc là 6 tháng kiên giam trong khu biệt giam ghê rợn mùi tử khí. Hai chân bị còng suốt ngày, nằm trên xi măng lạnh, không mùng mền, khẩu phần cơm hàng ngày đã ít, lại bị cắt bớt. Sự đọa đày đó kéo dài 6 tháng, thì chắc phải liệt chân. Chưa nói đến chuyện bị tăng án tù lên nhiều năm nữa.

Khu kiên giam trại, anh em tù khôi hài đặt cho cái tên là " nhà trắng ", vì khu vực này được quét vôi trắng, đã chôn xác nhiều tù nhân kiên trung. Cha Nguyễn Văn Vàng, vụ án Nhà Thờ Vinh Sơn xảy ra ở Sài Gòn năm 1976, cũng từng bị kiên giam, sau đã chết ở đó. Một đồng cảnh vong niên của Sáu : anh Võ Đằng Phương, Thiếu tá Pháo binh Thủy Quân Lục Chiến, cũng từng nằm trong khu kiên giam này. Nhưng may mắn, trước ngày Sáu rời trại, anh Phương vẫn còn sống. Bị tù từ sau 30 tháng 4 năm 1975, anh Phương kéo dài đời tù nhân cho đến đầu năm 1993 vẫn chưa ra.

Không thể được. Không thể để bị bắt lại. Nhưng lúc này chưa chạy được, phải tính kế khác. Sáu căng thẳng suy nghĩ, gã công an này chỉ là công an hộ tống trên chuyến xe lửa. Gã không phải là công an địa phương hay đám công an quản chế của Trại. Như vậy, phần chắc gã chưa biết vụ việc của Sáu. Anh sắp sửa câu chuyện trong đầu để nói khi bị hỏi. Gã công an xét vé bảo Sáu đi về hướng toa trước mặt. Sáu tỏ vẻ rụt rè, ngoan ngoản đi trước như thầm cho gã biết anh là người vô tội. Công an đi theo sau, thái đô gã không gấp gáp gì, những người trong toa tránh sang hai bên. Nhưng Sáu vẫn phải bước qua các đống thùng, hộp, bao tải, củi, bày mất trật tự, chồng đống trên sàn toa.

Vào đến toa của gã công an, Sáu liếc nhanh, chỗ gã làm việc là một nơi khá riêng biệt. Riêng biệt vì nơi đây hơi sạch sẽ, không có hàng hóa nhiều hay hành khách la ó, ì xèo. Tuy nhiên, gần cái bàn nhỏ nơi gã bảo Sáu ngồi xuống có 3, 4 ả, trạc chừng 30 hay trẻ hơn, ngồi đó. Những người đàn bà này dòm Sáu một cách dững dưng. Chắc họ nghĩ anh là thằng đói rách, ăn cắp vặt trên xe lửa nên mới bị công an bắt mang đến đây. Mấy cô này là dân đi mua bán có chút tiền, Sáu thầm nghĩ, vì trông quần áo, phục sức, cách nói năng. Dững dưng với Sáu, nhưng lại đon đả đú đởn với gã công an. Có lẽ gã này bảo kê cho mấy bà mấy cô khi mang hàng lên chuyến tàu chợ liên tỉnh này.

Bảo Sáu ngồi xuống, gã công an bắt đầu tra hỏi .

- Anh làm gì mà lại chui vào cầu tiêu đứng trong khi tôi đi kiểm tra vé tàu?

- Dạ, tui ở Sài Gòn, ra đây theo anh em đốn cây hầm than, chuyện làm ăn bị lỗ lã, nên tui đi ké xe lửa về Sài Gòn thăm nhà và kiếm chút đỉnh tiền quay trở lên đây làm tiếp.

- Anh nói gạt tôi.

- Có gì đâu phải nói gạt cán bộ, tui có sao nói dzzậy mà.

- Tôi bảo tàu ngừng ngay bây giờ và giao anh lại cho công an xã mang anh về trại cải tạo. Anh phải khẩn trương khai báo thành thực mau.

- Tui đã khai với cán bộ hết rồi, tui nói tui là dân làm ăn. Trước đây, tui cũng từng đi bộ đội, đóng quân trên đất K ( Kampuchea ). Tui đã mang cấp bậc Thượng sĩ, nhưng sau đó, không được giới thiệu vào đảng, nên bất mản xin giải ngũ. Tui từng sống trong bộ đội tới 8 năm lận đó. Gã công an im lặng nhìn người đối diện, soi mói. Nhanh trí đem câu chuyện đi bộ đội đóng trên đất Cam Bốt ra nói với gã công an này, coi ra phần "tâm lý chiến" đang có hiệu quả.

Gả công an nghe người đàn ông dơ dáy, thiểu não ngồi trước mặt nói rằng, từng đi bộ đội. Khiến gã dịu giọng, gương mặt gã không căng thẳng như trước. Một phần, gã không muốn làm tốt quá, gã chỉ là tên xét vé tàu lửa, đâu có dính gì tới công an gác trại. Phần nữa, gã thấy Sáu nói chuyện hiền lành, nhỏ nhẹ mà từng là bộ đội. Gã chợt nghĩ đến tương lai của gã. Nếu sau này gã xuất ngũ mà lang thang, đói rách như thế này thì chết mẹ cuộc đời.

Liếc thấy gã công an tỏ vẻ thay đổi thái độ, Sáu "ca" thêm về cảnh khổ của bộ đội sống trên xứ người, sự đối xử bất công mà nhà nước đối với bộ đội phục viên . Những câu chuyện Sáu nghe kể trong trại bây giờ đem ra ứng dụng coi bộ sắp thành công. Sáu rút bọc thuốc rê trong túi áo ra, xin gã cho phép quấn một điếu thuốc, và mượn gã cái hộp quẹt. Gã đưa cho Sáu rồi quay sang tán chuyện, đùa giỡn, mắt nháy nhó, tình tứ, nhiều thèm muốn với mấy cô gái đi buôn ngồi gần.

Bắt Sáu ngồi chờ thêm vài phút nữa, gã cho Sáu đi về chỗ cũ, ngồi đây lâu cũng không tiện cho gã. Nói chuyện với mấy cô, mấy bà đon đả, đưa lời, thoang thoảng mùi son phấn, một ít da thịt trăng trắng trên cánh tay trần của ả nào đó phơi bày trước mắt, vẫn làm gã thích thú dễ chịu hơn là ngồi lấy cung một thằng mạt rệp, dơ dáy, nồng nặc mùi khai, ở đâu đâu chẳng ai biết, Và cũng không phải là trách nhiệm của gã. Sáu mở cờ trong bụng, nhưng giả bộ đứng lên từ từ, chưa vội đi ngay. Quay trở lại chỗ ngồi cũ, Sáu thầm tạ ơn trời đất linh thiêng phù hộ anh tai qua nạn khỏi.

Trời đã hơn 8 giờ tối, sinh hoạt trên xe lửa không đứng lại, thỉnh thoảng có người đi qua đi lại coi hàng, có thể họ chuẩn bị xuống ở ga nào đó gần đây. Hoặc là một thằng bé bán rong, cố tranh thủ bán được mấy cục kẹo hay đòn bánh tét. Hai củ khoai lang bí nguội lạnh còn nằm trong túi, Sáu mua được khi mới lên xe lửa ở một nhà ga nhỏ gần vô Thị xã Tuy Hòa. Từ trưa đến tối, Sáu chưa có hột cơm nào trong bao tử. Tất cả chỉ là vài củ khoai lang luộc, khô cứng hơi khó nuốt nhưng vẫn ngon và có vị ngọt lịm trong cơn đói khát. Cũng may, khi chuẩn bị rời trại, Sáu đã mang theo ít tiền còn dành dụm được từ ngày thăm nuôi lần cuối của ông cụ thân sinh, ở Sài Gòn lặn lội thân già ra thăm Sáu, do đó mới mua được ít khoai bỏ túi thủ thân, phòng lúc quá đói. Sáu không dám xài nhiều, mặc dù trên toa xe lửa có bán cơm dĩa. Sáu định bụng phải trữ ít tiền trong mình để phòng khi hữu sự.

Ngồi cô đơn, đói lạnh, buồn tủi trên chuyến xe lửa vào Nam, chưa kể một tuần lể lạnh, khát, không cơm trong rừng sâu. Mới tuần qua đây, khi còn lạc lỏng giữa rừng cây cô quạnh, im lìm, Sáu chỉ ăn qua loa, hấp tấp trong sợ hãi những thứ rau rừng, bí rợ còn non, bắp, dưa leo, dưa gang, mía rẫy, nước suối. Các thứ mà Sáu quơ được một cách vội vàng trong những miếng rẫy trên non cao, dưới mương nước, dọc đường trốn chạy. Người trốn chạy người, dân chạy trốn sự truy bức của chính quyền để tìm Tự Do. Sáu chỉ là một nạn nhân trong hàng triệu người trốn chạy sự áp bức. Định mệnh đen tối, đau buồn này, khởi hành trong lịch sử đau thương của dân tộc từ thập niên 1940 . Đỉnh cao của cơn lũ trốn chạy tránh áp bức : năm 1975. Nó đã đi, đang đi và tiếp tục đi, trong cuộc hành trình lịch sử trốn chạy tìm Tự Do của người dân nước anh. Không chấp nhận một trật tự xã hội tối phi lý, thủ tiêu sự Tự Do cá nhân, và đề cao sự tuyệt đối của tổ chức, tổ chức đạp trên đầu quốc gia, dân tộc để trường tồn trong thối nát, bất công. Và vì thế người dân rời xa kẻ cầm quyền, rời xa tổ quốc để tìm sự tồn vong cho chính mình .

Chỗ giáp hai đầu toa, không có mấy ai ngồi, vì hay lắc lư , ồn ào, không vệ sinh, thỉnh thoảng có vài người đi qua đi lại. Cạnh Sáu là một thanh niên trên hai mươi, nhỏ hơn Sáu độ 10 tuổi. Miệng mồm bốp chát, có vẻ là dân làm ăn trên những chuyến tàu chợ chạy từ miền Trung vào Sài gòn. Một người nữa, trông có vẻ trầm lặng ( hay quá mệt nhọc không muốn cất tiếng ) không kém gì Sáu. Và một điều tương tự vô tình nữa, ông ta cũng nghèo nàn, rách rưới, trông đói khát mệt nhọc như Sáu. Chắc ông là dân đi tìm việc làm ở tỉnh xa, hay là dân đi làm thuê cho những chủ rẫy và nay không có việc làm. Đấy là những con người ngoài đời mà Sáu thấy tận mặt, ngồi sát anh. Sau nhiều năm anh chỉ thấy những bộ đồng phục xanh xám phủ lên các thân hình xanh xao, tiều tụy, thảm hại, chán ngấy trong các trại cải tạo.

Sự "hội nhập" vào xã hội của Sáu có vẻ miễn cưỡng. Miễn cưỡng vì những kẻ cầm quyền không đồng ý sự hội nhập này. Để được những ngày hội nhập như thế này, Sáu đã tự ý, đơn phương quyết định, có thể đánh đổi sinh mệnh bởi ý chí của Sáu chống lại sự thống trị .

- Anh đói không ? Qua nay tui không thấy anh ăn cơm gì hết dzzậy ?! Người thanh niên đi buôn, ái ngại pha chút thông cảm hỏi anh.

- Cám ơn anh, tui có ăn mấy củ khoai lang rồi anh, cũng không đói mấy.

- Trời đất, cha nội. Gịong người thanh niên cục mịch đầy ngạc nhiên nhưng thiệt tình. Thôi anh ăn chút cơm đi nha, để tui mua một dĩa cơm cho.

- Thôi được anh ơi, cám ơn anh nhiều lắm, tui ăn khoai lang rồi.

- Không được, anh ăn cơm đi để đói chết. Gần cả ngày mà chỉ ăn mấy củ khoai lang nguội ngắt làm sao chịu nổi.

Người thanh niên không hiểu nổi sự chịu đựng quá quen đói khát của Sáu, nên thúc hối Sáu phải ăn dĩa cơm nhỏ, có chan chút đỉnh nước mắm tỏi. Sáu định không ăn, vì không muốn làm phiền người khác. Vả lại cũng đã có mấy miếng khoai trong bụng rồi, nhịn đến lúc vào Sài Gòn, tìm về ngôi nhà xưa trong xóm nhỏ, Sáu có thể ăn thêm. Ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm thời thơ ấu, nơi đó sau 11 năm xa cách biền biệt, ngoài những gì Ba Sáu kể cho nghe. Sáu không biết nó đã thay đổi ra sao, nhưng chắc đã xảy ra nhiều cuộc chia ly và nghèo hơn ngày trước nhiều lắm . Tuy nhiên, thái độ nhiệt tình, lòng thương người của chàng lái buôn trẻ, ít học, bộc lộ dào dạt khi thấy người đàn ông gầy gò khốn khổ trước mặt mình, khiến Sáu muốn nghe theo.

- Anh ăn đi, sông có khúc, người có lúc. Bây gờ anh đói khổ, biết đâu sau này lại tới tui. Anh ăn đi, đừng ngại ngùng gì hết, anh ơi.

Gương mặt xúc động, Sáu cầm dĩa cơm lên, nhưng chưa vội ăn. Sáu nhìn ngang, người đàn ông ngồi bên cạnh có vẻ hơi mắc cở, khi thấy Sáu bắt chợt gặp ông đang ngó dĩa cơm với sự thèm muốn không dấu được. Sáu hiểu ra ngay, người đồng hành này cũng đang đói. Sáu mời ngay người bạn đường khốn khổ: ăn với tui, tui nửa anh nửa. Dĩa cơm nhỏ chưa được một chén cơm đầy, chia hai cho hai kẻ đói khát trên chuyến xe lửa từ Qui Nhơn vào Sài Gòn, một tối của năm 1993.

Mắm Cua Mùa Lụt

Hàng năm cứ vào tháng chín tháng Mười, cái mốc từ ngày hăm ba tháng mười là quê tôi lại ngập tràn trong những con nước lớn., nước ngập tràn đồng chảy xuống tận Qui nhơn.

Tôi còn nhớ mãi những lời kể của Mẹ tôi, một người đàn bà nhà quê chơn chất, kể cho con nghe khi trời tối đêm về...

Những đêm nằm với các con , ba đứa con gái chập choạng cách nhau ba tuổi, sẽ bu quanh Mẹ những đêm trường gió chướng hay những đêm Đông giá lạnh , vẫn chung nhau một tấm chăn ghép nối tứ tung để tất cả sẻ chia nhau cái giá rét của đêm Đông hoặc chia ngọn gió mát đêm Thu nơi quê cũ hay chia phần chiếc quạt máy nhỏ cũ mèm trong những đêm Hè của những ngày còn bên nhau.trong những tháng ngày xưa cũ.

Vào những đêm Đông bốn mẹ con chia nhau hơi ấm của thịt da, cuộn trong chăn. lần tay bắt cho con những cái trứng chí thật nhỏ thật tròn, trên tay mẹ chuyền dần vào kẽ răng của người thiếu phụ ba mươi, Mẹ tôi đó, người thiếu nữ nhà quê cũng một thời xuân sắc, đã qua rồi với tay bế tay bồng...trong chuyện kể chuyền nhau qua ca dao hay chuyền miệng, có có, không không ...chỉ đủ để ru chúng tôi vào giấc ngủ mỗi đêm

Mẹ tôi thường kể... tôi chợt nhớ chợt quên vì thời gian nào xa lắm : Chuyện kể rằng trong một bối cảnh của làng quê...hai vợ chồng kia bỗng một đêm Trăng, đang chăn gối mặn nồng , bỗng dưng nàng đòi đi ra sân vì ...mắc tiểu, ngày đó quê tôi chưa bao giờ biết làm nhà tiêu, nhà xí, những góc vườn, sân trước sân sau, từng đêm rồi lại từng ngày, cuộc sống con người thản nhiên bên lũy tre bờ rạ...

Khi người chồng ra ngoài thì đứng xa tuông xả, còn người vợ thì cho vào hang kiếng lửa giữa sân nhà , nước tràn vào hang kiến, kiến bỗng chui ra , từng đàn, từng lũ lại từng con...lời than oán của đàn kiến vừa lâm nạn, thở than bay bổng thấu tai ông Trời

Chuyện kể rằng ngày đó con vật cũng biết thở than , buông thảng thốt mấy câu ngày nay còn ghi trên ca dao chuyền miệng:

Ông tha bà hổng tha

Dến cây lụt hăm ba tháng mười

Qua bao năm tháng nơi quê tôi vào ngày này bây giờ hay năm cũ...con chữ in sâu vào xoay chuyển của đất trời, chữ "dến" vận vào cuộc sống lao đao, những người dân quê tôi đồng gánh chịu, chuyện kể của Mẹ tôi chỉ là chuyện của những người bình dân chuyền miệng, nhưng cũng đã vận vào những cuộc sống đến tận ngàn sau, đôi khi tôi gẫm lại chữ "dến" và tìm trong kí ức lao xao, trong tự điển cũng không sao tìm thấy, nhưng chính nó đã đi sâu vào bờ tre gốc rạ , chuyện ngày xưa hòa lẫn chuyện hôm nay.

Những báo, đài, trên mạng, ngoài đời, tôi nhận hết và buồn lo biết mấy, hôm qua gọi về nhà thăm hỏi, nước ngập vào nhà lên cả gang tay, bì bỏm, dời đồ, chèo chống gió lay...tôi nhớ mãi những ngày xưa còn ở lại, cũng những ngày này của bao năm trước.

Khi nước ngập tràn đồng thì mọi người cùng nhau hết việc, mỗi nhà vét mấy lon gạo trong lu, ngâm xay bột , đổ bánh xèo , chấm với mắm cua , những lít mắm cua đồng san sẻ nhau qua nhiều công đoạn.cũng gian lao và cũng thật ấm nồng.

Khi nước ùa vào từng hang cua sâu thẳm, những con cua mình đen mẻm, đen thui, trôi lềnh bềnh trên con nước chảy xuôi, những cánh tay cua níu nhau trên ruộng đồng ngập nước, những chiếc sõng trôi lềnh bềnh hay những thân chuối vừa chắp vá, kết thành bè , đi vớt cua , bắt cá...cua mang về nhảy múa lao xao.

Những con cua đen, nâu, hay cua mén, là những con cua già hay cỡ tuổi Teen, cũng dùa hết bỏ mai rồi đem giã , lọc lấy nước cùng với những gạch cua vàng, đem bỏ thêm chút muối...đóng kín nút chai

Hai ngày sau biến thành cao lương mĩ vị,ăn thật ngon vào từng kẽ chân răng, vị mặn của muối hòa vào chút hơi cua, vị cay của ớt dính vào lớp gạch cua vàng chín đủ, nếu ai đã từng ăn mắm cua đồng thì mới nhận ra hương vị của chút mắm cua trong mùa nước lụt...thực phẩm, thiếu dần, bữa có, bữa không,

Nồi cơm nóng bên cạnh trã mắm cua kho củ sắn , .thời điểm đó mắm cua biến thành cao lương mỹ vị, còn tiếc chi nồi cơm trắng bỗng hóa không.

Những ngày nước ngập làng trên xóm dưới, lũ trẻ ngồi co ro trên giường trên phản, mắt hau háu nhìn từng con cua bò bò, cho đến lúc bỏ vào cối giã, loc lấy chút thịt thà lõng bõng nấu một nồi canh ngót hái sau vườn ...còn lọc lại phần ngon cho món mắm cua giữ lại những ngày sau, nước chưa rút kiếm đâu ra thực phẩm.Cứ mỗi ngày đàn trẻ mong cho đến giờ cơm dọn, lội nước suốt ngày thân đứa nào cũng xanh lè, ướt nhẹp, mỏi mắt chờ từng bữa cơm chia , kìa ...Điểm mong chờ đã đến rồi kia...

.

Mẹ tôi bắt lên kho , trên cái trã đất láng màu đen bóng mượt, sắc vàng tươi của chút gạch cua, ngát hương thơm của âm hưởng chút dư hương còn sót lại của hương đồng cỏ nội.và sau bao ngày .. nước rút.

Ôi những tô bún chan với mắm cua sao tôi ăn rất vội, ngó trước nhìn sau rổ bún hết sạch rồi, bụng đã no ,nhưng vẫn muốn xin thêm, một tô nữa là bốn tô vẫn còn chưa thấy đủ... Rồi bao tháng năm qua cứ mỗi mùa nước lũ, nước tràn đồng vẫn trên mãi quê tôi, tin nhắn về tôi vẫn hỏi chị tôi:

_ Mùa nước lụt có còn mắm cua không hở chị ???

_Mùa nước lớn năm nay nhà mình sao hở chị? nước vào nhà nhưng còn dột nữa không???

_ Chị coi chừng xung quanh mấy chỗ nằm, coi chừng dột, mai đi học mà không còn áo mặc...

_Đúc bánh xèo chị tìm con tôm nhảy, có hay không ???

_ Em thích cái bánh xèo giỏ vừa trắng lại vừa mềm, ăn mấy cái cũng không cần đếm ,

_ Nhớ gởi cho em vài ba chiếc ăn chơi, ôi ngon quá , em nhai hoài sao như mắc nghẹn.

_Nhớ gởi em thêm một" góc" mắm cua vàng, đã nấu chín bên lửa năm nào nha chị ...

Tất cả chuyện xưa chỉ còn là mộng mị nhắc bây giờ trong nỗi nhớ mênh mông...

Reng ....reng ...reng.

_ Có phải em đó không ???trời mưa lũ nhà em sao rồi dzậy???

_ Em Hoàng đây, nhà em trong ngõ hẹp, nước tràn vào chỉ mới ngập bàn chân.

hỏi thăm em về mấy bạn xa gần, những Hiền , Hùng , yên, Kim yến, Bích Tiên, Hiếu Hòa, khánh Toàn, Việt , Đỗ thanh rồi lại Tuyết Nga...Hoàng nhớ nhắn dùm cô lời thăm hỏi, đó là tên những em cô còn nhớ được, chuyện bây giờ đâu còn như của ngày xưa.cho cô nhắn lời muộn màng thăm hỏi.

Nhớ khi xưa cũng trong lúc mùa mưa. khi nước lớn ,cô trò mình hay đi coi nước lụt, sao lúc đó cô vẫn thường theo các em trên yên sau xe đạp, cô vẫn thường để các em chở cho vui, đứa đạp xe , đứa phải kéo ghì , qua chỗ dốc sợ xe cô chỏng gọng...

Thương nhớ lắm những mùa mưa bên vườn sắn, guốc đứt, áo mưa tung vì gió lạnh lúc mưa tuông, những xâu củ sắn giòn, ngọt, trắng phau phau , bên bờ đất cùng chia nhau không ngại ngùng giành nhau chia mấy củ.

_ Các em ơi sao quên đem muối ớt rầu. Đứa này nhìn chỉ tại đứa kia

_Không cần muối cũng ngọt ngon chi lạ

Những học trò tôi, bây giờ đang thức ngủ???có hay chăng giọt nước mắt ngắn dài, gởi về các em...những năm tháng đã nhạt phai, nhung nhớ lắm...nhũng ngày xưa mùa lũ

Nhớ đến cô, thì xin các em trở về bờ nương cũ, tìm cho cô chút gió thoảng chiều mưa , hong khô lại tấm chân tình nhắn gởi...Tuy xa quê biết bao là hải lý , bao tháng ngày nung nấu chỉ Quê hương.

Ai từng bảo : Quê hương là chùm khế ngọt....

Tôi bảo rằng : Quê hương tôi là hạt cát vàng

Rơi vào mắt mà lau hoài chưa cạn

Gạo nhà nghèo

BÌNH-NGUYÊN LỘC

Ông hội-đồng Cường và có hai và cơm là buông đũa liền rồi ngồi nhìn mâm cơm đầy ắp những thức ăn mắc tiền mà thở dài.

Ông hội-đồng (đây là thứ hội-đồng địa-hạt, tức hội-đồng hàng-tỉnh thời Pháp-thuộc, và mặc dầu những ông nghị địa-phương nầy đã hết sứ-mạng từ năm 1945, song lối gọi vẫn còn), có tật hễ tới tháng chín ta là nuốt không trôi những bữa ăn hằng ngày, từ bao nhiêu năm rồi.

Đó là tháng giáp-hạt, lúa cũ đã cạn trong bồ, còn lúa mới thì chưa gặt. Lúa cũ cho một thứ gạo không còn chất dẽo nào hết, cho dẫu là gạo mắc tiền nhứt nước, hột cơm nhai nghe xam-xảm, không ngon lành chút nào, và những người ăn yếu và khó tánh, luôn luôn gần như là phải nhịn đói suốt tháng giáp-hạt vậy.

Bà hội-đồng lo-lắng nói:

- Ông ráng ăn chừng một chén kẻo đói.

- Khó nuốt lắm, bà ơi! Bà biểu trẻ nó nấu cho tôi vài chén cháo, tối, tôi ăn với đường.

Rồi ông hội-đồng ăn bánh, uống nước mà trừ bữa.

Bụng đói khó ngủ quá. Cháo lỏng cũng không giúp ông hội-đồng vững dạ chút nào nên chi ông trằn-trọc, lăn trở hoài, và qua những giờ thao-thức suốt đêm nay, ông nghĩ đến toàn chuyện ăn, chuyện gạo, và nhờ nghĩ nhiều đến chuyện ấy nên ông nhớ ra một điều nó làm ông lạc-quan vô-cùng.

Sáng ra, ông hội-đồng thức dậy hồi gà gáy, sửa-soạn rồi ra đi ngay, bỏ bữa cơm điểm-tâm. Bình-minh chưa ló dạng nên ông hội-đồng lợi dụng ánh-sáng của những vì sao chưa tắt để đi trên những bờ ruộng hẹp. Ông bước đi thoăn-thoắt như sợ trễ đò, trễ xe gì ấy, và chẳng bao lâu, ông tới trước một nếp nhà tranh mà bên trong, ở chái nhà bên tả, có người nhúm lửa, có lẽ để nấu cơm.

Đó là nhà tư Dần, người tá-điền của ông hội-đồng.

Làng nầy là làng an-ninh, ruộng của ông hội-đồng lại ở ngay sau làng, nhưng ông tiếp-tục cho tá-điền khai-thác y như ngày xưa, hồi tiền-chiến, bởi ông đã làm giàu từ lâu, không làm ruộng trực-tiếp, vả ông cũng đã có tuổi rồi.

Chó sủa vang lên và ông hội-đồng gọi:

- Tư ơi, mở cửa cho tao vô coi.

Nhà đã thức rồi, nhưng họ không lên tiếng ngay, có lẽ họ đang kinh-ngạc trước tiếng gọi cửa, thoạt-tiên hơi lạ nhưng lúc họ nhận ra được đó là giọng của ông hội-đồng, họ càng sợ-hãi hơn: một ông chủ ruộng giàu có và tuổi-tác hẳn phải có lý-do thật quan-trọng mới lặn-lội vô ruộng vào giờ nầy.

- Tư ơi!

- Dạ!

- Thức rồi, sao không lên tiếng, sao không mở cửa?

- Dạ cháu mở đây.

Mấy mươi giây sau, ông hội-đồng đã ngồi trước chén trà sớm mà nông-dân ta quen pha trà từ lâu đời rồi, nhờ họ khá-giả chớ không quá „bần-cố-nông" nên mới dám xài rồi ghiền món xa-xí-phẩm nầy.

Vợ chồng, con cái của tư Dần cứ còn kinh-ngạc, lo-âu thì ông hội-đồng Cường nói:

- Vợ chồng thằng Tư mầy để lại cho tao nửa giạ gạo nanh-chồn coi!

Im-lặng. Lâu lắm, vợ tư Dần mới trả lời:

- Thưa ông hội-đồng, cháu đâu có gạo nanh-chồn.

Ông hội-đồng Cường cười ha-hả rồi nói lớn lên một mình:

- Không có! Lạ quá! Nhưng không có thì thôi. Vậy cho tao ăn một bữa cơm đi.

- Dạ nhưng ăn cực lắm!

- Ăn với muối, tao ăn cũng ngon nữa mà!

Gạo nanh-chồn là một loại gạo nhỏ hột, gạo giống hệt răng con chồn, nhứt là răng nanh. Loại gạo nầy rất ngon cơm, nhiều người cho là ngon cơm nhứt trong các thứ gạo ngon ở miền Nam.

Gạo nanh-chồn lại có được cái ưu-điểm nầy mà các gạo khác không có. Là đầu mùa, gạo không quá dẽo để cho người ăn phải ngán mà cuối mùa, gạo vẫn không quá lạt, quá khô đến khó nuốt trôi. Chất nhựa bọc hột gạo, nơi gạo nanh-chồn, rất là ít, nhưng nó lại giữ được mãi-mãi chất nhựa ấy, luôn cả trong tháng giáp-hạt nữa.

Những người thường đi đó, đi đây, ai cũng quả-quyết rằng gạo Nhựt-Bổn rất ngon. Ấy, người Nhựt làm ruộng ở các triền núi, mà lúa trồng ở đất khô như vậy, luôn-luôn cho gạo ngon. Theo định-luật đó thì gạo nanh-chồn đã ngon, mà trồng ở ruộng khô của các tỉnh Bà-Rịa, Biên-Hòa, như ruộng của hội-đồng Cường, gạo nanh-chồn ruộng ông còn ngon hơn gạo nanh-chồn của các tỉnh nê-địa nhiều lắm.

Ông hội-đồng hỏi vợ tư Dần:

- Đã nấu cơm chưa?

- Dạ, cháu mới lấy gạo định vo thì nghe ông kêu cửa.

- Vậy đi vo gạo liền đi, tao đói lắm.

Ông hội-đồng nói chuyện con cà con kê với tư Dần để đợi cơm và độ hơn nửa tiếng đồng-hồ sau, trời rựng sáng là vợ người tá-điền dọn cơm lên, mâm cơm chỉ vỏn-vẹn có một miếng mắm xổi bằng bàn tay. Nhưng ông hội-đồng biết là dưới bếp, mẹ con của chị tá-điền của ông có lẽ còn được ít thức ăn hơn.

Cơm nóng lên hơi nghi-ngút, nhưng ông hội-đồng lại kêu vói xuống bếp mà nói với vợ tư Dần:

- Tư ơi!

- Dạ!

- Tao ưa ăn cơm nguội hè. Cho tao một chén cơm nguội coi.

Ở thôn-quê, mặc dầu nghèo, người dân luôn-luôn nấu cơm dư ăn chớ không nấu vừa khít nút như ở chợ, vì họ thường có khách thình-lình mà khách của họ thì rất dễ mời ăn cơm. Chính họ cũng quí khách, luôn-luôn mời khách ăn cơm và rất vui mà được khách nhận lời.

Đó là phong-tục ngàn năm, hay ít lắm cũng mấy trăm năm. Và ít ra cũng ở miền Nam không thiếu gạo nầy. Thế nên vợ tư Dần không thể chối rằng nhà không có cơm nguội , chỗ cơm nấu dư ngày hôm qua, cho một người khách không đến, và sáng ra, giờ đây, họ hấp lại để bổ-túc cho nồi cơm mới, nấu ít hơn một chút, vì trong bữa điểm-tâm không bao giờ có khách mà phải nấu dư như các bữa ăn khác.

Chị tư không thể chối, nhưng cứ làm thinh và bất-động, vì chị bối-rối lắm, không biết liệu thế nào để ra khỏi ngõ bí.

Anh tư Dần, ngồi trước mâm cơm với ông chủ ruộng kỳ-dị, cũng bối-rối vô-cùng. Anh đóí lắm, thấy cơm ngon lành lắm, cầm đũa lên nhưng còn đợi khách. Vậy mà ông khách vừa nhìn qua chén cơm rồi buông đũa ngay, đòi cơm nguội cho vợ chồng anh khó xử.

Ông hội-đồng giục:

- Đại mau đi chớ! Tao đói lắm đây.

Quả ông hội-đồng đói thật, đói y như những tá-điền mạnh-khỏe và mạnh ăn hơn ông. Nhưng ông giục không phải vì ông đói, mà để ngăn vợ người tá-điền kịp tìm mưu.

- Không bưng cơm nguội lên, tao xuống bếp, tao lục nồi cho mà coi.

Vợ tư Dần hoảng-hốt, vội bới một chén cơm ở nồi chiều hôm qua, vừa được hấp lại. Bấy giờ vợ chồng người tá-điền nầy có lẽ đã hiểu lý-do sự đòi hỏi dị-kỳ của ông chủ ruộng rồi. Đây là cái mẹo tài-tình để bắt quả-tang vợ chồng anh có gạo nanh-chồn trong nhà.

Cá, thịt, khô, mắm gì cũng mắc tiền hơn gạo hết, nên những người tá-điền của ta, họ trồng một mớ lúa nanh-chồn vừa đủ cho gia-đình họ ăn, rồi giấu mà ăn, ai nài, mua bao nhiêu tiền một giạ họ cũng nhứt-định từ-chối, hóa ra nhà nghèo lại ăn gạo ngon hơn nhà giàu, sợ thiếu gạo rồi nuốt cơm gạo thường không vô, bởi bữa cơm của họ không được đồ ăn ngon trợ-lực cho, như bữa cơm nhà giàu, họ cần, dầu phải ăn cơm với muối, mà cũng ngon được như thường.

Cái tục-lệ nầy tạo ra một tình-trạng rất lạ-lùng, nếu không muốn nói là kỳ-dị ở miền Nam là chỉ có nhà nghèo, nói rõ hơn, chỉ có tá-điền mới có được gạo ngon nhứt hạng để ăn, còn bao nhiêu giới khác, kể cả giới phú-hộ, đành phải tạm bằng lòng với gạo cũng gọi là ngon nhứt hạng, mà thật ra chỉ ngon ... nhì hạng mà thôi.

Khi vợ tư Dần đặt chén cơm trước mặt ông chủ ruộng thì ông ta cười ha-hả mà rằng:

- Vợ chồng bây không có gạo nanh-chồn, vậy mà cơm nguội nầy lại là cơm gạo nanh-chồn! Còn chối nữa hết?

Vợ chồng tư Dần cũng bật cười.

Khi nãy, lúc khách đòi ăn cơm, vợ tư Dần vội cất chỗ gạo nanh-chồn đã lấy ra, rồi đem gạo thường đi vo nấu. Ông hội-đồng đoán biết thế nên quyết đòi cho được cơm nguội ông mới nghe cho.

Ông hội-đồng Cường cầm đũa lên ngay. Từ hơn một tháng nay, chưa bao giờ ông tham ăn như thế nầy. Tới bữa, nghe mời ăn cơm, ông đâm sợ khi cái chất gạo cũ hết nhựa của tháng giáp-hạt nhắc ông cái vị của những chén cơm ngán-ngẩm, xam-xảm, rất khó nuốt.

Dưới nhà bếp, mẹ con chị Dần đành phải ăn cơm nóng hổi vậy, tuy cơm mới nấu xốp lắm, nhưng quả thật là nuốt khó trôi, vì chị không có gì để nuốt chung với cơm, trừ chút đỉnh nước cá kho cũ.

Cơm nguội còn được ba chén rưỡi tất cả, nhưng chị không đoán được tỳ-lực của ông chủ ruộng là bao nhiêu, nên chị phải để dành hết cho ông ấy. Tuy-nhiên sự hy-sinh nho-nhỏ sáng hôm nay, thật là đáng kể, mối sầu lớn của chị tư Dần là phải bán gạo nanh-chồn cho ông hội-đồng Cường.

Ông đại-địa-chủ nầy trả công, trả của rất hậu, chị đã không lổ-lả mà còn được lời, nhưng tiền lời không đủ mua thức ăn mắc tiền để hổ-trợ cho gạo dở đâu. Gia-đình chị sẽ khó nuốt cơm như gia-đình của bất-kỳ ông nhà giàu nào, cho tới mùa gặt mới, nghĩa là cho tới tháng sau, bởi ông hội-đồng Cường mua được một giạ, sẽ bắt ép vợ chồng chị bán thêm giạ thứ nhì, giạ thứ ba, số gạo lót bồ còn được bao nhiêu, ông ấy sẽ xúc hết.

Trên nầy, ông hội-dồng đã được chén cơm thứ nhì, và ăn xong nửa chén, tức là đã ăn được chén rưỡi rồi, ông đã bớt đói dữ, hạ đũa xuống hỏi người tá-điền.

- Tại sao mầy không cấy giống nanh-chồn hết bốn mẫu ruộng nầy, cấy ít làm gì rồi phải giấu đút, ăn lén, ăn lút, coi kỳ-cục quá như vậy nè?

- Dạ, tại lúa nanh-chồn thất gạo lắm, một mẫu gặt không tới một trăm giạ, lấy lúa đâu để đong lúa ruộng cho ông, lấy lúa đâu để ăn?

- Nhưng mà gạo nanh-chồn lại mắc tiền bằng hai gạo thường.

- Dạ!

- Dạ cái con khỉ mốc. Tao nói như vậy mầy phải kết-luận để thấy sự sai-lầm của mầy, chớ tiếng"dạ" của mầy có nghĩa gì đâu!

- Dạ!

- Lại dạ nữa! Mầy không thấy gì hay sao?

- Dạ thưa không!

- Theo chỗ mầy nói thì lúa nanh-chồn thất gạo gần tới phân nửa, nhưng giá nó lại gấp bằng hai giá gạo thường thì mầy có mất gì đâu.

- Dạ.

- Cái thằng nầy thật là chí ngu, chí ngốc, cứ "dạ" hoài. Kết-luận đi chớ! Mầy kết-luận tao nghe thử, để nếu cần thì thảo-luận thêm gì ra lẽ.

- Dạ.

- Trời ơi, ngó xuống mà coi. Nầy nha, mầy gặt được mười giạ lúa thường, bán được ba ngàn. Nhưng mầy gặt được bảy giạ lúa nanh-chồn, bán cũng cứ được ba ngàn như thường. Có thấy hay không?

- Dạ, nhưng cháu đâu có bán. Cháu phải trả cho ông bằng lúa chớ!

- À, nói vậy thì tỷ-dụ tao bằng lòng lấy phân nửa, nếu mầy trả bằng lúa nanh-chồn, mầy sẽ cấy toàn nanh-chồn hay không nè?

Tư Dần cứ làm thinh hoài, khiến ông hội-đồng Cường phải kêu trời lần nữa, rồi lại cầm đũa trở lên để ăn tiếp. Ông tức mình cái thằng ngu, và ông tự hỏi không biết nó còn nghi-ngờ, lo-sợ cái gì mà không nhận đề-nghị của ông. Bài toán rất rõ-ràng, minh-bạch, và được giải-lý rất ổn-thỏa, có những con số cụ-thể hẳn-hòi, không làm sao mà không hiểu, và hiểu xong, không làm sao mà còn do-dự được nữa, ông sẽ hăm-dọa lấy ruộng lại, sau mùa lúa nầy, có thế mới bắt-buộc nó phải nhận điều-kiện trao đổi rất công-bình của ông: nó mất gần phân nửa lúa gặt, nhưng chủ ruộng cũng mất phân nửa lúa địa-tô, nghĩa là nó không mất một hột nào hết.

Ông hội-đồng ăn róc nồi cơm nguội, uống nước, hút thuốc, đoạn thi-hành mưu thứ nhì:

- Thôi, trưa nay vác ra cho tao một cà-ròn gạo. Mà tao báo trước cho mầy biết là gặt xong, tao lấy ruộng lại, để cho thằng nào bằng lòng cấy bằng giống nanh-chồn mướn mà làm.

- Dạ.

Ông hội-đồng Cường há miệng, trố mắt mà nhìn anh tá-điền của ông. Hắn tỉnh-bơ không lo-sợ, không buồn-rầu trước lời hăm-dọa của ông. Ông hỏi:

- Ruộng của tao là ruộng đầu vườn, thuộc nhứt-đẳng-điền, mầy không ưa mướn hay sao?

- Thưa, cháu ưa lắm chớ.

- Ủa, sao mầy sẵn lòng để tao cho kẻ khác mướn?

- Dạ, cháu nghĩ không có ai mà chịu mướn theo điều-kiện của ông đâu.

- Sao lạ vậy?

- Cháu cũng không biết tại sao, mà nó như vậy đó.

Ông hội-đồng Cường tức mình, xách nón đi liền, bụng bảo dạ rằng nhứt-định ông sẽ lấy ruộng lại, cho thằng kỳ-khôi nầy biết tay.

Về tới nhà, ông vẫn còn ấm-ách kể chuyện lại cho bà nghe, và cho bà biết luôn cả quyết-định của ông. Bà nghe xong, cười ngất mà rằng:

- Thằng đó nó nói đúng: ông lấy ruộng lại cũng rồi phải bỏ ruộng cho tranh nó mọc, chớ không thằng nào khác dám vổ ngực mà nhận điều-kiện của ông đâu.

- Bà cũng luận-điệu theo cái thằng cố-lì đó nữa, hả?

- Nó nói đúng thì phải kể tới lời của nó chớ! Nếu có tá-điền bằng lòng cấy giống nanh-chồn thì nhà giàu đã được ăn gạo nanh-chồn và có đâu mà ông phải nhịn đói.

Ông càng tức hơn, xẳng giọng hỏi:

- Sao chúng nó lại ngốc dữ vậy, và nhứt là sao bà lại về phe với họ chớ?

- Chúng nó khôn lắm chớ không phải ngốc đâu. Nè, đong lúa địa-tô xong rồi thì lúa, chúng nó phân ra làm hai: phân nửa để ăn, phân nửa để bán, hầu lấy tiền mua vải, mua mắm và còn dư chút đỉnh thì tiêu-xài vào những khoản khác nữa. Nhưng ở rẫy có được mấy ông nhà giàu mua nổi gạo nanh-chồn? Còn chở đi Sàigòn chúng nó biết đường đâu mà chở? Như vậy có phải là chúng nó sẽ bí về số lúa cần biến ra thành tiền hay không nè?

Ông hội-đồng Cường gục-gặc đầu rồi hỏi bà:

- Bà nói hữu-lý. Nhưng sao nó không cắt-nghĩa cho tôi nghe?

- Là tại nó ngu, biết mà không cắt-nghĩa rõ-ràng được như tôi, với cũng tại cái chuyện bí-mật nầy nữa .....

- Chuyện gì?

- Năm nào nó cũng khóc-lóc than thất mùa để đong thiếu ta vài ba chục giạ. Như vậy số lúa của nó nhiều hơn, bởi đâu có thất mùa, nó ăn gian, giấu đi ấy chớ, và nó sẽ càng bí hơn, nếu đó là lúa nanh-chồn bán mắc, người ở đây mua không nổi, còn bán rẻ thì sẽ thiệt-thòi nhiều bởi đã nói là lúa nanh-chồn thất gạo lắm mà!

Ông hội-đồng Cường cười ha-hả rồi nói đùa:

- Chỉ còn nước tôi đi làm tá-điền cho .... bà, để chắc có gạo ngon mà ăn.

Những con cá khô

Trần Lệ Thường

Người ta thường nói tha thứ cho người khác là giúp mình sống được thanh thản còn thù hận một ai đó thì cầm bằng như đã làm hại bản thân mình.Con lành vẫn biết vậy nhưng ngay lúc này đây nó không thể tha thứ . không thể hay là chưa? Nó cũng không biết.

Lành trở mình quay mặt ra ngoài, giường bên kia má nó nằm im như đã ngủ say,hơi thở đều đặn. Chiếc mền kéo tới bụng cho thấy bộ ngực lép xẹp phẳng phiu. Một chút thương cảm, một chút xót xa, một chút nhói đau nơi ngực...Mỗi thứ một chút trở thành nhiều, dâng đầy trong nó đến nghẹn ứ nơi cổ. Bên cạnh Lành, con Hiếu ôm con thú nhồi bông thật to vô tư ngủ, miệng như mỉm cười trong giấc mơ không hề biết được nỗi niềm riêng của chị nó. Hiếu học giỏi, suốt bậc tiểu học năm nào cũng lãnh thưởng.Hiếu thích thú nhồi bông, mỗi lần được lãnh thưởng nó muốn có một con thú nhồi bông nhưng chưa có năm nào Lành có thể mua để làm quà tặng cho em. Đây là món quà đầu tiên xem như có giá trị nhất Hiếu có được nhân kỷ niệm sinh nhật nó mười hai tuổi.

Đã hơn nửa đêm! Lành nhìn đồng hồ trên tường rồi nhẹ nhàng ngồi dậy đi vào nhà sau rót nước uống. Lành nặng nề ngồi xuống bàn, lặng lẽ buông một tiếng thở dài. Một tiếng thở dài, một tiếng thở dài...Mỗi lần một tiếng, những tiếng thở dài kéo ghì nó xuống,chất đầy lên đôi vai gầy những ưu tư phiền não. Đèn ngủ nhá nhem không đủ sáng,mái tóc dài qua vai rối bù,bộ đồ ngủ nhàu nát, trông nó như một thiếu phụ vừa trở dậy sau một cơn bệnh nặng khi mà nó chưa đầy mười chín tuổi...

Lành đứng đợi khoảng mười lăm phút mới có xe buýt. Nhiều người đứng đợi như nó cùng ào lên xe. Giờ tan tầm nên xe buýt lúc nào cũng đông, không còn một chỗ ngồi. Lành vừa nắm được tay vịn thì xe chạy khiến nó chao người đi. Lành cười gượng để che giấu ngượng ngùng. Không phải lúc nào lên xe Lành cũng đứng. Có khi chỉ vài phút sau có người xuống xe nó lại kiếm được chỗ ngồi. Lành đặt túi xách cá biển xuống sàn xe , mấy con cá này nó lựa kỷ lưỡng để về làm khô, trời nắng này phơi mau khô lắm.Thỉnh thoảng nó vẫn mua lại một ít cá ở Cảng về làm khô ăn dần , có khi được cho không mất tiền. Lành vừa sửa lại quai chiếc túi đeo trên vai thì nhân viên xe buýt đến thu tiền vé. Nó cho tay vào túi quần nhưng vụt hốt hoảng kêu lên. Số tiền lương tháng và cả khoản tiền tạm ứng để đưa má đi bệnh viện biến mất rồi, chiếc điện thoại di động trong túi quần bên này cũng không còn. Chiếc điện thoại tuy rẻ tiền nhưng lành cũng phải rất cố gắng mới có được. Xe vẫn chạy , những người trên xe nhìn Lành với ánh mắt ái ngại. "Bị móc túi rồi." "Sao không cẩn thận!" Mặt Lành tái xanh, mắt đỏ lên, nó cố gắng để không chảy nước mắt. Không còn tiền để trả tiền vé nữa. Lành không biết phải làm sao khi nhân viên xe buýt cầm xấp vé trên tay ngẩn người ra nhìn nó. "Mất hết rồi hả? không có tiền à?" Người này dắm dẳng lên tiếng càng khiến Lành cuống quýt lên. "Ơ...Tôi bị mất hết tiền rồi...tôi không còn tiền..." "Đây! Tôi có đây! Tôi trả cho, vài ngàn thôi mà." Người thanh niên đứng phía trước lành cũng chỉ lớn hơn nó vài tuổi, thản nhiên cười trước đôi mắt biết ơn của lành. Mặt Lành đang tái ngắt vụt nóng ran lên, nó len lén nhìn thấy người này hình như có một vết sẹo nhỏ ở đuôi mắt phải, chiếc kết đen đội sụp mất trán khiến nó không nhìn rỏ mặt lắm, chỉ thấy chiếc miệng rộng và màu da đen ròn. Như thường ngày , lành xuống xe ở bến trước công viên rồi đi bộ một đoạn đường nữa mới đến con hẽm vào nhà. Thấy người kia cũng xuống bến này,lành chưa đi ngay vì muốn ngõ lời cảm ơn. Nó còn đang chần chừ thì người đó đã đến gần. "Nhà gần đây không?" "Cũng sắp tới rồi. Cảm ơn anh nghe! Không có anh tui không biết phải làm sao nữa." lành thành thật nói, trong lòng cảm kích vô cùng. Chỉ là vài ngàn đồng nhưng nếu không có phải làm sao. "Xời! Có gì đâu mà bận tâm. Chỉ là chuyện nhỏ." Cả hai đi về cùng nhau một đoạn đường. Đó là Chờ, mồ côi cha mẹ, làm thuê làm mướn sống qua ngày. Lành bất giác cũng kể qua về gia cảnh, là bởi vì nó thấy cần phải nói về món tiền bị mất đó. Ngày ngày má bán hàng rong trên phố, mấy tháng nay hay bị mệt, sức khỏe ngày một yếu, đi khám bệnh mới biết má bị phổi có nước, phải điều trị ngay. Lành mới tạm ứng tiền lương để đưa má vào bệnh viện. Tiền mất rồi , nó không biết phải làm sao nữa. Học hết năm lớp mười thì lành nghỉ học vì thấy má quá vất vả nuôi hai chị em nó. Nó xin vào làm ở Cảng cá ,cách trung tâm thành phố khoảng mười mấy km. Sáng đi sớm,chiều tối mới về tới nhà.Công việc của nó là lựa cá ra từng loại cho vào trong những cái sọt,khuân vác thì có người khác. Mỗi tháng có thêm thu nhập giúp má trang trải sinh hoạt gia đình. Khi Lành ngừng lời không nghe Chờ nói gì, nó không nhìn nên cũng không biết vẻ mặt Chờ thế nào, chỉ cảm thấy nặng nề khó thở, như thể Chờ đang đeo một đeo tảng đá ngàn cân. Lành vụt hối hận. Có lẽ câu chuyện của nó khiến cho Chờ không vui. Đến đầu hẽm lành vụt đưa túi xách cá biển cho Chờ. "Nè! Đem về làm khô ăn đi! Ở nhà tui cá khô còn nhiều." Chờ như bị bất ngờ ngơ ngác rồi phì cười. "không cần đâu!" Nhưng Lành đã dúi quai túi vào tay Chờ rồi chạy vào hẽm nhỏ.

Vài ngày sau, lành gặp lại Chờ cũng trên tuyến đường từ Cảng cá về công viên. Lành không biết có phải Chờ cố tình đi để gặp nó hay không .Mặt trời còn chưa tắt, một chút ráng chiều máng qua những tàng cây rậm lá. Lúc xuống xe Chờ rủ lành đi ăn một cái gì đó để được trò chuyện cùng nhau. Lành còn nhớ, quán thật đông khách ,cả hai ngồi chờ mãi,tới lúc muốn bỏ đi thì mới đem thức ăn ra. Trong lúc chờ đợi Chờ nói về mấy con cá Lành đưa hôm nọ, vì ăn cơm bên ngoài nên đã đưa cho người hàng xóm rồi. Thoạt tiên, Lành đổ quạu lên. Cá người ta đưa để trả ơn lại đưa cho người khác nhưng khi thấy Chờ cười hì hì rất chất phác , không có vẻ gì là coi rẻ xem thường món quà Lành tặng. Nó lại dịu đi. Ừ! Của mình cho rồi người ta muốn cho ai thì cho ,tùy ý. Vả lại,Chờ làm gì biết làm cá để phơi khô chứ. Sao lúc ấy nó không nghĩ ra điều này.Nói năm điều bảy chuyện rồi Chờ đưa cho Lành chiếc điện thoại di động. Chiếc này tốt hơn của Lành nhiều. Lúc đầu Lành không có ý định mua điện thoại, nhưng đứa bạn cứ rủ riết. Con Nuôi bưng thau cóc ổi chua đi bán mà cũng sắm điện thoại lộn lưng. "Mày mua đi để tối tối mình nói chuyện với nhau , chứ tao đi qua nhà mày hoài má tao không cho." Nuôi nói riết rồi Lành cũng xiêu lòng. Hơn mười một giờ còn rù rì trên giường đôi lần bị má la. Nuôi biểu Lành thường xuyên gọi điện thoại cho nó.Nuôi thích có ai đó gọi cho điện thoại reo lên để nó trịnh trọng lấy điện thoại ra, dù đang bận bán trái cây cho khách rồi áp lên tai nghiêm trang lên tiếng "Alo!"mắt thì nhìn ra trước mặt xa xăm mơ màng. "Về ngay! Mày mặc nhằm chiếc áo lót của tao rồi."Chị của nó la lên trong máy khiến Nuôi giật bắn người hoàn hồn tắt máy, mắt nhìn người mua, miệng cười ngượng ngập. Cứ mỗi lần Nuôi kể chuyện ấy hai đứa lại lăn ra cười. "Đừng ngại! Tui mới trúng mấy tấm vé số, nhớ tới chuyện trên xe buýt hôm nọ..."Chờ còn đưa cho Lành một số tiền , nói là cho mượn để đưa má vào bệnh viện.Hôm đó, tiền mất rồi Lành thất thỉu vào nhà không dám nói cho má biết liền nhưng đến tối không thể giữ được lâu nó đành phải nói ra. Má buồn rầu sụp người xuống, bệnh muốn nặng hơn,không trách trời trách đất, cũng chẳng trách Lành một câu,đi ra đi vào như đèn treo trước gió. Lành đang tính vay tiền ở bên ngoài thì Chờ xuất hiện. Thế gian có biết bao chuyện tình cờ .Sự tình cờ đã đưa đẩy Chờ có mặt trên chuyến xe buýt hôm ấy để gắn bó với cuộc đời Lành. Nó nghĩ như vậy. Chờ lui tới nhà , cùng với Lành đưa má vào bệnh viện điều trị. Sau hai tuần ,má về nhà, người khỏe ra, tuy vậy còn phải điều trị vài tháng nữa.Chẳng biết từ bao giờ hai đứa thấy gần gũi nhau hơn, cùng chia sẻ những buồn vui trong cuộc sống.Chờ nói mới xin vào làm ở một quán ăn vài tháng nay.Má thương Chờ trẻ mồ côi, lớn lên từ đường phố.Muốn cho Chờ cũng có một mái nhà như mọi người.

Giá mà thời gian ngừng trôi, để những tháng ngày êm đẹp còn mãi. Lành lại thẩn thờ nghĩ.Nhân đến ngày sinh lần thứ mười hai của con Hiếu , Chờ mua tặng con gấu nhồi bông thật to. Chẳng còn gì khiến Hiếu vui mừng hơn nữa. là vì khi nghe Lành nói, Chờ nảy ra ý định làm sinh nhật cho con Hiếu. Cả nhà đều vui theo niềm vui của đứa em. Mặt trời chiếu sáng xuống ngôi nhà nhỏ quạnh hiu. Một buổi chiều ,Lành vừa về đến nhà thì con Hiếu đưa tờ báo với vẻ mặt hốt hoảng. Ảnh của Chờ ràng ràng cùng với vài người khác nằm dưới dòng chữ "Tội phạm cướp giật bị bắt"khiến mắt Lành hoa lên, người muốn quỵ xuống nhưng nó cố gắng không khóc dù hai mắt đã đỏ lên. Cái vết sẹo mờ mờ bên đuôi mắt phải cứ như dao cứa vào tim lành nhức nhối. Một năm nay Chờ thật sự đã đi làm việc ở một quán ăn. Cũng có thể từ khi quen biết Lành. Chuyện cướp giật là nhiều năm trước đó. Má đi thăm Chờ trong lần thăm nuôi đầu tiên mặc dù Lành khuyên má không nên đi, cứ xem như chẳng quen biết gì.Nhưng má nói làm người đâu thể như vậy. Sống trên đời phải biết mở rộng tấm lòng. Tục ngữ có câu "Hãy quay mặt về phía mặt trời ,bóng đen sẽ đổ phía sau lưng bạn."Má về nói với Lành, tiền và điện thoại của Lành bị mất trên xe buýt là do Chờ lấy.Về nhà, chờ cứ bị ám ảnh về câu chuyện kể của Lành. Lòng nó cắn rứt, xốn xang, cứ thấy đôi mắt đỏ hoe của cô gái nhìn nó biết ơn chỉ vì mấy ngàn đồng tiền xe.Chờ quay lại tìm Lành. Lui tới nhà, quan tâm chăm sóc má và em gái Lành.Trước tấm lòng nhân hậu của người mẹ, sự vô tư của Hiếu ,tình cảm của Lành Chờ thật sự muốn có một mái ấm gia đình. Chờ thú tội hết với má và khóc. Lần này thì con Lành khóc thật to, nức nở. Nó gào lên. "Con không bao giờ tha thứ cho anh ta." Làm gì có chuyện may mắn trúng số. Lành còn nhớ, hôm đó nó nói đùa. "Trúng độc đắc hả?" Chờ cười cười . "Đâu có!Mấy lô lẻ tẻ thôi hà. Nếu trúng độc đắc tui sẽ mua cho Lành căn nhà." "Nhớ nghe! Nói rồi đó nghe! Biết đâu anh lại hên nữa."

Làm gì có chuyện tình cờ. Con lành nằm dàu dàu nhiều ngày liền. Dằn xé ,chì chiết, đau đớn trong lòng . Thỉnh thoảng nước mắt lại ứa ra. Nó nhớ những ngày Chờ và nó đưa má vào bệnh viện, Chờ cũng tất bật chạy lên chạy xuống cầu thang suốt ngày, cùng thức suốt đêm với Lành săn sóc má. Cả hai lại đưa má về nhà. Ngôi nhà bỗng dưng ấm cúng hẳn lên. Chỉ có thêm mỗi một Chờ mà sao như sự ấm áp của đất trời ,tinh hoa của cuộc sống đều ban tặng hết cho gia đình Lành.Hết mấy ngày nghỉ, lành trở lại làm việc, im lặng, thẩn thờ như trôi dạt vào một thế giới nào đó xa xăm.Hơn ba tháng rồi,từ ngày Chờ bị bắt , hồi chiều thấy má xếp các thứ với mấy con cá khô vào túi xách lành biết ngày mai má lại đi thăm nuôi. Cá khô chỉ còn có vài con nhỏ khô đét. Mấy tháng nay Lành không có đem cá về làm khô nữa vì nó không còn tâm trí,đến con Nuôi gọi điện thoại cho nó , nó hỏi "Chị là ai?"khiến Nuôi la lên oai oái. "Mày tỉnh lại đi. Đừng làm khổ mình nữa." ...

Vừa thấy Lành khệ nệ xách một túi xách to cá biển bước vào, má đang đứng nấu ăn lên tiếng. "Sao con đem cá về nhiều vậy?" Lành đặt túi xách xuống sàn nước, múc nước rửa mặt, tránh không nhìn má. "Thì để làm khô..."Nó giấu mặt vào chiếc khăn lau vì biết má đang chăm chú nhìn.Mặc dù vậy lành nghe giọng má cao lên trong vắt, biết là má đang cười. "Ờ! Làm nhiều khô để..." " A! Cá khét rồi!" Cả hai cùng kêu lên một lượt . Mãi lo nói chuyện với Lành , má quên béng luôn chảo cá đang chiên trên bếp. Nắng chiều đổ dài trước sân nhà, lác đác vài chiếc lá úa từ đâu bay sang làm vàng thêm màu nắng./.

Truyện ngắn: Mắc cạn.

02/05/2011 13:17 | 71 lượt xem

Mấy hôm rồi trời mưa, nước mưa đọng vũng trên con đường loang lỗ tạo thành trũng nước. Cái nhà liêu xiêu trong cơn going cũng khiến tôi cảm thấy sợ sệt. Mẹ đi làm ngoài đồng đến giờ này vẫn chưa thấy về, mẹ đi từ tờ mờ sang và đến chập choạng tối khi mưa bắt đầu to dần cũng chẳng thấy mẹ về. Tôi cứ nhấp nhỏm, lo âu:

- Không biết mẹ mình có bị chuyện gì không đây nữa!

Mấy con cá khô nướng sơ sơ trên lò than cho nóng chờ mẹ về, nồi canh rau đay cũng đã hâm lại rồi, cơm mới thổi thơm ngào ngạt mà cũng dần nguội lạnh vì chắc mẹ chưa kịp về để dùng bữa. Ngoài mé sông, nước sông dâng cao gần tới cái lu đựng nước mà trong nhà nước cao cũng chừng qua được bốn chân ghế. Hai ống quần tôi búi lên cao, đùn hai bên đùi và đi trong nhà như là đi ra ngoài bờ ruộng. Con chó giữ nhà cũng buồn bã nằm trên cái đi văng, thường ngày nếu mà nó nằm trên đi văng là cả tôi hoặc mẹ đều phết vào mông nó vài roi thế nhưng nhà bây giờ đang ngập nước. Cả tôi lẫn con chó cũng như con cá đang mắc cạn trên bờ, tìm cách vùng vẫy để bơi ra nguồn nước

Nhà tôi có hơn gì mấy nhà kề cạnh đâu, bà con xóm giềng cũng đang tất tả lấy thau, lấy xô tát nước từ trong nhà ra ngoài hối hả tránh làm nước thấm vào mấy khạp đựng gạo. Ai cũng sợ gạo bị ướt, tôi cũng sợ lắm mà kể cũng lạ, gạo nhà tôi hết sạch trơn chưa mua gạo mới về thì sợ làm gì cho nhọc kia chứ. Chắc là hôm nay chỉ vỏn vẹn bữa ăn gọi là "thịnh soạn" vì ngày mai chưa biết chừng sẽ phải nhịn đói.

Người phụ nữ quần áo ướt đẫm trong mưa, cái nón lá không đủ che chở những cơn mưa vội vã và vô tình làm ướt sũng bộ bà ba nâu. Trong mắt tôi đang chan chứa cái vui sướng:

- Vậy là mẹ cũng đã về rồi!

Trông dáng đi của mẹ có sự vất vả, sự nặng nhọc và sự mệt mỏi với những tháng ngày bôn ba với nắng, với mưa như có thể rờ thấy được nỗi nhọc đó đang trì nặng trên hai vai gầy guộc của mẹ. Cái thúng mẹ ôm khư khư vào bụng, che đậy kĩ bằng tấm nilon, hình như là cái thúng gạo. Vậy là nhà tôi có gạo mới đề ăn, chắc sẽ không sợ cảnh nhịn đói nữa rồi. Vừa bước vào nhà, mẹ tháo ngay cái nón lá ra rồi đặt cái thúng lên cái bàn gỗ đựng bộ ấm trà, mẹ lau mặt vào hai tay áo. Mẹ ngồi lặng trên cái ghế, hai chân co lại thu vào người, nước bây giờ dâng lên cũng sắp sửa đến gần mặt ghế mẹ đang ngồi. đâu đó trong ngôi nhà đang chất đầy những tiếng thở dài, bỗng ngắt lại với lời than của mẹ:

- Mưa chừng này không biết khi nào mới dứt nữa! Ông trời không thương cho dân gì hết ráo, cứ cho mưa xuống hoài là hay sao! Ngẫm cũng thấy buồn, mua vầy thì mấy cây mạ ngoài đồng chắc không chống chịu nỗi quá!

Ngẫm lại cũng đúng, tôi thấy mưa thế này càng làm khổ dân tình thêm thôi, giá mà đừng có mưa giông dai dẳng thì người dân không sống cảnh như "mắc cạn" thế này rồi. Sống trong lụt mà hỡi ôi cứ xem như là mắc cạn, chỉ thương khổ cho dân tình mình thôi.

Cá Khô Kho Khế

Thứ hai, 26 Tháng 10 2009 08:19 Viết bởi Phạm Ty Lan

Đó là đầu đề một bài tập viết mà tôi đã đã dạy cho học trò lớp Một cách đây hơn 28 năm.

Ngày ấy dạy thì cứ theo sách giáo khoa. Thời khóa biểu ghi môn gì thì dạy môn ấy.

Cá khô kho khế.

Bài tập viết này đối với học trò lớp Một ở học kỳ hai được xem là bài khó. Vì các em khi viết các chữ h,k phải đưa cây bút lá tre từ đường gạch dưới cùng. Kéo xiên lên 30 độ , lên 4 ô ly- đường gạch thứ hai _ rồi lên gần đến đường gạch thứ ba thì đánh cong trái, sổ thẳng xuống. Giao nhau với nét lên ở đường gạch thứ hai rồi mới sổ thẳng xuống dòng kẻ thứ nhất.

Nhìn các em cầm cây bút đưa lên đưa xuống, nắn nót đến lè cả lưỡi ra, méo miệng qua một bên. Nước mũi chảy thò lò cả ra mà không biết. Trông đến tức cười. Vậy mà viết được một chữ, ngẩng đầu lên, thở cái k..h..ì. Nghiêng đầu ngắm nghía chữ vừa mới viết. Chưa kịp đắc ý. Cái tay đưa ngang định quẹt nước mũi thì r..ẹ..t một cái, đụng phải hũ mực . Thế là mực tím văng tung tóe khắp bàn. Bắn cả vào vở, vào chiếc áo trắng đang mặc. Nhìn cái mặt xanh như tàu lá. Tay chân tèm lem. Mắt liếc nhìn cô giáo lấm la lấm lét trông đến tội. Dù biết rằng tôi không bao giờ la mắng trong những trường hợp như thế.

Ngày xưa...

Ngày xưa, tôi là một cô giáo làng, dạy trường làng. Đúng hơn là trường Đình _ Đình Phú Tài. Ngôi trường nằm cách đường cái khỏang 300 mét. Từ đường Quốc lộ I rẽ về bằng con đường đất nhỏ ngoằn nghoèo. Cụm trường này chỉ có ba phòng. Cách cụm trường chính khỏang hơn cây số. Nhưng thật lẻ loi vì nằm tận dưới làng.

Trong sân trường có hai cây Cầy cổ thụ to bằng bốn người lớn ôm mới xuể. Lớp học có 45 em. Có những em học sinh nhà quá nghèo. Quanh năm đi học chỉ một chiếc áo. Em Mẫn được tôi chọn làm lớp trưởng vì thấy em khôn ngoan nhanh nhẹn . Đầu năm em mặc chiếc áo còn mới. Tháng sau đã thành màu cháo lòng. Nhìn khuôn mặt rám nắng có hai con mắt thật sáng của cậu học trò.Tôi hỏi:

_ Sao em cứ mặc hòai chiếc áo này đi học vậy.

Cô học trò ngồi bên nhanh nhảu:

_ Trò có một cái áo đó thôi cô! Má trò đi làm mướn. Mấy tháng nay đau không đi làm nữa.Trò với chị đi mót lúa để cả nhà ăn đó cô.

Hôm sau tôi mang lên một túi áo quần đưa cho em. Em một mực không nhận. Bảo mấy cũng không nghe. Không ngờ cậu bé trông thế mà lòng tự trọng thật là cao.

Tôi còn nhớ trong lớp Một E năm ấy. Có một trò tên Phúc. Cũng vậy, đầu năm em mặc một bồ đồ ca rô màu sô cô la. Người hơi nhỏ con. Nhưng mặt mày trông cũng sáng sủa. Hai con mắt một mí trông hiền hiền. Chỉ tội là học rất chậm. Ngày nào em cũng mặc bộ đồ ấy. Hai tuần sau , chiếcáo chỉ còn hai hột nút. Tháng sau là bay tuốt luốt, không còn hột nào. Và mỗi lần ra chơi. em chạy rượt đuổi cùng bạn bè. Áo cứ thếbay hồn nhiên, phơi cả bụng. Đứng xếp hàng vô lớp . Tôi kêu lên .Lấy tay dở hai tà áo đã bóng láng vì không giặt bao giờ lên: Hai bên xương sườn nhô ra , da màu trắng. Ở giữa bụng thì màu nâu bóng. Trên một thân hình nhỏ bé kia mà chia làm ba phần rõ rệt. Cả lớp cười ồ. Em cũng cười theo, hồn nhiên.

Hôm sau đi dạy, tôi mang cả kim chỉ, nút áo, cắt móng tay, cả kéo và dao lam để giờ ra chơi cắt móng tay, kết nút và cắt tóc cho học trò. Đôi khi còn đóng tiền học cho các em. Có khi lấy tiền lương mua vở cho các em. Nếu không, "Hết vở rồi, em nghỉ học cô à! Mẹ em không có tiền."

Tổng kết năm học nào tôi cũng hì hụi nấu chè , làm bánh rồi khệ nệ mang xuống trường cho các em Liên hoan. Tuy mệt nhưng ngon hơn và đỡ tốn tiền. Cô giáo lương thì ít. Học sinh thì nghèo . Lấy đâu ra tiền. Vậy mà cũng chụp hình kỷ niệm như ai.

Khi quyết định về quê cha ở Quảng trị cũng là lúc chia tay với nghề dạy học. Ba tôi sợ mấy mẹ con ở xa côi cút sẽ bị người ta bắt nạt. Còn Chồng thì theo chồng. Chồng mất biết dựa vào ai những khi trái gió trở trời.

Những năm đầu nghỉ dạy thật khó khăn cho tôi. Tâm hồn cứ chống chếnh thế nào. Người đôi khi như gàn gàn. Ngẫn ngẫn ngơ ngơ. Nhất là những dịp Khai trường. Thấy học trò áo mới quấn mới lũ lượt. Thầy cô áo dài tha thướt mình cứ thấy lạc lỏng tủi thân thế nào.

Vậy mà đã hai mấy năm trôi qua.

Có lần tỉnh giấc lúc nửa đêm nghe như có ai nói vào tai: Cá khô kho khế.

Nằm ngẫm nghĩ mãi không hiểu vì sao. Hình như đó là món ăn. Sao mình không bao giờ nghĩ đến.

Hôm sau, ra chợ mua cá khô cùng vài trái khế về kho thử. Ngâm cá một lát với nước muối nhạt cho mềm. Chặt nhỏ nếu là cá to. Bỏ đầu nếu là cá cơm. Xắt khế theo chiều dọc rồi cho vào nồi sau khi chiên sơ cá qua với một ít dầu hành phi cho thơm. Sắp cá lên trên khế .Cho đường vào cùng ít ớt bột, mắm muối tiêu hành thêm vài trái ớt tươi. Đổ nước ngập khế kho riu riu cho đến khi rút hết nước. Nồi cá kho thơm nức mũi, bay đi khắp xóm. Ai mà đang đói bụng là thèm chảy nước miếng.

Đến khi gắp cá ra dĩa, sắp khế chung quanh. Cả nhà ai cũng náo nức.

_ Chà! Mẹ ơi! Cá khô kho kiểu này ngon quá. Vị mặn , cay, chua chua đậm đà ngọt dịu. Ngon quá! Cô con gái Út bảo.

Cả nhà ăn mà cứ hít hà vì cá cay.

Nhưng đến khi ăn thử một lát khế thì:

_ Ồ! Khế ngon hơn cá mMá ơi! Cậu con đầu kêu.

Không phải là khế nữa. Vì nó không còn vị chua thường lệ. Bao nhiêu vị ngon của cá, của gia vị đều thấm vào khế. Và thế là các đôi đũa đều truy tìm những lát khế kho.

Mùa lạnh, chỉ cần một nồi cá khô kho với khế. Và một tô canh rau khoai thật nóng nấu với mắm ruốc và củ ném là ngon hơn thứ gì ở trên đời.

Những món ăn quê, tuy đơn giản . Nhưng nếu biết nấu đúng cách, nêm gia vị đúng lúc thì đôi khi lại ngon hơn cả các món cao lương mỹ vị khác.

Món Cá Khô Của Mẹ

Riêng có một món có lẽ không ai xếp vào cao lương mỹ vị cho ngày Tết nhưng nhất định không thể thiếu đối với gia đình tôi: cá trích khô nướng.

Ăn cá trích khô lợi thức ăn lắm vì nó được muối rất mặn. Buổi sáng mà được một chén cơm nguội với một con cá trích khô nướng thì phải gọi là số dzách (theo khẩu vị của mấy anh chị em tôi). Đặc biệt khi trời mưa mà nghe mùi cá trích khô nướng thoảng trong gió thì chỉ ước gì chính mình là người đang nướng cá. Tết đến mấy anh chị em tôi không hỏi những thứ khác, chỉ hỏi mẹ đã mua cá trích chưa.

Mẹ tôi cứ mắng mấy đứa đi học xa cả năm ăn uống thiếu thốn Tết được về nhà đồ ngon đồ bổ không tranh thủ mà bồi dưỡng lại đi đòi cá khô. Chúng tôi lại bảo ngày Tết ăn toàn thịt mỡ ngán lắm, nên có bữa cơm cá trích khô nướng đổi vị mới là ngon. Điều đó đã được chúng tôi chứng minh hùng hồn bằng việc nồi cơm luôn hết veo khi có món cá trích khô nướng. Mà không riêng gì mấy đứa đi học xa khoái món này, kể cả những đứa ở nhà, cả năm ăn hoài đấy chứ, vậy mà vẫn cứ thích. Thực ra còn một lý do phụ khiến món này được ưa chuộng là nhà đông anh em thế, cứ chăm chăm ăn thịt thì đến mùng bốn cúng tất còn đâu mà dâng ông bà.

Đó là trước đây. Còn năm nay nhà đã có đứa ra trường đi làm, nồi thịt đã to hơn những năm trước, không lo thiếu cúng ông bà nữa, nhưng trong bếp vẫn có bọc cá trích to tướng. Mua cá trích khô đã là một việc trong chuỗi những việc không thể thiếu để chuẩn bị cho ngày Tết của mẹ. Bé Tư hôm qua rón rén nhắc mẹ cá trích sắp hết rồi để mẹ đi chợ nhớ mua thêm kí nữa. Mẹ lại mắng yêu nó "Con gái gì cứ ăn toàn đồ nóng, đồ mặn, hoa nở đầy mặt mà không lo kìa".

Cá trích khô đối với gia đình tôi đã trở thành món ăn truyền thống không thể thiếu mất rồi, và tôi biết rằng năm sau, và những năm sau nữa, thực đơn ngày Tết của gia đình mình vẫn sẽ không bao giờ thiếu món này. Nó không còn chỉ là một món ăn. Nó đã là hương vị của gia đình.

Chiều 30 Tết...

Cái Tết nào chả giống cái Tết nào? Có lẽ thế nhưng cũng không phải thế. Cảm xúc cứ ngập tràn với những suy tư đan xen cùng những nụ cười; những dáng người vội vã, tụi nhỏ líu lo; đi khắp phố để tìm một đám khói của nồi bánh chưng nhà ai đó chưa quên nếp xưa, tục cũ nhưng bất lực; nhìn thấy cái cười thảng thốt của vợ khi chưa Tết mà cô ấy đã tính chuyện tiền nong, chi tiêu ngày giáp hạt; buồn, vì mình đã già quá mất rồi... Tất cả cứ trộn lẫn vào nhau như một ly cocktail không thể xác định rõ hương vị nào là chủ đạo. Đó là Tết.

Nhưng, hình như tôi đã sai. Vẫn có cái âm hưởng đặc thù của ngày Tết tỉnh lẻ, nơi tôi đang đón nó: Một thành phố vừa mới có tấm biển là mới, còn tất thảy vẫn cũ mèm như thuở nào, khi chưa là thành phố!

Ngạc nhiên vì xe ca hầu như không chạy nữa nhưng dọc đường tôi lang thang vẫn gặp vài cô gái đứng chờ xe. Có khi thấy một người thẫn thờ đượm vẻ hốt hoảng, có khi lại thấy hai cô đứng với nhau có vẻ tự tin thái quá bởi không che nổi nỗi buồn. Tôi hỏi: "Hết xe rồi, sao các cháu về muộn vậy?" "Dạ. Chủ bắt làm cả tối, cả sáng, giờ mới được nghỉ chú à". Tôi hiểu. Hoặc giả như là cố tình để sắp hiểu. Chỉ có những cô gái phục vụ ở quán bar hoặc karraoke mới về muộn thế, mới không đủ nhút nhát để khóc khi tầm này vẫn đứng bơ vơ trên đường. Cũng như mọi lẽ đời khác, tôi cứ nhìn, cứ hỏi theo cách của kẻ lắm chuyện, rỗi hơi, rồi bất lực mà thôi; bởi chẳng thể nào giúp được. Một chuyến xe về tận xứ Bắc xa xôi?...

Hoa nhiều vô kể nhưng đào thì héo còn mai thì nở rã hết hoa rồi. Cuộc đời vẫn thế. Mấy ngày trước Tết, Đào không chịu được nóng nên co ro, thui chột hết các nụ hoa, còn Mai thì cứ như bị doping, đua nhau toe toe hết cỡ các sự mỉa mai người trồng, người bán. Xem ra mới biết ngay cả ông trời cũng bất công: Tại sao cứ phân biệt hoa đào xứ Bắc và hoa Mai xứ Nam để lúc gặp nắng nóng cả hai đều dở khóc, dở cười? "Em ở trong này không có mùa Đông", còn anh thì chẳng thể biết được thế nào là cái nóng dữ dằn của miền Trung dẫu chưa có gió Lào quạt lửa.

Một gánh rau khoai vừa đầy, vừa non băng qua đường. Tôi giảm tốc độ theo quán tính vì muốn mua. Ba ngàn đồng một bó rõ to. Rẻ đến bất ngờ. Tôi buột miệng: "Sao rẻ thế"? Vài ba người trừng mắt. Tôi cười, nhìn chị nông dân mồ hôi nhễ nhại, vừa quạt lấy quạt để bằng cái nón cũ, vừa thở, nói: "Năm nay nhuận nên dịp Tết rau khoai tươi non nhiều lắm. Đó là nhà em đã tăng giá thêm một ngàn hơn hôm qua, đỏ". À ra vậy. Tôi nhẩm tính gánh rau khoai này phải cắt từ vài chục luống khoai, chưa tới 100.000 đồng, tức là chỉ bằng 1/5 chai "ông già chống gậy màu đen".

Vừa lúc đó, hai cô thanh nữ rõ xinh sà tới trên hai chiếc xe đạp cà tàng. Sau lưng mỗi cô là một bao tải cỏ căng phồng. Cỏ xanh như rau khoai và nhiều như sự vất vả trên cuộc đời này. Một trong hai cô gái cười thật tươi: "Em chào thầy ạ". Tôi ngỡ ngàng. "Dạ, em là sinh viên K33 (năm thứ nhất) về quê ăn Tết, em tranh thủ giúp mấy đứa em cắt cỏ cho bò". Đến lúc đó tôi mới thấy cái đầu "nhà báo" nghiệp dư vẫn non choẹt dẫu trên cái cổ đã là hai thứ tóc: Hai cô gái chở cỏ tươi trên chiếc xe đạp đều mặc áo màu sáng. Hình như mặc như thế để ngầm định với mọi người rằng họ chỉ là nông dân một nửa mà thôi. Một chút se lòng nhưng tâm trạng ấy thoảng qua còn nhanh hơn cả tiếng gió rít từ những chiếc xe máy đang hối hả dọc đường. Chợt nhớ câu của Mạnh Tử: "Đừng tin lắm ở những người có học. Họ nói vậy nhưng đa phần đều làm theo ý thích của mình". Tôi thì cũng thế thôi. Thông cảm với vài mảnh đời. Rồi, thở dài. Rồi, im lặng.

Thương" (!) những người bán hoa ế, mất mùa, khi ai ai cũng bị eo hẹp đồng tiền. Vậy mà, vẫn cố tình phóng xe rong ruổi để tìm hoa rẻ và... mua! Hình như cuộc đời vẫn thế. Nghĩ vậy tôi thử làm một cuộc khảo sát nhanh theeo cách các nhà xã hội học vẫn làm: Đếm và ước tính tất cả những nụ cười tôi bắt gặp trên đường, theo sự phân loại của riêng tôi. Thống kê nhanh cho một kết quả không bất ngờ. Hơn 70% những người trên các xe biển số xanh đều có sự thư thái nhẹ nhàng. Còn 99% những người đi xe đạp chẳng ai cười. Những người đi xe máy: Cứ nhìn những chậu hoa, cành hoa mà họ chở hay cầm theo thì đủ để phân định được mức thu nhập và khả năng sắm Tết. Nghe nói chỉ một cặp dưa hấu hình thỏi vàng đã nhiều gấp vài lần cái Tết của người nghèo (5-6 triệu đồng). Tôi là nghèo hay giàu khi vẫn đang cố tình tìm để "chặt" người bán hoa thất cơ lỡ vận? Đang viết những dòng này sau khi đã đi, đã nhìn và đã thấy chán chê thì con gái điện về: "Ba ơi, hoa thược dược hôm qua mỗi chậu 70.000 đồng, bây giờ chỉ 20.000 đồng thôi, có mua không"?...

Ngày giáp hạt

Anh bận, không thì giờ đi ỉa. Mãi tối qua anh mới có tý thời gian vác mặt ra đường. Chả phải anh tự đi mà tại Hải hói năn nỉ anh đi. Đi đâu? Đi với Hải hói thì chỉ đi chim gái chứ còn đi đéo đâu nữa. Bọn anh phi tít lên Dã Tượng, nhà gái ở đó, mới đôi mươi, còn Hải hói bạn già anh, hehe bốn mươi chứ đâu phải ít. Hải hói mới tậu Audi A5, kính coong mới coong nhưng bọn anh lên đó lại bằng taxi, bạn già anh bảo đường đông, va quệt, xước xác, xót xe lắm. Đèo mẹ!

Ghé tiệm hoa mua quà cho gái, anh mới thằng cu taxi chờ mất ba mươi phút. Hải hói vác bó hoa to vật lên xe, lầm bầm, đắt vãi dắm, những năm trăm ngàn, mất nửa tiếng kì kèo à ơi xuống còn ba trăm rưỡi, không sao, thú vui của đại gia là cho chân dài tiền, phỏng chú? Đèo mẹ!

Gái đẹp, cao hơn mét bảy, ăn nói nhỏ nhẹ, cử chỉ đoan trang, bố làm ngoại giao, mẹ buôn rượu lậu, gia cảnh quý tộc chấm phá nét con buôn. Có hề chi, xứ ta thằng đéo nào làm quan mà chả có vợ hay con đi buôn chuyến, ngôn ngữ giáo khoa gọi là kinh tế - chính trị. Anh rỉ tai Hải hói, trông chắc chắn gớm nhẩy! Bạn già cười khì, hãnh diện, chú thì...hi hi. Đèo mẹ!

Phét lác đủ thứ trên giời dưới bể, gái chăm chú lắng nghe. Chả hiểu sao chuyện Hải hói vô duyên tệ mà gái cứ há hốc mồm, chứ không như anh, hài hước bẩm sinh, duyên dáng xuất thần mà câu trước câu sau gái lặn mẹ đi đâu mất. Đời nó bất công với anh hay gái thời nay ngu si chiếm đại đa số như nghị viên quốc hội? Nhưng thôi, anh quan tâm đếch, gái đẹp tự thân đã là giá trị rồi.

Rủ gái ra phố chơi, gái bảo ngại. Anh phải mất công động viên, câu kéo mãi gái mới chịu nhưng giao hẹn về trước mười một giờ. Đèo mẹ, ngoan quá không khéo ế chồng. Bọn anh vẫy taxi, tìm một quán hát trên phố nhớn. Mẹ, chị em cứ mườm mượp, mườm mượp. Chờ mãi mới tới lượt, ngó đồng hồ, đã mười giờ hơn.

Gái khép nép, e lệ, nhâm nhi bú cam vắt, Hải hói gồng mình gân cổ chơi "chim trắng mồ côi" rồi "xin lỗi tình yêu", anh tu bia cật lực, lâu không uống, hehe đã đời. Bảo gái hát, gái dứt khoát không, làm anh lại phải mất công câu kéo, động viên. Gái chơi luôn một lai - xâu hoành tráng từ " hối tiếc", " teen vọng cổ" đến " mùa đông không lạnh" và nhiều bãi nữa mà anh chịu không nhớ nổi tên. Gái hát không tệ, thậm chí là hay. Hải hói phấn khích, tay búng tanh tách, châm dậm sàn côm cốp, người lắc lư chao đảo, giật đùng đùng. Anh thì, hehe cật lực tu bia, mải mê ngắm gái. Chưa già nhưng hư là lắm lắm.

Chả thấy gái đả động gì đến giờ giấc. Thây kệ, thế tốt hơn. Phải chịu khó hư tý đi em, may ra mới lấy được chồng tài. Các cụ xưa chả bảo, gái khôn phải tìm chồng chốn quần hùng đấy sao. Quần hùng thời nay ở đâu? Dễ mà, câu trả lời ai chả biết, anh dại gì làm phận cầm đèn chạy trước Audi.

Gái thôi bú cam, chuyển sang bú bia, phần vì anh mời, phần vì Hải hói ép. Gái cũng như trai, có tý men , phấn khích, rạo rực hẳn. Gái hát bốc hơn và bắt đầu nhún nhảy, bạn già phê tột độ, ngúng nguẩy như lên đồng, anh thì, hehe liên tục tu bia, mải miết nhìn mông gái.

Gần một giờ sáng, cơn say chập trùng kéo đến, Hải hói cũng không chống đỡ nổi lượng rượu bia gái mời, phê lồi mắt ra mặt. Còn gái, dường như tất cả mới bắt đầu. Anh bắt đầu nghĩ không hay về gái, hư, thế là hư, hư quá cơ. Nhưng thôi, cả năm gái mới có một ngày, anh tặc lưỡi. Cũng như anh hôm nay cũng chót hứa với gái già đang năm nhà, rằng tối nay cho phép nằm trên, hehe.

Về đến nhà gần ba giờ sáng, gái già đòi nằm trên, anh rên, nằm im cho anh nhờ. Gái già tấm tức, rưng rức khóc. Anh chìm trong cơn say.

Trưa nay, khi ngồi biên bài này, Hải hói điện thoại, bảo chẳng thấy ví tiền đâu. Anh bảo chắc rớt taxi, bạn già hậm hực, chắc nịch, đéo phải, con bé kia nó lột của tao rồi. Anh cười, dù sao cũng nên có quà cho gái. Đên qua ngày tám tháng ba mà. Ngày đó với anh chả phải ngày của gái, mà là ngày của giáp hạt, đói kém thủa xa xôi.

NỬA CHÉN NƯỚC CHÁO

DTDB

Mặt trời chiều ráng đỏ, nằm lơ lửng trên chòm cây bên kia sông.

Chiếu những tia nắng chói xuống cỏ cây hoa trái trên ngôi vườn của bà Tư

Súng. Những chùm xoài cát đen rám nắng ửng hồng da gần trên phần

cuống. Trái nào trái nấy no tròn mơn mởn, khiến ai bơi xuồng qua ngang

nhìn thấy cũng không khỏi trầm trồ: "Chùm xoài già rọi thẳng da thấy phát

thèm..." Nắng trải mặt sông nước mơ màng phản chiếu màu ngũ sắc lấp

lánh. Hiu hiu gió thổi đám ô rô bên bờ sát mé nước cọ quẹt nhau phát ra âm

thanh rào rào thật êm tai. Đàn chim trao trảo nhảy nhót trên cây líu lo tìm

trái chín.

Đường đất dọc hai bên sông từ đầu làng đến cuối thôn, thấp thoáng

những nam nữ học trò chạy giỡn, cười nói sau giờ tan trường. Và trên sông

lác lác những xuồng ghe bơi chèo nhàn hạ. Ở cầu đình lố nhố những người

rời tàu, lên bến của chiếc đò máy từ bốn năm giờ sáng chở khách ra chợ

tỉnh. Âm vang tiếng tù và còn rền vang trong gió đưa xa báo cho dân làng

biết tàu đã trở về rồi.

Trong cái làng quê Mỹ Đông hẻo lánh nằm cặp theo nhánh sông Tiền

Giang, xa Quốc Lộ Bốn đi đường lộ tẻ cũng phải 2 cây số. Còn nếu dùng

đường sông rạch, cũng tròm trèm khoảng thời gian đó. Làng thôn nầy tuy

nằm ở địa điểm xa chợ, xa lộ lớn nhưng rất trù phú. Nhờ thời tiết gió mưa

quanh năm thuận hòa, cây trái tốt tươi luôn trúng mùa. Thủy sản dồi dào

có cá trắng (cá sông) lẫn cá đen (cá đồng) tươi ngon. Nếp sống thôn dân an

nhàn lạc nghiệp gia đình đề huề... Con cái đều được cắp sách đến trường.

Cái làng nhỏ trù phú nầy từ xưa còn có nhiều hộ gia đình, cho con

em ra tỉnh thành học đỗ đạt nên người làm quan, làm công chức các ngành

nghề trong Chánh Phủ. Trong làng có đình, có chùa để dân cúng bái tắm

mát tâm linh bất cứ lúc nào, và vào những ngày rằm, mùng một, ngày vía,

ngày lễ...khách thập phương đến cúng bái đômg, xuồng ghe chêm bến

nước.

Bên kia sông, gia đình chú Bảy Tửng có cậu Tâm Hùng học ở trường

Trương Vĩnh Ký, và cô Thu Hồng học trường Gia Long trên Sài Gòn... Đó

là mấy đứa cháu ngoại ông Cả Tám trong vàm Bà Tứ.

Giữa thôn thì vợ chồng thầy giáo Nam cũng có mấy cô con gái đi

học ở Vĩnh Long. Sau đó cô con gái út tên Minh Thu của ông chuyển qua

học trường nữ Trung học ở Cần Thơ. Học xong chữ nghĩa cô đi học nghề

và ra trường trở về làm việc ở bệnh viện tỉnh nhà Mỹ Tho.

Dân trong làng bịnh hoạn, hoặc tai nạn đưa xuống bệnh viện tỉnh

chữa trị, gặp cô Minh Thu, thì luôn được cô giúp đỡ tận tình và mau mắn

trong phận sự của mình.

Trong thôn làng mà "Tiếng hiền đồn xa, tiếng dữ đồn ba ngày

đường". Ông bà ngoại và ba má cô y tá Minh Thu thật ai có cho tiền cho

bạc họ cũng không vui lòng và hạnh phúc bằng. Họ rất sung sướng và hãnh

diện có đứa con, đứa cháu có nghĩa tình biết giúp đỡ chòm xóm, láng diềng

khi người ta gặp ươn yếu hoạn nạn như vậy...

Thôn dân thật thà chân tình ai giúp họ một lần thì họ sẽ trả lại nhiều

hơn. Cho nên mỗi lần cô Minh Thu có dịp về thăm ông bà, cha mẹ thì cô

luôn nhận được những trái xoài chín cây ngọt lịm, rổ cam hay quít đầu

mùa, bưởi mới có trái chiếng, con cá mới tát đìa bắt được... Khoai mới

đào, trái đu đủ mỏ vịt vườn mới hái chưa ráo mủ...

Cô Minh Thu vui vẻ nhận và đáp lại bằng gói trà, phong bánh... có

dịp mua ở tỉnh thành đem về.

Người dân quê là như thế, họ đối xử với nhau bằng tấm chân tình.

Đó cũng nhờ vào sự giáo dục của gia đình và hoàn cảnh xã hội miền Nam

theo Chánh Thể Cộng Hòa có tự do, bình đẳng, đời sống cởi mở và lòng

người tâm lành hướng thiện. Họ tinh vào luân hồi trả vay ai ở hiền gặp

lành, ác lai ác báo... Họ an vui sống trong nghĩa nặng tình sâu giàu lòng vị

tha bác ái theo thuyết nhà Phật.

Sau tháng 4 năm 1975, là thời gian thương đau nhứt của dân tộc Việt

Nam. Hầu như tất cả dân, quân, cán, chánh của Chánh Phủ Việt Nam Cộng

Hòa đều bị Việt Cộng lùa vào trại tập trung để đày tù cải tạo.

Anh Sĩ Điền chồng của Minh Thu cũng không thoát khỏi. Gốc của

Sĩ Điền là giáo chức, sau tổng động viên làm sĩ quan trừ bị. Mặc dù anh đã

bị thương giải ngủ, trở về dạy học lại từ 3 năm trước (1972 trước khi giặc

vào). Nhưng cũng không tránh khỏi kiếp nạn tù đày.

Tên Việt Cộng quản giáo nơi trại anh đã bảo:

- Thầy giáo cái con khỉ gì? Nói cho cùng thì anh cũng là "nguy

quyền". Anh từ "ngụy quyền" rồi vào làm "ngụy quân" khi ra khỏi "ngụy

quân" anh trở lại làm "ngụy quyền" có đúng không? Như vậy anh là thành

phần ưu tú và là con cưng của "Mỹ Ngụy" cần phải đi cải tạo để mở mang

trí óc u mê chứa đầy bơ sữa của anh...

Thiệt là hết nói nổi, chứa đầy thức ăn bơ sữa thì u mê cái gì? Chứa

gươm đao, lưỡi lê, mả tấu mới là đáng sợ, cần đi học tập cải tạo thì mới

đúng, mới phải chớ! "Thiệt cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo/ Cái

miệng không vành nó méo tứ tung" mà. Con thỏ, con dê, con nai ăn củ cải,

ăn rau. Con cọp, sư tử, beo, con cáo ăn thịt sống mới ăn thịt đồng loại chớ

chúng có ăn rau, ăn cỏ bao giờ!

Đất nước tan thương! Gia đình ly tán bởi sự trả thù bằng mọi hình

thức của đảng Cộng sản Việt Nam chụp phủ lên đầu, lên cổ người miền

Nam. Người nữ y tá Minh Thu đó cũng theo vận nước nổi trôi như bao

nhiêu đồng nghiệp khác, và người dân miền Nam khác!

Ông bà ta thường nói: "Khi vận xuôi thì đi bán muối/ Muối cũng có

giòi" Chồng cô bị đày đi cải tạo, không biết bao giờ mới trở về. Với chế

độ mới, và ảnh hưởng chồng vừa là "Ngụy quyền" vừa là "Ngụy quân" ở

chế độ cũ, nên bây giờ cô chỉ là "Nhân viên lưu dụng" thôi.

Vào thời Cộng Hòa, hai vợ chồng là Công chức có hai con như gia

đình Minh Thu, thì sống họ hết sức tươm tất. Tuy lương phạn của hai vợ

chồng không nhiều, không giàu có, nhưng họ sắm được nhà. Có người

giúp việc, có truyền hình, tủ lạnh và tiện nghi... Đó cũng nhờ thỉnh thoảng

(tháng nào cũng có đôi ba lần) được cha mẹ họ hàng hai bên cho con gà,

con vịt, nếp, gạo, trái cây vườn...

Từ ngày Việt Cộng vào, chúng đổi tiền, đuổi nhà, lấy đất chia 5 xẻ 7

cho nhau... Dân chúng lầm than khốn khổ ai cũng tự lo lấy thân còn không

đủ, thì cha mẹ, họ hàng đâu còn dư dả mà cho con cho cháu. Vì thế nguồn

cung cấp giúp đỡ của gia đình cha mẹ hai bên của Minh Thu không còn

sum sê như trước nữa. Hàng tháng nhà nước cấp cho nhân viên lưu dụng

mười mấy ký gạo. Đôi lần trong tháng bán rẻ cho ký cá, ký mắm ... hoặc

bầu bí tịch thu được của những người lén mua bán bên ngoài vòng kiểm

soát của họ thôi.

Thời gian qua mau! Bây giờ hồi tưởng lại như trong giấc mộng.

Giấc mộng hãi hùng! Đã mấy mươi năm rồi, đôi khi trong chiêm bao chợt

tỉnh, lòng Minh Thu vẫn còn hồi hộp, lo sợ. Và cô cứ tưởng mình còn sống

trong chế độ Cộng sản nơi cố quốc!

Bây giờ Minh Thu đã 2 màu tóc, cứ 3 tuần phải nhuộm đen một lần.

Còn Sĩ Điền thì tóc phơ phơ màu bạc nhưng anh không chịu nhuộm đen.

Khi vui anh thường bảo với các con và vợ rằng:

- Tôi không nhuộm tóc. Vì tôi muốn mình mái tóc trông có vẻ phong

sương như mái tóc của tài tử điện ảnh Đoàn Châu Mậu!

Nghe nói, Minh Thu hấy chồng con mắt có đuôi, trề môi dài cả

thước,giả giọng Bắc kỳ:

- Ối giời, ông bà ông vải ơi! Ông chồng tui bị cải tạo mười mấy

năm giời, lượm được cái mạng sống về với vợ con là phước đức rồi. Nay

già cúp bình thiếc rồi mà còn mơ giống tài tử đóng phim nữa đấy!

Đứa con trai lớn Hiếu Minh cười hì hì nheo mắt nhìn cha, rồi gật gù:

- Ba nói đúng đó! Ba con ngày xưa có thua ai đâu! Bây giờ ghi tên

xin làm tài tử đóng phim vai ông ngoại ông nội còn được chớ mẹ. Trông ba

vẫn còn phong độ lắm lắm mà...

Sĩ Điền nheo mắt lại thông đồng với thằng con. Thằng ma lanh nầy

hiểu ý cha gật đầu rồi lớn họng cười ha hả. Giọng cười hào sảng như tuôn

ánh sáng.

Thằng nhỏ lại vỗ trán, cúi mặt ra điều suy nghĩ, lấy lòng mẹ:

- À, có chớ, con quên nữa là dạo nầy ba hơi lãng tai một chút thôi!

Có đúng không mẹ?

Minh Thu sáng mắt liền, liếc xéo ông chồng:

- Đúng, đúng... Ba con dạo nầy lỗ tai điếc ngắt hà! Ổng điếc là khi

nào mẹ nhờ ổng giúp dùm điều gì như là phụ kê chiếc tủ, làm dùm cái giàn

ngoài hiên sau cho dây bầu leo, đổi dùm vị trí cái giường... Ổng ngồi chần

dần một đóng gần đó mà nín he, làm thinh không trả lời rồi lờ đi không làm

dùm. Nếu mẹ càm ràm nhắc lại thì ổng tỉnh bơ bảo: "Tui có nghe em nói gì

đâu..." Nhưng nồi đất nồi đồng ơi, khi mẹ con mình nói lén, nói xấu ổng

nhỏ xí ở trong buồng mà ổng nghe hết trọi hà...

Thế là hai cha con cười hô hố muốn vỡ cả nóc nhà. Kẻ nào đang

uống nước đứng gần đó cũng bị sặc tùm lum... Thì ra Sĩ Điền cố tình toa

rập với thằng con chọc ghẹo... Cho vợ có cớ đay nghiến hầm hì mình để

cả nhà cười cho vui...

Mùa Giáng Sinh ở xứ người. Từ thành thị đến thôn quê bừng lên sức

sống... Gần như hầu hết già trẻ, trai gái ai ai cũng mua sắm, quà cáp cho

nhau cùng vui hưởng những ngày lễ lớn và Tết của họ.

Các nơi công cộng, công, tư sở, nhà cửa được trang hoàng, giăng

mắc đèn màu quanh nhà, treo trên cây thông. Cùng những hình nộm ông

già Noel cỡi những con nai (deer) đi tặng quà khắp nơi. Người ta còn dựng

hang đá, máng cỏ, bày Thiên Thần, chim muông... để đón mừng ngày Chúa

ra đời.

Ở nhà thờ, Thánh đường họ còn trang hoàng quy mô hơn, có tiệc

tùng lớn, có văn nghê, có những bài thánh ca, những bài nhạc Tết. Chương

trình Giáng Sinh, Tết trên các đài truyền hình toàn nước Mỹ vang vang suốt

đêm ngày trong mùa Giáng Sinh và Tết từ đầu tháng 12 cho đến giữa tháng

1 năm mới...

Lễ Giáng Sinh và cái Tết thật sự phồn vinh của xứ người, khiến

Minh Thu chạnh lòng nhớ đến mùa Giáng Sinh đầu tiên, khi giặc tràn vào

chiếm cứ miền Nam.

Năm đó gần ngày lễ, ngày Tết, Minh Thu hy vọng được sự khoan

hồng của nhà nước sẽ dễ dãi trong việc thăm nuôi chồng trong vòng lao lý

tội tù của giặc. Cô quên đi là chế độ Cộng Sản theo chủ nghĩa vô thần, nên

Giáng Sinh Tết nhứt có nhằm nhò và ảnh hưởng gì đến họ đâu!

Ba mẹ con đùm túm đi thăm nuôi chồng, cha trong tù! Lúc về bị trận

mưa mẹ con ướt loi ngoi.

Phải chăng thời tiết cũng thay đổi theo cơ trời vận nước sao? Vào

mùa Giáng Sinh mà tiết trời thiệt là lạ lùng. Ẩm ướt, nước ngập đường

ngập sá phải lội bì bõm qua những bờ mẫu để ra Quốc lộ trở về nhà cho

kịp trong ngày. Gió hắt hiu lành lạnh giống như vào mùa nước nổi khoảng

tháng 8, tháng 9 Âm lịch vậy. Rồi tiếp theo mấy hôm liền không thấy mặt

trời. Không gian xám đen, ủ dột... Mưa lất phất, rỉ rả cả đêm lẫn ngày.

Cây trái hoa màu ủng nước nên mùa màng thất bát... Dân đói khổ lại càng

khốn đốn thêm!

Minh Thu ôm con trong vòng tay mà nước mắt chan hòa! Có lẽ mắc

đám mưa hôm đi thăm cha, mà thằng Hiếu Minh con trai cô 5 tuổi bị nóng

sốt hai hôm nay. Thằng bé mắt nhắm nghiền, môi ửng đó khô nứt rướm

máu, trán hâm hấp nóng, hơi thở mệt nhọc, mặt mày tái nhợt... Khi trở

mình cháu gọi "Ba ơi!" Ôi, có nỗi đau khổ đoạn trường nào hơn người mẹ

đang ôm rì đứa con đang quằn quại trên tay, hơi thở thụp thò như đang đi

lần vào cõi chết!

Thuốc men từ khi Việt Cộng tràn vào đến giờ thiếu nguồn cung cấp

viện trợ của Âu, Mỹ nên đã cạn dần. Kho thuốc ở các bệnh viện gần như

trống không. Các nhà thuốc tây tư nhân đều bị nhà nước tịch thu...

Ở khu trị bệnh trẻ em lúc nào cũng có đứa chết vì dịch bịnh "Sốt xuất

huyết" đang hoành hành lên cao độ ở trong vùng! Minh Thu lục lạo tìm

kiếm thuốc cần thiết cho bịnh của con được thứ nào hay thứ đó.

Chồng trong tù, nhìn con đang thoi thóp từng hơi thở cô tan nát

cõi lòng... Chỉ còn có một nơi để cô bám víu và hy vọng là cầu xin khấn

nguyện với Ơn Trên mà thôi! Bởi thấy gia cảnh chị Huyên con gái ông Hào

Các ở xóm trong làng. Năm đó chưa đầy 6 tháng 3 đứa con chị chết trong

dịch "Sốt xuất huyết". Chị Huyên phát "sảng"! Thẫn thờ như người mất trí

làm cô càng thêm hoảng hốt lo sợ hơn!

Nhớ chuyện xưa, Minh Thu buông tiếng thở dài thườn thượt... Âu

cũng là cái số của mỗi con người! Hiếu Minh năm nay đã ngoài 30 tuổi rồi.

Tuổi nầy ở quê nhà khi xưa thì không còn là tuổi thanh niên. Nhưng ở đây

ăn uống đầy đủ, hít thở không khí trong lành, học hành đến nơi đến chốn,

có nghề nghiệp vững chắc, không âu lo, không sợ sệt. Được sống trong

một nước có hoàn cảnh tốt. Con người thật sự được hưởng tự do. Nên

Hiếu Minh tướng tá cao lớn, khỏe mạnh không thua dân bản xứ. Cậu ta

còn thừa hưởng mặt mày khôi vĩ, tánh tình hào phóng, yêu đời, an phận cho

hiện tại như nếp sống của cha mẹ, nên trên mặt cậu ta tràn đầy sức sống

và hạnh phúc.

Chiều nay, Hiếu Minh đi làm về sớm, để đưa ba mẹ qua làng bên

khoảng hai giờ lái xe. Qua dự lễ sinh nhựt của bác Hiến bạn của ba cậu

hồi cả hai còn đi học, chưa lập gia đình.

Ông bà Hiến có 3 đứa con đã thành nhân ở xa. Lễ Tết họ mới về

thăm cha mẹ. Hai đứa con của Sĩ Điền đứa gái lớn và thằng trai út cũng có

gia đình ở xa. Năm nay Tết chúng mới về thăm nhà. Vì thế hai cặp bạn già

cuối năm hẹn hò mừng sinh nhật và lễ Gáng Sinh để có cớ gặp nhau mà

hàn huyên tâm sự

Đêm nay sau khi ăn uống thì đã mười giờ hơn. Vợ chồng Sĩ Điền và

đứa con trai từ giã ông bà Hiến để về nhà.

Đây đâu phải là lần đầu, mà cứ vài tháng thì họ hẹn gặp nhau vào

chiều cuối tuần nào đó. Khi nhà ông bà Hiến khi ở nhà vợ chồng Sĩ Điền.

Họ đãi nhau những món ăn đậm tình quê hương: Khi là bánh xèo, gỏi

cuốn. Khi gỏi tôm thịt trộn với dưa leo, củ cải đỏ, củ cải trắng, trái su để

rau thơm xắt nhuyễn, đâu phộng rang đâm bể hai bể ba trên dĩa gỏi. Bánh

khọt. Có khi ăn cơm với khô lăng phòng nấu canh chua bằng con mẻ với

bắp chuối, để nhiếu ngò gai xắt nhuyễn. Có thêm cá kho tộ rắc tiêu cay và

măng xào lòng gà vịt. Có khi thì cháo vịt luộc chấm nước mắm gừng. Khi

thì cháo cá...

Hiếu Minh nhớ kỳ rồi mẹ cậu đãi hai bác món cháo lòng... Cậu ta

vẫn nhớ và sau đó cứ thỉnh thoảng nhắc mẹ nấu cho ăn.

Gần như nhiều người biết. Kể từ hồi người Á Đông vào Mỹ ào ạt

nhứt là người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản sau năm 1975... Thì những món

như tim, gan, phèo, phổi, huyết, lá mía, lá lách, cật, ruột già, ruột non, dồi

trường... của con heo, lò heo (ở Mỹ) không còn cho không, hay bỏ thùng

rác như trước nữa, mà họ bán.

Hôm đó, bà Minh Thu mua lòng heo mỗi thứ một ít về nấu nồi cháo

lòng đãi vợ chồng ông Hiến. Làm ông bà ngạc nhiên lắm. Bà Hiến bảo:

- Nè bà Điền, bọn tui thật sự ngạc nhiên về món cháo lòng bà đãi

hôm nay. Ngạc nhiên không phải là mấy món long trong bụng con heo. Mà

cái đặc biệt nhứt là món dồi heo bà làm... Ông Hiến tôi ưa dồi heo lắm...

Chúng tôi đã ăn trong các nhà hàng và nhiều nơi nhưng không hợp khẩu vị

như món dồi heo nầy.

Ông Hiến cũng khen ngon. Làm Minh Thu khoái chí tiết lộ:

- Nhớ khi còn học nghề ở Sài Gòn, lúc đó tui và ông Điền đã quen

nhau. Học trò ở quê, cha mẹ nghèo vì giặc giã thiếu thốn trăm bề. Nên đâu

có tiền đãi nhau ăn thịt bò bít-tết, tôm hùm, vi cá, bào ngư, hay ổ yến ở các

nhà hàng Tây, nhà hàng Tàu sang trọng... Nên chỉ cuối tháng, dành dụm

mỗi đứa ăn được tô cháo lòng ở chợ Vườn Chuối, và đi xem phim Tàu rẻ

tiền chiếu thường trực, hoặc phim cũ đã chiếu đáo đi đáo lại nhiều lần ở

các rạp trong thành phố thôi thì cũng hạnh phúc lắm rồi.

Sĩ Điền nhìn vợ bùi ngùi thương cảm. Nhưng cũng gượng cười

nhướng nhướng mắt với Ông Hiến. Ông Hiến cười đồng tình với bạn:

- Bọn nầy cũng có khác gì với hai người đâu. Ông bà còn thỉnh

thoảng đèo nhau đi ăn cháo lòng, xem xi-nê. Còn tụi nầy chỉ uống nước

mía thôi, mà còn trốn chui, trốn nhủi... Rủi gặp hai cậu em lém lỉnh ma

lanh của bả mà bắt gặp hăm he về méc ông bà già thì phải lo lót cho hai

thằng ranh con đó sạch hầu bao, chớ đừng nói còn tiền để hai đứa uống

nước mía.

Bà Hiến nguýt chồng, càm ràm:

- Ông cứ ngắt ngang hoài hà. Hãy để cho chị Minh Thu kể đi...

Minh Thu tiếp:

- Bà bán cháo lòng ở chợ Vườn Chuối đó làm dồi heo ngon "số

zách" nên rất đắt khách. Hôm nào đi trễ là không còn cháo mà ăn. Qua đây

rồi, đôi khi tôi vẫn còn nhớ hương vị dồi heo của bà bán cháo lòng đó mà

phát thèm... Tôi cố gắng làm theo trí nhớ của mình, và cứ làm đi và làm lại

nhiều lần rút kinh nghiệm... Hai gia đình mình thân mấy chục năm thì ông

bà cũng biết tôi nấu ăn dở òm chớ có bằng ai đâu! Nhưng chồng con ăn

quen rồi nên cảm thấy vừa miệng... Cho dù có dở thật sự đi nữa cha con

ổng cũng không dám chê. Bởi nếu chê thì tui không thèm nấu cho ăn nữa...

Bà Hiển mắt sáng ngời, cười nói với bạn:

- À, thì ra như thế! Dồi bà làm ngoài nêm nấu khéo léo ra, trong đó

bà còn gói ghém một chút hương vị của tình yêu nữa. Cho nên ngon hơn

nhiều người khác làm là đúng rồi! Thiệt là ăn ngon quá chừng chừng đi

thôi. Nhưng bà làm cách nào, làm ơn truyền nghề cho tui với nghe...

Minh Thu cười vui:

- Thì có gì đâu, tôi cứ mua thịt heo 3 phần nạc, 1 phần mỡ đem về

xắt ra, rồi tự bằm lấy (không nên xây trong máy, nó sẽ nhuyễn dồi sẽ mất

ngon). Tôi đem thịt trộn với ớt, sả, củ hành (bằm nhuyễn) và tiêu hột. Ướp

tất cả với muối (đừng dùng nước mắm), đường, bột ngọt và một chút (1

muỗng canh) rượu trắng. Để chừng 30 phút. Dùng để dồn vào ruột trừu

(mua ở tiệm Mỹ) như dồn lạp xưởng và cột lại từ khúc như lạp xưởng.

Xong rồi trụng rửa vào nước xôi. Lấy cây nhọn đầu xâm cho hơi trong dồi

xì ra. Đem nướng lửa than hồng, hay chiên. Chờ nguội xắt ra để vào cháo

lòng ăn ngon ngất! Nhớ phải dùng cây nhọn xâm để khi chiên hay nướng

dồi không bị nổ văng tùm lum. Làm dồi không khó, nhưng cực nhứt là lúc

dồn thịt vào ruột, và nêm nếm thế nào hợp khẩu vị nhiều người ăn là thành

công chị ơi.

Gặp nhau thường, ấy vậy mà mỗi lần đưa tiễn khách ra cửa. Họ từ

giã 5, 10 phút mà vẫn còn quyến luyến nói hoài không dứt. Kẻ về chưa

chịu bước lên xe vội, còn gia chủ thì cũng chưa muốn vào nhà.

Hiếu Minh còn lạ gì hai bác với cha mẹ mình. Cậu ta đề xe nổ máy,

mở hơi nóng để cho ấm, và kiên nhẫn ngồi chờ...

Xe rời sân nhà ông bà Hiến, nhẹ nhàng lướt qua một số con đường

cắt ngang, cắt dọc để đến khúc quẹo có bảng chỉ dẫn, thì bắt vào xa lộ đi

thẳng về nhà.

Đầu mùa đông, mặc dù không lạnh lắm nhưng trời dầy đặt sương

mù, đèn đường vàng võ. Trông tiêu điều xác xơ vì một số lá thu úa vàng đã

rơi rớt từ giữa mùa. Nhưng ở đây cây cối không trơ cành trụi lá vào mùa

đông lạnh lùng có tuyết phủ như vùng Chicago, Michigan, Visconsin...Như

ở vùng trời Trung Tây hoặc miền Bắc của nước Mỹ.

Bầu trời càng lúc càng tối đen như nhuộm mực tàu. Những cánh

chim trời bay nhanh về tổ như để tránh né cơn gió đêm hắt lạnh của đầu

mùa đông. Mặc dù nơi đây là miền Nam nước Mỹ, nổi tiếng khí hậu ôn

hòa...

Từ CD tân nhạc phát ra giọng hát ngọt ngào những bài nhạc Giáng

sinh, nhạc mừng xuân. Những nam nữ ca sĩ nầy có lẽ đã thành danh trong

nước lúc Hiếu Minh chưa chào đời mà ba má cậu đang trầm tư lắng nghe

với nét mặt u buồn đầy hoài niệm về một thời xa xưa, thời thanh xuân nơi

cố quốc: "...Mùa Noel đó chúng ta bên nhau, giáo đường/ Mùa Noel đó anh

dắt em vào tình yêu/... Mùa Noel sau chúng ta nói câu giã từ.../...Nhưng

nay mùa Noel đến rồi/ Từng đêm em, anh nguyện cầu/ Cầu cho hai đứa

thương nhau/...Hôm nay giáo đường vang tiếng kinh cầu.../... Nửa đêm anh

lê bước cô đơn trở về/ Gặp nhau chỉ để thương đau/ Yêu nhau chi rồi xa

nhau..."

Minh Thu ngồi dựa lưng vào băng xe. Mắt nhắm nghiền như đang

ngủ. Nhưng nàng nhẹ giọng khen:

- Ca sĩ Anh Khoa hát hay quá! Chưa ca sĩ nào có giọng trầm ấm đặc

biệt lôi kéo, ru hồn thính giả như thế nầy.

Sĩ Điền cũng góp lời:

- Em hãy lắng nghe Giao Linh ca bài "Mùa Sao Sáng" sau đây còn

nhớ xưa, hiu hắt và tan nát cõi lòng hơn.

"Một mùa sao sáng đêm Noel Chúa sinh ra đời/ Người hẹn cùng tôi

ngày về khi đất nước yên vui.../...Gặc tràn vào quê hương tôi/ Giặc diệt đàn

chiên Kitô.../...Ôi những vì sao lẻ loi.../ Một mùa đông giá hang Bê-Lem

Chúa sinh ra đời/... Một trời đầy sao chiếu sang Ngôi cao.../... Đất nước

nầy đầy sáng đức tinh Chúa trên trời cao..."

Rồi những bản nhạc xuân nối tiếp: "Xuân đã về, xuân vẫn mơ

màng... Trên xóm làng cất tiếng hát ca vang..." Rồi bài nhạc xuân

khác: "Hoa lá nở thắm đẹp làn môi hồng/ Xuân đến rồi đây nào ai biết

không/... Tay trong tay những cánh thiệp đầu xuân..." Và tiếp theo là

những bài nhạc xuân sau năm 1975 sáng tác ở hải ngoại, rộn ràng náo

nức thiết tha làm xao xuyến lòng kẻ tha hương trong những mùa xuân ở

xứ người, như bài "Xuân Nơi Đây" của nhạc sĩ Võ Tá Hân mà gia đình

Sĩ Điền năm nào đó đã nghe trên đài BBC (Luân Đôn) phát thanh đêm ba

mươi Tết: "Xuân nơi đây không mai vàng đua nở/ Không hoa đào tắm

ánh nắng xuân/ Không cụ đồ ngồi viết liễn/ Không trẻ thơ đốt pháo vỗ tay

mừng.../...Xuân nơi đây có rượu ngon bánh ngọt/ Có thiệp xuân chúc phúc

chúc an lành/ Có nỗi buồn của người xa xứ/ Đón xuân về hồn thổn thức

bâng khuâng..."

Xe chạy bon bon sắp bắt vào xa lộ. Máy sưởi (heat) trong xe phà hơi

ấm và ngoài trời giá lạnh căm căm cho những bộ hành co ro trong chiếc áo

ấm chạy băng qua đường ở trạm cây xăng, hay chợ 7 Eleven.

Bỗng người, xe xuôi ngược trên đường nghe tiếng bánh xe cọ sát

mặt đường thắng gấp rít lên ghê rợn. Nhồi tiếp theo sau tiếng "Rầm!

Rầm..." Xe chạy ngược xuôi dồn cục ái ngại nhìn qua cửa xe. Một vài bộ

hành dừng lại xa xa đứng nhìn. Và chưa đầy 5 phút, thì tiếng hụ còi của xe

cảnh sát, xe chữa lửa, xe cứu thương hối hả chạy đến hiện trường vừa xảy

ra tai nạn...

Minh Thu mở mắt định thần nhìn quanh... bà không biết đây là đâu,

và tại sao mình nằm ở đây?

- Mẹ tỉnh rồi, con mừng quá! Ba không sao, xe mình bị xe người ta

tông vào, mẹ có nhớ không?

Minh Thu hốt hoảng như sực nhớ! Nàng mở to mắt nhìn con từ đầu

xuống chân, lập bập hỏi:

- Con có sao không? Ba thế nào, ổng đâu rồi?

- Con không sao cả mẹ à. Mẹ hãy bình tĩnh, ba không gì và được

đưa đi chụp hình chưn coi xương sóc có sao không?

Minh Thu đã nhớ và lấy lại bình tỉnh phần nào. Nhưng mắt bà luôn

nhìn ra cửa mong chờ chồng trở lại thấy mặt mới yên lòng. Nhưng bà

cảm thấy mình mẩy ê ẩm nặng chình chịch. Tứ chi rã rời, muốn giở chưn

lên nhưng không sao nhút nhích được. Tự nhiên dòng nước mắt chảy dài

xuống má. Thằng con lấy khăn giấy chậm nước mắt cho mẹ:

- Con xin lỗi mẹ. Ba người xe mình giờ không sao cả. Mọi việc xui

qua rồi ở năm cùng tháng hạn mẹ à... xin mẹ đừng buồn...

Minh Thu hỏi qua dòng lệ:

- Còn xe kia thế nào?

- Con không biết, nhưng họ đụng xe mình rồi xe họ bị lật ngược

văng vào lề bên kia... Con nghĩ rủi nhiều may ít cho những người trong xe

đó.

Minh Thu thở dài, bà lơ đãng đưa mắt nhìn quanh. Bệnh viện thưa

vắng người từ bịnh nhân cho đến nhân viên. Dù bịnh nhân nằm viện nhưng

họ cũng nhờ bác sĩ giúp đỡ thu xếp cho họ được về nhà những ngày lễ lớn

để xum họp với gia đình, trừ những bịnh nhân cấp cứu.

Nhân viên làm việc cuối tuần, lễ cũng ít hơn ngày thường. Về hành

chánh nhân viên các phòng hình như nghỉ hết nên không nhiều người tới lui

rộn ràng như những ngày thường. Chỉ có rải rác nhân viên chuyên môn, Y

tá, Bác sĩ... trực thôi.

Giường ông Sĩ Điền được đẩy trở lại kế giường vợ. Sau khi đi chụp

hình chân tay mà bác sĩ nghi ngờ xương của ông có thể bị xây xát... Minh

Thu rướm nước mắt hỏi chồng:

- Ông sao rồi, có gì không ông?

Để trấn an vợ:

- Có gì đâu, bà an tâm đi bộ xương già của tôi coi vậy mà chắc lắm.

Đi sau giường ông Điền là bác sĩ rất trẻ. Mang bảng tên Hưng. Ông

ta đang đứng xem hồ sơ của Sĩ Điền. Rồi ông lên tiếng bảo:

- Thưa bác, hai bác chịu khó tạm ở lại đây đêm nay. Sáng mai nếu

các thử nghiệm và hình ra không có gì thì hai bác về được. Và giờ bác gái,

chân tay không thấy gì, nhưng cũng phải đến phòng quang tuyến để chụp

hình cho chắc ăn nghe bác...

Minh Thu nhẹ chớp mắt gật đầu. Nãy giờ bà nhìn vị bác sĩ trẻ không

chớp mắt nhứt là nghe giọng phát âm tiếng Việt của ông rất rành rọt không

sai chạy một mảy may nào. Ông nói tiếng Việt giõi hơn đám con bà nhiều.

Các con bà đôi lúc chúng phát âm đỡ hơn các người Tàu Chợ lớn nói tiếng

Việt một chút thôi, hoặc chúng nói như nói ngọng!

Bỗng ông hỏi bà:

- Thưa bác sanh năm nào? Ở đâu? Và bác làm nghề gì...

Minh Thu uể oải trả lời:

- Tôi sanh năm... Ở Cần Thơ... Và làm Y tá ở bệnh viện Mỹ Tho...

Bác sĩ Hưng, bỗng châu đôi mày, cắn bút, nhìn bà Minh Thu. Ông

hỏi:

- Thưa bác, năm 1978 bác còn làm ở bịnh viện đó không?

- Có, ông nhà tôi đi cải tạo về, đến tháng 5 năm 1979 chúng tôi mới

vượt biên...

Ngày cận Giáng Sinh, theo lẽ bà Minh Thu theo chồng con về nhà.

Nhưng bà phải ở lại vì xương ống quyển bên phải của bà bị nứt và bắp thịt

ở đó bị sưng lên. Và bà ngã xỉu và hôn mê trong lúc ngồi ăn sáng...

Bác sĩ Hưng trưa về nhà tắm rửa, ăn qua loa và ngủ một chút thì lật

đật vào bịnh viện ngay. Thay vì ông được nghỉ ngày đó sau đêm trực vừa

qua.

Bà Minh Thu ốm ròm mà không biết sao bị cao máu, chất béo nhiều

trong mỡ. Và bị tiểu đường hết sức trầm trọng.

Hai gia đình người con ở xa về ăn Tết với cha mẹ. Năm nay họ thay

cha thay anh chăm sóc mẹ nằm bệnh viện suốt từ hôm gặp tai nạn cho đến

ngày Tết. Ngoài con và chồng bà Minh Thu săn sóc cho bà, người ta còn

thấy có cả bác sĩ Hưng luôn túc trực bên bà.

Bệnh viện vào những ngày lễ lớn như vậy thật sự ít bác sĩ. Nhưng

riêng bác sĩ Hưng luôn lẩn quẩn bên giường bịnh của bà Minh Thu... Ông

lo đủ mọi việc một cách tận tình chu đáo về trị liệu cho bà, mà khả năng

ông có thể làm được... Ông trực tiếp gọi bác sĩ chuyên môn hỏi thăm, theo

dõi về bịnh của bà... Ông nhờ những đồng nghiệp giúp đỡ bà trong phần

hành của họ.

Bà Minh Thu được chuyển qua nhiều phòng trị bịnh đặc biệt khác

nhau. Gia đình chuẩn bị tinh thần cho chuyện không may xảy đến cho bà

trong cơn bịnh ngặt nghèo kéo dài gần nửa tháng rồi.

Nhân viên trong bịnh viện thấy sự đôn đáo săn sóc, và quan tâm lo

lắng của bác sĩ Hưng về bịnh của bà Minh Thu, ai cũng tưởng bà là thân

nhân của ông. Còn gia đình của bà Minh Thu cảm ơn bác sĩ Hưng tận đáy

lòng về sự giúp đỡ tận tình mẹ và vợ của họ trong thời gian bà trị bịnh ở

đây. Riêng chồng bà Minh Thu nghĩ vợ ông có phước phần nên được bác sĩ

không quen biết mà giúp đỡ quá tận tình như vậy.

Hoa lá sau trước nhà đã bắt đầu nẩy mầm đâm đọt non. Gió ngoài

trời lành lạnh, nhưng cái lạnh dễ chịu của mùa xuân chớm về. Bầy én liệng

trên vòm trời trong, mây trắng, mây ửng hồng lang thang thướt tha bay theo

gió. Đàn bướm cỏ nhởn nhơ trên những nụ hoa vàng ngoài kia vùng đất bỏ

trống từ mấy năm nay, chủ đất để bán mà chưa thấy ai mua. Bỗng chuông

điện thoại reo vang, bà Thu chồm qua bàn lấy điện thoại:

- Hello, hello... xin hỏi nào vị bên kia đầu dây?

- Thưa bác có khỏe không, cháu Hưng đây bác.

Bà Minh Thu vui vẻ:

- Bác sĩ Hưng đó à? Cảm ơn cháu mấy hôm rày bác khỏe. Cháu

đang ở đâu mà gọi cho bác vậy?

- Cháu ghé qua thăm bác một chút có tiện không thưa bác? Vì trên

đường cháu qua bệnh viện làng bên trở về đi ngang nhà bác...

Bà Minh Thu vui vẻ:

- Hãy ghé qua chơi ăn cơm chiều luôn. Bác trai đi thăm thằng Út

mấy bữa mới vừa về. Ổng có mua chả mực, hào sống, chả tôm. Bác sẽ

nướng hào, chiên chả, hấp bánh hỏi để bác cháu cuốn bánh tráng rau sống

uống bia nghe. Thằng Hiếu Minh đi làm cũng sắp về tới rồi đó...

Nói xong, bà gác máy điện thoại. Lật đật lại tủ tìm gói bánh hỏi khô

ngâm nước đế hấp...

Bà làm sao mà quên được, hôm sửa soạn xuất viện để về với gia

đình, thì bác sĩ Hưng đến, tặng bà bình hoa đỗ quyên màu hồng phấn rất

đẹp. Con trai Hiếu Minh của họ cũng có mặt. Ông Sĩ Điền đở bình hoa trên

tay vợ, chân tình bảo:

- Suốt thời gian nhà tôi trị bịnh ở đây. Bác sĩ là người chăm sóc tận

tình nhứt để bịnh bà ổn định mà trở về với gia đình. Ơn đức nầy chúng tôi

không bao giờ quên...

Bác sĩ Hưng mỉm cười, rồi lễ phép trả lời:

- Dạ thưa hai bác, suốt cuộc đời nầy cháu cũng không bao giờ quên!

Vợ chồng ông Sĩ Điền và con trai lấy làm lạ và ngạc nhiên quá đỗi!

Cả ba người mở to mắt chờ nghe, vì bác sĩ Hưng nói đến đó rồi bỏ lửng!

Bác sĩ Hưng cười nhẹ tiếp:

- Thưa bác Minh Thu, bác còn nhớ nửa đêm năm đó bác ẫm con trai

bác từ bên phòng cấp cứu bệnh viện Mỹ Tho chạy băng qua lộ để đến trại

bịnh nhi đồng không? Cái năm mà dịch bịnh sốt xuất huyết lan tràn. Bác

còn nhớ không bác?

Hai cha con Hiếu Minh chưng hửng nhìn nhau! Còn bà Minh Thu thì

nét mặt đăm chịêu như cố nhớ lại thuở xa xưa. Rồi bà vỗ trán:

- À, tôi nhớ ra rồi. Năm đó ông xã tôi còn trong tù. Thằng con trai tôi

đây (bà chỉ Hiếu Minh) bị bịnh. Tôi ẵm nó vào nhà thương khám xong họ

nghi nó bị sốt xuất huyết bảo chờ xe chở qua phòng cấp cứu trẻ em...Nóng

lòng nên tôi xách hồ sơ ôm con chạy bộ. Vì từ phòng cấp cứu người lớn

qua phòng nhi đồng không xa lắm. Chỉ băng qua con đường Định Bộ Lĩnh

cắt bệnh viện và nhà bảo sanh. Lúc đó, khoa nhi nằm trong khu sản khoa,

chạy bộ một mạch là tới ngay. Lo sợ cuống cuồng cho con, tôi quên cả dép

giầy... Đến nơi làm thủ tục cho thằng nhỏ xong. Nghe chân rát định thần

nhìn xuống mới biết chân đạp phải đá sỏi, miểng chai... bị xây xát máu

chảy tùm lum. Giờ nhớ lại còn phát sợ! Vậy mà đã hơn 30 năm rồi! Thiệt

thời gian qua mau quá!

Bà Minh Thu hơi lấy làm lạ, nhìn bác sĩ Hưng rồi chẫm rãi:

- Ờ mà sao bác sĩ biết vậy?

Vợ chồng bà Minh Thu và đứa con trai đang chuẩn bị sẵn sàng đồ

đạc để ra xe về nhà. Nhưng giờ không ai còn hối thúc nhau mau lẹ như hồi

mới đến nữa. Mà họ cùng hướng mắt nhìn về phía bác sĩ Hưng chờ đợi trả

lời.

Bác sĩ Hưng có dáng người cao ráo. Ốm nhưng hồng hào khỏe

mạnh, nước da không trắng lắm cũng không đen. Tóc hớt ngắn, vầng trán

cao, mày rậm, mi cong, mắt to nhưng lúc nào cũng như vương vướng u

buồn. Cho dù ông ta đang vui vẻ cũng vậy. Miệng vừa tầm, khi cười rất có

duyên để lộ hàm răng trắng đều, được nằm trên khuông mặt chữ điền.

Ông chớp chớp làn mi, mắt buồn buồn nhìn ra cửa sổ như hình dung

lại những gì của một thời đã qua. Ngoài trời nắng lụa lung linh trải trên cây

cỏ, gió hiu hiu. Bầu trời một màu xanh trong như bích ngọc, điểm lác đác

vài cụm mây trắng mỏng.

Bà Minh Thu sốt ruột hỏi nhỏ như nhắc khéo:

- Sao bác sĩ biết việc xa xưa của tui? Chớp mắt đã mấy mươi năm

rồi. Nếu không có một vật gì đó, một cảnh gợi ý nào đó... thì tôi quên

bẵng đi mất. Nay bất chợt bác sĩ hỏi... khiến tôi bàng hoàng như vừa tỉnh

cơn mơ. và những chuyện ngày xưa lại ào ạt trở về trong hồi tưởng của

tôi. Thiệt tội nghiệp quê hương của chúng ta chinh chiến triền miên. Cũng

tại bọn tay sai của Cộng sản cả... Cho nên dân tình khổ sở lầm than... Tình

thế hơn sức người nên khó thay đổi được! Cuộc nội chiến Quốc Cộng trên

quê hương ta thật quá tàn khốc! Biết bao nhiêu sinh mạng con người phải

hy sinh...

Ông Sĩ Điền nghiêm mặt:

- Khó thay đổi được, người dân phải xả thân vì nước không đổ lỗi

cho tình thế. Nam nhi trượng phu thời Cộng Hòa thẳng ngay, nên họ chết

vì đất nước, máu chảy đỏ trên sa trường! Đó là những người anh hùng của

Miền Nam, của đất nước chúng ta...

Bà Minh Thu thở dài, mắt u buồn:

- Sau những ngày tháng giặc tràn vào gia đình tôi khổ lắm! Tôi làm

ở bệnh viện một tháng lãnh chỉ có mười mấy ký gạo (nhà nước bảo phải

thắt lưng buộc bụng). Lúc đó dân miền Nam xác xơ... má tôi đột ngột qua

đời sau lần đổi tiền lần thứ nhứt! Chồng tù tội, con trai trong cơn bịnh

hiểm nghèo... Nhà thiếu trước hụt sau đói khát thường xuyên... Đồ đạc tư

trang bán lần bán hồi để sống và thăm nuôi ổng...

- Mẹ, chuyện xưa quá rồi thôi bỏ đi. Nhờ Ơn Trên không phải giờ

gia đình mình yên ổn lắm rồi sao.

Hiếu Minh lên tiếng ngầm khuyên đi về. Vì cậu ta sợ mẹ mủi lòng

khóc, và nghĩ ngợi nhiều đến chuyện buồn xưa mệt nữa thì phiền lắm.

Bỗng bác sĩ Hưng nắm chặt lấy hai bàn tay của bà Thu Minh, xúc cảm:

- Bác thật sự không nhớ cháu sao? Cháu là thằng bé lúc đó khoảng 7

tuổi, ôm manh mền rách, chạy lúp xúp theo bác qua trại nhi đồng đó. Bác

nhớ chưa?

Bà Minh Thu khựng lại! Mắt nhìn trời xa qua cửa sổ... Rồi bà quay

lại nhìn chầm chập bác sĩ Hưng. Nhưng rồi bà lắc đầu:

- Tôi thật sự không nhớ, bộ có vậy sao? Lúc đó khi biết Hiếu Minh

nghi bị sốt xuất huyết, tôi đã điếng hồn rồi thì còn tâm trí đâu mà biết đến

những chuyện chung quanh...

- Cháu là đứa con mới ra đời bị bỏ rơi! Nhờ vào từ tâm của các bà

phước lượm về nuôi. Nên cháu sống ở cô nhi viện từ bé. Khi giặc vào, cô

nhi viện không còn nguồn tài trợ nào để giúp đỡ. Nên bọn cô nhi lớn như

chúng cháu tản lạc khắp nơi để kiếm sống... Có đứa đi xin, có đứa đi bươi

rác, ở lang thang nơi gầm cầu, bến xe, nhà lồng chợ... Chờ người ta ăn rồi

thì ăn đồ còn lại... Một ngày kia cháu bị bịnh vất vưởng không thuốc men

chi cả. Cháu đi lần vào nhà thương thí và té trước cửa bịnh viện. Nhờ có

mấy người y tá thương tình cho thuốc men và vào nằm bịnh viện. Họ bảo

cháu ngồi chờ xe đưa qua bênh trại bịnh trẻ em. Thấy bác ôm con chạy đi,

bà y tá bảo cháu chạy theo để qua bển. Cháu có biết gì đâu, không có một

mảnh giấy lộn trong người, nên bà y công chỉ vào phòng trống nằm ngủ...

Cháu đói quá, đói muốn ngất xỉu! Nếu lúc đó chết có lẽ cháu chết vì đói

chớ không phải chết vì bịnh!

Vợ chồng Minh Thu và thằng con quên về, chăm chú lắng nghe. Bác

sĩ Hưng, giọng đều đều kể tiếp:

- Sáng hôm sau khi tỉnh lại, cháu thấy giường bên có em nhỏ đang

nằm ngủ với dáng điệu mệt nhọc như đang bị sốt. Chừng 5 phút sau, cánh

cửa phòng bật mở, người y tá ăn mặc chỉnh tề bước vào với xách tay nào

nước lọc, nào bình thủy... Bà liếc nhìn cháu rồi bước thẳng đến giường

em bé kia. Cháu nằm xoay người vào tường mà nghe hết những lời ngọt

ngào, khuyến dụ, trìu mến của bà mẹ khuyên bảo con uống thuốc, uống

nước... Lúc đó cháu mới biết: Thì ra bà y tá đang làm việc ở bệnh viện

và em bé nầy là con trai bà. Cháu len lén nhìn thấy bà rót trong bình thủy

ra. Mùi thơm của cháo nóng bay tỏa căn phòng. Bà y tá nói với con: "Con

còn yếu lắm. Bác sĩ bảo chỉ uống được nước cháo thôi. Vì nếu ăn vật cứng

vào sẽ làm hại đến ruột và nguy hiểm lắm. Nên cháo nầy mẹ nấu thật nhừ,

rồi nghiền cho nhuyễn. Dùng vải thưa lược cho hết lợn cợn của cháo. Mẹ

chỉ lấy nước cho con uống đỡ. Con chịu khó uống nghe con! Khi hết bịnh về

nhà, mẹ nấu cơm kho cá, kho thịt cho con ăn..." Thằng bé ậm ự rồi uống

chén nước cháo! Sau đó bà nhúng nước khăn lau mặt, lau tay cho con. Cháu

thật sự thèm muốn cử chỉ dịu dàng trìu mến đó của bà, của một người mẹ!

Bỗng bà y tá xoay qua cháu, rồi bà hỏi: "Cháu nằm trị bịnh hả, có biết bịnh

gì không? Nằm ở đây chắc là cũng bị bịnh như con của bác rồi. Nhà cháu

có ở gần đây không..." Lúc đó cháu mủi lòng rướm nước mắt, nghĩ đến

phận mình và ước mong có mẹ săn sóc như bà y tá săn sóc con mình. Cháu

không nói gì chỉ gật và lắc đầu trả lời bà thôi. Cơn đói lại hoành hành bào

bọt cái bao tử của cháu không chịu được! Cháu phải kéo vội mảnh mền

tả tơi dẻo nhẹo nhét đè vào bụng, ép và co thúc chân lại cho qua cơn đói.

Không biết bà y tá có thấy không? Nhưng bà bưng qua chén nước cháo mà

bà trút hết từ bình thủy ra. Bà nhẹ tay đỡ đầu cháu lên, kề vào miệng cho

cháu uống hết nửa chén nước cháo...

Nói đến đó, bác sĩ Hưng sụp xuống bên bà Minh Thu đang ngồi,

dáng điệu ông như đứa trẻ đang quỳ bên mẹ. Ông lạc giọng:

- Sáng hôm sau cháu bỏ bệnh viện tìm về lại bến đò nơi tụ tập

những đứa trẻ không nhà như cháu. Và như có sự an bài của Ơn Trên, vào

ngày nọ giữa đêm tối, cháu thấy nhiều người xuống chiếc ghe, cháu cũng

chạy theo... Phật Trời hộ độ đưa đẫy cháu yên bình đến bến bờ tự do.

"Nửa chén nước cháo của bác cho, mãi ở trong lòng cháu và nó đã nung

đúc tinh thần cháu trong lúc cháu gặp khó khăn hoặc yếu đuối nhứt... Cũng

nhờ nửa chén nước cháo của bác mà cháu mới có ngày hôm nay... Cháu

luôn cầu nguyện ước mong được gặp lại bác dù chỉ một lần..."

Bà Minh Thu bắc nồi nước lên bếp chờ sôi để hấp bánh hỏi. Mắt

nhìn qua cửa sổ. Xa xa dạng rặng đồi chạy dài phía sau nhà. Bầy chim lông

đen đang bay lượn trên không gian. Gió thu lành lạnh hắt hiu đong đưa

cành lệ liễu trước cổng nhà. Bầu trời xám đục như hạ thấp, nắng hoàng

hôn ửng vầng mây tím, xanh, lam hồng, vàng nhạt... nhàn hạ lững thững

bay bay.

Nghe tiếng xe, ông Sĩ Điền dừng tay cắt tỉa bỏ những bông hoa héo

những nhánh gảy trên mấy bụi hồng trước sân. Quay nhìn phía cổng vào,

ông cười tươi ra mở cửa cho hai chiếc xe của hai thằng con trai Hưng và

Minh quẹo vào nhà... Bởi sau lần tai nạn vào nằm bệnh viện, rồi các bịnh

khác tới tấp đến với bà Minh Thu vợ ông. Ai cũng tưởng bà gần đất xa

trời! Nhưng có lẽ nợ trần còn vương vấn bà khỏe mạnh trở về nhà.

Để mùa Giáng Sinh năm nay, gia đình của ông bà Sĩ Điền, Minh

Thu có thêm thằng con trai nữa! Nơi xứ lạ quê người giàu vật chất, thiếu

thốn chút nghĩa tình! Nhưng "Nửa Chén Nước Cháo" năm nào, vào mùa

Giáng Sinh năm trước đã dẫn dắt đưa đẩy, để bác sĩ Hưng giờ đây có được

cha mẹ, các em... Anh hưởng hạnh phúc ấm êm của gia đình, như những

người may mắn sanh ra trên thế gian nhiều hệ lụy nầy.

Cháo Cóc

Tác giả: Vũ Bằng

,

Mùa này, vào những buổi chiều sẫm tối có cơn dông, tôi vẫn thường nhớ đến một căn nhà thấp ở phố Hàng Gai, Hà-nội, quanh năm ẩm thấp, hễ có mưa rào thì nước dâng lên mấp mé chân giường. Nhà ấy là nhà của cụ tôi, sau để lại cho thầy mẹ tôị Có lẽ vì sợ làm mếch lòng các cụ, thầy tôi không dám sửa lại, thành thử mỗi khi mưa thì nhà dột đất ẩm, nửa đêm chợt tỉnh giấc nồng, cứ nghe ồm ộp bên tai tiếng cóc nhái kêu gào như thể mình đương nằm giữa cánh đồng: ghét quá! Tôi còn nhớ có đêm, mất ngủ, tôi lén thức dậy thắp một cây nến nhỏ đi soi ở dưới gậm giường, bắt cóc, đem hành phạt. Mẹ tôi mắng: ÕBắt nó phải thì tội chếtỎ. Và mẹ tôi lại bảo: ÕMình nó có nhựa, chạm phải, hóa hủi, không thể nào chữa đượcỎ. ÕCon cóc là cậu ông trời, Hễ ai đánh cóc thì trời đánh choỎ. Từ đó, tôi không dám đánh cóc, giết cóc nữạ Và cũng từ đó, tôi yên trí rằng nhựa cóc sẽ sinh bệnh hủi cho mãi tới bây giờ... để thú thực rằng tôi đã ngạc nhiên và kinh sợ hết sức khi thấy có người ở đây ăn cháo cóc Cóc ai mà lại còn không biết nó? Xấu đến thế là cùng! Nó nặng nề, ì ạch, lúc nào cũng ngồi chồm hỗm, mắt cứ giương ra trừng trừng, mà da thì đen mai mái, lại sù sì, tởm quá. Nhìn bát cháo cóc mà tưởng tượng lại cái thân hình như thế, thực tôi không hiểu sao người ta có thể ăn uống Õlẩm cẩmỎ như thế được... Nhưng đến khi liều chết, húp thử vài miếng xem sao thì mình cũng thấy nó có một hương vị lạ, ngon ngọt, thơm thơm, man mát như thể thịt có ướp hoa bưởi vậỵ Thử cho mà biết như thế cũng haỵ Có một thuở nào xa xưa lắm rồi, tôi đã ở trong rừng với người Chàm, lấy lá đu đủ nấu canh, ăn ốc ma leo ở hàng rào ẩm cả tháng mà không làm sao hết, trái lại vẫn cứ ngon... Có người sống hàng năm trong rừng ăn kiến, ăn gián còn ghê hơn tôi, mà có làm sao đâủ Còn ở tỉnh thành, ai mà không ăn ốc nhồi, ốc vặn, ai mà lại không ăn rươi, ăn ếch? Thế thì tại sao không thể bắt con chằng hiu nhắm rượu chơi, nướng con dế cơm lên lửa ăn với củ lạc rang và rửa con cóc cho sạch nhớt, lột da, chặt đầu nấu cháỏ ếch và cóc cùng thuộc loài Õlưỡng thể động vậtỎ.

Người Tây phương ăn ếch chiên, ếch xào lăn với hành và nuôi ếch Õto thế này nàyỎ đóng hộp để xuất cảng thì nghĩ cho kỹ, cóc cũng chỉ thế mà thôị Người ta sợ ăn cóc chỉ vì có thành kiến về da nó, nhưng có ai đã được xem làm một mẻ cóc rồi mới biết Õtắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranhỎ, thịt ếch cũng chẳng hơn gì thịt cóc. Cho tới bây giờ chưa có một ai bảo cho tôi biết da cóc có truyền bệnh hủi đích thực hay không, những trông một mẻ cóc chặt đầu, lột da rồi, để trên thớt chờ làm thịt, ta thấy thịt cóc hấp dẫn như thịt Õba dọiỎ vậỵ Thịt ấy màu trắng ngà, thớ nhỏ, đanh mà ráo rẻ đáo để. Thử tượng tượng để cho khô nước, chiên hành tỏi cho dậy mùi rồi bỏ thịt cóc vào mà xào, cái thơm tho tiết ra trong không khí quyễn rũ khứu giác của người ta biết chừng nào! Ông nào nhậu, chờ cho thịt chín vàng, xúc ra đĩa, gia thêm sả, hạt tiêu, ớt vào mà nhắm nhót có thể thấy thích thú hơn ăn thịt gà mái tợ Thịt dê dai lắm, mà thịt thỏ thì xác quá, không thể đem ra so sánh được với thịt cóc, mềm, mà nhai sừn sựt, ngọt nhưng ý vị, đậm đà, chớ không trơ trẽn như thịt ngan, thịt ngỗng. ÕBẩm các cụ, chúng tôi xin lỗi, chớ ăn cóc như thế này, ngon nhất món gì?Ỏ Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người sành ăn ở đây thì cóc ăm sướng nhất là món cháọ

Thịt cóc luộc với cháo, ăn thanh cảnh mà không ngấỵ Nhưng phần đông thích ăn cháo với thịt cóc xàọ Ăn kiểu này, cũng như Õcập tầyỎ hay Õkê ạp chúcỎ, nghĩa là để cháo với thịt riêng ra, duy khác một chút là cá thì để tái, gà thì luộc Õlòng đàoỎ, còn cóc thì xào lên trước. Lúc ăn, trút thịt cóc vào cháo, quậy lên. Ai ăn được màđầu, rẩy một chút lên cho thêm thơm, thêm béo; nhưng nếu không có thì cũng chẳng sao, bởi vì riêng thịt cóc, cũng đã thơm và ngọt lắm rồị Vừa húp, vừa ngẫm nghĩ, ta có cảm giác cái thơm, ngọt đó tựa như cái thơm ngọt của tôm he và bào ngư hòa hợp với nhau để tạo thành một Õlực lượng thơm thứ baỎ vừa lành vừa mát. Thực thế, nhiều người bảo tôi rằng cháo cóc mát lắm, trẻ con, người lớn ăn vào giải nhiệt; hơn thế có ông lại bảo nó trừ được cả một vài chứng kinh, sũng và chứng khóc Õdạ đềỎ của trẻ mới sinh - chẳng biết có đúng hay không? Nói thì nghe sướng lắm, nhưng bởi mình mới Õtập sựỎ ăn cháo cóc nên vẫn cứ thấy rờn rợn, sợ một cái gì... Thì ra là mình sợ chết. Chớ saỏ Đọc báo hàng ngày, người ta há chẳng thấy đôi khi có đăng tin ăn thịt cóc chết người là gì đấỷ! Một ông bạn bảo tôi:

- Có thế thực, ăn cóc có khi chết người, nhưng chết là tại người ta làm lòng không kỹ.

Lúc làm cóc cần nhất là phải sạch, đừng để cho dập mật, đừng để cho sót trứng vì nếu trứng cóc làm không kỹ, nó dính vào mỡ, ăn vào dễ chết như chơị Mật lấy không hết cũng vậỵ Người ta bảo rằng một nồi cháo cóc mà để xót mươi cái rứng ăn vào chỉ nửa tiếng đồng hồ thấy xây xẩm mày mặt lại, quỵ luôn. Các ông già, bà cả lại còn nói rằng thịt cóc tối kỵ củi cà và khoai mì. Nấu thịt cóc với rõ cây cà ti m phơi khô hay ăn thịt cóc lẫn với khoai mỳ cũng độc lắm, dễ chết ngườị Nghe thấy mà bắt ớn! Song le những người ưa thưởng thức món ăn ngon khôn g vì thế mà chịu thôi thịt cóc. ờ phải, cứ vào vụ mưa này đây, có ai về chơi thăm những vùng quê Cái-bè, Cần-giuộc, ở lại nghỉ đêm ở Tân-phước hay Chợ Gạo mới thấy người ta ham bắt cóc ăn đến chừng nàọ Mấy thằng nhỏ cởi trần trùng trục, đóng khố, lội mưa, xách một cái đèn đi lùi lũi vào vườn nhà người ta rón rén tìm đến chỗ cóc kêu lấy xiên xiên từng con hoặc nằm xoài ra để chộp cho vào trong một cái giỏ đeo ở bên sườn. Nhưng đấy chỉ là những tốp người lẻ tẻ đi bắt cóc vô tổ chức. Muốn hiểu thế nào là bắt cóc Õchân chínhỎ, ta phải đi ra ngoài, đi quan sát dưới trời mưa, ở ruộng, hay dọc một con đệ Hoàng hôn vừa lả xuống trên nội cỏ, đồng cây từ Laođung qua Trà-bến, từ Long-thành đến Lái-an từ Cồn-lát đổ về, từ bờ sông cái vọng sang, tiếng cóc ì à ì ộp liên thanh bất chỉ như một bản nhạc thô kệch nhưng xúc tích hương cau, mùi lúạ Từng nhóm người bận áo đen quần cụt, lầm lầm lũi lũi đi ở trên bờ ruộng, vểnh tai lên nghe xem tiếng nhạc cóc từ nơi nào vọng rạ Chỉ một giây, họ biết ngay nơi cóc ÕhộiỎ. Thường thường, đó là một cái gò cỏ rậm hoặc một lu đất bên cạnh những vũng nước dợ Chiếu một ánh đèn vào đó mà coi: chúng Õbắt cặpỎ với nhau kỹ lắm; ánh đèn vừa chiếu vào, léo mắt, cặp nào cặp nấy nhảy đì đà đì đạch, nhưng cấm có cặp nào chịu rời nhaụ Một cuộc bố ráp diễn ra, làm cho kẻ bàng quanh tưởng tượng như mình đương chứng kiến một cuộc bố ráp ở Chuồng Chó hay Ngã ba chú íạ Mười cặp thì cả mười bị tóm! Người Õchuyên viênỎ thong thả giơ từng cặp bắt được, đưa lên ánh đèn dầu để coi nở một nụ cười khoái trá khi bắt được cặp cóc đen và mập. Cái giống cóc bụng đỏ là cóc bệnh, ăn chẳng ra cái chết gì, chỉ để dành trong nhà ăn với nhau, chớ không bán được tiền.Cóc được ưa chuộng phải là cóc ÕbựỎ, có nhiều ÕmụtỎ đen ở trên lưng, chân ÕnoỎ mà sáng. Người ta cho tất cả vào trong một cái vó tre hay thùng thiếc đem về, lột da rồi đưa ra chợ. Các chợ Sài-gòn, Phú-nhuận, Ngã ba ông Tạ... thường vẫn bán cóc cho người thủ đô mua xàị Hỡi cô Hai, cô Ba, Cô Sáu, cô Bảỵ.. cô Chín, cô Mười ơi! Gà nhúng hèm, ăn mãi bứ; chạo tôm, gỏi sứa, bì cuốn, dùng luôn cũng ngán! Hôm nào thử ra chợ mua một mẻ cóc về làm vài món ăn chơi, các cô sẽ thấy chồng bớt khó tính đi, và các ông sẽ vừa thưởng thức miếng ngon vừa kể những câu chuyện hay hay đáo để:

- Em có biết tại sao về cữ mưa này, người ta bắt được nhiều cóc không?

Nguyên giống cóc, cũng như giống ếch nhái, là một loại động vật vùa nước mà vừa cạn. ÕCái trứng nở ra như mộ thứ ấu trùng, có mang để thở, ở dưới nước như loài cá. ít lâu sau, mang nó rụng đi, chân mọc ra, đồng thời cái đuôi mất nốt. ÕCứ vào cữ mưa thì cóc dưới nước lên trên bờ ở, nhưng cũng chính vào lúc đó, những cóc dậy thì, cũng như các cóc nạ giòng, lớn tuổi nằm trong những đồng ruộng đầy sao rụng, mơ chuyện â tình, thi nhau làm công việc truyền tử nhươc tôn. ÕNhững tiếng kêu oai oái, có lúc như đau đớn, có lúc như thở dài, có lúc như rên rú, có lúc như nhõng nhẽo, chính là tiếng nói của tình yêu đấy, em thương ạ! ÕVậy mà, tội nghiệp, đang lúc cóc mến thương trao nhịp thở chung tình với nahu trong đêm xanh mát rượi thì loài người từ khắp nơi đổ đến, vơ cả lũ rồi ném cả vào thùng. Hú vía! Có con sây sát cả mình; có con gãy đùi, sứt trán; lại có cặp bị dứt ngang ra, nhưng đa tình thay là giống cóc! Bị sa cơ đến như thế, cặp nào cặp nấy vẫn không chịu rời nhau, nhất thiết khắng khít cho đến chết. ÕYêu là chết ở trong lòng một ítỎ có phải nhà thi sĩ đã viết như thế phải không, em? Với loài cóc, yêu là chết thực sự, chết đứ đừ, chết Õtoàn diệnỎ, chết giẫy lên đành đạchỎ; nhưng không hề gì, ở trong thùng, trong vó chùng vẫn Õsong caÒ bản nhạc mê lỵ Vì thế, đừng tưởng ăn thế này là chỉ ăn thịt cóc mà thôi, nhưng chính là ta ăn hương thơm đồng ruộng, ăn... những bản nhạc dân ca, ăn... bao nhiêu cuộc ân tình ra rít? vào lòng...Ỏ Người chồng nói tới đó, đưa mắt nhìn vợ, thì thấy long lanh cặp mắt lá khoai, hồng lên đôi má mịn màng... Đêm ấy, bên chùm dạ lý hương, hai mái đầu

xanh sát lạị.. Đâu đây, có mùi hoa bưởi thơm thơm...

CHÁO CÁ CHÉP

I

Gã Lê Thành Thiện năm nay đã gần bốn mươi tuổi xuân. Đi sớm về trễ, lủi thủi một mình, chẳng ai đoái hoài, vì lẽ Lê Thành Thiện chưa có vợ, lại mồ côi. Gã nhỏ con, mặt choắt, tánh ích kỷ và hiểm độc. Nghe hàng xóm kể rằng trước đây Lê Thành Thiện có quen một cô gái hiền, ngoan. Chuyện tình chưa tới đâu, gã đã hỏi mượn cô gái sợi giây chuyền với lý do gã cần có tiền để đi chữa bệnh. Cô gái về kể lại với cha mẹ. Thế là gia đình cô gái cấm cửa gã. Mảnh tình vắt vai của gã cũng chẳng còn từ ngày đó. Khổ một nỗi, hiện nay cô gái lại là vợ của thằng Nguyễn văn Nhân, một thanh niên hiền lành chất phác. Nguyễn văn Nhân có ao thả cá, lại còn chạy xe ba bánh chở khoai, sắn, lúa, gạo cho bà con trong xóm kiếm thêm. Nguyễn văn Nhân chỉ lấy tiền công rẻ mạt, giúp đỡ cho chòm xóm. Mọi người vì thế rất quý mến Văn Nhân.

Giữa Thành Thiện và Văn Nhân là hai thái cực. Một tốt, một xấu. Một già, một trẻ, vì Văn Nhân mới tròn ba mươi tuổi, còn Thành Thiện thì đã gần bốn mươi.

Gã Lê Thành Thiện về ở chỗ này được mấy tuần, thì phát hiện ra vợ chồng của Nguyễn văn Nhân và Bùi thị Hiền là hàng xóm của mình. Thành Thiện ngồi thừ trên võng, mắc giữa hai cây cột ở hiên nhà bà Sáu Mẫn, cô ruột của Thành Thiện. Gã suy nghĩ : "Không ngờ con Bùi thị Hiền lại về đây ở. Nó lại là vợ cái thằng khờ Nguyễn văn Nhân".

Gả Thành Thiện lắc đầu cười một mình. Gã lẩm bẩm : "Con điên lấy thằng khờ là phải đạo rồi". Để đấy, tao sẽ theo dõi tụi bay và cho tụi bay biết thằng Lê Thành Thiện này là thằng nào". Tỏ ra đắc ý với nhận xét này, gã Lê Thành Thiện mỉm cười một mình.

II

Lê Thành Thiện về ở giữ nhà cho bà cô ruột gã là bà Sáu Mẫn. Thấy cha mẹ Thiện chết sớm, bà thương hại, giúp đỡ Thiện, nuôi ăn. Nhờ gã trông nhà, mỗi tháng cho gã mấy trăm để uống cà phê.

Mấy hôm nay, gã Thành Thiện mượn ở đâu được cái ống dòm đã cũ Thành Thiện núp sau bụi chuối nhà bà cô ruột Sáu Mẫn, gã nhìn ốn dòm chĩa về phía sân nhà Nguyễn văn Nhân và Bùi thị Hiền. Gương mặt hắn giãn ra, tỏ vẻ căng thẳng. Cái mồm chu chu của hắn dẩu ra như mõm con khỉ chó mặt xanh.

Phía bên nhà tình địch đã lấy được bồ cũ của hắn là cô Bùi thì Hiền, gã Nguyễn văn Nhân đang ở trần. Gã ngồi trên cái ghế đã cũ, đang ăn chuối. Bùi thị Hiền đang dùng nón quạt phe phẩy, vừa nói chuyện với chồng. Gã Lê Thành Thiện giận sôi lên. Gã nói một mình như thằng điên : "Coi kìa, bọn khốn nạn ra vẻ hạnh phúc lắm. Một đứa ăn chuối, đứa kia nói chuyện, cười cười. Ra cái điều một mái nhà tranh, một ao cá và hai trái tim vàng ! Tao sẽ cho tụi bay điêu đứng với hạnh phúc của tụi bay. Con kia đáng lẽ là vợ tao mới phải đạo !?"

Nói lảm nhảm một mình xong, Lê Thành Thiện vào nhà, nằm vật trên cái giường tre. Gã suy nghĩ cách phá hạnh phúc của vợ chồng Nguyễn văn Nhân và Bùi thị Hiền.

III

Tối hôm đó trăng mờ, gió nhẹ trời lất phất mưa. Lê Thành Thiện mang hai cần câu đi câu trộm cá chép ở ao nhà vợ chồng Nhân và Hiền. Trộm mấy con cá chép về ăn thì cũng chẳng có gì đáng nói. Lê Thành Thiện còn xách theo một thùng lớn thức ăn cho cá, có trộn thuốc trừ sâu. Lê Thành Thiện câu được hai con cá chép lớn, vảy sáng, ria mép cá vàng hoe. Gã bỏ vào cái giỏ cá. Xong xuôi, Thành Thiện đổ ụp thùng thức ăn có thuốc trừ sâu xuống ao cá nhà vợ chồng Nhân và Hiền.

Lê Thành Thiện lò mò dưới ánh trăng mờ về nhà. Xa xa có tiếng chó sủa vu vơ. Gã Thành Thiện đã thi hành xong một quỷ kế. Đi xuyên qua vườn chuối vào nhà, gã Thiện vội xuống bếp làm cá. Gã nấu nồi cháo cá rất ngon. Một mình gã ngồi ăn và uống hết một xị rượu trắng Gò Đen gã mua hồi chiều. Gã nằm vật ra bếp và ngủ thiếp đi.

IV

Mới 5 giờ sáng, nghe tiếng kêu của bà Sáu Mẫn, vợ chồng Nguyễn văn Nhân, Bùi thị Hiền vội chạy sang. Lê Thành Thiện nằm sóng sượt, miệng sùi bọt mép. Bà Sáu Mẫn vừa thở vừa nói : "Có lẽ nó trúng gió. Tối qua nó có uống rượu và ăn cháo cá."

Nhân và Hiền vội vã khiêng Thành Thiện đặt lên xe ba bánh. Nguyễn văn Nhân nói với vợ : - "Lẹ lên em, may ra bệnh viện cứu được anh ta"

Hai vợ chồng Nhân và bà Sáu Mẫn bỏ cả công việc, đứng chờ ở bệnh viện quận tới 8 giờ sáng. Thì Nhân tỉnh lại. Gã mở cặp mắt ti hí nhìn mọi người. Ánh mắt ngạc nhiên lộ rõ trên khuôn mặt choắt của Lê Thành Thiện.

- Ủa ! Cô Sáu đấy à ?

Gã liếc về phía vợ chồng Nhân, gã có vẻ thảng thốt :

- Ai vậy cà ?

Bà Sáu Mẫn vội nói :

- Vợ chồng cháu Nhân và Hiền, hàng xóm nhà mình. Nhờ có các em nó mới cứu được mạng sống của cháu đó. Cháu cám ơn hai người đi.

Nhân xua tay :

- Anh Thành Thiện cứ nằm yên, để vợ chồng em về bắt cá chép nấu cháo cho anh ăn. Cá nhà em mai là thu hoạch rồi.

Lê Thành Thiện nghe nói cháo cá và bắt cá đã ăn thuốc trừ sâu, gã ú ớ. Gã sợ ăn phải cá có thuốc trừ sâu, gã lắc đầu quầy quậy. Tay gã xua xua như một thằng điên. Tay chân gã đập đùng đùng lên chiếc giường sắt của bệnh viện. Không rõ có phải gã Lê Thành Thiện đã ân hận vì gã đã "làm hại" vợ chồng Nhân và Hiền, hai người vừa cứu sống gã sáng nay ?!

• Cô hàng cháo cá lóc - Nguyễn Ngọc Chụ

1.

Cổng ngôi biệt thự ấy vào loại đẹp nhất phố. Hai cột cổng xây tròn, đỡ một mái bằng đúc bê tông chìa ra vỉa hè rộng đến mức mấy chục người có thể trú mưa, trú nắng cùng một lúc. Trên mái rủ đều xuống những chùm hoa đăng tiêu, mùa hè nở đỏ như chùm lửa. Hai cánh cổng sắt sơn màu xanh da trời, trang trí những họa tiết hình hoa loa kèn cứng cỏi và những chiếc lá dài uốn lượn một cách mềm mại. Suốt ngày, hai cánh cổng đóng im ỉm, chỉ hé mở khi những người chủ ngôi nhà có việc, phải dắt xe máy lách ra. Nghịch cảnh với chiếc cổng rất "tây" ấy là một hàng cháo gánh bán trước cổng. Mỗi sáng, vào lúc phía đông vừa hừng lên những áng mây hồng, bà chủ gánh hàng đã móc một cái bảng bằng sắt tây, đề chữ: "Cháo cá lóc kính mời" lên cánh cổng. Sau khi treo biển hiệu, bà hàng nhanh tay dàn khoảng chục chiếc ghế con ra khắp mặt cổng. Khách ăn hàng mỗi lúc một đông, vào lúc đông nhất có tới mười lăm người, thiếu ghế, có người phải ngồi xổm nhưng ai cũng vui vẻ và vừa lòng. Những bát cháo cá nóng hổi, bốc hơi nghi ngút, người nào người nấy phải vừa ăn, vừa thổi. Mùi cháo cá thơm lừng, cái mùi thơm gây cho ta cảm giác có vị ngọt ngào của đồng nội. Người "nghiện" cháo cá vừa nghĩ tới đã tứa nước miếng. Khách hàng phần lớn là người lao động có tuổi. Họ là những bác đạp xích lô, những bà, những cô bán rong, những cụ già ngồi trông nhà, thỉnh thoảng có vài cô nữ sinh khuân ghế ra một chỗ cách biệt, vừa ăn vừa cười nói ồn ã. Cách đây một tháng, khi chủ gánh hàng là một cô gái trẻ thì đã thấy lác đác có thêm những chàng thanh niên áo sơ-mi đóng trong quần âu, chân diện giày da, đến ngồi xổm, húp cháo cá lóc, nhưng mắt thì dán vào thân hình nở nang của cô bán hàng. Ăn một bát cháo mà có chàng ngồi lì đến nửa tiếng đồng hồ. Mà cô hàng đẹp thật, càng nhìn lâu càng phát hiện thêm những nét duyên dáng thâm kín của cô.

"Cô bé này cương nghị lắm, khó mà "cưa" đổ!" - Một chàng sáng nào cũng ngồi lì đến nửa tiếng nhận định như vậy. Còn các bà, các cô ăn quen thì bảo: "Cô bé bán hàng có duyên thật, chẳng để mất lòng ai" và ngày nào họ cũng hỏi thăm:

- Má cháu đâu mà cháu phải đi bán hàng?

- Má con bệnh.

- Bệnh gì? Có nặng lắm không?

- Bệnh liệt, nên con phải ngồi hàng thay má con lâu dài.

Thấy đôi mắt cô rớm lệ nên không ai hỏi thêm nữa.

Trước đây, má cô ngồi hàng, đã thành nếp, cứ bảy giờ ba mươi là vãn khách và hàng cũng vừa hết, trong nồi chỉ còn một bát cháo "gốc". Khi đó, cánh cổng sắt hé mở, chiếc xe Dream bóng loáng và cậu chủ quần áo thẳng nếp cũng vừa lách ra là má cất lời đon đả:

- Mời cậu xơi cháo ạ!

Cũng đã thành lệ, cậu chủ không bao giờ ngoảnh lại nhìn và cũng không bao giờ trả lời, mà nhảy lên xe, mắt nhìn thẳng, khởi động máy và phóng vút đi. Từ ngày cô gái ngồi bán hàng thì cái nếp ấy xem ra ngày một xộc xệch. Khi cánh cổng hé mở, đầu chiếc xe Dream thò ra, hàng của cô tuy cũng chỉ còn bát cháo "gốc", nhưng khách "ngồi lì" vẫn còn hai ba người, cô chưa kịp thu dọn những chiếc ghế con nằm rải rác ở khắp cổng vướng đường xe ra, thế là cậu chủ cáu. Cô bán hàng phải làm vẻ tươi cười, đon đả:

- Mời cậu xơi cháo ạ!

- Vớ vẩn, cháo với lão!

Ấy là mọi hôm như thế, còn sáng nay thì cậu chủ đã điên tiết thực sự. Chiếc cổng hé mở, đầu xe vừa thò ra thì đã vấp ngay vào một chiếc ghế, khựng lại. Cậu chủ chống xe rồi len người ra, chân đá những chiếc ghế bắn tung xuống lòng đường, miệng hét:

- Làm ăn bừa bãi thế này mà trông được sao?

Cô gái ngây người, miệng lắp bắp:

- Xin lỗi cậu, bữa nay mải hàng quá, tôi chưa kịp dọn.

Mặt cậu chủ đỏ găng, một tay chống nạnh, một tay chỉ thẳng vào mặt cô gái, quát:

- Từ mai dẹp, không bán chác gì ở đây nữa, nghe không?

Nói xong, cậu chủ đùng đùng lên xe phóng vút đi.

Cô gái lụi cụi thu nhặt những chiếc ghế mà nước mắt rơi lã chã. Mấy tay khách "lì" ngơ ngác, không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chờ cô gái thu dọn xong quang gánh mới dám cất lời hỏi:

- Này em, cái thằng ấy là cái thá gì mà dám mắng em?

- Không có chuyện gì đâu, em xin các anh.

Cô gái ấy là Hai Thảo, con gái má Năm trong xóm của những người lao động nghèo. Cha mất khi Hai Thảo mới mười tuổi và dưới Thảo là hai đứa em nữa, đứa nhỏ lên hai và đưa lớn lên năm tuổi. Một mình má buôn bán thúng mủng, chạy vạy nuôi ba đứa con. Từ ngày thuê được cái cổng của biệt thự làm nơi ngồi bán cháo cá lóc thì mấy mẹ con có khá hơn chút đỉnh. Mấy chị em Thảo năm nào cũng được đến trường. Thảo rất thương má, đi học về là luôn chân luôn tay, phụ giúp má chợ búa, làm hàng và tất bật với công việc nội trợ trong nhà. Số phận người nghèo thường hay gặp rủi rọ Công việc làm ăn đang thuận buồm xuôi gió thì má lăn đùng ra bệnh. Một cơn cảm sốt nhẹ lúc nửa đêm làm má liệt nửa người. Ngày ngày, Thảo cũng phải chạy thày, chạy thuốc, châm cứu cho má. Mấy hôm nay, má đã ngồi dậy được. Tia hy vọng vừa lóe lên thì nỗi thất vọng buổi sáng nay lại dập tắt. Nếu từ sáng mai cậu chủ không cho ngồi nữa, má con Thảo sẽ không biết dựa vào đâu mà sống. Đặt gánh hàng vào nhà, Thảo lấy vạt áo lau nước mắt rồi đơm bát cháo gốc vào mời má ăn. Ngày má còn ngồi hàng, bát cháo này thường dành cho Thảo. Chính ra, bát cháo ấy là phần của cậu chủ, vì trong hợp đồng với bà chủ ngôi biệt thự có điều khoản: mỗi tháng, vào ngày mồng năm, má phải nạp cho con trai bà ba trăm ngàn đồng và hàng ngày, nếu cậu chủ muốn thì ăn hàng không phải trả tiền. Đã thành lệ, ngày nào má cũng phải dành bát cháo gốc để mời cậu chủ, nhưng chẳng bao giờ cậu màng tới, nên bát cháo ấy mới đến lượt má con Thảo. Bữa nay, thấy con gái vừa bưng bát cháo, vừa thút thít, má Năm hốt hoảng hỏi:

- Có chuyện gì thế con?

Hai Thảo òa lên tức tưởi, mãi sau mới nói lên lời:

- Má ơi! Cậu chủ bảo là sáng mai không được dọn hàng nữa.

- Con cư xử với người ta thế nào mà đến nông nỗi ấy? Hay là tháng này con trả tiền không đúng hẹn? Hay là con không mời mọc cậu ta chu đáo?

- Đúng là tháng này con chưa thu xếp được tiền trả cậu ấy. Mấy tháng nay, nhà mình bao nhiêu khoản phải chi tiêu, con cũng định dăm hôm nữa thì thu xếp đủ. Sáng nay, cậu ấy cáu vì con chưa kịp thu xếp mấy chiếc ghế...

- Con làm ăn bừa bộn trước cổng biệt thự như thế, ai người ta để yên. Khổ nỗi, má lại không đi được, chẳng lẽ nhờ ai khiêng má đến van xin bà chủ.

- Má! Hay là để con nghĩ cách khác...

- Không được đâu con ơi! Chỗ ấy khách đã quen hàng. Vả lại, mình cần người ta, chứ người ta cần gì mình. Thôi má xin con, sáng mai con cứ dọn hàng rồi lựa lời mà van xin cậu chủ. Được cậu ấy thương tình bỏ qua thì chắc bà chủ cũng không nỡ lòng nào...

Thảo nuốt cái cục nghèn nghẹn ở cổ rồi lặng lẽ nâng thìa cháo, bón cho má. Má Năm nuốt miếng cháo mà thấy đắng ngắt.

* * *

Buổi tối, phòng khách ngôi biệt thự sáng trưng ánh điện. Máy điều hòa nhiệt độ mở hết cỡ, kêu ri ri như tiếng dế. Trên bộ sa lông, cậu chủ nằm dài thoải mái như đang nằm hóng mát trên bãi biển. Má cậu, bà chủ ngôi biệt thự, vừa đi tiếp khách nước ngoài về, mặt bự son phấn. Cậu con nhấm nhẳng nói với mẹ:

- Con đã nói với má bao nhiêu lần rồi. Ba trăm ngàn đồng chẳng đáng là bao, má cho thuê chỗ cổng ấy làm cho nhà mình bệ rạc quá.

- Người ta chỉ bày biện có một lúc buổi sáng mà đủ tiền cho con ăn quà sáng. Con ráng chịu đựng để đỡ cho má một khoản chi.

- Sáng nay con đã báo với cô bán hàng là từ nay dẹp tiệm. Bạn con đứa nào đến cũng kêu, nhà có cái cổng đẹp thế mà để nhếch nhác quá, chắc là ba má cậu dạo này túng bấn lắm. Nhất là mấy đứa bạn gái...

- Con tránh đi, đừng hẹn bạn đến buổi sáng sớm.

- Nhưng thỉnh thoảng có đứa rủ con đến trường.

- Nhà người ta hoàn cảnh khó khăn, kêu nài mãi, má động lòng. Con không cho người ta ngồi nữa, sao không bàn với má trước.

- Tháng này quá quy định năm ngày rồi mà người ta đã đưa tiền cho mình đâu!

- Chết, sao con không nói cho má hay? Thôi đây, con cầm tạm năm trăm ngàn, tháng này lại có ngày sinh của con.

Cậu chủ vùng dậy, nhếch mép cười:

- Má tính kỹ chưa đấy? Năm nay là năm cuối cùng, ra trường con phải kỷ niệm đàng hoàng để chia tay bạn bè. Năm trăm ngàn? Mời có nổi hai người khách không? Sao má keo thế?

- Con định mời bao nhiêu khách?

- Hai chục là ít!

- Năm nay con có phải thi lại như năm ngoái không mà khuếch trương thế?

Nghe má hỏi, cậu giật thót tim. Cậu là sinh viên năm thứ tư của Trường đại học Luật. Ba năm qua, năm nào ba má cậu cũng đặt giải thưởng một chuyến du lịch Xingapo nếu cậu không phải thi lại, vậy mà chưa năm nào cậu đạt được. Năm nay, thi hết kỳ I, cậu nợ tới hai môn. Cậu đang phát sốt phát rét vì phải ôn thi trả nợ, nhưng nghe má hỏi thì cậu tảng lờ và làm ra vẻ tự tin:

- Năm nay con sẽ không phải thi lại môn nào và cuối năm thi tốt nghiệp nhất định sẽ đỗ ngay vòng đầu.

- Nếu đúng như vậy, dăm bữa nữa, ba con đi công tác Canađa về, má sẽ bàn với ba tổ chức sinh nhật con thật to, cho chúng mày đi Vũng Tàu xả láng một chuyến.

- Hoan hô má!

Cậu cười gượng, nhưng bụng lại lo lọ Sáng mai, trường cậu trao các giải thưởng sinh viên xuất sắc. Người ta có mời má cậu đến dự vì cơ quan bà là một trong những đơn vị tài trợ giải thưởng cho nhà trường. Má cậu mà đến, chuyện học hành của cậu sẽ bị vỡ lở, cái ngày sinh nhật đầy hào hứng kia sẽ bị phanh lại, úi sùi như năm ngoái - mỗi suất một trăm ngàn đồng tại Nhà hàng Đông Á. Đến nước này, cậu đành đánh bài liều, ỉm luôn cái giấy mời của má.

* * *

Cậu chủ dậy sớm hơn mọi ngày. Vừa trên giường thả chân xuống đất, cậu đã lao ngay ra cổng. Ngoài cổng mọi hôm ồn ã, hôm nay vắng ngắt. Cô hàng cháo cá lóc nghỉ hàng thật. Một vài khách hàng quen đứng ngẩn ngơ trao đổi với nhau:

- Mẹ Ốm, chắc hôm nay cô bé cũng ốm nên mới nghỉ hàng thế này.

- Tội nghiệp gia đình ấy, gánh cháo nuôi cả nhà...

Cậu chủ bâng khuâng nghĩ thầm: Mới dọa thế mà cô ta đã nghỉ. Thế mới biết con gái nhát thật. Hay là cô ta ốm? Cậu lững thững đi vào nhà, đánh răng, rửa mặt. Hôm nay cậu phải đến trường sớm hơn mọi hôm nửa giờ. Khẩn trương mọi việc, vậy mà khi cậu đến hội trường, người đã đông nghịt. Hôm nay toàn trường dự lễ phát thưởng cho sinh viên giỏi. Cậu là sinh viên năm thứ tư, đáng lẽ phải ngồi ở mười hàng ghế đầu, nhưng cậu lặng lẽ tìm một chỗ khuất để bạn bè không nhìn thấy. Trên lễ đài, đại biểu ban tổ chức giới thiệu chương trình, thày hiệu trưởng đọc diễn văn, cậu chẳng hề để ý vì còn mải lo tổ chức sinh nhật sắp tới sẽ ăn món gì, nghe loại băng nhạc nào và mời những ai. Mãi khi sang phần phát thưởng, ban tổ chức có lời giới thiệu đặc biệt và cả hội trường im phăng phắc mới làm cậu sực tỉnh và chăm chú nhìn lên, lắng nghe:

- Trường ta năm nay có một hiện tượng đặc biệt, đáng để cho sinh viên học tập - Ông hiệu trưởng trịnh trọng tuyên bố - Sinh viên năm thứ hai Hoàng Thị Thảo có kết quả học tập ở tất cả các môn đều đạt 9 và 10. Em là con một gia đình nghèo, bố mất sớm, mẹ bị liệt. Hiện cả gia đình bốn miệng ăn đều trông vào gánh cháo cá lóc em bán mỗi sáng. Em xứng đáng được nhận giải thưởng sinh viên xuất sắc. Trân trọng mời em Hoàng Thị Thảo lên nhận giải thưởng và tặng phẩm của hãng giải khát thành phố gửi tặng.

Lời ông hiệu trưởng vừa dứt, cả hội trường vỗ tay như sấm. Một cô gái từ hàng ghế đầu bước lên.

- Xinh quá! Xinh quá!

Có tiếng xuýt xoa bên cạnh làm cậu chủ cứ phải dướn lên nhìn. Đúng là Thảo, cô hàng cháo cá lóc ở cổng biệt thự nhà cậu. Ngày thường, cậu không để ý, vì cậu cho rằng, những người như thế làm sao là sinh viên được, giá như cậu được một lần gặp cô ấy ở trường, chắc là cậu sẽ không có hành động khiếm nhã với cô như sáng quạ Một sinh viên xuất sắc như thế được nhà trường và cả xã hội quan tâm, vậy mà mình phớt lờ, thày giáo và bạn bè biết chuyện "cậu chủ" của mình, họ sẽ cười thối mũi. Càng nghĩ, cậu càng thấy buồn. Cậu lấy xe, phóng qua nhiều phố rồi cuối cùng dừng lại bên bờ sông. Gió sông thổi lên mát rượi, cậu thả hồn theo sóng nước lăn tăn và tự hỏi: Đầu óc mình không đến nỗi nào mà sao mình lại phải thi lại nhỉ?

* * *

Thảo dọn hàng mà trong bụng luôn thấp thỏm. Cô đã dự định mấy phương án: nếu cậu chủ cho ngồi, cô sẽ luôn để mắt cho gọn gàng, nhất là lối xe ra vào của cậu chủ; còn nếu cậu chủ kiên quyết đuổi, cô đành phải gánh hàng đi bán rong. Khách bữa nay đông, ai cũng hỏi:

- Sao sáng qua cháu nghỉ hàng?

- Dạ, con bận công chuyện.

- Các bác ăn quen, thiếu một bữa thấy nhớ. Cháu phải ngồi đều đều nghe!

- Dạ con biết vậy, nhưng còn phải phụ thuộc vào cậu chủ nhà...

Thảo dịu dàng trả lời, mọi người đều ái ngại cho cô.

Hôm nay hàng hết sớm, chưa đến bảy giờ ba mươi, Thảo đã thu dọn ghế ngồi chờ. Nếu cậu chủ làm to chuyện, Thảo sẽ gánh quang gánh về thẳng; còn nếu cậu đã nguôi ngoai, cô sẽ lựa lời thuyết phục để cậu cho ngồi hàng ở đây. Cánh cổng kẹt mở, Thảo thót tim. Không thấy đầu xe Dream thò ra mà đã thấy cậu chủ đầu trần, chân dép, đứng sững trước mặt. Thảo đâm lúng túng. Cô cúi mặt như người chờ đón lời phán xét của cấp trên. Nhưng thấy cậu cứ đứng im nhìn, Thảo đành lên tiếng trước:

- Thưa cậu! Má con tôi có lời xin lỗi và gửi cậu tiền tháng này.

Cậu chủ đỏ bừng mặt khi thấy Thảo đưa tập tiền ra. Cậu đẩy tay cô lại:

- Thôi, Thảo cứ giữ lấy làm vốn, cuối tháng hoặc tháng sau đưa luôn một thể.

Thảo ngạc nhiên tròn xoe mắt. Cô nhìn thẳng vào đôi mắt cậu chủ và hỏi:

- Sao cậu biết tên tôi?

Cậu chủ gãi đầu, gãi tai:

- Tôi biết lâu rồi, từ hôm má Thảo ngồi hàng ở đây cơ.

- Xạo!

Thảo tự cười thầm vì cô dám có lời bông lơn với cậu chủ như vậy. Còn cậu chủ mặt mũi cứ đỏ dần lên như mặt gà cọi.

Cậu ấy thẹn đây!

Thằng Cường chỉ mới vừa lên tám tuổi, nó sống với bà nội. Ba nó đi bộ đội, đóng quân mụ mị ngoài đảo Thổ Chu. Mẹ nó còn đang theo học chương trình y tế dự phòng của tỉnh; bận học nên phải hai tuần mẹ mới về thăm hai bà cháu được một lần. Ở nhà, nội là người quán xuyến tất tật mọi chuyện ăn uống; còn nó chỉ phải chú tâm lo chuyện học hành cho thật giỏi mà thôi. Ấy vậy mà suốt từ chiều hôm qua nội bị bệnh, lúc nào cũng ôm ngực ho khùng khục. Nhà hai bà cháu lại cất mút mít đầu ngọn nước, xa cách hẳn với làng xóm hàng mấy tầm chèo. Bởi vậy, khi nội bị bệnh, thằng Cường bấn bá cả lên, không biết phải xoay xở thế nào với chuyện bếp núc để lo cái ăn cái uống cho nội. Rất may là sáng hôm nay cái Thảo con gái bà Út Mười lại tới chơi.

Thảo nói:

- Phải nấu cháo cho bà ăn. Nhưng trước hết phải đi kiếm lá tre, lá sả, lá bạch đàn và rau bạc hà, nấu cho bà một nồi nước xông. Ngoại Thảo nói phải xông cho ra hết mồ hôi độc mới mau khỏi bệnh.

Trong khi đi bẻ lá ngoài vườn, thằng Cường bỗng nghe con Thảo la rum lên:

- Con rắn nè! Con rắn hổ hành nè! Tới lẹ đây Cường ơi!

Cường chạy tới. Nó nhìn thấy ngay trước mặt con Thảo một con rắn to bằng cán dao đang nằm thườn ra dưới đất. Con rắn bốc mùi hành thơm lựng như vầy thì đích thị nó là rắn hổ hành. Hôm ba nó về phép, ba nó cũng bắt được một con hổ hành. Ông nói với nó: "Hổ hành là thứ rắn lành, không cắn ai bao giờ; mà dẫu có cắn cũng không đau đớn chết chóc gì. Thịt nó rất bổ!". Nhớ tới lời ba, nó nghĩ ngay tới bệnh tình của nội. Biết đâu bà nội được ăn cháo rắn lại khỏe ra cũng nên. Vậy là nó quyết tâm bắt con rắn. Nhưng dùng tay chụp cổ con rắn như ba thì nó không dám. Bởi vậy nó biểu con Thảo đứng canh chừng để nó chạy đi tìm khúc cây. Có được khúc cây, nó đập dập đầu và giết chết con rắn một cách dễ dàng. Rắn hổ hành là thứ rắn chỉ lanh lẹ về đêm, chứ ban ngày ban mặt thì nó vụng về và chậm rì còn hơn cả con rùa bị thả trên mặt đất.

Có được con rắn, cái khó cho nó với con thảo là làm sao làm thịt được con rắn. Suy nghĩ tính toán một hồi, hai đứa quyết định chặt đầu, lột da con rắn, rồi lóc thịt ra bằm nhuyễn. Chúng thay nhau bằm thịt rắn đến nhuyễn nhừ. Thịt ấy chúng đem xào lên với hành tỏi, rồi cho hết vào nồi cháo. Nồi cháo bốc mùi thơm lừng lựng.

Khi nội đã xông nồi nước lá xong, con thảo cụm nụm bưng tô cháo nóng hôi hổi đến cho bà. Nó nói:

- Bà ơi, bà húp miếng cháo cho khỏe! Cháo rắn đó bà!

Bà đón lấy tô cháo đặt xuống bộ ngựa, rồi xoa đầu con Thảo, nói:

- Chèng Ơi! Hai đứa con nhỏ xíu mà cũng biết nấu cháo rắn sao cà! Ưà, cứ để đó cho bà! Mà hai đứa cũng ăn luôn đi. Mấy đứa con có hiếu như vầy, lớn lên thể nào cũng được trời phật độ cho nên người.

Thằng Cường đã được cô giáo kể cho nghe chuyện "Tấm Cám", chuyện "Thạch Sanh", nó biết thần phật chỉ có trong chuyện cổ tích. Nhưng nó vẫn thấy vui trong lòng. Nó nghĩ, ai chứ con Thảo thì nhất định sau này dứt khoát phải là người tốt. Ở trong lớp, bạn nào nhờ việc gì nó cũng giúp đỡ một cách rất vui vẻ. Nó lại là lớp phó văn nghệ, biết bắt nhịp cho cả lớp hát rất hay.

Con Thảo vừa sì sụp húp cháo, vừa líu lo nói chuyện với bà:

- Bà ơi, bà ăn cho thật nhiều vào, hai đứa con nấu tới một nồi đầy ắp lận. Chút nữa con về bên bển, con mời chú Út Công y sĩ tới khám bịnh cho bà. Chú Út Công nói chích thuốc mới mau khỏi bệnh. Bữa hổm con cũng chích rồi. Chỉ đau như con kiến cắn chút xíu thôi hà!

Bà che miệng ho khùng khục mấy tiếng, rồi củng nhẹ lên đầu con Thảo, nói:

- Con thiệt là đứa con ngoan! Biết học thiệt giỏi nè, biết hát thiệt hay nè, lại còn biết cả nấu cháo rắn nữa!

Con thảo đưa cả hai tay nắm lấy tay bà, ngước đôi mắt đen lay láy lên nhìn bà mà nói:

- Bạn Cường nấu đó bà! Bạn ấy giỏi lắm! tháng rồi bạn Cường được xếp hạng nhì trong lớp.

Cường thấy nội nhìn nó một cách âu yếm, nó liền ngó lơ ra chỗ khác, bụng nghĩ thầm: "Biết đâu nội ăn hết tộ cháo rắn thì khỏe ra cũng nên. Chắc không cần phải nhắn mẹ về; chỉ còn ngày mai nữa là mẹ về tới thôi mà. Có gì, nó với con Thảo xúm vào lo cho nội cũng được".

Cháo Chuột

Nguyễn Lê Hồng Hưng

Thuở nhỏ tôi sống giữa ranh giới của hai miệt U Minh, đồng ruộng giáp với rừng cây và sông, rạch. Tuy tôi không được chăn trâu như mấy đứa bạn cùng xóm, nhưng thường những buổi trưa nắng gắt, tôi hay nhập bọn với chúng chia phe chọi lộn và đánh nhau la ó vang cả cánh đồng. Tôi rất thích thả diều và làm diều rất ăn gió. Khi lớn lên tôi không còn thích trò chơi trẻ con ấy nữa. Thay vào đó tôi thường ra ruộng đặt lờ, cắm câu hoặc lội sông mò tôm, chận cá hay vô rừng bắt cua, bắt vọp và bẫy chim, bắt chuột...

Nếu nói tới chuột thì phải nói về miệt U Minh. Nhứt là ra Giêng ruộng đồng khô ráo, bờ ruộng nào cũng có chuột mần hang. Chuột khôn lanh vô cùng, chúng biết sự nguy hiểm đương rình rập chung quanh như chồn, cáo, rắn, trăn... và còn có con người nữa. Nhưng thâm độc nhứt vẫn là con người. Cộng đồng nhà chuột làm hang sâu đưới lòng đất, một bọng hang rộng đủ chứa hàng trăm con và hang có rất nhiều ngõ ngách phòng thoát thân khi gặp nguy hiểm. Vậy mà người ta lấp đất chận kín hết các miệng hang ngách, chỉ chừa lại hai miệng hang chính, một miệng chận lưới hoặc gắn nguyên cái lờ đặt cá tổ chảng, còn miệng kia thì dồn rơm, châm lửa rồi quạt cho khói lòn vô hang... Những con chuột bị ngộp khói chạy ra cửa hang duy nhứt, liền bị dính lưới hoặc chui vô lờ, con nào chạy thoát ra ngoài nếu không bị chó chụp thì cũng bị người ta cầm cây đập chết ngay tại chỗ.

Trên đây là một trong những cách bắt chuột đồng. Trước khi nói chuyện bắt chuột rừng thì tôi xin kể một cách ăn chuột rừng cũng khá hấp dẫn. Thời đó U Minh Hạ đất rừng nhiều vô số, người ta muốn khai hoang lấy đất trồng trọt thường dùng cách đốt rừng. Cách nầy rất có lợi, ngoài việc lấy được đất làm ruộng hoặc làm rẫy người ta còn chận bắt sống được rùa và đập được rắn. Trong lúc lửa đương cháy, chuột chạy loạn xạ nhưng không ai để ý bắt làm gì. Chờ lửa tắt hết người ta mới xách giỏ đi vô đám tro tàn tìm rùa, rắn và chuột bị cháy lượm đem về chòi bày ra nhậu với rượu đế tại chỗ. Rùa và rắn bị thui có trứng ăn mới ngon chớ thịt thì ăn thua xa thịt chuột. Nhứt là khi gạt bỏ hết lớp da chuột bị cháy, xé hai cái đùi phía sau chấm múi tiêu ăn kèm với bần chua và uống rượu đế thì khô lân chả phụng cũng không sánh bằng.

Bắt chuột rừng không phải rườm rà như bắt chuột đồng, chỉ cần một cái roi vừa tầm và con chó khôn ngoan, trung thành với chủ là được rồi. Vào những ngày mùa mưa, người ta cầm roi, mang bao và dắt theo con chó, đi vô rừng tìm những cây rậm lá, nơi có nhiều chuột núp tránh mưa. Thoạt tiên người chủ leo lên đập roi đuổi dồn chuột ra một nhánh rồi tay nắm cành cây rung và tay kia vung roi đập mạnh vô thân cây. Bọn chuột thấy cành cây rung và nghe tiếng đập xành xạch, chúng hoảng hồn nhảy càn rớt xuống đất, phía dưới chó hườm sẵn chụp cắn chết từng con chuột rồi tha gom lại để chung một chỗ. Vừa rung vừa đập cho tới khi hạ được con chuột cuối cùng người chủ mới ngưng tay rồi leo xuống đất, lượm hết số chuột bỏ vô bao, sau đó chủ và chó đi tìm lựa cây khác có nhiều chuột tiếp tục bắt... Chuột ở rừng ăn trái cây rừng và lá rừng nên thịt ít mỡ, ngoài chế biến những thức ăn bình thường, người ta còn làm chuột muối, chuột khô. Chuột đồng nhờ ăn được lúa nên mập và thịt có nhiều mỡ, cho nên nấu những món ăn liền rất ngon, chớ đem muối và làm khô thì không ngon bằng chuột rừng.

Làm thịt chuột mỗi người mỗi cách, nhưng thông thường có ba cách. Một là nấu nước sôi trụng chuột rồi lột da, moi bỏ ruột chừa lại lá gan, hai là đốt rơm thui chuột xong lột da, moi bỏ ruột lấy gan, ba là không cần trụng nước sôi, cứ cắt đầu chuột rồi lột da, làm ruột sạch. Nhưng tốt nhứt là sau khi bắt chuột về, trước khi đem chế biến món ăn, người ta đem ngâm nước lạnh rồi trụng nước sôi, làm sạch ruột và bỏ vô thau ngâm nước lạnh một lần nữa cho thịt chuột trắng và không có mùi hôi.

Những món nhậu có chuột ướp ngũ vị hương áp chảo hoặc nướng và chuột khìa nước dừa, chuột cà ri... Tuy nhiên ngon nhứt vẫn là món thịt chuột nướng ngũ vị hương, xì dầu và ăn với rau sống, dưa leo, khế, chuối chát, chấm nước tương ớt, tỏi bâm. Còn món ăn cơm thì có chuột kho sả ớt, chuột nấu canh chua, chuột xào lá rau muôi hoặc lá cách. Thịt chuột tuy chưa sánh được với cao lương mỹ vị trong thực đơn các nhà hàng sang trọng, nhưng dân quê sánh ngang với thịt gà qua câu đồng dao:

Thịt gà đương luộc

Thịt chuột đương xào

Thầy đứng ngoài rào

Thầy hô béo béo...

***

Lần về quê vừa rồi tôi có ghé chơi nhà anh bạn, anh ấy dẫn tôi tới một quán ăn đặc sản của miệt đồng bằng sông Cửu Long. Quán được trang trí với những căn nhà nho nhỏ nép mình bên hàng tre, trúc... Khung cảnh đồng quê mộc mạc tạo cho thực khách có cảm giác rất thoải mái, nhẹ nhàng. Thực đơn toàn các loại chim, chuột, rắn, rùa, trăn..., con nào cũng còn sống. Anh bạn giới thiệu cho tôi món chuột nướng lu và khen món nầy ngon nhứt so với các món trong thực đơn. Đối với tôi món nướng thì bất cứ thịt nào cũng ngon chớ không riêng thịt chuột. Tuy nhiên món chuột nướng lu tôi có nghe nói khi còn ở nước ngoài chớ chưa thấy cách nướng ra sao. Tôi đem thắc mắc của mình nói với anh bạn, anh bạn liền hỏi chủ quán cho tôi vào bếp xem chỗ nướng chuột. Chủ quán không chút ngần ngại, vui vẻ dẫn tôi vô bếp. À, thì ra đây là một cái oven làm bằng chiếc lu sành đựng nước, người ta đốt lửa bên ngoài cho nóng để nướng những con chuột đã lột da trần trụi và ướp gia vị móc treo tòn teng ở trong lu..

Thịt chuột nướng lu ăn kèm cóc xanh bầm nhỏ và chấm với muối tiêu chanh... Các thực khách ngồi những bàn chung quanh ăn uống rất tự nhiên. Và anh bạn tôi vừa ăn vừa khen ngon... bá chấy! Riêng tôi thì cứ ái ngại trong lòng. Trong chúng ta ai cũng biết, trên đất nước Việt Nam mình đã bị ô nhiễm đến mức báo động. Nhứt là từ thượng nguồn sông Mê Kông, phía bên Trung Quốc người ta thả rác rến, đồ dơ xuống và những xưởng máy dọc theo ven sông họ xả nước độc vào dòng sông, thấm vào trong đất đai xứ sở nầy mỗi ngày một nhiều... Chim chóc trên trời, thú vật trong rừng, động vật dưới lòng đất và cá dưới dòng sông... loài nào cũng có thể bi nhiễm độc được hết. Chuột là một loại động vật chui rúc bất cứ hẽm hóc nào thì làm sao tránh khỏi. Dù cho không bị nhiễm bởi môi trường thì chính người chế biến thức ăn đã pha chế biết bao nhiêu thứ phụ gia sao cho món ăn trông được mắt và ngon lành bất kể là chất đó có độc hay không. Những ngày lưu lại quê hương, tôi vô bất cứ hàng quán nào, trông thấy món ăn được trưng bày đẹp và mùi vị thơm tho, quá hấp dẫn thì tôi đâm ra nghi ngờ. Hổng ăn thì sợ bạn bè trách mình phụ lòng, ráng ăn vài miếng và giả bộ khen ngon, nhưng khi nuốt miếng thịt khỏi cổ họng thì muốn ọi ra, làm tôi phải rót rượu uống liền liền. Rượu gạo nhẹ quá không đủ độ dằn mấy miếng thịt chuột, tôi cảm tưởng như có mấy con chuột lởn vởn trong cổ họng muốn trực...bò ra.

Không biết tại thịt chuột nướng lu hay tại tôi uống quá nhiều rượu gạo mà đêm hôm đó về nhà tôi mửa thấu mật xanh, làm hai vợ chồng anh bạn lo lắng đến hốt hoảng đè tôi ra người cạo gió, người thoa dầu một chập mới yên... Sáng ra, tôi cảm thấy trong người rất nhẹ nhàng nhưng mình mẩy thì ê ẩm và bầm tím. Tôi ra nhà tắm đánh răng rửa mặt. Khi tôi trở vô thì vợ anh bạn đã dọn sẵn bữa điểm tâm và mời tôi vào bàn. Chị múc đưa tôi tô cháo thịt bầm rắc tiêu hành thơm phức. Chị khuyến khích: "Cháo thịt chuột bổ lắm đó, chú ăn đi cho khoẻ!"

nồi cháo tuyệt vời

Một hôm, có một người lạ mặt đến gõ cửa nhà của một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng người đàn bà cho biết trong nhà bà không còn gì để ăn cả. Người lạ mặt mới nói: "Bà đừng lo, tôi có mang theo một hòn đá có thể biến nước thành một thứ cháo tuyệt vời nhất trần gian. Nhưng trước tiên bà hãy cho tôi mượn một cái nồi lớn".

Thấy người lạ mặt đề nghị một cách nghiêm chỉnh, cho nên người đàn bà mới cho nước vào cái nồi lớn nhất và đặt lên bếp. Khi nước vừa sôi, thì người đàn bà chạy đến các nhà láng giềng để mời sang chứng kiến điều lạ lùng sắp xảy ra. Trước đôi mắt mở to của mọi người, người khách lạ mới cho viên đá vào nồi, rồi dùng muỗng lấy nước đưa lên miệng nếm, ông vừa hít hà: "Thật là tuyệt diệu! Nhưng giá có thêm một ít khoai thì tốt hơn". Nghe thế, một người đàn bà có mặt bèn sốt sắng đề nghị: "Trong bếp tôi còn một ít khoai". Nói xong, bà đon đả chạy về nhà mang khoai sang. Người khách lạ cho những miếng khoai tây được thái nhỏ vào trong nồi. Một lát sau, ông nếm thử và nói: "Tuyệt! Nhưng giá có thêm chút thịt thì chắc chắn phải ngon hơn".

Nghe thế , một người đàn bà khác chạy về mang thịt đến. Người lạ mặt cũng cho thịt vào nồi, đảo lên trộn xuống một hồi rồi nếm thử và nói: "Bây giờ thì quý vị thưởng thức nồi cháo của tôi, nhưng nếu có thêm một chút rau cỏ cho vào thì là hoàn hảo". Dĩ nhiên, ai cũng muốn nếm thử nồi cháo, cho nên ai cũng hăm hở đi tìm rau. Có người mang đến nguyên một giỏ củ cà rốt và hành. Người lạ mặt cho các thứ rau vào nồi rồi ra lệnh cho người đàn bà chủ nhà: "Bây giờ tôi cần một ít muối và tiêu nữa là có được một nồi cháo ngon nhất trần gian". Khi nồi cháo đã sẵn sàng, ông hối thúc mọi người đi tìm chén bát đến. Có người mang cả bánh mì và trái cây.

Mọi người vui vẻ ngồi vào một bàn tiệc bất ngờ. Trong khi mọi người nói cười rộn rã, thì người khách lạ lẻn đi. Ông vẫn để lại hòn đá mà mỗi khi cần đến, những người hàng xóm có thể sử dụng để cùng nấu chung với nhau một nồi cháo ngon nhất thế giới.

Một hòn đá, cộng với một ít thực liệu và gia vị sẽ tạo nên một nồi cháo ngon nhất trần gian: đó là hình ảnh của sự đóng góp vào phép lạ mà Thiên Chúa không ngừng thực thi cho con người.

Bà góa thành Sarepta đã dâng cúng một ít bột mì cho tiên tri Êlia để từ đó được lương thực hằng ngày trong suốt mùa hạn hán. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhân bánh và cá cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một cậu bé...

Với một chút đóng góp từ lòng quảng đại của con người, Thiên Chúa có thể làm những phép lạ cả thể. Tất cả những công trình bác ái và giáo dục trong Giáo Hội đều bắt nguồn một cách khiêm tốn: Chúng ta hãy nhìn vào công trình của Mẹ Têrêxa thành Calcutta, của cha Pierre, sáng lập cộng đồng Emmaus, của cha Van Straatten, sáng lập Hội trợ giúp các Giáo Hội đau khổ: một căn nhà nhỏ, một miếng thịt mỡ, một công việc vô danh... Phép lạ của Thiên Chúa thường bắt đầu bằng những đóng góp nhỏ và âm thầm của con người.

Thiên Chúa luôn ban cho mỗi người chúng ta cơ may để đón nhận phép lạ của Ngài. Ngài chỉ cần một chút lòng quảng đại của cúng ta. Nếu chúng ta sẵn sàng dâng tặng cho Ngài một chút những gì chúng ta có thì có biết bao nhiêu người chung quanh sẽ được chung hưởng phép lạ của Thiên Chúa.

CHÁO Ơ...

Truyện ngắn Dương Hướng

Cháo ơ...! Tiếng rao lắng nghẹn lòng người mỗi sáng sớm nghe lúc xa lúc gần.

Mấy năm nay trên con đường vành đai giáp ranh giữa hai khu dân cư cũ và khu đô thị mới, người dân quá quen với hình dáng tất bật, tiếng rao cháo ơ... của người bán cháo rong. Tiếng rao "cháo ơ.." luôn song hành với dáng liêu xiêu tất tả đôi quang gánh long tong trên vai, bên nồi cháo, bên cái thúng đựng hầm bà làng những thứ bà bán cháo mua giùm ai đó dặn từ sáng hôm trước. Người nắm chè tươi, mớ rau quả trứng, kẻ dăm lít rượu trắng. Bà bảo để cho "gánh" nó "cân" với nồi cháo của bà. 'Chồng đánh không bằng gánh mênh" Những bữa không có ai dặn mua gì bà lại phải gánh lệch khi nồi cháo còn đầy. Khổ hơn nữa những buổi trời mưa giông, hoặc mùa đông mưa phùn gió bấc lạnh thấu xường.

Nhịp sống trong khu đô thị mới diễn ra trước mắt bà bán cháo mỗi ngày một sôi động. Nhất là dịp xuân về, năm hết tết đến nhà nhà đua nhau sắm tết. Khu đô thị mới mỗi năm có tới vài chục lô đất mọc lên những ngôi nhà cao tầng lộng lẫy sắc mầu. Khu dân cũ nom mỗi ngày một nhom nhem lùn tịt xuống. Nhà nào khá giả hơn thì cố tân trang tu sửa cảnh quan nhà mình để đón mừng xuân mới. Người háo hức may sắm áo quần cho mẹ già con trẻ. Riêng bà bán cháo rong thì không có nhu cầu mua sắm gì nhiều, nhưng bà lại tường tận sự đổi thay hàng ngày của mọi nhà. Như nhà ông giám đốc xây dựng, tết năm ngoái khánh thành ngôi biệt thự mua cả xe ô tô cây cảnh và hoa tươi về đón tết. Còn "người ấy" bạn bà làm nghề bơm vá sửa chữa xe đạp thì quanh năm hì hụi lo kiếm sống, nhưng đêm giao thừa năm nào cũng quân phục chỉnh tề rung rinh huân chương trên ngực đi chúc tết mọi nhà. Sang năm nay "người ấy" còn hăng hái giúp bà kê khai thành tích để nhà nước tặng thưởng huân chương chống Mỹ cho bà. Người ấy bảo bà xứng đáng được huân chương. Có người lại mỉa mai bảo già rồi còn huân chương mà làm gì, để rồi đem ra "Đèo Sen" (*1) mà treo á. Người ấy lại lên lớp lý luận với bà " Còn sống một ngày cũng cần trọng cái danh." Vậy là bà nghe lời người ây khuyên. Bà đã làm hồ sơ kê khai thành tích gửi lên tỉnh. Chả cần thịt cá nhiều, tết năm nay bà sẽ có món quà tinh thần là cái huân chương chống Mỹ để mà ăn mừng xuân mới. Ông nhà bà đã cho quét sơn lại gian nhà cho đẹp để còn treo cái huân chương cho oách để con cái nó mừng. Nếu tết này có cái huân chương treo trong nhà bà cũng thấy vẻ vang tự hào với xóm láng. Vậy là nhà nước đã chính thức công nhận công lao cả thời con gái trong chiến trường miền Nam của bà.

Cháo ơ...bà bán cháo vừa rao vừa khấp khởi bước tới gian quán sửa xe của "người ấy". Người ấy đang loay hoay với chiếc xe đạp ngẩng lên hỏi bà đã có tin tức gì về cái huân chương chưa.. Bà bảo chưa thấy người ta nói gì. Vài bữa nữa tôi sẽ lên tỉnh hỏi xem sao. Tết nhất đến nơi rôi. Bà nói và tấp tểnh bước đi với nồi cháo vẫn còn ủ nóng rẫy một bên gánh. Cháo ơ...Tiêng rao cháo ơ... lại vang lên trên con phố giáp ranh giữa hai khu dân cư mới và cũ. Trước kia cái xóm ven vịnh này của bà đa phần là dân ngèo nhà tranh vách lá. Người làm thợ mỏ, kẻ giăng câu chài lưới. Trước nhà bà là cả một rừng sú vẹt. Ngày còn nhỏ vào những giờ nước triều xuống thấp, bà thường lần mò ra bãi bắt sò câu cáy. Bây giờ cả bái sú vẹt xưa đã trở thành khu đô thị hiện đại. Những ngôi biệt thự sang trọng, những dãy nhà cao ngất tầng trời đua nhau khoe sắc. Bãi tắm, công viên xanh, nhà hàng khách sạn, sàn nhảy, biển quảng cáo đêm đêm đèn mầu chớp nháy sáng rực cả khoảng trời đô thị. Cây cầu bê tông dây văng hiện đại nhất Đông Nam Á lồng lộng cả khoảng trời vắt ngang eo vinh đã khiến cho hàng chục con phà anh hùng thời chống Mỹ phải "Về vườn" nằm phơi khô trên bãi hoen rỉ. Cả cái "người ấy" của bà cũng phải về hưu sớm vài ba năm lĩnh tiền "một cục" theo chế độ chính sách. Trong tâm tưởng bà gọi "người ấy" bới người ấy không là gì của bà- không phải chồng, không phải người yêu, không phải bạn bè, cũng không họ hàng thân thích. "Người ấy" chỉ vương vào bà như cơn gió ấm lúc trời đông lạnh giá cô đơn thời chiến tranh. Bà đã tự nguyện dâng hiến cho người ấy cái cao quý nhất đời con gái cảu minh. Cho mà không đòi hỏi, không hy vọng, không cầu xin, không cầu lợi bất kỳ điều gì ở người ấy. Nói thể chả phải bà coi rẻ cái trinh tiết thời con gái của bà. Cái thời chiến tranh mọi suy nghĩ nó khác bây giờ. Con gái bây giờ mới lớn đã lo trang điểm phấn son kẻ mày tô môi đánh móng chân tay xanh xanh đổ đỏ. Đến tuổi lấy chồng phải dày công tính toán thiệt hơn mai phục được thằng nào đẹp trai con nhà giàu mới sướng đời con gái. Cái thời con gái mười tám đôi mươi của bà chỉ say sưa đoàn đội phơi phới hát hò tưng tưng vô lo. Bà xuất thân là gái nông nghiệp theo cha mẹ ra vùng mỏ nên chỉ say sưa với những bài hát "Quảng Bình quê ta" hay bài "Đường cày đảm đang" nghe nó rộn ràng náo nức. "Từ ngày anh đi việc đồng em giỏi giang/ ruộng cấy chăng dây/ cây lúa thẳng hàng / đào đắp mương dẫn nước quanh làng/ tiếng hát ba đảm đang..." Có lẽ cái bản tính vô tư trong sáng vượt trội ở thời con gái đã khiến bà tình nguyện theo đoàn quân vào chiến trường miền Nam không quản thân gái dặm trường. Bà là nữ y tá duy nhất trong đội phẫu tiền phương cắm sâu dưới vùng giáp ranh. Có lần bà được giao nhiệm vụ đi mua thuốc gặp càn bị mắc kẹt dưới vùng địch không về được. Trong hoàn cảnh giữa sự sống cái chêt cận kề, bà phải đóng vai "vợ chồng" với người con trai cùng cảnh ngộ ở đơn vị khác để che mắt địch. Suốt trong bảy ngày đóng giả vợ chồng dưới vùng địch cuối cùng bà đã tự nguyện hiến dâng đời con gái cho "người ấy" để đổi lấy sự an toàn tính mạng. Chuyến ấy bà đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mang được thuốc về cho đội phẫu có thuốc phục vụ bộ đội. Còn chuyện ấy với "người ấy" bà đã phải giấu kín trong lòng. Bà đã âm thầm hy sinh trinh tiết đời con gái của mình. Chiến tranh trôi qua cũng nhanh. Đời con gái của bà trôi qua cũng nhanh. Cái chuyện bí mật với người ấy bà coi như chuyện qua đường. Không yêu, không bạn, không thân thiện. Chỉ là chuyện bất đắc dĩ mà sao cứ bám riết lấy bà cả khi bà đã trở về quê hương làm bạn với sú vẹt câu cáy bắt sò nơi xóm bãi. Kể cả khi bà lấy chồng sinh con. Rồi đến một ngày "người ấy" bất ngờ xuất hiện trước mặt bà. Bà ngỡ ngàng không nhận ra người đàn ông quân phục chỉnh tề vai đeo sắc cốt ra dáng sỹ quan quân đội. Giữa con đường đèo dốc vắng xuống bến phà, bước chân bà bối rối. Một loạt câu hỏi vang lên của người ấy: "Tại sao em trốn tránh tôi? Bao năm qua tôi tìm kiếm em khắp nơi..." Bà bất ngờ ví những câu hỏi của người ấy. Bà không nghĩ người ấy lại đi tìm bà. Nhưng bây giờ đã quá muộn rồi. Bà đã có chồng. Thế thôi. Gái đã có chồng. Chấm hết. Người ấy chỉ dám cầm tay bà luyến tiếc. Tiếc cho thiên tình sử thời chiến tranh giữa bà và người ấy. Gia sử sau lần ấy, người ấy gặp lại bà???... Ôi biêt sao được. Chiến tranh khác thời bình là thế. Mọi chuyện chẳng nói trước được gì. Chẳng thề bồi. Chẳng hứa hẹn. Giờ nói lại thêm buồn. Bà đã có chồng. Thế thôi. Gia đình nhà chồng dù nghèo khó, bà vẫn vui. Thời gian trôi qua đã mấy chục năm, hình bóng người ấy thi thoảng vẫn hiện lên trong tâm trí bà. Bà biết rõ người ấy bây giờ đã lĩnh tiền "một cục" theo chế độ hưu non. Bà không ngờ thời thế vô tình hay người ấy cố ý về mở hiệu bơm vá sửa chữa xe đạp ngay nơi bà đang sống. Ngay trên con đường ngáy ngày bà vẫn đi bán cháo rong. Người ấy bảo đến đây dễ kiếm sống hơn ở quê. Thấm thoắt đã mấy chục năm. Đã tưởng chẳng còn gì ngoài cái kỷ niệm duy nhất chỉ có bà và người ấy biết. Đã tưởng chuyện ấy nó chỉ thoáng qua trong tình cảnh bắt buộc của chiến tranh. Ai mà ngờ người ấy lại giấu mãi trong lòng thầm yêu trộm nhớ, bỏ cả vợ con đi tìm bà suốt cuộc đời. Để đến nỗi bây giờ người ấy phải sống thân một mình trong gian quán tạm bợ ngày ngày bơm vá sửa chữa xe đạp. Chả biết có phải chỉ vì miếng cơm manh áo hay vì bà mà người ấy tới đây. Bao lần bà khuyên ông nên về với vợ con mà sống nhưng ông đều lặng thinh. Và bây giờ ông ta còn ra tay giúp bà viết thành tích để lĩnh huân chương nữa. Cháo ơ...Tiếng rao của bà vẫn đều đều vang lên mỗi sáng sớm trên con đường bao quanh khu đô thi mới.

Cháo ơ... Nay đã sang tháng chạp. Nhà hàng Biển Đông đã bày bán hàng tết. Khách sạn Sao Mai bữa qua mua đâu được cây đào vĩ đại rợp kín gian sảnh. Những nụ đào tím non tơ. Cháo ơ...! Có tiếng gọi bên nhà hàng mát- sa Hàng Châu. U cháo ơ... cho con một bát. Lại con Lan Cần Thơ bắt chước con gái miền Bắc gọi bà là u. Khổ thân con bé mới mười bảy tuổi đã phải đi làm cái nghề xoa bóp cho những kẻ thừa mỡ. Nó bảo đi làm nghề này mới có tiền về chữa cho mẹ bị bệnh nặng phải nằm liệt giường mấy năm nay. Ngày đầu ra đất này, để có tiền, con bé đã phải bán trinh lấy 10 triệu gửi về cho mẹ. Để rồi sau đó phải lén lút đi hút thai. Đận ấy nó phải nhờ bà mua trứng gà nấu cháo bồi dưỡng giấu nhà chủ sợ phải đuổi việc. Bữa nay mày lại ăn cháo ư? Bà lo lắng. Không! Con sắp về quê, má con ...không chắc qua khỏi. Không biết ra giêng con còn ra lại đây không. Con mừng tuổi trước cho U vài đồng lỡ qua tết con không ra lại. Con Lan Cần Thơ rơm rớm nước mắt dúi vào tay bà tờ một trăm ngàn mới cứng rồi bỏ chạy. Bà run run cầm tờ một trăm ngàn công sức của con Lan. Bà rờ rẫm nhẩm đếm lại từng tờ tiền lẻ hai ngàn, năm ngàn, mười ngán tiền bán cháo từ sáng. Từ sáng bà đã bán cho cô Son, bà Đán, cháu Kim... Cả thảy được sáu lăm ngàn, cộng với tờ một trăm ngàn con Lan cho là một trăm sáu mươi lăm ngàn đồng. Vậy là số tiền con Lan cho bà còn nhiều hơn tiền bán cháo từ sáng đến giờ. Cháo ơ...Tiếng rao nghẹn lại. Bà cất gánh cháo lên vai. Bà lại đi ngang qua cửa hiệu người ấy để báo cho người ấy cái tin quan trọng. Bà chưa kịp nói gì người ấy đã hỏi :

- Tết đến nơi rồi, bà đã nhận được tin gì chưa? Bà líu nhíu bảo.

- Chiều qua em đi chợ mua xương để ninh cháo, vừa về đến nhà thì nhận được điện người ta bảo sáng mai đi mà nhận huân chương về ăn tết cho ngon.

- Vậy là tốt rồi. Người ấy cười rạng rỡ với bà.

- Em còn hỏi kỹ có phải thủ tục gì nữa không. Họ ngập ngừng một lát rồi bảo cứ nộp hai trăm ngàn là được. Bà háo hức khoe với người ấy.

- Bậy nào! Người ấy gắt lên với bà. Lại phải hai trăm ngàn gì nữa. Lẽ ra nhà nước, chính quyền còn phải tổ chức long trọng trao tận tay cho bà đàng hoàng ấy chứ. Thế này hoá ra cái danh dự của bà phải đi mua bằng tiền à. Huân chương gì lại rẻ rúm vậy. Đây là công sức cả đời bà.

- Tôi biết đâu đáy, bà thanh minh, họ bảo mọi người đều thế cả. Cái cô gọi điện cho tôi còn bảo đây là công cô ấy đi lại xin chữ ký, chứng nhận đóng dấu vất vả lắm. Thôi thì hai trăm ngàn mấy buổi bán cháo của tôi là đủ.

- Láo nào! Rõ ngược đời, mình có công đổ mồ hôi xương máu ngoài chiến trường suýt bỏ cả mạng không thèm kêu ca vất vả thì thôi, cán bộ bây giờ ăn lương nhà nước ngồi trong phòng lạnh chỉ việc ký đóng dấu lại kêu vất vả. Để tôi đi với bà trị cho chúng nó một trận.

- Thôi tôi xin ông. Ông làm thế họ giận lại huỷ cái huân chương của tôi đi thì tết này biết ăn nói với ông nhà tôi và cac con ra sao. Biết tôi sắp được huân chương, ông nhà tôi đã lo sửa sang sơn lại gian nhà đón huân chương của tôi về treo tết rồi đấy. Chuyện này ông cứ để tôi lo. Bà bán cháo hốt hoảng bỏ đi để mặc người ấy đứng mãi nhìn theo bóng bà xa dần. Cháo ơ...Tiếng rao cháo ơ lại vang lên trên con phố chạy giữa khu dân cư cũ và khu đô thị mới. Lúc này nồi cháo đã vơi một nửa nên bà thấy đỡ lệch. Mai bà sẽ chuẩn bị đủ hai trăm ngàn để đi lĩnh cái huân chương về ăn tết. Lúc này cả tiền con Lan cho, bà đã có trong tay một trăm sáu lăm ngàn đồng. Cháo ơ...bà thấy lòng nao nao khấp khởi ngẩng lên nhìn trời. Cây cầu bê tông dây văng bắc qua đôi bờ vịnh lồng lộng giữa trời, vàng rực trong nắng xuân.

1. Truyện ngắn Hòa Văn: CON ẾCH

Buổi tối ở nông thôn yên ả, trăng non treo lơ lửng trên trời cao, ba cha con tôi đang quây quần trên nền giữa nhà. Bỗng chú ếch mập u ú từ ngoài vườn nhảy phóc vào, rồi hình như bị ánh sáng đèn điện làm chói nên đôi mắt nhắm ghiền lại, nằm co ro. Hai và Hải hai đứa con tôi mừng rỡ:

- Ếch... ếch... Ba ơi!

Chỉ cần một cái nắm tay nhẹ nhàng chú ếch nằm gọn trong tay tôi, tôi nói:

- Ngon lắm, ngon lắm! ếch nầy mà thêm một nắm đậu đen, nửa lon gạo chắc sẽ có nồi cháo ếch tuyệt vời!

Hai vùng dậy chạy ra sân nói với mẹ nó:

- Ba làm ếch nấu cháo mẹ ơi! - Rồi chạy lăn xăn thoả thích.

Tôi yên lặng nhìn chú ếch càng nhìn càng thấy thương nó quá, hay là...

- Đi, đi làm thịt ếch đi ba - Cu Hải giục tôi.

- Lại đây các con - Tôi nói.

- Ếch là món ăn rất ngon, "ếch tháng ba, gà tháng mười" con ạ!, nồi cháo ếch đậu đen, nếp, gạo thêm ít tiêu, ít lá ngò, lá nắn gia vị vào nồi cháo càng thơm phứt, riêng thịt ếch rất ngon - nói sao cho con hiểu hè... À ngon hơn thịt gà con ạ!...

Cả hai đứa con tôi yên lặng ngồi nghe, miệng mấp máy ra vẻ thèm thuồng, cứ tưởng tượng nếu như ngay bây giờ mà có thịt và cháo ếch ăn thì tuyệt biết chừng nào! Cu Hải nói:

- Ngon, ngon quá, ba mới kể mà con đã thấy ngon rồi...

Tôi đề nghị, hay là mình thả chú ếch nầy ra, coi như mình đã ăn cháo xong, để xem thử ếch mừng vui đến mức nào khi được thoát cái chết trong gang tấc... Cả hai Hai và Hải sau một thoáng chần chừ, cùng nói lí nhí:

- Dạ.

Đánh một cái phóc chú ếch thoát khỏi tay tôi ra tận giữa sân, hai chân sau rắn chắc mập lẳn, hai chân trước thấp bé hơn nhưng cũng không kém gân guốt, cả thân nó lóng lánh vàng, xanh vằn vằn đúng màu da ếch. Đôi mắt ếch mở to sáng rực, quay lại nhìn ba cha con tôi, rồi đầu gật gật...

- Nó cảm ơn mình đó ba! - Cu Hải nói.

Thoắt một cái phóc nữa, chú ếch nhảy vào hàng rào chè tàu...

Câu chuyện không có gì nếu đến đây chấm hết.

Chiều hôm qua trên đường ra thăm ruộng, chuẩn bị làm vụ lúa Đông Xuân, bất chợt tôi nhớ lại ba con ếch mà cậu Tấn của tôi - lúc ấy còn thanh niên - một trong những người soi ếch giỏi. Ở làng Đông Bàn quê tôi, cứ đến mùa đổ bệ làm ruộng, ít nhiều cũng có người đi soi ếch, bắt nhái, hai con vật nầy hễ đến mùa thì kêu ầm ỉ, chạng vạng sẩm tối đến khuya người đi soi dùng đèn gió lội dọc bờ vùng bờ thửa, nghe tiếng ếch nhái kêu lần tới bắt, đến khi khẳm giỏ thì về. Cái thì ăn cái thì bán...

Có lần sáng sớm cậu Tấn sang nhà chơi, vì hay tin ba tôi mới từ Hội An về, tiện thể mang theo cho ba con ếch to đùng. Tôi và em gái tôi mừng vô kể, bởi rất nhiều lần đã từng được cậu cho ăn cháo ếch tại nhà ngoại, hoặc ăn cháo ếch tại nhà do mẹ nấu cũng từ ếch của cậu bắt được. Cậu tôi nói:

- Anh làm thịt nấu cháo cho mấy nhỏ ăn! Ếch to nhất em mới bắt đêm qua đó!

Ba tôi đưa xâu ếch lên trước mặt vui vẻ nhận lời, và hỏi:

- Cậu chỉ cách làm thịt.

Cậu tôi nói rất dễ, chỉ cần chặt đầu ếch tụt da, làm ruột là xong, cậu quay qua tôi nói:

- Anh hỏi thằng Hai nó rành lắm!

Lúc ấy hai anh em tôi cùng bằng tuổi hai đứa con tôi bây giờ, tôi mới học lớp năm, em gái học lớp hai.

Tôi chắc mẩm trưa sẽ được ăn bữa cháo ếch ngon đã thèm, nào ngờ, gần trưa ba tôi bảo:

- Con ạ! Theo ba mình thả ba chú ếch nầy ra.

Sau đó ba nói cho tôi hiểu lý do tại sao, "chỉ vì tội nó quá!"

Cả ba chú ếch kia sống mãi trong lòng tôi.

Hôm thả chú ếch tôi không hề mảy may nhớ câu chuyện ba tôi thả ba con ếch của cậu Tấn cho năm nào, nhưng không biết sao tôi lại làm giống ba tôi.

Chú ếch chắc cũng sống mãi trong lòng các con tôi.

Nồi cháo trắng

Đầu tháng bảy âm lịch năm nay, tôi trở về nhà chú Chín tôi ở Rạch Lùm để dự ngày giỗ nội.

Bà nội tôi vốn là người tu tại gia, ăn chay trường, nên đám giỗ chỉ cúng toàn đồ chay. Cuộc sống ngày càng khó khăn nên việc cúng quải ông bà cũng càng đơn giản. Chú tôi cũng không mời ai cả, chỉ có bà con trong thân tộc tự giác đến, mỗi người mang đến một ít rau cải, trái cây, họp lại nấu thành vài món đồ chay như: đậu đũa hầm dừa, đu đủ kho, canh khoai nấu dừa, dầu dừa xào bắp cải... rồi dọn ra bốn mâm, con cháu ra đứng sắp hàng mỗi người thắp một nén nhang tưởng niệm. Sau đó, hai mâm được dọn ra hai bộ ván nhà trên, một bên dành cho cánh đàn ông thuộc hàng chú bác, một bên dành cho cánh thanh niên trong cánh anh em con chú con bác chúng tôi. Còn lại hai mâm dọn ra nhà sau cho cánh đàn bà, con nít.

Đang lúc uống rượu cườm cườm, bỗng có tiếng dượng Ba tôi từ mâm bên kia gọi sang:

- Ê, thằng Sanh, năm nay, thằng Tư Ngạn nó về rồi đó nghe mậy.

Hai Sanh buông đũa quay sang nói:

- Nó về thì kệ nó chớ, ăn thua gì với tôi. Tưởng ai chớ thằng Tư Ngạn, tôi chấp nó câu trước tôi nửa ngày.

- Ai mà chẳng biết nó câu dở hơn mày, tao muốn nói đây là để tụi mình cảnh giác cái tật câu trộm đìa của nó.

- Thằng nào câu trộm đìa thì bị khất nhượng ráng chịu chớ dượng lo gì.

Ở xứ này có hai người câu cá rô nổi tiếng là Tư Ngạn và Hai Sanh. Hai Sanh là con bác Năm tôi, còn Tư Ngạn là dân miệt trên về đây lập nghiệp. Nói là lập nghiệp chớ thật ra sự nghiệp của Tư Ngạn chẳng có gì ngoài chiếc cần câu cá rô để nuôi vợ và tám đúa con. Cách đây năm năm, vào tháng chạp, Tư Ngạn câu trộm đìa ông Tám Trân bị bắt quả tang. Hôm ấy nếu không có mấy người thợ gặt xung quanh đến can kịp thì chắc Tư Ngạn đã bị hai đứa con trai ông Tám Trân nhận nước dưới đìa.

Từ đó, hễ mỗi lần Tư Ngạn vác cần câu ra khỏi nhà thì bị người ta hỏi:

- "Ê, bữa nay định câu đìa ai đó mậy?".

Tư Ngạn cúi đầu xấu hổ. Cái tài câu cá rô đã từng là niềm kiêu hãnh của anh bây giờ đã trở thành xấu hổ. Sau cái tết năm ấy, vào một buổi sáng, người ta phát giác cái chòi của Tư Ngạn trống hoang, nằm há mồm bên bờ lung chuối.

Còn lại một mình Hai Sanh độc quyền nổi tiếng ở xứ Rạch Lùm.

Sau sự kiện Tư Ngạn là một niềm vinh quang đối với Hai Sanh sau cuộc thách đố với dượng Ba tôi.

Sáng hôm ấy, dượng Ba tôi qua nhà Hai Sanh mua cá về nấu cơm cho công gặt, ông nói:

- Thằng Tư Ngạn mắc cỡ quá nên nó bỏ xứ rồi, còn mày, muốn ở xứ này thì đừng có câu trộm đìa người ta nghe mậy.

Dượng Ba tôi nói chơi nhưng làm Hai Sanh bị tự ái, anh nói như trách:

- Xin lỗi dượng, tôi đành câu đìa là một ngày mười ký lấy lên chớ không phải vài ba ký quèn như thằng Tư Ngạn đâu.

- Nói trời hoài mậy.

- Tôi nói thật, dượng dám thách cho tôi câu đìa dượng hôn. Tôi câu xong rồi dượng cho tát, nếu còn được một ký cá rô, tôi để xứ này cho dượng ở.

Dượng Ba tôi vốn mê đá gà nên cũng ham thách đố.

Chiều hôm ấy tại nhà chú Chín tôi, cuộc thách đố được giao kèo có nhiều người chứng kiến: Nghĩa là sáng ngày mai, Hai Sanh sẽ ra câu đìa dượng Ba tôi, hai ngày sau, gặt hái xong dượng Ba tôi thuê máy tát đìa, nếu trong đìa còn hơn một ký cá rô thì Hai Sanh sẽ trả lại toàn bộ số cá câu được, còn nếu đúng như Hai Sanh nói, nghĩa là còn dưới một ký cá rô thì chẳng những anh hưởng trọn phần cá câu được mà dượng Ba tôi còn phải chịu thêm cho anh con cá lóc lớn nhất dưới đìa.

Sáng hôm sau, Hai Sanh bắt đầu câu cá trong sự hồi hộp của mọi người. Đến hai giờ chiều, anh xách hai thùng cá vô nhà, chị tôi lấy cân ra cân được mười ba ký rưỡi. Hai Sanh rọng đó chờ, đến hai ngày sau, dượng Ba tôi tát đìa lên chỉ toàn cá lóc, cá trê và cá bổi. Cả nhà dượng Ba tôi cố gắng quần bắt đến nhão nhừ, chỉ được bảy con cá rô.

Sáng hôm sau, chị Hai chở hai thùng cá rô sang trả lại cho dượng Ba tôi nhưng ông không nhận nên chị chở luôn ra chợ huyện bán lấy tiền sắm đồ Tết cho con. Chiều hôm ấy, dượng Ba tôi lựa hai con cá lóc lớn nhất mang qua nhà Hai Sanh, ông nói:

- Con này tao thua tao trả, còn con này tao thưởng cho mày. Đồ cái thằng sát cá! - Vợ thằng Hai đâu, bây lên cò nhỏ hai con cá này rồi luộc hèm cho tụi tao nhậu một bữa coi.

Năm năm trôi qua, sự kiện ấy vẫn còn để lại trong lòng Hai Sanh niềm tự hào man mác, mặc dầu cái tài câu cá của anh không làm cho cuộc sống của anh khá hơn năm năm trước. Phải, làm sao khá hơn được khi lượng cá đồng mỗi năm một giảm mà gia đình anh mỗi năm thêm một miệng ăn.

Hôm nay, dượng Ba tôi báo tin Tư Ngạn trở về, niềm tự hào trong Hai Sanh bỗng bốc lên. Anh uống cạn ly rượu rồi nhổm người lên nói:

- Nè dượng Ba, dượng có gặp thằng Tư Ngạn, dượng nói với nó là câu đìa thì phải câu như tôi vậy mới oai, chớ câu kiểu nó thì đừng có về xứ này nữa.

- Sanh à - Dượng Ba tôi nói - Ở đây bà con không hà, mày nói thiệt coi mày có câu mồi thuốc hôn?

- Không, tui thề danh dự với dượng là tui chỉ câu bằng trứng kiến vàng hoặc ong vò vẽ non, nếu tui có câu mồi thuốc cho ôn binh đại an vật tui cũng được.

Anh Tư Đức, con cô Tư tôi, khều Hai Sanh nói:

- Mày nói ong vò vẽ non tao mới nhớ, sau vườn chú Chín có cái đồn bự quá trời.

- Thiệt hôn? Ở chỗ nào?

- Trên nhánh xoài ở đầu ao Cây lụa.

- Đồn mấy lỗ châu mai?

- Ba lỗ.

- Vậy là ngon rồi, tối nay mình đánh đồn nấu cháo ong non đãi thằng Năm một trận.

Thằng Năm, mày biết ăn thứ đó chưa?

Tôi trả lời:

- Dạ chưa biết.

- Chưa biết thì tối nay ăn cho biết. Ong vò vẽ non mà nấu cháo dừa thì tao nói thiệt với mày, thấy mà hổng ăn thì chết còn sướng hơn.

Bỗng có tiếng thằng Út la vang ngoài vườn:

- Ba ơi , xe tăng, xe tăng.

Rồi nó ôm vô con rùa vàng chừng hơn một ký lô, làm cho cả nhà xôn xao. Bác Năm tôi nói:

- Tháng này mà lên bờ làm ổ đẻ!

Hai Sanh cãi:

- Đâu phải ba, tại bà nội thấy mình nhậu đồ chay tội nghiệp nên bà khiến nó lên nạp mạng đó chớ - Rồi anh quay vào trong gọi chị Hai - Má thằng Lành đem con rùa đi làm nồi da xáo thịt, nhanh lên?

Mấy phút sau, chị Hai mang ra cái lò nhỏ hừng hực than, cái mu con rùa lật ngửa lên, đặt trên lò làm cái nồi nấu thịt. Hai Sanh mời mấy ông già sang chơi, nhưng bác Năm tôi nói:

- Mình chơi kiểu này xỉn rồi làm sao tối nay đánh đồn được tụi bây?

- Tối nay không được thì tôi mai chớ gì - Anh Tám Bành con Bác Hai tôi - nói.

Hai Sanh hỏi tôi:

- Chừng nào thằng Năm mày về?

- Dạ sáng mai em về.

- Vậy thì không được. Để tao tính coi, bây giờ mà nghỉ chơi chờ đến tối thì phí quá, còn chơi nữa thì tối xỉn mất mẹ rồi. Lâu lâu thằng Năm về mà không đãi nó nồi cháo ong thì uổng lắm. Bây giờ, mình mở chiến dịch đánh đồn giữa ban ngày.

Chị Hai đứng ở cửa buồng nói ra:

- Tài khôn nữa à, bữa hổm bị mấy chục vít chưa tởn hả?

- Bữa hổm tại tui chưa có kinh nghiệm, bữa nay tui biết cách rồi. Bà yên chí.

- Tui đã nói không được nghen, cái thứ xỉn xỉn vô rồi hăng máu có ngày bỏ mạng.

Hai Sanh vừa nhảy xuống đất vừa nạt vợ:

- Đàn bà mà biết cái quái gì - Anh quay sang chúng tôi - Tụi bây, thằng nào ra tháo cây sào quần áo làm móc - Hai Sanh lấy chiếc chiếu cột túm một đầu. Xong, anh bảo chị Hai:

- Bà đi bắt nồi cháo lên đi, biểu đứa nào lột trái dừa.

Chị Hai đành phải làm theo.

Hai Sanh ôm chiếc chiếu và vác cây sào ra vườn. Đến ngồi gần ổ ong, anh trùm chiếc chiếu lên đầu và lội xuống ao. Lúc ấy không còn nhìn thấy Hai Sanh mà chỉ thấy giữa ao một đầu chiếu túm lại nhô lên mặt nước.

Mấy đứa con nít kéo ra đứng ở đầu ao hồi hộp chờ xem. Tư Đức nắm tay tôi nói:

- Tao với mày lại xích đằng kia coi mới đã.

Chúng tôi núp dưới đám sậy cách tổ ong chừng ba chục mét. Tư Đức co hai bàn tay đưa lên mắt và nói:

- Mình làm phóng viên quay phim nghen.

Cái ổ ong bằng hai cái thúng táo vàng quánh và quằn quện như da cọp trên nhánh cây, chừng vài chục con ong bò ra bò vào ở mấy lỗ cửa.

Hai Sanh nhón người lên đặt cây móc cẩn thận, chắc chắn ở kèo ong rồi anh thu người nhỏ lại trong chiếc chiếu. Xong, anh giật mạnh cây móc, nhánh xoài oằn xuống, đàn ong túa ra đen nghịt một vùng trời. Cái kèo ong cứ đùng đưa, đùng đưa không chịu gãy. Đàn ong tủa xuống vây quanh Hai Sanh. Thoáng chốc, chúng bu nghẹt trên đầu chiếu. Hai Sanh như không hay biết gì cả, anh cứ ghịt mạnh cần móc và cái ổ ong cứ đùng đưa.

Bất giác, tôi nghe cái bốp trên mí mắt phải, rồi một cái nửa trên lưng. Tôi hốt hoảng và biết ngay chuyện gì xảy ra, tôi co giò chạy. Tư Đức cũng tức tốc chạy theo, anh vừa chạy vừa la:

- Chết mẹ, nó đánh, nó đánh.

Mấy đứa con nít ở đầu ao bên kia vỗ tay hô đồng thanh:

- Vô! Vô! Vô!

Anh Tư Đức quát:

- Đứa nào đi bứt cọng môn nước cho tao! Vô cái gì mà vô, người ta đau chết mẹ mà tụi bây vui lắm hả?

Chúng tôi thoa môn nước lên chỗ ong đánh và chạy lại đầu ao nhìn Hai Sanh, bỗng thấy anh đang cựa quậy trong chiếc chiếu, cái ổ ong vẫn còn nguyên đó và cây móc thì treo lủng lẳng trên nhánh xoài. Đàn ong đớp nghẹt trên đầu chiếu.

Chiếc chiếu bỗng hụp lên hụp xuống rồi trườn một đường dài dưới ao, dạt bèo qua hai bên mé. Trườn được một đoạn, Hai Sanh bỏ chiếu, lặn một hơi dài rồi nhảy qua bờ ao, luồn qua đám lau sậy, đàn ong vẫn đuổi theo.

Chừng năm phút sau, Hai Sanh chạy về, hai mí mắt sưng húp, anh vừa thở vừa nói:

- Đù mẹ, cái nhánh xoài dai quá mà mình lại giựt theo bề xuôi nên giựt hoài không gãy. Hồi nãy tao cột đầu chiếu không kỹ nên mấy con ong nó chui vô làm tao hết năm sáu vít.

Chị Hai chạy ra bứt môn nước thoa cho anh, ánh mắt chị nhìn chồng có vẻ vừa thương vừa giận:

- Tui đã nói mà không chịu nghe. Một hồi nữa ông vô ăn hết cái nồi cháo trắng cho tôi.

Ba anh em tôi nhìn nhau, mặt đứa nào cũng sưng vù, nặng trịch và nhức nhối. Hai Sanh nhìn lại cái ổ ong, đàn ong đã bay về vây quanh như mừng cho sự an toàn sau trận đánh. Hai Sanh lên án:

- Chưa yên đâu con, tao hẹn với mày cho chuyến câu cá rô sắp tới.

Chúng tôi trở vô nhậu tiếp nửa con rùa còn lại, Hai Sanh nói:

- Tại mình nóng ruột mới nông nổi này, chớ đánh nó ban đêm chỉ cần nửa lít đầu lửa là tôi diệt gọn.

Sáng hôm sau, tôi từ giã Rạch Lùm, mang về cái mặt không giống ai, cái mặt sưng vù, nặng nề và nhức nhối. Chỉ vài ngày nữa, nó trở lại bình thường, nhưng kỷ niệm thì chắc không thể nào quên được.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro