Y-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bây giờ, dưa cải bẹ chua ít nhà muối. Cần ăn thì ra ngoài hàng mua mấy nghìn dưa. Dưa cải bẹ chua thường dùng để nấu canh, nhất là canh cá, canh thịt.

Trước đây, nhà nào hình như cũng có vại dưa cải bẹ nấu chua khi đông về, kể cả từ nông thôn đến thành thị. Dưa cải bẹ Đông Dư bẹ dầy, giòn, lá xanh được phơi dưới nắng hanh cho héo rồi được rửa sạch, thái cắt khúc cùng mấy cọng hành tươi, để ráo nước.

Pha muối, đường với nước hơi âm ấm (đều là nước đã đun sôi) rồi nén dưa thật chặt vào vại, đậy một cái vỉ ruồi rồi cho cái nén bằng đất nung hoặc hòn đá nặng lên trên. Để vài ngày là dưa có màu hơi vàng vàng, ăn rất ngon.

Kỷ niệm của tôi về vại dưa là niềm mong ước vại dưa nhà để quá chua và hơi có vẻ… khú. Đó là lúc mẹ tiếc và mang nấu canh dưa. Thời chúng tôi, nghĩa là thời vẫn còn bao cấp và qua thời bao cấp vài năm, nồi canh dưa rất đơn giản: dưa để quá chua được rửa qua nước rồi cho vào xào với mỡ lợn cho săn rồi cho nước lã vào đun sôi làm canh. Có thêm quả cà chua cho bát canh thêm màu sắc càng hay.

Cái thời đó, nhà nào rán mỡ khổ (mỡ lọc từ những miếng thịt không phải bóc từ lá mỡ của con lợn) sẽ có những bát hoặc hũ tóp mỡ để dành. Trẻ con rất thích thú với những miếng tóp mỡ dính tí ti thịt nạc được nấu cùng dưa chua, một ít lạc sống giã dập. Đó là một món ăn có chút xa xỉ với bọn trẻ chúng tôi.

Tôi nhớ nồi dưa chua của thuở đó rất ngon. Nồi canh có đủ mầu sắc hương vị: mầu vàng thẫm của lá dưa, cùng cái mầu đùng đục, sánh sánh của lạc đã chín dừ như mầu hoa xoan điểm tô trên bát canh; mầu đỏ của cà chua, mầu vàng nhạt của tóp mỡ, nếu lấy thìa nếm nước canh sẽ thấy vị chua thanh và béo ngậy thơm nức.

Bây giờ mọi người nấu canh dưa với rất nhiều loại thịt, cá. Nồi canh dưa nấu với cá sẽ đi kèm với ít ớt cho bớt mùi tanh. Canh dưa cũng có thể nấu với thịt bò, thịt lợn, xương sườn… Canh dưa nấu với bạc nhạc của thịt bò có vị chua chua cộng với mùi thịt hầm nhừ ngầy ngậy, mùi thơm thơm của miếng gừng cũng ngon tuyệt. Nhưng tôi vẫn thích nồi canh dưa thuở đói nghèo. Dù sao, thời nấu ăn bằng dầu ăn cũng khó kiếm lại nồi tóp mỡ như năm xưa.

Chưa kịp nói về món kho quẹt mà bụng đã sôi ùng ục rồi. Thiệt là khó chịu quá đi mất !!!

Ấy mà món này thì dễ làm phải biết, và hầu như đã là người con miền Tây thì ai cũng đã ăn qua món ăn "nhà nghèo" này rồi. Nói nhà nghèo bởi vì thực tế, nồi kho quẹt chỉ toàn là cá lòng tong, cá bống, cá kèo, tép rong… thi thoảng có vài khứa cá lóc, cá trê, cục thịt mỡ…..

Với món này, ta chỉ cần cho tất cả vào một cái ơ đất, ướp chút đường rồi đổ nước mắm vào, bắc lên bếp, đợi nóng, cho mỡ nước vào, phi với tỏi bằm. Tỏi vừa ngả sang màu vàng, cho nước mắm, thêm chút đường, bột ngọt, nếm vừa ăn. Bớt lửa liu riu, đợi nước mắm bốc hết hơi nước, cô đặc thành một dung dịch màu vàng, sền sệt, rắc thêm tiêu, tóp mỡ lên bề mặt, là có thể nhắc xuống khỏi bếp. Món kho quẹt thơm lừng đã xong, thêm vài ba trái ớt hiểm đỏ chót là đã con mắt rồi

Đùa là vậy, chứ làm món kho quẹt này kì công lắm đấy, bởi vì để món kho quẹt ngon, hấp dẫn, yêu cầu người chế biến phải canh lửa sao cho nước mắm trong ơ vừa tới lửa, không quá cạn khô, cũng không quá lỏng, sao cho khi người ăn “quẹt” đũa, nước mắm đã cô đặc dễ dàng bám vào; vị kho quẹt không mặn chát, cũng không ngọt quá, mà phải dung hòa giữa ngọt và mặn. Ngòai ra, nước mắm là linh hồn của nồi cá kho quẹt, vì vậy phải loại nước cốt từ những khạp mắm cá đồng để kho, tạo thành một thứ nước đặc sệt, thơm thấu trời xanh, chỉ ngửi thôi cũng thấy đã rồi.

Phụ kiện của món kho quẹt hấp dẫn nhất là ăn với gạo lúa thơm hoặc cơm cháy, nhưng sướng nhất vẫn là cảm giác tự mình ra ra sau vườn hái đầy rổ đọt lang, rửa sạch, cho vào nồi nước sôi, luộc vừa chín tới, vớt ra để vào trong đĩa. Ngoài rau lang, còn có thêm bầu, đậu bắp, đậu rồng, khổ qua, rau muống... . Gắp ít cọng rau, chấm nhẹ vào ơ kho quẹt, đưa lên miệng, ăn cùng cơm nóng, để tận hưởng trọn vẹn vị thanh, bùi của rau, hòa quyện cùng vị mằn mặn, ngòn ngọt của thứ nước chấm vàng sệt kia, một cảm giác ngất ngây, 'sung sướng" tới "óc o" luôn đó chứ.

Đêm trước đổi mới

Ngày đó, đồng lương rất eo hẹp. Kèm theo lương là một số mặt hàng mua theo tiêu chuẩn sổ và tem phiếu: Sổ gạo, sổ phụ tùng xe đạp; phiếu vải, phiếu đường, phiếu thực phẩm như thịt, đậu phụ, trứng, nước mắm, và phiếu chất đốt.

//

//

Người đông con được hưởng phụ cấp con, từ đứa con thứ ba trở đi, mỗi đứa được 5 đồng/tháng đến lúc đủ tuổi lao động.

Có vị 7 - 8 đứa con được phụ cấp 5 - 6 suất, khoản tiền cũng kha khá so với lương, người ít con phải ghen tị. Nhưng phụ cấp ấy bõ bèn gì với những cái tàu há mồm? Hàng hóa ngày càng khan hiếm, giá thị trường leo thang, mọi người trông thông báo bán gạo, bán thực phẩm “như trời hạn trông mưa".

Có bài vè về tình cảnh theo thứ hạng lương. Bài vè khá dài, tôi chỉ nhớ từ bậc lương gần gần với mình:

... Tất ta tất tưởi Là bác chín mươi (90 đồng/tháng).

Dở khóc dở cười Là anh sáu chục

Gia đình lục đục Là chị bốn lăm

Rau cháo quanh năm Là o ba sáu

Cái mồm hau háu Là cậu sinh viên.

Hàng tháng, mỗi sinh viên nếu được học bổng toàn phần là 22 đồng, về sau đồng loạt 20 đồng/tháng, đủ tiền ăn ở nhà tập thể, còn vài đồng mua xà phòng, kem đánh răng. Cơm sinh viên độn ngô, độn sắn, hoặc chiếc bánh mì hấp vừa chua, vừa cứng, to bằng... cái nắp chuông xe đạp ăn với “canh toàn quốc”, “nước mắm đại dương” (canh toàn nước, nước mắm là nước muối).

Ăn thế, nên lúc nào cũng hau háu đói. Đợi ngày phát lương sao mà lâu. Có người lĩnh lương xong, cầm tiền lương giơ lên và hát phỏng theo mấy câu trong một ca khúc nổi tiếng: ... "Cho ngày nay, cho ngày mai, và cho... 3 ngày sau!". Vị chi là lương chỉ đủ cho... 5 ngày.

Thực ra, bài vè nói quá lên, câu hát nhại cũng hát quá lên. Dẫu ít cũng phải lo làm thêm bù vào rồi chia ra cho đủ 30 ngày, chứ nếu chi chỉ cho 5 ngày thì sau đó chẳng lẽ treo niêu? Được cái thiếu thốn thế mà vẫn vui. Không vui thì làm sao mà hát lên được như thế!

Hôm bữa đi chơi nhà con gái, cháu mua gửi về cho TL ít bột bánh bao, bột này mà làm bánh bao chay thì tiện lắm. TL làm bánh xong, cho tui 2 chiếc khi tui đang nằm chơi ở hiên nhà thờ Mẹ. Cầm chiếc bánh trắng ngần, thơm phức, khi bẻ ra thấy bánh xốp như bông mà lòng tui nghẹn đắng... Tui nhớ đến những chiếc "bánh bao" thời chiến chúng tui ăn khi ở trong rừng...

   Đó là những năm 1965 - 1968 khi tui đang học sư phạm trung cấp. Khi đó lương thực được gọi là mặt hàng chiến lược, phân phối bằng định lượng cho các đối tượng lao động. Sinh viên và dân thành thị là đối tượng hưởng mức thấp nhất : 13,5 kg/ tháng. Chao ôi là đói khổ, nhất là lũ trai tráng đang tuổi "bẻ gãy sừng trâu" chúng tui. Mà 13,5 kg ấy có phải toàn gạo đâu, thêm bắp xay, khoai lang, củ mì, may mắn lắm thì có mấy ký bột mì đen do nước ngoài viện trợ. Khi nào có bột mì thì chúng tui được ăn "bánh bao" thay cơm.

   Gọi là bánh bao cho oai, thực ra nhà bếp cho nước vô nhồi bột, rồi nặn từng "cục" bằng nắm tay, cho vô chảo nước đang sôi để luộc. Sản phẩm bánh bao đen thui, nặng trình trịch (Có bữa nhận xong khẩu phần bánh bao, tui giơ bánh lên giả bộ ném thắng bạn và quát: "Ông ném chết cha mi chừ" - Sau vụ đó tui bị hạ hạnh kiểm vì có lời nói và hành vi "mất lập trường"). "Xúp" để ăn với "bánh bao" là canh rau muống "toàn quốc" nấu với "nước mắm đại dương"(Tui giải thích ngay kẻo Hươngkhó hiểu : "nước mắm đại dương" nghĩa là muối, gọi là "toàn quốc" nghĩa là nó lõng bõng chỉ có nước. Cũng một lần tui đùa thắng bạn về món "xúp" này mà tui bị kiểm điểm : Khi bưng tô canh được chia, tui quát hắn : Mi cởi quần ra lội từ bờ này sang bờ kia tô canh xem bẹn mi có dính cọng rau nào không).

  Khổ thế, nhưng học vẫn giỏi và vẫn yêu đời. Thế mới lạ kỳ và khâm phục cho công tác giáo dục tư tưởng chính trị thời đó. Trong hội nghị sinh viên giỏi, tui nghe thầy Hiệu trưởng nói :"Người ta ăn xúp thịt nên học giỏi, các em ăn xúp rau muống mà vẫn giỏi không thua kém người ta". Khi đó tui ngó thấy thầy rơm rớm lệ...

   Gần ba mươi năm sau, noi gương thầy Hiệu trưởng xưa thương chúng tui, lại nghĩ khi bản thân mình đang tuổi ăn tuổi ngủ mà bị đói thì khổ thế nào, nên khi trường tui ở trên Cao Nguyên có học sinh nội trú, tui trăn trở đêm ngày để sao với tiêu chuẩn tiền ăn 5 ngàn/ngày, các em có được bát cơm muối mè trong bữa sáng... Và các cô cấp dưỡng đã giúp tui làm được. Đến bây giờ nghỉ hưu đã mấy năm, tui vẫn quý mến mấy cô vì đã tần tảo giúp tui lo cho trò ngày đó...

Người đàn ông ấy là Đặng Văn Trọng, chủ quán Nam Định trên đường Võ Văn Tần, quận 3. Năm 1985, khi tình hình biên giới phía Bắc căng thẳng, chàng thanh niên Trọng, vừa tròn 20 tuổi, tình nguyện gia nhập quân đội. Các anh lính trẻ thường ngại vào bếp làm nhiệm vụ anh nuôi, Trọng xung phong. Ông Trọng nhớ lại: “Ngày còn ở nhà, mỗi khi trong làng có tiệc, tôi thường luẩn quẩn phụ việc, đỡ đần cho các bác lớn tuổi. Không ngờ vào quân đội, lại trở thành người làm bếp”.

Binh đoàn của ông Trọng có 700 người, một anh nuôi phụ trách nấu ăn cho 100 người. Bữa cơm trong giai đoạn đất nước khó khăn được hình dung trên câu nói cửa miệng của nhiều người lúc bấy giờ là “nước mắm đại dương, canh toàn quốc”. Bữa ăn đơn sơ của lính có ngon, đủ chất hay không đều nhờ vào tài nghệ của các anh nuôi. Lúc ấy, quân đội được cấp một loại mỡ bơ dùng chiên, xào thay cho mỡ heo. Nhưng khổ thay loại bơ mỡ này có mùi khó chịu, nhiều người không quen ăn. Ông Trọng ra chiêu khử mùi là “cho lửa thật lớn để bơ mỡ sôi bùng lên rồi đổ nước lạnh vào”. Một bí quyết khác được truyền từ đời anh nuôi này xuống đời anh nuôi khác là dùng gạo rang cháy rồi pha thành trà uống cho đỡ thèm. Ông Trọng tán chuyện: “Trong rừng chỉ có măng đắng, rau dền gai, rau tàu bay. Rau dền gai dễ ăn nhất nhưng tìm được một cây là cả vấn đề. Còn rau tàu bay thì khó chơi lắm!” Vậy là phải tốn hai lần luộc, rồi rửa sạch để khử cái vị khó ăn của loại rau “khó chơi” này.

Sau năm năm làm anh nuôi trong quân đội, ông Trọng về quê nhà ở xã Yên Đồng huyện Ý Yên tỉnh Nam Định lấy vợ, lập nghiệp. Làm ruộng mãi không khá, vợ lại bị đau cột sống, ông quyết định Nam tiến để con cái đỡ khổ.

Năm 2000, vợ chồng ông gửi hai con lại cho bên ngoại nuôi rồi dắt díu vào Sài Gòn kiếm sống với vỏn vẹn 200.000 đồng mà tiền xe đã ngốn hết 70.000 đồng của họ. Được người quen giúp đỡ, ông Trọng nấu cháo lòng bán ở chân cầu chữ Y (quận 8). Xe cháo lòng nấu theo kiểu cháo huyết Bắc dần dần nổi tiếng. Ông Trọng kể, bây giờ đứng từ xa nhìn nồi cháo là biết ngon, dở. Nồi cháo quấy lên khói bốc ngùn ngụt, nhìn hấp dẫn nhưng không ngon. Bởi cháo nấu lửa to bay hơi nhiều khiến cháo mất chất, bị mặn, hạt cháo nhừ trở thành lẩu cháo. Nồi cháo bán dạo của ông vẫn giữ được độ nóng cần thiết, hạt cháo nở hoa. Lòng heo, da heo, thịt… ông không bày trên tủ kính hay trong nồi cháo mà cho vào xửng hấp để giữ độ nóng.

Trong quân ngũ, có cơ hội hành quân đến nhiều nơi, ông phát hiện món ăn ở quê nhà và các vùng ven sông Hồng gần giống nhau. Hương vị, cách chế biến cơm canh giống nhau ở điểm ít dầu mỡ, sử dụng rau đồng quê, rau càng hoang dã càng thích. Ông Trọng nghĩ: “Ẩm thực truyền thống Nam Định có nhiều món ngon. Bản thân mình thừa lực để quảng bá món ngon quê hương. Làm cái gì thực tế sẽ có khách”.

Gần mười năm bôn ba kiếm sống ở Sài Gòn, dành dụm được hơn trăm triệu, vay thêm người thân, tháng 6.2010 ông Trọng mở Nam Định quán. Ông Trọng nói: “Tính kiên trì của người lính giúp tôi làm từ cái bé đến cái lớn!” Gần 50 món ăn truyền thống ở quán Nam Định được ông chế biến theo kinh nghiệm của ông bà và người già trong làng. Món lẩu cua Nam Định xuất phát từ chuyện ngày xưa người lớn trong làng khi uống rượu đều ăn loại lẩu này. Món chạo chân giò “chỉ Nam Định mới có” bởi là món xưa, chế biến cầu kỳ. Món chạo ngon phải khô, các nguyên liệu rời, mang đủ hương vị: chua của khế và chanh, chát của chuối xanh, cay của riềng, thơm và nóng của tỏi, bùi của vừng, kết hợp với gia vị, rau thơm và mắm tôm. Món này chấm với tương bần. Bí quyết được ông Trọng tiết lộ: “Chân giò nướng khô vừa đủ chín, chanh, tỏi và riềng sẽ làm thịt chín tiếp”.

Sắp tới quán Nam Định sẽ giới thiệu hai món mới là bánh đúc riêu cua và gỏi cua. “Tôi chọn những món xưa dân dã, không ai để ý đến thì mình làm. Chế biến những món đặc biệt khách dễ nhớ và quay lại”, ông Trọng thổ lộ.

Kẻ tự vẫn

Trường đại học nằm trên đỉnh đồi. Mộ của hắn nằm cô quạnh dưới hàng dương liễu. Ngày bạn bè tiễn hắn ra đây, cả triền đồi còn ngút ngàn màu xanh. Chiều chiều trên cánh đồng xa, có đàn cò trắng bay đi bay về. Hắn không sợ cô quạnh. Hắn chỉ sợ sự ồn ào, khi màu xanh quanh chỗ hắn nằm cứ mất dần đi. Quán nhậu, quán net, quán ôm, quán cá, quán đề… thi nhau mọc lên lố nhố. Thửa ruộng cuối cùng rồi cũng bị san bằng. Cây dương cuối cùng rồi cũng bị đốn bỏ. Người ta đổ beton lên chỗ hắn nằm. Quán karaoke ôm phía trên rèm che kín mít, nhạc xập xình, đèn nhí nháy, ngày cũng như đêm. Hắn nằm ngay dưới dàn karaoke, không cách chi ngủ được. Mấy thằng vô quán karaoke ôm thường là mấy thằng không biết hát. Chữ nhảy hai ba hồi, tay chân bắt nhịp loạn xạ mà vẫn không vô đúng nhịp. Vừa hát vừa rượt theo chữ, té lên té xuống mấy bận mà cứ ham té. Mấy con nhỏ bán quán ôm cũng không phải là ca sĩ. Có một con tóc dài, giọng khoẻ hung, nhưng hắn ghét con nớ. Gặp ai nó cũng ôm, cũng kể lể, em là sinh viên, vì hoàn cảnh khó khăn phải ráng làm thêm, để kiếm tiền đóng học phí.

Hắn chán nghe tiếng nhạc xập xình, tiếng hát lập lờ, tiếng tâm sự ỉ eo. Hắn bò ra khỏi tấm áo quan mục rữa, đi lang thang trên đồi.

Mấy thằng sinh viên đàn em của hắn, bây chừ là giảng viên đại học. Thằng nhỏ sinh viên ngày mô ném nắm đất xuống huyệt cho hắn, hiện là trưởng phòng đào tạo. Buổi sáng tụi nó lên giảng đường dạy đạo đức, cho sinh viên ăn cơm cao su, ăn mì dây thun. Buổi chiều tụi nó ra ngồi quán uống bia, ôm gái. Sinh viên quán bên này, thầy giáo quán bên kia. Thỉnh thoảng thầy trò cũng xuề xoà ngồi chung một bàn nhậu, là để tâm sự chuyện thi cử. Những bàn nhậu thức ăn ê hề. Những đứa bạn cũ cố phình bụng ra nuốt. Mấy con nhỏ sinh viên dỏm ỏn ẻn rót thêm bia cho thầy. Mặt thầy phệ. Bụng thầy phệ. Một thầy xơ gan. Một thầy ngộ độc thực phẩm. Một thầy ngộ độc rượu. Phải đi xa như hắn, xa thật xa rồi, quay lại nhìn mới thấy xót thương. Ăn. Ăn. Ăn. Ăn nữa. Ăn mãi. Để trả thù những ngày đói khổ. Bây chừ không ai nhắc đến cái đói. Bây chừ cái đói không còn nằm trong bao tử. Cái đói chui vô nằm trong não, vô cảm mà ám ảnh không nguôi.

Câu chuyện bắt đầu vào một ngày mùa mưa, năm đói.

Hắn hoá điên. Chỉ có người điên mới nhận diện được nhau trong thế giới người điên. Khi điên rồi hắn mới biết, những đứa sinh viên đồng khoá đã điên trước hắn rất lâu. Người điên thường sợ sự thật, sợ hình ảnh của chính mình trong gương và ghét tắm rửa. Những thằng điên tìm đến nhau, tụ tập thành nhóm, chúng mang một khuôn mặt, một nụ cười, một giọng nói. Chúng nói rất nhiều, nói rất to, vừa nói vừa vuốt đuôi nhau. Chúng rất sợ bị phát hiện mang bệnh điên, cứ phải giấu giấu giếm giếm, sơ hở lung tung. Hắn điên trễ nhưng điên nặng hơn bất cứ đứa nào. Và hắn quyết định, điên không giống ai, điên công khai. Hắn bỏ học đi lang thang suốt đêm trên đồi, sục vô từng góc giảng đường tối tăm, leo lên những bờ sân thượng chênh vênh. Đám nữ sinh đi học ban đêm thấy hắn đều bỏ chạy. Hắn cười sằng sặc, đuổi theo. Răng mà chạy. Chạy đi mô chừ. Đừng chạy, mình hiền lắm mà. Đừng chạy. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.

Buổi sáng, hắn bò về cư xá, ngủ vùi trong góc nhà đầy rác, thoi thóp giữa cơn đói. Hai lá bao tử ép dính vô nhau. Một đàn kiến đang tìm cách chui qua. Tụi nó bò nhột nhạt, thỉnh thoảng cắn lên thành bao tử một phát đau điếng. Hắn ôm bụng quặn thắt. Mồ hôi tướp ra. Còn hơn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới giờ ăn cơm trưa. Lại nhắm mắt thiếp đi. Con chuột mẹ làm tổ trong chiếc giày vải của hắn, đẻ sáu con. Hắn cắt mũi giày, làm cửa cho mẹ con chút chít chui ra chui vô. Sinh viên còn đói, chuột lấy chi mà nuôi con. Hắn chép miệng, răng mà tội nghiệp, cho tụi bây luôn chiếc giày. Mấy con chuột chút chít. Hắn cười sung sướng, lại thiếp đi trong cơn đói tràn ngập tình yêu thương. Còn hai tiếng đồng hồ nữa thì tới giờ ăn cơm trưa. Mấy đứa điên vỗ tay reo hò ầm ĩ ngoài cửa sổ. Mấy con chuột thức giấc. Hắn thức giấc, chửi tán loạn rồi lại cười sằng sặc, đuổi theo mấy thằng điên, đuổi theo đoàn múa lân lên hội trường. Vui, vui hè. Hắn thập thò dựa cửa ngó vô, con tim bỗng nghẹn ngào xúc động. Cha mạ ơi, trong nớ, đại hội đoàn trường.

Người điên cũng có lúc tỉnh, chớ sao. Một cán bộ đoàn ưu tú như hắn, lẽ nào nhìn cái sân khấu kia mà không tỉnh lại. Hai lá cờ đỏ thắm. Một tấm hình. Một bình bông cúc. Một tấm bảng viết tên các ứng cử viên.

Chỗ của hắn là ở trên nớ, sau cái bục gỗ có bình hoa cẩm chướng, có cái micro màu đen. Hắn phải lên sân khấu, đứng đúng vô chỗ của mình. Hắn đã từng nhiều lần leo lên sân khấu, đứng ngay sau micro, hăng say ca ngợi những điều đẹp đẽ tuyệt vời.

Hắn trong bộ dạng còm ròm, xanh xao, áo quần bèo nhèo, râu tóc luộm thuộm. Có răng mô. Lý tưởng cao đẹp toả sáng ở trong tim mà. Hắn cần không hàm hồ gào thét như những diễn giả khác. Để làm chi. Một cán bộ đoàn xuất sắc như hắn luôn biết cách truyền đi ngọn lửa. Hắn vừa lên tới nơi liền cất giọng nói, mạnh mẽ và tự tin. Phải đi ngay vô vấn đề trước khi một thằng ngu nào khác nhảy ra cắt ngang.

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo đảng bộ, kính thưa ban giám hiệu trường, kính thưa đại diện các ban ngành đoàn thể, kính thưa ban chấp hành đoàn thanh niên đương nhiệm, cùng các bạn sinh viên đoàn viên thân mến. Lần cuối cùng các bạn ăn hủ tiếu mì là khi mô? Còn ai nhớ được hương vị của nó không? Mì trứng? Hành phi? Nước lèo tôm khô? Bây chừ là mười một giờ trưa. Còn một tiếng đồng hồ nữa, cửa nhà ăn tập thể sẽ mở. Bữa ăn trưa của sinh viên có thứ chi? Cơm gia súc, canh đại dương, nước mắm toàn quốc. Ăn vô no cồn cào, đói rã rượi, chất lượng học tập giảm sút. Còn một tiếng đồng hồ nữa mới tới giờ ăn. Các bạn cứ bình tĩnh, ngồi im ở đây. Đúng một tiếng đồng hồ nữa thì đi ăn cơm. Tôi mạn phép xin chút thì giờ quý báu còn lại này để báo cáo trước đại hội đoàn trường một phương án.”

Chống đói để nâng cao chất lượng học tập.

Hắn cười hiền lành. Người điên thường có nụ cười trong sáng, thánh thiện. Có thực mới vực được đạo. Với một lực lượng trí thức ưu tú, một đội ngũ những nhà khoa học xuất xắc, một tầng lớp lãnh đạo sáng suốt, trường đại học của chúng ta có thể đạt được những thành tích chống đói mà không nơi nào trên thế giới đạt được. Đơn cử một biện pháp nhỏ, phân khoa Cao Su có thể kết hợp với phân khoa Hoá Thực Phẩm nghiên cứu ra một loại cơm cao su. Cơm cao su dĩ nhiên phải trắng rời như cơm không cao su. Cơm cao su phải mềm dẻo thơm ngon như cơm không cao su. Nhưng cái đặc biệt là, loại cơm cao su này ngày hôm trước ăn vô bụng, ngày hôm sau thải ra còn nguyên xi. Sinh viên chỉ cần mỗi buổi sáng đem theo lon hứng lại phần cơm đó, rửa sạch, buổi trưa, buổi chiều hấp lại ăn tiếp. Mỗi sinh viên vô trường được phát hai lon cơm cao su. Nhai đi nhai lại, rửa tới rửa lui, sau năm năm thì tốt nghiệp đại học. Bụng lúc nào cũng đầy, tinh thần lúc nào cũng khoai khoái. Rứa là an tâm, chuyên chú học tập. Dĩ nhiên là hương liệu chế tạo cơm cao su phải có độ bền tối ưu, để đảm bảo độ ngon miệng. Hắn cười hiền lành thánh thiện, chậm rãi thuyết trình về các loại hương liệu. Hương cơm gà quay, hương cơm tấm bì, hương cơm cà ri… Hương cơm gà quay phải sực mùi ngũ vị hương, mùi xì dầu. Hương cơm tấm bì phải đượm mùi thính bì, mùi mỡ hành… Không! Không! Phải có đủ cả mùi nước mắm tỏi ớt, mùi đồ chua dưa kiệu, mùi thịt sườn ram… Hắn chép miệng nhai ngon lành. Cái mùi vừa béo mỡ, vừa đằm thính, vừa thấu chua cay… Tươm ra trên từng muỗng cơm. Ăn vô bụng rồi ợ lên ba tiếng. Ọt. Ọt. Ọt. Cái mùi vẫn còn nguyên rứa, quyện trên đầu lưỡi, xốc lên vòm mũi. Vừa nói hắn vừa nuốt nước miếng. Tóp tép. Tóp tép. Đôi mắt hắn sáng rực. Cặp mắt người điên thường rất sáng, tưởng như cả nguồn sức sống cạn kiệt dồn hết vô đôi mắt. Hắn nói say sưa, giọng khàn đi. Thỉnh thoảng hắn dừng lại, đưa ngón tay trỏ quẹt quẹt ngang đầu mũi. Hít hà. Hít hà. Hà hà. Đẩy bớt mùi cơm gà để hửi mùi cơm sườn. Ăn vô cũng mùi nớ, thải ra cũng mùi nớ, bất biến. Hà hà, bất biến. Không đổi. Hắn nhặt mớ giẻ lau ở góc cánh gà, định nhổ phẹt phẹt phẹt…mấy bãi nước miếng lên túm vải rách. Nhưng cổ họng hắn khô quắt. Khẹt khẹt. Hắn chạy tới bên bình bông cúc, túm chùm bông liệng ra góc sân khấu. Chùm bông vàng rực rơi tả tơi. Răng mà phí của – bình bông ni đáng giá hai tô hủ tiếu – nhưng hủ tiếu là hủ tiếu, hoa là hoa – ăn được và không ăn được. Hắn bưng bình bông lên uống ừng ực. Nước cắm bông thúi lum lủm nhưng mát lạnh – nước mát như nước giếng nông trường – mình đưa sinh viên xung phong về nông trường cuốc đất với thanh niên xung phong – vừa ăn khoai mì, vừa cuốc đất, vừa hát hò – sướng ngất – lý tưởng chói ngời – bụng vẫn đói – có răng mô – ta đốt lửa cho đồi hoang ấm mãi – hẹn người lên tìm lại dấu chân xưa. Phẹt phẹt phẹt. Hắn cầm mớ giẻ lau tẩm nước miếng, lau lên tấm bảng ghi danh sách ứng cử viên ban chấp hành đoàn trường nhiệm kỳ mới. Tấm bảng nằm chễm chệ giữa sân khấu. Nước miếng của hắn kéo ngang kéo dọc qua những cái tên ứng cử viên được viết hoa nắn nót. Đám nước miếng nhầy nhụa kéo qua những cái tên mà đám sinh viên ghét cay ghét đắng. Mấy cái bao tử bỗng giãn ra khoái trá. Ừa, bôi đi, bôi hết mấy cái tên chết tiệt vô tích sự đó đi. Sự hả hê lồ lộ ra trên những bản mặt. Cả đám ứng cử viên trang trọng ngồi phía bên kia, cũng có khối đứa đang sung sướng, hí hửng nhìn tên đối thủ của mình bị nước miếng chà quẹt. Niềm sung sướng ti tiện hèn mạt khi có người khác làm giùm cho mình cái điều mình muốn. Dù là một thằng điên. Hắn khoái trá nhận ra điều đó. Người điên thường khôn ranh. Hắn lau chậm rãi, kéo dài khoái cảm cho mọi người, dù là thứ khoái cảm giả tạo. Những thằng đau khổ vì tên mình bị lau cũng vẫn sung sướng nhìn tên mấy thằng khác bị quẹt nước miếng. Nước miếng dây dưa trên bảng đen thành những vệt trắng vằn vện. Hắn viết chồng lên mặt bảng lem nhem một đám công thức hóa học có những nối carbon nhằng nhịt và những nhánh hydro lòng thòng – để loè đám cán bộ giảng viên miền Bắc cờ lo, hy đờ rô. Nếu chế tạo thành công món cơm cao su, chúng ta có thể nghiên cứu thêm món phở dây thun, hủ tiếu dây thun, bánh canh dây thun, mì dây thun… Dĩ nhiên màu sắc, độ đàn hồi của từng loại sợi phải tương ứng với đặc tính từng loại bột. Bột gạo – bột mì – bột năng. Bột năng làm từ khoai mì – dưới chân đồi khoai mì xanh ngắt – dân quanh vùng cũng đói vàng mắt – sinh viên mò xuống đào trộm khoai mì bị đánh què chân – khoai mì xay, chắt thành bột năng – bã khoai mì nấu cháo cho heo ăn – heo chê – sinh viên xin bã khoai mì về nấu cháo – không mập được như heo – đêm nằm mơ thấy toàn ma quỷ – xanh xao rã rượi. Hắn thôi nói về những món cao lương mỹ vị, hắn đổi giọng, nói về cái đói của sinh viên. Hắn nói về những buổi trưa nắng ở giảng đường đói cồn cào gan ruột. Về những giờ học trôi qua rã rượi, những giáo trình học nhai đi nhai lại dai nhách như mì dây thun. Về những đêm chong đèn biết sinh lực mình đang tàn dần, thoi thóp như ngọn bấc cạn dầu… Hắn nói bằng chất giọng hư hao của một thằng nhịn đói đã nhiều ngày. Thỉnh thoảng hắn ngừng lại, chăm chú nhìn những cái ngón tay đóng ghét đen đủi, để khán giả ngậm ngùi tự nhận ra, may quá, dù đói rụng rún, đôi bàn tay của mình vẫn còn đủ cả mười ngón. Cả hội trường lặng im xốn xang. Đã gần mười hai giờ trưa, ai cũng đói rụng rún. Những cái bụng vừa được ăn no lại trống rỗng. Cảm giác bị lừa bịp, hoang mang mê muội, đói no lẫn lộn. Tiếng cái bụng rỗng sôi rồn rột trên sân khấu. Rồn rột. Rồn rột, chui qua lỗ tai. Rồn rột, chui vô bụng mình. Rồn rột kêu réo ở trong nớ. Có đứa mô đưa tay lên xoa cái bụng lép kẹp. Hắn xoa bụng hắn. Bàn tay dơ hầy đặt lên lớp vải áo đen đúa bèo nhèo. Đám sinh viên nhìn hắn xót xa thương cảm. Hắn thấy mừng vì mặc bộ đồ cũ lên sân khấu. Ban lãnh đạo nhìn hắn khinh bỉ, miệt thị. Hắn thấy buồn vì không mặc đồ mới lên sân khấu.

Hắn thều thào hết hơn một giờ đồng hồ. Đứa mô chịu đựng nổi thì đờ đẫn ngồi nghe. Đứa mô không chịu đựng nổi thì đã ngủ khò khò. Đó là nghệ thuật. Ban lãnh đạo trường ngoẹo đầu ngủ sau mấy bình bông cẩm chướng. Ai cũng đói, ai cũng mệt. Mười hai giờ ba mươi. Thầy hiệu phó bỗng giật mình, tỉnh ngủ. Thầy ngơ ngác nhìn quanh, lơ mơ hiểu được tính chất đểu cáng của sự việc. Thầy nhìn đồng hồ, giận dữ phát hiện ra mình ngủ quá lâu. Thằng ốm đói vẫn thều thào ghê rợn trên sân khấu. Bụng thầy rồn rột kêu réo. Đâu phải sinh viên mới biết đói. Lãnh đạo mà không ăn thì cũng đói. Thầy la lên, mấy đứa cán bộ đoàn đâu, lôi cái thằng bầy hầy này xuống sân khấu. Hắn cười sằng sặc, mấy thằng cán bộ đoàn đều là đàn em của hắn. Một phần lý tưởng trong đầu tụi nó là do hắn cấy vô. Hắn không thèm chống cự, cứ lả người ra để mấy đứa đàn em dìu đi. Đi ngang qua hàng ghế sinh năm thứ nhất, cặp mắt ranh mãnh của hắn bỗng hé mở và hắn bắt gặp nó. Một thằng nhỏ, bản mặt hiền khô bấm ra sữa. Tấm huy hiệu đoàn cài ngay ngắn trên ngực áo. Hắn hứng chí cười, đôi môi hắn nhấp nháy nhắn nhủ.

“Mì dây thun, hà hà, mì dây thun. Chỉ nhai đi nhai lại, rửa tới rửa lui, sau năm năm là thành kỹ sư. ”

Thằng nhỏ co rúm người lại. Mấy đứa sinh viên khác cũng co rúm người lại, ruột gan thắt lại, bụng đói cồn cào. Hắn biết, hiệu ứng một giờ diễn thuyết của hắn để lại sẽ rất quái gở. Cái cảm giác được ăn đầy bụng mà không no. Cảm giác sung sướng mà không khoái cảm. Cảm giác cồn cào, xót xa không nằm trong thể xác mà hành hạ đay nghiến tinh thần. Cảm giác trống rỗng ngu muội bất lực hèn hạ. Cảm giác thèm khát mà ghê tởm. Mấy đứa con gái quẹt mồ hôi trán. Những đứa con gái suốt những kỳ đại hội đoàn, chỉ ngồi đệt mặt chờ người ta xỏ mũi dắt đi. Bọn con trai lơ láo nhìn nhau. Những đứa con trai suốt mấy năm đại học đầu óc chỉ tằn mằn chuyện gạo mắm. Cả hội trường hối hả kéo ra nhà ăn.

Hắn ngồi trước phần ăn, cười sằng sặc. Một dúm cơm gạo mốc vàng lẫn hạt cỏ hạt sạn. Một chén lưng canh đại dương, lõng bõng mênh mang nước biển. Một muỗng nước mắm toàn quốc, chỉ toàn là nước. Hắn cười sằng sặc, bọn sinh viên tụi bây cứ ngồi nhìn những thứ ni mà nghĩ tới cao lương mỹ vị.

Hai tuần sau, một buổi tối, hắn leo lên sân thượng giảng đường. Hắn đứng thật lâu ở đoạn thoát nước cho mái nhà. Chỗ này mùa mưa rêu đóng trơn tuột. Bám lên thành xi măng, đu qua máng xối là tới một khoảng sân rộng. Cảm giác hụt hẫng chơi vơi, chực té lộn cổ xuống bao giờ cũng căng thẳng thắt tim. Hắn sẽ giả bộ quên bám lên thành xi măng, sẽ lảo đảo, sẽ “á” lên kinh hãi. Hắn sẽ vội vàng đưa hai tay chụp lấy thành xi măng, sẽ giả bộ trịnh trọng lắc đầu như tự trách mình bất cẩn. Tim hắn sẽ thắt lại cảm giác mạo hiểm mơ hồ, bên dưới sâu chênh vênh. Hắn đứng trên mái nhà, ngước đầu lên, vũ trụ đầy sao. A ha, chào 61, đỉnh cao muôn trượng. Hắn cúi nhìn xuống, cánh đồng tối đen đom đóm lập lòe. Hắn cười sung sướng, quê mình kìa, đất cày lên sỏi đá, quê mình ở dưới đó thôi. Sảy chân là rớt về quê.

Hắn định sảy chân thật. Người chết vì lý tưởng có quá nhiều, những bài ca tụng cứ dài dằng dặc ra mãi. Hắn muốn khác họ, muốn đảo ngược mệnh đề. Hắn sẽ chết vì không lý tưởng. Chân hắn đứng mấp mé thành máng xối trơn trợt. Khoảng không bên dưới sâu thẳm, tối tăm. Hắn bước về phía trước, chợt nhận ra hai bàn chân để trần đen đúa. Bậy quá – mình quên nói với con chuột – còn một chiếc giày giấu sau kẹt cửa – chao ôi – không còn dịp nữa rồi – bậy quá. Thân hình hắn chúi về phía trước. Hắn dang tay ra, cười sằng sặc. Cảm giác trượt từ đỉnh cao lý tưởng vào vực sâu không lý tưởng thật là tuyệt diệu. Chỉ tiếc là nó quá ngắn ngủi, cảm giác bồng bềnh chưa kịp tận hưởng, cơn chấn động dội ngược từ phía sau làm hắn kinh hãi. Hồn hắn vọt ngược lên không trung. Thân xác nằm bất động bên dưới. Dòng máu rỉ ra lặng lẽ. Hắn tò mò quay lại nhìn thân xác mình, nó nằm đó, hiền lành như đất cát.

Hắn sảy chân vào ban đêm, nằm chết thẳng cẳng trước sân trường. Hai tay dang rộng, mắt nhìn thẳng lên trời, đôi môi mỉm cười. Cả trường náo động, sinh viên nườm nượp kéo lên xem. Gia đình hắn ở quê nghèo tơ xơ mướp, đành gửi xác con lại trường. Ban giám hiệu muốn đưa hắn ra chôn sau đồi, nhưng không ban ngành đoàn thể nào chịu bỏ tiền sắm áo quan. Mấy thằng sinh viên cùng lớp kéo lên giảng đường, tụi nó chẻ bộ bàn học ra đóng áo cho bạn. Hắn ngồi bên cạnh, nhìn bạn bè gõ búa, nhớ từng kỷ niệm nhỏ nhặt chia sẻ với nhau. Những ngày mưa nắng ở nông trường – thằng mô té ở cầu cá – những buổi chiều gánh phân đi qua cánh đồng lầy lội – thằng mô tuột dép tìm hoài không ra – những cánh đồng mía ngập mặn – những đêm đốt lửa trên đồng nghe câu hò vọng cổ – mấy con đỉa no tròn bám ở bắp chân – mấy thằng bạn nghèo nước mắt mồ hôi nhễ nhại, gõ từng nhát búa lên tấm áo quan – vì mình mà bạn bè cực khổ – vì mình mà thế hệ đàn em mất một bộ bàn học – mình bỏ cuộc rồi – không đi tiếp nữa đâu. Hắn đưa tay lên chùi nước mắt, bỗng ngỡ ngàng nhận ra, mình đã hết điên từ bao giờ. Chết là hết. Cơn điên ngắn ngủi đi qua đời hắn và chấm dứt bằng cái chết.

Cả trường lũ lượt đi đưa. Bạn quen và bạn không quen. Những cục đất tống tiễn ném xuống huyệt, như dội vô tim hắn. Mấy đứa con gái xô vô nhau mà khóc. Mấy đứa con gái ban đêm lên thư viện học hay bị hắn đuổi chạy. Tội nghiệp – khóc cái chi – chẳng lẽ mình chết rồi cuộc đời ni bớt vui – khóc cái chi – choáng váng – ngậm ngùi – dằn vặt – cảm thông – đau thương – tự vấn – ai mà biết tụi con gái nghĩ gì – nhưng thôi, mấy đứa về đi – đừng nghĩ gì nữa.

Đừng nghĩ gì nữa.

Hắn nằm đó giữa lòng đất, hai bàn tay thong dong đặt lên cái bụng lép kẹp. Hắn chờ bạn bè lấp huyệt để thanh thản yên giấc. Chết vì lý tưởng hay chết vì không lý tưởng – tất cả đều về hư vô.

Hắn mở mắt nhìn lần cuối khoảng trời trong xanh, định bụng sẽ phiêu diêu chìm vào giấc thiên thu. Giữa lúc đó, hắn lại nhìn thấy nó, thằng sinh viên năm thứ nhất đang lò mò ra đứng bên bờ huyệt. Bàn tay nó đưa ra trước, run lẩy bẩy. Nắm đất nằm yên trong tay nó, không rơi xuống. Hắn ngóc đầu nhìn nó, con tim bỗng quặn đau. Chết rồi răng vẫn còn đau – hư vô là cái chi chi. Thằng nhỏ kia là hình ảnh của hắn những ngày đầu náo nức bước chân vào trường đại học. Có bao nhiêu thằng như vậy. Có bao nhiêu những đứa trẻ tuổi tâm hồn trong sáng tràn đầy niềm tin yêu như vậy. Tấm huy hiệu đoàn cài thẳng thớm trên ngực áo. Hắn thở dài, ném nó xuống đi, mày ném nó xuống cho tao, còn chờ chi nữa. Thằng nhỏ nhìn xuống lòng huyệt đôi mắt mở to hoang mang. Hắn lại gắt, mày thả nắm đất xuống cho tao, còn giữ làm chi nữa. Chỉ là cát bụi – nắm đất này không ném lại đây, phải mang theo suốt cuộc đời, làm răng mà sống nổi – phải biết bỏ lại để mà đi tiếp – đừng bỏ cuộc. Thằng nhỏ vẫn giữ chặt nắm đất trong bàn tay tướp mồ hôi. Mấy đứa sinh viên khác chen tới, đẩy nó qua một bên. Hắn nạt lớn, phải biết bỏ lại để mà đi tiếp, nghe chưa. Nó giấu bàn tay ra sau lưng, cúi đầu len lét lùi lại. Hắn giận dữ bò ra khỏi huyệt, tới bên cạnh nó, thổi cơn gió lạnh chạy dọc qua sống lưng thằng nhỏ. Hắn thì thào ghê rợn.

“Mì dây thun, hà hà, mì dây thun. Đừng nghĩ gì hết. Thì sẽ thấy ngon.“Thằng nhỏ kinh hãi quẳng nắm đất xuống huyệt. Nó quay đầu bỏ chạy. Hắn đứng đó, ước gì mình còn điên để có thể cười sằng sặc

Hôm nay là ngày bầu cử, trường học đóng cửa nên thằng Thanh theo thằng Hoàng ra chỗ sửa xe ngay từ buổi sáng. Khi mọi người đã đi hết, ông Ba Cất mở “trạn” lấy cơm nguội ra ăn; cánh cửa trạn vừa mở ra ông đã nghe mấy con gián chạy rào rào. Nhưng cũng chẳng sao, ở trong trại cải tạo ông ăn phải gián là thường, mấy người khác cũng vậy, mà có thấy ai kêu la hay khạc nhổ gì đâu! Ruồi, rệp, gián và người cùng ở chung với nhau. Thau cơm độn khoai lang khô, khoai mì khô hay bo bo lãnh về chưa kịp chia, ruồi đậu đen nghịt ở phía trên. Thau nước mắm “đại dương” lãnh về (toàn nước muối pha với chút nước mắm cho có mùi) mấy chục con ruồi nổi lều bều... Lấy tay xua xua, đuổi đám ruồi ở thau cơm, lấy thìa vớt mấy con ruồi ở thau nước mắm bỏ đi rồi chia cơm, chia nước mắm. Lúc chia anh em ngồi lõ mắt ra nhìn, chỉ sợ chia không đều, phần mình ít hơn phần người khác.

Miếng cháy lớn bằng nửa bàn tay bẻ ra làm mười bỏ lên trên mười phần cơm của mười người, chỉ nghe có tiếng cằn nhằn là cháy bẻ không đều, miếng to, miếng bé chứ chẳng thấy ai kêu nhiều ruồi nhiều nhặng bao giờ!

Chúa Nhật không phải đi lao động ở nhà, ai có thăm nuôi thì nấu nướng linh tinh, đám con bà phước (người không có thăm nuôi) vô sản thì nhìn người ta ăn rồi nuốt nước miếng, vì Chúa Nhật hay ngày lễ nghỉ không đi lao động thì không có ăn sáng. Ăn rồi kẻ vá quần áo, người lật mùng, lật chăn ra bắt rệp. Rệp đâu mà nhiều thế không biết, bắt hôm nay ngày mai lại có, giết chán mỏi tay nó lại hôi rình bèn bắt bỏ vào cái hũ pê li xi lin rồi thỉnh thoảng lấy ra xem nó bò chơi.

Còn gián cũng vậy, sinh sôi nẩy nở tràn lan vì giang sơn của mỗi người tù chỉ rộng không bằng một chiếc chiếu cá nhân nên chiếu của người này phải trải chồng lên mép chiếu của người kia. Rồi thì muối, mắm, tương, chao, đường tán, mì vụn v.v. nói chung là mọi thứ tài sản của một người tù đều được để trên “xích đông” thuộc phần mình ngay chỗ đầu nằm, thế là trước khi người ăn, gián đã tha hồ mà hưởng thụ. Buổi sáng trước khi đi lao động ngồi nhai miếng bột khoai mì luộc dầy bằng đốt ngón tay và lớn bằng hai ngón tay chụm lại lãnh từ tối hôm trước. Ðang nhai mà nghe đến xựt một cái rồi thấy hôi hôi, tanh tanh, lờ lợ là biết ngay đã nhai phải một chú gián chui trong cái lỗ hổng ở miếng bột khoai mì. Nhưng mặc mày, “ông” nhắm mắt nuốt luôn vì nếu nhả mày ra thì “ông” còn gì đâu nữa mà ăn!

Ông Ba Cất đã ăn phải gián là thường vì thế mà ông chẳng bận tâm gì đến mấy con gián đang chạy rào rào ở trong cái gác măng giê. Ông chỉ nghĩ bụng: mình sẽ phải sửa lại cái gác măng giê, nó hở nhiều chỗ quá rồi!

Còn được một bát đầy cơm nguội, ông Ba Cất chan vào một chút nước mắm rồi ngồi ăn. Cũng may nồi cơm được đậy vung cẩn thận, gián không chui vào được nên không có mùi hôi. Mới hôm qua, hôm kia đây thôi, còn ở trong tù mà có được bát cơm như thế này thì đã là một hạnh phúc vô biên. Quanh năm suốt tháng chỉ ăn độn, những năm về sau này, mùng một tết mới có được bát cơm trắng nhưng tiêu chuẩn củng chỉ nhỉnh hơn bát cơm ngày thường một chút nên ăn cũng chẳng đủ no.

Ông Ba Cất ngồi nhai bát cơm nguội chan với nước mắm. Lẽ ra nó phải ngon lắm, nhưng ông lại không thấy có gì đặc biệt cả, lại nữa ông cũng không cảm thấy đói để cần ăn.

Từ hôm qua đến nay bữa này là bữa thứ hai ông không phải ăn độn. Bữa cơm tối hôm qua còn có cá trích kho, rau muống luộc chấm nước mắm và nước rau muống luộc có bỏ chút muối làm canh. Tuy ăn có ngon hơn ăn cơm tù nhiều thật, nhưng chỉ sau hai bát là ông đã không ăn nữa. Bà hỏi sao ông ăn ít thế. Ông bảo trong tù ăn ít nó quen rồi, nay ăn nhiều sợ hại bao tử, phải từ từ rồi mới ăn nhiều được, cũng như người bệnh lâu ngày mới khỏi, ăn cho cố vào là có chuyện ngay! Tuy nói thế, nhưng còn một lý do thứ hai mà ông Ba Cất không nói ra là ông về bất ưng, nhà không biết để nấu thêm phần cơm ông, nếu ông ăn nhiều thì vợ với các con ông sẽ đói. Hơn nữa dưới chế độ xhcn ưu việt làm bất cứ một việc gì mỗi người đều có tiêu chuẩn cả, ngay cả ăn cũng thế.

Từ nhà ông đến đồn công an phường Thắng Tam đường xa hơn 3 cây số, ông Ba Cất cuốc bộ mất gần một tiếng đồng hồ. Nhưng đi bộ một quãng đường như thế đối với ông là chuyện tầm thường. Ngày mới từ trại Suối Máu được đưa đi lao động tự quản ở Trảng Bom, cải tạo viên đã phải vào rừng chặt tre, chặt lá buông, chặt cây đem về tự dựng lấy lán, lấy nhà để ở. Trong mấy công tác này, ông Ba Cất thích được đi chặt tre nhất. Muốn có một cây tre, cải tạo viên phải cuốc bộ cỡ 12 cây số đường rừng để đến được khu rừng tre. Chọn được bụi tre vừa ý rồi, người chặt tre phải làm thế nào để sau khi phá một bụi tre có thể lấy được tối thiểu là 4-5 cây một lúc, chứ nếu chỉ lấy được một 1-2 cây thôi thì uổng công lắm. Cái khó khăn vất vả nhất của việc chặt tre là dọn sạch từ dưới lên trên để có thể leo lên tít trên ngọn. Chặt đứt 5-6 ngọn cây tre đi rồi leo xuống chặt phần gốc xong là có thể rút được cây tre ra dễ dàng. Tiêu chuẩn của mỗi người một ngày là một cây tre, dài 6 mét trở lên, phía gốc to tối thiểu phải bằng cái lon gô. Mà tre là tre rừng lâu năm, cành, lá, gai góc đan chằng chịt vào nhau, phá được một lối đi vào sát bụi tre là đã vất vả lắm rồi, nên nếu không kiên trì và không biết cách thì không dễ gì mà lấy được một cây tre.

Ði chặt tre người ta cũng không đi một mình mà thường đi thành từng nhóm hai, ba người để người nọ phụ người kia, tiếp tay nhau mà chặt cành, mà kéo cây tre ra khỏi bụi, v.v. Nhóm ông Ba Cất chỉ có hai người, ông và anh Nguyễn Ðình. Ông thích đi với anh Nguyễn Ðình vì anh là người cùng đơn vị với ông, cùng ở cư xá Trương Công Ðịnh, anh chẳng những đã hiền lành lại rất tháo vát. Còn anh Nguyễn Ðình cũng thích đi với ông Ba Cất vì ngoài cái tình thân từ trước, ông Ba Cất còn là một kiện tướng chặt tre.

Vì là lao động tự quản nên sáng ra lãnh phần ăn sáng và phần ăn trưa rồi ai muốn đi trước thì đi, ai muốn đi sau thì đi, không bắt buộc phải đi cùng một lúc với nhau và không có công an võ trang vác súng đi theo. Ấy là chỉ những người trách nhiệm đi chặt tre, chặt lá buông hay chặt cây về dựng lán, dựng nhà thôi, chứ những người đi phá rừng hay làm rẫy thì lại khác.

Ông Ba Cất thích đi chặt tre vì tuy phải đi xa những 12 cây số, đi và về 24 cây số, nhưng sau khi phá xong một bụi tre, lấy được 5-6 cây tre xuống rồi thì ông và anh Nguyễn Ðình mỗi người một cây, mấy cây còn lại đem giấu thật kĩ. Nếu thấy trời còn sớm thì trên đường về có thể vừa đi vừa “cải thiện” linh tinh: nắm rau sam, nắm cải trời hoặc là quả bí, quả muớp để chiều hôm đó có cái mà nấu nướng thêm, miễn là vác được cây tre, bó lá buông hay cây cột về tới trại trước bốn giờ chiều giao cho anh tổ trưởng kiểm soát, ghi vào sổ báo cáo thế là được. Hôm sau đi chặt tre thì chỉ việc đến chỗ cũ rút ra hai cây tre đã giấu ngày hôm trước, sau đó thì tha hồ mà đi cải thiện. Có lần ông và anh Nguyễn Ðình còn câu được cả mấy chục con cá trắng, loại cá ở suối trông gần giống như con cá diếc, lớn gần bằng hai ngón tay. Ðem về làm sạch rồi đốt lửa nướng, hôm ấy hai anh em được một bữa “bồi dưỡng”! Sau này chuyển trại về Hàm Tân, Thuận Hải Z30C thì toàn là đẩy xe cải tiến hoặc là gánh nước tưới rau. Ngày gánh 60 đôi nước từ suối đi lên, dốc ngược, trơn như mỡ mà ông Ba Cất còn đi được xá gì việc đi bộ từ nhà đến đồn công an có hơn 3 cây số.

Hôm ấy là ngày bầu cử, đồn công an vắng hoe, mọi người đều đi công tác, chỉ còn một anh công an ngồi ở phòng trực. Thấy ông Ba Cất lò dò bước vào, anh ta trừng mắt lên hỏi:

- Ði đâu đây, có việc gì, sao giờ này không đi bầu cử mà lại đến dây?

Ông Ba Cất móc túi lấy tờ giấy “ra trại” mở ra cầm bằng cả hai tay đưa cho anh công an, khẽ thưa:

- Báo cáo cán bộ, tôi mới được ra trại, hôm nay đến trình diện đồn!

Anh công an cầm tờ giấy lẩm nhẩm đọc rồi ngước mắt lên hỏi:

- Có thuốc không?

Ông Ba Cất có gói thuốc rê ở trong túi, nhưng nghĩ chả lẽ lại mời cán bộ hút thuốc rê, nên ông nói trớ đi:

- Báo cáo cán bộ tôi không hút thuốc!

Anh công an bỏ tờ giấy ra trại của ông Ba Cất vào hộc bàn, đóng xập lại rồi vẫy tay bảo:

- Về đi, mai đến lấy!

Nói rồi anh ta đứng lên như là chuẩn bị đi đâu đó. Ông Ba Cất nằn nì:

- Báo cáo cán bộ tôi chỉ có mỗi tờ giấy đó, xin cán bộ ký nhận cho là tôi đã trình diện rồi cho tôi xin lại, vì hôm nay là ngày bầu cử... chưa nói hết câu thì anh công an đã trừng mắt lên:

- Ðã bảo về đi mai đến lấy còn lải nhải gì nữa, hay là muốn ở lại đây luôn?

Ông Ba Cất lủi thủi đi về lòng vừa buồn vừa lo! Bực mình bất giác ông lẩm bẩm chửi thành tiếng: ÐM nó, ở đâu cũng giống nhau, trong trại muốn được yên thân cũng phải hối lộ, về đây cũng thế!

Ở trong trại, tù nhân muốn được yên thân, muốn không bị làm phiền cũng phải hối lộ cho quản giáo, cho cán bộ võ trang. Hình thức hối lộ là như thế này: Tù nhân thì anh nào cũng rách như cái sơ mướp, trên chỉ có bộ răng, dưới chỉ có “bác hồ”, đói khát triền miên, nhưng những anh “con bà phước” chả nói làm gì còn những người khác thỉnh thoảng cũng được thăm nuôi. Mà có thăm nuôi thì thế nào cũng có thuốc rê hay thuốc lào bởi tù cải tạo hiếm có người không ghiền thuốc.

Cha cố, sư thày, ngày còn ở ngoài đời mà phì phèo điếu thuốc thì thật là khó coi lắm, thế mà vào đây các vị cũng kéo thuốc rê, rít thuốc lào như điên! Quan thày thuốc ngày trước cứ sau khi đụng vào bệnh nhân một tí là lại đưa tay ra cho y tá xịt an côn để xát trùng. Còn thuốc rê với thuốc lào thì đừng bao giờ nói với các vị vì đó là những thứ thuốc độc cần phải tránh xa. Thế mà vào đây, tù khám bệnh cho tù, sau khi khám xong quan đốc tờ được mời quấn điếu thuốc rê hay rít một điếu thuốc lào thì hai mắt quan đốc tờ sáng lên!

Cũng bởi hầu hết tù nhân sau khi được thăm nuôi thế nào cũng có thuốc rê hay thuốc lào nên mới có một cái luật bất thành văn là như thế này: Sau khi được thăm nuôi, buổi sáng hay buổi chiều đi lao động, ngoài tiêu chuẩn thuốc cho anh, anh phải vấn sẵn 4-5 điếu thuốc rê hay gói sẵn 4-5 bi thuốc lào để hối lộ cho cán bộ quản giáo hay cán bộ võ trang. Số thuốc này anh giao cho đội trưởng để thỉnh thoảng đội trưởng lại mời cán bộ hút một điếu. Cán bộ có thuốc “phê” đều đều sẽ vui vẻ không làm khó dễ anh em. Anh nào mới được thăm nuôi cũng phải làm nghĩa vụ như thế, cho đến khi trong đội có người khác được thăm nuôi thì nghĩa vụ của anh mới chấm dứt. Nếu cùng một ngày mà có đến mấy người được thăm nuôi thì sẽ chia nhau mỗi người mấy ngày phải cung cấp thuốc cho cán bộ. Ông Ba Cất cứ đều đều 2 tháng được thăm nuôi một lần nên cứ mỗi 2 tháng là ông lại phải thi hành “nghĩa vụ” một lần. Sáng cũng như chiều, ông vấn sẵn 4 điếu thuốc rê đưa cho anh đội trưởng cùng với lời dặn: Ðừng đưa cho nó một lúc, cứ đợi đến khi nó “vã” lắm rồi mới cho một điếu. Ðưa một lúc nó hút hết rồi thì không có đâu mà cho nữa! Nếu chẳng may mà lâu quá trong đội không có ai được thăm nuôi, chẳng lẽ người được thăm nuôi cuối cùng cứ phải cung cấp thuốc cho cán bộ mãi, khi đó “nghĩa vụ” sẽ thuộc về anh đội trưởng. Anh làm sao thì làm, cán bộ “vã” thuốc quá trở nên cáu gắt, làm khó dễ anh em thì anh em sẽ ÐM anh đội trưởng. Gặp những trường hợp như thế thì anh đội trưởng lại đi vòng vòng thì thào năn nỉ anh em bớt mồm bớt miệng “cứu bồ” trong cơn túng ngặt, thế là anh đội trưởng lại có thuốc “đút” cho cán bộ.

Ở trong tù thì thế, nay được ra khỏi tù đến trình diện đồn cũng bị công an hỏi “có thuốc không”? Không có thuốc, bị công an giữ tờ giấy ra trại rồi đuổi về “mai tới lấy”! Hôm nay là ngày bầu cử, “chó vàng” chạy đầy đường, đi đứng lạng quạng, nó hỏi giấy tờ không có, lỡ nó đem nó nhốt rồi gửi đến một trại nào đó thì vợ con biết đâu mà tìm. Vì nghĩ vậy nên khi về được đến nhà rồi, suốt ngày hôm đó ông Ba Cất không dám bước ra khỏi cửa!

Tối về, ông kể chuyện cho vợ nghe, bà thở dài bảo:

- Em bậy quá, đáng lẽ phải bảo con Thảnh đưa cho anh mấy điếu Jet hay Samit mới phải, bây giờ làm cái gì cũng phải có thủ tục “đầu tiên” mới được!

1.      Rau tàu bay và cỏ tàu bay

Gọi là rau tàu bay vì khi có gió, hoa của nó bay phát tán trong không khí như “tàu bay”...

Rau tàu bay có tên khoa học là Gynura crepidioides Benth. Họ cúc Asteraceac. Rau này được xếp vào nhóm rau rừng. Rau tàu bay được nổi danh đặc biệt từ trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nó đã cung cấp nguồn rau xanh sẵn có khắp nơi để ăn sống, muối dưa, luộc, xào, nấu canh... cho quân dân cả nước. Rau tàu bay mọc ở đồng bằng, trên núi, trong rừng, bên đường, bờ mương, ven suối.

Tháng 9/1950, Bác Hồ đi thị sát chiến dịch biên giới. Hôm đi qua chợ mới Bắc Kạn, 6 bác cháu ăn lương khô, có được chút chất tươi chính là món rau tàu bay luộc. Anh em khen được bữa ăn ngon miệng. Bác Hồ nói: “rau tàu bay có khác, ăn vào thấy nhẹ cả người, lại có cả mùi xăng”. Anh em lại được dịp phá lên cười vui vẻ.

Còn với nhân dân ở thời bình như thời chiến, rau tàu bay là món rau thường thấy bên cạnh “nước chấm đại dương và nước canh toàn quốc” trong bữa ăn của sinh viên. Đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới vào những ngày đầu khai hoang cũng tìm đến rau tàu bay. Có lẽ cũng vì ân tình đối với rau tàu bay mà trong hàng trăm rau rừng ăn được thì hiếm có rau được nghiên cứu thành phần hóa học, trong rau tàu bay cho thấy (tính theo %): nước 91,1, protein 2,5, lipid 0,2, cellulose 1,6 dẫn xuất không protein 3,7. Khoáng toàn phần 0,9. Về vitamin có 3,4mg% caroten (tiền sinh tố A), 10mg% vitamin C.

Rau tàu bay có những công dụng phòng chữa bệnh như sau: Cũng như các loại rau xanh khác, rau tàu bay cung cấp các loại vitamin nói chung và vitamin A, C là những vitamin chống ôxy hóa, khử gốc tự do. Rau tàu bay có nhiều xơ gây nhuận tràng và giảm hấp thu chất béo, làm thức ăn kiêng cho người béo phì.

Một số vùng dân cư người ta quen dùng rau tàu bay phòng chống côn trùng, rắn rết cắn, bằng cách giã nhuyễn xoa đắp lên chỗ bị tổn thương.

Có người khoái mùi vị đặc trưng của rau tàu bay. Nhưng có ý kiến cho rằng ăn nhiều và thường xuyên rau tàu bay sẽ bị thiếu máu. Để khắc phục tình trạng đó thì cần làm toan hóa rau tàu bay bằng cách phối hợp chấm nước mắm chanh hoặc làm rau trộn có chanh hoặc giấm để tăng hấp thu sắt tạo huyết sắc tố. Cũng có ý kiến dùng kéo dài rau tàu bay có thể bị sỏi thận. Do đó nên ăn thay đổi những món rau rừng khác. Tuy nhiên, những ý kiến này chưa được khoa học kiểm chứng.

Nấu canh rau tàu bay nên lắng bỏ phần dầu để khỏi bị có mùi hắc như mùi xăng rất đặc trưng của rau tàu bay, rồi mới cho gia vị vào, thì sẽ thơm ngon.

Cỏ tàu bay - bơm bớp, bớp bớp, cây cỏ Lào, cây cộng sản. Cây có tên tàu bay vì hoa bay khắp nơi trong gió như tàu bay. Gọi cây cộng sản vì cỏ này phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng khắp nơi. Tên cỏ Lào thì chưa thấy ai giải thích. Tên khoa học Chromolarna odorata (L) King et Robinson.

Món ngon của ngoại

Những năm 80 thế kỷ trước. Đất nước mới mở cửa, đời sống của đa số bộ phận nhân dân đều rất khó khăn. Mang tiếng là dân ở Sài Gòn, nhưng hè năm nào mẹ tôi cũng gửi tôi về quê ngoại. Mùa hè, bố mẹ tôi tranh thủ lo làm ăn, phần tôi nghĩ học không ai quản lý cái thằng nghịch ngợm như quỷ sống là tôi. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là chả qua bố mẹ tôi gửi tôi về ngoại để "tị nạn cơm gạo"...

Bà lúc ấy hơn 60 mươi, nhà mẹ tôi neo người. Ngoại sinh được 4 người con thì hai cậu tôi đã hy sinh trong thời chống Mỹ, chỉ còn dì và mẹ . Bởi thế bà cực kỳ quý mến cháu trai, trong đám cháu ngoại bà thương tôi nhất. Chả là thế mà trong suốt thời gian học lớp 1 đến tận lớp 7 năm nào tôi cũng về quê ngoại vào dịp hè.

Ngoại có gánh trầu cau bán ở chợ xã. Cái đòn gánh tre theo bà từ hồi giải phóng giờ cong như lưng còng của ngoại. Gánh trầu cau này ngoại đã nuôi dì và mẹ tôi cho đến khi lập gia đình và bây giờ bà tiếp tục nuôi các cháu...

Sau nhà ngoại có con suối nước chảy róc rách quanh năm. Con suối này gắn liền với những trò nghịch ngợm của tôi và bọn trẻ trong xóm. Tầm tháng 6, tháng 7 con suối đầy nước cá tôm nhiều vô kể. Thường khi tan chợ vào buổi trưa, chiều ngoại hay dắt tôi ra con suối để mò tôm, bắt tép... Ngoại thường làm cho tôi món "bánh bột lọc" mà tụi con nhà nghèo như tôi coi đó như là món "sơn hào hải vị".

Con tôm sông bắt về bà chỉ cắt bỏ râu, xào sơ qua trong bếp rơm, bà nhào bột mì làm bánh. Lúc đó tôi nghĩ bà không được khéo tay nên bánh bột lọc bà làm ra cái to cái nhỏ, có cái to bằng bàn tay, có cái bé tẹo. Cả đám cháu bu quanh nồi hấp bánh chờ bánh chín, mùi hương của bột mì lan tỏa cùng mùi tôm sông thơm phức làm cả đám anh em chúng tôi nuốt nước bọt ừng ực... Bánh chín, bà lại pha nước mắm được làm từ muối, nước sôi và phẩm màu.

Đơn giản thế mà chúng tôi tranh nhau ăn lấy, ăn để. Lúc nào bà cũng ưu tiên cho tôi những cái bánh bột lọc to nhất bên trong gói 2-3 con tôm to tướng. Gọi là "đặc sản" cũng không sai chút nào, bởi lúc ấy bữa cơm của ngoại thường là gạo đỏ độn mì(hay bo bo) ăn kèm với mắm cái...

Hương vị của bánh tới bây giờ tôi vẫn không sao tìm lại được: cái mùi móc meo của bột mì để lâu ngày, cái mặn chát của mắm là nước pha muối... Và cái bánh to mà bà gói không khéo luôn để dành  phần cho tôi mãi mãi chỉ còn là ký ức...

Ký ức Đảng viên thời bao cấp

Có đủ gạo ăn, quần áo để mặc, được phân phối 1 chiếc xe đạp Trung Quốc, quạt điện… là mơ ước của nhiều gia đình. Thời bao cấp, mọi nhu yếu phẩm cấp thiết nhất, cần thiết nhất đều được phân phối bằng... tem phiếu.

Đó là đặc điểm của kinh tế Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến 1986 - giai đoạn mà hầu hết hoạt động kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hóa từ địa phương này sang địa phương khác. Và quãng thời gian đáng ghi nhớ đó đã trở thành ký ức không thể quên với một thế hệ.

Hơn 2 năm chờ đợi vẫn chưa đủ tiêu chuẩn, ông Quảng đã tự chế cho mình 1 chiếc quạt từ đi-na-mô đèn xe đạp. Và nó đã trở thành một trong những kỷ vật về quãng thời gian đáng ghi nhớ nhất của người Đảng viên - nguyên là cán bộ Sở Văn hóa tỉnh Quảng Ninh.

Cuốn sổ gạo đã giúp ông Đặng Huy Quảng, nguyên cán bộ Sở Văn hóa tỉnh Quảng Ninh có 18kg gạo mỗi tháng và vô số tem phiếu để mua vải, chất đốt, thực phẩm. Thời bao cấp, có hai điều không cần nói ai cũng biết, đó là: Định lượng cung cấp cho đại bộ phận các thành viên xã hội ngày một giảm; chất lượng các nhu yếu phẩm ngày một kém… Điều này đã được một cán bộ thương nghiệp nhẩm thành bài vè: Nhất gạo nhì rau - Tam dầu tứ muối - Thịt thì đuôi đuối - Cá biển mất mùa - Đậu phụ chua chua - Nước chấm nhạt thếch - Mì chính có đếch - Vải sợi chưa về - Săm lốp thiếu ghê - Cái gì cũng thiếu…

Đồng hồ, radio và xe đạp thời bao cấp.

Ông Quảng thừa nhận mình luôn suy nghĩ và trăn trở về thời kỳ này, nhưng những điều ông không thể lý giải được vẫn còn nhiều như: Tại sao một hòn đá có khắc tên người lại có thể dùng để xếp hàng mua mấy lạng thịt, lại có thể đại diện cho 1 người…, hay tại sao những người như ông đã sống và vượt qua được thời bao cấp đầy khó khăn như thế.

Và ông lưu giữ tất cả những đồ vật đã theo ông trong suốt thời bao cấp như để tự nhắc mình không được lãng quên quá khứ. Không được lãng quên quãng thời gian đã để lại những bài học đắt giá để đất nước phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa như hôm nay.

Trong một ngày đặc biệt (10/10), những câu chuyện về thời bao cấp vẫn đang được người Hà Nội nhắc tới ở đâu đó, bên những chén nước trà. Nhớ lại một thời kỳ khó khăn, đầy thăng trầm mà đất nước đã trải qua để trân trọng hơn, nâng niu hơn những gì đang có cũng là một cách làm người ta thấy yêu Hà Nội hơn.

Nhà ông Đặng Huy Quảng ở trên phố Sơn Tây. Ông bảo, con phố này giờ đã thay đổi nhiều rồi, không còn yên tĩnh như mấy chục năm trước nữa… Nhưng trên con phố, có mấy căn nhà mà mỗi lần đi qua, ông đều dừng chân lại ngắm nó một chút chỉ bởi nó đã từng là cửa hàng bách hóa, cửa hàng lương thực hay cửa hàng thực phẩm mà gia đình ông luôn phải vất vả xếp hàng để được mua trong thời bao cấp.

Những câu chuyện ông kể, nếu không phải là những người sống trong giai đoạn ấy, có lẽ sẽ khó hình dung hết được, nhưng có điều, nó khiến người nghe phải chú ý. Ông Quảng kể lại: “Có ngôi nhà ngày xưa là cửa hàng gạo, phục vụ cho toàn bộ dân ở khu vực với khoảng 2000 – 3000 hộ. Muốn mua được gạo, tôi phải thức đến 2, 3 giờ sáng. Không phải 1 tháng ra mua 1 lần được đâu, phải mua đến 3, 4 lần, mỗi lần 10-15kg, trong 15 kg ấy không phải toàn gạo cả mà có khi 2/3 gạo, 1/3 là các hoa màu. Hồi ấy có câu mọi người hay dùng, đó là “buồn như mất sổ gạo”. Mất sổ gạo coi như gia đình cực kỳ khó khăn.

Căn nhà của vợ chồng ông Quảng khá chật chội. Bên chén nước trà ấm nóng có những thứ mà chỉ cần nhắc đến thôi là người ta sẽ nghĩ ngay đến hai chữ “bao cấp”, đó là những chiếc tem phiếu để mua vải, cuốn sổ gạo, chiếc vé tàu Hà Nội – Hải Phòng với giá 2 đồng 5 xu. Lúc ấy mua được một chiếc líp xe đạp là đã thấy lâng lâng suốt cả ngày...

Ông Quảng bảo, nói về nỗi nhọc nhằn trong quãng thời gian ấy thì nhiều lắm, có mà nói cả ngày cũng chưa hết. Nhưng có một điều mà ông muốn kể, ấy là cái tình người thời bao cấp. Ấm áp và cảm động lắm!

Ông Quảng cho biết thêm: “Thường thường người ta thông cảm cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau lắm. Đi xếp hàng thấy ai mà già yếu quá là họ sẵn sàng họ nhường cho mua trước. Tình người vừa qua thời chiến tranh, sống chết liền nhau rồi, người ta thấy quý nhau lắm. Mỗi khi mình tĩnh trí, mình nghĩ lại, hình dung điều đó rõ lắm. Nó như một cuốn phim quay chậm lại”.

Đã là thời bao cấp, đâu đâu cũng vất vả như nhau thôi nhưng có lẽ với những người sống ở Hà Nội thì có nhiều cái đặc biệt hơn. Một căn hộ có diện tích 28 m2 dành cho 7 người đã là niềm mơ ước của rất nhiều cán bộ, công nhân viên chức Thủ đô. Hay để cải thiện kinh tế gia đình, lợn đã được nuôi ngay trong nhà, đi ngủ thì chủ năm trên giường, lợn ở dưới gầm giường... Và những câu chuyện tưởng chừng như xưa cũ ấy sẽ giúp người ta trân trọng hơn những giá trị của cuộc sống hôm nay.

Bà Lê Thị Phượng, vợ ông Quảng nói: “Hà Nội so với ngày xưa thì quá tuyệt vời. Cái gì cũng sẵn, chả có gì phải lo nghĩ cả. Thích ăn thì mua lúc nào cũng được, không phải như ngày xưa. Từ thời mở cửa đến giờ, chúng tôi rất phấn khởi. Cuộc sống là an bình, con cái được học hành đến nơi đến chốn, không phải suy nghĩ gì cả.

Hà Nội đã vững vàng vượt qua những khó khăn của thời bao cấp để có được sự phát triển như ngày hôm nay. Vẫn còn đó là những người như ông Quảng, trân trọng và lưu giữ nhiều kỷ vật của thời gian. Cùng với tiếng tàu điện leng keng, với hình bóng của những chiếc xe đạp Thống nhất thì những kỷ vật ấy đã trở thành một phần ký ức không thể quên của người Hà Nội.

Hà Nội ngày hôm nay, vẫn còn đó những con người như ông Quảng, trân trọng và lưu giữ nhiều kỷ vật của thời gian. Cùng với một Hà Nội anh hùng trong kháng chiến thì một Hà Nội đã vững vàng vượt qua những khó khăn của thời bao cấp, đã nỗ lực trong công cuộc đổi mới sẽ là điểm tựa để tạo nên một Hà Nội “giàu mạnh hơn, to đẹp hơn” trong tương lai.

Nhà tớ may mắn có được cái vị trí khá thuận lợi trong khu tập thể. Nói về thuận lợi thì đúng là thuận lợi thật, vị trí nhà dãy đầu, đầu hồi lại ngay giữa chợ nên trẻ con bọn tớ nghĩ ra được khối trò chơi hay ho. Chỉ cần đứng ở ban công nhà tớ, gọi thật to “Hà ơ..i….i”, H. Hà chạy ra cửa sổ đánh tín hiệu thế là chỉ mấy phút sau đã có mặt ở nhà tớ. Quay ra phía cầu thang sau nhà, tớ đập nhẹ lên mái tôn, gọi “Liên ơi….i..i”, Liên xuất hiện. Chạy ra cửa sổ phía đầu hồi, tớ bắc loa tay kêu “Trang ơ..i…i”, Trang có mặt. Chỉ một loáng bọn tớ đã có thể tụ tập đông đủ. Chợ trong khu tập thể nhà tớ là chợ nhỏ, chợ tạm. Từ “tạm” ở đây lúc đầu được gọi, hiểu theo nghĩa tính từ. Rồi không biết từ khi nào cái chợ được mang tên chính thức - Chợ Tạm, “Tạm” danh từ hẳn hoi. Phía trước nhà tớ là Cửa hàng thực phẩm. Trẻ con bọn tớ được người lớn giao nhiệm vụ mỗi ngày: Ngóng xe chở thực phẩm về. Mấy đứa ngồi đong đưa chân trên balcony, hễ thấy có đậu, thịt hay có cá biển đông lạnh là cuống lên gọi người lớn cầm theo tem phiếu, mang theo rổ rá để xếp hàng. Thực phẩm khan hiếm thời bao cấp nếu không xếp hàng mua nhanh thì hết ngay lập tức nên nhiệm của bọn tớ quan trọng lắm, oai lắm.

Ở vị trí “chiến lược” này, bọn tớ cũng chứng kiến được khối vụ cãi nhau của mấy bà bán hàng ở chợ. Người ta sợ những lời ngoa ngoắt của mấy bà bán hàng thịt, hàng tôm, hàng cá… Còn trẻ con bọn tớ lại khoái mới chết, vụ nào càng cãi nhau to càng hứng thú. Cũng may ở gần chợ nhưng không đứa nào trong số bọn tớ bị nhiễm ngôn ngữ chợ búa cả. Luật của lớp tớ là chỉ cần gọi “Mày”, xưng “Tao” đã bị coi là nói bậy và bị phạt -4 rồi. Một lần -4 thôi cũng đủ để bị nhận hạnh kiểm khá, rắc rối lôi thôi to đấy. Mùa mưa, khu tập thể nhà tớ nước ngập mênh mông. Người lớn thì khổ, chỉ có trẻ con là khoái. Ngày mưa, cá ở đâu mà nhiều thế, cá bán khắp chợ, bán theo mớ. Nước ngập lụt đồng, cá tràn từ các ao ra. Người dân trong làng Thịnh Liệt mang cá bán rẻ như cho. Chỉ những ngày như thế bọn tớ mới được ăn cá thoải mái, cũng không phải ngồi trông đợi những con cá đồng tiền ướp lạnh ở cửa hàng thực phẩm. Đi học mùa nước lụt được thả trôi dép làm thuyền. Cả đám mấy đứa đi học cùng nhau là có ngay một đoàn thuyền dài. Đến được lớp học người ướt nhẹp mà mặt mày đứa nào cũng hớn ha hớn hở. Thật là khoái chí.Trang, Hà, Liên ơi, có ai còn nhớ???

Với tôi, nỗi ám ảnh nhất của thời bao cấp là khoai độn và cái ghẻ. Người ta nói tại ăn khoai độn quá mà bị ghẻ. Khoai độn được chế biến vô cùng đa dạng. Ngoài món luộc là chuyện thường ngày ở huyện còn có cơm khoai độn, bánh trôi làm bằng bột khoai..., khao người yêu có khi cũng là củ khoai. ;D Còn về ghẻ. Trời ơi ghẻ từ trên xuống dưới. Ghẻ nước, ghẻ mủ, ghẻ ngứa, mụt nhọt, xảy càng ..Tôi nhớ đi học cấp một còn bận quần cộc, con trai con gái ngồi hai dãy riêng. Vào lớp ngồi rồi là lập tức con trai ai nấy cúi xuống, chập "cái ấy" giữa hai bàn tay mà xe như xe thuốc rê. Chỉ có cách đó mới đã ngứa. Thuốc chữa thì chẳng có (bởi bệnh gì cũng bắt uống Xuyên Tâm Liên và sang nữa là B1). Tôi nhớ hồi đó có thứ thuốc Bộ Lư mà thành phần căn bản là lưu huỳnh màu vàng khè và mùi hôi nồng. Mỗi lần bôi nhảy dựng lên vì rát (bạn nào còn nhớ không?). Đến cá cũng bị ghẻ. Con cá trê đầu bờ nổi lờ đờ, trên lưng nổi đầy ghẻ lở. Vậy mà người ta cũng vớt về ăn. Sau này khi học lớp 12, tôi thầm yêu một em học lớp 10 mảnh khảnh. Tình yêu đầu đời tinh khiết chẳng như thời Vàng Anh. Gặp nhau thì chỉ có liếc nhìn cười mỉm mà chẳng biết nói gì. Quen được một thời gian thì em cho biết nhà hẹn tới chơi. Ngồi gần nhau tán hươu tán vượn dưới ánh đèn dầu tù mù (hồi ấy đèn dầu thắp liên miên, sáng ngủ dậy hai lỗ mũi đầy bồ hóng) cho đến khi em vô tình đưa bàn tay đến gần ngọn đèn. Mẹ ơi, bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa mà tôi thầm mong một lần nắm lấy giờ đây nhìn rõ thì nó cẩn xà cừ hơi bị nhiều, hột nào hột nấy lấp lánh chờ ngày bể bọng nước. Tôi cút luôn một mạch không quay lại. Mỗi lần nhắm mắt cho tôi tìm về chốn hương xưa, tôi lại gặp người cũ nên thơ với đôi bàn tay đầy ghẻ. Thế nhưng phải nói thời ấy để lại cho tôi những rung cảm không quên bao giờ. Liệu con người giờ có sống với nhau quá vô cảm không?

Hồi đó thịt hiếm lắm, đến ngày lễ như 01 tháng 05 chẳng hạn thì mỗi gia đình ở thành phố mới được thêm một cân thịt gọi là ăn tươi. Thế là mẹo nghĩ ra cớ thịt lợn là một vấn đề. Nếu giết bằng cách chọc tiết thì lộ ngay, cả xã đều biết. Thời đó nông thôn chưa có điện, không thể giết bằng cách chập điện được. Hơn nữa, thỉnh thoảng cán bộ xã lâu lâu lại ghé vào nhà, thấy thiếu đi một chú lợn thì biết ăn nói làm sao đây ? Bố và chú  tôi mới nghĩ cách làm chuồng lợn trên ao cá. Các bác chưa nghĩ ra phải không ? Phải cho lợn rớt xuống ao cá, khi lợn chết rồi đi báo cho cán bộ xã biết. Theo cái “lệ” lúc đó, nếu nhà nào có lợn chết (dịch bệnh hay bất cứ lý do gì, nhưng phải chết “tự nhiên” cơ), người dân có thể bán cho ai cũng được ,vì cán bộ thương nghiệp không thu mua lợn đã chết. Thế là cứ vài tuần, đàn lợn của nhà tôi cứ liên tục bị tai nạn rớt xuống ao cá… Công an xã đến lập biên bản, có biên bản này như có bùa hộ mệnh vậy. Mà những chú lợn nhà tôi rơi xuống ao toàn là lúc gà lên chuồng. Công an xã lập biên bản xong thì đêm đó cả gia đình xúm lại lo pha thịt. Xong rồi bó lại. Sáng ra, mẹ chở tôi (một thằng bé còn gày hơn một chú lợn con) trên chiếc xe đạp. Tôi thì ôm “bó thịt” trong lòng, mẹ tôi ngồi trên yên xe trùm tấm vải nhựa li mưa, phủ lên cả người tôi, tôi chỉ còn ló ra cặp giò gày guộc. Mẹ tôi phải chờ lúc có cơn mưa đột ngột ập đến, để vượt qua trạm kiểm soát trong nỗi lo sợ trong lòng. Các bác bảo vệ gác trạm tôi vẫn nhớ nhìn ra chỉ thấy 1 phụ nữ đang lai đứa trẻ con,  đâu biết đàng sau tấm vải đi mưa đó là cả gia tài và niềm hy vọng ấm no của gia đình tôi. Hơn nữa, trời mưa nên họ cũng cho qua. Quả thực lúc đó có cảm giác hồi hộp và lo sợ, nên tôi ngồi im thinh thít. Những lần như thế tôi thấy y hệt như trò chơi trốn tìm mà bọn trẻ con chúng tôi thường chơi với nhau.

HÀNG QUÁN THỜI BAO CẤP

Có chuyên gia tính rằng mỗi ngày địa bàn Hà Nội chi khoảng 20 tỉ đồng và huy động khoảng 5.000 con người cho tất cả các hình thức quảng cáo hàng hóa, dịch vụ. Vậy là người tiêu dùng thủ đô, tức là “thượng đế”, đang không ngừng được tôn vinh. Nhưng ít ai ngờ rằng...

Cảnh xếp hàng tại quán phở Bát Đàn.

Phở được coi là món điểm tâm sáng đặc sản của Hà thành. Tất nhiên tôi phải chọn phở “thương hiệu” để ăn. Phở “thương hiệu” thì nhiều lắm: phở Thìn, phở Gia Truyền, phở Lý Quốc Sư, rồi phở Bát Đàn...

Đuổi, quát, chửi

Đến Bát Đàn! Thâm nhập vào khu phố cổ, chúng tôi chia nhau mỗi người một việc: tìm chỗ để xe hoặc xếp hàng mua phở. Khách hàng sẽ “được” nếm “hương vị” đầu tiên là... xếp hàng ngửi phở và... mồ hôi người. Loay hoay, ngơ ngác chừng gần 10 phút tôi mới tìm được chỗ để xe...

Chạy tới nhà hàng, tôi không biết bạn mình đứng ở đâu trong đám đông đến mấy chục người đang xếp thành hai hàng cong sang hai bên phố như hình hai cái râu rồng (vì không thể xếp hàng thẳng ra lòng đường).

Không có chỉ huy, giám sát nhưng những thành viên trong hàng khá kỷ luật: đến trước đứng trước, đến sau xếp sau. Không chen lấn xô đẩy, không đặc cách ưu tiên. Thực khách phần lớn mang vẻ của giới thu nhập trên trung bình. Họ xếp hàng dưới cái nắng gắt cắn như kim châm và chỉ dịch được từng bước dính sát vào cái mùi mồ hôi bết áo của người đứng trước để tiến dần đến cái thớt của người đàn ông đang chan chát băm hành thái thịt. Người già, trẻ con, bà chửa đến những ông cán bộ nhìn rất khó tính, trịch thượng hay các cô gái kiêu kỳ quen được chiều chuộng... đều cam nguyện như vậy.

Anh bạn tôi được nhận phở trước, 7-8 phút sau đến tôi. Quả là mùi thơm của hành mỡ, nước dùng, bánh, thịt hấp dẫn khác thường. Nhưng khi ôm được bát phở nóng bỏng trong tay thì cũng là bắt đầu cho cuộc thử thách phần hai, đó là tìm chỗ ngồi... Quán phở chật chội, khách ngồi tràn ra cả vỉa hè.

Nhiều người bê bát phở nóng vẫn nghiến răng chịu đựng, mắt nhớn nhác tìm chỗ đặt bát. Nhiều đôi vợ chồng, bố con, chị em đi với nhau nhưng phải mỗi người mỗi bàn. Mời nhau bằng ánh mắt. Bởi nếu họ chờ có một bàn trống đủ để cùng ngồi thì chắc là để ăn... trưa. Muốn ăn được phở ở đây, ngoài sức chịu đựng xếp hàng thì họ còn phải có nghề bưng bê.

Bát nóng, phở đầy, nền nhà trơn trượt, khách đông, nắng gắt... nên chỉ một giây thiếu tập trung thì sẽ vật cả bát vào mặt nhau hoặc đổ cả nước phở vào lưng cô gái đang ngồi hay một bà già đứng cạnh. Người có kinh nghiệm thì đừng chạy tìm chỗ mà phải nhanh mắt “tia” xem ai sắp ăn hết thì đứng sau lưng họ, chờ họ đứng dậy mà lao ngay vào. Thế là sau 40 phút anh bạn phương xa của tôi cũng được biết thế nào là đặc sản phở Hà Nội.

Gặp một tay sành ăn chúng tôi biết rằng thủ đô còn có nhiều quán cơm bán phiếu ăn từ đầu tháng, đến bữa khách xếp hàng chìa phiếu, tự bê cơm về chỗ mà ăn. “Cao cấp” hơn nữa còn có phở Đuổi, phở Quát, tức là khách vừa phải chờ, phải tự thu xếp gửi xe, chỗ ngồi lại còn vừa bị nhà hàng mắng nhiếc, quát tháo như đuổi đi.

Ở chợ Ngô Sĩ Liên (trên phố Ngô Sĩ Liên) còn có quán bún nổi tiếng gọi là bún “chửi”. Bún móng giò, rọc mùng rất ngon nhưng bà chủ có gương mặt đen dày cùng cô con gái mỏ nhọn thì không ngừng chửi khách trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ví dụ khách gọi một bát bún, sau đó gọi thêm thịt hay gia vị thì bà chủ nói: “Lần sau thì gọi mẹ nó một lần cho nhanh!”. Khách đợi lâu mà giục thì coi như tiêu đời.

Lúc đó sẽ là: “Làm đ. gì mà phải giục rối cả lên!” hay “Không có 10 tay nhá!”... Ai xin thêm chút rau sống hay miếng ớt thì phải cúi sẵn đầu xuống để chuẩn bị lắng nghe những trận mắng nhiếc với toàn “món” không sinh vật nào ăn được. Thậm chí có cô gái gọi món thỏ thẻ, nhẹ nhàng quá cũng bị chửi: “Mẹ! Điệu chảy nước ra...”. Cho đến cách đây ít tháng, một thực khách du côn (không biết đã từng bán phở, bún gì chưa) đến ăn hàng, bị nhiều “gia vị chửi” quá, nổi đóa đánh bà chủ... đi viện.

Ông bạn sành ăn nói: đuổi, quát, chửi, xếp hàng và cố gắng đối xử tàn tệ với khách thì không chỉ ở hàng ăn mà cả hàng bia, cắt tóc, sửa chữa máy ảnh... “gia truyền” ở Hà Nội cũng đều có. Ngược đời là những nhà hàng ấy thường có lịch sử lâu năm, có thương hiệu và tất nhiên rất đông khách!

Những ông bà chủ này khi được hỏi thường cho rằng họ là số 1, khách không thiếu nên không cần phải ngọt nhạt. Hoặc một số đã quen với cảnh thương mại thời bao cấp, nay không cần thay đổi mà vẫn bán được hàng, lại có thương hiệu độc đáo nên... kệ. Số còn lại cơ bản là các ông bà chủ mang bản tính hung đồ, lỗ mãng nhưng nấu ăn ngon. Nhưng thật ra, những loại quán hàng này tồn tại là do sự chấp nhận của khách hàng.

Những người hiểu Hà Nội chia khách làm ba dạng. Một là số người già, luôn “nhớ nhung” cảnh sống bao cấp. Họ thích thế. Hai là số khách ưa sành điệu, thích sống “Hà Nội phố”. Đã ăn phở thì phải ăn phở Bát Đàn, đã ăn kem thì phải kem Tràng Tiền, đã đi chơi với bạn gái thì phải đưa ra hồ Tây... để vênh mặt lên với dân qua đường và để có chuyện mà khoe (nếu “vô phúc” cho ai hỏi anh chị đi chơi (ăn) ở đâu vậy?).

Họ ngầm cho rằng đó là một nét văn hóa rất Hà Nội... Kiểu thứ ba “bệnh hoạn” đến mức tưởng như không có thật. Đó là “không bị xử tệ thì ăn không ngon!”. Thậm chí có ông chủ (khi mát mình) bộc bạch: “Mình đang chửi mắng nó (khách) quen rồi, nó thích. Bây giờ mà tử tế có khi phá sản (?!)”. Nhà văn Băng Sơn từng giải thích: người Hà Nội ăn không chỉ lấy ngon hay no mà còn cả thưởng thức không khí ẩm thực thật riêng biệt, đặc trưng... Có lẽ cách giải thích ấy phù hợp với các quán phải xếp hàng hoặc quán nhà cổ như chả cá Lã Vọng mà thôi chứ nhu cầu bị chửi, quát, đuổi thì chắc... hiếm!

Không ăn thì biến

Những nhà hàng ngược đời nói trên thường có “cá tính” đó là chế biến ngon và dường như cả ý thức lẫn vô tình, họ cố gắng xử tệ với khách như để tạo sức hấp dẫn, chất “gây nghiện” của riêng mình. Và quát, đuổi, chửi tức là vẫn còn... quan tâm đến khách. Nhưng phổ biến hơn, ngán ngẩm hơn chính là sự coi thường khách. Bơ (bỏ mặc) hết!

Trong một quán ăn sáng ở phố Yên Phụ, đám khách miền Nam vào gọi bánh mì ốpla. Không thấy nhà hàng đả động, tưởng bị quên, khách nhắc. Tay phục vụ không thèm nhìn khách, liền nói: “Đợi 15 phút!”. Chờ 10 phút sau, khách lại gọi tay nhân viên nọ. Anh ta cộc lốc: “Mới 14 phút!”. “Ốp quả trứng thì hai phút chứ mấy!”. “Ở đây qui định gọi gì cũng 15 phút”. “Trời, qui định kỳ vậy?”. Gã phục vụ mặt không biến sắc, mắt không nhìn người đối thoại, vừa đi vào nhà vừa lẩm bẩm: “Ăn không ăn thì biến!”. Đoàn khách há hốc mồm, người nọ hỏi người kia mà không tin ở tai mình...

Phổ biến nhất là tình trạng gọi ít mang nhiều. Gọi món trong thực đơn, nhà hàng không có nhưng cũng không thèm thông báo. Khi khách hỏi quá thì nói là hết rồi. Thậm chí không hết cũng nói là hết để đỡ... phiền. Một nhà hàng có địa thế đẹp nhất nhì Hà Nội bán đặc sản bánh tôm ngay cạnh hồ Tây cũng có thái độ phục vụ rất khó chịu. Khách ăn xong, gọi chén trà, nhân viên xẵng giọng: “Không có!”. Nhưng khi thấy đoàn khách nước ngoài ngồi bàn bên ăn xong thì họ bê ra một ấm trà. Tất nhiên là tính thêm tiền...

Có người nói với tôi là anh ta hơi xấu hổ khi đọc cuốn sách nổi tiếng Chiếc Lexus và cây ôliu của tác giả Thomas L.Friedman viết về toàn cầu hóa. Sách nói đến rất nhiều vùng đất trên thế giới với những đặc trưng riêng thời toàn cầu hóa đều rất hoành tráng. Riêng Hà Nội được nhắc đến chút ít thì là về câu chuyện anh hầu bàn của khách sạn Metropole: Khách (tác giả) gọi quít để tráng miệng. Hầu bàn nói: hết quít rồi. Lúc đó VN đang mùa quít. Đường phố vô vàn quít. Tác giả nói: “Sáng nào cũng thấy đầy quít trên bàn. Chắc chắn thế nào trong bếp cũng còn quít mà?”. Anh hầu bàn lắc đầu. Khách xin thay bằng dưa hấu. Năm phút sau, người phục vụ bê ra một đĩa quít và nói: “Không có dưa hấu. Tôi tìm ra quít!”...

Khu phố cổ Hàng Ngang, Hàng Đào nổi tiếng kinh kỳ bán nhiều quần áo, giày dép. Thế nhưng khách dù sang hèn, tây ta có ngắm hàng, xem giá thì ông bà chủ cũng coi như... không khí. Mắt nhìn xuyên qua mặt khách, miệng cậy không ra một lời chào. Còn đám nhân viên thì bám chặt lấy khách không rời nửa bước. Không giới thiệu, không mời mọc, tư vấn mà chỉ để cảnh giác... mất cắp.

Có người lý giải tình trạng trên bằng hai lý do. Thứ nhất là Hà Nội đã sống quá lâu trong bao cấp. Tư duy, phản xạ trước cơ chế thị trường không được như Sài Gòn. Thứ hai là dân Hà Nội thường có thói quen dễ bằng lòng với những thành quả bước đầu. Lý luận này được chứng minh bằng chuyện: những nhà hàng độc quyền vị trí đẹp (gần hồ, gần sông, ngã ba, diện tích rộng...) rất ít khi có văn hóa kinh doanh tốt.

Vì không cần cải thiện thì họ cũng có khách. Số khách buộc phải đến vì chỗ ngồi đẹp cũng đủ nuôi sống chủ hàng. Và chủ chỉ cần vậy. Sinh động hơn là câu chuyện đôi vợ chồng một nhà hàng đặc sản ngan vịt ở quận Thanh Xuân. 15 năm trước họ là đôi tình nhân sinh viên nghèo, xa quê. Ra trường không muốn xa nhau. Trụ Hà Nội thì chưa có việc. Chàng trai tìm được nghề chở ngan vịt thuê. Thay vì nhận tiền công, anh nhận gia cầm cho bạn gái chế biến thành cháo, miến, bún gồng gánh bán hàng tối ngay cổng ký túc xá Mễ Trì.

Chịu khó, có khiếu nấu ăn, vui tính, tốt bụng và giá rẻ nên quán dù xập xệ nhưng rất đông khách. Chăm làm, tiết kiệm, không mấy chốc họ đã thuê được một gian hàng đàng hoàng. Cưới nhau, sinh con, thuê thêm người làm và bốn năm sau quán vịt ngan ấy đã trở thành một trong những nhà hàng ăn nên làm ra nhất khu vực.

Họ mua được nhà, mở được nhà hàng rộng rãi, sắm thêm tiện nghi nhưng lúc này ông bà chủ đã trở thành trọc phú. Ăn nói chỏng lỏn, kênh kiệu. Đám gia nhân làm ẩu, bẩn, kém chất lượng và khách hàng vắng dần. Nhà hàng mấy năm sau dẹp bún phở, cho thuê bán quần áo. Vợ chồng chủ nhà sống tầng trên và cũng lại đi làm thuê...

Tôi có ba năm sống cảnh cơm hàng cháo chợ ở phố Pháo đài Láng (phường Láng Thượng, Cầu Giấy), hằng ngày ăn cơm trong một quán bình dân không có biển hiệu. Bà con gọi là quán Ba Cô vì nhà có ba chị em gái. Cơm ở đây bán cho người làm thuê, bán hàng rong và sinh viên nên giá cả luôn rẻ nhất Hà Nội. Sau này ăn những bữa cơm đắt tiền hơn nhưng thú thật tôi vẫn thấy không ngon bằng cơm ở quán Ba Cô.

Không phải vì họ xinh đẹp hay lắm duyên thầm, thậm chí ba cô đều đã có chồng là những gã đàn ông lực lưỡng (rất đáng ngại!), mà vì dù nắng lửa hầm hập bên những lò than dưới mái tôn, hay mưa phùn gió bấc buốt như kim châm cũng chưa bao giờ tôi thấy các cô cáu gắt hay lạnh lùng kể cả với anh xích lô nát rượu, bà bán rau bủn xỉn hay cậu sinh viên nợ lâu. Mâm cơm các cô dọn rất gọn gàng, bắt mắt và vừa đủ bữa (không bê nhiều để tính tiền). Mọi thứ tuy rẻ tiền, đơn giản nhưng sạch sẽ, chu đáo. Vài năm bán cơm nay họ đều rất khá giả. Hỏi thăm, hóa ra họ là người Hà Nội gốc!

Khách uống bia tại Bia Khoái.

Nhà số 23 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội trước là rạp chiếu phim. Thời còn là sinh viên, thỉnh thoảng chúng tôi được nhà trường cho đi xem phim ở đây. Tôi còn nhớ cảm giác ngây ngất ở chốn này khi lần đầu được xem phim ''Những người khốn khổ'' của nhà văn Victo Hugo. Thời ấy chưa có bia chai, bia hơi, bia tươi và phong trào uống bia sôi nổi ở Hà Nội như bây giờ. Những sinh viên khốn khổ tràn đầy hạnh phúc với khẩu phần ăn sáng nửa ổ bánh mì 225 gram nóng hổi, chợt nhớ lại hình ảnh Giăng Van Giăng đưa chân dẫm lên đồng xu dưới mặt đường...

Năm tháng qua đi, Hà Nội chuyển mình, Hà Nội đổi thay. Rạp chiếu phim có lẽ không chịu nổi áp lực của phim video và phim ngoại thời thị trường... đã hoang vu theo thời gian. Bất chợt, một ngày đầu năm 2004, khi ghé qua, tôi sửng sốt thấy gương mặt mới của rạp phim Đống Đa xưa. Nhãn hiệu bia Khoái - Uptown beer nổi bật kèm theo dòng chữ: "Bia ngon thế giới được nấu tại đây"!

Vào cửa, một cô gái xinh tươi hướng dẫn chúng tôi đến tận bàn. Các tiếp viên đồng phục lịch sự, tiếp xúc nhã nhặn. Nhà hàng rộng, thoáng được thiết kế sang trọng, ấn tượng. Một dãy tháp bia đang sản xuất bia tươi và phục vụ tại chỗ, sáng loá bên bàn lễ tân. Có vách đá trầm mặc với những dòng nước róc rách chảy với khoảng trời phía trong nhà. Bia đen, bia vàng và các món ăn khá ngon, giá cả cũng vừa phải. Đặc biệt, cái cảm giác ẩm thực mà tôi muốn nói đến ở đây chính là những khoảnh khắc được thư thái, được hưởng thụ một không gian sống đẹp.

Nghĩ mà mừng cho Hà Nội, đã và sẽ có nhiều phong cách ẩm thực như thế này. Để giảm dần những bãi bia, để thôi ngay những quán phở quát, những quán phở trả tiền trước khi ăn và tự khách bưng bát phở tới bàn... Chúng ta đã khổ quá nhiều năm và không thể dễ dãi kiểu quen rồi, có sao đâu! Để rồi bỏ tiền ra mà cũng không được khoái, không được vui, không khác gì bị mất tiền...

Nhấp một ngụm bia sóng sánh, lại nghĩ miên man về dòng chảy văn hoá của Hà Nội từ bao cấp chuyển sang thị trường. Người ta có thể hưởng thụ văn hoá bằng nhiều cách và từ nhiều nguồn. Nghe nói bia Khoái là cơ chế cổ phần, có nghĩa là cuộc chơi đích thực của các cá nhân, lời ăn lỗ chịu chứ không phải tiền chùa bao cấp. Tôi uống bia mà cảm thấy lòng thấm thía hơn về một bài học sống. Và nghiền ngẫm sâu hơn về từng gương mặt, bức tranh, ngọn đèn, cây đàn và dòng bia chảy ra từ tháp bia với động tác thành thục của một bàn tay mềm mại, nhỏ nhắn nào đó... Ý tưởng và một kịch bản phim truyện của chính mình chợt hiện. Cuốn phim có tên gọi là... Những người tự chủ...

Điều lo lắng nhất của mỗi gia đình khi Tết đến gần là làm sao mua được hết các tiêu chuẩn gạo, thịt và “tiêu chuẩn Tết”. Tiêu chuẩn Tết cũng chẳng có gì nhiều: một hộp mứt thập cẩm đồng loạt cho cả nước, đựng trong cái hộp bìa mỏng manh xấu xí, vài lạng đậu xanh để gói bánh chưng, hình như mỗi người được thêm lạng thịt và cuối cùng là một bánh pháo tép. Xếp hàng ở các ở các loại cửa hàng khác nhau mua cho hết các tiêu chuẩn là nỗi lo lắng đầu tiên và lớn nhất của mỗi gia đình khi Tết đến.

Bánh chưng là nỗi lo lắng thứ hai. Bánh chưng hồi đó rất quan trọng, là một món ăn ngon được chờ đón và là chủ lực trong mấy ngày Tết. Khách đến chơi cũng mang bánh chưng ra mời và nhà nào “có khả năng” (từ chỉ nhà giàu) gói được cái bánh chưng ngon, nhiều đậu, thịt thì rất tự hào và là chủ đề bàn tán cho bạn bè, khách khứa trong nhiều ngày sau đó. Hồi đó không có ai làm bánh chưng để bán và một gia đình thì cũng không thể làm cả một nồi bánh chưng. Vì vậy thường là mấy gia đình chung nhau luộc một nồi bánh chưng. Bánh nhà ai nhà nấy gói, đánh dấu riêng, chiều 29 mang đến một nhà có sân, có một cái nồi to (hoặc mượn ở đâu đó), bắc bếp củi lên nấu và thay nhau canh suốt đêm, đến sáng hôm sau thì chín. Mãi sau này, khi "kinh tế thị trường" bắt đầu phát triển, mới có các cửa hàng bán nước sôi nhận luộc bánh chưng thuê vì họ có sẵn nồi và bếp than. Bây giờ chắc nhiều bạn trẻ không thể hình dung ra được những cửa hàng bán nước sôi, nơi có một bếp than và cái nồi nước sôi sùng sục suốt ngày có vòi ở dưới, khi cần bạn có thể xách phích ra mua một phích nước sôi về dùng.

Vì thế mà bận rộn nhất mấy ngày giáp Tết là chuẩn bị gói bánh chưng. Mua lá dong, rửa lá, thái thịt rồi ướp nước mắm, hạt tiêu, ngâm và đãi đậu xanh. Tôi đã từng có những buổi sáng ngồi còng lưng đãi đậu xanh cho thật sạch vỏ, rồi lại ngồi gói. Bao giờ cuối cùng cũng vét chỗ gạo, thịt đậu còn sót làm một hai cái bánh dậm nho nhỏ để ăn ngay sau khi vớt từ nồi ra (các bánh to phải để cúng, không được ăn).

Ngoài tiêu chuẩn Tết chính thức của nhà nước cho, các cơ quan bao giờ cũng cố gắng lo thêm cái gì đó cho cán bộ, nhân viên. Phòng Hành chính hoặc phòng Đời sống (có cơ quan có hẳn thứ phòng này chuyên lo tìm kiếm mua bán các loại hàng hóa quanh năm) tỏa đi khắp nơi, liên hệ với mọi mối quan hệ để mua lợn, bò, gạo nếp, thuốc lá. Tôi nhớ có năm, cơ quan lo được cho mỗi phòng một con lợn sống. Ngày 29 Tết cả cơ quan nhộn nhịp chọc tiết làm thịt lợn. Lợn làm xong được chia ra thành từng phần theo số người trong phòng, cả thịt, xương phải tương đối đều. Sau đó bắt thăm cho công bằng, phần ai người đó bỏ vào túi nilông, lòng lợn và tiết canh thì làm bữa liên hoan cuối năm. Không khí rất nhộn nhịp vui vẻ và đầm ấm khác hẳn không khí cơ quan bây giờ mặc dù lĩnh thưởng Tết tiền triệu. Đến lúc chia tay, xe đạp người nào cũng đeo lỉnh kỉnh túi thịt, túi gạo ra về.

Một việc nữa cũng quan trọng, phải lo là chuẩn bị cái xe đạp để đi chơi Tết. Thanh niên ngày ấy hầu như ai cũng biết sửa xe đạp. Trước mấy ngày Tết, ngả cái xe ra, tháo tung các ổ bi, rửa dầu hỏa sạch sẽ rồi lắp vào, bôi đầy mỡ mới. Nan hoa, ốc vít được kiểm tra, siết chặt lại kỹ lưỡng. Xích thì tăng lên cho nó khỏi chùng. Các thứ hỏng hóc khác cũng được sửa kỳ hết. Sau đó lau sạch sẽ toàn bộ xe, cái khung xe bằng sắt đã long sơn và rỉ hoen thì chỉ có mỗi cách là dùng dầu hỏa lau, trông nó cũng bong bóng lên một ít. Cái xe hồi đó là cả một tài sản và công cụ không thể thiếu nên được chăm sóc hết sức kỹ lưỡng. Có người "đi làm nhà nước" gần hết đời mới được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp mà phải qua một đợt bình bầu, xem xét rất kỹ lưỡng.

Cả Hà nội hồi đó chỉ có một chợ hoa hàng Lược. Nhà nào cũng cố mua lấy hai cành đào: cành to thì cắm ở chỗ tiếp khách, cành nhỏ cắm trên bàn thờ. Chiều 30, đàn ông con trai thì lo dọn dẹp lau nhà cửa (được cái nhà hồi đó cũng hẹp chỉ 20m2 là to nên dọn cũng nhanh), phụ nữ thì lo làm cỗ cúng. Hai mâm cỗ cúng tối 30 và sáng mùng một không bao giờ bỏ được.

Tiêu chuẩn vải cả năm hình như chỉ mỗi người 5 mét. Vì vậy thanh niên bao giờ cũng để dành đến Tết mới bắt đầu diện. Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác sau khi dọn dẹp nhà cửa xong xuôi, bắt tay vào là bộ "củ" (từ dùng để gọi bộ quần áo mới nhất, đẹp nhất). Chắc chắn là chúng tôi là cẩn thận, nâng niu và mất thì giờ hơn bây giờ nhiều. Cái quần kaki thôi nhưng phẳng lỳ, ly quần sắc như dao cạo! Những cái bàn là thời Pháp cũ, băng sắt nặng chình chịch, rải vỏ chăn ra để quần áo lên trên mà là, không có cầu là như bây giờ. Đôi dép nhựa Tiền phong nếu được mua trong năm cũng phải để dành đến Tết, còn nếu không trước Tết phải kiểm tra lại, gia cố những chỗ sắp bị đứt. Hà nội có hồi nở rộ các hàng chuyên hàn dán dép nhựa, đồng phục của cả nước (trước đó thì là dép cao su). Giầy thì chỉ có cán bộ cao cấp, ngoại giao hoặc những anh đi Tây về mới có.

Phải nói là cái thời gian khổ ấy lại có rất nhiều cảm giác sung sướng. Vì thiếu thốn mọi thứ nên khi có được cái gì là sướng đến hàng tháng!!! Cái bữa ăn tối ba mươi được cả nhà hồi hộp chờ đón và ăn rất ngon lành. Vì quanh năm ăn uống có gì đâu, thiếu chất nên cảm giác đói triền miên. Ngồi trước một mâm cỗ có thịt gà rán, thịt gà luộc, bánh chưng, bát bóng, bát măng, trẻ con người lớn mặt mày đều rạng rỡ. Đến giờ, ngay cả khi dự những bữa tiệc rất thịnh soạn và đắt tiền trong các khách sạn 5 sao, tôi không bao giờ có được cảm giác ăn ngon như ngày ấy nữa. Phần do tuổi tác nhưng tôi chắc các bạn trẻ bây giờ cũng không có được cảm giác ăn ngon như chúng tôi ngày xưa trong một bữa cỗ.

Cái cảm giác sung sướng nữa mà tôi còn nhớ là khi ăn xong bắt đầu đóng bộ đi chơi. Khoác cái áo sơ mi vải pôpơlin, cái quần kaki mới là xong hồi chiều,... vào thấy người khác hẳn, "nhớn" hẳn lên, đẹp trai hẳn lên, tự tin hẳn lên nhưng đi đứng thì rón rén vì sợ làm mất nếp quần áo! Bây giờ, mặc cái sơ mi Pierre Cardin 500 000đ, bộ comple gần chục triệu cũng thờ ơ không sướng được như hồi ấy.

Cả Hà nội tối ba mươi đổ về quanh hồ Hoàn kiếm là chỗ đi chơi duy nhất. Pháo nỗ râm ran suốt từ 7,8 giờ tối. Tiếng pháo nổ và mùi khói pháo cùng với mùi hương là những cái tạo nên không khí đặc thù ngày Tết chắc chắn sẽ phải khôi phục lại. Không có tục hái lộc nên cây cối không bị phá phách như bây giờ. Cũng không có ca nhạc, hàng quán gì quanh hồ, chỉ đi và ngắm nhau thôi. Mà cũng có gì lạ để ngắm đâu. Quần áo, giấy dép, xe cộ hầu như mọi người đều giống nhau chỉ có vài ba loại. Vì Hà nội thời đó vắng nên tuy người đổ về đông nhưng gửi xe, đi dạo cũng không chen chúc, chật chội gì.

Ba ngày Tết chỉ đi thăm nhau là chính. Mồng một là họ hàng, các ngày sau là bạn bè. Tuyệt đối không có lệ biếu xén trước Tết (mà cũng chẳng xoay đâu ra cái gì mà biếu). Đi chơi thăm hỏi nhau cũng thoải mái đầu óc vì cả nước hoàn cảnh sống như nhau, chẳng phải đố kỵ, tủi hờn gì trước cảnh thành đạt, giàu sang của người khác.

Ngày đầu tiên đi làm cũng dành chúc Tết và kéo nhau cả phòng đi thăm từng nhà một. Mà toàn đi bằng xe đạp. Có bao thuốc Tam đảo được phân phối trước Tết cũng để dành nguyên trên bàn thờ để sau Tết tiếp khách cơ quan. Tình cảm đồng nghiệp trong sáng vô tư, giúp được gì nhau là giúp. Vì hồi ấy, trưởng phòng cũng không hơn nhân viên được bao nhiêu, vị trí nào trong cơ quan thì cũng hưởng lương như nhau chẳng có lộc lá gì. Do đó mà âm mưu, thủ đoạn, đố kỵ, tranh giành không có đất mà phát triển. Những chuyện lặt vặt thì tất nhiên là có, nhưng không có những vụ dữ dội như bây giờ.

Tôi còn có một kỷ niệm sâu sắc về Tết những năm chiến tranh. Hồi đó các trường đại học sơ tán về nông thôn. Tôi không ở nhà tập thể của lớp mà tìm vào trong xóm xin ở nhờ nhà một người dân. Cần phải nói rõ "ở nhờ" đây đúng nghĩa là "nhờ": không tiền nong, quà cáp gì hết, chỉ có tấm lòng người dân thương "các chú sinh viên" mà thôi. Gia đình tôi ở nhờ có đến tám người con mà cũng đâu có rộng rãi gì. Một ngôi nhà tranh ba gian hai trái nhỏ nhỏ. Họ dồn cả nhà lại nhường cho tôi một gian.

Tết năm đấy sau khi ăn Tết ở nhà lên, tôi được liên hoan với cả nhà một bữa. Bác chủ nhà trịnh trọng vào trong buồng bê ra một liễn mỡ, lấy đũa móc từ trong đó ra một miếng thịt đã rán chín khoảng nửa lạng và bảo: "Để phần chú suốt từ trong Tết đấy. Phải ngâm vào đây mới giữ được". Mà đã nói phần chú là của chú. Suôt bữa cơm tôi không sao bảo được bọn trẻ con ăn lấy một miếng. Bạn phải biết là dân thành phố thì còn có tiêu chuẩn thịt hàng tháng, nông thôn tuyệt đối không. Chất đạm hàng ngày của họ là con cá, con tôm bắt được trong ao, trong ruộng (không ai nuôi tôm, cá như bây giờ). Nhà có nuôi gà cũng chỉ dám giết thịt vào ngày giỗ. Cái miếng thịt lợn để phần tôi suốt hai tuần tôi nghỉ Tết ấy trích từ tiêu chuẩn của cả nhà, đến Tết hợp tác xã mổ lợn tập thể chia cho, phần rán lấy mỡ để dành cho cả năm, phần để ăn chắc cũng chỉ được hai bữa Tết. Mà nhà họ tám đứa con lít nhít, thiếu ăn, gầy còm. Miếng thịt nhỏ bé, bình thường ấy nặng hơn cả núi.

Còn nhiều những chuyện khác đại loại như thế làm cho tôi, một người Hà nội gốc, các cụ đã nhiều đời ở Hà nội, đến bây giờ vẫn giữ trong tâm khảm sự kính trọng vô bờ bến với những người nông dân chân chất, hiền lành nhưng có một nhân cách và tình người không gì sánh được.

Kể lể chuyện ngày xưa như vậy, không có nghĩa là tôi bảo bây giờ toàn những điều xấu xa cả đâu. Gần đây, tôi có một việc liên quan đến nhiều người giải quyết. Và tôi đã sửng sốt khi phát hiện ra rằng giữa cái thời buổi đồng tiền ngự trị khắp nơi này vẫn còn khá nhiều người tốt, sống và làm việc theo lương tâm. Cái tốt bây giờ khó khăn hơn cái tốt ngày xưa, nhất là với giới công chức: vì làm điều tốt bạn có thể phải chịu tai tiếng oan, gánh nhiều điều phiền toái, bị mất nguồn thu nhập,.v.v. và v.v

TẢN MẠN VỀ CHUYỆN ĂN UỐNG TRONG THỜI BAO CẤP

Từ những thế hệ sinh năm 1986 trở đi, những dấu vết về một thời bao cấp gian khó dường như đã dần phai nhạt. Tuy nhiên trong lòng những người Việt sinh ra trước thập niên 70, hình ảnh của giai đoạn bi tráng này vẫn còn thấm sâu trong ký ức, để hôm nay trỗi dậy, bão tố nhưng lại dịu dàng. mơ hồ như mới đến hôm qua.

Tôi là một người sinh vào năm 1976, cái mâm cơm ngày ấy cũng đã bắt đầu có những gì khởi sắc. le lói những gì đổi mới đằng xa. nghĩa là không còn những món bánh bo bo, cơm độn hay nắp hầm, đứa trẻ con đã bắt đầu được chiều cái quyền đòi thêm một miếng thịt lợn hay một bát phở lúc ốm đau.

Không biết những bạn trẻ ngày nay có thể hiểu và sẻ chia cái khó khăn qua cảm nhận trên thông tin đại chúng hay không. Những người lớn đã cố gắng gợi lại bằng những hoạt động về một thời bao cấp thiếu thốn, chưng ra những đồ đạc cũ, những hình ảnh về một xã hội đang trong thời kỳ bắt buộc phải chuyển mình trong những cơn dằn vặt.

Và cứ như thế chúng ta, hai thế hệ bên hai bờ đổi mới, cứ cố gắng nhìn nhau qua sự trao đổi hai chiều, một bên là bếp dầu, xe đạp..., một bên là xe máy, bếp ga,..., họ cố tưởng tượng và hiểu nhau. Lúc này những vận động để tiếp thu và thâú hiểu cũng chính là một khó khăn thực sự.

Đọc qua những bài viết trên, của những người anh, người chị và cũng có thể là các em, trên cùng Diễn đàn Tứ Hải, tôi không có ý thêm thắt và ôm lấy toàn bộ một vấn đề hay cố gắng đưa ra một chủ thuyết mà chỉ muốn nói một chút thoáng qua về một khía cạnh thời bao cấp: Ăn uống.

Thật ý nghĩa khi một ngày mưa, ngồi với chúng bạn ở đó đây, ngày quốc tế lao động, có thể ở Hồ Tây, ở công viên, hay cửa ô Quan Chưởng, cùng ôn lại, cùng bạn bè thưởng thức lại những món ăn của một thời kỳ đã qua, một thời hàn vi nghèo khó.

Nói về thực phẩm thời bao cấp, đó là những món ăn từ bất cứ thứ gì, những cây nhà lá vườn, qua bàn tay người phụ nữ đảm đang khéo léo đã thành những bữa cơm nuôi sống chúng ta, những đứa trẻ.

Đó là những lạc rang muối, thầu dầu nấu dưa, bì trâu xào muống, hoa chuối trộn trai hay dưa xào tóp mỡ.v.v..., tất cả đều đơn giản nhưng đậm đà biết bao!

Xa hơn nữa đó là những con cua, cá cờ hay rắn nước quấn que nướng những ngày chủ nhật cha tôi tát được, rồi những con ốc âm tháng tám để chị tôi rủ chúng bạn quây quần những chiều thứ bảy. Rồi đó là những miếng chả nhái, chẫu chuộc tẩm bột rán thơm lừng, là kết quả tranh thủ của anh những chiểu trên ruộng rau muống.

Họ ngoại tôi ở Lạng Sơn, cho nên cứ mỗi lần cậu mợ xuống thăm là đem theo một bịch trám lớn, món ăn tôi không thể nào quên thời thơ ấu. Vị trám béo, bùi, lẫn với mùi cá trạch kho khiến chúng tôi ăn thủng nồi trôi rế.

Tôi sinh ra không còn phải ăn thứ cơm độn gồm đủ loại như khoai sắn, mì, bo bo, nhưng thời ấy chuyện ăn cơm hẩm và đầy sạn là một điều không thể tránh khỏi.

Thế là trước bữa ăn, cả gia đình phân công nhau ngồi nhặt thóc, nhặt sạn. Có khi ngồi hồi lâu nhặt được đến cả hàng chục viên sỏi nhỏ. Công việc ấy đối với một đứa bé ham chơi thì thật chả thích chút nào. Tuy nhiên, xét ra, chính cái thời tôi sinh ra ấy đã khiến tôi thấm thía hơn về giá trị của cuộc sống cần lao, để hôm nay, sẻ chia cùng mọi người gần xa, nhân ngày quốc tế lao động.

“Bia chuồng cọp”: Uống bia, uống ký ức một thời…

Ngày 6/12/2009, tại sân vận động Quần Ngựa (Hà Nội), hàng trăm người dân thủ đô, nhất là những người thuộc lứa tuổi trung niên, đã náo nức xếp hàng mua bia "chuồng cọp" 3 hào 1 cốc trong ngày hội "Bia Hà Nội – thuở ấy" và cùng nhau chia sẻ ký ức về một thời bao cấp và chiến tranh chống Mỹ.

Đây là sự kiện do công ty cổ phần thương mại Bia Hà Nội (Habeco trading) tổ chức nhân dịp sinh nhật lần thứ 3, nhằm tái hiện hình ảnh Nhà máy Bia Hà Nội trong một thời kỳ lịch sử đáng nhớ.

Thông qua đó, phong cách “Bán bia và uống bia” của người Hà Nội cũ đã được giới thiệu, giúp cho cho thế hệ sau hiểu rõ hơn về thời kỳ lịch sử và phát triển của bia Hà Nội, đồng thời tạo sân chơi cho những người “yêu và say bia” được nhớ lại những kỷ niệm của thời kỳ khó khăn, thời kỳ mua hàng bằng tem phiếu.

Toàn bộ hệ thống biển quảng cáo, phông nền, cờ, phướn,.. đều lấy gam màu chủ đạo là màu ghi cũ của thời gian và mọi vật, sản phẩm sử dụng cho ngày hội đều mang tính quen thuộc của thời kỳ bao cấp.

Đầu tiên là khu bán tích kê mà phải xếp hàng mới mua được, tiếp đến là sang khu đổi xèng – cấp bia, khách phải tự đi lấy bia và tìm chỗ ngồi để uống bia.

Tại đây, người tham gia sẽ được thưởng thức bia hơi với lạc luộc, lạc rang hoặc đậu phụ, mực khô nướng đựng trong những mẹt nan nhỏ để “đưa đẩy” bia. Khách hàng sẽ được phục vụ bia bởi các cô nhân viên mặc tạp dề, giản dị mang phù hiệu “Mậu dịch viên cửa hàng” với áo nõn trắng, quần lụa đen đúng như thời bao cấp.

Khu bán tích kê và Khu đổi xèng - lấy bia được xây dựng theo mô hình các cửa hàng bán bia đầu những năm 70 của thế kỷ trước, mang đậm tính "sắt thép" với cái tên gọi "chuồng cọp" được bao quanh bởi hàng rào sắt kiên cố, để phòng ngừa “các đệ tử bia bọt” chen lấn xô đẩy khi xếp hàng.

Bên cạnh đó, người dân đã được hòa chung trong không khí của Hà Nội thời kỳ bao cấp và Hà Nội thời chiến tranh chống Mỹ qua những bản nhạc về Hà Nội và người Hà Nội được phát ra từ hệ thống loa treo trên cao. Đặc biệt, những bằng chứng lịch sử của một thời kỳ chiến tranh khốc liệt gian khổ cũng được tái hiện qua âm thanh bom đạn, tiếng loa báo động “Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý, máy bay địch đang đến gần…” quen thuộc một thời đã khiến không ít cựu chiến binh tham dự thấy “gai” người vì xúc động

Bác sĩ nói Bình không thể tiếp tục ăn thịt chó nữa. Lắm chuyện. Khi thì nói tốt cho sức khỏe. Khi nói thừa đạm. Bệnh với tật.

Da đen xạm, chỉ đợi ngày chết nữa thôi. Tạm thời hắn vẫn ăn thịt chó, sáng trưa chiều tối, thậm chí là khuya. Lúc nào cũng khuyến cáo, nghe khiếp.

Dấu hiệu tuổi già đến bằng mấy sợi tóc bạc.

Bình ăn thịt chó như ăn cơm bữa, nhìn hắn ăn thấy xấu quá, thảm hại, tóc nhờn bóng, mồ hôi, da mặt nhầy nhà nhầy nhụa. Cô người yêu không còn gần gũi với Bình như trước, thấy mình đếch còn cần gái gú gì nữa…, mà đời này mình cần gì ai chứ. Chẳng thèm bận tâm đến ai, cũng chẳng còn ai bận tâm. Bình- kẻ thích ăn thịt chó nhất thế gian.

Hắn sẽ chết sớm vì ăn quá nhiều thịt chó cho mà xem.

***

Con kênh đã được nạo vét tươm tất, nhưng chẳng cây bèo nào con cá nào sống nổi. Người ta không còn gọi nó là dòng sông Chết nữa. Hai bên bờ kè, quán nhậu nhan nhản, lấp lánh đèn xanh đỏ mờ ảo. Tiếng chúc tụng líu lo leng keng. Ông Thư nói, hôm nọ ngồi uống, mười hai giờ triều cường dâng, không biết có phải vì rượu vô hay không mà nghĩ là đang ngồi bên dòng sông Sen. Ông này đúng là khéo tưởng tượng. Lại còn cầm ghita ra nghêu ngáo hát, nhìn như tâm thần. Mỗi lần ông Thư nói, nói thật nhìn hai con mắt lồi ghê chết đi được. Làm mấy con bé phục vụ cứ đùn đẩy nhau, chẳng đứa nào muốn lại gần cái Bàn 13 quỷ quái đó.

Quán 29 Món chó mới tám giờ đã không còn một chỗ ngồi. Đến chậm chân đành ngậm ngùi dắt xe về. Họ đã mua thêm bao nhiều bàn ghế, thuê thêm bao nhiêu nhân viên nhưng vẫn không phục vụ hết được. Có khi thực khách khúm núm ngồi ké bàn, ăn được mới cam lòng. Quán cà phê cũng vậy, không hiểu sao bọn trai gái cứ thích ngồi ngoài bờ kè tâm sự. Cũng như thịt chó, bao nhiêu quán cà phê mở ra cũng không đủ. Đặc sản bắc trung nam tràn ngập sôi động.

Đối diện với chó là phố nướng. Cá nướng & Các đặc sản khác. Những cái bảng hiệu đọc nghe vui tai. Câu lạc bộ thịt cầy- là địa điểm nổi bật nhất. Hầu như khách cả hai bốn trên hai bốn. Bà chủ quán lại tốt bụng chứ. (Tôi đang làm việc quảng cáo nên có thể hơi phảng phất chút bệnh nghề nghiệp. Bà chủ quán đó là cô ruột của tôi chứ ít gì).

Quán ruột của Bình hơi vắng một chút, dân dã, quê quê, vậy mới thích. Khách Việt kiều, nước ngoài, ai hắn cũng dẫn đến đây. Chủ quán Cây Xoài được Bình đặt tên là Thằng chó già nhưng hắn không giận, thậm chí còn khoái. Mỗi lần thấy Bình đến, có bận đến mấy, Thằng chó già cũng đến uống một ly, rỗi thì uống nhiều, nói chuyện thời sự, sang thì đọc thơ.

Thằng chó già nói Bình là bạn hữu. Say say lên hai thằng lại than vãn sự đời, vợ con, bạn bè, đứa này chơi bẩn, đứa này chơi được, đứa này sòng phẳng, thời quái gì mà học sinh suốt ngày đánh nhau rồi quay phim, mất dạy. Lâu lâu đánh mấy ván tiến lên. Thằng chó già có con vợ béo núc ních, thấy chồng thua tiền thì ả lườm ả nguýt, ả nói bóng nói gió, thắng thì cười khoe hết cả hàm răng ra, mắt híp lại. Răng lại vừa hô vừa vàng. Vợ chồng Thằng chó già uống bao nhiêu thuốc, đi khắp nơi cúng vái cũng không có con nên xin đứa con nuôi. Con bé đó nấu thịt cầy ngon hết sẩy.

Hôm nay Bình uống ít, nói tửu lượng tao mỗi ngày một kém. Chỉ thèm ăn mày ạ. Ăn cả ngày mà chẳng thấy no cứt gì cả.

***

Mồng hai tết, Bình lao xuống bếp thấy có chén nước để trên kệ bếp, uống một hơi, ai dè uống nhầm phải mỡ. Gớm chết đi được. Mà lại là mỡ chó chứ. Mấy ngày tất niên vừa rồi đã biến hắn ì ạch như con gà công nghiệp. Hắn nôn thốc tháo ra bồn rửa chén. Con vợ hắn đứng nhìn. Thường tình nhậu nhẹt hắn cũng vậy nên hơi đâu mà lo. Cái bồn rửa chén lênh láng mỡ, ngập ngụa như giun bò. Nôn chán nôn chê. Mỡ chó lềnh bềnh. Chắc phải xả mất hai khối nước. Mắt trợn như long ra. Mồm há hốc. Quái quỷ. Mỡ chó. Hay con vợ mình nó gài. Nó muốn giết mình? Mà giết làm gì chứ. Ngà ngà chẳng thấy gì. Kệ cha nó.

Nôn chán lại đói. Mà vợ hắn kiếm đâu ra mà nhiều mỡ chó vậy chứ. Vợ nói nhà có ma, xin ít mỡ chó về trừ ma. Không có một hạt cơm để ăn. Tết, quên mất, tết, tết mà. Hắn tu sáu chai DR Thanh mát gan giải độc thanh lọc cơ thể không lo sợ nóng. Hai ngày hai lốc mười hai chai. Ba ngày ba lốc, không lo sợ nóng trong người nữa. Dà dày ơi, dạ dày ơi. Gan ơi, mật ơi, phổi ơi.

Cái dạ dày quợ quậy không yên. Nhưng hắn không thể không thương cái miệng thèm ăn của mình. Rồi ba ngày tết cũng hết, phải ăn cho bằng được thịt chó. Không lẽ mười mấy quận không kiếm nổi một cái quán. Điên tiết, hắn rồ gào chạy như thằng dở hơi ra đường. Đường vắng tanh. Đèn đỏ mặc, cũng chẳng có công an giao thông, đi nhanh thôi, không để dạ dày nó quằn quại như vậy. Mấy ngày tết hắn đã phải uống thuốc ngủ rồi. Chỉ có cảm giác mệt rã rượi và buồn ngủ. Giờ phải ăn, quên mẹ nó đi, chó sạch chó bẩn, chó vỉa hè chó nhà hàng tao cũng ăn. Chó đánh bả tao cũng ăn. Chết cũng được.

Khỉ thật. Họ treo bảng Chó Khai Xuân mà chả thấy chó đâu. Ông chủ nói, lấy ngày cho đẹp, chưa bán, xin lỗi, mong bác thông cảm. Có gì mồng bảy bác ghé. Ba chìm bảy nổi. Mồng bảy thì nói làm gì. Hắn lại rồ ga phóng như ăn cướp, như thượng đế hiểu hắn, chẳng có một đèn đỏ đèn vàng nào cản trở hắn. Đi thì đi cho trót, không lẽ về. Nhục.

Chủ quán thịt chó nói nhớ hắn. Hắn đã thề, đanh thép, sẽ không bao giờ rớ đến miếng thịt chó nữa.

Có cho tao vàng tao cũng không ăn. Cứt.

Mấy ông bạn của hắn đến, miệng nặc mùi chó và bia, rủ hắn, làm tăng ba. Hắn khua tay. Cứt. Tao đ. đi. Hăn thấy lợm lợm miệng.

Cho cái gì vô miệng, hắn cũng nôn ra cho bằng sạch. Lúc nào cũng đói, cồn cào như kiến bò trong bụng. Mấy ngày sau, hắn đi viện, họ nói viêm dạ dày. Uống rồi tiêm và truyền dịch, rồi tẩm bổ. Chẳng được gì. Hắn gầy hẳn. Cái mặt béo bệu của hắn giờ chảy dài ra. Da bụng tùa lại thành đống, lỏng bỏng. Chỉ cần đưa tay lên xoa xoa bụng, những lớp mỡ bụng cứ chảy qua bên này, chảy qua bên kia. Buông tay ra, chúng như muốn rời khỏi thân thể hắn.

Hắn hù vợ đốt nhà, nếu vợ hắn cứ tiếp tục xử sự với hắn như vậy.

Bệnh viện chật cứng người vì ăn uống không điều độ. Có một phần bị ngộ độc. Nhóm bạn, mà hắn gọi là chiến hữu, hai mươi lăm thằng nằm viện. Da vàng chạch, khô queo như vỏ chanh. Bọn này mới ham vui chứ, bày đặt nằm chung một nơi. Có đứa, cũng có vợ đi chăm sóc, cái mặt cũng đẹp, tận tình, ân cần. Có mấy thằng thì có bồ đến. Nhưng mấy con này không làm ăn được gì, tay chân khều khều, móng dài ngoằng, nhọn hoắt đỏ như máu vẽ vời lên dày như sáp. Nước hoa với son phấn thơm nức. Lượn lờ, nhắn tin, vuốt ve, âu yếm, gọi điện, cười, nhăn nhó rồi lượn lờ.

***

Bệnh dạ dày cuối cùng cũng chữa khỏi. Nhìn đống thuốc mà nhớ đời. Nhưng không sao.

Hai giờ rồi. Đi làm một bữa cho đã đời, nhớ quá.

Giữa bao nhiêu là người, nhưng hắn vẫn ăn vội vàng, hắn sợ họ ăn hết của hắn. Vì thịt chó quá ngon, và nhất là quán này. Nó chẳng cần nhiều tiền. Vậy mới sướng.

Hắn thường ngồi bên bờ kè ăn thịt chó, và nhìn dòng sông trôi. Nói cho đúng, thì cái hắn gọi là dòng sông đã không còn là sông từ lâu lắm rồi.

Hắn có bốn mươi năm tuổi ăn thịt chó. Vợ hắn nghĩ hắn chỉ ăn vài ba năm nay. Không hiểu sao hắn giấu diếm hay đến vậy. Hắn lắc đầu, cười, bí mật. Hắn nói con chó hơi già. Làm được mấy món, ăn ngon, thích, nhớ đời.

Quán thịt chó này ngon nhất Sài Gòn. Tọa lạc bên bờ kè. Như thách thức mưa gió, thậm chí là mỗi chiều những trận triều cường lên bẩn thỉu. Tắc đường cũng chẳng là gì. Một con chó chế biến được hai mươi chín món. Mà món nào cũng ngon. Ăn một lần là nhớ mãi. Mặc dù dòng sông này ai ngửi phải mùi của nó đều viêm xoang, nhưng chẳng thể nào làm giảm đi cái vị cay nồng và thơm ngon đặc biệt của thịt chó, của rượu, của bia trong lúc họ ngồi đàn hát.

Họ đã ngồi từ hai giờ chiều. Họ hẹn một số người bạn. Đây là quán mối của họ, ở đây đã nảy sinh những mối quan hệ. Đến nay câu lạc bộ của họ đã kỷ niệm sinh nhật lần thứ tám. Bình có đến hơn một trăm người được hắn gọi là bạn hữu.

Sáng điểm tâm thịt chó. Trưa thịt chó. Tối thịt chó. Khuya thịt chó. Chó mọi nơi mọi lúc, có thể. Nếu một ngày không cho thịt chó vào miệng thì vô nghĩa quá. Như ban đầu giới thiệu, kẻ mê thịt chó này tên Bình. Hắn không chơi với Thằng chó già, vì món dồi của hắn không nuốt được nữa. Làm ăn kiểu đó, mất cả bạn hữu. Hắn chơi với Long. Đúng là cặp trời sinh, cứ như sinh ra để kết bạn và nhậu thịt chó với nhau.

Hắn không đặt bút ký vào lá đơn ly hôn nhưng việc ly hôn của họ vẫn diễn ra bình thường. Vợ hắn coi hắn là quái vật, bây giờ không có sự gì trên đời ghê tởm bằng chồng mình, nàng nhập viện tâm thần hai tháng, ra viện vẫn không thay đổi được điều gì. Mỗi khi Bình chạm vào nàng chỉ gây cho cô ả cảm giác mình đang đối diện với một con chó sói mắt đỏ, lưỡi thè dài ra nhễ nhại nước miếng. Thậm chí hắn không dám nhìn đối diện.

Cũng may cho vợ hắn. Mấy ngày sau đó, không hiểu có phải đó là chứng bệnh gì đó hay không mà Bình mắc chứng đi lui. Ai cũng thấy lạ, cả phố xếp hàng nhìn hắn. Nghìn nghịt tắc cả đường. Cảnh sát phải dẹp đường. Họ ban bố lệnh cấm, nên mọi người đỡ bớt đỗ ra đường xem hắn đi lui.

Hắn bị chứng bệnh đi lui.

Hắn đi một đoạn, nhận ra điều này. Nó khá xa nhà rồi. Hắn hơi sợ, tay chân hắn run, miệng va vào nhau cầm cập. Hắn lại thử thêm một đoạn. Hắn lẩm bẩm, vô ích rồi, Bình ơi. Dù mặt mũi hướng về trước nhưng cái lưng và chân hắn vẫn cứ đi lui. Hắn không thể đi đứng bình thường, hắn buồn quá. Đến thành phố B, ai cũng ngạc nhiên nhìn hắn.

Thôi thì đến thành phố C. Nhìn xung quanh, chẳng ai đi đứng kiểu như hắn, nhưng hắn chẳng thấy khó khăn gì cả. Hắn giao tiếp bình thường.

Sng Trên Đi

Một cựu quân nhân Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, nguyên sĩ quan tùy viên Hải Quân tại Ðại Sứ Quán Mỹ, Hà Nội, đã có ý hướng muốn thuyết phục người Việt Nam, nơi xứ sở ông đã phục vụ trước đây, thay đổi một nếp sống văn hóa, là từ bỏ thói quen… ăn thịt chó.

Ông Robert Lucius kể lại cảm giác đầu tiên của ông, năm 2006, trong một chuyến đi phát dụng cụ y tếở Lai Châu, đã nhìn thấy những con chó bị nhốt trong rọ trên một chiếc xe gắn máy đem đến lò thịt, với những đôi mắt sợ hãi, tuyệt vọng. Vào lúc ấy, ông không làm gì được và về sau vẫn ân hận về sự “hèn nhát” của mình. Hình ảnh những đôi mắt bầy chó ấy ám ảnh ông, khiến ông từ bỏ việc ăn thịt và chọn việc ăn chay. Từ Việt Nam trở về, ông Lucius đã thành lập một tổ chức bất vụ lợi phát động việc đối xử tử tế với loài vật, đào tạo những thanh niên đi nói chuyện tại những nơi đông người, nhất là trong giới sinh viên chuyện phải suy nghĩ lại về việc xem chó là loại súc vật cung cấp thịt cho loài người, và việc giết chó làm thịt được xem như là một hành động độc ác tàn nhẫn.

Ở các nước Á Châu, chúng ta xem việc ăn thịt chó là bình thường như ăn thịt heo, thịt bò vậy, nhưng dưới mắt người Tây Phương, đây là một việc hết sức quái đản, dã man, mọi rợ. Chính bản thân tôi đã có phen ngượng chín người, vào cuối năm 1966, khi ở giữa một lớp học sinh tiểu học Mỹ, bối rối vì không thể không trả lời câu hỏi của một bé gái ngây thơ mới lên 8 tuổi: “Có phải người Việt Nam các ông ăn thịt chó không?” Có hay không? Và phải giải thích ra làm sao?

Trông một ông lính VNCH mang hia, đội mão, bề ngoài cũng không khác mấy anh lính Mỹ, nhưng cái câu hỏi của cô bé kia có lẽ đã khiến cho các em có cha, anh đang phục vụ tại Việt Nam nghĩ rằng thân nhân họ đang chiến đấu tại một đất nước không mấy văn minh, vì ở đó người ta… ăn thịt chó.

Cứ nghĩ đến hình ảnh một con “pet” cưng được bồng bế, quấn quýt bên con người, biết mừng rỡ, xúc cảm, trung thành, cùng ăn, ngủ với con người, được vuốt ve hôn hít, được chăm sóc thuốc men khi đau ốm, được chôn cất tử tế khi chết; với hình ảnh một con chó mới bị đập đầu bằng cái búa tạ, bị cắt tiết, giội nước sôi, cạo lông, thui vàng rộm, còn nhe răng, được treo lểnh nghểnh trên mấy cái móc sắt ở cửa hàng thịt chó ở Hà Nội hay Ngã Ba Ông Tạ, Saigon mà thấy kinh hãi.

Ông Jason Picard, một người Mỹ, kể chuyện, sau một thời gian đi du lịch ở Việt Nam về đã thú nhận với bố mẹ là đã có lần ăn thịt chó. Lúc ấy bà mẹ đang ngồi trên sàn nhà chơi với con chó nhỏ tên KC. Mẹ ông và cả con KC đã nhìn ông với vẻ mặt khiếp sợ và ghê gớm như nhìn một kẻ sát nhân. Sau một giây phút bối rối, bà mẹ bảo ông với giọng kiên quyết:

“Jason, con lại đây và xin lỗi con KC ngay đi…”

Tranh luận chuyện chính trị, tôn giáo đã là điều khó. Nói chuyện tôn giáo bây giờ có khi oan mạng, nói chuyện chính trị thế nào cũng có cãi vã, nhưng chớ có đụng vào văn hóa. Chính ông Lucius, người mở chiến dịch chống việc ăn thịt chó, cũng đã coi mình như một tên “đế quốc văn hóa,” dám làm chuyện xâm lược, đòi thay đổi văn hóa của dân tộc khác. Này ông! Mỹ ăn “hot dog” được thì tôi chén “dồi chó” có sao đâu? Chớ có đụng vào “văn hóa” của chúng tôi! Ðối với dân tộc Việt Nam, chuyện ăn thịt chó là thứ văn hóa muôn đời rồi, mùi chả chó, rựa mận đã thơm ngát cả khu rừng văn học dân gian làm sao dứt bỏ được:

- “Sng trên đi ăn miếng di chó, Chết xung âm ph biết có hay không?

- “Làm trai biết đánh t tôm, ung rượu tht chó, ngâm nôm Thúy Kiu”

- “Mt trăm con chó, Mt l mm tôm, Mt ôm rau húng, Mt thúng rau răm.”

Dân khoái thịt chó thường ca tụng đặc tính của thịt chó không thua gì người ta quảng cáo dược thảo hiện nay: “Không độc, bổ tỳ, bổ thận, trợ dương…” nghe mà ham. Không biết mùi vị thịt con chó trắng với thịt chó đen có khác nhau không chứ theo các vị sành chó thì: “Nhứt bạch, nhì hoàng, tam khoang, tứ đốm.” Có thật không, hay đây cũng chỉ là những lời bốc phét, như câu nói “ăn thịt chó ba ngày, xỉa răng vẫn còn… thơm?”

Một vài nước ở Châu Á như Nam Hàn, Trung Quốc có những vùng các nông dân nuôi chó trong nông trại để lấy thịt như nuôi, bò, cừu dê, heo, gà vịt. Họ còn nhập cảng giống từ phương Tây để có con giống lớn nhiều thịt. Các trại chủ Trung Quốc đã học hỏi cách nuôi “chó thịt” từ người Ðại Hàn và thú nhận rằng nuôi chó lợi gấp ba lần nuôi gà vịt và gấp bốn lần lợi tức nuôi heo. Ở thủ đô Seoul (Nam Hàn) có cả một “phố thịt chó.” Trong thời gian diễn ra Thế Vận Hội Seoul 1980 và World Cup năm 2002, chính quyền phải cho đóng cửa các nhà hàng thịt chó để tránh những cái nhìn thiếu thiện cảm của người phương Tây đối với dân tộc này. Nhiều người Ðại Hàn cũng đã cho rằng cách làm thịt chó bằng lối treo ngược con chó lên và đánh cho đến chết, để thịt chó được mềm mại và có mùi thơm hơn là quá dã man, nên đã thuyết phục chính phủ ban những biện pháp để ngăn chận lối làm chó độc ác, tàn bạo này.

Một người Nam Hàn hiện đang sống tại Hòa Lan cũng đã cho biết quốc gia này cũng có xuất cảng chó sang Nam Hàn và việc người Hàn ăn thịt chó sẽ làm hoen ố hình ảnh của Ðại Hàn khiến người ta sẽ kỳ thị và ghét người Ðại Hàn hơn. Vào tháng 4 năm 2000, tổ chức Hiệp Hội Quốc Tế Bảo Vệ Súc Vật tại Thụy Sĩ đã kêu gọi chính phủ ngăn cấm việc xuất cảng chó sang các xứ Á Châu, đặc biệt là Tàu, Việt Nam và Ðại Hàn, là những nước có văn hóa… “sống trên đời.”

Không thể xem thịt chó như là thịt rùa, thịt rắn, thịt vịt hay thịt heo. Chúng ta lại không thể xem loài chó cũng như các động vật vì nó có trí khôn và tình cảm, những ai đã từng nuôi chó đều biết đến điều đó. Loài chó khôn ngoan và biểu lộ sự đau đớn khác thường khi chúng biết sắp bị con người đem ra giết. Người Tây phương gọi chó bạn của con người (man’s best friend), trung thành và đáng tin cậy. Vì vậy người mù đã dùng chó để dẫn đường, cảnh sát đã dùng chó để tìm ma túy, truy lùng dấu tích tội phạm và để cứu người kẹt trong lửa, vùi dưới tuyết hay dưới sông. Con chó còn biết đi săn giúp người hay giúp giữ đàn cừu, kể cả việc bảo vệ cừu khỏi nanh vuốt của bầy sói.

Con chó biết mừng rỡ khi thấy chủ về nhà, dù đó là người lính viễn chinh xa nhà đã nhiều năm, con chó biết bảo vệ khi chủ bị tấn công, con chó nằm yên trên thềm nhà cũ, không ăn uống và chết theo người chủ. Con chó có nhiều đức tính mà con người đôi khi chưa làm được. Thế giới đặt câu hỏi, vậy mà vì sao, trên trái đất này lại có những người Tàu, người Việt, người Ðại Hàn, người Cambodia lại có thể đập đầu, giội nước sôi, thui vàng, banh thây những con vật “bạn người” ấy chỉ vì miếng ăn. Hơn nữa miếng ăn này cũng không phải miếng ăn cứu đói như ly sữa, khúc bánh mì, chén cơm hay củ khoai, mà chỉ vì cái văn hóa khoái khẩu, đàn đúm (chưa thấy ai ngồi ăn thịt chó một mình), rượu chè (không ai ăn thịt chó mà uống nước lã).

Tuy vậy người Việt Nam vẫn chưa có ai mở nông trại nuôi “chó thịt” cho sinh sản, vỗ béo rồi đem đi bán hay bỏ mối cho các nhà hàng thịt chó đang mọc lên nhan nhản, nhiều nhất là tại Hà Nội, đất ngàn năm văn vật. Cũng vì Việt Nam chưa có trại nuôi chó thịt quy mô, nên ở miền Bắc, quá nhiều người còn mê ăn món chó, mà số thịt không đủ “cung,” nói nôm na là không đủ chó bán. Do vậy, mấy năm nay, nghề trộm chó nở rộ khắp nơi, một bọn người chuyên lùng sục bắt chó từ của người khác đem về bán cho các cửa hàng thịt. Ðể bảo vệ chó của mình, dân chúng đã đoàn kết, tự làm bản án, phục kích và giết những kẻ trộm chó một cách độc ác không nương tay như đánh chết tại chỗ, đổ xăng thiêu xác họ hay nhẹ là đốt xe của bọn trộm.

Con chó đổi một mạng người, tình cảnh ấy chỉ thấy trong xã hội đương thời ở miền Bắc, mà chẳng qua cũng vì miếng ăn tồi tàn (Xem bài tham khảo từ các báo)

Theo thống kê có 5 triệu/47 triệu, người Ðại Hàn ăn thịt chó, không biết trong 85 triệu người Việt Nam, có bao nhiêu triệu người ăn món “mộc tồn?” Ít nhất cũng có ba triệu người ra hải ngoại không còn có cơ hội ăn thịt chó, và có thể không còn thích ăn món “cờ tây” này nữa, vì vậy tôi tin rằng văn hóa… ẩm thực cũng có thể thay đổi. Thay đổi để theo kịp đà văn minh, tiến bộ, thay đổi để cho chúng ta khỏi mang tiếng là những người đến từ một xứ sở còn thói quen dã man là… ăn thịt chó.

Đến quần đảo Trường Sa đúng dịp Xuân về. Những đợt gió đông bắc cuối mùa khiến biển động mạnh, sóng bạc đầu trắng xóa ôm lấy đảo. Những con tàu chở đầy ắp hàng Tết cho bộ đội Trường Sa, nặng thế mà sóng đánh cứ chòng trành, khiến ai nấy đều say nghiêng ngả.

Tôi đi theo con tàu mang số hiệu HQ-633 của Hải đội 413, Vùng D Quân chủng Hải quân để đến với Trường Sa. Hai con tàu khác là HQ-996 đến các đảo phía Bắc và HQ-36 đến các đảo phía Nam quần đảo Trường Sa.

Đã nhìn thấy đảo mà chúng tôi chưa thể cập bến. Sóng ngày càng dữ dội. Đại úy Vũ Minh, thuyền trưởng tàu HQ-633 nói với chúng tôi:

-Đi biển mùa giáp tết này, biển động cấp 6 là may lắm. Ngày mai, gió đông-bắc giảm, chúng tôi sẽ cho xuồng vào đảo.

Đảo Phan Vinh - hòn đảo mang tên người thuyền trưởng anh hùng trong Đoàn tàu không số huyền thoại trên đường Hồ Chí Minh trên biển - từ xa, nhìn giống như cái "lò vôi" xanh bị bao bọc bởi sóng trắng lóa.

Trong số mấy chục hòn đảo ở Trường Sa, chỉ có đảo Phan Vinh được đặt tên mới. Các đảo còn lại, ta vẫn gọi theo những cái tên "cúng cơm" của chúng, tên của ngư dân nước Việt đặt cho đảo khi đến đây từ thế kỷ thứ 17. Đó là những tên gọi dân dã, nhưng rất thơ mộng như Thuyền Chài, Núi Le, Tốc Tan, Đá Nam, Đát Lát, Đá Thị, Đá Lớn, A Bang, Nam Yết.

Có những tên đảo mềm mại, đẹp dịu dàng như những cô gái: Tiên Nữ, Cô Lin, Len Đao, Sơn Ca. Nhưng tên đảo ở Trường Sa cũng nói lên sức chịu đựng của con người, của cây trước thiên nhiên khắc nghiệt như Song Tử, Sinh Tồn, vì thế ở đây có loài cây được đặt tên là phong ba, hoa nở từng chùm vào dịp giáp Tết, để qua Xuân rụng hạt đón mùa mưa, sinh sôi trên đảo...

Bộ đội đảo chờ đợi chúng tôi đã từ lâu lắm. Đấy là nỗi nhớ mong đất liền. Nên khi xuồng rời tàu vào đảo, còn xa lắm, cán bộ, chiến sĩ đã ra tận chân cầu tàu đón người từ đất liền. Nhiều chiến sĩ sốt ruột, để nguyên quần áo, giày dép lội ào xuống biển, đẩy xuồng chúng tôi vào đảo cho nhanh hơn. Vừa đẩy xuồng, lính đảo vừa hỏi, những câu hỏi dồn dập. Nào là "Có mang nhiều thư ra không?", "Sách, báo có nhiều không", "Hàng Tết có cả dưa hành đấy chứ"?... Có chiến sĩ hỏi rất bình dị: "Các anh có mang rơm ra không? Rơm nếp ấy! Mà không có rơm nếp thì rơm tẻ, rơm tươi cũng được"? Nhớ rơm quá! Những câu hỏi ấy đích thị là người đồng bằng châu thổ sông Hồng rồi.

Thuở nhỏ tôi cũng thích rơm. Mỗi mùa gặt xong, rơm phơi khô đánh thành đống to đùng ở đầu hồi nhà. Lũ trẻ chúng tôi chơi trò trốn tìm, tôi khoét đống rơm, chui tọt vào bên trong, lấp rơm lại, khiến đứa bạn gái cùng tuổi không tìm thấy cứ òa khóc. Mùi rơm nồng nồng nóng, ngai ngái cứ quấn mãi lấy tôi. Bây giờ ra Trường Sa, cũng như tôi, lính đảo nhớ rơm quá. Rơm nếp mà đốt lên, thui...thịt chó thì thơm phải biết.

Ở Trường Sa, bộ đội nuôi được rất nhiều chó. Riêng như ở Phan Vinh, bình quân mỗi người nuôi đến 2-3 con chó. Chó mẹ, chó bố, chó con, thấy người từ đất liền ra cũng vui mừng, chạy vào, chạy ra va cả vào chân khách.

Nhưng chó sống ở đảo cũng khác, thích nghi điều kiện sống riêng. Nhiều người khi hết nghĩa vụ công tác ở đảo, quý mến con chó nuôi của mình, mang về đất liền nuôi. Chẳng được bao lâu, chó nhớ đảo rồi chết. Thiếu tá Nguyễn Xuân Hiệu, phó chủ nhiệm hậu cần Đoàn M46 đi cùng tôi, bảo: "Để giữ giống đàn chó ở Trường Sa, hằng năm chúng tôi phải đảo giống đấy. Cứ luân phiên một vài năm, chúng tôi thay giống chó từ đảo này, sang đảo khác, để tránh lại giống. Sợ nhất là khi thay chỉ huy đảo, anh nào không biết lại đem thui chú chó mới luân chuyển từ đảo khác tới thì mất công. Vì thế, mỗi chú chó anh em đều đặt tên rất đặc biệt để dễ nhận"...

Đặc sản ở đảo là thịt chó. Lính đảo nhớ rơm cũng một phần vì món "đảo túy" này. Không có rơm, lính đảo thui chó bằng vỏ hộp, bao dứa. Không có rượu, lính đảo ăn thịt chó với cơm, ăn suông. Mỗi chuyến tàu chở hàng ra đảo, bộ đội ta lại khắc khoải mong những gói quà từ đất liền, từ hậu phương nơi những người vợ, người mẹ, người chị, người em gửi ra nào là dưa cà, hành, tỏi, giềng, sả và cả...mắm tôm.

Ra công tác đảo đã lần thứ ba, nghĩa là đảo trưởng đảo Phan Vinh, thiếu tá Phạm Văn Hiến đã có ba cái Tết ở đảo. Lần đầu tiên, Hiến đón tết đảo là ở An Bang, sau đó là ở đảo Cô Lin và Tết Đinh Hợi-2007 này, anh cùng anh em đón tết ở Phan Vinh. Quê đảo trưởng Hiến ở thôn Cụ Trì, xã Ngũ Hùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

Tết này, ngoài thư của con trai, Hiến còn nhận được rất nhiều quà của vợ, chị Đinh Thị Mai gửi tới. Vợ Hiến, một cô gái quê ở Sông Công (Thái Nguyên) dịu dàng, đảm đang. Vì yêu lính Trường Sa, chị Mai gửi gắm cả cuộc đời vào nơi anh và theo chồng vào Cam Ranh sinh sống. Năm ngoái, trước khi ra Trường Sa "tăng ba", anh chị đã quyết định dùng số tiền dành dụm được, mua mảnh đất nhỏ ở khóm Mỹ Ca, phường Cam Nghĩa, thị xã Cam Ranh (Khánh Hòa).

Chồng đi biền biệt suốt, mấy tháng mới nhận thư của anh một lần. Nỗi nhớ trong người vợ xa chồng luôn khắc khoải. Hiến cũng vậy. Tết này, nhận được thư vợ, báo tin con trai được tặng danh hiệu học sinh giỏi. Hiến càng thương vợ hơn. Một nách hai con, đứa nhỏ mới được 5 tuổi, nên anh cảm nhận nỗi vất vả của vợ càng thấm thía. Tết đến, nỗi nhớ càng trĩu nặng, nhưng là đảo trưởng, anh phải nén lòng mình để cùng bộ đội đón xuân.

Chỉ ở Trường Sa mới có đảo chìm. Tết trên đảo chìm cũng có đầy đủ "hương vị quê nhà" như trên các đảo nổi và đất liền. Ngoài các mặt hàng Tết gửi từ đất liền ra như dưa hành, lá dong, gạo nếp, bánh chưng, đậu xanh, tất nhiên có cả chú ỉn nữa. Bộ đội đảo chìm còn nuôi được gà và câu cá...đón Tết.

Gặp chuẩn úy Trần Quang Hà, báo vụ viên điểm B, đảo Tốc Tan, tôi được biết, Hà nhập ngũ tháng 3 năm 2002, anh ra đảo Tốc Tan công tác đã lần thứ hai. Ở đảo, cán bộ, chiến sĩ đoàn kết thực hiện nhiệm vụ. Các mặt công tác quân sự và bảo đảm đời sống ở đảo rất tốt. Hà bảo, bây giờ mà về đất liền thì nhớ đảo lắm. Không chỉ vào ngày tết, vào chủ nhật, ngày lễ, chỉ huy trên đảo đều tổ chức cho em hát ka-ra-ô-kê. Dàn máy ka-ra-ô-kê trên đảo là do Hội phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh tặng.

Ở các đảo chìm còn có bộ máy tập đa năng cũng do các tổ chức ở thành phố Hồ Chí Minh tặng bộ đội Trường Sa. Đời sống văn hóa, tinh thần trên đảo chìm ngày càng được cải thiện. Ở đây có câu lạc bộ để sinh hoạt văn nghệ, đọc sách báo và xem truyền hình thông qua hệ thống TVRO. Bây giờ trên đảo đã xem truyền hình trực tiếp trên 5 kênh của đài Truyền hình Việt Nam. Hà bảo, giá như ở đây lắp được truyền hình ỹ thuật số VTC thì đảo chúng em đã được xem truyền hình trực tiếp AFF Cup. Anh chuẩn uý này còn bảo chúng em không bỏ sót bản tin thể thao nào đâu nhé. Tiếc quá, ngay trên sân nhà mà tuyển Việt Nam để thua Thái Lan. Mà anh biết không, M.U đã dẫn trước Arsenal hơn 80 phút rồi còn để thua ngược 1-2 đấy anh ạ.

Hà dẫn chúng tôi tham quan vườn rau thanh niên trên đảo. Để có được rau xanh, lính đảo phải dày công che chắn, chăm sóc rau như chăm sóc con thơ. Gió biển không chỉ thổi ào ạt mà còn mang theo muối mặn, nếu không che chắn thì không cây rau nào chịu được.

Toàn đảo có hơn hai mươi khay rau, trồng đủ các loại rau như: cải, muống, mồng tơi, rau dền, rau sam và hành hoa. Đặc biệt nhất ở điểm B, đảo Tốc Tan còn có giàn lá mơ lông rất tốt. Đây là giàn rau của cán bộ, chiến sĩ đảo trồng chuẩn bị... cho tết. Bữa cơm tất niên năm nào, lính đảo cũng có khẩu phần lá mơ lông tươi xanh ăn với thịt chó. Rồi Tết cũng có lòng lợn, tiết canh với mùi hành thơm phức mùi hành hoa. Có rau ăn Tết, ngoài những ca trực, lính đảo như Hà phải thức đêm, che chắn từng cơn gió mạnh hay đợt mưa xối, để rau không bị dập nát.

Tết này, lính đảo Trường Sa có thêm nhiều sách, báo và các vật phẩm văn hóa phục vụ vui xuân và sinh hoạt hàng ngày. Quà ra Trường Sa nhiều và phong phú, có những bộ bài tú lơ khơ, cờ tướng, vợt cầu lông, bóng chuyền.

Trong những chuyến hàng ra đảo, tất nhiên có cả những cành mai vàng. Qua sóng gió, mai vàng ra Trường sa vẫn tươi thắm, được bộ đội đảo nâng niu, điểm tô cho đảo thêm sắc Xuân.

Gặp thiếu tá Phạm Hồng Sơn, đảo trưởng đảo Núi Le khi anh đang cùng anh em trang trí bàn thờ Tổ quốc, trên bàn thờ có mâm ngũ quả với đu đủ, chuối xanh, quất đỏ, táo, hồng. Sau đó, đảo trưởng Sơn kéo xuống bếp. Tại đây chú lợn nặng non một tạ đã được vật ra, xẻ thịt đâu vào đấy. Rất khẩn trương, đảo trưởng Sơn bảo anh em rải chiếu, lấy lá dong, gạo nếp, đậu xanh để gói bánh chưng. Bất giác, tôi như thấy mình được sống giữa ngày 30 Tết ở quê nhà!

Anh Lính Tony D

Một gã đàn ông mặt mũi tối tăm, loại người nhan nhản vẫn lượn lờ ở các chốn đô hội, ghé vào nhà lão Thiến.

Gã đàn ông đứng ở cửa, thân thể vạm vỡ của kẻ được nuôi sống bằng chất bột lấn át dữ dội ở khuôn mặt nhờ nhờ, không ra thiện ác, khuôn mặt trên cái đầu nhỏ tí. Lão Thiến hỏi mà không thèm đứng lên:

- Chuyện thằng Thán hả?

- Vâng, sao ông biết?

- Điều đó tính sau. Sao?

- Thằng Thán chết mất xác rồi.

Lão Thiến nghe câu đó, hơi động đậy cục hầu to tướng trông như cục gạch bám vào cổ. Thằng Thán con trai lão đi đào vàng ở miền Trung. Nó nhập vào đội ngũ những kẻ đào vàng tứ xứ đã gần năm nay. Đây là lần thứ ba có kẻ đến nhà báo tin thằng Thán chết: Một lần chết đuối, một lần chết chém. Lần này chết mất xác. Gã đàn ông báo tin đứng ở cửa liếm môi. Trông bộ gã đói ăn. Lão Thiến thừa biết tâm địa bọn này nên lão hỏi mà không thèm động đậy các cơ mặt.

- Vì gì mà mất xác?

- Sập hầm! Không moi được.

- Ba kiểu chết!

- Ông bảo gì?

- Ba thằng báo ba kiểu chết. Mẹ chúng mày!

Gã đàn ông đưa tin có vẻ hơi sững người. Gã quan sát căn phòng của cha con lão Thiến. Không có gì đáng cho gã cầm lên tay. Đồ giẻ rách! Gã lầm bầm rồi cố nài:

- Nhưng tôi đã đến đây. Tàu xe tốn kém. Xin ông vài bữa cơm bụi.

Lão Thiến khoát tay chỉ ra cái hõm tối tăm: Xem đấy! Gặm được cái chó gì thì gặm! Gã đàn ông rõ là loại cố cùng. Gã bước chân qua lưng lão Thiến, giơ tay túm cái quạt tai chuột, cánh quạt thủng lỗ chỗ như cóc gặm:

- Xin ông tạm!

Gã kẹp cái quạt vào nách đi ra. Lão Thiến nói to: - Giờ hồn. Thằng Thán nhà ông nó về xin tí tiết mày bù vào, xéo mẹ mày đi!

Lão Thiến thừa biết thằng con lão loắt choắt như loài chuột nhắt, chứ nó thuộc loại trời đánh không chết. Nó như loại cỏ dại đốt bảy lần lại bảy lần mọc lại, lần sau mạnh hơn lần trước. Chả thế có lần nó đi ăn trộm ngã từ sân thượng tầng ba xuống, phúc bảy mươi đời lại có cụ tổ đỡ cho rơi vào đống cát. Lão đố thằng nào vật chết được nó… Tuy vạy, sau khi tống được gã đàn ông ra cửa, lão Thiến cũng thấy nôn nao trong dạ. Lão chờ đêm đến, lão lôi cái rađiô nhỏ giấu kỹ trong đống bát rếch ở gậm giường ra. Và lão bắt đầu dò đài. Không bao giờ lão nghe trọn được một câu người ta nói trong đài. Cái thú của lão là cầm núm điều chỉnh mà xoay. Chỗ nào sọt sẹt, lão lắng nghe rồi vặn tiếp. Hàng xóm láng giềng lườm nguýt, hậm hực. Lão cho qua tất. Việc lão lão làm. Động đến mả bố chúng mày đấy à? Lão sẽ trả lời như vậy vì lão không thể tưởng tượng được con người ta, tại làm sao chỉ vì những tiếng động mà lại mất ngủ? Có nổ bom tấn bên tai lão, lão vẫn an giấc như thường. Lão chén bữa tám bát cơm gạo mốc, cho nó rẻ, ăn kèm với thứ mắm muối từ đầu cá ruột gà nhặt nhạnh ở chợ chiều. Mỗi khi lão ăn mắm, cả xóm nín thở. Lão bảo chỉ có những thứ nặng mùi thế này mới hợp khẩu vị lão. Lão to kềnh to càng như cái máy kéo cổ lỗ hết dầu mỡ và bỏ xó từ đời tám hoánh nào. Đôi khi người ta bảo lão là cái hồn ma từ địa ngục trở về hoành hành nơi dương thế. Ăn ngủ như thế nên lão cường tráng nhất khu nhà này. Không ai muốn dây vào lão. Trước kia lão hù dọa láng giềng là nhà lão ba đời trong sạch, lại có công lao. Hơi một tí lão lôi công lao ra kể, ai muốn nghe thì nghe, thường là con trẻ muốn nghe, như vịt nghe sấm. Đến lúc các thứ hù dọa như thế có vẻ hết hiệu lực, lão lấy sức mạnh bù vào. Lão đi qua sân là cả khu nhà rung lên như động đất, nói theo nghĩa đen vì lão khỏe lắm, như một con bò mộng. Mà lão lại xuất thân từ tầng lớp không bao giờ đếm xỉa đến chữ “sỹ”, cái thứ xa xỉ của những con người hèn yếu vì có đôi chút lương tâm. Lão muốn gì lão làm cho bằng được. Lão xéo lên tất cả. Lão làm chân gác cổng, về hưu từ chục năm nay. Lão có nhà ở ngoại ô, có vườn, ao thả cá. Đột nhiên lão bán tất để chuyển vào thành phố. Lão dùng tiền mua vàng giắt túi, giả nghèo giả khổ, bắt cả nhà chui vào cái hốc chưa đầy chục mét vuông, không cửa sổ, một bên là khu vệ sinh công cộng, mà đã là của công thì không thiếu gì mùi. Một bên là cái sân thượng giờ đây người ta tràn ra che cót để ở. Mỗi cái hốc bốn bên cót ép là một gia đình. Thật là đủ màu sắc. Có những cặp vợ chồng phường chèo chửi nhau như chó với mèo, đêm vẫn ôm nhau ngủ trên một cái giường, rúc rích cười đùa khi đêm về có trận mưa làm không khi bớt nồng nặc hôi thối. Có những nhà toàn đàn ông con trai lộc ngộc. Ban ngày tứ tán kiếm ăn, đêm cùng chui vào hốc. Điện mất. Quạt không có. Nước hiếm không dội được cái thân thể tràn trề sinh lực vì mồ hôi. Họ cởi trần nằm ngủ như cá xếp trong nồi. Khắp cái sân thượng ngày sửa ngày xưa đã từng là nơi hóng mát của các cậu ấm cô chiêu giờ đây khò khè khọt khẹt vang lên tiếng ngáy của đám chúng sinh yên ngủ dưới bầu trời đầy sao của thượng đế che chở họ. Ban đêm họ ngủ như những con người khốn khổ hèn mạt. Ban ngày họ là lũ quỷ dữ, một bầy súc vật sống với nhau như bầy đàn, con nào mạnh thì tranh được miếng ngon. Đó là bộ mặt của trăm ngàn cái nhà tập thể đổ ra từ khi người ta cứ quyết tâm nhốt, từ linh hồn đến thể xác con người vào cùng một rọ… Lão Thiến bán gia tài ở nhà quê, vàng giắt đầy người mà vờ đói khổ như đồ giẻ rách. Lão cũng chui vào một trong những cái hốc trên sân thượng này và trong bầy thú ở đây, lão là con thú có bộ răng dữ tợn nhất.

Vài hôm sau thằng Thán lù lù xuất hiện. Hắn có cái ba lô căng phồng đằng sau lưng, bên trong không hiểu đựng thứ gì. Thán bước đi oai vệ vào khu tập thể. Mọi ánh mắt phóng ra từ các hang các hốc đều hội tụ vào cái ba lô thằng du côn đang đeo sau lưng. Có tiếng chớt nhả giọng Nghệ pha giọng Bắc vang lên trong hốc cầu thang: Thán! Gì? Thằng Thán quay nhìn mụ đàn bà béo ngấn cổ, son phấn loè loẹt như gái ở ngoài ga, miệng toe toét cười, một cọng hành còn dính ở răng cửa: - Chào chú? Vâng, chào bà chị! Mày mang cái gì trong ba lô mà hùng thế? Quần áo thôi! Mẹ mày, quần áo cái chó gì. Có là vàng mới nặng thế chứ! Lão Thiến chạy ra đón con, lão đỡ lời: Vàng gì, có là vàng thoi!

- Vàng thoi đấy! - Thằng Thán hiên ngang đi lên gác.

Cái cầu thang xây từ thời Pháp thuộc rên rỉ, cót ca cót két, lúc nào cũng gây cảm giác “a lê hấp, sập cho mà xem!” Nhưng hàng chục năm nay nó vẫn chưa sập. Người ta bào là vì nó được xây từ thời Pháp. Thời ấy thợ thuyền chưa biết ăn cắp xi măng, chưa hề đếm xỉa đến cái thói gian dối đã trở thành nạn dịch thời nay nên nhà cửa thời ấy chứa năm người bây giờ chứa cả hai trăm người mà không có sao hết.

Mấy thằng nhãi đang chơi bài ăn tiền ở sân túa ra, reo ầm lên khi trông thấy thằng Thán: Công tử đã về, “quan đại thần” khao chúng cháu đi.

Sở dĩ lão Thiến có cái tên “quan đại thần”, vì lão sống như súc vật, ai cũng nghĩ lão như súc vật, trừ có lão. Lão hoàn toàn hài lòng khi ở trong cái hốc tăm tối mà cha con lão gọi là nhà. Lão cũng làm lễ sinh nhật. Trời phật ơi, sinh nhật hẳn hoi! Đám nhãi con nín thở theo dõi lão làm sinh nhật. Ngày xưa lão đã làm thường trực ở một cơ quan to đáo để ngoài phố nên lão biết mùi vị của các thứ lễ lạt này lắm. Lão kéo hai gã đàn ông vô tích sự ở cùng phố tới nhà, ngồi nhắm bia với lạc rang và đọc thơ. Gì chứ thơ thì các lão làm như trẻ con đánh rắm. Mỗi giờ làm được vài chục bài… Rồi lão làm giỗ chạp, tết nhất. Đám anh em họ hàng lão đã tràn từ cái làng xa tít tắp kia ra hết thành phố. Lão là một tài năng ghê gớm ở xứ này. Đám anh em lão chẳng học hành gì sất mà có trong biên chế Nhà nước tất tật. Người thì bán rau mậu dịch. Kẻ thì làm bảo vệ. Lúc về hưu cũng lương bổng như ai. Lão mang cái bằng “có công với cách mạng” đi làm tấm bùa hù dọa các ông thủ trưởng yếu bóng vía. Lão đi lại năm bảy lần, hai mươi lần. Lão ngồi lỳ ở nhà các thủ trưởng, không quà bánh gì sất, chỉ nói oang oang. Ấy vậy mà hai lão em trai, hai bà em gái và hàng chục họ hàng hang hốc được cấy hết vào các cơ quan Nhà nước, hộ khẩu tem phiếu đàng hoàng… Giỗ chạp, lão tập trung cả đám trong cái hốc nhà lão, lão thường đãi cả đám một con vịt cỏ - nhà lão giỗ vào mùa vịt - năm nào cũng thế. Con vịt được nấu trong nước loãng, thêm gia vị và cả đám hàng chục nhân mạng ngồi quanh sì sụp ăn uống. Chật chội nhưng thành thị vẫn hơn đất nhà quê… Lão ngồi giữa, đàng hoàng lên giọng phê phán, đi ra đi vào giữa đám em út cháu chắt ngồi quanh con vịt trong khi vàng lão giắt nặng trong người. Chưa có một ông quan, ông vua nào trên đời lại thỏa thuê sung sướng trong cảnh điền viên như lão. Và biệt hiệu “quan đại thần” đặt cho lão thật là xứng đáng. Chỉ có vua quan mới sống trong vương quốc của mình được như thế, bất kể trời nóng trên 40độ C, bất kể mưa dột, mùi chuột chết, mùi nhà xí... Lão cứ làm việc lão, cứ ăn ngủ như thường…

Thằng Thán ném cái ba lô, ra chiều mệt nhọc. Nhưng nghĩ thế nào nó lại ôm vào lòng, nhìn quanh quất rồi giúi vào góc, chỗ vẫn thường nấu nướng bằng bếp dùng điện ăn trộm.

Hắn trông chừng lão Thiến. Lão kềnh càng thế thôi chứ khi ăn cắp, lão nhẹ nhàng hơn mèo. Suốt ngày lão chăm chắm xem ai có gì là lão thó. Lão thó tất, từ quần lót đàn bà đến cái đoạn dây điện nối từ ngoài vào nhà người ta. Lão lấy cả cái bô trẻ con để ngoài sân. Lão tống tất cả vào cái ba lô to, thỉnh thoảng lão làm một chuyến về quê. Ở đây lão còn có ông anh ruột ở lại quê vì không thể chuyển tải lũ con cả mười đứa ra thành phố. Lão Thiến thường đổi cái ba lô đựng đồ ăn cắp vặt cho anh lão rồi mang ra thành phố nắm khoai sọ, nắm đỗ… Cả khu nhà này biết lão ăn cắp mà không bắt được bao giờ. Thằng Thán là môn đệ của bố nhưng hắn thường làm các quắn to, “không lèm nhèm ăn vặt như ông!” Hắn hay quát bố như thế.

Vợ lão Thiến đã chết. Đứa con gái gả chồng trên miền núi. Còn lão với thằng Thán.. Thằng Thán theo chúng bạn đi tứ phương kiếm ăn thỉnh thoảng cho lão tiền nhưng hai bố con không bao giờ ăn cùng mâm. Khi thổi cơm, lão hoặc thằng Thán ăn trước. Hai bố con làm cái dây móc trộm điện ở công ty bên cạnh, đun sùng sục ngày đêm. Lão thường đun nhừ mớ đầu cá hoặc xương lợn mua rẻ ngoài chợ để húp nước, khi không có gì đun lão cũng cắm điện vào bếp. Lão chặc lưỡi: - Ăn cắp thì cho bõ. Ăn cắp như tớ thì ăn thua chó gì. Báo đài nói đầy ra đấy. Có kẻ ăn cắp bạc tỷ mà chả sao sất. Tớ là gà què ăn quẩn cối xay!

Lúc này lão Thiến quanh ra quẩn vào, mắt liếc liếc cái ba lô. Ruột gan lão cồn cào. Chưa bao giờ lão Thiến thấy thằng Thán mang về được cái ba lô to như thế. Lão hào phóng chìa cho thằng con cái bánh mì. Nhìn thằng con im lìm ngồi ăn, lão không thể nhịn được nữa.

- Thán, quắn này mày vớ bẫm, hả?

- Cái chắc.

- Quả gì đậm thế?

- Quả c…! Thằng Thán văng tục, nhặt nhạnh mấy mẩu bánh rơi dưới chiếu, quệt tay chùi mồm, vào xó mở cái nắp bô. Một mùi khai thối khủng khiếp lan ra khắp nhà. Thằng Thán làm phận sự xong, chui vào cái xó nhà bố nó phân chia cho nó, ngáy như sấm. Một tay nó ngoắc vào cái dây ba lô.

Trong khi thằng con ngủ, lão Thiến như ngồi trên lửa. Lão cố đoán xem cái gì mà không tài nào đoán được. Gần tối lão dò dẫm lại chỗ thằng con:

- Thán, dậy tao bảo.

- Gì?

- Mày có của sụ, coi chừng thằng Hùng. Nó về hơn tuần nay. Trốn trại.

- Vậy hả? - Thằng Thán bật dậy, ôm ghì cái ba lô. Thằng Hùng con mụ Phàn người Nghệ mà buôn bán ranh ma hơn bất cứ một dân thổ cư nào. Thằng Hùng hai mươi nhăm tuổi, đã ba lần ở tù. Mỗi lần một năm lại ra. Mỗi lần ra lại anh hùng hơn. Loại thằng Thán còn phải kiềng. Kỳ này thằng Hùng lĩnh án 5 năm tù về tội hiếp dâm. Chưa được một năm, hắn đã trốn trại.

- Có bị nã không?

- Chắc có. Bây giờ hắn nằm tít trên gác xép. Cả nhà này không đứa nào dám hé răng. Hắn xin tiết liền… Mày cứ nói thật. Cái gì ở trong đó. Rồi hai bố con cùng lo, mình mày tao e không xong.

- Bố phải kín mồm nhá.

Lão Thiến nhổ nước bọt vào tay, huơ lên trước mặt hai lần như một cử chỉ hành lễ. Hai bố con thề thốt coi bộ rất nghiêm trang. Thằng Thán xích lại gần bố…

- Trong này là xương.

- Mày đùa.

- Đùa với bố đấy. Xương này quý hơn vàng. Xương Mỹ.

Lão Thiến khịt mũi. Lão nhướng cái cổ lên thật cao. Đó là kiểu lão xúc động. Lát sau lão thì thào:

- Thật không? Khéo nhầm bỏ bố.

- Tôi với thằng Đảo đào được. Có cả dây vàng đeo ở cổ. Chỗ dây vàng móc cái lọ nhựa, bên trong đựng thỏi nhựa in tên. Bị tróc mất cái đuôi tên. Còn rõ mỗi chữ Tony D. Phiên hiệu đơn vị cũng mờ mờ. Lọ đó thằng Đảo cầm đi chào hàng. Xương Mỹ trăm phần trăm. Thằng Đảo có kinh nghiệm. Nó còn đo kích thước nữa kia.

- Nếu bán được thì giá bao nhiêu?

- Thằng Đảo bảo còn phải chi cho cả dây, cũng nhiều ra phết. Còn bọn đào được khoảng năm triệu. Tôi với thằng Đảo chia đôi.

- Mẹ kiếp khối tiền.

- Thằng Đảo đi bắt mối ngoài cảng. Thằng Đảo chờ ở đó. Bán cho bọn thủy thủ. Bọn nó đưa qua Mỹ, khối tiền. Nếu vụ này xong tôi sẽ cho bố năm trăm ngàn. Được chưa?

- Tùy mày. Nhưng ăn thì cũng ăn mỏng thôi. Nó mới bền.

- Bố không phải dạy. Tôi cho bố năm trăm là bố lãi. Chả mất giọt mồ hôi chó nào mà vớ năm trăm…

- Được rồi mày ngủ lấy sức mai lại đi. Tao canh cho.

Lão Thiến ngồi cạnh cái cửa làm bằng cót ép. Lão có kiểu ngồi của chó trong ổ, khoanh tay chân cho vừa ổ. Lão bố sau cơn xúc động, bắt đầu đến trạng thái tinh thần kỳ lạ mà lão vẫn có khi nghe tin con có tiền. Thằng Thán không bao giờ giấu bố số tiền kiếm được. Đôi khi hắn còn khuếch thêm lên nhưng đố nhả cho xu nào. Tiền có khi hàng triệu nhưng quanh quẩn dăm hôm là nướng vào đề hết. Của thiên trả địa, làm sao giữ được nếu nó không đưa cho bố nó giữ hộ? Lão bố vừa ghen tức, vừa thèm khát. Hàng loạt những âm mưu xuất hiện trong đầu lão nhưng nghĩ đến cái máu hung dữ của thằng con, chưa bao giờ lão ra tay. Lão cứ loanh quanh trong cái mớ bùng nhùng ý nghĩ mờ ám và nỗi sợ hãi triền miên, bất kể lúc nào thằng con có tiền, mỗi lần như thế miệng lão nhạt như ngậm phải bèo, mắt lão đục lờ đờ, nhìn không rõ… Lúc này lão đang trải qua trạng thái nửa thèm nửa sợ ấy, tai lắng nghe tiếng động bên ngoài. Lão lơ mơ ngủ cho đến khi có bàn tay ai đập nhẹ vào vai. Lão ngẩng lên, rõ ràng như ban ngày, lão nhìn thấy mặt thằng Mỹ đen như hắc ín, răng trắng như vôi, hắn đưa bàn tay chỉ còn xương ra vuốt tóc lão. Lão cố cựa mình mà không cựa nổi. Người lão như được quết một lượt sơn, dính cứng vào nhau. Lão ú a ú ớ gọi thằng Thán. Thấy lão lúng túng, thằng da đen cười nghiêng ngả nhưng không ra tiếng. Hắn cứ đứng bên lão, chỉ cái đầu còn nguyên, toàn thân là xương trắng hếu, hắn cười mà coi bộ cực kỳ thê thảm.

Lão Thiến khiếp sợ, đạp mạnh chân vào cánh cửa bằng cót ép và tiếng động ấy làm lão tỉnh ngủ, thằng da đen biến mất. Thán bàng hoàng hỏi bố vì hắn cũng vừa tỉnh dậy.

- Thằng Hùng hả bố?

- Hùng nào. Thằng da đen…

- Thằng da đen gì?

- Có lẽ tao mơ. Tao thấy thằng da đen cười tao.

- Bố mơ thấy thằng da đen hả? Mẹ khỉ, tôi cũng vừa mơ thấy. Hãi quá, muốn gọi bố mà không được…

Thán bật đèn. Cả hai cha con đầu trộm đuôi cướp lần đầu tiên khám phá ra rằng có một cái gì bí ẩn vẫn khống chế những giấc mơ con người. Nó khống chế cả tham vọng tiền bạc, cả sự độc ác và ngu muội của con người.

- Thằng đó nói gì với mày không?

- Không, hắn chỉ cười thôi, mà toi ngửi thấy cả mùi tanh.

- Mày mang nó đi đi. Để ở nhà hãi bỏ mẹ… Đưa tao mấy que hương.

Lão Thiến thắp ba nén nhang, múc một tách nước để lên cái ba lô, lấy ống bơ gạo cắm nén nhang vào, cũng để lên cái ba lô. Cả đời lão không biết khấn ai, nhưng lúc này như có cái gì mạnh khủng khiếp nhập vào người, lão xì xụp trước cái ba lô.

- Ông có khôn có thiêng thì ông ngủ đi, ngày mai thằng con tôi tìm đường cho ông về quê quán. Như vậy thằng con tôi đã làm phúc chứ không phải nó gây tội. Ông về với cha mẹ vợ con, còn hơn là ông nằm lại rừng núi mà không ai tìm thấy ông.

Thằng Thán im lặng nghe cha khấn. Hắn ít tin rằng linh hồn anh lính da đen Tony nào đó lại oán hắn. Hắn cũng có học lên đến lớp bảy. Hắn biết Tony D vì sao bị giết. Ác giả ác báo chứ. Anh ta giết người thì anh ta bị người giết. Anh ta cô đơn lủi thủi ở chốn rừng xanh núi đỏ, hắn có công tìm thấy anh ta và anh ta phải trả tiền cho hắn. Vậy thôi. Nghe nói bên Mỹ người ta sòng phẳng trong mấy vụ tiền bạc lắm.

Lão Thiến khấn xong lại giục con trai đi ngủ. Lão không dám tắt đèn. Lão ngồi chong chong ở cửa chờ sáng. Tuy vậy gần sáng lão lại thiếp đi. Lão nhìn thấy rõ ràng hai bàn chân bằng xương đang dạo quanh người lão và một mùi hôi thối nồng nặc bốc lên, làm lão phát nôn. Sợ hãi quá, lão nhắm nghiền mắt và vẫn nghe tiếng chân khô khốc, như tiếng động của kim khí dạo quanh chỗ lão ngồi. Lão thiếp đi mê mệt cho đến sáng.

Ba ngày thằng Thán đi vắng, lão Thiến không ngủ được vào ban đêm. Lão mơ liên tục. Vẫn là anh lính da đen, lúc thì có da có thịt y như ông Tây đen hàng binh Pháp ngày hòa bình vẫn lái xe ở quê lão. Lúc đó lão còn trẻ. Người lính Pháp có lần dừng xe mời lão hút thuốc lá. Anh lính da đen ngày đó hiền lành là thế mà sao cái ông Tony này lại im lìm bí hiểm. Ông ta giống hệt anh hàng binh Pháp khi xưa, nhưng chả nói năng gì sất. Cứ đứng trong góc phòng nhìn ra. Mỗi lần lão mơ, lão lại ngửi thấy mùi hôi của xương của thịt được đào lên từ mồ mả. Có lúc lão lại thấy trần xì bộ xương trắng hếu đi lách cách trong nhà, bộ xương leo lên giường, lên thành cửa sổ rồi cái mồm xương với hai hốc mắt nhìn lão chằm chằm ghê gớm. Xưa nay lão chưa hề yếu bóng vía, thế mà mấy ngày này lão cứ bủn rủn cả chân tay mỗi khi nghĩ tới giấc ngủ. Ban ngày lão khóa cửa, ra vườn hoa chỗ ngã tư phố, leo lên cái ghế đá còn có cả dấu vết của các cuộc trăng hoa ban đêm, lão ngủ. Ở đấy lão ngủ yên, mặc kệ nắng gió vì xưa nay nắng gió không là quái gì đối với lão. Đến tối lão phải về. Cả đêm lão chong đen dò đài. Lão bắt chước mụ Phàn rắc muối ra cửa sổ, thắp hương cắm ở lối đi. Lão nghe rõ tiếng động của bầy thú ngủ đêm trên sân thượng. Cạnh cái hõm nhà lão là vợ chồng thằng Xét bán thịt chó ngoài chợ. Thằng Xét bỏ con vợ nhà quê, ra đây mở hiệu thịt chó và chiếm được một hõm trên sân thượng này. Hắn kiếm đâu ra được con bò lạc về làm vợ. Nàng người miền trong, da trắng giọng nói ỏn ẻn. Nàng sướng phát điên vì được tắm xà phòng Camay, được mặc xilíp Thái Lan, được xức nước hoa Tàu. Thằng Xét chiều cô vợ mới, chịu khó mua sắm cho nàng để ban đêm nàng ban phát cho hắn cái thứ hạnh phúc của một con cái hùng hổ bên cạnh một con đực cũng dư thừa sức lực vì rượu, vì thịt chó…

Xét sắm cả áo kiểu “ký giả”, quần bò mốc, giày “bít” cho nàng. Và hắn sung sướng khi thấy bất cứ một mốt mới nào xuất hiện trong đám con gái bán thịt ở chợ là vợ hắn cũng có… Mấy đêm nay, tiếng chân đi lại của lão Thiến bên kia cản trở vợ chồng Xét khá nhiều. Nàng nằm im nghe ngóng tiếng động của lão Thiến và ngay đến con hổ cái khi nằm cạnh con đực ban đêm cũng trở nên mềm oặt, nàng nép đầu vào cái nách hôi hám của thằng Xét, thứ mồ hôi của kẻ ăn nhiều thịt chó. Nàng nũng nịu bằng cái giọng miền sơn cước quanh năm gió Lào:

- Em sợ lão Thiến quá!

Thằng Xét xoa đầu vợ y như cái cảnh phòng ngủ hắn vẫn được xem trên tivi. Hắn cũng muốn bắt chước phim ảnh nói một vài lời nịnh vợ, âu yếm vợ nhưng hắn không quen. Hắn ậm à rồi văng ra trong lúc nàng vẫn chờ đợi một lời nói khác.

- Đ. mẹ, “não” điên, chấp “nàm” đ… gì? Quay sang bên “lày”, khiếp, dạo “lày” béo thế, y như con “nợn” cạo “nông”.

Tiếng cười nghèn nghẹt như tiếng chuột cống ăn đêm của vợ chồng Xét lại khiến lão Thiến yên tâm. Lão mở đài, dò đài, thắp đèn sáng trưng và mong cho hết đêm… Một tuần sau thằng Thán hí hửng mang về bọc tiền to. Hắn cười toét cái miệng đầy những răng:

- Trúng đậm!

Hắn mang về một bọc lá chuối tướng đựng đầy lòng lợn, có cả mắm tôm và ba cân bún. Hai bố con lão Thiến làm một lèo hết sạch mớ lòng lợn và ba cân bún. Quanh đi quẩn lại, lão Thiến không nhìn thấy bọc tiền của thằng con đâu:

- Mày nhét nó đâu rồi?

- Ở trong nhà này thôi. Tôi đi vắng một ngày, khi về tôi sẽ chi cho bố năm trăm. Quân tử nhất ngôn.

Thằng Thán đi, ở nhà lão bố không thể ngồi yên. Ba ngày mà lão không ngủ được. Lão lò mò khắp nhà để tìm bọc tiền. Xó xỉnh nhà này có chỗ nào mà lão không mò ra. Lão tìm, lão móc ở tất cả chỗ nào kín nhất mà không thấy. Buổi trưa mệt quá, lão nằm ngay trên sàn nhà, bụng nghĩ xem còn chỗ nào? Lão chỉ cần rút vài con “ngan nằm” trong đống kia, đến mẹ nó cũng không biết được. Nghĩ ngợi, lão thiếp đi và phải bật dậy ngay khi trông thấy bộ xương ngồi chồm hỗm trên kèo nhà. Lão văng tục:

- Đ. mẹ mày, mày đang về quê cha mày, mày còn muốn cái chó gì nữa mà dọa tao?

Bộ xương cứ ngồi như thế, lúc lắc đầu, những khớp xương lỏng lẻo, chuyển động rung leng keng như tiếng nhạc ngựa. Lão Thiến sợ hết hồn.

Lão xua tay xua chân cho nó đừng làm thế nữa nhưng nó càng làm già. Mùi hôi thối khiến lão tắc thở… Lão chống cự với bóng ma trong giấc ngủ chập chờn, đến khi tỉnh dậy, lão cảm thấy mình gầy tọp, chán ăn, người ngợm bải hoải như phải gió.

Ngày hôm sau, lão Thiến lại phải mò ra vườn hoa ngủ. Buổi chiều, thằng Thán về nhà, nó xộc ra vườn hoa kéo cổ bố:

- Về ngay!

Thấy mắt thằng con ngầu đỏ, cái môi nó đen sạm lại một cách dữ tợn, lão Thiến đi theo con. Thằng Thán về nhà trước, và khi bố nó vừa bước qua cái cửa cót ép, nó túm cổ lão Thiến:

- Tiền đâu?

Lão Thiến sửng sốt:

- Sao lại hỏi tao tiền?

- Tiền tôi để dưới cục gạch này, bố đem đâu rồi?

Lão Thiến chỉ biết lắc đầu, lùi xa bàn tay cứng như gọng sắt của thằng con. Lão không nói nên lời. Thằng Thán thấy bố như vậy càng nghi ngờ một cách điên dại.

- Ông nôn ra. Tiền mồ hôi nước mắt của thằng này, ông nuốt không trôi đâu. Ba triệu đồng của tôi, không phải của thiu thối.

- Tao không lấy!

Lão Thiến bắt đầu lắp bắp được.

- Không ông lấy thì chó vào đây à? Nôn ra!

- Tao thề với mày, tao có tìm thật, định rút vài con nhưng không thấy. Tao thề với mày, tao mà nói điêu thì tàu xe chẹt tao nát ra như bụi.

- Ông có mà chết. Ông thề mà chết được thì tôi ăn cứt chó. Nghe thủng chưa? Nôn ra, oẹ ra. Tôi bóp cổ ông lè lưỡi bây giờ!

Và nó xông vào, túm lấy cái cổ có cục hầu to như cục gạch của lão bố. Lão Thiến kêu ặc ặc như một con chó già bị trấn nước.

- Nôn ra. Một mình ông ăn không xuôi đâu. Nôn ra cho tôi đi nộp đề.

- Tao không lấy. Tao thề!

- Thề cái con chó. Nếu ông không lấy thì tự cầm con dao kia rạch mặt ra cho tôi xem, không là tôi bóp cổ ông chết. Dao đây!

Lão Thiến run lập cập. Cầm con dao sắc như nước, lão Thiến nhìn con van nài:

- Tha cho tao, tao không lấy của mày đâu. Con ơi, đời nào bố làm thế? Bố già rồi, bố làm thế phải tội.

- Rạch mặt đi!

- Thôi, đau lắm tao chịu sao được?

- Không rạch thì chặt đi một ngón tay. Làm ngay. Ông có làm thế tôi mới tin, không là tôi bóp cổ chết tươi. Chặt đi!

Thằng Thán xông tới. Cái mặt nó xù ra vì độc ác. Một cách vô thức, tội nghiệp, lão Thiến kê ngón tay lên thành giường, nhìn con. Thằng Thán hét:

- Thề đi, chặt đi, đồ sâu bọ! Chặt ngay không là thụt lưỡi với thằng này.

Con dao giơ lên, phập một tiếng khủng khiếp, một dòng máu trào ra theo ngón tay trỏ bên bàn tay trái của lão rơi xuống sàn. Thằng Thán nhìn cảnh đó, không một chút xúc động. Hắn thấy bố hắn mặt tái mét, miệng lệch sang một bên vì đau đớn. Tất cả điều đó chỉ làm hắn tĩnh trí lại. Hắn bước ra ngoài, còn biết né chân cho khỏi giây vào máu. Hắn bừng bừng ý muốn trả thù đứa nào cướp không của hắn ba triệu. Ngón tay của lão Thiến có lẽ làm nó tin là lão không lấy thật. Nhưng thằng nào, thằng nào vào đây? Biết lấy gì trả nợ? Đối với lão chủ đề này, không trả hắn cho rửa mặt bằng a xít ngay. Mẹ kiếp, thời này đứa nào cùn đứa ấy thắng. Tao trốn! Và trong những bước đi như say, hắn mơ thấy đất thánh Hồng Kông!

Trông thấy thằng Thán xăm xăm bước xuống cầu thang, mụ Phàn muốn cười với hắn mà không dám cười. Cái mặt hắn hãi quá, y như vừa uống máu người. Mụ đi lên sân thượng, định vào nhà thì nghe tiếng rên đau đớn của lão Thiến. Chưa hiểu chuyện gì mụ đã hô hoán.

- Giết người, có người bị giết.

Người ta thấy lão Thiến đang gục đầu xuống miệng ngậm chỗ tay bị thương, máu từ đó nhuộm đỏ cả cằm lão, chảy xuống ngực áo. Cái thân thể to tướng của kẻ tạp ăn và lười nghĩ ngợi, cái thân thể hung dữ của kẻ chỉ chuyên dùng cơ bắp vào mọi chuyện giờ đây rúm ró lại, đến đứa trẻ có con tim độc ác cũng phải mủi lòng. Ngay giây phút ấy lão Thiến hơi mê đi. Lão nhìn thấy trong làn sương mờ mịt ở đâu đó, bộ xương người trắng hếu đang nhìn lão, bộ xương mờ mờ, hơi cử động và giơ bàn tay lên đỉnh đầu. Lão nghĩ là nó gọi, định đi tới nhưng hóa ra không phải, bộ xương đang chào lão. Thậm chí lần này bộ xương còn ré lên cười y như đàn bà. Lão muốn giơ tay chào lại nó nhưng không được, tay lão bị trói chặt…

Lão loáng thoáng nghe tiếng cười.

- Lão tỉnh rồi gọi tắc lô cho lão đi. Đi “tắc lô” cho nó êm.

Một tiếng nói rất tục. Tiếng cười đàn bà lại ré lên. Lão Thiến hiểu ra đó là tiếng cười của mụ Phàn. Và cái đám thú mà lão vẫn chung sống bấy lâu nay trong cùng một cái sân thượng này giờ đây đang là những con người bên cạnh lão. Lão được băng bó, được rửa mặt, được mặc thêm cái áo, được khiêng xuống cầu thang cấp cứu…

Từ đó lão không bao giờ mơ thấy bộ xương và anh lính da đen nữa. Lão đã được yên, ngoại trừ thằng Thán đi biệt tích… Một đêm thằng Xét giục vợ đi ngủ sớm. Hắn ôm cái của mũm mĩm trời cho vào hai cánh tay đồ tể chó, phả hơi rượu vào mặt nàng:

- “Của lỡm” ơi, ngày mai anh sẽ mua cho “làng” một cái áo “nông” cực xịn.

- Của đâu mà xộp thế? -Nàng bắt đầu dùng ngôn ngữ đô thị.

- Bắt được… Mà đừng có bép xép ông xẻo “nưỡi” nghe chưa? Mà sắp tới ông có mua cúp thì cũng phải “lói” tiền riêng của mình, nghe chưa? Không nghe ông “nà” ông xẻo tất… Món chôm được cực to, “ló” mà biết thì tù. Hiểu chưa?

Nàng cười thét lên như bị cắt tiết. Đêm nào nàng cũng có những trận cười như thế. Khắp cái sân thượng đang mờ mịt trong giấc ngủ nặng nề, sau một ngày vật lộn với miếng ăn, chỉ có vợ chồng thằng Xét là ồn ào nhất, thức khuya nhất. Chúng vẫn là con thú ngay cả khi màn đêm khiến cho thú trở thành người. Đêm nay lại oi nồng, trời đang chuyển cơn giông. Lão Thiến lên cơn đau ở ngón tay cụt. Lão ngồi ở cửa sổ nhìn ra, chờ cơn mưa cho vết thương dịu lại. Ngoài kia là đô thị. Nhà nhà xếp chồng lên nhau. Anh lính Tôny D không còn quấy nhiễu lão nữa. Lão lại hài lòng, mãn nguyện, như quan đại thần chính hiệu, chỉ tức những lúc này. Cơn đau khắc khoải, đỏ màu máu, khiến lão chán ngán sự đời… Lão bỗng nghĩ ra, và ngớ cả người ra trước một điều mà lâu nay lão không nghĩ tới: Chính thằng lính da đen kia đã chôm bọc tiền. Mẹ nó, chả thế mà từ hôm chõm được đến nay, không thấy nó xuất hiện nữa! Thằng xỏ lá đến thế là cùng!

Dân ta ăn thịt chó

Ông Nội dạy tôi ăn thịt chó bằng câu nói mà dân gian truyền tụng như thế. Trong nhà , mẹ tôi không biết ăn thịt chó nhưng cụ nấu nhựa mận rất ngon để chiều bố tôi và mấy thằng con trai theo phái RTC “rượu thịt chó” có tính di truyền theo sở thích của cụ Nội, ông Nội truyền lại.

Chẳng biết người Việt ta ăn thịt chó từ bao giờ nhưng vì làm nghề Khảo cổ học động vật nên tôi có thể chứng minh rất hùng hồn: chí ít là từ thời các Vua Hùng. Cùng với món bánh chưng bánh dầy trong các đại lễ, dân ta đã biết dùng cái món “mộc tồn” rồi. Bạn có thấy hình chó cùng người bôn ba trên biển lớn qua hình chạm ở thân trống đông Đông Sơn không ? có thấy hình chó săn hươu trên rìu đồng Đông Sơn không? Chó đã gắn bó với người Việt từ thủa ấy và có lẽ chỉ có tôi là người được chứng kiến các dấu tích ăn thịt chó của người thời các Vua Hùng sớm hơn cả vì sau khi tự tay gạt nhưng lớp đất trong tầng văn hóa Hoa Lộc, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun… tôi đã thấy những sọ chó bị đập vỡ để ăn óc và cả những xương chó bị chặt để hút tủy của tiền nhân. Có lẽ câu  “Ngon như óc chó cũng đã có từ ba bốn nghìn năm trước”. Vậy thì cái anh thịt chó có lẽ mới đích thực là món ăn “quốc hồn quốc túy” của dân Việt. Thịt chó mắm tôm xứng đáng được bầu chọn là một trong những món ăn đặc sắc và lâu đời nhất của người Việt chúng ta.

Ngòai người Việt, trên thế giới cũng còn một số dân tộc khác ăn thịt chó như dân Nam Trung Hoa, Triều Tiên…Tôi cũng có dịp được chứng kiến dân Hàn Quốc bán thịt chó ngòai chợ cũng như thăm các cửa hàng thịt chó ở Hàn Quốc, Trung Quốc nhưng quả là món thịt chó Việt  Nam mình nó vẫn mang một sắc thái riêng, một hương vị riêng.

Tôi có những anh bạn Pháp, Bạn Mỹ và bạn Nhật cũng rất thích dự các tiệc cầy tơ bẩy món của xứ ta. Anh bạn Russ Cichon, giáo sư Cổ sinh vật học nổi tiếng của đại học IOWA Hoa Kì cùng nhóm chúng tôi ăn nằm trong rừng sâu Thanh Hóa hàng tháng trời để kiếm tìm di tích hóa thạch đười ươi cũng là tay sành thịt chó. Kết thúc đợt khai quật năm ấy, Russ cứ khăng khăng đòi chiêu đãi cả bản Mường Bá Thước nơi chúng tôi công tác một chầu thịt chó và rượu quốc lủi cho ra trò. Thì ra cái món cầy tơ quốc lủi ngon đáo để  này cũng phục vụ đắc lực cho công tác đối ngọai hòa bình, thân thiện đấy chứ? Ai bảo là dân nước ngòai ghê sợ thịt chó ? Đúng, có người không ưa thật nhưng không phải là tất cả. Cũng như khối người Việt cũng nghiện cái món Phó mát Ca-măm-be của Pháp hay thịt sống xay nhuyễn phết bánh mì của Đức, món thịt sống Tác ta trộn hành tây , trứng sống của Bỉ vậy.

Trước đây, món thịt chó thường chỉ lưu hành ở miền Bắc và phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ. Bẩy tám chục năm trước, cụ Tô Hòai lang thang vào Sài Gòn thỉnh thỏang được mấy cô buôn chuyến ngòai Vinh vào cho tham dự những bữa ăn thịt chó “chui” ở giữa Sài Thành cũng vui ra phết. Hồi ấy Tây ở Sài gòn ra luật cấm ăn thịt chó nên ăn chó ở Sài Gòn lúc ấy là bất hợp pháp. Nhà cầm quyền không thích ăn thịt chó thì dân Bắc di cư cứ việc răm rắp mà tuân lệnh. Luật là luật, cứ thế mà thi hành. Sau năm 1954, dân Bắc ồ ạt di cư vào Nam và các quán “ Cờ Tây bẩy món” rồi “ Ô kìa hạ cờ Tây, Ô kìa thịt chó”…Mới đồng lọat ra đời. Dẫu là dân Bắc Kì nấu nhưng sao cái thịt chó Sài Gòn nó cứ ngang ngang làm sao. Sau năm 1975, có dịp vào công tác, tôi được ông bạn đồng nghiệp là dân Bắc di cư rủ đi ăn thịt chó. Tôi hào hứng đi liền nhưng cũng hơi “ thất vọng” vì thịt chó Sài Gòn đã bị “mô đi phê” nhiều quá. Người ta nấu chó Ca ri, chó Rô ti và cả pa tê chó nữa. Thật là giao thoa ẩm thực Đông-Tây, Việt-Ấn, Việt-Hoa…đủ cả. Ăn thịt chó mà cứ như ăn cơm Tây cơm Tàu. Cũng cùi dìa phóng xét, không ăn với bún mà lại ăn với bánh mì... Có lẽ mỗi món dồi chó và chó hấp chấm mắm tôm với mấy lát riềng là còn mang phong vị Bắc.

Phong trào ăn thịt chó rộ lên từ thời kinh tế mở cửa. Tư nhân được phép mở cửa hàng ăn uống để kinh doanh nên cái khẩu hiệu  “Hết lòng phục vụ nhân dân” của các cửa hàng mậu dịch quốc doanh từ thời bao cấp  bấy giờ mới được mặc sức phát huy. Từ nông thôn đến thành thị, cửa hàng thịt chó mọc lên như nấm. Có lẽ sau biển hiệu cơm phở nhan nhản khắp nơi trên đất Việt thì hai thương hiệu đứng sau sẽ là “LOLOTICAVINA” (Lòng lợn tiết canh Việt Nam) và “Cờ Tây bảy món” sẽ chiếm vai á hậu.

Người ta đua nhau ăn thịt chó vào cuối tháng, cuối năm để giải hạn. Bởi thế thị trường chó Việt cũng trở nên khan hiếm. Nhiều “nhà nông làm giàu” đã sáng tạo ra một công nghệ nuôi chó khá đặc biệt. Người ta thu mua chó khắp nơi và nuôi nhốt trong những dãy cũi săt lớn. Nấu những nồi cám khổng lồ để chăn cả đàn chó nhốt. Muốn cho lũ “chó công nghiệp” này chỉ nằm yên mà vỗ béo tăng cân, người ta đã lấy hạt đậu nhét vào lỗ tai cho thủng màng nhĩ, các chú khuyển điếc này nằm yên một chỗ, hết cắn nhau và chỉ có mỗi việc ăn chó chóng lên cân chờ ngày xuất chuồng góp tiền cho chủ xây nhà lầu chóp xanh chóp đỏ, củ hành củ tỏi và sắm xe hơi vênh vang cùng thiên hạ.

Thịt chó ngày nay không chỉ sản xuất đủ dùng trong nước mà có xí nghiệp thực phẩm còn đóng cả thịt chó hộp để bán ra thị trường phục vụ đồng bào nuớc ngòai. Bản thân tôi đã thấy những hộp thịt chó Made in Vietnam bày bán trong siêu thị. Không biết có vượt rào xuất được ra thị trường ngọai quốc không nhưng dạo này những lọai chó hộp ấy không còn thấy xuất hiện ngòai siêu thị nữa. Dân nghiền cầy tơ trong nuớc chắc chẳng ai lại dại dột mà lại đi mua cái lọai chó đóng hộp về nhậu cả.  

Những độ khan chó vào dịp cuối năm giáp tết, người ta sang tận Lào, Thái Lan, Myanmar lập đường dây buôn chó ngọai về phục vụ nhu cầu trong nước và tái xuất sang Trung Hoa. Anh bạn tôi đã ở mấy nhiệm kì công tác bên Lào về kể: dân Lào dân Thái và dân Miến theo đạo Phật nên họ kiêng ăn thịt chó. Những con chó bên Lào được nuôi thả rông nên thịt chó Lào có một hương vị thơm ngon đặc biệt chứ không nhẽo nhọet vô vị như cái giống chó nuôi  công nghiệp ở ta bây giờ . Ông bạn già cười nhe cả chiếc răng bạc nói vui nhớ lại một thời sống bên đất bạn:

 

“Ba năm công tác bên Lào

Đống xương thịt chó đã cao bằng đầu”.

Gần đây, đùng một cái dịch tiêu chảy cấp xuất hiện. Các nhà quản lí y tế chạy suốt ngày đêm để tìm nguyên nhân. Thì ra cái con trùng thổ tả kia nó lại nhè món thịt chó mắm tôm để tấn công người . Nghe nói những con chó Ngọai là nguồn lây lan chủ yếu. Dân nghiền Cầy tơ bảy món tạm “lắng phong trào” một thời gian. Nhiều quán Cầy thơ nổi tiếng tự nhiên vắng khách, đi qua không còn thấy cảnh hương thơm ngào ngạt khói bay mù trời như xưa nữa.

Có một thời, do chó truyền bệnh dại, khắp nông thôn miền Bắc nổi lên phong trào “ triệt để” chó. Thấy chó là đập chết. Không khí làng quê bỗng lạnh tanh. Vào làng còn đâu tiếng gâu gâu chó sủa. Dân nghiền thịt chó kháo nhau: Yên tâm. Làm sao mà diệt hết chó trong thiên hạ được? Đã “triệt” mà còn “ để” thì làm sao mà triệt được? ở đời này cái gì làm nửa vời thì đều hỏng cả.

Thế gian này tồn tại vì trên mặt đất vẫn còn có “cây cối”. Cây mà còn thì con cầy cũng còn. “Mộc tồn” sẽ mãi mãi là một món ăn đích thực dân tộc dù có kẻ thích người không. 

Vòng đời quẩn quanh

Giám đốc Công thấy trong người khó ở, thở khó, ngón chân, ngón tay đau nhức nên bảo lái xe Tương đưa ông đi bệnh viện. Sau khi khám tim, chụp phổi, thử máu và nước tiểu xong, bác sĩ kết luận Giám đốc Công bị bệnh gút, vì vậy phải ăn kiêng, không được uống bia, ăn chất béo và chất đạm, đặc biệt là thịt chó.

Thịt chó rất nhiều đạm, là kẻ thù không đội trời chung với người bị bệnh gút. Người bệnh chỉ cần ăn vài miếng thịt chó vào là biết tay nhau ngay, khớp các ngón chân, ngón tay đau nhức, sưng tấy. Nghe bác sĩ giải thích, Giám đốc Công có vẻ rất buồn, nỗi buồn này có thể ví như người vợ đang căng tràn sức sống nhưng trong đêm đông giá lạnh lại phải ôm anh chồng bất lực. Điều này cũng dễ hiểu vì sở thích ăn thịt chó của Giám đốc Công là một sở thích "cha truyền con nối".

Cụ nội của Giám đốc Công có thể ăn thịt chó thay cơm. Có lần cụ ăn năm bữa thịt chó trong ngày, bị ỉa chảy cấp tính phải đi cấp cứu nằm viện mất mười ngày. Những tưởng sau đấy cụ sẽ hãi thịt chó đến chết, nào ngờ vừa xuất viện buổi sáng thì buổi trưa đã thấy cụ nhắm rượu với thịt chó ở nhà lão Tàm. Mồm nhồm nhoàm nhai thịt chó, cụ bảo sống ở đời mà không được thưởng thức cái món thịt cầy thì thà chết còn hơn. Vậy nên vừa mới từ cõi chết trở về, cụ đã lại xơi. Cụ cũng có ý thức truyền bá lại cho con cháu cái sở thích ăn thịt chó, ngoài mục đích để tăng cường sức khỏe, còn đặt niềm tin  có nhiều cháu, chắt, chút, chít mang giống đực nối dõi tông đường mãi mãi.

Ông nội của Giám đốc Công, vào cái thời bao cấp, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông là đi khắp làng trên xóm dưới xem nhà nào có con chó mỡ màng là thông báo cho chủ nhiệm hợp tác xã xuất thóc trong kho đổi chó về để liên hoan đánh chén. Trong một năm, kho thóc của hợp tác xã hao đi hơn chục tấn thóc cũng chỉ vì thịt chó. Tất nhiên, khi lập chứng từ, sự hao hụt thóc này được ông chủ nhiệm hợp tác xã đưa vào danh mục cứu trợ cho những gia đình chính sách, thương binh liệt sĩ hoặc hộ nghèo.

Bố của Giám đốc Công nghiện thịt chó đến mức ở làng có con chó điên cắn người, người bị điên, chó lăn ra chết, thế mà ông xin con chó về giết thịt. Cả nhà kêu khóc can ngăn, ông bảo chó điên đại bổ, ăn vào chẳng những không bị điên mà còn thông minh ra. Chả biết ăn chó điên thì sẽ thông minh thật hay không nhưng quả là sau đó, bố của Giám đốc Công nghĩ ra được rất nhiều mưu kế để lừa tiền và lừa tình của đám đàn bà, con gái trong làng và các vùng phụ cận. Thậm chí vợ của chủ tịch xã còn cuỗm sạch số tiền mà chồng tham ô được rủ bố Giám đốc Công bỏ nhà trốn vào Sài Gòn sinh sống. Đến khi hết tiền, đôi nhân tình này trở về quê thì cũng là lúc cái bụng của vợ chủ tịch xã đã... vượt mặt.

Dĩ nhiên với bề dày truyền thống thích ăn thịt chó của gia đình như vậy thì việc cu Công mới năm tuổi ăn hết hai bát tô đầy rựa mận thịt chó trong sự thán phục của người làng cũng là chuyện thường tình. Và khi lớn lên, trở thành giám đốc, Công thường xuyên đến làng thịt chó Nhật Tân âu cũng là chuyện thường tình.

Thông tin Giám đốc Công bị bệnh gút phải ăn kiêng, tuyệt đối không được đả động đến thịt chó nhanh chóng đến tai ông trưởng phòng hành chính. Ông lập tức xuống nhà bếp dặn dò đầu bếp phải thế này, thế này...

Như thường lệ, vào lúc 11h30', giám đốc Công xuống nhà ăn của cơ quan. Vốn quen ăn những món đặc sản, nhất là thịt chó nhưng nhìn thấy trên bàn ăn dành riêng cho giám đốc toàn những món ăn dân dã, rau muống luộc vắt chanh; đậu phụ luộc, đậu phụ rán, đậu phụ sốt cà chua thì giám đốc Công cứ thấy lợm giọng, như thể là mấy bà đang nghén, nhìn thấy cơm là oẹ.

Ngửa mặt lên thở dài, chợt nhìn thấy cái khẩu hiệu treo ở vị trí trang trọng trên tường "Ăn đậu phụ là khỏe mạnh và thông minh!", Giám đốc Công bắt đầu cầm đũa. Ông gẩy gẩy mấy miếng đậu rán, chọn miếng nhỏ nhất gắp cho vào mồm, nhai một cách thong thả. Lạ miệng, ăn được, ông gắp đến đậu sốt, rồi đến đậu luộc, cứ thế ông ăn khá ngon miệng bữa cơm của một nhà tu hành chính thống. Lúc đứng lên, Giám đốc Công tự bảo, ồ hay, hóa ra cái khẩu hiệu đánh đòn tâm lý vào cái miệng và cái dạ dày của mình khá hiệu quả. Lại thầm nhủ, cái tay trưởng phòng hành chính mê thịt chó hơn mê vợ thế mà nghĩ ra được cái trò này thì quả là thông minh. Người này biết chiều lòng thủ trưởng, tâm đầu ý hợp, có thể cất nhắc trọng dụng được!

Nhìn thấy mâm Giám đốc Công ăn toàn đậu phụ nên bữa trưa hôm sau, mâm của phó giám đốc, mâm của chủ tịch công đoàn, mâm của các trưởng, phó phòng cũng bắt đầu lấy món đậu phụ làm món ăn chính thống. Trưa hôm sau nữa, trên mâm cơm của rất nhiều nhân viên cũng đã thấy xuất hiện rất các món đậu phụ. Phản ứng ăn đậu phụ dây chuyền nhanh chóng biến thành phong trào ăn đậu phụ để cho khỏe mạnh, thông minh trong khắp cơ quan và đi vào nề nếp. Ông trưởng phòng hành chính còn đưa việc ăn đậu phụ bổ sung vào quy chế của cơ quan.

Tất nhiên ở đời không có gì là trọn vẹn, việc cơ quan chuyển từ ăn thịt, ăn cá sang ăn đậu phụ cũng gây nên nhiều chuyện bất cập. Ông trưởng phòng hành chính do thể tạng gầy yếu, nay tích cực ăn đậu phụ nên bị suy dinh dưỡng, thiếu máu, mỗi lần đứng lên ngồi xuống lại bị hoa mắt, chóng mặt, có lần đang đi tiểu trong nhà vệ sinh, ông đâm bổ cả vào cái nơi đi đại tiện. Lại có lần đang đi ở cầu thang, ông loạng choạng, may mà bám được vào váy của cô văn thư, nếu không đã què tay, sưng trán. Cô văn thư mắng ông già rồi mà còn "dê", ông thanh minh ấy là do ông bị chóng mặt chứ nào có chủ ý. Vốn rất ghét ông đã phát động phong trào ăn đậu phụ làm cho cô cũng phải ăn theo nên cô văn thư bĩu cặp môi mỏng như lá lúa: "Cho chết, ai bảo nốc lắm đậu phụ vào". Ô thế này thì nó khinh mình quá, ông trưởng phòng hành chính không còn kiềm chế được cơn nóng giận, ông chỉ vào mặt cô văn thư bảo rằng, cái tay giám đốc nó xơi lắm thịt chó nên dâm dật, nó hay gọi cô lên phòng ký cọt công văn. Ký công văn cái chó gì, có mà "ký" vào dưới cái rốn cô một gang thì có! Thôi rồi, kẻ cắp gặp bà già, cả hai chả ai bảo ai thêm một câu nào nữa, lủi nhanh về phòng mình.

Để phòng tránh căn bệnh hoa mắt, chóng mặt, ông trưởng phòng hành chính đã nghĩ ra được kế sách hoàn hảo, ông vẫn ăn cơm trưa với đậu phụ ở nhà bếp nhưng khi lên phòng làm việc, chốt cửa xong, ông lại lôi trong tủ lạnh ra lon bia nhấm nháp với khoanh giò lụa hay cái đùi chó luộc.

Ông phó giám đốc, người vốn coi đậu phụ là kẻ thù không đội trời chung với cái miệng và dạ dày của mình thì đối phó bằng cách, ông bảo nhà bếp dọn riêng cho mình một bàn ở góc xa xa. Tất nhiên đậu phụ bày đầy trên bàn nhưng ông chỉ ăn cá, thịt, tôm ở dưới lớp đậu phụ mà đầu bếp đã khôn khéo ngụy trang cho ông. Cuối bữa, ông trút hết món đậu phụ xuống cái thùng rác dưới chân bàn, thành ra khi ông đứng lên, thấy các món ăn đậu phụ trên bàn ông đều hết nhẵn thì mọi người không ai bảo ai, đều cố ăn không để sót miếng đậu phụ nào dù nhỏ như cái đầu ngón tay út trong bát, đĩa. Chuyện phó giám đốc đổ các món ăn đậu phụ vào thùng rác được mật báo đến tai Giám đốc Công. Giám đốc bảo thằng ấy thế mà đểu, trước mặt thì xoen xoét nịnh bợ, nhờ học tập ăn đậu phụ theo anh mà em cũng béo khoẻ ra, thậm chí cái khoản kia cũng được vợ khen là tiến bộ vượt bậc. Thế mà dám đổ đậu phụ vào thùng rác? Vậy thì tao cũng vứt cái lời hứa cho mày là người kế cận vào sọt rác! 

Phật dạy, tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe. Ông trưởng phòng hành chính nhờ có sáng kiến tạo ra phong trào ăn đậu phụ trong cơ quan mà được bổ nhiệm làm phó giám đốc thường trực, qua mặt luôn ông phó giám đốc hay đổ lén đậu phụ vào thùng rác. Phó phòng hành chính - người có thể ăn đậu phụ trừ bữa được đề bạt lên chức trưởng phòng.

Những tưởng ăn đậu phụ, hạn chế được bệnh gút, sức khỏe khá hơn, Giám đốc Công sẽ sống lâu trăm tuổi, nhưng sức khỏe và tuổi thọ là hai mệnh đề tưởng có liên quan mật thiết với nhau song lại hoàn toàn tách bạch. Có người nằm liệt giường liệt chiếu hàng chục năm, chỉ ăn tí cháo, đến con cháu cũng phải "sốt ruột" nhưng cụ vẫn cứ nằm đấy! Có người khỏe mạnh, bữa ăn mấy bát cơm, đang đi bộ trên vỉa hè bị một thằng choai choai phóng xe máy bạt mạng lao lên cả vỉa hè, tông vào, chết không kịp để lại một lời trăng trối. Mà hình như mỗi người cũng có một kiểu chết đã được định đoạt trước. Có người chết đuối, có người chết vì bệnh tật, có kẻ chết vì tai nạn giao thông; người thì chết ở nhà, người thì chết ở xa nhà; kẻ chết ban đêm, người chết ban ngày; có người khi chết vẫn còn tỉnh táo, trăng trối đủ điều rồi mới nhắm mắt, có kẻ chết trong hôn mê; có người chết thì nhắm mắt ngay còn có kẻ chết mãi mà không nhắm mắt được. Giám đốc Công cũng là người, mà đã là người thì có thể làm ra sức khỏe chứ không thể làm ra số phận. Cái chết của Giám đốc Công âu cũng là do số mệnh quyết định.

Ngày ấy là ngày hoàng đạo, tốt cho việc xuất hành, Giám đốc Công bảo lái xe đưa về quê chơi. Vốn là nông dân nên cái bản chất cố hữu của nông dân trong Giám đốc Công vẫn còn, ấy là ông thích đái đồng cho mát mẻ nên bảo lái xe dừng ở trên đường làng, hai bên có hai hàng thông vi vu gió thổi. Giám đốc Công vạch quần, đái tồ tồ xuống sông. Đang đái thì thế quái nào Giám đốc Công bị một con chó thả rông xơi ngay một miếng vào bắp chân, máu chảy ròng ròng. Vào làng tra hỏi mãi, mới biết được chủ nhân của con chó. Chủ nhân vừa đi cày về, quần xắn móng lợn, đương nhiên là nông dân chân lấm tay bùn, thật thà chất phác nhưng ít học nên hiểu mọi cái đều đơn giản, thậm chí ngu ngốc. Giám đốc Công hỏi chủ nhân, con chó có bị điên không thì được chủ nhân khẳng định con chó tuy không được tiêm phòng bệnh dại nhưng hoàn toàn khỏe mạnh, ngay cả thịt của đồng loại nó cũng có thể xơi hết cả một nồi to. Giám đốc Công hỏi làng này có con chó nào bị điên chưa? Chủ nhân bảo có vài con nhưng đều bị đập chết ngay tức thì.

Giám đốc lại hỏi, thế làng này đã có ai bị chó điên cắn chưa? Chủ nhân bảo, làng có chó điên, hà tất phải có người bị chó điên cắn, nhưng chưa một ai bị chết. Chủ nhân còn thề sống thề chết nếu Giám đốc Công có mệnh hệ gì thì mình sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Giám đốc Công bảo với chủ nhân của con chó: "Ơ hay, nếu tôi bị điên thì ông điên thay hả?". Chủ nhà bảo: "Vâng, em sẽ điên thay bác, mà điên khéo còn sướng hơn ấy chứ". "Hả?". "Vâng, sống với con vợ vừa già vừa xấu, mở mắt ra là thánh ca bài tiền đâu thì không điên mới là chuyện lạ!".

Tin lời chủ nhà của con chó, hơn nữa nghe nói đi tiêm vắc-xin phòng dại không khéo của quý sẽ bị tịt ngòi, mà đã tịt thì sống cũng như chết nên Giám đốc Công quyết định không đi tiêm phòng. Hơn nữa, Giám đốc Công nghĩ rằng, dòng dõi nhà mình, từ cụ tổ bảy, tám đời trở lại đây đều sống trên tám mươi tuổi mới chết thì không lẽ gì mình lại có thể ra đi trước cái tuổi sáu mươi! Không đi tiêm, quyết không đi tiêm phòng! Giám đốc Công lại càng quả quyết với việc không tiêm phòng của mình. Thế nên chỉ ít ngày sau thì người Giám đốc Công cứ lờ đờ như thằng nghiện, tiếp tới, miệng giám đốc đùn ra đầy bọt mép. Thêm một buổi nữa thì Giám đốc Công gầm gừ, cắn nhau với cả con chó giữ nhà của mình. Gia đình Giám đốc Công kinh hồn, bạt vía, muốn đưa giám đốc đi bệnh viện nhưng hễ cứ lại gần là giám đốc lại gầm gừ, nhe răng nên chẳng ai dám vào. Cuối cùng phải thuê hai thằng nghiện, tất nhiên hai thằng này đang bị HIV giai đoạn cuối nên không còn sợ chết mà chỉ sợ không có tiền để chích choác nên chúng nhận lời ngay với cái giá một triệu.

Hai thằng nghiện, người dẹt, trông như bộ khung người di động, gió to có thể thổi bay, ấy thế mà chúng khỏe ghê gớm, chỉ vài động tác chúng đã trói quặt hai tay người điên ra đằng sau rồi kéo ra xe cứu thương đang hụ còi chờ sẵn. Tiền, rất nhiều tiền đã được ra giá với các bác sĩ để cứu lấy người điên nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu tuyệt vọng.  Hai hôm sau thì Giám đốc Công ngàn thu vĩnh biệt tại một  bệnh viện nổi tiếng.

Cái chết đường đột của Giám đốc Công, lại là cái chết bất bình thường đã trở thành câu chuyện sôi nổi nhất trong cơ quan. Người ta bảo rằng sinh nghề tử nghiệp nhưng Giám đốc Công lại "sinh cẩu tử chó!", âu cũng là số phận cả!

Cái gì, việc gì dù là sung sướng tột độ hoặc đau buồn đến tận cùng thì cũng nguôi ngoai theo dòng chảy của thời gian. Cái chết của Giám đốc Công rồi cũng bị lãng quên. Trong cơ quan, phó giám đốc thường trực lên thay giám đốc cũ. Bữa cơm trưa đầu tiên của tân giám đốc ở nhà ăn cơ quan, ông ăn rất ngon miệng vì có bia và món ăn mà ông khoái khẩu nhất, thịt chó luộc, thịt chó hấp, thịt chó xào rựa mận, xương chó nấu măng. Đang ăn bỗng nhiên giám đốc mới bị nghẹn. Thì ra ông rất xúc động khi nhìn thấy cái khẩu hiệu mới treo trang trọng trên tường: "Ăn thịt chó bổ dưỡng và thông minh!"

Mười ba món Thịt chó Vân Đình

Vân Đình Hùng

Lời dẫn của Nguyễn Xuân Diện:

Vân Đình là một thị trấn nhỏ, nằm ngay bên con đường trảy hội chùa Hương, rộn ràng trong mưa bụi mỗi độ xuân về, là thủ phủ của huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây. Xưa Vân Đình là một vùng đất cổ thuộc huyện Sơn Minh, phủ ứng Thiên, trấn Sơn Nam thượng; năm tháng trôi qua, thiên tai địch họa trải đã nhiều song cũng không xóa được những vết tích cổ kính nơi đây.

Tôi có anh bạn là một tay sành ẩm thực có hạng. Dấu chân anh đã in khắp các miền non nước, và anh thì đã biết đến không biết bao nhiêu là của ngon vật lạ, đặc sản thời trân các nơi. Khi tôi hỏi anh đã biết đến các món vịt cỏ, thịt chó Vân Đình chưa thì anh ta lôi kéo tôi đến ngay mấy cái quán vịt ở đường Láng, và còn hẹn sẽ đưa đi một vòng quanh Hà Nội để đếm xem có bao nhiêu cái quán đề biển Thịt chó Vân Đình, ra vẻ là người sành điệu lắm. Tôi bảo anh ta chỉ là một gã biết ngọn mà không biết gốc....

Tôi còn nhớ mãi đận về ăn cưới ông bạn nối khố ở Vân Đình. Anh chàng lấy vợ ở cái tuổi 30, so với trai làng là “qúa chậm”. Sau một chục năm ở chiến trường về, lấy cô giáo làng vừa trẻ lại vừa xinh, nên bọn bạn chúng tôi lại khen chậm nhưng chậm chắc.

Làng đang vào vụ gặt mùa, tiết trời se lạnh, đường về làng đầy những rơm phơi kín. Chúng tôi được thông báo rằng cỗ cưới ở Vân Đình là cỗ thịt chó. Thấy lạ, bọn lính cũ cùng đơn vị ở Khe sanh năm 1972, thằng nào cũng sắp xếp công việc để vào dự cưới ông bạn Vân Đình.

Ở đây có lệ ăn cỗ dựng rạp trước hôm đón dâu. Chúng tôi vào đúng lúc cả nhà đang tất bật, mỗi người một việc, người đi mượn bàn ghế, người đi mượn phông màn của uỷ ban xã, người chuẩn bị bát đĩa, soong nồi, củi, rơm ...Ông cụ thân sinh ra chú rể đang túi bụi với công việc chuẩn bị cho bữa cỗ ngày dựng rạp và ngày hôm sau đón dâu. Chú rể giới thiệu chúng tôi với ông già, và sau một tuần trà thơm, chúng tôi xin được giúp ông già làm cỗ. Không khí thân mật đã làm mất đi cái khoảng cách chủ khách, chỉ còn lại không khí thật ấm cúng ngày nào, cùng chiến hào của một thời chiến tranh.

Thật ra chúng tôi chỉ ngồi nhặt rau, gọt vỏ chuối, giã riềng và bổ củi. Tôi được ông già cho phụ giúp việc làm thịt chó. Người Vân đình gọi việc vặt lông chó là “sỏi vỏ”. Sau giai đoạn sỏi vỏ là “thui”. Ông già nói ngày mai khi làm cỗ đại trà thì chỉ thui bằng rơm mới thôi. Hôm nay có các anh về dự cưới em nó, bố sẽ thui bằng cây thanh hao cho đúng cách để các anh được thưởng thức hương vị Làng Vân. Mà thật lạ, cái bó cây thanh hao người ta dùng làm chổi quét nước, ấy vậy mà dùng nó để thui chó thì vừa nhanh, thịt chó lại có mùi thơm rất lạ ngay từ lúc nó vừa thui xong. Nhìn con chó vàng ươm, tròn mây mẩy, khuỷu chân trước hơi quá lửa nứt ra, mỡ cháy sủi bọt đã thấy chảy cả nước miếng rồi. Ông già xách con chó vừa thui ra sân giếng khơi, tôi nhanh nhẹn kéo mấy gầu nước đổ đầy cái chậu to tướng. Toàn thân con chó được sát muối, ông cụ bảo làm thế nó sẽ hết mùi hôi, rồi ông lấy một mớ rơm mới chà sát sạch sẽ rồi dội nước. Bởi như ông nói, sau lúc mổ thì không được rửa thịt nữa, sợ nó nhạt(!). Con chó được đặt nằm ngửa trên một chiếc nong đã được rửa sạch, phơi khô, chiếc thớt gỗ nghiến Lạng sơn đã ghi đậm những vết băm chặt của không biết bao lần làm cỗ như thế này đã sẵn sàng. Thịt được phanh ra và các món gần như được định liệu ngay từ khi mổ. Tôi được ông cụ giải thích: ở Vân đình người ta làm cỗ thịt chó thường có 13 món gồm: 5 bát, 8 đĩa. Nếu cầu kỳ, nhất là mấy ông đồ nho gặp bạn văn chương thì có thể hơn. Năm bát gồm có Sáo nạc (bằng thịt nạc, mỗi miếng tái to gần bằng bao diêm) đem ướp kỹ rồi hầm nhừ. Sáo xương, Tam tam (giả thịt ba ba gồm hai cánh sườn, thêm một chút thịt ba chỉ thái con chì, lạc rang chín tới xảy sạch vỏ, giã vỡ đôi, chuối xanh, đậu phụ nướng thái con chì, xương sông, tía tô, mẻ...), Sáo trâu (giả thịt trâu, gồm phần nạc ở vai, cổ, thái mỏng ướp hành khô, tỏi băm, không được dính giềng, nấu với rau cần tuốt hết lá hoặc cọng rau muống non). Và cuối cùng là bát nước chấm được gọi là “Lòng chuột”. Thực ra món này không phải làm bằng thịt chuột, nhưng từ xưa người Làng Vân vẫn gọi món này như vậy, chẳng ai biết xuất xứ của nó từ đâu? Món này làm bằng bộ cuống họng băm nhỏ, phổi, lá lách và các thùy gan nhỏ (còn thùy gan to phải dùng cho món khác) cũng thái nhỏ đem xào chín tới với khế chua vắt nước, lọc mẻ, ớt tươi, trước khi bắc ra thì cho tiết hãm (tiết không bị đông, được hãm như tiết canh) và lá chanh. Riêng lá chanh tôi thấy ông cụ nói rằng sau khi hái không được rửa - sợ mất mùi, mà phải lau sạch từng lá trước khi xé nhỏ cho vào nồi lòng chuột. Món này thay mắm tôm chanh ớt. Người Làng Vân ăn thịt chó không chấm mắm tôm! Món lòng chuột được chấm với chả nướng, thịt luộc, dồi luộc sao cho khi ăn mỗi miếng thịt luộc, dồi hoặc chả được gắp kèm thêm khế, lục phủ ngũ tạng, ớt ... trong bát nước chấm, mới đủ độ ngon.

Trong tám đĩa, mỗi thứ một vẻ, đầu vị phải kể đến đĩa dồi, “sống ở đời ăn miếng dồi chó... “, thứ hai là đĩa luộc (hay hấp), thứ ba là đĩa nhựa mận (hay Cháy cạnh) món này làm bằng các loại thịt thừa khi chế biến, thái vuông mỗi chiều hơn một đốt ngón tay, rang cháy cạnh cho chảy mỡ ra, rồi mới cho mẻ lọc vào, khi bắc ra nêm thêm một môi tiết hãm. Món thứ tư là đĩa “Gan sống mỡ gáy", nhưng không phải làm bằng gan sống và mỡ gáy! Món này khi pha thịt phải lựa được hai nửa miếng nầm ngực băm dối, vết dao chỉ làm đứt da, để lại những vạch chéo, ướp riềng mẻ, mắm tôm độ một tiếng trước lúc nướng. Hai thùy gan to nhất cũng được khía dối ướp lẫn. Khi nướng phải có ý, không được nướng phía bì trước, phải úp miếng nầm xuống, nướng chín tới, sau đó hơ qua mặt có bì, hai miếng gan phải nướng sao cho không sống, không chín quá. Lúc thái, thái vuông mỗi chiều bằng một đốt ngón tay, chấm với muối tiêu chanh để ngay ở trên đĩa. Khi ăn phải gắp hai miếng, một miếng nầm nướng, một miếng gan nướng ăn lẫn. Cái sậm sật của sườn non, quện với vị bùi của gan nướng làm cho thực khách ngỡ ngàng khi thưởng thức. Đĩa thứ năm, thứ sáu, thứ bảy là ba loại chả. Chả miếng, giống như các hàng thịt chó thông thường. Nhưng người Làng Vân lúc pha thịt chả thường thái thành từng miếng to sao cho cứ hai miếng đó sau khi nướng thì thái được một đĩa bày mâm. Miếng thịt chọn để nướng chả phải lẫn cả nạc, cả mỡ, cả bì, sau đó kẹp trong một cái gắp bằng tre tươi chẻ mỏng nướng trên chậu than Đục Khê đỏ rực. Khi chín thái mỏng tang, bày lên đĩa, lúc ăn chấm với lòng chuột. Chả bọc làm bằng các loại thịt vụn sau khi chế biến, mang băm nhỏ, nặn thành hình cái bánh mỳ nhỏ, dẹt, lấy mỡ màng tang (hay còn gọi là mỡ chài) bọc ra ngoài rồi đem nướng, có người thích ăn thêm xương sông thì bọc thêm một lượt xương sông ngoài cùng để khi nướng có mùi thơm lạ hơn. Đĩa chả thứ ba cũng là đĩa thứ bảy đó là Chả sầu bóp tiết. Tôi cũng không biết người Làng Vân đình gọi tên này bắt đầu từ một điển tích gì ngay cả cụ già cũng chẳng giải thích gì thêm. Để có đĩa chả này phải lựa những miếng thịt mông cuối, nhiều nạc, ít mỡ, thái vuông quân cờ, ướp riềng, mẻ, mắm tôm trước một giờ, sau đó cho vào một cái lưới dùng để nướng chả. Khi chả vừa chín thì gắp từng miếng nhúng vào tiết hãm pha một chút rượu mạnh để miếng chả có mầu rất bắt mắt, bóng láng như được tráng một lớp men màu bã trầu, cau Đông trầu Quế vôi Đào. Khi bày đĩa phải quay phía bì lên rồi đem vừng trắng rang rắc lên chốc. Mỗi đĩa có sáu miếng, mỗi người trong mâm chỉ được nếm một miếng thôi.

Bảy món đĩa trên đều được ông bố chú rể hướng dẫn tôi một cách tỷ mỉ. Song tôi nghe cũng như vịt nghe sấm, nghe thì hay, thì thích, thấy rõ lạ, nhưng nó lại chạy từ tai trái sang tai phải rồi chạy đi đâu mất?

Đĩa cuối cùng ông già nói rằng kể cho anh nghe cho đủ, nhưng anh không phụ giúp tôi được đâu. Cứ trông cái bộ dạng lóng nga lóng ngóng của anh là tôi đã phải làm lấy một mình rồi. Tôi chăm chú nhìn ông già thao tác, đầu tiên ông lấy toàn bộ bì lạng lẫn chút mỡ, cuốn lại rồi lấy lạt giang buộc, bỏ vào nồi luộc. Các miếng thịt nạc ngon nhất được ướp hành khô, giềng, mắm muối sau một lúc, đem nướng chín tới. Ông thái mỏng các miếng thịt nạc vừa nướng tới vẫn còn lòng đào, ông gọi là “tẩy” tái dê, tuyệt nhiên không có chữ thái ở đây. Tay nghề của ông thật điêu luyện, miếng thịt trông thì to bản nhưng mỏng. Bì luộc vớt ra để nguội thái chỉ như tẩy nem chạo. Cả hai thứ được hộn lại, rồi đem muối, bột ngọt, thính trộn đều. Thính dùng cho món tái dê phải được rang bằng đậu tương, xay nhỏ thành bột mịn trộn thêm một quả thảo quả (có nơi gọi là quả tò ho) nướng than chín cháy vỏ, rồi cũng đem giã nhỏ như đậu tương vậy. Lúc bày ra đĩa rắc thêm ít lá chanh thái chỉ.

Trong các món đĩa thì món tái dê làm thật công phu và dân bợm nhậu cũng sẽ rất khoái vì hương vị đặc biệt của nó. Không phải thịt dê, nhưng ăn nó na ná.

Mười ba món thịt chó trong một mâm cỗ như hội tụ tất cả hương vị độc đáo của một vùng quê. Tôi không dám nói dân Làng Vân có trình độ “Văn hoá ẩm thực”, nhưng nếu bạn được chứng kiến từ đầu một bữa cỗ bằng thịt chó của người Làng Vân thì mới thấy hết cái tinh xảo trong chế biến, cái hợp lý trong cách dùng gia vị và điệu nghệ trong nấu nướng của họ.

Công việc nấu nướng lại là của các bà, các cô, họ nêm gia vị, mắm muối rồi ngửi món đang nấu, tuyệt nhiên không thấy ai nếm bao giờ. Khi ăn chưa thấy thực khách nào chê mặn hay nhạt vì món nào cũng vừa vặn. Các món được nấu chín, cách trình bày cũng thật độc đáo. Họ bày rất hài hoà từ đĩa rau thơm đến tám món đĩa, năm món bát, nhìn mâm cỗ cứ như là một tác phẩm nghệ thuật vậy. Điều đặc biệt nữa mà chỉ người Làng Vân mới làm còn các nơi khác chưa thấy nói tới là: nếu ăn thịt chó ở Vân Đình trong mùa lạnh thì các bát nấu khi bưng mâm ra thường được đặt trên một cái đĩa men lam Bát Tràng đựng rượu mạnh. Lúc cả mâm nâng chén, người bưng mâm sẽ châm lửa đốt rượu trong đĩa nhằm giữ cho bát nấu được nóng. Các cụ Vân Đình gọi là ăn bát sáo hỏa thang.Chuyện vãn một hồi, ông già mời chúng tôi xơi cơm. Mâm cỗ được bày ra, bốn anh em chúng tôi, và hai bố con chú rể ngồi thưởng thức cái vất vả, nhưng phấn khởi như một niềm vui nhân đôi. Rượu được rót ra, tiếng mời chào râm ran...

Hôm sau vào ngày đón dâu, bữa tiệc trước lúc đón dâu dễ tới năm chục mâm, mâm nào cũng năm bát, tám đĩa đều chằn chặn. Phải tới hơn ba mươi năm rồi, kỷ niệm về một vùng quê cứ hiển hiện trong tôi như một giấc mơ đẹp. Khó có một vùng quê nào nấu thịt chó mà có những mười ba món như người Vân Đình.

“Chai rượu thuốc đã cạn đến phân nửa. Tợp thêm một chén nữa, ông đại gia phất lên từ chó giọng tưng tửng: Ba cái thang thuốc Minh Mạng của Tàu ngâm rượu cũng chả nhằm nhò gì so với món mộc tồn. Viagra  chính hiệu của ta đấy”.

Một quả cóc xanh. Một đĩa mực nướng xé bông chấm tương ớt và bình rượu thuốc Minh Mạng, mấy ông tuổi hưu già hưu non, có vị làm đỏm mái tóc “đảo ngói” cho trẻ lại ngồi với nhau cả buổi vẫn chưa nhạt chuyện. Rặt là chuyện tầm phào trên trời dưới biển: sướng khổ vinh nhục ở đời.

Chuyện cốc lếu hiếu hỷ của bố mẹ con cái quan chức, người đông kìn kìn đến phúng viếng hoan hỉ là dịp công khai phong bao phong bì thể hiện tấm lòng trắc ẩn tri ân đối với cấp trên. Từ chống tham nhũng, tệ ăn hối lộ của cảnh sát đứng đường cho đến mấy thằng cò mặc áo cổ cồn chạy chức chạy quyền, mua quan bán tước gây rối xã hội. Rượu vào lời ra, đủ thứ chuyện trên đời… cuối cùng lại quay về cái cuộc sống muôn thuở của con người là không thể hoãn cái sự sung sướng lại được…

“Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó. Chết xuống âm phủ biết có hay không”. Ê a, cái giọng méo xệch chẳng ra nói chẳng ra hát của ông Hải Cẩu giàu nhất làng Đa, Hà Tây làm nghề buôn chó nhai đi nhai lại cái câu cửa miệng ấy giữa tiết trời se lạnh chớm đông cứ làm bụng dạ nôn nao nhớ tới Tú Béo, Tú Sịn, Tú nhà kính, Trần Kiểm, Trần Mục… ở phố thịt chó Quảng Bá, Nhật Tân… Nghe phảng phất đâu đây cái mùi chả nướng thơm lừng điếc mũi của mấy nhà hàng Núi Trúc, hay ở quán bà béo đầu Ô Chợ Dừa…

Chúa ơi! Sống ở trên đời…thưa với bạn đọc rằng, ông Hải Cẩu  khởi nghiệp bắt đầu từ cái dây thòng lọng với chiếc xe đạp cà tàng, kiên gan suốt mấy chục năm trời đeo bám cái nghề chó má này mà giàu nhất làng, mua được xe, tậu được nhà trong phố, bỏ tiền cho con du học, hơn đứt mấy ông quan xã, quan huyện, thậm chí cả quan tỉnh liêm chính nữa, nổi tiếng là người sành ăn loại thịt này. Gần như là nghiện, tuần nào khuyết hai bữa thịt chó, như lời đại gia tự kể, thì chân tay bủn rủn, mồm miệng nhạt thếch.

Ngày nào bận bịu không đi quán được, y rằng bà vợ lại phóng xe ra ngã ba quỷ phố Hàng Than mua về một đùm thịt chặt, mấy xiên chả và ít khoanh dồi nướng. Ở đây sạch bách thì hoá ra Ô Quan Chưởng gầm cầu ngõ Hàng Hương, Hàng Lược chứ không mua ở nơi khác, dở òm. Chả thế mà khách “mũi lõ mắt xanh”, “mũi tẹt da vàng” ngoại lai có công chuyện, ông ta đều mời lên xe ô tô đích thân ông ta cầm lái phi lên phố thịt chó vùng en Hà Nội đãi đủ bảy món.

Khách đặc biệt từ miền Nam ra hay việt kiều về nước thì rước sang  Văn Giang, Hưng Yên – chơ vơ giữa cánh đồng, độc nhất vô nhị, một quán thịt chó với thứ nước chấm bí quyết nhà nghề pha chế bằng óc chó không đâu có, chủ nhật, ngày lễ ôtô xe máy bâu kín quanh nhà. Vui chuyện ông kể, mới đầu mấy anh Tây cuối tuần đi thưởng thức món đặc sản của Việt Nam nhung vị nào cũng nhún vai, lè lưỡi, lắc đầu khước từ vì sợ khi biết đó là thịt chó.

Một lần mời họ đi ăn chả nướng xiên, xào lăn, súp chó nhưng không nói đó là thịt chó thì cả Tây già lẫn Tây trẻ đều tấm tắc khen ngon. Khi sự thân tình khoảng cách đã co gần lại, nói thật đó là thịt chó thì Tây cười xoà: “Nếu thịt chó như vậy thì manger bon (ăn tốt)”. Từ đấy, mỗi lần có dịp quay trở lại Hà Nội, những bạn bè thân quen của đại gia Hải Cẩu đều ngỏ lời được mời đi thưởng thức món cầy tơ bảy món, xếp trên cả bún thang bà Ẩm, chả cá Lã Vọng gia truyền đã có ba bốn chục năm trong nghề…

Đều đặn cứ 3 ngày một bữa thịt chó còn hơn ngậm sâm Cao Ly trồng trên núi cao hai nghìn mét, vợ khen cả ngày. Mấy cha hỏng máy “kim đồng hồ lúc nào cũng chỉ sáu rưỡi” xơi đều thịt chó vài tuần là nhúc nhích ngay… Trên đời có lắm anh mê mẩn thịt chó như bị bỏ bùa, nhưng vẫn không thể đọ được với Hải Cẩu. Lúc nào ăn cũng được. Ngày nào ăn cũng không biết chán. Càng ăn càng vào.

Nhớ cái hồi bị “gom kho”, toà tuyên phạt 3 năm tù về tội buôn lậu vì muốn giàu thật nhanh, ở trại nhắn ra cho vợ vào thăm nuôi tiếp tế gì thì tiếp tế đừng quên gửi cho ít thịt cầy. Gã chủ quán nổi tiếng ở phố thịt chó chịu ơn đại ca đã truyền cho mấy ngón nghề thui chó, làm dồi, cách ướp chả, hấp luộc… Khi mở quán lập nghiệp đua chen với đời, mỗi lần vào thăm đều mang theo cả kýt hịt chó làm quà.

Tinh mồm lắm, nằm trong trại ăn uống luễnh loãng tạp pí lù, lâu lâu mới được một bữa thế mà phân biệt cấm có sai đâu là chả Hàng Lược, thịt hấp Gầm Cầu, dồi nướng Ô Chợ Dừa hay Tuấn Núi Trúc. Đâu chỉ có ăn, nói đến chuyện chó má thì thiên hạ phải bái phục suy tôn lão ta là đệ nhất tinh quái về sự sành sỏi. Mỗi lần theo chân Hải Cẩu ra chợ chó Mai Động, chó nguyên con, nửa con, xả mảnh bày bán ê hề bên những con chó sống đủ loại lớn bé, to nhỏ khác nhau, nhốt trong rọ, trong cũi, buộc cổ trói chân nằm la liệt bên đường…

Đảo qua một lượt, nhìn những chú chó mắt trợn ngược ai oán, răng thì nhe ra trắng ởn như giễu cười nằm còng queo  trên các mặt ván ngang dọc vết dao chém, bóng ánh lên bởi mỡ chó kết bám lâu ngày, con nào cũng tênh tênh một màu vàng chào mời. Hệt như một nhân viên kiểm tra y tế lành nghề, Hải Cẩu bước chậm chạp ngắm chó và chỉ ra những cái khuất ẩn qua lớp da thui vàng của những kẻ làm nghề, giọng tỉnh queo: “Đây mới là chú cẩu ngon các vị nè. Thui rơm vàng ươm, lưa thưa những chấm sậm nhạt như kê bám trên mình chó”. “Con màu mận chín này đích thị là chó đánh véc -ni quá tay”. “Con da bóng mượt loang lổ màu bã trầu kia là bôi phẩm hoa hiên sau khi hơ lửa…”. Đang đi, Hải Cẩu kéo tay tôi lại, dừng chân trước một cặp chó nằm sóng đôi bày trên cái mẹt đan tre bánh tẻ, da thịt mình mẩy cứ căng mọng lên nhễ nhại như mỡ nó ở  bên trong sắp phọt bắn ra ngoài. Ông già tơ tướp râu bạc giọng Thường Tín, Hà Tây đon đả mời chào: - Cầy tơ chó béo, gia vị chế sẵn, mấy cậu mua thì lão xẻ thịt. - Chó hạ thổ. Bố có cho cũng vái cả nón. Miệng làu bàu nhưng nghe rõ lời lẽ như chửi của lão bán chó: - Chó hạ thổ. Không mua thì xéo. Chọc ngoáy thế đủ rồi. Mẹ mấy con ma.

Tưởng là đụng độ chan tương đổ mẻ vào mặt nhau đến nơi, ăn mày kẻ cắp quá rõ mánh mung của nhau nên đôi bên nháy mắt cùng cười. Thế này là thế nào, Hải Cẩu. Chả thế nào cả, đó là cách làm ăn ma giáo của mấy gã dối lừa khách hàng. Những kẻ kiếm tiền bằng bất cứ giá nào nó bất lương thế đấy. Chúng đi lượm chó chết từ trong đống rác, tìm mua chó ốm, chó gầy, chó ghẻ, chó mắt toét, chó chê cơm… đem về làm lông cạo sạch rồi đào hố hạ thổ hoặc moi cát chôi vùi qua đêm mới móc lên nổi lửa thui.

Chó kiểu này không được chọc tiết mà dí điện giết chó để giữ nguyên máu huyết bên trong, khi đào lên nước ngấm càng làm cho chó béo nở ra, da bì căng mọng… Thất đức lắm các ông ơi! Thịt xả ra ngâm tẩm tiêu mỡ riềng mẻ… xiên chả đem nướng thơm lừng tịt cả mũi, nhậu với nếp  cẩm, rượu ngâm cá ngựa, tắc kè Lao Bảo thì cố nội thằng nào biết nó là thứ thịt gì nữa.

Nói đến đây, Hải Cẩu cười toe toét. Làm ăn kiểu sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi thế này thì khủng khiếp quá. Nó vận hết vào người, ám ảnh đeo bám suốt cuộc đời. Đâu thiếu những anh mở quán thịt cầy phất nhanh như diều, giàu ngất ngưởng, nhưng cứ  tàn lụi dần, bố nghiện, con nghiện, chồng cờ bạc, vợ cờ bạc… cuối cùng lại quay trở về cái vạch xuất phát máng lợn ban đầu, như kẻ độc miệng đã nói: Của thiên trả địa, đừng đùa với tâm linh đạo đức làm người. Sớm nhận ra điều này, Hải Cẩu sắm hẳn một cái lễ hạ biển bỏ nghề, mặc dầu cái quán Hải Cẩu thịt chó lúc nào cũng chen chúc khách nổi tiếng nhất vùng Ba La Bông Đỏ… Không cầm dao giết mổ đốt rơm thui chó nữa, Hải Cẩu mở công ty xuất khẩu chó, cả chó thịt lẫn chó cảnh, chó đua…

Đó là nói cho vui, nhưng không biết bằng cách nào Hải Cẩu đã thiết lập được một đường dây đưa chó thịt từ Lào, từ Thái Lan cứ đều đều tháng tháng một xe tải hạng nặng đưa sang Việt Nam… tập kết ở đâu đó rồi chở về công ty phân chia cho các quán thịt cầy đã có thương hiệu. Một đường dây khác, chó cảnh chó quý  hiếm từ Đức, Nga, Anh, châu Phi… tiêm chủng cẩn thận ròng lên phi cơ hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Nội Bài. Rồi chó đặc chủng Phú Quốc, Đồng Rừng, nội địa nữa.

Phân loại “đẳng cấp”,  tùy theo cái thú ăn chơi của người đời mà định giá bán. Hạng bét mỗi con cũng một, hai nghìn đồng tiền Mỹ, có con ba nghìn, năm nghìn. Chó quý thì ôm vào Vũng Tàu sang tay cho mấy ông “đỏ đen” ở sân vận động trường đua chó thành phố. Cứ túc tắc, nhởn nhơ như thế mà ăn nên làm ra. Ít ai nghĩ rằng từ một anh bắt đầu khởi nghiệp bằng cái thòng lọng chó, cái xe đạp cà tàng đôi bánh mòn  vẹt lốp còn chằng buộc dây cao su thời bao cấp mà giờ giàu có, của ăn của để, cưỡi xe bốn bánh, nhà lầu ba tầng, rặt giao du với những vị có máu mặt. Cuộc rượu tàn rồi, mấy ông bạn quý đứng dậy ra về chẳng hiểu nghĩ sao ông Hải Cẩu nổi cơn cao hứng: Năm Tuất sắp qua rồi xin mời mấy thầy lên xe đi chợ chó tất niên. Mai Động, Đức Giang, Thường Tín hay Tây Mỗ, Hà Đông cũng được. Cứ ngỡ là Hải Cẩu say, mà chả say tẹo nào khi nghe “lão” nói giọng cứ tròn vo như hòn bi ve: “Nhà nước chẳng cấm ai làm giàu. Nhưng chớ có kiểu làm giàu bằng cách ăn của đút, tham ô, tham nhũng, ăn cắp của dân thì chẳng ra cái giống gì

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro