Yamamoto va nhung tran danh tai TBD 5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ijuin không bao giờ đưa ra bất kỳ lý lẽ nào khác để bào chữa cho hành động này ngoài việc thừa nhận lỗi lầm của ông. Nhưng theo tôi tin tưởng, sở dĩ ông đưa ra hành động này là cố ý nhử địch quân bỏ hướng tiến về phía Nam của họ, nhằm để cứu đoàn chuyển vận hạm thoát khỏi một cuộc tấn công.

Lúc 20h56 nhóm tàu 4 chiếc của Ijuin lại đồng loạt xoay hướng qua phải, để chạy về phía Nam, với đội hình hàng dọc như cũ, nghĩa là quay lái vào mạn tàu địch quân. Do đó, chiếc Yugumo, chạy cuối cùng, chỉ cách các họng súng điều khiển bằng radar của địch quân có 3.000m.

Ngay khi 4 khu trục hạm vừa xoay hướng xong, các chiến hạm địch lập tức khai hỏa và phóng ngư lôi. Trúng một loạt 5 quả đại pháo, chiếc Yugumo liền lách qua trái để tách rời khỏi đội hình, các pháo khẩu bắn trả địch quân và đồng thời bắn 8 quả ngư lôi. Chiếc Kazegumo, chạy kế phía trước, cũng khai hỏa nhưng không dám phóng ngư lôi vì sợ trúng đồng đội đã bị hư hại của mình. Xạ trường bị hai khu trục hạm đang lâm chiến án mất, hai chiếc Isokaze và Akigumo không bắn được phát nào. Khu trục hạm Yugumo lĩnh thêm nhiều quả đạn nữa, tay lái hoàn toàn tê liệt, trôi dạt dần về hướng Đông Nam. Lúc 21h03, mạn trái của chiếc tàu này hứng trọn một quả ngư lôi địch, lảo đảo nhiều phút rồi sau đó biến mất trên đại dương. Toàn thể thủy thủ đoàn 241 người của Yugumo không còn ai sống sót. Ba chiếc tàu còn lại của Ijuin tháo chạy toán loạn, mất 10 phút sau mới vầy đoàn, và sắp xếp lại đội ngũ di chuyển về hướng Tây.

Ba khu trục hạm Hoa Kỳ, được điều động một cách tài tình, hiện tại có vẻ như đã hả hê với chiến thắng, nên vội bỏ rơi các nạn nhân còn tồn tại. Lúc 20h56, sau khi khai hỏa và phóng ngư lôi đanh chìm chiếc Yugumo, các chiến hạm Hoa Kỳ vung sang bên phải. Nếu các chiến hạm này cứ chạy theo đúng hướng mới này thì niềm vui chiến thắng của chúng sẽ được trọn vẹn. Nhưng sau khi chạy được một phút rưỡi, ba chiến hạm địch phát hiện 2 khu trục hạm khác của Nhật (tức hai chiếc Samidare và Shigure của tôi) chạy ngay phía trước, cách 13.000m. chiến hạm địch vội vã xoay hướng để chạy song song với hai mục tiêu mới này, và chuẩn bị tấn công. Cách điều binh của địch quân như vậy là rất đúng, nhưng khi làm như vậy, địch quân lại không chịu để ý đến cú đấm ngư lôi cuối cùng trước khi dãy chết của chiếc Yugumo. Phấn khởi với dịp may hiếm có, ba chiến hạm Hoa Kỳ đã cấp tốc vung sang phải và tất cả trọng pháo được nâng lên nhắm thẳng vào hai nạn nhân mới mà không hề hay biết các quả ngư lôi Oxygen vô hình vô ảnh của Nhật Bản đang lướt về phía chúng.

Lúc 21h, một trong các quả ngư lôi do chiếc Yugumo phóng đi trúng thẳng vào buồng chứa đạn của khu trục hạm Chevalier của Hoa Kỳ. Chiếc tàu này nổ tung và chìm trước chiếc Yugumo hai phút. Nhiều tin tức loan đi trên báo chí Hoa Kỳ nói rằng chiếc Chevalier bị trúng ngư lôi trong lúc đang chuẩn bị "đấu súng" với một số ngư lôi đĩnh Nhật Bản. Các tin tức này hoàn toàn tưởng tượng hoặc có tính cách câu độc giả. Không hề có một chiếc ngư lôi đĩnh nào của Nhật hoạt động trong khu vực này vào thời gian đó.

Vào lúc 21h5, đúng ngay lúc chiếc Yugumo biến mất trên mặt đại dương, lực lượng Hoa Kỳ nhận lĩnh thảm họa thứ hai. Khu trục hạm O'Bannon đụng dữ dội vào chính giữa mạn của chiếc Chevalier đang giãy chết. Sự đụng chạm này có lẽ là do tín hiệu cấp cứu sai lầm của chiếc Chevalier. Cũng có thể giải thích là do màn khói dày đặc giữa hai chiến hạm hoặc sự xoay hướng bất thình lình của chiếc tàu khi bị trúng ngư lôi, nên sự đụng chạm không sao tránh khỏi.

Selfridge, khu trục hạm thứ ba của Hoa Kỳ, chiếc tàu duy nhất còn nguyên vẹn, vẫn tiếp tục thẳng tiến đến hai chiếc chiến hạm Nhật Samidare và Shigure. Tất cả các họng súng trên chiếc tàu này đều rực lửa, nhưng không hiệu quả. Cảnh tượng này xảy ra vào lúc 21h4, và chỉ kéo dài hai phút rưỡi. Chiếc Selfridge nhận lĩnh một quả ngư lôi ngay mũi. Đây là một trong số 16 quả ngư lôi tầm xa do Shigure và Samidare phóng đi.

Đó là tất cả những chi tiết thực sự đã xảy ra cho 4 chiếc tàu của Ijuin trong trận đánh này. Bây giờ tôi xin thuật những chi tiết này dưới mắt nhìn riêng của tôi khi đứng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure.

Vào lúc 20h38, ba phút sau khi chiếc Yugumo báo cho biết đã bật đèn tín hiệu theo lời yêu cầu của tôi, tôi nhìn thấy một ánh đèn xanh lờ mờ cách trước mặt khoảng 15.000m nên ra lệnh xả hết tốc lực chạy về đó.

Một khối màu đen bỗng xuất hiện ở mạn trái, giống như một hòn đảo nhỏ. Nhưng trong khu vực này không có đảo gì cả. Trong lúc tôi còn đang tự hỏi khối màu đen đó là cái gì, quan sát viên Yamashita la to: "Nhiều vật không nhận diện được, ở 50 độ mạn trái. Hình như là các tuần dương hạm và khu trục hạm, rõ ràng là của địch quân, đang tiến đến."

Tôi dùng ống nhòm khổng lồ 20 tấc để quan sát. Chúng kia kìa, các chiến hạm, tôi không thể nào đếm được, vì chúng chạy theo đội hình hàng dọc thật thẳng, tiến về phía chúng tôi. Một ánh đèn chớp lên từ phía Samidare vào lúc 20h40, cho biết chiếc tàu này cũng đang theo dõi các mục tiêu: "Chiến hạm địch, ở hướng 115 độ".

Tàu địch tiến sát thật nhanh chóng. Tôi vẫn quan sát qua ống nhòm và tìm cách xem phải phản ứng ra sao. Khoảng cách đôi bên ở hiện tại là 13,000m. Tôi quyết định tốt nhất là nên tấn công bằng ngư lôi tầm xa. Hướng tiến của chúng tôi là Nam Tây Nam, trong lúc hướng tiến của địch quân là Tây Nam, nghĩa là từ hướng Đông tiến đến, bây giờ khoảng cách còn chừng 11.000m. Như vậy, hai bên gần như chạy cùng hướng, chỉ xê xích khoảng 10 độ. Mục tiêu ở một góc độ phóng ngư lôi khó trúng. Do đó, để thích hợp, tôi ra lệnh xoay hướng từ từ về phía trái.

Vào 20h55, khoảng cách của đôi bên chì còn 10.000m và hiện tại chúng tôi đang nằm trong tầm súng điều khiển bằng radar của đối phương. Tôi không thể kéo dài cuộc tìm kiếm ánh đèn màu xanh của chiếc Yugumo lâu hơn nữa. Khi khoảng cách sinh tử thâu ngắn lại còn 9.000m, cho thấy một cách rõ ràng ý định của địch quân là cố đẩy một cái chốt vào giữa 4 chiếc tàu của Ijuin và 2 chiếc tàu của tôi. Lúc 20h56, tôi ra lệnh xoay hướng cấp tốc sang phải. Chiếc Samidare cũng xoay hướng giống như chúng tôi. Sở dĩ tôi phải làm như vậy là nhằm để tránh sự đe dọa của các mũi súng địch, đồng thời cải đổi góc độ phóng ngư lôi khác thích hợp hơn.

Khi Shigure và Samidare đang bận xoay hướng, chúng tôi không nhìn thấy các quả ngư lôi trao đổi giữa chiếc Yugumo và đối phương. Hơn nữa, thời tiết quá xấu, chúng tôi cũng khó có thể quan sát rõ từng chi tiết một của cuộc đụng độ này.

Tôi cảm thấy hai khu trục hạm của tôi bị áp lực nặng nề. Làm sao chúng tôi có thể chống trả nổi lực lượng địch "mạnh mẽ" (mà lúc ấy chúng tôi vẫn tin tưởng bao gồm 4 tuần dương hạm và 3 khu trục hạm, theo như dự báo của các trinh sát cơ). Nếu để địch quân nắm phần chủ động họ có thể đập tan chúng tôi. Nhưng làm sao chúng tôi nắm được phần chủ động? Hơi thở tôi dồn dập vì hồi hộp.

Vào lúc 20h58, nhìn thấy tàu địch xoay sang phải, tôi cũng ra lệnh cho chiếc tàu của tôi xoay nhanh sang phải. Các mục tiêu bây giờ ở khoảng cách 8.500m như dự trù của tôi. Lối chạy song song và cùng hướng với đối phương là một trong những công thức nằm trong lý thuyết phóng ngư lôi của tôi. Lối chạy này làm dự tính tung ra một cuộc tấn công bằng ngư lôi của địch trở nên ngỡ ngàng và cho phép tôi chọn lựa thời gian, góc độ để ra tay.

Tôi ra lệnh cho chiếc Samidare bằng đèn hiệu và vô tuyến: "Hãy chuẩn bị các pháo khẩu và ngư lôi nhắm vào mục tiêu ở mạn phải." Trong lúc đó, mạn trái của tàu địch hướng về phía chúng tôi, do đó tất cả súng ống của họ đều chĩa vào chúng tôi. Biết được điều này, tôi ra lệnh xoay phải một lần nữa vào lúc 20h59, để tiến sát vào địch quân càng nhanh càng tốt, nhằm để loại bỏ điểm nhắm và thời gian đã chuẩn bị của họ. Tôi phát khùng khi hạm trưởng của chiếc Samidare đã ngu dại sử dụng vô tuyến hỏi tôi xem có phải lần xoay hướng này chúng tôi sẽ tấn công đối phương hay không? Cố dằn cơn nóng giận xuống, tôi ra lệnh cho truyền tin: "Hãy nói với ông ấy là chúng ta sẽ lại xoay sang trái trước khi khai hỏa vào địch quân."

Tiến sát vào lực lượng Hoa Kỳ khoảng 500m nữa, tôi ra lệnh xoay sang trái và phóng ngư lôi. Lúc ấy là 21h30. Địch quân ở ngay 50 độ và cách 7.000m mạn phải chúng tôi, một góc độ phóng ngư lôi lý tưởng. Từ hai khu trục hạm Nhật, 16 con cá chạy xuyên dưới mặt nước, và các thủy thủ bắt đầu đưa vào ống những con cá khác.

Ngay khi loạt ngư lôi đầu tiên của chúng tôi đang trên đường hướng đến mục tiêu, nhiều cột nước mọc lên cả hai bên tàu của chúng tôi. Đó là loạt đại pháo đầu tiên của địch quân. Những quả đạn bắn dang chân này hiển nhiên là do các pháo khẩu có điều khiển nên trông rất đẹp mắt, nhưng không trúng chiếc tàu nào của chúng tôi. Lối bắn "dang chân" này vẫn tiếp tục trong khi các thủy thủ của chúng tôi nạp các quả ngư lôi khác vào ống phóng một cách vụng về bối rối. Chớ cho công việc này hoàn tất, tôi nhận thấy loạt phóng thứ hai đã mất đi thời gian tính, nên ra lệnh cho các pháo khẩu khai hỏa.

Chiếc Shigure chao đi chao lại khi các pháo khẩu 127mm của nó gầm thét dữ dội. Các họng súng không ngớt rực lửa khiến đôi mắt của mọi người hầu như mù lòa, hiện tượng này rất quen thuộc trong những trận dạ chiến xảy ra trong bóng đêm mù mịt của đại dương. Các cột khói đã ngăn hẳn tầm quan sát trên đài chỉ huy của tôi trong chốc lát. Tiếng đầu tiên vang lên trong cảnh náo động và âm u là tiếng la to của quan sát viên Yamashita. Hắn cho biết ngư lôi của chúng tôi đã trúng mục tiêu.

Khi mắt tôi quen với quanh cảnh hiện tại, tôi có thể xác nhận một tiếng nổ phát ra từ chiếc tàu dẫn đầu đoàn tàu của địch quân, nhưng ngoài chiếc tàu này ra không còn chiếc tàu nào khác. Hai chiếc tàu địch còn chạy theo sau chiếc tàu dẫn đầu chỉ một vài phút trước đây không còn thấy đâu nữa. Hỏi lại các quan sát viên, họ xác nhận chỉ còn nhìn thấy một chiến hạm địch duy nhất mà thôi. Việc này khiến chúng tôi tin rằng cà 3 chiếc tàu đều trở thành nạn nhân của các quả ngư lôi của chúng tôi. Đây là ý kiến của tàu bạn Samidare đưa ra. Nhưng chúng tôi không thể nào tưởng tượng được hai khu trục hạm địch bị mất tích này, tức hai chiếc Chevalier và O'Bannon, đang thả trôi lênh đênh cách 6.000m phía sau chiếc tàu dẫn đầu. Lý do sự quan sát kém cỏi của chúng tôi vào lúc ấy là bởi hỏa lực và khói súng che phủ tầm mắt.

Vẫn còn tin tưởng sự hiện diện của các tuần dương hạm theo như báo cáo của phi cơ, tôi đã tự hỏi hiện tại chúng lảng vảng ở đâu. Tôi ra lệnh cho tất cả súng ống đều hướng về mạn phải và đưa ống nhòm lên, mở to mắt ra tìm kiếm mấy tuần dương hạm không có thực này. Cuối cùng, xuyên qua bóng đêm và sương mù, tôi thấy hai chấm đen nhỏ bé. Tôi vội cho ngay đó là các tuần dương hạm địch chứ không còn gì khác. Hai chấm đen này không tiến đến chúng tôi vì vậy tôi cho rằng tàu địch đang bỏ chạy. Thật ra, đây là hai chiếc khu trục hạm địch: Chiếc O'Bannon đã què quặt và chiếc Chevalier sắp chìm.

Nhằm kiểm soát kết quả của cuộc tấn công ngư lôi vừa qua của chúng tôi, tôi ra lệnh cho 2 khu trục hạm Shigure và Samidare quay sang phải. Sự quan sát hiện thời rất khó khăn, chúng tôi không thể nhìn thấy vật gì hết. Khoảng 10 phút tìm kiếm vô hiệu quả, tôi ra lệnh xoay 90 độ về phía tả và trực chỉ căn cứ.

Báo cáo sai lầm của trinh sát cơ tiếp tục truyền nhiễm nhóm chiến hạm của Ijuin. Chúng đã chạy toán loạn trong nhiều phút sau khi đồng đội Yugumo bị đánh chìm. Đến khi gặp hai chiếc Chevalier và O'Bannon, ba chiến hạm Nhật vẫn còn ngơ ngác và bối rối trước sự mất mát đồng đội một cách bất ngờ, nên đã nhìn thấy hai chiếc tàu chạy quờ quạng này thành ra 4 tuần dương hạm địch, và cho rằng chúng tiến đến để dọn dẹp chiến trường.

Vào lúc 21h19, ba khu trục hạm của Ijuin phóng một loạt 24 quả ngư lôi nhắm vào 4 đối thủ ảo tưởng của chúng. Xuyên qua đêm tối đầy sương mù, thủy thủ Nhật hân hoan ngắm nhìn ngọn lửa bốc cao trên hai chiếc O'Bannon và Chevalier, và báo cáo rằng các ngư lôi của họ đã đánh chìm hai tuần dương hạm (hoặc hai khu trục hạm lớn) của địch quân. Lại một sự ảo tưởng khác nữa.

Với "chiến quả" này, Ijuin ra lệnh cho các chiến hạm của ông xoay hướng Bắc để trở về căn cứ. Trong lúc đó, đoàn tàu chuyển vận của Nhật đã đến Horaniu mà không gặp bất kỳ một sự ngăn chặn nào của địch quân. Trong vòng 2 giờ, toàn thể 589 binh sĩ trú đóng trên hòn đảo đều được di tản.

Một nhóm khu trục hạm thứ hai của Hoa Kỳ gồm ba chiếc Ralph Talbot, Taylor và La Vellette, chạy từ hải phận New Georgia tiến vào khu vực xảy ra trận đánh ngay khi chiến hạm cuối cùng của Nhật Bản vừa rời khỏi. Không tìm thấy đối thủ, chiếc La Vellette xoay sang ban cho chiếc Chevalier một quả ngư lôi "ân huệ". Ba khu trục hạm địch tiếp cứu những người còn sống sót, và sau đó dìu dắt hai chiếc Selfridge và O'Bannon bị hư hại về căn cứ Tulagi.

Như vậy, trận đánh kết thúc, Hoa Kỳ bị đánh chìm một khu trục hạm và hai chiếc khác bị hư hại nặng nề. Nhật thiệt hại mất một khu trục hạm. So sánh về thương vong, Hoa Kỳ nhẹ hơn Nhật Bản, vì phần lớn thủy thủ đoàn của chiếc Chevalier được cứu thoát trong khi toàn thể thủy thủ đoàn của chiếc Yugumo đều thiệt mạng. (Nhưng lúc ấy chúng tôi không hay biết việc khoảng một phần ba thủy thủ đoàn của chiếc Yugumo được các khu trục hạm Hoa Kỳ tiếp cứu). Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả là mặc dù vấp nhiều sai lầm, nhiệm vụ hộ tống của Ijuin đã diễn tiến đúng như kế hoạch một cách tốt đẹp, và điều này cũng là sự chiến thắng của ông.

Theo ý kiến của tôi, Hoa Kỳ có thể chiến thắng trong trận đánh này nếu các khu trục hạm của Walker xoay về hướng Nam thay vì xoay về hướng Bắc. Ông sẽ có một ngày tròn để truy đuổi ba khu trục hạm mất tinh thần của Nhật Bản. Một cuộc truy đuổi như vậy không cần phải sử dụng ngư lôi mà chỉ cần sử dụng đại pháo có radar hướng dẫn là có thể tiêu diệt được các khu trục hạm đang trốn chạy của Ijuin. Nhưng ý kiến này chỉ có tính cách ước đoán, và các trận đánh trên biển luôn luôn đầy dẫy sự sai lầm, ảo tưởng và kinh ngạc.

Khi trở về Rabaul, tôi nhận thấy Ijuin xao xuyến và hổ thẹn. Ông không bị quở trách công khai, nhưng Bộ Tư Lệnh Tối Cao đã chứng tỏ sự lượng xét hành động của ông bằng cách tổ chức một buổi lễ trao tặng trường kiếm cho tôi và đoản kiếm cho Thiếu tá Kimio Yamagachi, hạm trưởng khu trục hạm Shigure, và Thiếu tá Yoshiro Sugihara, hạm trưởng khu trục hạm Samidare. Không một người nào thuộc nhóm chiến hạm của Ijuin được ân thưởng hoặc tuyên dương công trạng nào trong cuộc chiến thắng đầu tiên của Hải quân trong khoảng thời gian 3 tháng trở lại đây

Mừng chiến thắng ngày 6 tháng 10 của Hải quân được tổ chức vào ngày kế đó, qua một buổi lễ trao kiếm và một bữa tiệc. Bữa tiệc mở ra tại CLB dành cho sĩ quan cao cấp, với sự tham gia của tất cả sĩ quan hàng đầu của Hải quân ở Rabaul, trong đó có Phó Đô đốc Jinichi Kusaka - Tư Lệnh Hạm Đội Khu Vực Đông Nam kiêm Tư Lệnh Không Hạm Đội thứ 11, và Phó Đô đốc Tomoshige Samejima, Tư Lệnh Hạm Đội Thứ 8.

Khối lượng sake vĩ đại được tiêu thụ, buổi tiệc diễn ra thật vui vẻ với sự có mặt của một số nữ tiếp viên. Thường thường thì các nữ tiếp viên đều thuộc giới Gheisa, được Bộ Chỉ Huy Hải quân chỉ định đến các căn cứ tuyền tuyến quan trọng với nhiệm vụ gây phấn khởi cho tinh thần binh sĩ.

Mặc dù là khách danh dự của buổi tiệc, tâm tư tôi vẫn nặng trĩu, không cảm thấy vui vẻ như những người khác. Tôi muốn được say, nên đã uống liên tu bất tận.

Kusaka đọc một bài diễn văn ca ngợi khu trục hạm Shigure. Ông nói: "Hy vọng tồn tại của các khu trục hạm đóng tại Rabaul chỉ trung bình có 2 tháng. Nhưng có một chiếc tàu cũ kỹ đã chiến đấu dũng mãnh gần 3 tháng ròng rã mà không hề mang thương tích hay mất mát một thủy thủ nào. Hãy nâng ly để chúc mừng Đại tá Hara, Thiếu tá Yamagachi và tất cả thủy thủ đoàn của chiếc Shigure vĩ đại."

Tâm tư của tôi mỗi lúc càng nặng trĩu thêm. Đáng ra bữa tiệc này phải dành cho toàn thể 240 thủy thủ sáng chói của tôi hơn là dành riêng cho mấy sĩ quan chỉ huy của họ. Trong khi tôi đang suy nghĩ, buổi tiệc trở nên ồn ào náo nhiệt, và sau đó một sĩ quan tham mưu lên tiếng: "Kính thưa Đô đốc Kusaka, từ lâu tôi có nhiều vấn đề nhưng không bao giờ dám hỏi. Bây giờ, thưa Đô đốc, tôi có thể mạn phép nêu lên được không?

Bữa tiệc rơi vào yên lặng sau câu hỏi đột ngột này. Phó Đô đốc Kusaka gật đầu, và viên sĩ quan trẻ tiếp tục: "Thưa Đô đốc, Đô đốc vừa ghi nhận hy vọng tồn tại ngắn ngủi của một khu trục hạm. Có phải chúng tôi đã chấp nhận một số phận như thế? Tại sao tất cả các tàu lớn của chúng ta đều nằm lì ở Truk? Có phải buổi lễ mà chúng ta sẽ tổ chức vào ngày 26 tháng 10 tới đây là buổi lễ kỷ niệm trận đánh cuối cùng trong lịch sử có sự tham dự của các hàng không mẫu hạm Nhật hay không? Trong suốt năm qua, các khu trục hạm của chúng ta không những được giao phó các nhiệm vụ chuyển vận không mấy phấn khởi mà chúng còn nhận lĩnh tất cả các gánh nặng chiến đấu trong hải phận này. Xin Đô đốc tha thứ câu hỏi vụng về của tôi. Câu hỏi này không nhằm chỉ trích Đô đốc, nhưng mà tất cả chúng tôi đều biết rằng không chỉ Không Hạm Đội thứ 11 của Đô đốc đã nằm miết ở bờ biển từ khi cuộc chiến bắt đầu. Trong giai đoạn khủng hoảng này, tại sao các khu trục hạm phải gồng gánh tất cả các sức nặng mà không được các hàng không mẫu hạm, thiết giáp hạm và tuần dương hạm chia sẻ?"

Các câu hỏi dồn dập này thật là ngoài sức tưởng tượng, những đều là cảm nghĩ chung của hầu hết đám đông hiện diện trong phòng. Những lời có vẻ vô lễ của viên sĩ quan say rượu khiến cho một số bạn bè của anh ta lo âu. Phó Đô đốc Kusaka không nói tiếng nào. Phó Đô đốc Samejima phá vỡ bầu không khí căng thẳng: "Tôi biết Tổng Tư Lệnh Koga đang chuẩn bị một trận đánh hải quân quyết định, trong trận đánh này tất cả đại chiến hạm của chúng ta sẽ tham dự."

Viên sĩ quan trẻ tuổi không đắn đo, lớn tiếng hỏi: "Khi nào? Khi nào các đại chiến hạm sẽ hành động? Chúng đã đứng ngoài trận chiến một năm tròn nay, và một năm đó với các khu trục hạm chúng tôi lâu bằng một thế kỷ. Trong thời gian này địch quân đã đuổi kịp và vượt qua chúng tôi."

Một sĩ quan cố gắng ngăn cản không cho đồng bạn lên tiếng nữa, anh ta cho rằng đã quá muộn, nên đi về thì hơn. Nhưng viên sĩ quan đã ngà ngà say vẫn tiếp tục nói: "Và những gì mà Bộ Tư Lệnh Tối Cao đang làm ở Tokyo? Chỉ là những thông báo vang lên như tiếng kèn mỗi ngày, theo đó, Nhật Bản đã đánh cho địch quân phải kéo cờ trắng trên quần đảo Solomon. Nếu có kéo cờ trắng thì kẻ kéo đó là chúng ta, không phải địch quân."

Hai sĩ quan bạn phải đứng dậy lôi kéo viên sĩ quan trẻ ra khỏi phòng. Đôi mắt hắn ta đầy nước mắt và bật khóc nức nở. "Yugumo bị chìm, chiếc Yugumo khốn khổ đã mang theo nhiều bạn bè của tôi."

Đoạn bị kịch đã gây một ảnh hưởng kỳ dị trong tôi. Tôi cũng đã say, nhưng tôi cố giữ vững đôi chân trong buổi lễ lĩnh trường kiếm do Phó Đô đốc Samejima trao tặng. Tôi bước đến trước mặt ông và nói: "Kính thưa Đô đốc, tôi muốn trả lại thanh kiếm này, vì tôi xét thấy không xứng đánh nhận lãnh nó. Ngay cả tôi có xứng đáng đi nữa, tôi sẽ sử dụng một thanh kiếm vào việc gì trên chiến hạm?"

Quả bom của tôi đã gây kinh ngạc cho mọi người. Đại tá Miyazaki lộ hẳn sự xúc động, ông bước đến bên tôi và nói: "Anh đã mệt mỏi, Hara. Chúng ta nên đi về nghỉ ngơi."

Tôi vừa đẩy nhẹ ông ta sang một bên vừa nói: "Không, cám ơn Miyazaki." Và tiếp tục: "Tôi muốn đổi thanh kiếm này để lấy rượu sake cho thủy thủ đoàn tuyệt vời của tôi. Nếu có ân thưởng thì họ chính là những người xứng đáng được ân thưởng. Không phải tôi. Thưa Đô đốc, hãy mua rượu cho các thủy thủ của tôi."

Tới đây, Đề đốc Ijuin, chỉ huy trưởng trực tiếp của tôi, tiến đến bên cạnh tôi cố gắng khuyên lơn: "Anh hoàn toàn đúng, Hara. Tôi sẽ mua rượu cho thủy thủ của anh, nhưng hiện giờ tất cả chúng ta đều mệt mỏi, tốt hơn chúng ta nên chấm dứt buổi tiệc."

Sáng hôm sau thức dậy, tôi cảm thấy rã rời thân thể. Trung tá Yamagami với vẻ mặt dầu dầu, đã kể lại tỉ mỉ cho tôi nghe về quang cảnh hai vở bi kịch ngoạn mục do viên sĩ quan trẻ và tôi thủ diễn đêm rồi ra sao, Đề đốc Ijuin và Đại tá Miyazaki đã cố gắng bịt miệng tôi như thế nào. Hành vi như thế chưa bao giờ được nghe nói đến trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp thuộc Hải quân Hoàng Gia, và hậu quả sẽ không thể nào lường được. Tôi cảm thấy bất an.

Nhưng lạ lùng thay, hành vi vô hạnh kiểm của tôi không bị khiển trách. Sau đó, tên tuổi của tôi trở thành quen thuộc với họ. Hậu quả không xảy ra cho tôi, đã chứng tỏ thượng cấp của tôi cùng chia sẻ sự bất mãn chung đối với Bộ Tư Lệnh Tối Cao.

Bộ Tư Lệnh Hải quân ở Tokyo đã ra lệnh cho chúng tôi triệt thoái đến Bougainville, và xem nơi đây như là phòng tuyến cuối cùng. Việc này càng gây bi quan trong khu vực chiến đấu. Bougainville rộng gần gấp ba Guadalcanal. Với bờ biển quá dài và chưa được điều nghiên sâu rộng, hòn đảo này sẽ cung cấp nhiều điểm đổ bộ thuận lợi cho địch quân. Nhiều hộp thức ăn khô của Mỹ đã được tìm thấy trong rừng rậm cho biết có sự hoạt động của địch trên hòn đảo, và dĩ nhiên các điểm đổ bộ tốt nhất đã được họ chọn lựa.

Bộ Tự Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp ở Truk không làm được gì thêm cho chúng tôi. Các vị tân chỉ huy đầu não cũng không xuất sắc hơn những vị tiền nhiệm của họ. Đô đốc Mineichi Koga, nắm quyền Tổng Tư Lệnh sau cái chết của Yamamoto vào tháng 4 năm 1943, hầu như khoanh tay ngồi yên. Riêng Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, từ khi thay thế Nagumo trong chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm vào tháng 11 năm 1942, không hề đạt được một chiến thắng đáng kể nào. Và Phó Đô đốc Jisaburo Ozawa, Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội, mệt mỏi và bất thường, vừa được Phó Đô đốc Takeo Kurita thay thế vào tháng 8 năm 1943.

Ba vị tân tư lệnh này chịu khó và siêng năng làm việc, nhưng họ không thể nào tạo ra các phép lạ. Sự khiếm khuyết căn bản nằm ở Tokyo, trong Tổng Hành Dinh Hải quân Hoàng Gia, hiện vẫn còn được Đô đốc Osami Nagano điều khiển.

Kể từ khi Yamamoto thiệt mạng, nửa năm đã trôi qua, vậy mà các chính sách của ông vẫn còn được theo đuổi. Trong trận hải chiến ở biển Java vào tháng 2 năm 1942, tôi nhận thấy mặt trận đã dạy nhiều bài học hơn cả ngàn buổi thao luyện. Chẳng may, các vị Đô đốc Tư Lệnh đã không chia sẻ quan điểm này. Họ giữ sức mạnh chính yếu của Hải quân ở Rabaul hoặc, tồi tệ hơn nữa, ở các hải phận Nhật Bản, nhằm để "bảo tồn chiến hạm và huấn luyện thủy thủ". Kết quả, cả tàu và người đều chứng tỏ không thích hợp khi được tung ra mặt trận.

Bước tiến của đối phương không bao giờ ngừng nghỉ. Trở về trong chiến thắng, giống như chiến thắng của chúng tôi trong Vịnh Vella, hiếm khi xảy ra. Điều này cho thấy tình thế đã ngặt nghèo đến mức độ như thế nào. Vào ngày 12 tháng 10, một cuộc không tập ở Rabaul do 349 phi cơ xuất phát từ các căn cứ trên đất liền của đối phương thực hiện. Tuy nhiên, một cuộc không tập với cao độ quá cao không mấy chính xác và chỉ một chuyển vận hạm bị đánh chìm.**********

********: Đó là chuyển vận hạm Keisho Maru, 5.879 tấn, của Hải quân. Ngoài ra cuộc không tập này còn đánh chìm 3 chuyển vận hạm của Lục quân là Tsukinada -526 tấn, Kamoi Maru -513 tấn, Fuku Maru -132 tấn và tàu tuần tiễu Mishima Maru của Hải quân. Ba khu trục hạm, ba tiềm thủy đĩnh, một tàu chở dầu và một tàu kiểm soát bị hư hại.

Một cuộc không tập quy mô nhắm vào một căn cứ chính của Nhật Bản là một việc gây nhiều chú ý và xúc động với Tổng Hành Dinh Truk. Nhưng Đô đốc Koga vẫn còn lưỡng lự. Nếu đối phương có thể tung nhiều phi cơ đóng trên các căn cứ ở đất liền để tấn công Rabaul như vậy, hải vực quanh quần đảo Solomon sẽ bất lợi đối với lực lượng Nhật nếu xảy ra đụng độ.

Vào ngày 18 tháng 10, một loạt không tập quy mô khác xảy ra ở Rabaul và Buin, căn cứ không quân chính ở Bougainville. Cuối cùng, Koga ra lệnh cho 2 tuần dương hạm hạng nặng và một phân đội khu trục hạm tiến từ Truk đến Rabaul. Đây là hành động rập khuôn theo lối tăng viện nhỏ giọt của Yamamoto, sẽ gây cho Koga sự hối tiếc sau này.

Các cuộc không tập mạnh mẽ lại xảy Rabaul năm ngày sau đó, và tiếp tục hàng ngày cho đến khi Buin trở thành đống gạch vụn. Trong lúc đó, các đơn vị trên mặt biển đến Rabaul vào ngày 21 tháng 10. Trong số các khu trục hạm đến căn cứ này có chiếc Shiratsuyu, tức khu trục hạm tăng phái, bây giờ trở lại kết hợp với hải đội của tôi. Cuối cùng, tôi lấy làm phấn khởi được nắm trong tay 3 khu trục hạm, nghĩa là sáu tháng sau khi tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng hải đội. Trong thời gian này, có rất nhiều hải đội bao gồm không quá 3 chiếc tàu.

Shiratsuyu, 1.980 tấn, là một chiếc tàu đàn chị của Shigure và Samidare. Mặc dù được đóng từ 1933, chiếc tàu này có vẻ còn mới. Bị phi cơ địch oanh kích gây hư hại nặng nề gần Buna, New Guinea, vào tháng 11 năm 1942, chiếc Shiratsuyu được tu bổ lại ở Truk.

Mặc dù phấn khởi, tôi đã lo ngại cho chiếc tàu này, bởi vì hầu như tất cả thủy thủ đoàn còn thiếu kinh nghiệm, và tôi không tin sẽ giữ nó lâu dài trong hải đội của tôi.

Vào ngày 23 tháng 11, tôi mang cả 3 khu trục hạm của tôi tham dự vào một nhiệm vụ vận chuyển đến Iboki, cách phía Đông mũi Gloucester khoảng 50 dặm. Ngày đó, cuộc không tập đầu tiên, nằm trong một loạt không tập hàng ngày của địch quân, xảy ra ở Rabaul và Buin, nhưng các chiếc tàu của tôi cũng được phi cơ địch đón tiếp nồng hậu trong nhiều giờ trước bình minh. Ba chiếc tàu phải phân tán để chạy riêng rẽ, và khi ngày lên hẳn, phi cơ địch bỏ săn đuổi chúng tôi. Các chiến hạm đã tụ họp một cách có trật tự, và tôi hài lòng khi nhận thấy tất cả còn nguyên vẹn. Chiếc Shiratsuyu đã chứng tỏ có nhiều hứa hẹn hơn là tôi tưởng.

Sáu ngày sau đó, tôi thực hiện một chuyến chuyển vận đến đảo Gavore, nằm ở phía Bắc đảo Willaumez, với 2 chiếc Shigure Shiratsuyu. Vài phi cơ địch bay đến tấn công chúng tôi một cách qua loa. Tuy nhiên, Shiratsuyu đã thi hành nhiệm vụ khá đẹp, do đó, tôi xem như chiếc tàu này thuộc hẳn vào "tài sản của hải đội". Tôi đã sai lầm biết bao.

Trong khi đó, vào ngày 27 tháng 10, địch quân đã thực hiện một cuộc đổ bộ lên đảo Mono, một căn cứ nhỏ của Nhật cách phía Nam Bougainville 20 dặm. Ngày hôm sau, lực lượng nhảy dù của địch quân cũng được thả xuống Choiseul, và Đô đốc Koga nhận thấy thời gian quyết định đã đến, dù ông muốn hay không. Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hoàng Gia yêu cầu ông, bằng tất cả mọi giá, phải giữ Bougainville cho đến ngày 30 tháng 10.

Koga lập tức Rabaul lệnh cho 3 hàng không mẫu hạm của Đề đốc Ozawa, bao gồm 173 phi cơ, đến Rabaul. Đồng thời, ông ra lệnh cho Rabaul mở các cuộc phản công quanh Bougainville.

Nhưng thời khóa biểu điều binh của Hoa Kỳ không chờ đợi Koga. Khi lực lượng hùng hậu của địch quân đổ bộ lên mũi Torokina, nằm ở bờ biển phía Tây Bougainville thì 3 hàng không mẫu hạm Zuikaku, Shokaku và Zuiho vẫn còn cách phía Bắc Rabaul khá xa, Cuộc đổ bộ diễn ra vào lúc 7h sáng ngày một tháng 11, hiển nhiên là không gặp một sự đề kháng nào. Phó Đô đốc Kusaka tung tất cả phi cơ thuộc không hạm đội thứ 11 của ông đến Torokina. Nhưng 104 chiến đấu cơ và 16 oanh tạc cơ này không thể nào ngăm chặn được địch quân như cơn thủy triều dâng ngập hòn đảo. Ba hàng không mẫu hạm của Ozawa, ban đầu còn dè dặt, sau đó đã cho 173 phi cơ cất cánh khi còn cách phía Bắc 200 dặm.

Ở Truk, Đô đốc Konga muốn tránh các sai lầm của 15 tháng trước đây khi địch quân đổ bộ lên đảo Guadalcanal, qua việc Đề đốc Mikawa hướng dẫn 7 chiến hạm của ông đến một chiến thắng ngoạn mục, nhưng ông lại không tiếp tục rượt đuổi đoàn tàu chuyển vận của địch quân. Do đó, hiện tại Koga quyết định tung tất cả chiến hạm khả dụng đến Torokina và tiếp liền theo sau là một đoàn tàu chuyển vận lực lượng Nhật để mở một cuộc đổ phản công.

Koga chỉ định Đề đốc Sentaro Omori chỉ huy cuộc hành quân này. Omori vừa mới đến Rabaul với 2 tuần dương hạm 12.374 tấn Myoko và Haguro của ông. Mặc dù trước đây Omari chỉ ở Nhật hoặc ở Truk, nhưng lại được Konga hy vọng ông ta sẽ vượt qua chiến công Mikawa. Có nghĩa là ông ta không chỉ nhận chìm chiến hạm mà còn quét sạch tàu chuyển vận của địch quân.

Hai tuần dương hạm hạng nặng của Omori được yểm trợ bởi hai đơn vị bao che. Sườn trái của ông bao gồm tuần dương hạm hạng nhẹ 5.595 tấn của Ijuin và 3 khu trục hạm của tôi - đây là đơn vị duy nhất của lực lượng có kinh nghiệm trận mạc. Đơn vị bao che sườn bên phải, dưới quyền của Đề đốc Hiroshi Matsubara và Wakatsuki, cũng bao gồm một tuần dương hạm nhẹ và 3 khu trục hạm - không có chiếc nào trong 4 chiếc tàu này hoạt động chung với nhau trước đây, và Đề đốc Matsubara chưa từng biết đến dạ chiến là gì.

Trong một cuộc thuyết trình hành quân ngắn ngủi mở ra trên soái hạm Myoko, Đề đốc Omori đã nói: "Trước đây chúng ta chưa từng bao giờ hoạt động chung với nhau, điều đó có thể gây bất lợi trầm trọng trong chiến đấu. Nhưng Đề đốc Mikawa, đã xúc tiến nhiệm vụ thành công với các chiến hạm không hề có sự huấn luyện phối hợp trước đó của ông. Do đó, hiện tại chúng ta cũng có thể làm được như vậy. Tôi vững tin vào tài năng của mỗi sĩ quan chỉ huy và khả năng của mỗi thủy thủ dưới quyền. Tôi tin tưởng chúng ta sẽ chiến thắng.

Khi buổi thuyết trình chấm dứt, Ijuin vỗ vào vai tôi nói: "Hara, một công tác khó khăn đó nhe. Tôi sẽ tựa vào anh."

Tôi cười: "Vậy thì tôi phải chuẩn bị bơi và phải bơi như cá voi mới được." Nhưng tôi nhận thấy ngay là Ijuin không có vẻ gì là đùa cợt cả."

Ông tiếp, có vẻ buồn bã: "Tôi không thích chiếc tuần dương hạm Sendai. Nó già nua và chạy chậm như rùa."

Tôi biết ông muốn nói gì rồi, nhiều tháng nay ông không sử dụng tuần dương hạm 9 tuổi này, mặc dù nó là soái hạm của Phân đội 3 khu trục hạm do ông chỉ huy. Ông thích đặt soái kỳ trên khu trục hạm.

Ijuin thêm: "Nhưng chiếc Sendai còn nhỏ tuổi hơn chiếc Shigure của anh. Cuộc hành quân này tôi thấy bất an, tôi đặt hy vọng vào các chiến hạm vừa từ Truk đến, chúng sẽ thi hành nhiệm vụ tốt đẹp hơn. Mặc dù thủy thủ đoàn của các chiến hạm này thiếu kinh nghiệm, nhưng họ đều còn trẻ và chưa mệt mỏi như chúng ta."

Chúng tôi đi im lặng cho đến cầu thang của soái hạm Myoko, Ijuin bắt tay rồi nói: "Phiền muộn không tốt với chúng ta, Hara. Chúng ta phải chiến đấu và chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Nhật Bản sẽ sụp đổ nếu Bougainville thất thủ."

Trở về chiếc Shigure, tôi không thể nào xua đuổi sự phiền muộn. Tôi không hiểu tại sao Koga có thể chọn Omori chỉ huy một cuộc hành quân quan trọng như thế này. Ông ta mới vừa được huấn luyện chiến thuật ở trường ngư lôi và chưa bao giờ tham dự một trận hải chiến quan trọng nào.

Vào lúc 15h20 phút ngày một tháng 11, mười chiến hạm của chúng tôi rời khỏi Rabaul. Ngay khi ra khỏi hải cảng, chúng tôi lập tức di chuyển theo đội hình đã được vạch ra. Chiếc Sendai của Ijuin chạy dẫn đầu, tiếp theo là 3 khu trục hạm Shigure, Samidare, Shiratsuyu của tôi - trong đội hình hàng dọc chặt chẽ ở bên trái và hơi nhích về phía trước của 2 tuần dương hạm Myoko và Haguro. Ở bên phải của 2 tuần dương hạm là tuần dương hạm hạng nhẹ Agano của Matsubara và theo kế đó là 3 khu trục hạm Naganami, Hatsukaze và Wakatsuki. Đoàn chuyển vận binh sĩ gồm 5 chiếc, được 5 khu trục hạm hộ tống, chạy cách khoảng nhiều dặm ở phía sau.

Ban ngày trời lạnh lẽo, và mưa phùn u ám, tầm quan sát rất giới hạn. Ngoài cơn gió Đông Nam thổi lao xao, mặt đại dương hoàn toàn lặng yên. Lực lượng chúng tôi chưa qua khỏi eo biển St. George, truyền tin của chúng tôi chặn bắt được các công điện chuyển đi của địch quân quanh quẩn đâu đó. Chúng tôi không nhìn thấy gì hết, nhưng công điện này rõ ràng của các trinh sát cơ địch có trang bị radar đã phát hiện chúng tôi từ trong những đám mây dày đặc.********

*******: Đây là hai oanh tạc cơ có trang bị radar SB-24 thuộc Không đoàn 5 oanh tạc cơ Hoa Kỳ, bay cách phía Đông mũi St. George khoảng 15 dặm, đã thông báo từng giây từng phút hướng tiến về Vịnh Empress Augusta của các chiến hạm Nhật cho hai Đề đốc Halsey và Macrill.

Vào lúc 19h45, một trong hai oanh tạc cơ SB-24 thoát ra khỏi đám mây, chúi xuống chiếc Sendai và thả nhiều quả bom, nhưng không quả nào trúng đích. Cũng vào thời gian này, các trinh sát cơ của Nhật báo cáo tình hình của đối phương phía Nam: "Ba thiết giáp hạm, nhiều tuần dương hạm và khu trục hạm đang ở Vịnh Empress Augusta, gần Torokina." Lực lượng địch này mạnh mẽ hơn tiên đoán của chúng tôi, và dường như họ đã chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp chúng tôi.

Omori hội ý với Tổng Hành Dinh Rabaul, và lúc 21h30, Đô đốc Kusaka ra lệnh cho đoàn tàu chuyển vận thối lui. Ông kết luận rằng một cuộc đổ bộ phản công trực diện với một lực lượng địch mạnh mẽ như vậy khó thể thực hiện. Nhưng ông vẫn ra lệnh cho các chiến hạm của Omori tiếp tục tiến về phía trước để hạ các chiến hạm của địch quân.

Mười chiến hạm Nhật chia ra làm 3 nhóm tiếp tục lướt xuyên qua mây mù dày đặc với khoảng cách quan sát không đầy 5.00m. Các tàu của tôi nằm trong nhóm chạy gần quần đảo Bougainville nhất, nhưng không phân biệt được gì dọc theo bờ biển đen thẫm. Tôi nghĩ tình trạng này không khác với tình trạng ở Vịnh Vella vào ngày 6 tháng 8. Tốc lực của chúng tôi vẫn giữ nguyên 18 hải lý. Tôi vẫn lo lắng khi nhìn quang cảnh gần như đui mù ở phía trái chúng tôi. Các chiến hạm địch đều được trang bị radar, nhìn ban đêm cũng như ban ngày, nên có thể tấn công chúng tôi dễ dàng.

Vào lúc 23h24 , một chiếc SB-24 khác lộ diện khỏi bóng tối, nhào xuống oanh tạc tuần dương hạm Haguro, nhưng không trúng trái nào. Kẻ thù luôn luôn bám sát biết rõ vị trí cũng như hướng tiến của chúng tôi. Khi cuộc oanh tạc chấm dứt, Haguro tung lên một trinh sát cơ, và 14 phút sau đó phi cơ báo về: "Phát hiện một tuần dương hạm và 3 khu trục hạm địch cách mũi Mutupina 50 dặm, hướng 330 độ."

Vị trí này chỉ cách phía Nam đoàn tàu của chúng tôi 20 dặm. Omori chỉ thị trinh sát cơ tiếp tục tìm kiếm thêm sự hiện diện của các tàu địch khác, và ra lệnh cho tất cả chiến hạm của ông đồng loạt xoay hướng từ từ để chờ đợi một báo cáo mới của trinh sát cơ. Mười chiến hạm Nhật, với đội hình chặt chẽ, xoay 180 độ, lướt tới trước khoảng 10.000m, và xoay một lần nữa để nhắm hướng chuẩn bị tiến về phía Nam. Cách điều động này, nhằm để chờ đợi báo cáo của trinh sát cơ, rất hữu hiệu vào năm 1942, nhưng từ năm 1943, nó tỏ ra vô hiệu trước một địch quân được các dụng cụ radar thông báo liên tục và chính xác động tĩnh của chúng tôi.

Trong suốt vòng quay tròn này, chúng tôi nôn nóng chờ đợi các báo cáo khác của trinh sát cơ, nhưng vô ích. Chúng tôi không bao giờ tưởng tượng lực lượng của Đề đốc Hoa Kỳ Merrill, gồm 4 tuần dương hạm và 8 khu trục hạm, được phi cơ thông báo đầy đủ diễn tiến hoạt động của chúng tôi, đang cấp tốc lướt về phía Nam để chặn đánh chúng tôi.

Hai mươi lăm phút sau nửa đêm, khi chúng tôi chuẩn bị hướng tiến sau vòng xoay thứ hai, tôi nhìn thấy một trái chiếu sáng màu đỏ lập lòe trên nền trời ở 70 độ mạn trái, phù hợp với hướng vị trí địch quân do trinh sát cơ của chiếc Haguro báo cáo. Trái chiếu sáng nhìn thấy lờ mờ, chứng tỏ khoảng cách xa ít nhất 20.000m, và biến mất sau 2 hoặc 3 giây. Tôi mãi lo nhìn mục tiêu xa này mà không biết có những thay đổi gần. Đây là một lỗi lầm của tôi.

Nếu tôi nhìn gần hơn trong thời gian này, tôi sẽ nhận thấy đội hình của các chiến hạm Nhật đang rối loạn và ép sát vào nhau một cách nguy hiểm. Đó là hậu quả mấy lần xoay hướng phức tạp mà chúng tôi thực hiện. Chiếc Samidare chạy ra khỏi đội hình về mạn phải và 3 chiếc tàu khác chạy sát vào nhau trong vòng 300m thay vì 500m bắt buộc.

Tôi đoan quyết trái chiếu sáng là do một trong những trinh sát cơ của chúng tôi thả xuống để đánh dấu vị trí của địch quân. Tôi gửi ngay một công điện khẩn cấp cho tất cả các chiến hạm Nhật. "Phát hiện địch quân 70 độ mạn trái., và ra lệnh chuẩn bị để chuyển cấp tốc một chỉ thị thứ hai cho các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi.

Không có một ai trong lực lượng chúng tôi tưởng tượng rằng lực lượng chính của đối phương đang từ phía Nam tiến tới và nhắm thẳng vào mặt trước của chúng tôi. Khi quan sát viên của tôi la to: "Bốn chiến hạm địch, 70 độ mạn trái", tôi ra lệnh chuyển ngay chỉ thị thứ hai của tôi. Lúc đó là 0h45 ngày 2 tháng 11.

Tôi đoán 4 chiến hạm địch, từ vị trí của trái chiếu sáng hồi nãy, vẫn tiếp tục thẳng tiến. Tuy nhiên, 4 trong số 8 khu trục hạm thuộc lực lượng này đã xoay hướng để tiến từ Nam đến Bắc. Chúng tôi chỉ phát hiện 4 chiến hạm này sau khi chúng đã xoay xong hướng nhắm để phóng ngư lôi.

Thám sát viên của tôi báo cáo: "Lực lượng địch chia thành hai nhóm. Một nhóm chạy lảng ra xa, một nhóm chạy song song với hướng tiến của chúng ta. Đó là các khu trục hạm, khoảng cách 7.000m." Tôi rùng mình, vì hiểu rằng tàu địch đang phóng ngư lôi. Tầm quan sát hiện thời nằm trong tay đối phương với radar của họ.

Tôi ra hai lệnh liên tục: "Phóng ngư lôi! Bẻ hẳn tay lái về bên phải."

Lệnh được lập tức thi hành. Chiếc Shigure xoay về bên phải đồng lúc với 8 quả ngư lôi xé nước lướt đến các mục tiêu trong vòng hai giây. Tôi bình tĩnh lại, chắc chắn đã tránh thoát tất cả các ngư lôi do tàu địch phóng ra. Nhìn theo hướng tiến của mấy quả ngư lôi do Shigure phóng ra, thân thể tôi lạnh toát khi nhận thấy chiếc Sendai đang hướng thẳng mũi vào chiếc tàu của tôi. Cùng lúc với chiếc Shigure, chiếc tuần dương hạm này cũng xoay sang phải, nhưng xoay thật mạnh và gấp rút vượt hẳn quy tắc, đoạn tiến sát vào chiếc Shigure đến nỗi làm tôi xanh cả mặt mày vì sợ hãi. Chiếc tuần dương hạm khổng lồ này, lớn gấp 3 lần chiếc Shigure, đâm thẳng mũi vào mạn trái chúng tôi.

Tôi hét: "Bẻ lái về bên phải! Xả hết tốc độ!"

Mồ hôi lạnh chảy dài xuống, và hơi thở của tôi như một người sắp chết đuối khi thân xác nặng nề của chiếc Sendai lướt ngang qua phía sau lái của chiếc Shigure, chỉ trong đường tơ kẽ tóc.

Giây phút hiểm nghèo đã trôi qua, tôi lo lắng hướng mắt về chiếc Samidare, mặt tôi xanh xám một lần nữa. Chiếc khu trục hạm này đã xoay hẳn về phía phải, chắn ngang hướng tiến điên cuồng của chiếc Sendai, và chạm vào cạnh của chiếc Shiratsuyu đang chạy cùng hàng. Vỏ mạn trái và sàn tàu của chiếc Shiratsuyu vỡ vụn ra từng mảnh, tất cả pháo khẩu và ống phóng ngư lôi hầu như bị nghiền nát.

Chiếc Shiratsuyu mới gia nhập chưa hề mang một lợi ích nào cho hải đội của tôi mà đã hư hại rồi. Nhưng điều gây xúc động cho tôi nhất là việc đổi hướng thình lình của chiếc Sendai mà không đưa ra một dấu hiệu nào để lưu ý các chiến hạm chạy theo sau. Bối rối vì chiếc tàu dở chứng. Ijuin ra lệnh cho tàu trở ngược tay lái ngay sau khi vừa thoát khỏi va chạm với chiếc Shigure trong gang tấc. Chiếc tàu đảo sang trái và chạy tụt về phía sau.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng hơi thở lại bế tắc ngay khi tôi nghe thấy tiếng của một loạt đại pháo bay đến, và cho dù chạy quờ quạng, chiếc Sendai đã lãnh trọn một trái ngay giữa tàu. Tôi chưa từng chứng kiến cảnh pháo kích nào đạt đến mức chính xác một cách ngoạn mục như vậy.

Chiếc Sendai tiếp tục hứng loạt pháo kích thứ hai và thứ ba, với mức chính xác kỳ dị không thua gì loạt đầu, và bùng cháy như một bó đuốc khổng lồ. Mạch sống của chiếc tàu đã ngừng đập, nhưng vẫn gom hết sức tàn phóng một loạt 8 quả ngư lôi nhắm đại khái vào kẻ tử thù.

Cột khói khổng lồ của chiếc Sendai, lan rộng 500m, ngăn hẳn tầm mắt khiến tôi không thể nhìn thấy nới xuất phát các quả đạn của đối phương. Nhưng chiếc Samidare, chạy ngoài vòng 500m, có thể định vị trí của các chiến hạm địch. Hạm trưởng đầy kinh nghiệm của chiếc Samidare là Thiếu tá Yoshiro Sugihara đã phóng một lượt 16 quả ngư lôi vào lúc 0h52.

Bốn tuần dương hạm Hoa Kỳ không nhìn thấy trước đó, bây giờ xuất hiện cách chúng tôi khoảng 15.000m. Vào lúc 0h51, tất cả các chiếc tàu này đảo mạnh về bên phải, tránh thoát 16 quả ngư lôi của Samidare. Tuy nhiên, khu trục hạm Foote, chạy cuối cùng trong nhóm khu trục hạm thứ hai của Hoa Kỳ, hơi chậm chân nên lĩnh một quả ngư lôi vào lúc 1h08. Chiếc tàu bị loại khỏi vòng chiến nhưng không chìm

Nhưng chiến công này không lấy gì làm chắc, sự vui mừng trên các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi không trọn vẹn, trong lúc đó, sự hỗn loạn và kinh hoàng đã xảy ra trong hai nhóm chiến hạm khác của chúng tôi.

Thời gian tôi báo cáo phát hiện địch quân, lúc 0h45, Đề đốc Omori lại không nhìn thấy gì cả. Năm phút sau đó, ông mới thấy chiếc Sendai bao trùm trong lửa đỏ và ông đồ chừng chiếc tàu đang cháy này ở ngay phía trước, cách ít ra là 1000m và cùng một hướng tiến với soái hạm Myoko của ông. Nhưng thật ra chiếc tàu này nằm ở ngay phía trái của ông.

Sau đó, Omori đã phải sửng sốt khi nhận ra sự sai lầm này. Phản ứng của ông - ảnh hưởng bởi tư tưởng bảo thủ đang thịnh hành trong giới chỉ huy - thay vì điều chỉnh các chiến hạm của ông cho đúng lại với đội hình nguyên thủy, ông vội vã ra lệnh quay đầu.

Qua hành động này, Omori đã bị chỉ trích mạnh mẽ sau đó, nhưng ông không bao giờ đưa ra một lý luận nào để biện minh. Quay đầu là một việc có thể làm được với điều kiện là tất cả các chiến hạm đều phải đáp ứng nhịp nhàng. Nhưng hai nhóm trong số các nhóm tàu của Omori lại do các sĩ quan thiếu kinh nghiệm hoạt động ban đêm, và kết quả đã đưa đến sự rối loạn. Nhóm tàu thứ ba của Đề đốc Matsubara còn tạo ra một sai lầm khác.

Mặc dù thiếu kinh nghiệm chiến đấu, Matsubara nổi tiếng là một tay hăng hái và bướng bỉnh. Khi nghe báo cáo phát hiện địch quân của tôi, ông ra lệnh cho nhóm tàu của ông xả hết tốc độ đổ xô về hướng mà tôi đã báo cáo. Nhưng chạy liên tục như vậy trong 10 phút, ông vẫn không tìm thấy địch quân ở đâu. Cuối cùng, khi nhìn thấy hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro xoay hướng, ông đâm ra bối rối, vội vã ra lệnh cho các chiến hạm của ông xoay theo một cách vụng về, phạm phải điều cấm kỵ nhất khi di chuyển vào ban đêm. Sau khi xoay hướng, tuần dương hạm Agano, soái hạm của Matsubara, và 4 khu trục hạm nối đuôi nhau chạy về phía Bắc, Matsubara không lưu ý đến việc các chiến hạm của ông lúc này chạy xiên ngang qua hướng tiến của hai chiếc Myoko và Haguro ở một góc thẳng. Kết quả, tuần dương hạm Myoko lướt ngang phía trước khu trục hạm Hatsukaze, chiếc tàu chạy hàng thứ ba trong đội hình hàng dọc của Matsubara, và chạm nhẹ vào mũi chiếc khu trục hạm 2.500 tấn này. Hai chiến hạm chạy theo sau Myoko và Hatsukaze là tuần dương hạm Haguro và khu trục hạm Wakatsuki, vội vã né tránh nhưng lại đụng nhau dữ dội gấp mấy lần hai đồng đội phía trước.

Cực kỳ bối rối, Matsubara cho tàu của ông quay lại chiếc khu trục hạm hư hại nặng của ông. Chỉ cần xem sơ qua, ông hiểu ngày là không thể làm gì kịp cho chiếc tàu này trong lúc địch quân đã đuổi theo đến nơi, một lần nữa, ông quay tàu để chạy song song với 2 tuần dương hạm hạng nặng.

Vào lúc 1h15, đạn đại pháo Hoa Kỳ bắt đầu rơi dọc theo cả mạn trái và phải của hai chiếc Myoko và Haguro. Các khẩu đại pháo của hai tuần dương hạm này đều khai hỏa khái quát vào những mục tiêu không nhìn thấy và phóng một loạt 24 quả ngư lôi vài phút sau đó. Dĩ nhiên, tất cả đều hoang phí một cách vô ích.

Radar của địch quân đã đè bẹp ưu thế hoạt động đêm của Nhật Bản trước đây.

Trong lúc Omori và Matsubara đang trải qua những giờ phút vất vả này, tôi cũng lâm vào tình cảnh khó khăn không kém gì họ. Tuần dương hạm Sendai bốc cháy và đang giãy chết đã cầm chân chúng tôi. Pháo của địch vẫn tiếp tục dập chiếc tàu này không ngừng nghỉ. Khiến chúng tôi muốn sáp lại để giải cứu thủy thủ đoàn nhưng không thể nào làm được. Hai chiếc Samidare và Shiratsuyu hư hại đã rút lui theo lệnh của Omori. Các khu trục hạm Hoa Kỳ đã chứng tỏ tài năng của chúng. Ba chiến hạm Nhật bị loại ra khỏi vòng chiến chỉ trong một cú đấm.

Quan sát viên trên đài chỉ huy của tôi ghi nhận tín hiệu đèn nhấp nháy những lời kêu cứu lặp đi lặp lại đầy thảm não của chiếc Sendai: "Shigure, hãy tiến lại tôi... Shigure, hãy tiến lại tôi... Shigure, hãy tiến lại tôi..."

Tàu của tôi vẫn còn cách mạn phải của chiếc Sendai 500m. Không có quả đạn nào của địch rơi gần chúng tôi, mà chỉ liên tục nhằm thẳng vào nạn nhân đang hấp hối. Người bạn tốt nhất của tôi, Ijuin, đang cần sự giúp đỡ, nhưng chiếc Shigure khó mà trở về khi lọt vào hỏa ngục đó. Tôi đứng chết lặng trên đài chỉ huy. Bóng dáng 43 thủy thủ của chiếc Amatsukaze thiệt mạng dưới hỏa lực tập trung của tuần dương hạm Helena, do một lỗi lầm của tôi vào năm trước, như hiện ra trước mắt. Tôi đã thề với linh hồn của những người này là tôi sẽ không bao giờ phạm phải lỗi lầm như vậy nữa.

Hạm trưởng của Shigure hết kiên nhẫn rồi nên la to: "Tiến đến, Đại tá Hara! Tiến đến Sendai! Chỉ huy trưởng Phân đội đã ra lệnh cho chúng ta."

Giọng nói khẩn khoản của Thiếu tá Yamagami đã gây ảnh hưởng nơi tôi, trái ngược hẳn những gì mà anh ta hy vọng. Dẹp hẳn sự lưỡng lự sang một bên, tôi đáp: "Không, Yamagami, tôi quyết định không tiến đến. Nếu chúng ta tiến đến chiếc Sendai, hỏa lực của địch quân sẽ ghìm chúng ta như nó. Chúng ta có thể giải cứu một vài thủy thủ, nhưng tất cả thủy thủ đoàn của Shigure sẽ bị tiêu diệt."

"Nhưng chúng ta có lệnh của Đề đốc là phải tiến đến." Yamagami lớn tiếng một cách nóng nảy.

Tôi phẫn nộ: "Lệnh? Anh đúng! Tôi đồng ý hoàn toàn! Lệnh sơ khởi ban cho chúng ta là đánh địch quân. Công việc tiếp cứu trên mặt biển luôn đứng hàng thứ yếu. Hãy đi cho rồi!"

"Nhưng các bạn của chúng ta đang yêu cầu giúp đỡ." Yamagami van nài: "Họ đang chết trước mắt chúng ta."

Câu nói này càng gây thêm sự tức giận nơi tôi, tôi hét to : "Im ngay! Đây không phải là nơi để nói chuyện tình cảm và tranh luận. Tôi có trách nhiệm với chiếc tàu này. Đừng có lấn quyền!"

Yamagami nín lặng. Tôi ra lệnh: "Xoay sang trái! Xả hết tốc lực chạy về phía trước. Chúng ta tấn công!"

Máy của chiếc Shigure rồ mạnh và cấp tốc vọt lên tốc độ tối đa 30 hải lý. Với hành động này, tôi muốn kết hợp với bất kỳ chiến hạm Nhật nào vẫn còn khả năng chiến đấu để sau đó quay lại phản công đối phương. Nhưng tôi không gặp Omori mà cũng không gặp Matsubara, và họ cũng không báo cho tôi biết hoạt động của họ như thế nào. Tôi xoay sang tìm kiếm các mục tiêu, bằng cách theo dấu hỏa lực của địch quân, nhưng tôi đã phí công vô ích. Súng của đối phương đã im tiếng hẳn. Sau đó, của Shigure chạy về hướng Nam, và đến 1h34, chúng tôi nhận được lệnh rút lui để trở về Rabaul của Omori.

Omori quyết định chấm dứt cuộc hành quân, bởi vì ông tin rằng chúng tôi đã đối đầu với hai lực lượng địch, bao gồm 7 tuần dương hạm và 9 khu trục hạm, và hai lực lượng này đang tiến về phía Nam, cùng một hướng tiến với ông. Sự xét đoán sai lầm này phát xuất từ báo cáo sơ khởi về lực lượng địch và báo cáo sai lầm của các trinh sát cơ.

Hai tuần dương hạm hạng nặng đã chiến đấu với một ảo ảnh chỉ hiện hữu trong tâm trí của các vị chỉ huy trên hai chiếc tàu này. Sự thật, chỉ có 4 tuần dương hạm Hoa Kỳ đang chạy về hướng Nam, bỗng quay đầu để chạy về hướng Bắc vào lúc 1h01 và sau đó đã pháo kích vào 2 tuần dương hạm Myoko và Haguro. Hai tuần dương hạm Nhật cũng bắn trả và phóng ngư lôi. Trận đụng độ này đưa đến kết quả ảo tưởng là Omori đã đánh chìm cấp kỳ một tuần dương hạm và gây hư hại cho 2 khu trục hạm địch. Omori không ý thức rằng hai chiếc tàu của ông đã chạy quờ quạng như 2 kẻ đui mù, chỉ phí đạn và nhiên liệu mà thôi.

Tim tôi trĩu nặng khi chiếc Shigure nối đuôi một cách mệt nhọc theo sau 5 chiến hạm có vận tốc nhanh phía trước. Dõi mắt về hướng mà chúng tôi nhìn thấy soái hạm Sendai lần cuối cùng, lòng tôi cảm thấy quặn thắt. Cùng lúc, tôi nghĩ đến hai chiếc Samidare và Shiratsuyu, cả hai đã bị loại ra khỏi vòng chiến do sự va chạm với chiếc Sendai, tôi độ chừng một số chiến hạm địch thế nào cũng truy đuổi ráo riết hai chiến hạm què quặt này, nên sự sống sót của chúng chỉ hy vọng vào sự may mắn. Trong sự yên lặng trên đài chỉ huy của chiếc Shigure, những người hiện diện đã chia sẻ ý nghĩ tang tóc của tôi.

Trên hải trình xuôi về phía Bắc, tôi nhớ lại chuyến trở về từ Guadalcanal đầy âu sầu của Đề đốc Abe trước đây. Các chiến thuật mà Abe đã áp dụng trong trận đánh Guadalcanal đã bị chỉ trích mạnh mẽ chưa bao giờ thấy vào thời gian đó. Và bây giờ, hơn một năm sau, Omori đã lặp lại những sai lầm của Abe. Cả hai vị Đề đốc cũng điều binh theo đội hình phức tạp và bám riết lấy đội hình này, cho đến nỗi phải rước lấy thảm bại trước chiến thuật nghi binh của đối phương. Nhưng Đề đốc Abe còn có cái may là đối thủ của ông cũng mắc phải nhiều sai lầm không kém gì ông. Trái lại, đối thủ của Omori hành động một cách hoàn hảo.

Trong trận đánh Guadalcanal, tôi đã mang khu trục hạm Amatsukaze trở về cùng với xác 43 thủy thủ và chiếc tàu bị hư hại nặng. Bây giờ, trong trận đánh Empress Augusta, chiếc Shigure còn nguyên vẹn và thủy thủ đoàn không một ai thương vong. Do đó, tôi như được an ủi một phần nào, vì nghĩ rằng ít ra tôi đã không lặp lại những sai lầm cũ. Điều này nhắc tôi nhớ lại chiếc Samidare cũng đã sống sót trong chuyến đi một năm trước đây của Abe, tôi hơi khuây khỏa khi nghĩ chiếc tàu đầy kinh nghiệm chiến đấu đang mất tích này sẽ tồn tại để trở về với hải đội. Trái lại, đối với chiếc Shiratsuyu, tôi xem nó như đã bị xóa tên rồi. Nếu không xảy ra sự va chạm, ba khu trục hạm của tôi có thể gây nhiều bối rối cho địch quân, giống như tôi đã làm ở Guadalcanal trong chuyến đi với Abe. Bốn khu trục hạm địch chúng tôi chạm mặt lần này tỏ ra còn vụng về hơn 4 khu trục hạm địch mà chúng tôi đối đầu ở vịnh Vella vào ngày 6 tháng 8 năm 1943.

Trong trận vừa rồi, mặc dù địch quân nắm ưu thế, tất cả ngư lôi do họ phóng ra đều sai đích rất xa, cho đến nỗi chúng to lớn như vậy mà không một ai trong chúng tôi nhìn thấy bóng dáng quả nào lướt qua.

Nhìn lại, tôi cũng công nhận phần lợi thế trong trận đánh này nằm ở phía Hoa Kỳ, riêng phía Nhật Bản không mấy hy vọng đạt được chiến thắng, nhưng tôi cũng công nhận đáng lẽ ra chúng tôi có thể làm tốt hơn những gì mà chúng tôi đã làm.

Ijuin phải chịu trách nhiệm về việc đã để cho nhóm chiến hạm của ông rối loạn hàng ngũ. Ông là một người đã mệt mỏi, kiệt sức và chán nản. Và qua sự mất mát của khu trục hạm Yugumo một tháng trước đây, ông không còn mảy may tin tưởng vào khả năng của ông nữa. Một người thuộc giai cấp quý tộc khi gặp nghịch cảnh thường sụp đổ tinh thần một cách mau lẹ như vậy.

Nhưng Đề đốc Omori là người phải gánh chịu phần trách nhiệm lớn hơn. Qua lệnh xoay hướng về phía sau của Omori, tức là đưa lưng về phía địch quân, chẳng khác nào ông ta trói tay Ijuin, giới hạn một cách nghiêm trọng các hành động đang diễn tiến.

Về phía Hoa Kỳ, hình như họ đã chiến đấu một cách không mấy hăng hái trong trận đánh này. Nếu họ không chấm dứt hành động ngay sau khi hai chiến hạm Nhật bị què quặt do sự đụng chạm gây ra, họ có thể đánh chìm thêm nhiều chiếc tàu của chúng tôi hơn nữa. Tôi không hiểu tại sao màn pháo kích tiêu diệt của họ nhắm vào chiếc Sendai không được họ lặp lại với các chiến hạm khác đang nằm trong tình trạng bối rối như thế? Trong nhiều năm sau trận đánh, câu hỏi này vẫn lảng vảng trong tâm trí tôi.

Máy móc của chiếc Shigure trở nên yếu kém, có thể đây là hậu quả của một giờ chạy hết tốc lực trong trận đánh vừa qua. Hiện thời tốc độ của chiếc tàu giảm còn 18 hải lý. Nhưng điều này không làm tôi mảy may bận tâm. Tôi đang bực bội vì lệnh bỏ dở trận đánh giữa chừng, với tốc độ chậm chạp này, tôi hy vọng một số chiến hạm địch sẽ đuổi kịp chúng tôi, chừng ấy chiếc Shigure sẽ quay lại quần thảo với họ một chập nữa. Dù vậy, tôi cũng gọi vô tuyến báo cáo cho Đề đốc Omori biết tình trạng của chúng tôi và yêu cầu thêm là ông hãy sắp xếp công việc giải cứu những người còn sống sót của chiếc Sendai.

Omori đáp ngay: "Chúng tôi đang chạy với tốc độ 12 hải lý, do đó tàu của anh có thể bắt kịp. Tôi đã yêu cầu Rabaul phái một tàu ngầm đến vớt các thủy thủ của hai chiếc Sendai và Hatsukaze." Lần đầu tiên, qua câu đáp của Omori, tôi mới mỉm cười được sau nhiều giờ căng thẳng. Xem ra Omori cũng là một mẫu người thận trọng.

Sau đó, chiếc Shigure bắt kịp chiếc Myoko. Với tốc độ giảm xuống, máy móc của Shigure có vẻ chạy êm thắm.

Vào lúc 20h ngày 2 tháng 2, chúng tôi tiến vào cảng Rabaul. Tôi yên lòng khi nhìn thấy hai khu trục hạm khác của tôi đang buông neo trong hải cảng Simpson (tức hải cảng của Rabaul). Chiếc Shiratsuyu hư hại không bao nhiêu, nhưng chiếc Samidare được xem là tồi tệ.

Ngay khi nhìn thấy Shigure, Samidare đã dùng đèn hiệu báo cáo các hoạt động của mình. Vào lúc 1h45 phút, chiếc tàu này bắt đầu đụng độ với các khu trục hạm của đối phương trong một trận chiến lưu động. Kéo dài một giờ đồng hồ. Kết quả, 5 thủy thủ của Samidare thiệt mạng và 5 bị thương do hai quả đạn pháo trực xạ gây ra. Hai quả đạn này cũng gây hư hại cho guồng lái của con tàu. Sau đó, Samidare phải sử dụng sức người để bẻ lái trở về Rabaul. Viên hạm trưởng kết luận: "Chúng tôi đã bắn trả và phóng 6 ngư lôi vào đối phương, và chúng tôi tin tưởng đã phục thù được những cú đấm mà chúng tôi đã nhận."

Qua báo cáo, hạm trưởng của chiếc Shiratsuyu có vẻ hối tiếc vì đã để cho chiếc tàu va chạm, và câu sau cùng đã làm cho những người hiện diện trên chiếc Shigure cười ồ: "Chúng tôi tháo lui dễ dàng. Máy móc của chiếc tàu tỏ ra còn tốt, không một quả đạn nào của địch quân bắt kịp chúng tôi."

Một công điện từ soái hạm Myoko gửi đến đã gây buồn vui lẫn lộn: "Tàu ngầm I-104 cho biết đã tiếp cứu được Đề đốc Ijuin và 37 thủy thủ khác của tuần dương hạm Sendai, nhưng tất cả thủy thủ đoàn của chiếc khu trục hạm Hatsukaze không được tìm thấy."

Sáng sớm hôm sau, hạm trưởng của Shigure đề nghị chúng tôi lên soái hạm Myoko để phúc trình đầy đủ chi tiết trận đánh cho Đề đốc Omori. Tôi nói: "Việc này chúng ta có thể làm sau, Yamagami. Rời tàu ngay bây giờ không ổn đâu, bởi vì Rabaul không còn là nơi an toàn nữa. Hôm nay đối phương có thể tung ra một cuộc không kích quy mô, chúng ta phải ở lại tàu để chào đón phi cơ họ. Hãy chuẩn bị đầy đủ cho chiếc Shigure đối phó với của tấn công mạnh mẽ từ trên không."

Trong tuần lễ vừa qua,phi cơ Hoa Kỳ đã tấn công Rabaul bốn lần. Sáng ngày 3 tháng 11, nhìn thấy thời tiết quang đãng, tôi có linh cảm là các phi cơ địch sẽ ào đến. Với ý nghĩ này, tôi cũng đã chỉ thị cho 2 khu trục hạm Samidare và Shiratsuyu chuẩn bị chiến đấu với tất cả năng lực có thể.

Toàn thể thủy thủ đoàn trên ba chiếc tàu của tôi hăng hái thi hành mệnh lệnh một cách hoàn bị. Phi cơ địch đến như thác lũ từ phía Bắc, bay ở một cao độ không quá 50m tính từ mặt biển. Các cuộc không tập Rabaul trước đây đều được phi cơ địch thực hiện với cùng một cao độ và cùng một chiến thuật, nhưng hôm nay chiến thuật này có sự thay đổi. Trận chiến đang diễn tiến có lẽ là trận chiến ngoạn mục nhất đời tôi.

Shigure là chiến hạm Nhật đầu tiên nhảy vào vòng chiến, kế đó Samidare và Shiratsuyu. Mọi loại súng ống của chúng tôi đều chĩa lên trời, và khi làn sóng phi cơ đầu tiên ùa đến, các pháo thủ đã hoạt động chẳng khác nào những kẻ điên khùng. Họ bắn không ngừng nghỉ, hình những để giải tỏa nỗi uẩn ức sau chuyến trở về đầy thất vọng từ Vịnh Empress Augusta. Ngày hôm đó, có tất cả 80 oanh tạc cơ B-25 và 80 chiến đấu cơ P-38 tấn công Rabaul, và hầu hết đều bu quanh trên các tháp của 3 khu trục hạm do tôi chỉ huy. Ba chiến hạm nhỏ đã thoát chạy kịp thời ra ngoài vòng của hải cảng. Đó là việc mà các phi công Hoa Kỳ không thể nào tiên đoán được.

Ho đuổi theo ngăn chặn chúng tôi, nhưng hiển nhiên các oanh tạc cơ Hoa Kỳ không sẵn sàng hoặc không trù tính sử dụng các quả bom của chúng nhắm vào ba chiến hạm nhỏ bé. Một vài trái bom đã trúng thẳng vào ba chiếc tàu, nhưng chỉ gây thiệt hại nhỏ trên chiếc Shiratsuyu. Hỏa lực của chúng tôi lên tiếng dữ dội. Đội hình phi cơ địch bị cắt ra từng mảnh khi lướt ngang qua chúng tôi.

Kết quả cuộc không tập, 18 phi cơ Nhật bị tiêu diệt, chỉ có hai tàu buôn nhỏ và một tàu săn ngầm bị đánh chìm. Với một cuộc tấn công quy mô như vậy, kết quả này không đúng như ý muốn của đối phương. Hơn nữa, Hoa Kỳ còn phải giá: 8 oanh tạc cơ B-25 và 9 chiến đấu cơ P-28 bị bắn rơi cùng nhiều chiếc hư hại khác đã lê lết được về đến căn cứ, nhưng bị vỡ tan hoặc bốc cháy khi đáp xuống.

Hỏa lực từ các chiến hạm đang chạy trên mặt biển khó thể nào bắn trúng phi cơ bay nhanh. Nhưng ngày hôm đó lại khác hẳn, phi cơ địch hình như tìm họng súng của chúng tôi để chui đầu vào. Tôi nhìn thấy tận mắt chiếc Shigure đã bắn hạ ít nhất 5 phi cơ địch.***********

(********: Đại tá Hara đã nói đúng về các thành quả mà súng phòng không trên các khu trục hạm của ông đã đạt được trong ngày này. Tài liệu lịch sử chính thức của Không quân và Lục quân Hoa Kỳ đã ghi: "Hai khu trục hạm Nhật nằm cạnh cửa sông Warangoi đã đối đầu trực tiếp với hướng tiến của các phi cơ Hoa Kỳ. Hỏa lực của 2 chiếc tàu này đã gây nhiều xáo trộn cho cuộc không tập, ngăn chặn hẳn các chiến đấu cơ hộ tống, khiến cho các oanh tạc cơ B-25 phải phá vỡ đội hình để thi hành nhiệm vụ oanh tạc và không kích từng cặp, hoặc từng chiếc riêng rẽ.)

Xế trưa hôm đó, các khu trục hạm của tôi quay vào quân cảng Rabaul, toàn thể thủy thủ đều lộ vẻ kiêu hãnh và hớn hở. Tình trạng căng thẳng của buổi sáng trôi qua hẳn. Sĩ quan cũng như thủy thủ lại cười nói ồn ào. Vào chiều tối, tôi bước lên soái hạm Myoko và cảm thấy dễ chịu hơn khi làm nhiệm vụ phúc trình lại chi tiết về trận đánh vịnh Empresss Augusta mà tôi không mấy hài lòng trước đó.

Đề đốc Omori vẫn đón tiếp tôi một cách thân mật như thường lệ. Sau khi nghe các chi tiết do tôi tường trình liên quan đến nhóm chiến hạm của Ijuin, ông nói: "Tôi nghĩ hành động của anh rất đúng. Trong khi chiếc Sendai bị hỏa lực tập trung của địch quân, anh chạy tránh xa nó là phải. Về các điểm khác, tôi muốn cảm ơn công điện phát hiện địch quân của anh gửi cho tôi lúc 0h45. Lúc bấy giờ ngoài anh ra không ai khác nhìn thấy tàu địch. Không có báo cáo của anh, cả nhóm tàu của tôi sẽ rước lấy thảm họa."

Khi tôi cáo từ và xoay lưng bước ra cửa, Đề đốc Omori gọi tôi lại. Ông rút bóp lấy một số tiền đặt trên bàn, mỉm cười nói: " Đây là 30 yên ( khoảng 90.000 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa vào thời giá năm 1974, còn so với tiền Việt Nam bây giờ thì.... Heo hổng có biết ). Số tiền không nhiều nhỏi gì, anh hãy nhận để mua rượu cho thủy thủ của anh chơi, và xem đây như là món quà kỷ niệm của tôi."

Tiếng cười to của ông khiến tôi giật mình. Tôi nhận tiền bắt tay ông, và cả hai cùng cười to với nhau. Đoạn bi hài kịch trả kiếm và đòi tiền mua rượu của tôi chắc hẳn đã đến tai ông. Câu chuyện này xảy ra lúc ông chưa đến Rabaul.

Trận hải chiến vịnh Empress Augusta kết thúc. Hoa Kỳ đã đạt chiến thắng trên mọi phương diện. Khu trục hạm Foote đã nhận lĩnh một quả ngư lôi của Samidare, hư hại khá nặng, nhưng vẫn trở về căn cứ được. Trong trận đánh quan trọng này, chỉ có khoảng 40 thủy thủ Hoa Kỳ thương vong.

Phía Nhật Bản đã thiệt mất tuần dương hạm Sendai với 335 người trong số thủy thủ đoàn, và khu trục hạm Hasukaze với toàn thể thủy thủ đoàn 240 người. Nhiều quả đạn trúng thẳng vào hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro, và khu trục hạm Samidare, gây nhiều thiệt hại cho ba chiếc tàu này, nhưng về nhân sự chỉ có 6 thủy thủ thiệt mạng và 7 bị thương.

Ngay sau trận đánh, Omori rời khỏi chức vụ hiện thời, và được chuyển về trông coi Trường Ngư Lôi. Matsubara cũng mất chức, và được chỉ định vào một nhiệm vụ trên bờ.

Vào ngày 3 tháng 11, chiếc tàu ngầm I-104 về đến Rabaul với các thủy thủ sống sót của tuần dương hạm Sendai. Tôi đứng đón chờ những kẻ may mắn trở về. Nhìn Đề đốc Ijuin bước lên cầu tàu không ai là không động lòng. Tôi bước ngay đến ông và cất lời xin lỗi đã không đáp ứng lời yêu cầu giúp đỡ của ông.

Trong sự xúc động lớn lao, ông nói: "Đừng nói như vậy, Hara. Hành vi của tôi vừa qua đã khiến tôi xấu hổ. Đừng bao giờ lặp lại những lời mà anh vừa nói. Anh đã hành động đúng."

Vài ngày sau Ijuin trở về Tokyo. Sau một vài tháng nghỉ ngơi, ông quay lại Nam Thái Bình Dương và chiến đấu rất dũng cảm. Vào ngày 24 tháng 5 năm 1944, ông thiệt mạng trong khi chỉ huy lực lượng hộ tống một đoàn tàu chuyển vận. Chiếc soái hạm của ông bị tàu ngầm Raton của Hoa Kỳ phóng ngư lôi đánh chìm

Nếu mọi người tỏ vẻ nghi ngờ khả năng chiến đấu của Đề đốc Ijuin, lời tiên đoán của ông về việc Nhật Bản sẽ sụp đổ sau khi để cho Bougainville rơi vào tay địch lại tỏ ra chính xác một cách lạ lùng.

Vì thời tiết, cuộc không kích Rabaul của đối phương vào ngày 2 tháng 2 chỉ gây chút ít thiệt hại, nhưng 3 ngày sau đó tai biến mới thực sự xảy ra. Nhười Mỹ đã xem cuộc không kích Trân Châu Cảng của Nhật như là một thảm họa đối với họ, nhưng cuộc không tập vào ngày 5 tháng 11 của họ lại là một thảm họa to lớn hơn đối với Nhật. Một hạm đội bao gồm đa số tuần dương hạm, được giữ gìn như báu vật hơn một năm nay, bỗng tan tành chỉ trong một ngày. Làm sao một việc như vậy có thể xảy ra?

Sự sụp đổ ngày 5 tháng 11 của Rabaul đã làm lu mờ trận đánh đầy bi thảm ở Vịnh Empress Augusta, khiến cho không còn ai nhắc nhở đến nó nữa. Trận đánh bị lãng quên này đã dạy cho người Nhật nhiều bài học quý giá mà họ không biết. Các sai lầm được lặp lại, và lặp lại cho đến khi trở thành tự sát.

Đáng lẽ qua trận đánh Empress Augusta. Nhật Bản phải biết rằng các nỗ lực thám thính của mình đã vấp phải nhiều khiếm khuyết. Không phải chỉ phóng một vài chiếc phi cơ lên trời với các mục đích thám thính là đủ, mà cần đòi hỏi các phi công đầy đủ kinh nghiệm lái các phi cơ đó. Bộ Tư Lệnh Tối Cao chắc hẳn phải biết điều này, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép cải thiện.

Nếu các phúc trình chi tiết liên quan đến trận hải chiến ở Vịnh Empress Augusta không bị thêm thắt để đánh lừa Bộ Tư Lệnh Tối Cao, chúng tôi sẽ không bao giờ dám đổ lỗi sự sụp đổ Rabaul cho thượng cấp. Còn nhiều yếu tố lừa dối khác sau trận đánh. Chẳng hạn như tàu ngầm I-104, trong phúc trình về công cuộc tiếp cứu những thủy thủ sống sót của chiếc Sendai đã viết: "Chúng tôi thấy nhiều thủy phi cơ và chiến hạm địch bận rộn trong các hoạt động tiếp cứu, điều này chứng tỏ một số tàu địch đã bị đánh chìm trong trận Empress Augusta." Và một điển hình khác: Đoàn tàu chuyển vận bị đình hoãn trước đó của chúng tôi cuối cùng đã rời khỏi Rabaul vào ngày 2 tháng 11, chỉ có 4 khu trục hạm hộ tống, và thành công trong việc đổ bộ 930 binh sĩ lên Torokina. Chỉ huy trưởng đoàn tàu chuyển vận đã báo cáo một cách vui vẻ: "Chúng tôi không hề gặp một sự chống đối nào trên mặt biển, hiển nhiên là hạm đội địch đang lo chắp vá các vết thương do lực lượng của Đề đốc Omori gây ra."

Tuy nhiên, sự thật Hoa Kỳ đã chọn để giăng một cái bẫy trên đất liền nhắm vào lực lượng bộ binh sau khi họ đã đổ bộ, và cái bẫy này công hiệu hoàn toàn. Nhưng đây là vấn đề riêng của Lục quân, không dính dáng gì đến Hải quân.

Cả chục điều tệ hại do lực lượng Omori gây ra vì vậy mà đã không được sửa chữa chút nào. Do đó khi trở về Tokyo sau cuộc hành quân, Omori không cảm thấy một chút hổ thẹn nào hết, và hơn thế nữa, ông được thăng cấp, và được tái bổ nhiệm vào chức vụ chỉ huy trưởng Trường Ngư Lôi của Hải quân.

Đô đốc Koga, Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp, chấp nhận giá trị phúc trình của Omori. Koga cảm thấy đã thu hoạch được các dữ kiện mà ông kiên nhẫn đợi chờ, và cho rằng cơ hội "dứt khoát" với địch quân tại quần đảo Solomon đã đến. Do đó, dựa trên căn bản các phúc trình của Omori, vào ngày 3 tháng một, ông ra lệnh cho 7 tuần dương hạm khởi hành từ Truk tiến về hướng Nam. Cả Koga lẫn bộ tham mưu của ông không một ai ra trận trong thời gian gần đây để biết sức mạnh gia tăng của địch quân. Bởi vậy, tính tự phụ tự mãn đã mọc rễ trong họ.

Ở Rabaul, Đô đốc Kusaka đã giật mình khi nghe kế hoạch cho các tuần dương hạm xuất quân của Koga, và ông đã cố gắng ngăn cản hành động này. Nhưng ông không thể nào giải thích sự nghi ngờ của ông về các chi tiết nằm trong phúc trình của Omori. Hơn nữa, chỉ một đôi lời của ông không thể nào đầy đủ ý nghĩa thuyết phục được Koga. Và do đó, 7 tuần dương hạm Nhật vẫn tiếp tục tiến về phía Nam, dưới sự dòm ngó từng bước một của các trinh sát cơ Hoa Kỳ.

Phó Đô đốc Takeo Kurita, thay thế Kondo trong chức vụ Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội, cũng là một tay tự mãn không kém gì Koga. Tính tự mãn này là do các tin tức về các cuộc không tập liên tục của địch quân ở Rabaul vào thời gian gần đây đến tai ông. Theo đó, không có một phi cơ địch nào oanh tạc trúng thẳng được vào một chiến hạm Nhật. Nên biết, hơn một năm nay Kurita không ra trận lần nào, vì vậy ngay cả chiến đấu cơ Nhật Bản mà ông nghĩ đến là các chiến đấu cơ của năm 1942, tức thời gian Nhật Bản vượt trội Đồng Minh cả hai mặt phi cơ và phi công. Sự khinh thường khả năng của không lực Đồng Minh vào thời gian đó là rất đúng, nhưng hiện tại sự khinh thường đó không còn đứng vững.

Sáng sớm ngày 5 tháng 11, lực lượng của Kurita đến Vịnh Simpson, Rabaul. Tôi đã kinh ngạc khi thấy soái hạm Atago chậm rãi buông neo trong hải cảng nhỏ hẹp mà hiện tại gần như nứt ra, vì phải chứa đựng cả 7 tuần dương hạm và khoảng 40 tàu yểm trợ khác nữa. Những chiến hạm mới đến này đã gây cho tôi sự băn khoăn và suy nghĩ.

Vào lúc 7h sáng cùng ngày, một phi cơ tuần tiễu báo cáo phát hiện một lực lượng địch gồm 5 tuần dương hạm hạng nặng, 7 khu trục hạm và 2 chuyển vận hạm tại ví trí cách mũi St.George 150 dặm, hướng 140 độ. Tổng Hành Dinh Rabaul kết luận rằng các chiến hạm này có vẻ như sắp thực hiện một cuộc đổ bộ. Đó là phản ứng đã trở thành thói quen đối với các sĩ quan tham mưu ở Rabaul trong những tháng gần đây. Không một ai tưởng tượng được rằng hai "chuyển vận hạm" chính là hai hàng không mẫu hạm Saratoga và Princeton.

Nhiều tháng nay các phi cơ Nhật Bản không được nhìn thấy hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Ngay cả trong trận đánh ở Biển San Hô vào tháng 5 1942, nhiều phi cơ đầy đủ kinh nghiệm của chúng tôi còn nhận diện sai lầm các hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ. Nhưng mà không một ai ở Rabaul nhớ lại việc đó. Kusaka ra lệnh cho các trinh sát cơ cố gắng theo dõi động tĩnh từng bước một của đối phương. Các phi cơ này đã cố gắng, nhưng các báo cáo đều không đúng lúc, thành thử lực lượng đặc nhiệm Nhật không thể hành động chính xác.

Lúc 9h sáng, còi báo động phi cơ địch tấn công ở Rabaul vang rền. Khu trục hạm Shigure của tôi luôn luôn chuẩn bị sẵn sàng nên đã tham chiến nhanh chóng, và thoát ra hải cảng nhỏ hẹp trong khi nhiều chiến hạm khác vẫn buông neo. Lúc 9h15, khi các tuần dương hạm to lớn vẫn còn loay hoay nhổ neo, phi cơ địch xuất phát từ hai "chuyển vận hạm" ùa đến oanh tạc. Khoảng 50 chiến hạm Nhật nằm phơi lưng làm bia cho 23 phi cơ Avenger phóng ngư lôi, 22 oanh tạc cơ Dauntless và 42 chiến đấu cơ Hellcat của Hoa Kỳ.

Chiếc Shigure vừa chạy ra khỏi hải cảng vừa khai hỏa mọi loại súng vào các mục tiêu lướt nhanh qua. Hỏa lực của chúng tôi đã hạ 4 phi cơ địch. Thảm họa đã không xảy ra, nếu tất cả chiến hạm Nhật đều thoát chạy được ra ngoài hải cảng như chiếc Shigure. Nhưng ngày hôm đó, ngoài chiếc Shigure, không có một chiếc tàu nào nhúc nhích được. Hai khu trục hạm Samidare và Shiratsuyu không có mặt ở Rabaul, ngày trước đó cả hai đã lên đường đi Truk để sửa chữa.

Khoảng 10h, chiếc Shigure quay vào hải cảng. Cảnh tượng trước mắt làm tôi choáng váng cả giờ. Tôi nhớ lại cảnh đổ vỡ xảy ra vào tháng Giêng năm 1942, khi các phi cơ Hoa Kỳ gây hư hại cho tuần dương hạm Myoko tại Vịnh Malalag. Và bây giờ, nơi đây, chỉ trong vòng hai năm sau, chúng tôi đã vấp phải cùng một lỗi lầm. Thật đáng tủi hổ biết bao.

Soái hạm Atago đang bùng cháy, hai tuần dương hạm Maya và Takao bị hư hại nặng nề. Cả 3 tuần dương hạm hạng nặng này, sau một năm được giữ gìn cẩn thận, chưa đụng độ với địch quân bao giờ, đã nằm phơi mình như ba xác chết dưới cuộc không tập. Hai tuần dương hạm hạng nặng Mogami và Chikuma, hai tuần dương hạm hạng nhẹ Agano và Noshiro, cũng như hai khu trục hạm Fujinami và Amagiri đều bị thiệt hại. Tôi nhắm mắt lại và tự hỏi cảnh tượng này lại có thể là sự thật được sao?

Đó là sự thật, một sự thật hoàn toàn. Tại Tổng Hành Dinh Rabaul, như thường lệ, Kusaka nổi nóng. Ông chửi rủa hết người này đến người khác.

Trong lúc đó, các phi trường Rabaul lên cơn sốt, giống như một tổ ong bị chọc phá. Mọi phi cơ khả dụng đều được tung lên để truy đuổi những kẻ tấn công. Cuối cùng, khoảng 100 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Nhật tìm thấy vị trí lực lượng đặc nhiệm đối phương, cách Rabaul khoảng 235 dặm, hướng 145 độ. Sau đó, các phi cơ báo cáo đã đánh chìm một hàng không mẫu hạm lớn, hai tuần dương hạm và một khu trục hạm, cũng như gây hư hại cho một hàng không mẫu hạm hạng trung khác.

Báo cáo này hoàn toàn có tính cách thêu dệt. Khi một người đang choáng váng thì người đó khó có thể nhìn sự việc một cách bình tĩnh và khách quan. Kiểm soát lại các phúc trình đáng nghi ngờ trong cuộc chiến chỉ được thực hiện đối với một kẻ đang chiến thắng. Do đó, báo cáo tưởng tượng vừa nêu đã đi ngay vào tủ hồ sơ chính thức mà không hề được đánh giá lại. Đô đốc Kusaka, còn sống sót sau cuộc chiến, đã giải thích: "Thật sự tôi đã ngờ vực các chi tiết nằm trong bản báo cáo, cũng như đa số các bản báo cáo khác của Nhật Bản trong thời gian đó, khi tôi biết được không quân của chúng ta khiếm khuyết các phi công giỏi. Nhưng nếu đặt vấn đề ra, hoặc yêu cầu kiểm soát lại các bản phúc trình, sẽ gây chán nản và bực bội cho những người đã cố gắng thi hành nhiệm vụ với tất cả khả năng mà họ có thể làm."

Ngày hôm sau, 6 tháng 11, các tuần dương hạm Atago, Takao và Mogami, được hai tuần dương hạm không bị hư hại hộ tống, rời khỏi Rabaul chạy khập khiễng trở về Truk, thật là đau buồn khi đứng nhìn theo bóng dáng của 5 tuần dương hạm này, người ta có thể xem đây là chuyến hải xuất vô dụng nhất trong toàn thể cuộc chiến của Hải quân Nhật Bản. Chỉ cách 3 ngày trước đó, tôi cũng đã từng đau buồn chứng kiến cảnh tuần dương hạm của Omori và 2 khu trục hạm của tôi ra đi với những vết thương trầm trọng.

Tuần dương hạm hạng nặng Maya vẫn còn ở lại hải cảng Rabaul, vì tất cả máy móc đều hư hại, không thể di chuyển được. Chiếc Agano, tuần dương hạm hạng nhẹ nằm gần đó cũng không khác gì đống sắt nổi. Những mất mát vô ích và sự ngu dốt của cấp chỉ huy khiến tôi tiêu tán hết nghị lực. Tôi hết lời thóa mạ, và tự hỏi Nhật Bản có thể làm gì nữa đây?

Trưa ngày hôm đó tôi đến Tổng Hành Dinh . Phó Đô đốc Samejima có vẻ bồn chồn khi tiếp tôi. Ông nói: "Tôi muốn đêm nay anh thi hành một nhiệm vụ với khu trục hạm Shigure và tuần dương hạm Yubari - chiếc tuần dương hạm duy nhất của chúng tôi còn hoạt động được ở đây. Tình thế tồi tệ lắm rồi. Có lẽ chúng ta bắt buộc phải bỏ hẳn Bougainville, nhưng chúng ta phải bám vào căn cứ Buka, nằm gần Rabaul. Do đó, công việc tăng cường cho các cơ cấu phòng thủ Buka đã được quyết định.

Quyết định này không làm cho tôi ngạc nhiên. Tôi chào và xoay lưng, nhưng Samejima gọi lại: "Tôi cũng cần nói với anh, Hara, đây sẽ là nhiệm vụ cuối cùng của anh được cắt đặt dưới quyền hạn chỉ huy của tôi. Quả thật, tôi không bao giờ muốn để anh đi, đặc biệt trong lúc này, nhưng chỉ vì chiếc Shigure đã tới giai đoạn cần phải sửa chữa trên ụ nổi, và tất nhiên, trong thời gian sửa chữa anh được nghỉ ngơi."

Buka là hòn đảo thuộc quần đảo Solomon gần với Rabaul nhất. Shigure và Yubari tấp vào bãi của hòn đảo này trong đêm đó để đổ 700 binh sĩ thuộc sư đoàn 17 bộ binh và 25 tấn tiếp liệu lên bờ.

Cuộc hành quân tuy ngắn ngủi nhưng cũng gây căng thẳng tột độ trên cả hai chiến hạm. Chúng tôi không gặp ngăn trở nào của địch quân. Trở về Rabaul vào ngày hôm sau, tôi trình diện Tổng Hành Dinh và chào từ biệt Phó Đô đốc Samejima.

Tôi lưu ý ông: "Cuộc hành quân xúc tiến rất dễ dàng. Nhưng nếu cuộc hành quân kế tiếp vẫn áp dụng giống như vậy, tôi sợ không suôn sẻ. Những chiến thuật cứ lặp đi lặp lại mãi sẽ gặp phản ứng ngược."

Samejima gật đầu: "Tôi tán thành sự lưu ý của anh, và tôi sẽ không để cho các chiến hạm khác thi hành nhiệm vụ giống như vậy. Hara, anh đi lần này chúng tôi biết là sẽ mất anh. Hiện thời chúng tôi khiếm khuyết các sĩ quan có đầy đủ kinh nghiệm như anh. Tôi rất muốn được trông thấy anh quay trở lại đây."

Cuối cùng ông hỏi tôi có thể sắp xếp thế nào để thi hành một "nhiệm vụ ngoại lệ" hay không? Nhiệm vụ ngoại lệ này là chiếc Shigure sẽ hộ tống hai chuyển vận hạm và trên đường sẽ ghé Kavieng. Ông giải thích rằng Rabaul, sau trận không tập vào tháng 11, đã thiếu chiến hạm để thi hành các công tác, nên ngay cả chiếc Shigure cần phải sửa chữa mà còn phải lưu dụng trong cuộc hành quân đổ bộ vừa qua. Nhiệm vụ ngoại lệ xem ra dễ dàng hơn bất cứ một nhiệm vụ nào tôi đã từng thi hành trong những tháng vừa qua, do đó tôi đã chấp thuận lời yêu cầu của Samejima một cách vui vẻ.

Vào lúc 2h30 sáng ngày 7 tháng 11, khu trục hạm Shigure rời Rabaul với hai chuyển vận hạm Ontakesan Maru và Tokyo Maru. Khi ngày lên hẳn, tôi đứng phía sau tàu mơ màng ngắm nhìn các miệng núi lửa đang tỏa khói. Rabaul là một hòn đảo hẻo lánh và ảm đạm. Nhưng, đặt chân đến đây từ tháng 7, bây giờ bỗng chốc rời xa hòn đảo này, bỗng nhiên tôi cảm thấy xúc động sâu xa. Rabaul không có gì hấp dẫn, nhưng mỗi lần ra khơi, chúng tôi đều mong mỏi được trở về để nhìn lại nó. Bây giờ, chúng tôi ra đi, để trở về quê nhà, và rất có thể không bao giờ chúng tôi nhìn thấy lại Rabaul nữa.

Trong ba tháng ngắn ngủi, chúng tôi đã mất hết hòn đảo này đến hòn đảo khác thuộc nhóm đảo Solomon, và đến hiện tại, Nhật Bản chỉ còn lại hòn đảo Buka. Hòn đảo này sẽ rơi vào tay địch quân không biết giờ phút nào, và sẽ đến lượt Rabaul. Không phải chỉ một mình tôi, mà tất cả mọi người đều nghĩ đến việc này.

Tôi hồi tưởng đến bạn bè, chiến hữu của tôi đã ra đi vĩnh viễn trong các trận đánh đẫm máu ở vùng biển này, và rồi còn nhiều người khác sẽ tiếp tục nối bước ra đi như vậy, mắt tôi bỗng dưng đầy lệ. Nhìn quanh, tôi thấy nhiều người khác trên chiếc Shigure cũng chia sẻ cảm nghĩ của tôi. Những thủy thủ đứng trên boong tàu đã vẫy tay từ biệt những kẻ đứng trên bờ dõi mắt trông theo. Chỗ nào đó, một giọng hát cất lên: "Sabara, Rabauru Yo, mata kuru made ma ... ( Tạm biệt Rabaul, chúng tôi sẽ sớm trở về...) Bài ca đầy sầu thảm này đã từng dội trên sóng nước Thái Bình Dương một thời, nhưng không một ai biết rõ xuất xứ của nó.*********

******* (Bác Ominowada hát thử anh em nghe cái )

Chúng tôi nhanh chóng tiến ra mặt biển bao la. Một ngày tràn ngập ánh nắng, đại dương lặng sóng. Cảnh sắc vui tươi, không khí như đổi mới trên chiếc tàu, chẳng khác nào một chuyến rong chơi mùa hạ. Tôi mơ màng nhớ đến những nhiệm vụ và hàng loạt hải xuất mà tôi đã thực hiện trong thời gian ở Rabaul vừa qua. Tôi cũng nhớ lại khi đặt chân đến Truk vào ngày 21 tháng 3, và qua cuộc hội kiến Đô đốc Kondo, tôi được biết chúng tôi đang đối diện với nhiều vấn đề khó khăn. Hai trong số những vấn đề chính yếu nhất là các pháo khẩu có trang bị radar và chiến thuật oanh tạc nhảy của đối phương.

Tôi tạm hài lòng với vấn đề đầu tiên, vì xem như tôi đã tìm được phương pháp chống trả hỏa lực có radar điều khiển trên các chiến hạm địch. Shigure là chiếc tàu không thiệt mất một thủy thủ nào. Vấn đề thứ hai là làm cách nào để đối phó với chiến thuật oanh tạc nhảy thì tôi đành bó tay. Nhiều lần chiếc Shigure chống trả với địch, nhưng không lần nào chúng tôi được nhìn thấy tận mắt chiến thuật oanh tạc nhảy này được áp dụng.

Hoàng hôn. Chúng tôi vẫn chạy dọc theo bờ biển phía Đông Nam New Ireland. Phải mất nhiều giờ chúng tôi mới vượt qua đoạn hải trình 250 dặm, vì tốc độ của các chuyển vận hạm rất chậm chạp, chỉ đạt đến 12 hải lý. Thời tiết quang đãng. Dưới hàng vạn tinh tú chiếu lấp lánh trên bầu trời, chúng tôi tiến vào eo biển Isabel, và khi ba chiếc tàu xoay về hướng chính Đông để chạy đến Kavieng, phòng truyền tin báo cáo đã nghe được các công điện mã hóa được đánh đi gần đâu đây. Điều này chứng tỏ phi cơ địch đang hoạt động trong khu vực phụ cận chúng tôi. Như vậy là "kỳ nghỉ hè trên mặt biển" đã bị phá đám. Tôi nhớ lại lần tăng tốc độ khẩn cấp từ 12 hải lý lên 28 hải lý để tránh né một chiếc oanh tạc cơ tấn công trước đây. Hiện tại, chiếc Shigure với máy móc đã bệ rạc, không thể nào làm như vậy một lần nữa. Vả lại, lúc đó chiếc tàu chỉ tự bảo vệ lấy thân, còn bây giờ nó phải bảo vệ thêm hai chuyển vận hạm.

Tôi cho gia tăng tốc độ lên 18 hải lý, và ra lệnh tạo một màn khói bao che hai chuyển vận hạm trong khi mọi quan sát viên đều phải dõi mắt lên trời. Hai chuyển vận hạm chạy chầm chậm về hướng Tây với tốc độ tối đa 16 hải lý. Tôi ra lệnh cho Shigure gia tăng tốc độ thêm nữa, và chạy theo hình chữ chi xuyên qua xuyên lại giữa hai chiếc tàu chạy chậm như rùa bò, thoạt ẩn thoạt hiện trong màn khói dày đặc.

Một quan sát viên thình lình lớn tiếng cho biết hai phi cơ xuất hiện ở mạn phải, hướng 50 độ. Tôi đã nhìn thấy chúng. Đó là 2 oanh tạc cơ, đang bay thẳng đến của Shigure. Tôi nghĩ chắc phi cơ địch sẽ không tấn công vào hai tàu chuyển vận. Cả hai chiếc phi cơ thình lình đổi hướng, đảo ngang, bay chiếc trước chiếc sau, ngược chiều với Shigure và mất hút về phía sau lái. Lúc tôi còn đang tự hỏi không hiểu đối phương định làm gì, quan sát viên đã la to: "Các phi cơ quay lại bên mạn trái."

Bây giờ cả hai phi cơ sà thật thấp và đâm thẳng vào hông chiếc tàu. Tôi hiểu ngay là chiến thuật oanh tạc nhảy sắp được áp dụng. Cuối cùng, tôi cũng đối mặt với vấn đề không giải đáp nổi. Trong tình cảnh khẩn cấp này, một giải pháp bỗng nhiên lóe sáng trong tâm trí tôi, tôi hét thật to: "Tất cả cao xạ chuẩn bị khai hỏa ở hướng 150 độ mạn trái."

Và xoay qua Đại úy Tsukihara, hoa tiêu trưởng, tôi nói: "Không chạy theo hình chữ chi. Chúng ta tiếp tục chạy thẳng."

Kinh ngạc, Tsukihara ấp úng hỏi: "Cái gì... cái gì? Thưa Đại tá, chúng ta không né tránh?"

"Hãy thi hành mệnh lệnh, tôi sẽ giải thích sau."

Chiếc Shigure đã gia tăng tốc độ gần 30 hải lý. Hai phi cơ chỉ còn cách một vài trăm mét. Tôi ra lệnh khai hỏa. Một màn hỏa lực căng ra dày đặc. Giữa tiếng nổ đinh tai nhức óc, tôi nghe tiếng hỏi to của Tsukihara: "Chúng ta vẫn chạy thẳng?"

Giây phút hiện tại chỉ còn một trong hai lối để chọn lựa, là giết địch hoặc bị địch giết, không thể nào giải thích rõ cách chống trả cấp thời phát sinh trong trí tôi cho hắn ta hiểu. Tôi chỉ đáp hai tiếng cộc lốc: "Chạy thẳng!"

Bây giờ, nhiều năm sau cuộc chống trả đáng ghi nhớ này, phương pháp oanh tạc nhảy không có gì khó giải thích: Các phi cơ địch tiến sát đến chiếc tàu, ở một khoảng cách tối thiểu, trước khi khi thực hiện phương pháp oanh tạc nhảy. Trước đây, lối né tránh thông thường của một chiếc tàu khi bị phi cơ tấn công bằng bom là chạy theo hình chữ chi, càng nhặt càng tốt. Nhưng chạy theo hình chữ chi khiến cho tốc độ của chiếc tàu có những khoảng chậm lại, và các oanh tạc cơ sẽ canh đúng khoảng chậm này để cắt bom. Tôi đã suy nghĩ hiện thời guồng lái và tay lái của chiếc Shigure không chính xác, không chạy theo hình chữ chi chẳng những khiến cho tốc độ của tàu nhanh hơn, mà còn khiến cho sự lượng định oanh tạc của phi cơ trở nên khó khăn hơn. Chạy thẳng còn có một lợi ích khác là các súng cao xạ trên chiếc tàu sẽ bắn chính xác hơn.

Với hai tiếng rít đinh tai nhức óc. Hai oanh tạc cơ lướt ngang qua các tháp từ mạn trái sang mạn phải. Hai quả bom rơi xuống và nhảy vọt đến, nhưng chiếc tàu đã lướt qua được khoảng bảy tám mét nên không trúng. Lúc đó, chiếc Shigure đã chạy hết tốc lực. Bom nổ, hai cột nước dâng cao. Phi cơ địch xuyên qua màn hỏa lực dày đặc và bay thẳng về hướng Nam.

Năm phút căng thẳng trôi qua. Phi cơ địch mất dạng hẳn. Sau đó, phòng truyền tin báo cáo: "Phi cơ địch đang chuyển báo cáo thẳng qua vô tuyến."

Chuẩn úy Hiroshi Chosa, chuyên viên Anh ngữ của chúng tôi, nhảy dựng lên và nói: "Được rồi, để tôi đến nghe xem mấy em bé này nói cái gì." Anh ta rời khỏi đài chỉ huy, một hai phút sau Chosa cho biết qua ống nói: "Một phi cơ địch báo cáo các hệ thống kiểm soát bị hư hại và cho vị trí bằng mật mã. Một phi cơ khác cho biết cánh trái bị trúng đạn và đang đáp xuống mặt biển."

Mọi người trên đài chỉ huy đều hớn hở. Tsukihara, lộ vẻ lo lắng tột độ trước đó, bây giờ nhảy nhót như trẻ con.

Chosa tiếp tục: "Căn cứ của địch quân đáp rằng một chiếc thủy phi cơ sẽ được phái đến để giải cứu những phi công lâm nạn. Tọa độ không thể nào mò ra, vì đều được cho bằng những con số khó hiểu. Hãy chờ.. À, bây giờ các phi cơ nói cảm ơn và cho biết đang chúi xuống."

Tôi thở dài nhẹ nhõm. Tôi không bao giờ nghĩ phương thức chống trả oanh tạc nhảy mới mẻ của tôi lại công hiệu đến mức ấy. Chiếc Shigure giảm tốc độ và hợp đoàn với hai chuyển vận hạm. Chúng tôi lại tiếp tục "cuộc dạo chơi trên mặt biển" hướng về Kavieng. Sau khi hai chuyển vận hạm xuống hàng, không còn nhiệm vụ nào khác ở đây. Vào sáng ngày 8 tháng 11, chúng tôi khởi hành về Truk.

"Cuộc dạo chơi" lại bị phá đám một lần nữa vì máy sonar chống tàu ngầm trang bị cho chiếc tàu bỗng dưng ngưng hoạt động. Các chuyên viên kỹ thuật của chúng tôi sửa chữa suốt ngày nhưng cũng không thể nào làm cho chiếc máy hồi sinh. Theo tin tức, tàu ngầm địch quân thường lảng vảng trong vùng biển này, do đó máy sonar bị hư là cả một vấn đề. Làm cách nào chiếc khu trục hạm câm điếc này hy vọng bảo vệ hữu hiệu hai chuyển vận hạm chạy như rùa bò suốt một hải trình ba ngày nữa? Các tàu ngầm địch chắc chắn sẽ được tung ra tìm kiếm chúng tôi để phục thù cho 2 phi cơ bị bắn hạ.

Tôi ra lệnh cho tất cả thủy thủ phụ trách bom chìm chuẩn bị đối phó với mọi trường hợp bất ngờ. Tôi cũng ra lệnh cho hai chuyển vận hạm chạy cách xa chúng tôi 1500m. Shigure chạy bên phải hai chuyển vận hạm này. "Cuộc dạo chơi trên mặt biển" trở nên căng thẳng.

Suốt ngày hôm đó không có gì xảy ra. Ngày hôm sau cũng yên tĩnh. Thủy thủ của tôi mệt nhừ sau hai ngày trực chiến. Nếu sự yên tĩnh này kéo dài thêm một ngày nữa, chúng tôi sẽ tiến vào Truk an toàn.

Suốt buổi sáng kế, tôi ra lệnh chuẩn bị các hoạt động chống ngầm ráo riết hơn, vì thời tiết xấu, bầu trời đầy mây và biển gợn sóng. Lúc 11h30, tôi cho giải tỏa các hoạt động này.

Ngay khi các thủy thủ nằm dài trên sàn tàu để nghỉ ngơi, tôi nhìn thấy một quả ngư lôi xé nước lướt ngang qua phía trước mũi chiếc Shigure, từ mạn phải qua mạn trái. Thay vì phản ứng cấp thời, tôi đã đứng lặng nhiều giây để nhìn theo quả ngư lôi hướng về chuyển vận hạm Tokyo Maru, bây giờ chạy hơi chếch về phía trái, cách trước mũi chiếc Shigure khoảng 700m. Tiếng nổ gây náo loạn trên chiếc Shigure và lôi tôi trở về thực tế. Tôi ra lệnh cho chiếc tàu đạt tốc độ chiến đấu 24 hải lý, các thủy thủ phụ trách bom chìm chờ đợi, và xoay hướng tiến về phía quả ngư lôi xuất phát. Sau đó, chúng tôi thả sáu quả bom chìm, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy đã đạt kết quả.

Tàu ngầm địch đã bay cao xa chạy. Không có gì đáng ngạc nhiên, tôi nghĩ, với một hạm trưởng giỏi thì một quả ngư lôi cũng đủ để ghi điểm. Tôi đứng chôn chân và phẫn nộ trên đài chỉ huy. Phản ứng chậm của tôi khiến cho chiếc tàu ngầm chạy thoát.

Chiếc Shigure vẫn tiếp tục chạy vòng quanh hai chuyển vận hạm , nhưng chiếc tàu ngầm không quay lại để tung một đòn dứt khoát. Chuyển vận hạm Tokyo Maru không bốc cháy, chỉ có phòng máy bị nước tràn vào thông qua lỗ thủng do quả ngư lôi gây ra. Chiếc tàu còn nổi nhưng hoàn toàn bất động. Chuyển vận hạm thứ hai. Ontakesan Maru, kéo đồng bạn phía sau, và một lần nữa, chúng tôi hướng về Truk, với tốc độ 7 hải lý.

Trong lúc đang di chuyển, chiếc Tokyo Maru bỗng dưng gia tăng độ nghiêng nhanh chóng. Sau 8 giờ, ai cũng nhìn thấy rõ ràng là nó sắp chìm, viên hạm trưởng ra lệnh bỏ tàu. Vừa khi Shigure nhận xong 70 sĩ quan và thủy thủ, chuyển vận hạm 6.486 tấn này biến mất giữa những làn sóng.

Tôi buồn rầu trước sự việc xảy ra. Đây là lần đầu tiên tôi đã để thiệt mất một tàu chuyển vận dưới trách nhiệm hộ tống của tôi. Nếu cuộc tấn công chỉ đến chậm một vài giờ, chiếc tàu dù hư hại cũng kéo về được tới Truk. Nhưng không có một thủy thủ nào thương vong, và trước đó chiếc tàu đã xuống tất cả hàng ở Kavieng, đó là sự an ủi với tôi.

Trong nhiệm vụ này, chiếc Shigure đã bắn rơi hai oanh tạc cơ, đánh đổi một chuyển vận hạm bị đánh chìm. Nếu xét trên giá trị vật chất, cán cân có phần nghiêng về chúng tôi, nhưng trong thời gian này một chuyển vận hạm lớn vẫn có nhiều ý nghĩa đối với Nhật Bản hơn là việc bắn rơi hai oanh tạc cơ địch.

Suốt nhiều ngày, càng nghĩ đến chiếc tàu ngầm tôi càng nổi nóng. Nhưng hiện thời, sau nhiều năm trôi qua, tôi phải ngả nón cúi đầu thán phục trước chiếc tàu này và viên hạm trưởng của nó. Tiến đến, phóng ngư lôi và biến mất, quả thật tài tình.*******

******: (Đây là tàu ngầm Scamp của Hoa Kỳ, hạm trưởng là Thiếu tá Walter G. Ebert ( sau này là Đề đốc ) đã báo cáo phóng 7 quả ngư lôi và một quả đã trúng chuyển vận hạm 7.000 tấn của Nhật Bản.)

Vào khoảng trưa ngày 11 tháng 11, khu trục hạm Shigure và chuyển vận hạm Ontasekan Maru cập vào hải cảng Truk. Một vài giờ sau đó, tôi đến tuần dương hạm Atago, soái hạm của Đệ Nhị Hạm Đội, trình diện Phó Đô đốc Takeo Kurita để báo cáo sự việc xảy ra. Tôi cũng muốn gặp Tham mưu trưởng của ông là Đề đốc Tmoiji Koyanagi. Tôi vẫn nhớ cuộc đàm thoại giữa Koyanagi và tôi tám tháng trước đây, vào tháng ba, cũng chính trên soái hạm Atago, liên quan đến nhiều vấn đề quan trọng. Hiện tại tôi muốn trình lên ông những giải đáp của một số vấn đề này.

Soái hạm Atago từng bị hư hại nhẹ trong cuộc không tập vào ngày 5 tháng 11 ở Rabaul, và hiện tại đã được tàu sửa chữa Akagi hoàn tất việc sửa chữa. Hoạt động trên soái hạm rộn rịp. Các sĩ quan tham mưu đều ba chân bốn cẳng, không ai lưu ý đến sự hiện diện của tôi. Họ nói Kurita bận rộn nên không tiếp ai cả, còn Đề đốc Koyanagi thì lại đang đứng cạnh vị Tư lệnh. Cuối cùng tôi cũng làm gan gọi Koyanagi khi thấy ông đi phía trước. Chúng tôi bắt tay, và ông ta vừa cười vừa nói: "Hân hạnh được gặp lại anh, Hara."

Lập tức, tôi trình bày sơ lược với ông về cuộc đụng độ với 2 phi cơ địch gần Kavieng, và tôi tỏ ý hối tiếc vì đã để mất chuyển vận hạm Tokyo Maru. Koyanagi xua tay và nói: "Việc đó đúng, hoàn toàn đúng. Anh đã làm một việc phải nói là kỳ diệu. Không ai khác làm tốt hơn thế. Anh không để mất một người nào, đó là điều khiến tôi hài lòng hơn hết."

Tiếp đó, tôi trình bày các chi tiết về kỹ thuật chống lại radar tầm hướng và phương thức đối đầu với phương pháp chống oanh tạc nhảy của đối phương. Nhưng Koyanagi có vẻ không mấy chú tâm đến những điều tôi trình bày. Tấm trí ông như để tận đâu đâu. Tôi ngừng nói, tự hỏi không biết điều gì đã xảy ra. Thình lình, ý thức tình trạng đang đối thoại với người điếc của tôi, ông nói gần như ấp úng: "Ồ, xin lỗi anh... Tôi quấy thật... Được, để tôi giải thích nguyên do sự vô tâm của tôi cho anh. Địch quân lại oanh kích Rabaul, sáng hôm nay, lần này họ đã đập khá nặng tay. Đó là lý do tại sao chúng tôi đều ba chân bốn cẳng, và.... Đúng là sụp đổ rồi."

Có tất cả 128 phi cơ, xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Essex, Bunker Hill, Independence, gào thét trên không phận Rabaul vào lúc 8h30. Kasuka đã sớm phát hiện cuộc không tập nên đã tung 68 chiến đấu cơ Zéro lên ngăn chặn, và phi cơ của hai phía đã gặp nhau tại mũi St. George, nhưng phi cơ địch vẫn thoát được đến Rabaul. Kết quả cuộc không tập, khu trục hạm Suzunami bị đánh chìm, khu trục hạm Naganami và tuần dương hạm Agano bị hư hại nặng. Sau đó, hơn 100 phi cơ Nhật cất cánh truy đuổi địch quân, và theo báo cáo, các phi cơ này đã gây hư hại cho hai hàng không mẫu hạm và một tuần dương hạm Hoa Kỳ, đổi lại 41 phi cơ Nhật bị hạ. Hiển nhiên báo cáo kết quả của Nhật hoàn toàn thêu dệt quá sự thật.

"Xin lỗi Hara, tôi phải trở lại vào trong phòng họp. À này, Đề đốc Kurita muốn anh hộ tống hai tuần dương hạm Myoko và Haguro về Sasebo. Cả hai sẽ rời khỏi đây vào sáng mai. Chúc anh may mắn. Mong gặp lại anh." Chỉ nói bao nhiêu đó, Koyanagi quày quả bỏ đi.

Tôi đứng lặng yên một lúc, đôi tai tôi lùng bùng. Suzanami bị đánh chìm ở Rabaul. Sỉ nhục biết bao! Và càng đáng ngạc nhiên hơn khi tôi biết được một trong những khu trục hạm nổi danh nhất của Hải quân Nhật, chiếc Naganami cũng bị hư hại nặng. Naganami từng là soái hạm của Tanaka khi ông hướng dẫn phân đội gồm 8 khu trục hạm lâm chiến và đạt được thắng lợi vẻ vang ở Tassafaronga vào tháng 11 năm 1942.

Tôi nhìn thấy tận mắt nhiều tuần dương hạm bị bom và ngư lôi địch loại ra khỏi vòng chiến trong hải cảng nhỏ bé Simpson chỉ cách đây một tuần lễ. Các chiến hạm to lớn không thể điều động trong hải cảng nhỏ hẹp này đã đành, nhưng không hiểu tại sao các khu trục hạm nhanh nhẹn lại trở thành nạn nhân của cuộc không tập một cách dễ dàng vậy được.

Với trái tim trĩu nặng, tôi quay về soái hạm Shigure, và ra lệnh chuẩn bị khởi hành cấp tốc vào lúc 6h ngày 12 tháng 11. Chúng tôi rời khỏi Truk trong nhiệm vụ hộ tống hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro. Chuyến đi Sasebo này của chúng tôi đồng lúc với quyết định di tản các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ còn tồn tại ở Rabaul của Koga. Các phi cơ này do ba hàng không mẫu hạm mang đến Rabaul chỉ cách 3 tuần lễ trước đây. Koga từ bỏ hẳn ý định thử sức với Hải quân Hoa Kỳ ở quần đảo Solomon. Điều này chứng tỏ Koga đã ý thức được các chiến thuật được hình thành "trong phòng họp" của ông đã thất bại.

Ở Truk, các kỹ thuật viên của tàu sửa chữa Akashi đã bó tay trong việc hồi sinh cho sonar của Shigure. Cuối cùng, họ "phán quyết" rằng các bộ phận bị hư hại của chiếc tàu săn ngầm này chỉ còn có cách thay thế ở Nhật Bản. Điều này không làm tôi lo lắng, vì tôi biết tất cả sonar trang bị cho 2 tuần dương hạm vẫn hoạt động bình thường, và chiếc Shigure có thể theo bén gót hai chiếc tàu này với tốc độ 18 hải lý. Trong nhiệm vụ hiện thời, tôi cảm thấy dễ dàng hơn nhiệm vụ vừa qua, bởi vì không như các chuyển vận hạm, các tuần dương hạm đều được vũ trang hùng hậu.

Năm ngày hải trình hoàn toàn yên tĩnh. Shigure buông neo ở hải cảng Sasebo vào ngày 17 tháng 11 năm 1943. Lần trở về Kure này tôi cảm thấy vui vẻ hơn lần trở về cùng với chiếc Amatsukaze vào tháng 12 năm rồi, vì lúc ấy chúng tôi có mang theo thi hài 43 thủy thủ. Trong tám tháng phục vụ ở Truk và Rabaul, chiếc Shigure không mất một người nào. Thủy thủ của chúng tôi đã nhảy nhót vui mừng khi chiếc tàu tiến vào hải cảng nhà. Trong các trận chiến đẫm máu quanh quần đảo Solomon, chúng tôi thường không mang một chút hy vọng nào được nhìn thấy lại hải cảng quê hương này.

Sau hai ngày lo thủ tục, chiếc Shigure được đưa vào ụ nổi để sữa chữa. Khi nước được bơm ra khỏi ụ, lườn tàu lộ hẳn, mọi người đứng xem đều tỏ vẻ kinh ngạc. Ngay giữa bánh lái chiếc tàu có một lỗ thủng rộng hơn 6 tấc đường bán kính. Sau khi xem xét cẩn thận, các kỹ sư đã cho biết lổ thủng bám đầy vỏ sò hến này la do một quả ngư lôi gây ra ít nhất ba tháng trước đây.

"Ồ, phải rồi," tôi nhớ lại, "Lỗ thủng này chắc chắn có từ trận đánh tại Vịnh Vella vào hai ngày 6 và 7 tháng 8. Chỉ trong trận đánh đó chúng tôi mới thấy ngư lôi địch lướt gần chiếc tàu hơn hết.

Một trong các viên kỹ sư hỏi: "Nhưng, trong tình trạng này, ông làm sao có thể điều khiển chiếc tàu từ đó cho đến đây được?"

Tôi đáp: "Trong những tháng gần đây, bánh lái chiếc tàu có vẻ trì trệ. Nhưng, chúng tôi vẫn tiếp tục thi hành hàng chục công tác, và như các ông đã biết, tất cả đều trôi chảy hết."

Sáng hôm sau, nhà báo và phóng viên nhiếp ảnh vậy quanh chiếc Shigure. Tôi gần như bị họ tràn ngập. Họ phỏng vấn thủy thủ đoàn Shigure và viết bài liên quan đến các hoạt động của chúng tôi để đăng tải trên các nhật báo phát hành trên toàn Nhật Bản.

Kể từ lúc đó, chiếc Shigure được xem như là khu trục hạm nổi tiếng nhất trong Hải quân Hoàng Gia Nhật. Các nhật báo địa phương đã dành trọn một trang để đăng toàn những bài viết về chiếc Shigure. Tôi hơi áy náy khi đọc một số bài có những chi tiết thêu dệt thái quá, và tôi cho đây chẳng qua là một loại "bom tinh thần" không hơn không kém. Tuy nhiên các câu chuyện về chiếc Shigure lại đầy ý nghĩa đối với dân chúng trong thành phố hải cảng này.

Tối hôm đó, một buổi dạ tiệc khoản đãi thủy thủ đoàn của chiếc Shigure được tổ chức ở nhà hàng Manriko, nơi thường lui tới của giới Hải quân, chủ nhân là một người đàn bà lớn tuổi mà chúng tôi thường gọi là Oseki-san. Tính tình bà này thật thà chất phác. Bà ta đối đãi với bọn thực khách chúng tôi giống như với lũ trẻ con, gọi ngay cả tên tộc của các vị Đô đốc. Nhưng không ai bắt bẻ sự vụng về có vẻ vô lễ này, vì mọi người đều biết tính tình và tấm lòng nhân ái của bà ta. Khi bước vào nhà hàng, tôi đoán chừng bà ta cũng sẽ lớn tiếng gọi tên, và đưa tay đập mạnh vào vai tôi, như bà ta vẫn thường làm mỗi lần tôi trở về sau một thời gian vắng mặt lâu ngày. Vì vậy, tôi đã kinh ngạc khi thấy Oseki-san, trong bộ y phục đẹp nhất, tiến ra và nghiêng mình xuống để tiếp đón tôi. Bà ta đã dùng những lời lẽ mà tôi chưa bao giờ nghe trước đây.

"Đại tá Tameichi Hara, tôi xin có lời chào mừng ngày trở về của Đại tá. Được chọn để mở tiệc mừng ngày trở về của thủy thủ đoàn vĩ đại dưới quyền chỉ huy đáng kính phục của Đại tá, đó là một danh dự lớn lao cho chốn thô lậu này. Kính xin Đại tá nhận nơi đây những lời lẽ ngưỡng mộ của một kẻ dốt nát như tôi."

"Bà làm sao vậy? Oseki-san? Bà có vẻ khác lạ. Có bị bệnh hoạn gì không? Hay bà muốn xỏ lá tôi?"

"Tôi có dám chế giễu đâu, thưa Đại tá. Đại tá đã làm cho chúng tôi kiêu hãnh. Đại tá nổi tiếng, tôi chưa bao giờ tưởng tượng có ngày Đại tá trở thành một sĩ quan vĩ đại như vậy. Những cử chỉ, những lời lẽ vô lễ của tôi trước đây xin Đại tá bỏ qua."

"Bà đang nói gì đó, Oseki-san? Tôi vẫn là Tameichi, tên uống rượu không bao giờ ngã, và thường quên tính toán sòng phẳng với bà đây mà. Cái điệu này là dám chắc tôi vẫn còn thiếu bà một khoản tiền, phải không?"

"Ồ, Đại tá Tameichi, bây giờ chính Đại tá đang chế giễu tôi. Từ giờ phút này, bất kỳ khoản tiền thiếu nào của Đại tá hay của các thủy thủ dưới quyền Đại tá đều kể như xóa bỏ. Và đêm nay, buổi tiệc của Đại tá tôi cũng kể như của người trong nhà."

Tôi cười to: "Chắc tôi có làm điều gì sai quấy với bà đây. Chứ chẳng không..."

"Đại tá vẫn còn chưa hiểu. Tôi biết có nhiều khu trục hạm bị địch quân đánh chìm, nhưng riêng chiếc Shigure của Đại tá vẫn còn sống sót và không mất một thủy thủ nào. Việc này đối với tôi chẳng khác nào một phép lạ. Tôi từng giao dịch buôn bán với Hải quân hơn 50 năm, ngoại trừ Đô đốc Heihachiro Togo, người đã ca khúc khải hoàn ở eo biển Tsuhima vào năm 1905, tôi chưa từng thấy sĩ quan Hải quân nào vĩ đại như Đại tá."

"Bây giờ tôi biết rồi, Oseki-san! Tôi chắc bà đã đọc báo. Bà đừng tin mấy bài báo đó, không đúng với một nửa sự thật đâu. Chiếc Shigure sở dĩ tồn tại là nhờ thủy thủ đòan các cấp chịu khó làm việc, và nhất là nhờ vào sự may mắn. Hoặc giả là nhờ bà siêng năng cầu nguyện cho chúng tôi trở về. Xem ra món nợ mà chúng tôi còn thiếu bà cũng là một sự may mắn."

Cả hai chúng tôi cùng cười to tiếng, nhưng bà ta vẫn không quên nhắc lại cho tôi biết buổi tiệc này thủy thủ của chiếc Shigure sẽ không phải trả một đồng xu nào hết. Khi dẫn tôi vào bàn tiệc, bà nói khẽ: "Tất cả Geisha ở Sasebo tình nguyện tiếp đãi miễn phí cho buổi tiệc này. Họ nói với tôi là dù cho được trả bất cứ giá nào họ cũng sẽ không phục dịch cho thủy thủ đoàn của hai tuần dương hạm Myoko và Haguro, nếu hai chiếc tàu này mở tiệc."

Không cần phải nói cũng hiểu bữa tiệc đêm đó là buổi tiệc vui vẻ và hoàn toàn thỏa mãn đối với mọi người.

Ngày kế đó, tôi sắp xếp cho thủy thủ đoàn thay phiên nhau về nhà nghỉ phép, mỗi người 10 ngày. Tôi cảm thấy vui lây khi nhìn thấy 80 thủy thủ đi phép đầu tiên rời khỏi Sasebo vào sáng hôm sau.

Nhưng thời gian vui vẻ của tôi chỉ có tính cách từng ngày. Vào ngày 25 tháng 11, một sĩ quan tham mưu ở căn cứ Hải quân ở Sasebo trao cho tôi những bản phúc trình mới nhất. Một trong số những bản phúc trình này liên quan đến cuộc đại bại khu trục hạm được xem là nhục nhã nhất của Hải quân Nhật Bản. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần.

Năm khu trục hạm, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyoto Kagawa, khởi hành từ Rabaul vào lúc 15h30 ngày 24 tháng 11 trong nhiệm vụ chuyển vận lần thứ hai đến Buka. ( Lần đầu tiên do tuần dương hạm Yubari và khu trục hạm Shigure của tôi thực hiện, và không gặp cản trở nào của địch quân). Kagawa không phải là sĩ quan chuyên môn về khu trục hạm, và cũng chưa từng biết đến đánh ban đêm là gì, tuy nhiên ông ta đã lượng định gần đúng mức nguy hiểm của chuyến đi. Ông đã chia 5 khu trục hạm ra thành hai nhóm: soái hạm Onami của ông và chiếc Makinami lo nhiệm vụ thám sát chiến đấu. Và ba chiếc còn lại chỉ thuần túy đảm trách nhiệm vụ chuyển vận.

Lượt đi, đoàn tàu không gặp sự ngăn trở nào, và 3 khu trục hạm chuyển vận - Amagiri, Yugiri, Uzuki - đã đổ 920 binh sĩ và 35 tấn tiếp liệu lên đảo Buka một cách êm thắm trước nửa đêm ngày hôm đó. Sau đó, 3 khu trục hạm này nhậm 300 binh sĩ bệnh tật để mang về Rabaul.

Kagawa , với hai chiếc Onami và Makinami, chạy cách phía trước 3 khu trục hạm chuyển vận khoảng 8 dặm, thình lình bị 5 khu trục hạm Hoa Kỳ ( dưới quyền của Đại tá Arleigh Burke) tấn công bằng ngư lôi. Chiếc Onami chìm tức thì, không bắn được viên đạn nào. Chiếc Makinami bị đạn pháo địch chẻ làm hai, và cũng chìm không lâu sau đó.

Các khu trục hạm Hoa Kỳ truy đuổi ba chiếc tàu Nhật còn lại. Chiếc Yuguri, chạy cuối cùng, xoay lại chống đỡ với kẻ truy đuổi, nhưng vướng ngay vào hỏa lực tập trung của địch quân, và cùng chịu chung số phận với hai chiếc tàu bạn đã chìm trước đó. Hai khu trục hạm còn lại là Amagiri và Uzuki đã chạy thoát.

Kết quả của trận đánh này làm tôi đau buồn tột độ, bởi vì hạm trưởng của chiếc Onami, Trung tá Kiyoshi Kikkawa, là bạn thân của tôi. Kikkawa cùng với Kagawa và toàn thể thủy thủ đoàn đã đi theo chiếc tàu xuống biển sâu. Kikkawa không phải là một sĩ quan ngu dốt hoặc thiếu kinh nghiệm. Tiếng tăm gặt hái được sau trận Guadalcanal. Lúc còn làm hạm trưởng khu trục hạm Yudachi, đã chứng tỏ tài năng của anh ta. Nhưng ngay cả một hạm trưởng dũng cảm và đầy kinh nghiệm, vẫn phải bó tay trước một đối thủ được trang bị các kỹ thuật tối tân, đạt đến kỹ thuật cao độ nhất, có thể nhìn và nhắm trong đêm tối một cách chính xác.

Khi tôi quay lại với nhiệm vụ chiến đấu, không hiểu khả năng của địch quân và khả năng của tôi như thế nào? Câu hỏi này đã gây cho tôi nhiều lo âu. Tôi trở lại ụ nổi và thúc giục ở đây sửa chữa chiếc Shigure càng nhanh càng tốt. Những người phụ trách việc sửa chữa cho biết họ sẽ tận lực, nhưng ít ra phải mất một tháng chiếc tàu của tôi mới thích hợp với nhiệm vụ chiến đấu. Vào ngày 26 tháng 11, tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khi Phó Đô đốc Chuichi Nagumo gọi điện thoại và mới tôi dùng cơm với ông. Tôi hân hoan nhận lời.Lúc còn giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Không Hạm Đội. Nagumo đã chỉ huy lực lượng tấn công Trân Châu Cảng và các cuộc hành quân hàng không mẫu hạm liên tục sau đó dẫn đến trận đánh Midway. Cho đến tháng 7 năm 1942, ông được thuyên chuyển qua nắm giữ Đệ Tam Hạm Đội. Tháng 11 năm 1942, ông được bổ nhiệm vào chức Tổng Tư Lệnh hải khu Sasebo, và tháng 6 năm 1943, ông lại được thuyên chuyển đến hải khu Kure. Hiện tại, tôi vừa biết ông được tái bổ nhiệm vào chức Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Hạm Đội ( Hạm đội đảm trách nhiệm vụ huấn luyện của Nhật Bản). Lời mời của ông khiến tôi cảm kích đồng thời gây ra cho tôi sự ưu tư sau khi biết được các quan điểm và kế hoạch của ông. Sức khỏe Nagumo đã phục hồi. Xem ông có vẻ tươi tắn hơn lần tôi gặp ở Truk cách một năm trước đây. Nhưng qua câu chuyện, tôi thấy ông mất tinh thần rõ ràng. Trong suốt bữa ăn kéo dài khá lâu, ông thúc giục tôi kể lại nhưng kinh nghiệm mà tôi đã trải qua. Ông ngồi nghe chăm chú , và cuối cùng ông nói: "Những giai đoạn huy hoàng của các khu trục hạm đã chấm dứt cùng với trận đánh ở mũi St.Goerge. Tình trạng có thể đổi khác ở hiện tại và tương lai, nếu Nhật Bản có chừng một chục hạm trưởng tài năng như anh." Tôi không biết lới ông nói có đúng không, nhưng theo tôi thấy, dù sức khỏe đã được khôi phục, vị sĩ quan cao cấp già nua này đã ngã lòng. Nhiều lúc tôi nghĩ rằng sự phá sản tinh thần của ông cũng là sự phá sản của Hải quân Nhật Bản. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông. Vào tháng 3 năm 1944, ông lại được thuyên chuyển đến Saipan kiêm nhiệm hai chức vụ Tổng Tư Lệnh Khu vực Trung Thái Bình Dương và Không Hạm Đội thứ 14. Ở đây, ông tiếp tục chiến đấu và thiệt mạng vào tháng 7 cùng năm.Ngày hôm sau, tôi về nhà cùng lúc với 80 sĩ quan và thủy thủ được hưởng 10 ngày phép. Khoảng thời gian nghỉ phép này không giống với những lần nghỉ phép trước của tôi. Sáng, chiều và tối, các sĩ quan và thủy thủ của tôi lần lượt đến nhà, lẻ tẻ từng người hoặc từng tốp 3,4 người, người nào cũng tay nách xách mang rượu sake. Nhiều người ở gần, nhưng cũng có nhiều người ở xa, phải vượt hàng mấy giờ xe lửa, đổ xô về Kamakura, nơi mà gia đình của tôi hiện đang sinh sống. Trong tình cảnh ấy, tôi phải ngồi thù tạc tiếp họ cả ngày lẫn đêm.Họ luôn miệng xin lỗi vợ tôi về sự quấy rầy và những lời nói vụng về, thô tục của họ. Họ giải thích: "Chúng tôi đã thoát chết khỏi các trận đánh đẫm máu nhất. Đó là một phép lạ, và có thể phép lạ này do Đại tá ban cho chúng tôi. Ông là một sĩ quan vĩ đại nhất của Hải quân Hoàng Gia. Chúng tôi phải chia bớt thời gian nghỉ phép cho gia đình của vị sĩ quan chỉ huy đáng kính của chúng tôi. Mong bà thông cảm." Bất kỳ công việc gì của gia đính tôi họ cũng mó tay vào. Họ chơi đùa và dẫn lũ con tôi chạy lang thang khắp nơi. Qua một vài ngày "đấu tửu lượng", có thể nói thân thể tôi đẫm ướt sake. Tôi không bị chết đuối cũng là một điều lạ. Bà vợ, đặc biệt là cô con gái, đã "bí mật tuyên bố" rằng đây là kỳ nghỉ phép khủng khiếp nhất của tôi. Riêng đứa con trai tôi lại khoái mấy ông khách này. Vào ngày 6 tháng 12, tôi trở lại Sasebo với thể xác uể oải vì uống rượu quá độ, cho đến cả một tuần lễ sau tôi mới tỉnh táo lại. Công việc sửa chữa chiếc Shigure hoàn tất vào ngày 20. Sau hai ngày chạy thử, chiếc tàu chứng tỏ đã đầy đủ năng lực chiến đấu, tôi báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Tối Cao biết chúng tôi sẵn sàng quay trở lại Thái Bình Dương. Tôi được lệnh chờ đợi. Ba ngày ăn không ngồi rồi trôi qua một cách lê thê, tôi được gọi đến Tổng Hành Dinh Sasebo. Vị tư lệnh phó đích thân trao lệnh chỉ định tôi vào nhiệm vụ huấn luyện viên ở Trường ngư lôi. Tôi nổi khùng ra mặt: "Nhiệm vụ trên bờ cho tôi? Có thể nào như vậy được chứ? Phó Đô đốc Samejima cho biết là ông cần tôi và mong tôi quay trở lại. Tôi muốn đi! Tôi xin lặp lại: Tôi muốn đi." "Anh nói đúng, Hara, nhưng hãy bình tĩnh, tôi sẽ cho anh biết một việc. Sự chỉ định anh vào nhiệm vụ mới này không dính dáng gì đến hồ sơ phục vụ của anh đâu, như có nhiều trường hợp xảy ra trước đây. Vấn đề này vẫn trong vòng tối mật, nhưng tôi có thể tiết lộ cho anh biết là anh sẽ được giao phó thành lập một trường huấn luyện ngư lôi đĩnh mới. Bộ Tư Lệnh Tối Cao cho rằng ngoại trừ anh không ai có thể đảm trách nhiệm vụ sinh tử của Hải quân này. Đó là nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ trở thành chuyên viên ngư lôi. Đừng nhăn nhó nữa. Bây giờ anh biết rồi, anh sẽ gánh vác một trong những kế hoạch đặc biệt và quan trọng nhất của Hải quân." Qua lời vị Đề đốc, tôi vỡ lẽ, và công nhận công việc tôi sắp làm của tôi quả thật quan trọng. Công việc này Hải quân đã bàn đến từ lâu, nhưng bây giờ mới được chấp thuận. "Hara," vị Đề đốc tiếp, "anh đã gây ra cuộc cách mạng lý thuyết ngư lôi trong Hải quân Hoàng Gia, bây giờ là giai đoạn anh có hy vọng áp dụng lý thuyết này một cách tích cực hơn. Thời gian này có lẽ anh là người biết rõ về khu trục hạm hơn ai hết. Sở dĩ anh được chọn vào nhiệm vụ tối mật này là do sự tiến cử nồng nhiệt của Đề đốc Ijuin ở Tokyo, của Phó Đô đốc Nagumo, Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Hạm Đội và của Phó Đô đốc Omori, chỉ huy trưởng Trường ngư lôi. Chúc anh gặp may mắn." Trở về chiếc Shigure, tôi tập họp thủy thủ đoàn trên sàn tàu và nói với họ: "Các bạn, tôi xin báo cáo cho các bạn biết là tôi phải rời khỏi chức vụ Chỉ huy trưởng Hải đội 17 khu trục hạm và lên đường đến Yokosuka ngay lập tức. Trong 10 tháng qua, chúng ta cùng sống và cùng chiến đấu với nhau, đó là thời gian hạnh phúc nhất và hài lòng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Các bạn đã làm tôi kiêu hãnh, và hiện tại, tôi dám mạnh miệng tuyên bố rằng tôi chưa bao giờ được chỉ huy một thủy thủ đoàn nào tài giỏi như thế này. Hãy giữ vững tinh thần và sự khép léo của các bạn. Tôi biết là các bạn sẽ tiếp tục đạt thắng lợi với vị tân chỉ huy trưởng của các bạn. Chúc các bạn gặp nhiều may mắn. Từ đây có thể tôi sẽ không gặp lại các bạn nữa, nhưng trong thâm tâm tôi sẽ luôn luôn cầu mong cho các bạn đều an lành." Tôi bắt tay từng người một. Một số ấp úng nói vài lời từ biệt, một số đứng lặng yên, nhưng những giọt lệ đã long lanh trên đôi má, trong đôi mắt của tất cả mọi người.

Tôi sắp xếp hành trang trong nửa giờ và đi vòng quanh trên chiếc Shigure lần cuối cùng. Tôi đứng thật thẳng khi chiếc ca nô chở tôi rời xa chiếc tàu đã từng làm tôi kiêu hãnh. Quang cảnh đầy ủy mị trước mắt tôi chua bao giờ được nghe nói đến trong kỷ luật lạnh lùng và phũ phàng của Hải quân Hoàng Gia. Thủy thủ đoàn đứng dài theo song sắt trên tàu và bám víu vào bất cứ vật gì để nhìn theo, vẫy tay la lớn những lời từ biệt. Tôi muốn đứng dậy để vẫy tay đáp trả lại họ, nhưng tim tôi bỗng dưng trĩu nặng. Tôi ngồi yên và đôi mắt ứa lệ.

Phần 5: HẢI XUẤT CUỐI CÙNG

Tôi trình diện phòng nhân viên của căn cứ Hải quân Yokosuka vào ngày 27 tháng 12 năm 1943. Ở đây cho biết việc bổ nhiệm của tôi chưa được sắp xếp và yêu cầu tôi quay trở lại sau các ngày nghỉ tết. Công việc duy nhất mà tôi thấy đang làm ở căn cứ này là dọn dẹp bàn giấy, hiển nhiên là nhân viên phụ trách đang chuẩn bị nghỉ lễ. Làm sao họ có thể chú tâm đến các ngày nghỉ lễ trong giai đoạn khủng hoảng này của cuộc chiến?

Viên sĩ quan tiếp tục tán tỉnh: "Đại tá vừa nghỉ phép, bây giờ Đại tá có thể kéo dài những ngày nghỉ phép này dễ dàng. Được ở nhà trong mấy ngày tết thật là tuyệt diệu, phải không Đại tá? Tôi đoán chừng đây là "tặng phẩm" của Bộ tư Lệnh dành cho các chiến công của Đại tá!"

Thái độ của viên sĩ quan này gây cho tôi sự xúc động và oán ghét. Tôi muốn mắng vào mặt bọn người này và lớn tiếng nhắc lại cho họ nhớ những "cuộc chạy dài" của Hải quân tại quần đảo Solomon, nhưng tôi dằn được, và xoay lưng bước khỏi phòng.

Trường ngư lôi Hải quân ở Oppama, phía chính Bắc Yokosuka. Tôi đi thẳng đến đó, bước vào phòng vị chỉ huy trưởng, và không còn dằn được nữa, tôi đã để hết cho cơn giận dữ bùng nổ trước mặt Phó Đô đốc Omori. Ông có vẻ khó chịu, nhưng sau khi kiên nhẫn ngồi nghe tôi nói xong, ông lên tiếng: "Tôi hiểu anh, Hara, nhưng những người ở đây, ở tại quê hương, họ không bao giờ biết được cuộc chiến đã đến giai đoạn sinh tử như chúng ta, những người đã từng ở mặt trận. Anh phải biết, cũng như tôi, rằng chúng ta không thể nào làm thay đổi thế giới, nhưng chúng ta bắt buộc phải kiên nhẫn và làm tất cả những gì chúng ta có thể làm."

Từ Oppama, tôi quay về gia đình ở Kamakura, khoảng lộ trình dài đúng 20 phút xe lửa, với một dư vị đầy chua chát trong miệng. Trải qua nhiều tháng lần đầu tiên tôi mới được nhìn ngắm kỹ lại đường phố của thị trấn này. Lòng tôi cảm thấy bồi hồi, Kamakura , một trong những nơi đẹp nhất của Nhật Bản, một thành phố thần thánh. Không một quả bom nào rơi xuống Kamakura, nhưng các cửa hàng đều trống rỗng. Dân chúng đi lại bên đường có vẻ mệt lả và đói kém. Việc mất mát các khu vực quanh quần đảo Solomon đang bắt đầu ảnh hưởng đến quê hương chúng tôi, vì các hải trình thông thương và nhập cảng của Nhật Bản tùy thuộc vào khu vực này.

Cơn tức giận của tôi đã giảm bớt, thay vào đó là sự mệt mỏi chán chường. Tôi bước vào nhà với nhiều cảm giác lẫn lộn, nhưng khi vợ con đổ xô đến mừng, tâm hồn trĩu nặng của tôi như được giải tỏa.

Vào ngày 10 tháng Giêng năm 1944, cùng với ngày Đô đốc Koga quyết định di chuyển Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp từ Truk đến Palau, tôi trở thành huấn luyện viên cao cấp của Trường Ngư Lôi.

Một việc lạ lùng là Nhật Bản không sử dụng các tàu phóng lôi vào những ngày đầu của cuộc chiến. Mãi bận tâm với các loại đại chiến hạm, Bộ Tư Lệnh Hải quân không còn thì giờ đâu lo đến việc phát triển loại tàu phóng lôi và chiến thuật của chúng. Các sĩ quan Nhật Bản đã phải nếm mùi sự nhanh nhẹn của các tàu phóng lôi Hoa Kỳ ở quần đảo Solomon. Trong tình thế hiện tại, việc phát triển tàu phóng lôi và huấn luyện thủy thủ sử dụng loại tàu này là phản ứng tự nhiên, nhưng đã quá trễ.

Những sai lầm của Hải quân Nhật Bản không chỉ trên phương diện tàu phóng lôi mà thôi. Ngay cả các dự án huấn luyện phi công và phát triển radar cũng bị bỏ lửng quá lâu. Vào cuối năm 1943, các cơ xưởng điện tử của chúng tôi đã hoạt động cả ngày lẫn đêm trong việc sản xuất radar, lý do là vào thời gian đó chiến hạm Nhật Bản bị chiến hạm Hoa Kỳ có trang bị radar đánh chìm quá nhiều tại quần đảo Solomon.

Trước chiến tranh, trong số hàng nhiều ngàn thanh niên xin theo học các khóa huấn luyện phi công, nhưng Hải quân chỉ chọn lựa một vài người là cùng. Cho đến cuối năm 1943, Hải quân vẫn không thay đổi chính sách này. Khi hầu hết phi công bị cuộc chiến thiêu rụi, Hải quân mới hối hả huấn luyện ồ ạt, nhưng các cơ sở sản xuất phi cơ lại không thể nào đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi.

Tất cả 100 sinh viên sĩ quan thụ huấn ở Trường Ngư Lôi đều xuất thân từ các trường đại học hoặc cao đẳng, thoạt đầu đã tình nguyện theo học các khóa huấn luyện phi công và các nhiệm vụ liên quan đến phi hành. Sau ba tháng huấn luyện sơ khởi về ngành bay, tất cả những sinh viên sĩ quan này đột nhiên bị chuyển sang học các khóa huấn luyện nhiệm vụ trên mặt biển. Lý do đơn giản là nếu họ có tiếp tục theo đuổi cho hết các khóa học theo sở nguyện đi nữa, Hải quân cũng không có phi cơ đâu mà cho họ lái.

Các sinh viên sĩ quan của tôi, tất cả đều khoảng trên 20 tuổi, rất nhiệt tâm và đứng đắn, nhưng tất cả đều thuộc thành phần trừ bị nên có vẻ tài tử, hoàn toàn khác biệt với các sĩ quan xuất thân từ Hàn Lâm Viện mà tôi đã từng giảng dạy về lý thuyết phóng ngư lôi của tôi ,cũng chính tại quân trường này vài năm trước đây. Tôi hiểu với những tay tài tử này, tôi cần phải kiên nhẫn rất nhiều.

Trong nhiệm vụ giảng dạy, tôi rất cứng rắn và không ngần ngại chỉ trích các lỗi lầm của sinh viên. Phương diện kỷ luật cũng phải áp dụng chặt chẽ, nhưng nhóm sinh viên trừ bị hiện thời của tôi giống như các sinh viên dân sự. Tôi nhận thấy không thể nào áp dụng lối quở trách mà không giải thích tỉ mỉ các lỗi lầm của họ. Làm cách nào biến các tay tài tử này thành các thủy thủ tàu phóng lôi đầy đủ khả năng trong vòng 3 tháng huấn luyện? Vì quá chán nản, nhiều lần tôi đã nghỉ đến việc từ chức.

Chiếc tàu phóng lôi mới đến trường vào tháng hai và khả năng của nó đã làm tôi thối chí. Sau khi chạy thử chiếc tàu 20 tấn này, tôi quay vào cầu tàu và mạnh miệng tuyên bố: "Đây không phải là một tàu phóng lôi. Nó chỉ là loại du thuyền không hơn không kém. Cái ngữ này vô dụng trên phương diện chiến đấu thật sự."

Omori và các huấn luyện viên dưới quyền tôi đứng lặng lẽ, mặt mày tiu nghỉu. Anh chàng kỹ sư phác họa đồ án chiếc tàu mặt mày xanh xám, bước lên và giải thích có tính cách biện hộ rằng chiếc tàu này được trang bị động cơ là một động cơ máy bay cũ! Việc này không có gì khó hiểu, bởi lẽ chúng tôi không thể nào sản xuất máy móc mới đúng mức đòi hỏi của loại tàu này. Có quá nhiều trở ngại, và thiếu thốn dụng cụ là trở ngại quan trọng nhất.

Bực mình và chán nản vô tả, tôi im lặng bỏ đi.

Một vài "tàu phóng lôi " mới khác được đưa đến, nhưng đó cũng chỉ là "du thuyền". Mức độ sản xuất, dưới kế hoạch khẩn cấp thời chiến, theo tôi biết, chỉ có khoảng 200 tàu phóng lôi tải trọng từ 15 đến 30 tấn được hạ thủy kể từ đầu năm 1943. Tất cả các tàu này đều trang bị với máy phi cơ cũ và không chiếc tàu nào đạt được tốc độ hơn 25 hải lý. Vỏ của loại tàu này được làm bằng gỗ hoặc thép, dài khoảng 12,5m đến 15,5m, thủy thủ đoàn gồm 7 người, trang bị hai ngư lôi nhỏ và một đại liên 13mm. Nhưng không chiếc nào đạt đến phẩm chất theo mong muốn của tôi. Một quốc gia có thể sản xuất được những thiết giáp hạm lớn nhất thế giới mà lại không thể nào sản xuất được một chiếc tàu phóng lôi vừa ý, đó là một việc thật đáng buồn.

Chương trình huấn luyện một khóa học gồm 100 sinh viên của tôi kéo dài một vài tuần lễ và kết thúc vào tháng 11 năm 1944. Những điều tôi nêu ra sau đây để lưu ý các sinh viên tốt nghiệp đã khiến cho Omori và các huấn luyện viên khác không hài lòng: "Các tàu phóng lôi của chúng ta, thật không may, đều có khả năng dưới chân bất kỳ chiếc tàu nào cùng loại của đối phương. Như tôi đã từng lặp đi lặp lại hàng ngàn lần với các bạn, rằng chiến thắng của các bạn sẽ nhờ cậy vào sự vụng trộm, bởi lẽ các bạn sẽ không mong gì tồn tại nếu mặt đối mặt chiến đấu với địch quân. Các bạn sẽ phải lợi dụng mọi phương thức che dấu hoặc đánh lừa mới mong thành công. Nói một cách khác, các bạn không bao giờ nên tạo cho chiếc tàu của các bạn trở thành những mục tiêu lộ liễu trước họng súng của địch quân."

Giảng dạy là một công việc rất dễ chán nản. Các khung cửa sổ của lớp học nhìn ra hải cảng trầm lặng Yokosuka. Quang cảnh trước mắt đã gợi trong lòng tôi những tiếng kêu gọi thì thầm của đại dương. Đời sống trên một khu trục hạm là một đời sống đầy căng thẳng và nhọc nhằn, nhất là những ngày hoạt động quanh quần đảo Solomon, nhưng tôi đã nhìn lại như nhìn bóng dáng hạnh phúc đã mất, cho dù hạnh phúc đó mong manh, hòa hợp lẫn lộn với vui mừng. Tất cả những cảm giác đó hoàn toàn thiếu vắng ở nơi đây.

Những tin tức từ tiền tuyến đưa về hậu phương thường rất muộn màng và thêm bớt. Thỉnh thoảng tôi đến Tổng Hành Dinh Yokosuka để dò hỏi các tin tức, và biết được chút ít về tình trạng của các chiếc tàu do tôi chỉ huy trước đây.

Trong suốt năm 1943, khu trục hạm Amatsukaze đã đi đi lại lại giữa quê hương và Đông Nam Thái Bình Dương trong nhiệm vụ hộ tống các đoàn chuyển vận mà không gặp tại nạn nào. Nhưng khi tôi đến trường này không lâu, tôi đã xúc động mạnh khi nghe tin Amatsukaze bị trúng ngư lôi cách phía Bắc đảo Spratly ( là đảo gì đây các bồ tèo? ) 250 dặm vào tháng Giêng năm 1944 và 80 người thuộc thủy thủ đoàn thiệt mạng. (Do khu trục hạm Hoa Kỳ Redjin, hạm trưởng là Trung tá King phóng 4 quả ngư lôi, mà theo King, đã trúng 4 chiến hạm Nhật nhưng chỉ một chiếc chìm.)

Mặc dù bị hư hại nặng, khu trục hạm Amatsukaze vẫn ráng lết đến cảng Sài Gòn. Ở đây, chiếc tàu được sửa chữa khẩn cấp trước khi chạy qua Singapore để sửa chữa toàn diện, cho đến tháng 3 năm 1945 mới hoàn tất, và sau đó trở lại tham chiến trên đại dương.

Khu trục hạm Shigure vẫn là soái hạm của vị tân chỉ huy trưởng hải đội, được sử dụng vào nhiệm vụ hộ tống sau khi tôi rời khỏi Sasebo. Tôi buồn hơn hết khi nghe tin chiếc tàu bị trúng bom vào ngày 17 tháng 2 năm 1944, chỉ hư hại nhẹ nhưng có đến 21 thủy thủ thiệt mạng. Và gây ra xúc động cho tôi hơn nữa, khi biết chiếc tàu bị trúng bom ngay hải cảng Truk, mà tôi từng xem như là một nơi an toàn và được phi cơ địch miễn trừ. Tôi xúc động mạnh mẽ, bởi chiếc Shigure đã từng tồn tại sau các cuộc tấn công dữ dội của phi cơ địch ở quần đảo Solomon và Rabaul, lại trở thành nạn nhân của một cuộc không tập ngay ở Truk.

Nhiều tin tức khủng khiếp khác dồn dập bay đến. Vào ngày 30 tháng 3, một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, dưới quyền của Đô đốc Raymond A. Spruance, tấn công quần đảo Caroline, đập tan các hệ thống phòng thủ của Nhật Bản trên đảo Palau. Chiều ngày đó, Đô đốc Koga rời khỏi đảo Babelthuap với toàn bộ Bộ Tham Mưu của ông đến Davao, thuộc Philippines, và từ đó không nghe tin tức gì về ông nữa. Koga và Bộ Tham Mưu sử dụng hai thủy phi cơ và đã gặp bão khi vào không phận Philippines. Chiếc chở Koga đã rơi, riêng chiếc thứ hai, có Phó Đề đốc Shigeru Fukudome, bay ngoài rìa của trận bão, hiển nhiên là không nhìn thấy phi cơ của Koga rơi, đã cố gắng đáp xuống đảo Cebu. Cái chết của Koga được giấu kín cho đến ngày 3 tháng 5 năm 1945, khi Đô đốc Soemu Toyoda được công bố kế nhiệm ông. Thời gian trước đó, Phó Đô đốc Shiro Takasu, Tổng Tư Lệnh Hạm đội Khu vực Đông Nam, tạm thời điều khiển Hạm Đội Hỗn Hợp.

Trong lúc đó, tôi được lệnh đến Kawatana, gần Sasebo, ngay sau khi khóa huấn luyện của tôi kết thúc. Nhiệm vụ của tôi là thiết lập một trường huấn luyện tàu phóng lôi mới ở đây, bởi lẽ Oppama không còn thích hợp với số sinh viên sĩ quan càng ngày càng gia tăng. Chuyển động này sở dĩ xảy ra có thể là do việc tôi luôn luôn than phiền về tình trạng học tập và trang thiết bị bết bát ở Oppama.

Cho dù lý do nào đi nữa, sự thay đổi này vẫn được tôi tiếp nhận nồng nhiệt. Phiền não làm tôi mệt mỏi, nhưng viễn ảnh được chỉ huy một quân trường độc lập khiến tôi tươi tỉnh ra.

Kawatana là một làng đánh cá nhỏ nằm cạnh bờ biển của Vịnh Omura. Nhiều năm trước, Hải quân có một căn cứ thí nghiệm ngư lôi nhỏ ở đây, nhưng hiện thời cơ sở này không còn được sử dụng. Đến Kawatana vào ngày 3 tháng 5, tôi nhận thấy nhà cửa tại căn cứ thí nghiệm ngư lôi cũ đều đổ nát. Tôi gặp khoảng mươi nhân viên bảo trì còn lưu lại đây. Khi biết tôi xem qua cảnh hoang tàn trước mắt này với ý định đặt cơ sở huấn luyện cho một chiến thuật "cách mạng" trên mặt biển của Hải quân, họ vừa kinh ngạc vừa có vẻ chế giễu tôi. Thái độ này cũng khiến tôi buồn cười.

Viên sĩ quan chỉ huy nhóm nhân viên bảo trì nói cho tôi biết Đô đốc Koga xem như đã mất tích, và Đô đốc Soemu Toyoda được chỉ định kế vị ông trong chức vụ Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp. Tin này khiến tôi kinh ngạc còn hơn khi thoạt đầu nhìn thấy cảnh hoang tàn của ngôi trường tương lai do tôi chỉ huy. Tôi cảm thấy Đô đốc Toyoda không thể nào là nhân vật thích hợp trong chức vụ mới này. Khi tôi rời Oppama, ông còn chỉ huy căn cứ Hải quân Yokosuka. Thoạt tiên ông ta là một Ủy viên trong Hội Đồng Chiến Tranh Tối Cao, và trước đó, vào những ngày đầu cuộc chiến, ông giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh Hải khu Kure. Do đó, Toyoda chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt bất kỳ trận đánh nào trong cuộc chiến. Giống như trường hợp Koga được chỉ định kế nhiệm Yamamoto, giữa lúc ông chỉ nằm ru rú tại các hải phận yên tĩnh của Trung Hoa, người kế nhiệm ông cũng là một người không có kinh nghiệm chiến đấu. Vào thời gian khủng hoảng này, tại sao Bộ Tư Lệnh Tối Cao lại đặt một nhân vật mà hầu hết các thủy thủ ở tiền tuyến không biết đến thành tích vào chức vụ Tổng Tư Lệnh? Câu hỏi này cứ ám ảnh trong tôi suốt thời gian bắt tay vào công việc tổ chức ngôi trường mới của tôi.

Một tuần sau đó, 200 sinh viên sĩ quan nhập học. Như khóa huấn luyện tàu phóng lôi của tôi ở Oppama, tất cả sinh viên này đều được chuyển sang từ các trường huấn luyện phi hành. Cùng với 6 sĩ quan phụ tá, ba trong số này lấy từ các sĩ quan vừa tốt nghiệp ở Oppama, tôi lại bắt đầu nghề thầy dạy đáng chán của tôi.

Tiên liệu của tôi về Toyoda đã sớm được chứng minh bằng một sự thật đau buồn. Chức vụ mới quá lớn đối với ông ta. Vào hai ngày 19 và 20 tháng 6, lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm của Phó Đô đốc Jisabura Ozawa phải chịu đựng một cuộc đại bại đầy bi thảm, trong một trận đánh thường được gọi chế giễu là "Cuộc bắn gà ở Marianas". Ozawa cố sử dụng các chiến đấu cơ có tầm hoạt động xa của ông để chống lại lực lượng Hoa Kỳ. Nhưng các vị Đô đốc Toyoda, Ozawa và Kurita, những người đã vạch ra kế hoạch hành quân này, đã không đo lường đúng sự hữu hiệu của radar, tài năng của phi công và khả năng của phi cơ đối phương ngày càng gia tăng. Họ cũng không nắm vững trình độ của các phi công Nhật Bản ở hiện tại như thế nào. Kết quả, Ozawa mất ba hàng không mẫu hạm và 500 phi cơ. Lực lượng đặc nhiệm cuối cùng đầy đủ thực chất của Hải quân tan tành. Bốn tháng sau đó, Ozawa mang ba hàng không mẫu hạm khác nhưng không có phi cơ thực hiện một nhiệm vụ "chim mồi" ở Philippines và cũng mất luôn cả ba mà không đạt được thành quả nào.

Hầu như mỗi ngày đều có những tin tức gây bàng hoàng đến nỗi chúng trở thành quen thuộc và gần gũi với chúng tôi. Một bản tin truyền thanh phát đi vào chiều ngày 10 tháng 7 cho biết Saipan rơi vào tay địch quân trong ngày trước đó và Phó Đô đốc Nagumo đã tuẫn tiết. ( Nagumo dùng súng ngắn để tự sát vào ngày 6 tháng 7, nghĩa là trước khi Saipan thất thủ 3 ngày.) Tôi đứng chết lặng trong phòng khi nghe tin này. Ngay lúc đó, một công điện từ Yokosuka gửi đến, chỉ thị tôi từ đây trở về sau, công việc huấn luyện sinh viên hãy nhắm vào mục đích chính là dự trù chống lại địch quân đổ bộ lên các bờ biển Nhật Bản.

Phản ứng của tôi đối với lệnh này là một cái gì mà tôi sẽ không bao giờ hiểu được, chỉ biết rằng nó gây cho tôi sự xúc động kỳ dị. Tay tôi run rẩy và mặt tôi đỏ bừng lên vì giận dữ. Tôi xé nát bức công điện, quăng vào sọt rác và ngồi xuống bàn thảo một thỉnh nguyện thư dâng lên Nhật Hoàng Hirohito. Đó là một hành động phạm thượng, nhưng lúc ấy tôi không thể nào tự kềm chế mình được.

Tôi viết rằng Nhật Bản đang bại trận, và tôi kêu gọi Nhật Hoàng hãy nhìn thẳng vào tình thế thật sự. Tôi nêu ra tất cả các chức vụ then chốt trong Lục quân và Hải quân đều do các sĩ quan già nua, không quen với loại chiến tranh hiện đại, và các cuộc cãi cọ cứ tiếp tục xảy ra giữa Lục quân và Hải quân khiến cho hiệu năng hoạt động của cả hai lĩnh vực quân sự và kỹ thuật ngưng trệ, như sự xuống dốc thảm hại trong công việc sản xuất phi cơ và tàu phóng lôi chẳng hạn. Và tôi thúc giục Nhật Hoàng hãy mưu tìm phương cách chấm dứt chiến tranh, và, xem như là bước đầu tiên, cách chức tất cả các vị Đô đốc và tướng lĩnh không đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ.

Tôi đã trở thành một tay cách mạng cuồng tín. Đó có lẽ là hậu quả của những nổi bực dọc kéo dài quá lâu trong nhiệm vụ giảng dạy của tôi. Việc làm của tôi không chỉ có tính cách bất phục tùng mà còn có tính cách phản động. Và - theo các luật lệ của Hải quân - tôi có thể bị đưa ra tòa án quân sự. Nhưng tôi không hề nghĩ đến những điều này. Tôi quên mọi thứ, tôi chỉ biết quốc gia của tôi hiện đang bước dần đến miệng vực.

Khi viết xong thỉnh nguyện thư, tôi đáp xe lửa lên Tokyo. Vào ngày 12 tháng 7, tôi đi thẳng vào Bộ Hải Quân, và người đầu tiên mà tôi gặp là Đề đốc Hoàng thân Takamatsu, bào đệ của Nhật Hoàng Hirohito. Tôi vồ ngay lấy ông.

"Hoàng thân Takamatsu, Ngài có thể tiếp riêng tôi được không?"

Hoàng thân nhìn tôi, có lẽ ông nghĩ tôi là một tên dở khùng đở điên, nhưng ông đã gật đầu. Tôi bước theo Hoàng thân Takamatsu vào văn phòng riêng của ông. Nơi đây, tôi trao thỉnh nguyện thư cho ông, yêu cầu ông dâng lên Nhật Hoàng."

Ông hỏi: "Tôi có thể đọc trước hay không?"

Tôi đáp: "Dạ được, thưa ngài."

Ông ngồi xuống mở tờ giấy ra và chăm chú đọc. Chân mày ông nhíu lại có vẻ xao xuyến. Đọc xong, ông quay lại nhìn tôi, hình như ông muốn xác định xem có phải tôi là một tên điên thật hay không, và ông xếp tờ giấy bỏ vào túi áo.

"Hoàn toàn đúng, Hara." Ông vừa nói vừa đứng dậy. "Hãy bảo trọng lấy thân."

Tôi không nhìn thấy rõ rệt những gì mà Hoàng thân Takamatsu thực hiện theo lời yêu cầu của tôi, nhưng có điều ông giữ rất kín hành động của tôi trong giới Hải quân. Nếu các lời lẽ tôi viết đến tai Bộ trưởng Hải quân, hoặc Bộ Tư Lệnh Hải quân, chắc chắn tôi sẽ không được yên thân.

Sau khi trao thỉnh nguyện thư cho Hoàng thân Takamatsu, tôi lập tức đón xe lửa trở về Kawatana để chờ phản ứng của Nhật Hoàng. Khi không thấy động tịnh gì hết, tôi dần dần định tâm và ý thức rằng hành động của tôi hoàn toàn vô nghĩa, nếu không nói là bị lăng nhục. Không Nhật Hoàng mà cũng không có bất kỳ nhân vật nào khác trong Hoàng tộc đưa ra các hành động dựa trên thỉnh nghuyện thư của tôi. Hơn nữa, dưới thể chế hiện thời, Nhật Hoàng không có thực quyền, vì vậy, ngài không thể đưa ra bất kỳ hành động có tính cách quyết định nào. Tuy nhiên, Nhật Hoàng đã lấy lại chút ít quyền hành hơn một năm sau đó, khi Ngài tự quyết định sự đầu hàng của Nhật Bản.

Đành chịu thua với số phận, tôi chăm chú với nhiệm vụ, và khóa học bao gồm 200 sinh viên sĩ quan của tôi kết thúc vào tháng 7. Đầu tháng 8, các căn trại trong quân trường của tôi bị 400 tân sinh viên sĩ quan tràn ngập. Như khóa đàn anh, những người mới đến đều được chuyển từ các trung tâm huấn luyện bay. Khi nhìn thấy họ, một số thiếu mền một số thiếu chiếu, nằm ngủ sắp lớp như cá mòi trên mặt đất, tôi quyết định dẹp bỏ tất cả phiền muộn để trở về với bổn phận của một ông thầy tận tụy. Những thanh niên này đều là những người yêu nước nhiệt thành, họ xứng đáng với sự tận tụy của tôi.

Gần cuối giai đoạn huấn luyện 400 sinh viên sĩ quan này, mặt trận Philippines bộc phát. Các cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ ở Leyte vào ngày 20 tháng 10 đưa đến một loạt đụng độ trên mặt biển, làm tiêu tán tất cả những gì còn lại trong tay Hải quân Hoàng Gia. Vào ngày 27, một thông cáo đầy bất ngờ cho biết việc thành lập phi đội Thần Phong, một đơn vị không kích tự sát gồm toàn những người tình nguyện.

Tin tức gây choáng váng này đã khuấy động ngôi trường Kawatana một cách khủng khiếp. Nó cũng là một cú đấm thẳng vào tôi, vì từ lâu tôi vẫn luôn chủ trương sinh mạng của con người phải được bảo vệ. Từng nuôi nấng hy vọng ra đi và trở về cho các sĩ quan của tôi, chiến thuật mới này đối với tôi quả thật phi nhân tính và không thể dung thứ được. Tuy nhiên, tư tưởng chống đối của tôi đã lắng xuống, khi tôi được đọc những báo cáo chi tiết về các cuộc tấn công "chắc trúng nhưng cũng chắc chết" này do các phi công tình nguyện thực hiện. Trong căn phòng lặng lẽ, tôi đã bật khóc.

Vào cuối tháng 10, 400 sinh viên của tôi tốt nghiệp, qua một buổi lễ mãn khóa, và cũng là buổi lễ tiếp đón 400 tân sinh viên khác. Trong tuần đó, một ông khách "không chờ đợi" đã đến viếng thăm ngôi trường của chúng tôi. Đó là người bạn cũ của tôi hồi còn ở Rabaul, Đại tá Toshio Miyazaki, nguyên chỉ huy trưởng hải đội 17 khu trục hạm, và hiện thời là huấn luyện viên cao cấp của Trường Ngư Lôi ở Oppama.

Sau khi tuyên bố cuộc viếng thăm với tư cách riêng, Miyazaki đã tiết lộ cho tôi biết ông đã đến đây bằng chuyến xe lửa đặc biệt có chở một món hàng lạ, và yêu cầu tôi đi theo ông để xem qua. Bước vào sân ga, ông dẫn tôi thẳng đến một toa hàng được một nhóm lính vũ trang canh gác cẩn thận. Nhóm lính này đi theo xe lửa từ Yokosuka đến đây. Các món hàng được mang đến sở thí nghiệm ngư lôi cũ và mở ra. Đó là 3 tàu phóng lôi nhỏ và nhiều dụng cụ để lặn dưới mặt nước.

Các tàu phóng lôi, đóng bằng ván ghép và chạy bằng máy xe hơi, trông giống như loại xuồng máy thông thường. Điều mới lạ trong loại tàu phóng lôi này là phía trước chứa đầy chất nổ cực mạnh. Khi Miyazaki khẽ nói: "Đây là các Kamikaze trên mặt biển," tôi thấy tim như nhói lên.

Để phá tan bầu không khí nặng nề, tôi hỏi về các dụng cụ lặn. Miyazaki giải thích: "Những cái đó để người nhái sử dụng. Với bình dưỡng khí, họ sẽ mang một khối chất nổ lặn xuống đáy biển để gắn vào chân vịt hoặc bánh lái tàu của địch quân."

Ông ta cùng tôi lặng lẽ trở lại trường, và ở đây, ông đã giải thích rõ từng chi tiết. Ý kiến về các tàu phóng lôi nhỏ bé chỉ một hoặc hai người sử dụng và người nhái này là do Bộ Tư Lệnh Tối Cao đưa ra trong thời gian tôi đến Kawatana. Chiến thuật tự sát là đề tài đã từng được tranh luận sôi nổi và giằng co cho đến khi các đơn vị Kamikaza được thành lập ở Philippines, và hiện thời chiến thuật này đã được quyết định dứt khoát với tất cả sự ưu tiên dành cho nó.

Miyazaki nói: "Biết rõ anh, Phó Đô đốc Omori đã phái tôi đến đây để giải thích với anh về chiến thuật này và xin ý kiến. Và tôi cũng biết rõ anh, tôi ý thức được nhiệm vụ này sẽ gây phiền lòng cho anh. Tôi sẽ nghe theo bất kỳ điều gì anh chỉ dạy nhưng tôi cũng cần nhắc anh lại một lần nữa, rằng chiến thuật này đã được Bộ Tư Lệnh Tối Cao xem như là chiến thuật hàng đầu."

Tôi ngẫm nghĩ sự lưu ý của ông ta, và sau khi đắn đo, tôi đáp: "Tôi biết cảm nghĩ của anh như thế nào, Miyazaki, và tôi cũng biết tốt hơn tôi không nên tranh luận với anh về vấn đề này. Nhưng anh cũng như tôi đều biết rằng huấn luyện gấp rút cho các sinh viên sĩ quan của trường này thì sẽ chẳng khác nào đút thịt vào miệng cọp, khi họ thi hành nhiệm vụ với những chiếc du thuyền chậm chạp được gọi là tàu phóng lôi này. Tôi thấy rất rõ là họ sẽ có rất ít dịp may để sống sót trở về. Kế hoạch đưa ra đã đành là phải thi hành, nhưng yêu cầu người khác cam tâm chịu chết, cho dù chịu chết trước những đối thủ vượt trội mọi mặt, lại là một việc hoàn toàn khác biệt. Làm sao chúng ta có thể yêu cầu những con người trẻ tuổi đó tự sát được?

Miyazaki nói một cách nghiêm nghị: "Hara, suốt 50 giờ mất ăn mất ngủ trên các toa xe chở mấy món hàng này từ Yokosuka đến đây, tôi không lúc nào không suy nghĩ về vấn đề anh vừa nói. Chúng ta chỉ còn biết một cách duy nhất là thành thật giải thích cho họ hiểu tình thế tuyệt vọng ở hiện tại. Tôi sẽ đích thân kể lại cho các sinh viên của anh trường hợp thiệt mạng của những thủy thủ thuộc hải đội khu trục hạm của tôi, mặc dù những thủy thủ này khéo léo và có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề. Tôi cũng sẽ nói với họ rằng hiện thời chúng ta đang hấp hối ở Philippines, tất cả binh sĩ của chúng ta đang đối mặt với tử thần. Tôi nghe tin các phi công Thần Phong đều nhất trí tình nguyện thực hiện các phi vụ tự sát bất thường sau khi nghe tin 500 đồng nghiệp từng trải qua hàng ngàn giờ bay đã bị giết như ruồi ở Marianas. Đây là những dữ kiện hợp lý nhất để trình bày với họ. Anh từng nổi tiếng là có phép lạ trong việc mang thuộc cấp trở về một cách an lành, ngay cả trong các trận đánh đẫm máu ở Solomon, do đó Phó Đô đốc đã gửi tôi đến anh để bàn thảo nhiệm vụ khó nuốt này. Một lẽ nữa, tôi biết và tôi hiểu anh, vì vậy, tôi thật sự muốn đến đây."

Miyazaki, thường thường là một loại anh hùng rơm, nông nổi và thờ ơ, bây giờ chẳng khác nào một kẻ thua trận đáng thương. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, tôi nói:

"Cám ơn anh, Miyazaki, quả thật anh đang lâm vào tình trạng bối rối khi đến đây. Tôi đã suy nghĩ kỹ những gì anh vừa nói. Tôi tán thành ý kiến khôn khéo của anh. Riêng tôi, tôi sẽ kể lại những câu chuyện xoay quanh các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi trước đây, chẳng hạn như chiếc Samidare dày dạn chiến trận của tôi. Tôi vừa nghe nói chiếc tàu này, mặc dù lập biết bao thành tích to lớn, đã bị trúng ngư lôi và chìm gần Palau, mang theo phân nửa thủy thủ đoàn. Nó bị tàu ngầm địch tấn công! Đó là một con chuột ăn một con mèo! Thật mỉa mai làm sao!

"Khu trục hạm Shiratsuyu còn gặp phải tai nạn tồi tệ hơn nữa. Chiếc tàu này trước đây đã va chạm với chiếc Samidare ở vịnh Empress Augusta, hồi tháng 6 vừa qua tôi nghe nói nó lại đụng nhau với một chiếc tàu chở dầu gần đảo Mindanao và chìm lỉm cùng với toàn thể thủy thủ đoàn 224 người."

"Soái hạm cũ của tôi, chiếc Shigure, được mệnh danh là "khu trục hạm kiên cố", đó là chiến hạm duy nhất thuộc lực lượng Nishumure còn sống sót sau trận đánh ở Vịnh Leyte. Nhưng tôi chắc rằng số phận chung cuộc của nó không còn bao lâu nữa. Chiếc tàu đáng yêu này, với tất cả thủy thủ cũ của tôi ... Đó là định luật chung trong một cuộc chiến."

Tới đây, tôi và Miyazaki không còn gì để nói với nhau nữa. Chúng tôi bắt tay và đi ngủ.

Sáng hôm sau, tôi ra lệnh tập họp toàn trường. Miyazaki lên tiếng đầu tiên, giải thích về các tàu phóng lôi mới, dụng cụ lặn và công dụng của chúng. Không khí trong sảnh đường căng thẳng, nhóm thính giả ngồi yên lặng nghe với thái độ không tin tưởng mấy.

Khi Miyazaki dứt lời, tôi chậm rãi bước lên bục gỗ và lên tiếng: "Các bạn đến đây để học hỏi về các loại tàu phóng lôi thông thường, nhưng vừa rồi các bạn đã nghe qua hai loại vũ khí mới do Đại tá Miyazaki trình bày. Chúng sẽ nằm trong chương trình giảng dạy của trường này. Bắt đầu từ ngày mai, ba lớp huấn luyện sẽ được mở ra cho các bạn. Các bạn có quyền tự do chọn lựa một trong ba lớp học này, nếu xét thấy thích hợp với khả năng và khuynh hướng của các bạn. Tôi muốn sự lưa chọn của các bạn không do áp lực hoặc ảnh hưởng của bất kỳ người nào. Sự lựa chọn này phải do ý thức của các bạn. Đây là quyết định của tôi. Trưa và chiều hôm nay, hoặc nếu cần, thời gian sẽ kéo dài hơn nữa, tôi sẽ ở tại văn phòng của tôi, để mỗi người trong các bạn đến trình riêng với tôi về sự lựa chọn của mình. Sẽ không có bất kỳ tra hỏi hoặc yêu cầu giải thích nào được đưa ra nhằm tìm hiểu xem tại sao các bạn lại chọn lựa như vậy. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với các bạn."

Bốn trăm sinh viên sĩ quan, từng người một, bước vào văn phòng của tôi. Người cuối cùng rời khỏi văn phòng lúc 4 giờ sáng. Sau đó, tôi gọi Miyazaki, và chúng tôi phân loại các mảnh giấy có đề tên sinh viên cùng lớp học mà họ đã lựa chọn. Có 200 sinh viên chọn lớp tàu phóng lôi bình thường, 150 chọn lớp tàu phóng lôi tự sát và 50 người chọn lớp người nhái.

Miyazaki, đã kiệt sức sau nhiều đêm mất ngủ, đã thở khì nhẹ nhõm. Tôi cũng không khác gì ông ta.

Các tàu phóng lôi tự sát được đặt tên rất thơ mộng - Shinyo - có nghĩa là "kẻ lay động đại dương". Người nhái mang tên Fukuryu, có nghĩa là "con rồng bò".*******

Hàng chục cơ xưởng Nhật Bản đã đóng khoảng 6.000 loại tàu nhỏ bé này. Mỗi chiếc có chiều dài từ 4.5 đến 5.5 mét, nặng từ 1,35 đến 2,15 tấn, hầu hết đều được gắn một động cơ có thể đạt được tốc độ 26 hải lý. Chỉ một vài chiếc vỏ bằng thép còn lại đều làm bằng gỗ nên rất dễ vỡ.

Xét trên mục đích tấn công, những "kẻ lay động đại dương" tỏ ra rất bết bát. Sau khi 3 tàu phóng lôi được đưa đến Kawatana không lâu, tôi yêu cầu căn cứ Không Hải quân ở omura phái một chiến đấu cơ tham dự vào một cuộc tấn công thực tập. Một huấn luyện viên lái một tàu phóng lôi ra khơi, nhưng khi phi cơ sà thấp ngay trên đầu, hắn ta đã bỏ chiếc tàu để nhảy xuống biển. Phi cơ quần lại lần thứ hai và xả súng đại liên bắn vào con tàu mong manh, nghiền nó ra thành từng mảnh.

***** : ( Như vậy là thực tập? Hay là huấn luyện viên được yêu cầu chết thật để làm mẫu? Bó tay với kiểu thực tập của người Nhật.)

Trang bị cho những "con rồng bò" lại còn tồi tệ hơn nữa. Hơn 50 sinh viên, toàn là những tay bơi lội tài giỏi, đã gặp nhiều rắc rối trong suốt thời gian thụ huấn. Ngay cả các bình dưỡng khí cung cấp cho nhà trường, không có cái nào là hoàn hảo. Nhiều sinh viên ngã bệnh khi lặn xuống biển vào ngay ngày đầu tiên của lớp học.

Những nỗ lực có tính cách hấp tấp như vậy có thể nào chống trả nổi địch quân mạnh mẽ, được trang bị toàn thiết bị khoa học tân tiến nhất hay không? Niềm bi quan bao trùm tâm hồn tôi. Mỗi ngày ở tại ngôi trường này là thêm mỗi sự chán nản đến với tôi. Tôi bắt đầu uống rượu nhiều trở lại.

Khoảng 100 sinh viên tốt nghiệp lớp tàu phóng lôi thông thường được gửi sang Philippines và Okinawa, đa số đã thiệt mạng mà không có được bất kỳ kết quả có ý nghĩa nào. Tất cả sinh viên khác được giữ lại để chuẩn bị chống trả với địch quân, mà theo dự đoán có thể đổ bộ lên Nhật Bản. Được biết hầu hết sinh viên ưu tú của tôi, thuộc lớp tàu phóng lôi đặc biệt và người nhái, không phải làm vật hy sinh trong các nhiệm vụ tự sát, đó là một an ủi lớn với tôi.

Vào ngày 20 tháng 12 năm 1944, Miyazaki thay thế tôi để điều khiển quân trường đáng chán Kawatana, và tôi được chỉ định vào một nhiệm vụ trên mặt biển, hạm trưởng tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi. Đó là một ngày sung sướng nhất trong một năm "không sung sướng" của tôi.

Một vị sĩ quan chỉ huy hớn hở bước lên cầu thang của tuần dương hạm Yahagi đang buông neo ở Sasebo vào ngày 22 tháng 12 năm 1944. Tôi đã trở lại với nơi mà tôi thuộc về, trở lại với những ngày chiến đấu, vĩnh biệt những muộn phiền ở Kawatana. Được chỉ định vào nhiệm vụ này là một vinh dự to lớn đối với tôi.

Các sĩ quan của chiếc tàu tụ họp chào đón tôi. Trung tá Shinichi Uchino, sĩ quan phụ tá, tuyên bố một cách đầy hứng khởi: "Khi biết tân hạm trưởng của Yahagi là Đại tá, thủy thủ đoàn đã vô cùng mừng rỡ. "Hạm trưởng kỳ diệu", một số thủy thủ đã bắt đầu gọi Đại tá một cách hãnh diện như vậy."

Sau khi nhấn mạnh sự may mắn đầy thích thú được bổ nhiệm chỉ huy chiếc Yahagi, tôi nói: "Chưa từng được chỉ huy một chiến hạm lớn như thế này. Tôi sẽ có nhiều điều cần học hỏi ở quý vị."

Những lời thành thật của tôi được đón nhận một cách hài lòng, và mọi người đều tỏ ra phấn khởi. Thúc đẩy tinh thần của chiếc tàu, đó là một việc làm cần thiết.

Yahagi vừa trở về từ trận thảm bại ở Vịnh Leyte. Trong trận đánh này, Yahagi là soái hạm của một nhóm chiến hạm yểm trợ thuộc Đệ Nhị Hạm Đội của Phó Đô đốc Takeo Kurita. Nhiều chi tiết của trận đánh này vẫn còn nằm trong bóng tối. Ngay cả những người tham dự cũng không am tường đầy đủ. Nhưng ai cũng biết Nhật Bản đã lãnh một cú đấm nặng nề, và Hoa Kỳ đã lật ngược tình thế trên quần đảo Philippines sau trận đánh này.

Vào ngày 25 tháng 10, sau khi lực lượng hộ tống hàng không mẫu hạm bị thiệt hại nặng nề, Phó Đô đốc Kurita tạo ra cuộc rút lui đầy tai tiếng của ông, mặc dù ông đã làm đình trệ cho các cuộc đổ bộ của đối phương ở Vịnh Leyte, tuần dương hạm Yahagi và các khu trục hạm tháp tùng vẫn còn cách xa trận đánh khoảng 10 dặm. Từ khoảng cách quá xa như vậy, Yahagi và đồng đội đã vội vã phóng ngư lôi, dĩ nhiên, tất cả ngư lôi đều hoang phí. Hành động chậm chạp của nhóm chiến hạm này đã gây chán nản cho mọi người.

Đề đốc Susumu Kimura, Tư lệnh Phân đội 10 khu trục hạm, bao gồm Yahagi và 6 khu trục hạm, đã phải rời khỏi chức vụ sau trận đánh. Ông ta nguyên là một chuyên viên hoa tiêu, không phải là một tay chiến đấu. Việc tránh né đụng độ của Kimura sớm chứng tỏ một cách rõ rệt vào tháng 10 năm 1942 trước đó. Khi tuần dương hạm hạng nhẹ Nagara của ông đã không truy đuổi địch quân ở vùng biển Guadalcanal. Tuy nhiên, hầu hết các chiến hạm Nhật khác có mặt trong trận đánh này đều chiến đấu dàn mặt với địch quân. Việc sử dụng Kimura một lần nữa vào trận đánh quan trọng như trận đánh ở Vịnh Leyte chẳng hạn, đã không được giải thích tại sao. Điều này chỉ có Bộ Tư Lệnh Tối Cao mới biết mà thôi.

Ngay cả việc lưu dụng hai Phó Đô đốc Kurita và Ozawa trong các chức vụ chỉ huy then chốt cũng là một sai lầm nghiêm trọng. Cả hai đều tồn tại sau cuộc chiến và hiện thời vẫn còn sống. Tôi không thích đưa ra những lời chỉ trích toàn diện về họ, nhưng phải nói hai vị Đô đốc già nua và mệt mỏi này phải chịu trực tiếp trách nhiệm cuộc thảm bại ở Vịnh Leyte.

Kurita đã nói với tôi: "Tôi đã tạo ra sai lầm đó (tức ra lệnh rút lui), không ngoài vấn đề lúc ấy tôi quá mệt mỏi về thể xác."

Khi bàn đến trận đánh Leyte, Ozawa thú thật với tôi rằng "ông thấy xấu hổ vì vẫn còn sống sót sau trận đánh đó."

Trận đánh Vịnh Leyte là một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử Hải quân đã được viết đi viết lại nhiều lần. Có nhiều ý kiến nêu ra đã khiến tôi không hài lòng, nhưng tôi đã hoàn toàn đồng ý với tác giả C. Vann Woodward khi ông kết luận quyển sách "Trận hải chiến Vịnh Leyte" của ông: "Những gì gọi là cần thiết trên đài chỉ huy của soái hạm Yamato vào buổi sáng ngày 25 không phải là một Hamlet mà là một Hotspur - một Halsey của Nhật Bản thay vì một Kurita."

Kurita đã từng chứng tỏ sự vụng về quá mức khi ông đưa Đệ Nhị Hạm Đội của ông đến Rabaul vào tháng 11 năm 1943. Nhưng ông, cũng như Ozawa, vẫn còn được lưu dụng, ngay cả hai người chỉ huy các lực lượng Nhật đã đưa đến sự thảm bại trong trận đánh Marianas vào ngày 19 tháng 6 năm 1944. Lý do của việc lưu dụng này. Tôi không thể nào hiểu nổi. Cả hai đều tỏ ra mỏi mệt từ lâu rồi, vì vậy đưa họ đến Vịnh Leyte không khác nào đưa họ vào tai họa, đặc biệt giữa lúc mà các lực lượng của họ đều không được bao che hữu hiệu về mặt trên không.

Tuy nhiên, Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng Tư Lệnh Hạm đội Hỗn Hợp, phải chịu những phần trách nhiệm lớn hơn hết. Từ Formosa trở về Nhật Bản vào ngày 18 tháng 10, ông nằm ở Yokosuka để điều động trận đánh đầu tiên, và sau đó, ông di chuyển 30 dặm trên đất liền để tiếp tục điều hành nhiệm vụ. Dó đó, cuộc hành quân không thực tế này được thảo kế hoạch và điều động ngay trên nội địa bởi một vị Đô đốc chưa bao giờ tham dự một trận hải chiến nào trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

Có nhiều nguyên nhân gây ra sự thảm bại của Nhật trong trận đánh Vịnh Leyte, nhưng các nguyên nhân đầu tiên phải đề cập đến là sự khiếm khuyết về phi cơ, radar và hệ thống liên lạc. Hạm đội Nhật đã đành là chiến đấu rất dũng cảm, nhưng không được bảo vệ hữu hiệu về mặt trên không, hoặc không được cung cấp đầy đủ những thiết bị hỗ trợ khác, do đó, trận chiến của họ không khác nào kẻ mắt mù tai điếc.

Với việc Saipan thất thủ, cuộc chiến trong tay Nhật Bản xem như đã mất. Điều này còn rõ rệt hơn nữa, sau khi nhiều thiết giáp hạm và tuần dương hạm hạng nặng, được gìn giữ từ lâu, đều bị trận đánh ở Leyte thiêu rụi.

Phó Đô đốc Seiichi Ito thay thế Kurita trong chức vụ Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội vào ngày tôi bước chân lên tuần dương hạm Yahagi. Giống như nhiều quyết định thay đổi nhân sự cao cấp vào thời gian đó, việc thay đổi này cũng gây cho tôi nhiều ngạc nhiên. Ito ngồi trong phòng Bộ Tổng Tham Mưu Hải quân từ khi cuộc chiến Thái Bình Dương bắt đầu. Ông chưa từng lãnh nhiệm vụ trên mặt biển bao giờ, và cũng chưa từng biết qua kinh nghiệm chiến đấu nào trong suốt cuộc chiến.

Phòng Nhân Sự của Tổng Hành Dinh Hải quân hình như không còn sáng suốt trong thời gian đó. Kurita, với tất cả sai lầm trong cuộc đời binh nghiệp của ông, lại được chỉ định vào chức vụ chỉ huy trưởng Hàn Lâm Viện Hải quân ngay khi ông vừa rời khỏi Đệ Nhị Hạm Đội sau trận Leyte. Ozawa được thăng cấp Đô đốc và trở thành Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp vào tháng 5 năm 1945. Một việc đáng lưu ý là hầu hết các sĩ quan còn sống sót sau trận đánh Leyte đều được thăng cấp.

Trong lúc đó, tàn quân của Đệ Nhị Hạm Đội lê lết về Nhật từng nhóm hai hoặc ba chiến hạm. Vào giữa tháng Giêng, Yahagi kết hợp với thiết giáp hạm Yamato và 5 khu trục hạm đang buông neo ở Hashirajima, gần Hiroshoma. Quang cảnh hiện tại đã gợi tôi nhớ lại quanh cảnh nhiều trăm chiến hạm tụ hội trong hải cảng rộng lớn này đúng bốn năm trước đây. Tôi đau buồn khi nhìn thấy những gì còn sót lại của Đệ Nhị Hạm Đội - một hạm đội mà hiện thời không còn một chút tư cách nào để mang tên cũ của nó.

Trong khi chúng tôi thao dượt, tôi luôn luôn liếc chừng các chiến hạm ngày trước của tôi, có thể sẽ đến để gia nhập hạm đội này. Chiếc Shigure nằm trong một thành phần thuộc lực lượng của Nishimura khi ông hướng dẫn hai thiết giáp hạm, một tuần dương hạm và 4 khu trục hạm của ông, bí mật và không phối hợp, tiến vào Vịnh Leyte vào ngày 25 tháng 10 năm 1944. Ngoại trừ Shigure, tất cả chiến hạm của lực lượng này đều bị đánh chìm. Do sự sống sót lẻ loi, chiếc Shigure trở thành mục tiêu bị kích bác và các tin đồn đầy ác ý mà tôi không thể nào tin được. Tôi muốn tiếp xúc với thủy thủ đoàn của Shigure để tìm hiểu sự thật. Tuy nhiên, thay vì chiếc tàu này sẽ đến như mong đợi, một tin tức cho biết nó bị trúng ngư lôi của một tàu ngầm địch và chìm ở khu vực phía Bắc Singapore vào ngày 24 tháng Giêng. Thật đáng tủi nhục biết bao: Một chiếc tàu dày dạn chiến trận như vậy mà lại là nạn nhân của một chiếc tàu ngầm. Không lâu sau đó, một tin tức khác cho biết khu trục hạm Amatsukaze đang ở trong hải phận Trung Hoa, vì vậy nó không thể nào đến gia nhập Đệ Nhị Hạm Đội.

Nhưng không phải tin tức nào cũng xấu cả. Trang bị và vũ khí mới được đưa đến cho tuần dương hạm Yahagi của tôi gần như hàng ngày. Trong số đó có nhiều đầu đạn nổ kíp điện, ngư lôi tầm hướng và quan trọng nhất là loại radar mới khá công hiệu. Xạ thủ bắt đầu học sử dụng hỏa lựa theo hướng dẫn của radar. Mặc dù nhiều bộ phận của loại radar này vẫn còn nằm trong vòng thí nghiệm, nhưng chúng cũng chứng tỏ Nhật Bản đã tiến một bước khá xa trên phương diện kỹ thuật. Quá trễ để có dịp so tài với địch quân trước đây, nhưng loại radar mới này có tính cách thúc đẩy tinh thần mạnh mẽ vào những ngày khủng hoảng cao độ này.

Tuy nhiên, công việc huấn luyện chỉ giới hạn trong biển Nhật Bản nhỏ hẹp. Tôi đã hỏi tại sao chúng tôi không được chạy ra ngoài biển rộng để thực tập với tốc độ chiến đấu, và được trả lời rằng tình trạng tiếp tế nhiên liệu khiếm khuyết không cho phép chúng tôi thực hiện việc này. Tôi được biết vấn đề tiếp tế nhiên liệu thấp kém, nhưng không ngờ lại thấp kém đến độ không đủ cho công việc huấn luyện căn bản nhất.

Sau cuộc pháo kích sơ khởi dữ dội, lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên đảo Iwo Jima vào ngày 19 tháng 2 năm 1945. Không có một chiến hạm nào của Nhật Bản được gửi đến để chống lại cuộc đổ bộ chỉ xảy ra cách Nhật Bản 700 dặm này.

Trong lúc đó, siêu pháo đài bay B-29 Hoa Kỳ, cất cánh từ các căn cứ ở Marianas, liên tục gia tăng cường độ oanh tạc trên các thành phố Nhật Bản. Bộ Tư Lệnh Tối Cao quay lại công thức giữ gìn cũ rích của họ, lần này là các chiến đấu cơ. Chúng sẽ được che dấu hoặc dời đến những nơi an toàn để tránh các cuộc không tập, phó mặc cho phi cơ địch làm mưa làm gió trên đất nước.

Tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hoàng Gia, cuộc bàn luận đầy sôi nổi kéo dài nhiều ngày xoay quanh vấn đề: Những gì có thể làm được với thành phần còn lại của Hạm Đội Hỗn Hợp. Vào ngày một tháng 3, Phó Đô đốc Ito báo cáo rằng công cuộc tái huấn luyện đã hoàn tất và lực lượng của ông, bao gồm một thiết giáp hạm, một tuần dương hạm, và 10 khu trục hạm, sẵn sàng tham chiến. Nhưng Bộ Tư Lệnh Tối Cao vẫn chưa quyết định được xem có nên sử dụng Đệ Nhị Hạm Đội rách nát vào nhiệm vụ tấn công ở hiện tại, hay là để duy trì phòng thủ trong nước nhằm chống lại cuộc xâm chiếm của địch quân trong tương lai.

Trong lúc các cuộc tranh luận đáng bực mình này tiếp tục ở Tổng Hành Dinh Tokyo, Đệ Nhị Hạm Đội tiến vào Kure và bắt đầu phân phối nhiên liệu một cách dè xẻn. Phía Hải quân cho rằng nên để hạm đội này ở lại trong nước vì khả năng yếu kém của nó. Phía Lục quân đã đề cập đến trận đánh ở Vịnh Leyte, nhằm vạch ra cho Hải quân thấy việc bo bo giữ gìn chiến hạm là điên cuồng, chỉ làm mồi cho phi cơ địch tấn công. Vào ngày 19 tháng 3, lý luận cuối cùng của Lục quân đắc thắng. Bởi vì vào ngày đó, một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ tiến sát vào bờ biển Nhật Bản và tung nhiều trăm phi cơ tấn công các chiến hạm đậu ở Kure và Kobe. Không có chiến hạm nào của chúng tôi bị đánh chìm, nhưng 17 chiếc mang đầy thương tích, bao gồm 6 hàng không mẫu hạm và 3 thiết giáp hạm, trong số đó có hai thiết giáp hạm Isa và Hyuga, tồn tại trong trận đánh ở Vịnh Leyte, đã bị trúng bom trong khi nằm sửa chữa tại xưởng tàu ở Kure.

Các tướng lĩnh của Lục quân đã gật gù một cách khoái trá trước những thiệt hại của Hải quân, và nhất là những thiệt hại này gia tăng trong các cuộc tấn công tiếp tục của phi cơ địch vào ngày 20. Đệ Ngũ Không Hạm Đội mới thành lập hồi tháng 2 năm 1945, đã tung hàng trăm phi cơ Thần Phong lên để phản công. Tư lệnh lực lượng này, Phó Đô đốc Matome Ugaki - nguyên Tham Mưu Trưởng của Yamamoto - sau đó đã báo cáo: "Cuộc tấn công do các phi cơ đặc biệt của chúng ta thực hiện đã gây cho 7 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm và một tuần dương hạm của đối phương lớp chìm, lớp hư hại nặng." Báo cáo thêu dệt này đã giúp khôi phục uy thế của Hải quân ở Tổng Hành Dinh Tokyo, nhưng lại bị đá hậu. Các chiến lược gia đầu não đã nhẹ dạ tin tưởng vào bản báo cáo này, và họ kết luận không hề đắn đo rằng sau một đòn nặng như vậy, lực lượng đặc nhiệm của địch quân sẽ phải chạy dài về Ulithi để bổ sung và sửa chữa trước khi có thể quay lại trận đánh lần nữa.

Nhưng ba ngày sau đó, vào ngày 23 tháng 3, hàng trăm phi cơ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ bắt đầu rải bom lên Okinawa hết ngày này sang ngày khác. Các cuộc không tập này được trọng pháo của chiến hạm Hoa Kỳ tiếp tục ngay sau đó. Các sĩ quan tham mưu Nhật choáng váng, nhưng không đưa ra một hành động cụ thể nào. Thay vào đó, họ tiên đoán, gần như khẳng định, rằng các cuộc đổ bộ của địch sẽ không xảy ra. Nhưng lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ không phải đến "thăm viếng xã giao" vùng biển Okinawa. Họ đến và muốn ở luôn.

Vào ngày một tháng 4 lực lượng Hoa Kỳ đặt chân lên bờ biển Okinawa mà không gặp bất kỳ sự đề kháng nào. Đại tướng Mitsuru Ushijima, Tư Lệnh Binh đoàn 23 đảm trách nhiệm vụ phòng thủ hòn đảo, đã nhận thấy một cách khôn ngoan rằng phòng thủ có chiều sâu sẽ hữu hiệu hơn là cố gắng tiêu diệt địch ở cạnh bờ biển. Hải quân thấy như vậy vội vã la lên: "Tại sao Lục quân không chịu đề kháng?" Lục quân vặn lại: "Tại sao chiến hạm của Hải quân không chịu nhận chìm lực lượng của đối phương?"

Loại lời đi tiếng lại không đi đến đâu cả, nhưng Đô đốc Toyoda, từ 5 tháng nay đã nhẫn nhục trước lối lải nhải của Lục quân, cuối cùng ông phải chịu thua. Vào ngày 5 tháng 4, ông quyết định sử dụng Đệ Nhị Hạm Đội, đúng 4 ngày sau khi của đổ bộ của Hải quân xảy ra.

Ngày đó có hai biến cố đáng chú ý, gây nhiều hậu quả trầm trọng cho Nhật Bản: Thủ tướng (Đại tướng) Kuniaka Koiso từ chức và được Đô đốc hồi hưu Kantaro Suzuki thay thế; và Liên Bang Xô Viết báo cho Nhật Bản biết rằng họ sẽ không kéo dài Hiệp Ước Bất Tương Xâm nữa.

Bấy giờ tôi không biết những chi tiết chuyển động hậu trường của các biến cố này. Vào buổi sáng đầy sương mù đó, Đệ Nhị Hạm Đội buông neo gần Tokuyama trong biển Nhật Bản. Trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Yahagi, tôi đưa mắt nhìn một vòng thẫn thờ nhìn thiết giáp hạm khổng lồ Yamato và 8 khu trục hạm đang buông neo ( hai khu trục hạm khác phải nằm lại Kure để sửa chữa vì trục trặc máy móc). Tổ chức của lực lượng này như sau:

Đệ Nhị Hạm Đội

Tư lệnh: Phó Đô đốc Seiichi Ito

Thiết giáp hạm Yamato ( cũng là soái hạm của Ito) hạm trưởng là Đề đốc Kosaku Ariga.

Phân đội 2 khu trục hạm , Đề đốc Keizo Komura, chỉ huy trên tuần dương hạm Yahagi.

Hải đội 17 khu trục hạm, Đại tá Kiichi Shitani, bao gồm các khu trục hạm Isokaze - Trung tá Saneo Maeda, Hamakaze - Trung tá Isami Mukoi, Yukikaze - Trung tá Masamichi Terauchi.

Hải đội 21 khu trục hạm, Đại tá Kotaki, bao gồm các khu trục hạm Asashimo - Trung tá Yoshiro Sugihara, Kasumi - Trung tá Hiroo Yanama, Hatsushimo - Trung tá Shigetaka Atamo.

Đệ Nhị Hạm Đội với lực lượng hùng hậu vào những ngày đầu của cuộc chiến hiện thời chỉ còn lại bấy nhiêu chiến hạm này. Cơn mơ màng về nỗi thịnh suy của quá khứ và hiện tại của tôi bị tiếng động của một chiếc thủy phi cơ bay đến từ hướng Đông Nam cắt đứt.

Chiếc phi cơ này nhanh nhẹn và nhẹ nhàng đáp xuống mặt biển, và lướt đến đậu bên cạnh soái hạm Yamato. Tôi nhìn thấy nhiều người leo lên cầu thang của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này. Ngay khi tôi tự hỏi họ là ai, soái hạm đã phất tín hiệu bằng cờ: "Cuộc hành quân Ten-Go có hiệu lực từ giờ phút này." ...................

Lập tức, hoạt động trên các chiến hạm trở nên nhộn nhịp, vì cuộc hành quân Ten-Go tức là cuộc tổng phản công của Hải quân ở Okinawa. Đề đốc Keizo Komura, vừa thay thế Kimura, đặt soái kỳ lên tuần dương hạm Yahagi của tôi, được triệu tập đến soái hạm Yamato. Ông vội vã nhảy xuống ca nô và ra đi. Chuyển động này chứng tỏ chiếc thủy phi cơ đã mang đến nhiều nhân vật cao cấp với những tin tức quan trọng.

Tôi đăm đăm nhìn chiếc thiết giáp hạm trong nỗi lo âu, và sau hai giờ không thấy dấu hiệu nào xảy ra, nỗi kiên nhẫn của tôi tiêu tan hẳn. Vào lúc 11h30, Yamato phát tín hiệu: "Đề đốc Komura gửi tất cả các chỉ huy trưởng hải đội và hạm trưởng. Hãy lập tức đến họp trên soái hạm Yahagi."

Cùng lúc đó, Komura trở về Yahagi, trông có vẻ căng thẳng, nhưng ông không nói với tôi một điều gì cả. Khi tôi dọ hỏi, ông chận lời: "Đừng có bồn chồn, Hara. Hãy chờ cho mọi người đến đầy đủ đã."

Lời nói của ông khiến tôi giật mình, bởi vì Komura là một người vô tư lự, ít khi dấu diếm những cảm xúc của mình. Tôi để ông một mình, và đưa mắt nhìn 8 chiếc ca nô đang lướt về phía soái hạm Yahagi.

Cuộc họp mở ngay vào giữa trưa. "Quý vị", Komura nói, "chắc tất cả quý vị đều nhìn thấy tín hiệu cho biết cuộc hành quân Ten-Go có hiệu lực ngay từ bây giờ. Phó Đô đốc Ryuosuke Kusaka, Tham mưu trưởng của Hạm Đội Hỗn Hợp vừa từ Kanoya đến để hội họp với các sĩ quan hàng đầu thuộc hạm đội chúng ta."

Các thính giả của ông gồm 4 Đại tá và 8 Trung tá yên lặng ngồi nghe. Sau khi ngưng một lúc Komura tiếp:

"Kế hoạch hành quân do Phó Đô đốc Kusaka mang đến là một kế hoạch không bình thường. Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn Đệ Nhị Hạm Đội tiến đến Okinawa, không có phi cơ bao che và với số nhiên liệu vừa đủ cho lượt đi. Tóm lại, Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn chúng ta thực hiện một nhiệm vụ tự sát."

"Không, nhiệm vụ này đúng ra không phải là một "nhiệm vụ tự sát", vì "nhiệm vụ tự sát" bao hàm ý nghĩa nhắm vào và thu hoạch được kết quả trên một mục tiêu có giá trị lớn hơn. Tôi đã nói với Kusaka rằng hạm đội yếu kém của chúng ta không có một dịp may nào chống nổi với lực lượng hùng hậu của đối phương, và một cuộc hành quân như vậy sẽ là một "chuyến đi tự sát" với đúng nghĩa tầm thường của nó. Hai Đề đốc Agura và Morishita đã đồng ý với tôi. Phó Đô đốc Ito im lặng, do đó tôi không hiểu ý kiến của ông về lời nói của tôi như thế nào."

"Như tất cả quý vị đều biết, tôi từng là Tham mưu trưởng của Phó Đô đốc Ozawa khi ông thi hành nhiệm vụ nhử địch ở Philippines và thiệt mất 4 hàng không mẫu hạm. Tôi nhận thấy việc sát hại người của chúng ta là đã quá đủ rồi. Tôi không quan tâm đến mạng sống của tôi, nhưng tôi muốn giảm bớt sự đùa cợt trên mạng sống thuộc cấp tôi bằng cách đẩy họ vào một chuyến đi tự sát đúng nghĩa. Theo đó, tôi đã yêu cầu Ito và Kusaka tạm ngưng phiên họp để tôi trở về hội ý với quý vị." Sau những lời này, Komura nghiến chặt răng và nhắm nghiền đôi mắt đầy nước mắt của ông lại. Sự yên lặng nặng nề bị phá vỡ khi Đại tá Kiichi Shitani, thay thế ông bạn Miyazaki của tôi trong chức vụ Chỉ huy trưởng Hải đội 17 khu trục hạm trước đây, cất tiếng: "Đô đốc Kusaka đến đây để cắm những lệnh này vào cổ chúng ta?"

Komura đáp: "Không ai có thể ra lệnh cho người khác tự sát được. Kusaka không liên quan gì đến mấy lệnh lạc này. Nếu có đi nữa, ông ta cũng không thể ra lệnh cho chúng ta như vậy."

Shintani đỏ mặt tía tai, hít một hơi thở thật dài, và lớn tiếng: "Tôi đã có đi với Kurita tham dự trận đánh ở Vịnh Leyte sau ngày quân Mỹ đổ bộ. Nếu Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn chúng ta đẩy địch quân ra khỏi đầu cầu đã được củng cố của họ ở Okinawa thì không khác nào tiếp tục theo đuổi phương thức giết người ở Leyte. Tuy nhiên, nỗ lực của Kurita còn tỏ ra thực tế hơn, vì ít ra ông ta còn có Ozawa làm nhiệm vụ nhử địch. Không có lực lượng chim mồi, chúng ta sẽ không có bất kỳ hy vọng nào để chiến thắng. Cuộc hành quân của chúng ta sẽ làm trò cười cho đối phương. Nếu chúng ta cố làm một việc như vậy, tất cả chúng ta sẽ bị tiêu diệt, và lúc ấy ai sẽ bảo vệ quê hương? Tôi chống đối cuộc hành quân này."

Đại tá Hisao Kodaki, Chỉ huy trưởng Hải đội 21 khu trục hạm tiếp lời: "Tôi đồng ý với Shintani. Bộ Tư Lệnh Tối Cao đã lặp lại sai lầm của nhiều tháng trước đây. Tại sao chúng ta, những người đã từng trải qua biết bao nhiêu chiến trận, lại để cho một bọn lãnh đạo ngu xuẩn và bất tài dẫn dắt như kẻ đui mù? Tại sao chúng ta không có tiếng nói căn cứ trên kinh nghiệm thực tế của chúng ta?"

Các hạm trưởng dưới quyền Shintani và Kodaki lần lượt lên tiếng và tán thành ý kiến của chỉ huy trưởng của họ. Việc này nhanh chóng biến phiên họp trở nên sôi động nhất mà tôi chưa từng thấy. Nhưng Komura hoàn toàn lặng yên và bất động, đôi mắt ông vẫn khép lại.

Tôi cảm thấy đến lúc phải lên tiếng, tôi nói: "Vấn đề thực tế mà chúng ta phải làm là tấn công các đường tiếp tế của địch quân. Tôi thích thi hành các sứ mạng đơn độc. Hiện thời chiếc Yahagi đã được trang bị radar và sonar, tôi nghĩ rằng nó có thể ra đi một mình, và ít ra nó cũng sẽ đánh chìm năm ba chiến hạm địch trước khi bị hạ. Làm như vậy có ý nghĩa hơn, vì theo tôi, toàn thể hạm đội đến Okinawa chẳng khác nào mang trứng chọi đá."

Đại tá Masayoshi Yoshida, Chỉ huy trưởng hải đội 41 khu trục hạm lên tiếng kế đó: "Ý kiến của Hara phù hợp với ý kiến của tôi. Hai khu trục hạm Fuyutsuki và Suzutsuki của tôi là những khu trục hạm được trang bị cao xạ tối tân nhất. Hai khu trục hạm này được tạo nên bằng máu, nước mắt và thuế má của quốc gia nghèo khổ của chúng ta, nhưng cả hai chưa từng được giao phó một công việc có giá trị nào. Tôi tin chắc nó có thể thi hành nhiệm vụ riêng rẽ một cách tốt đẹp, như Hara vừa nói."

Trung tá Yoshiro Sugihara, nguyên hạm trưởng khu trục hạm Samidare bị đánh chìm vào tháng 8 vừa qua và hiện thời là hạm trưởng khu trục hạm Asashimo, nhiệt liệt ủng hộ ý kiến của Yoshida. "Tôi đã sống an nhàn quá lâu," hắn nói, "nên tôi chuẩn bị chết bất kỳ lúc nào, nhưng không phải là một cái chết vô nghĩa, như sự đòi hỏi của thượng cấp. Chiếc Asashimo của tôi là một chiến hạm 2.520 tấn, tôi muốn được cơ hội để chứng tỏ chiếc tàu này có lợi ích thiết thực cho quốc gia.

Phiên họp dừng lại khi đầu bếp dọn bữa ăn trưa nhưng thức ăn không có mùi vị gì với mọi người. Trong suốt bữa ăn, các hạm trưởng khu trục hạm bàn đi tán lại mấy ý kiến vừa qua. Lúc 13 giờ, Komura quay lại soái hạm Yamato. Các sĩ quan vẫn ở lại trên chiếc Yahagi chờ đợi một cách nôn nóng. Lúc 16h, Komura trở về.

Ông bước chậm chạp vào phòng khách, gương mặt đầy khổ não. Ông nói một cách mệt mỏi và chán nản: "Tôi chấp nhận lệnh của thượng cấp. Lệnh này có hiệu lực từ 15h30."

Sau câu này ông như trút được gánh nặng. Ông lướt mắt quanh phòng, nhìn từng người một, sau đó tiếp tục nói:

"Tôi mất một giờ để trình bày ý kiến của quý vị và sự đồng ý của tôi về các ý kiến này. Kusuka và những người khác lắng nghe một cách chăm chú. Khi tôi dứt lời, Kusuka giải thích rằng chuyến đi này là một nhiệm vụ nhử địch. Ông nhấn mạnh đây không phải là kế hoạch của ông, nhưng nó đã được sắp sếp trong lúc ông viếng thăm Kanoya. Theo kế hoạch này, trong khi các hàng không mẫu hạm của đối phương mắc bận đối phó với hạm đội của chúng ta, Kanoya - phi trường nằm ở cực nam Kyushu - sẽ cho nhiều trăm phi cơ Thần Phong tấn công Okinawa. Kusaka bảo đảm với tôi rằng hải xuất chim mồi này sẽ không kết thúc một cách vô ích như hải xuất ở Vịnh Leyte."

"Sau đó, Kusaka đã xoay sang Morishita và giải thích rằng Bộ Tư Lệnh Tối Cao và đặc biệt là thành phần Lục quân, đã tỏ ra chán nản về sự thất bại của soái hạm Yamato, nhưng theo cảm nghĩ của ông ta, đó không phải là lỗi lầm của Morishita ( lúc ấy là hạm trưởng của Yamato), vì ông đã làm được một việc đáng kinh ngạc là tránh né được tất cả ngư lôi của đối phương, trong khi chiếc Mushashi lại trở thành nạn nhân của những quả ngư lôi này. Tuy nhiên, Kusaka nói rằng Tokyo không hài lòng khi biết soái hạm Yamato đã rút lui mà các khẩu trọng pháo 350mm của nó không bắn được một phát đạn nào vào địch quân. Morishita đã tỏ ra bẽn lẽn với những lời ghi nhận này."

"Kế đó, Kusaka nói với Agura (thay thế Morishita sau trận Leyte) rằng cả nước Nhật Bản sẽ oán ghét hải quân nếu cuộc chiến này chấm dứt mà chiếc Yamato không bị một vết trầy nào. Từ trước đến nay Agura không vấp phải lỗi lầm nào, do đó ông ta tin rằng chiếc Yamato sẽ không bỏ chạy như trong chuyến ra quân đầu tiên ở Leyte sau 3 năm được giữ gìn, và thiết giáp hạm khổng lồ này sẽ không còn bị mang danh là "khách sạn nổi cho các vị Đô đốc vụng về và lười biếng".

"Tới đây, Ito phá vỡ sự im lặng quá lâu của ông: Tôi nghĩ là chúng ta được trao cơ hội để chết một cách thích đáng. Một Samurai phải sống một đời sống như vậy, hắn luôn luôn chuẩn bị để chết. Sau lời nói của Ito, cuộc tranh luận hoàn toàn chấm dứt. Morishita và Agura đều nhượng bộ. Tôi cũng không thể làm khác hơn họ."

Komura cúi đầu thật thấp sau câu nói cuối cùng này, như để thay lời tạ lỗi. Chúng tôi ngồi bất động. Khi những giây phút lê thê như hàng giờ trôi qua, tôi quyết định đấu mặt với thực tế. Tôi nói: "Thưa Đề đốc, việc Đề đốc vẫn giữ vững quan điểm của chúng ta, tôi rất tán thành. Nhưng lệnh vẫn là lệnh. Hiện thời chúng ta chỉ còn biết cố gắng hết sức của chúng ta để cải thiện tình thế."

Đề đốc Komura nhìn tôi với đôi mắt biết ơn: "Cảm ơn anh, Hara!"

Ba chỉ huy trưởng hải đội - Kodaki, Shintani, Yoshida - chấp nhận mệnh lệnh, và xoay sang hỏi ý kiến các hạm trưởng dưới quyền. Cả tám Trung tá đều đồng lòng tán thành.

Việc thay đổi ý kiến một cách nhanh chóng như vậy chắc khiến cho các độc giả ngoại quốc lấy làm khó hiểu. Sở dĩ Kusaka cố gắng thuyết phục các vị sĩ quan cao cấp để họ chấp nhận mệnh lệnh, bởi lẽ mệnh lệnh này chưa bao giờ được đưa ra trước đây, và chỉ được thi hành hữu hiệu một khi có sự chấp nhận của kẻ thi hành mệnh lệnh. Nhưng trên nguyên tắc, chúng tôi không có quyền phản kháng bất kỳ mệnh lệnh nào do thượng cấp đưa ra, hơn nữa chúng tôi đều biết mệnh lệnh của Hải quân Hoàng Gia là các mệnh lệnh tuyệt đối. Do đó, sau khi ý kiến bị bác bỏ, dù muốn hay không, chúng tôi vẫn phải thi hành nhiệm vụ.

Sau chiến tranh, Kusuka đã nói với tôi rằng đó có lẽ là lần đối phó khó khăn nhất trong đời ông. Ông giải thích thêm : "Khi nhận chức vụ Tổng Tư Lệnh Hạm Đội , một hạm đội hữu danh vô thực, Ito đã chuẩn bị sẵn cái chết. Từng giữ chức vụ Tham Mưu trưởng khá lâu, ông ta cảm thấy có trách nhiệm về những trận thảm bại liên tục của chúng ta. Vào thời gian đó chỉ còn một vài người giữ được tâm trí bình thường, và tinh thần Kamikaze đã thâm nhập vào hầu hết binh chủng Hải quân.

Sau khi chấp nhận mệnh lệnh, sĩ quan các cấp đều tề tựu về thiết giáp hạm Yamato để tham dự một buổi thuyết trình. Phó Đô đốc Ito đã kết thúc buổi họp với những lưu ý: "Vì nhiệm vụ này khác thường, các vị chỉ huy trưởng nên di chuyển tất cả các sĩ quan thực tập, những người đau ốm và... bất kỳ người nào xét thấy không thích hợp. Đây là một vấn đề thuộc quyền cân nhắc của quý vị."

Trở về Yahagi, tôi cho sĩ quan và hạ sĩ quan tụ họp khẩn cấp trên tàu. Tôi giải thích mệnh lệnh vừa nhận được và nhìn chăm chú khuôn mặt từng người để xem phản ứng. Không khí căng thẳng, nhưng tôi ngạc nhiên và thở phào nhẹ nhõm khi nhận thấy không ai tỏ vẻ phản đối.

Để kết luận, tôi nói: "Đây là một sứ mạng không bình thường, tôi cần phải nói cho quý vị biết, nếu bất cứ người nào trong quý vị thấy mình sẽ phục vụ tốt hơn nếu bỏ qua chuyến đi này, quý vị đó sẽ rời khỏi tàu cùng với các sĩ quan thực tập, những thủy thủ đau yếu và những người khác xét thấy không thích hợp cho nhiệm vụ. Tôi yêu cầu quý vị nào muốn như vậy, hãy đến phòng báo cho tôi biết sau cuộc họp này."

Tôi đã diễn dịch rộng rãi các chỉ thị của Phó Đô đốc Ito hơn, nhưng tôi cảm thấy sự diễn dịch này nằm trong ý định của ông. Trong phòng riêng, tôi nhìn tấm ảnh chụp chung toàn thể gia đình như nói lời vĩnh biệt, và nghĩ đến hầu hết thủy thủ đoàn Yahagi đều là những người đã có gia đình, tôi tự hỏi có bao nhiêu người sẽ nêu ra lý do này để ở lại? Hơn 1000 người chắc chắn sẽ thiệt mạng nếu họ không đáp ứng lời kêu gọi của tôi. Tôi chờ đợi tiếng gõ cửa, nhưng tôi đã kinh ngạc khi phụ tá của tôi là Trung tá Uchino bước vào:

"Thưa Đại tá, chỉ có 22 sĩ quan thực tập, và 15 thủy thủ đau yếu."

"Chỉ có bao nhiêu đó thôi sao, Uchino? Không còn ai khác muốn rời khỏi tàu?"

"Dạ không, thưa Đại tá. Mọi người khác đều bằng lòng thi hành nhiệm vụ."

Tôi bước ra sàn tàu, đến trước mặt 37 người đang chờ đợi, tôi nói với họ: "Các bạn được lệnh rời khỏi chiếc tàu này ngay bây giờ. Tôi biết rằng tất cả các bạn sẽ có một cơ hội tốt đẹp hơn để chiến đấu cho quê hương sau này."

Khi tôi quay lưng, một thanh niên nhảy ra khỏi hàng và la to: "Thưa Đại tá, xin Đại tá cho phép tôi ở lại. Tôi xét mình vô dụng, nhưng nếu Đại tá để tôi ở lại, bất kỳ việc gì tôi cũng làm hết."

Một gã khác bật khóc: "Tại sao lại dựa vào lý do chúng tôi là những người vừa mới ra khỏi Hàn Lâm Viện để loại bỏ chúng tôi? Chúng tôi có thể làm công việc vệ sinh không đến nỗi mà?"

Tôi than thầm khi một số khác làm dữ hơn. Để dập tắt sự ồn ào này, tôi hắng giọng, và nói: "Các bạn bước chân lên tàu này chỉ mới hai ngày. Ngay cả một vòng thực tập sơ khởi các bạn cũng chưa hoàn tất. Các bạn là những hạm trưởng tương lai, sinh mạng của các bạn không được phí phạm. Các bạn phải lên bờ, đó là lệnh của tôi."

Tôi dứt lời, quay lưng và rảo bước một vòng để xem qua các hoạt động hối hả trên chiếc Yahagi. Mọi người bận rộn kiểm soát vũ khí và dụng cụ. Khoảng 100 thủy thủ được trang bị lưỡi lê để sử dụng sau khi đổ bộ lên Okinawa.

Thiết giáp hạm Yamato 72.400 tấn tiến sát vào bờ để nhận nhiên liệu tại các ống dẫn dầu chuyển từ kho dầu Tokuyama. Các bồn chứa của kho dầu trung ương khổng lồ này bị hút cạn trong nháy mắt.

Trong lúc ba xà lan cập dọc theo chiếc Yahagi để cung cấp nước uống, tôi hỏi Uchino về tình trạng thực phẩm.

Hắn đáp: "Chúng ta đã nhận đầy đủ ở Kure, hiện thời thực phẩm trên tàu có thể dùng ít nhất 20 ngày cho 1000 thủy thủ đoàn."

Tôi hỏi: "Trong nước hiện đang lâm vào tình trạng thiếu thốn thực phẩm, tại sao chúng tôi không chuyển hết lên bờ, chỉ chừa lại 5 ngày? Đối với chuyến hải xuất chỉ một lượt đi của chúng ta, tôi nghĩ không cần phải mang theo một số lượng thực phẩm quá thừa thãi như vậy."

Uchino nói: "Tôi đồng ý với Đại tá! Để tôi yêu cầu các xà lan mang những vật dụng thừa thãi đi hết cho rồi."

Viên chỉ huy xà lan có vẻ ngơ ngác trước yêu cầu nhận khối hàng hóa khổng lồ của chúng tôi. Tôi và Uchino không thể giải thích rõ các lý do cho hắn hiểu, do đó chúng tôi phải tìm hết cách để nói và dỗ dành cho đến khi hắn đồng ý mới thôi. Khi đồ dư đã được chuyển đi hết, chiếc Yahagi đã đến đậu cạnh soái hạm Yamato để lấy nhiên liệu lần cuối cùng. Sau đó, chúng tôi chạy ra xa để buông neo. Ba Chỉ huy trưởng hải đội và 3 hạm trưởng được mời lên chiếc Yahagi để tham dự một buổi tiệc rượu vĩnh biệt.

Đề đốc Komura, chủ nhân của buổi tiệc này, không thể ngồi ủ rũ lâu hơn sau khi khối lượng sake vĩ đại được tiêu thụ. Mọi người cố vui vẻ. Những câu pha trò cũ kỹ nhàm chán vẫn gây được tiếng cười. Một số sĩ quan ca hát hoặc biểu diễn các trò kỹ xảo nhanh tay lẹ chân, hay dở gì cũng được tung hô vang dậy. Số lượng sake giảm sút nhanh, nhưng chưa có ai say khướt. Chất rượu không công hiệu. Ai ai cũng đều cố gắng chứng tỏ dũng khí của mình, nhưng mà có một cái gì không được tự nhiên trong giọng nói tiếng cười. Buổi họp mặt tan trước nửa đêm một vài giờ, bỏ lại 30 chai sake loại lớn không còn một giọt nào. Khi bước xuống cầu thang và leo lên ca nô đang chờ đợi để trở về tàu, mọi người đều tỏ ra tỉnh táo và vững vàng.

Khi khách đã đi hết, Trung tá Uchino mời Đề đốc Komura và tôi tham dự một bữa tiệc khác trong phòng ăn của chiếc Yahagi. Ở đây đã có khoảng 20 sĩ quan trung cấp tụ tập. Chúng tôi mời rượu, chúc tụng lẫn nhau, cất tiếng hát những bài hát của Hải quân và cười đùa với những sĩ quan trẻ này. Không giống như mấy viên sĩ quan hạm trưởng lớn tuổi, những người ở đây đều vui đùa buông thả.

Sau đó, Komura, Uchino và tôi bước sang phòng kế bên. Nơi đây cũng có một bữa tiệc cuối cùng dành cho các sĩ quan cấp thấp. Chúng tôi lại uống rượu và ca hát với họ. Các bữa tiệc vĩnh biệt trên soái hạm Yahagi chấm dứt vào lúc 23h30. Khi chỉ còn lại Komura, Uchino và tôi, tôi biết họ đã cùng chia sẻ mối ưu tư của tôi. Đó là vấn đề chiếc Yahagi sẽ tìm cách đối phó với nhiệm vụ trước mặt như thế nào. Về phần các sĩ quan thì có thể tạm yên, nhưng còn hàng binh sĩ thì sao? Chúng tôi quyết định đi một vòng qua các nơi nghỉ ngơi của họ. Trong những khoảng trống nhỏ hẹp trên chiếc tàu, hàng ngàn chiếc võng giăng mắc tứ phía. Ngoại trừ tiếng ngáy của những người nằm trên võng, không còn một tiếng động nào khác. Họ đều ngủ một cách bình thản.

Chúng tôi nhón gót trở lên sàn giữa, và Uchino lên tiếng: "Họ ngủ như những đứa trẻ. Sở dĩ họ bình tĩnh được như vậy là vì họ đã đặt sự tin tưởng vào Đại tá. Họ biết rằng Đại tá sẽ bảo vệ họ, dù cho nhiệm vụ hiểm nghèo như thế nào."

Niềm vui tràn ngập đồng thời khối lượng rượu quá mức trong thân thể tôi bắt đầu công phạt. Tôi cảm thấy mặt mày choáng váng, đôi chân lảo đảo, và cơn say ùa đến thình lình. Những giọt nước mắt trào ra va chảy xuống đôi má khi tôi bám vào một cây cột trên tàu và hét to: "Nhật Bản bất diệt, Yahagi bất diệt.."

Tiếng hét này là những gì cuối cùng mà tôi còn nhớ được của cái đêm khó quên đó. Uchino đỡ tôi vào phòng, và tôi rũ xuống trên giường.

Ngày hôm sau là thứ Bảy, 6 tháng 4, tôi thức dậy vào lúc 6h sáng. Thời tiết trong sáng. Tôi bước lên sàn tàu, hít một hơi thở thật dài. Tôi lắc mạnh đầu và ngạc nhiên thấy cơn say tối qua không để lại dấu vết nào hết.

Một cơn gió nhẹ lướt qua, sóng gợn lăn tăn trên mặt biển Nhật Bản êm đềm. Xa xa, dọc theo bờ biển, hoa anh đào ánh lên một màu rực rỡ, và sau quanh cảnh này là những rặng núi nổi bật dưới bầu trời sáng chói. Sự hy sinh của chúng tôi cho quê hương tuyệt mỹ này không có gì đáng tiếc.

Uchino bước lên chào tôi. Tôi chào lại anh ta và nói: "Một ngày đẹp trời, phải không Uchino?"

"Quá đẹp, thưa Đại tá. Một chiếc B-29 bay phía trên chúng ta vào lúc 1h khuya, và 2 chiếc khác vào lúc 4h sáng. Địch đang bám sát động tĩnh của chúng ta."

Tôi im lặng gật đầu. Việc này đúng với dự đoán của tôi. Sau một vài phút đứng nhìn về quê hương lần cuối, tôi quay vào phòng. Lúc 10h, một thủy thủ giúp việc bước vào phòng và nói: "Thưa Đại tá, 15 phút nữa tàu đưa thư cuối cùng sẽ rời khỏi đây để chạy đến Tokuyama. Đại tá có gì để gửi đi không?"

"Không, không có gì cả." Khi tên thủy thủ biến dạng, tôi lại cảm thấy cần phải gửi một bức thư vĩnh biệt cho vợ tôi. Chỉ cần một vài hàng, vì thời gian gấp rút quá rồi, tôi viết vội vã:

"Trong vòng hai năm qua, kích thước của Hạm Đội Hỗn Hợp đã rút nhỏ lại một cách không thể tưởng tượng được. Hiện tại, anh là hạm trưởng của tuần dương hạm duy nhất còn lại của hạm đội này - chiếc Yahagi 8.500 tấn. Anh sắp thi hành một nhiệm vụ đặc biệt ở Okinawa. Đó là trách nhiệm và cũng là một vinh dự to lớn được chỉ huy một chiếc tàu trong chuyến hải xuất này. Em chỉ cần hiểu rằng anh rất sung sướng và hãnh diện được có mặt trong dịp may này.

Vĩnh biệt!"

Tôi bỏ bức thư vào phong bì và dán lại, đoạn cầm chạy ra cầu thang, ngay lúc chiếc tàu đưa thư sắp sửa lên đường. Trở vào phòng, tâm hồn tôi cảm thấy thanh thản. Tôi nhìn 8 khu trục hạm đậu gần đó, nghĩ đến thời gian qua và những gì xảy ra quanh các chiến hạm này.

Yukikaze (Tuyết Phong) đã tham dự nhiều trận đánh dữ dội nhưng vẫn tồn tại. Chiếc tàu này cũng nổi tiếng không thua gì chiếc Shigure của tôi. Tôi nhớ lại bài hát đã từng quảng bá ở Truk và Rabaul trước đây:

Shigure của Sasebo, Yukikaze của Kure.

Hai khu trục hạm kiên cố và bất diệt.

Phép lạ trong mơ của muôn ngàn thủy thủ.

Luôn luôn trở về sau chiến trận vinh quang.

Bài hát đã từng là một thúc đẩy tinh thần mạnh mẽ đối với thủy thủ của tôi. Bây giờ Shigure đã ra đi vĩnh viễn, nhưng Yukikaze chắc chắn sẽ tiếp tục chứng tỏ phép lạ của nó.

Tôi nhìn sang khu trục hạm Suzutsuki (Lãnh Nguyệt), 3.470 tấn, và nghĩ đến thành tích đáng ngạc nhiên của tàu này. Hạ thủy vào cuối 1912, Suzutsuki đã từng bị một tàu ngầm địch phóng 2 quả ngư lôi vào ngày 16 tháng Giêng năm 1944, gần Shikoku, eo biển Bungo. Mũi và lái bị vỡ, nhưng "Lãnh Nguyệt" không chịu chìm và tìm mọi cách lết về Kure. Chín tháng sau, "Lãnh Nguyệt" lại lĩnh thêm một quả ngư lôi của địch ở trước mũi, cũng gần Shikoku, và giống như lần trước, chiếc tàu này vẫn ráng lết về Kure và được sửa chữa lại. "Việc gì đã xảy ra hai lần thì thế nào cũng xảy ra lần thứ ba," tôi nghĩ và thoáng mỉm cười, nhưng lần này không thể hiểu được số phận của Suzutsuki như thế nào.

Còn chiếc Hibiki, đáng lẽ nó phải có mặt trong lực lượng này, nhưng nó bị trúng một trái mìn nổi vào sáng sớm ngày 5 tháng 5, và đã khập khễnh về Kure. Tôi cảm tình đặc biệt với chiếc khu trục hạm nhỏ bé 1.980 tấn này. Sự vắng mặt của nó thật đáng tiếc. Khi nghe tai nạn xảy ra, tất cả chúng tôi đều tức bực. Một khu trục hạm Nhật bị hư hại vì trúng một quả mìn ngay trên biển Nhật Bản là một điều nhục nhã. Thời gian đó, các pháo đài bay B-29 của Hoa Kỳ đã rải rất nhiều mìn trên mặt biển này và ngay các thủy phận khác của Nhật Bản cũng không an toàn. Vấn đề này đã ảnh nhưởng rất nhiều trong quyết định tung tất cả chiến hạm còn lại của chúng tôi vào Okinawa.

Nhìn đến chiếc Hatsushimo, tôi không thể tin là nó sẽ tồn tại trong chuyến đi không có lượt về này. Sự thật lại trái ngược nhưng chiếc Hatsushimo trở về chỉ để nhận lãnh một quả ngư lôi trong biển Nhật Bản vào ngày 30 tháng 7 và trở thành chiến hạm thứ 129, cũng là khu trục hạm cuối cùng của Nhật, bị đánh chìm trong Thế Chiến II.

Lệnh nhổ neo ban ra vào lúc 16h. Hải xuất "tấn công đặc biệt" của 10 chiến hạm thuộc Hạm Đội Hỗn Hợp đã phát động. Tuần dương hạm Yahagi chạy dẫn đầu, kế đó là 3 khu trục hạm Isokaze, Hamakaze, Yukikaze và tiếp theo là thiết giáp hạm Yamato, các khu trục hạm Asashimo, Kasumi và Hatsushimo chạy nối đuôi phía sau.

Khi chúng tôi tiến với tốc độ 12 hải lý chậm chạp, nhằm để tránh mìn, tôi liếc qua đội hình khiêm nhường của lực lượng, tôi hiểu rằng đây quả thật là hải xuất cuối cùng của Hải quân Hoàng Gia, đồng thời tôi cảm thấy hãnh diện khi được dẫn đầu chuyến đi định mệnh này.

Hai giờ sau, chúng tôi tiến vào eo biển Bungo, nằm giữa Kyushu và Shikoku. Bên trái chúng tôi, bờ biển chạy dài ở phía Bắc Shikoku chỉ còn lờ mờ trước tầm mắt. Tôi đứng lặng yên để chào vĩnh biệt hòn đảo sinh quán này.

Qua khỏi eo biển nhỏ hẹp, hải vực đầy mìn đã nằm phía sau lưng, chúng tôi gia tăng tốc độ. Nhưng những rắc rối mới đã xuất hiện trước mắt. Hai chiếc B-29, bay cao khỏi tầm cao xạ, thả một loạt bom xuống ngay đoàn tàu của chúng tôi. Không một quả bom nào trúng mục tiêu, nhưng thách thức này đã báo trước hiểm nguy đang chờ đón chúng tôi. Tôi thấy bất an khi nghĩ đến 10 chiến hạm, chỉ một chiếc Yamato và 2 khu trục hạm là có trang bị radar phòng không. Radar của chiếc Yahagi chỉ hữu dụng trong việc chống lại các mục tiêu trên biển mà thôi.

Nhưng hiện thời không có thời gian nhiều để quan tâm đến những vấn đề như vậy. Mỗi chiến hạm đều tập họp thủy thủ trên sànn tàu. Trên chiếc Yahagi, giữa sàn tàu rộng bao la, 1000 thủy thủ đứng im phăng phắc để nghe tôi trình bày tóm lượt nhiệm vụ của chúng tôi và đọc một thông điệp đặc biệt của Đô đốc Soemu Toyoda gửi đến:

"Hải quân Hoàng Gia đang phát động một cuộc tổng phản công chống lại địch quân ở Okinawa, với sự phối hợp của tất cả lực lượng không hải bộ của Lục Quân, dồn hết nỗ lực vào cuộc hành quân này nhằm lật ngược tình thế của cuộc chiến.

"Hy vọng rằng mọi đơn vị và mọi binh sĩ đều nêu cao tinh thần chiến đấu và diệt địch, nhờ vậy, quốc gia của chúng ta mới mong trường tồn, vì vận mạng của quốc gia đều nằm trong cuộc hành quân này."

Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng chạy rì rầm của máy tàu, tiếng vỗ của sóng và tiếng phần phật của lá cờ Mặt trời mọc đang tung bay trên cột. Tôi tiếp tục:

"Các bạn vừa nghe thông điệp đặc biệt của Tổng Tư Lệnh. Tôi muốn thêm một đôi lời về nhiệm vụ tấn công đặc biệt của chúng ta."

"Như các bạn đã biết, hàng nhiều trăm chiến hữu của chúng ta đã thực hiện những chuyến bay không trở về để chống lại đối phương và hàng ngàn phi công tự nguyện thi hành cùng một nhiệm vụ này đang chờ đợi trên khắp các phi trường. Hàng nhiều trăm chiến hữu khác đã sẵn sàng trên các tàu ngầm tự sát. Hàng nhiều ngàn chiến hữu khác nữa sẽ lái tàu phóng lôi chứa chất nổ hoặc đích thân mang chất nổ lặn sâu xuống đáy biển để hủy diệt chiến hạm địch quân."

"Công việc của chúng ta, trong nhiệm vụ này, là chia sẻ sự dũng cảm của các chiến hữu đó. Nhiệm vụ của chúng ta có vẻ như là tự sát, và sự thật nó là như vậy. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng đó không phải là mục đích của chúng ta. Mục đích của chúng ta là chiến thắng."

"Đừng ngần ngại trong việc bảo vệ mạng sống của mình. Chúng ta bắt buộc phải chống trả bất kỳ nỗ lực nào của địch quân nhằm ngăn trở nhiệm vụ của chúng ta, nhưng không vì vậy mà chúng ta xem thường mạng sống của mình."

"Chúng ta không phải là những con cừu non dùng để tế thần. Chúng ta là những con sư tử được thả ra đấu trường để nuốt tươi đấu thủ. Chúng ta không phàn nàn hối tiếc khi phải hy sinh cho quốc gia."

"Lập tức, khi chiếc tàu này bị hư hại nặng hay bị đánh chìm, các bạn đừng lưỡng lự trong việc tự cứu mình, bởi lẽ thua keo này sẽ bày keo khác. Tôi nhắc lại, nhiệm vụ giao cho các bạn không phải là tự sát, mà là đánh bại đối phương."

Thấp thoáng trong mây, ánh trăng xuân phủ một màu nhợt nhạt lên đám thính giả yên lặng và bất động như những pho tượng của tôi. Sự im lặng đầy căng thẳng này kéo dài cho đến khi một sĩ quan đứng ở hàng đầu lên tiếng:

"Thưa Đại tá, xin Đại tá cho phép tôi hỏi một câu?"

Tôi gật đầu đồng ý cho Đại úy Kenji Hatta hỏi. Anh ta tiếp tục: "Trong suốt 4 năm theo học ở Hàn Lâm Viện, chúng tôi được dạy dỗ rằng phải sống chết với chiếc tàu, có nghĩa là chúng tôi không được bỏ rơi chiếc tàu của chúng tôi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đại tá có thể giải thích rõ hơn về những lưu ý của Đại tá, theo tôi, hình như phủ nhận những gì mà chúng tôi được dạy dỗ."

Câu hỏi này hiển nhiên nằm trong đầu của các sĩ quan hiện diện. Tôi đáp: "Câu hỏi rất có lý. Tôi sẽ cố gắng giải đáp. Nếu chiếc tàu sắp chìm các bạn phải lập tức bỏ rơi, không chần chờ một giây phút nào. Việc này có vẻ trái ngược với những gì các bạn đã từng được dạy dỗ trong quá khứ, nhưng tôi sẽ giải thích."

"Chúng ta đã tiến đến một điểm bối rối nhất trong cuộc chiến này. Vật lực của địch quân đã đành là ghê gớm nhưng điều quan tâm hơn hết của chúng ta là vấn đề thiếu nhân sự giỏi, bởi vì chúng ta đã thiệt mất quá nhiều ngoài mặt trận. Phải mất 5 năm mới đào tạo được một sĩ quan, do đó sự mất mát này không thể thay thế mau lẹ được. Nhiều thủy thủ rành nghề đã thiệt mạng vì họ xem rẻ mạng sống của họ. Nếu nhiệm vụ của chúng ta là chiến thắng cuộc chiến này, chúng ta phải kiên nhẫn."

"Trong thời phong kiến, mạng sống của con người bị phí phạm một cách vô ích, nhưng chúng ta là những con người của thế kỷ 20, chúng ta không thể làm như vậy. Giáo điều Bushido (tâm niệm của giới võ sĩ đạo) dạy rằng một Samurai phải sống một đời sống như thể hắn luôn luôn chuẩn bị để chết. Câu này thường bị lạm dụng và diễn giải sai lầm. Nó không có nghĩa là một Samurai phải tự sát, nếu hắn vấp phải những sai lầm không đáng kể. Đúng ra, nó có nghĩa là một Samurai đã chọn một đời sống như vậy, hắn sẽ không hối tiếc khi phải chết. Bushido chỉ kêu gọi tự sát khi chúng ta vấp phải những sai lầm to lớn. Cái chết đến với một người bất kỳ lúc nào, không cần biết đến người đó đã sống một đời sống ra sao. Cái chết chỉ khác nhau ở ý nghĩa mà thôi. Câu hỏi của anh được giải đáp như vậy có ổn chưa, Hatta?"

"Ổn lắm, thưa Đại tá!" Anh ta nói lớn. "Tôi đồng ý với Đại tá hoàn toàn. Cám ơn Đại tá rất nhiều." Và hắn ta đưa tay chào tôi.

Tôi lớn tiếng: "Tất cả chúng ta hãy tận lực để xoay dòng thủy triều của cuộc chiến."

Cuộc họp chấm dứt bằng những tiếng hoan hô Nhật Hoàng và Yahagi đồng loạt như sấm dậy của toàn thể thủy thủ đoàn.

Một cuộc thực tập tấn công cuối cùng đã diễn ra trên hải trình của chúng tôi. Soái hạm Yamato được xem là địch quân và tất cả các chiến hạm khác vừa chạy vừa tấn công vào mục tiêu này. Đây là lần đầu tiên chiếc Yahagi có cơ hội đạt đến tốc độ tối đa 35 hải lý. Nhưng thời gian thực tập này rất ngắn ngủi, chúng tôi phải chạy về đội hình để tiến về phía Nam.

Truyền tin của chúng tôi đã bắt được công điện chuyển đi từ một chiếc tàu ngầm địch quanh quẩn đâu đó. Yamato ra lệnh quay về hướng phải để tiến sát vào Kyushu nương tựa bờ biển phía Đông của hòn đảo này. Trăng lên, đại dương đen thẫm, và thời tiết đột nhiên trở xấu. Các quan sát viên mở hết mắt nhưng cũng không nhìn thấy gì cả. Mọi người căng thẳng, nhưng tàu ngầm địch không tấn công.

Tôi không biết vào ngày hôm đó khu trục hạm cũ của tôi là chiếc Amatsukaze bị phi cơ địch oanh tạc tan tành ở Đông Hải của Trung Hoa, thảm họa nhỏ này mở màn cho thảm họa lớn hơn giáng xuống hạm đội của chúng tôi. Nhưng cho dù biết được tin tức không tốt lành của chiếc Amatsukaze, tôi cũng không cho đây là một điềm dữ báo trước. Bởi vì, như tôi đã nói với thủy thủ đoàn của chiếc Yahagi, tôi vẫn luôn luôn nghĩ của hành quân hiện tại sẽ thành công. Trong đầu tôi cũng không có một nơi nào dành cho sự chiến bại.

Một hàng dọc, chạy theo hình chữ chi, với tốc độ 20 hải lý, hạm đội của chúng tôi tiến dọc theo bờ biển phía Nam Kyushu. Lúc 7h sáng ngày 7 tháng 4, một lần nữa, chúng tôi xoay sang hướng 210 độ, giả vờ tiến tới Sasebo, nằm ở phía Tây Nam Kyushu. Trên đoạn hải trình nghi binh này, 10 chiến hạm từ từ tạo một đội hình vòng tròn bao quanh soái hạm Yamato, với một đường bán kính 2.000m.

Vị trí của chiếc Yahagi ở ngay trước mũi Yamato. Tính theo chiều kim đồng hồ, (tức bên trái Yahagi) ví trí của 8 khu trục hạm nằm trong phần vòng tròn còn lại như sau: Asashimo ở hướng 7 phút rưỡi, Kasumi 15 phút, Fuyutsuki 21 phút, Hatsushimo 27 phút, Yukikaze 39 phút, Hamakaze 45 phút và Isokaze ở hướng 52 phút rưỡi.

Ngay sau khi vòng tròn này lập xong, các chiến hạm gia tăng tốc độ lên 24 hải lý và chạy theo hình chữ chi trở lại. Nét đầu tiên của chữ chi xoay hướng tiến của đoàn tàu 45 độ, Asashimo trở thành chiếc tàu dẫn đầu. Nét thứ hai mang chiếc Isokaze về phía trước, và cứ tiếp tục như vậy. Đội hình di chuyển này đòi hỏi sự điều động phải tuyệt đối chuẩn xác, rất hữu hiệu trong việc chống lại các cuộc tấn công của tàu ngầm, nhưng lại khó đương đầu với phi cơ nhanh nhẹn, có thể nhắm vào bất kỳ góc độ tấn công nào cũng được.

Đội hình và lối chạy vừa nói đã được quyết định trong một cuộc họp cuối cùng của Ito trên soái hạm Yamato. Quyết định này sẽ sớm chứng tỏ sự sai lầm của nó.

Thời tiết tốt đẹp suốt ngày hôm đó và cho đến sớm hôm sau thì hoàn toàn thay đổi. Mây che kín bầu trời và như bay là đà trên mặt biển.

Không một tia nắng nào xuyên nổi qua những lớp mây dày đặc này. Mưa không biết đến lúc nào. Một ngày đáng lo ngại.

Bờ biển Kyushu biến mất nhanh chóng khi chúng tôi xoay sang hướng Nam để chạy ra Đông Hải. Từ khi khởi hành, lần đầu tiên tôi cảm thấy bất an. Thời tiết hiện tại đầy bất lợi cho một cuộc đi biển. Giữa ban ngày, tầm nhìn giới hạn chỉ 20.000m. Được trang bị radar tối tân, với khoảng cách quan sát này, phần lợi sẽ nghiêng hẳn về phía địch quân. Một cơn mưa bão mù mịt sẽ che chở chúng tôi rất nhiều, nhưng đó chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không chọn một ngày thời tiết thuận lợi hơn cho nhiệm vụ tuyệt vọng này.

Các quan sát viên của Yahagi hớn hở báo tin 20 chiến đấu cơ Zero bay đến từ hướng Bắc. Chúng lướt ngang thật thấp trên đầu chúng tôi và quay lại một lần nữa, lần này ẩn hiện trong những lớp mây dày đặc. Uchino hỏi có phải những chiến đấu cơ này đến để bao che cho lực lượng của chúng tôi hay không?

Komura bình thản đáp: "không, Uchino, mấy chiếc phi cơ này không dính dáng gì đến lực lượng chúng ta. Chúng ta không được bao che trên không. Đây là một phi xuất huấn luyện thường lệ. Có lẽ Kusaka ra lệnh cho mấy tên phi công non nớt này bay trên đầu chúng ta để nói lời vĩnh biệt."

Sự im lặng kéo dài trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Yahagi cho đến khi Yamato báo tin một trong hai chiếc phi cơ còn lại trên soái hạm này sẽ cất cánh bay về căn cứ không quân Ibusuki, và đồng thời ra lệnh cho Yahagi gửi đi một trong hai chiếc phi cơ của mình. Yamato thường mang theo 7 phi cơ, nhưng 5 chiếc đã được bỏ lại ở Kure. Chiếc thứ sáu vừa cho cất cánh, cùng lúc với chiếc của Yahagi, bởi lẽ Ito không muốn chúng bị phí phạm vô ích trong chuyến đi cầm chắc cái chết trong tay của chúng tôi.

Trước khi cất cánh, viên phi công của Yahagi đã đến trình diện tôi . Anh đứng nghiêm và nói: "Tuân lệnh, tôi sẽ về Ibusuki ngay bây giờ, nhưng ở đó tôi sẽ tình nguyện thực hiện một phi vụ tự sát và sẽ sớm gặp lại Đại tá."

Khi đã ở trên không, chiếc phi cơ bay tuần trên đầu chúng tôi ba vòng và sau đó trực chỉ Kyushu.

Trong khi Yamato và Yahagi chuẩn bị cho cất cánh hai chiếc phi cơ cuối cùng, chúng tôi phát hiện hai phi cơ không nhận rõ lai lịch ở phía Bắc, nên công việc này được đình chỉ. Các trinh sát cơ của chúng tôi không thể nào chống lại các chiến đấu cơ địch.

Uchino càu nhàu: "Tại sao các chiến đấu cơ hồi nãy của chúng ta không được giữ lại để chống với phi cơ địch?"

Komura đáp một cách điềm tĩnh: "Hãy bình tĩnh, Uchino, anh cũng biết mấy viên phi công non nớt của chúng ta làm sao chống nổi với mấy tên phi công kinh nghiệm của đối phương."

Mây sà thấp hơn, thời tiết càng tồi tệ, và vào lúc 8h, mưa phùn bắt đầu rơi xuống. Các chiến hạm của chúng tôi, cũng trong đội hình vòng tròn, vẫn tiến thẳng về hướng định mệnh, dưới sự dòm ngó liên tục của các phi cơ quan sát địch. Trong lúc đó, các chiến đấu cơ Nhật vẫn bình thản tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện. Tôi đã gặp nhiều loại hành quân, nhưng chưa có loại nào như vậy. Đây là một cuộc hành quân kỳ quái.

Lúc 9h, khu trục hạm Asashimo, chạy phía phải Yahagi, bỗng nhiên giảm tốc độ. Xuyên qua ống dòm, tôi nhận thấy rõ khuôn mặt ông bạn Sugihara của tôi , hạm trưởng của chiếc Asashimo đang đứng trên đài chỉ chuy, đang lộ vẻ bối rối. Tín hiệu bằng cờ của chiếc tàu này cho biết nó bị trục trặc máy móc. Nhìn Asashimo rơi dần lại phía sau, tách rời khỏi đội hình, tôi lo lắng, nên gửi ngay một thông điệp yêu cầu cho biết tin tức rõ hơn.

Asashimo đáp: "Đang nỗ lực sửa chữa. Hy vọng bắt kịp đồng đội sớm." Nhưng chiếc tàu càng lúc càng rơi lại phía sau, vào lúc 10h thì không còn thấy tăm dạng đâu nữa. Komura ra lệnh cho khu trục hạm Kasumi điền vào khoảng trống và bốn khu trục hạm kế phía sau đôn lên. Việc điều chỉnh này khá dễ dàng cho dù đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy theo hình chữ chi.

Nhưng đối với tôi không dễ dàng, khi tôi biết rằng vị trí của chiếc Asashimo, yểm trợ cạnh sườn phải của tôi, hiện thời được một chiếc tàu nhỏ nhất trong lực lượng thay thế. Đó là một điều bất lợi.

Truyền tin của chúng tôi vừa chặn bắt thêm được một công điện của địch quân, lần này do phi cơ bay rất gần đoàn tàu của chúng tôi chuyển đi. Việc này chứng tỏ hướng tiến giả vờ của chúng tôi không ích lợi gì cả. Địch quân đã biết người biết ta rồi.

Lúc ấy, có 3 tàu buôn 2.000 tấn lướt qua, tạo một không khí vui vẻ phần nào cho chúng tôi . Có nhiều thủy thủ nói rằng họ không ngờ Nhật Bản còn có những tàu buôn to lớn đến như vậy.

Vào lúc 11h30, một thủy phi cơ được phát hiện cách 20.000 ở phía Đông. Chiếc phi cơ bay ngoài tầm súng, xoay vòng tròn quanh đoàn tàu, và gửi đi báo cáo chi tiết về hoạt động của chúng tôi. Điều đáng tức giận là chúng tôi không có một chiến đấu cơ nào để cho cất cánh và bắn kẻ đang đe dọa đến sự an toàn của chúng tôi. Trong khi tôi đang nhìn chiếc thủy phi cơ bay ngoài tầm cao xạ một cách thèm thuồng, phòng truyền tin báo cáo: "Căn cứ quan sát ở Omami Oshima cho biết 150 phi cơ địch đang hướng về phía Bắc."

"Chúng đến đây rồi." Komura nói với một nụ cười méo mó.......

Omami Oshima là hòn đảo nằm giữa Kyushu và Okinawa. Không cần nhìn hải đồ, mọi sĩ quan trên đài chỉ huy đều biết rằng các phi cơ này sẽ đến trên đầu chúng tôi trong vòng một giờ nữa.

Yamato ra lệnh gia tăng khoảng cách các chiến hạm lên 5.000m, một khoảng cách căn bản để chống không kích. Yahagi và 7 khu trục hạm khác gia tăng tốc lực, và các xạ thủ vào vị trí chiến đấu.

Sáu khẩu đại pháo 150mm, 4 khẩu phòng không 80mm và 40 khẩu đại liên của Yahagi đều chĩa thẳng lên trời. Trưa đến, không có một dấu hiệu nào cho thấy sắp xảy ra một cuộc tấn công, đầu bếp mang bữa ăn trưa đến các vị trí chiến đấu. Mọi người ăn uống vội vã. Tôi rất hài lòng khi nhìn thấy sự chuẩn bị chu đáo như vậy. Sự lo lắng của tôi biến mất và tôi biết chiếc Yahagi sẽ ghi điểm thắng lợi đầu tiên.

Vào lúc 12h20, radar của Yamato phát hiện "rất nhiều phi cơ địch còn cách 30.000m ở hướng 35 độ mạn trái," và ra lệnh cho tất cả các chiến hạm hướng về phía trước với tốc độ tối đa và chuẩn bị chống phi cơ.

Mệnh lệnh được thi hành chu đáo. Tất cả chiến hạm đều đạt tốc độ gần 30 hải lý. Với Komura và các sĩ quan khác, tôi leo lên đài chỉ huy tác xạ nằm phía sau đài chỉ huy chính. Những cuộn sóng khổng lồ nổi lên sau khi soái hạm Yamato lướt ào ạt trên mặt biển với tốc lực tối đa. Chiếc thiết giáp hạm 72.000 tấn này đã thu hút muôn ngàn cặp mắt đổ dồn vào nó.

Yamato đã trở thành niềm tin thần thánh với toàn thể binh chủng Hải quân. Niềm tin này càng dâng cao khi Yamato trở về an toàn sau trận đánh ở Vịnh Leyte mà không bị một vết sướt nào, trong khi chiếc thiết giáp hạm cùng lớp Musashi bị đánh chìm. Đề đốc Nobuei Morishita, từng chỉ huy Yamato trong trận Leyte, hiện là tham mưu trưởng của Ito, do đó theo tôi nghĩ, chắc chắn ông sẽ mang đến may mắn cho chiếc tàu này một lần nữa. Nhưng ai có thể tưởng tượng chiếc thiết giáp hạm vĩ đại này sẽ bị đánh chìm trong vòng hai giờ nữa?

Ngay cả đứng trên đài chỉ huy tác xạ, chúng tôi vẫn không thể nhận thấy chiếc phi cơ nào bay đến. Mây sà thấp trên mặt biển ở cao độ 1500m, và một cơn mưa luồng thình lình trút xuống bao phủ mọi cảnh vật chung quanh chúng tôi. Thời tiết tồi tệ như thế là cùng. Hiện thời phi cơ địch chắc chắn đã ở trên đầu, nhưng vì mây che phủ nên chúng tôi không nhìn thấy. Mặc dù hỏa lực của Yahagi được loại radar mới hướng dẫn, nhưng chỉ hữu hiệu với các mục tiêu trên mặt biển mà bất lực trước các mục tiêu trên không. Nếu một phi cơ địch bất thần chui ra khỏi các đám mây, tôi biết rằng mọi loại súng thông thường của chúng tôi bó tay, ngay cả thời gian để nhắm vào mục tiêu cũng không có đủ.

Một quan sát viên la lớn: "Hai phi cơ địch ở trước mũi tàu, chếch về mạn trái."

Tôi nhìn lên trời. Không phải hai mà là hai mươi, bốn mươi và có thể nhiều phi cơ hơn nữa chui ra khỏi đám mây. Khi tôi ra lệnh khai hỏa, đồng hồ chỉ đúng 12h32.

Thay vì chúi xuống tấn công chúng tôi ngay lập tức, các phi cơ bay vòng tròn theo chiều kim đồng hồ, ngay phía dưới những cụm mây. Sau đó, một trong ba nhóm phi cơ này tách ra, bay vòng tròn ngược lại với chiều kim đồng hồ. Diễn biến lạ lùng này đã gây rối loạn cho chúng tôi. Các xạ thủ đã cố gắng điều chỉnh tầm súng, nhưng hình như không thể nào khai hỏa kịp.

Địch quân chắc hẳn đang ngắm nghía nạn nhân của họ để lựa chọn tấn công vào các mục tiêu đặc biệt. Một vài chiến hạm của chúng tôi khai hỏa lẻ tẻ khi các phi cơ vừa xuất hiện và sau đó bắt đầu khai hỏa toàn diện. Chín đại pháo 460mm bắn một vài trái đạn loại số 3 - tức loại đạn nổ trên không - nhưng còn cách mục tiêu quá xa. Thình lình, tất cả các phi cơ đảo cánh và chúi xuống như sấm sét, nhắm vào các mục tiêu đã được chọn lựa, trong lúc đa số súng trên các chiến hạm Nhật vẫn còn loay hoay định hướng.

Nhóm phi cơ đầu tiên chúi xuống tuần dương hạm Yahagi là 4 oanh tạc cơ Avenger (TBM). Tất cả mọi loại súng trên tàu đều khai hỏa, nhưng chỉ nhắm đại khái, cùng lúc với loạt bom được thả xuống hướng vào mạn trái của chiếc tàu. Tôi ra lệnh bẻ hết tay lái về phía phải. Chiếc Yahagi đáp ứng lệnh này một cách hoàn mỹ. Mấy quả bom rơi xuống cách tàu 500m, tạo ra những cột nước thật cao.

Nhóm phi cơ thứ hai đâm đầu thật sát vào chiếcYahagi là các chiến đấu cơ F-6F Hellcat. Tôi nhìn thấy cả gương mặt của một viên phi công Hoa Kỳ khi hắn ta cho phi cơ lên cao trở lại, vượt ngang qua phía trước chúng tôi. Đạn đại liên bắn như vãi trấu, chạm trổ dọc theo thân chiếc tàu, nhưng rất may là không có thủy thủ nào trúng đạn. Các xạ thủ vẫn giữ vững vị trí và bắn không ngừng nghỉ, nhưng đều phí công vô ích.

Tôi liếc mắt một vòng, nhận thấy tất cả các chiến hạm đều chạy với tốc lực tối đa, gây những làn sóng trắng xóa trên đại dương đồng thời mọi loại hỏa lực đều lên tiếng. Nhìn xuống mặt nước, tôi phát hiện nhiều làn bọt sủi lên một cách bất thường. Tôi hiểu ngay đó là ngư lôi do phi cơ địch thả xuống đang lướt đến tàu chúng tôi.

"Xoay phải lập tức! Tốc độ tối đa!" Tiếng hét của tôi cùng lúc với hàng chục chiếc phi cơ đang chúi đầu xuống. Những quả bom màu đen tạo nên những tháp nước màu trắng vượt cao lên không có cả trăm mét. Sau loạt bom, các chiến đấu cơ quay lại và sà thấp xuống quạt đại liên vào chúng tôi. Mọi loại súng trên Yahagi giăng một tấm màn lửa trên không. Cả hai phía vẫn chưa ai ghi được điểm.

Một quan sát viên la chói lói: "Thêm nhiều oanh tạc cơ mới đến." Tôi hét: "Bẻ lái sang phải lập tức!" Xoay gấp rút, chiếc tuần dương hạm 8.500 tấn hơi lảo đảo, khiến cho hướng nhắm của tất cả súng trên tàu đều sai lạc, nhưng phi cơ địch cũng phải điều chỉnh lại góc độ oanh tạc.

Khi nhóm phi cơ thứ tư đã đến trên đầu chúng tôi, phòng truyền tin báo cho biết chiếc Asashimo đang bị tấn công. Không có thời gian để nghĩ đến chiếc tàu hỏng máy đơn độc này, chúng tôi còn mắc bận lo bảo vệ lấy thân. Cho Yahagi lướt xuyên qua tấm màn lửa bom đạn, và một lần nữa, chúng tôi thoát khỏi. Bây giờ tôi mới nghĩ đến chiếc Asashimo. Với máy móc trục trặc, chiếc tàu này khó có thể tồn tại trước cuộc tấn công. Đối phương đã dồn hết nỗ lực để đánh lực lượng chính của chúng tôi trong khi vẫn còn thừa một số phi cơ để truy đuổi một kẻ chạy lang thang ở khoảng cách xa hơn 20 dặm, đó là một việc kỳ dị không thể tưởng.

Thiết giáp hạm Yamato vẫn lao hết tốc lực về phía trước. Các khu trục hạm chạy quanh

quẩn đây đó, thoạt ẩn thoạt hiện trong làn sóng bủa cao trên mặt đại dương, được tô điểm thêm bằng những chiếc nấm khổng lồ do những quả bom tạo nên. Nhiều quả bom lạc xa, gần trúng hoặc trúng mục tiêu, khiến quanh cảnh thay đổi liền liền, từ ngoạn mục sang hồi hộp và đến khủng khiếp.

Nhiều phi cơ khác lại ùa đến quyết nhận chìm chiếc Yahagi, nhưng nó vẫn thoát khỏi. Điều này khiến tôi yên tâm, vì nhận thấy lối chạy uốn éo và xoay trở nhanh chóng không ngờ lại tránh né phi cơ địch một cách hữu hiệu. Nếu có đầy đủ thời gian để cân nhắc, tôi sẽ không bao giờ cho tàu chạy theo lối này.

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển....

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển. Ba quả ngư lôi chỉ chạy các chiếc tàu chỉ vài mươi mét. Đó là ngư lôi do các oanh tạc cơ địch vừa thả xuống. Không theo dõi những kẻ tấn công đang vượt qua như sấm động trên đầu, tôi nhìn chăm chăm theo những làn nước sủi bọt. Một lần nữa, chiếc Yahagi vẫn đứng vững trong cơn bão tố. Nhưng ngay lúc đó, chiếc tàu bỗng rùng mình. Một quả ngư lôi trúng ở mạn trái, chính giữa thân tàu, ngay dưới mực nước.

Và một biến cố kế tiếp mà ngày này tôi không sao tin được nó có thể xảy ra. Chiếc Yahagi chạy một cách lừ đừ, chậm chạp đâu khoảng vài phút rồi khựng lại thình lình và dừng hẳn. Một chiến hạm to lớn như thế này mà bỗng nhiên chết đứng chỉ vì một quả ngư lôi duy nhất chạm phải là điều không thể nào chấp nhận được. Nỗi ngẩn ngơ của tôi càng gia tăng khi tôi nhìn xuống đồng hồ : 12h46. Nghĩa là chúng tôi mới chiến đấu có được 12 phút.

Tôi yêu cầu phòng máy báo cáo tình trạng hư hại. Không ai trả lời. Tôi gọi lại, nhưng vẫn như lần trước. Bây giờ tôi hiểu ngay là quả ngư lôi đã trúng ngay phòng máy. Tôi than trời, nhưng đối phương không cho phép than thở. Sáu chiếc phi cơ khác chúi mũi xuống để thả bom. Tôi nhìn thấy rõ ràng một quả bom trúng ngay sàn giữa và nổ tung, đốn ngã ít nhất 10 thủy thủ, và có sáu cái xác bay tung lên không. Tiếp theo một tiếng nổ ở phía sau lái khiến toàn thân chiếc Yahagi rung chuyển dữ dội.

Một thoáng, tôi nhớ lại hình ảnh chìm dần của chiếc tàu chuyển vận Tokyo Maru, nạn nhân của một quả ngư lôi duy nhất trúng ngay buồng máy. Cùng lúc, tôi nhớ lại hình ảnh hai tuần dương hạm khổng lồ Repulse và Prince of Wales của Anh quốc, cả hai đã bị đánh chìm bởi một số lượng phi cơ Nhật Bản nhỏ hơn số lượng đang đối đầu với chúng tôi rất nhiều. Niềm tin từ lâu trong lòng tôi bỗng tiêu tan.

Một thủy thủ chạy việc hối hả leo lên tháp báo cáo: "Ngư lôi phá vỡ ngay buồng máy và nước đã tràn vào đầy cả rồi!"

Tôi hỏi: "Các vách ngăn để nước khỏi tràn qua các buồng khác thì sao?"

"Các thủy thủ đang làm công việc này, thưa Đại tá."

Chiếc tàu nghiêng về mạn phải ở một mức độ đáng ngại. Tôi nghe Komura nói: "Hamakaze tiêu rồi." Tôi nhìn sang phía trái, về phía Komura đang nhìn trừng trừng, tôi chỉ kịp thấy cái bụng sơn màu đỏ chói của chiếc Hamakaze trước khi nó biến mất giữa những lượn sóng.

Chúng tôi chưa kịp đắp điếm vết thương thì một cuộc tấn công mới lại ùa đến. Uchino chạy xuống cầu thang để ra lệnh cho các xạ thủ. Đó là lần cuối cùng tôi thấy viên phụ tá xứng đáng của tôi. Tất cả mọi loại súng đều khai hỏa, và lần đầu tiên trong trận đánh này, Yahagi đã bắn hạ hai phi cơ địch.

Chiếc tàu, đã chết đứng trên mặt nước, nhận lãnh bom đạn của hết loạt phi cơ này đến loạt phi cơ khác. Phi công địch can trường đâm thẳng vào hàng rào hỏa lực của chúng tôi. Đuôi chiếc tàu lại trúng bom và rung chuyển dữ dội. Tôi nhìn ngoái lại, và nhận thấy ba xác người tung lên cao có gần 20m. Cùng lúc, Yahagi lĩnh thêm một quả ngư lôi vào trước mũi nữa.

Chiếc tàu rung động như một tờ giấy căng trước gió. Bám chặt vào chấn song của pháo tháp chỉ huy, tôi thấy rõ lỗ thủng vĩ đại ở trước mũi Yahagi do quả ngư lôi gây ra. Độ nghiêng của chúng tôi gia tăng nhanh chóng. Một nhóm oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác lại bay đến, và tất cả đều dồn hết hỏa lực vào chiếc mũi đã bị vỡ tan của chiếc Yahagi. Những tràng đại liên đinh tai nhức óc của phi cơ địch được chấm câu bằng tiếng nổ dữ dội của một quả bom trúng thẳng vào pháo tháp số 1, thổi bay toàn thể pháo thủ và nghiền nát những người đứng ở sàn giữa. Một điều lạ lùng là không có quả bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc tháp chỉ huy tác xạ. Nhưng tất cả đinh tán đều long ra hết, khiến hai nơi đây rung động liên hồi, không biết sụp xuống lúc nào. Sườn của pháo tháp số 1 vẫn còn nguyên nhưng áp lực của quả bom 250 cân Anh thổi bay tất cả vách thép dày bao chung quanh. Khói màu vàng cay nồng len lỏi qua các lổ thủng bay lên. Giữa cảnh tàn phá, tôi sửng sốt khi nghe một tiếng la to của sĩ quan pháo thuật, Đại úy Hatta, ra lệnh tháo nước vào kho chứa đạn của pháo tháp số 1 . Khói màu vàng tan dần vì lửa bị dập tắt. Nếu kho đạn này nổ, chiếc tàu sẽ chìm nhanh chóng, những kẻ còn lại không mong gì sống sót. Nhưng kho chứa đạn đầy nước sẽ khiến cho độ nghiêng của chiếc tàu càng trầm trọng thêm.

Phi cơ địch vẫn tấn công không ngừng nghỉ, và nhóm kế tiếp đã oanh tạc trúng đích nhiều đến nổi tôi không thể nào đếm xuể. Khi những tiếng nổ chấm dứt, tôi rùng mình khi nhận thấy nhiều ụ súng và các xạ thủ đều biến mất. Một viên chỉ huy có thể chịu đựng bao lâu trước cảnh thuộc cấp của mình lần lượt bị xé tan thành từng mảnh? Vẫn chưa trái bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc đài chỉ huy tác xạ.

Tôi bừng tỉnh khi phòng ngư lôi gọi tên tôi. Đó là Thiếu Tá Takeshi Kameyama, yêu cầu cho phép phóng tất cả ngư lôi trong ống. Ông ta nói: "Nếu các quả ngư lôi này nổ, chiếc tàu sẽ bị phá tung."

Tôi chấp thuận. Lập tức , một loạt 16 quả ngư lôi được phóng ra. Tôi tưởng tượng đến cảnh hư hại mà những quả ngư lôi này có thể gây ra cho lực lượng địch quân. Đó là tưởng tượng ở giây phút cuối cùng của định mệnh.

Hành động của Thiếu tá Kameyama không sớm quá một giây. Quả ngư lôi cuối cùng vừa thoát ra mặt nước, nhiều quả bom rơi xuống phá tung các ống phóng và đốn ngã tháp sau của Yahagi. Vẫn an toàn trên đài chỉ huy tác xạ, tôi nhìn về phía cuối tàu và nhận thấy chiếc máy phóng phi cơ của chúng tôi đã tan ra thành từng mảnh. Chiếc phi cơ duy nhất, một phút trước đây vẫn còn toàn vẹn, hiện tại là một đống sắt vụn. Một vài khẩu súng vẫn còn lên tiếng và nhiều thủy thủ mình mẩy đẫm máu vẫn chưa chịu rời bỏ vị trí chiến đấu của họ.

Hàng loạt oanh tạc cơ Avenger tiếp tục ùa đến như những làn sóng, và hàng loạt ngư lôi được thả xuống. Tôi không thể nào biết rõ bao nhiêu quả đã trúng vào chiếc tàu. Tiếng nổ hàng loạt khiến cho con tàu đang hấp hối của chúng tôi rung lên từng cơn. Cuối cùng tiếng nổ chấm dứt, nhưng độ nghiêng vẫn tiếp tục gia tăng trong lúc sóng biển bắt đầu tẩy sạch những vũng máu trên sàn tàu và những xác chết lần lượt lăn long lóc xuống mặt biển.

Và bây giờ làn sóng cuối cùng của khoảng 100 phi cơ địch đã thi hành xong nhiệm vụ và bay đi. Tôi nhìn quanh. Tất cả pháo tháp đều bị thiêu rụi. Chiếc tuần dương hạm đầy hãnh diện của tôi bây giờ chỉ còn là một đống sắt nổi trên mặt nước, nhưng lạ lùng thay, tôi nghĩ, không hề có một đốm lửa nào. Nhìn cảnh tượng kỳ quái này, tôi chực nhớ lại hình ảnh tuần dương hạm San Francisco của Hoa Kỳ, chiếc tàu giống như ma quỉ đó đã khiến cho chiếc Amatsukaze suýt tan tành trong đêm tối bưng ở gần Santa Cruz. Hiện thời Yahagi cũng là một chiếc tàu ma. Không vật gì còn động đậy trên sàn tàu. Đa số thủy thủ đoàn của nó bị tiêu diệt.

Nhưng trên đài chỉ huy mọi người đều lành lặn. Đề đốc Komura nói: "Hara, tôi đề nghị tốt hơn là chúng ta nên rời khỏi đây ngay bây giờ, nếu không tôi sợ sẽ lỡ dịp. 250 phi cơ địch hình như đã làm xong nhiệm vụ của chúng."

Tôi không biết nói sao. Tôi cúi đầu và sau đó ấp úng nói: "Thật đáng tiếc, thưa Đề đốc."

"Chúng ta hãy chuyển soái kỳ sang một trong những khu trục hạm, và cố gắng tiến đến mục tiêu của chúng ta ở Okinawa. Anh nghĩ thế nào?"

Tôi nghĩ thế nào? Để mất chiếc tàu và thủy thủ đoàn. Gánh nặng này đang oằn xuống vai tôi.

"Hãy nhìn kìa, Hara, khu trục hạm Isokaze vẫn còn hoạt động!" Thật là đáng ngạc nhiên khi tôi nhận thấy Isokaze vẫn còn nằm đúng vị trí của đội hình vòng tròn trước đây, cách phía trái chúng tôi khoảng 3.000m. Chiếc tàu hình như không bị hư hại gì cả và đang hướng mũi chạy về phía chúng tôi. Đó là một vài giây phấn khởi được tìm thấy trong trận đánh.

"Phải rồi, thưa Đề đốc, chúng ta đánh bỏ rơi Yahagi." Và tôi gọi: "Nhân viên truyền tin, yêu cầu Isokaze tiếp cứu khẩn cấp!"

Sau lệnh của tôi, đèn hiệu cực mạnh được chớp lên và đồng thời một nhân viên truyền tin cũng sử dụng tín hiệu bằng cờ. Chúng tôi nói truyền miệng cho các thủy thủ còn sống sót của Yahagi chuẩn bị bỏ tàu, Isokaze đáp lại tín hiệu của chúng tôi, và xả hết tốc lực chạy về phía Yahagi. Còn cách khoảng 1000m, Isokaze giảm tốc lực và từ từ tiến sát vào chúng tôi. Tôi ra lệnh bỏ tàu.

Nhưng một quan sát viên la lên: "Phi cơ địch." Một phút sau, một làn sóng oanh tạc cơ và chiến đấu cơ ùa đến trên đầu chúng tôi. Chiếc Isokaze chỉ còn cách chiếc Yahagi 200m. Nhiều phi cơ đang tấn công soái hạm Yamato đã tách ra một số để đuổi theo chiếc khu trục hạm di chuyển chậm chạp này. Isokaze đã xả hết tốc lực để lẩn tránh, nhưng khi phi cơ địch xuất hiện mọi lúc mọi nơi, cùng với bom đạn rơi xuống như mưa. Tiếng nổ này đến tiếng nổ khác, cho đến khi chiếc Isokaze biến mất trong một cột khói màu đen.

Yahagi đã gây họa cho chiếc khu trục hạm của mình. Trường hợp vừa xảy ra không khác với trường hợp chiếc Shigure của tôi khi tuần dương hạm Sendai bị tấn công ở Vịnh Empress Augusta trước đây, nhưng lúc ấy tôi đã từ chối lời yêu cầu tiếp cứu của chiếc tàu này.

Sau khi thanh toán xong Isokaze, phi cơ địch quay lại Yahagi, những gì còn lại trên tuần dương hạm này lại bị đạn đại liên cày thêm một lượt nữa. Tôi chỉ biết bám vào song sắt của đài chỉ huy một cách tuyệt vọng.

Khi cơn quằn quại của Yahagi hạ xuống, tôi ngẩng đầu lên, và kinh ngạc nhận thấy chiếc Isokaze nhô ra khỏi bức tường khói dày đặc bao quanh. Mang thương tích, nhưng vẫn còn sống, chiếc tàu đang cố gắng tháo chạy. Phi cơ địch quay lại, chúi mũi xuống, và một lần nữa, chiếc tàu biến mất trong màn khói.

Sau khi đảo cánh rời khỏi khu trục hạm Isokaze, mỗi phi cơ cảm thấy cần phải chào từ giã chiếc tuần dương hạm đang hấp hối của chúng tôi. Chúng tôi không còn biết làm gì khác hơn là bám vào song sắt để chịu trận. Nhưng hiện thời bom đạn không làm chúng tôi sợ hãi bằng những cơn giật nẩy mình trước khi tắt thở của chiếc tàu.

Trung úy Yukio Matsuda, sĩ quan hoa tiêu, đã gom được hơn một chục thủy thủ bị thương và đang cố gắng mang họ xuống một chiếc xuồng cấp cứu. Hành động này đã chọc tức 3 chiến đấu cơ địch. Cả ba đã tập trung hỏa lực, đập tan chiếc xuồng ra thành từng mảnh vụn và nhận 13 xác chết xuống khoảnh biển đẫm máu.

Các thủy thủ còn lại trên tàu đều nhảy xuống nước. Địch quân không cho họ kịp thở. Một làn sóng của khoảng 100 phi cơ ào đến dội bom và bắn vào tất cả những gì còn động đậy. Kỳ lạ thay, Komura cùng một vài sĩ quan khác và tôi đứng trên đài chỉ huy tác xạ, giữa cảnh đổ nát của chiếc tàu mà vẫn không hề hấn gì.

Nhìn ra xa xa, tôi nhận thấy chiếc Isokaze gần như bất động, và mặc dù không bốc cháy, chiếc tàu lắc lư không khác gì say rượu. Cách đó không xa, chiếc Suzutsuki đang bốc cháy, tuôn ra từng cụm khói đen mù mịt. Và chiếc Kasumi chạy xiêu vẹo, tín hiệu bằng cờ cho biết bánh lái của nó bị trục trặc.

Thiết giáp hạm Yamato thoạt nhìn có vẻ như vẫn còn trong tình trạng an toàn. Ở một khoảng cách 3 dặm, tôi không làm sao biết được đại chiến hạm từng là niềm kiêu hãnh của Hải quân này đang lâm vào tình trạng tồi tệ không kém gì tuần dương hạm Yahagi. Hai khu trục hạm Yukikaza nà Fuyutsuki chạy lướt qua lướt lại nhanh như thoi đưa trong nỗ lực dũng cảm nằm bảo vệ chiếc soái hạm khổng lồ.

Vẫn chưa hài lòng với một Yahagi trong cơn hấp hối, làn sóng thứ 5 với hơn 100 phi cơ nữa lại ùa đến. Đạn bay veo véo quanh tôi. Không còn biết sợ là gì nữa, tôi nghiến chặt răng: "Phải rồi, mấy tên Yankee quỉ quái này, tụi bay hãy dứt điểm đi."

Như để đáp lại lời tôi, tiếng rít của một viên đạn bay đến trúng vào cánh tay trái và đẩy tôi ngã chúi. Lúc ngã xuống, tôi lại càng kinh ngạc hơn khi nhận thấy những lượn sóng đã mấp mé trên mặt đài chỉ huy tác xạ, nơi mà hiện tại chỉ còn mình tôi và Đề đốc Komura.

"bây giờ, Hara, chúng ta nên đi chưa?" Komura hỏi một cách bình tĩnh.

"Đi!"

Trong lúc chúng tôi tháo bỏ giày vớ, tôi vẫn kịp nhận ra lúc ấy là 14h06. Phi cơ địch lại gầm thét trên đầu. Sóng bủa lên đầu gối lúc chúng tôi nhảy ra khỏi đài chỉ huy tác xạ. Bơi đâu được khoảng một vài thước, tôi cảm thấy một sức mạnh khổng lồ lôi tôi mạnh xuống đáy biển. Tôi chòi đạp, vùng vẫy, nhưng vực nước xoáy do một chiếc tàu chìm tạo ra có một hấp lực không thể nào chống trả nổi. Tôi chịu thua, không vùng vẫy nữa, chấp nhận cái chết.... Bỗng nhiên tôi cảm thấy cánh tay khổng lồ đã buông tôi ra. Tôi lại chòi đạp. Quanh tôi bao phủ một màu đen thẫm, nhưng có vẻ nhợt nhạt dần. Sau đó, trước mặt tôi những nhóm bọt nước thấp thoáng trồi lên. Đó là không khí còn sót lại trong quần áo và buồng phổi của tôi. Đau đớn vì nghẹt thở, tôi há miệng và nuốt một bụng nước biển, nhưng thình lình đầu tôi trồi lên khỏi mặt nước. Tôi thở liên hồi, đầu óc trống rỗng. Trong cơn choáng váng, tôi không biết phải làm gì, tôi thả trôi bập bềnh theo dòng nước.Dần dần mắt tôi nhìn rõ trở lại, và tôi biết lúc đó là vào giữa ban ngày. Một âm thanh lao xao do tiếng nói của nhiều người gây ra. Nhìn quanh, tôi thấy nhiều cái đầu nổi trên mặt nước, và tất cả đều màu đen. Trong trạng thái mê hoảng, tôi có cảm giác đây là bãi tắm của những người da đen, và tôi đang bơi lội thỏa thích với họ. Trí não của tôi hồi tỉnh. Nhưng rất chậm chạp.Tôi vẫn còn ngơ ngác. Mệt mỏi và căng thẳng trong trận đánh kéo dài hai giờ đồng hồ, tiếp theo là sự đổ vỡ và xúc động, tất cả đã vượt sức chịu đựng của một con người. Bây giờ tôi nghe tiếng gọi: "Hara, anh bình yên chứ? Hara! Anh nghe tiếng tôi không?" Tôi thả trôi về hướng phát ra tiếng nói. Một người có khuôn mặt đen thui đang vẫy gọi tôi. Tôi nhận ra Đề đốc Komura. Khuôn mặt sạm nắng của ông, và ngay cả khi dầu đen bám đầy, tôi cũng có thể nhận ra ở khoảng cách 10 m.

"Tôi bình yên, Komura." Tôi đáp và hỏi: " Còn Đề đốc thì sao?"

"Tôi hoàn toàn bình yên."

Những người da đen chung quanh tôi chính là các thủy thủ của tôi. Tôi vuốt mặt và cảm thấy mặt tôi dính đầy dầu nhớt. Mặt nước cũng bao phủ dầu do chiếc Yahagi tuôn ra. Nhiều thủy thủ bám vào những mảnh ván vụn, điều này khiến tôi ngạc nhiên, vì tôi đã nghĩ là toàn thể thủy thủ của tôi đã bị tiêu diệt. Khi mắt tôi nhìn rõ trở lại, tôi tìm kiếm chiếc Yamato. Chiếc tàu vẫn vĩ đại và hấp dẫn cho dù cách tôi đến 6 dặm, và đang bị một số phi cơ địch đông như đàn muỗi bu quanh. Trong lúc thả trôi bập bềnh, không biết số phận ra sao, tay tôi bỗng chạm một khúc gỗ trôi ngang qua. Tôi bám ngay lấy khúc gỗ và có thể tạm yên lòng để suy nghĩ xem phải làm gì để thoát thân. "Ê, bạn, xê ra, nhường tôi một chỗ coi!" Tiếng nói vang lên phía sau tôi. Một thủy thủ trẻ đang cố bơi về phía khúc gỗ. Tôi bám vào một đầu và nhường đầu kia cho hắn. Sau khi bám được vào đầu khúc gỗ, hắn nhìn tôi vẻ biết ơn. "Anh là ai? Anh tên gì?" Hắn hỏi sau khi lấy hơi thở xong.

"Tên của tôi là Hara. Tôi ở trên tuần dương hạm Yahagi." Người láng giềng mới của tôi há hốc miệng, nhìn tôi trừng trừng một lát rồi ấp úng nói: "Xin thứ lỗi cho sự vô lễ của tôi, thưa Đại tá. Tôi là thủy thủ I Daiwa... Tốt hơn là tôi nên đi tìm một khúc gỗ khác. Khúc gỗ này nhỏ không đủ sức cho 2 người bám vào."

Hắn nhìn quanh một cách lo lắng. Tôi nói: "Đừng có điên, chú nhỏ ơi! Hãy bám vào cho chắc. Cả hai chúng ta có thể tạm dùng được. Anh bị thương phải không?"

"Dạ không, không có một vết trầy nào cả, thưa Đại tá. Anh bạn Asamo của tôi và tôi quyết định chết theo Yahagi. Chúng tôi lẻn vào kho đạn số 3 và cùng nằm ở đó để đợi giờ phút tan thành từng mảnh, nhưng Trung sĩ Yamada đến ra lệnh cho chúng tôi lên sàn tàu. Ông ta nói: "Đây là chỗ của tôi." Hắn làm hùng làm hổ khiến chúng tôi phải nhảy lên cầu thang. Tôi trặc chân và trẹo xương mắt cá, nhưng không ăn nhằm gì. Tôi không hiểu tính mạng của Yamada và anh bạn Asamo của tôi ra sao?"

"Đừng lo lắng nữa, Daiwa. Bây giờ chỉ nghĩ đến sự sống sót mà thôi. Anh sẽ thoát khỏi tình cảnh này nếu anh không bỏ cuộc."

--------------------------------Chúng tôi nhìn quanh, nhận thấy soái hạm Yamato vẫn còn hoạt động. Thình lình khói trắng tuôn ra ngang mực nước của thành tàu. Và cả hai chúng tôi đều kêu to lên khi khói trắng càng lúc càng tuôn ra như sóng cuộn cho đến khi bao phủ toàn thể chiếc thiết giáp hạm khỗng lồ, trông giống như là đỉnh tuyết của ngọn núi Fuji. Kế đó là khói đen lẫn lộn với khói trắng, tạo thành hình một chiếc nấm khổng lồ, cao đến 2.000m. Khi chiếc nấm này tan dần, chúng tôi nhìn lại mặt biển, và không còn thấy gì cả. Yamato đã biến mất. Những tiếng nổ khủng khiếp vào lúc 14h23 của ngày 7 tháng 4 đó đã chấm dứt hình ảnh tượng trưng "Không bào giờ chìm" của Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản.Bỗng nhiên tôi cảm thấy buốt lạnh. Lúc ấy trời đang mưa. Khi nghĩ đến Yamato, nước mắt của tôi hòa lẫn với nước mưa và nước biển.Sau chiến tranh, ông bạn của tôi là Đề đốc Nobuei Morishita, một trong số 269 người của Yamato còn sống sót, đã kể cho tôi nghe các chi tiết xảy ra vào những giây phút cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này. Vào lúc 12h40, Yamato nhận lãnh nhiều quả bom trực tiếp đầu tiên, và một quả ngư lôi ở mạn trái 10 phút sau đó. Tính ra, mạn trái của chiếc tàu trúng 10 quả ngư lôi và mạn phải trúng hai quả tất cả. Đại tá Jiro Nomura, sĩ quan phụ tá của Hạm trưởng Yamato, vào lúc 14h05 đã xác định rằng công việc sửa chữa cấp thời cho chiếc tàu không thể nào xúc tiến. Do đó, Phó Đô đốc Ito, đứng trên đài chỉ huy suốt trận đánh, đã đình chỉ cuộc hành quân và ra lệnh: "Bỏ tàu." Khu trục hạm Fuyutsuki được gọi đến để đảm trách việc di tản, nhưng chiếc tàu này khó có thể chạy nhanh hơn sức chìm của Yamato. Trung tá Hidechika Sakuma, hạm trưởng của Fuyutsuki, sợ chiếc tàu nhỏ bé của mình bị chiếc tàu khổng lồ lôi theo xuống đáy biển nên không dám tiến lại gần. Ito bắt tay các sĩ quan hiện diện trên đài chỉ huy và lui vào phòng riêng để chết theo chiếc tàu. Hạm trưởng của Yamato, Đề đốc Kosaku Aruga, tự trói vào đài chỉ huy. Đề đốc Morishita, tham mưu trưởng của Ito, phải tranh luận sôi nổi với các sĩ quan trên đài chỉ huy muốn đi theo Ito, Aruga và Yamato, để cuối cùng ông thuyết phục được họ cùng đi với ông rời bỏ chiếc tàu. Độ nghiêng về mạn trái của chiếc tàu gia tăng nhanh chóng khi trúng quả ngư lôi cuối cùng vào lúc 14h17 phút. Ba phút sau, độ nghiêng tiến đến 20 độ, và những tiếng nổ xảy ra đã nhận chìm chiếc tàu này xuống đáy biển cấp tốc. Những tiếng nổ này đã cứu Morishita và những người khác, đẩy họ văng ra khỏi chiếc tàu.Vẫn bám vào khúc gỗ, nhưng trải qua nhiều phút sau khi chiếc Yamato chìm, tâm trí tôi hoàn toàn trống rỗng. Tuần dương hạm của tôi mất, tôi buồn bã, nhưng nỗi buồn này không bằng phân nửa, đối với sự mất mát chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới. Nhìn quanh, tôi không còn thấy bóng dáng Đề đốc Komura đâu nữa, và ở đầu bên kia khúc gỗ, anh bạn trẻ Daiwa cũng mất tăm. Quanh tôi không còn một người nào. Hình như tôi đang ở trên một dòng nước đẩy tôi rời ra xa những người khác. Như vậy là tôi sẽ chết một cách cô độc? Bây giờ tôi nghe nhiều tiếng hát, lẩn quất đâu đây. Tôi nhớ lại huấn lệnh dành riêng cho những người sống sót và trôi nổi trên đại dương: không nên la hét, mà phải bất động để gìn giữ năng lượng. Những người đang ca hát này, có thể, đã cho rằng họ không mong gì được giải cứu, và cũng có thể, họ muốn khôi phục tinh thần qua tiếng hát của họ. Thêm nhiều người kết hợp, tiếng hát càng mạnh mẽ hơn. Đó là những câu hát phỏng theo bài Chiến Sĩ Ca, bài ca nằm lòng của các chiến sĩ Nhật Bản từ nhiều thế kỷ trước đây.

Nếu tôi rời xa biển cả,

Tôi sẽ trở về như xác chết nổi trôi.

Nếu nhiệm vụ gọi tôi lên núi,

Đồng cỏ xanh sẽ là áo khoác thân tôi.

Vì đã nguyền hiến thân phục vụ cho Thiên Hoàng,

Tôi sẽ không chết bình yên giữa thê nhi yên ấm.

Khi bài ca được lặp lại, chính tôi cũng bị lôi cuốn vào. Thỉnh thoảng, xen vào âm thanh bi tráng này, là những tiếng la to" "Tenno Heika Banzai." (Thiên Hoàng Vạn Tuế) Chứng tỏ có một số người đang hát bị thương nặng hoặc kiệt lực nên đành bỏ dở giữa chừng bài hợp xướng của họ, và xuôi tay vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt. Tiếng hát chỉ còn phảng phất bên tai tôi.Tôi biết mình cũng đang đi dần vào cõi chết. Bây giờ âm điệu tiếng hát trở thành du dương mơ hồ, như tiếng hát ru con, mang tôi trở lại ấu thời với tiếng hát ru của mẹ tôi, và lần lượt hiện lên hình ảnh ông nội tôi, những ngày đi học, những ngày ở Hàn Lâm Viện, chuyến đi vòng quanh thế giới, lúc tôi bước chân vào một thương xá ở New York, những ngày mới ra trường của một sĩ quan trẻ, thời gian dính líu tình cảm giữa tôi và một cô Geisha. Chiếc kính vạn hoa này lại chuyển sang hình ảnh sống động của mẹ tôi, thoáng qua hình ảnh của vợ tôi, và kế đó là chân dung lúc tôi đã trở thành một sĩ quan chín chắn, và cuối cùng là gương mặt của đám con tôi. Ảo ảnh tan biến trước mắt tôi với những dòng nước mắt chảy dài xuống má. Tôi nghĩ đến lần nghỉ phép cuối cùng tại nhà, đúng bốn tháng qua, và tôi nghĩ đến vợ con. Tôi thấy trước những gian nan vất vả mà vợ con tôi sẽ gặp một khi tôi ra đi vĩnh viễn. Tôi muốn tất cả hãy quên tôi, và cố gắng hiểu hoàn cảnh của tôi. Đối với Chizu, tôi là một kẻ ích kỷ, kết hôn với tôi, nàng đã xa rời hẳn đời sống yên ấm của những thời thơ ấu. Bây giờ tôi không bao giờ về lại với người vợ và 3 đứa con thơ. Hãy quên anh, Chizu!" Tiếng hát im bặt hẳn. Nước trời bỗng nhiên lạnh lẽo hơn. Tôi rùng mình, cảm thấy thân thể giá buốt. Đôi tay tôi dần dần tê liệt, bám giữ khúc gỗ một cách khó khăn. Một vật gì trôi lờ đờ trước mắt, tôi cố đưa tay vớt lên. Không gì khác hơn một mảnh giấy nhớp nhúa dầu cặn. Định bỏ xuống, nhưng không hiểu sao, tôi nhét mảnh giấy vào túi áo mưa. Tay tôi chạm phải một vật khác lạ trong túi áo. Tôi lôi ra. Đó là một đoạn dây nhỏ, dài khoảng một mét rưỡi. Tôi không nhớ tại sao đoạn dây này lại ở trong túi áo, nhưng nó đã làm thay đổi hoàn toàn tình huống hiện tại của tôi. Tôi dùng đoạn dây tự trói vào khúc gỗ. Như vậy, cho dù buông tay, tôi vẫn không bị chìm. Và luôn luôn gặp may mắn, biết đâu tôi sẽ trôi tấp vào một bờ biển Nhật Bản? Phi cơ địch quay lại, có thể đây là làn sóng tấn công cuối cùng. Nhưng trí óc của tôi càng lúc càng trì độn, cho nên mặc dù đạn đại liên bắt đầu trút xuống mặt biển như mưa, tôi cũng không thấy liên quan gì đến tôi. Hỏa lực của phi cơ tập trung vào những nhóm thủy thủ đông đảo còn sống sót, cách tôi khá xa, nhưng nhiều viên đạn bay lạc rơi lèo xèo quanh tôi. Không một viên đạn nào trúng tôi, nhưng tiếng kêu lèo xèo của mấy viên đạn rơi xuống nước khiến tôi tức giận, và phản ứng tự nhiên, tôi hụp đầu xuống nước. Cơn tê dại của tôi bỗng nhiên biến mất.Sau đó, phi cơ địch bay mất dạng, nhưng tôi sửng sốt khi nhìn thấy một chiếc thủy phi cơ Martin PBM sà thấp và đáp trên mặt nước, cách tôi khoảng 300m. Tôi lại hụp đầu xuống nước. Nhưng chiếc Martin không chú ý đến tôi, nó lướt thẳng đến một khoảng nước được nhuộm màu xanh để đánh dấu một viên phi cơ Hoa Kỳ đang trôi lềnh bềnh trên một cái phao cấp cứu rồi cất cánh bay lên. Tôi theo dõi hoạt động tiếp cứu này với những suy nghĩ đầy đố kỵ.Nhưng cảm nghĩ của một người khác thuộc chiếc Yahagi còn sống sót, Thiếu úy Shigeo Yamada, cũng trôi nổi gần nơi chiếc thủy phi cơ đáp xuống, lại hoàn toàn khác hẳn tôi. Yamada sinh ở Hawaii, rất giỏi Anh ngữ, là sĩ quan liên lạc của Yahagi, sau đó đã nói với tôi : "Tôi sợ bị bắt làm tù binh, nên lúc ấy tôi vội vã xé tất cả phù hiệu cấp bậc trên bộ đồng phục và quăng ra xa. Nhưng chiếc máy bay không đến gần tôi. Yamada không thiệt mạng, và vào năm 1958, anh ta làm việc trong văn phòng của hãng JAL ( Hàng Không Nhật Bản ) ở Chicago, Illinois - một công việc không hề được dự tính vào cái ngày đầy khiếp sợ vào tháng 4 năm 1945 đó. Toàn thể khu vực dần dần yên tĩnh trở lại. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy dễ chịu, và bắt đầu nhìn lại những gì xảy ra trong trận đánh vừa qua. Tôi đã tỏ ra vụng về khi điều động Yahagi chống lại phi cơ đối phương. Trên một chiếc khu trục hạm, tôi sẽ điều động mọi việc một cách trôi chảy, không hề bối rối, bởi lẽ kinh nghiệm thực sự của tôi chỉ là kinh nghiệm của một hạm trưởng khu trục hạm, không hơn không kém. Tôi đã sai lầm khi áp dụng lại cách điều động chiếc Shigure từng gây rối loạn cho 2 oanh tạc cơ địch gần Kavieng trước đây. Nhưng Yahagi có tốc độ cao và lanh lẹ hơn Shigure rất nhiều, tại sao tôi lại cho chiếc tuần dương hạm này chạy theo hình chữ chi lỗi thời để đến nỗi ngư lôi địch đuổi kịp nó?Vâng, tôi đã sai lầm, bởi vì tài năng của tôi đã cùn đi sau một năm phục vụ trên bờ. Đáng lẽ ra Bộ Tư Lệnh Hải quân nên giao phó cho tôi nhiệm vụ trên mặt biển, thay vì công việc trên bờ không phù hợp với khả năng học hỏi của tôi. Hơn nữa, tất cả những gì tôi được huấn luyện và thực hành - ngư lôi tầm hướng, đầu nổ kíp điện và trọng pháo có radar điều khiển - không thề nào sử dụng để chống lại phi cơ địch trong trận đánh vừa rồi. Mọi thứ chúng tôi làm đều sai lầm hết. Ngay cả chính cuộc hành quân này, không có bất kỳ loại bảo vệ nào từ trên không, đó là một sai lầm khổng lồ. Từ lúc chiếc Yahagi chìm, tôi không biết thời gian đã trải qua bao lâu. Trời đã đêm và gió đang thổi. Tôi lạnh run và bắt đầu buồn ngủ, nhưng tôi cố gắng chống lại, vì biết rằng ngủ quên sẽ có nhiều sơ suất chết người xảy ra. Nhưng, bây giờ đã đến lúc một Samurai chuẩn bị để chết. Tôi có thể bình tĩnh đợi chờ cái chết, không than van, không hối tiếc. Quanh tôi không còn tiếng gì khác hơn là tiếng nước vỗ vào khúc gỗ. Tôi nhắm mắt lại, đầu tựa lên khúc gỗ, và thiếp ngủ. Hình ảnh những ngày qua lại hiện lên trong mộng mị. Lần đầu tiên tôi đi tàu đò từ Shikoku đến Honshu để dự thi vào Hàn Lâm Viện Hải quân. Tiếng máy của chiếc tàu đò có một âm thanh độc đáo, tôi có thể nghe lại một cách rõ ràng, hình như không giống như trong mơ chút nào. Tôi mở bừng mắt, và âm thanh vẫn tiếp tục. Không phải là âm thanh trong mơ. Đó là tiếng máy của một chiếc khu trục hạm, chạy cách chừng một dặm. Tôi nghĩ là chiếc tàu này vẫn còn chống chọi với các phi cơ địch đeo đuổi, tôi lại tựa đầu lên khúc gỗ, nhắm mắt ngủ nữa. Nhưng tiếng động cơ vang to hơn bên tai đã quấy rầy giấc ngủ chập chờn của tôi. Tiếng động cơ này quá gần, không phải của chiếc khu trục hạm. Tôi nhìn lên, và thấy một chiếc ca nô! Chiếc ca nô nhỏ bé này, thường trang bị cho khu trục hạm, cách tôi không hơn 200m, nhìn thấy rất rõ giữa các đỉnh sóng. Tôi tự hỏi không hiểu nó quanh quẩn ở đây làm gì? Chiếc ca nô biến mất. Tôi cố rướn lên để nhìn. Sau một vài phút, nò xuất hiện trở lại, lần này chỉ cách tôi khoảng 50m, và đang chạy vòng quanh để tìm kiếm những người còn sống sót. Bỗng nhiên tôi hoảng hốt. Tôi muốn sống nhưng đã tuyệt vọng. Và bây giờ tôi sợ chiếc ca nô không tìm thấy tôi. Tôi gom hết tàn hơi la lên thật to, nhưng vô ích. Trong cơn tuyệt vọng, tôi tháo dây buộc và dùng chân tay chòi đạp mặt nước dữ dội. Chiếc ca nô nhìn thấy, xoay mũi chạy về phía tôi. Khoảng cách giữa tôi và kẻ tiếp cứu hình như dài vô tận. Khi chiếc ca nô sáp đến, tôi kiệt sức đến nổi không thể giơ tay để bám vào cạnh của nó, nhưng 4 cánh tay mạnh mẽ đã tóm lấy và nhanh nhẹn lôi tôi lên. Thật kỳ lạ, ngay khi tôi chạm chân lên sàn ca nô khô ráo, năng lực tiêu tán của tôi phục hồi mau lẹ. Tôi ấp úng thốt lời cảm tạ những người đã tiếp cứu tôi, và tôi ngạc nhiên khi thấy ngoài tôi ra không còn kẻ sống sót nào khác để trở về khu trục hạm, và đây là chuyến tiếp cứu cuối cùng. Sau đó, chiếc ca nô tiếp tục quần tìm 15 phút nữa, nhưng không có kết quả nên quay về khu trục hạm Hatsushimo. Năng lực vừa phồng lên của tôi bỗng nhiên xẹp xuống khi tôi cố gắng leo lên thang tàu. Chân tôi không thể nào cất lên nổi, hai thủy thủ phải đưa tay đẩy mạnh tôi lên sàn tàu. Hạm trưởng của Hatsushimo, Trung tá Masazo Sako, chào đón tôi: "Mừng Đại tá thoát nạn. Chúng tôi tìm kiếm Đại tá gần như đã tuyệt vọng. Đề đốc Komura đang nghỉ trong phòng tôi." Tôi cám ơn Sako, và đi vào phòng để trút bỏ bộ quần áo đẫm ướt nước biển và dầu nhớt của tôi. Được nhân viên y tế chích thuốc và xoa bóp, tôi phục hồi sức khỏe mau lẹ. Tôi cám ơn họ và xin một ly sake. Viên bác sĩ đứng gần đó đã cười to và nói: "Có ngay, Đại tá Hara. Thường thường tôi đã từ chối đòi hỏi như thế này, nhưng tôi chắc sake là phương thuốc chữa bệnh cho Đại tá." Trong khi tôi nhấm nháp, viên bác sĩ kể lại vắn tắt những diễn biến mà hắn ta thấy được từ chiếc tàu này. "Chiếc Hatsushimo đóng góp vào trận đánh này không bao nhiêu. Vì quyết tâm tấn công soái hạm Yamato, phi cơ địch chỉ lướt ngang qua chúng tôi. Do đó, chiếc tàu của chúng tôi không hề bị trực tiếp một phát đạn nào và thủy thủ đoàn không ai thiệt mạng, chỉ hai người bị thương nhẹ. Hatsushimo có lẽ là chiến hạm duy nhất thuộc lực lượng còn nguyên vẹn. Đó là lý do tại sao chúng tôi quanh quẩn ở đây tìm kiếm những người còn sống sót. Ba khu trục hạm Fuyutsuki, Suzutzuki và Yukikaze đều thiệt hại và đã chạy về Sasebo cách đây hai giờ. Chiếc Fuyutsuki hầu như an toàn mặc dù trúng hai hỏa tiễn, nhưng hàng chục thủy thủ đã thiệt mạng do đạn đại liên gây ra. Chiếc Yukikaze cũng hư hại nhẹ, và có 3 thủy thủ thiệt mạng. Chiếc Suzutzuki cũng bị trúng một quả bom vào ngay mũi, hư hại nặng nhất và phải bỏ cuộc để chạy về Sasebo đầu tiên. Chiếc Isokaze kém may mắn hơn những khu trục hạm vừa nói. Chiếc tàu này không hề nhận lãnh một quả bom trực tiếp nào, những các mảnh bom nổ gần đã phá nhiều lỗ thủng, khiến cho buồng máy ngập nước và 100 thủy thủ thiệt mạng. Lúc ấy không còn hy vọng sửa chữa cấp thời. Isokaze được khu trục hạm Yukikaze nhận chìm sau khi di tản hết những người còn sống sót. Giống như trường hợp của khu trục hạm Kasumi, chiếc tàu này bị hư hại nặng và có 17 thủy thủ thiệt mạng, đã được chiếc Fuyutsuki ban "phát súng ân huệ" sau khi giài cứu tất cả những người còn lại. Sau khi cảm ơn viên bác sĩ đã cho biết những tin tức này, và không còn điều khác để bàn, tôi hỏi: "Quý vị có giải cứu một thủy thủ tên là Daiwa không?" Một viên y tá dò danh sách và đáp: "Có, thưa Đại tá, tên hắn đây. Hắn đã hỏi thăm tin tức Đại tá ngay khi được đưa lên tàu hai giờ trước đây." Viên y tá gọi một liên lạc viên: "Hãy nói với Daiwa là Đại tá Hara vẫn bình yên." Khu trục hạm Hatsushimo chất đầy cả ngàn người sống sót của thiết giáp hạm Yamato và tuần dương hạm Yahagi, về đến Sasebo vào buổi trưa ngày 8 tháng 4. Một liên lạc viên gõ cửa phòng hạm trưởng ngay khi tàu vừa buông neo và trình một công điện cho Đề đốc . Ông cúi xuống đọc , nhăn mặt, và đưa tờ giấy cho tôi. Đây là một tuyên dương công trạng do Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp gửi cho Đệ Nhị Hạm Đội, ngợi khen lực lượng chúng tôi đã dũng cảm xả thân, nhờ vậy các phi cơ tấn công đặc biệt đã thu hoạch được một kết quả vĩ đại trong trận chiến." Kết quả vĩ đại trong trận chiến này là những gì? Ngày đó, nỗ lực tấn công không quân của chúng tôi, bao gồm 114 phi cơ, 60 chiến đấu cơ, 40 oanh tạc cơ và 14 chiếc Thần Phong - chỉ gây hư hại cho hàng không mẫu hạm Hancock, thiết giáp hạm Maryland và khu trục hạm Bennett, nhưng cái giá phải trả là gần 100 phi cơ bị bắn hạ. Kết quả, phía Hoa Kỳ có 12 phi cơ thiệt mạng và 10 phi cơ bị bắn rơi do súng phòng không của chúng tôi. Phía Đệ Nhị Hạm Đội chỉ còn 3 khu trục hạm tồn tại, và 2,498 người của Yamato, 446 người của Yahagi và 721 người của các khu trục hạm khác thiệt mạng. Câu chuyện về kẻ chiến thắng và chiến bại trong cuộc đụng độ không hải cuối cùng của một chiến thuật đơn giản, nhưng đã gây sửng sốt cho những nhà thống kê. Lực lượng Hải quân hùng mạnh, đã từng phát động đầu tay của chiến Thái Bình Dương, qua trận tấn công Trân Châu Cảng, cuối cùng đã bị hạ gục.

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, thiết giáp hạm Yamato bị đánh chìm. Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản cũng chìm theo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro