Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Truyền tin của chúng tôi đã bắt được công điện chuyển đi từ một chiếc tàu ngầm địch quanh quẩn đâu đó. Yamato ra lệnh quay về hướng phải để tiến sát vào Kyushu nương tựa bờ biển phía Đông của hòn đảo này. Trăng lên, đại dương đen thẫm, và thời tiết đột nhiên trở xấu. Các quan sát viên mở hết mắt nhưng cũng không nhìn thấy gì cả. Mọi người căng thẳng, nhưng tàu ngầm địch không tấn công.

Tôi không biết vào ngày hôm đó khu trục hạm cũ của tôi là chiếc Amatsukaze bị phi cơ địch oanh tạc tan tành ở Đông Hải của Trung Hoa, thảm họa nhỏ này mở màn cho thảm họa lớn hơn giáng xuống hạm đội của chúng tôi. Nhưng cho dù biết được tin tức không tốt lành của chiếc Amatsukaze, tôi cũng không cho đây là một điềm dữ báo trước. Bởi vì, như tôi đã nói với thủy thủ đoàn của chiếc Yahagi, tôi vẫn luôn luôn nghĩ của hành quân hiện tại sẽ thành công. Trong đầu tôi cũng không có một nơi nào dành cho sự chiến bại.

Một hàng dọc, chạy theo hình chữ chi, với tốc độ 20 hải lý, hạm đội của chúng tôi tiến dọc theo bờ biển phía Nam Kyushu. Lúc 7h sáng ngày 7 tháng 4, một lần nữa, chúng tôi xoay sang hướng 210 độ, giả vờ tiến tới Sasebo, nằm ở phía Tây Nam Kyushu. Trên đoạn hải trình nghi binh này, 10 chiến hạm từ từ tạo một đội hình vòng tròn bao quanh soái hạm Yamato, với một đường bán kính 2.000m.

Vị trí của chiếc Yahagi ở ngay trước mũi Yamato. Tính theo chiều kim đồng hồ, (tức bên trái Yahagi) ví trí của 8 khu trục hạm nằm trong phần vòng tròn còn lại như sau: Asashimo ở hướng 7 phút rưỡi, Kasumi 15 phút, Fuyutsuki 21 phút, Hatsushimo 27 phút, Yukikaze 39 phút, Hamakaze 45 phút và Isokaze ở hướng 52 phút rưỡi.

Ngay sau khi vòng tròn này lập xong, các chiến hạm gia tăng tốc độ lên 24 hải lý và chạy theo hình chữ chi trở lại. Nét đầu tiên của chữ chi xoay hướng tiến của đoàn tàu 45 độ, Asashimo trở thành chiếc tàu dẫn đầu. Nét thứ hai mang chiếc Isokaze về phía trước, và cứ tiếp tục như vậy. Đội hình di chuyển này đòi hỏi sự điều động phải tuyệt đối chuẩn xác, rất hữu hiệu trong việc chống lại các cuộc tấn công của tàu ngầm, nhưng lại khó đương đầu với phi cơ nhanh nhẹn, có thể nhắm vào bất kỳ góc độ tấn công nào cũng được.

Đội hình và lối chạy vừa nói đã được quyết định trong một cuộc họp cuối cùng của Ito trên soái hạm Yamato. Quyết định này sẽ sớm chứng tỏ sự sai lầm của nó.

Thời tiết tốt đẹp suốt ngày hôm đó và cho đến sớm hôm sau thì hoàn toàn thay đổi. Mây che kín bầu trời và như bay là đà trên mặt biển.

Không một tia nắng nào xuyên nổi qua những lớp mây dày đặc này. Mưa không biết đến lúc nào. Một ngày đáng lo ngại.

Bờ biển Kyushu biến mất nhanh chóng khi chúng tôi xoay sang hướng Nam để chạy ra Đông Hải. Từ khi khởi hành, lần đầu tiên tôi cảm thấy bất an. Thời tiết hiện tại đầy bất lợi cho một cuộc đi biển. Giữa ban ngày, tầm nhìn giới hạn chỉ 20.000m. Được trang bị radar tối tân, với khoảng cách quan sát này, phần lợi sẽ nghiêng hẳn về phía địch quân. Một cơn mưa bão mù mịt sẽ che chở chúng tôi rất nhiều, nhưng đó chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không chọn một ngày thời tiết thuận lợi hơn cho nhiệm vụ tuyệt vọng này.

Các quan sát viên của Yahagi hớn hở báo tin 20 chiến đấu cơ Zero bay đến từ hướng Bắc. Chúng lướt ngang thật thấp trên đầu chúng tôi và quay lại một lần nữa, lần này ẩn hiện trong những lớp mây dày đặc. Uchino hỏi có phải những chiến đấu cơ này đến để bao che cho lực lượng của chúng tôi hay không?

Komura bình thản đáp: "không, Uchino, mấy chiếc phi cơ này không dính dáng gì đến lực lượng chúng ta. Chúng ta không được bao che trên không. Đây là một phi xuất huấn luyện thường lệ. Có lẽ Kusaka ra lệnh cho mấy tên phi công non nớt này bay trên đầu chúng ta để nói lời vĩnh biệt."

Sự im lặng kéo dài trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Yahagi cho đến khi Yamato báo tin một trong hai chiếc phi cơ còn lại trên soái hạm này sẽ cất cánh bay về căn cứ không quân Ibusuki, và đồng thời ra lệnh cho Yahagi gửi đi một trong hai chiếc phi cơ của mình. Yamato thường mang theo 7 phi cơ, nhưng 5 chiếc đã được bỏ lại ở Kure. Chiếc thứ sáu vừa cho cất cánh, cùng lúc với chiếc của Yahagi, bởi lẽ Ito không muốn chúng bị phí phạm vô ích trong chuyến đi cầm chắc cái chết trong tay của chúng tôi.

Trước khi cất cánh, viên phi công của Yahagi đã đến trình diện tôi . Anh đứng nghiêm và nói: "Tuân lệnh, tôi sẽ về Ibusuki ngay bây giờ, nhưng ở đó tôi sẽ tình nguyện thực hiện một phi vụ tự sát và sẽ sớm gặp lại Đại tá."

Khi đã ở trên không, chiếc phi cơ bay tuần trên đầu chúng tôi ba vòng và sau đó trực chỉ Kyushu.

Trong khi Yamato và Yahagi chuẩn bị cho cất cánh hai chiếc phi cơ cuối cùng, chúng tôi phát hiện hai phi cơ không nhận rõ lai lịch ở phía Bắc, nên công việc này được đình chỉ. Các trinh sát cơ của chúng tôi không thể nào chống lại các chiến đấu cơ địch.

Uchino càu nhàu: "Tại sao các chiến đấu cơ hồi nãy của chúng ta không được giữ lại để chống với phi cơ địch?"

Komura đáp một cách điềm tĩnh: "Hãy bình tĩnh, Uchino, anh cũng biết mấy viên phi công non nớt của chúng ta làm sao chống nổi với mấy tên phi công kinh nghiệm của đối phương."

Mây sà thấp hơn, thời tiết càng tồi tệ, và vào lúc 8h, mưa phùn bắt đầu rơi xuống. Các chiến hạm của chúng tôi, cũng trong đội hình vòng tròn, vẫn tiến thẳng về hướng định mệnh, dưới sự dòm ngó liên tục của các phi cơ quan sát địch. Trong lúc đó, các chiến đấu cơ Nhật vẫn bình thản tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện. Tôi đã gặp nhiều loại hành quân, nhưng chưa có loại nào như vậy. Đây là một cuộc hành quân kỳ quái.

Lúc 9h, khu trục hạm Asashimo, chạy phía phải Yahagi, bỗng nhiên giảm tốc độ. Xuyên qua ống dòm, tôi nhận thấy rõ khuôn mặt ông bạn Sugihara của tôi , hạm trưởng của chiếc Asashimo đang đứng trên đài chỉ chuy, đang lộ vẻ bối rối. Tín hiệu bằng cờ của chiếc tàu này cho biết nó bị trục trặc máy móc. Nhìn Asashimo rơi dần lại phía sau, tách rời khỏi đội hình, tôi lo lắng, nên gửi ngay một thông điệp yêu cầu cho biết tin tức rõ hơn.

Asashimo đáp: "Đang nỗ lực sửa chữa. Hy vọng bắt kịp đồng đội sớm." Nhưng chiếc tàu càng lúc càng rơi lại phía sau, vào lúc 10h thì không còn thấy tăm dạng đâu nữa. Komura ra lệnh cho khu trục hạm Kasumi điền vào khoảng trống và bốn khu trục hạm kế phía sau đôn lên. Việc điều chỉnh này khá dễ dàng cho dù đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy theo hình chữ chi.

Nhưng đối với tôi không dễ dàng, khi tôi biết rằng vị trí của chiếc Asashimo, yểm trợ cạnh sườn phải của tôi, hiện thời được một chiếc tàu nhỏ nhất trong lực lượng thay thế. Đó là một điều bất lợi.

Truyền tin của chúng tôi vừa chặn bắt thêm được một công điện của địch quân, lần này do phi cơ bay rất gần đoàn tàu của chúng tôi chuyển đi. Việc này chứng tỏ hướng tiến giả vờ của chúng tôi không ích lợi gì cả. Địch quân đã biết người biết ta rồi.

Lúc ấy, có 3 tàu buôn 2.000 tấn lướt qua, tạo một không khí vui vẻ phần nào cho chúng tôi . Có nhiều thủy thủ nói rằng họ không ngờ Nhật Bản còn có những tàu buôn to lớn đến như vậy.

Vào lúc 11h30, một thủy phi cơ được phát hiện cách 20.000 ở phía Đông. Chiếc phi cơ bay ngoài tầm súng, xoay vòng tròn quanh đoàn tàu, và gửi đi báo cáo chi tiết về hoạt động của chúng tôi. Điều đáng tức giận là chúng tôi không có một chiến đấu cơ nào để cho cất cánh và bắn kẻ đang đe dọa đến sự an toàn của chúng tôi. Trong khi tôi đang nhìn chiếc thủy phi cơ bay ngoài tầm cao xạ một cách thèm thuồng, phòng truyền tin báo cáo: "Căn cứ quan sát ở Omami Oshima cho biết 150 phi cơ địch đang hướng về phía Bắc."

"Chúng đến đây rồi." Komura nói với một nụ cười méo mó.......

Omami Oshima là hòn đảo nằm giữa Kyushu và Okinawa. Không cần nhìn hải đồ, mọi sĩ quan trên đài chỉ huy đều biết rằng các phi cơ này sẽ đến trên đầu chúng tôi trong vòng một giờ nữa.

Yamato ra lệnh gia tăng khoảng cách các chiến hạm lên 5.000m, một khoảng cách căn bản để chống không kích. Yahagi và 7 khu trục hạm khác gia tăng tốc lực, và các xạ thủ vào vị trí chiến đấu.

Sáu khẩu đại pháo 150mm, 4 khẩu phòng không 80mm và 40 khẩu đại liên của Yahagi đều chĩa thẳng lên trời. Trưa đến, không có một dấu hiệu nào cho thấy sắp xảy ra một cuộc tấn công, đầu bếp mang bữa ăn trưa đến các vị trí chiến đấu. Mọi người ăn uống vội vã. Tôi rất hài lòng khi nhìn thấy sự chuẩn bị chu đáo như vậy. Sự lo lắng của tôi biến mất và tôi biết chiếc Yahagi sẽ ghi điểm thắng lợi đầu tiên.

Vào lúc 12h20, radar của Yamato phát hiện "rất nhiều phi cơ địch còn cách 30.000m ở hướng 35 độ mạn trái," và ra lệnh cho tất cả các chiến hạm hướng về phía trước với tốc độ tối đa và chuẩn bị chống phi cơ.

Mệnh lệnh được thi hành chu đáo. Tất cả chiến hạm đều đạt tốc độ gần 30 hải lý. Với Komura và các sĩ quan khác, tôi leo lên đài chỉ huy tác xạ nằm phía sau đài chỉ huy chính. Những cuộn sóng khổng lồ nổi lên sau khi soái hạm Yamato lướt ào ạt trên mặt biển với tốc lực tối đa. Chiếc thiết giáp hạm 72.000 tấn này đã thu hút muôn ngàn cặp mắt đổ dồn vào nó.

Yamato đã trở thành niềm tin thần thánh với toàn thể binh chủng Hải quân. Niềm tin này càng dâng cao khi Yamato trở về an toàn sau trận đánh ở Vịnh Leyte mà không bị một vết sướt nào, trong khi chiếc thiết giáp hạm cùng lớp Musashi bị đánh chìm. Đề đốc Nobuei Morishita, từng chỉ huy Yamato trong trận Leyte, hiện là tham mưu trưởng của Ito, do đó theo tôi nghĩ, chắc chắn ông sẽ mang đến may mắn cho chiếc tàu này một lần nữa. Nhưng ai có thể tưởng tượng chiếc thiết giáp hạm vĩ đại này sẽ bị đánh chìm trong vòng hai giờ nữa?

Ngay cả đứng trên đài chỉ huy tác xạ, chúng tôi vẫn không thể nhận thấy chiếc phi cơ nào bay đến. Mây sà thấp trên mặt biển ở cao độ 1500m, và một cơn mưa luồng thình lình trút xuống bao phủ mọi cảnh vật chung quanh chúng tôi. Thời tiết tồi tệ như thế là cùng. Hiện thời phi cơ địch chắc chắn đã ở trên đầu, nhưng vì mây che phủ nên chúng tôi không nhìn thấy. Mặc dù hỏa lực của Yahagi được loại radar mới hướng dẫn, nhưng chỉ hữu hiệu với các mục tiêu trên mặt biển mà bất lực trước các mục tiêu trên không. Nếu một phi cơ địch bất thần chui ra khỏi các đám mây, tôi biết rằng mọi loại súng thông thường của chúng tôi bó tay, ngay cả thời gian để nhắm vào mục tiêu cũng không có đủ.

Một quan sát viên la lớn: "Hai phi cơ địch ở trước mũi tàu, chếch về mạn trái."

Tôi nhìn lên trời. Không phải hai mà là hai mươi, bốn mươi và có thể nhiều phi cơ hơn nữa chui ra khỏi đám mây. Khi tôi ra lệnh khai hỏa, đồng hồ chỉ đúng 12h32.

Thay vì chúi xuống tấn công chúng tôi ngay lập tức, các phi cơ bay vòng tròn theo chiều kim đồng hồ, ngay phía dưới những cụm mây. Sau đó, một trong ba nhóm phi cơ này tách ra, bay vòng tròn ngược lại với chiều kim đồng hồ. Diễn biến lạ lùng này đã gây rối loạn cho chúng tôi. Các xạ thủ đã cố gắng điều chỉnh tầm súng, nhưng hình như không thể nào khai hỏa kịp.

Địch quân chắc hẳn đang ngắm nghía nạn nhân của họ để lựa chọn tấn công vào các mục tiêu đặc biệt. Một vài chiến hạm của chúng tôi khai hỏa lẻ tẻ khi các phi cơ vừa xuất hiện và sau đó bắt đầu khai hỏa toàn diện. Chín đại pháo 460mm bắn một vài trái đạn loại số 3 - tức loại đạn nổ trên không - nhưng còn cách mục tiêu quá xa. Thình lình, tất cả các phi cơ đảo cánh và chúi xuống như sấm sét, nhắm vào các mục tiêu đã được chọn lựa, trong lúc đa số súng trên các chiến hạm Nhật vẫn còn loay hoay định hướng.

Nhóm phi cơ đầu tiên chúi xuống tuần dương hạm Yahagi là 4 oanh tạc cơ Avenger (TBM). Tất cả mọi loại súng trên tàu đều khai hỏa, nhưng chỉ nhắm đại khái, cùng lúc với loạt bom được thả xuống hướng vào mạn trái của chiếc tàu. Tôi ra lệnh bẻ hết tay lái về phía phải. Chiếc Yahagi đáp ứng lệnh này một cách hoàn mỹ. Mấy quả bom rơi xuống cách tàu 500m, tạo ra những cột nước thật cao.

Nhóm phi cơ thứ hai đâm đầu thật sát vào chiếcYahagi là các chiến đấu cơ F-6F Hellcat. Tôi nhìn thấy cả gương mặt của một viên phi công Hoa Kỳ khi hắn ta cho phi cơ lên cao trở lại, vượt ngang qua phía trước chúng tôi. Đạn đại liên bắn như vãi trấu, chạm trổ dọc theo thân chiếc tàu, nhưng rất may là không có thủy thủ nào trúng đạn. Các xạ thủ vẫn giữ vững vị trí và bắn không ngừng nghỉ, nhưng đều phí công vô ích.

Tôi liếc mắt một vòng, nhận thấy tất cả các chiến hạm đều chạy với tốc lực tối đa, gây những làn sóng trắng xóa trên đại dương đồng thời mọi loại hỏa lực đều lên tiếng. Nhìn xuống mặt nước, tôi phát hiện nhiều làn bọt sủi lên một cách bất thường. Tôi hiểu ngay đó là ngư lôi do phi cơ địch thả xuống đang lướt đến tàu chúng tôi.

"Xoay phải lập tức! Tốc độ tối đa!" Tiếng hét của tôi cùng lúc với hàng chục chiếc phi cơ đang chúi đầu xuống. Những quả bom màu đen tạo nên những tháp nước màu trắng vượt cao lên không có cả trăm mét. Sau loạt bom, các chiến đấu cơ quay lại và sà thấp xuống quạt đại liên vào chúng tôi. Mọi loại súng trên Yahagi giăng một tấm màn lửa trên không. Cả hai phía vẫn chưa ai ghi được điểm.

Một quan sát viên la chói lói: "Thêm nhiều oanh tạc cơ mới đến." Tôi hét: "Bẻ lái sang phải lập tức!" Xoay gấp rút, chiếc tuần dương hạm 8.500 tấn hơi lảo đảo, khiến cho hướng nhắm của tất cả súng trên tàu đều sai lạc, nhưng phi cơ địch cũng phải điều chỉnh lại góc độ oanh tạc.

Khi nhóm phi cơ thứ tư đã đến trên đầu chúng tôi, phòng truyền tin báo cho biết chiếc Asashimo đang bị tấn công. Không có thời gian để nghĩ đến chiếc tàu hỏng máy đơn độc này, chúng tôi còn mắc bận lo bảo vệ lấy thân. Cho Yahagi lướt xuyên qua tấm màn lửa bom đạn, và một lần nữa, chúng tôi thoát khỏi. Bây giờ tôi mới nghĩ đến chiếc Asashimo. Với máy móc trục trặc, chiếc tàu này khó có thể tồn tại trước cuộc tấn công. Đối phương đã dồn hết nỗ lực để đánh lực lượng chính của chúng tôi trong khi vẫn còn thừa một số phi cơ để truy đuổi một kẻ chạy lang thang ở khoảng cách xa hơn 20 dặm, đó là một việc kỳ dị không thể tưởng.

Thiết giáp hạm Yamato vẫn lao hết tốc lực về phía trước. Các khu trục hạm chạy quanh

quẩn đây đó, thoạt ẩn thoạt hiện trong làn sóng bủa cao trên mặt đại dương, được tô điểm thêm bằng những chiếc nấm khổng lồ do những quả bom tạo nên. Nhiều quả bom lạc xa, gần trúng hoặc trúng mục tiêu, khiến quanh cảnh thay đổi liền liền, từ ngoạn mục sang hồi hộp và đến khủng khiếp.

Nhiều phi cơ khác lại ùa đến quyết nhận chìm chiếc Yahagi, nhưng nó vẫn thoát khỏi. Điều này khiến tôi yên tâm, vì nhận thấy lối chạy uốn éo và xoay trở nhanh chóng không ngờ lại tránh né phi cơ địch một cách hữu hiệu. Nếu có đầy đủ thời gian để cân nhắc, tôi sẽ không bao giờ cho tàu chạy theo lối này.

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển....

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển. Ba quả ngư lôi chỉ chạy các chiếc tàu chỉ vài mươi mét. Đó là ngư lôi do các oanh tạc cơ địch vừa thả xuống. Không theo dõi những kẻ tấn công đang vượt qua như sấm động trên đầu, tôi nhìn chăm chăm theo những làn nước sủi bọt. Một lần nữa, chiếc Yahagi vẫn đứng vững trong cơn bão tố. Nhưng ngay lúc đó, chiếc tàu bỗng rùng mình. Một quả ngư lôi trúng ở mạn trái, chính giữa thân tàu, ngay dưới mực nước.

Và một biến cố kế tiếp mà ngày này tôi không sao tin được nó có thể xảy ra. Chiếc Yahagi chạy một cách lừ đừ, chậm chạp đâu khoảng vài phút rồi khựng lại thình lình và dừng hẳn. Một chiến hạm to lớn như thế này mà bỗng nhiên chết đứng chỉ vì một quả ngư lôi duy nhất chạm phải là điều không thể nào chấp nhận được. Nỗi ngẩn ngơ của tôi càng gia tăng khi tôi nhìn xuống đồng hồ : 12h46. Nghĩa là chúng tôi mới chiến đấu có được 12 phút.

Tôi yêu cầu phòng máy báo cáo tình trạng hư hại. Không ai trả lời. Tôi gọi lại, nhưng vẫn như lần trước. Bây giờ tôi hiểu ngay là quả ngư lôi đã trúng ngay phòng máy. Tôi than trời, nhưng đối phương không cho phép than thở. Sáu chiếc phi cơ khác chúi mũi xuống để thả bom. Tôi nhìn thấy rõ ràng một quả bom trúng ngay sàn giữa và nổ tung, đốn ngã ít nhất 10 thủy thủ, và có sáu cái xác bay tung lên không. Tiếp theo một tiếng nổ ở phía sau lái khiến toàn thân chiếc Yahagi rung chuyển dữ dội.

Một thoáng, tôi nhớ lại hình ảnh chìm dần của chiếc tàu chuyển vận Tokyo Maru, nạn nhân của một quả ngư lôi duy nhất trúng ngay buồng máy. Cùng lúc, tôi nhớ lại hình ảnh hai tuần dương hạm khổng lồ Repulse và Prince of Wales của Anh quốc, cả hai đã bị đánh chìm bởi một số lượng phi cơ Nhật Bản nhỏ hơn số lượng đang đối đầu với chúng tôi rất nhiều. Niềm tin từ lâu trong lòng tôi bỗng tiêu tan.

Một thủy thủ chạy việc hối hả leo lên tháp báo cáo: "Ngư lôi phá vỡ ngay buồng máy và nước đã tràn vào đầy cả rồi!"

Tôi hỏi: "Các vách ngăn để nước khỏi tràn qua các buồng khác thì sao?"

"Các thủy thủ đang làm công việc này, thưa Đại tá."

Chiếc tàu nghiêng về mạn phải ở một mức độ đáng ngại. Tôi nghe Komura nói: "Hamakaze tiêu rồi." Tôi nhìn sang phía trái, về phía Komura đang nhìn trừng trừng, tôi chỉ kịp thấy cái bụng sơn màu đỏ chói của chiếc Hamakaze trước khi nó biến mất giữa những lượn sóng.

Chúng tôi chưa kịp đắp điếm vết thương thì một cuộc tấn công mới lại ùa đến. Uchino chạy xuống cầu thang để ra lệnh cho các xạ thủ. Đó là lần cuối cùng tôi thấy viên phụ tá xứng đáng của tôi. Tất cả mọi loại súng đều khai hỏa, và lần đầu tiên trong trận đánh này, Yahagi đã bắn hạ hai phi cơ địch.

Chiếc tàu, đã chết đứng trên mặt nước, nhận lãnh bom đạn của hết loạt phi cơ này đến loạt phi cơ khác. Phi công địch can trường đâm thẳng vào hàng rào hỏa lực của chúng tôi. Đuôi chiếc tàu lại trúng bom và rung chuyển dữ dội. Tôi nhìn ngoái lại, và nhận thấy ba xác người tung lên cao có gần 20m. Cùng lúc, Yahagi lĩnh thêm một quả ngư lôi vào trước mũi nữa.

Chiếc tàu rung động như một tờ giấy căng trước gió. Bám chặt vào chấn song của pháo tháp chỉ huy, tôi thấy rõ lỗ thủng vĩ đại ở trước mũi Yahagi do quả ngư lôi gây ra. Độ nghiêng của chúng tôi gia tăng nhanh chóng. Một nhóm oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác lại bay đến, và tất cả đều dồn hết hỏa lực vào chiếc mũi đã bị vỡ tan của chiếc Yahagi. Những tràng đại liên đinh tai nhức óc của phi cơ địch được chấm câu bằng tiếng nổ dữ dội của một quả bom trúng thẳng vào pháo tháp số 1, thổi bay toàn thể pháo thủ và nghiền nát những người đứng ở sàn giữa. Một điều lạ lùng là không có quả bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc tháp chỉ huy tác xạ. Nhưng tất cả đinh tán đều long ra hết, khiến hai nơi đây rung động liên hồi, không biết sụp xuống lúc nào. Sườn của pháo tháp số 1 vẫn còn nguyên nhưng áp lực của quả bom 250 cân Anh thổi bay tất cả vách thép dày bao chung quanh. Khói màu vàng cay nồng len lỏi qua các lổ thủng bay lên. Giữa cảnh tàn phá, tôi sửng sốt khi nghe một tiếng la to của sĩ quan pháo thuật, Đại úy Hatta, ra lệnh tháo nước vào kho chứa đạn của pháo tháp số 1 . Khói màu vàng tan dần vì lửa bị dập tắt. Nếu kho đạn này nổ, chiếc tàu sẽ chìm nhanh chóng, những kẻ còn lại không mong gì sống sót. Nhưng kho chứa đạn đầy nước sẽ khiến cho độ nghiêng của chiếc tàu càng trầm trọng thêm.

Phi cơ địch vẫn tấn công không ngừng nghỉ, và nhóm kế tiếp đã oanh tạc trúng đích nhiều đến nổi tôi không thể nào đếm xuể. Khi những tiếng nổ chấm dứt, tôi rùng mình khi nhận thấy nhiều ụ súng và các xạ thủ đều biến mất. Một viên chỉ huy có thể chịu đựng bao lâu trước cảnh thuộc cấp của mình lần lượt bị xé tan thành từng mảnh? Vẫn chưa trái bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc đài chỉ huy tác xạ.

Tôi bừng tỉnh khi phòng ngư lôi gọi tên tôi. Đó là Thiếu Tá Takeshi Kameyama, yêu cầu cho phép phóng tất cả ngư lôi trong ống. Ông ta nói: "Nếu các quả ngư lôi này nổ, chiếc tàu sẽ bị phá tung."

Tôi chấp thuận. Lập tức , một loạt 16 quả ngư lôi được phóng ra. Tôi tưởng tượng đến cảnh hư hại mà những quả ngư lôi này có thể gây ra cho lực lượng địch quân. Đó là tưởng tượng ở giây phút cuối cùng của định mệnh.

Hành động của Thiếu tá Kameyama không sớm quá một giây. Quả ngư lôi cuối cùng vừa thoát ra mặt nước, nhiều quả bom rơi xuống phá tung các ống phóng và đốn ngã tháp sau của Yahagi. Vẫn an toàn trên đài chỉ huy tác xạ, tôi nhìn về phía cuối tàu và nhận thấy chiếc máy phóng phi cơ của chúng tôi đã tan ra thành từng mảnh. Chiếc phi cơ duy nhất, một phút trước đây vẫn còn toàn vẹn, hiện tại là một đống sắt vụn. Một vài khẩu súng vẫn còn lên tiếng và nhiều thủy thủ mình mẩy đẫm máu vẫn chưa chịu rời bỏ vị trí chiến đấu của họ.

Hàng loạt oanh tạc cơ Avenger tiếp tục ùa đến như những làn sóng, và hàng loạt ngư lôi được thả xuống. Tôi không thể nào biết rõ bao nhiêu quả đã trúng vào chiếc tàu. Tiếng nổ hàng loạt khiến cho con tàu đang hấp hối của chúng tôi rung lên từng cơn. Cuối cùng tiếng nổ chấm dứt, nhưng độ nghiêng vẫn tiếp tục gia tăng trong lúc sóng biển bắt đầu tẩy sạch những vũng máu trên sàn tàu và những xác chết lần lượt lăn long lóc xuống mặt biển.

Và bây giờ làn sóng cuối cùng của khoảng 100 phi cơ địch đã thi hành xong nhiệm vụ và bay đi. Tôi nhìn quanh. Tất cả pháo tháp đều bị thiêu rụi. Chiếc tuần dương hạm đầy hãnh diện của tôi bây giờ chỉ còn là một đống sắt nổi trên mặt nước, nhưng lạ lùng thay, tôi nghĩ, không hề có một đốm lửa nào. Nhìn cảnh tượng kỳ quái này, tôi chực nhớ lại hình ảnh tuần dương hạm San Francisco của Hoa Kỳ, chiếc tàu giống như ma quỉ đó đã khiến cho chiếc Amatsukaze suýt tan tành trong đêm tối bưng ở gần Santa Cruz. Hiện thời Yahagi cũng là một chiếc tàu ma. Không vật gì còn động đậy trên sàn tàu. Đa số thủy thủ đoàn của nó bị tiêu diệt.

Nhưng trên đài chỉ huy mọi người đều lành lặn. Đề đốc Komura nói: "Hara, tôi đề nghị tốt hơn là chúng ta nên rời khỏi đây ngay bây giờ, nếu không tôi sợ sẽ lỡ dịp. 250 phi cơ địch hình như đã làm xong nhiệm vụ của chúng."

Tôi không biết nói sao. Tôi cúi đầu và sau đó ấp úng nói: "Thật đáng tiếc, thưa Đề đốc."

"Chúng ta hãy chuyển soái kỳ sang một trong những khu trục hạm, và cố gắng tiến đến mục tiêu của chúng ta ở Okinawa. Anh nghĩ thế nào?"

Tôi nghĩ thế nào? Để mất chiếc tàu và thủy thủ đoàn. Gánh nặng này đang oằn xuống vai tôi.

"Hãy nhìn kìa, Hara, khu trục hạm Isokaze vẫn còn hoạt động!" Thật là đáng ngạc nhiên khi tôi nhận thấy Isokaze vẫn còn nằm đúng vị trí của đội hình vòng tròn trước đây, cách phía trái chúng tôi khoảng 3.000m. Chiếc tàu hình như không bị hư hại gì cả và đang hướng mũi chạy về phía chúng tôi. Đó là một vài giây phấn khởi được tìm thấy trong trận đánh.

"Phải rồi, thưa Đề đốc, chúng ta đánh bỏ rơi Yahagi." Và tôi gọi: "Nhân viên truyền tin, yêu cầu Isokaze tiếp cứu khẩn cấp!"

Sau lệnh của tôi, đèn hiệu cực mạnh được chớp lên và đồng thời một nhân viên truyền tin cũng sử dụng tín hiệu bằng cờ. Chúng tôi nói truyền miệng cho các thủy thủ còn sống sót của Yahagi chuẩn bị bỏ tàu, Isokaze đáp lại tín hiệu của chúng tôi, và xả hết tốc lực chạy về phía Yahagi. Còn cách khoảng 1000m, Isokaze giảm tốc lực và từ từ tiến sát vào chúng tôi. Tôi ra lệnh bỏ tàu.

Nhưng một quan sát viên la lên: "Phi cơ địch." Một phút sau, một làn sóng oanh tạc cơ và chiến đấu cơ ùa đến trên đầu chúng tôi. Chiếc Isokaze chỉ còn cách chiếc Yahagi 200m. Nhiều phi cơ đang tấn công soái hạm Yamato đã tách ra một số để đuổi theo chiếc khu trục hạm di chuyển chậm chạp này. Isokaze đã xả hết tốc lực để lẩn tránh, nhưng khi phi cơ địch xuất hiện mọi lúc mọi nơi, cùng với bom đạn rơi xuống như mưa. Tiếng nổ này đến tiếng nổ khác, cho đến khi chiếc Isokaze biến mất trong một cột khói màu đen.

Yahagi đã gây họa cho chiếc khu trục hạm của mình. Trường hợp vừa xảy ra không khác với trường hợp chiếc Shigure của tôi khi tuần dương hạm Sendai bị tấn công ở Vịnh Empress Augusta trước đây, nhưng lúc ấy tôi đã từ chối lời yêu cầu tiếp cứu của chiếc tàu này.

Sau khi thanh toán xong Isokaze, phi cơ địch quay lại Yahagi, những gì còn lại trên tuần dương hạm này lại bị đạn đại liên cày thêm một lượt nữa. Tôi chỉ biết bám vào song sắt của đài chỉ huy một cách tuyệt vọng.

Khi cơn quằn quại của Yahagi hạ xuống, tôi ngẩng đầu lên, và kinh ngạc nhận thấy chiếc Isokaze nhô ra khỏi bức tường khói dày đặc bao quanh. Mang thương tích, nhưng vẫn còn sống, chiếc tàu đang cố gắng tháo chạy. Phi cơ địch quay lại, chúi mũi xuống, và một lần nữa, chiếc tàu biến mất trong màn khói.

Sau khi đảo cánh rời khỏi khu trục hạm Isokaze, mỗi phi cơ cảm thấy cần phải chào từ giã chiếc tuần dương hạm đang hấp hối của chúng tôi. Chúng tôi không còn biết làm gì khác hơn là bám vào song sắt để chịu trận. Nhưng hiện thời bom đạn không làm chúng tôi sợ hãi bằng những cơn giật nẩy mình trước khi tắt thở của chiếc tàu.

Trung úy Yukio Matsuda, sĩ quan hoa tiêu, đã gom được hơn một chục thủy thủ bị thương và đang cố gắng mang họ xuống một chiếc xuồng cấp cứu. Hành động này đã chọc tức 3 chiến đấu cơ địch. Cả ba đã tập trung hỏa lực, đập tan chiếc xuồng ra thành từng mảnh vụn và nhận 13 xác chết xuống khoảnh biển đẫm máu.

Các thủy thủ còn lại trên tàu đều nhảy xuống nước. Địch quân không cho họ kịp thở. Một làn sóng của khoảng 100 phi cơ ào đến dội bom và bắn vào tất cả những gì còn động đậy. Kỳ lạ thay, Komura cùng một vài sĩ quan khác và tôi đứng trên đài chỉ huy tác xạ, giữa cảnh đổ nát của chiếc tàu mà vẫn không hề hấn gì.

Nhìn ra xa xa, tôi nhận thấy chiếc Isokaze gần như bất động, và mặc dù không bốc cháy, chiếc tàu lắc lư không khác gì say rượu. Cách đó không xa, chiếc Suzutsuki đang bốc cháy, tuôn ra từng cụm khói đen mù mịt. Và chiếc Kasumi chạy xiêu vẹo, tín hiệu bằng cờ cho biết bánh lái của nó bị trục trặc.

Thiết giáp hạm Yamato thoạt nhìn có vẻ như vẫn còn trong tình trạng an toàn. Ở một khoảng cách 3 dặm, tôi không làm sao biết được đại chiến hạm từng là niềm kiêu hãnh của Hải quân này đang lâm vào tình trạng tồi tệ không kém gì tuần dương hạm Yahagi. Hai khu trục hạm Yukikaza nà Fuyutsuki chạy lướt qua lướt lại nhanh như thoi đưa trong nỗ lực dũng cảm nằm bảo vệ chiếc soái hạm khổng lồ.

Vẫn chưa hài lòng với một Yahagi trong cơn hấp hối, làn sóng thứ 5 với hơn 100 phi cơ nữa lại ùa đến. Đạn bay veo véo quanh tôi. Không còn biết sợ là gì nữa, tôi nghiến chặt răng: "Phải rồi, mấy tên Yankee quỉ quái này, tụi bay hãy dứt điểm đi."

Như để đáp lại lời tôi, tiếng rít của một viên đạn bay đến trúng vào cánh tay trái và đẩy tôi ngã chúi. Lúc ngã xuống, tôi lại càng kinh ngạc hơn khi nhận thấy những lượn sóng đã mấp mé trên mặt đài chỉ huy tác xạ, nơi mà hiện tại chỉ còn mình tôi và Đề đốc Komura.

"bây giờ, Hara, chúng ta nên đi chưa?" Komura hỏi một cách bình tĩnh.

"Đi!"

Trong lúc chúng tôi tháo bỏ giày vớ, tôi vẫn kịp nhận ra lúc ấy là 14h06. Phi cơ địch lại gầm thét trên đầu. Sóng bủa lên đầu gối lúc chúng tôi nhảy ra khỏi đài chỉ huy tác xạ. Bơi đâu được khoảng một vài thước, tôi cảm thấy một sức mạnh khổng lồ lôi tôi mạnh xuống đáy biển. Tôi chòi đạp, vùng vẫy, nhưng vực nước xoáy do một chiếc tàu chìm tạo ra có một hấp lực không thể nào chống trả nổi. Tôi chịu thua, không vùng vẫy nữa, chấp nhận cái chết....

Bỗng nhiên tôi cảm thấy cánh tay khổng lồ đã buông tôi ra. Tôi lại chòi đạp. Quanh tôi bao phủ một màu đen thẫm, nhưng có vẻ nhợt nhạt dần. Sau đó, trước mặt tôi những nhóm bọt nước thấp thoáng trồi lên. Đó là không khí còn sót lại trong quần áo và buồng phổi của tôi. Đau đớn vì nghẹt thở, tôi há miệng và nuốt một bụng nước biển, nhưng thình lình đầu tôi trồi lên khỏi mặt nước. Tôi thở liên hồi, đầu óc trống rỗng. Trong cơn choáng váng, tôi không biết phải làm gì, tôi thả trôi bập bềnh theo dòng nước.

Dần dần mắt tôi nhìn rõ trở lại, và tôi biết lúc đó là vào giữa ban ngày. Một âm thanh lao xao do tiếng nói của nhiều người gây ra. Nhìn quanh, tôi thấy nhiều cái đầu nổi trên mặt nước, và tất cả đều màu đen. Trong trạng thái mê hoảng, tôi có cảm giác đây là bãi tắm của những người da đen, và tôi đang bơi lội thỏa thích với họ. Trí não của tôi hồi tỉnh. Nhưng rất chậm chạp.

Tôi vẫn còn ngơ ngác. Mệt mỏi và căng thẳng trong trận đánh kéo dài hai giờ đồng hồ, tiếp theo là sự đổ vỡ và xúc động, tất cả đã vượt sức chịu đựng của một con người. Bây giờ tôi nghe tiếng gọi: "Hara, anh bình yên chứ? Hara! Anh nghe tiếng tôi không?"

Tôi thả trôi về hướng phát ra tiếng nói. Một người có khuôn mặt đen thui đang vẫy gọi tôi. Tôi nhận ra Đề đốc Komura. Khuôn mặt sạm nắng của ông, và ngay cả khi dầu đen bám đầy, tôi cũng có thể nhận ra ở khoảng cách 10 m.

"Tôi bình yên, Komura." Tôi đáp và hỏi: " Còn Đề đốc thì sao?"

"Tôi hoàn toàn bình yên."

Những người da đen chung quanh tôi chính là các thủy thủ của tôi. Tôi vuốt mặt và cảm thấy mặt tôi dính đầy dầu nhớt. Mặt nước cũng bao phủ dầu do chiếc Yahagi tuôn ra. Nhiều thủy thủ bám vào những mảnh ván vụn, điều này khiến tôi ngạc nhiên, vì tôi đã nghĩ là toàn thể thủy thủ của tôi đã bị tiêu diệt.

Khi mắt tôi nhìn rõ trở lại, tôi tìm kiếm chiếc Yamato. Chiếc tàu vẫn vĩ đại và hấp dẫn cho dù cách tôi đến 6 dặm, và đang bị một số phi cơ địch đông như đàn muỗi bu quanh.

Trong lúc thả trôi bập bềnh, không biết số phận ra sao, tay tôi bỗng chạm một khúc gỗ trôi ngang qua. Tôi bám ngay lấy khúc gỗ và có thể tạm yên lòng để suy nghĩ xem phải làm gì để thoát thân.

"Ê, bạn, xê ra, nhường tôi một chỗ coi!" Tiếng nói vang lên phía sau tôi. Một thủy thủ trẻ đang cố bơi về phía khúc gỗ. Tôi bám vào một đầu và nhường đầu kia cho hắn. Sau khi bám được vào đầu khúc gỗ, hắn nhìn tôi vẻ biết ơn.

"Anh là ai? Anh tên gì?" Hắn hỏi sau khi lấy hơi thở xong.

"Tên của tôi là Hara. Tôi ở trên tuần dương hạm Yahagi." Người láng giềng mới của tôi há hốc miệng, nhìn tôi trừng trừng một lát rồi ấp úng nói: "Xin thứ lỗi cho sự vô lễ của tôi, thưa Đại tá. Tôi là thủy thủ I Daiwa... Tốt hơn là tôi nên đi tìm một khúc gỗ khác. Khúc gỗ này nhỏ không đủ sức cho 2 người bám vào."

Hắn nhìn quanh một cách lo lắng. Tôi nói: "Đừng có điên, chú nhỏ ơi! Hãy bám vào cho chắc. Cả hai chúng ta có thể tạm dùng được. Anh bị thương phải không?"

"Dạ không, không có một vết trầy nào cả, thưa Đại tá. Anh bạn Asamo của tôi và tôi quyết định chết theo Yahagi. Chúng tôi lẻn vào kho đạn số 3 và cùng nằm ở đó để đợi giờ phút tan thành từng mảnh, nhưng Trung sĩ Yamada đến ra lệnh cho chúng tôi lên sàn tàu. Ông ta nói: "Đây là chỗ của tôi." Hắn làm hùng làm hổ khiến chúng tôi phải nhảy lên cầu thang. Tôi trặc chân và trẹo xương mắt cá, nhưng không ăn nhằm gì. Tôi không hiểu tính mạng của Yamada và anh bạn Asamo của tôi ra sao?"

"Đừng lo lắng nữa, Daiwa. Bây giờ chỉ nghĩ đến sự sống sót mà thôi. Anh sẽ thoát khỏi tình cảnh này nếu anh không bỏ cuộc."

--------------------------------

Chúng tôi nhìn quanh, nhận thấy soái hạm Yamato vẫn còn hoạt động. Thình lình khói trắng tuôn ra ngang mực nước của thành tàu. Và cả hai chúng tôi đều kêu to lên khi khói trắng càng lúc càng tuôn ra như sóng cuộn cho đến khi bao phủ toàn thể chiếc thiết giáp hạm khỗng lồ, trông giống như là đỉnh tuyết của ngọn núi Fuji. Kế đó là khói đen lẫn lộn với khói trắng, tạo thành hình một chiếc nấm khổng lồ, cao đến 2.000m. Khi chiếc nấm này tan dần, chúng tôi nhìn lại mặt biển, và không còn thấy gì cả. Yamato đã biến mất. Những tiếng nổ khủng khiếp vào lúc 14h23 của ngày 7 tháng 4 đó đã chấm dứt hình ảnh tượng trưng "Không bào giờ chìm" của Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy buốt lạnh. Lúc ấy trời đang mưa. Khi nghĩ đến Yamato, nước mắt của tôi hòa lẫn với nước mưa và nước biển.

Sau chiến tranh, ông bạn của tôi là Đề đốc Nobuei Morishita, một trong số 269 người của Yamato còn sống sót, đã kể cho tôi nghe các chi tiết xảy ra vào những giây phút cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này.

Vào lúc 12h40, Yamato nhận lãnh nhiều quả bom trực tiếp đầu tiên, và một quả ngư lôi ở mạn trái 10 phút sau đó. Tính ra, mạn trái của chiếc tàu trúng 10 quả ngư lôi và mạn phải trúng hai quả tất cả.

Đại tá Jiro Nomura, sĩ quan phụ tá của Hạm trưởng Yamato, vào lúc 14h05 đã xác định rằng công việc sửa chữa cấp thời cho chiếc tàu không thể nào xúc tiến. Do đó, Phó Đô đốc Ito, đứng trên đài chỉ huy suốt trận đánh, đã đình chỉ cuộc hành quân và ra lệnh: "Bỏ tàu."

Khu trục hạm Fuyutsuki được gọi đến để đảm trách việc di tản, nhưng chiếc tàu này khó có thể chạy nhanh hơn sức chìm của Yamato. Trung tá Hidechika Sakuma, hạm trưởng của Fuyutsuki, sợ chiếc tàu nhỏ bé của mình bị chiếc tàu khổng lồ lôi theo xuống đáy biển nên không dám tiến lại gần.

Ito bắt tay các sĩ quan hiện diện trên đài chỉ huy và lui vào phòng riêng để chết theo chiếc tàu. Hạm trưởng của Yamato, Đề đốc Kosaku Aruga, tự trói vào đài chỉ huy. Đề đốc Morishita, tham mưu trưởng của Ito, phải tranh luận sôi nổi với các sĩ quan trên đài chỉ huy muốn đi theo Ito, Aruga và Yamato, để cuối cùng ông thuyết phục được họ cùng đi với ông rời bỏ chiếc tàu. Độ nghiêng về mạn trái của chiếc tàu gia tăng nhanh chóng khi trúng quả ngư lôi cuối cùng vào lúc 14h17 phút. Ba phút sau, độ nghiêng tiến đến 20 độ, và những tiếng nổ xảy ra đã nhận chìm chiếc tàu này xuống đáy biển cấp tốc. Những tiếng nổ này đã cứu Morishita và những người khác, đẩy họ văng ra khỏi chiếc tàu.

Vẫn bám vào khúc gỗ, nhưng trải qua nhiều phút sau khi chiếc Yamato chìm, tâm trí tôi hoàn toàn trống rỗng. Tuần dương hạm của tôi mất, tôi buồn bã, nhưng nỗi buồn này không bằng phân nửa, đối với sự mất mát chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới. Nhìn quanh, tôi không còn thấy bóng dáng Đề đốc Komura đâu nữa, và ở đầu bên kia khúc gỗ, anh bạn trẻ Daiwa cũng mất tăm. Quanh tôi không còn một người nào. Hình như tôi đang ở trên một dòng nước đẩy tôi rời ra xa những người khác. Như vậy là tôi sẽ chết một cách cô độc? Bây giờ tôi nghe nhiều tiếng hát, lẩn quất đâu đây.

Tôi nhớ lại huấn lệnh dành riêng cho những người sống sót và trôi nổi trên đại dương: không nên la hét, mà phải bất động để gìn giữ năng lượng. Những người đang ca hát này, có thể, đã cho rằng họ không mong gì được giải cứu, và cũng có thể, họ muốn khôi phục tinh thần qua tiếng hát của họ. Thêm nhiều người kết hợp, tiếng hát càng mạnh mẽ hơn. Đó là những câu hát phỏng theo bài Chiến Sĩ Ca, bài ca nằm lòng của các chiến sĩ Nhật Bản từ nhiều thế kỷ trước đây.

Nếu tôi rời xa biển cả,

Tôi sẽ trở về như xác chết nổi trôi.

Nếu nhiệm vụ gọi tôi lên núi,

Đồng cỏ xanh sẽ là áo khoác thân tôi.

Vì đã nguyền hiến thân phục vụ cho Thiên Hoàng,

Tôi sẽ không chết bình yên giữa thê nhi yên ấm.

Khi bài ca được lặp lại, chính tôi cũng bị lôi cuốn vào. Thỉnh thoảng, xen vào âm thanh bi tráng này, là những tiếng la to" "Tenno Heika Banzai." (Thiên Hoàng Vạn Tuế) Chứng tỏ có một số người đang hát bị thương nặng hoặc kiệt lực nên đành bỏ dở giữa chừng bài hợp xướng của họ, và xuôi tay vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt. Tiếng hát chỉ còn phảng phất bên tai tôi.

Tôi biết mình cũng đang đi dần vào cõi chết. Bây giờ âm điệu tiếng hát trở thành du dương mơ hồ, như tiếng hát ru con, mang tôi trở lại ấu thời với tiếng hát ru của mẹ tôi, và lần lượt hiện lên hình ảnh ông nội tôi, những ngày đi học, những ngày ở Hàn Lâm Viện, chuyến đi vòng quanh thế giới, lúc tôi bước chân vào một thương xá ở New York, những ngày mới ra trường của một sĩ quan trẻ, thời gian dính líu tình cảm giữa tôi và một cô Geisha. Chiếc kính vạn hoa này lại chuyển sang hình ảnh sống động của mẹ tôi, thoáng qua hình ảnh của vợ tôi, và kế đó là chân dung lúc tôi đã trở thành một sĩ quan chín chắn, và cuối cùng là gương mặt của đám con tôi.

Ảo ảnh tan biến trước mắt tôi với những dòng nước mắt chảy dài xuống má. Tôi nghĩ đến lần nghỉ phép cuối cùng tại nhà, đúng bốn tháng qua, và tôi nghĩ đến vợ con. Tôi thấy trước những gian nan vất vả mà vợ con tôi sẽ gặp một khi tôi ra đi vĩnh viễn. Tôi muốn tất cả hãy quên tôi, và cố gắng hiểu hoàn cảnh của tôi. Đối với Chizu, tôi là một kẻ ích kỷ, kết hôn với tôi, nàng đã xa rời hẳn đời sống yên ấm của những thời thơ ấu. Bây giờ tôi không bao giờ về lại với người vợ và 3 đứa con thơ. Hãy quên anh, Chizu!"

Tiếng hát im bặt hẳn. Nước trời bỗng nhiên lạnh lẽo hơn. Tôi rùng mình, cảm thấy thân thể giá buốt. Đôi tay tôi dần dần tê liệt, bám giữ khúc gỗ một cách khó khăn. Một vật gì trôi lờ đờ trước mắt, tôi cố đưa tay vớt lên. Không gì khác hơn một mảnh giấy nhớp nhúa dầu cặn. Định bỏ xuống, nhưng không hiểu sao, tôi nhét mảnh giấy vào túi áo mưa. Tay tôi chạm phải một vật khác lạ trong túi áo. Tôi lôi ra. Đó là một đoạn dây nhỏ, dài khoảng một mét rưỡi. Tôi không nhớ tại sao đoạn dây này lại ở trong túi áo, nhưng nó đã làm thay đổi hoàn toàn tình huống hiện tại của tôi.

Tôi dùng đoạn dây tự trói vào khúc gỗ. Như vậy, cho dù buông tay, tôi vẫn không bị chìm. Và luôn luôn gặp may mắn, biết đâu tôi sẽ trôi tấp vào một bờ biển Nhật Bản?

Phi cơ địch quay lại, có thể đây là làn sóng tấn công cuối cùng. Nhưng trí óc của tôi càng lúc càng trì độn, cho nên mặc dù đạn đại liên bắt đầu trút xuống mặt biển như mưa, tôi cũng không thấy liên quan gì đến tôi. Hỏa lực của phi cơ tập trung vào những nhóm thủy thủ đông đảo còn sống sót, cách tôi khá xa, nhưng nhiều viên đạn bay lạc rơi lèo xèo quanh tôi. Không một viên đạn nào trúng tôi, nhưng tiếng kêu lèo xèo của mấy viên đạn rơi xuống nước khiến tôi tức giận, và phản ứng tự nhiên, tôi hụp đầu xuống nước. Cơn tê dại của tôi bỗng nhiên biến mất.

Sau đó, phi cơ địch bay mất dạng, nhưng tôi sửng sốt khi nhìn thấy một chiếc thủy phi cơ Martin PBM sà thấp và đáp trên mặt nước, cách tôi khoảng 300m. Tôi lại hụp đầu xuống nước. Nhưng chiếc Martin không chú ý đến tôi, nó lướt thẳng đến một khoảng nước được nhuộm màu xanh để đánh dấu một viên phi cơ Hoa Kỳ đang trôi lềnh bềnh trên một cái phao cấp cứu rồi cất cánh bay lên. Tôi theo dõi hoạt động tiếp cứu này với những suy nghĩ đầy đố kỵ.

Nhưng cảm nghĩ của một người khác thuộc chiếc Yahagi còn sống sót, Thiếu úy Shigeo Yamada, cũng trôi nổi gần nơi chiếc thủy phi cơ đáp xuống, lại hoàn toàn khác hẳn tôi. Yamada sinh ở Hawaii, rất giỏi Anh ngữ, là sĩ quan liên lạc của Yahagi, sau đó đã nói với tôi : "Tôi sợ bị bắt làm tù binh, nên lúc ấy tôi vội vã xé tất cả phù hiệu cấp bậc trên bộ đồng phục và quăng ra xa. Nhưng chiếc máy bay không đến gần tôi.

Yamada không thiệt mạng, và vào năm 1958, anh ta làm việc trong văn phòng của hãng JAL ( Hàng Không Nhật Bản ) ở Chicago, Illinois - một công việc không hề được dự tính vào cái ngày đầy khiếp sợ vào tháng 4 năm 1945 đó.

Toàn thể khu vực dần dần yên tĩnh trở lại. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy dễ chịu, và bắt đầu nhìn lại những gì xảy ra trong trận đánh vừa qua. Tôi đã tỏ ra vụng về khi điều động Yahagi chống lại phi cơ đối phương. Trên một chiếc khu trục hạm, tôi sẽ điều động mọi việc một cách trôi chảy, không hề bối rối, bởi lẽ kinh nghiệm thực sự của tôi chỉ là kinh nghiệm của một hạm trưởng khu trục hạm, không hơn không kém.

Tôi đã sai lầm khi áp dụng lại cách điều động chiếc Shigure từng gây rối loạn cho 2 oanh tạc cơ địch gần Kavieng trước đây. Nhưng Yahagi có tốc độ cao và lanh lẹ hơn Shigure rất nhiều, tại sao tôi lại cho chiếc tuần dương hạm này chạy theo hình chữ chi lỗi thời để đến nỗi ngư lôi địch đuổi kịp nó?

Vâng, tôi đã sai lầm, bởi vì tài năng của tôi đã cùn đi sau một năm phục vụ trên bờ. Đáng lẽ ra Bộ Tư Lệnh Hải quân nên giao phó cho tôi nhiệm vụ trên mặt biển, thay vì công việc trên bờ không phù hợp với khả năng học hỏi của tôi. Hơn nữa, tất cả những gì tôi được huấn luyện và thực hành - ngư lôi tầm hướng, đầu nổ kíp điện và trọng pháo có radar điều khiển - không thề nào sử dụng để chống lại phi cơ địch trong trận đánh vừa rồi. Mọi thứ chúng tôi làm đều sai lầm hết. Ngay cả chính cuộc hành quân này, không có bất kỳ loại bảo vệ nào từ trên không, đó là một sai lầm khổng lồ.

Từ lúc chiếc Yahagi chìm, tôi không biết thời gian đã trải qua bao lâu. Trời đã đêm và gió đang thổi. Tôi lạnh run và bắt đầu buồn ngủ, nhưng tôi cố gắng chống lại, vì biết rằng ngủ quên sẽ có nhiều sơ suất chết người xảy ra. Nhưng, bây giờ đã đến lúc một Samurai chuẩn bị để chết. Tôi có thể bình tĩnh đợi chờ cái chết, không than van, không hối tiếc.

Quanh tôi không còn tiếng gì khác hơn là tiếng nước vỗ vào khúc gỗ. Tôi nhắm mắt lại, đầu tựa lên khúc gỗ, và thiếp ngủ. Hình ảnh những ngày qua lại hiện lên trong mộng mị. Lần đầu tiên tôi đi tàu đò từ Shikoku đến Honshu để dự thi vào Hàn Lâm Viện Hải quân. Tiếng máy của chiếc tàu đò có một âm thanh độc đáo, tôi có thể nghe lại một cách rõ ràng, hình như không giống như trong mơ chút nào.

Tôi mở bừng mắt, và âm thanh vẫn tiếp tục. Không phải là âm thanh trong mơ. Đó là tiếng máy của một chiếc khu trục hạm, chạy cách chừng một dặm. Tôi nghĩ là chiếc tàu này vẫn còn chống chọi với các phi cơ địch đeo đuổi, tôi lại tựa đầu lên khúc gỗ, nhắm mắt ngủ nữa. Nhưng tiếng động cơ vang to hơn bên tai đã quấy rầy giấc ngủ chập chờn của tôi. Tiếng động cơ này quá gần, không phải của chiếc khu trục hạm. Tôi nhìn lên, và thấy một chiếc ca nô! Chiếc ca nô nhỏ bé này, thường trang bị cho khu trục hạm, cách tôi không hơn 200m, nhìn thấy rất rõ giữa các đỉnh sóng. Tôi tự hỏi không hiểu nó quanh quẩn ở đây làm gì?

Chiếc ca nô biến mất. Tôi cố rướn lên để nhìn. Sau một vài phút, nò xuất hiện trở lại, lần này chỉ cách tôi khoảng 50m, và đang chạy vòng quanh để tìm kiếm những người còn sống sót. Bỗng nhiên tôi hoảng hốt. Tôi muốn sống nhưng đã tuyệt vọng. Và bây giờ tôi sợ chiếc ca nô không tìm thấy tôi. Tôi gom hết tàn hơi la lên thật to, nhưng vô ích.

Trong cơn tuyệt vọng, tôi tháo dây buộc và dùng chân tay chòi đạp mặt nước dữ dội. Chiếc ca nô nhìn thấy, xoay mũi chạy về phía tôi. Khoảng cách giữa tôi và kẻ tiếp cứu hình như dài vô tận. Khi chiếc ca nô sáp đến, tôi kiệt sức đến nổi không thể giơ tay để bám vào cạnh của nó, nhưng 4 cánh tay mạnh mẽ đã tóm lấy và nhanh nhẹn lôi tôi lên.

Thật kỳ lạ, ngay khi tôi chạm chân lên sàn ca nô khô ráo, năng lực tiêu tán của tôi phục hồi mau lẹ. Tôi ấp úng thốt lời cảm tạ những người đã tiếp cứu tôi, và tôi ngạc nhiên khi thấy ngoài tôi ra không còn kẻ sống sót nào khác để trở về khu trục hạm, và đây là chuyến tiếp cứu cuối cùng.

Sau đó, chiếc ca nô tiếp tục quần tìm 15 phút nữa, nhưng không có kết quả nên quay về khu trục hạm Hatsushimo. Năng lực vừa phồng lên của tôi bỗng nhiên xẹp xuống khi tôi cố gắng leo lên thang tàu. Chân tôi không thể nào cất lên nổi, hai thủy thủ phải đưa tay đẩy mạnh tôi lên sàn tàu.

Hạm trưởng của Hatsushimo, Trung tá Masazo Sako, chào đón tôi: "Mừng Đại tá thoát nạn. Chúng tôi tìm kiếm Đại tá gần như đã tuyệt vọng. Đề đốc Komura đang nghỉ trong phòng tôi."

Tôi cám ơn Sako, và đi vào phòng để trút bỏ bộ quần áo đẫm ướt nước biển và dầu nhớt của tôi. Được nhân viên y tế chích thuốc và xoa bóp, tôi phục hồi sức khỏe mau lẹ. Tôi cám ơn họ và xin một ly sake.

Viên bác sĩ đứng gần đó đã cười to và nói: "Có ngay, Đại tá Hara. Thường thường tôi đã từ chối đòi hỏi như thế này, nhưng tôi chắc sake là phương thuốc chữa bệnh cho Đại tá."

Trong khi tôi nhấm nháp, viên bác sĩ kể lại vắn tắt những diễn biến mà hắn ta thấy được từ chiếc tàu này.

"Chiếc Hatsushimo đóng góp vào trận đánh này không bao nhiêu. Vì quyết tâm tấn công soái hạm Yamato, phi cơ địch chỉ lướt ngang qua chúng tôi. Do đó, chiếc tàu của chúng tôi không hề bị trực tiếp một phát đạn nào và thủy thủ đoàn không ai thiệt mạng, chỉ hai người bị thương nhẹ. Hatsushimo có lẽ là chiến hạm duy nhất thuộc lực lượng còn nguyên vẹn. Đó là lý do tại sao chúng tôi quanh quẩn ở đây tìm kiếm những người còn sống sót. Ba khu trục hạm Fuyutsuki, Suzutzuki và Yukikaze đều thiệt hại và đã chạy về Sasebo cách đây hai giờ. Chiếc Fuyutsuki hầu như an toàn mặc dù trúng hai hỏa tiễn, nhưng hàng chục thủy thủ đã thiệt mạng do đạn đại liên gây ra. Chiếc Yukikaze cũng hư hại nhẹ, và có 3 thủy thủ thiệt mạng. Chiếc Suzutzuki cũng bị trúng một quả bom vào ngay mũi, hư hại nặng nhất và phải bỏ cuộc để chạy về Sasebo đầu tiên.

Chiếc Isokaze kém may mắn hơn những khu trục hạm vừa nói. Chiếc tàu này không hề nhận lãnh một quả bom trực tiếp nào, những các mảnh bom nổ gần đã phá nhiều lỗ thủng, khiến cho buồng máy ngập nước và 100 thủy thủ thiệt mạng. Lúc ấy không còn hy vọng sửa chữa cấp thời. Isokaze được khu trục hạm Yukikaze nhận chìm sau khi di tản hết những người còn sống sót. Giống như trường hợp của khu trục hạm Kasumi, chiếc tàu này bị hư hại nặng và có 17 thủy thủ thiệt mạng, đã được chiếc Fuyutsuki ban "phát súng ân huệ" sau khi giài cứu tất cả những người còn lại.

Sau khi cảm ơn viên bác sĩ đã cho biết những tin tức này, và không còn điều khác để bàn, tôi hỏi: "Quý vị có giải cứu một thủy thủ tên là Daiwa không?"

Một viên y tá dò danh sách và đáp: "Có, thưa Đại tá, tên hắn đây. Hắn đã hỏi thăm tin tức Đại tá ngay khi được đưa lên tàu hai giờ trước đây." Viên y tá gọi một liên lạc viên: "Hãy nói với Daiwa là Đại tá Hara vẫn bình yên."

Khu trục hạm Hatsushimo chất đầy cả ngàn người sống sót của thiết giáp hạm Yamato và tuần dương hạm Yahagi, về đến Sasebo vào buổi trưa ngày 8 tháng 4. Một liên lạc viên gõ cửa phòng hạm trưởng ngay khi tàu vừa buông neo và trình một công điện cho Đề đốc . Ông cúi xuống đọc , nhăn mặt, và đưa tờ giấy cho tôi. Đây là một tuyên dương công trạng do Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp gửi cho Đệ Nhị Hạm Đội, ngợi khen lực lượng chúng tôi đã dũng cảm xả thân, nhờ vậy các phi cơ tấn công đặc biệt đã thu hoạch được một kết quả vĩ đại trong trận chiến."

Kết quả vĩ đại trong trận chiến này là những gì? Ngày đó, nỗ lực tấn công không quân của chúng tôi, bao gồm 114 phi cơ, 60 chiến đấu cơ, 40 oanh tạc cơ và 14 chiếc Thần Phong - chỉ gây hư hại cho hàng không mẫu hạm Hancock, thiết giáp hạm Maryland và khu trục hạm Bennett, nhưng cái giá phải trả là gần 100 phi cơ bị bắn hạ.

Kết quả, phía Hoa Kỳ có 12 phi cơ thiệt mạng và 10 phi cơ bị bắn rơi do súng phòngkhông của chúng tôi. Phía Đệ Nhị Hạm Đội chỉ còn 3 khu trục hạm tồn tại, và 2,498 người của Yamato, 446 người của Yahagi và 721 người của các khu trục hạm khác thiệt mạng.

Câu chuyện về kẻ chiến thắng và chiến bại trong cuộc đụng độ không hải cuối cùng của một chiến thuật đơn giản, nhưng đã gây sửng sốt cho những nhà thống kê. Lực lượng Hải quân hùng mạnh, đã từng phát động đầu tay của chiến Thái Bình Dương, qua trận tấn công Trân Châu Cảng, cuối cùng đã bị hạ gục.

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, thiết giáp hạm Yamato bị đánh chìm. Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản cũng chìm theo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro