Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

6

Ngày 1 tháng 12 năm 1926, tôi được thăng cấp Chuẩn úy và phải học thêm một khóa nâng cao ở trường đào tạo Chuyên Viên nằm ở Yokosuka. Suốt một năm theo học khóa nâng cao chuyên viên khu trục hạm ở đây. Khóa học nầy dành cho những người được tiến cử để được đào tạo thành hạm trưởng các khu trục hạm trong tương lai.

Yokosuka nằm cách Kure 300 dặm đường chim bay, khung cảnh và không khí đã làm tôi thay đổi. Ở đây, tôi có thể quên dần buổi chia tay đầy bi thảm với Utamaru. Các môn học mới mà tôi đang theo đuổi đã lấp đầy tất cả nổi phiền muộn riêng tư. Ngoài ra lúc ấy sự căng thẳng ở Trung Hoa cang lúc càng gia tăng khiến tôi bận tâm theo dõi.

Hoa Lục vào những ngày nầy đang xảy ra cuộc tranh chấp giữa hai tay chiến tướng quan trọng. Tưởng Giới Thạch ở phía Nam và Chang Tso Lin ở phía Bắc. Đầu năm 1927, lực lượng của Tưởng tỏ ra trên chân của Chang, và đã chiếm giữ Nam Kinh vào ngày 24 tháng 3. Lực lượng của Tưởng tạo một ra sai lầm quan trọng, là khi chiếm Nam Kinh đã phóng tay cướp phá, tràn cả vào các lãnh sự quán và gây khó dễ cho các quốc gia Nhựt, Anh, Mỹ và Pháp.

Ba tàu chiến Hoa Kỳ đã nã trọng pháo vào Nam Kinh. Hải quân Nhựt đổ bộ một lực lượng đặc nhiệm lên Nam Kinh để bảo vệ kiều dân Nhựt. Những sự việc nầy đã khiến Tưởng Giới Thạch phải ngỏ lời xin lỗi các quốc gia vừa nói và qui tội cho Cộng Sản.

Tháng 5 năm 1927, Nhật Bản đổ bộ các đơn vị bộ binh lên bán đảo Shantung ở Hoa Bắc nhằm ngăn chặn các biến cố khác. Tuy nhiên hành động nầy càng đẩy mạnh các phong trào bài Nhựt ở Trung Hoa.

Đối với quí vị đọc giả hiện tại chắc chắn sẽ cho rằng việc đổ bộ vừa rồi là hành động vụng về. Tuy nhiên sự thật Trung Hoa lúc ấy là một xứ sở đã rách nát bởi các cuộc nội chiến, hai chánh phủ, và không có uy quyền tối thượng. Quyền trú quân của Nhật Bản được thừa nhận từ khi cuộc chiến Nga - Nhựt năm 1904 - 1905 kết thúc. Người Nhựt vẫn thường có những hành động khiêu khích người Trung Hoa, và cả hai chánh phủ Trung Hoa đều khuyến khích các cuộc biểu tình bài Nhựt.

Vào mùa xuân năm 1927, hội nghị giải trang lần thứ hai được mở ra ở Geneva. Nhật Bản đã cứng rắn đòi hỏi tổng số trọng lượng các chiến hạm phải gia tăng cao hơn giới hạn 60% so với Anh và 70% so với Hoa Kỳ, do hội nghị lần thứ nhất đưa ra. Hai cường quốc hải quân hàng đầu bác bỏ đòi hỏi nầy, và hội nghi đổ vỡ. Năm cường quốc phải dàn xếp trên căn bản thỏa hiệp năm 1921.

Những biến cố thế giới nầy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự cố gắng làm việc và học hỏi của tôi. Vào thời gian tôi nhận được sự bổ nhiệm mới, các khu trục hạm và tuần dương hạm được nâng lên địa vị quan trọng chưa bao giờ thấy trong thời Đệ Nhứt Thế Chiến.

Sau khi tốt nghiệp trường Chuyên Viên, tôi được chỉ định phục vụ trên tàu, với tư cách sĩ quan thủy lôi trưởng của khu trục hạm Susuki (Đồng cỏ). Tôi đã giữ nhiệm vụ nầy trên hai năm, lâu hơn bất kì nhiệm vụ nào mà tôi từng giữ trước đây. Chiếc tàu hoạt động trong hải phận Trung Hoa, hầu hết ở Hoa Bắc và đảo Đài Loan, thường buông neo ở Tsingtao, hải cảng then chốt của bán đảo Shantung, và bán đảo nầy cũng chính là mồi lửa của các cuộc xung đột Nhựt - Hoa ở hiện tại.

Khu trục hạm của tôi đến Keelung, Đài Loan vào ngày 1 tháng 4 năm 1928 vừa lúc tôi nghe tin Tưởng Giới Thạch đang bắt đầu xua quân hướng về Shantung. Tin tức nầy khiến các tàu phải trực chỉ Tsingtao. Nhưng ở đây tình hình có vẻ êm dịu, vì vậy ngày 15 tháng 4, chúng tôi quay lại Pescadore.

Biển cố Tsinan đầy nhục nhã xảy ra hai tuần sau đó. Đạo quân miền Bắc của Chang Tso Lin, bắt đầu dở trò cướp phá ở Tsinan, thủ phủ của Shantung, nhưng đã bị thảm bại không lâu sau đó khi họ Tưởng tiến đánh và chiếm giữ thủ phủ nầy vào ngày 1 tháng 5. Nhưng quân của họ Tưởng vẫn tiếp tục cướp phá, giống như họ đã làm vào hai năm trước đây Nam Kinh. Mười bốn kiều dân Nhựt bị sát hại và hơn hai mươi người khác mất tích, và tất cả 114 ngôi nhà của người Nhựt đều bị cướp bóc và thiêu hủy hoàn toàn.

Lục Quân Nhựt được rút từ Mãn Châu và Triều Tiên để đưa đến nơi xảy ra biến cố và đã vãn hồi trật tự. Tuy nhiên chánh sách "cây roi lớn" nầy chỉ khiến cho người Trung Hoa phẩn nộ thêm, và gieo mầm móng cho cuộc xâm chiếm qui mô của Nhựt xảy ra sau nầy.

Cuối năm 1928, tôi ở Kobe và gặp người anh là Sakutano. Anh đã thúc giục tôi lập gia đình. Tôi cười to và nói: " Em đã từng mang tiếng xấu rồi, bây giờ anh có chắc là em tu chỉnh chưa?"

Sakutano, từ trước đến nay vẫn là một người anh hiền của tôi, đáp một cách nghiêm trang: "Để anh tìm một số ứng cử viên cho em". Tôi nói anh cứ tiến hành nhưng tôi nghĩ chắc anh chẳng có chút may mắn nào.

Khoảng một tháng sau, tôi nhận được thơ của anh kèm theo một tấm ảnh với lời ghi chú ngắn, theo đó "người trong ảnh" xứng để trở thành "phu nhân" của tôi.

Cô Chizu Asayama, 22 tuổi, là con nuôi một chủ xưởng chế tạo vật dụng bằng da lớn nhứt của Nhật Bản. Trong thơ cho biết bà mẹ nuôi của nàng muốn có một người rễ là sĩ quan hải quân, bởi lẽ bà ta muốn sống gần con, và dĩ nhiên một sĩ quan hải quân thì ít khi định cư một nơi nào.

Dưới mắt tôi người trong ảnh quả có nhan sắc. Nàng tốt nghiệp trường Nữ Cao Đẳng nổi danh Ochanomizu. Một cô con gái gia đình giàu có, anh tôi viết, tất nhiên "trâm cài lược giắt" và quan trọng hơn hết là của hồi môn, gồm có "năm căn nhàn rộng lớn đang cho mướn ở Kamakura," một thành phố bờ biển của giới thượng lưu gần Yokosuka.

Cả câu chuyện đối với tôi đầy bất ngờ. Tại sao một cô gái đủ điều kiện như vậy lại ưng thuận làm vợ của tôi? Nàng sẽ chọn một sĩ quan ưu tú, để hi vọng trở thành "Đô Đốc phu nhân" tương lai hơn không? Gia đình nàng chắc chắn đã thuê thám tử tư điều tra quá khứ của tôi và họ đã biết tất cả. Vì vậy, tôi nghi ngờ nàng có những khuyết điểm gì đó, không thích hợp với các tay thanh niên khác.

Tôi trao thơ cho hạ sĩ quan tùy viên thân cận của tôi và hỏi ý kiến của anh ta. Viên hạ sĩ quan đã đáp một cách nghiêm trang: " Đại úy, anh của tôi là một cảnh sát điều tra, nếu đại úy muốn, tôi sẽ nhờ anh ấy điều tra giùm cho."

Tôi đồng ý. Một tháng sau, người anh của hắn cung cấp đầy đủ hồ sơ cho tôi, theo đó: "Cô Asayama chẳng phương diện nào đáng chê hết."

Tôi gặp nàng lần đầu vào tháng 3 năm 1929. Cuộc gặp gỡ quan trọng nầy kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ với sự hiện diện của quyến thuộc hai bên. Ngày sau đó, tôi trả lời ưng thuận với gia đình nàng, và nàng cũng vậy. Hôn lễ được sắp xếp theo nghi thức cổ truyền của Nhật Bản. Người ở Tây phương sẽ lấy làm lạ khi thấy một vấn đề quan trọng như vậy lại được quyết định chỉ sau một cuộc gặp gỡ. Nhưng phải nói rằng cuộc các hôn nhân được sắp xếp theo lối nầy đã chứng tỏ thành công hơn những cuộc hôn nhân thường cho là có sự tìm hiểu trước ở các nước khác.

Cuộc gặp gỡ giữa những đôi trai gái thường diễn ra sau khi cả hai gia đình đã có sự thỏa thuận trước, vì vậy mà ít khi xảy ra việc từ chối cuộc hôn nhân, trừ phi một khám phá ra khuyết điểm nào đó đã bị che đậy.

Hôn lễ cử hành tại đền thờ Shinto ở Đông Kinh vào ngày 25 tháng 5 năm 1929, trong khi chiếc khu trục hạm của tôi buông neo ở Yokosuka. Tôi được cấp hai ngày phép. Ngay sau hôn lễ chúng tôi đi hưởng một ngày trăng mật ở suối nước nóng Atami cách Tây Nam Đông Kinh khoảng 50 dặm. Ngày hôm sau tôi trở về tàu một mình. Cô vợ mới của tôi xuống xe lửa ở Oiso, một thành phố bờ biển khác nằm nữa Atami và Yokosuka, nơi gia đình nàng đang sinh sống. Tôi đã sống một đời sống hôn nhân lạ lùng vì kể từ đó trong nhiều tháng tôi mới gặp gỡ vợ tôi một lần.

Sáu tháng sau đó, tôi được thuyên chuyển đến Akikaze (Thu Phong), một khu trục hạm 1.500 tấn. Lần nầy tôi vẫn giữ chức vụ cũ, sĩ quan thủy lôi trưởng, đúng một năm.

Tháng 4 năm 1930, Anh quốc và Hoa Kỳ tiến đến một thỏa hiệp giải trang mới ở Luân Đôn, đặt định giới hạn trọng lượng của các tàu hổ trợ. Các loại tàu khác vẫn duy trì giới hạn của thỏa hiệp năm 1921. Kết quả hội nghị mới nầy khiến cho các sĩ quan hải quân Nhựt nổi nóng. Như vậy, tổng số trọng lượng của tuần dương hạm hạng nặng chỉ bằng 62% so với Hoa Kỳ. Riêng tổng số trọng lượng của tiềm thủy đỉnh, theo thỏa ước, hai quốc gia đều bằng nhau.

Lúc bấy giờ khó mà giải thích tại sao các kết quả nầy đã không làm hài lòng hải quân Nhật Bản. Nhật Bản đã cố đòi hỏi gia tăng số trọng lượng các tuần dương hạm hạng nặng ít nhất 70% so với Hoa Kỳ. Nhưng sự đồng đều về tiềm thủy đỉnh theo thỏa ước đã không được giữ đúng, bởi vì lúc đó tổng số trọng lượng của loại tầu nầy của Nhật Bản đã là 77.900 tấn so với 52.700 tấn của Hoa Kỳ.

Tất cả những lời bàn tán nầy đã chứng tỏ sự ngây ngô sau đó, khi khả năng sản xuất tàu chiến của Hoa Kỳ đến mức độ đè bẹp hẳn Nhật Bản trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Nhưng vào năm 1930, các sĩ quan hải quân Nhựt đã lưu tâm về việc nầy. Họ nhấn mạnh Nhật Bản đã bị áp lực quá dễ dàng của Hoa Kỳ ở Luân Đôn. Bấy giờ họ xem Hoa Kỳ không chỉ là một kẻ thù ngấm ngầm mà còn là một kẻ thù ra mặt. Kể từ đó về sau, tất cả những cuộc động binh đều đặt trên mặt lý thuyết nhằm vào "kẻ thù giả định" là Hoa Kỳ.

Vào ngày 8 tháng 11 năm 1930, vợ tôi sanh đứa con gái đầu lòng, được đặt tên là Yoko. Bốn tuần sau đó tôi được chỉ định giữ chức vụ sĩ quan Thủy lôi trưởng trên khu trục hạm Fubuki (Bão tuyết). Suốt một năm phục vụ trên chiếc tầu nầy, tôi đã kết bạn với một người trong đời tôi không bao giờ quên được. Đó là vị chỉ huy trưởng của tôi, Đại Tá Chuichi Nagumo.

Nagumo là một huấn luyện viên của trường Chuyên Viên Yokosuka. Sau đó ông đi du học một năm ở Hoa Kỳ và vừa mới về nước. Ông là một trong những chuyên viên khu trục hạm tài ba nhứt trong Hải Quân Hoàng Gia. Kiến thức tôi được mở mang khá nhiều trong một năm gần gũi ông. Nagumo khuyến khích tôi chuyên cần học hỏi bằng cách cho tôi mượn khá nhiều sách vở ông mang về từ Hoa Kỳ. Ông rất mến tôi, và ông nói thế nào tôi cũng sẽ được theo học trường Cao Đẳng Tham Mưu

Lúc đó tôi không bao giờ tưởng tượng Nagumo, sau nầy là phó Đô Đốc, sẽ chỉ huy lực lượng đặc nhiệm vĩ đại của Nhật Bản tham dự vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Nhưng tiếp theo đó, trận đại bại Midway xảy ra, và Nagumo trở thành đề tài của mọi loại chỉ trích. Tuy nhiên trong ký ức của tôi, ông vẫn là một sĩ quan tài ba và nhiệt tâm, và là một nhân vật vĩ đại.

7

Mặc dù hàng ngày được Nagumo khuyến khích và quan tâm đến, tôi đã rớt kì thi tuyển vào Trường Cao Đẳng Tham Mưu. Thay vào đó, vào tháng 9 năm 1932, tôi được chỉ định làm một huấn luyện viên. Nhiệm vụ nầy gây cho tôi sự bối rối, nhưng sự chỉ định như vậy ít thấy xảy ra trong Hải Quân Hoàng Gia. Tôi được chọn vào nhiệm vụ nầy có nghĩa là tôi từ bỏ hẳn hi vọng trở thành một sĩ quan tham mưu để trở thành một chuyên viên hẳn.

Trong thời gian ba năm sau khi kết hôn, tôi ráo riết theo đuổi một dự án riêng... Biết rõ dự án có vẻ liều lĩnh, tôi không hề thảo luận chi tiết với bất kì người nào. Tôi cũng hiểu nếu các đồng nghiệp của tôi biết được công tác tôi đang làm, chắc chắn tôi sẽ gặp sự chế nhạo.

Đại tá Nagumo khuyến khích tôi chuẩn bị thi vào trường Cao Đẳng Tham Mưu. Tôi đọc mọi sách giới thiệu cũng như các bài bình luận về khả năng di động tính của hải quân Hoa Kỳ do chính ông viết trong thời gian đi du học. Nhưng tâm trí tôi để đâu đâu. Tôi biết các dự án riêng của tôi có tầm quan trọng nên tôi không thể phân tâm để học hỏi những vấn đề khác. Do đó dù được ngay cả Nagumo đích thân yểm trợ, kì thi vào trường Cao Đẳng Tham Mưu vẫn vuột khỏi tay tôi.

Dự án của tôi hoàn thành vào giữa năm 1932. Dự án nầy liên quan đến hàng trăm bài toán phức tạp. Tóm lại, tôi đã sử dụng toán học để chứng minh những sai lầm của các lý thuyết về thủy lôi được Nhựt áp dụng xưa nay, và tôi đưa ra một lý thuyết chỉ nam mới.

Một lý thuyết mới thật khó xen và để tìm chổ đứng trong một tổ chức quân đội. Hầu hết các sĩ quan được huấn luyện theo các lý thuyết quân sự cũ đều bảo thủ và phản ứng không thuận lợi đối với những sáng kiến mới mẽ. Nhưng rất may là lý thuyết mới của tôi không hề gặp sự chống đối quan trọng nào, và đã trở thành lý thuyết học tập về thủy lôi chánh thức của Hải Quân Hoàng Gia. Đương nhiên lý thuyết cũ được bãi bỏ. Và kết quả, tôi được bổ nhiệm về trường Cao Đẳng Tham Mưu để giảng dạy về lý thuyết mới nầy.

Mặc dù tôi hoàn thành nhiều lý thuyết khác trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng có lẽ lý thuyết về thủy lôi là lý thuyết sở đắc nhứt của tôi. Giải thích rành mạch về lý thuyết nầy không phải dễ dàng, vì trong ấy tôi đã sử dụng nhiều bài toán liên quan đến đại số, hình học, lượng giác và vị tích để áp dụng chính xác vào thực hành. Tuy nhiên tôi có thể nói phớt qua: năm 1932, sau khi tốt nghiệp trường Chuyên Viên Yokosuka, tôi lại được bổ nhiệm phục vụ trên khu trục hạm, và giữ chức vụ thủy lôi trưởng như thường khi. Tôi đã được học hỏi và huấn luyện tỉ mỉ về vấn đề phóng thủy lôi. Có thể nói hầy hết ba năm qua quyển chỉ nam ứng dụng thủy lôi cũ của hải quân là Thánh kinh của tôi. Mỗi tuần chiếc khu trục hạm của tôi đều ra khơi để thực tập phóng thủy lôi. Để tiết kiệm, các thủy lôi diễn tập đều không có đầu đạn, và mục tiêu giả có khoảng trống phía dưới để thủy lôi chạy xuyên qua. Sau ba năm huấn luyện lí thuyết và thực hành liên tục, tôi bắt đầu nghi ngờ lý thuyết cũ, và hiếm khi tôi bắn trúng mục tiêu.

Phản ứng đầu tiên khi bắn hụt là tôi tự thóa mạ tôi, và tôi càng cố gắng học hỏi hơn nữa. Tôi luyện tập thuần thục đến nổi tôi chỉ cần liếc qua ống dòm là có thể cho biết được khoảng cách mục tiêu bao xa, và tốc độ di động của mục tiêu đó như thế nào. Sau khi kiểm chứng lại bằng các dụng cụ chuyên môn, tôi nhận thấy tôi đã xác định mục tiêu rất đúng nhưng phóng vẫn trật. Do đó, tôi bắt đầu ngờ vực lý thuyết cũ của hải quân.

Theo lý thuyết cũ, một chiếc khu trục hạm, thường có chiều dài khoảng 90 thước, chạy với tốc độ 30 hải lý hoặc hơn, tiến sát đến tàu địch, khai hỏa mọi loại súng và cuối cùng dứt điểm bằng các quả thủy lôi. Một khu trục hạm Nhựt chỉ mang 16 thủy lôi. Từ 2 ống phóng phía trước và phía sau, "8 con cá" vọt ra cách nhau mỗi con hai giây. Tám quả khác được đưa vào tái nạp vào hai ống phải mất khoảng mười phút. Các loại súng nhỏ của một khu trục hạm không có hỏa lực quyết định như những thiết giáp hạm, thành thử nếu loạt thủy lôi đầu vô hiệu, vận mạng của một khu trục hạm như cáo chung. Nó dễ dàng bị đánh chìm trong khoảng 10 phút cần thiết để nạp lại thủy lôi.

Vì đó mà trong khi thực tập, chiếc khu trục hạm của tôi kể như bị "đánh chìm" nhiều lần, giữa lúc tôi đứng bó tay và nghiến răng trên đài chỉ huy sau khi nhìn thấy các "con cá" của tôi lạc mất mục tiêu. Tôi quan sát nhận thấy tài phóng thủy lôi của các khu trục hạm khác cũng không hơn gì tôi. Tôi đi đến kết luạn là phóng thủy lôi thẳng vào mục tiêu ít có hi vọng trúng, và như vậy có nghĩa là lý thuyết cũ đã sai lầm.

Theo lý thuyết cũ, tám trái thủy lôi được phóng thẳng sẽ trãi rộng 1 góc 20 độ. Sau khi phân tách cẩn thận tất cả các yếu tố quan hệ, tôi kết luận rằng với góc 20 độ như vậy mục tiêu sẽ được phóng trúng nếu chiếc khu trục hạm của tôi chạy nhanh 30 hải lý theo một đường lượn cong, giống như một hyperbole, và thủy lôi được phóng ra ở ngay đỉng của đường lượn cong đó vào một mục tiêu cách xa 2000 thước, và sau khi phóng thủy lôi xong, chiếc tàu sẽ giảm tốc độ xuống còn 20 hải lý. Qua nhiều tuần lễ diễn tập, tôi cũng khám phá ra chiếc tàu đối nghịch đủ thời gian để lảng tránh trước khi tàu của tôi sẵn sàng để khai hỏa. Và tôi cũng khám phá nhiều yếu tố cần thiết cho việc định lại các phương thức khác, bao gồm khoảng trống 2 giây của tám trái thủy lôi được phóng ra.

Công việc nghiên cứu nầy khiến tôi mở rộng tầm mắt, và mỗi khám phá mới đều được tôi áp dụng ngay vào thực hành, và đạt được mức độ chính xác gần như cố định. Tôi nổi danh, và được như xem là sĩ quan phóng thủy lôi chính xác nhất của toàn thể binh chủng hải quân. Vào thời gian nầy tôi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Nagumo. Có lẽ thành tích nầy đã khiến ông thích tôi, và cũng vì vậy mà lý thuyết của tôi được hải quân chấp nhận và năm 1932.

Chỉ trong vòng một năm sau khi lý thuyết của tôi được học hỏi, kỹ thuật phóng thủy lôi của quân Nhựt đã đạt đến mức độ chính xác vượt bực.

Năm 1933, Đề Đốc Kaneji Kishimoto và Đại Tá Toshihide Asakuma thuộc Học Viện thủy lôi Kure trình bày một loại thủy lôi được phóng đi bằng sức ép của Oxygen thay vì không khí. Việc phát triển nầy rất quan trọng đối với chiến pháp Thủy Lôi của Nhật. Ưu thế của loại thủy lôi mới nầy, vượt trội tất cả mọi loại thủy lôi của các quốc gia khác, qua bảng so sánh sau đây:

NHẬT BẢN (thủy lôi 61 cm), loại có tốc độ 49 hải lý: tầm xa 22 cây số, đầu đạn 500 kí lô; loại có tốc độ 36 hải lý, tầm xa 40 cây số, đầu đạn 500 kí lô.

HOA KỲ (thủy lôi 53 cm), loại có tốc độ 46 hải lý, tầm xa 4 cây số, đầu đạn 300 kí lô; loại có tốc độ 32 hải lý, tầm xa 8 cây số, đầu đạn 300 kg

ANH ( thủy lôi 53 cm) loại có tốc độ 36 hải lý, tầm xa 3 cây số, đầu đạn 320 kí lô; loại có tốc độ 30 hải lý, tầm xa 10 cây số, đầu đạn 329 kí lô.

Như vậy, thủy lôi Nhựt ngoài khả năng vừa nhanh vừa có tầm xa hơn các loại thủy lôi tốt nhứt của Hoa Kỳ và Anh Quốc, còn có thêm những tiến bộ to tát khác. Các loại thủy lôi thông thường khi phóng ra sẽ tạo thành một vệt dài màu trắng nổi trên mặt nước, khiến cho một chiếc tàu chạy nhanh cũng có thể phát hiện và lẫn tránh dễ dàng. Nhưng một trái thủy lôi đẩy bằng sức ép Oxygen khi chạy đến mục tiêu sẽ không thấy dấu vết gì trên mặt nước cả (Loại thủy lôi nầy Nhựt giữ bí mật tuyệt đối đến sau chiến tranh, hải quân Hoa Kỳ mới học hỏi được đầy đủ các đặc tính của nó).

Lý thuyết của tôi cùng với việc phát minh loại thủy lôi mới đã nâng cao tinh thần của thủy thủ khu trục hạm. Và khi khu trục hạm nhanh chóng thành trở thành "báu vật" của hạm đội Nhựt, các kiểu tàu mới đóng đều đều vào thời gian đó. Các sĩ quan khu trục hạm không mấy lưu tâm đến một số thiệt thòi của Nhựt qua thỏa hiệp giải trang cuối cùng. Họ biết khu trục hạm của Nhựt đang nắm ưu thế to tát và tiên đoán loại tàu này sẽ giữ vai trò quan trong trong cuộc chiến sắp đến.

Họ đã thiếu cân nhắc về sự phát triển kỳ diệu của các loại vũ khí điện tử và khả năng không quân vượt bức của Hoa Kỳ. Hai lãnh vực nầy là yếu tố quyết định dứt khoát kết quả của Đệ Nhị Thế Chiến.

Dù thiếu cân nhắc như vậy, nhưng không thể nói chúng tôi đã tự mãn. Hơn bao giờ hết chúng tôi cố gắng huấn luyện để gia tăng sự thành thục với loại thủy lôi mới. Nhật lịnh huấn luyện của chúng tôi là chỉ phóng loại thủy lôi có tầm xa nầy khi nào đã tiến sát vào 500 thước cách mục tiêu. Mọi sĩ quan cũng được lịnh tìm cách thâu hôi thủy lôi, cho dù trong các buổi thực tập không có gắn đầu đạn.

Chúng tôi đã thi hành triệt để sau nầy, bởi giá một thủy lôi không đầu đạn lúc đó là 5000 yên (2500 Mỹ kim). Hơn nữa, chúng tôi không thể để loại thủy lôi mới nầy rơi vào tay địch quân, vì như vậy bí mật của nó sẽ bị khám phá. Thỉnh thoảng toàn thể hạm đội phải dàn hàng ngang lướt qua một khu vực rộng lớn của đại dương trong nhiều giờ để chỉ thâu hồi một trái thủy lôi phóng lạc xa khỏi mục tiêu. Vào những ngày có bảo, chúng tôi đình chỉ tất cả các buổi diễn tập, nhưng sau nầy tôi đã đánh chìm ba khu trục hạm Hoa Kỳ bằng cách áp dụng phương pháp đó.

Trong suốt cuộc chiến, hướng tiến đến của các chiến hạm địch không thể nào định trước được. Theo lịnh, các khu trục hạm Nhựt phải tiến thẳng vào mục tiêu, khai hỏa cận và đổi hướng nhanh chóng. Nhưng một khu trục hạm có tốc độ cao không thể nào giảm tốc độ một cách mau lẹ để tranh khỏi đụng chạm và ai cũng đoán biết những đụng chạm giữa đại dương gây chết người là thường. Hơn nữa tiến sát vào địch quân trong vòng 500 thước có nghĩa là đưa đầu vào họng súng của họ.

Trong các buổi diễn tập, chúng tôi thường phóng thủy lôi cách mục tiên 2000 thước. Và khi đối đầu thực sự với tàu chiến địch, khoảng cách trung bình để phóng thủy lôi có thể từ 4000 đến 5000 thước, một khoảng cách mà các thủy lôi Hoa Kỳ vẫn còn ngoài tầm.

Tôi được thăng cấp thiếu tá vào ngày 15 tháng 11 năm 1933. Tôi đã có hai gái, và nhìn lại 12 năm đã trôi qua, kể khi tôi rời Hàn Lâm Viện hải quân, tôi cảm thấy đã trở thành một sĩ quan hải quân đầy đủ lông cánh, và là một trong những sĩ quan trẻ tuổi nhứt trong Hải Quân Hoàng Gia, vượt hẳn những bạn đồng khóa của tôi, ngay cả những người đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Tham Mưu.

8

Giai đoạn từ năm 1931 đến 1937, nước Nhật đã gặp phải hàng loạt xáo trộn trong nội bộ và ngoại bộ đáng lưu ý. Những xáo trộn này lúc bấy giờ được xem có hại hơn là có lợi và đưa đến hậu quả lớn nhứt là cuộc chiến Thái Bình Dương. Trong suốt giai đoạn nầy tôi đã không đo lường đúng mức có phải những xáo trộn là bước sơ khởi gây ra chiến tranh hay không, bởi vì tôi đang bận tâm với công việc nghiên cứu riêng và nhiệm vụ trên tàu của tôi. Nhưng nhìn lại một dọc biến cố quan trọng của những năm nầy cho thấy Nhật Bản đang vội vã đi trên con đường thẳng đến chiến tranh.

Vào ngày 18 tháng 9 năm 1931, quân đội Nhựt đụng độ với quân đội của Chang Hsueh Liang gần Mukden, Mãn Châu. Ngọn lửa chiến tranh lan rộng nhanh chóng trên khắp lãnh thổ xứ nầy. Lực lượng Nhựt tiêu diệt các lực lượng đối kháng của Trung Hoa và thiết lập một đế chế bù nhìn ở đây.

Ngày 15 tháng 5 năm 1932, một nhóm sĩ quan bộ binh và hải quân Nhựt ùa vào văn phòng của Thủ Tướng Nhựt Tsuyoshi Inukai và sát hại vị thủ tướng bảo thủ nầy.

Tháng 3 năm 1933, Nhật Bản rút khỏi Liên Minh các quốc gia, sau khi tổ chức nầy lên tiếng tố cáo Nhựt xâm lăng Mãn Châu.

Tháng 12 năm 1934, Nhựt lưu ý Hoa Kỳ và Anh Quốc là Nhựt xem như thỏa hiệp giải trang hải quân không còn giá trị nữa.

Tháng 8 năm 1935, trung tá Saburo Aizawa, một tay cực hữu cuồng tín, đột nhập văn phòng Đại Tướng Tetsuzan Nagata, Giám Đốc Văn Phòng Quân Sự của Bộ Chiến Tranh Nhựt, và dùng gươm đâm chết ông nầy.

Vào ngày 26 tháng 2 năm 1936, các sĩ quan cuộc tín thuộc Đệ Nhứt Sư Đoàn âm mưu đảo chánh. Chia ra là nhiều tốp nhỏ, họ tràn vào nhàm một chánh trị gia cao cấp Nhựt và sát hại 4 người. Biến cố nầy được xem là biến cố nội bộ dẽ dội nhứt của Nhựt, nhưng chỉ gây rối loạn quốc gia một thời gian ngắn.

Với cấp bậc Thiếu Tá, lần đầu tiên tôi được bổ nhiệm vào chức Hạm Trưởng của một khu trục hạm vào ngày 1 tháng 11 năm 1934. Hai năm, 1934 và 1935, tôi còn giữ thêm một nhiệm vụ trong một tòa án quân sự hải quân với tư cách dự thẩm, do đó tôi đã thâu thập được một số kiến thức về luật pháp.

Âm mưu đảo chánh năm 1936 gây cho tôi sự xúc động mạnh mẽ. Khu trục hạm của tôi, chiếc Nagatsuki, được sáp nhập Hạm Đội Hổn Hợp, và lúc ấy hoạt động quanh phía Nam Kyushu. Thiên hoàng Hirohito ra lịnh hạm đội tiến sát vào Vịnh Đông Kinh. Một cuộc đảo chánh đang hình thành và ngày ra lịnh cho hải quân và Lục quân đập tan nhóm người âm mưu, tức các sĩ quan của Đệ Nhứt Sư Đoàn. Thật may, nhóm phản loạn đã đầu hàng trước khi chúng tôi nổ súng. Nhưng tình thế đen tối nầy đã gây cho tôi sự chán nản. Tôi không thể sống tách rời với tình thế và chuyên tâm và các công việc nghiên cứu riêng như mong muốn.

Cái gọi là "Nạn Trung Hoa" bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, ở cầu Marco Polo, gần Peiping. Quân đội Nhựt đã dập tắt những rắc rối xảy ra tại các vùng phụ cận của thành phố nầy, nhưng phong trào bài Nhựt của Trung Hoa dâng cao dữ dội, gây hổn loạn tại nhiều nơi khác.

Vào ngày 23 tháng 8 cùng năm, tôi nhận lể rửa tôi theo Thần đạo trong một buổi lễ ít người tham dự nhứt từ trước đến nay. Trong tháng đó, nhiều nhóm quân vô kỷ luật thuộc lực lượng của họ Tưởng bắt đầu "tấn công" các kiều dân Nhựt ở Thượng Hải. Lực lượng phòng thủ của Nhựt ở thành phố nầy có khoảng một sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (gồm toàn binh sỹ hải quân được huấn luyện cho các cuộc hành quân trên bộ). Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến Nhựt đã can thiệp và chống trả mạnh mẽ các nhóm quân Trung Hoa quá đông đảo nầy. Tuy nhiên quân Nhựt dần thất thế, và họ yêu cầu phái một hải đội gồm 4 chiếc khu trục hạm để đưa quân tăng viện từ Nagoya đến Thượng Hải.

Một trong bốn khu trục hạm nầy là một loại tàu mới nhứt, chiếc Amagiri (Trời Sương Mù). Và mặc dù lúc ấy tôi được thừa nhận là chuyên viên thủy lôi giỏi nhứt của Nhựt, tôi vẫn được chỉ định làm Hạm Trưởng của chiếc tàu nầy. Đó là một nhiệm vụ gây cho tôi sự thích thú và kinh ngạc to tát.

Amagiri nặng 2370 tấn, được võ trang tận răng, đã chở 300 binh sỹ Nhựt ngồi chen chút như cá mòi, cùng với ba khu trục hạm khác âm thầm rời khỏi Nagoya, một thương cảng lớn của Nhựt, vào lúc nửa đêm, vượt 1000 dậm đường biển với tốc độ 20 hải lý đến Thượng Hải hai ngày sau đó.

Nương bóng đêm, chúng tôi lẻn vào cảng Thượng Hải, và tàu của tôi lặng lẽ đến đậu dưới một chân cầu xe lửa ở Woosung. Nhanh nhẹn, binh sỹ trong tàu đổ bộ dưới dạ cầu. Nhưng bất ngờ, hàng loạt đại liên từ phía trên bắn dãi xuống chúng tôi. Sáu pháo khẩu 122 ly của Amagiri đáp trả dữ dội, nhưng chỉ có tánh cách phỏng chừng, vì chẳng thấy bóng dáng địch quân ở đâu. Cũng may là địch quân, hiển nhiên là du kích hoặc ủng hộ viên của quân đội Trung Hoa, đã nhắm không trúng mục tiêu, nên không ai trong chúng tôi bị trúng đạn. Tôi ra lịnh chiếc tàu chạy ra xa khỏi chân cầu khi thấy binh sỹ của chúng tôi đổ bộ hết lên bờ, và đang bắt đầu thi hành nhiệm vụ của họ.

Chúng tôi thất bại trong việc tạo ra yếu tố "bất ngờ", nhưng cuộc đổ quân vẫn xem là thành công. Bốn khu trục hạm tiếp tục chở các cánh quân khác thuộc Đệ Tam Sư Đoàn ở Nagoya. Thêm hai sư đoàn bộ binh nữa được đưa chuyển từ Kyushu đến Thượng Hải. Các nổ lực nầy đã lật ngược tình thế, quân Trung Hoa bị đánh tan và bị đẩy lui ra khỏi Thượng Hải.

Nếu các lực lượng Nhựt ngừng ở đây, tai họa tiếp liền sau đó đã không xảy ra. Nhưng lúc ấy Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt đã không nắm vững quyền chỉ huy, nên các lực lượng Nhựt vẫn tiến xa hơn về phía Tây và đánh chiếm Nam Kinh vào tháng 12 năm 1937. Trái hẳn với hi vọng của các sĩ quan bộ binh, Tưởng Giới Thạch vẫn không đầu hàng khi kinh thành nầy thất thủ. Ông ta chỉ triệt binh về Hán Khẩu, kế đó là Trùng Khánh, và đề kháng liên tục hơn 8 năm.

Trong khi bộ binh Nhựt tiến về Nam Kinh, hải đội của tôi giũ nhiệm vụ phong tỏa duyên hải Trung Hoa. Công việc này tỏ ra không hợp lý, vì lúc đó các tàu chiến của chúng tôi đi lại dọc ngang trong các hải phận nầy mà không gặp sự chống đối nào. Mỗi tuần hai lần, chúng tôi chận và khám xét các tàu buôn. Nếu tìm thấy các tàu nầy mang hàng lậu, chúng tôi cho các thủy thủ rời khỏi tàu và ban một vài quả trọng pháo là xong. Như tôi đã nói, công việc nầy không làm một ai phấn khởi.

Vào tháng 11, tôi đưa chiếc Amagiri về Nhựt, và tháng kế đó, tôi được bổ nhiệm làm Hạm Trưởng chiếc Yamagumo, một khu trục hạm tối tân khác. Sau khi bàn giao, tôi và chiếc Yamagumo trở lại hải phận Trung Hoa và tiếp tục công việc phong tỏa như cũ. Trong khi chiến tranh diễn tiến liên tục trên đất liền, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ hàng ngày một cách nhàm chán và theo dõi tình hình thế giới trong sự lo âu.

Hiệp ước Munich mở ra vào tháng 8 năm 1938. Quyền lực của Hitler đang gia tăng tại Âu Châu. Tháng 11, tôi được thăng cấp Trung Tá, nhưng nhiệm vụ nhàm chán của tôi ở Trung Hoa vẫn phải tiếp tục cho đến cuối tháng 3 năm 1939. Sau đó, tàu của tôi được lịnh đến căn cứ hải quân Nhựt ở Chinhae, Nam Triều Tiên, để tái huấn luyện.

Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu Châu vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Hai tháng sau đó, tôi được chỉ định vào một nhiệm vụ trên đất liền. Tôi trình diện yếu cứ hải quân ở Maizuru, và công việc của tôi nơi đây là huấn luyện các hoạt động chiến đấu cho các thuyền trưởng thương thuyền. Công việc nầy hiển nhiên là nhằm để chuẩn bị đối phó các "biến cố bất ngờ" có thể xảy ra, và không có nghĩa Hải Quân Hoàng Gia Nhựt lúc ấy đã sẵn sàng chuẩn bị tấn công Trân Châu Cảng. Các tàu hàng được huấn luyện chẳng qua là để đáp ứng với cuộc chiến đang phát triển ở Châu Âu.

Ba nội các Nhựt đổ chỉ trong vòng năm 1939, chứng tỏ những khủng hoảng chính trị của Nhựt đến lúc trầm trọng. Vào tháng Giêng năm 1940, một nội các mới ra đời cầm đầu bởi thượng cấp cũ đáng kính trọng của tôi. Đó là Đô Đốc Mitsumasa Yonai. Đô đốc Yonai hiểu rõ Nhật Bản sẽ dấn thân vào cuộc chiến lập tức nếu liên minh với các cường quốc Trục. Ông đã cố gắng hết sức chống đổi thỏa ước Tam Phương.

Các tay quá khích thuộc Lục Quân Nhựt tin tưởng Trục sẽ chiến thắng, và chiến tranh sẽ sớm chấm dứt, lúc đó chỉ có Đức và Ý chi nhau tất cả "chiến lợi phẩm". Khi họ nhận thấy không thể thuyết phục Yonai liên kết với phe Trục, họ quyết định quấy rối Nội Các của ông và kết quả Bộ Trưởng chiến tranh rút lui. Theo hiến pháp cũ, Bộ Trưởng chiến tranh Nhựt phải là một quân nhân Lục Quân, và khi tướng Shunroku Hata từ chức vào giữa năm 1940, không tướng lãnh nào chấp nhận tham gia Nội Các của Yonai, chẳng khác nào hòn đá ngăn chặn con đường dẫn đến cuộc chiến Thái Bình Dương đã bị dẹp sang một bên. Trùng hợp với biến cố nầy, năm đó Franklin D Roosevelt tái đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ ba. Không lâu sau, Hoa Kỳ và các cường quốc Đồng Minh khác bắt đầu gây áp lực với Nhật Bản. Những áp lực nầy nhắm vào các nhà lãnh đạo quân sự, đã điều khiển quốc gia từ khi Nội Các của Yonai sụp đổ, nhưng không có hiệu quả.

Nội Các kế đó, dưới quyền lãnh đạo của Hoàng Thân Fumimaro Konoye, ký thỏa ước Tam Phương với Đức và Ý vào tháng 9 năm 1940. Trong một năm, Konoye đã cố gắng chống chọi với các tay quân phiệt Nhựt và các áp lực kinh tế của Đồng Minh, nhưng cố gắng nầy vẫn không đi đến đâu, nên vào tháng 10 năm 1941 ông rút lui.

8

Giai đoạn từ năm 1931 đến 1937, nước Nhật đã gặp phải hàng loạt xáo trộn trong nội bộ và ngoại bộ đáng lưu ý. Những xáo trộn này lúc bấy giờ được xem có hại hơn là có lợi và đưa đến hậu quả lớn nhứt là cuộc chiến Thái Bình Dương. Trong suốt giai đoạn nầy tôi đã không đo lường đúng mức có phải những xáo trộn là bước sơ khởi gây ra chiến tranh hay không, bởi vì tôi đang bận tâm với công việc nghiên cứu riêng và nhiệm vụ trên tàu của tôi. Nhưng nhìn lại một dọc biến cố quan trọng của những năm nầy cho thấy Nhật Bản đang vội vã đi trên con đường thẳng đến chiến tranh.

Vào ngày 18 tháng 9 năm 1931, quân đội Nhựt đụng độ với quân đội của Chang Hsueh Liang gần Mukden, Mãn Châu. Ngọn lửa chiến tranh lan rộng nhanh chóng trên khắp lãnh thổ xứ nầy. Lực lượng Nhựt tiêu diệt các lực lượng đối kháng của Trung Hoa và thiết lập một đế chế bù nhìn ở đây.

Ngày 15 tháng 5 năm 1932, một nhóm sĩ quan bộ binh và hải quân Nhựt ùa vào văn phòng của Thủ Tướng Nhựt Tsuyoshi Inukai và sát hại vị thủ tướng bảo thủ nầy.

Tháng 3 năm 1933, Nhật Bản rút khỏi Liên Minh các quốc gia, sau khi tổ chức nầy lên tiếng tố cáo Nhựt xâm lăng Mãn Châu.

Tháng 12 năm 1934, Nhựt lưu ý Hoa Kỳ và Anh Quốc là Nhựt xem như thỏa hiệp giải trang hải quân không còn giá trị nữa.

Tháng 8 năm 1935, trung tá Saburo Aizawa, một tay cực hữu cuồng tín, đột nhập văn phòng Đại Tướng Tetsuzan Nagata, Giám Đốc Văn Phòng Quân Sự của Bộ Chiến Tranh Nhựt, và dùng gươm đâm chết ông nầy.

Vào ngày 26 tháng 2 năm 1936, các sĩ quan cuộc tín thuộc Đệ Nhứt Sư Đoàn âm mưu đảo chánh. Chia ra là nhiều tốp nhỏ, họ tràn vào nhàm một chánh trị gia cao cấp Nhựt và sát hại 4 người. Biến cố nầy được xem là biến cố nội bộ dẽ dội nhứt của Nhựt, nhưng chỉ gây rối loạn quốc gia một thời gian ngắn.

Với cấp bậc Thiếu Tá, lần đầu tiên tôi được bổ nhiệm vào chức Hạm Trưởng của một khu trục hạm vào ngày 1 tháng 11 năm 1934. Hai năm, 1934 và 1935, tôi còn giữ thêm một nhiệm vụ trong một tòa án quân sự hải quân với tư cách dự thẩm, do đó tôi đã thâu thập được một số kiến thức về luật pháp.

Âm mưu đảo chánh năm 1936 gây cho tôi sự xúc động mạnh mẽ. Khu trục hạm của tôi, chiếc Nagatsuki, được sáp nhập Hạm Đội Hổn Hợp, và lúc ấy hoạt động quanh phía Nam Kyushu. Thiên hoàng Hirohito ra lịnh hạm đội tiến sát vào Vịnh Đông Kinh. Một cuộc đảo chánh đang hình thành và ngày ra lịnh cho hải quân và Lục quân đập tan nhóm người âm mưu, tức các sĩ quan của Đệ Nhứt Sư Đoàn. Thật may, nhóm phản loạn đã đầu hàng trước khi chúng tôi nổ súng. Nhưng tình thế đen tối nầy đã gây cho tôi sự chán nản. Tôi không thể sống tách rời với tình thế và chuyên tâm và các công việc nghiên cứu riêng như mong muốn.

Cái gọi là "Nạn Trung Hoa" bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, ở cầu Marco Polo, gần Peiping. Quân đội Nhựt đã dập tắt những rắc rối xảy ra tại các vùng phụ cận của thành phố nầy, nhưng phong trào bài Nhựt của Trung Hoa dâng cao dữ dội, gây hổn loạn tại nhiều nơi khác.

Vào ngày 23 tháng 8 cùng năm, tôi nhận lể rửa tôi theo Thần đạo trong một buổi lễ ít người tham dự nhứt từ trước đến nay. Trong tháng đó, nhiều nhóm quân vô kỷ luật thuộc lực lượng của họ Tưởng bắt đầu "tấn công" các kiều dân Nhựt ở Thượng Hải. Lực lượng phòng thủ của Nhựt ở thành phố nầy có khoảng một sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (gồm toàn binh sỹ hải quân được huấn luyện cho các cuộc hành quân trên bộ). Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến Nhựt đã can thiệp và chống trả mạnh mẽ các nhóm quân Trung Hoa quá đông đảo nầy. Tuy nhiên quân Nhựt dần thất thế, và họ yêu cầu phái một hải đội gồm 4 chiếc khu trục hạm để đưa quân tăng viện từ Nagoya đến Thượng Hải.

Một trong bốn khu trục hạm nầy là một loại tàu mới nhứt, chiếc Amagiri (Trời Sương Mù). Và mặc dù lúc ấy tôi được thừa nhận là chuyên viên thủy lôi giỏi nhứt của Nhựt, tôi vẫn được chỉ định làm Hạm Trưởng của chiếc tàu nầy. Đó là một nhiệm vụ gây cho tôi sự thích thú và kinh ngạc to tát.

Amagiri nặng 2370 tấn, được võ trang tận răng, đã chở 300 binh sỹ Nhựt ngồi chen chút như cá mòi, cùng với ba khu trục hạm khác âm thầm rời khỏi Nagoya, một thương cảng lớn của Nhựt, vào lúc nửa đêm, vượt 1000 dậm đường biển với tốc độ 20 hải lý đến Thượng Hải hai ngày sau đó.

Nương bóng đêm, chúng tôi lẻn vào cảng Thượng Hải, và tàu của tôi lặng lẽ đến đậu dưới một chân cầu xe lửa ở Woosung. Nhanh nhẹn, binh sỹ trong tàu đổ bộ dưới dạ cầu. Nhưng bất ngờ, hàng loạt đại liên từ phía trên bắn dãi xuống chúng tôi. Sáu pháo khẩu 122 ly của Amagiri đáp trả dữ dội, nhưng chỉ có tánh cách phỏng chừng, vì chẳng thấy bóng dáng địch quân ở đâu. Cũng may là địch quân, hiển nhiên là du kích hoặc ủng hộ viên của quân đội Trung Hoa, đã nhắm không trúng mục tiêu, nên không ai trong chúng tôi bị trúng đạn. Tôi ra lịnh chiếc tàu chạy ra xa khỏi chân cầu khi thấy binh sỹ của chúng tôi đổ bộ hết lên bờ, và đang bắt đầu thi hành nhiệm vụ của họ.

Chúng tôi thất bại trong việc tạo ra yếu tố "bất ngờ", nhưng cuộc đổ quân vẫn xem là thành công. Bốn khu trục hạm tiếp tục chở các cánh quân khác thuộc Đệ Tam Sư Đoàn ở Nagoya. Thêm hai sư đoàn bộ binh nữa được đưa chuyển từ Kyushu đến Thượng Hải. Các nổ lực nầy đã lật ngược tình thế, quân Trung Hoa bị đánh tan và bị đẩy lui ra khỏi Thượng Hải.

Nếu các lực lượng Nhựt ngừng ở đây, tai họa tiếp liền sau đó đã không xảy ra. Nhưng lúc ấy Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt đã không nắm vững quyền chỉ huy, nên các lực lượng Nhựt vẫn tiến xa hơn về phía Tây và đánh chiếm Nam Kinh vào tháng 12 năm 1937. Trái hẳn với hi vọng của các sĩ quan bộ binh, Tưởng Giới Thạch vẫn không đầu hàng khi kinh thành nầy thất thủ. Ông ta chỉ triệt binh về Hán Khẩu, kế đó là Trùng Khánh, và đề kháng liên tục hơn 8 năm.

Trong khi bộ binh Nhựt tiến về Nam Kinh, hải đội của tôi giũ nhiệm vụ phong tỏa duyên hải Trung Hoa. Công việc này tỏ ra không hợp lý, vì lúc đó các tàu chiến của chúng tôi đi lại dọc ngang trong các hải phận nầy mà không gặp sự chống đối nào. Mỗi tuần hai lần, chúng tôi chận và khám xét các tàu buôn. Nếu tìm thấy các tàu nầy mang hàng lậu, chúng tôi cho các thủy thủ rời khỏi tàu và ban một vài quả trọng pháo là xong. Như tôi đã nói, công việc nầy không làm một ai phấn khởi.

Vào tháng 11, tôi đưa chiếc Amagiri về Nhựt, và tháng kế đó, tôi được bổ nhiệm làm Hạm Trưởng chiếc Yamagumo, một khu trục hạm tối tân khác. Sau khi bàn giao, tôi và chiếc Yamagumo trở lại hải phận Trung Hoa và tiếp tục công việc phong tỏa như cũ. Trong khi chiến tranh diễn tiến liên tục trên đất liền, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ hàng ngày một cách nhàm chán và theo dõi tình hình thế giới trong sự lo âu.

Hiệp ước Munich mở ra vào tháng 8 năm 1938. Quyền lực của Hitler đang gia tăng tại Âu Châu. Tháng 11, tôi được thăng cấp Trung Tá, nhưng nhiệm vụ nhàm chán của tôi ở Trung Hoa vẫn phải tiếp tục cho đến cuối tháng 3 năm 1939. Sau đó, tàu của tôi được lịnh đến căn cứ hải quân Nhựt ở Chinhae, Nam Triều Tiên, để tái huấn luyện.

Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu Châu vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Hai tháng sau đó, tôi được chỉ định vào một nhiệm vụ trên đất liền. Tôi trình diện yếu cứ hải quân ở Maizuru, và công việc của tôi nơi đây là huấn luyện các hoạt động chiến đấu cho các thuyền trưởng thương thuyền. Công việc nầy hiển nhiên là nhằm để chuẩn bị đối phó các "biến cố bất ngờ" có thể xảy ra, và không có nghĩa Hải Quân Hoàng Gia Nhựt lúc ấy đã sẵn sàng chuẩn bị tấn công Trân Châu Cảng. Các tàu hàng được huấn luyện chẳng qua là để đáp ứng với cuộc chiến đang phát triển ở Châu Âu.

Ba nội các Nhựt đổ chỉ trong vòng năm 1939, chứng tỏ những khủng hoảng chính trị của Nhựt đến lúc trầm trọng. Vào tháng Giêng năm 1940, một nội các mới ra đời cầm đầu bởi thượng cấp cũ đáng kính trọng của tôi. Đó là Đô Đốc Mitsumasa Yonai. Đô đốc Yonai hiểu rõ Nhật Bản sẽ dấn thân vào cuộc chiến lập tức nếu liên minh với các cường quốc Trục. Ông đã cố gắng hết sức chống đổi thỏa ước Tam Phương.

Các tay quá khích thuộc Lục Quân Nhựt tin tưởng Trục sẽ chiến thắng, và chiến tranh sẽ sớm chấm dứt, lúc đó chỉ có Đức và Ý chi nhau tất cả "chiến lợi phẩm". Khi họ nhận thấy không thể thuyết phục Yonai liên kết với phe Trục, họ quyết định quấy rối Nội Các của ông và kết quả Bộ Trưởng chiến tranh rút lui. Theo hiến pháp cũ, Bộ Trưởng chiến tranh Nhựt phải là một quân nhân Lục Quân, và khi tướng Shunroku Hata từ chức vào giữa năm 1940, không tướng lãnh nào chấp nhận tham gia Nội Các của Yonai, chẳng khác nào hòn đá ngăn chặn con đường dẫn đến cuộc chiến Thái Bình Dương đã bị dẹp sang một bên. Trùng hợp với biến cố nầy, năm đó Franklin D Roosevelt tái đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ ba. Không lâu sau, Hoa Kỳ và các cường quốc Đồng Minh khác bắt đầu gây áp lực với Nhật Bản. Những áp lực nầy nhắm vào các nhà lãnh đạo quân sự, đã điều khiển quốc gia từ khi Nội Các của Yonai sụp đổ, nhưng không có hiệu quả.

Nội Các kế đó, dưới quyền lãnh đạo của Hoàng Thân Fumimaro Konoye, ký thỏa ước Tam Phương với Đức và Ý vào tháng 9 năm 1940. Trong một năm, Konoye đã cố gắng chống chọi với các tay quân phiệt Nhựt và các áp lực kinh tế của Đồng Minh, nhưng cố gắng nầy vẫn không đi đến đâu, nên vào tháng 10 năm 1941 ông rút lui.

PHẦN HAI

Từ Trân Châu Cảng đến Guadalcanal

I

Ngày 9 tháng 11 năm 1941 là một ngày mà tôi không thể nào quên được. Ngày đó, có khoảng 200 tàu chiến của Hạm Đội Hổn Hợp Nhựt qui tụ về Vịnh Hiroshima. Toàn thể Hạm Đội Hổn Hợp tập trung vào một nơi như thế được xem là hiện tượng bất thường.

Tôi là Hạm Trưởng của khu trục hạm Amatsukaze (Thiên Phong) một trong bốn chiếc tàu cùng loại vừa được chỉ định gia nhập vào Hải đội 6, Phân đội 2 khu trục hạm Đệ Nhị Hạm Đội.

Hôm đó, một sáng mùa thu êm đềm, các tàu chiến buông neo bất động trên mặt Vịnh. Mặt nước trong suốt như gương, phản chiếu dãy núi xanh rì ở chân trời xa xa. Lũ hải âu bay lượn quanh quẩn trên các chiếc tàu. Mọi vật đều êm ả và bình lặng.

Lúc 9 giờ sáng, một hồi còi hiệu rút lên từ soái hạm Nagato, khiến muôn mắt hướng về phía nó. Tín hiệu bằng cờ cho biết: " Tất cả chiến hạm W.Y.Z.". Ám hiệu nầy là một ám hiệu bất thường, có nghĩa: " Tất cả sĩ quan chủ huy đến trình diện soái hạm.". Hoạt động nhộn nhịp trên mỗi chiếc tàu xảy ra. Vài phút sau đó, trên một chiếc ca nô, tôi đến trình diện Nagato. Trên sân tàu rộng lớn của soái hạm, hàng trăm sĩ quan đã đứng đầy, già trẻ lẩn lộn.

Giữa những người hiện diện, tôi nhận thấy các thượng cấp của tôi: Đề Đốc Raizo Tanaka, Tư Lịnh phân đội 2 khu trục hạm, và phó Đô Đốc Nobutake Kondo, Tư Lịnh Đệ Nhứt Hạm Đội. Mọi người đều có dáng vẻ nghiêm trọng. Mặc dù trong tiết thu mát mẻ, không khi vẫn như ngột ngạt oi bức.

Lúc 9 giờ 30, ba tiếng chuông reo vang, tất cả thủy thủ đều biến dạng, chỉ còn các Hạm Trưởng có cấp bậc Trung Tá trở lên. Sự bất thường nầy cũng khiến cho sự căng thẳng gia tăng.

Trung tá Hajime Yamaguchi, một trong những tùy viên của tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hổn Hợp, đứng gần một cái bực cao, nói lớn:

" Xin quí vị lưu ý! Tổng Tư Lịnh đến."

Tất cả chúng tôi đều đứng thẳng và im phăng phắc khi Đô Đốc Isoroku Yamamoto bước lên sàn tàu. Khi ông tiến đến cái bực, trong khung cảnh lặng yên, tiếng bước chân của ông vang lên rất rõ. Đô đốc Yamamoto chào đáp lễ chúng tôi và bắt đầu lên tiếng:

" Tôi rất hân hoan gặp gỡ tất cả quí vị ở đây. Hạm đội hổn hợp của chúng ta đã hoàn tất mọi chuẩn bị để sẵn sàng lâm chiến. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta sẽ tiếp tục trui rèn trên căn bản đó.

" Tình hình gần đây cho thấy có thể bắt buộc Nhật Bản phải ra tay chống lại Anh, Mỹ, Úc và Hòa Lan, hơn là để cho cuộc phong tỏa kinh tế của họ bóp nghẹt chúng ta."

Sự khủng hoảng đã đến mức độ trầm trọng hơn bao giờ hết trong lịch sử của chúng ta, điều nầy đã nhìn thấy rõ ràng. Một khi quốc gia quyết định lâm chiến chống lại Đồng Minh, bổn phận của chúng ta, Hạm Đội Hổn Hợp, là bảo vệ quốc gia và đánh bại kẻ thù. Nhiệm vụ nầy có thể đạt được thành quả, nếu mỗi cá nhân trong quí vị dốc hết nổ lực của mình."

Yamamoto nó thật vắn tắt, và qua một giọng thật trầm, nhưng chẳng khác nào tiếng sấm động. Mọi sĩ quan choáng váng. Tôi cảm thấy như bị chôn chân.

Khi ngừng nói, Đô Đốc Yamamoto nghiến chặt hai hàm răng lại và nhìn quanh, như có tìm đôi mắt của từng người một. Ông có vẻ hòa dịu hơn khi ông chậm rãi rời khỏi bục.

Phó Đô Đốc Matome Ugaki, Tham Mưu Trưởng của Yamamoto lên tiếng kế đó. Ông đưa ra một phân tách về tình hình, các hậu quả do việc phong tỏa tàu bè đi lại của Đồng Minh. Nhật Bản đang lâm vào cảnh thiếu hụt dầu hỏa, quặng sắt, cao su, kẻm, nikel và đất thiết phàn, vì gặp phải khủng hoảng về vấn đề cung cấp. Ông cho biết, theo quả quyết của Bộ Tư Lịnh Tối Cao, Nhựt sẽ sụp đổ trong vòng một hoặc hai năm nữa nếu tình thế hiện tại vẫn tiếp tục. Ông nói rằng Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã tiến đến quyết định cuối cùng là đưa ra một chiến lược trả đủa, nhằm chống lại sự bóp nghẹt của Đồng Minh.

" Có thể cuộc hội họp của tất cả các sĩ quan thuộc Hạm Đội Hổn Hợp nầy..." tới đây Ugaki hơi ngần ngừ, và sau đó tiếp "... là cuộc họp cuối cùng trong khung cảnh như thế nầy..."

"Kể từ bây giờ chúng ta sẽ đảm nhiệm một công việc khó khăn nhứt. Đây không phải là sự cố gắng tập tành thông thường, mà là sự nghỉ ngơi thích hợp cho binh sĩ của các ông, và các ông phải luôn luôn theo dõi công việc nầy. Không được để tiêu hao một người nào vì làm việc quá mức. Mỗi người chúng ta phải sẵn sàng... luôn luôn sẵn sàng, ngay cả đối với cái chết nữa."

Một nỗi yên lặng bao trùm lấp khi Ugaki dứt lời. Trung tá Yamaguchi tuyên bố buổi họp chấm dứt, và Đô Đốc Yamamoto bắt đầu cuộc họp riêng với Bộ Tham Mưu của ông.

Tôi vẫn đứng bất động, những câu nói cảu Yamamoto và Ugaki vẫn còn âm vang trong tai tôi. Tôi phải chờ ca nô mang tôi trở lại chiếc Amatsukaze. Thình lình tôi như lâm vào trạng thái hôn mê và dần dần bước hướng về khoảng giữa của chiếc soái hạm. Tôi nhứt quyết đến gặp riêng Ugaki.

Khi tôi đang bước, một vị đô đốc xuất hiện và tôi đưa tay chào như máy. Đó là ông bạn tốt của tôi. Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo, Tư Lịnh Đệ Nhứt Không Hạm Đội. Ông chào đáp lể và cười khi gọi tên tôi. Chúng tôi trao đổi một vài câu. Khi ông bước đi, đôi vai rộng của ông như nghiêng về phía trước, trạng thái nầy khiến tôi nghĩ ra nụ cười của ông vừa rồi là một nụ cười gượng gạo. Tôi kinh ngạc. Nagumo từ trước đến nay là một người vồn vã, gặp bạn cũ là ông nhảy xô với những cử chỉ, lời nói thật thân thiết và ồn ào.

Trạng thái kì lạ của ông Phó Đô Đốc hăng hái nầy đã khiến tôi hoang mang khi bước xuống cầu thang hẹp, tiến về phía phòng của Phó Đô Đốc Ugaki.

Tôi gõ của và bước vào sau tiếng nói rổn rang cho phép của Ugaki

Tôi hỏi thẳng:

"Thưa đô đốc, Đô Đốc có thể dành cho tôi một vài phút không?"

"Được Hara," ông đáp. "Hãy ngồi đi."

Tôi ngần ngừ, và sau một giây yên lặng, tôi tiếp "Thưa đô đốc, hành vi của tôi có thể khiến Đô Đốc cho là tôi quá vô lễ, nhưng khi đến gặp đô đốc, tôi đã đắn đo cân nhắc. Tôi hi vọng Đô Đốc sẽ hiểu biết cho tôi. Tôi cũng hi vọng đô đốc không xem tôi như là một kẻ chống đối hoặc nhút nhát trước... những mạng lịnh cương quyết đã được ban ra..."

"Tôi hiểu anh, Hara. Đừng rào đón nữa. Hãy nói thẳng những gì anh muốn nói. Có phải anh muốn thảo luận với tôi về cuộc chiến sắp được hải quân Nhựt phát động chống lại Đồng Minh không?"

"Dạ đúng, thưa Đô Đốc. Tôi chỉ là một chuyên viên khu trục hạm, kiến thức hạn hẹp, và chắc chắn tôi không đủ tư cách thảo luận một quyết định đã được thượng cấp đưa ra. Xin đô đốc tha thứ những lời thẳng thắn của tôi, nhưng thực sự tôi hoàn toàn bi quan trước tình thế sắp xảy ra. Chúng ta có thể tránh né cuộc chiến toàn diện bằng cách chọn một lối khác hơn là tấn công vào Phi Luật Tân? Và nếu nói là vì nguồn tài nguyên mà chúng ta bắt buộc phải chọn hành động tấn công, chúng ta nhắm cả vào Hòa Lan có thích đáng hay không?"

Ugaki cười gượng gạo, giống như Nagumo. Sau đó ông hắn giọng nói: "tôi nói anh nghe Hara. Ý kiến của anh được chia xẻ bởi một số sĩ quan cấp cao khác, nhưng tất cả đều bị gạt ra ngoài. Quyết định đã được đưa ra. Một việc mà tôi cần nhấn mạnh: chúng ta tạo ra quyết định chỉ để chuẩn bị đối phó với tình thế tệ nhứt mà thôi. Như anh biết, đô đốc Kichisaburo Nomura, đại sứ của chúng ta ở Hoa Thịnh Đốn đang cố gắng mở các cuộc đàm phán để dàn xếp lần cuối cùng. Nhà ngoại giao chuyên nghiệp Saburo Kurusu cũng sẽ sang Hoa Kỳ giữ nhiệm vụ cố vấn đặc biệt cho Nomura, và cả hai sẽ nổ lực gấp đội trong cuộc đàm phán nầy. Chúng ta không gây chiến tranh, nhưng nếu không còn cách nào để chọn, chúng ta phải đánh, và phải đánh nhanh và mạnh. Đó là giải pháp cuối cùng mà Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã chọn."

Tôi ngồi bất động, biết rằng không còn gì để thảo luận vấn đề nầy thêm nữa. Tôi kiếu từ, và Ugaki nói: "Anh hãy cẩn trọng. Anh là sĩ quan khu trục hạm tài ba nhứt của hải quân. Chúng tôi sẽ tùy thuộc vào anh. Mong gặp lại anh, Hara."

Cuộc gặp gỡ đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và Ugaki. Ông sống sót khi 2 oanh tạc cơ hai máy Betty chở Yamamoto và Bộ Tham Mưu bị một số chiến đấu cơ P38 của Hoa Kỳ tấn công vào tháng 4 năm 1943. Cuộc tấn công xảy ra gần Bougainville, ở Solomon. Cả hai oanh tạc cơ đều bị bắn rơi, và Yamamoto thiệt mạng. Nhưng Ugaki sống sót cho đến gần ngày cuối cùng của cuộc chiến và tử trận khi hướng dẫn các oanh tạc cơ tự sát tấn công Okinawa (có thể Hara đã nhầm, Đô Đốc Ugaki đã dẫn đầu một nhóm các phi công không chấp nhận lệnh đầu hàng và tất cả đều hướng ra biển trên máy bay của mình và không ai có thể biết đoàn phi cơ nầy đã bay đi đâu....). Đó là cuộc tấn công Kamikaze cuối cùng trong cuộc chiến Thái Bình Dương.

Cho đến hiện tại, tôi vẫn không hiểu có phải Ugaki nằm trong nhóm người chống đối phương thức tấn công Trân Châu Cảng hay không. Tuy nhiên, tôi luôn luôn có cảm giác ông và Nagumo chống đối. Yamamoto đã chứng tỏ sự cương quyết qua việc lựa chọn phương thức nầy, nhưng bên trong ông có vẻ như chống đối khi xét đoán: " Hải quân chỉ đủ sức chiến đấu hai năm.". Yamamoto cũng từng ngõ ý mong muốn các nhà ngoại giao Nhựt sẽ tìm kiếm một nền hòa bình danh dự trước khi thảm kịch xảy ra.

Sau khi hội kiến Ugaki, tôi trở lại sân tàu, vẫn trong trạng thái bàng hoàng. Các sĩ quan trẻ con đứng quanh quẩn bên nhau, và tôi nghe một Thiếu tá lên giọng khoác lác: "Những người khu trục hạm chúng ta phải đi tiên phong và đánh cho địch quân manh giáp không còn. Có thể cả cuộc chiến sẽ dựa vào sự chiến đấu của chúng ta."

Tôi gục gặc đầu và tự nhũ: "Hắn nói vậy mà đúng" Tôi trở về Amatsukaze, vào phòng riêng và quơ lấy cuốn sách Tôn Tử binh pháp trên giá sách. Đây là quyển sách chứa đựng triết lý và chiến lược của Trung Hoa thời cổ, được xem là Thánh Kinh của các nhà quân sự Đông phương hơn 2500 năm nay.

"Nghệ thuật lãnh đạo cuộc chiến là một vấn đề sống còn của quốc gia, một con đường đưa đến sự hủy diệt hay tồn tại. Vì thế, nghệ thuật nầy đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách tỉ mỉ mọi khía cạnh của nó."

Chương thứ ba của quyển sách đã kết luận:

"Khi chiến tranh phát khởi, điều quan trọng duy nhứt đối với ta là phải bảo toàn quốc gia hơn là đánh bại một quốc gia khác. Bảo vệ đơn vị của mình quan trọng hơn là khắc phục đơn vị của địch quân. Một chỉ huy trăm trận trăm thắng chưa hẳn là một vị chỉ huy giỏi. Một vị chỉ huy vĩ đại thật sự là một vị chỉ huy chiến thắng địch quân mà không cần phải dụng binh.

"Anh không cần phải kinh sợ dầu phải có đánh hàng trăm trận, nếu anh tri bỉ, tri kỷ. Nếu anh biết rõ mình mà không biết rõ địch quân, thì có ngày anh phải trả giá mọi chiến công mà anh gặt hái được. Nếu anh không biết mình và cũng không biết người chắc chắn anh sẽ đánh đâu thua đó."

Các lời khuyên nầy cũng chẳng làm tôi vơi bớt nỗi phiền muộn. Tôi cho rằng quyển sách có vẻ triết lý thái quá và quăng sang một bên. "Cái túi khôn" nầy chỉ có thể thích hợp cho một vị vua hoặc một vị Tổng tư lịnh, nhưng vô bổ được một sĩ quan cấp bậc nhỏ nhoi như tôi. Niềm bi quan trong tôi vẫn không ngớt.

Trong khi theo dõi các biến cố đang xảy ra, tôi càng thêm thất vọng, xem như cuộc chiến đã được các nhà lãnh đạo quân sự quyết định rồi. Cuộc họp lịch sử trên soái hạm Nagato trùng hợp với sự từ chức của Thủ tướng Konoye và toàn thể Nội Các của ông. Người kế nhiệm ông là tướng Hideki Tojo. Tôi hiểu rằng sự thay đổi ngay vào thời gian đầy khủng hoảng nầy là một điềm xấu báo trước.

Trãi qua nhiều ngày, tôi dò dẫm tìm đường lối chuẩn bị bản thân sẵn sàng đón nhận cuộc chiến toàn diện. Sau binh thơ Tôn Tử, tôi tìm hiểu đọc nhiều binh pháp của Hải Quân Hoàng Gia, nhưng cũng chẳng có quyển nào soi đường cho tôi. Tôi tự hỏi: "Tôi đã biết năng lực của địch và năng lực của chính tôi chưa?".

Tôi được cho là một sĩ quan khu trục hạm tài ba nhứt. Tôi luôn luôn chiến thắng trong các buổi diễn tập "kẻ thù" luôn luôn bị "dứt điểm" với những trái thủy lôi chính xác của tôi. Thông thường, tôi chỉ cần sử dụng phân nữa trong tổng số tám trái thủy lôi trang bị đầu phóng là mục tiêu đã được thanh toán. Điều nầy đã chứng tỏ năng lực của tôi, nhưng còn năng lực của kẻ thù?

Tôi chỉ hiểu mù mờ. Nếu các giới hạn qui định của hội nghị giải trang Luân Đôn vẫn còn hiệu lực, việc nầy đáng nghi ngờ sau khi Nhật Bản xé bỏ thỏa hiệp năm 1934, tính ra nếu lực lượng hải quân của Hoa Kỳ và Anh Quốc phối hợp thì cứ 10 của họ chống lại 3 hoặc 3.5 của Nhật Bản. Như vậy có nghĩa là tôi phải đánh chìm ít nhứt 4 tàu chiến của địch mới mong duy trì một lần sống sót. Nếu mỗi sĩ quan Hạm Trưởng Hải Quân Hoàng Gia Nhựt đều làm được như thế, chúng tôi có thể ngang ngửa với địch quân. Nhưng đây chỉ là ảo tưởng. Như Phó Đô Đốc Nagumo từng nói với tôi nhiều lần rằng tiềm năng kỹ nghệ đáng sợ của Hoa Kỳ là một yếu tố bất lợi không thể đo lường đối với Nhật Bản. Tất cả những vấn đề nầy khiến tôi đắm chìm vào sự u ám và bi quan.

Nỗi dằn vặt kéo dài thêm nhiều ngày nữa cho đến cuối cùng tôi mới trở lại thân phận thực sự của tôi: tôi là một quân nhân, không phải một sĩ quan cao cấp, điều nầy có ý nghĩa dứt khoát rằng nhiệm vụ của tôi phải chuẩn bị chiến đấu để bảo toàn binh sỹ và giữ gìn khu trục hạm của tôi. Tôi không thể cho phép tôi chui đầu vào guồng chỉ rối của cuộc chiến sắp xảy ra, mà phải sẵn sàng chiến đấu với tất cả năng lực trong vài trò giới hạn của tôi.

Có vẻ lạ lùng khi tôi nói rằng vào lúc ấy, năm 1941, chính quyển tự truyện cổ "Go Rin Sho" của Masashi Miyamoto viết cách đây 3 thế kỷ là quyển sách đã soi sáng mọi thắc mắc và phục hồi sự trầm tĩnh của tôi. Nội dung quyển sách chứa đựng lời tự thuật của một kiếm khách phi thường, đã chiến thắng 66 trận quyết đấu, và sau đó trở thành nhà văn kiêm triết gia vĩ đại nhứt của Nhật Bản.

So với binh thơ Tôn Tử, quyển tự truyện của Miyamoto hoàn toàn khó hiểu. Nếu dịch nguyên văn quyển sách nầy, chắc đọc giả Tây Phương cũng khó mà lãnh hội nổi. Miyamoto sanh năm 1584 và sống trong một thời đại đầy loạn lạc. Vào thời đó một kiếm sĩ mới xuất thân muốn gây tên tuổi hẳn phải thách đấu những kiếm sĩ đã từng nổi danh khác so tài. Cuộc so tài nầy không phải là một môn thể thao đơn giản, mà cả hai tay kiếm đều đấu với nhau chí mạng. Kiếm của họ thường làm bằng thép hoặc gỗ. Đối với một cao thủ về kiếm thuật, thanh kiếm gỗ trong tay họ hữu hiệu không khác mấy so với kiếm thép.

Chiến thắng 66 lần liên tiếp của Miyamoto, một kỉ lục chưa từng thấy, được ông kể lại tỉ mỉ trong quyển tự truyện nầy. Ông đã đánh bại các đối thủ qua yếu quyết : "Xoay sở tùy theo tình thế, không để bị trói buộc vào bất kì công thức hoặc nguyên tắc nào."Bí quyết này chỉ có những cao thủ thượng thừa mới dám áp dụng trong các cuộc so tài thí thân, vì chỉ sơ sẩy một đường tơ là có thể mất mạng ngay.

Quyển truyện nầy đã thức tỉnh tôi, nó đã giải đáp tất cả những gì mà tôi đang dò dẫm. Xoay sở tùy theo tình thế có thể giúp tôi vượt qua sức mạnh ưu việt của Đồng Minh. Hiện tại, tôi có thể tin rằng tôi đã tạo được những thành tích rực rỡ và tồn tại sau cuộc chiến Thái Bình Dương, là do tôi đã áp dụng bí quyết của Miyamoto.

2

Cuộc hành quân "Giai đoạn I" được ban lịnh vào ngày 7 tháng 11 năm 1941.

Hạm Đội Hổn Hợp nhanh chóng phân tán trong vòng trật tự. Khu trục hạm của tôi, với ba chiếc khác thuộc hải đội 6 lặng lẽ tiến vào quân cảng hải quân Kure. Nhưng tôi không biết các thành phần chính thuộc Đệ Nhất và Đệ Nhị Hạm Đội chạy về hướng Bắc, tụ họp ở Hitokappu Wan (Vịnh Tanaka) ở Kurite. Các thành phần nầy họp thành một lực lượng Đặc Nhiệm Nhật Bản (Lực Lượng Đặc Nhiệm có nghĩa là một lực lượng hải quân bao gồm chiến hạm mọi loại, hàng không mẫu hạm và thủy binh hoặc Thủy Quân Lục Chiến), một lực lượng vĩ đại nhứt chưa từng thấy bao giờ.

Các chiếc tàu của chúng tôi phải trãi qua một cuộc kiểm soát cẩn thận ở Kure. Những gì lặt vặt không cần thiết và những thủy thủ bịnh hoạn đều được lịnh mang lên bờ. Số thủy thủ khiếm khuyết nầy lập tức được thay thế. Chỉ có những sĩ quan chỉ huy mới biết rõ cuộc hành quân đang phát triển, riêng thủy thủ đoàn chỉ biết họ sẽ thực hiện một hải xuất huấn luyện ở Nam Thái Bình Dương.

Bộ Tư Lịnh Tối Cao bãi bỏ mọi đặc ân, đình chỉ tất cả phép tắc. Tôi đã được nghỉ phép lần cuối cùng hồi tháng 9, và tôi đã đáp chuyến xe lửa tốc hành 16 tiếng đồng hồ từ Kure về gia đình tôi ở Kamakura, một thành phố bờ biển gần Yokosuka. Nhưng chuyến đi dài dằng dặc đầy mệt mỏi đã được đền bù. Hai đứa con gái của tôi nhảy nhót chào đón ngày tôi về, hớn hở bên hai chị là Mikito, đứa con trai hai tuổi vừa biết nói của tôi. Tôi chỉ lưu lại nhà một ngày tròn. Đám con trẻ đã buồn bả khi tôi ra đi, chính tôi cũng buồn bã không kém gì chúng. Tôi ghì ghặt từng đứa một và nó: "Ba của các con sẽ sớm trở về". Hy vọng gặp lại con trước khi "hành quân" đã không còn may mắn nào nữa.

Cuộc Hành Quân "Giai đoạn II" được ban lịnh vào ngày 21 tháng 11 năm 1941

Ngày kế đó, toàn thể Lực Lượng Đặc Nhiệm của Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo đã tập trung đầy đủ trong Vịnh dầy đặc sương mù Ekorofu ở quần đảo Kurile. Vào ngày 23 tháng 11, tám khu trục hạm của hai Hải đội 16 và 24 âm thầm thoát ra khỏi cảng Kure và hướng mũi về eo biển Terashima. Bốn ngày liên tiếp, các giàn phóng thủy lôi và mọi loại vũ khí khác trên tàu chúng tôi đều trong tư thế sẵn sàng. Các bác sỹ bận rộn săn sóc, khám sức khỏe và chích thuốc cho thủy thủ đoàn.

Hai Hải đội của chúng tôi lại di chuyển khỏi eo biển Terashima và trực chỉ ra Thái Bình Dương vào lúc 6 giờ chiều ngày 26 tháng 11. Cùng thời gian nầy Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo cũng rời khỏi Vịnh Tankan và nhắm hướng Hạ Uy Di. Điểm đến của chúng tôi là Palau, một trong các hòn đảo Nam Hải thuộc quyền của Nhật Bản. Tất cả các sĩ quan chỉ huy đều được thông báo cho biết việc thành lập một Lực Lượng Đặc Nhiệm nhỏ ở Palau để tấn công đảo Mindano thuộc Phi Luật Tân, cùng lúc với cuộc tấn công Trân Châu Cảng.

Trên hải trình 2.000 dậm khởi từ Terashima, các công điện chuyển đi bằng vô tuyến của chúng tôi đều bị đình chỉ, kể cả Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo, nhưng các nhận viên nhận tin vẫn tiếp tục hoạt động. Khi các chiếc tàu của chúng tôi rời khỏi hải phận của Nhật Bản, chúng tôi nghe được một tin tức loan đi trên đài phát thanh: "Báo chí cho biết ngày 26 tháng 11, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull đã trao một công hàm cho hai vị Đại Sứ Nhật Kichisaburo Nomura và Saburo Kurusu. Theo sự hiểu biết, hình như Hoa Kỳ quyết định duy trì các cuộc hòa đàm."

Vào ngày 28 tháng 11, chúng tôi nhận được một công điện từ Bộ Chỉ Huy địa phương chuyển đi: "Hai tiềm thủy đỉnh không rõ quốc tịch, nhưng có thể là của Hoa Kỳ, được ghi nhận di chuyển về hướng Bắc, thuộc hải phận phía Đông Đài Loan."

Cuộc "Hành quân giai đoạn II" đã giao quyền cho các sĩ quan chỉ huy đưa ra các hành động đối nghịch chỉ khi nào xét ra tối cần thiết. Qua máy liên lạc nội bộ trên tàu, tôi truyền lịnh cho các sĩ quan phụ trách máy Sonar (dụng cụ khám phá tiềm thủy đỉnh): "Lưu ý! Lưu ý! Theo báo các các tàu ngầm địch có thể đang hoạt động gần đây."

Tiếng đáp lại thật điềm tỉnh của một tay nghề nghiệp: "Tất cả sona đều thích hợp. Nếu phát hiện điều gì sẽ thông báo ngay."

Ngày 1 tháng 12, truyền tin của chúng tôi bắt được công điện nầy: " Sáu chiến hạm thuộc lực lượng Hải Quân Anh, bao gồm thiết giáp hạm "Prince of Wales" hiện đang trên đường sang Viễn Đông."

Tất cả không khí căng thẳng đều chấm dứt khi hòn đảo Palau xanh rì nhô ra chân trời. Cùng ngày, lúc 1 giờ trưa, chúng tôi chạy vô hải cảng của hòn đảo nầy. Chỉ trong vòng năm ngày, khí hậu mùa Đông đã chuyển sang khí hậu mùa Xuân đối với chúng tôi. Bóng dừa rợp mát trên bãi biển là nơi trú ẩn đầy yên tỉnh và thoải mái. Nhưng tôi không hưởng cảnh nầy được lâu. Không khí ở hải cảng Palau căng thẳng. Nhiều tàu lớn chạy vào buông neo, trong số đó có cả những chiếc tàu chuyển vận. Các cuộc tập dượt của thủy thủ trên những chiếc tàu nầy vẫn tiếp tục. Bóng dáng của cuộc chiến tranh đã xuất hiện trong tầm tay.

Đứng trên đài chỉ huy, ý nghĩ đầu tiên của tôi là đặt các điểm canh gác trên bờ, tuy nhiên sau đó tôi nhận thấy việc làm nầy vô ích, và tôi ra lịnh thả lỏng thủy thủ đoàn. Mọi người cũng được nhận chỉ thị tắm rửa sạch sẽ, lần đầu tiên chúng tôi có dịp tắm rửa kể từ ngày rời khỏi Kure một tuần trước đây. Lợi dụng dịp nầy, tôi cũng mang một số sĩ quan của tôi đi xem địa hình địa vật của hải cảng, và luôn tiện đi lang thang cho dản gân dản cốt. Chúng tôi cũng dùng xuống nhỏ ngao du đây đó, cả ngày lẫn đêm.

Buổi chiều ngày hôm sau, 2 tháng 12, chúng tôi nhận được một công điện "lịch sử" từ Tổng hành dinh Hạm Đội Hổn Hợp: "Niitaka Yama Nobore I.208".

Câu tiếng Nhựt nầy có nghĩa đen: "Leo lên núi Nitaka (ngọn núi cao nhứt ở Đài Loan) I208". Tôi đọc ngấu nghiến công điện nầy và cảm thấy hồi họp nhu lúc sắp dỡ xem các tài liệu đóng dấu tối mật. Nghĩa bóng của câu nầy: " Cuộc chiến chống Đồng Minh sẽ được phát động vào ngày 8 tháng 12."

Ngay sau đó, tất cả các Hạm Trưởng được lịnh của Đề Đốc Raizo Tanaka, tập họp quanh ông để lãnh các chỉ thị tấn công Davao. Trong lời nói vắn tắt, Tanaka, thường lập đi lập lại câu: "Các anh phải nhớ rằng cuộc hòa đàm vẫn còn tiếp tục ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng ta phải chuẩn bị để nhận một công điện đình chỉ toàn thể cuộc hành quân không biết gởi đến vào lúc nào, nếu cuộc hòa đàm đạt được kết quả. Sau đó, chúng ta chỉ còn một việc để làm: quay tàu trở về Nhật Bản."

Tôi lên tiếng: " Thưa Đề Đốc, ở đây, Palau chỉ cách phía Đông căn cứ then chốt Davao của Hoa Kỳ 500 dậm, và chỉ cách Đông Nam căn cứ hải quân quan trọng khác của họ là Guam 700 dậm. Với khoảng cách khá gần như vậy, một số tàu chiến của chúng ta tụ họp ở đây, thì thế nào Hoa Kỳ cũng phái các tiềm thủy đỉnh của họ theo dõi chúng ta. Chúng ta hành động như thế nào, nếu chúng ta chạm mặt với các tàu ngầm nầy.?"

Tanaka đáp: "Chúng ta buộc phải đánh, đánh chìm, cho dù giai đoạn II của cuộc Hành Quân chỉ cho phép chúng ta đưa ra các hành động thù nghịch khi nào gặp trường hợp tối cần thiết."

Cuộc họp chấm dứt, các Hạm Trưởng lặng lẽ trở về tàu của họ. Nhưng không khí lặng lẽ nầy khó mà duy trì được trong tình trạng hiện tại. Sự hiểu biết về năng lực chiến đấu của Đồng Minh khiến tôi vẫn bi quan, và tôi cũng nhận thấy kế hoạch được đưa ra hình như có vẻ gì không thật. Tôi chờ đợi, có thể làm mong mõi, cuộc hành quân nầy cuối cùng sẽ được lịnh chấm dứt. Một câu trong binh thơ Tôn Tử lảng vảng trong trí tôi: "Một vị chỉ huy vỉ đại thật sự là vị chỉ huy chiến thắng địch quân mà không phải dụng binh.". Tôi không ngờ rằng Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhật đã xem công hàm ngoại trưởng Hull trao ngày 1 tháng 12 có tánh cách như tối hậu thơ đòi hỏi Nhật đầu hàng trước khi chiến đấu, và vì vậy Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã quyết định khai chiến với Hoa Kỳ."

Suốt 3 ngày, từ 3 đến 5 tháng 12, chúng tôi tập dượt ráo riết trong vòng hải cảng, và cuối cùng các chiến hạm đều được xem xét lại tỉ mỉ, tất cả những gì không cần thiết được mang lên bờ.

Lúc 1 giờ 30 khuya 6 tháng 12, sáu khu trục hạm của chúng tôi và một tuần dương hạm rời khỏi hải cảng rộng lớn Palau. Chúng tôi được giao phó nhiệm vụ "tẩy sạch" tiềm thủy đỉnh của địch quân để dọn đường cho một hàng không mẫu hạm và hai tuần dương hạm hạng nặng đến Mindanao. Nhiều chuyển vận hạm vẫn nằm chở trong hải cảng Palau để tham dự vào các thành phần tấn công khác nhằm vào Phi Luật Tân và quần đảo East Indie (một nhóm đảo nhỏ ở Thái Bình Dương) thuộc Hòa Lan.

Với đội hình hàng dọc, chúng tôi rời khỏi hải cảng Palau, hướng về phái Tây một đỗi và sau đó đổi sang đội hình "cài răng lược" lướt ngang mặt biển với các máy dò tìm tàu lặn. Không có dấu vết đáng lưu ý, cho đến 4h chiều ngày đầu tiên, sĩ quan sonar mới báo động:

"Hình như có một tiềm thủy đỉnh ở 60 độ hữu mạn, cách 2500 thước."

Tôi cho chiếc tàu hướng đến mục tiêu và ra lịnh: "Chuẩn bị phóng chất nổ ngầm!" Đồng thời, chiếc tàu của tôi rít một hòi còi dài và các cây cờ ám hiệu ABX (có nghĩa là "chúng tôi tấn công với chất nổ ngầm", được kéo lên, để lưu ý các chiến hạm bạn biết hoạt động của chúng tôi.

Sĩ quan sonar lại báo cáo: "Mười độ tả mạn, cách 2000 thước. Âm thanh bắt được chắc chắn là của tiềm thủy đỉnh".

Tôi điều chỉnh hướng tiến của Amatsukaze, và gia tăng tốc độ lên 12 hải lý. Nhìn quanh, tôi thấy tất cả các thuộc cấp đều sẵn sàng và họ chỉ chờ chỉ thị của tôi là hành động. Sĩ quan sonar tiếp tục báo cáo các giác độ và khoảng cách khi chúng tôi dần đến mục tiêu. Tôi bị căng thẳng và nổi hứng thú của một tên thợ săn bò sát lại con mồi. Khi chiếc tàu tiến đến khoảng cách vừa vặn để tấn công, tôi biết giây phút quyết định đã đến. Tôi la to: "Gia tăng tốc độ 21 hải lý". Chất nổ ngầm chỉ có thể được thả sau khi một chiếc khu trục hạm gia tăng tốc độ, vì nếu không làm như vậy thì chính chất nổ được thả xuống sẽ hủy diệt chiếc tàu. Nhưng ngay giây phút cuối cùng để ban lịnh "dứt điểm", miệng tôi bỗng nhiên cứng lại. Thay vào đó, tôi la to: "Đình chỉ thả chất nổ! Đình chỉ thả chất nổ!".

Đó là một trong những quyết định quan trọng nhứt mà tôi đã đưa trong suốt cuộc chiến. Hành động của tôi vào lúc đó chắc khó ai hiểu được, và người ta sẽ nghĩ là tôi đã cải lịnh trên.

Quyết định của tôi căn cứ trên những lý lẽ sau đây: Không 0 giờ (tức giờ tấn công) được đặt ra vào ngày 8 tháng 12, nghĩa là còn 2 ngày nữa. Chiếc tàu ngầm chưa tỏ dấu hiệu nào gọi là thù địch. Ngay cả khi nhận được báo cáo khám phá tàu ngầm, tư tưởng của tôi đã xung đột dữ dội. Tôi xem hòa bình là trọng, vì vậy ý nghĩ đầu tiên thoáng qua đầu tôi, là với hành động hiện tại của tôi có thể khiến cơ hội tiến đến hòa bình đổ vỡ. Hơn nữa, thái độ của tôi lúc đó là sự cân nhắc có tánh cách chiến thuật. Tấn công mục tiêu ngầm không phải đạt được kết quả dễ dàng, đặt biệt khi mục tiêu đã có sự đề phòng trước. Nếu mục tiêu thoát khỏi cuộc tấn công, kết quả sẽ hoàn toàn trái ngược. Nói một cách khác, nếu chiếc tàu ngầm không bị hủy diệt, nó sẽ thông báo về bản doanh và mọi tàu chiến của Hoa Kỳ sẽ được báo động để tung ra một cuộc phản công. Khi một người đã có sự lưỡng lự trước một quyết định như thế, như tôi đã từng rút kinh nghiệm qua các buổi diễn tập, chắc chắn người đó sẽ không bao giờ bắn trúng mục tiêu. Vì vậy, tôi đã ra lịnh đình chỉ ngay cuộc tấn công.

Lúc ấy từ tuần dương hạm Jintsu 5950 tấn, Đề Đốc Raizo Tanaka đang theo dõi tôi. Ông không hề hỏi tôi về hành vi kỳ dị của tôi ngày hôm đó. Có lẽ ông đã hiểu và chia xẻ cảm nghĩ của tôi.

Sau khi chấm dứt cuộc săn đuổi chiếc tàu ngầm, khu trục hạm của tôi quay về nhập bọn với các chiến hạm khác. Lúc đó hàng không mẫu hạm Ryuji, với hai tuần dương hạm hạng nặng và hai khu trục hạm, rời khỏi Palau đến kết hợp với chúng tôi. Lực Lượng Đặc Nhiệm gồm 12 chiến hạm bây giờ di chuyển theo đội hình hàng dọc, với tốc độ 18 hải lý trực chỉ về phía Tây. Chúng tôi đã sớm ra ngoài đại dương bao la, đất liền đã biến mất khỏi tầm mắt và ngoài chúng tôi không còn bóng dáng chiếc tàu nào khác nữa. Từng đoàn cá heo hết lượt nầy đến lượt khác đuổi theo tàu chúng tôi, nhưng ngoài các sinh vật nầy, trước mắt chúng tôi chỉ có trời và nước.

Tôi ra lịnh tập hợp thủy thủ đoàn trên sàn tàu và cho họ biết nơi đến và nhiệm vụ của họ. Tất cả đều không có một phản ứng nào khi nghe tin nầy khiến tôi kinh ngạc. Hiển nhiên là họ đã đoán biết chuyến đi sau khi được huấn luyện đặc biệt.

Sĩ quan và thủy thủ trở lại phận sự của họ. Tôi ngồi trên đài chỉ huy chăm chú nhìn Davao và ngoại cảnh của nó trên bản đồ. Chiếc tàu lặng trang và đại dương im lìm. Đêm tối dần và tất cả đều yên bình. Đoàn tàu lướt đi âm thầm, đèn đuốc đều được lịnh tắt hết.

"Thưa Hạm Trưởng, có một công điện..."

Tôi xoay người sang một thủy thủ chạy việc. Thủy thủ Takeo Murata 18 tuổi, phục vụ trên tàu chỉ một tháng nay. Anh ta là một trong những người đã thay thế các thủy thủ đau yếu. Murata chào tôi và đứng nghiêm.

Tôi nói: "Cám ơn Murata" và mở mảnh giấy anh ta vừa trao. Tôi cảm thấy phấn chấn khi nghĩ mảnh giấy nầy sẽ chứa đựng phản lịnh của cuộc hành quân đang diễn tiến. Nhưng đó chỉ là một tin tức tình báo.

"Một tàu chở thủy phi cơ cùng một lớp với loại tàu Bristol và một khu trục hạm Hoa Kỳ bỏ neo ở hải cảng Davao lúc 6 giờ chiều ngày 6 tháng 12."

Tôi thở dài và tiếp tục nhìn đại dương đen thẩm.

"Thưa Hạm Trưởng, một công điện..." Murata lại xuất hiện, mồ hôi nhỏ giọt trên khuôn mặt non chẹt của anh ta. Anh ta phải chạy từ phòng truyền tin lên đây. Một gã được việc! Tôi bổng nghe buồn bã, không ngờ gã con nít nầy lại đang chia sẽ vận mạng của cuộc chiến với những người đáng cha anh.

Nội dung công điện: "Không có tàu nào của địch quân được phát hiện ở Legaspi lúc 7 giờ tối ngày 6 tháng 12." Hia công điện kế tiếp là mẫu tin báo chí: "Hai vị Đại Sứ Nomura và Kurusu đã trao cho Ngoại Trưởng Hull và Tổng Thống Roosevelt một đề nghị được xem là cuối cùng..." và Phát Ngôn Viên của Bộ Ngoại Giao Nhựt hôm nay cho biết tàu chở hành khách Tatsuta Maru, đã rời Yokohama tuần rồi để đến Los Angeles, vừa được chỉ thị ghé thăm viếng Mễ Tây Cơ. Hiện tại tàu này đã sắp xếp ngày đến Los Angeles là ngày 14 tháng 2, và sẽ rời khỏi nơi đây vào ngày 16 tháng 2 để đến Manzanillo vào ngày 19..."

Chắc chắn không có chứng cớ nào cho thấy cuộc chiến đang chuyển động qua các diễn biến vừa nới. Nhưng có ai ngờ rằng chiếc tàu Tatsuta Maru sẽ được lịnh quay về Nhật Bản 30 tiếng đồng hồ sau đó?

Ngày hôm sau, 7 tháng 12, vẫn là một ngày yên tĩnh như thường lệ. Chỉ có mạch máu của tôi là bị căng thẳng do các công điện như loại đã nhận được vào đêm trước. Đêm thứ hai trên đại dương, kim đồng hồ của tôi chỉ đúng nửa đêm, và ngày ló dạng, nhưng không có một lịnh phản hành quân nào được gởi đến. Chúng tôi vẫn còn cách xa tuyến xuất phát cuộc tấn công, cách phía Đông mũi San Augustin 50 dậm và phía Đông Davao 100 dậm.

Tôi bổng nghe mệt mõi sau hai ngày và hai đêm ngồi trên đài chỉ huy, nên sau khi giao quyền chỉ huy cho Đại úy Toshio Kayama, hoa tiêu trưởng trẻ tuổi nhưng đầy đủ khả năng của tôi, tôi đã thiếp ngủ trên ghế ngồi. Những hạt nước giá lạnh đã đánh thức tôi dậy khi đoàn tàu của chúng tôi chạy vào vùng mưa bảo mù mịt trên đại dương đen thẩm. Lúc ấy là 3 giờ 30 sáng của ngày D, tức ngày 8 tháng 12 năm 1941. Ngủ thiếp trong giờ khắc quan trọng thế này quả là ngu ngốc biết bao! Tôi tự rủa thầm và gọi phòng truyền tin mang lên cho tôi các công điện mới. Không có công điện nào hết. Cơn mưa bão lướt qua, và cơn buồn ngủ của tôi lại kéo đến. Tôi lấy làm tức giận, vì như thế làm sao tôi còn đủ sáng suốt để theo dõi cuộc chiến trên đà bùng nổ.

Vào bình minh, khoảng 5 giờ sáng, hai mươi oanh tạc cơ hạng nhẹ và chiến đấu cơ cất cánh từ hàng không mẫu hạm Ryujo. Bây giờ chúng tôi đã ở ngay tuyến xuất phát cuộc tấn công, nghĩa là cách phía Đông mũi San Augustin 50 dậm và phía Đông Davao 100 dậm. Hình ảnh của các phi cơ Nhật đã khiến tôi tỉnh táo và phấn khởi. Bao nhiêu cảm giác thiếu nồng nhiệt của tôi đối với cuộc chiến sắp xảy ra, bây giờ, đứng trên đài chỉ huy của khu trục hạm Amatsukaze, tôi thấy đã tan biến, và tôi cương quyết dứt khoát thi hành các mạng lịnh được đưa ra.

Sau khi các phi cơ của Ryujo xuất phát, các khu trục hạm Hayashio, Kuroshio và Oyashio rời bỏ đội hình di chuyển cũ, gia tăng tốc độ lên 30 hải lý, chạy hướng về phía trước để tham dự một cuộc tấn công phối hợp nhằm vào các lực lượng Hoa Kỳ ở Luzon. Tám chiếc còn lại, một chiếc rẽ về phía Đông, một chiếc rẽ về phía Tây, cách 1500 thước, và giữ đội hình bất thường nầy để chờ đợi các phi cơ của hàng không mẫu hạm Ryujo trở về.

Ryujo là hàng không mẫu hạm duy nhứt sử dụng trong cuộc hành quân Phi Luật Tân. Nguyên trước đó tàu nầy được dự định phối hợp với 2 hàng không mẫu hạm biến cải khác vào cuộc tấn công Luzon, nhưng vì khả năng chở phi cơ của chúng quá giới hạn, thành thử cuối cùng có quyết định sử dụng phi cơ ở phi trường Formosa cho cuộc tấn công nầy. Do đó, Ryujo đến Palau và hai hàng không mẫu hạm kém khả năng hơn quay về trở về Nhật.

Ánh nắng mặt trời lúc ẩn lúc hiện trên đại dương. Gió đứng hẳn. Chúng tôi ướt đẩm mồ hôi sau bốn tiếng rưởi đồng hồ chạy tới chạy lui trên biển. Mười chính chiếc phi cơ trở về hàng không mẫu hạm Ryujo lúc 9 giờ 30. Chiếc thứ 20, một oanh tạc cơ, bị trục trặc máy móc và đâm chúi xuống biển. Sau đó, chúng tôi nghe tin phi hành đoàn của chiếc phi cơ nầy đã được khu trục hạm Kuroshio cứu thoát.

Cuộc tấn công Davao của lực lượng đặc nhiệm hoàn toàn thất bại. Phi cơ và khu trục của chúng tôi đã chui đầu vào cái túi rỗng. Hai tàu chiến của Hoa Kỳ, bỏ neo tại hải cảng theo báo cáo, đã biến mất trước khi lực lượng của chúng tôi đến. Chỉ có hai thủy phi cơ của Hoa Kỳ bỏ lại trên bãi biển và bị máy bay của chúng tôi xạ kích hủy diệt. Sau đó, máy bay của chúng tôi quần trên không phận Davao hơn hai tiếng đồng hồ, nhưng không gặp một phi cơ của Hoa Kỳ nào cất cánh từ phi trường này hoặc bất kì phi trường khác để nghinh chiến. Đó là một cuộc hành quân kì quái nhất.

Thái độ của lực lượng Hoa Kỳ ở Davao ngày hôm đó vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Dù thái độ của lực lượng Hoa Kỳ như thế nào, ít ra họ cũng phải báo cáo cho Tổng Hành Dinh của họ biết về cuộc tấn công mạnh mẻ của chúng tôi. Nhưng Tổng hành dinh của Hoa Kỳ ở Manila đã tọa thủ bàng quang, và ngay cả cuộc tấn công phi trường Clark ròng rã suốt bốn tiếng đồng hồ của các phi cơ Nhật xuất phát từ Formosa, tiếp liền sau cuộc tấn công Davao của chúng tôi, họ cũng chẳng cho bất kì một máy bay nào của họ cất cánh để chống trả lại.

Sự thiếu chuẩn bị của Không Lực Hoa Kỳ ở phi trường Clark vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Như Louis Morton viết trong cuốn The Fall of Philippines (Phi Luật Tân thất thủ): " Tất cả các lực lượng Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân đều biết cuộc tấn công Trân Châu Cảng nhiều tiếng đồng hồ trước đó khi các oanh tạc cơ Nhật xuất hiện trên không phận Luzon. Cuộc tấn công Davao là dấu hiệu cho thấy Nhật quyết ý đập tan các hải đảo có căn cứ không quân quan trọng của Hoa Kỳ tọa lạc, và cuộc tấn công Luzon ngay buổi sáng cùng ngày cho thấy rõ quyết ý nầy của Nhật. Theo lời của Đại Tá Campbell, phi trường Clark đã nhận được tin phi cơ Nhật sẽ đến trước khi xảy ra cuộc tấn công. Đại tá Euband lại nói rằng việc biết trước nầy không hề có. Một số sĩ quan khác lại cho biết các hệ thống liên lạc đều gián đoạn trong suốt thời gian nguy cấp nầy. Qua những chi tiết trái ngược do các nhân chứng cung cấp, vấn đề trên vẫn còn nằm trong vùng tăm tối...". Tám năm sau biến cố, tướng Arnold đã viết rằng: " ông chưa bao giờ nhận được câu chuyện thật ở Phi Luật Tân. Nhưng các kết quả của cuộc tấn công ai ai cũng đồng ý: 18 trong tổng số 35 chiếc B17, oanh tạc cơ chiến đấu tối tân của Hoa Kỳ vào thời đó bị hủy diệt, 35 chiếc P40, 3 chiếc P35, khoảng 30 phi cơ quan sát mọi loại và nhiều oanh tạc cơ hạng nhẹ cũng bị thiệt mất." Như vậy, "sau một ngày của cuộc chiến" Morton viết, "với năng lực bị cắt hết phân nữa, Không Lực Viễn Đông của Hoa Kỳ không còn được xem là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu nữa.". Thiệt hại của Nhật Bản: 7 chiến đấu cơ.

Tuần dương hạm Jintsu và khu trục hạm Hatsukaze và chiếc tàu của tôi rời lực lượng đặc nhiệm để hướng đến cửa vịnh Davao kết hợp với bốn khu trục hạm vừa trở về sau chuyến đi không kết quả. Tất cả các tàu gặp nhau vào lúc 2 giờ. Tôi đã sửng sốt khi nghe đài phát thanh công bố kết quả vượt mức của hai cuộc tấn công ở Trân Châu Cảng và phi trường Clark. Không thể nào ngờ được đó là sự thật hoàn toàn.

Tuy nhiên, tôi tỉnh táo ngay do sự xuất hiện của một oanh tạc cơ B24. Chiếc phi cơ bay cao khoảng 30.000 bộ và hình như đã phát hiện các chiếc tàu của chúng tôi. Đề đốc Tanaka quyết định thi hành kế nghi binh trước khi kết hợp với hàng không mẫu hạm Ryujo, nhằm đủ ngăn ngừa oanh tạc cơ Hoa Kỳ khám phá ra sự hiện diện của hàng không mẫu hạm nầy. Chúng tôi đổi hướng 180 độ và chay với tốc độ 18 hải lý một giờ, sau đó đổi hướng 90 độ và gia tăng tốc lực lên 21 hải lý, trước khi xoay trở lại 60 độ để gặp gỡ Ryujo.

Chiếc B24 vẫn bay trên đầu, nhưng không có ý định tấn công, và cuối cùng chiếc phi cơ mất dấu các tàu của chúng tôi trước khi chúng tôi hướng về vị trí sơ khởi. Chiếc oanh tạc cơ nầy là một bí ẩn khác đối với chúng tôi. Không sao biết được nó xuất phát từ đâu và định làm gì?

Vào lúc chúng tôi trở lại phía Đông San Augustin 50 dậm, tôi và Hạm Trưởng khu trục hạm Hatsukaze nhận được lịnh mới. Theo đó, chúng tôi chay đến Legaspi để kết hợp với tuần dương hạm Nachi và Myoko luc đó đang di chuyển phía trước chúng tôi. Hàng không mẫu hạm Ryujo và hai khu trục hạm hộ tống đã hướng về Palau, và soái hạm Jintsu của đề đốc Tanaka cùng bốn chiếc khu trục hạm chạy tiếp sau.

Tôi ở trong hải phận Legaspi một tuần lễ với nhiệm vụ tuần tiểu và chống lại các tàu ngầm cũng các tàu trên mặt bieetn mang quân tăng viện của Hoa Kỳ. Không thấy gì hết, nhiệm vụ thật đáng chán, nhưng tất cả chúng tôi đều biết sự giữ gìn khu vực hậu phương nầy rất quan yếu, có tánh cách hổ trợ cho cuộc hành quân đổ bộ chánh của Nhựt ở Luzon.

Trong khi thi hành nhiệm vụ nầy, khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ bắt đầu từ 5 giờ 10 chiều ngày 9 tháng 12, thích thú duy nhứt của tôi là hiệu thính viên theo dõi một công điện đánh đi từ tiềm thủy đỉnh I65 báo cáo việc phát hiện hai chiến hạm Anh Quốc đáng hướng mũi về đoàn tàu chuyển quân đổ bộ của Nhựt đến Mã Lai Á. Sau đó, truyền tin của tôi chuyển đến các báo cáo tin tức về cuộc tấn công của Nhựt chống lại thiết giáp hạm Prince of Wales và tuần dương hạm Repulse của Anh. Mồ hôi đổ như tắm khi tôi đọc hết công điện này sang công điện khác liên quan đến cuộc tấn công cách tàu của tôi 1.000 dậm nầy.

Thoạt đầu cuộc tấn công đã gây cho tôi cảm giác phức tạp. Đó là cảm giác lẫn lộn kính nể và cảm phục mức độ dàn trận nhanh chóng của hải quân Anh, đồng thời tôi bổng thấy hăng hái chiến đấu và mong muốn thử sức ngay với kẻ thù. Nhưng ý nghĩ tham dự vào trận đánh diễn ra chỉ có tánh cách ước muốn thuần túy, vì tôi không thể nào rời bỏ nhiệm vụ riêng ở đây.

Khi các báo cáo sơ khởi của cuộc tấn công vào các tàu chiến Anh được gởi đi, tôi đã quan tâm rất nhiều. Lúc đó Nhựt chỉ có một khu trục hạm và hai thiết giáp hạm trong hải phận Mã Lai Á. Đó là hai chiếc Haruna và Kirishima, cả hai đều 27.500 tấn. Được đóng năm 1912 và 1913, đó là hai chiến hạm nhiều tuổi nhứt còn hoạt động trong Hải Quân Hoàng Gia. Tôi đã nghĩ hai chiếc tàu nầy không thể chịu đựng nổi bất kì một va chạm nhỏ nào với thiết giáp hạm Prince of Wales "không thể chìm" và Repulse "võ trang tận răng" của Anh Quốc.

Trận bão "công điện" từ vùng phụ cận Mã Lai Á thổi đến hổn loạn. Đề Đốc Shintaro Hashimoto (Tư Lịnh phân đội 3 khu trục hạm) báo cáo rằng các chiến hạm của ông gặp khó khăn khi chạm trán sơ khởi với các chiến hạm Anh. Tiềm thủy đỉnh I62 lúc 4 giờ 30 sáng qua báo cáo thứ 10 cho biết đã mất dấu hai chiến hạm Anh vì gặp phải mưa bão dữ dội. Sau đó, liên lạc vô tuyến dẫm chân lên nhau, và các hệ thống truyền thanh cũng nghe không rõ.

Điều đáng lấy làm lạ là lúc ấy không có một chiến hạm nào của Hoa Kỳ xuất trận để chống lại chúng tôi ở Phi Luật Tân. Hiện thời chỉ có hải quân Anh quần thảo với chúng tôi trên tất cả các hải phận trong khu vực. Bầu trời bổng nhiên quang đang vào lúc 2 giờ trưa, và chúng tôi bắt được công điện nầy: "Không có phi cơ hộ nào được nhìn thấy bay trên các tàu chiến Anh.". Sau đó thêm nhiều công điện dồn dập cho biết diễn tiến của cuộc tấn công:

" Không đoàn 22 (Nhựt) oanh tạc thiết giáp hạm địch lúc 2 giờ 20."

" Thiết giáp hạm địch bị trúng thủy lôi do phi cơ thả xuống lúc 2 giờ 30."

" Thủy lôi của phi cơ trúng trực tiếp vào tuần dương hạm địch lúc 2 giờ 4, và hiện chiếc tàu này nghiêng hẳn về tả mạn."

" Một trong năm khu trục hạm địch bốc cháy."

" Một thiết giáp hạm địch nổ tung và chìm lúc 2 giờ 50."

Bây giờ tôi ngơ ngác, không tin những gì đã xảy ra. Phi cơ Nhựt đã đánh chìm hai chiếc Prince of Wales và Repulse!

Tôi không bao giờ tin tưởng thành công của cuộc tấn công Trân Châu Cảng là do khả năng hoàn toàn của không quân, bởi vì lúc ấy địch quân bị đánh trong lúc bất ngờ. Trong tư cách một chuyên viên khu trục hạm, cái nhìn của tôi quá hạn hẹp. Nhưng bây giờ tôi thật sự xúc động qua chiến thắng mà tôi đang theo dõi. Tôi không ngờ khả năng của phi cơ Nhựt đã đạt đến mức ấy.

Nhưng sự cố chấp của tôi vẫn không thay đổi, ngay cả sau trận đánh ngoạn mục Mã Lai Á, với niềm tin bị lung lay chút ít của tôi. Tôi tin rằng hoạt động của phi cơ thường bị vấn đề thời tiết gây trở ngại, các tàu chiến vẫn phải giữ vai trò then chốt, bất chấp mọi thời tiết. Vì đó, trong khi tôi bắt buộc phải tin phi cơ đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh, tôi vẫn bướng bỉnh cho rằng các khu trục hạm mới thực sự giải quyết các trận đánh trên mặt biển.

Sự bướng bỉnh nầy có thể là một thái độ tốt, vì nó gây cho tôi niềm tin đặt vào các khu trục hạm, khiến tôi càng thêm cố gắng "ghi điểm chiến thắng" trong cuộc chiến Thái Bình Dương, và vẫn còn sống sót sau nhiều trận đánh dữ dội nhứt.

3

Vào ngày 15 tháng 2, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt hài lòng về diễn tiến êm đẹp của cuộc hành quân đổ bộ ở Luzon, và xét thấy không cần thiết phải duy trì các cuộc tuần tiểu ở hải phận Legaspi nữa nên đã ra lịnh cho các tàu của chúng tôi trở về Palau. Một cuộc phản công của Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân đã bị chặn đứng vào thời gian đó. Trong khi lấy nhiên liệu ở Palau, chúng tôi được lịnh hộ tống các tàu chuyển vận đổ bộ lên Davao.

Bảy giờ sáng ngày 17 tháng 12, một đoàn tàu chia ra làm 3 nhóm chuyển vận một trung đoàn bộ binh rời khỏi Palau. Bảy khu trục hạm và hai tuần tiểu đỉnh nhỏ giữ nhiệm vụ hộ tống. Trong chiếc tuần dương hạm Jintsu, Đề đốc Tanaka chỉ huy cuộc hành quân.

Bốn mươi lăm phút sau khi rời khỏi Palau, lúc đang đứng trên đài chỉ huy, nhân viên sonar của tôi báo cáo phát hiện một chiếc tiềm thủy đỉnh cách 2000 thước ở 90 độ hữu mạn. Sự phát hiện nầy giống như những gì đã xảy ra vào "Ngày X". Bây giờ thì không còn sự lượng lự nào nữa. Chúng tôi tiến đến cách mục tiêu 1000 thước, gia tăng tốc độ lên 21 hải lý, thải xuống 6 trái thủy lôi nổ ngầm, đoan xoay hướng 230 độ và thả thêm sáu trái nữa. Các thủy lôi bùng nổ cách tàu 30 thước. Chúng tôi quan sát mặt nước, không có chứng cớ nào cho thấy cuộc tấn công của chúng tôi có hiệu quả. Tôi cho khu trục hạm của tôi chạy lên phải của nhóm tàu chuyển vận thứ hai và giữ vị trí hộ tống như cũ. Đoàn tàu chạy với tốc độ 10 hải lý theo hình chữ chi.

Vào lúc 1 giờ trưa cùng ngày, khu trục hạm Kuroshio chạy ở phía phải của nhóm thứ nhứt báo cáo: "Phát hiện tiềm thủy đỉnh địch quân. Phối hợp với phi cơ tuần thám, chúng tôi đã tấn công chiếc tàu với thủy lôi nổ ngầm. Một khoảng dầu rộng lớn nổi lên mặt nước. Chúng tôi xem như tiềm thủy đỉnh đã bị đánh chìm."

Công điện nầy đã gây sự "đố kỵ" cho chúng tôi trên chiếc Amatsukaze. Tôi lặng lẽ trao công điện cho các sĩ quan của tôi xem. Họ kêu lên một cách thất vọng. Trước bình minh ngày 20 tháng 12, đoàn tàu tiến vô Vịnh Davao mà không gặp sự ngăn chặn của phi cơ hoặc chiến hạm nào của địch quân. Một cuộc hành quân đổ bộ không phải mới mẻ đối với tôi. Cách năm năm trước đây tôi đã từng nếm mùi hỏa lực của địch quân ở Thượng Hải. Trong cuộc hành quân ở Davao nầy, chúng tôi được lịnh không nổ súng, trừ phi bị thách thức. Chúng tôi muốn chiếm Davao mà khỏi phải đụng chạm và càng ít sự hủy diệt càng tốt. Hai nhóm tàu đã đổ quân một cách thành công.

Các tàu hộ tống chạy chầm chậm trong vòng hải cảng yên tỉnh và hiền hòa. Từ chiếc Amatsukaze, một trung đội của chúng tôi xuống một chiếc cano, đảm trách nhiệm vụ giải giới và bắt giữ tất cả các tàu buôn nhỏ đang đậu trong hải cảng. Nhưng khoảng vài phút sau, 200 địch quân thình lình xuất hiện trên bến tàu và xả súng bắn vào trung đội của chúng tôi đang đi trên chiếc ca nô. Một số thủy thủ bị trúng đạn.

Tôi hét: " Các pháo khẩu tả mạn khai hỏa". Câu này giống như tôi đã hét trong cuộc đổ bộ Thượng Hải. Một sự lập lại đần độn mà chính tôi phải rủa thầm.

Sáu khẩu trọng pháo 122 ly xoay nòng và khai hỏa. Không một quả đạn nào trúng ngay vào địch quân chỉ cách 2000 thước, nhưng họ vẫn phân tán và bỏ chạy. Chúng tôi bắn đuổi theo cho đến khi không còn thấy bóng dáng một địch quan nào.

"Ngừng bắn!" tôi ra lịnh. Nhưng một quả đạn đã bay ra khỏi nồng súng và một chiếc tàu dầu đậu cách bờ 50 thước bị trúng đạn bùng cháy.

Diễn biến cuộc hành quân nầy khác xa sư hy vọng của tôi. Tôi đã lâp lại một số lỗi lầm vụng về. Tôi không còn làm một chuyên viên khu trục hạm hàng đầu nữa, nhưng là một gã thấp trí và ngu dốt.

Lúc đó, chiếc ca nô trở về với một xác chết. Ngày hôm sau, tôi thi hành đủ lễ tống táng cho Trung Sỹ Tsuneo Horie, thủy thủ đầu tiên của tôi ngã xuống trong cuộc chiến. Chiếc tàu dầu cháy suốt ba ngày ba đêm.

Sau cuộc đổ bộ, chúng tôi bận rộn suốt cả tuần với công việc giải thoát các cư dân trong Nhựt khu vực. Rất may là chỉ có một vài người Nhựt đã bị tập trung ngay khi bắt đầu cuộc chiến.

Không lâu trước đó, các báo cáo thương vong trên một số khu trục hạm khác đã đến chúng tôi. Các khu trục hạm nầy tham dự hành quân ở đảo Wake, tỏ ra còn tồi tệ hơn những gì chúng tôi đã làm ở Davao. Vào ngày 11 tháng 12, khu trục hạm Kisaragi bị các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ đóng ở Wake đánh chìm. Cùng ngày, khu trục hạm Hayate, một đồng đội cảu Kisaragi, cũng bị các pháo đội phòng duyên của Hoa Kỳ triệt hạ. Làm sao mà hai chiếc tàu này lại vụng về như vậy.

( Chiếc Kisaragi, 1400 tấn đóng năm 1924 đã tham dự vào Lực Lượng Đặc Nhiệm tấn công Trân Châu Cảng, bị bốn chiến đấu cơ F4F Wildcat từ đảo Wake tấn công bằng bơm 50kg, một trong bốn quả thả trúng sườn phần nằm chìm dưới nước và nổ tung bên dưới tàu và chìm cấp kì, trước đó vài giờ chiếc Hayate, một khu trục hạm 1400 tấn đóng cùng thời với Kisaragi nhưng không cùng lớp, bị các khẩu pháo phòng duyên 127 ly của Hoa Kỳ trên đảo Wake bắn hạ, Hayate trúng 2 phát và chìm với 168 thủy thủ đoàn.)

Nhưng tôi biết còn nhiều chiến hạm khác vụng về hơn khu trục hạm Shinonome chạm phải một trái mìn và chìm ở Miri, Borneo. Báo cáo không thể xác định loại mìn mà chiếc tàu nầy chạm phải là của Nhựt hay của Hòa Lan.

Vào ngày 24 tháng 12, tôi muốn nổi khùng khi nghe tin khu trục hạm Sagiri bị một tiềm thủy đỉnh tấn công bằng thủy lôi và cũng chìm gần Borneo. Đúng là một con mèo bị một con chuột nuốt. Sau đó chúng tôi biết được chiếc tiềm thủy đỉnh đạt được chiến công này là chiếc K16 của Hòa Lan.

(Hai khu trục hạm Shinonome và Sagiri cùng lớp Fubuki, trọng tải 2000 tấn, chiếc Shinonome chạm phải mìn và chím với tất cả thủy thủ đoàn. Chiếc Sagiri bị trúng thủy lôi từ tiềm thủy đỉnh KXVI của Hòa Lan và chìm với 121 người thuộc tiềm thủy đỉnh đoàn, 120 người sống sót được khu trục hạm "đàn chị" Shirakumo cứu thoát)

Nhưng tin khu trục hạm Kuroshio thuộc phân đội của tôi đã thành công trong việc đánh chìm một tiềm thủy đỉnh của địch quân đã gây phấn khởi và gở thể diện cho chúng tôi phần nào. Nhưng ngày 23 tháng 12, chiếc tàu nầy đã "ngủ quên" và bị một chiếc phi cơ xuất hiện thình lình tấn công. Rõ ràng Kuroshio không tin là có phi cơ Đồng Minh hoạt động quanh quẩn khu vực. Chiếc phi cơ, một pháo đài B17, xà xuống dội một loạt bom, và một trong những trái bom đã trung ngay chiếc tàu gây nhiều thương vong.

Câu chuyện nầy không được tiết lộ ra ngoài, nó đã bị chôn vùi hẳn giữa những chiến công ngoạn mục của Nhật Bản được quảng bá rộng rãi vào thời gian ấy. Nghe được các tin tức nầy tôi càng thêm rầu rĩ. Người thường nói chiến tranh là một loạt những sai lầm, nhưng những sai lầm của Nhật Bản không thể nào chấp nhận được. Những thiệt hại như thế đã khiến tôi giận dữ tột độ, và tên Hạm Trưởng do dự, đắn đo một tháng trước đây không còn trong tôi nữa. Tôi trở thành một người mới, hung tợn và dứt khoát.

Sự sai lầm của chúng tôi cứ tiếp tục trong suốt tháng ngày đầu của cuộc chiến. Một việc xảy ra vào ngày 4 tháng 1 năm 1942 khiến tôi điên tiết. Vào ngày đó, 14 chiến hạm quan trọng, bao gồm hầu hết lực lượng trên biển của Nhật nằm trong khu vực, đậu ở hải cảng nhỏ Malalag trên bờ Tây Vịnh Davao. Hải khẩu thật nhỏ hẹp và Đề Đốc Tư Lịnh đã ra lịnh đóng lại bằng một màn lưới chống tiềm thủy đỉnh.

Lúc đang dùng bữa trưa, tôi nghe tiếng la của thủy thủ canh gác: "Phi cơ tấn công!". Chúng tôi nhìn lên trời và thấy 9 oanh tạc cơ 4 máy đang bay trên cao độ 30.000 bộ. Chúng tôi biết đây là loại B17, các pháo đài bay, bởi thời gian đó Nhật chỉ có loại "tàu bay" Kawanishi bốn máy.

Sĩ quan và thủy thủ chạy ùa vào vị trí chiến đấu. Nhưng mà chay vào vị trí chiến đấu để làm gì? Chúng tôi bó tay trước hải hải khẩu nhỏ bé đã bị đóng kín. Chúng tôi không thể làm gì khác hơn là đứng nhìn. Các khẩu súng của chúng tôi không thể nào chạm tới các pháo đài bay đó, và lúc đó cũng không có chiến đấu cơ nào của Nhật cất cánh nghinh chiến.

Tôi khoanh tay nhìn những quả bom được trút xuống. Rất may là các oanh tạc cơ Hoa Kỳ, hiển nhiên là mới đến Java, không mang theo bom hạng nặng và nhắm mục tiêu không chính xác. Một quả bom 250 cân Anh trúng thẳng vào tháp súng thứ hai của tuần dương hạm Myoko đậu chính giữa hải cảng, gây cho hơn 20 người chết và 40 người khác bị thương. Mảnh của quả bom này văng qua chiếc tàu chở thủy phi cơ Chitose đậu cách đó 500 thước và phá hủy 5 phi cơ trên sàn tàu. Không một phi cơ nào của Nhật cất cánh để truy đuổi các oanh tạc cơ địch.

Khu trục hạm Amatsukaze của tôi đậu cạnh bãi biển và không thể nhấc một tấc nào để tránh các quả bom rơi xuống. Chúng tôi đã thoát được nhờ may mắn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn rầu hơn ngày hôm đó, khi dõi theo tuần dương hạm Myoko, một đồng đội của tôi từ ngày X (tức ngày phát động cuộc hành quân), "khập khểnh" rời khỏi Vịnh Davao trên đường trở về Nhật để sửa chửa.

Chúng tôi không thể nào chấp nhận được loại ngu xuẩn nầy.

(Tuần Dương Hạm hạng nặng Myoko, trọng tải 13.300 tấn, dài 204 m và có thể đạt tốc độ 36 hải lý (67km/h), đóng tháng 10 năm 1924 và hoàn tất vào tháng 7 năm 1931, trang bị 10 pháo khẩu 203 ly, hỏa lực mạnh nhất của một tuần dương hạm vào thời đó, đây là chiếc đầu tiên của class nầy, ba chiếc được hoàn tất sau đó là Nachi, Ashigara và Haguro. Chiến hạm nầy tham gia tất cả các trận đánh lớn trên Thái Bình Dương và sống sót sau cuộc chiến. Ngày 21 tháng 9 năm 1945, Myoko đầu hàng quân Anh ở Singapore và đến ngày 7 tháng 6 năm 1946 nó bị quân Anh đánh đắm hủy tàu ở eo biển Malacca.

Số phận của tàu chở thủy phi cơ Chitose, nguyên là một tàu chở thủy phi cơ được hạ thủy vào năm 1936, nó được cải biến thành một tàu sân bay hạng nhẹ vào năm 1943. Nó bị đánh đắm trong Trận chiến vịnh Leyte vào ngày 25 tháng 10 năm 1944 khi tham gia chiến dịch Sho ichi Go, Chitose nằm trong lực lượng "chim mồi" do Đô Đốc Ozawa chỉ huy, Chitose bị đánh chìm bởi ngư lôi trong đợt tấn công thứ nhất của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 do máy bay cất cánh từ tàu sân bay Essex ngoài khơi mũi Engano. Ngoài ra còn một chiếc tàu nữa cũng mang tên Chitose nhưng là tuần dương hạm. )

4

Vào tháng Giêng năm 1942, tôi tham dự cuộc đổ bộ East Indie (một nhóm đảo thuộc Hòa Lan), để hổ trợ cho các cuộc hành quân đổ bộ ở Menado và Kendari. Cả hai cuộc đổ bộ đều không gặp chống đối quan trọng nào của hải quân phòng thủ địa phương, nhưng khả năng không yểm nghèo nàn của chúng tôi là một điềm xấu báo trước tương lai, hải quân Nhật không đủ phi cơ để bao che các cuộc đổ bộ, và chúng tôi nhận thấy một số phi cơ được lái bởi những tay mơ. Không được huấn luyện đúng mức, những phi công kém khả năng nầy thường báo cáo chiếc "tầu ma". Oanh tạc mấy con cá voi mà họ tưởng lầm là tiềm thủy đỉnh, và còn bắn rơi cả vận tải cơ bạn trong lúc xảy ra các cuộc không chiến hổn loạn.

Tôi lại gặp thêm một vố không hài lòng nữa trong việc săn đuổi một tiềm thủy đỉnh. Vào đêm 31 tháng Giêng, trong khi hộ tống đoàn tàu chuyển vận quân đổ bộ lên đảo Ambon ở vịnh Bill, với đèn pha, toi phát hiện dấu vết một tàu ngầm xuất hiện trên biển. Ba quả đạn nổ ngầm được thả xuống nhưng không trunsng, và chiếc tàu ngầm cao bay xa chạy.

Tiếc rẽ, tôi báo hiệu sự thất bại của chúng tôi cho các chiến hạm khác, cho biết chiếc tàu ngầm có thể chưa bị tổn hại, và vì đó, không chừng nó sẽ quay trở lại. Mồ hôi tôi tươm suốt hai tiếng đồng hồ. Tôi lo ngại tiềm thủy đỉnh địch sẽ chọn mục tiên dễ dàng nhất là các chuyển vận hạm chở quân nặng nề chậm chạp để tấn công. Chúng tôi tăng cường thêm máy sonar để theo dõi, nhưng không còn phát hiện dấu vết của chiếc tàu lặn đâu nữa. Tuy vậy sự bồn chồn lo lắng của tôi cho đến 1 giờ khuya mới hết, tức là lúc đoàn tàu của chúng tôi đã đến điểm đổ bộ.

Cuộc đổ bộ bắt đầu vào lúc 1 giờ 20 khuya ngày 1 tháng 2, và không hề có bất kì một cuộc pháo kích nào của các chiến hạm Nhật để dọn đường trước đó. Việc nầy không theo đúng sự sắp xếp. Sau khi chúng tôi tấn công chiếc tàu ngầm thì thế nào địch quân cũng biết và đã báo động toàn thể. Tôi nghĩ trong tình trạng đó, nếu cuộc đổ bộ không được dọn đường trước là một việc vô lý.

Tuy nhiên, không có lịnh pháo kích nào được soái hạm ban ra. Sau đó Đề Đốc Tanaka có giải thích với tôi sỡ dĩ ông bỏ qua không dọn đường cho cuộc đổ bộ là vì ông đo lường sự yếu kém của địch quân, cho dù họ có chuẩn bị trước đi nữa, Tanaka cũng cho biết một lí do khác đó là việc "tiết kiệm đạn càng nhiều càng tốt". Lý do nầy chắc khiến người Mỹ buồn cười, nhưng đó là một sự thật không thể chối cải. Trong việc theo đuổi cuộc chiến vĩ đại đó, hai chữ "tiết kiệm" luôn luôn được nhắc nhở bên tai chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi đã lấy làm "khó hiểu" khi biết Hoa Kỳ đã dội bom xối xả và pháo kích như mưa để dọn đường cho các cuộc đổ quân của họ.

Các xạ thủ hải quân được huấn luyện tác xạ với các quả đạn pháo thông thường. Loại đạn tầm hướng, như Hoa Kỳ đã sử dụng, chúng tôi hoàn toàn không có, và việc nầy cũng là lý do không chính xác của chúng tôi trong khi tấn công tiềm thủy đỉnh.

Lực lượng đổ bộ, như tôi dự liệu, đã bị hỏa lực từ đất liền của địch quân chận đứng ngay trên bãi biển. Trung tá hải quân Konosuke Ieki, chỉ huy cuộc đổ bộ, đã báo cáo vào lúc 2 giờ khuya: "chúng tôi bị chận đứng hẳn và cuộc đổ bộ khó xúc tiến." Nhưng ông không yêu cầu oanh kích dọn đường.

Trên đài chỉ huy của chiếc Amatsukaze, tôi lồng lộn với nổi bực tức. Tình thế tồi tệ mọi phương diện. Cuối cùng, lúc 3 giờ 20, lực lượng đổ bộ cho biết đầu cầu đã được thiết lập an toàn. Nhưng lại thêm rắc rối đang chờ họ phía trước. Lúc 5 giờ sáng: " Hỏa lực địch quân từ các công sự kiên cố chụp lên hai bên cạnh sườn chúng tôi."

Và liền ngay đó, báo cáo cho biết Trung Tá Ieki đã đền nợ nước. Thật đáng buồn cười. Tại sao ông lại chết như vậy? Một cuộc oanh kích và hỏa lực yểm trợ sơ khởi của các tàu chiến sẽ tiết kiệm được đời sống của ông ta và nhiều người khác nữa. Ngu dốt! Ngu dốt!

Tiếp theo sau tin buồn này là lịnh của Đô Đốc Raizo Tanaka: " Tất cả các tàu hộ tống tiến vào bờ để nhặt thương vong.". Amatsukaze "lãnh được" 30 xác chết và 90 người bị thương. Trong khi cuộc chiến đấu trên bộ không có lối thoát. Hiện thời chiến hạm không thể nào khai hỏa vì tình trạng hổn đấu của đôi bên. Cuối cùng, vào sáng hôm sau, thủy phi cơ từ chiếc Chitose được thả xuống và cất cánh đến tấn công các công sự kiên cố của địch. Không có một chiến đấu cơ hoặc oanh tạc cơ nào của các hàng không mẫu hạm Hiryu và Soryu xuất hiện. Tôi không thể nào hiểu nổi tại sao lại có sự khiếm khuyết phối hợp hành động như vây.

Các thủy phi cơ cất cánh mỗi lần 6 chiếc, do các phi công giỏi lái, đã tấn công chính xác các vị trí đặt súng của địch quân. Sau đó, thủy phi cơ của chúng tôi nghinh chiến với các oanh tạc cơ của địch quân bay đến từ East Indie và bắn hạ được hai chiếc. Nhựt không thiệt hại chiếc nào. Hai trăm quân phòng thủ Úc Đại Lợi - Hòa Lan, đã đầu hàng vào buổi chiều đầu tiên của cuộc đổ bộ, tức ngày 1 tháng 2 năm 1942, và tất cả đều bị bắt làm tù binh. Quân phòng thủ bị bắt cho biết họ có gài 70 quả thủy lôi tại hải cảng chánh ở phía Bắc của đảo Ambon. Suốt một tuần, các trục lôi hạm của chúng tôi đã lãnh nhiệm vụ vớt những quả thủy lôi nầy. Ba chiếc đã chạm phải thủy lôi và chìm chung với toàn thể thủy thủ đoàn.

Hai ngày sau cuộc đầu hàng, một chuyển vận hạm Nhựt chạy gần hải khẩu đã báo hiệu: "Tàu đang bị tấn công bằng thủy lôi từ hướng biển". Nhưng rất may là không có trái thủy lôi nào trúng mục tiên, dù vậy chúng tôi vẫn náo động, và khu trục hạm của tôi được phái đi lập tức. Tôi đoán các trái thủy lôi có lẽ do chiếc tiềm thủy đỉnh đã thoát khỏi tay tôi ba ngày trước đây phóng ra. Tôi quyết tìm cho ra và đánh chìm chiếc tàu nầy.

Năm tiếng đồng hồ, Amatsukaze đã lướt trên mặt biển với tốc độ 11 hải lý. Nếu tàu chạy nhanh hơn, các máy sonar của chúng tôi sẽ vô hiệu, nhưng chạy chậm như thế nầy thì lại là miếng mồi ngon đối với tiềm thủy đỉnh, cho dù một chiếc khu trục hạm được võ trang mọi loại vũ khí chống tàu ngầm hữu hiệu nhứt. Tôi nghĩ đó là lí do khu trục hạm Sagiri bị một tiềm thủy đỉnh đánh chìm gần Borneo vào tháng 12 vừa qua.

Nhưng một khi chạy chậm chạp để theo dấu đối thủ, một khu trục hạm luôn luôn đề phòng. Vì vậy, nếu bất kì một tiềm thủy đỉnh nào bị hấp dẫn bởi tốc độ đầy quyến rũ của Amatsukaze tôi sẵn sàng tiếp đón. Nhưng chúng tôi không tìm thấy dấu vết nào cho đến khi giờ thứ năm chậm chạp trôi qua, tình thế bổng nhiên sôi động bất ngờ.

Lúc 9 giờ 31 tôi, một nhân viên sonar mừng quýnh la lên: "Tàu ngầm! Cách 2.400 thước, ở 10 độ tả mạn."

Tôi ra lịnh: "Mọi người vào vị trí chiến đấu! Chuẩn bị thủy lôi nổ ngầm! Tám trái! Độ sâu 50 thước."

Sĩ quan sonar nói một câu có ca có kệ theo nghề nghiệp: " Tiềm Thủy Đỉnh địch cách 1.800 thước, 40 độ tả mạn."

Hướng tiến của Amatsukaze được điều chỉnh theo gốc độ mới. Lúc 9 giờ 53, sĩ quan sonar kêu lên đầy thất vọng: "Mất dấu chiếc tàu"

Tin nầy gây nên một sự yên lặng kỳ lạ. Tôi đoán ngay là chiếc tiềm thủy đỉnh đã biến vào một góc mù, và hai chiếc tàu đã cùng chạy một hướng.

Trong thời gian nầy, các máy dò tàu ngầm của người Nhựt hoạt động dựa trên nguyên tắc phát hiện ra các luồng sóng âm thanh và tính ra khoảng cách của mục tiêu qua các luồng sóng dội lại. Phương cách nầy không đủ bén nhạy để bắt tiếng động do các máy móc tàu ngầm tạo ra.

Trong đầu tôi lúc ấy tràn ngập các bài toán về trắc giác và khoảng cách. Tôi ngẩm nghĩ: "Chiếc tàu ngầm bây giờ phải ở 180 độ, di chuyển 9 hải lý, cách 1.000 thước và sâu khoảng 30 thước.". Tôi ra lịnh gia tăng tốc độ của Amatsukaze lên 21 hải lý và liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Tôi vẻ ngay đường cong di chuyển của hai chiếc tàu trong trí. Lúc 9 giờ 68 phút, 8 trái thủy lôi nổ ngầm được phóng ra khi tôi tin chiếc tiềm thủy đỉnh đang nằm ngay phía dưới.

Chiếc Amatsukaze giảm tốc độ và xoay lại, và một loạt thủy lôi khác được thả xuống. Trong đêm tối, mùi dầu diesel bổng bốc lên nồng nặc, nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy một vật gì cả. Mùi dầu bốc lên mạnh mẽ hơn. Chúng tôi biết rõ chiến thuật xông hương của các tiềm thủy đỉnh khi bị tấn công. Trong khi lẩn tránh, các tàu nầy thường xả dầu ra, nhằm đánh lừa những kẻ săn đuổi ngở rằng chúng đã bị đánh chìm. Suốt hai tiếng đồng hồ, chúng tôi quần nát khu vực, nhưng chẳng tìm thấy dấu vết nào.

Bốn ngày trôi qua, không hề có một tin tức nào khác về chiếc tàu nầy. Hiển nhiên là tôi đã ghi được một "điểm thẳng". Tôi nhận thấy có rất ít thực tế trong cuộc chiến gây được sự phấn khởi. Tôi đã học hỏi khác nhiều trong cuộc hành quân Ambon.

Vào ngày 9 tháng 2, trong nhiệm vụ hộ tống chuyển vận hạm Kirishima Maru và di tản một số thương vong của các trận đánh Ambon, tôi trở lại Davao, chuyến đi êm ả.

Davao hoàn toàn yên tỉnh. Những cuộc xung đột ở Phi Luật Tân hiện tại giới hạn ở bán đảo Bataan, và đảo Corregidor. Các mặt trận khác kéo xa về hướng Nam. Hơn một tháng, Davao chẳng thấy bóng dáng phi cơ địch nào.

Hàng đống thơ từ của gia đình đang chờ đợi chúng tôi. Trong số cũng có nhiều kiện hàng và những "món quà êm ái" của một số thân thuộc và bạn bè dân sự ở quê hương gởi đến.

Khi về đến Davao, lần đầu tiên trong suốt 20 ngày, tôi được tắm rữa một bữa thỏa thích. Khi một khu trục hạm đang thi hành nhiệm vụ, kể cả Hạm Trưởng cũng không dám xài phí nước nôi. Sau khi ra lịnh cho thủy thủ tự do tắm rửa, tôi trở vào cabin nằm một cách thoải mái. Gian hàng trên tàu cũng được mở cửa để bán rượu, kẹo và vật dụng linh tinh khác cho thủy thủ. Thủy thủ được chỉ được phép mua và uống rượu mạn trên tàu với sự ưng thuận của hạm trưởng.

Cho dù phòng ngủ của tôi nhỏ bé, nhưng vẫn là chổ tốt nhứt trên tàu. Gian phòng rộng không đầy 4 thước vuông trám đầy một cái giường ngủ, một bàn tròn nhỏ, một bàn rửa mặt, một tủ quần áo, một ghế bành và một ghế đẩu. Trên bàn đặt một tấm ảnh toàn thể gia đình tôi.

Murata, một thủy thủ trẻ đến giao thơ cho tôi kèm theo nhiều gói hàng nhỏ khác. Tôi hỏi: "Anh có nhận được thơ không, Murata?". "Dạ có, thưa hạm trưởng." Hắn hớn hở chào tôi và quay bước.

Tôi xem một lá thơ do vợ tôi gởi đề ngày 4 tháng giêng. Nàng cho tôi biết các con và nàng vẫn vui mạnh. Tuy nhiên, câu tái bút nàng báo cho tôi một tin khá phiền "Hôm kia, em dẫn các con lên Đông Kinh để thăm bà con, khi em trở về nhà ở Kamakura thì thấy cửa đóng, và người tớ gái đã biến mất với một số đồ đạc có giá trị của chúng ta."

Tin nầy thật đáng buồn. Vợ tôi thuộc gia đình lương thiện, tôi chắc nàng không quen với "cái loại" nầy. Để giải buồn tôi uống liên tiếp nhiều ly sa kê.

Có một gói hàng do người bạn thâm niên nhứt của tôi hiện sống ở Osaka gởi đến. Trong đó là một cái áo lót với 1.000 mảnh vãi đủ màu sắt được khâu lại bằng tay. Theo cổ tục, cái áo lót nầy đối với người Nhựt chẳng khác nào lá bùa hộ mạng chống được vũ khí của kẻ thù. Trong thơ, bà vợ của bạn tôi cho biết bà ta đã đứng ở một góc phố để nài nĩ 999 người đàn bà khác mỗi người cho một mãnh vải. Cảm kích tôi mặc ngay chiếc áo lót vào mình cho dù tôi không tin tưởng cổ tục dị đoan nầy.

Thơ của người anh báo một tin buồn khác. Con trai trưởng của anh tôi, Shigeyoshi Hashimoto, 25 tuổi, một sĩ quan phục vụ trong Sư Đoàn 4 Bộ Binh, đã chết vì bịnh lao vào tháng 12. Đứa cháu nầy đã được tôi đặt nhiều hi vọng. Tôi nhắm mắt và cầu nguyện cho linh hồn của nó. Xúc động sâu xa, tôi không xem thơ nữa, sau khi uống thêm vài ly rượu, tôi thả bước lên đài chỉ huy. Hôm nay là một ngày đẹp trời. Hải cảng đẹp mắt dưới ánh nắng rực rở của miền nhiệt đới. Viên sĩ quan đang ngồi nhìn lên bờ biển mơ màng. Hắn đứng dậy chào tôi. Tôi nói: "Hảy bảo cho mọi người biết tôi "xả tàu" ngày mai. Thủy thủ sẽ lên bờ mỗi nhóm 3 người và được ba giờ tự do."

Đôi mắt viên Đại úy ánh lên nổi thích thú và lập tức loan truyền tin vui nầy. Suốt 50 ngày qua, không một ai trong số 300 thủy thủ của tôi được lên bờ, thành thử lịnh của tôi đã được đón nhận một cách ồn ào.

Tôi trở về cabin và mở một lá thơ khác. Bức thơ nầy đến từ Kure, nhưng tên người ngoài phong bì hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Thơ viết: "Tôi là Hinaniku, một trong những vũ nữ hành nghề tại hộp đêm mà trước chiến tranh ông thường lui tới." Tôi kêu trời. Tôi, một người cha của ba đứa trẻ, chắc chắn không bao giờ liệu trước một bức thơ tình của một vũ nữ như thế nầy. Bức thơ tràn ngập những lời lẽ yêu thương tầm thường, chỉ có câu kết thúc đáng lưu ý: "Bà chủ hộp đêm luôn luôn nhắc với tôi về việc ông, vì ra đi bất thình lình, nên đã quên thanh toán khoảng tiền thiếu. Lúc nào thấy thuận tiện, xin ông gởi trả số tiền nầy, chúng tôi rất lấy làm hân hạnh." Dĩ nhiên câu nầy khiến tôi đỏ mặt. Tôi chán tôi vô cùng. Bổng nhiên tôi muốn say, và tôi hạ gục thêm một chai sa kê nữa.

Gói hàng cuối cùng từ Hiroshima gởi đến, tôi đoán biết là một "món quà êm ái" do chữ viết non nót của người gởi. Học sinh Nhật Bản thường gởi những món quà nhỏ và một vài giòng chữ cho các quân nhân ở tiền tuyến mà chúng chưa hề quen biết. Món quà của tôi gồm một bức ảnh chụp thắng cảnh ở Hiroshima, một bức họa do chính tay người gởi vẻ, một số phong bì và giấy viết thơ, và kèm theo mấy dòng chữ: "Em là một nữ sinh 9 tuổi ở Hiroshima. Tất cả chúng em ở đây đều chăm học. Vì lợi ích của tổ quốc, chúng em thành tâm cầu chúc ông sẽ cố gắng chiến đấu."

Đây là bức thơ duy nhất gây cho tôi sự xúc động thật sưh. Tôi thôi uống rượu và bắt đầu viết thơ trả lời cho cô bé không quen biết ở Hiroshima: " Cô bé thân mến của tôi. Tôi cảm ơn em rất nhiều về món quà mà em đã gởi tới cho tôi. Tôi là hạm trưởng của một khu trục hạm. Tôi hân hoan và sung sướng nhận lời cầu chúc của em."

Ngày hôm sau tôi lên bờ cùng với nhóm thủy thủ được tự do ba tiếng đồng hồ đầu tiên. Thật dễ chịu khi nhìn thấy phố xá Davao không bị chiến tranh tàn phá. Thủy thủ của tôi vầy đoàn với những thủy thủ của các tàu khác đang buông neo trong hải cảng. Các bà nội trợ Nhật trong thành phố đã lập ra nhiều địa điểm tiếp đãi binh sĩ đồng hương với hàng chữ: "Xin tự tiện dùng trà và café. Quà mọn của những người đồng hương với các bạn."

Người Phi Luật Tân cũng dạo chơi nhàn nhã trên các đường phố. Trai thanh gái lịch ăn mặc chải chuốc đi lại dập dìu. Tuy nhiên, tôi đã chú ý và ngạc nhiên khi thấy tất cả đều đi chân không. Trên đường phố Nhật Bản không người nào đi chân không cả, dù giàu hay nghèo ai ai cũng mang giày hoặc guốc. Cảnh trước mắt lạ lùng đối với tôi.

Các rạp hát đều chiếu mấy cuốn phim mới nhứt của người Mỹ. Tôi chú ý hàng chữ trên tấm biển treo trước một vài căn nhà dọc theo đường phố: "Trung Tâm giải trí của quân đội Nhật Bản ". Nhiều thủy thủ và binh sĩ đứng nối đuôi phía dưới những căn nhà nầy. Đây là những ổ điếm của người Nhựt, Triều Tiên và Okinawa đã di chuyển theo chân quân đội Nhật,

Tôi nhận thấy đám đông đang xếp hàng có vẽ hơi khó chịu, hiển nhiên là do sự hiện diện của tôi. Tôi nói với viên Đại Úy đi cùng với tôi: "Cứ tự tiện ở đây. Tôi phải đến Tổng Hành Dinh. Trưa tôi sẽ gặp lại anh. Hãy thận trọng, mấy ông sếp lớn của chúng ta đang có mặt ở bến tàu."

"Dạ, dạ thưa Trung Tá," Viên Đại úy mỉm cười.

Khi tôi bỏ đi, nhóm lính phía sau la to một cách vui vẻ: "Hoan hô! Hạm trưởng của chúng ta muôn năm!."

5

Vào ngày 27 và 28 tháng 2 năm 1942, tôi tham dự trận đánh ở biển Java. Đây là một trong vài trận hải chiến quan trọng hồi đệ nhị thế chiến, được xem là vang danh, nhưng không hề có một chiến đấu cơ nào tham chiến. Vì vậy, trận hải chiến nầy đáng được mô tả và phân tích đầy đủ.

Đã có nhiều quyển sách của các tác giả Đồng Minh cũng Nhật Bản viết về câu chuyện nầy. Hầu hết các quyển sách của Đồng Minh được viết gấp rút ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nên các tác giả hình như đã vượt quá giới hạn của chứng liệu lịch sử và sự khách quan. Còn về phía Nhật Bản cũng chẳng hơn gì, các quyển sách được viết ra đều gây cảm giác không trung thực và chính xác. Nhưng một phần khác là do các chỉ huy trưởng bại trận và thối chí, họ không đủ can đảm cung cấp những chi tiết khách quan của các trận đánh mà họ đã tham gia.

Hầu hết các sĩ quan chỉ huy chiến hạm Đồng Minh tham dự cuộc hải chiến ở biển Java đều đã chết trận, vì vậy khó thể thâu thập được tất cả chi tiêu bên phía Đồng Minh.

Đề đốc Takeo Takagi, Tư Lịnh Nhựt trong cuộc hải chiến nầy, đã thiệt mạng ở Saipan vào năm 1944. Hai sĩ quan trong bộ tham mưu ông còn sống sót, đó là Tham Mưu Trưởng của ông, Đại Tá Nagasawa, hiện là Thủy Sư Đô Đốc, Tổng Tư Lịnh Tân Hải Quân Nhật Bản, và phụ tá của Nagasawa là Thiếu Tá Kotaro Ishikawa từng là sĩ quan tình báo của Takagi. Trước khi viết chương nầy tôi đã đến gặp và thảo luận khá lâu với hai nhân vật nầy cũng như một số người còn sống sót có liên quan đến trận đánh ở biển Java.

Trong trận đánh nầy, thoạt đầu lực lượng Đồng Minh bao gồm ba tuần dương hạm hạng nặng, hai tuần dương hạm hạng nhẹ và 11 khu trục hạm cố gắng bao vây và tiêu diệt 41 chuyển vận hạm chạy chậm chạp vì chở cả một sư đoàn bộ binh, và các tàu hộ tống của Nhựt, gồm 10 khu trục hạm và 2 tuần dương hạm hạng nhẹ. Ngoài ra Nhựt còn có hai tuần dương hạm hạng nặng được cắt đặt trong cuộc chuyển vận nầy, nhưng cả hai chỉ lẻo đẻo cách phía sau 150 dậm.

Với tất cả lợi thế và lực lượng vượt trội, nhưng Đồng Minh không đánh chìm được một chiếc tàu nào của Nhựt. Theo ý kiến của tôi thì tinh thần là yếu tố thực sự quyết định cuộc đụng độ nầy, và có thể lấy yếu tố nầy để so sánh với cuộc đụng độ ở Vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944 sau nầy, Tư Lịnh Phó Đô Đốc Takeo Kurita, đã đóng một vai trò giống hệt như vai trò mà Hạm Đội của Đề Đốc Hòa Lan K.W.F.M Dorman đã đóng trong trận đánh ở biển Java.

Ở vịnh Leyte, Phó Đô Đốc Kurita đã dồn hẳn bốn hàng không mẫu hạm của Đồng Minh vào rọ và ông chỉ còn giơ tay đấm xuống nữa là xong. Nhưng chỉ vì một chút ngần ngừ, ông đã mất dịp may bằng vàng. Đó là những gì mà hạm đội Đồng Minh đã vấp phải ở Java.

Kurita đến Leyte với sự quyết tâm, nhưng đồng thời ông cũng ý thức là ông không hề có một cơ may nào chiến thắng trước lực lượng ưu việt của địch quân. Đó là nguyên nhân gây ra sự ngần ngừ khi ông giơ cú đấm để giáng xuống.

Vào tháng 2 năm 1942, một không khí tuyệt vọng bao trùm các sĩ quan Đồng Minh ở Surabaya. Họ thấy có ít hoặc không có dịp may tồn tại. Mười lăm tàu chiến thuộc Hạm Đội Đồng Minh vô đây vá víu lại các vết thương, và tất cả đều biết số phận thực sự được định đoạt trong vòng một tuần lễ, khi quả đấm cuối cùng của Nhựt giáng xuống.

Các vị chỉ huy Đồng Minh nhớ lại cuộc tấn công Trân Châu Cảng và hai chiếc Prince of Wales và Repulse bị đánh chìm hai tháng trước đó. Thoạt đầu họ không tin những gì mà họ nghe được. Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Tân Gia Ba rơi vào tay Nhật và cuộc xâm chiếm toàn thể lãnh thổ Phi Luật Tân chỉ còn ngày một ngày hai. Lực lượng Nhật Bản cuồn cuộn lướt về phía Nam. Đồng Minh bỏ hết tiền đồn nầy đến tiền đồn khác.

Họ biết Lực Lượng Đặc Nhiệm hùng hậu của Hải Quân Hoàng Gia, dưới quyền của Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo, đã di chuyển đến các hải phận Nam Thái Bình Dương. Trước mặt họ lực lượng nầy chẳng khác nào một siêu hạm đội khổng lồ. Họ không có cách nào để biết sứ mạng thực sự của Nagumo, và có tất cả đến bao nhiêu hàng không mẫu hạm dưới quyền của ông ta, cũng mù tịt. Phần lớn sự bối rối lan tràn trong hàng ngủ sĩ quan địch quan có lẻ do việc không thể đoán được phi cơ Nhật Bản đã xuất phát từ các hàng không mẫu hạm hay là các sân bay trên đất liền.

Những cuộc không tập ồ ạt ở Phi Luật Tân, xảy ra vài giờ sau cuộc tấn công Trân Châu Cảng, được địch quân tin tưởng đã xuất phát từ hàng không mẫu hạm. Sự thật, phi cơ Nhật cất cánh từ Formosa. Một loạt oanh tạc trên đảo Java là do phi cơ ở các sân bay Jolo, Balikpapan và Kendari, nhưng các sĩ quan Đồng Minh ở Surabaya lại cho rằng những phi cơ nầy xuất phát từ các hàng không mẫu hạm ở Java.

Vào ngày 1 tháng 12, một lực lượng đặc nhiệm nhỏ của Hoa Kỳ đã tấn công đảo Marshall. Từ Truk, lực lượng đặc nhiệm của Nagumo cấp tốc vượt 1.500 dậm hướng về Marshall. Đồng Minh nghe tin nầy đã cho rằng con đường tấn công vào lãnh thổ Nhật đã quang đãng, vì vậy bốn tuần dương hạm và bảy khu trục hạm của họ tiến đến Balikpapan, hy vọng gây "sửng sốt" cho Nhật Bản.

Thời gian nầy Nhật Bản không ngủ quên. Vào ngày 4 tháng 2, từ Formosa, 69 oanh tạc cơ và chiến đấu cơ Nhựt cất cánh chận đường và nhào xuống xâu xé các chiếm hạm Đồng Minh ở Kendary. Các chiến hạm nầy lê lết trở về Surabaya. Đồng Minh choáng váng và tin rằng những phi cơ tấn công xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Nhựt. Biến cố nầy là một thảm kịch đối với họ.

Một biến cố khác, khó thể xảy ra đối với xét đoán của Tổng Hành Dinh Surabaya, nhưng vẫn xảy ra trên đầu họ. Vào ngày 19 tháng 2, tin tức tình báo của Đồng Minh cho biết Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo đang tiến về Marshall, bổng nhiên xoay hướng về Úc Đại Lợi. Nhưng sáng hôm đó, Nagumo đã tung 188 oanh tạc cơ và chiến đấu cơ tấn công hải cảng Darwin ồ ạt.

Vào buổi trưa cùng ngày, 23 chiến đấu cơ Nhựt gầm thét trên không phận Surabaya và bắn rơi 40 chiến đấu cơ của Đồng Minh, hầu hết là loại P36, trong một trận không chiến ngắn ngủi. Cho dù nhân viên tình báo nằm vùng của Đồng Minh ở Balikpapan đã báo cáo chính xác rằng các phi cơ hải quân Nhựt đã vượt 450 dậm từ các sân bay ở Formosa đến Surabaya, sĩ quan Đồng Minh ở đây vẫn không tin. Họ luôn luôn cho rằng các phi cơ đã cất cánh từ các hàng không mẫu hạm.

Buổi chiều cùng ngày, một số oanh tạc cơ Nhật lại cất cánh từ Kendary bay đến dội bom một phi trường bí mật của địch quân ở Djombang, gần Surabaya, hủy diệt hàng chục oanh tạc cơ và chiến đấu cơ P40, những con trâu cổ của Hoa Kỳ, và chiến đấu cơ Hurricane của Anh. Các phi cơ chiến đấu của Nhựt đã nhanh chóng gặt hái được sự "ngưỡng mộ và kính nể" của địch quân. Khi phi cơ Nhựt đã ra tay thì không nạn nhân nào thoát khỏi, và ngay cả các chiến hạm "kiêu hãnh nhứt" của người Anh. Và, như các chiến hạm Anh, số phận của các tàu ở Surabaya không biết được định đoạt lúc nào.

Rút kinh nghiệm nầy, các sĩ quan chỉ huy ở Surabaya đã đắn đo trên các tin tức tình báo mới nhứt của họ vào ngày 20 tháng 2, cho biết hai đoàn tàu chuyển vận khổng lồ của Nhựt đang hướng về Java. Sự thật, vào ngày 19 tháng 2, 41 chuyển vận hạm với 20 hộ tống hạm Nhựt rời Jolo tiến đến Surabaya. Hai ngày trước đó, một đoàn tàu khác gồm 56 chuyển vận hạm với 15 hộ tống hạm rời vịnh Cam Ranh, Việt Nam, trực chỉ Tây Java.

Như vậy, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Đồng Minh ở Surabaya đang trong cơn hấp hối. Nếu các chiến hạm Đồng Minh xuất phát tấn công một trong hai đoàn tàu nầy thì họ có thể đạt kết quả. Nhưng họ không thể nào còn đủ khả năng để ngăn chặn đoàn tàu còn lại. Tuy nhiên, yếu tố rắc rối nhứt đối với họ là làm cách nào để đoán đúng sức mạnh của Lực Lượng Đặc Nhiệm Nagumo. Với hạm đội Đồng Minh không có sự bao che của không quân, Nagumo có thể vung búa đập xuống bất cứ lúc nào. Đồng thời, phi cơ Nhựt cũng có thể đến và đi như chổ không người.

Nhưng vào ngày 17 tháng 2, tại Bộ Tư Lịnh Tối Cao, Đô Đốc Isoruku Yamamoto, Tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hổn Hợp Hoàng Gia, đã mở một phiên họp với Bộ Tham Mưu của ông trên soái hạm Nagato, đậu ở Hashirajima, gần Kure, miền Trung nước Nhựt. Kết quả phiên họp nầy, Yamamoto đã ra lịnh cho Nagumo xoay hướng và tiến về hải cảng Darwin, không truy đuổi lực lượng nhỏ bé của Hoa Kỳ nữa. Ông nói: "chúng ta phải giữ các mỏ dầu và các nguồn tài nguyên khác ở quần đảo East Indie (các hòn đảo thuộc Hòa Lan đã bị Nhựt chiếm giữ). Việc nầy ưu tiên hơn việc theo đuổi các lực lượng nhỏ bé của Hoa Kỳ.

Chắc chắn kế hoạch hành quân Midway đã nằm sẵn trong trí của Yamamoto vào lúc ấy. Bộ Tham Mưu của ông đã nghiên cứu tất cả các dữ kiện tình báo và phúc trình lên ông, Yamamoto kết luận rằng hạm đội của Đồng Minh ở Surabaya "không đe dọa trầm trọng" các hoạt động của Nhựt. Và ông ra lệnh cho hai đoàn tàu mỗi đoàn chuyển vận một sư đoàn bộ binh ngừng lại. Yamamoto chủ trương: "Hành quân đổ bộ không đòi hỏi phải có sự trợ của một lực lượng đặc nhiệm quan trọng.". Do đó, vào ngày 19 tháng , Nagumo đã vượt thủy trình 220 dậm tiến về phía Bắc hải cảng Darwin.

Vào ngày 20 tháng 2, Yamamoto lại mở một phiên họp tham mưu khác, và đưa đến quyết định: Hạm Đội Đồng Minh "hoàn toàn mất tinh thần" và "không hy vọng tạo được một hành động quan trọng nào". Yamamoto bải bỏ hẳn kế hoạch sử dụng phi cơ ở sân bay trên đất liền để làm cây dù bao che cho những cuộc chuyển vận của Nhựt mà ông đã từng đưa ra trước đây. Nagumo lại được lịnh đến Ấn Độ Dương để "nhận chìm chiến hạm của Đồng Minh từ Surabaya thoát ra."

Sự khinh thường đối thủ nầy ít nhứt cũng đã khiến cho đoàn tàu chuyển vận, với khu trục hạm của tôi nằm trong thành phần hộ tống, lâm vào tình cảnh ngặt nghèo. Đoàn tàu 41 chiếc chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm cách nhau 2.000 thước, và mỗi chiếc cách nhau 600 thước di chuyển với tốc độ 10 hải lý theo hình chữ chi. Cách 3.000 thước phía trước hai đoàn tàu là bốn khu trục hạm giăng hàng ngang. Cách nhau 3.000 thước phía sau, cũng giăng hàng ngang là ba khu trục hạm. Kế đến là tuần dương hạm Naka, cũng là soái hạm, được hộ vệ bởi hai tuần tiểu đỉnh. Hai khu trục hạm chạy ở tả mạn và hữu mạn, canh chừng khoảng giữa hai đoàn tàu vận chuyển dài dằng dặt nầy.

Một nhóm tàu hộ tống khác, thuộc phân đội 2 khu trục hạm, bao gồm bốn chiếc, trong đó có chiếc Amatsukaze của tôi, cầm đầu là soái hạm Jintsu của đề đốc Raizo Tanaka. Tất cả di chuyển ở phía tả, tách biệt hẳn đoàn tàu chuyển vận. Nhóm khu trục hạm nầy trước đó đã tham dự vào cuộc hành quân đổ bộ ở đảo Timor, kế cuộc hành quân Ambon, và sau đó ngày 25 tháng Giêng, đã kết hợp với đoàn chuyển vận nầy ở Macassar. Ngoài số tàu hộ tống vừa nói, còn hai tuần dương hạm hạng nặng Nachi và Haguro, nhưng cả hai chạy lẻo đẻo cách 290 dậm phía sau chúng tôi.

Đoàn tàu dai 20 dậm là một hình ảnh đẹp mắt, nhưng có một việc thấy rõ là đội hình của đoàn tàu không mấy chính xác. Điều nầy dễ hiểu, vì thủy thủ của các tàu chuyển vận không được huấn luyện đầy đủ. Nhiều chiếc tàu còn nhả từng bụm khói, một việc cấm kị trong lúc di chuyển. Nhiều chiếc khác còn sử dụng cả vô tuyến để chuyển những tin tức, thay vì dùng cờ hoặc đèn, và thỉnh thoảng lại còn vi phạm lệnh cấm bật đèn đêm.

Tuy nhiên đều lo lắng hơn hết là việc các tuần dương hạm hạng nặng lẻo đẻo xa ở phía sau, khó thể can thiệp kịp thời trong trường hợp địch quân tấn công mạnh mẻ, vì chỉ có chiến hạm nầy mới đủ sức để đương đầu.

Thời tiết tốt đẹp, ban ngày nắng chói chang, và ban đêm trăng sáng vằng vặc trên mặt biển đến nỗi có thể dùng mắt thường theo dõi đoàn tàu chuyển đang di chuyển. Các phi cơ thám thính của Nhật, phát hiện 5 tiềm thủy đỉnh của Đồng Minh, nhưng các chiếc tàu nầy không tìm cách tấn công chúng tôi.

Sáng ngày 16, mặt biển phía Nam Borneo yên tỉnh. Tôi thức dậy sau một giấc ngủ ngắn hồi đêm, và chăm chú đọc báo cáo mới nhứt. Các phi cơ thám thính và các cơ quan tình báo của chúng tôi cho biết một bãi thủy lôi được địch quân thiết lập dọc theo bờ biển Surabaya, rất nguy hiểm cho các tàu chở khẳm. Tin tức cũng cho biết: "Một số oanh tạc cơ B17 và chiến đấu cơ của Đồng Minh vẫn tiếp tục được đưa đến Malang và nhiều nơi khác."

Tình hình cho thấy sự lạc quan của chúng tôi không có gì làm vững chắc. Lúc 8 giờ cùng ngày, một thủy phi cơ loại PBY Catalina thình lình rời khỏi các đám mây từ hướng Đông và đâm bổ về phía tàu của tôi.

"Phi cơ địch lao đến! Khai hỏa!" Tôi la lên.

Một khẩu đại liên phòng không nhả đạn ngay khi chiếc PBY thả một trái bom, nhưng quá sớm, và trái bom chỉ tạo một cột nước cao khoảng 500 thước phía trước tàu của chúng tôi. Chiếc phi cơ đảo cánh, gia tăng tốc lực và biến mất trong mây. Diễn biến nhanh đến nỗi chúng tôi không đủ thời giờ để hồi hợp.

Cuộc tấn công ít thấy xảy ra, và có vẽ vội vã bắt tôi phải suy nghĩ. Nếu chiếc phi cơ nầy chỉ có nhiệm vụ thám thính, như nó thường được sử dụng, thì nó không ngu dại gì xuất đầu lộ diện, và nhứt là lại nhắm thả bom vào một chiếc khu trục hạm thay vì chọn một tàu chuyển vận dễ đạt được kết quả hơn. Như dù thế nào, cuộc tấn công chớp nhoáng nầy cho thấy địch quân đã biết sự có mặt của chúng tôi.

Không lâu sau, chúng tôi phát hiện một chiếc tàu lớn sơn màu trắng ở cánh trái của đoàn tàu. Dùng ống viễn kính lớn, tôi nhận thấy đó là một tàu bịnh viên khoảng 4.000 tấn.

Chúng tôi trương cờ ra lịnh cho chiếc tàu dừng lại để khám xét. Qua ống viễn kính, tôi nhìn thấy một người đàn ông lớn tuổi đứng trên sân tàu, có lẽ là thuyền trưởng của tàu bịnh viện, đang vội vã mặc đồng phục. Đôi tay ông ta run rẩy và dáng điệu bồn chồn. Khi tàu của tôi đến gần, tôi mới biết đó là một tàu bịnh viện của Hòa Lan mang tên Optennote.

Đại úy Goro Iwabuchi cùng sáu sĩ quan khác nhảy xuống một chiếc xuồng và bơi đến leo lên chiếc Optennote. Một giờ sau họ quay lại báo cáo trên tàu có 15 bác sỹ và y tá cùng với thủy thủ đoàn. Tôi xin chỉ thị, và Đề đốc Tanaka đáp: "Ngay cả một tàu bịnh viện cũng đáng nghi ngờ trong khu vực nầy. Mang chiếc tàu lại phía sau nhập chung với những tàu tiếp liệu của chúng ta."

Tôi phải bỏ cả buổi sáng để đi kèm chiếc tàu nầy. Sau khi cẩn thận trao nó cho vị chỉ huy Hải Đội tiếp liệu, tôi gia tăng tốc độ 26 hải lý, quày lại với nhiệm vụ hộ tống vào lúc 2 giờ 15. Một vài chiến đấu cơ Nhựt cất cánh từ Balikpapan bay che trên tàu chuyển vận cho đến 7 giờ chiều. Mặt biển bổng nhiên trở lạnh. Tôi rít một hơi thuốc và hỏi viên hoa tiêu của tôi khi nào mặt trời lặn. Trung úy Toshio Koyama cho biết mặt trời sẽ lặn lúc 7 giờ 48.

Tôi quăng điếu thuốc vì nghe có tiếng súng cao xạ nổ vang. Tuần dương hạm Jintsu đang khai hỏa. Tôi ra lịnh: "Vào vị thế chiến đấu! Không kích!" Nhìn lên, tôi thấy hai oanh tạc cơ B17 bay trong mây, cao độ khoảng 4.000 thước. "Khai hỏa" Tôi hét lớn.

Các khẩu cao xạ 12,7 ly xoay nồng lên 75 độ, và khai hỏa, nhưng đạn không thể chạm tới các oanh tạc cơ địch. Những loại súng nhỏ hoàn toàn vô hiệu, nhưng tiếng nổ rền vang của chúng cũng làm cho phi cơ địch khiếp đảm. Các oanh tạc cơ nầy chắc đến từ Java, đã thả 6 trái bom 500 cân Anh, bốn trái rới cách hữu mạn chiếc Amatsukaze của tôi khoảng 1.500 thước, và hai trái chỉ cách tả mạn khu trục hạm Hatsukaze 500 thước. Thả tệ như thế là cùng.

Các oanh tạc cơ chỉ nhắm tấn công vào chiến hạm thay vì tàu chuyển vận, điều nầy chứng tỏ chúng chỉ quyết ăn thua đủ với các khu trục hạm của chúng tôi. Có lẽ các phi cơ nầy đã dành phần các tàu chuyển vận cho hạm đội của chúng. Đó là một việc đáng lưu tâm.

Buổi sáng ngày hôm sau, 27 tháng 2, hoàn toàn yên tỉnh. Đoàn tàu vẫn tiến bước. Nhưng vào lúc 11 giờ 50, ngay khi mọi người sửa soan dùng bửa trưa, bốn trái bom bất ngờ rơi xuống. Những cột nước khổng lồ mọc lên phía trước mũi khu trục hạm Yukikaze khoảng 200 thước và cách chiếc tàu của tôi khoảng 300 thước.

Ngày hôm qua. Chúng tôi đã thấy các oanh tạc cơ trước khi chúng tấn công, nhưng hôm nay thì chúng tôi hoàn toàn không hay biết gì cả. Tôi khám phá quá trễ hai chiếc B.17 đang bay đúng trên đầu tôi ở cao độ 4.000 thước. Các pháo đài bay đã thành công trong yếu tố gây kinh ngạc cho chúng tôi, nhưng vì quá vụng về nên chúng đã làm hỏng cả cơ hội.

Một lần nữa oanh tạc cơ chỉ nhắm vào các tàu chiến, và điều nầy khiến tôi suy nghĩ. Tại sao chúng không dội bom tàu chuyển vận. Chỉ cần một quả bom 500 cân Anh là có thể đánh đắm một chuyển vận hạm dễ dàng và gây rối loạn cho cả đoàn tàu. Hiện tại, những năm sau chiến tranh, tôi vẫn tin đó là một lỗi lầm to tát của Đồng Minh.

Nhật Bản cũng vấp phải những lỗi lầm to tát trong việc tung ra cuộc hành quân nầy mà không có sự bao che hữu hiệu của không quân cho các lực lượng trên biển. Nhưng lỗi lầm nầy không gây ra thiệt hại đáng kể bởi chiến thuật của phi cơ Đồng Minh không hiệu quả và thiếu khôn ngoan.

Mười hai phút sau cuộc oanh tạc của B17, đoàn tàu xoay 90 độ tiến đến Surabaya và ct chỉ còn cách hòn đảo nầy 60 dậm. Từ đầu chúng tôi đã tiến thẳng về hướng Tây, có tánh cách nghi binh. Không lâu sau, một phi cơ thám thính Nhựt xuất phát từ Balikpapan đã báo cáo: "Năm tuần dương hạm và sáu khu trục hạm của địch quân đã rời Surabaya 63 dậm, hướng 310 độ, vào lúc 12 giờ trưa. Hiện thời lực lượng nầy xoay hướng 80 độ, với tốc độ 12 hải lý."

Chiếc Nachi 12.374 tấn, một trong hai tuần dương hạm hạng nặng theo phía sau chúng tôi, lập tức cho thủy phi cơ thám thính bay đến để theo dõi nhóm tàu của địch quân. Một việc đáng kinh ngạc theo báo cáo của phi cơ, nhóm tàu nầy đã tiến gần và hiển nhiên nhắm vào đoàn chuyển vận hạm của chúng tôi. Có phải địch quân mưu định tấn công? Chúng tôi chờ đợi báo cáo của phi cơ thám thính.

Hai giờ dài dằng dặc trôi qua. Lúc 2 giờ 5, phi cơ của Nachi báo cáo một hạm đội gồm 5 tuần dương hạm và 10 khu trục hạm (thay vì 6 như báo cáo đầu tiên) đang tiếp tục hướng đến. Kể cả hai tuần dương hạm của chúng tôi ở phía sau, lực lượng của địch quân vẫn còn trên chân chúng tôi. Đề đốc Takagi ra lịnh cho đoàn tàu xoay về hướng Bắc. Cơn nóng miền nhiệt đới vẫn không gây cho tôi cảm giác nào. Mồ hôi lạnh chảy ướt đẩm lưng tôi. Nếu địch quân gia tăng đà tiến, họ có thể dễ dàng xé đoàn tàu của chúng tôi ra từng mảnh và nhận chìm các chuyển vận hạm, chẳng khác nào những con bồ câu bằng đất. Tôi cảm thấy nao núng. Nhưng tôi tự hỏi tại sao hạm đội địch lại không tiến đến nhanh hơn. Lúc 3 giờ 10, phi cơ thám thính gởi về một báo cáo đáng ngạc nhiên: "Hạm đội địch xoay hướng trở về Surabaya."

Đề đốc Takagi đứng trên đài chỉ huy của soái hạm Nachi đã cười to: "Chẳng là tàu chiến địch rời khỏi Surabaya để tránh bị các cuộc không tập của chúng ta dọn sạch. Địch quân không còn lòng dạ nào mưu đánh chúng ta. Kế hoạch và thời biểu của chúng ta vẫn tiếp tục. Đoàn tàu xoay đầu về hướng Nam."

Lúc 4 giờ 30 chiều, một báo cáo gây kinh ngạc khác của phi cơ thám thính: "Tàu địch lại xoay về hướng cũ, đội hình phân tán trước đó bây giờ nhập chung làm một, gia tăng tốc độ và chay về hướng 20 độ." Mười phút sau lại một báo cáo khác: "Tốc độ của tàu địch là 22 hải lý, hướng thẳng về đoàn tàu chúng ta."

Ý định của địch quân không còn ngờ vực gì nữa. Tôi xem hải đồ và nhận thấy tàu địch còn cách chúng tôi 60 dậm. Nếu cả hai bên chạy với tốc độ 20 hải lý thì trong một giờ rưỡi chúng ta sẽ gặp nhau.

Takagi, thình lình gắt gỏng và giận dữ, đã ra lịnh cho đoàn tàu chuyển hướng một lần nữa. Ông cũng ra lịnh hai tuần dương hạm phía sau tung các phi cơ thám thính lên, và các chiến hạm hộ tống dàn thành đội hình chiến đấu. Đồng thời hai tuần dương hạm Nachi và Haguro gia tăng tốc độ để bắt kịp đoàn tàu đi trước.

Hải đội 4 khu trục hạm chúng tôi lập tức kết hợp thành một nhóm và chạy theo đội hình hàng dọc, dẩn đầu là tuần dương hạm Jintsu. Các chuyển vận hạm cũng đổi hướng, chạy theo đội hình cánh quạt, nhưng vẫn với tốc độ chậm chạp. Hầu hết các chuyển vận hạm nầy là tàu buôn bị trưng dụng và thủy thủ đoàn không được huấn luyện nên nhìn cách lối di chuyển lộn xộn của họ mà bực mình. Nhiều chiếc tỏ ra ngơ ngác trước các lịnh lạc thay đi đổi lại, và không thể thi hành một cách nhanh chóng được.

Nhưng đáng giận hơn cả là việc hai tuần dương hạm Nachi và Haguro đến chậm, vì chạy cách hàng trăm dậm phía sau. Mỗi chiếc tàu nầy võ trang mạnh mẽ gấp mười chiếc khu trục hạm. Nếu không có chúng, tôi thấy không có cách nào chống chọi lại lực lượng hùng hậu của địch quân. Nếu tàu địch gia tăng vận tốc 30 hải lý, chúng sẽ đến trong nháy mắt. Nếu việc nầy xảy ra chúng tôi sẽ làm gì?

Vào 5 giờ chiều, tình trạng lộn xộn giảm bớt khi các tàu chuyển vận đã kết hợp thành đội hình và được các tuần tiểu đỉnh và ngư lôi đỉnh hộ tống. Phía sau hải đội của tôi, 4 khu trục hạm khác cũng lập thành đội hình chiến đấu. Một hải đội khác, gồm tuần dương hạm Naka và 7 khu trục hạm, được dàn ở phía sau. Các tàu chiến Nhựt hiện tại chạy với tốc độ 24 hải lý và sẵn sàng chiến đấu. Tôi nhìn về phía chân trời, không thấy bóng dáng hai tuần dương hạm hạng năng của chúng tôi ló dạng. Tôi bực tức rủa thầm.

"Tàu địch" tiếng la của chuẩn úy Shigaru Iwata, trưởng canh trên đài chỉ huy. Nhìn theo hướng anh ta chỉ, tôi thấy nhiều cột buồm nhô lên ở phía Nam, và trong nháy mắt mọi người đều nhìn thấy rõ rệt.

Qua hình dáng cột buồm nầy, tôi biết đó là loại tuần dương hạm De Ruyter của Hòa Lan. "De Ruyter cách xa 28.000 thước. Nó đang tiến nhanh đến chúng ta." Iwata nói một câu có vần có điệu theo nghề nghiệp.

Tôi xoay nhìn lại phía sau. Nachi và Haguro vẫn biệt tăm, chỉ có các tàu chuyển vận chạy như rùa bò. Tôi ra lịnh: "Xạ thủ và nhân viên thủy lôi sẵn sàng. Mục tiêu của chúng ta là chiếc tuần dương hạm dẫn đầu đoàn tàu địch."

Mọi tiến động trên khu trục hạm của tôi thình lình im bặt. Chúng tôi đang đâu mặt với trận hải chiến qua trọng đầu tiên của chúng tôi. Tiếng của Iwata phá vở sự im lặng: "Hạm Trưởng, nhìn kìa! Nachi và Haguro!". Tôi xoay lại và nhìn thấy bóng dáng được trông đợi mỏi mòn hiện lên ở chân trời phía Đông. Cả hai tuần dương hạm đều ở cách đây thật xa, nhưng có thể chưa muộn. Tốt. Tôi gật đầu. Lúc ấy là 5 giờ 30 chiều.

Các chiến hạm địch thình lình xoay về hướng Tây và bắt đầu chạy song song với chúng tôi. Đây là một biến cố khó giải đoán khác. Địch quân chắc chắn đã nhìn thấy đoàn tàu của chúng tôi, nhưng tại sao không dám thẳng vào? Qua hướng tiến trước đó, các chiến hạm địch có thể chọn lựa các mục tiêu một cách rộng rãi hơn trong khi chỉ nhận hỏa lực một cách giới hạn của chúng tôi.

( Lực lượng của Đồng Minh bao gồm hổn hợp các tàu của Hoa Kỳ, Anh, Hòa Lan và Úc: hai tuần dương hạm hạng nặng Exeter của Anh và Houston của Hoa Kỳ, 3 tuần dương hạm hạng nhẹ De Ruyter và Java của Hòa Lan, Perth của Úc và 9 khu trục hạm, 3 của Anh Electra, Encounter và Jupiter, 2 của Hòa Lan Kortenaer, Witte de With và 4 của Hoa Kỳ cac chiếc Alden, John D Edwards, John D Ford và Paul Jones

Đoàn chuyển vận hạm của Nhật Bản được hộ tống bởi một lực lượng gồm: 2 tuần dương hạm hạng nặng Nachi và Haguro, 2 tuần dương hạm hạng nhẹ Naka và Jintsu, 14 khu trục hạm Yudachi, Samidara, Murasame, Harusame, Minegumo, Asagumo, Yukikaze, Tokitsukaze, Amatsukaze, Hatsukaze, Yamakaze, Sazanami và Ushio)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro