Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

8. TOÁN TATARA LÊN ĐƯỜNG

Sau khi tu bổ, thủy thủ đỉnh I.47 trở về Hikari trong tuần lễ cuối cùng của tháng Ba. Tôi nhìn chiếc tàu tiến vô hải cảng lúc đang đứng trên boong của một ngư lôi đỉnh để quan sát Trung úy Kakizaki chạy Kaiten. I.47 được sơn một lớp sơn chống ra da mới. Tôi vẩy nón với thủy thủ đoàn khi chiếc tàu lướt ngang qua ngư lôi đỉnh của tôi. Chúng tôi chấm dứt thực tập, trở về cầu tàu vừa lúc một chiếc xuồng máy đưa Hạm Trưởng Orita vô bờ. Sáu hoa tiêu Kaiten chúng tôi đến ngay nơi cư trú của sĩ quan.

"A! Kakizaki, Chui! Shibaraku, dana?"

Hạm Trưởng Orita chào đón toán trưởng của chúng tôi một cách vồn vã. Rồi nụ cười rạng rỡ của ông biến sang buồn rầu:

"Toán Kaiten có nhiều biến đổi phải không? Tôi rất buồn khi nghe Trung úy Yazaki thiệt mạng, nhưng khi tin tức về cái chết của Đại úy Miyoshi đến tai tôi, tôi mới xúc động hoàn toàn. Khi nghe tin, tôi đã ngồi chết sững, hầu như tê liệt mấy phút."

Kakizaki nói, giọng cứng rắn và rõ ràng:

"Chúng tôi quyết tâm đền bù sự mất mát của Yazaki và Đại úy Miyoshi."

Hạm Trưởng Orita nói:

"Anh nói đúng. Tôi nghĩ các bạn sẽ làm nên việc. Hơn nữa, sáu anh là những hoa tiêu Kaiten đầy đủ kinh nghiệm nhứt hiện nay."

Kakizaki nói:

"Cảm ơn Thiếu tá! Bây giờ, tôi mạn phép giới thiệu những người khác trong toán của chúng tôi với Thiếu tá."

Lần lượt chúng tôi được giới thiệu và mỗi người đều cuối đầu chào cung kính. Trong cuộc gặp gỡ nầy, tên toán của chúng tôi, Tatara, được bàn tán. Hồi thế kỷ thứ 15, có một đại chiến tướng Nhật Bản tên là Tokimure Hojo. Ông đã đảm trách nhiệm vụ phòng thủ chống lại hạm đội đồ sộ của Mông Cổ đang mưu toan đổ bộ và chinh phục xứ sở chúng tôi. Được trợ giúp bởi một cơn bảo thổi tan hầu hết hạm đội nầy, ông đánh bại địch quân, trong trận hải chiến gần bãi Tatara, ở phía Bắc Kyushu. Cơn bão nầy là một trong hai ngọn "Thần Phong" thường được đề cập đến trong lịch sử của chúng tôi. Các phi đội Kamikaze mang ý nghĩa của ngọn gió thần nầy. Toán của chúng tôi được đặt tên Tatara, bởi lẽ chúng tôi cũng sẽ tấn công một lực lượng đổ bộ của Hoa Kỳ đang mưu toan đánh chiếm Okinawa nằm trong chuổi đảo Ryukyu của chúng tôi.

Soái hạm của toán Tarata là chiếc I.47, chở Kakizaki, Maeda, Shinkai, Yamaguchi, Furukawa và tôi. Cũng còn có ba tiềm thủy đỉnh khác. Chiếc I.44 sẽ ra khơi, dưới quyền chỉ huy của một hạm trưởng mới, Thiếu tá Kiyoshi Masuzawa, và các hoa tiêu Kaiten: Trung úy Hideo Doi, Thiếu úy Yasuhito Ikaku, Thiếu úy Takaharu Tatewaki và Trung sĩ Hikogo Sugabara. I.44 không có dịp may tấn công địch quân, vì nó bị các chiến hạm và phi cơ Hoa Kỳ khám phá, giữ riết dưới mặt nước gần hai ngày ròng rã. Bắt buộc Thiếu tá Masuzawa phải cho tàu quay về và bị cách chức lập tức, mặc dù tất cả hoa tiêu Kaiten đều tán thành hành động của ông.

Chiếc I.56, do Thiếu tá Keiji Shoda chỉ huy, cũng mang theo 6 hoa tiêu Kaiten. Đó là Trung úy Seiji Fukushima, xuất thân Hàn Lâm Viện Hải Quân, Thiếu úy Hiroshi Yagi và bốn hạ sĩ quan.

Tiềm thủy đỉnh thứ tư là chiếc I.58 của Thiếu tá Mochitsuda Hashimoto. Trung úy Nabuo Ikebuchi sẽ hướng dẫn ba hoa tiêu Kaiten khác: Thiếu úy Ichiro Sonoda, Trung sĩ Hidemasa Yanagiya và Trung sĩ Raita Irie. Những người nầy đã từng ra đi một lần, cũng trên tiềm thủy đỉnh nầy và đã trở về.

Do đó, sứ mạng hiện tại bao gồm 12 "tiềm thủy đỉnh tự sát", chống lại với các chiến ham tập trung ở hải phận Okinawa.

Tôi đã kinh ngạc khi biết được mục tiêu ưu tiên của chúng tôi sẽ nhắm vô các chiến hạm địch thả neo ngay sát các hòn đảo do lực lượng Nhựt chiếm giữ. Chúng tôi sẽ không được tấn công những loại tàu nào khác trừ phi chúng tôi gặp một số lượng đông đảo. Hoặc gặp một đoàn tàu bao gồm những hàng không mẫu hạm và thiết giáp hạm chúng tôi mới được phép đổi hướng mục tiêu chánh. Việc nầy cho thấy tình thế đã trở thành tuyệt vọng.

Bởi hiện tại lực lượng tiềm thủy đỉnh loại lớn của chúng tôi đã giảm xuống gần như đến con số không. Ngoài bốn chiếc đang thực hiện sứ mạng Tatara, chỉ còn lại một hai chiếc. Chúng tôi phải lựa chọn những mục tiêu tốt nhứt để đánh, đó là lí do tại sao đại chiến hạm địch là mục tiêu ưu tiên của chúng tôi.

Kaiten được buộc vô I.47 sau ngày chiếc tàu cập bến Hikari, và mang chúng tôi ra khơi để thử áp lực dưới độ sâu. Nếu buổi chạy thử hoàn hảo, chúng tôi sẽ phát xuất cuộc tấn công vào ngày 29 tháng Ba.

Ngay ngày mới tới, sau bửa ăn trưa, Thiếu tá Orita đưa cả sáu người chúng tôi xuống một chiếc tàu nhỏ để ra tiềm thủy đỉnh I.47. Đại úy Obori, phụ tá của ông tập hợp thủy thủ đoàn ngay khi chúng tôi bước lên tàu. Trong một vài phút, tôi hiểu tại sao I.47 có được một thành tích chiến đấu như vậy. Khi lịnh tập hợp ban ra, thủy thủ các cấp đã túa ra sắp hàng ngay ngắn. Tôi thầm nghĩ, đây mới đúng là hành động trên mặt biển, trong lúc chiến đấu. Tiềm thủy đỉnh nầy chiến đấu hữu hiệu là một điều không đáng ngạc nhiên.

Orita nói:

"Tôi muốn giới thiệu những hoa tiêu Kaiten của chúng ta với các bạn."

Sau đó, ông giới thiệu cấp bậc và tên họ từng người một, bắt đầu là Trung úy Kakizaki. Mỗi lần được giới thiệu, các thủy thủ đều nhìn chúng tôi mỉm cười và chúng tôi gật đầu đáp lễ. Đứng đây, nhìn thấy nỗi hân hoan mừng đón trong đôi mắt của họ, tôi cảm thấy ấm áp dễ chịu.

Khi cuộc tập hợp được giải tán. Hạ sĩ quan thường vụ của I.47 là Thượng sĩ Fujisaki bước đến chúng tôi và nói:

"Tôi lấy làm hân hạnh về sự hiện diện của quí vị trên tàu nầy. Thông thường, mỗi chuyến ra đi, chúng tôi có tổ chức một buổi trình diễn tài tử. Một số người tỏng thủy thủ đoàn nầy có biệt tài, kể cả sĩ quan. Nếu quí vị không bận, tôi hi vọng quí vị có thể tham dự. Một số trong quí vị đây chắc cũng có tài riêng để góp tay vô buổi trình diễn."

Trung úy Kakizaki thay mặt cả bọn nhận lời mời. Sau đó, chúng tôi xem xét qua Kaiten của chúng tôi. Gần mũi Kaiten của tôi nhân viên bảo trì có viết mấy dòng chữ "Chắc chắn", "Địch Quân", "Chớp Nhoáng". Mấy chữ nầy đã mang đến may mắn cho ngày hôm đó. Buổi chạy thử hoàn hảo. Nhưng khi trở vô vịnh, chúng tôi phải từ chối lời mời tham dự buổi trình diễn của Thượng sĩ Fujisaki. Một ám hiệu từ căn cứ ra lịnh cho sáu hoa tiêu Kaiten lên bờ.

Ngày hôm sau, 27 tháng Ba, một ngày hoàn toàn yên tĩnh. Tất cả Kaiten đều được mang lên bãi, đặt trên những mảng bằng cây và chúng tôi kiểm soát đi kiểm soát lại để các cơ khí viên điều chỉnh lần cuối cùng trước khi lâm trận. Thấy im lìm, tôi đoán chừng sẽ không có buổi tiệc tiễn hành, như thường thấy trong mỗi sứ mạng trước đây. Nhưng sau bữa ăn tối, tin tức đưa đến cho biết buổi tiệc nầy sẽ được tổ chức. Có khoảng 70 người sẽ tụ hội ở nhà ăn sĩ quan để nâng ly tiễn chúng tôi lên đường.

Khi tất cả chúng tôi ngồi xuống, Đề Đốc Mitsuru Nagai, đương kiêm Tư Lịnh Đệ Lục Hạm Đội bước vô. Tất cả chúng tôi đều đứng dậy, trong khi vị Đề Đốc và Bộ Tham Mưu của ông tiến đến chổ ngồi. Thiếu tá Koreeda, Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Hikari, mở lời sau khi tất cả chúng tôi đều ngồi xuống. Ông nói:

"Chúng tôi lấy làm vinh hạnh vì sự hiện diện của Đề Đốc Nagai đêm nay, trong bửa tiệc danh dự nầy được mở ra để cầu chúc cho Trung úy Kakikazi và năm đồng đội của ông thành công..."

Đề Đốc Nagai đứng dậy và nói:

"Tôi cầu chúc cho những hoa tiêu Kaiten thuộc toán Tatara thâu đạt thành công. Tôi hy vọng mỗi người trong các anh đều hạ được một kẻ thù của chúng ta. Lúc đó, linh hồn của các anh sẽ bay đến Yasukuni, để nhìn sự bất diệt của xứ sở thần thánh Nhật Bản. Tôi xin đảm bảo rằng chúng tôi, những người còn lại của Đệ Lục Hạm Đội, chúng tôi sẽ làm mọi cách để an ủi và giúp đỡ những người thân yêu của các anh. Gia đình của các anh sẽ được chu toàn."

Chỉ huy phó căn cứ của chúng tôi, Đại úy Mayata đứng dậy thật mau và nói lớn:

"Rót rượu!"

Những chai sake đặt rãi rác trên các bàn xung quanh, mọi người muốn uống bao nhiêu thì cứ việc rót. Đề Đốc Nagai đích thân rót sáu ly rượu đầu tiên cho các hoa tiêu Kaiten chúng tôi. Sau đó, Thiếu tá Koreeda giơ ly rượu của ông lên cao và nói:

"Tôi xin chúc mừng những người dũng cảm sắp ra đi. Xin tất cả hãy nâng ly với tôi"

Trước khi đến Hikari, tôi ít uống rượu, nhưng tôi coi đây là một buổi lễ đặt biệt, nên đã nốc cạn một ly đầy. Một thoáng yên lặng sau tuần rượu nầy, nhưng tan biến ngay khi Trung úy Horoshi Hashiguchi, một sĩ quan trẻ tuổi cuồng nhiệt đã tự sát sau nầy, đứng dậy và đề nghị mọi người cùng hát bản "Chiến sĩ ca"

Ra khơi, sóng bạc chôn vùi

Lên bờ, cỏ nội ngậm ngùi xác thân

Một đi, không ngại không ngần

Một đi, hồn đã hiến dân Thiên Hoàng.

Tiếng hát vang động khắp căn phòng rộng lớn. Tôi nhắm mắt lại, lắng nghe và nghĩ đến Nishina, Yazaki, Miyoshi, và những người đã ra đi về bên kia cõi khác. Mọi phân vân trong lòng tôi tan biến. Tôi đã chấp nhận. Tôi không còn cân nhắc thiệt hơn, không còn tự vẫn tại sao tôi ra đi. Hai ngày nữa, tôi lên đường! Tôi không hứa sẽ làm một cái gì vĩ đại, như những người khác đã hứa trong các buổi tiệc như thế nầy. Tôi sẽ ra đi một cách đơn giản, làm tất cả sức mình, để tiêu diệt kẻ thù.

Với ý nghĩ đó, tôi đưa ly về phía Trung úy Mitami đang ngồi gần tôi. Ông rót rượu vô ly, và tôi uống cạn. Hết ly nầy tới ly khác. Căn phòng bắt đầu quay cuồng trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy Trung úy Kakizaki, Trung úy Meada và Trung sĩ Furukawa ở phía bên kia căn phòng đang ca hát. Tôi gượng dậy, bước lảo đảo ngang qua phòng tiến đến họ. Tôi tựa vô một người và cất tiếng hát. Rượu sa kê lai láng. Tiếng la hét càng lúc càng dâng cao, trong đó có tôi. Một người la lớn:

"Đừng quên nghe! Chúng tôi hy vọng các anh làm nên việc!"

Một người khác:

"Chúng tôi sẽ sớm theo các anh!"

Và tiếng của người thứ ba:

"Sáu hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ! Hãy hạ chúng!"

Thêm nhiều bài hát được cất lên, trong đó có bài "Hải Quân Hành Khúc" và những bài khác quen thuộc với thủy thủ Nhật Bản. Hơn năm mươi người chúng tôi vẫn còn rống cổ ca hát khi buổi tiệc kết thúc vào lúc 10 giờ 30 với ba tiếng la "muôn năm" dành cho các hoa tiêu Kaiten. Tôi xiểng niểng và Shinkai cũng không hơn gì. Hai Trung úy Kakizaki và Maeda được khiêng về phòng. Tôi không thấy Furukawa và Yamaguchi, tôi chắc hai tên nầy đã chui vô một xó nào đó để tiếp tục uống nữa. Nhứt là Yamaguchi, một tay đại tửu lượng. Sau khi nốc hai ba lít, hắn thường nói:

"Tôi là dân Kyushu, không những mạnh uống mà còn mạnh về đàn bà nữa!"

Cái mạnh sau của hắn thì tôi không biết rõ, nhưng cái manh trước thì tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi chưa từng thấy có người nào uống rượu hơn hắn, uống rồi vẫn tỉnh bơ, vẫn làm nhiệm vụ vào sáng hôm sau. Lúc uống rượu, Yamaguchi thường hay nói rằng khi tình nguyện thi hành sứ mạng Kaiten, hắn chỉ tiếc một điều: dưới âm phủ không có rượu sa kê.

Đêm chỉ kết thúc đối với tôi và Shinkai lúc Trung úy Kozu xốc nách chúng tôi về phòng. Chúng tôi chúi xuống giường với quần áo nguyên vẹn.

Sáng hôm sau, tôi cảm thấy đầu tôi nặng còn hơn tượng Phật vĩ đại ở Kamakura. Việc đầu tiên của tôi là chạy đến cái ấm nước trà, ngước đầu về phía sau và trút nước vô miệng. Tôi uống không còn một giọt. Sau đó tôi cảm thấy dễ chịu chút ít. Tôi nhủ thầm: "Ngày hôm nay sẽ là một ngày mệt dữ đây!" Tôi phải có mặt trên tiềm thủy đỉnh khi Kaiten được xếp lên. Tôi cũng phải dọn dẹp căn phòng nầy và xếp các vật dụng cá nhân. Những gì để lại đây sẽ được gởi về gia đình sau khi tôi đã chết. Các hạ sĩ quan khác vẫn còn ngày khò khò. Tôi ngại đánh thức họ dậy, nhưng không làm sao hơn. Họ cũng có nhiều việc phải làm như tôi. sau khi tôi rửa mặt, nít thêm một số nước nữa và đi gặp Trung úy Kakizaki và Meada.

Khi bước vô phòng của họ, tôi bật cười. Hai người ngủ chung một giường, chỉ mặt áo thun lá, ôm nhau như đôi vợ chồng. Tóc tai của Trung úy Kakizaki bù xù. Cả hai ngáy vang như sấm. Nếu có một cái máy chụp hình thì hay biết mấy. Tôi gọi lớn:

"Trung úy Kakizaki!"

Tôi gọi hai ba lần. Ông mở mắt, nhìn chăm chú nhưng tôi chắc ông ta không thấy tôi. Kakizaki dụi mắt nhiều lần và cuối cùng nhận ra tôi, mỉm cười, ngồi bật dậy và lay gọi Maeda. Tôi quay về phòng và hài lòng khi thấy mọi người đã thức dậy lo dọn dẹp đồ đạc. Tôi thâu tóm vật dụng cá nhân, buộc chung thành một gói để gởi về nhà.

Mấy chiếc Kaiten được đưa lên I.47 lúc 11 giờ 30 sáng. Tất cả đều đã gắn đầu đạn, được nhân viên bảo trì và quân cụ xem xét cẩn thận. Hiện thời trước mũi của mỗi Kaiten chứa 3.000 cân Anh chất nổ cực mạnh, và được một tàu cần trục đưa ra tiềm thủy đỉnh đậu ở ngoài xa.

Kaiten của tôi mang số 3, xếp gần lái. Tôi vổ vổ vô hông nó, như người ta vổ một con vật thân yêu và nói: "Hãy thi hành nhiệm vụ cho tốt đẹp nghe!" Câu nói nầy chính là câu nói của không biết bao nhiêu sĩ quan đã nói với tôi trong suốt 8 tháng qua. Sau đó, tôi leo vô bên trong Kaiten để kiểm soát các dụng cụ. Hài lòng, tôi leo trở ra và báo cáo với Hạm Trưởng Orita. Mọi sự kiểm soát chấm dứt và chúng tôi trở về doanh trại lúc 4 giờ 30 chiều.

Nơi đây, một vật đang nằm chờ tôi, Shinkai, Yamaguchi và Furukawa. Trên giường của chúng tôi có bốn bộ quân phục mới toanh, bao gồm áo lót, bao tay trắng, và đôi giày. Mấy thứ nầy là lý do mà sĩ quan tiếp liệu yêu cầu chúng tôi cho kích thước một vài ngày trước đây. Tôi nghĩ đây là đồ lịm xác của tôi.

Thật là phí của! Nhứt là đôi giày. Có lẽ nó sẽ được mang không đầy một tuần, trên hải trình từ đây đến Okinawa. Tôi cảm thấy tốt hơn là nên trai mấy thứ nầy cho một người có thể "tận dụng" chúng.

Những chuẩn bị cuối cùng của tôi phải được làm vội vàng. Tôi đã gởi thơ cho gia đình, ám chỉ xa gần rằng lần nầy có lẽ là lần cuối cùng những người thân nghe được tin tức về tôi.

Mọi nới lỏng hiện thời đã được thắt lại. Tôi sẵn sàng ra đi.

Sáng hôm sau, ngày 29 tháng Ba năm 1945, tôi thức dậy hối hả. Tôi nhảy xuống giường, quơ chiếc khăn lông và chạy vô phòng tắm. Khi tôi đang kỳ cọ một cách sản khoái, miệng hát nho nhỏ, một giọng cất lên từ phía sau tôi.

"Chào anh! Yokota!"

Đó là Thiếu úy Kishie Kirizawa, cũng là một hoa tiêu Kaiten, và là người lùn nhứt ở Hikari.

Tôi ngưng tắm và quay lại:

"Chào Thiếu úy!"

Tôi tự hỏi hắn gặp tôi có chuyện gì. Kirizawa, một tay chắp sau lưng, nói tiếp:

"Tôi đến phòng anh để chúc anh gặp may mắn trong sứ mạng, nhưng không gặp anh ở đó."

"Cám ơn, thiếu úy! Chúng tôi sẽ cố gắng lấp đầy khoảng trống mà Đại úy Miyoshi và Trung sĩ Yazaki để lại"

"Tốt lắm!"

Hắn nói và rút cánh tay chấp phía sau ra. Trong tay hắn cầm một con búp bê nhỏ nhắn và rất xinh xắn.

"Tôi tự hỏi anh có thích mang vật nầy đi theo anh không?"

Hắn ta vừa nói vừa trao con búp bê cho tôi

"Utsujushii sesu! Đẹp quá! Con búp bê nầy chắc làm bằng tay. Tại sao Thiếu úy muốn tôi mang nó theo?"

Hắn nói:

"Đừng nên hỏi tôi một câu gì hết! Hãy cứ mang nó đi theo anh. Nếu anh nhận lời, tôi mang ơn anh lắm!"

Tôi quyết định không hỏi thêm nữa, vì tôi nhận thấy đôi mắt của hắn lộ vẻ bối rối.

"Cảm ơn! Thiếu úy nhiều!"

Hắn quay lưng, và tôi tiếp tục tắm với đầu óc đầy nghi vấn. Lý do nào hắn cho tôi con búp bê nầy? Hay hắn không nở quăng nó nên nhờ tôi mang đi? Có lẽ đây là con búp bê do một người yêu cũ tặng hắn, và hắn muốn lãng quên kỷ niệm bằng cách nầy. Hoặc gia đình hắn đã may cho hắn con búp bê nầy, coi như lá bùa hộ mạng trong chiến đấu. Với chỉ một vài tiềm thủy đỉnh còn lại, chắc chắn có một số hoa tiêu Kaiten không bao giờ được chọn lựa để thi hành sứ mạng, do đó hắn không mong gì được ra đi. Tôi nhún vai, nghĩ rằng một người khó có thể tự tìm hiểu tư tưởng một người khác. Tôi tắm xong, mang nhét con búp bê vô túi áo. Tôi phải mau lên mới được. Tôi cần chút ít thời giờ để đi từ giả một số sĩ quan đã đối xử tốt với tôi.

Tôi gặp Đại úy Miyata ở cửa phòng thuộc khu cư trú của sĩ quan. Ông nói:

"May mắn, Yokota!"

Tôi mĩm cười, và chào ông, rồi bước dọc theo dãy hành lang, đến những căn phòng khác, gỏ cửa và nói lời cảm ơn về sự đối xử tốt của một số sĩ quan đối với tôi trong thời gian tôi ở Hikari. Khi đến một căn phòng khác, tôi vừa cúi đầu và bắt tay chủ nhân, tôi tự hỏi: "Hạnh phúc của một người là gì? Đó là giữ sự tốt đẹp mãi mãi trong tâm trí những người mà hắn quen biết." Tring một đôi ngày tới đây, tôi sẽ không còn nữa. Dĩ nhiên, tôi không biết chắc mình sẽ chết theo cách nào. Có lẽ tôi không có dịp tấn công địch quân. Tôi có thể chết, với tất cả thủy thủ đoàn, dưới đáy sâu của Thái Bình Dương, như một số hoa tiêu Kaiten khác đã chết, vì sớm bị kẻ thù khám phá và sát hại. Tôi muốn trong tâm trí của những người mà tôi từng hợp tác ở đây sẽ thoáng nhớ đến tôi. Những tiếng gõ trên mấy cánh cửa nầy có lẽ là cố gắng cuối cùng trong đời sống của tôi cho niềm hạnh phúc ấy.

Khi tôi trở về phòng riêng, Shinkai, Furukwa và Yamaguchi đã mặc quần áo mới.

Shinkai hỏi:

"Bạn đi đâu? Trể rồi!"

Tôi đáp:

"Thăm mấy sĩ quan của căn cứ..."

"Tốt, tôi nghĩ đó là vấn đề lễ độ..."

Hắn không nói nữa, có lẽ thấy tôi không muốn thảo luận xa hơn về việc nầy. Tôi bước đến bộ đồng phục mới của tôi và nói:

"Nào, các bạn hãy quay mặt chổ khác, đừng nhìn tôi. Tôi thay quần áo đây.!"

Tôi uốn éo qua lại ngắm nghĩa bộ đồ mới. Shinkai la lớn:

"Hazukashii, masume san!"

Một cô gái e lệ thẹn thùng, hắn gọi tôi như vậy rất đúng. Nhiều người khác trong doanh trại tụ quanh và nhìn chúng tôi một cách buồn bã. Lúc tôi mặc quần áo xong, một số thủy thủ làm việc ở phòng ăn sĩ quan mang đến cho chúng tôi một tặng phẩm của các sĩ quan. Đó là một con cá chiên ướp muối to lớn. Ở Nhật Bản, trong những dịp vui mừng người ta có tục lệ gởi tặng vật như thế nầy. Kẻ vắng nhà lâu ngày vừa trở về, một người thăng quan tiến chức được bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng hoặc thi đậu chẳng hạn, và kể cả ngày thôi nôi của một đứa trẻ, và vào ngày đầu năm mới. Đó là ngày nhà cửa được lau chùi sạch sẽ, giấy mới được dán trên các cánh cửa Shoji, và cửa sổ. Chiếu mới thay chiếu cũ trên nền nhà. Nợ nần đều được thanh toán. Các bà nội trợ chấm dứt công việc bếp núp, mặc những bộ kimono xinh đẹp và đi thăm viếng đó đây. Quang cảnh hiện tại cũng giống như một ngày Tết đối với tôi. Mọi thứ đều sạch bóng, ngay cả đầu óc của tôi. Tôi đổi mới đời sống, dù ngắn ngủi.

Tôi cảm ơn các thủy thủ mang cá đến và mời những người khác cùng ăn với chúng tôi.Chúng tôi nuốt vội nuốt vàng khi loa phóng thanh kêu gọi tất cả hoa tiêu Kaiten tập hợp ở thính đường. Furukawa hét lớn:

" Iko! Đi!"

Hắn ba chân bốn cẳng, với ba đứa chúng tôi theo sát phía sau. Chúng tôi vừa chạy vừa nhìn xuống bộ quân phục để coi thức ăn có dính trên đó hay không.

Các lễ nghi đặt biệt diễn tiến trong thính đường, và sau đó mỗi chúng tôi được trao một thanh đoản kiếm. Sáu chúng tôi đứng thành một hàng ngay ngắn. Hàng phía sau chúng tôi là hai Trung sĩ Yoshio Hagita và Teruaki Mizumo cùng với bốn Thượng sĩ Mitsuo Kobayashi, Takettoshi Tsukumi, Eishun Oshiro và Shoji Nao. Sáu người nầy sẽ đi chung với chúng tôi trên chiếc I.47, mỗi người đảm trách bảo trì một chiếc Kaiten. Họ sẽ kiểm soát lại lần cuối cùng và giúp đỡ hoa tiêu leo vô Kaiten ngay trước khi cuộc tấn công bắt đầu.

Tất cả thủy thủ ở căn cứ đều có mặt trong buổi lễ đặt biệt nầy. Một số khó thể dấu diếm nỗi vui buồn lẫn lộn của họ. Họ mừng cho chúng tôi, nhưng buồn bã vì chưa tới phiên họ ra đi. Sự khiếm khuyết Kaiten đã bất đầu gây trì trệ cho chương trình nầy ở Otsujima. Sau đó, khi Kaiten được sản xuất đồng loạt, lại vấp phải vấn đề khiếm khuyết cơ khí viên. Hiện thời lại thiếu tiềm thủy đỉnh để chuyển vận chúng tôi ra mặt trận. Mặc dù mọi nổ lực được đưa ra, nhưng mỗi lần chỉ có một số Kaiten thi hành nhiệm vụ mà thôi.

Khi được gọi tên, chúng tôi giở nó ra và khom mình. Một tấm vải trắng được trải trên một chiếc bàn rộng, và Thiếu Tá Koreeda, Chỉ huy trưởng căn cứ đứng phía sau. Các thanh đoản kiếm với sáu "hachimaki" đặt trên mâm.

Tôi là người cuối cùng được gọi. Trung úy Hamaguchi, sĩ quan chỉ huy phòng bảo trì của toán bảo trì, chính là người đã gọi tên chúng tôi, lấy "hachimaki" thứ sáu quấn quanh đầu tôi. Trên chiếc khăn có viết mấy chữ sắt sảo "Shichi sho hokoku" (Tái sanh bảy lần để phục vụ quốc gia). Đây là khẩu hiệu của Masashige Kusunoki, một chiến tướng của nhiều thế kỷ trước đây, nhằm chứng tỏ lòng trung thành của ông đối với Thiên Hoàng.

Mỗi chúng tôi được trao một chiếc ly đầy nước để uống. Đây là ly nước tử biệt, và là một giây phút trang nghiêm nhứt. Theo truyền thống, một chiến sĩ Nhật Bản sắp diện với cái chết đã uống nước lạnh, thay vì sa kê, mang ý nghĩa chứng tỏ linh hồn trong sạch của hắn. Khi chúng tôi từ từ uống ly nước nầy, cả hàng mấy trăm người hiện diện đều im phăng phắc. Sau đó, chúng tôi đứng trước vị chỉ huy trưởng căn cứ và ông trao cho mỗi chúng tôi một thanh đoản kiếm. Ông nói:

"Đây là tặng vật đặt biệt của Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hỗn Hợp."

Chúng tôi cừng giơ thanh kiếm lên, đầu chuôi ngang tầm mắt. Đây là cử chỉ thách đấu của một Samurai tront thời phong kiến ở Nhật Bản. Hiện tại chúng tôi lập lại cử chỉ nầy, thách thức của chúng tôi nhắm vào hạm đội Hoa Kỳ.

Chúng tôi bước ra ngoài để chụp hình. Sau khi việc nầy chấm dứt, những người khác đứng thành hai hàng, và chúng tôi bước giữa hai hàng người nầy để ra cầu tàu, cầm thanh đoản kiếm đưa về phía trước để chào. Mắt của mọi người ngời sáng, một số lấp loáng những hạt lệ nhưng cố ngăn lại, như để khỏi gây rũn chí cho kẻ ra đi. Tôi vui vẻ chúc tất cả những người đứng hai bên đường gặp nhiều may mắn trong tương lai. Tay trái tôi cầm hủ sành đựng hài cốt của Yazaki, tay mặt cầm thanh đoản kiếm, tôi mĩm cười vui vẻ tiến đến cầu tàu.

Chiếc xuồng máy đưa chúng tôi ra tiềm thủy đỉnh I.47 cũng mang vẻ rộn rã như mọi cảnh vật xung quanh. Trên những tàu cần trục, những chiếc ngư lôi đĩnh, và tàu nhỏ khác đều tràn ngập biểu ngữ, mang những giòng chữ khích lệ. Chúng tôi vẩy nón quanh đầu đáp trả đám đông đứng trên cầu tàu. Nhiều người khác đứng dọc theo bải biển, hoan hô vang dậy, không khác nào tiếng sấm.

Xuồng máy cập vô tiềm thủy đỉnh, chúng tôi bước lên boong. Đề đốc Nagai chờ sẵn chúng tôi ở đây. Ông bắt tay từng người một và nói:

"Vĩnh biệt, và chúc các anh may mắn!"

Những giọt nước mắt chảy dài xuống đôi má ông. Tôi cố giữ vẽ bình thản, không để lộ một cảm giác hối tiếc hoặc xúc động nào, nhưng khó thể được, khi tay của vị Đề đốc siết chặt tay tôi.

Đề đốc Nagai nói một đôi lời vắn tắt, trong lúc thủy thủ đoàn I.47 đứng nghiêm dọc theo sàn tàu chánh và các hoa tiêu Kaiten đứng trước vũ khí của họ. Sau đó, ông bước xuống tàu riêng chạy vô bờ, và một hồi kèn trổi lên, ra lịnh cho thủy thủ đoàn trở về vị trí trong lúc tiềm thủy đỉnh chuẩn bị lên đường.

"Kiếm chào!Bắt!"

Trung úy Kakizaki hét lớn khi tàu bắt đầu hướng ra khơi. Những chiếc xuồng máy và ngư lôi đĩnh chạy dọc theo hai bên tiềm thủy đỉnh, hộ tống chúng tôi rời khỏi hải cảnh. Tôi nhận ra ngư lôi đĩnh 220, chiếc tàu đảm trách buổi thực tập Kaiten đầu tiên của tôi. những người đứng trên sàn tàu vẩy gọi inh ỏi. Tôi có thể nhìn thấy Trung sĩ Yuasa. Hắn từng phục vụ trên thiết giáp hạm khổng lồ Yamato một thời gian, và giúp đỡ tôi rất nhiều trong các buổi huấn luyện Kaiten. Hắn la lớn:

"Ràng làm cho ngon lành nghe, Yokota"

Tôi cũng la lớn, vẫy kiếm quanh đầu.

"Tôi sẽ ráng. Anh sẽ sớm nhận được tin mừng lớn của tôi! Một tuần nữa thôi!"

Các ngư lôi đĩnh bắt đầu tụt lại phía sau. Chúng không thể xài phí quá nhiều nhiên liệu, ngay cả trong dịp quan trọng nầy. Những chiếc tàu khác giây lát sau cũng chạy chậm lại, các thủy thủ trên boong vừa vẩy tay vừa la hét cho đến khi chúng tôi chạy xa hẳn, không còn nhìn thấy họ nữa. Khuôn mặt của Anzai, Nagato, Ishibashi, Ozawa, Tsuda và những khác với lời vĩnh biệt cuối cùng của họ vẫn còn khắc sâu trong trí tôi.

I.47 xoay hướng và tiến về eo biển Bungo. Một khi qua khỏi hải trình nhỏ hẹp nầy, chúng tôi sẽ gặp kẻ thù không biết lúc nào.

Phần 6

Niềm vui chiến thắng Santa Cruz không kéo dài được bao lâu. Mạng lệnh đang chờ đợi Đô đốc Nagumo ở Truk. Ngày 2 tháng 11, ông rời khỏi chức vụ Tư lệnh Đệ Tam Hạm Đội, tức Lực Lượng Đặc Nhiệm, và trở về Nhật đảm nhiệm chức vụ mới, Chỉ huy trưởng Căn cứ Hải quân Sasebo.

Nghe tin việc thuyên chuyển này, tôi đã đến gặp ông, nhưng không biết nên ngỏ lời chia vui hay chia buồn với ông. Trước mặt tôi, Nagumo chỉ là một ông già tiều tụy. Hình như trong vòng sáu tháng qua, ông đã già thêm 20 tuổi. Khi thấy tôi, ông thoáng cười: " Hân hạnh được gặp anh, Hara. Những việc anh làm khiến tôi kiêu hãnh."

Tôi đỏ mặt vì lời khen tặng này, và sau một vài giây yên lặng đầy bối rối, tôi lên tiếng: "Thưa Đô đốc, tôi thấy Đô đốc dường như không được khỏe?"

"Ồ! Bệnh cúm sơ sài thôi." Ông mau mắn đáp. "Trở về quê nhà ít hôm sẽ khỏi ngay, và tôi sẽ sớm trở lại đây để chiến đấu với anh."

"Dạ đúng, thưa Đô đốc, khí hậy ở Sasebo sẽ khiến Đô đốc mau bình phục. Đô đốc xứng đáng được nghỉ ngơi một thời gian, vì Đô đốc đã liên tục một năm ngoài mặt trận rồi. So sánh với nhiệm vụ của Đô đốc, nhiệm vụ của tôi không khác nào kẻ đi ngao du một cách nhàn nhã trên mặt biển."

"Nhưng từ đây anh không còn nhàn nhã nữa đâu, ngoại trừ chiếc Junyo, tất cả hàng không mẫu hạm sẽ về Nhật để tu bổ. Và trong các trận đánh vừa qua, chúng ta đã thiệt mất một số phi công giỏi, các phi công mới chắc còn lâu mới thích hợp được với nhiệm vụ của họ."

"Xin lỗi Đô đốc, như vậy là các hàng không mẫu hạm Shokaku, Zuikaku, Zuihu và Hiyo, tất cả sẽ vượt 2500 dặm để trở về quê hương, và chỉ còn lại một mình chiếc Junyo yểm trợ về mặt trên không cho chúng tôi hay sao?"

"Phải, Hara. Các chiến hạm của chúng ta chỉ bị thiệt hại nhỏ trong trận Santa Cruz, nhưng chúng ta đã mất một số phi công kinh nghiệm và những người chỉ huy tài giỏi về ngành bay. Đối với chúng ta , trận đánh vừa qua Nhật đã chiến thắng trên phương diện chiến thuật, nhưng trên phương diện chiến lược lại là một thất bại to tát. Như anh đã biết, tôi đặc biệt nghiên cứu tiềm năng chiến tranh của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tôi du học bên ấy. Đoán biết khả năng kỹ nghệ của địch vượt bậc, trong mọi trận đánh chúng ta phải hạ gục họ ngay mà không để cho bị thiệt hại. Nhưng không may, trong trận đánh vừa qua, chúng ta đã không làm được như vậy."

Người thay thế Nagumo là Phó đô đốc Jisaburo Ozawa, một chuyên viên khu trục hạm đáng chú ý, nhưng tài năng trong tư cách một Tư lệnh Lực Lượng Đặc Nhiệm của ông thì không ai biết ra sao. Tin tức của việc thay đổi này gây nhiều cảm giác lẫn lộn. Chúng tôi biết sức khỏe của Nagumo yếu kém, không thích hợp với nhiệm vụ chiến đấu. Mọi người hy vọng tân tư lệnh sẽ tạo ra "phép lạ" và dẫn dắt chúng tôi đến các chiến thắng vĩ đại.

Kế đó, tôi đến viếng thăm Kakuta để chúc mừng ông vừa được tân thăng. Vị tân Phó Đô đốc này luôn luôn hăng hái, nhưng xem ra ông có vẻ nao núng khi chúng tôi thảo luận về việc lực lượng của ông chỉ còn lại một hàng không mẫu hạm duy nhất hoạt động ở Tây Nam Thái Bình Dương.

Tôi cũng ghé tạt qua Tổng Hành dinh Hạm Đội Hỗn Hợp của Đô đốc Yamamoto và nhận thấy không khí ở đây có vẻ căng thẳng. Từ khi sư đoàn 2 Bộ Binh thảm bại, Lục quân yêu cầu Đô đốc Yamamoto cung cấp đầy đủ các phương tiện chuyển vận. Ông chỉ biết làm theo các yêu cầu này mà không được bàn ra tán vào.

Yamamoto biết tất cả các đơn vị của ông đều quá mỏi mệt sau trận đánh Santa Cruz. Nhưng ông bắt buộc phải đưa các đơn vị này ra đại dương một lần nữa, và lần này hầu như không được bao che về mặt trên không. Yamamoto đã có lý khi cho rằng trong trận Santa Cruz địch mất mát bao nhiêu thì ông cũng kiệt quệ bấy nhiêu. Khoảng đầu tháng 11 hình như nhận xét này có vẻ không mấy đúng khi 20 khu trục hạm Nhật thành công trong việc đổ bộ toàn thể Sư đoàn 38 vào những ngày 2,7,8 và 10 mà không gặp bất kỳ sự ngăn trở nào của địch quân. Nhưng hải quân Hoa Kỳ, giống như trước đây, đang chờ đợi đúng lúc để ra tay. Chiến hạm Hoa Kỳ trở lại, và một loạt chạm trán đẫm máu đã xảy ra cạnh hải phận Guadalcanal vào những ngày 12 đấn 15 tháng 11.

Tôi tham dự ngay trận đầu của loạt hải chiến này, và nhận thấy sự tiên đoán của Nagumo hoàn toàn đúng. Đây là trận đánh dữ dội hơn bất kỳ trận đánh nào tôi đã từng biết qua trước đây. Chiếc Amatsukaze của tôi đã phóng ngư lôi đánh chìm tuần dương hạm Juneau và khu trục hạm Barton, đồng thời gậy thiệt hại nặng nề cho soái hạm San Francisco của Đề đốc Hoa Kỳ Daniel T.Callaghan. Hai quả đại pháo của tuần dương hạm Helena đã đốn ngã 43 người trong số thủy thủ đoàn của tôi trong lúc tôi đứng chung với họ mà không xây xát gì cả. Tôi còn sống trong trận này chỉ nhờ vào sự may mắn.

Đây là một trong những trận hải chiến kỳ dị nhất của lịch sử hiện đại, hầu như là một cuộc loạn đả giữa 14 chiến hạm Nhật Bản và 13 chiến hạm Hoa Kỳ. Trong trận này, Nhật mất một thiết giáp hạm và hai khu trục hạm, phía Hoa Kỳ chỉ còn tồn tại 3 khu trục hạm và một tuần dương hạm không mấy nguyên vẹn. Một số sĩ quan chỉ huy của Hoa Kỳ thiệt mạng. Có thể nói đây là một trong những cuộc bại trận tồi tệ nhất của Hoa Kỳ trên mặt trận thái Bình Dương. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng không được hài lòng trọn vẹn với những chiến tích đạt được. Vị tư lệnh Nhật, chỉ huy trận đánh này, bị đưa ra tòa án và bị cách chức về tội làm "ô danh cấp lãnh đạo."

Giống như một cuộn chỉ rối. Người ta không thể nào biết được các chi tiết thật sự liên quan đến trận đánh. Sau đây tôi cố gắng vẽ lại trận đánh này một cách vô tư, xác thực và đầy đủ bao nhiêu hay bấy nhiêu. Đề đốc Kobi Abe, một chuyên viện khu trục, và một tay có kinh nghiệm chiến đấu, đã chỉ huy 14 chiến hạm Nhật tham dự vào trận đánh này. Ông nổi tiếng là người rất thận trọng, vì vậy mà ông thường bị chỉ trích là rụt rè, nhút nhát. Trong trận Santa Cruz, Abe chỉ đơn vị tiền phương và đã kháng cự hữu hiệu trước các cuộc không kích của Hoa Kỳ, nhưng khi địch quân rút lui ông không chịu truy đuổi đến cùng.

Đề đốc Abe tỏ vẻ nồng nhiệt khi nhận lệnh của Yamamoto cầm đầu phận đội 14 chiến hạm mở các cuộc pháo kích dọn đường lên Guadalcanal, như Kurita đã làm một tháng trước đó. Abe không tin là người Mỹ ngu dại đến nỗi cho Nhật áp dụng cùng một phương thức tấn công đã từng được sử dụng.

Tình trạng sức khỏe củng Abe sa sút, nhất là sau trận đánh gần đảo Savo vào ngày 11 tháng 10, đưa đến cái chết của người bạn cố tri của ông, Đề đốc Aritomo Goto. Trước khi trút những hơi thở cuối cùng, Goto có những lời trối trăng cho thấy ông bị giết chết bởi hỏa lực bạn, và cho rằng hành động can đảm của ông là ngu dại. Đó là một cái chết đầy tăm tối. Abe buồn bã khi nghe việc này, và ông quyết định không dẫm lên dấu chân của Goto. Abe có lý khi cho rằng cuộc đổ bộ êm thắm của Sư đoàn 38 chỉ là một sự êm thắm giả tạo. Tình hình này giống như trước khi xảy ra trận đánh Santa Cruz. Và tâm trạng của ông là đón chờ những gì tồi tệ nhất xảy ra.

Vào ngày 9 tháng 11, chiếc Amatsukaze của tôi nằm trong một nhóm 8 khu trục hạm cùng với tuần dương hạm hạng nhẹ Nagara rời khỏi Truk, và sáng sớm ngày 12 chúng tôi kết hợp với hai thiết giáp hạm và thêm ba khu trục hạm của Đề đốc Abe gần đảo Shortland. Lúc 8h30 cùng ngày, khi còn các phía Bắc mục tiêu 300 dặm, chúng tôi bị một pháo đài bay B-17 phát hiện. Hàng không mẫu hạm Junyo của Phó Đô đốc Kakuta cho các phi cơ cất cánh để chống lại chiếc B-17 này, nhưng nó đã lẩn tránh mất dạng mà không hề thả một trái bom nào. Nhưng chắc chắn chiếc B-17 đã thu thập đầy đủ những gì cần biết về hoạt động của chúng tôi. Cuộc tiếp xúc quá sớm này càng khiến cho tính thận trọng cố hữu của Abe gia tăng hơn nữa, và nhất là ông lại nhận được những báo cáo về các nỗ lực tăng viện thành công của địch quân vào hai ngày 11,12 tháng 11.

Lúc 13h30 bỗng nhiên Abe ra lệnh thay đổi hẳn đội hình di chuyển. Từ đầu chúng tôi di chuyển một hàng dọc, bây giờ chuyển thành đội hình xen kẽ như sau: Năm khu trục hạm trải rộng ra thành hình vòng cung, chạy cách phía trước tuần dương hạm Nagara 8000m. Kể từ chiếc Nagara, sáu khu trục hạm khác trải phân nửa đội hình cánh quạt, mỗi chiếc cách nhau 2000m. Hai thiết giáp hạm Hiei ( soái hạm) và Kirishima chạy phía sau chiếc Nagara, mỗi chiếc cách nhau 2000m.

Đội hình vững chãi này hoàn tất vào lúc 14h, khi chúng tôi chỉ còn cách Guadalcanal trong vòng 200 dặm. Tôi nghĩ, mục đích cũa đội hình này là nhằm ngăn ngừa tiềm thủy đĩnh hoặc phi cơ địch tấn công bất thần trên đường tiến đến mục tiêu của chúng tôi. Tôi không bao giờ tưởng tượng Abe vì sự quá cẩn trọng này mà phải lâm vào cảnh bối rối trong suốt cuộc hành quân. Còn bối rối hơn một cuộc tấn công bất thần của địch quân.

Trong khi chúng tôi vẫn tiến về phía Nam với tốc độ 20 hải lý, soái hạm Hiei cho một trinh sát cơ cất cánh. Một giờ trôi qua, phi cơ của chúng tôi không gửi báo cáo về mà cũng không có một chiếc phi cơ nào của địch xuất hiện. Thời tiết thình lình u ám. Những đám mây dày đặc tụ đến nhanh chóng và một cơn mưa bão dữ dội trút xuống, che mờ mọi vật cho đến nỗi không nhìn thấy cả những chiếc tàu chạy gần nhau nhất. Trên chiếc Amatsukaze, chúng tôi bồn chồn mong đợi lệnh cho các chiến hạm chạy chậm lại, và thay đổi một đội hình ít phức tạp hơn. Nhưng không có một lệnh nào như vậy được ban ra.

Đối với Abe, cơn mưa bão hiện tại là một thiên ân. Ông biết rằng được ẩn trong cơn mưa bão này, phận đội của ông không còn sợ các cuộc tấn công của địch từ ba mặt trên không, trên mặt biển và dưới biển. Khi các sĩ quan của Abe khuyên ông nên cho các chiến hạm giảm tốc độ, ông đã gạt đi: "Chúng ta phải duy trì tốc độ này để tiến đến mục tiêu đúng lúc."

Mưa bão trên các vùng biển nhiệt đới thường giới hạn trong một khu vực nhỏ và hiếm khi kéo dài hơn một vài phút. Nhưng cơn mưa bão này đã làm chúng tôi kinh ngạc, vì nó có vẻ kéo dài triền miên. Chúng tôi tiếp tục với vận tốc 18 hải lý. Hai giờ trôi qua, mưa vẫn đổ xuống như thác.

Mặc dù nước mưa thấm ướt chư chuột lột, thân thể và mặt mày chúng tôi rướm ướt mồ hôi. Trong thời bình, không có vị tư lệnh lực lượng hải quân nào dám cho các chiến hạm của ông ta chạy xuyên qua cơn mưa bão mù mịt, với tốc độ cao và một đội hình phức tạp, bởi lẽ thời gian này chưa có dụng cụ nào để di chuyển an toàn trong tình trạng như vậy. Nhưng chúng tôi đã di chuyển suốt bảy tiếng đồng hồ trong tình trạng đui mù này mà không xảy ra tai nạn nào. Điều đó đã chứng tỏ tài đi biển của các thủy thủ Nhật bản, cũng như vào sự lão luyện cao độ đã tránh được tình trạng bắn lầm giữa các chiến hạm chúng tôi, trong trận đánh hỗn loạn sắp xảy ra. Một số tin tức của Hoa Kỳ liên quan đến trận đánh đã cho rằng chiến hạm Nhật khai hỏa vào nhau, điều này hoàn toàn sai.

Trên đài chỉ huy của chiếc Hiei, Abe có vẻ khoái trá. Ông nói với các sĩ quan ướt như chuột lột của ông đang đứng xung quanh: "Cơn mưa bão trời giúp này đang di chuyển cùng một tốc độ và cùng một hướng với chúng ta."

Báo cáo đầu tiên của phi cơ thám thính: "Phát hiện hơn một chục chiến hạm địch quân gần đảo Lunga."

Abe cười: "Nếu Trời tiếp tục chạy song song với chúng ta như thế này, chúng ta sẽ khỏi phải bận rộn với các chiến hạm đó."

Phân đội tiếp tục tiến. Nhiều giờ nữa trôi qua, nhưng mưa bão không ngừng mà có phần dữ dội hơn. Trong suốt những năm trong đời binh nghiệp của tôi, tôi chưa từng thấy cơn mưa bão nào như vậy. Nó dần chúng tôi mệt nhừ. Các sĩ quan của tôi đều tỏ vẻ bực bội. Thiếu úy Shoji nói: "Hết chịu nổi rồi. Trận mưa này đang giết tôi. Tôi muốn điên lên. Chúng ta chống lại bọn Mỹ còn tốt hơn là chống với cơn mưa này."

Lúc 22h, chúng tôi đã tiến đến gần mục tiêu, với điều kiện là chúng tôi di chuyển chính xác. Trên soái hạm Hiei, Abe đang cắm cúi trên hải đồ. Từng là một chuyên viên khu trục hạm, ông biết rõ khả năng từng hạm trưởng một của ông, và ông cũng biết rõ Đề đốc Susumu Kimura ở trên chiếc Nagara là một trong những chuyên viên hàng hải ưu tú nhất của Nhật Bản.

Đồn quan sát của Lục quân ở Guadalcanal vừa gửi Abe một công điện: "Ở đây hiện giờ thời tiết rất xấu." Phí cơ thám thính của Hiei, sau báo cáo ở Lunga, đã bay thẳng về Bougainville, vì không thể đáp xuống chiếc tàu mẹ đang chạy trong mưa bão. Đề đốc Abe biết rằng một cuộc pháo kích của các tàu chiến không thể chính xác trong tình trạng như thế này, ông quyết định thoát khỏi cơn bão ở mạn phía Nam. Sau đó, Hiei truyền lệnh qua siêu tần số: "tất cả các chiến hạm sẵn sàng để đổi hướng 180 độ cùng một lúc." Như vậy có nghĩa là chúng tôi quay lưng về phía mục tiêu.

Tôi đáp lập tức: "Amatsukaze gửi Hiei, đã sẵn sàng để đổi hướng 180 độ." Thông thường, khoảng cách liên lạc để đổi hướng đội hình phải mất 30 giây, như vậy mới chuẩn bị kịp để tránh sự va chạm.

Tôi bồn chồn nhìn đồng hồ. Một phút trôi qua. Lệnh đổi hướng vẫn chưa đến. Một phút ba mươi giây, vẫn im lặng. Tôi chạy vào phòng truyền tin hỏi: "Có lệnh chưa?"

"Chưa, thưa Đại tá. Các khu trục hạm đi đầu là Yudachi và Harusame cũng chưa được lệnh."

Ba phút trôi qua, phòng truyền tin báo cáo: "Thưa Đại tá, Hiei đang dùng tần số trung bình để liên lạc với yadachi và Harusame."

Tôi kêu lên: "Sao lại có chuyện đó? Hiei điên rồi à?" Bởi vì sử dụng tần số trung bình có thể bị địch quân chặn bắt dễ dàng. Như vậy lợi thế của chúng tôi nhờ cơn mưa bão đã bị Hiei phá tan rồi."

Lúc 22h, hiệu thính viên báo cáo: "Lệnh đổi hướng 180 độ cho tất cả chiến hạm."

Tôi ra lệnh: "Xoay 180 độ." Khu trục hạm của tôi thi hành một cách gọn gàng. Tôi nhìn quanh một vòng, chỉ sợ các tàu đụng chạm. Không có việc gì xảy ra. Sự đổi hướng kỳ dị trong một đội hình phức tạp như vậy mà êm thấm mới là chuyện khác thường.

Lệnh kế của soái hạm Hiei: "Tốc độ của tất cả chiến hạm giảm xuống còn 12 hải lý." Abe không bao giờ làm việc cầu may. Qua nhiều năm kinh nghiệm, ông biết đội hình trước đó, chạy như đui mù, sẽ không còn giữ đúng nữa. Abe cho xoay 180 độ là hữu lý. Và đội hình hiện giờ chắc chắn đã phân tán. Tôi đã nhìn thấy, ngay cả trước khi có lệnh giảm tốc độ, đội hình vòng cung của năm khu trục hạm, chạy phía trước tuần dương hạm Nagara 8000m, đã phải xoay hẳn một vòng tròn thay vì 180 độ, để quay lưng về phía Guadalcanal. Vì vậy, năm chiếc tàu này bị vỡ làm hai nhóm, một nhóm hai chiếc và một nhóm ba chiếc. Và do đó, đội hình của toàn thể đoàn tàu gia tăng thêm một phần nữa. Yếu tố bất ngờ này lại có một giá trị quan trọng đối với trận đánh sắp xảy ra.

Mưa bão chấm dứt lúc 22h40, hơn 30 phút kể từ khi chúng tôi bắt đầu xoay hướng. Abe lại ra lệnh xoay thêm 180 độ nữa, tức xoay mũi các chiến hạm trở lại phía hòn đảo. Tôi độ chừng Abe bây giờ sẽ thành lập một đội hình duy nhất. Đội hình phức tạp chỉ thuận lợi để chống lại các cuộc tấn công của loại ngư lôi đĩnh nhỏ, nhưng nếu gặp phải một cuộc tấn công quy mô, chúng tôi sẽ lâm vào cảnh rối loạn ngay.

Abe, với tính cẩn thận cố hữu của ông, vẫn cương quyết giữ lại đội hình cũ. Và đây là lần đầu tiên tôi nghi ngờ sự khôn khéo của ông. Lúc chiến đấu mà nghi ngờ khả năng của cấp chỉ huy là không tốt. Nhưng tôi không thể nào cho rằng việc giữ đội hình cũ là thích hợp một khi soái hạm Hiei đã dùng tần số vô tuyến trung bình để liên lạc. Địch quân chắc chắn đã định được ví trí của chúng tôi và sẵn sàng đánh.

"Đảo nhỏ, 60 độ tả mạn." Tiếng la của một quan sát viên chấm dứt dòng tư tưởng của tôi. Sau đó, nhiều tiếng la cùng lúc: "Dãy núi cao án trước mặt."

Tôi quay sang trái, nhìn thấy hình dáng đen sậm của đảo Savo thấp thoáng trong bóng đêm. Phía trước tàu của tôi là dãy núi Guadalcanal cao chớn chở, đỉnh như lẩn khuất trong mây. Tôi có linh tính cuộc đụng độ sắp xảy ra. Tôi thấy kích động và hít một hơi dài không khí êm mát của đêm. Tôi ra lệnh: "Chuẩn bị trọng pháo và ngư lôi tấn công ở hữu mạn. Tầm súng 3000m. góc phóng ngư lôi 15 độ."

Im lặng trở lại trên tàu của tôi sau khi mọi người đã vào vị trí chiến đấu. Trên soái hạm, Abe đang cắm cúi với các báo cáo. Thủy phi cơ quan sát cất cánh từ Bougainville cho biết mưa vừa dứt ở Guadalcanal và không còn thấy một chiến hạm nào của địch gần đảo Lunga. Năm mươi phút sau khi chúng tôi xoay hướng lần thứ hai, phân đội chỉ còn cách bờ biển Guadalcanal 12 dặm. Abe vẫn chưa quyết định, chỉ ta lệnh một cách uể oải" "Hiei và Kirishima chuẩn bị loại đạn số 3 cho các pháo khẩu chính." Đây là loại đạn lửa, nặng một tấn, mang một khối lượng chất nổ mạnh hàng trăm trái bom.

Lúc 23h42, tuần dương hạm Yudachi báo cáo: "Nhìn thấy địch quân."

Abe hét: "Địch quân ở phía nào, và bao xa? Còn vị trí Yudachi ở đâu?"

Abe chấm dứt cơn thịnh nộ khi quan sát viên của Hiei đứng trên tháp cao la to: "Bốn điểm đen phía trước.... Nhìn giống như các chiến hạm, ở 5 độ hữu mạn. Khoảng cách 8.000m.... nhưng không chắc. Nhìn không rõ."

Abe xụ mặt: "Yadachi ở chếch về bên phải chúng ta 10.000m. Hỏi lại các quan sát viên xem các điểm đen khoảng cách bao xa."

Trung tá Masakane Suzuki, Tham mưu trưởng của Abe bước ra và lớn tiếng hỏi: "Có đúng 8.000m không? Phải xác định."

"Có lẽ 9.000m thưa Trung tá."

Abe, hình như xao xuyến, giọng nói ấp úng: "Ra lệnh cho các pháo thủ ở Hiei và Kirishima thay tất cả loại đạn lửa bằng đạn xuyên phá giáp và xoay các pháo khẩu về phía trước." Abe ngồi yên trên ghế, ông đang phân vân. Đáng lẽ ông phải lệnh cho hai thiết giáp hạm xoay mũi chạy lùi về phía sau trong hki thay loại đạn khác, nhưng ông cân nhắc, và cuối cùng không đưa ra lệnh này.

Trên sàn tàu của hai thiết giáp hạm bỗng nhiên hoang vắng. Hầu hết mọi người đều phải bỏ vị trí chiến đấu để tiếp tay mang loại đạn xuyên phá giáp được chứa từ hầm sâu lên thay thế loại đạn lửa. Trong khi đó loại đạn vĩ đại này vẫn còn chất đống như núi trên sàn tàu. Như vậy, ở tầm 9.000m, chiếc tàu sẽ bị bắn trúng dễ dàng, và sẽ trở thành một que diêm khổng lồ.

Các sĩ quan truyền tin của Hiei bận rộn liền tay. Tần số trung bình và ngắn đều được tận dụng để loan báo diễn tiến của địch quân. Vấn đề an ninh truyền tin không còn được lưu ý nữa.

Các quan sát viên của tôi vẫn chưa thể nhìn thấy một chiếc tàu nào của địch quân nên tỏ vẻ sốt ruột. Tôi nói lớn: "Không thấy thì có sao đâu, chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ rồi, chỉ chờ địch quân đến trong khoảng cách dưới 3.000m là ra tay."

Một việc lạ lùng là đã 8 phút trôi qua nhưng địch quân không bắn một quả đạn nào. Theo phi cơ quan sát, tốc độ di chuyển của địch quân là 40 hải lý, như vậy có nghĩa là mỗi một phút hai lực lượng tiến gần nhau 1.200m. Trên hai chiếc Hiei và Kirishima, mọi người đã vào các vị trí trở lại. Tất cả các loại đạn lửa đã được di chuyển hết, và các pháo khẩu sẵn sàng khai hỏa với loại đạn xuyên phá giáp.

Tại sao địch quân cứu thoát chúng tôi khỏi cảnh bi thảm bằng cách dành cho chúng tôi 8 phút để hai thiết giáp hạm hoàn thành việc thay thế đạn? Không làm sao giải thích được, dù tôi đã đọc nhiều tài liệu sau chiến tranh của Hoa Kỳ ghi lại trận đánh này. Không còn ai đủ thẩm quyền để dọ hỏi, bởi vì hầu hết sĩ quan cao cấp thuộc lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ tham dự trận đánh đều thiệt mạng trong khi thi hành nhiệm vụ. Tất cả những giả thuyết mà tôi được xem qua đều căn cứ trên từng câu chuyện rời rạc, và thường trái ngược nhau, do những người còn sống sót kể lại. Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu riêng của tôi, địch quân sở dĩ không khai hỏa trong suốt 8 phút khủng hoảng của chúng tôi là do thế trận đã dàn ra không thích hợp, và do vấn đề chỉ huy phức tạp của họ.

Vào lúc 23h41, khi khu trục hạm Yudachi báo cáo đã phát hiện địch quân, lực lượng địch đang tiến đến trong đội hình hàng dọc duy nhất, nhằm chống lại đội hình phân tán của chúng tôi. Với đội hình như vậy, chỉ có chiếc tàu dẫn đầu của địch quân mới có thể khai hỏa được mà thôi. Nhưng điều khó có thể giải thích được là tại sao những chiếc tàu khác không rẽ về phía phải để xoay tất cả các họng súng của họ về hướng chúng tôi? Tại sao họ không chọn phương thế khác, chẳng hạn như tiến từ bờ biển ra để đánh vào hữu mạn chúng tôi? Những câu hỏi này vẫn luôn luôn ám ảnh tôi.

Trong trận đánh này cũng còn nhiều điều bất thường khác. Một trong những điều này là hoạt động cũa khu trục hạm Yudachi, hạm trưởng là Trung tá Hiyoshi Kikkawa, một người bạn rất thân của tôi. Sau trận đánh, kikkawa đã giải thích với tôi:

"Lỗi lầm của tôi là quá cẩn thận. Tôi đã từng tham dự trận đánh ở biển Bali tháng Hai trước đó. Trong trận này, chiếc khu trục hạm Mitsushio của tôi bị trúng ngư lôi vào cạnh sườn và thiệt hại khá nặng, giữa lúc tôi đang điều khiển hỏa lực của chiếc tàu ngắm vào mục tiêu ở hướng khác. Đây là một bài học đắt giá cho tôi."

"Vào ngày 12 tháng 11, chiếc Yudachi của tôi cùng với chiếc Harusame đang đi tìm ba khu trục hạm khác cùng nhóm thất lạc. Trong cuộc tìm kiếm này, chúng tôi không bao giờ ngờ rằng đội hình phức tạp trước đây đã xoay hai lần 180 độ, khiến cho ba chiếc tàu cùng nhóm với chúng tôi đã tụt lại phía sau, thay vì ở vị trí tiền đội như khởi thủy."

"Tôi đã kinh ngạc khi nhìn thấy một khu trục hạm địch từ bóng tối nhô ra thình lình, và đang chuẩn bị đánh vào cạnh sườn chiếc Yudachi. Thảm họa Bali chợt hiện trong đầu tôi. Tôi không thể nào chống trả kịp thời, vì hỏa lực không nằm trọng tình trạng sẵn sàng. Tôi quyết định quay tàu bỏ chạy và thông báo về soái hạm, nhưng không thể nào định vị trí tàu địch, bởi vì tôi không biết chính tàu tôi hiện đang ở đâu."

"Tôi chạy được được một vài phút thì tàu địch khai hỏa. Tôi lâm vào tình cảnh bối rối và hổ thẹn, vì lúc đó thủy thủ đoàn đã giận sôi lên, lý do là tôi không cho họ thử sức với địch quân. Tôi quyết định quay tàu lại và hướng thẳng tới đoàn tàu của địch quân. Và từ đó, Yudachi đã dũng cảm chiến đấu cho đến khi bị đánh chìm." ( chỉ một mình Kikkawa thoát chết )

"Trong thời gian Yudachi đơn độc đối đầu với địch quân, chiếc Harusame cùng đi chung đã trở về kết hợp với tuần dương hạm Nagara." Kikkawa tiếp, "Hiển nhiên là chiếc tàu này lạc dấu chúng tôi trong đêm tối, vì lúc đó chiếc Yudachi đã chạy với tốc lực tối đa 35 hải lý."

Không chỉ có các đơn vị tiền phương tan vỡ đội hình mà cả thành phần chính cũng không tránh khỏi. Bảy tiếng đồng hồ chạy như đui mù, và qua hai lần xoay hướng 180 độ, cho dù đội hình nào đi nữa cũng phải tan vỡ huống chi là đội hình phức tạp của Abe.

Lúc 23h50, soái hạm Hiei sử dụng đèn rọi và nhận thấy tuần dương hạm Nagara chạy cách phía trước không đầy 2.000m. Chiếc tuần dương hạm này tiếp tục chạy khoảng 5.000m nữa rồi đổi hướng sang trái để chạy phía trước khu trục hạm Yukikaze và kế đó khoảng 2.000m là chiếc Amatsukaze của tôi. Và khi đèn rọi của soái hạm Hiei phát hiện tuần dương hạm Atlanta của Hoa Kỳ, cách xa chừng 5.000m, tàu địch lập tức khai hỏa, nhưng vì nhắm vội vã nên tất cả 12 quả đạn 125mm rớt nổ cách soái hạm đến 2.000m.

Ba mươi giây sau khi vung về tả mạn, soái hạm Hiei khai hỏa một lượ tám khẩu 250mm. Với mục tiêu ở tầm 5.000m, loại đại pháo này bắn không thể trật. Tất cả các quả đạn 1 tấn được bắn ra đều trúng chiếc Atlanta. Đề đốc Hoa Kỳ Norman Scott và tất cả sĩ quan đứng trên đài chỉ huy đều chết tức khắc. Như vậy là Abe đã phục thù cho người bạn thân của ông, Đề đốc Goto. Đây là một trong những cuộc pháo kích hạm-hạm chính xác nhất của toàn thể mặt trận Thái Bình Dương.

Nhưng Hiei đã phải trả một giá rất cao cho việc sử dụng đèn rọi của mình. Bốn khu trục hạm chạy phía trước tuần dương hạm Atlanta đã tập trung vào soái hạm Nhật ở các khoảng cách từ một vài trăm mét đến 2.000 mét. Khu trục hạm Cushing dẫn đầu đã rót nhiều loạt đạn đại pháo và mưa đạn đại liên vào đài chỉ huy của Abe. Tuy nhiên, pháo thủ của địch quân quá tệ khiến tất cả đạn của họ đều vung vẩy chung quanh chiếc Amatsukaze của tôi, Quang cảnh này được lặp đi lặp lại nhiều lần, và tôi như kẻ đứng trước những tấm màn lửa. Cũng may, không có viên đạn nào trúng chiếc tàu của tôi.

Tiếp theo đó, khu trục hạm Cushing đã phóng 6 quả ngư lôi vào soái hạm Hiei, nhưng không quả nào trúng đích. Tôi hét lớn: "Xả hết tốc lực, xoay về phía trái, rời khỏi địa ngục này ngay lập tức."

Chiếc Amatsuzake tách rời khỏi soái hạm Hiei nhanh chóng, kế đó là khu trục hạm Yukikaze, và cả hai chạy vượt qua tuần dương hạm Nagara. Tôi nhìn thấy một số chiến hạm địch như hồn ma bóng quế chập chờn dọc theo bờ biển Guadalcanal ở phía phải. Tôi ra lệnh: "Xoay hẳn về phía phải, tốc độ chiến đấu."

Tôi quyết định tung một cú chớp nhoáng vào địch quân trước khi tiến đến khu vực chiến đấu. Nhưng hình bóng chập chờn của các chiến hạm địch biến mất. Tôi mở bét mắt nhìn đăm đăm phía trước mặt. Ba khu trục hạm Nhật thình lình từ cạnh sườn phía phải của soái hạm Hiei chạy ra án ngang tầm súng chiếc tàu của tôi.

Ý định của tôi hết hy vọng tiếp tục, tôi quay nhìn chiếc Hiei. Nó đang bốc cháy. Khu trục hạm Laffey của Hoa Kỳ đã lập được thành tích này. Ba khu trục hạm của chúng tôi chạy về phía trái, hiển nhiên là để bao che mặt sau của chiếc Hiei. Đó là ba khu trục hạm Akatsuki, Inazuma và Ikazuchi, mới hơn những chiếc tàu khác và nhanh hơn chiếc Amatsuzake của tôi. Tôi cho tàu chạy theo sau ba chiếc tàu bạn này.

Bấy ngờ hai trái chiếu sáng vượt lên không và tỏa rộng phía trước. Sau đó, tôi biết được hai quả pháo sáng đó do tuần dương hạm Nagara của Đề đốc Kimura phóng lên. Năm hoặc sáu chiến hạm địch chạy theo đội hình hàng dọc lộ hẳn trên đại dương. Chiếc tàu địch gần nhất, chạy song song với chiếc tàu của tôi, cách 5.000m. Tim tôi đập rộn rã. Đây là dịp may để chứng minh lý thuyết phóng ngư lôi của tôi. Mặc dù được Hải Quân Hoàng Gia chấp nhận, nhưng lý thuyết này vẫn chưa được chứng minh bằng hành động cụ thể với một mục tiêu thật sự.

Đại úy Masathshi Miyoshi, sĩ quan ngư lôi trưởng của tôi, không còn kiên nhẫn được nữa: "Cho mấy con cá thoát ra, thưa Trung tá."

"Bắt đầu đây," tôi đáp và ra lệnh: "Mục tiêu di động 30 độ mạn phải. Giác độ khai hỏa điều chỉnh 15 độ. Xoay tàu về phía phải, tiến sát mục tiêu và tạo ngay một đường lượn cong." ( hyperbole)

Lệnh của tôi lập tức được thi hành. Cả hai chiếc tàu cùng tiến đến có vận tốc chung lên đến 69 hải lý, nên khoảngca1ch thâu hẹp trong nháy mắt. Đại úy Miyoshi liếc nhìn tôi lo ngại, tôi tảng lờ đi. Điều lấy làm lạ là địch quân không khai hỏa. Nhưng nếu họ có khai hỏa đi chăng nữa thì cũng không thể nào trúng được chiếc tàu đang chạy theo hình vòng cung của tôi, cho dù khoảng cách giữa đôi bên chỉ 3.000m. "Ngư lôi, chuẩn bị....... Phóng!" Tôi hét lên.

Tám con cá lớn vọt ra và lướt đến mục tiêu. Tôi hồi hộp theo dõi. Lúc đó là 23h54 phút. Trên đài chỉ huy, từng luồng gió quất mạnh như những cái tát, và chiếc tàu chạy nhanh tung đầy bọt nước lên mình chúng tôi. Khi chiếc tàu xoay về phía trái và giảm tốc độ, hai quả pháo sáng nữa được bắn lên trời, soi rõ hình dáng bốn khu trục hạm chạy hàng dọc của địch quân. Khoảng cách giữa tàu chúng tôi với tàu địch đâu chừng vài trăm mét. Ngay lúc ấy, khu trục hạm Yudachi xuất hiện, các họng súng đều rực lửa, đâm ngang vào phần trước của đoàn tàu Hoa Kỳ. Chiếc tàu địch, bị Yudachi chạy đâm thẳng vào là chiếc Aaron Yard, đã xoay như chớp để tránh né.

Chiếc tàu thứ hai, Barton, giảm ngay tốc độ vị sợ đụng chạm với chiếc Aaron Yard. Ngay lúc đó, hai phút sau khi các ngư lôi của chúng tôi được phóng ra, hai cột lửa bắn cao lên trên không. Chiếc Barton bị trúng ngư lôi. Diễn biến nhanh chóng đến nỗi mắt tôi được nhìn nhưng vẫn hồ nghi. Chiếc Barton bị cắt ra làm hai, biến dạng vào làn nước trong chớp mắt.

Tôi thở phào,. Một cuộc hủy diệt thật ngoạn mục. Thủy thủ đoàn của tôi reo hò ầm ĩ, nhưng tôi không để ý đến. Mục tiêu bị hạ đối với tôi là chuyện hiển nhiên. Cảm giác của riêng tôi là sự hài lòng hơn là vui mừng ồn ào. Đây là lần đầu tiên lý thuyết phóng ngư lôi của tôi mới được thực hiện ngay trong cuộc chiến, và bây giờ không còn một chút ngờ vực nào về sự chính xác của nó nữa.

Các trái sáng rơi thấp dần và tắt hẳn, Trong màn đêm vừa phủ lại, chiếc Amatsukaze chấm dứt hình vòng cung và xoay mũi chạy trở về hướng Tây. Tôi nhìn thấy chiếc Hiei chập chờn trong lửa đỏ. Tàu của tôi tiến thẳng đến. Một vài phút sau, tôi phát hiện những tia sáng thoạt ẩn thoạt hiện trong đêm tối, ở mạn trái của chiếc tàu. Những tia sáng này, là do ánh lửa phản chiếu vào một chiếc tàu sơn bóng với bốn cột. Nhất định là tàu địch, có thể là một tuần dương hạm.

Tôi ra lệnh: "Ngư lôi, sẵn sàng! Mục tiêu 70 độ mạn trái."

"Ngư lôi sẵn sàng! Thưa Trung tá." Đại úy Miyoshi đáp lại, như một anh học trò trả lời với thầy giáo, trong giọng nói không còn dấu hiệu nào cho thấy anh ta mất tin tưởng như trước đó.

"Xong rồi thì chờ đó. Mục tiêu đang di động phía trước. Dễ ăn... dễ ăn hơn mục tiêu vừa rồi. Miyoshi, lần này chỉ cần bốn trái thôi, tám trái sẽ phí đi. Chú ý! Chú ý... Phóng!"

Trong khoảng lặng yên như tờ, bốn con cá thoát ra khỏi ống vào lúc 23h59. Ba phút, và bốn mươi giây sau, một cột lửa đỏ ối vĩ đại từ mục tiêu vượt lên nền trời. Nạn nhân là tuần dương hạm Juneau của Hoa Kỳ, từng đấu súng với chiếc Yudachi. Thủy thủ đoàn của tôi cất tiếng reo hò vang dậy.

Đại úy Shimizu, sĩ quan pháo thuật, muốn pháo kích nhồi lên mục tiêu để dứt điểm luôn. Tôi nói: "Thôi, Simizu, hãy để cho ông bạn Yudachi của chúng ta làm việc này. Đừng có bồn chồn. Chúng ta còn nhiều mục tiêu khác nữa. Trọng pháo của chúng ta lên tiếng chẳng khác nào chỉ điểm vị trí của chúng ta cho địch quân."

Amatsukaze chạy thẳng về phía trước. Trong lúc đó, các cuộc quần thảo dữ dội đang tiếp diễn tại những nơi khác. Sau này, hạm trưởng của Hiei, Trung tá Hideo Sekino có kể lại với tôi các chi tiết liên quan đến cuộc chiến đấu của soái hạm này. Theo đó, khu trục hạm Cushing, sau khi tấn công Hiei, đã nhận lãnh hỏa lực phục thù của khu trục hạm Terutsuki. Chiếc Terutsuki tiến lên từ mạn trái của chiếc Hiei, rọi đèn pha thẳng vào chiếc Cushing, và dứt điểm mục tiêu bằng một loạt đại pháo trực xạ.

Khu trục hạm thứ nhì của Hoa Kỳ là chiếc Laffey, hầu như cận chiến với soái hạm Hiei. Hai chiếc tàu chạm vào nhau và ngay khi lướt ra, chiếc Laffey đã rót một loạt đại liên vào cột chính của chiếc Hiei, gần đài chỉ huy. Đại tá Suzuki chết tức khắc và nhiều người khác bị thương, trong đó có đề đốc Abe. Các khẩu đại pháo của Hiei và ngư lôi của Terutsuki đẩy chiếc Laffey ra xa, và nhận chìm ngay trong vài phút.

Khu trục hạm Sterett, chạy kế chiếc Laffey, phóng một loạt ngư lôi vào soái hạm Hiei, nhưng không trúng, và khu trục hạm O'Bannon tiếp liền ngay sau đó, rót một loạt đại pháo vào Hiei, nhiều trái trúng đích. Hệ thống liên lạc trên soái hạm bị cắt đứt hẳn, và chiếc tàu bắt đầu rời khỏi khu vực chiến đấu. Lúc đó, vào khoảng nửa đêm, trận chiến trở thành loạn đấu. Khu trục hạm Akatsuki từ trước vẫn cách 2.000m mạn phải của Hiei, sau khi soái hạm rút lui, đã lướt tới và giáng cho tuần dương hạm Atlanta nhiều trái ngư lôi. Chiếc Akatsuki lại xoay ngang đấu súng với soái hạm San Francisco và một khu trục hạm khác của Hoa Kỳ. Kết quả, khu trục hạm Nhật bị cả hai hỏa lực tập trung chôn vùi xuống đáy biển toàn thể thủy thủ đoàn. Chiếc San Francisco vẫn còn đang bắn bồi thêm vào mục tiêu thì thiết giáp hạm Kirishima xông tới với các trọng pháo 250mm và hạ gục ngay chiếc soái hạm này. Sau đó, chiếc Kirishima tuân lệnh của Abe đã vội vã rời khỏi khu vực chiến đấu.

Trung tá Kikkawa, hạm trưởng của Yudachi, đã thuật lại các hoạt động của ông trong đêm đó. "Khi chúng tôi quay lại và đâm vào nhóm tàu địch quân, tôi thấy một khu trục hạm địch chạy ngay lại tàu của tôi. Không có thời gian để ngắm ngư lôi, và trong lúc hai bên đang đấu súng, tôi cho chiếc tàu đảo mạnh về bên phải cố ý làm sai lạc hướng ngắm của địch quân. Sau khi chạy được một vài phút, tôi lại thấy tuần dương hạm Juneau của Hoa kỳ ở mạn phải, chạy song song với tàu của tôi, tôi ra lệnh phóng tám quả ngư lôi, nhưng không trúng. Tuần dương hạm địch nã trọng pháo dữ dội vào chiếc Yudachi. Tôi đáp trả ngay, nhưng chỉ với các loại súng nhỏ. Hỏa lực đôi bên chênh lệch rõ ràng, tôi kể như tiêu đời rồi. Một khu trục hạm đấu súng với một tuần dương hạm là liều mạng. Nhưng, thật bất ngờ, tuần dương hạm địch bốc lửa, các khẩu trọng pháo đều im tiếng. Chiếc Yudachi tạo một màn khói và thoát chạy ra khỏi khu vực chiến đấu. Ngư lôi của khu trục hạm Amatsukaze đã cứu chúng tôi.

Khi Akatsuki bị đánh chìm, hai khu trục hạm chạy phía sau chiếc tàu này đã tiến lên tấn công hai chiếc San Francisco và Portland. Chiếc Portland đang đấu súng với hai chiếc khu trục hạm Nhật - Inazuma và Ikazuchi - thì Yudachi tiến đến từ phía trái tàu địch. Kikkawa nói: "Hara, chúng tôi đã bắt chước chiến thuật của anh, phóng ngay tám trái ngư lôi vào tuần dương hạm địch đang mắc bận chiến đấu với hai khu trục hạm bạn. Portland bốc cháy, tất cả ngư lôi của tôi đều trúng đích. Nhưng sự vui mừng của chúng tôi chấm dứt ngay khi những trái đạn địch rơi vãi xuống. Chúng tôi trở thành nạn nhận của chiến thuật đánh chớp nhoáng mà chúng tôi vừa sử dụng, và bây giờ chỉ còn mỗi mình tôi sống sót, thật là một điều đáng hổ thẹn. Chính khu trục hạm Aaron Ward của Hoa kỳ lập được thành tích này."

Trong khoảng thời gian đó, chiếc Amatsukaze của tôi di chuyển về phía Tây bắc, hướng đến soái hạm đã bị loại khỏi vòng chiến. Quang cảnh trước mặt yên tĩnh lạ lùng, nhưng phía xa xa chúng tôi thấy những tia lửa xẹt lên trời như pháo bông. Đó là một cuộc đụng độ, nhưng khó có thể biết là giữa lực lượng nào với lực lượng nào. Tôi không lưu ý, và quyết định sẽ tìm soái hạm Hiei, với sàn tàu bị cháy, nó sẽ dễ nhận ra trong đêm tối. Tôi hỏi phòng truyền tin xem có công điện nào quan trọng hay không? Một nhân viên truyền tin đáp: "Dạ không, thưa hạm trưởng, nhưng chúng tôi cũng không còn nghe tiếng của Hiei nữa. Hệ thống liên lạc của nó chắc đã tê liệt rồi."

Tôi nhìn xuống đồng hồ, 0h13, xa về hướng Tây là một khối lửa đỏ rực, chứng tỏ một chiếc tàu đang bốc cháy. Đó là khu trục hạm Yudachi. Lúc ấy, một chiếc tàu to lớn bỗng nhiên nhô qua bóng tối, ngay phía trước chiếc Amatsukaze. Tôi hét to Đại úy Kijuro Matsumoto, hoa tiêu trưởng, xoay mạnh tay lái về phía bên phải. Tất cả những người hiện diện trên đài chỉ huy đều chết đứng khi hai chiếc tàu xáp lại gần hơn. Đúng khi một sự va chạm không thể nào tránh khỏi, chiếc Amatsukaze lách sang phải, và thoát nạn trong đường tơ kẽ tóc.

Tôi tự hỏi đây là loại tàu gì? Cả hai chiếc đã xáp gần với nhau đến nỗi tôi không thể nào nhìn trọn hình dung của chiếc tàu lạ, nhưng rõ ràng đây là chiếc tàu không người. Nó không có tháp pháo nào, nhưng không phải là một chiếc tàu buôn. Hình dáng chiếc tàu có vẻ quen thuộc nhưng tôi không thể nào nhận ra. Tôi biết mọi loại tàu, bây giờ trong bóng tối, tôi độ chừng đây là loại tàu vận chuyển tiếp tế nên không có tháp pháo. Sau đó tôi biết sai lầm, nhưng dù thế nào, chiếc tàu này chắc chắn là tàu địch. Tôi la to: "Xạ thủ! Nhân viên ngư lôi! Sẵn sàng bên mạn trái."

Khi Đại úy Miyoshi đáp đã sẵn sàng tôi bỗng nhiên lưỡng lự. Tôi phải rõ lai lịch chắc chắn của chiếc tàu để khỏi bắn lầm vào tàu bạn. Tôi ra lệnh rọi đèn. Không còn sợ lầm nữa. Đây là một tuần dương hạm địch. Tôi ra lệnh khai hỏa mọi loại vũ khí.

Bốn quả ngư lôi được phóng ra, và sáu khẩu 120mm đồng loạt khai hỏa lần đầu trong trận đánh này. Tất cả đạn đều trúng vào mục tiêu. Tiếng nổ đinh tai nhức óc. Nhưng thật đáng kinh ngạc là tàu địch không hề có một phản ứng nào.

--------------------------------

Hai mươi giây sau khi chúng tôi khai hỏa, chúng tôi phát hiện bốn tiếng động rõ rệt dưới nước. Tôi nín thở, tiên đoán những tiếng nổ dữ dội sẽ xảy ra. Nhưng 20 giây nữa trôi qua, không có một tiếng nổ nào hết. Và khi thấy chiếc tàu lạ vẫn đung đưa qua lại, tôi biết là mình đã quên lãng một cách khờ khạo. Tất cả ngư lôi của Nhật Bản đều có một bộ phận an toàn, nếu phóng vào mục tiêu trong vòng 500m ngư lôi không thể nào nổ được. Mục tiêu hiện tại không hơn 500m. tôi tự rủa thầm. Trong lúc bối rối, tôi đã ra lệnh sử dụng ngư lôi một cách hoang phí

Sai lầm này thường kéo theo sai lầm khác. Trong lúc tức giận, tôi quên ra lệnh tắt đèn rọi tìm địch. Kikkawa đã từng nói với tôi là đèn rọi thường hấp dẫn cặp mắt địch quân. Tôi đã quên mất bài học này. Chiếc tàu địch vung sang bên trái, dĩ nhiên là để tránh khỏi đụng vào chiếc tàu của tôi, nhưng lối di chuyển của nó có vẻ bất thường.

Trong khi đó, hỏa lực của chúng tôi vẫn tiếp tục rót ngay vào mục tiêu. Chiếc tàu ma quái nghiêng qua ngả lại. Khói và lửa bắt đầu bao trùm toàn thể chiếc tàu này. Chúng tôi nhận ra đây là chiếc San Francisco, mà chúng tôi đã từng chạm mặt ngay sau khi Đề đốc Callaghan và bộ tham mưu của ông, cũng như thủy thủ đoàn, bị các chiến hạm khác của Nhật tiêu diệt gọn. Các pháo tháp của chiếc tàu này sở dĩ biến mất là do các trọng pháo 250mm của thiết giáp hạm Kirishima thổi bay đi.

Bất ngờ, ngay lúc đó, nhiều quả đạn rơi xuống quanh chiếc tàu của tôi. Tôi nghĩ là những người đã chết trên chiếc San Francisco sống lại để ra tay phục hận. Một vài quả đạn trúng Atmasukaze. Tôi hét lớn: "Các xạ thủ giữ yên vi trí. Hạ gục chiếc tàu ma quái ngay lập tức." Tôi đã sôi máu. Súng của chúng tôi tiếp tục mưa đạn vào tàu địch. Nhưng đó là sai lầm thứ ba của tôi.

Hiển nhiên các quả đại pháo rót xuống chúng tôi không phải từ chiếc San Francisco. Một tiếng kêu xé tai đến nổi át cả tiếng súng nổ dữ dội. Đó là tiếng kêu của Chuẩn úy Shigeru Iwata, đứng ở tháp quan sát ngay phía trên đài chỉ huy: "Hạm trưởng, một tuần dương hạm khác ở 70 độ mạn trái đang bắn lén chúng ta."

Tôi xoay nhìn về hướng Iwata vừa nói, quả thật, có một tuần dương hạm khác. Tôi lạnh toát cả thân thể, nhưng sau cùng vẫn la được: "Tắt đèn, ngưng bắn, tạo màn khói!" Tôi chưa nói hết câu, một loạt đạn thứ ba từ tàu địch bay đến. (Sau đó tôi nhận ra đó là chiếc Helena của Hoa Kỳ). Hai quả đạn nổ gần, đẩy tôi ngã chồm về phía trước, suýt chút nữa bay ra khỏi đài chỉ huy. Tôi gượng dậy được, nhưng đầu óc tối tăm mất nhiều giây. Tôi sờ nắn khắp toàn thân, nhưng không tìm thấy thương tích nào.

Nhìn quanh, tôi yên dạ khi thấy các sĩ quan của tôi đều không sao cả, Nhưng còn những người khác? Tôi nhìn ra ngoài. Iwata nằm sóng soài trên tàu. Tôi la lên: "Iwata, Iwata, anh sao vậy?" Hắn bất động, máu đấm ướt mặt mày. Một mảnh đạn trúng vào sọ, và Iwata chết tức khắc. Một quả đạn đã rơi ngay vào tháp quan sát của Iwata. "Shimizu, Shimizu! Anh có sao không?" Tôi gọi qua máy liên lạc nội bộ. Không có tiếng đáp lại. Tôi lại gọi to: "Phòng truyền tin! Nghe không?" Nhưng cũng hoàn toàn yên lặng.

Một quả đạn khác đã trúng ngay phòng truyền tin, tất cả nhân viên đều thiệt mạng. Chiếc tàu còn xoay về phía phải và đang bắt đầu quay vòng tròn. Tôi hét: "Matsumoto, bẻ tay lái lại!"

Tiếng đáp: "Thưa Trung tá, tay lái đã liệt rồi!"

Khói bốc lên từ dưới đài chỉ huy, hiển nhiên là phòng truyền tin. Đạn địch lại bay đến. Helene quyết trấn nước chúng tôi. "Phản pháo đi!" Tôi kêu to.

Một pháo thủ chạy lên đài chỉ huy, máu thấm ướt một bên vai. "Thưa Trung tá, các pháo tháp của ta bị loại rồi. Các hệ thống thủy lực của ta cũng bất động."

Một nhân viên liên lạc của phòng máy chạy đến: "Cơ quan bánh lái không còn sử dụng được nữa. Hệ thống thủy lực đã hỏng."

Tôi hỏi: "Đại úy Shimizu có sao không? Máy móc như thế nào?"

"Đại úy Shimizu đang lo sửa chữa những bộ phận hư hỏng của chiếc tàu. Máy móc không sao cả!"

Tôi nói với Đại úy Matsuto: "Anh xuống phòng máy kiểm soát và cứ mỗi ba phút báo cáo cho tôi biết."

Chiếc Amatsukaze đã xoay trọn một vòng trên mặt biển và lại bắt đầu vòng thứ hai. Pháo kích của chiếc Helene vẫn như mưa xuống quanh chúng tôi, nhưng chỉ một vài quả đạn trúng đích. Hỏa lực địch ngày càng gia tăng, nhưng thủy thủ đoàn của tôi đang mắc bận tâm với những phần hư hại của chiếc tàu, các pháo khẩu của chúng tôi đều im tiếng, và không còn quả ngư lôi nào để phóng. Nếu tàu địch tiến sát, chúng tôi sẽ không khác nào con bò đực đứng trước lò sát sinh.

Di chuyển của Amatsukaze càng lúc càng thiếu chính xác, và toàn thể chiếc tàu bao bọc trong màn khói mù mịt khi nó bắt đầu xoay vòng thứ hai. Cuối cùng, cơn mưa đạn chấm dứt và chiếc tàu địch dần lãng ra xa. Nhưng chắc nó chưa chịu bỏ con mồi dễ dàng như vậy đâu.

Một liên lạc viên viên của Matsumoto chuyển một báo cáo: "Hệ thống thủy lực hoàn toàn không sử dụng được nữa. Chúng ta sẽ phải dùng sức người để bẻ lái chiếc tàu. Xin chỉ thị!"

"Được rồi, nói với ông ta cho ngừng tàu lại để cắt đặt thủy thủ làm công việc này ngay lập tức."

Đại úy Miyoshi, hoa tiêu trưởng, nhăn nhó hỏi tôi: "Chúng ta ngừng ở đây, thưa Trung tá? Ngừng ngay trước mũi súng của địch quân?"

"Chắc chắn như vậy rồi! Chúng ta ngừng tàu trước khi đánh nữa."

Một giọng nói vang to qua hệ thống liên lạc nội bộ, đó là giọng nói của Matsumoto: "Thưa Hạm trưởng, chúng tôi đã sữa chữa được một vài nơi hư hại do đạn địch gây ra."

"Tốt, Matsumoto. Hãy ngừng tàu lại, và cắt đặt người lo bẻ lái chiếc tàu."

Khi chiếc tàu từ từ đứng lại, súng của địch cũng im tiếng hẳn. Hiển nhiên là tàu địch đã bỏ đi, có lẽ nghĩ rằng sự trừng phạt dành cho chiếc Amatsukaze như vậy là quá đủ. Tôi không thể nhìn thấy tàu địch chạy về hướng nào, vì quanh tôi khói che dày đặc. Nhưng tôi không ngờ lúc đó chiếc Helena gặp nhiều bối rối hơn chúng tôi. Ba khu trục hạm Nhật bất thần xuất hiện. Đó là ba chiếc Asagumo, Murasame và Samidare - thuộc đơn vị tiền phương với hai chiếc Yudachi và Harusame. Cũng do đội hình rắc rối của Abe, cả ba chạy rơi lại phía sau trước khi trận đánh bắt đầu, và di chuyển lang thang để cuối cùng nhảy vào vòng chiến khi trận đánh sắp tàn.

Tuần dương hạm Helena đã sửng sốt khi thấy ba chiến hạm Nhật xuất hiện. Trước khi nhận ra lai lịch ba chiếc tàu, Helena bị đánh phủ đầu. Khu trục hạm Murasame phóng nhiều quả ngư lôi trúng đích, nhưng kỳ lạ thay, cả mấy giờ sau tuần dương hạm này mới chịu chìm.

Asagumo, đồng đội của Murasame, xoay các họng súng về phía một chiến hạm khác của địch đang tiến đến từ hướng Tây. Đó là khu trục hạm Monssen, sở dĩ chúng tôi biết được lý lịch là do ám hiệu bằng đèn của chiếc tàu này. Monssen tưởng ba chiến hạm Nhật là cùng bọn. Ám hiệu bằng đèn của Monssen không khác nào một hành động tự sát, giống như đèn rọi của chiếc Amatsukaze đã kêu gọi chiếc Helena tìm đến. Nhiều quả đại pháo rơi ngay vào chiếc Monssen, và tiếp liền theo Agasumo đã dứt điểm mục tiêu bằng mấy trái ngư lôi. Chiếc tàu địch chạy phía sau Monssen là tuần dương hạm Fletcher không còn lòng dạ nào đối đầu với khu trục hạm Samidare, nên đã quay đầu bỏ chạy.

Chiếc Sterrett, một trong những khu trục hạm còn sống sót của địch quân cho rằng chính nó đã đánh chìm một khu trục hạm Nhật trong trận đánh này bằng hai quả ngư lôi. Nhưng thật ra đây là một thành tích tưởng tượng, khu trục hạm Akatsuki đã bị đánh chìm từ trước, còn chiếc Yudachi lúc đó vẫn còn đang bốc cháy cách nhiều dặm ở phía Tây. Hiển nhiên là Sterrett đã đánh chìm lầm một chiếc tàu bạn, hoặc giả nạn nhân của nó là chiếc San Francisco đã nổi trôi bềnh bồng sau khi bị hỏa lục và ngư lôi Nhật vùi dập.

Một số giả thuyết của Hoa Kỳ cho rằng chính súng của Nhật bắn vào các chiến hạm nhật lúc trận chiến gần kết thúc. Sau khi phối kiểm với tất cả các đồng đội tham dự trận đánh, và xem xét các vết hư hại của một số khu trục hạm, tôi có thể đoán quyết các giả thuyết này đều không đúng. Trái lại, nhiều đồng đội của tôi đã thuật lại rằng chính các chiến hạm Hoa Kỳ đã đấu súng với nhau trong trận đánh này.

Sau khi guồng và bánh lái của Amatsukaze không còn sử dụng được nữa, vì hệ thống thủy lực hỏng, chúng tôi bắt đầu sử dụng nhân lực. Cũng may, máy móc của chiếc tàu còn chạy tốt, chúng tôi gia tăng tốc độ lện 20 hải lý. Dùng tay điều khiển guồng lái với một chiếc tàu 2.500 tấn là cả một vấn đề. Số thủy thủ đảm trách công việc này đã tháo mồ hôi hột. Chiếc tàu chạy như người say rượu, hết xỉa bên này lại đâm sang bên kia. Sau một vài phút nhìn tình trạng xảy ra, tôi biết phải làm cái gì rồi. Tôi ra lệnh: "Matsumoto, tôi sẽ chỉ huy. Việc này đòi hỏi kinh nghiệm. Bây giờ tôi đứng ở đài chỉ huy để đưa ra các lệnh điều khiển cho anh, anh chuyển đến cho thủy thủ phía dưới guồng lái."

Mười thủy thủ đang điều khiển guồng lái mình ướt đẫm mồ hôi, chứng tỏ công việc rất nặng nhọc. Nhưng công việc của tôi lúc ấy trên đài chỉ huy cũng không phải dễ dàng. Tôi luôn phải hét thật to hướng đi của chiếc tàu cho Matsumoto nghe, đến nỗi giọng khàn hẳn và mồ đổ xuống mặt tôi như tắm. Chiếc tàu vẫn còn chạy xiên xẹo, nhưng có phần giảm đi chút ít.

Lúc 3h chiều, Đại úy Miyoshi cho biết tất cả lửa cháy do địch gây ra trên tàu đều đã được dập tắt. Một vài phút sau, tôi nhìn thấy soái hạm Hiei ở mạn trái. Lửa không cháy nữa nhưng chiếc tàu hoàn toàn bất động. Không có một chiến hạm Nhật nào hiện diện xung quanh nó để lo việc tiếp cứu. Nghĩ đến các đồng đội trên chiếc tàu bất hạnh này, tôi cảm thấy đau buồn, nhưng tôi bó tay, vì chính chiến tàu của tôi đang lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Việc duy nhất tôi phải làm là cố giữa cho chiếc Atmasukaze chạy đúng về hướng Bắc. Công việc này không phải dễ dàng đối với hải trình nhỏ hẹo xuyên qua eo biển Indispensable. Tập trung hết hơi sức, tôi hét lớn qua ống nói tiếp tục điều khiển chiếc tàu tiếp tục di chuyển. Khi ánh sáng đầu ngày vừa lóe lên, thiếu úy shoji la to: "Ba phi cơ địch đang bay đến!"

Tôi ra lệnh: "Miyoshi, nắm quyền chỉ huy các pháo khẩu. Hãy ráng hết sức anh."

Sĩ quan ngư lôi xuống đài chỉ huy, và không lâu sau báo cáo: "Không còn khẩu cao xạ nào xoay nòng được, riêng khẩu số 4 chỉ có thể xoay theo hướng lên xuống mà thôi."

Khẩu súng duy nhất còn sử dụng được này đã khai hỏa nhanh chóng khi các phi cơ địch bay đến gần. Ba phi cơ đã ước lượng tốc độ Atmasukaze quá cao, thành thử những quả bom thả chận đầu đã rơi xuống một khoảng cách khá xa. Trái bom gần nhất đã rơi xuống cách chúng tôi 300m. các phi cơ địch chỉ lướt qua một lần rồi bay thẳng về hướng Guadalcanal. Có thể phi cơ địch sẽ bay đến nữa, nhưng chúng tôi chỉ còn biết chịu đựng, và không còn việc gì khác hơn để làm là cố giữ cho chiếc tàu chạy thẳng về phía trước.

Hình như may mắn đã bỏ chúng tôi đi mất rồi. Thiếu úy Shoji lại báo cáo: "Nhìn thấy một chiếc tàu địch cách 9.000m ở trước mặt, chạy thẳng về phía chúng ta. Phải làm gì đây, thưa Hạm trưởng?"

Thay vì đáp lời Shoji, tôi gọi qua ống nói: "Matsumoto, một chiếc tàu không rõ của ai, nhìn thấy ở phía trước. Hãy gia tăng tốc lực tối đa. Nếu nó là chiến hạm địch, chúng ta không còn biết làm gì hơn là húc mạnh vào nó."

Shoji chạy lo sắp sếp thủy thủ đoàn để sẵn sàng với hành động liều mạng này. Tôi lại liếc về phía tàu địch. Nó đang tiến sát chúng tôi với tốc độ hơn 30 hải lý có dư. Sau chừng một phút nghẹt thở, tôi đã thở khì như trút được gánh nặng, và cho người chạy đi gọi Shoji. " Đó' là một khu trục hạm Nhật... Phải, chiếc Yukikaze, không còn lầm lẫn gì nữa."

Shoji vừa đi vừa nhảy nhót vui mừng. Còn cách khoảng 3.000m, một nhân viên truyền tin của Yukikaze đã vẫy tín hiệu bằng cờ, nhìn thấy rất rõ dưới ánh nắng ban mai: "Gửi Atmasukaze lời chào nồng nhiệt nhất. Chúng tôi đang chạy đến để đi kèm chiếc Hiei. Các bạn có cần chúng tôi giúp đỡ gì không?"

Nhân viên truyền tin lập tức chuyển lời đáp của tôi: "Cám ơn các bạn. Đừng lo lắng cho tôi, hãy chạy về phía trước hết tốc lực. Phi cơ đã phát hiện chúng tôi, và cũng rất có thể chiếc Hiei đã bị phát hiện. Nên chuẩn bị sẵ sàng để chống trả. Chúc bạn may mắn."

Chúng tôi vượt ngang phía trái của chiếc Yukikaze ở khoảng cách 1.000m. Những thủy thủ đứng trên boong trao nhau lời chào hỏi. Mặc dù hai chiếc tàu đã cùng chạy trên một hải trình dài dằng dặc, nhưng đây là lần đầu tiên, kể từ sáng hôm qua, cả hai mới gặp nhau. Yukikaze chạy ở ngay phía trước Amatsukaze trong đội hình phức tạp của Đề đốc Abe, nhưng cả hai không thể nhìn thấy nhau, vì di chuyển trong mưa bão. Trong trận đánh, Yukikaze và tuần dương hạm Nagara là hai chiếc tàu đầu tiên rút lui ra khỏi khu vực chiến đấu. Yukikaze không bị trúng một phát đạn nào.

Lời cảnh báo tôi vừa nói với Yukikaze chứng tỏ đã đúng. Hàng chục oanh tạc cơ Hoa Kỳ đã bay đến cấu xé chiếc Hiei. Đề đốc Abe ra lệnh tự đánh đắm tàu trước khi bỏ soái hạm để thoát sang khu trục hạm Yukikaze vừa mới đến. Lệnh phá hủy tàu này đã có cái giá trách nhiệm mà Abe và đại tá Masao Nishida, Hạm trưởng của Hiei, phải trả một vài ngày sau đó.

Sau khi vượt ngang chiếc Yukikaze, chiếc tàu của tôi chạy với tốc độ 20 hải lý như trước. Chúng tôi thoát ra khỏi eo biển nguy hiểm và chạy vào một hải vực bao la. Nỗi sợ gặp đá ngầm và san hô của chúng tôi không còn nữa, nhưng nỗi lo sợ khác lại hiện đến. Đối với một chiến hạm què quặt chạy giữa ánh sáng ban ngày thật bất lợi, nhất là trong một khu vực đầy dẫy tàu ngầm địch như thế này.

Trang bị sonar trên các khu trục hạm Nhật như đã nói, không mấy hữu hiệu. Khi một khu trục hạm chạy đến tốc độ 20 hải lý hoặc cao hơn, sonar này hầu như mất hẳn sự nhạy cảm. Hiện tại sonar của Amatsukaze bất động hoàn toàn. Tôi ra lệnh: "Matsumoto, tốt hơn là cứ mỗi giờ anh nên thay đổi toán thủy thủ bẻ lái. Chúng ta cần những cánh tay khỏe mạnh trong trường hợp cần thay hướng con tàu gấp rút. Tiềm thủy địch có thể xuất hiện bất cứ lúc nào."

Nhưng cũng lạ, 12 giờ trôi qua mà vẫn không xảy ra một cuộc tấn công nào. Khi biết rằng chiếc tàu đã tiến vào khu vực an toàn, tôi bỗng nhiên thấy mình như kiệt lực. Kỹ thuật hải hành chính xác đã đưa chúng tôi đến một địa điểm cách phía Bắc Guadalcanal khoảng 250 dặm, nơi mà hạm đội của Phó Đô đốc Takeo Kurita đang chuẩn bị để ra khơi vào đêm hôm đó. Khi tàu của chúng tôi tiến đến gần, tôi nhìn thấy khu trục hạm Terutsuki, thuộc hạm đội của Đề đốc Abe. Nhân viên truyền tin của chúng tôi gửi một công điện yêu cầu chiếc Terutsuki cho biết qua tình hình tổng quát.

Chúng tôi nhận ngay một công điện hồi đáp: "Mừng đón Amatsukaze trở về với những lời nồng nhiệt nhất của chúng tôi. Anh đã bị báo cáo mất tích một vài giờ trước đây, nhưng một số chúng tôi vẫn hy vọng anh trở về. Hạm đội của chúng ta chiến đấu hữu hiệu. Chỉ hai chiếc Hiei và Yudachi bị đánh chìm. Không ai nghe tin tức của chiếc Akatsuki. Xem như nó đã mất tích. Marusame và Ikazuchi trúng nhiều quả trọng pháo, nhưng không ai thiệt mạng. Chào mừng anh một lần nữa. Anh đã làm một việc đáng kinh ngạc, khiến cho chúng tôi hãnh diện."

Khi chúng tôi tiến sát chiếc Terutsuki, hầu hết thủy thủ đoàn của chiếc tàu này đã ra đứng cạnh lan can và vẫy tay reo hò chào mừng một lần nữa. Nhiều chiếc tàu khác cũng làm như Terutsuki. Nhưng tôi không cảm thấy vui vẻ hoàn toàn. Những lỗi lầm đã vấp phải khiến tôi trĩu nặng.

Chiếc Amatsukaze chạy vòng vào bên trong đội hình đã sắp xếp của các chiến hạm dưới quyền Phó Đô đốc Kurita. Soái hạm của ông, tức thiết giáp hạm 27.500 tấn Kongo, giống như một pháo đài nổi. Nhân viên truyền tin của soái hạm gửi chúng tôi một công điện: "Phó Đô đốc Kurita gửi trung tá Hara: "Tôi xin kính chào cuộc trở về can đảm của anh, và xin thông báo cho anh biết tôi đã ra lệnh sắp xếp khu trục hạm của anh vào chuyến ra khơi hiện tại. Có mặt anh trong lần hải xuất này là niềm hãnh diện cho chúng tôi."

Cộng điện này đã làm tôi ngạc nhiên. Tôi gửi ngay một công điện hồi đáp: "Trung tá Hara gửi Phó Đô đốc Kurita: Không xứng đáng nhận những lời khen cũa Phó Đô đốc. Chuyến về què quặt của tôi với sự thiệt mất 43 thủy thủ, bao gồm sĩ quan pháo thuật. Chúng tôi cần phải sửa chữa. Hiện tại chúng tôi đang phải điều khiển guồng lái bằng sức người."

Công điện kế tiếp của soái hạm đã đến vài phút sau đó: "Phó Đô đốc Kurita ra lệnh cho anh quay về Truk lập tức, Những lời khen tặng của Phó Đô đốc không thay đổi. Chúc anh thượng lộ bình an và gặp nhiều may mắn. Mong gặp lại."

Hình ảnh của soái hạm nhạt nhòa trong dòng lệ khi tôi đọc xong những lời ưu ái này. Tôi cố dằn xúc động để ra lệnh: "Matsumoto, xoay hướng phải. Chúng ta trở về Truk."

Matsumoto đáp: "Tuân lệnh, thưa Trung tá. Nhưng dường như trung tá mệt mỏi. Tại sao trung tá không đi nghỉ? Trung tá đã hò hét 15 giờ ròng rã rồi, bây giờ tôi nhận thấy không cần thiết điều khiển con tàu bằng phương pháp vừa rồi nữa."

"Cám ơn Matsumoto. Anh nói phải, vậy anh hãy thay tôi." Tôi ngồi xuống, đây là lần đầu tiên trong 24 giờ qua, nhưng chỉ được một vài phút tôi vùng dậy khỏi ghế. Tôi đã quên khuấy một việc, "Miyoshi Shoji! Chúng mình phải cử hành lễ hải táng cho những người chết trước khi trời tối."

Bốn mươi ba cái xác được mang lên sàn tàu. Mỗi xác chết đều được đồng đội tắm rửa bằng nước nóng và dùng vải bọc lại. Nước, được xem là quí giá trước đây không hề hạn chế trong buổi lễ này. Những cái xác bọc vải có kèm theo vật nặng được thả xuống biển, trong lúc các thủy thủ thổi kèn đồng tấu bài vĩnh biệt và những người khác đứng chào đưa tiễn.

Một cuộc hải táng luôn buồn bã. Tôi đã tham dự không biết bao nhiêu buổi lễ như thế này, nhưng không lần nào cảm thấy buồn như lần này. Cuối cùng, khi Miyohi và Shoji buông chiếc chăn với các xác của Đại úy Kazue Shimizu, sĩ quan pháo thuật xuống biển, tôi đã khóc thành tiếng. Shimizu, một tay cứng đầu thường hay cãi lý, nhưng anh ta là một người tốt, một sĩ quan giỏi. Nếu tôi nghe theo ý kiến của Shimizu thì tôi sẽ không vấp phải nhiều lỗi lầm cho đến nỗi phải trả bằng mạng sống của anh ta.

Kế đó, Miyoshi và Shoji bước đến cái xác của Chuẩn úy Itawa và cẩn thận nâng lên. Iwata, sĩ quan quan sát đã phát hiện tuần dương hạm Helena kịp thời khiến chiếc tàu của chúng tôi thoát khỏi bị tiêu diệt.

Tôi bước xuống đài chỉ huy. Thủy thủ nhìn tôi chăm chú. Đây là lần đầu tiên tôi rời khỏi đài chỉ huy từ khi bắt đầu cuộc hành quân vừa qua. Tôi nói: "Iwata, bạn của tôi. Cái chết của bạn sẽ thức tỉnh tôi, để tôi thận trọng hơn!" Tôi cởi chiếc áo khoác và đắp lên xác chết. "Iwata, vĩnh biệt, anh hãy an nghỉ." Lệ dâng đầy mắt tôi lúc đứng nghiêm và chào người quá cố. Tôi lê gót nặng nhọc lên đài chỉ huy. Nhiều thủy thủ bật khóc như trẻ con, nhiều người khác đưa tay bưng mặt.

Tôi ngước nhìn vầng kim ô to lớn và đỏ ối dần khuất, tôi đã nguyện với lòng không vấp vải những lỗi lầm như vừa qua nữa. Khi buổi lễ hải táng chấm dứt, đêm đã xuống hoàn toàn. Chiếc Amatsukaze chạy vòng quanh khu vực hải táng một lần, trong lúc toàn thể thủy thủ còn lại cúi đầu cầu nguyện lần cuối cùng cho những người bạn ra đi vĩnh viễn. Sau đó chiếc tàu quay mũi về hướng Bắc.

Matsumoto, nguyên là một sinh viên xuất thân từ trường Hàng Hải Thương Mại, đã thích ứng với công việc điều khiển guồng lái chiếc tàu bằng tay rất mau lẹ. Chiếc tàu tiếp tục chạy về phía trước với một tốc độ tối thiểu, và 24 giờ sau, ngày 14 tháng 11, Amatsukaze buông neo trong hải cảng Truk, hòn đảo san hô yên tĩnh. Ở đây, tôi nghe tin tiềm thủy đĩnh I.26 của Nhật đã phóng ngư lôi đánh chìm một tuần dương hạm chạy lẻ loi của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nhiều năm sau này tôi mới được biết đó là tuần dương hạm Juneau, từng bị chiếc Amatsukaze bắn phá gây hư hại nặng nề trước khi bị hạ hẳn.

Trận đánh kết thúc, phần thắng lơi nghiêng về phía Nhật Bản, nhưng chỉ là thắng lợi thuần túy chiến thuật. Thắng lợi chiến lược đã nghiêng về phía địch quân, vì lực lượng của Abe bị ngăn chặn, phải bỏ rơi cuộc pháo kích vào các phi trường ở Guadalcanal như đã định. Chín chiến hạm Hoa Kỳ đã bị đánh chìm, nhưng không gây thất lợi hẳn cho địch quân, và việc này càng làm cho họ lưu tâm đến hòn đảo hơn nữa.

Ở Truk, Đô đốc Yamamoto đã nổi giận khi nghe tin nhiệm vụ của Abe thất bại. Hiei là thiết giáp hạm đầu tiên của Nhật chìm trong cuộc chiến. Điều này đã khiến cho Yamamoto nổi khùng, cho dù là trước đây ông luôn luôn được tiếng là rộng lượng và khoan dung với lỗi lầm của thuộc cấp.

Bộ Tư Lệnh Tối Cao ở Tokyo cũng tỏ ra giận dữ. Cơn giận dữ của các vị Đô đốc đầu não đã biến thành cơn thịnh nộ khi nghe họ nghe thêm tin sự thất bại của Phó Đô đốc Nobutake, tiếp liền sau sự thất bại của Abe. Một ủy ban gồm nhiều vị Đô đốc được thành lập để điều hành một tòa án xét xử kín nội vụ. Abe và Đại tá Nishida, hạm trưởng của thiết giáp hạm Hiei được gọi ra chấp cung. Cả hai đều không đưa ra lời bênh vực nào về những hành vi hoặc lỗi lầm của họ. Tòa án phán xét cho hai sĩ quan "về hưu" vì đã có những hành vi "bất xứng", được hưởng trợ cấp hưu bổng, nhưng không được giữ bất cứ chức vụ công nào.

Vào đêm 13 tháng 11, phân đội gồm ba tuần dương hạm và bốn khu trục hạm của Đề đốc Shoji Nishiruma tiến sát bờ biển Guadalcanal, và mở những cuộc pháo kích vào các phi trường trên đảo. Nhưng vào sáng hôm sau, phi cơ Hoa Kỳ vẫn cất cánh được từ các phi trường này. Chứng tỏ cuộc pháo kích của Nishimura vô hiệu. Các phi cơ trên đảo phối hợp với các phi cơ của hàng không mẫu hạm Enterprise đến xâu xé một đoàn tàu chuyển vận 11 chiếc của Nhật, gây thiệt hại và đánh chìm đến 7 chiếc. Phi cơ địch cũng đánh chìm tuần dương hạm Kinugasa và gây hư hại nặng cho ba khu trục hạm thuộc lực lượng hộ tống.

Phó Đô đốc Kondo, phụ tá Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp, được lệnh thay thế Kiruta cầm đầu cuộc hải xuất kế vào đêm 14 tháng 11. Hai tuần dương hạm 13.000 tấn Atago và Takao, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Kondo, thình lình được gia nhập vào hạm đội của Cựu Đề đốc Abe ( Cựu Đề đốc? Cay đắng quá - Heo ý kiến chút ), hạm đội này đã thiệt mất một thiết giáp hạm Hiei và ba khu trục hạm trong trận đánh vừa qua.

Sự lựa chọn Kondo để đặt vào nhiệm vụ, chứng tỏ Đô đốc Yamamoto đã sai lầm. Tôi vẫn không hiểu tại sao Đô đốc Yamamoto lại nghĩ quá cao về Kondo, mặc dù ông ấy đã có nhiều hành vi nhút nhát trong hai trận hải chiến gần đây. Lần này, lực lượng của Kondo gồm có ba thiết giáp hạm , hai tuần dương hạm nhẹ và chín khu trục hạm, đối đầu với một lực lượng địch yếu kém rõ rệt, dưới quyền của Đề đốc Willis Augustus Lee, chỉ có hai thiết giáp hạm và bốn khu trục hạm. Mặc dù nắm lợi thế về số đông, Kondo đã để cho địch quân đánh chìm thiết giáp hạm Kirishima và một khu trục hạm, trong khi Lee chỉ mất ba khu trục hạm.

Hai tuần dương hạm của Kondo vẫn chưa chạm địch, nhưng ông đã ra lệnh cho cả hai rút lui, và ngay cả sự cố gắng truy đuổi địch quân ông cũng không hề nghĩ đến.

Trong vòng bốn tháng, đây là lần thứ ba Kondo đã có hành vi không mấy nhiệt tình như thế.

Đô đốc Yamamoto đã nổi giận trước sự thất bại của Aba, nhưng đối với Kondo ông lại tỏ ra rộng lượng lạ lùng. Nhiều sĩ quan của Kondo đã lấy làm hổ thẹn dùm cho ông cũng như cho chính họ. Họ tránh đề cập đến trận đánh, Kondo là một mẫu người lịch sự theo phong cách của nhười Anh. Ông tỏ ra nhân ái và rộng lượng với tất cả thuộc cấp, và ông cũng là một vị Đô đốc có kiến thức uyên bác. Đối với tôi, ông là một người tốt và tôi luôn kính nể ông. Nhưng tôi phải nói rằng Yamamoto đã vấp phải một sai lầm to tát nhất, đó là việc ông đã đánh giá quá cao khả năng chiến đấu của Kondo. Kondo có thể là một vị chỉ huy giỏi ở Hàn Lâm Viện Hải Quân, nhưng ông không thể là một vị chỉ huy thích hợp ở một đơn vị chiến đấu.

--------------------------------

Phần 7:

Ở Truk, khu trục hạm Amatsukaze đậu cặp kè với chiếc tàu sửa chữa Akaski. Viên kỹ sư trưởng lên ngay chiếc tàu của tôi để xem xét các nơi bị hư hỏng. Tôi đã cho rằng sự hư hại của chiếc tàu không có gì đáng kể, và nó có thể trở lại với đồng đội chỉ trong vòng một tuần lễ hoặc mười ngày là cùng.

Viên kỹ sư cười và nói: " Trung tá Hara, hầu hết các hạm trưởng đều xem thường sự hư hại của chiếc tàu do họ chỉ huy, và khi lâm chiến họ đã bắt những chiếc tàu làm những việc không thể nào làm nổi ngay cả với một chuyến đi thông thường. Tôi biết ông rõ từng đường tơ kẽ tóc của chiếc tàu này. Hãy đi một vòng xem, và ông hãy giải thích cho tôi xem những điểm nào gọi là tốt đẹp của chiếc tàu?"

Thật vậy, Amatsukaze không khác nào đứa con của tôi. Đầu năm 1940, tôi đã xem xét tỉ mỉ chiếc tàu trước khi nó được hạ thủy, và ròng rã sáu thánh sau đó, tôi đã trông coi việc trang bị cho chiếc tàu. Có thể nói đây là khu trục hạm đẹp nhất vào thời đó. Chiến hạm 2.500 tấn này tôi biết từng đường tơ kẽ tóc, đúng như lời viên kỹ sư đã nói.

Viên kỹ sư và tôi đã bỏ ra một ngày để xem xét qua các chỗ hư hại của Amatsukaze. Sự lạc quan của tôi đã tan biến ngay sau cuộc xem xét này. Toàn thể vỏ tàu, chúng tôi đếm được tất cả 32 lỗ thủng với đường kính rộng cả tấc. Thêm vào đó, có năm lỗ thủng nhỏ hơn, do mảnh đạn gây ra. Còn các lỗ thủng nhỏ thì vô số, sau khi đếm đến con số 40, tôi đã ngưng không đếm nữa. Quả thật, chiếc tuần dương hạm Hoa Kỳ đã làm được việc. Viên kỹ sư đã nói đúng. Amatsukaze hiện giờ chỉ là một đống sắt nổi, không còn giá trị của một chiếc khu trục hạm nữa.

Sau khi đi một vòng xong, chúng tôi bước vào phòng,. Tôi đã buông rơi tấm thân xuống ghế, chán nản và buồn hiu. Viên kỹ sư an ủi: "Tôi thành thật chúc mừng tài điều khiển tàu tài giỏi của Trung tá. Mang được chiếc tàu này trở về, đầy đủ như vậy, Trung tá đã làm một việc giống như có phép lạ, nhưng tôi chắc phép lạ này không xảy ra lần thứ hai."

Tôi công nhận lời nói của viên kỹ sư, nhưng trong lúc chán nản tôi chỉ ngồi lặng yên. Hắn ta nói tiếp: "Chắc Trung tá biết, chúng tôi không thể tập trung tất cả thời gian vào chiếc Amatsukaze. Nhiều chiếc tàu khác cũng cần phải sửa chữa. Ước chừng phải mất một tháng, tôi sẽ làm chiếc tàu của Trung tá đủ sức chạy về Nhật. Ở đó sẽ có đủ phương tiện sửa chữa, và hy vọng trong vòng một tháng chiếc tàu này sẽ đủ khả năng phục hồi như cũ."

" Nhưng tôi từng nghe địch quân có thể sửa chữa chiến hạm hư hại nhiều hơn của họ không mất quá 60 ngày. Tại sao chúng ta không làm được như vậy?"

Tôi biết câu giải đáp sẽ liên quan đến khả năng kỹ thuật của địch quân, nó vượt trội hơn Nhật Bản, và tôi cũng hiểu ngay câu hỏi của tôi sẽ gây phiền phức như thế nào. Một khoảng im lặng nặng trĩu, cuối cùng tôi lên tiếng: "Xin ông hãy làm những việc ông cho là thích hợp. Tôi sẽ ở đây với chiếc tàu. Thủy thủ của tôi sẽ tiếp tay với nhân viên của ông trong việc sửa chữa, nếu xét thấy có thể."

Viên kỹ sư lại ngỏ lời tán tụng tôi thêm một lần nữa, rồi mới chịu cáo từ. Tôi dẹp bỏ sự lo nghĩ, đứng dậy ra khỏi phòng, và đi qua đi lại trên sàn tàu. Nhìn lại những lỗ thủng không đếm xuể do đạn đại liên gây ra, tôi nghĩ cũng may mà chúng tôi chỉ thiệt hại có 43 nhân mạng.

Công việc sửa chữa chiếc tàu bắt đầu vào sáng hôm sau. Tuần lễ kế đó, tôi phải bận rộn đón một số khách viếng thăm đến từ thiết giáp hạm Yamato và một số chiến hạm khác buông neo ở hải cảng Truk. Tôi có nhiệm vụ giải thích với họ về "phép lạ" mà chiếc Amatsukaze đã được hưởng. Ai ai cũng cho rằng chiếc tàu còn tồn tại là một việc phi thường. Nhiều khách viếng ngỏ lời khen tặng tôi, nhưng không ai hỏi ý kiến tôi làm sao để tránh nếu họ gặp một số phận như vậy trong tương lai. Và cũng không một sĩ quan nào thuộc bộ tham mưu của Hạm Đội Hỗn Hợp khi đến viếng thăm chiếc tàu mang đầy thương tích của tôi ngỏ lời hỏi han ý kiến, hoặc yêu cầu tôi đưa ra những lời khuyên. Sự khiếm khuyết đáng chú ý này kéo dài một tuần, khiến tôi bắt đầu nghi ngờ khả năng của những người này. Tôi đã băn khoăn lo nghĩ rằng họ - những người đã góp tay vào việc sắp xếp kế hoạch hành quân - họ thấy không cần thiết rút tỉa những kinh nghiệm của trận đánh vừa qua. Dĩ nhiên, điều này cho thấy họ tắc trách trong nhiệm vụ, và gây cho tôi sự âu lo về những kế hoạch mà họ sẽ đặt ra trong tương lai.

Tại Truk, tôi nhận được hai lá thư gửi từ Nhật Bản. Trong một lá thư đề ngày 13 tháng 11, vợ tôi sau khi nói sơ qua về tình trạng của gia đình đã chấm dứt với câu sau đây:

"Đêm hôm qua thằng nhỏ Mikito bỗng nhiên thức giấc và hét lớn. Thoạt đầu em nghĩ là con bị bệnh, nhưng khi gạn hỏi, thì nó nói cho biết đã mơ thấy anh đang gặp nguy hiểm. Nó còn nói anh đã nhìn nó với khuôn mặt xanh xao và sợ hãi. Em tự hỏi không biết đêm qua anh ở đâu và đang làm gì? Báo chí hàng ngày đều loan tin nhiều trận đánh dữ dội xảy ra ở phía Nam. Em lo cho anh vô cùng."

Theo đề ngày của bức thư, đêm đứa con tôi nằm mơ là đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 11. Đó là đêm tôi lâm vào tình trạng hiểm nguy thật sự. Mặt tôi xanh xao, và chắc chắn là sợ hãi, khi tàu của tôi bị chiếc tuần dương hạm địch dập pháo liên hồi. Làm sao đứa bé này lại thấy được hình ảnh của cha nó?

Bức thư thứ hai là của mẹ tôi, lúc ấy đã 82 tuổi. Cuối thư, mẹ viết:

"Mỗi sáng và mỗi đêm mẹ đều quỳ trước bàn thờ để cầu nguyện tổ tiên và Đức Phật từ bi phù hộ cho con. Hãy bảo trọng lấy thân để trở về với mẹ."

Đọc thư này, mắt tôi đầy lệ, Tôi nghĩ đến gia đình của những thuộc cấp đã ra đi vĩnh viễn. Tôi bật khóc thành tiếng. Tôi phải viết thư phân ưu gửi cho 43 gia đình của những người đã chết trước khi hồi âm cho mẹ và vợ tôi. Tám giờ đồng hồ ròng rã trước khi tôi chấm dứt lá thư cuối cùng. Mặt trời đã lặn, tôi bước ra sàn tàu. Xa xa một chiếc xuồng máy chạy về Amatsukaze. Một kẻ tò mò lại đến nữa đây, nhưng dù sao cũng phải tiếp đón lịch sự. Tôi bước đến thành tàu khi chiếc xuồng cập vào. Người khách đã la to vui mừng khi vừa đặt chân lên cầu thang. Tôi nhận ra Trung tá Yasumi Toyama, Tham mưu trưởng phân đội 2 khu trục hạm của Đề đốc Rajio Tanaka, hiện trú đóng ở Rabaul. Trước kia tôi thuộc phân đội này nên tôi chơi thân với Toyama. Hắn ta đến Truk tham dự các phiên họp chiến thuật mở ra trên soái hạm Yamato của Đô đốc Yamamoto.

Vừa thấy tôi, Toyama hỏi ngay: "Anh coi bộ bị bệnh? Sao vậy? Bị thương à?"

"Không, không trầy một mảnh da nào hết. Nhưng tôi muốn kiệt sức. Bất kỳ người nào có chiếc tàu bị dập tơi tả như thế này đều cảm thấy như tôi."

"Không, Hara, làm sao mà anh lại cảm thấy như vậy được! Anh đã làm một việc kinh khủng. Từ xa, tôi nhìn thấy chiếc Amatsukaze có hề hấn gì đâu. Tôi biết anh là sĩ quan ngư lôi ACE của Hải quân, nhưng tôi không ngờ tài lái tàu của anh đạt đến mức như vậy. Nếu gặp hạm trưởng khác thì chiếc tàu này tiêu rồi."

"Tôi không đồng ý với anh, Toyama. Đúng ra chúng tôi đã gặp may mắn. Anh xem đây, các vết đạn không đếm xuể này đã tránh né máy móc và bồn chứa nhiên liệu của chiếc tàu. Thôi, anh hãy nói cho tôi biết tình trạng của phân đội như thế nào đi."

"À," hắn kêu lên. "Hiện tại chúng tôi trở thành một đoàn tàu chuyển vận hàng hóa hơn là một phân đội chiến đấu. Chúng tôi chuyển hàng đến hòn đảo chết tiệt đó (tức Guadalcanal), và lệnh được cấp trên ban xuống cho chúng tôi là bỏ chạy tốt hơn chiến đấu. Thật, cái lệnh không ra gì. Lệnh này có vẻ hồ nghi khả năng chiến đấu trong bất kỳ hoàn cảnh nào của bọn khu trục hạm chúng ta. Đồ tiếp liệu chở đến Guadalcanal cao như núi trên sàn tàu, khiến cho đạn dược của mỗi chiếc tàu đều bị cắt giảm phân nửa. Hàng hóa được xếp vào thùng kín và buộc dính chùm với nhau, tàu chở đến gần hòn đảo rồi xô đại xuống biển và quay đầu bỏ chạy. Các thùng này sẽ trôi nổi trên mặt nước, cho đến khi binh sĩ trên đảo của chúng ta bơi ra để kéo vào. Đó là một công việc chán không thể tả. Bây giờ tôi muốn nghe anh kể lại trận đánh mà anh đã tham dự và luôn tiện tôi được học hỏi thêm kinh nghiệm của anh. Hãy nói tất cả cho tôi nghe đi."

Đó là một yêu cầu thông minh mà tôi được nghe lần đầu trong suốt tuần lễ qua.

Tôi phấn khởi kể lại từng chi tiết trận đánh vừa qua. Tôi vạch ra những thất bại của chúng tôi lẫn của địch quân, và phân tích thật tỉ mỉ. Để kết luận, tôi nói: "Dù cho thi hành bất cứ nhiệm vụ nào, chúng ta cũng phải luôn luôn sẵn sàng để chiến đấu. Tôi nghĩ thật sai lầm nếu xem thường việc sẵn sàng chiến đấu. Cẩn thận bao giờ cũng cần thiết, nhưng cẩn thận thái quá thì sẽ trở thành nhút nhát. Xin anh hãy khuyên Đề đốc Tanaka không nên vấp phải những lỗi lầm "cẩn thận thái quá" này một lần nữa.*********

(*******: Ý của lời khuyên trên dịch hơi rối rắm. Theo Heo thì có lẽ Hara muốn nói đến sự cố gắng tránh né chiến đấu với hạm đội Mỹ của Abe. Và đội hình phức tạp để đề phòng tàu ngầm với các tàu nhỏ phóng lôi của Mỹ, đội hình đã rối loạn khi không gặp tàu ngầm hay tàu phóng lôi mà gặp chính hạm đội Mỹ.)

Toyama rời khỏi tàu của tôi và leo lên phi cơ bay trở về Rabaul. Chuyến đến Truk vội vã, và những điều Toyama đã nói về các phương pháp tiếp tế khác thường của chúng tôi chứng tỏ rằng địch đã nắm ưu thế trên không phận Guadalcanal. Ngay cả khu trục hạm cũng trở thành tàu chở hàng hóa, cho thấy lực lượng Nhật trên đảo đã thiếu thốn tiếp liệu các loại đến mức độ trầm trọng. Hai món tiếp tế mà họ kêu cứu hàng ngày chính là thực phẩm và thuốc men.

Đề đốc Tanaka đã được giao phó nhiệm vụ cứu đói nhóm quân Nhật sa lầy ở Guadalcanal. Trong nhiệm vụ này, hàng đêm mỗi khu trục hạm đều mang hơn 100 thùng tiếp liệu chạy vào bờ cách bờ biển Guadalcanal từ 200 đến 300 mét để thả xuống. Sau đó, binh sĩ Nhật lớp bơi xuồng, lớp lội từ trong đảo ra kéo các thùng tiếp liệu vào bờ, và mang chôn dấu trong rừng rậm để thánh phi cơ địch phá hủy.

Tám khu trục hạm của Tanaka rời khỏi Rabaul vào ngày 27 tháng 11, trực chỉ hướng Nam, đến quần đảo Shortland. Chuyến đi phải lén lút. Nương bóng đêm ngày 29, phân đội lại rời khỏi Shortland vào lúc 22h45, để đi tiếp đoạn hải trình còn lại của nhiệm vụ. Bằng mọi cách, phân đội giả vờ di chuyển đến hòn đảo Ramos. Sau đó sáng ngày 30 tháng 11, tám khu trục hạm trong đội hình hàng dọc xoay mũi về hướng chính Nam, trực chỉ Guadalcanal.

Một trinh sát cơ của địch quân đã bắt gặp phân đội vào lúc 8h sáng. Đề đốc Tanaka biết rằng hoạt động lén lút của ông đã bị khám phá. Không lâu sau đó, một trạm quan sát Nhật trên đảo Guadalcanal báo cho Tanaka biết khoảng một chục khu trục hạm địch rời khỏi mũi Lunga. Cùng lúc, các trạm quan sát khác đã xác nhận lực lượng địch vừa nói đã chạy quanh hòn đảo.

Lúc 15h, Tanaka ban chỉ thị cho phân đội của ông: "Chúng ta có thể chạm trán với một lực lượng địch trong đêm nay. Mặc dù nhiệm vụ của chúng ta là đồ tiếp liệu, nhưng nếu cần đánh thì cũng sẵn sàng để đánh. Nếu cuộc đụng độ xảy ra, chúng ta phải dốc tâm chiến đấu và tiêu diệt địch."

Lúc 21h, Phân đội tiến đến điểm hẹn ở Tassafanga. Tất cả chiến hạm đều giảm tốc độ xuống còn 12 hải lý, chạy theo đội hình hàng dọc, với chiếc Takanami dẫn đầu cách khoảng 3.000m, và mạn trái chiếc tàu này là soái hạm Naganami. Đây là một đội hình có tính cách co giãn của khu trục hạm, có nhiều lợi thế hơn đội hình hàng đôi quá cẩn trọng mà Đề đốc Abe đã sử dụng trong đêm 11 rạng ngày 12 tháng 11 trước đây.

Lực lượng Hoa Kỳ đối mặt với lực lượng của Tanaka được đặt dưới quyền của Đề đốc Carleton H. Wright, đã sử dụng đội hình giống như của Callaghan Scott. Đó là đội hình hàng dọc duy nhất với 4 khu trục hạm giữ nhiệm vụ tiền vệ, kế đó là 5 tuần dương hạm và cuối cùng là 2 khu trục hạm. Dẫn đầu toàn thể đội hình này là khu trục hạm Fletcher, có trang bị radar tối tân, (Hai tuần trước đây, trong cuộc bại trận của Callaghan, chiếc Fletcher nhờ chạy ở phần đuôi của đội hình nên không bị thiệt hại.)

So sánh hai lực lượng, phía Đề đốc Wright vượt trội hẳn Đề đốc Tanaka. Ngoài sự chênh lệch về quân số, các khu trục hạm của Tanaka đều chất đầy tiếp liệu và do đó, đạn dược mang theo của các chiến hạm này cũng giảm còn phân nửa. Thêm vào số đạn dược bị cắt giảm, mỗi khu trục hạm của Tanaka chỉ trang bị 8 quả ngư lôi thay vì 16 quả đúng như cấp số.

Sau khi được trinh sát cơ báo cáo, Phân đội của Đề đốc Wright rời khỏi Esititu Santo thật sớm để đón đầu các khu trục hạm của Tanaka. Cho đến 21h606 cùng ngày, radar của soái hạm Mineapolis đã khám phá lực lượng Nhật từ khoảng cách 25km. Mười phút sau đó, trên màn ảnh radar của Fletcher cũng hiện lên một mục tiêu cách 7km phía trước, hơi chếch về phía mạn trái và khu trục hạm này đã chuẩn bị phóng ngư lôi. Nhưng, một vài phút quý báu đã trôi qua, trước khi Fletcher, cũng như hai khu trục hạm Perkins và Drayton, được lệnh khai hỏa. Vì vậy, hai mươi quả ngư lôi do các tàu này phóng đi không có quả nào chạm mục tiêu.

Trong khi đó, Đề đốc Tanaka bận túi bụi bên các hải đồ để định vị các tàu chiến của ông. Khi điểm "đổ hàng" của ông chỉ còn cách 5.000m. tàu tuần thám Takanami báo cáo: "Tàu địch ở hướng 100 độ. Hình như là ba khu trục hạm."

Báo cáo xong, Takanami phóng ngay 8 quả ngư lôi vào các mục tiêu này, đồng thời khai hỏa tất cả các pháo khẩu. Đây là hành động tự ý của Takanami, không chờ đợi lệnh khai hỏa của thượng cấp.

Cho đến khi 5 tuần dương hạm Hoa Kỳ đồng loạt bắn trả khu trục hạm Takanami, Đề đốc Tanaka mới biết sự hiện diện của địch quân quá gần, ông ra lệnh khẩn cấp: "Tạm ngưng xúc tiến nhiệm vụ chính! Tất cả khu trục hạm chuẩn bị chiến đấu."

Một phút sau đó, lúc 21h22 phút, Tanaka ban lệnh khác: "Mọi chiến hạm xả hết tốc lực chiến đấu."

Các xạ thủ Hoa Kỳ hình như chỉ nhắm vào một chiếc Takanami, và kết quả, khu trục hạm này bị trúng đạn nhiều nhất. Nhiều quả đại pháo trực xạ đã làm cho chiếc tàu bốc cháy dữ dội và sau đó chìm lỉm, mang theo toàn bộ thủy thủ đoàn 211 người.

Lúc Takanami bốc cháy, khói và lửa trở thành một bức màn che, Tanaka ra lệnh các chiến hạm còn lại của ông xoay 180 độ, để chạy song song cùng hướng với nhóm tàu của địch quân. Sau đó, ông ra lệnh gia tăng tốc độ để tiến sát vào địch quân, và soái hạm Naganami vung sang mạn trái sau khi đã phóng một loạt 8 quả ngư lôi vào tuần dương hạm Minneapolis dẫn đầu. Sáu khu trục hạm khác của Nhật cũng bắt chước theo Nagami. Loạt ngư lôi của chúng tôi đều nhắm vào cạnh tàu của địch quân, nên chính xác hơn lối phóng thẳng vào phía trước như chiếc Fletcher và các đồng đội đã làm. Điều này kông có gì đáng ngạc nhiên khi các ngư lôi của địch đều sai đích. Hơn nữa, phóng ở một góc độ khó trúng như vậy, tàu địch lại còn thiếu sự ước định chính xác qua nhiều yếu tố liên quan, điều này cho thấy xạ thủ địch khọng được huấn luyện kỹ thuật phóng ngư lôi hữu hiệu.

Trái lại, hai trong số các ngư lôi của chiếc Naganami đã trúng ngay tuần dương hạm Minneapolis, khiến chiếc soái hạm dẫn đầu này bốc cháy, và hầu như đứng chựng lại. Tuần dương hạm New Orleans, chạy ở hàng kế, khi né tránh đụng chạm với Minneapolis, đã lãnh ở mũi một quả ngư lôi của chiếc Mikinami. Sức nổ đã thổi bay cả tháp pháo số 2 của chiếc tàu này.

Tuần dương hạm Pensacola, chạy sau chiếc New Orleans, trong khi cố tránh né đụng chạm cũng lãnh một quả ngư lôi ngay bồn chứa nhiên liệu và biến thành cây đuốc. Tuần dương hạm hạng nhẹ Honolulu, chạy sau chiếc Pensacola. May mắn hơn đã nhanh chân xoay sang trái ngay khi chiến hạm Nhật bắt đầu phóng ngư lôi, và khi nhìn thấy đồng bọn bốc cháy, chiếc tàu này lại xoay sang phải, chạy theo hình chữ chi về phía Tây Bắc để tránh tầm trọng pháo của Nhật.

Northhampton, tuần dương hạm cuối cùng còn lại của địch quân, từ đầu trận đánh đã tỏ ra ít hoạt động, sau khi thấy ba đồng đội bị bao phủ trong lửa đỏ, chiếc tàu này định quay đầu chạy theo chiếc Honolulu, nhưng khi thấy các chiến hạm Nhật xoay về hướng Tây, nó cũng xoay theo và khai hỏa với các trọng pháo 200mm. Các quả đạn được bắn vội vã nên không có quả nào trúng đích.

Chiến hạm Nhật phóng hai quả ngư lôi vào mạn trái của Northhampton, gây hai tiếng nổ dữ dội. Tàu địch bốc cháy và chìm cấp kỳ.

Phân đội của Tanaka vung về phía Tây bắc và xả hết tốc lực, vừa chạy vừa phóng ngư lôi, bỏ mặc cho địch quân gấu ó với nhau ở phía sau. Honolulu, tuần dương hạm duy nhất của địch không bị hư hại, đã lầm hai khu trục hạm hậu vệ Lamson và Lardner của Hoa Kỳ là chiến hạm Nhật nên khai hỏa bắn đuổi, bắt buộc hai chiếc tàu này phải xoay hướng và bỏ chạy.

Cách Guadalcanal khoảng 50 dặm, soái hạm Naganami chạy chầm chậm. Và Đề đốc Tanaka kiểm điểm lại lực lượng của ông. Ngoài khu trục hạm Takanami bị đánh chìm, trong 7 khu trục hạm còn lại không có chiếc nào bị mang thương tích, cũng không có thủy thủ nào thiệt mạng. Nhật đã gây thiệt hại nhiều cho địch quân mà chỉ trá giá bằng một chiếc khu trục hạm, nhưng Đề đốc Tanaka không cảm thấy vui vẻ. Chiếc Takanami bị đánh chìm đã khiến ông rầu rĩ và ngồi trầm ngâm trên suốt hải trình rút lui. Ông muốn trở lại khu vực chiến đấu để giải cứu những thủy thủ của chiếc tàu chìm còn sống sót và tái chiến với địch quân. Nhưng sau khi kiểm điểm, bốn trong số 7 khu trục hạm Nhật không còn một quả ngư lôi nào. Ba chiếc kia, một chiếc mới chỉ phóng phân nửa, và hai chiếc khác vì nằm ở một góc độ không thuận lợi nên không phóng được quả nào, do đó số ngư lôi mang theo vẫn còn nguyên vẹn. Tính ra, trong trận đánh vừa qua, các chiến hạm Nhật đã phóng ra 44 quả ngư lôi. Trong tình trạng đó, Tanaka đã nghĩ rằng lực lượng của ông không có hy vọng thắng lợi một khi tái chiến với lực lượng của địch quân. Vì vậy, vào lúc 22h30, ông cho lệnh rút lui về Rabaul.

Quyết định này khiến Bộ Tư Lệnh Tối Cao không hài lòng, cho dù Tanaka nêu ra chiến công của ông là đã đánh chìm một thiết giáp hạm và hai tuần dương hạm, còn gây thiệt hại nặng cho bốn tuần dương hạm khác của địch quân mà chỉ thiệt hại có một khu trục hạm. Nhưng thật sự, thượng cấp của Tanaka không cần biết đến những chiến công này, họ không hài lòng bởi vì Tanaka đã thất bại trong việc đổ tiếp liệu cho lực lượng Nhật ở Guadalcanal.

Sự không hài lòng này trở thành xác thực khi Tanaka bị thuyên chuyển sang Singapore sau trận đánh này không lâu, và sau đó ông lại phải khăn gói sang Miến Điện. Qua hai lần thuyên chuyển, tài năng của ông đã được sử dụng một cách hoang phí, nhưng nhờ vậy mà ông xa hẳn mặt trận, và chắc chắn cũng do đó mà mạng ông được cứu sống.

Từ đó cho đến cuối cuộc chiến, Tanaka không bao giờ được giao phó nhiệm vụ chỉ huy trên mặt biển nữa. Mười lăm năm sau trận đánh Tassafaronga, tôi đến thăm viếng Tanaka tại nông trại của ông gần Yamaguchi. Khi thảo luận về trận đánh này, ông đã nói với tôi: "Tôi có nghe một số chuyên viên Hải quân Hoa Kỳ đã khen ngợi tài chỉ huy của tôi trong trận đánh đó. Nhưng tôi nghĩ tôi không đáng nhận vinh dự như vậy. Phải nói nhờ vào tài năng và ý chí của thuộc cấp đã giúp tôi đạt được thắng lợi đó."

"Nói như vậy, không phải là tôi từ chối danh dự mà tôi có quyền hưởng nhằm trốn tránh sự chỉ trích. Tôi chấp nhận sự chỉ trích chính yếu do các sĩ quan đồng liêu đưa ra. Tôi phải chịu trách nhiệm trong việc không đưa tiếp liệu đến nơi đến chốn theo đúng kế hoạch. Đáng lẽ tôi phải quay lại để hoàn thành nhiệm vụ, nhưng tôi phải bỏ rơi. Việc này không có gì khó hiểu, bởi vì lúc ấy tôi không nắm trong tay tin tức chính xác về sức mạnh của địch quân. Tôi cứ đinh ninh đội hình của Đề đốc Wright sẽ giống như đội hình của hai Đề đốc Callaghan và Scott trong trận đụng độ với Đề đốc Abe hai tuần lễ trước đó. Có nghĩa là đội hình của địch quân gồm có bốn khu trục hạm đi đầu và bốn tuần dương hạm tiếp theo sau. Khi trận đánh xảy ra, bảy khu trục hạm Nhật chất đầy các thùng tiếp liệu, và đạn dược bị cắt giảm phân nửa, đã phải lâm chiến với tám khu trục hạm địch, đó là điều tôi không bao giờ nghĩ đến. Tôi chỉ nghĩ lực lượng lâm chiến thật sự của chúng ta là một tuần dương hạm và bốn khu trục hạm mà thôi."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro