Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P7

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Với hai tiếng rít đinh tai nhức óc. Hai oanh tạc cơ lướt ngang qua các tháp từ mạn trái sang mạn phải. Hai quả bom rơi xuống và nhảy vọt đến, nhưng chiếc tàu đã lướt qua được khoảng bảy tám mét nên không trúng. Lúc đó, chiếc Shigure đã chạy hết tốc lực. Bom nổ, hai cột nước dâng cao. Phi cơ địch xuyên qua màn hỏa lực dày đặc và bay thẳng về hướng Nam.

Năm phút căng thẳng trôi qua. Phi cơ địch mất dạng hẳn. Sau đó, phòng truyền tin báo cáo: "Phi cơ địch đang chuyển báo cáo thẳng qua vô tuyến."

Chuẩn úy Hiroshi Chosa, chuyên viên Anh ngữ của chúng tôi, nhảy dựng lên và nói: "Được rồi, để tôi đến nghe xem mấy em bé này nói cái gì." Anh ta rời khỏi đài chỉ huy, một hai phút sau Chosa cho biết qua ống nói: "Một phi cơ địch báo cáo các hệ thống kiểm soát bị hư hại và cho vị trí bằng mật mã. Một phi cơ khác cho biết cánh trái bị trúng đạn và đang đáp xuống mặt biển."

Mọi người trên đài chỉ huy đều hớn hở. Tsukihara, lộ vẻ lo lắng tột độ trước đó, bây giờ nhảy nhót như trẻ con.

Chosa tiếp tục: "Căn cứ của địch quân đáp rằng một chiếc thủy phi cơ sẽ được phái đến để giải cứu những phi công lâm nạn. Tọa độ không thể nào mò ra, vì đều được cho bằng những con số khó hiểu. Hãy chờ.. À, bây giờ các phi cơ nói cảm ơn và cho biết đang chúi xuống."

Tôi thở dài nhẹ nhõm. Tôi không bao giờ nghĩ phương thức chống trả oanh tạc nhảy mới mẻ của tôi lại công hiệu đến mức ấy. Chiếc Shigure giảm tốc độ và hợp đoàn với hai chuyển vận hạm. Chúng tôi lại tiếp tục "cuộc dạo chơi trên mặt biển" hướng về Kavieng. Sau khi hai chuyển vận hạm xuống hàng, không còn nhiệm vụ nào khác ở đây. Vào sáng ngày 8 tháng 11, chúng tôi khởi hành về Truk.

"Cuộc dạo chơi" lại bị phá đám một lần nữa vì máy sonar chống tàu ngầm trang bị cho chiếc tàu bỗng dưng ngưng hoạt động. Các chuyên viên kỹ thuật của chúng tôi sửa chữa suốt ngày nhưng cũng không thể nào làm cho chiếc máy hồi sinh. Theo tin tức, tàu ngầm địch quân thường lảng vảng trong vùng biển này, do đó máy sonar bị hư là cả một vấn đề. Làm cách nào chiếc khu trục hạm câm điếc này hy vọng bảo vệ hữu hiệu hai chuyển vận hạm chạy như rùa bò suốt một hải trình ba ngày nữa? Các tàu ngầm địch chắc chắn sẽ được tung ra tìm kiếm chúng tôi để phục thù cho 2 phi cơ bị bắn hạ.

Tôi ra lệnh cho tất cả thủy thủ phụ trách bom chìm chuẩn bị đối phó với mọi trường hợp bất ngờ. Tôi cũng ra lệnh cho hai chuyển vận hạm chạy cách xa chúng tôi 1500m. Shigure chạy bên phải hai chuyển vận hạm này. "Cuộc dạo chơi trên mặt biển" trở nên căng thẳng.

Suốt ngày hôm đó không có gì xảy ra. Ngày hôm sau cũng yên tĩnh. Thủy thủ của tôi mệt nhừ sau hai ngày trực chiến. Nếu sự yên tĩnh này kéo dài thêm một ngày nữa, chúng tôi sẽ tiến vào Truk an toàn.

Suốt buổi sáng kế, tôi ra lệnh chuẩn bị các hoạt động chống ngầm ráo riết hơn, vì thời tiết xấu, bầu trời đầy mây và biển gợn sóng. Lúc 11h30, tôi cho giải tỏa các hoạt động này.

Ngay khi các thủy thủ nằm dài trên sàn tàu để nghỉ ngơi, tôi nhìn thấy một quả ngư lôi xé nước lướt ngang qua phía trước mũi chiếc Shigure, từ mạn phải qua mạn trái. Thay vì phản ứng cấp thời, tôi đã đứng lặng nhiều giây để nhìn theo quả ngư lôi hướng về chuyển vận hạm Tokyo Maru, bây giờ chạy hơi chếch về phía trái, cách trước mũi chiếc Shigure khoảng 700m. Tiếng nổ gây náo loạn trên chiếc Shigure và lôi tôi trở về thực tế. Tôi ra lệnh cho chiếc tàu đạt tốc độ chiến đấu 24 hải lý, các thủy thủ phụ trách bom chìm chờ đợi, và xoay hướng tiến về phía quả ngư lôi xuất phát. Sau đó, chúng tôi thả sáu quả bom chìm, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy đã đạt kết quả.

Tàu ngầm địch đã bay cao xa chạy. Không có gì đáng ngạc nhiên, tôi nghĩ, với một hạm trưởng giỏi thì một quả ngư lôi cũng đủ để ghi điểm. Tôi đứng chôn chân và phẫn nộ trên đài chỉ huy. Phản ứng chậm của tôi khiến cho chiếc tàu ngầm chạy thoát.

Chiếc Shigure vẫn tiếp tục chạy vòng quanh hai chuyển vận hạm , nhưng chiếc tàu ngầm không quay lại để tung một đòn dứt khoát. Chuyển vận hạm Tokyo Maru không bốc cháy, chỉ có phòng máy bị nước tràn vào thông qua lỗ thủng do quả ngư lôi gây ra. Chiếc tàu còn nổi nhưng hoàn toàn bất động. Chuyển vận hạm thứ hai. Ontakesan Maru, kéo đồng bạn phía sau, và một lần nữa, chúng tôi hướng về Truk, với tốc độ 7 hải lý.

Trong lúc đang di chuyển, chiếc Tokyo Maru bỗng dưng gia tăng độ nghiêng nhanh chóng. Sau 8 giờ, ai cũng nhìn thấy rõ ràng là nó sắp chìm, viên hạm trưởng ra lệnh bỏ tàu. Vừa khi Shigure nhận xong 70 sĩ quan và thủy thủ, chuyển vận hạm 6.486 tấn này biến mất giữa những làn sóng.

Tôi buồn rầu trước sự việc xảy ra. Đây là lần đầu tiên tôi đã để thiệt mất một tàu chuyển vận dưới trách nhiệm hộ tống của tôi. Nếu cuộc tấn công chỉ đến chậm một vài giờ, chiếc tàu dù hư hại cũng kéo về được tới Truk. Nhưng không có một thủy thủ nào thương vong, và trước đó chiếc tàu đã xuống tất cả hàng ở Kavieng, đó là sự an ủi với tôi.

Trong nhiệm vụ này, chiếc Shigure đã bắn rơi hai oanh tạc cơ, đánh đổi một chuyển vận hạm bị đánh chìm. Nếu xét trên giá trị vật chất, cán cân có phần nghiêng về chúng tôi, nhưng trong thời gian này một chuyển vận hạm lớn vẫn có nhiều ý nghĩa đối với Nhật Bản hơn là việc bắn rơi hai oanh tạc cơ địch.

Suốt nhiều ngày, càng nghĩ đến chiếc tàu ngầm tôi càng nổi nóng. Nhưng hiện thời, sau nhiều năm trôi qua, tôi phải ngả nón cúi đầu thán phục trước chiếc tàu này và viên hạm trưởng của nó. Tiến đến, phóng ngư lôi và biến mất, quả thật tài tình.*******

******: (Đây là tàu ngầm Scamp của Hoa Kỳ, hạm trưởng là Thiếu tá Walter G. Ebert ( sau này là Đề đốc ) đã báo cáo phóng 7 quả ngư lôi và một quả đã trúng chuyển vận hạm 7.000 tấn của Nhật Bản.)

Vào khoảng trưa ngày 11 tháng 11, khu trục hạm Shigure và chuyển vận hạm Ontasekan Maru cập vào hải cảng Truk. Một vài giờ sau đó, tôi đến tuần dương hạm Atago, soái hạm của Đệ Nhị Hạm Đội, trình diện Phó Đô đốc Takeo Kurita để báo cáo sự việc xảy ra. Tôi cũng muốn gặp Tham mưu trưởng của ông là Đề đốc Tmoiji Koyanagi. Tôi vẫn nhớ cuộc đàm thoại giữa Koyanagi và tôi tám tháng trước đây, vào tháng ba, cũng chính trên soái hạm Atago, liên quan đến nhiều vấn đề quan trọng. Hiện tại tôi muốn trình lên ông những giải đáp của một số vấn đề này.

Soái hạm Atago từng bị hư hại nhẹ trong cuộc không tập vào ngày 5 tháng 11 ở Rabaul, và hiện tại đã được tàu sửa chữa Akagi hoàn tất việc sửa chữa. Hoạt động trên soái hạm rộn rịp. Các sĩ quan tham mưu đều ba chân bốn cẳng, không ai lưu ý đến sự hiện diện của tôi. Họ nói Kurita bận rộn nên không tiếp ai cả, còn Đề đốc Koyanagi thì lại đang đứng cạnh vị Tư lệnh. Cuối cùng tôi cũng làm gan gọi Koyanagi khi thấy ông đi phía trước. Chúng tôi bắt tay, và ông ta vừa cười vừa nói: "Hân hạnh được gặp lại anh, Hara."

Lập tức, tôi trình bày sơ lược với ông về cuộc đụng độ với 2 phi cơ địch gần Kavieng, và tôi tỏ ý hối tiếc vì đã để mất chuyển vận hạm Tokyo Maru. Koyanagi xua tay và nói: "Việc đó đúng, hoàn toàn đúng. Anh đã làm một việc phải nói là kỳ diệu. Không ai khác làm tốt hơn thế. Anh không để mất một người nào, đó là điều khiến tôi hài lòng hơn hết."

Tiếp đó, tôi trình bày các chi tiết về kỹ thuật chống lại radar tầm hướng và phương thức đối đầu với phương pháp chống oanh tạc nhảy của đối phương. Nhưng Koyanagi có vẻ không mấy chú tâm đến những điều tôi trình bày. Tấm trí ông như để tận đâu đâu. Tôi ngừng nói, tự hỏi không biết điều gì đã xảy ra. Thình lình, ý thức tình trạng đang đối thoại với người điếc của tôi, ông nói gần như ấp úng: "Ồ, xin lỗi anh... Tôi quấy thật... Được, để tôi giải thích nguyên do sự vô tâm của tôi cho anh. Địch quân lại oanh kích Rabaul, sáng hôm nay, lần này họ đã đập khá nặng tay. Đó là lý do tại sao chúng tôi đều ba chân bốn cẳng, và.... Đúng là sụp đổ rồi."

Có tất cả 128 phi cơ, xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Essex, Bunker Hill, Independence, gào thét trên không phận Rabaul vào lúc 8h30. Kasuka đã sớm phát hiện cuộc không tập nên đã tung 68 chiến đấu cơ Zéro lên ngăn chặn, và phi cơ của hai phía đã gặp nhau tại mũi St. George, nhưng phi cơ địch vẫn thoát được đến Rabaul. Kết quả cuộc không tập, khu trục hạm Suzunami bị đánh chìm, khu trục hạm Naganami và tuần dương hạm Agano bị hư hại nặng. Sau đó, hơn 100 phi cơ Nhật cất cánh truy đuổi địch quân, và theo báo cáo, các phi cơ này đã gây hư hại cho hai hàng không mẫu hạm và một tuần dương hạm Hoa Kỳ, đổi lại 41 phi cơ Nhật bị hạ. Hiển nhiên báo cáo kết quả của Nhật hoàn toàn thêu dệt quá sự thật.

"Xin lỗi Hara, tôi phải trở lại vào trong phòng họp. À này, Đề đốc Kurita muốn anh hộ tống hai tuần dương hạm Myoko và Haguro về Sasebo. Cả hai sẽ rời khỏi đây vào sáng mai. Chúc anh may mắn. Mong gặp lại anh." Chỉ nói bao nhiêu đó, Koyanagi quày quả bỏ đi.

Tôi đứng lặng yên một lúc, đôi tai tôi lùng bùng. Suzanami bị đánh chìm ở Rabaul. Sỉ nhục biết bao! Và càng đáng ngạc nhiên hơn khi tôi biết được một trong những khu trục hạm nổi danh nhất của Hải quân Nhật, chiếc Naganami cũng bị hư hại nặng. Naganami từng là soái hạm của Tanaka khi ông hướng dẫn phân đội gồm 8 khu trục hạm lâm chiến và đạt được thắng lợi vẻ vang ở Tassafaronga vào tháng 11 năm 1942.

Tôi nhìn thấy tận mắt nhiều tuần dương hạm bị bom và ngư lôi địch loại ra khỏi vòng chiến trong hải cảng nhỏ bé Simpson chỉ cách đây một tuần lễ. Các chiến hạm to lớn không thể điều động trong hải cảng nhỏ hẹp này đã đành, nhưng không hiểu tại sao các khu trục hạm nhanh nhẹn lại trở thành nạn nhân của cuộc không tập một cách dễ dàng vậy được.

Với trái tim trĩu nặng, tôi quay về soái hạm Shigure, và ra lệnh chuẩn bị khởi hành cấp tốc vào lúc 6h ngày 12 tháng 11. Chúng tôi rời khỏi Truk trong nhiệm vụ hộ tống hai tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro. Chuyến đi Sasebo này của chúng tôi đồng lúc với quyết định di tản các oanh tạc cơ và chiến đấu cơ còn tồn tại ở Rabaul của Koga. Các phi cơ này do ba hàng không mẫu hạm mang đến Rabaul chỉ cách 3 tuần lễ trước đây. Koga từ bỏ hẳn ý định thử sức với Hải quân Hoa Kỳ ở quần đảo Solomon. Điều này chứng tỏ Koga đã ý thức được các chiến thuật được hình thành "trong phòng họp" của ông đã thất bại.

Ở Truk, các kỹ thuật viên của tàu sửa chữa Akashi đã bó tay trong việc hồi sinh cho sonar của Shigure. Cuối cùng, họ "phán quyết" rằng các bộ phận bị hư hại của chiếc tàu săn ngầm này chỉ còn có cách thay thế ở Nhật Bản. Điều này không làm tôi lo lắng, vì tôi biết tất cả sonar trang bị cho 2 tuần dương hạm vẫn hoạt động bình thường, và chiếc Shigure có thể theo bén gót hai chiếc tàu này với tốc độ 18 hải lý. Trong nhiệm vụ hiện thời, tôi cảm thấy dễ dàng hơn nhiệm vụ vừa qua, bởi vì không như các chuyển vận hạm, các tuần dương hạm đều được vũ trang hùng hậu.

Năm ngày hải trình hoàn toàn yên tĩnh. Shigure buông neo ở hải cảng Sasebo vào ngày 17 tháng 11 năm 1943. Lần trở về Kure này tôi cảm thấy vui vẻ hơn lần trở về cùng với chiếc Amatsukaze vào tháng 12 năm rồi, vì lúc ấy chúng tôi có mang theo thi hài 43 thủy thủ. Trong tám tháng phục vụ ở Truk và Rabaul, chiếc Shigure không mất một người nào. Thủy thủ của chúng tôi đã nhảy nhót vui mừng khi chiếc tàu tiến vào hải cảng nhà. Trong các trận chiến đẫm máu quanh quần đảo Solomon, chúng tôi thường không mang một chút hy vọng nào được nhìn thấy lại hải cảng quê hương này.

Sau hai ngày lo thủ tục, chiếc Shigure được đưa vào ụ nổi để sữa chữa. Khi nước được bơm ra khỏi ụ, lườn tàu lộ hẳn, mọi người đứng xem đều tỏ vẻ kinh ngạc. Ngay giữa bánh lái chiếc tàu có một lỗ thủng rộng hơn 6 tấc đường bán kính. Sau khi xem xét cẩn thận, các kỹ sư đã cho biết lổ thủng bám đầy vỏ sò hến này la do một quả ngư lôi gây ra ít nhất ba tháng trước đây.

"Ồ, phải rồi," tôi nhớ lại, "Lỗ thủng này chắc chắn có từ trận đánh tại Vịnh Vella vào hai ngày 6 và 7 tháng 8. Chỉ trong trận đánh đó chúng tôi mới thấy ngư lôi địch lướt gần chiếc tàu hơn hết.

Một trong các viên kỹ sư hỏi: "Nhưng, trong tình trạng này, ông làm sao có thể điều khiển chiếc tàu từ đó cho đến đây được?"

Tôi đáp: "Trong những tháng gần đây, bánh lái chiếc tàu có vẻ trì trệ. Nhưng, chúng tôi vẫn tiếp tục thi hành hàng chục công tác, và như các ông đã biết, tất cả đều trôi chảy hết."

Sáng hôm sau, nhà báo và phóng viên nhiếp ảnh vậy quanh chiếc Shigure. Tôi gần như bị họ tràn ngập. Họ phỏng vấn thủy thủ đoàn Shigure và viết bài liên quan đến các hoạt động của chúng tôi để đăng tải trên các nhật báo phát hành trên toàn Nhật Bản.

Kể từ lúc đó, chiếc Shigure được xem như là khu trục hạm nổi tiếng nhất trong Hải quân Hoàng Gia Nhật. Các nhật báo địa phương đã dành trọn một trang để đăng toàn những bài viết về chiếc Shigure. Tôi hơi áy náy khi đọc một số bài có những chi tiết thêu dệt thái quá, và tôi cho đây chẳng qua là một loại "bom tinh thần" không hơn không kém. Tuy nhiên các câu chuyện về chiếc Shigure lại đầy ý nghĩa đối với dân chúng trong thành phố hải cảng này.

Tối hôm đó, một buổi dạ tiệc khoản đãi thủy thủ đoàn của chiếc Shigure được tổ chức ở nhà hàng Manriko, nơi thường lui tới của giới Hải quân, chủ nhân là một người đàn bà lớn tuổi mà chúng tôi thường gọi là Oseki-san. Tính tình bà này thật thà chất phác. Bà ta đối đãi với bọn thực khách chúng tôi giống như với lũ trẻ con, gọi ngay cả tên tộc của các vị Đô đốc. Nhưng không ai bắt bẻ sự vụng về có vẻ vô lễ này, vì mọi người đều biết tính tình và tấm lòng nhân ái của bà ta. Khi bước vào nhà hàng, tôi đoán chừng bà ta cũng sẽ lớn tiếng gọi tên, và đưa tay đập mạnh vào vai tôi, như bà ta vẫn thường làm mỗi lần tôi trở về sau một thời gian vắng mặt lâu ngày. Vì vậy, tôi đã kinh ngạc khi thấy Oseki-san, trong bộ y phục đẹp nhất, tiến ra và nghiêng mình xuống để tiếp đón tôi. Bà ta đã dùng những lời lẽ mà tôi chưa bao giờ nghe trước đây.

"Đại tá Tameichi Hara, tôi xin có lời chào mừng ngày trở về của Đại tá. Được chọn để mở tiệc mừng ngày trở về của thủy thủ đoàn vĩ đại dưới quyền chỉ huy đáng kính phục của Đại tá, đó là một danh dự lớn lao cho chốn thô lậu này. Kính xin Đại tá nhận nơi đây những lời lẽ ngưỡng mộ của một kẻ dốt nát như tôi."

"Bà làm sao vậy? Oseki-san? Bà có vẻ khác lạ. Có bị bệnh hoạn gì không? Hay bà muốn xỏ lá tôi?"

"Tôi có dám chế giễu đâu, thưa Đại tá. Đại tá đã làm cho chúng tôi kiêu hãnh. Đại tá nổi tiếng, tôi chưa bao giờ tưởng tượng có ngày Đại tá trở thành một sĩ quan vĩ đại như vậy. Những cử chỉ, những lời lẽ vô lễ của tôi trước đây xin Đại tá bỏ qua."

"Bà đang nói gì đó, Oseki-san? Tôi vẫn là Tameichi, tên uống rượu không bao giờ ngã, và thường quên tính toán sòng phẳng với bà đây mà. Cái điệu này là dám chắc tôi vẫn còn thiếu bà một khoản tiền, phải không?"

"Ồ, Đại tá Tameichi, bây giờ chính Đại tá đang chế giễu tôi. Từ giờ phút này, bất kỳ khoản tiền thiếu nào của Đại tá hay của các thủy thủ dưới quyền Đại tá đều kể như xóa bỏ. Và đêm nay, buổi tiệc của Đại tá tôi cũng kể như của người trong nhà."

Tôi cười to: "Chắc tôi có làm điều gì sai quấy với bà đây. Chứ chẳng không..."

"Đại tá vẫn còn chưa hiểu. Tôi biết có nhiều khu trục hạm bị địch quân đánh chìm, nhưng riêng chiếc Shigure của Đại tá vẫn còn sống sót và không mất một thủy thủ nào. Việc này đối với tôi chẳng khác nào một phép lạ. Tôi từng giao dịch buôn bán với Hải quân hơn 50 năm, ngoại trừ Đô đốc Heihachiro Togo, người đã ca khúc khải hoàn ở eo biển Tsuhima vào năm 1905, tôi chưa từng thấy sĩ quan Hải quân nào vĩ đại như Đại tá."

"Bây giờ tôi biết rồi, Oseki-san! Tôi chắc bà đã đọc báo. Bà đừng tin mấy bài báo đó, không đúng với một nửa sự thật đâu. Chiếc Shigure sở dĩ tồn tại là nhờ thủy thủ đòan các cấp chịu khó làm việc, và nhất là nhờ vào sự may mắn. Hoặc giả là nhờ bà siêng năng cầu nguyện cho chúng tôi trở về. Xem ra món nợ mà chúng tôi còn thiếu bà cũng là một sự may mắn."

Cả hai chúng tôi cùng cười to tiếng, nhưng bà ta vẫn không quên nhắc lại cho tôi biết buổi tiệc này thủy thủ của chiếc Shigure sẽ không phải trả một đồng xu nào hết. Khi dẫn tôi vào bàn tiệc, bà nói khẽ: "Tất cả Geisha ở Sasebo tình nguyện tiếp đãi miễn phí cho buổi tiệc này. Họ nói với tôi là dù cho được trả bất cứ giá nào họ cũng sẽ không phục dịch cho thủy thủ đoàn của hai tuần dương hạm Myoko và Haguro, nếu hai chiếc tàu này mở tiệc."

Không cần phải nói cũng hiểu bữa tiệc đêm đó là buổi tiệc vui vẻ và hoàn toàn thỏa mãn đối với mọi người.

Ngày kế đó, tôi sắp xếp cho thủy thủ đoàn thay phiên nhau về nhà nghỉ phép, mỗi người 10 ngày. Tôi cảm thấy vui lây khi nhìn thấy 80 thủy thủ đi phép đầu tiên rời khỏi Sasebo vào sáng hôm sau.

Nhưng thời gian vui vẻ của tôi chỉ có tính cách từng ngày. Vào ngày 25 tháng 11, một sĩ quan tham mưu ở căn cứ Hải quân ở Sasebo trao cho tôi những bản phúc trình mới nhất. Một trong số những bản phúc trình này liên quan đến cuộc đại bại khu trục hạm được xem là nhục nhã nhất của Hải quân Nhật Bản. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần.

Năm khu trục hạm, dưới quyền chỉ huy của Đại tá Kiyoto Kagawa, khởi hành từ Rabaul vào lúc 15h30 ngày 24 tháng 11 trong nhiệm vụ chuyển vận lần thứ hai đến Buka. ( Lần đầu tiên do tuần dương hạm Yubari và khu trục hạm Shigure của tôi thực hiện, và không gặp cản trở nào của địch quân). Kagawa không phải là sĩ quan chuyên môn về khu trục hạm, và cũng chưa từng biết đến đánh ban đêm là gì, tuy nhiên ông ta đã lượng định gần đúng mức nguy hiểm của chuyến đi. Ông đã chia 5 khu trục hạm ra thành hai nhóm: soái hạm Onami của ông và chiếc Makinami lo nhiệm vụ thám sát chiến đấu. Và ba chiếc còn lại chỉ thuần túy đảm trách nhiệm vụ chuyển vận.

Lượt đi, đoàn tàu không gặp sự ngăn trở nào, và 3 khu trục hạm chuyển vận - Amagiri, Yugiri, Uzuki - đã đổ 920 binh sĩ và 35 tấn tiếp liệu lên đảo Buka một cách êm thắm trước nửa đêm ngày hôm đó. Sau đó, 3 khu trục hạm này nhậm 300 binh sĩ bệnh tật để mang về Rabaul.

Kagawa , với hai chiếc Onami và Makinami, chạy cách phía trước 3 khu trục hạm chuyển vận khoảng 8 dặm, thình lình bị 5 khu trục hạm Hoa Kỳ ( dưới quyền của Đại tá Arleigh Burke) tấn công bằng ngư lôi. Chiếc Onami chìm tức thì, không bắn được viên đạn nào. Chiếc Makinami bị đạn pháo địch chẻ làm hai, và cũng chìm không lâu sau đó.

Các khu trục hạm Hoa Kỳ truy đuổi ba chiếc tàu Nhật còn lại. Chiếc Yuguri, chạy cuối cùng, xoay lại chống đỡ với kẻ truy đuổi, nhưng vướng ngay vào hỏa lực tập trung của địch quân, và cùng chịu chung số phận với hai chiếc tàu bạn đã chìm trước đó. Hai khu trục hạm còn lại là Amagiri và Uzuki đã chạy thoát.

Kết quả của trận đánh này làm tôi đau buồn tột độ, bởi vì hạm trưởng của chiếc Onami, Trung tá Kiyoshi Kikkawa, là bạn thân của tôi. Kikkawa cùng với Kagawa và toàn thể thủy thủ đoàn đã đi theo chiếc tàu xuống biển sâu. Kikkawa không phải là một sĩ quan ngu dốt hoặc thiếu kinh nghiệm. Tiếng tăm gặt hái được sau trận Guadalcanal. Lúc còn làm hạm trưởng khu trục hạm Yudachi, đã chứng tỏ tài năng của anh ta. Nhưng ngay cả một hạm trưởng dũng cảm và đầy kinh nghiệm, vẫn phải bó tay trước một đối thủ được trang bị các kỹ thuật tối tân, đạt đến kỹ thuật cao độ nhất, có thể nhìn và nhắm trong đêm tối một cách chính xác.

Khi tôi quay lại với nhiệm vụ chiến đấu, không hiểu khả năng của địch quân và khả năng của tôi như thế nào? Câu hỏi này đã gây cho tôi nhiều lo âu. Tôi trở lại ụ nổi và thúc giục ở đây sửa chữa chiếc Shigure càng nhanh càng tốt. Những người phụ trách việc sửa chữa cho biết họ sẽ tận lực, nhưng ít ra phải mất một tháng chiếc tàu của tôi mới thích hợp với nhiệm vụ chiến đấu.

Vào ngày 26 tháng 11, tôi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khi Phó Đô đốc Chuichi Nagumo gọi điện thoại và mới tôi dùng cơm với ông. Tôi hân hoan nhận lời.

Lúc còn giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Không Hạm Đội. Nagumo đã chỉ huy lực lượng tấn công Trân Châu Cảng và các cuộc hành quân hàng không mẫu hạm liên tục sau đó dẫn đến trận đánh Midway. Cho đến tháng 7 năm 1942, ông được thuyên chuyển qua nắm giữ Đệ Tam Hạm Đội. Tháng 11 năm 1942, ông được bổ nhiệm vào chức Tổng Tư Lệnh hải khu Sasebo, và tháng 6 năm 1943, ông lại được thuyên chuyển đến hải khu Kure. Hiện tại, tôi vừa biết ông được tái bổ nhiệm vào chức Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Hạm Đội ( Hạm đội đảm trách nhiệm vụ huấn luyện của Nhật Bản). Lời mời của ông khiến tôi cảm kích đồng thời gây ra cho tôi sự ưu tư sau khi biết được các quan điểm và kế hoạch của ông.

Sức khỏe Nagumo đã phục hồi. Xem ông có vẻ tươi tắn hơn lần tôi gặp ở Truk cách một năm trước đây. Nhưng qua câu chuyện, tôi thấy ông mất tinh thần rõ ràng. Trong suốt bữa ăn kéo dài khá lâu, ông thúc giục tôi kể lại nhưng kinh nghiệm mà tôi đã trải qua. Ông ngồi nghe chăm chú , và cuối cùng ông nói: "Những giai đoạn huy hoàng của các khu trục hạm đã chấm dứt cùng với trận đánh ở mũi St.Goerge. Tình trạng có thể đổi khác ở hiện tại và tương lai, nếu Nhật Bản có chừng một chục hạm trưởng tài năng như anh."

Tôi không biết lới ông nói có đúng không, nhưng theo tôi thấy, dù sức khỏe đã được khôi phục, vị sĩ quan cao cấp già nua này đã ngã lòng. Nhiều lúc tôi nghĩ rằng sự phá sản tinh thần của ông cũng là sự phá sản của Hải quân Nhật Bản.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp ông. Vào tháng 3 năm 1944, ông lại được thuyên chuyển đến Saipan kiêm nhiệm hai chức vụ Tổng Tư Lệnh Khu vực Trung Thái Bình Dương và Không Hạm Đội thứ 14. Ở đây, ông tiếp tục chiến đấu và thiệt mạng vào tháng 7 cùng năm.

Ngày hôm sau, tôi về nhà cùng lúc với 80 sĩ quan và thủy thủ được hưởng 10 ngày phép. Khoảng thời gian nghỉ phép này không giống với những lần nghỉ phép trước của tôi. Sáng, chiều và tối, các sĩ quan và thủy thủ của tôi lần lượt đến nhà, lẻ tẻ từng người hoặc từng tốp 3,4 người, người nào cũng tay nách xách mang rượu sake. Nhiều người ở gần, nhưng cũng có nhiều người ở xa, phải vượt hàng mấy giờ xe lửa, đổ xô về Kamakura, nơi mà gia đình của tôi hiện đang sinh sống. Trong tình cảnh ấy, tôi phải ngồi thù tạc tiếp họ cả ngày lẫn đêm.

Họ luôn miệng xin lỗi vợ tôi về sự quấy rầy và những lời nói vụng về, thô tục của họ. Họ giải thích: "Chúng tôi đã thoát chết khỏi các trận đánh đẫm máu nhất. Đó là một phép lạ, và có thể phép lạ này do Đại tá ban cho chúng tôi. Ông là một sĩ quan vĩ đại nhất của Hải quân Hoàng Gia. Chúng tôi phải chia bớt thời gian nghỉ phép cho gia đình của vị sĩ quan chỉ huy đáng kính của chúng tôi. Mong bà thông cảm."

Bất kỳ công việc gì của gia đính tôi họ cũng mó tay vào. Họ chơi đùa và dẫn lũ con tôi chạy lang thang khắp nơi. Qua một vài ngày "đấu tửu lượng", có thể nói thân thể tôi đẫm ướt sake. Tôi không bị chết đuối cũng là một điều lạ. Bà vợ, đặc biệt là cô con gái, đã "bí mật tuyên bố" rằng đây là kỳ nghỉ phép khủng khiếp nhất của tôi. Riêng đứa con trai tôi lại khoái mấy ông khách này.

Vào ngày 6 tháng 12, tôi trở lại Sasebo với thể xác uể oải vì uống rượu quá độ, cho đến cả một tuần lễ sau tôi mới tỉnh táo lại. Công việc sửa chữa chiếc Shigure hoàn tất vào ngày 20. Sau hai ngày chạy thử, chiếc tàu chứng tỏ đã đầy đủ năng lực chiến đấu, tôi báo cáo cho Bộ Tư Lệnh Tối Cao biết chúng tôi sẵn sàng quay trở lại Thái Bình Dương. Tôi được lệnh chờ đợi.

Ba ngày ăn không ngồi rồi trôi qua một cách lê thê, tôi được gọi đến Tổng Hành Dinh Sasebo. Vị tư lệnh phó đích thân trao lệnh chỉ định tôi vào nhiệm vụ huấn luyện viên ở Trường ngư lôi.

Tôi nổi khùng ra mặt: "Nhiệm vụ trên bờ cho tôi? Có thể nào như vậy được chứ? Phó Đô đốc Samejima cho biết là ông cần tôi và mong tôi quay trở lại. Tôi muốn đi! Tôi xin lặp lại: Tôi muốn đi."

"Anh nói đúng, Hara, nhưng hãy bình tĩnh, tôi sẽ cho anh biết một việc. Sự chỉ định anh vào nhiệm vụ mới này không dính dáng gì đến hồ sơ phục vụ của anh đâu, như có nhiều trường hợp xảy ra trước đây. Vấn đề này vẫn trong vòng tối mật, nhưng tôi có thể tiết lộ cho anh biết là anh sẽ được giao phó thành lập một trường huấn luyện ngư lôi đĩnh mới. Bộ Tư Lệnh Tối Cao cho rằng ngoại trừ anh không ai có thể đảm trách nhiệm vụ sinh tử của Hải quân này. Đó là nhiệm vụ huấn luyện thủy thủ trở thành chuyên viên ngư lôi. Đừng nhăn nhó nữa. Bây giờ anh biết rồi, anh sẽ gánh vác một trong những kế hoạch đặc biệt và quan trọng nhất của Hải quân."

Qua lời vị Đề đốc, tôi vỡ lẽ, và công nhận công việc tôi sắp làm của tôi quả thật quan trọng. Công việc này Hải quân đã bàn đến từ lâu, nhưng bây giờ mới được chấp thuận.

"Hara," vị Đề đốc tiếp, "anh đã gây ra cuộc cách mạng lý thuyết ngư lôi trong Hải quân Hoàng Gia, bây giờ là giai đoạn anh có hy vọng áp dụng lý thuyết này một cách tích cực hơn. Thời gian này có lẽ anh là người biết rõ về khu trục hạm hơn ai hết. Sở dĩ anh được chọn vào nhiệm vụ tối mật này là do sự tiến cử nồng nhiệt của Đề đốc Ijuin ở Tokyo, của Phó Đô đốc Nagumo, Tổng Tư Lệnh Đệ Nhất Hạm Đội và của Phó Đô đốc Omori, chỉ huy trưởng Trường ngư lôi. Chúc anh gặp may mắn."

Trở về chiếc Shigure, tôi tập họp thủy thủ đoàn trên sàn tàu và nói với họ: "Các bạn, tôi xin báo cáo cho các bạn biết là tôi phải rời khỏi chức vụ Chỉ huy trưởng Hải đội 17 khu trục hạm và lên đường đến Yokosuka ngay lập tức. Trong 10 tháng qua, chúng ta cùng sống và cùng chiến đấu với nhau, đó là thời gian hạnh phúc nhất và hài lòng nhất trong cuộc đời binh nghiệp của tôi. Các bạn đã làm tôi kiêu hãnh, và hiện tại, tôi dám mạnh miệng tuyên bố rằng tôi chưa bao giờ được chỉ huy một thủy thủ đoàn nào tài giỏi như thế này. Hãy giữ vững tinh thần và sự khép léo của các bạn. Tôi biết là các bạn sẽ tiếp tục đạt thắng lợi với vị tân chỉ huy trưởng của các bạn. Chúc các bạn gặp nhiều may mắn. Từ đây có thể tôi sẽ không gặp lại các bạn nữa, nhưng trong thâm tâm tôi sẽ luôn luôn cầu mong cho các bạn đều an lành."

Tôi bắt tay từng người một. Một số ấp úng nói vài lời từ biệt, một số đứng lặng yên, nhưng những giọt lệ đã long lanh trên đôi má, trong đôi mắt của tất cả mọi người.

Tôi sắp xếp hành trang trong nửa giờ và đi vòng quanh trên chiếc Shigure lần cuối cùng. Tôi đứng thật thẳng khi chiếc ca nô chở tôi rời xa chiếc tàu đã từng làm tôi kiêu hãnh. Quang cảnh đầy ủy mị trước mắt tôi chua bao giờ được nghe nói đến trong kỷ luật lạnh lùng và phũ phàng của Hải quân Hoàng Gia. Thủy thủ đoàn đứng dài theo song sắt trên tàu và bám víu vào bất cứ vật gì để nhìn theo, vẫy tay la lớn những lời từ biệt. Tôi muốn đứng dậy để vẫy tay đáp trả lại họ, nhưng tim tôi bỗng dưng trĩu nặng. Tôi ngồi yên và đôi mắt ứa lệ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro