Yamamoto va nhung tran danh tai TBD P8

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần 5: HẢI XUẤT CUỐI CÙNG

Tôi trình diện phòng nhân viên của căn cứ Hải quân Yokosuka vào ngày 27 tháng 12 năm 1943. Ở đây cho biết việc bổ nhiệm của tôi chưa được sắp xếp và yêu cầu tôi quay trở lại sau các ngày nghỉ tết. Công việc duy nhất mà tôi thấy đang làm ở căn cứ này là dọn dẹp bàn giấy, hiển nhiên là nhân viên phụ trách đang chuẩn bị nghỉ lễ. Làm sao họ có thể chú tâm đến các ngày nghỉ lễ trong giai đoạn khủng hoảng này của cuộc chiến?

Viên sĩ quan tiếp tục tán tỉnh: "Đại tá vừa nghỉ phép, bây giờ Đại tá có thể kéo dài những ngày nghỉ phép này dễ dàng. Được ở nhà trong mấy ngày tết thật là tuyệt diệu, phải không Đại tá? Tôi đoán chừng đây là "tặng phẩm" của Bộ tư Lệnh dành cho các chiến công của Đại tá!"

Thái độ của viên sĩ quan này gây cho tôi sự xúc động và oán ghét. Tôi muốn mắng vào mặt bọn người này và lớn tiếng nhắc lại cho họ nhớ những "cuộc chạy dài" của Hải quân tại quần đảo Solomon, nhưng tôi dằn được, và xoay lưng bước khỏi phòng.

Trường ngư lôi Hải quân ở Oppama, phía chính Bắc Yokosuka. Tôi đi thẳng đến đó, bước vào phòng vị chỉ huy trưởng, và không còn dằn được nữa, tôi đã để hết cho cơn giận dữ bùng nổ trước mặt Phó Đô đốc Omori. Ông có vẻ khó chịu, nhưng sau khi kiên nhẫn ngồi nghe tôi nói xong, ông lên tiếng: "Tôi hiểu anh, Hara, nhưng những người ở đây, ở tại quê hương, họ không bao giờ biết được cuộc chiến đã đến giai đoạn sinh tử như chúng ta, những người đã từng ở mặt trận. Anh phải biết, cũng như tôi, rằng chúng ta không thể nào làm thay đổi thế giới, nhưng chúng ta bắt buộc phải kiên nhẫn và làm tất cả những gì chúng ta có thể làm."

Từ Oppama, tôi quay về gia đình ở Kamakura, khoảng lộ trình dài đúng 20 phút xe lửa, với một dư vị đầy chua chát trong miệng. Trải qua nhiều tháng lần đầu tiên tôi mới được nhìn ngắm kỹ lại đường phố của thị trấn này. Lòng tôi cảm thấy bồi hồi, Kamakura , một trong những nơi đẹp nhất của Nhật Bản, một thành phố thần thánh. Không một quả bom nào rơi xuống Kamakura, nhưng các cửa hàng đều trống rỗng. Dân chúng đi lại bên đường có vẻ mệt lả và đói kém. Việc mất mát các khu vực quanh quần đảo Solomon đang bắt đầu ảnh hưởng đến quê hương chúng tôi, vì các hải trình thông thương và nhập cảng của Nhật Bản tùy thuộc vào khu vực này.

Cơn tức giận của tôi đã giảm bớt, thay vào đó là sự mệt mỏi chán chường. Tôi bước vào nhà với nhiều cảm giác lẫn lộn, nhưng khi vợ con đổ xô đến mừng, tâm hồn trĩu nặng của tôi như được giải tỏa.

Vào ngày 10 tháng Giêng năm 1944, cùng với ngày Đô đốc Koga quyết định di chuyển Bộ Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp từ Truk đến Palau, tôi trở thành huấn luyện viên cao cấp của Trường Ngư Lôi.

Một việc lạ lùng là Nhật Bản không sử dụng các tàu phóng lôi vào những ngày đầu của cuộc chiến. Mãi bận tâm với các loại đại chiến hạm, Bộ Tư Lệnh Hải quân không còn thì giờ đâu lo đến việc phát triển loại tàu phóng lôi và chiến thuật của chúng. Các sĩ quan Nhật Bản đã phải nếm mùi sự nhanh nhẹn của các tàu phóng lôi Hoa Kỳ ở quần đảo Solomon. Trong tình thế hiện tại, việc phát triển tàu phóng lôi và huấn luyện thủy thủ sử dụng loại tàu này là phản ứng tự nhiên, nhưng đã quá trễ.

Những sai lầm của Hải quân Nhật Bản không chỉ trên phương diện tàu phóng lôi mà thôi. Ngay cả các dự án huấn luyện phi công và phát triển radar cũng bị bỏ lửng quá lâu. Vào cuối năm 1943, các cơ xưởng điện tử của chúng tôi đã hoạt động cả ngày lẫn đêm trong việc sản xuất radar, lý do là vào thời gian đó chiến hạm Nhật Bản bị chiến hạm Hoa Kỳ có trang bị radar đánh chìm quá nhiều tại quần đảo Solomon.

Trước chiến tranh, trong số hàng nhiều ngàn thanh niên xin theo học các khóa huấn luyện phi công, nhưng Hải quân chỉ chọn lựa một vài người là cùng. Cho đến cuối năm 1943, Hải quân vẫn không thay đổi chính sách này. Khi hầu hết phi công bị cuộc chiến thiêu rụi, Hải quân mới hối hả huấn luyện ồ ạt, nhưng các cơ sở sản xuất phi cơ lại không thể nào đáp ứng đủ nhu cầu đòi hỏi.

Tất cả 100 sinh viên sĩ quan thụ huấn ở Trường Ngư Lôi đều xuất thân từ các trường đại học hoặc cao đẳng, thoạt đầu đã tình nguyện theo học các khóa huấn luyện phi công và các nhiệm vụ liên quan đến phi hành. Sau ba tháng huấn luyện sơ khởi về ngành bay, tất cả những sinh viên sĩ quan này đột nhiên bị chuyển sang học các khóa huấn luyện nhiệm vụ trên mặt biển. Lý do đơn giản là nếu họ có tiếp tục theo đuổi cho hết các khóa học theo sở nguyện đi nữa, Hải quân cũng không có phi cơ đâu mà cho họ lái.

Các sinh viên sĩ quan của tôi, tất cả đều khoảng trên 20 tuổi, rất nhiệt tâm và đứng đắn, nhưng tất cả đều thuộc thành phần trừ bị nên có vẻ tài tử, hoàn toàn khác biệt với các sĩ quan xuất thân từ Hàn Lâm Viện mà tôi đã từng giảng dạy về lý thuyết phóng ngư lôi của tôi ,cũng chính tại quân trường này vài năm trước đây. Tôi hiểu với những tay tài tử này, tôi cần phải kiên nhẫn rất nhiều.

Trong nhiệm vụ giảng dạy, tôi rất cứng rắn và không ngần ngại chỉ trích các lỗi lầm của sinh viên. Phương diện kỷ luật cũng phải áp dụng chặt chẽ, nhưng nhóm sinh viên trừ bị hiện thời của tôi giống như các sinh viên dân sự. Tôi nhận thấy không thể nào áp dụng lối quở trách mà không giải thích tỉ mỉ các lỗi lầm của họ. Làm cách nào biến các tay tài tử này thành các thủy thủ tàu phóng lôi đầy đủ khả năng trong vòng 3 tháng huấn luyện? Vì quá chán nản, nhiều lần tôi đã nghỉ đến việc từ chức.

Chiếc tàu phóng lôi mới đến trường vào tháng hai và khả năng của nó đã làm tôi thối chí. Sau khi chạy thử chiếc tàu 20 tấn này, tôi quay vào cầu tàu và mạnh miệng tuyên bố: "Đây không phải là một tàu phóng lôi. Nó chỉ là loại du thuyền không hơn không kém. Cái ngữ này vô dụng trên phương diện chiến đấu thật sự."

Omori và các huấn luyện viên dưới quyền tôi đứng lặng lẽ, mặt mày tiu nghỉu. Anh chàng kỹ sư phác họa đồ án chiếc tàu mặt mày xanh xám, bước lên và giải thích có tính cách biện hộ rằng chiếc tàu này được trang bị động cơ là một động cơ máy bay cũ! Việc này không có gì khó hiểu, bởi lẽ chúng tôi không thể nào sản xuất máy móc mới đúng mức đòi hỏi của loại tàu này. Có quá nhiều trở ngại, và thiếu thốn dụng cụ là trở ngại quan trọng nhất.

Bực mình và chán nản vô tả, tôi im lặng bỏ đi.

Một vài "tàu phóng lôi " mới khác được đưa đến, nhưng đó cũng chỉ là "du thuyền". Mức độ sản xuất, dưới kế hoạch khẩn cấp thời chiến, theo tôi biết, chỉ có khoảng 200 tàu phóng lôi tải trọng từ 15 đến 30 tấn được hạ thủy kể từ đầu năm 1943. Tất cả các tàu này đều trang bị với máy phi cơ cũ và không chiếc tàu nào đạt được tốc độ hơn 25 hải lý. Vỏ của loại tàu này được làm bằng gỗ hoặc thép, dài khoảng 12,5m đến 15,5m, thủy thủ đoàn gồm 7 người, trang bị hai ngư lôi nhỏ và một đại liên 13mm. Nhưng không chiếc nào đạt đến phẩm chất theo mong muốn của tôi. Một quốc gia có thể sản xuất được những thiết giáp hạm lớn nhất thế giới mà lại không thể nào sản xuất được một chiếc tàu phóng lôi vừa ý, đó là một việc thật đáng buồn.

Chương trình huấn luyện một khóa học gồm 100 sinh viên của tôi kéo dài một vài tuần lễ và kết thúc vào tháng 11 năm 1944. Những điều tôi nêu ra sau đây để lưu ý các sinh viên tốt nghiệp đã khiến cho Omori và các huấn luyện viên khác không hài lòng: "Các tàu phóng lôi của chúng ta, thật không may, đều có khả năng dưới chân bất kỳ chiếc tàu nào cùng loại của đối phương. Như tôi đã từng lặp đi lặp lại hàng ngàn lần với các bạn, rằng chiến thắng của các bạn sẽ nhờ cậy vào sự vụng trộm, bởi lẽ các bạn sẽ không mong gì tồn tại nếu mặt đối mặt chiến đấu với địch quân. Các bạn sẽ phải lợi dụng mọi phương thức che dấu hoặc đánh lừa mới mong thành công. Nói một cách khác, các bạn không bao giờ nên tạo cho chiếc tàu của các bạn trở thành những mục tiêu lộ liễu trước họng súng của địch quân."

Giảng dạy là một công việc rất dễ chán nản. Các khung cửa sổ của lớp học nhìn ra hải cảng trầm lặng Yokosuka. Quang cảnh trước mắt đã gợi trong lòng tôi những tiếng kêu gọi thì thầm của đại dương. Đời sống trên một khu trục hạm là một đời sống đầy căng thẳng và nhọc nhằn, nhất là những ngày hoạt động quanh quần đảo Solomon, nhưng tôi đã nhìn lại như nhìn bóng dáng hạnh phúc đã mất, cho dù hạnh phúc đó mong manh, hòa hợp lẫn lộn với vui mừng. Tất cả những cảm giác đó hoàn toàn thiếu vắng ở nơi đây.

Những tin tức từ tiền tuyến đưa về hậu phương thường rất muộn màng và thêm bớt. Thỉnh thoảng tôi đến Tổng Hành Dinh Yokosuka để dò hỏi các tin tức, và biết được chút ít về tình trạng của các chiếc tàu do tôi chỉ huy trước đây.

Trong suốt năm 1943, khu trục hạm Amatsukaze đã đi đi lại lại giữa quê hương và Đông Nam Thái Bình Dương trong nhiệm vụ hộ tống các đoàn chuyển vận mà không gặp tại nạn nào. Nhưng khi tôi đến trường này không lâu, tôi đã xúc động mạnh khi nghe tin Amatsukaze bị trúng ngư lôi cách phía Bắc đảo Spratly ( là đảo gì đây các bồ tèo? ) 250 dặm vào tháng Giêng năm 1944 và 80 người thuộc thủy thủ đoàn thiệt mạng. (Do khu trục hạm Hoa Kỳ Redjin, hạm trưởng là Trung tá King phóng 4 quả ngư lôi, mà theo King, đã trúng 4 chiến hạm Nhật nhưng chỉ một chiếc chìm.)

Mặc dù bị hư hại nặng, khu trục hạm Amatsukaze vẫn ráng lết đến cảng Sài Gòn. Ở đây, chiếc tàu được sửa chữa khẩn cấp trước khi chạy qua Singapore để sửa chữa toàn diện, cho đến tháng 3 năm 1945 mới hoàn tất, và sau đó trở lại tham chiến trên đại dương.

Khu trục hạm Shigure vẫn là soái hạm của vị tân chỉ huy trưởng hải đội, được sử dụng vào nhiệm vụ hộ tống sau khi tôi rời khỏi Sasebo. Tôi buồn hơn hết khi nghe tin chiếc tàu bị trúng bom vào ngày 17 tháng 2 năm 1944, chỉ hư hại nhẹ nhưng có đến 21 thủy thủ thiệt mạng. Và gây ra xúc động cho tôi hơn nữa, khi biết chiếc tàu bị trúng bom ngay hải cảng Truk, mà tôi từng xem như là một nơi an toàn và được phi cơ địch miễn trừ. Tôi xúc động mạnh mẽ, bởi chiếc Shigure đã từng tồn tại sau các cuộc tấn công dữ dội của phi cơ địch ở quần đảo Solomon và Rabaul, lại trở thành nạn nhân của một cuộc không tập ngay ở Truk.

Nhiều tin tức khủng khiếp khác dồn dập bay đến. Vào ngày 30 tháng 3, một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ, dưới quyền của Đô đốc Raymond A. Spruance, tấn công quần đảo Caroline, đập tan các hệ thống phòng thủ của Nhật Bản trên đảo Palau. Chiều ngày đó, Đô đốc Koga rời khỏi đảo Babelthuap với toàn bộ Bộ Tham Mưu của ông đến Davao, thuộc Philippines, và từ đó không nghe tin tức gì về ông nữa. Koga và Bộ Tham Mưu sử dụng hai thủy phi cơ và đã gặp bão khi vào không phận Philippines. Chiếc chở Koga đã rơi, riêng chiếc thứ hai, có Phó Đề đốc Shigeru Fukudome, bay ngoài rìa của trận bão, hiển nhiên là không nhìn thấy phi cơ của Koga rơi, đã cố gắng đáp xuống đảo Cebu. Cái chết của Koga được giấu kín cho đến ngày 3 tháng 5 năm 1945, khi Đô đốc Soemu Toyoda được công bố kế nhiệm ông. Thời gian trước đó, Phó Đô đốc Shiro Takasu, Tổng Tư Lệnh Hạm đội Khu vực Đông Nam, tạm thời điều khiển Hạm Đội Hỗn Hợp.

Trong lúc đó, tôi được lệnh đến Kawatana, gần Sasebo, ngay sau khi khóa huấn luyện của tôi kết thúc. Nhiệm vụ của tôi là thiết lập một trường huấn luyện tàu phóng lôi mới ở đây, bởi lẽ Oppama không còn thích hợp với số sinh viên sĩ quan càng ngày càng gia tăng. Chuyển động này sở dĩ xảy ra có thể là do việc tôi luôn luôn than phiền về tình trạng học tập và trang thiết bị bết bát ở Oppama.

Cho dù lý do nào đi nữa, sự thay đổi này vẫn được tôi tiếp nhận nồng nhiệt. Phiền não làm tôi mệt mỏi, nhưng viễn ảnh được chỉ huy một quân trường độc lập khiến tôi tươi tỉnh ra.

Kawatana là một làng đánh cá nhỏ nằm cạnh bờ biển của Vịnh Omura. Nhiều năm trước, Hải quân có một căn cứ thí nghiệm ngư lôi nhỏ ở đây, nhưng hiện thời cơ sở này không còn được sử dụng. Đến Kawatana vào ngày 3 tháng 5, tôi nhận thấy nhà cửa tại căn cứ thí nghiệm ngư lôi cũ đều đổ nát. Tôi gặp khoảng mươi nhân viên bảo trì còn lưu lại đây. Khi biết tôi xem qua cảnh hoang tàn trước mắt này với ý định đặt cơ sở huấn luyện cho một chiến thuật "cách mạng" trên mặt biển của Hải quân, họ vừa kinh ngạc vừa có vẻ chế giễu tôi. Thái độ này cũng khiến tôi buồn cười.

Viên sĩ quan chỉ huy nhóm nhân viên bảo trì nói cho tôi biết Đô đốc Koga xem như đã mất tích, và Đô đốc Soemu Toyoda được chỉ định kế vị ông trong chức vụ Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp. Tin này khiến tôi kinh ngạc còn hơn khi thoạt đầu nhìn thấy cảnh hoang tàn của ngôi trường tương lai do tôi chỉ huy. Tôi cảm thấy Đô đốc Toyoda không thể nào là nhân vật thích hợp trong chức vụ mới này. Khi tôi rời Oppama, ông còn chỉ huy căn cứ Hải quân Yokosuka. Thoạt tiên ông ta là một Ủy viên trong Hội Đồng Chiến Tranh Tối Cao, và trước đó, vào những ngày đầu cuộc chiến, ông giữ chức vụ Tổng Tư Lệnh Hải khu Kure. Do đó, Toyoda chưa bao giờ nhìn thấy tận mắt bất kỳ trận đánh nào trong cuộc chiến. Giống như trường hợp Koga được chỉ định kế nhiệm Yamamoto, giữa lúc ông chỉ nằm ru rú tại các hải phận yên tĩnh của Trung Hoa, người kế nhiệm ông cũng là một người không có kinh nghiệm chiến đấu. Vào thời gian khủng hoảng này, tại sao Bộ Tư Lệnh Tối Cao lại đặt một nhân vật mà hầu hết các thủy thủ ở tiền tuyến không biết đến thành tích vào chức vụ Tổng Tư Lệnh? Câu hỏi này cứ ám ảnh trong tôi suốt thời gian bắt tay vào công việc tổ chức ngôi trường mới của tôi.

Một tuần sau đó, 200 sinh viên sĩ quan nhập học. Như khóa huấn luyện tàu phóng lôi của tôi ở Oppama, tất cả sinh viên này đều được chuyển sang từ các trường huấn luyện phi hành. Cùng với 6 sĩ quan phụ tá, ba trong số này lấy từ các sĩ quan vừa tốt nghiệp ở Oppama, tôi lại bắt đầu nghề thầy dạy đáng chán của tôi.

Tiên liệu của tôi về Toyoda đã sớm được chứng minh bằng một sự thật đau buồn. Chức vụ mới quá lớn đối với ông ta. Vào hai ngày 19 và 20 tháng 6, lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm của Phó Đô đốc Jisabura Ozawa phải chịu đựng một cuộc đại bại đầy bi thảm, trong một trận đánh thường được gọi chế giễu là "Cuộc bắn gà ở Marianas". Ozawa cố sử dụng các chiến đấu cơ có tầm hoạt động xa của ông để chống lại lực lượng Hoa Kỳ. Nhưng các vị Đô đốc Toyoda, Ozawa và Kurita, những người đã vạch ra kế hoạch hành quân này, đã không đo lường đúng sự hữu hiệu của radar, tài năng của phi công và khả năng của phi cơ đối phương ngày càng gia tăng. Họ cũng không nắm vững trình độ của các phi công Nhật Bản ở hiện tại như thế nào. Kết quả, Ozawa mất ba hàng không mẫu hạm và 500 phi cơ. Lực lượng đặc nhiệm cuối cùng đầy đủ thực chất của Hải quân tan tành. Bốn tháng sau đó, Ozawa mang ba hàng không mẫu hạm khác nhưng không có phi cơ thực hiện một nhiệm vụ "chim mồi" ở Philippines và cũng mất luôn cả ba mà không đạt được thành quả nào.

Hầu như mỗi ngày đều có những tin tức gây bàng hoàng đến nỗi chúng trở thành quen thuộc và gần gũi với chúng tôi. Một bản tin truyền thanh phát đi vào chiều ngày 10 tháng 7 cho biết Saipan rơi vào tay địch quân trong ngày trước đó và Phó Đô đốc Nagumo đã tuẫn tiết. ( Nagumo dùng súng ngắn để tự sát vào ngày 6 tháng 7, nghĩa là trước khi Saipan thất thủ 3 ngày.) Tôi đứng chết lặng trong phòng khi nghe tin này. Ngay lúc đó, một công điện từ Yokosuka gửi đến, chỉ thị tôi từ đây trở về sau, công việc huấn luyện sinh viên hãy nhắm vào mục đích chính là dự trù chống lại địch quân đổ bộ lên các bờ biển Nhật Bản.

Phản ứng của tôi đối với lệnh này là một cái gì mà tôi sẽ không bao giờ hiểu được, chỉ biết rằng nó gây cho tôi sự xúc động kỳ dị. Tay tôi run rẩy và mặt tôi đỏ bừng lên vì giận dữ. Tôi xé nát bức công điện, quăng vào sọt rác và ngồi xuống bàn thảo một thỉnh nguyện thư dâng lên Nhật Hoàng Hirohito. Đó là một hành động phạm thượng, nhưng lúc ấy tôi không thể nào tự kềm chế mình được.

Tôi viết rằng Nhật Bản đang bại trận, và tôi kêu gọi Nhật Hoàng hãy nhìn thẳng vào tình thế thật sự. Tôi nêu ra tất cả các chức vụ then chốt trong Lục quân và Hải quân đều do các sĩ quan già nua, không quen với loại chiến tranh hiện đại, và các cuộc cãi cọ cứ tiếp tục xảy ra giữa Lục quân và Hải quân khiến cho hiệu năng hoạt động của cả hai lĩnh vực quân sự và kỹ thuật ngưng trệ, như sự xuống dốc thảm hại trong công việc sản xuất phi cơ và tàu phóng lôi chẳng hạn. Và tôi thúc giục Nhật Hoàng hãy mưu tìm phương cách chấm dứt chiến tranh, và, xem như là bước đầu tiên, cách chức tất cả các vị Đô đốc và tướng lĩnh không đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ.

Tôi đã trở thành một tay cách mạng cuồng tín. Đó có lẽ là hậu quả của những nổi bực dọc kéo dài quá lâu trong nhiệm vụ giảng dạy của tôi. Việc làm của tôi không chỉ có tính cách bất phục tùng mà còn có tính cách phản động. Và - theo các luật lệ của Hải quân - tôi có thể bị đưa ra tòa án quân sự. Nhưng tôi không hề nghĩ đến những điều này. Tôi quên mọi thứ, tôi chỉ biết quốc gia của tôi hiện đang bước dần đến miệng vực.

Khi viết xong thỉnh nguyện thư, tôi đáp xe lửa lên Tokyo. Vào ngày 12 tháng 7, tôi đi thẳng vào Bộ Hải Quân, và người đầu tiên mà tôi gặp là Đề đốc Hoàng thân Takamatsu, bào đệ của Nhật Hoàng Hirohito. Tôi vồ ngay lấy ông.

"Hoàng thân Takamatsu, Ngài có thể tiếp riêng tôi được không?"

Hoàng thân nhìn tôi, có lẽ ông nghĩ tôi là một tên dở khùng đở điên, nhưng ông đã gật đầu. Tôi bước theo Hoàng thân Takamatsu vào văn phòng riêng của ông. Nơi đây, tôi trao thỉnh nguyện thư cho ông, yêu cầu ông dâng lên Nhật Hoàng."

Ông hỏi: "Tôi có thể đọc trước hay không?"

Tôi đáp: "Dạ được, thưa ngài."

Ông ngồi xuống mở tờ giấy ra và chăm chú đọc. Chân mày ông nhíu lại có vẻ xao xuyến. Đọc xong, ông quay lại nhìn tôi, hình như ông muốn xác định xem có phải tôi là một tên điên thật hay không, và ông xếp tờ giấy bỏ vào túi áo.

"Hoàn toàn đúng, Hara." Ông vừa nói vừa đứng dậy. "Hãy bảo trọng lấy thân."

Tôi không nhìn thấy rõ rệt những gì mà Hoàng thân Takamatsu thực hiện theo lời yêu cầu của tôi, nhưng có điều ông giữ rất kín hành động của tôi trong giới Hải quân. Nếu các lời lẽ tôi viết đến tai Bộ trưởng Hải quân, hoặc Bộ Tư Lệnh Hải quân, chắc chắn tôi sẽ không được yên thân.

Sau khi trao thỉnh nguyện thư cho Hoàng thân Takamatsu, tôi lập tức đón xe lửa trở về Kawatana để chờ phản ứng của Nhật Hoàng. Khi không thấy động tịnh gì hết, tôi dần dần định tâm và ý thức rằng hành động của tôi hoàn toàn vô nghĩa, nếu không nói là bị lăng nhục. Không Nhật Hoàng mà cũng không có bất kỳ nhân vật nào khác trong Hoàng tộc đưa ra các hành động dựa trên thỉnh nghuyện thư của tôi. Hơn nữa, dưới thể chế hiện thời, Nhật Hoàng không có thực quyền, vì vậy, ngài không thể đưa ra bất kỳ hành động có tính cách quyết định nào. Tuy nhiên, Nhật Hoàng đã lấy lại chút ít quyền hành hơn một năm sau đó, khi Ngài tự quyết định sự đầu hàng của Nhật Bản.

Đành chịu thua với số phận, tôi chăm chú với nhiệm vụ, và khóa học bao gồm 200 sinh viên sĩ quan của tôi kết thúc vào tháng 7. Đầu tháng 8, các căn trại trong quân trường của tôi bị 400 tân sinh viên sĩ quan tràn ngập. Như khóa đàn anh, những người mới đến đều được chuyển từ các trung tâm huấn luyện bay. Khi nhìn thấy họ, một số thiếu mền một số thiếu chiếu, nằm ngủ sắp lớp như cá mòi trên mặt đất, tôi quyết định dẹp bỏ tất cả phiền muộn để trở về với bổn phận của một ông thầy tận tụy. Những thanh niên này đều là những người yêu nước nhiệt thành, họ xứng đáng với sự tận tụy của tôi.

Gần cuối giai đoạn huấn luyện 400 sinh viên sĩ quan này, mặt trận Philippines bộc phát. Các cuộc đổ bộ của Hoa Kỳ ở Leyte vào ngày 20 tháng 10 đưa đến một loạt đụng độ trên mặt biển, làm tiêu tán tất cả những gì còn lại trong tay Hải quân Hoàng Gia. Vào ngày 27, một thông cáo đầy bất ngờ cho biết việc thành lập phi đội Thần Phong, một đơn vị không kích tự sát gồm toàn những người tình nguyện.

Tin tức gây choáng váng này đã khuấy động ngôi trường Kawatana một cách khủng khiếp. Nó cũng là một cú đấm thẳng vào tôi, vì từ lâu tôi vẫn luôn chủ trương sinh mạng của con người phải được bảo vệ. Từng nuôi nấng hy vọng ra đi và trở về cho các sĩ quan của tôi, chiến thuật mới này đối với tôi quả thật phi nhân tính và không thể dung thứ được. Tuy nhiên, tư tưởng chống đối của tôi đã lắng xuống, khi tôi được đọc những báo cáo chi tiết về các cuộc tấn công "chắc trúng nhưng cũng chắc chết" này do các phi công tình nguyện thực hiện. Trong căn phòng lặng lẽ, tôi đã bật khóc.

Vào cuối tháng 10, 400 sinh viên của tôi tốt nghiệp, qua một buổi lễ mãn khóa, và cũng là buổi lễ tiếp đón 400 tân sinh viên khác. Trong tuần đó, một ông khách "không chờ đợi" đã đến viếng thăm ngôi trường của chúng tôi. Đó là người bạn cũ của tôi hồi còn ở Rabaul, Đại tá Toshio Miyazaki, nguyên chỉ huy trưởng hải đội 17 khu trục hạm, và hiện thời là huấn luyện viên cao cấp của Trường Ngư Lôi ở Oppama.

Sau khi tuyên bố cuộc viếng thăm với tư cách riêng, Miyazaki đã tiết lộ cho tôi biết ông đã đến đây bằng chuyến xe lửa đặc biệt có chở một món hàng lạ, và yêu cầu tôi đi theo ông để xem qua. Bước vào sân ga, ông dẫn tôi thẳng đến một toa hàng được một nhóm lính vũ trang canh gác cẩn thận. Nhóm lính này đi theo xe lửa từ Yokosuka đến đây. Các món hàng được mang đến sở thí nghiệm ngư lôi cũ và mở ra. Đó là 3 tàu phóng lôi nhỏ và nhiều dụng cụ để lặn dưới mặt nước.

Các tàu phóng lôi, đóng bằng ván ghép và chạy bằng máy xe hơi, trông giống như loại xuồng máy thông thường. Điều mới lạ trong loại tàu phóng lôi này là phía trước chứa đầy chất nổ cực mạnh. Khi Miyazaki khẽ nói: "Đây là các Kamikaze trên mặt biển," tôi thấy tim như nhói lên.

Để phá tan bầu không khí nặng nề, tôi hỏi về các dụng cụ lặn. Miyazaki giải thích: "Những cái đó để người nhái sử dụng. Với bình dưỡng khí, họ sẽ mang một khối chất nổ lặn xuống đáy biển để gắn vào chân vịt hoặc bánh lái tàu của địch quân."

Ông ta cùng tôi lặng lẽ trở lại trường, và ở đây, ông đã giải thích rõ từng chi tiết. Ý kiến về các tàu phóng lôi nhỏ bé chỉ một hoặc hai người sử dụng và người nhái này là do Bộ Tư Lệnh Tối Cao đưa ra trong thời gian tôi đến Kawatana. Chiến thuật tự sát là đề tài đã từng được tranh luận sôi nổi và giằng co cho đến khi các đơn vị Kamikaza được thành lập ở Philippines, và hiện thời chiến thuật này đã được quyết định dứt khoát với tất cả sự ưu tiên dành cho nó.

Miyazaki nói: "Biết rõ anh, Phó Đô đốc Omori đã phái tôi đến đây để giải thích với anh về chiến thuật này và xin ý kiến. Và tôi cũng biết rõ anh, tôi ý thức được nhiệm vụ này sẽ gây phiền lòng cho anh. Tôi sẽ nghe theo bất kỳ điều gì anh chỉ dạy nhưng tôi cũng cần nhắc anh lại một lần nữa, rằng chiến thuật này đã được Bộ Tư Lệnh Tối Cao xem như là chiến thuật hàng đầu."

Tôi ngẫm nghĩ sự lưu ý của ông ta, và sau khi đắn đo, tôi đáp: "Tôi biết cảm nghĩ của anh như thế nào, Miyazaki, và tôi cũng biết tốt hơn tôi không nên tranh luận với anh về vấn đề này. Nhưng anh cũng như tôi đều biết rằng huấn luyện gấp rút cho các sinh viên sĩ quan của trường này thì sẽ chẳng khác nào đút thịt vào miệng cọp, khi họ thi hành nhiệm vụ với những chiếc du thuyền chậm chạp được gọi là tàu phóng lôi này. Tôi thấy rất rõ là họ sẽ có rất ít dịp may để sống sót trở về. Kế hoạch đưa ra đã đành là phải thi hành, nhưng yêu cầu người khác cam tâm chịu chết, cho dù chịu chết trước những đối thủ vượt trội mọi mặt, lại là một việc hoàn toàn khác biệt. Làm sao chúng ta có thể yêu cầu những con người trẻ tuổi đó tự sát được?

Miyazaki nói một cách nghiêm nghị: "Hara, suốt 50 giờ mất ăn mất ngủ trên các toa xe chở mấy món hàng này từ Yokosuka đến đây, tôi không lúc nào không suy nghĩ về vấn đề anh vừa nói. Chúng ta chỉ còn biết một cách duy nhất là thành thật giải thích cho họ hiểu tình thế tuyệt vọng ở hiện tại. Tôi sẽ đích thân kể lại cho các sinh viên của anh trường hợp thiệt mạng của những thủy thủ thuộc hải đội khu trục hạm của tôi, mặc dù những thủy thủ này khéo léo và có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề. Tôi cũng sẽ nói với họ rằng hiện thời chúng ta đang hấp hối ở Philippines, tất cả binh sĩ của chúng ta đang đối mặt với tử thần. Tôi nghe tin các phi công Thần Phong đều nhất trí tình nguyện thực hiện các phi vụ tự sát bất thường sau khi nghe tin 500 đồng nghiệp từng trải qua hàng ngàn giờ bay đã bị giết như ruồi ở Marianas. Đây là những dữ kiện hợp lý nhất để trình bày với họ. Anh từng nổi tiếng là có phép lạ trong việc mang thuộc cấp trở về một cách an lành, ngay cả trong các trận đánh đẫm máu ở Solomon, do đó Phó Đô đốc đã gửi tôi đến anh để bàn thảo nhiệm vụ khó nuốt này. Một lẽ nữa, tôi biết và tôi hiểu anh, vì vậy, tôi thật sự muốn đến đây."

Miyazaki, thường thường là một loại anh hùng rơm, nông nổi và thờ ơ, bây giờ chẳng khác nào một kẻ thua trận đáng thương. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, tôi nói:

"Cám ơn anh, Miyazaki, quả thật anh đang lâm vào tình trạng bối rối khi đến đây. Tôi đã suy nghĩ kỹ những gì anh vừa nói. Tôi tán thành ý kiến khôn khéo của anh. Riêng tôi, tôi sẽ kể lại những câu chuyện xoay quanh các khu trục hạm thuộc hải đội của tôi trước đây, chẳng hạn như chiếc Samidare dày dạn chiến trận của tôi. Tôi vừa nghe nói chiếc tàu này, mặc dù lập biết bao thành tích to lớn, đã bị trúng ngư lôi và chìm gần Palau, mang theo phân nửa thủy thủ đoàn. Nó bị tàu ngầm địch tấn công! Đó là một con chuột ăn một con mèo! Thật mỉa mai làm sao!

"Khu trục hạm Shiratsuyu còn gặp phải tai nạn tồi tệ hơn nữa. Chiếc tàu này trước đây đã va chạm với chiếc Samidare ở vịnh Empress Augusta, hồi tháng 6 vừa qua tôi nghe nói nó lại đụng nhau với một chiếc tàu chở dầu gần đảo Mindanao và chìm lỉm cùng với toàn thể thủy thủ đoàn 224 người."

"Soái hạm cũ của tôi, chiếc Shigure, được mệnh danh là "khu trục hạm kiên cố", đó là chiến hạm duy nhất thuộc lực lượng Nishumure còn sống sót sau trận đánh ở Vịnh Leyte. Nhưng tôi chắc rằng số phận chung cuộc của nó không còn bao lâu nữa. Chiếc tàu đáng yêu này, với tất cả thủy thủ cũ của tôi ... Đó là định luật chung trong một cuộc chiến."

Tới đây, tôi và Miyazaki không còn gì để nói với nhau nữa. Chúng tôi bắt tay và đi ngủ.Sáng hôm sau, tôi ra lệnh tập họp toàn trường. Miyazaki lên tiếng đầu tiên, giải thích về các tàu phóng lôi mới, dụng cụ lặn và công dụng của chúng. Không khí trong sảnh đường căng thẳng, nhóm thính giả ngồi yên lặng nghe với thái độ không tin tưởng mấy.

Khi Miyazaki dứt lời, tôi chậm rãi bước lên bục gỗ và lên tiếng: "Các bạn đến đây để học hỏi về các loại tàu phóng lôi thông thường, nhưng vừa rồi các bạn đã nghe qua hai loại vũ khí mới do Đại tá Miyazaki trình bày. Chúng sẽ nằm trong chương trình giảng dạy của trường này. Bắt đầu từ ngày mai, ba lớp huấn luyện sẽ được mở ra cho các bạn. Các bạn có quyền tự do chọn lựa một trong ba lớp học này, nếu xét thấy thích hợp với khả năng và khuynh hướng của các bạn. Tôi muốn sự lưa chọn của các bạn không do áp lực hoặc ảnh hưởng của bất kỳ người nào. Sự lựa chọn này phải do ý thức của các bạn. Đây là quyết định của tôi. Trưa và chiều hôm nay, hoặc nếu cần, thời gian sẽ kéo dài hơn nữa, tôi sẽ ở tại văn phòng của tôi, để mỗi người trong các bạn đến trình riêng với tôi về sự lựa chọn của mình. Sẽ không có bất kỳ tra hỏi hoặc yêu cầu giải thích nào được đưa ra nhằm tìm hiểu xem tại sao các bạn lại chọn lựa như vậy. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói với các bạn."

Bốn trăm sinh viên sĩ quan, từng người một, bước vào văn phòng của tôi. Người cuối cùng rời khỏi văn phòng lúc 4 giờ sáng. Sau đó, tôi gọi Miyazaki, và chúng tôi phân loại các mảnh giấy có đề tên sinh viên cùng lớp học mà họ đã lựa chọn. Có 200 sinh viên chọn lớp tàu phóng lôi bình thường, 150 chọn lớp tàu phóng lôi tự sát và 50 người chọn lớp người nhái.

Miyazaki, đã kiệt sức sau nhiều đêm mất ngủ, đã thở khì nhẹ nhõm. Tôi cũng không khác gì ông ta.

Các tàu phóng lôi tự sát được đặt tên rất thơ mộng - Shinyo - có nghĩa là "kẻ lay động đại dương". Người nhái mang tên Fukuryu, có nghĩa là "con rồng bò".*******

Hàng chục cơ xưởng Nhật Bản đã đóng khoảng 6.000 loại tàu nhỏ bé này. Mỗi chiếc có chiều dài từ 4.5 đến 5.5 mét, nặng từ 1,35 đến 2,15 tấn, hầu hết đều được gắn một động cơ có thể đạt được tốc độ 26 hải lý. Chỉ một vài chiếc vỏ bằng thép còn lại đều làm bằng gỗ nên rất dễ vỡ. Xét trên mục đích tấn công, những "kẻ lay động đại dương" tỏ ra rất bết bát. Sau khi 3 tàu phóng lôi được đưa đến Kawatana không lâu, tôi yêu cầu căn cứ Không Hải quân ở omura phái một chiến đấu cơ tham dự vào một cuộc tấn công thực tập. Một huấn luyện viên lái một tàu phóng lôi ra khơi, nhưng khi phi cơ sà thấp ngay trên đầu, hắn ta đã bỏ chiếc tàu để nhảy xuống biển. Phi cơ quần lại lần thứ hai và xả súng đại liên bắn vào con tàu mong manh, nghiền nó ra thành từng mảnh.

Trang bị cho những "con rồng bò" lại còn tồi tệ hơn nữa. Hơn 50 sinh viên, toàn là những tay bơi lội tài giỏi, đã gặp nhiều rắc rối trong suốt thời gian thụ huấn. Ngay cả các bình dưỡng khí cung cấp cho nhà trường, không có cái nào là hoàn hảo. Nhiều sinh viên ngã bệnh khi lặn xuống biển vào ngay ngày đầu tiên của lớp học.

Những nỗ lực có tính cách hấp tấp như vậy có thể nào chống trả nổi địch quân mạnh mẽ, được trang bị toàn thiết bị khoa học tân tiến nhất hay không? Niềm bi quan bao trùm tâm hồn tôi. Mỗi ngày ở tại ngôi trường này là thêm mỗi sự chán nản đến với tôi. Tôi bắt đầu uống rượu nhiều trở lại. Khoảng 100 sinh viên tốt nghiệp lớp tàu phóng lôi thông thường được gửi sang Philippines và Okinawa, đa số đã thiệt mạng mà không có được bất kỳ kết quả có ý nghĩa nào. Tất cả sinh viên khác được giữ lại để chuẩn bị chống trả với địch quân, mà theo dự đoán có thể đổ bộ lên Nhật Bản. Được biết hầu hết sinh viên ưu tú của tôi, thuộc lớp tàu phóng lôi đặc biệt và người nhái, không phải làm vật hy sinh trong các nhiệm vụ tự sát, đó là một an ủi lớn với tôi.Vào ngày 20 tháng 12 năm 1944, Miyazaki thay thế tôi để điều khiển quân trường đáng chán Kawatana, và tôi được chỉ định vào một nhiệm vụ trên mặt biển, hạm trưởng tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi. Đó là một ngày sung sướng nhất trong một năm "không sung sướng" của tôi.Một vị sĩ quan chỉ huy hớn hở bước lên cầu thang của tuần dương hạm Yahagi đang buông neo ở Sasebo vào ngày 22 tháng 12 năm 1944. Tôi đã trở lại với nơi mà tôi thuộc về, trở lại với những ngày chiến đấu, vĩnh biệt những muộn phiền ở Kawatana. Được chỉ định vào nhiệm vụ này là một vinh dự to lớn đối với tôi.

Các sĩ quan của chiếc tàu tụ họp chào đón tôi. Trung tá Shinichi Uchino, sĩ quan phụ tá, tuyên bố một cách đầy hứng khởi: "Khi biết tân hạm trưởng của Yahagi là Đại tá, thủy thủ đoàn đã vô cùng mừng rỡ. "Hạm trưởng kỳ diệu", một số thủy thủ đã bắt đầu gọi Đại tá một cách hãnh diện như vậy."

Sau khi nhấn mạnh sự may mắn đầy thích thú được bổ nhiệm chỉ huy chiếc Yahagi, tôi nói: "Chưa từng được chỉ huy một chiến hạm lớn như thế này. Tôi sẽ có nhiều điều cần học hỏi ở quý vị."

Những lời thành thật của tôi được đón nhận một cách hài lòng, và mọi người đều tỏ ra phấn khởi. Thúc đẩy tinh thần của chiếc tàu, đó là một việc làm cần thiết.

Yahagi vừa trở về từ trận thảm bại ở Vịnh Leyte. Trong trận đánh này, Yahagi là soái hạm của một nhóm chiến hạm yểm trợ thuộc Đệ Nhị Hạm Đội của Phó Đô đốc Takeo Kurita. Nhiều chi tiết của trận đánh này vẫn còn nằm trong bóng tối. Ngay cả những người tham dự cũng không am tường đầy đủ. Nhưng ai cũng biết Nhật Bản đã lãnh một cú đấm nặng nề, và Hoa Kỳ đã lật ngược tình thế trên quần đảo Philippines sau trận đánh này.

Vào ngày 25 tháng 10, sau khi lực lượng hộ tống hàng không mẫu hạm bị thiệt hại nặng nề, Phó Đô đốc Kurita tạo ra cuộc rút lui đầy tai tiếng của ông, mặc dù ông đã làm đình trệ cho các cuộc đổ bộ của đối phương ở Vịnh Leyte, tuần dương hạm Yahagi và các khu trục hạm tháp tùng vẫn còn cách xa trận đánh khoảng 10 dặm. Từ khoảng cách quá xa như vậy, Yahagi và đồng đội đã vội vã phóng ngư lôi, dĩ nhiên, tất cả ngư lôi đều hoang phí. Hành động chậm chạp của nhóm chiến hạm này đã gây chán nản cho mọi người.

Đề đốc Susumu Kimura, Tư lệnh Phân đội 10 khu trục hạm, bao gồm Yahagi và 6 khu trục hạm, đã phải rời khỏi chức vụ sau trận đánh. Ông ta nguyên là một chuyên viên hoa tiêu, không phải là một tay chiến đấu. Việc tránh né đụng độ của Kimura sớm chứng tỏ một cách rõ rệt vào tháng 10 năm 1942 trước đó. Khi tuần dương hạm hạng nhẹ Nagara của ông đã không truy đuổi địch quân ở vùng biển Guadalcanal. Tuy nhiên, hầu hết các chiến hạm Nhật khác có mặt trong trận đánh này đều chiến đấu dàn mặt với địch quân. Việc sử dụng Kimura một lần nữa vào trận đánh quan trọng như trận đánh ở Vịnh Leyte chẳng hạn, đã không được giải thích tại sao. Điều này chỉ có Bộ Tư Lệnh Tối Cao mới biết mà thôi.

Ngay cả việc lưu dụng hai Phó Đô đốc Kurita và Ozawa trong các chức vụ chỉ huy then chốt cũng là một sai lầm nghiêm trọng. Cả hai đều tồn tại sau cuộc chiến và hiện thời vẫn còn sống. Tôi không thích đưa ra những lời chỉ trích toàn diện về họ, nhưng phải nói hai vị Đô đốc già nua và mệt mỏi này phải chịu trực tiếp trách nhiệm cuộc thảm bại ở Vịnh Leyte.

Kurita đã nói với tôi: "Tôi đã tạo ra sai lầm đó (tức ra lệnh rút lui), không ngoài vấn đề lúc ấy tôi quá mệt mỏi về thể xác."

Khi bàn đến trận đánh Leyte, Ozawa thú thật với tôi rằng "ông thấy xấu hổ vì vẫn còn sống sót sau trận đánh đó."

Trận đánh Vịnh Leyte là một trong những trận đánh lớn nhất trong lịch sử Hải quân đã được viết đi viết lại nhiều lần. Có nhiều ý kiến nêu ra đã khiến tôi không hài lòng, nhưng tôi đã hoàn toàn đồng ý với tác giả C. Vann Woodward khi ông kết luận quyển sách "Trận hải chiến Vịnh Leyte" của ông: "Những gì gọi là cần thiết trên đài chỉ huy của soái hạm Yamato vào buổi sáng ngày 25 không phải là một Hamlet mà là một Hotspur - một Halsey của Nhật Bản thay vì một Kurita."

Kurita đã từng chứng tỏ sự vụng về quá mức khi ông đưa Đệ Nhị Hạm Đội của ông đến Rabaul vào tháng 11 năm 1943. Nhưng ông, cũng như Ozawa, vẫn còn được lưu dụng, ngay cả hai người chỉ huy các lực lượng Nhật đã đưa đến sự thảm bại trong trận đánh Marianas vào ngày 19 tháng 6 năm 1944. Lý do của việc lưu dụng này. Tôi không thể nào hiểu nổi. Cả hai đều tỏ ra mỏi mệt từ lâu rồi, vì vậy đưa họ đến Vịnh Leyte không khác nào đưa họ vào tai họa, đặc biệt giữa lúc mà các lực lượng của họ đều không được bao che hữu hiệu về mặt trên không.

Tuy nhiên, Đô đốc Soemu Toyoda, Tổng Tư Lệnh Hạm đội Hỗn Hợp, phải chịu những phần trách nhiệm lớn hơn hết. Từ Formosa trở về Nhật Bản vào ngày 18 tháng 10, ông nằm ở Yokosuka để điều động trận đánh đầu tiên, và sau đó, ông di chuyển 30 dặm trên đất liền để tiếp tục điều hành nhiệm vụ. Dó đó, cuộc hành quân không thực tế này được thảo kế hoạch và điều động ngay trên nội địa bởi một vị Đô đốc chưa bao giờ tham dự một trận hải chiến nào trong cuộc đời binh nghiệp của mình.

Có nhiều nguyên nhân gây ra sự thảm bại của Nhật trong trận đánh Vịnh Leyte, nhưng các nguyên nhân đầu tiên phải đề cập đến là sự khiếm khuyết về phi cơ, radar và hệ thống liên lạc. Hạm đội Nhật đã đành là chiến đấu rất dũng cảm, nhưng không được bảo vệ hữu hiệu về mặt trên không, hoặc không được cung cấp đầy đủ những thiết bị hỗ trợ khác, do đó, trận chiến của họ không khác nào kẻ mắt mù tai điếc.

Với việc Saipan thất thủ, cuộc chiến trong tay Nhật Bản xem như đã mất. Điều này còn rõ rệt hơn nữa, sau khi nhiều thiết giáp hạm và tuần dương hạm hạng nặng, được gìn giữ từ lâu, đều bị trận đánh ở Leyte thiêu rụi.

Phó Đô đốc Seiichi Ito thay thế Kurita trong chức vụ Tư Lệnh Đệ Nhị Hạm Đội vào ngày tôi bước chân lên tuần dương hạm Yahagi. Giống như nhiều quyết định thay đổi nhân sự cao cấp vào thời gian đó, việc thay đổi này cũng gây cho tôi nhiều ngạc nhiên. Ito ngồi trong phòng Bộ Tổng Tham Mưu Hải quân từ khi cuộc chiến Thái Bình Dương bắt đầu. Ông chưa từng lãnh nhiệm vụ trên mặt biển bao giờ, và cũng chưa từng biết qua kinh nghiệm chiến đấu nào trong suốt cuộc chiến.

Phòng Nhân Sự của Tổng Hành Dinh Hải quân hình như không còn sáng suốt trong thời gian đó. Kurita, với tất cả sai lầm trong cuộc đời binh nghiệp của ông, lại được chỉ định vào chức vụ chỉ huy trưởng Hàn Lâm Viện Hải quân ngay khi ông vừa rời khỏi Đệ Nhị Hạm Đội sau trận Leyte. Ozawa được thăng cấp Đô đốc và trở thành Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp vào tháng 5 năm 1945. Một việc đáng lưu ý là hầu hết các sĩ quan còn sống sót sau trận đánh Leyte đều được thăng cấp.

Trong lúc đó, tàn quân của Đệ Nhị Hạm Đội lê lết về Nhật từng nhóm hai hoặc ba chiến hạm. Vào giữa tháng Giêng, Yahagi kết hợp với thiết giáp hạm Yamato và 5 khu trục hạm đang buông neo ở Hashirajima, gần Hiroshoma. Quang cảnh hiện tại đã gợi tôi nhớ lại quanh cảnh nhiều trăm chiến hạm tụ hội trong hải cảng rộng lớn này đúng bốn năm trước đây. Tôi đau buồn khi nhìn thấy những gì còn sót lại của Đệ Nhị Hạm Đội - một hạm đội mà hiện thời không còn một chút tư cách nào để mang tên cũ của nó.

Trong khi chúng tôi thao dượt, tôi luôn luôn liếc chừng các chiến hạm ngày trước của tôi, có thể sẽ đến để gia nhập hạm đội này. Chiếc Shigure nằm trong một thành phần thuộc lực lượng của Nishimura khi ông hướng dẫn hai thiết giáp hạm, một tuần dương hạm và 4 khu trục hạm của ông, bí mật và không phối hợp, tiến vào Vịnh Leyte vào ngày 25 tháng 10 năm 1944. Ngoại trừ Shigure, tất cả chiến hạm của lực lượng này đều bị đánh chìm. Do sự sống sót lẻ loi, chiếc Shigure trở thành mục tiêu bị kích bác và các tin đồn đầy ác ý mà tôi không thể nào tin được. Tôi muốn tiếp xúc với thủy thủ đoàn của Shigure để tìm hiểu sự thật. Tuy nhiên, thay vì chiếc tàu này sẽ đến như mong đợi, một tin tức cho biết nó bị trúng ngư lôi của một tàu ngầm địch và chìm ở khu vực phía Bắc Singapore vào ngày 24 tháng Giêng. Thật đáng tủi nhục biết bao: Một chiếc tàu dày dạn chiến trận như vậy mà lại là nạn nhân của một chiếc tàu ngầm. Không lâu sau đó, một tin tức khác cho biết khu trục hạm Amatsukaze đang ở trong hải phận Trung Hoa, vì vậy nó không thể nào đến gia nhập Đệ Nhị Hạm Đội.

Nhưng không phải tin tức nào cũng xấu cả. Trang bị và vũ khí mới được đưa đến cho tuần dương hạm Yahagi của tôi gần như hàng ngày. Trong số đó có nhiều đầu đạn nổ kíp điện, ngư lôi tầm hướng và quan trọng nhất là loại radar mới khá công hiệu. Xạ thủ bắt đầu học sử dụng hỏa lựa theo hướng dẫn của radar. Mặc dù nhiều bộ phận của loại radar này vẫn còn nằm trong vòng thí nghiệm, nhưng chúng cũng chứng tỏ Nhật Bản đã tiến một bước khá xa trên phương diện kỹ thuật. Quá trễ để có dịp so tài với địch quân trước đây, nhưng loại radar mới này có tính cách thúc đẩy tinh thần mạnh mẽ vào những ngày khủng hoảng cao độ này.

Tuy nhiên, công việc huấn luyện chỉ giới hạn trong biển Nhật Bản nhỏ hẹp. Tôi đã hỏi tại sao chúng tôi không được chạy ra ngoài biển rộng để thực tập với tốc độ chiến đấu, và được trả lời rằng tình trạng tiếp tế nhiên liệu khiếm khuyết không cho phép chúng tôi thực hiện việc này. Tôi được biết vấn đề tiếp tế nhiên liệu thấp kém, nhưng không ngờ lại thấp kém đến độ không đủ cho công việc huấn luyện căn bản nhất.

Sau cuộc pháo kích sơ khởi dữ dội, lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu đổ bộ lên đảo Iwo Jima vào ngày 19 tháng 2 năm 1945. Không có một chiến hạm nào của Nhật Bản được gửi đến để chống lại cuộc đổ bộ chỉ xảy ra cách Nhật Bản 700 dặm này.

Trong lúc đó, siêu pháo đài bay B-29 Hoa Kỳ, cất cánh từ các căn cứ ở Marianas, liên tục gia tăng cường độ oanh tạc trên các thành phố Nhật Bản. Bộ Tư Lệnh Tối Cao quay lại công thức giữ gìn cũ rích của họ, lần này là các chiến đấu cơ. Chúng sẽ được che dấu hoặc dời đến những nơi an toàn để tránh các cuộc không tập, phó mặc cho phi cơ địch làm mưa làm gió trên đất nước.

Tại Bộ Tư Lệnh Tối Cao Hoàng Gia, cuộc bàn luận đầy sôi nổi kéo dài nhiều ngày xoay quanh vấn đề: Những gì có thể làm được với thành phần còn lại của Hạm Đội Hỗn Hợp. Vào ngày một tháng 3, Phó Đô đốc Ito báo cáo rằng công cuộc tái huấn luyện đã hoàn tất và lực lượng của ông, bao gồm một thiết giáp hạm, một tuần dương hạm, và 10 khu trục hạm, sẵn sàng tham chiến. Nhưng Bộ Tư Lệnh Tối Cao vẫn chưa quyết định được xem có nên sử dụng Đệ Nhị Hạm Đội rách nát vào nhiệm vụ tấn công ở hiện tại, hay là để duy trì phòng thủ trong nước nhằm chống lại cuộc xâm chiếm của địch quân trong tương lai.

Trong lúc các cuộc tranh luận đáng bực mình này tiếp tục ở Tổng Hành Dinh Tokyo, Đệ Nhị Hạm Đội tiến vào Kure và bắt đầu phân phối nhiên liệu một cách dè xẻn. Phía Hải quân cho rằng nên để hạm đội này ở lại trong nước vì khả năng yếu kém của nó. Phía Lục quân đã đề cập đến trận đánh ở Vịnh Leyte, nhằm vạch ra cho Hải quân thấy việc bo bo giữ gìn chiến hạm là điên cuồng, chỉ làm mồi cho phi cơ địch tấn công. Vào ngày 19 tháng 3, lý luận cuối cùng của Lục quân đắc thắng. Bởi vì vào ngày đó, một lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ tiến sát vào bờ biển Nhật Bản và tung nhiều trăm phi cơ tấn công các chiến hạm đậu ở Kure và Kobe. Không có chiến hạm nào của chúng tôi bị đánh chìm, nhưng 17 chiếc mang đầy thương tích, bao gồm 6 hàng không mẫu hạm và 3 thiết giáp hạm, trong số đó có hai thiết giáp hạm Isa và Hyuga, tồn tại trong trận đánh ở Vịnh Leyte, đã bị trúng bom trong khi nằm sửa chữa tại xưởng tàu ở Kure.

Các tướng lĩnh của Lục quân đã gật gù một cách khoái trá trước những thiệt hại của Hải quân, và nhất là những thiệt hại này gia tăng trong các cuộc tấn công tiếp tục của phi cơ địch vào ngày 20. Đệ Ngũ Không Hạm Đội mới thành lập hồi tháng 2 năm 1945, đã tung hàng trăm phi cơ Thần Phong lên để phản công. Tư lệnh lực lượng này, Phó Đô đốc Matome Ugaki - nguyên Tham Mưu Trưởng của Yamamoto - sau đó đã báo cáo: "Cuộc tấn công do các phi cơ đặc biệt của chúng ta thực hiện đã gây cho 7 hàng không mẫu hạm, 2 thiết giáp hạm và một tuần dương hạm của đối phương lớp chìm, lớp hư hại nặng." Báo cáo thêu dệt này đã giúp khôi phục uy thế của Hải quân ở Tổng Hành Dinh Tokyo, nhưng lại bị đá hậu. Các chiến lược gia đầu não đã nhẹ dạ tin tưởng vào bản báo cáo này, và họ kết luận không hề đắn đo rằng sau một đòn nặng như vậy, lực lượng đặc nhiệm của địch quân sẽ phải chạy dài về Ulithi để bổ sung và sửa chữa trước khi có thể quay lại trận đánh lần nữa.

Nhưng ba ngày sau đó, vào ngày 23 tháng 3, hàng trăm phi cơ xuất phát từ các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ bắt đầu rải bom lên Okinawa hết ngày này sang ngày khác. Các cuộc không tập này được trọng pháo của chiến hạm Hoa Kỳ tiếp tục ngay sau đó. Các sĩ quan tham mưu Nhật choáng váng, nhưng không đưa ra một hành động cụ thể nào. Thay vào đó, họ tiên đoán, gần như khẳng định, rằng các cuộc đổ bộ của địch sẽ không xảy ra. Nhưng lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ không phải đến "thăm viếng xã giao" vùng biển Okinawa. Họ đến và muốn ở luôn.

Vào ngày một tháng 4 lực lượng Hoa Kỳ đặt chân lên bờ biển Okinawa mà không gặp bất kỳ sự đề kháng nào. Đại tướng Mitsuru Ushijima, Tư Lệnh Binh đoàn 23 đảm trách nhiệm vụ phòng thủ hòn đảo, đã nhận thấy một cách khôn ngoan rằng phòng thủ có chiều sâu sẽ hữu hiệu hơn là cố gắng tiêu diệt địch ở cạnh bờ biển. Hải quân thấy như vậy vội vã la lên: "Tại sao Lục quân không chịu đề kháng?" Lục quân vặn lại: "Tại sao chiến hạm của Hải quân không chịu nhận chìm lực lượng của đối phương?"

Loại lời đi tiếng lại không đi đến đâu cả, nhưng Đô đốc Toyoda, từ 5 tháng nay đã nhẫn nhục trước lối lải nhải của Lục quân, cuối cùng ông phải chịu thua. Vào ngày 5 tháng 4, ông quyết định sử dụng Đệ Nhị Hạm Đội, đúng 4 ngày sau khi của đổ bộ của Hải quân xảy ra.

Ngày đó có hai biến cố đáng chú ý, gây nhiều hậu quả trầm trọng cho Nhật Bản: Thủ tướng (Đại tướng) Kuniaka Koiso từ chức và được Đô đốc hồi hưu Kantaro Suzuki thay thế; và Liên Bang Xô Viết báo cho Nhật Bản biết rằng họ sẽ không kéo dài Hiệp Ước Bất Tương Xâm nữa.

Bấy giờ tôi không biết những chi tiết chuyển động hậu trường của các biến cố này. Vào buổi sáng đầy sương mù đó, Đệ Nhị Hạm Đội buông neo gần Tokuyama trong biển Nhật Bản. Trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Yahagi, tôi đưa mắt nhìn một vòng thẫn thờ nhìn thiết giáp hạm khổng lồ Yamato và 8 khu trục hạm đang buông neo ( hai khu trục hạm khác phải nằm lại Kure để sửa chữa vì trục trặc máy móc). Tổ chức của lực lượng này như sau:

Đệ Nhị Hạm Đội

Tư lệnh: Phó Đô đốc Seiichi Ito

Thiết giáp hạm Yamato ( cũng là soái hạm của Ito) hạm trưởng là Đề đốc Kosaku Ariga.

Phân đội 2 khu trục hạm , Đề đốc Keizo Komura, chỉ huy trên tuần dương hạm Yahagi.

Hải đội 17 khu trục hạm, Đại tá Kiichi Shitani, bao gồm các khu trục hạm Isokaze - Trung tá Saneo Maeda, Hamakaze - Trung tá Isami Mukoi, Yukikaze - Trung tá Masamichi Terauchi.

Hải đội 21 khu trục hạm, Đại tá Kotaki, bao gồm các khu trục hạm Asashimo - Trung tá Yoshiro Sugihara, Kasumi - Trung tá Hiroo Yanama, Hatsushimo - Trung tá Shigetaka Atamo.

Đệ Nhị Hạm Đội với lực lượng hùng hậu vào những ngày đầu của cuộc chiến hiện thời chỉ còn lại bấy nhiêu chiến hạm này. Cơn mơ màng về nỗi thịnh suy của quá khứ và hiện tại của tôi bị tiếng động của một chiếc thủy phi cơ bay đến từ hướng Đông Nam cắt đứt.

Chiếc phi cơ này nhanh nhẹn và nhẹ nhàng đáp xuống mặt biển, và lướt đến đậu bên cạnh soái hạm Yamato. Tôi nhìn thấy nhiều người leo lên cầu thang của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này. Ngay khi tôi tự hỏi họ là ai, soái hạm đã phất tín hiệu bằng cờ: "Cuộc hành quân Ten-Go có hiệu lực từ giờ phút này." ...................

Lập tức, hoạt động trên các chiến hạm trở nên nhộn nhịp, vì cuộc hành quân Ten-Go tức là cuộc tổng phản công của Hải quân ở Okinawa. Đề đốc Keizo Komura, vừa thay thế Kimura, đặt soái kỳ lên tuần dương hạm Yahagi của tôi, được triệu tập đến soái hạm Yamato. Ông vội vã nhảy xuống ca nô và ra đi. Chuyển động này chứng tỏ chiếc thủy phi cơ đã mang đến nhiều nhân vật cao cấp với những tin tức quan trọng.

Tôi đăm đăm nhìn chiếc thiết giáp hạm trong nỗi lo âu, và sau hai giờ không thấy dấu hiệu nào xảy ra, nỗi kiên nhẫn của tôi tiêu tan hẳn. Vào lúc 11h30, Yamato phát tín hiệu: "Đề đốc Komura gửi tất cả các chỉ huy trưởng hải đội và hạm trưởng. Hãy lập tức đến họp trên soái hạm Yahagi."

Cùng lúc đó, Komura trở về Yahagi, trông có vẻ căng thẳng, nhưng ông không nói với tôi một điều gì cả. Khi tôi dọ hỏi, ông chận lời: "Đừng có bồn chồn, Hara. Hãy chờ cho mọi người đến đầy đủ đã."

Lời nói của ông khiến tôi giật mình, bởi vì Komura là một người vô tư lự, ít khi dấu diếm những cảm xúc của mình. Tôi để ông một mình, và đưa mắt nhìn 8 chiếc ca nô đang lướt về phía soái hạm Yahagi.

Cuộc họp mở ngay vào giữa trưa. "Quý vị", Komura nói, "chắc tất cả quý vị đều nhìn thấy tín hiệu cho biết cuộc hành quân Ten-Go có hiệu lực ngay từ bây giờ. Phó Đô đốc Ryuosuke Kusaka, Tham mưu trưởng của Hạm Đội Hỗn Hợp vừa từ Kanoya đến để hội họp với các sĩ quan hàng đầu thuộc hạm đội chúng ta."

Các thính giả của ông gồm 4 Đại tá và 8 Trung tá yên lặng ngồi nghe. Sau khi ngưng một lúc Komura tiếp:

"Kế hoạch hành quân do Phó Đô đốc Kusaka mang đến là một kế hoạch không bình thường. Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn Đệ Nhị Hạm Đội tiến đến Okinawa, không có phi cơ bao che và với số nhiên liệu vừa đủ cho lượt đi. Tóm lại, Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn chúng ta thực hiện một nhiệm vụ tự sát."

"Không, nhiệm vụ này đúng ra không phải là một "nhiệm vụ tự sát", vì "nhiệm vụ tự sát" bao hàm ý nghĩa nhắm vào và thu hoạch được kết quả trên một mục tiêu có giá trị lớn hơn. Tôi đã nói với Kusaka rằng hạm đội yếu kém của chúng ta không có một dịp may nào chống nổi với lực lượng hùng hậu của đối phương, và một cuộc hành quân như vậy sẽ là một "chuyến đi tự sát" với đúng nghĩa tầm thường của nó. Hai Đề đốc Agura và Morishita đã đồng ý với tôi. Phó Đô đốc Ito im lặng, do đó tôi không hiểu ý kiến của ông về lời nói của tôi như thế nào."

"Như tất cả quý vị đều biết, tôi từng là Tham mưu trưởng của Phó Đô đốc Ozawa khi ông thi hành nhiệm vụ nhử địch ở Philippines và thiệt mất 4 hàng không mẫu hạm. Tôi nhận thấy việc sát hại người của chúng ta là đã quá đủ rồi. Tôi không quan tâm đến mạng sống của tôi, nhưng tôi muốn giảm bớt sự đùa cợt trên mạng sống thuộc cấp tôi bằng cách đẩy họ vào một chuyến đi tự sát đúng nghĩa. Theo đó, tôi đã yêu cầu Ito và Kusaka tạm ngưng phiên họp để tôi trở về hội ý với quý vị."

Sau những lời này, Komura nghiến chặt răng và nhắm nghiền đôi mắt đầy nước mắt của ông lại. Sự yên lặng nặng nề bị phá vỡ khi Đại tá Kiichi Shitani, thay thế ông bạn Miyazaki của tôi trong chức vụ Chỉ huy trưởng Hải đội 17 khu trục hạm trước đây, cất tiếng: "Đô đốc Kusaka đến đây để cắm những lệnh này vào cổ chúng ta?"

Komura đáp: "Không ai có thể ra lệnh cho người khác tự sát được. Kusaka không liên quan gì đến mấy lệnh lạc này. Nếu có đi nữa, ông ta cũng không thể ra lệnh cho chúng ta như vậy."

Shintani đỏ mặt tía tai, hít một hơi thở thật dài, và lớn tiếng: "Tôi đã có đi với Kurita tham dự trận đánh ở Vịnh Leyte sau ngày quân Mỹ đổ bộ. Nếu Bộ Tư Lệnh Tối Cao muốn chúng ta đẩy địch quân ra khỏi đầu cầu đã được củng cố của họ ở Okinawa thì không khác nào tiếp tục theo đuổi phương thức giết người ở Leyte. Tuy nhiên, nỗ lực của Kurita còn tỏ ra thực tế hơn, vì ít ra ông ta còn có Ozawa làm nhiệm vụ nhử địch. Không có lực lượng chim mồi, chúng ta sẽ không có bất kỳ hy vọng nào để chiến thắng. Cuộc hành quân của chúng ta sẽ làm trò cười cho đối phương. Nếu chúng ta cố làm một việc như vậy, tất cả chúng ta sẽ bị tiêu diệt, và lúc ấy ai sẽ bảo vệ quê hương? Tôi chống đối cuộc hành quân này."

Đại tá Hisao Kodaki, Chỉ huy trưởng Hải đội 21 khu trục hạm tiếp lời: "Tôi đồng ý với Shintani. Bộ Tư Lệnh Tối Cao đã lặp lại sai lầm của nhiều tháng trước đây. Tại sao chúng ta, những người đã từng trải qua biết bao nhiêu chiến trận, lại để cho một bọn lãnh đạo ngu xuẩn và bất tài dẫn dắt như kẻ đui mù? Tại sao chúng ta không có tiếng nói căn cứ trên kinh nghiệm thực tế của chúng ta?"

Các hạm trưởng dưới quyền Shintani và Kodaki lần lượt lên tiếng và tán thành ý kiến của chỉ huy trưởng của họ. Việc này nhanh chóng biến phiên họp trở nên sôi động nhất mà tôi chưa từng thấy. Nhưng Komura hoàn toàn lặng yên và bất động, đôi mắt ông vẫn khép lại.

Tôi cảm thấy đến lúc phải lên tiếng, tôi nói: "Vấn đề thực tế mà chúng ta phải làm là tấn công các đường tiếp tế của địch quân. Tôi thích thi hành các sứ mạng đơn độc. Hiện thời chiếc Yahagi đã được trang bị radar và sonar, tôi nghĩ rằng nó có thể ra đi một mình, và ít ra nó cũng sẽ đánh chìm năm ba chiến hạm địch trước khi bị hạ. Làm như vậy có ý nghĩa hơn, vì theo tôi, toàn thể hạm đội đến Okinawa chẳng khác nào mang trứng chọi đá."

Đại tá Masayoshi Yoshida, Chỉ huy trưởng hải đội 41 khu trục hạm lên tiếng kế đó: "Ý kiến của Hara phù hợp với ý kiến của tôi. Hai khu trục hạm Fuyutsuki và Suzutsuki của tôi là những khu trục hạm được trang bị cao xạ tối tân nhất. Hai khu trục hạm này được tạo nên bằng máu, nước mắt và thuế má của quốc gia nghèo khổ của chúng ta, nhưng cả hai chưa từng được giao phó một công việc có giá trị nào. Tôi tin chắc nó có thể thi hành nhiệm vụ riêng rẽ một cách tốt đẹp, như Hara vừa nói."

Trung tá Yoshiro Sugihara, nguyên hạm trưởng khu trục hạm Samidare bị đánh chìm vào tháng 8 vừa qua và hiện thời là hạm trưởng khu trục hạm Asashimo, nhiệt liệt ủng hộ ý kiến của Yoshida. "Tôi đã sống an nhàn quá lâu," hắn nói, "nên tôi chuẩn bị chết bất kỳ lúc nào, nhưng không phải là một cái chết vô nghĩa, như sự đòi hỏi của thượng cấp. Chiếc Asashimo của tôi là một chiến hạm 2.520 tấn, tôi muốn được cơ hội để chứng tỏ chiếc tàu này có lợi ích thiết thực cho quốc gia.

Phiên họp dừng lại khi đầu bếp dọn bữa ăn trưa nhưng thức ăn không có mùi vị gì với mọi người. Trong suốt bữa ăn, các hạm trưởng khu trục hạm bàn đi tán lại mấy ý kiến vừa qua. Lúc 13 giờ, Komura quay lại soái hạm Yamato. Các sĩ quan vẫn ở lại trên chiếc Yahagi chờ đợi một cách nôn nóng. Lúc 16h, Komura trở về.

Ông bước chậm chạp vào phòng khách, gương mặt đầy khổ não. Ông nói một cách mệt mỏi và chán nản: "Tôi chấp nhận lệnh của thượng cấp. Lệnh này có hiệu lực từ 15h30."

Sau câu này ông như trút được gánh nặng. Ông lướt mắt quanh phòng, nhìn từng người một, sau đó tiếp tục nói:

"Tôi mất một giờ để trình bày ý kiến của quý vị và sự đồng ý của tôi về các ý kiến này. Kusuka và những người khác lắng nghe một cách chăm chú. Khi tôi dứt lời, Kusuka giải thích rằng chuyến đi này là một nhiệm vụ nhử địch. Ông nhấn mạnh đây không phải là kế hoạch của ông, nhưng nó đã được sắp sếp trong lúc ông viếng thăm Kanoya. Theo kế hoạch này, trong khi các hàng không mẫu hạm của đối phương mắc bận đối phó với hạm đội của chúng ta, Kanoya - phi trường nằm ở cực nam Kyushu - sẽ cho nhiều trăm phi cơ Thần Phong tấn công Okinawa. Kusaka bảo đảm với tôi rằng hải xuất chim mồi này sẽ không kết thúc một cách vô ích như hải xuất ở Vịnh Leyte."

"Sau đó, Kusaka đã xoay sang Morishita và giải thích rằng Bộ Tư Lệnh Tối Cao và đặc biệt là thành phần Lục quân, đã tỏ ra chán nản về sự thất bại của soái hạm Yamato, nhưng theo cảm nghĩ của ông ta, đó không phải là lỗi lầm của Morishita ( lúc ấy là hạm trưởng của Yamato), vì ông đã làm được một việc đáng kinh ngạc là tránh né được tất cả ngư lôi của đối phương, trong khi chiếc Mushashi lại trở thành nạn nhân của những quả ngư lôi này. Tuy nhiên, Kusaka nói rằng Tokyo không hài lòng khi biết soái hạm Yamato đã rút lui mà các khẩu trọng pháo 350mm của nó không bắn được một phát đạn nào vào địch quân. Morishita đã tỏ ra bẽn lẽn với những lời ghi nhận này."

"Kế đó, Kusaka nói với Agura (thay thế Morishita sau trận Leyte) rằng cả nước Nhật Bản sẽ oán ghét hải quân nếu cuộc chiến này chấm dứt mà chiếc Yamato không bị một vết trầy nào. Từ trước đến nay Agura không vấp phải lỗi lầm nào, do đó ông ta tin rằng chiếc Yamato sẽ không bỏ chạy như trong chuyến ra quân đầu tiên ở Leyte sau 3 năm được giữ gìn, và thiết giáp hạm khổng lồ này sẽ không còn bị mang danh là "khách sạn nổi cho các vị Đô đốc vụng về và lười biếng".

"Tới đây, Ito phá vỡ sự im lặng quá lâu của ông: Tôi nghĩ là chúng ta được trao cơ hội để chết một cách thích đáng. Một Samurai phải sống một đời sống như vậy, hắn luôn luôn chuẩn bị để chết. Sau lời nói của Ito, cuộc tranh luận hoàn toàn chấm dứt. Morishita và Agura đều nhượng bộ. Tôi cũng không thể làm khác hơn họ."

Komura cúi đầu thật thấp sau câu nói cuối cùng này, như để thay lời tạ lỗi. Chúng tôi ngồi bất động. Khi những giây phút lê thê như hàng giờ trôi qua, tôi quyết định đấu mặt với thực tế. Tôi nói: "Thưa Đề đốc, việc Đề đốc vẫn giữ vững quan điểm của chúng ta, tôi rất tán thành. Nhưng lệnh vẫn là lệnh. Hiện thời chúng ta chỉ còn biết cố gắng hết sức của chúng ta để cải thiện tình thế."

Đề đốc Komura nhìn tôi với đôi mắt biết ơn: "Cảm ơn anh, Hara!"

Ba chỉ huy trưởng hải đội - Kodaki, Shintani, Yoshida - chấp nhận mệnh lệnh, và xoay sang hỏi ý kiến các hạm trưởng dưới quyền. Cả tám Trung tá đều đồng lòng tán thành.

Việc thay đổi ý kiến một cách nhanh chóng như vậy chắc khiến cho các độc giả ngoại quốc lấy làm khó hiểu. Sở dĩ Kusaka cố gắng thuyết phục các vị sĩ quan cao cấp để họ chấp nhận mệnh lệnh, bởi lẽ mệnh lệnh này chưa bao giờ được đưa ra trước đây, và chỉ được thi hành hữu hiệu một khi có sự chấp nhận của kẻ thi hành mệnh lệnh. Nhưng trên nguyên tắc, chúng tôi không có quyền phản kháng bất kỳ mệnh lệnh nào do thượng cấp đưa ra, hơn nữa chúng tôi đều biết mệnh lệnh của Hải quân Hoàng Gia là các mệnh lệnh tuyệt đối. Do đó, sau khi ý kiến bị bác bỏ, dù muốn hay không, chúng tôi vẫn phải thi hành nhiệm vụ.

Sau chiến tranh, Kusuka đã nói với tôi rằng đó có lẽ là lần đối phó khó khăn nhất trong đời ông. Ông giải thích thêm : "Khi nhận chức vụ Tổng Tư Lệnh Hạm Đội , một hạm đội hữu danh vô thực, Ito đã chuẩn bị sẵn cái chết. Từng giữ chức vụ Tham Mưu trưởng khá lâu, ông ta cảm thấy có trách nhiệm về những trận thảm bại liên tục của chúng ta. Vào thời gian đó chỉ còn một vài người giữ được tâm trí bình thường, và tinh thần Kamikaze đã thâm nhập vào hầu hết binh chủng Hải quân.

Sau khi chấp nhận mệnh lệnh, sĩ quan các cấp đều tề tựu về thiết giáp hạm Yamato để tham dự một buổi thuyết trình. Phó Đô đốc Ito đã kết thúc buổi họp với những lưu ý: "Vì nhiệm vụ này khác thường, các vị chỉ huy trưởng nên di chuyển tất cả các sĩ quan thực tập, những người đau ốm và... bất kỳ người nào xét thấy không thích hợp. Đây là một vấn đề thuộc quyền cân nhắc của quý vị."

Trở về Yahagi, tôi cho sĩ quan và hạ sĩ quan tụ họp khẩn cấp trên tàu. Tôi giải thích mệnh lệnh vừa nhận được và nhìn chăm chú khuôn mặt từng người để xem phản ứng. Không khí căng thẳng, nhưng tôi ngạc nhiên và thở phào nhẹ nhõm khi nhận thấy không ai tỏ vẻ phản đối.

Để kết luận, tôi nói: "Đây là một sứ mạng không bình thường, tôi cần phải nói cho quý vị biết, nếu bất cứ người nào trong quý vị thấy mình sẽ phục vụ tốt hơn nếu bỏ qua chuyến đi này, quý vị đó sẽ rời khỏi tàu cùng với các sĩ quan thực tập, những thủy thủ đau yếu và những người khác xét thấy không thích hợp cho nhiệm vụ. Tôi yêu cầu quý vị nào muốn như vậy, hãy đến phòng báo cho tôi biết sau cuộc họp này."

Tôi đã diễn dịch rộng rãi các chỉ thị của Phó Đô đốc Ito hơn, nhưng tôi cảm thấy sự diễn dịch này nằm trong ý định của ông. Trong phòng riêng, tôi nhìn tấm ảnh chụp chung toàn thể gia đình như nói lời vĩnh biệt, và nghĩ đến hầu hết thủy thủ đoàn Yahagi đều là những người đã có gia đình, tôi tự hỏi có bao nhiêu người sẽ nêu ra lý do này để ở lại? Hơn 1000 người chắc chắn sẽ thiệt mạng nếu họ không đáp ứng lời kêu gọi của tôi. Tôi chờ đợi tiếng gõ cửa, nhưng tôi đã kinh ngạc khi phụ tá của tôi là Trung tá Uchino bước vào:

"Thưa Đại tá, chỉ có 22 sĩ quan thực tập, và 15 thủy thủ đau yếu."

"Chỉ có bao nhiêu đó thôi sao, Uchino? Không còn ai khác muốn rời khỏi tàu?"

"Dạ không, thưa Đại tá. Mọi người khác đều bằng lòng thi hành nhiệm vụ."

Tôi bước ra sàn tàu, đến trước mặt 37 người đang chờ đợi, tôi nói với họ: "Các bạn được lệnh rời khỏi chiếc tàu này ngay bây giờ. Tôi biết rằng tất cả các bạn sẽ có một cơ hội tốt đẹp hơn để chiến đấu cho quê hương sau này."

Khi tôi quay lưng, một thanh niên nhảy ra khỏi hàng và la to: "Thưa Đại tá, xin Đại tá cho phép tôi ở lại. Tôi xét mình vô dụng, nhưng nếu Đại tá để tôi ở lại, bất kỳ việc gì tôi cũng làm hết."

Một gã khác bật khóc: "Tại sao lại dựa vào lý do chúng tôi là những người vừa mới ra khỏi Hàn Lâm Viện để loại bỏ chúng tôi? Chúng tôi có thể làm công việc vệ sinh không đến nỗi mà?"

Tôi than thầm khi một số khác làm dữ hơn. Để dập tắt sự ồn ào này, tôi hắng giọng, và nói: "Các bạn bước chân lên tàu này chỉ mới hai ngày. Ngay cả một vòng thực tập sơ khởi các bạn cũng chưa hoàn tất. Các bạn là những hạm trưởng tương lai, sinh mạng của các bạn không được phí phạm. Các bạn phải lên bờ, đó là lệnh của tôi."

Tôi dứt lời, quay lưng và rảo bước một vòng để xem qua các hoạt động hối hả trên chiếc Yahagi. Mọi người bận rộn kiểm soát vũ khí và dụng cụ. Khoảng 100 thủy thủ được trang bị lưỡi lê để sử dụng sau khi đổ bộ lên Okinawa.

Thiết giáp hạm Yamato 72.400 tấn tiến sát vào bờ để nhận nhiên liệu tại các ống dẫn dầu chuyển từ kho dầu Tokuyama. Các bồn chứa của kho dầu trung ương khổng lồ này bị hút cạn trong nháy mắt.

Trong lúc ba xà lan cập dọc theo chiếc Yahagi để cung cấp nước uống, tôi hỏi Uchino về tình trạng thực phẩm.

Hắn đáp: "Chúng ta đã nhận đầy đủ ở Kure, hiện thời thực phẩm trên tàu có thể dùng ít nhất 20 ngày cho 1000 thủy thủ đoàn."

Tôi hỏi: "Trong nước hiện đang lâm vào tình trạng thiếu thốn thực phẩm, tại sao chúng tôi không chuyển hết lên bờ, chỉ chừa lại 5 ngày? Đối với chuyến hải xuất chỉ một lượt đi của chúng ta, tôi nghĩ không cần phải mang theo một số lượng thực phẩm quá thừa thãi như vậy."

Uchino nói: "Tôi đồng ý với Đại tá! Để tôi yêu cầu các xà lan mang những vật dụng thừa thãi đi hết cho rồi."

Viên chỉ huy xà lan có vẻ ngơ ngác trước yêu cầu nhận khối hàng hóa khổng lồ của chúng tôi. Tôi và Uchino không thể giải thích rõ các lý do cho hắn hiểu, do đó chúng tôi phải tìm hết cách để nói và dỗ dành cho đến khi hắn đồng ý mới thôi. Khi đồ dư đã được chuyển đi hết, chiếc Yahagi đã đến đậu cạnh soái hạm Yamato để lấy nhiên liệu lần cuối cùng. Sau đó, chúng tôi chạy ra xa để buông neo. Ba Chỉ huy trưởng hải đội và 3 hạm trưởng được mời lên chiếc Yahagi để tham dự một buổi tiệc rượu vĩnh biệt.

Đề đốc Komura, chủ nhân của buổi tiệc này, không thể ngồi ủ rũ lâu hơn sau khi khối lượng sake vĩ đại được tiêu thụ. Mọi người cố vui vẻ. Những câu pha trò cũ kỹ nhàm chán vẫn gây được tiếng cười. Một số sĩ quan ca hát hoặc biểu diễn các trò kỹ xảo nhanh tay lẹ chân, hay dở gì cũng được tung hô vang dậy. Số lượng sake giảm sút nhanh, nhưng chưa có ai say khướt. Chất rượu không công hiệu. Ai ai cũng đều cố gắng chứng tỏ dũng khí của mình, nhưng mà có một cái gì không được tự nhiên trong giọng nói tiếng cười. Buổi họp mặt tan trước nửa đêm một vài giờ, bỏ lại 30 chai sake loại lớn không còn một giọt nào. Khi bước xuống cầu thang và leo lên ca nô đang chờ đợi để trở về tàu, mọi người đều tỏ ra tỉnh táo và vững vàng.

Khi khách đã đi hết, Trung tá Uchino mời Đề đốc Komura và tôi tham dự một bữa tiệc khác trong phòng ăn của chiếc Yahagi. Ở đây đã có khoảng 20 sĩ quan trung cấp tụ tập. Chúng tôi mời rượu, chúc tụng lẫn nhau, cất tiếng hát những bài hát của Hải quân và cười đùa với những sĩ quan trẻ này. Không giống như mấy viên sĩ quan hạm trưởng lớn tuổi, những người ở đây đều vui đùa buông thả.

Sau đó, Komura, Uchino và tôi bước sang phòng kế bên. Nơi đây cũng có một bữa tiệc cuối cùng dành cho các sĩ quan cấp thấp. Chúng tôi lại uống rượu và ca hát với họ. Các bữa tiệc vĩnh biệt trên soái hạm Yahagi chấm dứt vào lúc 23h30. Khi chỉ còn lại Komura, Uchino và tôi, tôi biết họ đã cùng chia sẻ mối ưu tư của tôi. Đó là vấn đề chiếc Yahagi sẽ tìm cách đối phó với nhiệm vụ trước mặt như thế nào. Về phần các sĩ quan thì có thể tạm yên, nhưng còn hàng binh sĩ thì sao? Chúng tôi quyết định đi một vòng qua các nơi nghỉ ngơi của họ. Trong những khoảng trống nhỏ hẹp trên chiếc tàu, hàng ngàn chiếc võng giăng mắc tứ phía. Ngoại trừ tiếng ngáy của những người nằm trên võng, không còn một tiếng động nào khác. Họ đều ngủ một cách bình thản.

Chúng tôi nhón gót trở lên sàn giữa, và Uchino lên tiếng: "Họ ngủ như những đứa trẻ. Sở dĩ họ bình tĩnh được như vậy là vì họ đã đặt sự tin tưởng vào Đại tá. Họ biết rằng Đại tá sẽ bảo vệ họ, dù cho nhiệm vụ hiểm nghèo như thế nào."

Niềm vui tràn ngập đồng thời khối lượng rượu quá mức trong thân thể tôi bắt đầu công phạt. Tôi cảm thấy mặt mày choáng váng, đôi chân lảo đảo, và cơn say ùa đến thình lình. Những giọt nước mắt trào ra va chảy xuống đôi má khi tôi bám vào một cây cột trên tàu và hét to: "Nhật Bản bất diệt, Yahagi bất diệt.."

Tiếng hét này là những gì cuối cùng mà tôi còn nhớ được của cái đêm khó quên đó. Uchino đỡ tôi vào phòng, và tôi rũ xuống trên giường.

Ngày hôm sau là thứ Bảy, 6 tháng 4, tôi thức dậy vào lúc 6h sáng. Thời tiết trong sáng. Tôi bước lên sàn tàu, hít một hơi thở thật dài. Tôi lắc mạnh đầu và ngạc nhiên thấy cơn say tối qua không để lại dấu vết nào hết.

Một cơn gió nhẹ lướt qua, sóng gợn lăn tăn trên mặt biển Nhật Bản êm đềm. Xa xa, dọc theo bờ biển, hoa anh đào ánh lên một màu rực rỡ, và sau quanh cảnh này là những rặng núi nổi bật dưới bầu trời sáng chói. Sự hy sinh của chúng tôi cho quê hương tuyệt mỹ này không có gì đáng tiếc.

Uchino bước lên chào tôi. Tôi chào lại anh ta và nói: "Một ngày đẹp trời, phải không Uchino?"

"Quá đẹp, thưa Đại tá. Một chiếc B-29 bay phía trên chúng ta vào lúc 1h khuya, và 2 chiếc khác vào lúc 4h sáng. Địch đang bám sát động tĩnh của chúng ta."

Tôi im lặng gật đầu. Việc này đúng với dự đoán của tôi. Sau một vài phút đứng nhìn về quê hương lần cuối, tôi quay vào phòng. Lúc 10h, một thủy thủ giúp việc bước vào phòng và nói: "Thưa Đại tá, 15 phút nữa tàu đưa thư cuối cùng sẽ rời khỏi đây để chạy đến Tokuyama. Đại tá có gì để gửi đi không?"

"Không, không có gì cả." Khi tên thủy thủ biến dạng, tôi lại cảm thấy cần phải gửi một bức thư vĩnh biệt cho vợ tôi. Chỉ cần một vài hàng, vì thời gian gấp rút quá rồi, tôi viết vội vã:

"Trong vòng hai năm qua, kích thước của Hạm Đội Hỗn Hợp đã rút nhỏ lại một cách không thể tưởng tượng được. Hiện tại, anh là hạm trưởng của tuần dương hạm duy nhất còn lại của hạm đội này - chiếc Yahagi 8.500 tấn. Anh sắp thi hành một nhiệm vụ đặc biệt ở Okinawa. Đó là trách nhiệm và cũng là một vinh dự to lớn được chỉ huy một chiếc tàu trong chuyến hải xuất này. Em chỉ cần hiểu rằng anh rất sung sướng và hãnh diện được có mặt trong dịp may này.

Vĩnh biệt!"

Tôi bỏ bức thư vào phong bì và dán lại, đoạn cầm chạy ra cầu thang, ngay lúc chiếc tàu đưa thư sắp sửa lên đường. Trở vào phòng, tâm hồn tôi cảm thấy thanh thản. Tôi nhìn 8 khu trục hạm đậu gần đó, nghĩ đến thời gian qua và những gì xảy ra quanh các chiến hạm này.

Yukikaze (Tuyết Phong) đã tham dự nhiều trận đánh dữ dội nhưng vẫn tồn tại. Chiếc tàu này cũng nổi tiếng không thua gì chiếc Shigure của tôi. Tôi nhớ lại bài hát đã từng quảng bá ở Truk và Rabaul trước đây:

Shigure của Sasebo, Yukikaze của Kure.

Hai khu trục hạm kiên cố và bất diệt.

Phép lạ trong mơ của muôn ngàn thủy thủ.

Luôn luôn trở về sau chiến trận vinh quang.

Bài hát đã từng là một thúc đẩy tinh thần mạnh mẽ đối với thủy thủ của tôi. Bây giờ Shigure đã ra đi vĩnh viễn, nhưng Yukikaze chắc chắn sẽ tiếp tục chứng tỏ phép lạ của nó.

Tôi nhìn sang khu trục hạm Suzutsuki (Lãnh Nguyệt), 3.470 tấn, và nghĩ đến thành tích đáng ngạc nhiên của tàu này. Hạ thủy vào cuối 1912, Suzutsuki đã từng bị một tàu ngầm địch phóng 2 quả ngư lôi vào ngày 16 tháng Giêng năm 1944, gần Shikoku, eo biển Bungo. Mũi và lái bị vỡ, nhưng "Lãnh Nguyệt" không chịu chìm và tìm mọi cách lết về Kure. Chín tháng sau, "Lãnh Nguyệt" lại lĩnh thêm một quả ngư lôi của địch ở trước mũi, cũng gần Shikoku, và giống như lần trước, chiếc tàu này vẫn ráng lết về Kure và được sửa chữa lại. "Việc gì đã xảy ra hai lần thì thế nào cũng xảy ra lần thứ ba," tôi nghĩ và thoáng mỉm cười, nhưng lần này không thể hiểu được số phận của Suzutsuki như thế nào.

Còn chiếc Hibiki, đáng lẽ nó phải có mặt trong lực lượng này, nhưng nó bị trúng một trái mìn nổi vào sáng sớm ngày 5 tháng 5, và đã khập khễnh về Kure. Tôi cảm tình đặc biệt với chiếc khu trục hạm nhỏ bé 1.980 tấn này. Sự vắng mặt của nó thật đáng tiếc. Khi nghe tai nạn xảy ra, tất cả chúng tôi đều tức bực. Một khu trục hạm Nhật bị hư hại vì trúng một quả mìn ngay trên biển Nhật Bản là một điều nhục nhã. Thời gian đó, các pháo đài bay B-29 của Hoa Kỳ đã rải rất nhiều mìn trên mặt biển này và ngay các thủy phận khác của Nhật Bản cũng không an toàn. Vấn đề này đã ảnh nhưởng rất nhiều trong quyết định tung tất cả chiến hạm còn lại của chúng tôi vào Okinawa.

Nhìn đến chiếc Hatsushimo, tôi không thể tin là nó sẽ tồn tại trong chuyến đi không có lượt về này. Sự thật lại trái ngược nhưng chiếc Hatsushimo trở về chỉ để nhận lãnh một quả ngư lôi trong biển Nhật Bản vào ngày 30 tháng 7 và trở thành chiến hạm thứ 129, cũng là khu trục hạm cuối cùng của Nhật, bị đánh chìm trong Thế Chiến II.

Lệnh nhổ neo ban ra vào lúc 16h. Hải xuất "tấn công đặc biệt" của 10 chiến hạm thuộc Hạm Đội Hỗn Hợp đã phát động. Tuần dương hạm Yahagi chạy dẫn đầu, kế đó là 3 khu trục hạm Isokaze, Hamakaze, Yukikaze và tiếp theo là thiết giáp hạm Yamato, các khu trục hạm Asashimo, Kasumi và Hatsushimo chạy nối đuôi phía sau.

Khi chúng tôi tiến với tốc độ 12 hải lý chậm chạp, nhằm để tránh mìn, tôi liếc qua đội hình khiêm nhường của lực lượng, tôi hiểu rằng đây quả thật là hải xuất cuối cùng của Hải quân Hoàng Gia, đồng thời tôi cảm thấy hãnh diện khi được dẫn đầu chuyến đi định mệnh này.

Hai giờ sau, chúng tôi tiến vào eo biển Bungo, nằm giữa Kyushu và Shikoku. Bên trái chúng tôi, bờ biển chạy dài ở phía Bắc Shikoku chỉ còn lờ mờ trước tầm mắt. Tôi đứng lặng yên để chào vĩnh biệt hòn đảo sinh quán này.

Qua khỏi eo biển nhỏ hẹp, hải vực đầy mìn đã nằm phía sau lưng, chúng tôi gia tăng tốc độ. Nhưng những rắc rối mới đã xuất hiện trước mắt. Hai chiếc B-29, bay cao khỏi tầm cao xạ, thả một loạt bom xuống ngay đoàn tàu của chúng tôi. Không một quả bom nào trúng mục tiêu, nhưng thách thức này đã báo trước hiểm nguy đang chờ đón chúng tôi. Tôi thấy bất an khi nghĩ đến 10 chiến hạm, chỉ một chiếc Yamato và 2 khu trục hạm là có trang bị radar phòng không. Radar của chiếc Yahagi chỉ hữu dụng trong việc chống lại các mục tiêu trên biển mà thôi.

Nhưng hiện thời không có thời gian nhiều để quan tâm đến những vấn đề như vậy. Mỗi chiến hạm đều tập họp thủy thủ trên sànn tàu. Trên chiếc Yahagi, giữa sàn tàu rộng bao la, 1000 thủy thủ đứng im phăng phắc để nghe tôi trình bày tóm lượt nhiệm vụ của chúng tôi và đọc một thông điệp đặc biệt của Đô đốc Soemu Toyoda gửi đến:

"Hải quân Hoàng Gia đang phát động một cuộc tổng phản công chống lại địch quân ở Okinawa, với sự phối hợp của tất cả lực lượng không hải bộ của Lục Quân, dồn hết nỗ lực vào cuộc hành quân này nhằm lật ngược tình thế của cuộc chiến.

"Hy vọng rằng mọi đơn vị và mọi binh sĩ đều nêu cao tinh thần chiến đấu và diệt địch, nhờ vậy, quốc gia của chúng ta mới mong trường tồn, vì vận mạng của quốc gia đều nằm trong cuộc hành quân này."

Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng chạy rì rầm của máy tàu, tiếng vỗ của sóng và tiếng phần phật của lá cờ Mặt trời mọc đang tung bay trên cột. Tôi tiếp tục:

"Các bạn vừa nghe thông điệp đặc biệt của Tổng Tư Lệnh. Tôi muốn thêm một đôi lời về nhiệm vụ tấn công đặc biệt của chúng ta."

"Như các bạn đã biết, hàng nhiều trăm chiến hữu của chúng ta đã thực hiện những chuyến bay không trở về để chống lại đối phương và hàng ngàn phi công tự nguyện thi hành cùng một nhiệm vụ này đang chờ đợi trên khắp các phi trường. Hàng nhiều trăm chiến hữu khác đã sẵn sàng trên các tàu ngầm tự sát. Hàng nhiều ngàn chiến hữu khác nữa sẽ lái tàu phóng lôi chứa chất nổ hoặc đích thân mang chất nổ lặn sâu xuống đáy biển để hủy diệt chiến hạm địch quân."

"Công việc của chúng ta, trong nhiệm vụ này, là chia sẻ sự dũng cảm của các chiến hữu đó. Nhiệm vụ của chúng ta có vẻ như là tự sát, và sự thật nó là như vậy. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh rằng đó không phải là mục đích của chúng ta. Mục đích của chúng ta là chiến thắng."

"Đừng ngần ngại trong việc bảo vệ mạng sống của mình. Chúng ta bắt buộc phải chống trả bất kỳ nỗ lực nào của địch quân nhằm ngăn trở nhiệm vụ của chúng ta, nhưng không vì vậy mà chúng ta xem thường mạng sống của mình."

"Chúng ta không phải là những con cừu non dùng để tế thần. Chúng ta là những con sư tử được thả ra đấu trường để nuốt tươi đấu thủ. Chúng ta không phàn nàn hối tiếc khi phải hy sinh cho quốc gia."

"Lập tức, khi chiếc tàu này bị hư hại nặng hay bị đánh chìm, các bạn đừng lưỡng lự trong việc tự cứu mình, bởi lẽ thua keo này sẽ bày keo khác. Tôi nhắc lại, nhiệm vụ giao cho các bạn không phải là tự sát, mà là đánh bại đối phương."

Thấp thoáng trong mây, ánh trăng xuân phủ một màu nhợt nhạt lên đám thính giả yên lặng và bất động như những pho tượng của tôi. Sự im lặng đầy căng thẳng này kéo dài cho đến khi một sĩ quan đứng ở hàng đầu lên tiếng:

"Thưa Đại tá, xin Đại tá cho phép tôi hỏi một câu?"

Tôi gật đầu đồng ý cho Đại úy Kenji Hatta hỏi. Anh ta tiếp tục: "Trong suốt 4 năm theo học ở Hàn Lâm Viện, chúng tôi được dạy dỗ rằng phải sống chết với chiếc tàu, có nghĩa là chúng tôi không được bỏ rơi chiếc tàu của chúng tôi trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đại tá có thể giải thích rõ hơn về những lưu ý của Đại tá, theo tôi, hình như phủ nhận những gì mà chúng tôi được dạy dỗ."

Câu hỏi này hiển nhiên nằm trong đầu của các sĩ quan hiện diện. Tôi đáp: "Câu hỏi rất có lý. Tôi sẽ cố gắng giải đáp. Nếu chiếc tàu sắp chìm các bạn phải lập tức bỏ rơi, không chần chờ một giây phút nào. Việc này có vẻ trái ngược với những gì các bạn đã từng được dạy dỗ trong quá khứ, nhưng tôi sẽ giải thích."

"Chúng ta đã tiến đến một điểm bối rối nhất trong cuộc chiến này. Vật lực của địch quân đã đành là ghê gớm nhưng điều quan tâm hơn hết của chúng ta là vấn đề thiếu nhân sự giỏi, bởi vì chúng ta đã thiệt mất quá nhiều ngoài mặt trận. Phải mất 5 năm mới đào tạo được một sĩ quan, do đó sự mất mát này không thể thay thế mau lẹ được. Nhiều thủy thủ rành nghề đã thiệt mạng vì họ xem rẻ mạng sống của họ. Nếu nhiệm vụ của chúng ta là chiến thắng cuộc chiến này, chúng ta phải kiên nhẫn."

"Trong thời phong kiến, mạng sống của con người bị phí phạm một cách vô ích, nhưng chúng ta là những con người của thế kỷ 20, chúng ta không thể làm như vậy. Giáo điều Bushido (tâm niệm của giới võ sĩ đạo) dạy rằng một Samurai phải sống một đời sống như thể hắn luôn luôn chuẩn bị để chết. Câu này thường bị lạm dụng và diễn giải sai lầm. Nó không có nghĩa là một Samurai phải tự sát, nếu hắn vấp phải những sai lầm không đáng kể. Đúng ra, nó có nghĩa là một Samurai đã chọn một đời sống như vậy, hắn sẽ không hối tiếc khi phải chết. Bushido chỉ kêu gọi tự sát khi chúng ta vấp phải những sai lầm to lớn. Cái chết đến với một người bất kỳ lúc nào, không cần biết đến người đó đã sống một đời sống ra sao. Cái chết chỉ khác nhau ở ý nghĩa mà thôi. Câu hỏi của anh được giải đáp như vậy có ổn chưa, Hatta?"

"Ổn lắm, thưa Đại tá!" Anh ta nói lớn. "Tôi đồng ý với Đại tá hoàn toàn. Cám ơn Đại tá rất nhiều." Và hắn ta đưa tay chào tôi.

Tôi lớn tiếng: "Tất cả chúng ta hãy tận lực để xoay dòng thủy triều của cuộc chiến."

Cuộc họp chấm dứt bằng những tiếng hoan hô Nhật Hoàng và Yahagi đồng loạt như sấm dậy của toàn thể thủy thủ đoàn.

Một cuộc thực tập tấn công cuối cùng đã diễn ra trên hải trình của chúng tôi. Soái hạm Yamato được xem là địch quân và tất cả các chiến hạm khác vừa chạy vừa tấn công vào mục tiêu này. Đây là lần đầu tiên chiếc Yahagi có cơ hội đạt đến tốc độ tối đa 35 hải lý. Nhưng thời gian thực tập này rất ngắn ngủi, chúng tôi phải chạy về đội hình để tiến về phía Nam.

Truyền tin của chúng tôi đã bắt được công điện chuyển đi từ một chiếc tàu ngầm địch quanh quẩn đâu đó. Yamato ra lệnh quay về hướng phải để tiến sát vào Kyushu nương tựa bờ biển phía Đông của hòn đảo này. Trăng lên, đại dương đen thẫm, và thời tiết đột nhiên trở xấu. Các quan sát viên mở hết mắt nhưng cũng không nhìn thấy gì cả. Mọi người căng thẳng, nhưng tàu ngầm địch không tấn công.

Tôi không biết vào ngày hôm đó khu trục hạm cũ của tôi là chiếc Amatsukaze bị phi cơ địch oanh tạc tan tành ở Đông Hải của Trung Hoa, thảm họa nhỏ này mở màn cho thảm họa lớn hơn giáng xuống hạm đội của chúng tôi. Nhưng cho dù biết được tin tức không tốt lành của chiếc Amatsukaze, tôi cũng không cho đây là một điềm dữ báo trước. Bởi vì, như tôi đã nói với thủy thủ đoàn của chiếc Yahagi, tôi vẫn luôn luôn nghĩ của hành quân hiện tại sẽ thành công. Trong đầu tôi cũng không có một nơi nào dành cho sự chiến bại.

Một hàng dọc, chạy theo hình chữ chi, với tốc độ 20 hải lý, hạm đội của chúng tôi tiến dọc theo bờ biển phía Nam Kyushu. Lúc 7h sáng ngày 7 tháng 4, một lần nữa, chúng tôi xoay sang hướng 210 độ, giả vờ tiến tới Sasebo, nằm ở phía Tây Nam Kyushu. Trên đoạn hải trình nghi binh này, 10 chiến hạm từ từ tạo một đội hình vòng tròn bao quanh soái hạm Yamato, với một đường bán kính 2.000m.

Vị trí của chiếc Yahagi ở ngay trước mũi Yamato. Tính theo chiều kim đồng hồ, (tức bên trái Yahagi) ví trí của 8 khu trục hạm nằm trong phần vòng tròn còn lại như sau: Asashimo ở hướng 7 phút rưỡi, Kasumi 15 phút, Fuyutsuki 21 phút, Hatsushimo 27 phút, Yukikaze 39 phút, Hamakaze 45 phút và Isokaze ở hướng 52 phút rưỡi.

Ngay sau khi vòng tròn này lập xong, các chiến hạm gia tăng tốc độ lên 24 hải lý và chạy theo hình chữ chi trở lại. Nét đầu tiên của chữ chi xoay hướng tiến của đoàn tàu 45 độ, Asashimo trở thành chiếc tàu dẫn đầu. Nét thứ hai mang chiếc Isokaze về phía trước, và cứ tiếp tục như vậy. Đội hình di chuyển này đòi hỏi sự điều động phải tuyệt đối chuẩn xác, rất hữu hiệu trong việc chống lại các cuộc tấn công của tàu ngầm, nhưng lại khó đương đầu với phi cơ nhanh nhẹn, có thể nhắm vào bất kỳ góc độ tấn công nào cũng được.

Đội hình và lối chạy vừa nói đã được quyết định trong một cuộc họp cuối cùng của Ito trên soái hạm Yamato. Quyết định này sẽ sớm chứng tỏ sự sai lầm của nó.

Thời tiết tốt đẹp suốt ngày hôm đó và cho đến sớm hôm sau thì hoàn toàn thay đổi. Mây che kín bầu trời và như bay là đà trên mặt biển.

Không một tia nắng nào xuyên nổi qua những lớp mây dày đặc này. Mưa không biết đến lúc nào. Một ngày đáng lo ngại.

Bờ biển Kyushu biến mất nhanh chóng khi chúng tôi xoay sang hướng Nam để chạy ra Đông Hải. Từ khi khởi hành, lần đầu tiên tôi cảm thấy bất an. Thời tiết hiện tại đầy bất lợi cho một cuộc đi biển. Giữa ban ngày, tầm nhìn giới hạn chỉ 20.000m. Được trang bị radar tối tân, với khoảng cách quan sát này, phần lợi sẽ nghiêng hẳn về phía địch quân. Một cơn mưa bão mù mịt sẽ che chở chúng tôi rất nhiều, nhưng đó chỉ là hy vọng hão huyền mà thôi. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi không chọn một ngày thời tiết thuận lợi hơn cho nhiệm vụ tuyệt vọng này.

Các quan sát viên của Yahagi hớn hở báo tin 20 chiến đấu cơ Zero bay đến từ hướng Bắc. Chúng lướt ngang thật thấp trên đầu chúng tôi và quay lại một lần nữa, lần này ẩn hiện trong những lớp mây dày đặc. Uchino hỏi có phải những chiến đấu cơ này đến để bao che cho lực lượng của chúng tôi hay không?

Komura bình thản đáp: "không, Uchino, mấy chiếc phi cơ này không dính dáng gì đến lực lượng chúng ta. Chúng ta không được bao che trên không. Đây là một phi xuất huấn luyện thường lệ. Có lẽ Kusaka ra lệnh cho mấy tên phi công non nớt này bay trên đầu chúng ta để nói lời vĩnh biệt."

Sự im lặng kéo dài trên đài chỉ huy của tuần dương hạm Yahagi cho đến khi Yamato báo tin một trong hai chiếc phi cơ còn lại trên soái hạm này sẽ cất cánh bay về căn cứ không quân Ibusuki, và đồng thời ra lệnh cho Yahagi gửi đi một trong hai chiếc phi cơ của mình. Yamato thường mang theo 7 phi cơ, nhưng 5 chiếc đã được bỏ lại ở Kure. Chiếc thứ sáu vừa cho cất cánh, cùng lúc với chiếc của Yahagi, bởi lẽ Ito không muốn chúng bị phí phạm vô ích trong chuyến đi cầm chắc cái chết trong tay của chúng tôi.

Trước khi cất cánh, viên phi công của Yahagi đã đến trình diện tôi . Anh đứng nghiêm và nói: "Tuân lệnh, tôi sẽ về Ibusuki ngay bây giờ, nhưng ở đó tôi sẽ tình nguyện thực hiện một phi vụ tự sát và sẽ sớm gặp lại Đại tá."

Khi đã ở trên không, chiếc phi cơ bay tuần trên đầu chúng tôi ba vòng và sau đó trực chỉ Kyushu.

Trong khi Yamato và Yahagi chuẩn bị cho cất cánh hai chiếc phi cơ cuối cùng, chúng tôi phát hiện hai phi cơ không nhận rõ lai lịch ở phía Bắc, nên công việc này được đình chỉ. Các trinh sát cơ của chúng tôi không thể nào chống lại các chiến đấu cơ địch.

Uchino càu nhàu: "Tại sao các chiến đấu cơ hồi nãy của chúng ta không được giữ lại để chống với phi cơ địch?"

Komura đáp một cách điềm tĩnh: "Hãy bình tĩnh, Uchino, anh cũng biết mấy viên phi công non nớt của chúng ta làm sao chống nổi với mấy tên phi công kinh nghiệm của đối phương."

Mây sà thấp hơn, thời tiết càng tồi tệ, và vào lúc 8h, mưa phùn bắt đầu rơi xuống. Các chiến hạm của chúng tôi, cũng trong đội hình vòng tròn, vẫn tiến thẳng về hướng định mệnh, dưới sự dòm ngó liên tục của các phi cơ quan sát địch. Trong lúc đó, các chiến đấu cơ Nhật vẫn bình thản tiếp tục nhiệm vụ huấn luyện. Tôi đã gặp nhiều loại hành quân, nhưng chưa có loại nào như vậy. Đây là một cuộc hành quân kỳ quái.

Lúc 9h, khu trục hạm Asashimo, chạy phía phải Yahagi, bỗng nhiên giảm tốc độ. Xuyên qua ống dòm, tôi nhận thấy rõ khuôn mặt ông bạn Sugihara của tôi , hạm trưởng của chiếc Asashimo đang đứng trên đài chỉ chuy, đang lộ vẻ bối rối. Tín hiệu bằng cờ của chiếc tàu này cho biết nó bị trục trặc máy móc. Nhìn Asashimo rơi dần lại phía sau, tách rời khỏi đội hình, tôi lo lắng, nên gửi ngay một thông điệp yêu cầu cho biết tin tức rõ hơn.

Asashimo đáp: "Đang nỗ lực sửa chữa. Hy vọng bắt kịp đồng đội sớm." Nhưng chiếc tàu càng lúc càng rơi lại phía sau, vào lúc 10h thì không còn thấy tăm dạng đâu nữa. Komura ra lệnh cho khu trục hạm Kasumi điền vào khoảng trống và bốn khu trục hạm kế phía sau đôn lên. Việc điều chỉnh này khá dễ dàng cho dù đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy theo hình chữ chi.

Nhưng đối với tôi không dễ dàng, khi tôi biết rằng vị trí của chiếc Asashimo, yểm trợ cạnh sườn phải của tôi, hiện thời được một chiếc tàu nhỏ nhất trong lực lượng thay thế. Đó là một điều bất lợi.

Truyền tin của chúng tôi vừa chặn bắt thêm được một công điện của địch quân, lần này do phi cơ bay rất gần đoàn tàu của chúng tôi chuyển đi. Việc này chứng tỏ hướng tiến giả vờ của chúng tôi không ích lợi gì cả. Địch quân đã biết người biết ta rồi.

Lúc ấy, có 3 tàu buôn 2.000 tấn lướt qua, tạo một không khí vui vẻ phần nào cho chúng tôi . Có nhiều thủy thủ nói rằng họ không ngờ Nhật Bản còn có những tàu buôn to lớn đến như vậy.

Vào lúc 11h30, một thủy phi cơ được phát hiện cách 20.000 ở phía Đông. Chiếc phi cơ bay ngoài tầm súng, xoay vòng tròn quanh đoàn tàu, và gửi đi báo cáo chi tiết về hoạt động của chúng tôi. Điều đáng tức giận là chúng tôi không có một chiến đấu cơ nào để cho cất cánh và bắn kẻ đang đe dọa đến sự an toàn của chúng tôi. Trong khi tôi đang nhìn chiếc thủy phi cơ bay ngoài tầm cao xạ một cách thèm thuồng, phòng truyền tin báo cáo: "Căn cứ quan sát ở Omami Oshima cho biết 150 phi cơ địch đang hướng về phía Bắc."

"Chúng đến đây rồi." Komura nói với một nụ cười méo mó.......

Omami Oshima là hòn đảo nằm giữa Kyushu và Okinawa. Không cần nhìn hải đồ, mọi sĩ quan trên đài chỉ huy đều biết rằng các phi cơ này sẽ đến trên đầu chúng tôi trong vòng một giờ nữa.

Yamato ra lệnh gia tăng khoảng cách các chiến hạm lên 5.000m, một khoảng cách căn bản để chống không kích. Yahagi và 7 khu trục hạm khác gia tăng tốc lực, và các xạ thủ vào vị trí chiến đấu.

Sáu khẩu đại pháo 150mm, 4 khẩu phòng không 80mm và 40 khẩu đại liên của Yahagi đều chĩa thẳng lên trời. Trưa đến, không có một dấu hiệu nào cho thấy sắp xảy ra một cuộc tấn công, đầu bếp mang bữa ăn trưa đến các vị trí chiến đấu. Mọi người ăn uống vội vã. Tôi rất hài lòng khi nhìn thấy sự chuẩn bị chu đáo như vậy. Sự lo lắng của tôi biến mất và tôi biết chiếc Yahagi sẽ ghi điểm thắng lợi đầu tiên.

Vào lúc 12h20, radar của Yamato phát hiện "rất nhiều phi cơ địch còn cách 30.000m ở hướng 35 độ mạn trái," và ra lệnh cho tất cả các chiến hạm hướng về phía trước với tốc độ tối đa và chuẩn bị chống phi cơ.

Mệnh lệnh được thi hành chu đáo. Tất cả chiến hạm đều đạt tốc độ gần 30 hải lý. Với Komura và các sĩ quan khác, tôi leo lên đài chỉ huy tác xạ nằm phía sau đài chỉ huy chính. Những cuộn sóng khổng lồ nổi lên sau khi soái hạm Yamato lướt ào ạt trên mặt biển với tốc lực tối đa. Chiếc thiết giáp hạm 72.000 tấn này đã thu hút muôn ngàn cặp mắt đổ dồn vào nó.

Yamato đã trở thành niềm tin thần thánh với toàn thể binh chủng Hải quân. Niềm tin này càng dâng cao khi Yamato trở về an toàn sau trận đánh ở Vịnh Leyte mà không bị một vết sướt nào, trong khi chiếc thiết giáp hạm cùng lớp Musashi bị đánh chìm. Đề đốc Nobuei Morishita, từng chỉ huy Yamato trong trận Leyte, hiện là tham mưu trưởng của Ito, do đó theo tôi nghĩ, chắc chắn ông sẽ mang đến may mắn cho chiếc tàu này một lần nữa. Nhưng ai có thể tưởng tượng chiếc thiết giáp hạm vĩ đại này sẽ bị đánh chìm trong vòng hai giờ nữa?

Ngay cả đứng trên đài chỉ huy tác xạ, chúng tôi vẫn không thể nhận thấy chiếc phi cơ nào bay đến. Mây sà thấp trên mặt biển ở cao độ 1500m, và một cơn mưa luồng thình lình trút xuống bao phủ mọi cảnh vật chung quanh chúng tôi. Thời tiết tồi tệ như thế là cùng. Hiện thời phi cơ địch chắc chắn đã ở trên đầu, nhưng vì mây che phủ nên chúng tôi không nhìn thấy. Mặc dù hỏa lực của Yahagi được loại radar mới hướng dẫn, nhưng chỉ hữu hiệu với các mục tiêu trên mặt biển mà bất lực trước các mục tiêu trên không. Nếu một phi cơ địch bất thần chui ra khỏi các đám mây, tôi biết rằng mọi loại súng thông thường của chúng tôi bó tay, ngay cả thời gian để nhắm vào mục tiêu cũng không có đủ.

Một quan sát viên la lớn: "Hai phi cơ địch ở trước mũi tàu, chếch về mạn trái."

Tôi nhìn lên trời. Không phải hai mà là hai mươi, bốn mươi và có thể nhiều phi cơ hơn nữa chui ra khỏi đám mây. Khi tôi ra lệnh khai hỏa, đồng hồ chỉ đúng 12h32.

Thay vì chúi xuống tấn công chúng tôi ngay lập tức, các phi cơ bay vòng tròn theo chiều kim đồng hồ, ngay phía dưới những cụm mây. Sau đó, một trong ba nhóm phi cơ này tách ra, bay vòng tròn ngược lại với chiều kim đồng hồ. Diễn biến lạ lùng này đã gây rối loạn cho chúng tôi. Các xạ thủ đã cố gắng điều chỉnh tầm súng, nhưng hình như không thể nào khai hỏa kịp.

Địch quân chắc hẳn đang ngắm nghía nạn nhân của họ để lựa chọn tấn công vào các mục tiêu đặc biệt. Một vài chiến hạm của chúng tôi khai hỏa lẻ tẻ khi các phi cơ vừa xuất hiện và sau đó bắt đầu khai hỏa toàn diện. Chín đại pháo 460mm bắn một vài trái đạn loại số 3 - tức loại đạn nổ trên không - nhưng còn cách mục tiêu quá xa. Thình lình, tất cả các phi cơ đảo cánh và chúi xuống như sấm sét, nhắm vào các mục tiêu đã được chọn lựa, trong lúc đa số súng trên các chiến hạm Nhật vẫn còn loay hoay định hướng.

Nhóm phi cơ đầu tiên chúi xuống tuần dương hạm Yahagi là 4 oanh tạc cơ Avenger (TBM). Tất cả mọi loại súng trên tàu đều khai hỏa, nhưng chỉ nhắm đại khái, cùng lúc với loạt bom được thả xuống hướng vào mạn trái của chiếc tàu. Tôi ra lệnh bẻ hết tay lái về phía phải. Chiếc Yahagi đáp ứng lệnh này một cách hoàn mỹ. Mấy quả bom rơi xuống cách tàu 500m, tạo ra những cột nước thật cao.

Nhóm phi cơ thứ hai đâm đầu thật sát vào chiếcYahagi là các chiến đấu cơ F-6F Hellcat. Tôi nhìn thấy cả gương mặt của một viên phi công Hoa Kỳ khi hắn ta cho phi cơ lên cao trở lại, vượt ngang qua phía trước chúng tôi. Đạn đại liên bắn như vãi trấu, chạm trổ dọc theo thân chiếc tàu, nhưng rất may là không có thủy thủ nào trúng đạn. Các xạ thủ vẫn giữ vững vị trí và bắn không ngừng nghỉ, nhưng đều phí công vô ích.

Tôi liếc mắt một vòng, nhận thấy tất cả các chiến hạm đều chạy với tốc lực tối đa, gây những làn sóng trắng xóa trên đại dương đồng thời mọi loại hỏa lực đều lên tiếng. Nhìn xuống mặt nước, tôi phát hiện nhiều làn bọt sủi lên một cách bất thường. Tôi hiểu ngay đó là ngư lôi do phi cơ địch thả xuống đang lướt đến tàu chúng tôi.

"Xoay phải lập tức! Tốc độ tối đa!" Tiếng hét của tôi cùng lúc với hàng chục chiếc phi cơ đang chúi đầu xuống. Những quả bom màu đen tạo nên những tháp nước màu trắng vượt cao lên không có cả trăm mét. Sau loạt bom, các chiến đấu cơ quay lại và sà thấp xuống quạt đại liên vào chúng tôi. Mọi loại súng trên Yahagi giăng một tấm màn lửa trên không. Cả hai phía vẫn chưa ai ghi được điểm.

Một quan sát viên la chói lói: "Thêm nhiều oanh tạc cơ mới đến." Tôi hét: "Bẻ lái sang phải lập tức!" Xoay gấp rút, chiếc tuần dương hạm 8.500 tấn hơi lảo đảo, khiến cho hướng nhắm của tất cả súng trên tàu đều sai lạc, nhưng phi cơ địch cũng phải điều chỉnh lại góc độ oanh tạc.

Khi nhóm phi cơ thứ tư đã đến trên đầu chúng tôi, phòng truyền tin báo cho biết chiếc Asashimo đang bị tấn công. Không có thời gian để nghĩ đến chiếc tàu hỏng máy đơn độc này, chúng tôi còn mắc bận lo bảo vệ lấy thân. Cho Yahagi lướt xuyên qua tấm màn lửa bom đạn, và một lần nữa, chúng tôi thoát khỏi. Bây giờ tôi mới nghĩ đến chiếc Asashimo. Với máy móc trục trặc, chiếc tàu này khó có thể tồn tại trước cuộc tấn công. Đối phương đã dồn hết nỗ lực để đánh lực lượng chính của chúng tôi trong khi vẫn còn thừa một số phi cơ để truy đuổi một kẻ chạy lang thang ở khoảng cách xa hơn 20 dặm, đó là một việc kỳ dị không thể tưởng.

Thiết giáp hạm Yamato vẫn lao hết tốc lực về phía trước. Các khu trục hạm chạy quanh

quẩn đây đó, thoạt ẩn thoạt hiện trong làn sóng bủa cao trên mặt đại dương, được tô điểm thêm bằng những chiếc nấm khổng lồ do những quả bom tạo nên. Nhiều quả bom lạc xa, gần trúng hoặc trúng mục tiêu, khiến quanh cảnh thay đổi liền liền, từ ngoạn mục sang hồi hộp và đến khủng khiếp.

Nhiều phi cơ khác lại ùa đến quyết nhận chìm chiếc Yahagi, nhưng nó vẫn thoát khỏi. Điều này khiến tôi yên tâm, vì nhận thấy lối chạy uốn éo và xoay trở nhanh chóng không ngờ lại tránh né phi cơ địch một cách hữu hiệu. Nếu có đầy đủ thời gian để cân nhắc, tôi sẽ không bao giờ cho tàu chạy theo lối này.

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển....

Một làn nước trắng xóa chĩa thẳng vào chiếc tàu: ngư lôi của địch quân. Tôi ra lệnh bẻ lái, nhìn xuống, và thở hổn hển. Ba quả ngư lôi chỉ chạy các chiếc tàu chỉ vài mươi mét. Đó là ngư lôi do các oanh tạc cơ địch vừa thả xuống. Không theo dõi những kẻ tấn công đang vượt qua như sấm động trên đầu, tôi nhìn chăm chăm theo những làn nước sủi bọt. Một lần nữa, chiếc Yahagi vẫn đứng vững trong cơn bão tố. Nhưng ngay lúc đó, chiếc tàu bỗng rùng mình. Một quả ngư lôi trúng ở mạn trái, chính giữa thân tàu, ngay dưới mực nước.

Và một biến cố kế tiếp mà ngày này tôi không sao tin được nó có thể xảy ra. Chiếc Yahagi chạy một cách lừ đừ, chậm chạp đâu khoảng vài phút rồi khựng lại thình lình và dừng hẳn. Một chiến hạm to lớn như thế này mà bỗng nhiên chết đứng chỉ vì một quả ngư lôi duy nhất chạm phải là điều không thể nào chấp nhận được. Nỗi ngẩn ngơ của tôi càng gia tăng khi tôi nhìn xuống đồng hồ : 12h46. Nghĩa là chúng tôi mới chiến đấu có được 12 phút.

Tôi yêu cầu phòng máy báo cáo tình trạng hư hại. Không ai trả lời. Tôi gọi lại, nhưng vẫn như lần trước. Bây giờ tôi hiểu ngay là quả ngư lôi đã trúng ngay phòng máy. Tôi than trời, nhưng đối phương không cho phép than thở. Sáu chiếc phi cơ khác chúi mũi xuống để thả bom. Tôi nhìn thấy rõ ràng một quả bom trúng ngay sàn giữa và nổ tung, đốn ngã ít nhất 10 thủy thủ, và có sáu cái xác bay tung lên không. Tiếp theo một tiếng nổ ở phía sau lái khiến toàn thân chiếc Yahagi rung chuyển dữ dội.

Một thoáng, tôi nhớ lại hình ảnh chìm dần của chiếc tàu chuyển vận Tokyo Maru, nạn nhân của một quả ngư lôi duy nhất trúng ngay buồng máy. Cùng lúc, tôi nhớ lại hình ảnh hai tuần dương hạm khổng lồ Repulse và Prince of Wales của Anh quốc, cả hai đã bị đánh chìm bởi một số lượng phi cơ Nhật Bản nhỏ hơn số lượng đang đối đầu với chúng tôi rất nhiều. Niềm tin từ lâu trong lòng tôi bỗng tiêu tan.

Một thủy thủ chạy việc hối hả leo lên tháp báo cáo: "Ngư lôi phá vỡ ngay buồng máy và nước đã tràn vào đầy cả rồi!"

Tôi hỏi: "Các vách ngăn để nước khỏi tràn qua các buồng khác thì sao?"

"Các thủy thủ đang làm công việc này, thưa Đại tá."

Chiếc tàu nghiêng về mạn phải ở một mức độ đáng ngại. Tôi nghe Komura nói: "Hamakaze tiêu rồi." Tôi nhìn sang phía trái, về phía Komura đang nhìn trừng trừng, tôi chỉ kịp thấy cái bụng sơn màu đỏ chói của chiếc Hamakaze trước khi nó biến mất giữa những lượn sóng.

Chúng tôi chưa kịp đắp điếm vết thương thì một cuộc tấn công mới lại ùa đến. Uchino chạy xuống cầu thang để ra lệnh cho các xạ thủ. Đó là lần cuối cùng tôi thấy viên phụ tá xứng đáng của tôi. Tất cả mọi loại súng đều khai hỏa, và lần đầu tiên trong trận đánh này, Yahagi đã bắn hạ hai phi cơ địch.

Chiếc tàu, đã chết đứng trên mặt nước, nhận lãnh bom đạn của hết loạt phi cơ này đến loạt phi cơ khác. Phi công địch can trường đâm thẳng vào hàng rào hỏa lực của chúng tôi. Đuôi chiếc tàu lại trúng bom và rung chuyển dữ dội. Tôi nhìn ngoái lại, và nhận thấy ba xác người tung lên cao có gần 20m. Cùng lúc, Yahagi lĩnh thêm một quả ngư lôi vào trước mũi nữa.

Chiếc tàu rung động như một tờ giấy căng trước gió. Bám chặt vào chấn song của pháo tháp chỉ huy, tôi thấy rõ lỗ thủng vĩ đại ở trước mũi Yahagi do quả ngư lôi gây ra. Độ nghiêng của chúng tôi gia tăng nhanh chóng. Một nhóm oanh tạc cơ và chiến đấu cơ khác lại bay đến, và tất cả đều dồn hết hỏa lực vào chiếc mũi đã bị vỡ tan của chiếc Yahagi. Những tràng đại liên đinh tai nhức óc của phi cơ địch được chấm câu bằng tiếng nổ dữ dội của một quả bom trúng thẳng vào pháo tháp số 1, thổi bay toàn thể pháo thủ và nghiền nát những người đứng ở sàn giữa. Một điều lạ lùng là không có quả bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc tháp chỉ huy tác xạ. Nhưng tất cả đinh tán đều long ra hết, khiến hai nơi đây rung động liên hồi, không biết sụp xuống lúc nào. Sườn của pháo tháp số 1 vẫn còn nguyên nhưng áp lực của quả bom 250 cân Anh thổi bay tất cả vách thép dày bao chung quanh. Khói màu vàng cay nồng len lỏi qua các lổ thủng bay lên. Giữa cảnh tàn phá, tôi sửng sốt khi nghe một tiếng la to của sĩ quan pháo thuật, Đại úy Hatta, ra lệnh tháo nước vào kho chứa đạn của pháo tháp số 1 . Khói màu vàng tan dần vì lửa bị dập tắt. Nếu kho đạn này nổ, chiếc tàu sẽ chìm nhanh chóng, những kẻ còn lại không mong gì sống sót. Nhưng kho chứa đạn đầy nước sẽ khiến cho độ nghiêng của chiếc tàu càng trầm trọng thêm.

Phi cơ địch vẫn tấn công không ngừng nghỉ, và nhóm kế tiếp đã oanh tạc trúng đích nhiều đến nổi tôi không thể nào đếm xuể. Khi những tiếng nổ chấm dứt, tôi rùng mình khi nhận thấy nhiều ụ súng và các xạ thủ đều biến mất. Một viên chỉ huy có thể chịu đựng bao lâu trước cảnh thuộc cấp của mình lần lượt bị xé tan thành từng mảnh? Vẫn chưa trái bom nào trúng đài chỉ huy chính hoặc đài chỉ huy tác xạ.

Tôi bừng tỉnh khi phòng ngư lôi gọi tên tôi. Đó là Thiếu Tá Takeshi Kameyama, yêu cầu cho phép phóng tất cả ngư lôi trong ống. Ông ta nói: "Nếu các quả ngư lôi này nổ, chiếc tàu sẽ bị phá tung."

Tôi chấp thuận. Lập tức , một loạt 16 quả ngư lôi được phóng ra. Tôi tưởng tượng đến cảnh hư hại mà những quả ngư lôi này có thể gây ra cho lực lượng địch quân. Đó là tưởng tượng ở giây phút cuối cùng của định mệnh.

Hành động của Thiếu tá Kameyama không sớm quá một giây. Quả ngư lôi cuối cùng vừa thoát ra mặt nước, nhiều quả bom rơi xuống phá tung các ống phóng và đốn ngã tháp sau của Yahagi. Vẫn an toàn trên đài chỉ huy tác xạ, tôi nhìn về phía cuối tàu và nhận thấy chiếc máy phóng phi cơ của chúng tôi đã tan ra thành từng mảnh. Chiếc phi cơ duy nhất, một phút trước đây vẫn còn toàn vẹn, hiện tại là một đống sắt vụn. Một vài khẩu súng vẫn còn lên tiếng và nhiều thủy thủ mình mẩy đẫm máu vẫn chưa chịu rời bỏ vị trí chiến đấu của họ.

Hàng loạt oanh tạc cơ Avenger tiếp tục ùa đến như những làn sóng, và hàng loạt ngư lôi được thả xuống. Tôi không thể nào biết rõ bao nhiêu quả đã trúng vào chiếc tàu. Tiếng nổ hàng loạt khiến cho con tàu đang hấp hối của chúng tôi rung lên từng cơn. Cuối cùng tiếng nổ chấm dứt, nhưng độ nghiêng vẫn tiếp tục gia tăng trong lúc sóng biển bắt đầu tẩy sạch những vũng máu trên sàn tàu và những xác chết lần lượt lăn long lóc xuống mặt biển.

Và bây giờ làn sóng cuối cùng của khoảng 100 phi cơ địch đã thi hành xong nhiệm vụ và bay đi. Tôi nhìn quanh. Tất cả pháo tháp đều bị thiêu rụi. Chiếc tuần dương hạm đầy hãnh diện của tôi bây giờ chỉ còn là một đống sắt nổi trên mặt nước, nhưng lạ lùng thay, tôi nghĩ, không hề có một đốm lửa nào. Nhìn cảnh tượng kỳ quái này, tôi chực nhớ lại hình ảnh tuần dương hạm San Francisco của Hoa Kỳ, chiếc tàu giống như ma quỉ đó đã khiến cho chiếc Amatsukaze suýt tan tành trong đêm tối bưng ở gần Santa Cruz. Hiện thời Yahagi cũng là một chiếc tàu ma. Không vật gì còn động đậy trên sàn tàu. Đa số thủy thủ đoàn của nó bị tiêu diệt.

Nhưng trên đài chỉ huy mọi người đều lành lặn. Đề đốc Komura nói: "Hara, tôi đề nghị tốt hơn là chúng ta nên rời khỏi đây ngay bây giờ, nếu không tôi sợ sẽ lỡ dịp. 250 phi cơ địch hình như đã làm xong nhiệm vụ của chúng."

Tôi không biết nói sao. Tôi cúi đầu và sau đó ấp úng nói: "Thật đáng tiếc, thưa Đề đốc."

"Chúng ta hãy chuyển soái kỳ sang một trong những khu trục hạm, và cố gắng tiến đến mục tiêu của chúng ta ở Okinawa. Anh nghĩ thế nào?"

Tôi nghĩ thế nào? Để mất chiếc tàu và thủy thủ đoàn. Gánh nặng này đang oằn xuống vai tôi.

"Hãy nhìn kìa, Hara, khu trục hạm Isokaze vẫn còn hoạt động!" Thật là đáng ngạc nhiên khi tôi nhận thấy Isokaze vẫn còn nằm đúng vị trí của đội hình vòng tròn trước đây, cách phía trái chúng tôi khoảng 3.000m. Chiếc tàu hình như không bị hư hại gì cả và đang hướng mũi chạy về phía chúng tôi. Đó là một vài giây phấn khởi được tìm thấy trong trận đánh.

"Phải rồi, thưa Đề đốc, chúng ta đánh bỏ rơi Yahagi." Và tôi gọi: "Nhân viên truyền tin, yêu cầu Isokaze tiếp cứu khẩn cấp!"

Sau lệnh của tôi, đèn hiệu cực mạnh được chớp lên và đồng thời một nhân viên truyền tin cũng sử dụng tín hiệu bằng cờ. Chúng tôi nói truyền miệng cho các thủy thủ còn sống sót của Yahagi chuẩn bị bỏ tàu, Isokaze đáp lại tín hiệu của chúng tôi, và xả hết tốc lực chạy về phía Yahagi. Còn cách khoảng 1000m, Isokaze giảm tốc lực và từ từ tiến sát vào chúng tôi. Tôi ra lệnh bỏ tàu.

Nhưng một quan sát viên la lên: "Phi cơ địch." Một phút sau, một làn sóng oanh tạc cơ và chiến đấu cơ ùa đến trên đầu chúng tôi. Chiếc Isokaze chỉ còn cách chiếc Yahagi 200m. Nhiều phi cơ đang tấn công soái hạm Yamato đã tách ra một số để đuổi theo chiếc khu trục hạm di chuyển chậm chạp này. Isokaze đã xả hết tốc lực để lẩn tránh, nhưng khi phi cơ địch xuất hiện mọi lúc mọi nơi, cùng với bom đạn rơi xuống như mưa. Tiếng nổ này đến tiếng nổ khác, cho đến khi chiếc Isokaze biến mất trong một cột khói màu đen.

Yahagi đã gây họa cho chiếc khu trục hạm của mình. Trường hợp vừa xảy ra không khác với trường hợp chiếc Shigure của tôi khi tuần dương hạm Sendai bị tấn công ở Vịnh Empress Augusta trước đây, nhưng lúc ấy tôi đã từ chối lời yêu cầu tiếp cứu của chiếc tàu này.

Sau khi thanh toán xong Isokaze, phi cơ địch quay lại Yahagi, những gì còn lại trên tuần dương hạm này lại bị đạn đại liên cày thêm một lượt nữa. Tôi chỉ biết bám vào song sắt của đài chỉ huy một cách tuyệt vọng.

Khi cơn quằn quại của Yahagi hạ xuống, tôi ngẩng đầu lên, và kinh ngạc nhận thấy chiếc Isokaze nhô ra khỏi bức tường khói dày đặc bao quanh. Mang thương tích, nhưng vẫn còn sống, chiếc tàu đang cố gắng tháo chạy. Phi cơ địch quay lại, chúi mũi xuống, và một lần nữa, chiếc tàu biến mất trong màn khói.

Sau khi đảo cánh rời khỏi khu trục hạm Isokaze, mỗi phi cơ cảm thấy cần phải chào từ giã chiếc tuần dương hạm đang hấp hối của chúng tôi. Chúng tôi không còn biết làm gì khác hơn là bám vào song sắt để chịu trận. Nhưng hiện thời bom đạn không làm chúng tôi sợ hãi bằng những cơn giật nẩy mình trước khi tắt thở của chiếc tàu.

Trung úy Yukio Matsuda, sĩ quan hoa tiêu, đã gom được hơn một chục thủy thủ bị thương và đang cố gắng mang họ xuống một chiếc xuồng cấp cứu. Hành động này đã chọc tức 3 chiến đấu cơ địch. Cả ba đã tập trung hỏa lực, đập tan chiếc xuồng ra thành từng mảnh vụn và nhận 13 xác chết xuống khoảnh biển đẫm máu.

Các thủy thủ còn lại trên tàu đều nhảy xuống nước. Địch quân không cho họ kịp thở. Một làn sóng của khoảng 100 phi cơ ào đến dội bom và bắn vào tất cả những gì còn động đậy. Kỳ lạ thay, Komura cùng một vài sĩ quan khác và tôi đứng trên đài chỉ huy tác xạ, giữa cảnh đổ nát của chiếc tàu mà vẫn không hề hấn gì.

Nhìn ra xa xa, tôi nhận thấy chiếc Isokaze gần như bất động, và mặc dù không bốc cháy, chiếc tàu lắc lư không khác gì say rượu. Cách đó không xa, chiếc Suzutsuki đang bốc cháy, tuôn ra từng cụm khói đen mù mịt. Và chiếc Kasumi chạy xiêu vẹo, tín hiệu bằng cờ cho biết bánh lái của nó bị trục trặc.

Thiết giáp hạm Yamato thoạt nhìn có vẻ như vẫn còn trong tình trạng an toàn. Ở một khoảng cách 3 dặm, tôi không làm sao biết được đại chiến hạm từng là niềm kiêu hãnh của Hải quân này đang lâm vào tình trạng tồi tệ không kém gì tuần dương hạm Yahagi. Hai khu trục hạm Yukikaza nà Fuyutsuki chạy lướt qua lướt lại nhanh như thoi đưa trong nỗ lực dũng cảm nằm bảo vệ chiếc soái hạm khổng lồ.

Vẫn chưa hài lòng với một Yahagi trong cơn hấp hối, làn sóng thứ 5 với hơn 100 phi cơ nữa lại ùa đến. Đạn bay veo véo quanh tôi. Không còn biết sợ là gì nữa, tôi nghiến chặt răng: "Phải rồi, mấy tên Yankee quỉ quái này, tụi bay hãy dứt điểm đi."

Như để đáp lại lời tôi, tiếng rít của một viên đạn bay đến trúng vào cánh tay trái và đẩy tôi ngã chúi. Lúc ngã xuống, tôi lại càng kinh ngạc hơn khi nhận thấy những lượn sóng đã mấp mé trên mặt đài chỉ huy tác xạ, nơi mà hiện tại chỉ còn mình tôi và Đề đốc Komura.

"bây giờ, Hara, chúng ta nên đi chưa?" Komura hỏi một cách bình tĩnh.

"Đi!"

Trong lúc chúng tôi tháo bỏ giày vớ, tôi vẫn kịp nhận ra lúc ấy là 14h06. Phi cơ địch lại gầm thét trên đầu. Sóng bủa lên đầu gối lúc chúng tôi nhảy ra khỏi đài chỉ huy tác xạ. Bơi đâu được khoảng một vài thước, tôi cảm thấy một sức mạnh khổng lồ lôi tôi mạnh xuống đáy biển. Tôi chòi đạp, vùng vẫy, nhưng vực nước xoáy do một chiếc tàu chìm tạo ra có một hấp lực không thể nào chống trả nổi. Tôi chịu thua, không vùng vẫy nữa, chấp nhận cái chết....

Bỗng nhiên tôi cảm thấy cánh tay khổng lồ đã buông tôi ra. Tôi lại chòi đạp. Quanh tôi bao phủ một màu đen thẫm, nhưng có vẻ nhợt nhạt dần. Sau đó, trước mặt tôi những nhóm bọt nước thấp thoáng trồi lên. Đó là không khí còn sót lại trong quần áo và buồng phổi của tôi. Đau đớn vì nghẹt thở, tôi há miệng và nuốt một bụng nước biển, nhưng thình lình đầu tôi trồi lên khỏi mặt nước. Tôi thở liên hồi, đầu óc trống rỗng. Trong cơn choáng váng, tôi không biết phải làm gì, tôi thả trôi bập bềnh theo dòng nước.

Dần dần mắt tôi nhìn rõ trở lại, và tôi biết lúc đó là vào giữa ban ngày. Một âm thanh lao xao do tiếng nói của nhiều người gây ra. Nhìn quanh, tôi thấy nhiều cái đầu nổi trên mặt nước, và tất cả đều màu đen. Trong trạng thái mê hoảng, tôi có cảm giác đây là bãi tắm của những người da đen, và tôi đang bơi lội thỏa thích với họ. Trí não của tôi hồi tỉnh. Nhưng rất chậm chạp.

Tôi vẫn còn ngơ ngác. Mệt mỏi và căng thẳng trong trận đánh kéo dài hai giờ đồng hồ, tiếp theo là sự đổ vỡ và xúc động, tất cả đã vượt sức chịu đựng của một con người. Bây giờ tôi nghe tiếng gọi: "Hara, anh bình yên chứ? Hara! Anh nghe tiếng tôi không?"

Tôi thả trôi về hướng phát ra tiếng nói. Một người có khuôn mặt đen thui đang vẫy gọi tôi. Tôi nhận ra Đề đốc Komura. Khuôn mặt sạm nắng của ông, và ngay cả khi dầu đen bám đầy, tôi cũng có thể nhận ra ở khoảng cách 10 m.

"Tôi bình yên, Komura." Tôi đáp và hỏi: " Còn Đề đốc thì sao?"

"Tôi hoàn toàn bình yên."

Những người da đen chung quanh tôi chính là các thủy thủ của tôi. Tôi vuốt mặt và cảm thấy mặt tôi dính đầy dầu nhớt. Mặt nước cũng bao phủ dầu do chiếc Yahagi tuôn ra. Nhiều thủy thủ bám vào những mảnh ván vụn, điều này khiến tôi ngạc nhiên, vì tôi đã nghĩ là toàn thể thủy thủ của tôi đã bị tiêu diệt.

Khi mắt tôi nhìn rõ trở lại, tôi tìm kiếm chiếc Yamato. Chiếc tàu vẫn vĩ đại và hấp dẫn cho dù cách tôi đến 6 dặm, và đang bị một số phi cơ địch đông như đàn muỗi bu quanh.

Trong lúc thả trôi bập bềnh, không biết số phận ra sao, tay tôi bỗng chạm một khúc gỗ trôi ngang qua. Tôi bám ngay lấy khúc gỗ và có thể tạm yên lòng để suy nghĩ xem phải làm gì để thoát thân.

"Ê, bạn, xê ra, nhường tôi một chỗ coi!" Tiếng nói vang lên phía sau tôi. Một thủy thủ trẻ đang cố bơi về phía khúc gỗ. Tôi bám vào một đầu và nhường đầu kia cho hắn. Sau khi bám được vào đầu khúc gỗ, hắn nhìn tôi vẻ biết ơn.

"Anh là ai? Anh tên gì?" Hắn hỏi sau khi lấy hơi thở xong.

"Tên của tôi là Hara. Tôi ở trên tuần dương hạm Yahagi." Người láng giềng mới của tôi há hốc miệng, nhìn tôi trừng trừng một lát rồi ấp úng nói: "Xin thứ lỗi cho sự vô lễ của tôi, thưa Đại tá. Tôi là thủy thủ I Daiwa... Tốt hơn là tôi nên đi tìm một khúc gỗ khác. Khúc gỗ này nhỏ không đủ sức cho 2 người bám vào."

Hắn nhìn quanh một cách lo lắng. Tôi nói: "Đừng có điên, chú nhỏ ơi! Hãy bám vào cho chắc. Cả hai chúng ta có thể tạm dùng được. Anh bị thương phải không?"

"Dạ không, không có một vết trầy nào cả, thưa Đại tá. Anh bạn Asamo của tôi và tôi quyết định chết theo Yahagi. Chúng tôi lẻn vào kho đạn số 3 và cùng nằm ở đó để đợi giờ phút tan thành từng mảnh, nhưng Trung sĩ Yamada đến ra lệnh cho chúng tôi lên sàn tàu. Ông ta nói: "Đây là chỗ của tôi." Hắn làm hùng làm hổ khiến chúng tôi phải nhảy lên cầu thang. Tôi trặc chân và trẹo xương mắt cá, nhưng không ăn nhằm gì. Tôi không hiểu tính mạng của Yamada và anh bạn Asamo của tôi ra sao?"

"Đừng lo lắng nữa, Daiwa. Bây giờ chỉ nghĩ đến sự sống sót mà thôi. Anh sẽ thoát khỏi tình cảnh này nếu anh không bỏ cuộc."

--------------------------------

Chúng tôi nhìn quanh, nhận thấy soái hạm Yamato vẫn còn hoạt động. Thình lình khói trắng tuôn ra ngang mực nước của thành tàu. Và cả hai chúng tôi đều kêu to lên khi khói trắng càng lúc càng tuôn ra như sóng cuộn cho đến khi bao phủ toàn thể chiếc thiết giáp hạm khỗng lồ, trông giống như là đỉnh tuyết của ngọn núi Fuji. Kế đó là khói đen lẫn lộn với khói trắng, tạo thành hình một chiếc nấm khổng lồ, cao đến 2.000m. Khi chiếc nấm này tan dần, chúng tôi nhìn lại mặt biển, và không còn thấy gì cả. Yamato đã biến mất. Những tiếng nổ khủng khiếp vào lúc 14h23 của ngày 7 tháng 4 đó đã chấm dứt hình ảnh tượng trưng "Không bào giờ chìm" của Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản.

Bỗng nhiên tôi cảm thấy buốt lạnh. Lúc ấy trời đang mưa. Khi nghĩ đến Yamato, nước mắt của tôi hòa lẫn với nước mưa và nước biển.

Sau chiến tranh, ông bạn của tôi là Đề đốc Nobuei Morishita, một trong số 269 người của Yamato còn sống sót, đã kể cho tôi nghe các chi tiết xảy ra vào những giây phút cuối cùng của chiếc thiết giáp hạm khổng lồ này.

Vào lúc 12h40, Yamato nhận lãnh nhiều quả bom trực tiếp đầu tiên, và một quả ngư lôi ở mạn trái 10 phút sau đó. Tính ra, mạn trái của chiếc tàu trúng 10 quả ngư lôi và mạn phải trúng hai quả tất cả.

Đại tá Jiro Nomura, sĩ quan phụ tá của Hạm trưởng Yamato, vào lúc 14h05 đã xác định rằng công việc sửa chữa cấp thời cho chiếc tàu không thể nào xúc tiến. Do đó, Phó Đô đốc Ito, đứng trên đài chỉ huy suốt trận đánh, đã đình chỉ cuộc hành quân và ra lệnh: "Bỏ tàu."

Khu trục hạm Fuyutsuki được gọi đến để đảm trách việc di tản, nhưng chiếc tàu này khó có thể chạy nhanh hơn sức chìm của Yamato. Trung tá Hidechika Sakuma, hạm trưởng của Fuyutsuki, sợ chiếc tàu nhỏ bé của mình bị chiếc tàu khổng lồ lôi theo xuống đáy biển nên không dám tiến lại gần.

Ito bắt tay các sĩ quan hiện diện trên đài chỉ huy và lui vào phòng riêng để chết theo chiếc tàu. Hạm trưởng của Yamato, Đề đốc Kosaku Aruga, tự trói vào đài chỉ huy. Đề đốc Morishita, tham mưu trưởng của Ito, phải tranh luận sôi nổi với các sĩ quan trên đài chỉ huy muốn đi theo Ito, Aruga và Yamato, để cuối cùng ông thuyết phục được họ cùng đi với ông rời bỏ chiếc tàu. Độ nghiêng về mạn trái của chiếc tàu gia tăng nhanh chóng khi trúng quả ngư lôi cuối cùng vào lúc 14h17 phút. Ba phút sau, độ nghiêng tiến đến 20 độ, và những tiếng nổ xảy ra đã nhận chìm chiếc tàu này xuống đáy biển cấp tốc. Những tiếng nổ này đã cứu Morishita và những người khác, đẩy họ văng ra khỏi chiếc tàu.

Vẫn bám vào khúc gỗ, nhưng trải qua nhiều phút sau khi chiếc Yamato chìm, tâm trí tôi hoàn toàn trống rỗng. Tuần dương hạm của tôi mất, tôi buồn bã, nhưng nỗi buồn này không bằng phân nửa, đối với sự mất mát chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới. Nhìn quanh, tôi không còn thấy bóng dáng Đề đốc Komura đâu nữa, và ở đầu bên kia khúc gỗ, anh bạn trẻ Daiwa cũng mất tăm. Quanh tôi không còn một người nào. Hình như tôi đang ở trên một dòng nước đẩy tôi rời ra xa những người khác. Như vậy là tôi sẽ chết một cách cô độc? Bây giờ tôi nghe nhiều tiếng hát, lẩn quất đâu đây.

Tôi nhớ lại huấn lệnh dành riêng cho những người sống sót và trôi nổi trên đại dương: không nên la hét, mà phải bất động để gìn giữ năng lượng. Những người đang ca hát này, có thể, đã cho rằng họ không mong gì được giải cứu, và cũng có thể, họ muốn khôi phục tinh thần qua tiếng hát của họ. Thêm nhiều người kết hợp, tiếng hát càng mạnh mẽ hơn. Đó là những câu hát phỏng theo bài Chiến Sĩ Ca, bài ca nằm lòng của các chiến sĩ Nhật Bản từ nhiều thế kỷ trước đây.

Nếu tôi rời xa biển cả,

Tôi sẽ trở về như xác chết nổi trôi.

Nếu nhiệm vụ gọi tôi lên núi,

Đồng cỏ xanh sẽ là áo khoác thân tôi.

Vì đã nguyền hiến thân phục vụ cho Thiên Hoàng,

Tôi sẽ không chết bình yên giữa thê nhi yên ấm.

Khi bài ca được lặp lại, chính tôi cũng bị lôi cuốn vào. Thỉnh thoảng, xen vào âm thanh bi tráng này, là những tiếng la to" "Tenno Heika Banzai." (Thiên Hoàng Vạn Tuế) Chứng tỏ có một số người đang hát bị thương nặng hoặc kiệt lực nên đành bỏ dở giữa chừng bài hợp xướng của họ, và xuôi tay vĩnh viễn. Tôi nhắm mắt. Tiếng hát chỉ còn phảng phất bên tai tôi.

Tôi biết mình cũng đang đi dần vào cõi chết. Bây giờ âm điệu tiếng hát trở thành du dương mơ hồ, như tiếng hát ru con, mang tôi trở lại ấu thời với tiếng hát ru của mẹ tôi, và lần lượt hiện lên hình ảnh ông nội tôi, những ngày đi học, những ngày ở Hàn Lâm Viện, chuyến đi vòng quanh thế giới, lúc tôi bước chân vào một thương xá ở New York, những ngày mới ra trường của một sĩ quan trẻ, thời gian dính líu tình cảm giữa tôi và một cô Geisha. Chiếc kính vạn hoa này lại chuyển sang hình ảnh sống động của mẹ tôi, thoáng qua hình ảnh của vợ tôi, và kế đó là chân dung lúc tôi đã trở thành một sĩ quan chín chắn, và cuối cùng là gương mặt của đám con tôi.

Ảo ảnh tan biến trước mắt tôi với những dòng nước mắt chảy dài xuống má. Tôi nghĩ đến lần nghỉ phép cuối cùng tại nhà, đúng bốn tháng qua, và tôi nghĩ đến vợ con. Tôi thấy trước những gian nan vất vả mà vợ con tôi sẽ gặp một khi tôi ra đi vĩnh viễn. Tôi muốn tất cả hãy quên tôi, và cố gắng hiểu hoàn cảnh của tôi. Đối với Chizu, tôi là một kẻ ích kỷ, kết hôn với tôi, nàng đã xa rời hẳn đời sống yên ấm của những thời thơ ấu. Bây giờ tôi không bao giờ về lại với người vợ và 3 đứa con thơ. Hãy quên anh, Chizu!"

Tiếng hát im bặt hẳn. Nước trời bỗng nhiên lạnh lẽo hơn. Tôi rùng mình, cảm thấy thân thể giá buốt. Đôi tay tôi dần dần tê liệt, bám giữ khúc gỗ một cách khó khăn. Một vật gì trôi lờ đờ trước mắt, tôi cố đưa tay vớt lên. Không gì khác hơn một mảnh giấy nhớp nhúa dầu cặn. Định bỏ xuống, nhưng không hiểu sao, tôi nhét mảnh giấy vào túi áo mưa. Tay tôi chạm phải một vật khác lạ trong túi áo. Tôi lôi ra. Đó là một đoạn dây nhỏ, dài khoảng một mét rưỡi. Tôi không nhớ tại sao đoạn dây này lại ở trong túi áo, nhưng nó đã làm thay đổi hoàn toàn tình huống hiện tại của tôi.

Tôi dùng đoạn dây tự trói vào khúc gỗ. Như vậy, cho dù buông tay, tôi vẫn không bị chìm. Và luôn luôn gặp may mắn, biết đâu tôi sẽ trôi tấp vào một bờ biển Nhật Bản?

Phi cơ địch quay lại, có thể đây là làn sóng tấn công cuối cùng. Nhưng trí óc của tôi càng lúc càng trì độn, cho nên mặc dù đạn đại liên bắt đầu trút xuống mặt biển như mưa, tôi cũng không thấy liên quan gì đến tôi. Hỏa lực của phi cơ tập trung vào những nhóm thủy thủ đông đảo còn sống sót, cách tôi khá xa, nhưng nhiều viên đạn bay lạc rơi lèo xèo quanh tôi. Không một viên đạn nào trúng tôi, nhưng tiếng kêu lèo xèo của mấy viên đạn rơi xuống nước khiến tôi tức giận, và phản ứng tự nhiên, tôi hụp đầu xuống nước. Cơn tê dại của tôi bỗng nhiên biến mất.

Sau đó, phi cơ địch bay mất dạng, nhưng tôi sửng sốt khi nhìn thấy một chiếc thủy phi cơ Martin PBM sà thấp và đáp trên mặt nước, cách tôi khoảng 300m. Tôi lại hụp đầu xuống nước. Nhưng chiếc Martin không chú ý đến tôi, nó lướt thẳng đến một khoảng nước được nhuộm màu xanh để đánh dấu một viên phi cơ Hoa Kỳ đang trôi lềnh bềnh trên một cái phao cấp cứu rồi cất cánh bay lên. Tôi theo dõi hoạt động tiếp cứu này với những suy nghĩ đầy đố kỵ.

Nhưng cảm nghĩ của một người khác thuộc chiếc Yahagi còn sống sót, Thiếu úy Shigeo Yamada, cũng trôi nổi gần nơi chiếc thủy phi cơ đáp xuống, lại hoàn toàn khác hẳn tôi. Yamada sinh ở Hawaii, rất giỏi Anh ngữ, là sĩ quan liên lạc của Yahagi, sau đó đã nói với tôi : "Tôi sợ bị bắt làm tù binh, nên lúc ấy tôi vội vã xé tất cả phù hiệu cấp bậc trên bộ đồng phục và quăng ra xa. Nhưng chiếc máy bay không đến gần tôi.

Yamada không thiệt mạng, và vào năm 1958, anh ta làm việc trong văn phòng của hãng JAL ( Hàng Không Nhật Bản ) ở Chicago, Illinois - một công việc không hề được dự tính vào cái ngày đầy khiếp sợ vào tháng 4 năm 1945 đó.

Toàn thể khu vực dần dần yên tĩnh trở lại. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy dễ chịu, và bắt đầu nhìn lại những gì xảy ra trong trận đánh vừa qua. Tôi đã tỏ ra vụng về khi điều động Yahagi chống lại phi cơ đối phương. Trên một chiếc khu trục hạm, tôi sẽ điều động mọi việc một cách trôi chảy, không hề bối rối, bởi lẽ kinh nghiệm thực sự của tôi chỉ là kinh nghiệm của một hạm trưởng khu trục hạm, không hơn không kém.

Tôi đã sai lầm khi áp dụng lại cách điều động chiếc Shigure từng gây rối loạn cho 2 oanh tạc cơ địch gần Kavieng trước đây. Nhưng Yahagi có tốc độ cao và lanh lẹ hơn Shigure rất nhiều, tại sao tôi lại cho chiếc tuần dương hạm này chạy theo hình chữ chi lỗi thời để đến nỗi ngư lôi địch đuổi kịp nó?

Vâng, tôi đã sai lầm, bởi vì tài năng của tôi đã cùn đi sau một năm phục vụ trên bờ. Đáng lẽ ra Bộ Tư Lệnh Hải quân nên giao phó cho tôi nhiệm vụ trên mặt biển, thay vì công việc trên bờ không phù hợp với khả năng học hỏi của tôi. Hơn nữa, tất cả những gì tôi được huấn luyện và thực hành - ngư lôi tầm hướng, đầu nổ kíp điện và trọng pháo có radar điều khiển - không thề nào sử dụng để chống lại phi cơ địch trong trận đánh vừa rồi. Mọi thứ chúng tôi làm đều sai lầm hết. Ngay cả chính cuộc hành quân này, không có bất kỳ loại bảo vệ nào từ trên không, đó là một sai lầm khổng lồ.

Từ lúc chiếc Yahagi chìm, tôi không biết thời gian đã trải qua bao lâu. Trời đã đêm và gió đang thổi. Tôi lạnh run và bắt đầu buồn ngủ, nhưng tôi cố gắng chống lại, vì biết rằng ngủ quên sẽ có nhiều sơ suất chết người xảy ra. Nhưng, bây giờ đã đến lúc một Samurai chuẩn bị để chết. Tôi có thể bình tĩnh đợi chờ cái chết, không than van, không hối tiếc.

Quanh tôi không còn tiếng gì khác hơn là tiếng nước vỗ vào khúc gỗ. Tôi nhắm mắt lại, đầu tựa lên khúc gỗ, và thiếp ngủ. Hình ảnh những ngày qua lại hiện lên trong mộng mị. Lần đầu tiên tôi đi tàu đò từ Shikoku đến Honshu để dự thi vào Hàn Lâm Viện Hải quân. Tiếng máy của chiếc tàu đò có một âm thanh độc đáo, tôi có thể nghe lại một cách rõ ràng, hình như không giống như trong mơ chút nào.

Tôi mở bừng mắt, và âm thanh vẫn tiếp tục. Không phải là âm thanh trong mơ. Đó là tiếng máy của một chiếc khu trục hạm, chạy cách chừng một dặm. Tôi nghĩ là chiếc tàu này vẫn còn chống chọi với các phi cơ địch đeo đuổi, tôi lại tựa đầu lên khúc gỗ, nhắm mắt ngủ nữa. Nhưng tiếng động cơ vang to hơn bên tai đã quấy rầy giấc ngủ chập chờn của tôi. Tiếng động cơ này quá gần, không phải của chiếc khu trục hạm. Tôi nhìn lên, và thấy một chiếc ca nô! Chiếc ca nô nhỏ bé này, thường trang bị cho khu trục hạm, cách tôi không hơn 200m, nhìn thấy rất rõ giữa các đỉnh sóng. Tôi tự hỏi không hiểu nó quanh quẩn ở đây làm gì?

Chiếc ca nô biến mất. Tôi cố rướn lên để nhìn. Sau một vài phút, nò xuất hiện trở lại, lần này chỉ cách tôi khoảng 50m, và đang chạy vòng quanh để tìm kiếm những người còn sống sót. Bỗng nhiên tôi hoảng hốt. Tôi muốn sống nhưng đã tuyệt vọng. Và bây giờ tôi sợ chiếc ca nô không tìm thấy tôi. Tôi gom hết tàn hơi la lên thật to, nhưng vô ích.

Trong cơn tuyệt vọng, tôi tháo dây buộc và dùng chân tay chòi đạp mặt nước dữ dội. Chiếc ca nô nhìn thấy, xoay mũi chạy về phía tôi. Khoảng cách giữa tôi và kẻ tiếp cứu hình như dài vô tận. Khi chiếc ca nô sáp đến, tôi kiệt sức đến nổi không thể giơ tay để bám vào cạnh của nó, nhưng 4 cánh tay mạnh mẽ đã tóm lấy và nhanh nhẹn lôi tôi lên.

Thật kỳ lạ, ngay khi tôi chạm chân lên sàn ca nô khô ráo, năng lực tiêu tán của tôi phục hồi mau lẹ. Tôi ấp úng thốt lời cảm tạ những người đã tiếp cứu tôi, và tôi ngạc nhiên khi thấy ngoài tôi ra không còn kẻ sống sót nào khác để trở về khu trục hạm, và đây là chuyến tiếp cứu cuối cùng.

Sau đó, chiếc ca nô tiếp tục quần tìm 15 phút nữa, nhưng không có kết quả nên quay về khu trục hạm Hatsushimo. Năng lực vừa phồng lên của tôi bỗng nhiên xẹp xuống khi tôi cố gắng leo lên thang tàu. Chân tôi không thể nào cất lên nổi, hai thủy thủ phải đưa tay đẩy mạnh tôi lên sàn tàu.

Hạm trưởng của Hatsushimo, Trung tá Masazo Sako, chào đón tôi: "Mừng Đại tá thoát nạn. Chúng tôi tìm kiếm Đại tá gần như đã tuyệt vọng. Đề đốc Komura đang nghỉ trong phòng tôi."

Tôi cám ơn Sako, và đi vào phòng để trút bỏ bộ quần áo đẫm ướt nước biển và dầu nhớt của tôi. Được nhân viên y tế chích thuốc và xoa bóp, tôi phục hồi sức khỏe mau lẹ. Tôi cám ơn họ và xin một ly sake.

Viên bác sĩ đứng gần đó đã cười to và nói: "Có ngay, Đại tá Hara. Thường thường tôi đã từ chối đòi hỏi như thế này, nhưng tôi chắc sake là phương thuốc chữa bệnh cho Đại tá."

Trong khi tôi nhấm nháp, viên bác sĩ kể lại vắn tắt những diễn biến mà hắn ta thấy được từ chiếc tàu này.

"Chiếc Hatsushimo đóng góp vào trận đánh này không bao nhiêu. Vì quyết tâm tấn công soái hạm Yamato, phi cơ địch chỉ lướt ngang qua chúng tôi. Do đó, chiếc tàu của chúng tôi không hề bị trực tiếp một phát đạn nào và thủy thủ đoàn không ai thiệt mạng, chỉ hai người bị thương nhẹ. Hatsushimo có lẽ là chiến hạm duy nhất thuộc lực lượng còn nguyên vẹn. Đó là lý do tại sao chúng tôi quanh quẩn ở đây tìm kiếm những người còn sống sót. Ba khu trục hạm Fuyutsuki, Suzutzuki và Yukikaze đều thiệt hại và đã chạy về Sasebo cách đây hai giờ. Chiếc Fuyutsuki hầu như an toàn mặc dù trúng hai hỏa tiễn, nhưng hàng chục thủy thủ đã thiệt mạng do đạn đại liên gây ra. Chiếc Yukikaze cũng hư hại nhẹ, và có 3 thủy thủ thiệt mạng. Chiếc Suzutzuki cũng bị trúng một quả bom vào ngay mũi, hư hại nặng nhất và phải bỏ cuộc để chạy về Sasebo đầu tiên.

Chiếc Isokaze kém may mắn hơn những khu trục hạm vừa nói. Chiếc tàu này không hề nhận lãnh một quả bom trực tiếp nào, những các mảnh bom nổ gần đã phá nhiều lỗ thủng, khiến cho buồng máy ngập nước và 100 thủy thủ thiệt mạng. Lúc ấy không còn hy vọng sửa chữa cấp thời. Isokaze được khu trục hạm Yukikaze nhận chìm sau khi di tản hết những người còn sống sót. Giống như trường hợp của khu trục hạm Kasumi, chiếc tàu này bị hư hại nặng và có 17 thủy thủ thiệt mạng, đã được chiếc Fuyutsuki ban "phát súng ân huệ" sau khi giài cứu tất cả những người còn lại.

Sau khi cảm ơn viên bác sĩ đã cho biết những tin tức này, và không còn điều khác để bàn, tôi hỏi: "Quý vị có giải cứu một thủy thủ tên là Daiwa không?"

Một viên y tá dò danh sách và đáp: "Có, thưa Đại tá, tên hắn đây. Hắn đã hỏi thăm tin tức Đại tá ngay khi được đưa lên tàu hai giờ trước đây." Viên y tá gọi một liên lạc viên: "Hãy nói với Daiwa là Đại tá Hara vẫn bình yên."

Khu trục hạm Hatsushimo chất đầy cả ngàn người sống sót của thiết giáp hạm Yamato và tuần dương hạm Yahagi, về đến Sasebo vào buổi trưa ngày 8 tháng 4. Một liên lạc viên gõ cửa phòng hạm trưởng ngay khi tàu vừa buông neo và trình một công điện cho Đề đốc . Ông cúi xuống đọc , nhăn mặt, và đưa tờ giấy cho tôi. Đây là một tuyên dương công trạng do Tổng Tư Lệnh Hạm Đội Hỗn Hợp gửi cho Đệ Nhị Hạm Đội, ngợi khen lực lượng chúng tôi đã dũng cảm xả thân, nhờ vậy các phi cơ tấn công đặc biệt đã thu hoạch được một kết quả vĩ đại trong trận chiến."

Kết quả vĩ đại trong trận chiến này là những gì? Ngày đó, nỗ lực tấn công không quân của chúng tôi, bao gồm 114 phi cơ, 60 chiến đấu cơ, 40 oanh tạc cơ và 14 chiếc Thần Phong - chỉ gây hư hại cho hàng không mẫu hạm Hancock, thiết giáp hạm Maryland và khu trục hạm Bennett, nhưng cái giá phải trả là gần 100 phi cơ bị bắn hạ.

Kết quả, phía Hoa Kỳ có 12 phi cơ thiệt mạng và 10 phi cơ bị bắn rơi do súng phòngkhông của chúng tôi. Phía Đệ Nhị Hạm Đội chỉ còn 3 khu trục hạm tồn tại, và 2,498 người của Yamato, 446 người của Yahagi và 721 người của các khu trục hạm khác thiệt mạng.

Câu chuyện về kẻ chiến thắng và chiến bại trong cuộc đụng độ không hải cuối cùng của một chiến thuật đơn giản, nhưng đã gây sửng sốt cho những nhà thống kê. Lực lượng Hải quân hùng mạnh, đã từng phát động đầu tay của chiến Thái Bình Dương, qua trận tấn công Trân Châu Cảng, cuối cùng đã bị hạ gục.

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, thiết giáp hạm Yamato bị đánh chìm. Hải quân Hoàng Gia Nhật Bản cũng chìm theo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro