yeunuthikxaihanghieunext

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tôi nhái chữ ký của Miranda với nét bay bướm hoàn hảo (bõ công hàng tiếng đồng hồ tập ký dưới con mắt giám sát của Emily, cô cũng hướng dẫn viết chữ "a" thứ hai có nét móc hơi dài hơn), đính bức thư vào ấn bản mới nhất của Runway - chưa có ngoài sạp báo - rồi gọi người dưa thư hỏa tốc đem ngay cả gói đến văn phòng nhà xuất bản giáo dục ở trung tâm thành phố. Cú này mà không kết quả thì tài thánh cũng bó tay. Miranda không bận tâm chuyện chúng tôi mạo chữ ký - nhờ thế bà cũng bị quấy rầy bởi những tiểu tiết lặt vặt - song nếu biết tôi ký tên bà dưới một bức thư lịch thiệp và thân mật như vậy thì chắc bà sẽ nhảy chồm lên mất.

Chỉ mới trước đây mấy tuần thôi, nếu Miranda gọi điện đòi tôi làm việc gì đó cho bà vào cuối tuần thì nhất định tôi sẽ răm rắp cắt bỏ mọi kế hoạch riêng, nhưng gìơ thì tôi đã đủ kinh nghiệm - và lì lợm - để du di tí chút các quy định. Đằng nào thì ngày mai Miranda và hai đứa nhỏ cũng không có mặt ở phi trường New Jersey khi Harry Potter đến nơi, vì vậy tôi không có cớ gì mà phải tự tay đem sách ra phi trường cả. Cầm chắc là Julia sẽ nhả ra cho mình hai quyển, tôi đi ngay vào các việc cụ thể. Nhấn một vài số điện thoại, sau một vài giờ là kế hoạch hoàn tất.

Tôi chắc chắn là vài tiếng sau, Julia sẽ bật đèn xanh. Brian, trợ lý cộng tác ở nhà xuất bản giáo dục, tối nay sẽ cầm hai cuốn Harry Potter về nhà để sáng mai, thứ Bảy, không phải quay lại văn phòng. Brian sẽ gửi sách lại cho thường trực của tòa nhà Upper West Side nơi anh ở, và mười một giờ trưa mai tôi cho ôtô ghé qua lấy. Yuri, tài xế của Miranda, sẽ gọi vào số di động của tôi để báo là sau khi ấy được sách ông đang trên đường ra sân bay Teterboro. Hai cuốn sách ấy sẽ được chuyển tới phi cơ riêng của ông Tomlinson để bay qua Paris. Tôi thoáng nghĩ xem có nên đặt mã số bí mật cho vụ này giống một phim tình báo kiểu KBG, nhưng chợt nhớ ra rằng tiếng Anh của Yuri không được tử tế cho lắm. Tôi cũng đã kiểm tra khả năng gửi sách qua dịch vụ DHL để chuyển phát theo đường nhanh nhất, nhưng ở đó người ta không bảo đảm là sẽ tới trước thứ Hai, nghĩa là cách này không thể chấp nhận được. Vậy chỉ còn phi cơ riêng. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch thì hai đứa nhỏ, Cassidy và Caroline, sớm Chủ nhật này khi thức dậy tại phòng riêng ở Paris và uống cốc sữa buổi sáng sẽ được đọc ngay chuyện mạo hiểm cảu Harry Potter - sớm hơn tất cả các bạn chúng trọn một ngày. Nghĩ đến thế là tôi đã rạo rực cả người.

Mấy phút sau khi phân xong xe cộ và lên dây cót các cá nhân liên quan, Julia gọi điện đến. Tuy là một chuyện rất mệt mỏi và có thể Julia bị lôi thôi nhg Julia đã lo được hai quyển sách cho bà Priestly và trao cho Brian rồi. Ơn Chúa lòng lành.

"Không sao tin được, hắn đính hôn rồi." Lily hỏi khi tua lại cuốn băng Ferris Bueller mà chúng tôi vừa xem xong. "Trời ơi, tớ định nói là hắn ta mới hai mươi tư tuổi, vội vàng làm gì nhỉ?"

"Đúng thế, tớ thấy chuyện có vẻ kì quái." Tôi trả lời từ trong bếp. "Có thể hắn không được bố mẹ cho chạm vào chỗ tài sản khổng lồ đang được ủy thác quản lý, nếu chưa ổn định được cuộc sống. Đó đủ là duyên cớ để hắn phải lồng nhân đính hôn vào ngón tay. Hoặc có thể hắn cô đơn quá cũng nên?"

Lily nhìn tôi cười. "Tất nhiên, hắn yêu và sẵn sàng sống suốt phần đời còn lại cùng cô ta là chuyện không thể xảy ra được, đúng không. Cậu cũng đồng ý với tớ là chuyện khó tin lắm, phải không?"

"Chính xác. Chuyện không tưởng. Cậu có cách giải thích nào khác không?"

"Nhất định rồi. Tớ đang vén màn cho khả năng thứ ba: hắn là một tên đồng tính và vừa mới nhận ra điều đó - mặc dù tớ biết ngay từ đầu - và cũng hiểu là bố mẹ hắn không chịu nổi cú sốc. Vì thế hắn cưới luôn cô gái đầu tiên mà hắn vớ được. Cậu nghĩ sao?"

Phim tiếp theo trong chương trình là Casablanca. Trong khi Lily tua nhanh phần giới thiệu đầu băng, tôi vào nhà bếp minỉntong căn hộ mini làm hai cốc cacao trong lò vi sóng. Cả tối thứ Sáu chúng tôi nằm ườn xác ra xem video, không làm gì thêm khác ngoài hút thuốc và chạy băng. Mãi đến chiều thứ Bảy chúng tôi mới có hứng la cà xuống khu SoHo đi shopping vài tiếng. Lily mua áo nịt mới cho buổi liên hoan giao thừa sắp tới, rôi chúng tôi uống chung một cốc kem trứng to đùng trong quán càfê bên đường. Mệt mỏi nhưng vui vẻ lê chân về đến nhà, chúng tôi bật tới bật lui tivi giữa When Harry Met Sally trên kênh TNT và Saturday Night Live. Nghỉ ngơi xả láng sau một tuần quay cuồng đã thành thông lệ, làm tôi quên khuấy vụ Harry Potter cho đến tận Chủ nhật, khi điện thoại chợt réo lên. Chết rồi, Miranda! May mà đó là điện thoại di động của Lily, cô tán chuyện tiếng Nga với ai đó, chắc là bạn cùng lớp. ơn Chúa, ơn Chúa, ơn Chú lòng lành: không phải Miranda. Nhưng việc của tôi đâu đã xong. Đã sang Chủ nhật rồi, và tôi vẫn chưa biết mấy quyển sách khốn nạn kia đã sang Paris chưa. Tôi tận hưởng cuối tuần theo quyết tâm đã vạch ra một cách say sưa đến nỗi quên cả kiểm tra công việc. Tất nhiên tôi vẫn mở điện thoại di động và để chuông ở mức to nhất, nhưng chẳng may ai đó gọi điện để báo có sự cố thì đăng nào cũng quá muộn và không làm gì được nữa. Lẽ ra hôm qua tôi nên cẩn thận phòng xa và xác định với từng người trong cuộc là mọi công đoạn trong kế hoạch chi li tuyệt vời của tôi đều ổn thỏa cả.

Tôi bới trong túi đồ đem theo, tìm chiếc điện thoại di động của Runway phát cho mà nhờ nó lúc nào tôi cũng chỉ cách Miranda bảy con số. Tìm mãi mới thấy nó ở tận đáy túi dưới mớ quần lót, rồi tôi lại lăn ra giường. Màn hình báo là ở đây ngoài vùng phủ sóng, nhưng linh tính báo cho tôi biết rằng Miranda đã gọi điện và bị nối thẳng với hộp thoại. Sao mà tôi căm thù cái điện thoại này thế. Và cái điện thoại Bang & Olufsen mới tinh ở nhà nữa. Tôi ghét cả điện thoại của Lily. Ghét tất cả điện thoại trên đời, ghét luôn ông Alexander Graham Bell đã phát minh ra nó. Làm việc cho Miranda đồng nghĩa với việc chịu đựng nhiều hiệu ứng phụ trong cuộc sống thường nhật, nhưng điên nhất là lòng căm thù vô bờ bến mà tôi dành cho các loại điện thoại.

Đa số những người khác cảm nhận tiếng chuông điện thoại như một tín hiệu vui. Ai đó tìm họ để chào hỏi, thăm sức khỏe, hay bàn kế hoạch. Với tôi thì tiếng chuông thật đáng sợ hãi và lo lắng đến đứng tim. Tuy rằng trước đây không khi nào tôi sử dụng công dụng báo cuộc gọi đợi, nhưng ký xong hợp đồng lao động ở Runway thì tôi phải bật báo cuộc gọi đợi (để Miranda không bao giờ bị nghe tín hiệu bận), hiển thị số điện gọi đến (để tránh các cuộc gọi Miranda), báo cuộc gọi đợi với số điện của người gọi (để tránh tiếp bà ta khi đang nói với người khác) và kích hoạt hộp thoại (để bà ta không nhận ra là tôi trốn bắt máy, vì ít nhất thì cũng nghe được băng ghi âm trả lời). Tất cả những dịch vụ gia tăng đó tốn 50 dollar mỗi tháng, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, vì chúng giữ cho tôi được rảnh rang đầu óc. Thật ra cũng chẳng hẳn được rảnh rang, nhưng tôi được cảnh báo.

Với điện thoại di động thì những rào cản hữu hiệu đó chanửg có ích gì. Nó có những công như điện thoại bàn, đương nhiên, nhưng Miranda cho rằng chẳng có bất cứ lý do gì để tắt nó đi cả. Tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng nhận điện. Khi Emily trao cho tôi điện thoại - trang bị bắt buộc ở Runway - và dặn luôn mở máy, tôi đã rụt rè hỏi khi nào được tắt điện thoại, nhưng cô lập tức gạt ngay.

"Thế lúc đi ngủ thì sao?" Tôi cố hỏi một cách vô vọng.

"Thì thức dậy mà nghe điện chứ sao nữa." cô vừa trả lời vửa giũa lại móng tay bị sứt.

"Còn nếu đang ngồi ở một nhà hàng sang trọng?"

"Thì chị làm như mỗi người New York vẫn làm: vừa ăn vừa gọi điện."

"Ở bác sĩ phụ khoa cũng thế?"

"Bác sĩ phụ khoa có khám tai đâu?" Ok, được rồi, tôi hiểu rồi.

Tôi miễn cưỡng với cái điện thoại di động khốn nạn nhưng không lờ nó đi được. Vì nó mà tôi bị cột vào Miranda như đứa trẻ chưa được cắt rốn, rời nó ra là tôi mất dưỡng khí để tồn tại và lớn lên. Miranda gọi điện liên tục, và tôi phản xạ như con chó trong thí nghiệm của Pavlov. Reng reng - tay tự động nắm thành quả đấm, vai ưỡn lên. Reng reng reng reng. Ôi tại sao bà ta không để cho tôi yên, trời ơi, hãy quên đi là tôi có trên đời này - mồ hôi rịn ra trên trán. Những ngày cuối tuần tôi đã quên kiểm tra xem máy có trong vùng phủ sóng hay không , cứ ỷ lại là nếu có vấn để gì thì chuông đã réo. Đó là sai lầm thứ nhất. Tôi tìm khắp phòng mới tìm ra một nơi có sóng cho mạng AT&T, rồi nín thở bấm số đến hộp thoại.

Mẹ tôi để lại một tin nhắn rất đáng yêu, chúc tôi vui vẻ với Lily. Một người bạn ở San Francisco tuần này có công chuyện ở New York và gọi tôi đi chơi cùng. Chị tôi nhắc chớ quên gửi thiệp mừng sinh nhật cho ông anh rể. Và lúc tôi tưởng là tai qua nạn khỏi thì trong ống nghe vang lên giọng nói đặc Anh đáng sợ. "Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giừo sáng Chủ nhật ở Paris và hai chúa bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn là sách sắp đến rõ chưa. Hết."

Tôi ức nổ con ngươi. Như mọi khi, không có một lời thân thiện, không chào hỏi, tạm biệt hay cảm ơn. Chuyện đương nhiên. Nhưng dở nhất là đã gần nửa ngày trôi qua từ khi có tin nhắn mà tôi vẫn chưa gọi điện lại cho bà. Đủ lý do để bị sa thải, tôi biết, và đó là chuyện bất khả kháng. Như một kẻ nghiệp dư, tôi đã ỷ lại kế hoạch tôi đã vạch ra rất hoàn hảo, thậm chí chẳng thèm để ý là Yuri không gọi điện lại để báo đã lấy sách và đem tới sân bay. Tôi vội tra dnah bạ trong máy và gọi ngay vào điện thoại di động của Yuri. Miranda tất nhiên cũng trang bị cho Yuri một chiếc để sẵn sàng nhận lệnh 24/24.

"Alô Yuri, Andrea đây. Xin lỗi đã quấy quả ông vào Chủ nhật. Tôi chỉ muốn hỏi hôm qua ông đã lấy sách ở địa chỉ đã nói chưa?"

"Alô Andy, rất vui được nghe tiếng cô," giọng Nga ngọng nghịu của ông như an ủi tôi. Ngay từ khi gặp tôi lần đầu ông đã gọi tôi bằng cái tên Andy thân mật, như một ông chú trong nhà vậy, nghe dễ cảm tình chứ không như Mr. Mờ-Cờ-Đờ. "Tất nhiên tôi đi lấy sách đúng như lời cô dăn. Tôi muốn giúp cô mà."

"Vâng, vâng, Yuri, chỉ vì Miranda vừa nhắn tin cho tôi là bà ấy vẫn chưa nhận được sách, và tôi không biết là đã xảy ra chuyện gì."

Yuri im lặng một lát, sau đó ông đưa tôi tên và số máy của phi công lái chuyến máy bay riêng tối qua.

"Cám ơn, cám ơn ông rất nhiều," tôi nói và vôi vàng nguệch ngoạc ghi lại. Hy vọng là tay phi công giúp tôi tiếp. "Tôi phải gọi điện ngay. Xin lỗi không nói chuyện tiếp được, chúc ông cuối tuần vui vẻ."

"Chúc cô cuối tuần vui vẻ, Andy. Tôi tin là anh phi công sẽ giiúp chị tìm được sách. Chúc chị may mắn." ông hớn hở nói và cúp máy.

Lily đang làm bánh quế. Tôi cũng muốn phụ cô một tay, nhưng tôi phải giải quyết vụ này ngay, không thì mất việc như bỡn. Có thể tôi đã mất việc rồi cũng nên, chỉ tội chưa ai nói với tôi mà thôi. Ở vương quốc Runway này đã từng xảy ra chuyện một biên tập viên thời trang bị đuổi việc khi đang hưởng tuần trang mật. Và cô ta cũng chỉ biết tin đó khi tình cờ đọc tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày ở đảo Bali. Tôi vội nhấn số điện thoại của tay phi công mà Yuri vừa đưa cho. Bực thật, chỉ gặp tin nhắn tự động.

"Alô Jonathan, đây là Andrea Sachs ở tạp chí Runway. Tôi làm trợ lý cho Miranda Priestly, và định hỏi ông về chuyến bay hôm qua. Ồ, bây giờ tôi mới nhớ ra là có khi ông vẫn còn ở Paris hoặc đang trên đường về. Vâng, tôi chỉ muốn hỏi xem mấy quyển sách, vâng, tất nhiên là cả ông nữa, đã hạ cánh an toàn xuống Paris chưa. Phiền ông gọi lại cho tôi theo số 917-555-8702, càng sớm càng tốt. Cảm ơn ông. Bye bye."

Tôi suy nghĩ, liệu có nên gọi cho lễ tân của khách sạn Ritz và hỏi có ai nhớ đã nhận được sách từ sân bay tư nhân ngoại ô Paris chuyển đến, nhưng lại sực nhớ ngay rằng điện thoại của tôi không gọi ra nước ngoài được. Thế đấy, hàng đống công dụng, nhưng tất nhiên riêng cái tôi cần thì không có. Đúng lúc đó Lily cất tiếng gọi, cô đã làm xong cho tôi một đĩa bánh quế và cafê. Tôi vào bếp lấy đồ ăn. Cô đang nhấm nháp một ly Martini đỏ. Khiếp quá. Ai lại uống rượu vào sáng Chủ nhật cơ chứ?

"Lại có chuyện gì với Miranda rồi hả?" Cô nói với giọng thông cảm.

Tôi gật. "Tớ nghĩ rằng lấn này chẳng còn gì để cứu vớt nữa." Tôi khoan khoái đón lấy đĩa đồ ăn. "Chắc tớ mất việc rồi."

"Ồ cưng, lúc nào cậu cũng nói thế. Bà ấy sẽ không đuổi cậu đâu. Thậm chí bà ấy còn chưa thấy cậu làm việc vất vả ra sao. Bà ấy khôn ngoan thì nên giữ cậu. Cậu đúng là có công việc thú vị nhất thế giới!"

Tôi nghi ngại nhìn cô và ép mình phải giữ bình tĩnh.

"Tớ nói có đúng không?" Cô nói. "Bà Miranda của cậu nghe có vẻ khó chiều và hơi điên điên. Nhưng có ai lại không thế? Bù lại thì cậu nhận được khối giày dép, mỹ phẩm, quần áo và làm đầu miễn phí. Chỉ tính riêng quần áo thôi! Có ai trên thế giới này được tặng quần áo mốt mới nhất, chỉ vì hàng ngày có mặt ở nơi làm việc? Andy, cậu đang làm việc ở Runway, hiểu chưa nào? Hàng triệu cô gái sẵn sàng chết vì việc của cậu đấy."

Tôi hiểu. Giờ thì tôi hiểu ra rằng Lily - lần đầu tiên kể từ khi tôi gặp cô chín năm trước đây - chẳng hiểu gì cả. Giống như mọi bạn bè và người quen khác của tôi, cô chỉ khoái nghe những chuyện giật gân về máy cô ả ngồi lê đôi mách và những người giàu có mà tôi lượm lặt trong tuần ở Runway, chứ không thực sự thấu hiểu lý do tại sao hằng ngày tôi phải vác xác đến đó. Không phải vì mấy thứ quần áo miễn phí. Chẳng có thứ quần áo nào trên đời khả dĩ làm công việc của tôi dễ chịu hơn. Chắc chắn đã đến lúc tôi phải làm cho cô bạn thân nhất đời mở mắt ra, để cô nhìn thấy tình cảnh của tôi. Phải nói cho cô biết. Đúng thế! Đã đến lúc giải thích cho mọi người hiểu chính xác những gì diễn ra ở đó. Tôi mở miệng toan bắt đầu, đúng lúc âýa, điện thoại của tôi réo chuông.

Đồ chết tiệt! Tôi chỉ muốn ném nó vào tường cho bõ ghét, chỉ muốn nói với người đầu dây bên kia hãy im đi cho tôi nhờ. Nhưng trong thâm tôi vẫn hy vọng là Jonathan gọi đến báo tin gì đó. Lily mỉm cười và giục tôi bắt máy.

"Có phải Andrea không?" Giọng đàn ông hỏi.

"Jonathan phải không ạ?"

"Đúng thế. Tôi vừa nghe hộp thoại và nhận được tin nhắn của chị. Tôi đang trên chuyến bay về từ Paris, đâu đó trên Đại Tây Dương. Nghe giọng chị có vẻ lo lắng nên tôi muốn gọi lại ngay."

"Cảm ơn, cảm ơn ông, tôi rất biết ơn ông. Đúng là tôi có chuyện lo lắng thật, vì tôi nhận được điện thoại của Miranda sớm nay, bà ấy nói là chưa nhận được gói quà. Ông đã đưa gói đó cho tài xế ở Paris rồi, đúng không ạ?"

"Chắc chắn như vậy. Chị biết không, trong nghề này tôi ít khi đặt câu hỏi, nhưng bỏ công bay qua Đại Tây Dương chỉ để chuyển một gói quà nhỏ thì không phải ngày nào cũng làm. Chắc là thứ gì quan trọng lắm, tôi nghĩ thế. Một bộ phận để phẫu thuật ghép tạng chẳng hạn, hay tài liệu mật. Vì vậy tôi rất cẩn trọng và trao gói cho tài xế như người ta đã dặn tôi. Ông tài xế của khách sạn Ritz rất tốt. Không có vấn đề gì."

Tôi cảm ơn ông và tắt máy. Lễ tân ở Ritz đã bố trí cho lái xe ra phi cơ riêng của Mr. Tomlinson ở sân bay Charles de Gaulle và đem sách về khách sạn. Nếu mọi việc đều diễn ra đúng kế hoạch thì Miranda phải nhận được sách lúc bảy giờ sáng giờ địa phương rồi mới phải. Bây giờ thì ở Pháp đã lầ buổi chiều muộn, tôi không tưởng tượng ra có thể có chyện trục trặc gì. Không còn sự lựa chọn nào khác là phải gọi điện cho lễ tân ở Ritz, và do máy di động của tôi không gọi ra nước ngoài được nên tôi phải đi tìm một điện thoại khác.

Tôi vào bếp và dốc cả đĩa bánh nguội ngắt vào thùng rác . Lily đã lại lăn ra đi văng, nửa thức nửa ngủ. Tôi ôm từ biệt Lily và hứa sẽ gọi điện lại .

" Kế hoạch hôm nay thì sao?" cô rên lên. " Tớ đã cho băng The American President vào máy rồi, chỉ cần bấm nút nữa thôi. Cậu không được bỏ đi, ngày cuối tuần của chúng mình đã hết đâu!"

" Tớ biết, Lily, xin lỗi cậu. Tớ phải làm việc này ngay. Tớ không ước gì hơn là được ở lại đây, nhưng lúc này thì bà ấy đã nắm được gáy tớ. Tớ gọi điện cho cậu ngay nhé?" Tôi nói và ra đường gọi taxi về văn phòng.

Văn phòng vắng ngắt, tất nhiên, chắc chắn mọi người đang ngồi với người yêu là các chủ ngân hàng đầu tư ở Paris. Tôi ngồi trong phòng tối mò, hít sâu một hơi và bấm số. May mắn thay, người nhận điện là ông Renaud, người tôi quen nhất ở khách sạn Ritz.

" Andrea thân mến, chị có khỏe không? Chúng tôi rất vui mừng được đón tiếp Miranda và hai cô bé song sinh quay lại sớm như vậy," ông ta nói dối trơn tru. Emily đã kể với tôi rằng Miranda thường xuyên ở Ritz và nhân viên ở đó biết rõ tên bà và hai đứa con gái.

" Vâng , thưa ông Renaud, tôi cũng biết là Miranda thích ở đó lắm," tôi cũng nói dối lại, thừa biết là ông già tội nghiệp này có cố gắng đến mấy thì Miranda cũng luôn có cớ gì đó để phàn nàn. Cũng phải công nhận là ông không bao giờ ngừng cố gắng hoặc không bao giờ ngừng nói dối là ông rất quý Miranda.

"Chiếc ô tô mà ông sai đến chỗ phi cơ của Miranda đã quay về đến khách sạn chưa?"

"Tất nhiên rồi, thưa chị. Trước đây mấy tiếng rồi. Tôi tin là trước tám giờ sáng nay. Tôi đã cử lái xe cừ nhất của khách sạn làm việc này," giọng ông đầy kiêu hãnh. May mà ông không biết lái xe cừ nhất của ông phải lòng vòng quanh thành phố để làm gì...

" Lạ thật. Vì tôi nhận được một cú điện thoại của Miranda, bà ấy nói là chưa nhận được gói hàng. Nhưng tôi đã kiểm tra hết cả rồi, ông lái xe thề là đã đưa hàng đến sân bay, tay phi công thề là đã bay tới Paris và đưa nó cho tài xế của ông, ông thì vừa nói là gói ấy đã đến khách sạn. Thế thì tại sao bà ấy chưa nhận được nhỉ?"

" Có lẽ cách duy nhất để làm sáng tỏ chuyện này là hỏi thẳng bà ấy," ông tung tẩy với giọng vui vẻ giả cầy. " Tôi nối máy cho chị nhé?"

Cho đến lúc đó tôi vẫn ngoan cố hy vọng sẽ giải quyết ổn thỏa mọi chuyện mà không phải nói chuyện với Miranda. Tôi biết nói gì với bà, một khi bà khăng khăng chưa hề nhận được gói hàng ? Chẳng lẽ gợi ý bà chạy ra xem trên bàn ngoài hành lang, liệu nhân viên khách sạn có đem sách đến đó trước đây mấy tiếng? Hay bà ấy yêu cầu tôi từ giờ đến tối đi kiếm hai quyển Harry Potter mới rồi gửi máy bay riêng qua Paris? Hoặc tốt nhất là lần sau tôi thuê một thám tử luôn ôm chặt quyển sách trên chuyến bay vượt đại dương và bảo đảm với tôi không có gì phương hại đến nó.

" Vâng, thưa ông Renaud, cám ơn ông.

Có tiếng lích kích nối máy, rồi tiếng tút dài. Tôi căng thẳng rịn mồ hôi, chùi bàn tay ướt dâm dấp vào chiếc quần thể thao và cố không nghĩ đến hậu quả gì xảy ra nếu Miranda thấy tôi mặc bộ đồ xộc xệch này tới văn phòng. Bình tĩnh nào, có gì phải sợ, tôi tự nhủ, bà ấy không thể chặt đầu mình qua điện thoại được đâu.

" Ai đấy?" Tiếng nói xa lắc dứt tôi khỏi ý nghĩ tự an ủi. Đó là Caroline, con bé mới hơn mười tuổi nhưng đã học được giọng gọi điện rất hách dịch của mẹ nó một cách hoàn hảo. Cassidy ít nhất còn nói " A lô" khi nhấc máy.

" A lô, cưng à," tôi ẽo ợt, tự cảm thấy xấu mặt vì phải giở giọng nịnh nọt với con nhãi ranh. " Chị là Andy ở văn phòng đây. Mẹ có nhà không?"

" Đợi đấy, em đi gọi."

Một lát sau Miranda lên tiếng. " Aan-dree-aa? Tôi hy vọng hộ chị đây là chuyện quan trọng. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ," giọng bà lạnh lùng và ngang tai như thường lệ. Tôi suýt nghẹn. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ? Thiếu chút nữa thì tôi hét lên. Bà có định đùa với tôi không đấy? Bà tưởng tôi gọi điện để giải trí hay sao? Bà tưởng tôi đau khổ vì suốt hai ngày cuối tuần không được nghe cái giọng khốn nạn của bà hay sao? Còn tôi có bị quấy rầy hay không thì bà chẳng cần quan tâm chứ gì? Tôi giận điên người, nhưng vẫn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhàng trả lời.

" Miranda, xin lỗi, tôi biết là không phải lúc, nhưng tôi đã gọi điện khắp nơi để lo chuyện gửi quyển Harry Potter cho ổn thỏa. Tôi nghe tin nhắn là bà chưa nhận được, nhưng tôi đã nói chuyện với mọi người và ..."

Bà chặn lại giữa câu hỏi của tôi, trả lời chậm rãi và tự tin: "Aan-dree-aa. Lần sau chị phải chú ý nghe cho thủng. Tôi không hề nói câu nào như vậy. Sáng sớm nay tôi đã nhận được gói hàng , sớm đến nỗi nhân viên phải đánh thức tôi dậy để nhận cái đồ ngớ ngẩn này."

Tôi choáng váng không tin vào tai mình nữa. Chẳng lẽ tôi nằm mơ thấy tin nhắn, hay mới tuổi này mà tôi đã sớm mắc chứng Alzheimer?

" Tôi gọi vì lý do khác, đó là trong gói không phải là hai quyển Harry Potter như tôi đã yêu cầu. Chỉ có một quyển thôi, và chị có thể tưởng tượng ra là hai cháu bé thất vọng đến chừng nào. Chúng nó được tôi hứa là mỗi đứa được một quyển riêng. Tôi muốn chị giải thích tại sao yêu cầu của tôi không được đáp ứng chính xác."

Không thể. Không thể thế được. Đúng là tôi nằm mơ thật rồi, đúng là tôi sống ở một thế giới khác, một thế giới không biết đến phải trái và logic là gì. Ngay chính tôi cũng chẳng dám tin vào những gì trái khoáy đã xảy ra.

" Miranda, tôi nhớ là bà muốn có hai cuốn, và tôi cũng đặt hai cuốn," tôi lắp bắp, lại lần nữa tự căm ghét mình cứ phải cố gắng chiều lòng bà ta. " Tôi nói chuyện với bên nhà xuất bản và tôi tin họ hiểu rằng bà cần hai quyển. Không thể tưởng tượng ..."

"Aan-dree-aa, chị biết tôi không ưa nghe lý do lý trấu, bây giờ tôi cũng chẳng hứng thú nghe chị kể lể làm gì. Tôi mong là không bao giờ xảy ra những chuyện tương tự một lần nữa, được không? Hết." Bà cúp máy.

Tôi đứng đực ra, dễ có đến năm phút, tai vẫn áp vào ống nghe và nghe tiếng tút tút liên tục. Trong đầu tôi quay cuồng hàng nghìn câu hỏi. Tôi sẽ giết chết bà ta! Và liệu có ai điều tra được nguyên nhân không? Liệu tôi có nhất thiết là nghi phạm chính? Nhất định không, bởi vì nói cho cùng thì mọi người - ít nhất là ở Runway - ai cũng có động cơ muốn giết bà ta. Liệu tôi có thực sự đủ dũng cảm nhìn bà ta quằn quại giãy chết một cách từ từ và đau đớn? Câu trả lời rất đơn giản: có. Tôi chỉ còn phải nghĩ ra một phương pháp khoái trá nhất để đưa bà ta xuống suối vàng.

Tôi chậm chạp đặt ống nghe xuống. Tôi có thể hiểu sai tin nhắn trong hộp thoại của bà ta sáng nay không? Tôi móc di động ra và nghe lại tin nhắn: " Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giờ sáng Chủ Nhật ở Paris và hai cháu bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn rằng là sách sắp đến rõ chưa. Hết." Tôi không làm gì sai cả. Tất nhiên, rất có thể là bà ấy chỉ nhận được một cuốn chứ không phải hai, nhưng bà ta đã gián tiếp nói đó là lỗi của tôi, một lỗi lầm kinh khủng có thể chấm dứt sự nghiệp. Bà ta gọi điện lúc chín giờ sáng và không thèm biết rằng lúc đó ở đây mới ba giờ rạng sáng một ngày Chủ Nhật ngon lành nhất trong tháng của tôi. Bà gọi điện để chọc cho tôi điên lên, làm tôi quay cuồng, thúc tôi phản kháng. Để tôi căm thù bà hơn gấp bội.

Chap 7.

Liên hoan giao thừa ở nhà Lily ấm cúng và không đông, chỉ có vài bạn cùng học và mấy người quen khác được lôi đến. Tôi chưa bao giờ thích liên hoan giao thừa. Nếu tôi không nhầm thì Hugh Hefner ( chủ báo Playboy ) có lần gọi liên hoan giao thừa là dành cho bọn trẻ ranh, và nói rằng hôm đó ông ở nhà, chỉ ra ngoài vào 364 tối còn lại trong năm. Tôi cũng thích như thế. Tất cả những trò nhảy nhót và rượu bia không nhất thiết gây hứng thú nhiều. Vậy là Lily sẵn sàng giơ tay nhận việc tổ chức một bữa tiệc nho nhỏ - thay vì quẳng 150 dollar lấy một vé dạ hội ở một nhà hàng và tệ hơn nữa là sau đó ra đứng giữa trời lạnh buốt ở quảng trường Times. Mỗi người tham gia đóng góp một chai loại kha khá, Lily mua ít pháo và giấy trang trí, và lúc giao thừa đã hơi chuếch choáng hơi men chúng tôi chạm cốc chúc mừng năm mới trên đỉnh khu Harlem. Hẳn nhiên chúng tôi cũng hơi quá chén, nhưng Lily là người uống hăng nhất và khi mọi người đứng dậy ra về thì cô đã bất tỉnh nhân sự . Tôi không muốn để Lily một mình trong tình trạng này, nhất là sau khi cô đã nôn mửa hai lần, nên tôi cùng Alex gói vài thứ đồ của cô vào túi rồi lôi cô lên taxi cùng về nhà. Cả ba ngủ qua đêm ở nhà tôi, Lily trên giường ngoài phòng khách, sáng hôm sau chúng tôi cùng đi ăn sáng một trận đã đời.

Tôi thấy may mắn là kì nghỉ đã qua. Cũng đã đến lúc tôi phải bắt đầu chỉnh đốn cuộc sống và - thực sự bắt đầu - ở nơi làm việc mới. Tuy có cảm giác như tôi đã làm việc hàng chục năm ở Runway nhưng thật ra tôi mới chập chững những bước đầu tiên. Tôi rất hy vọng là tình cảnh sẽ tốt lên, một khi tôi và Miranda hằng ngày trực tiếp làm việc với nhau. Trên điện thoại nhiều khi người ta cũng lạnh nhạt, nhất là khi không thích du lịch hoặc đang trong tâm trạng bất ổn khi ở xa công việc. Tôi tin là những vụ rắc rối trong tháng đầu sẽ qua đi, và vui mừng chờ đón một viễn cảnh hoàn toàn mới mẻ sắp mở ra trước mắt.

Hôm nay là mồng ba tháng Giêng, một ngày lạnh lẽo và xám xịt. Đã quá mười giờ, tôi đang ở nơi làm việc và trong tâm trạng vui vẻ. Emily đang hết lời ngợi ca một anh chàng mà cô mới gặp hôm liên hoan giao thừa ở Los Angeles, cực " hot," một ngôi sao sắp nổi chuyên sáng tác ca khúc. Anh ta hứa sẽ đến thăm cô ở New York trong mấy tuần tới. Tôi tán chuyện với cậu phó biên tập về thẩm mỹ ở phòng bên cạnh. Một chàng trai rất dễ thương, bố mẹ cậu không hề biết con trai mình là người đồng tính và quan hệ tình dục với đàn ông, mặc dù cậu ta học ở đại học Vassar ra - một trường chủ yếu dành cho con gái - và làm biên tập viên thẩm mỹ cho một tạp chí thời trang.

" Đi với tôi, Andy, tôi hứa với chị là ở đó rất vui. Tôi sẽ giới thiệu cho chị làm quen với những nhân vật siêu hạng, rồi chị sẽ thấy. Chị cứ tin tôi đi, tôi có cả mấy anh bạn dị tính đẹp trai ngất trời. Với lại, đây là một bữa tiệc của Marshall, bảo đảm bao giờ cũng hay tuyệt," James trầm trồ. Anh dựa vào bàn tôi trong khi tôi mở email. Còn Emily tiếp tục phấn khởi líu lo kể từng chi tiết trong cuộc gặp gỡ với chàng danh ca tóc dài của cô.

" Nếu không bận gì thì nhất định tôi sẽ đi cùng, nhưng tối nay tôi và bạn trai đã có kế hoạch, từ trước Noel rồi," tôi nói. " Từ mấy tuần nay chúng tôi định đi ăn tối một bữa thịnh soạn, mới đây tôi còn cắt kế hoạch vào phút cuối cùng."

" Thì chị hẹn anh ấy sau đó cũng được! Có phải ngày nào cũng có dịp thấy mặt nghệ sĩ nhuộm tóc tài ba nhất của thế giới văn minh đâu, đúng không nào? Sẽ có mặt hàng loạt các nhân vật nổi tiếng, và ai nấy đều diện tưng bừng, với lại, nhất định đây sẽ là bữa tiệc hoành tráng nhất tuần này! Đích thân công ty Harrison and Shriftman tổ chức buổi này - không còn gì sánh nổi. Chị gật đầu đi!" Anh ta nhìn tôi bằng cặp mắt tội nghiệp cường điệu như một chú chó con, khiến tôi phải phì cười.

" James, tôi cũng muốn, rất muốn - tôi cũng chưa bao giờ vào Plaza cả. Nhưng tôi không thể thay đổi kế hoạch được. Alex đã đặt chỗ ở nhà hàng Ý gần nhà anh ấy, tôi không thể phá chương trình lần nữa." Tôi biết là tôi không thể cắt hẹn, và cũng không muốn - tôi muốn ở với Alex một mình tối nay và nghe anh kể chương trình sinh hoạt buổi chiều với học sinh ra sao. Nhưng tôi cũng tiếc là cuộc hẹn rơi vào tối nay. Cả tuần qua báo chí viết nhiều về sự kiện này: có vẻ như cả Manhattan hồi hộp chờ buổi biểu diễn hằng năm vào dịp đầu năm mới của Marshall Madden, nghệ sĩ nhuộm tóc siêu hạng, và năm nay hứa hẹn sẽ còn tưng bừng hơn mọi khi, sau khi Marshall vừa cho ra quyển Màu Marshall. Tuy vậy, tôi không thể bỏ rơi bạn trai để đến xem một siêu sao nào đó biểu diễn.

" Thôi được, nếu chị không muốn, nhưng đừng trách tôi chưa bao giờ rủ chị đi cùng nữa nhé. Và mai đừng có hối hận khi đọc trong cột tin xã hội là tôi tán chuyện với Mariah Carey hay Jennifer Lopez. Chị muốn thế mà." Rồi James ngúng nguẩy bỏ đi, nửa như diễn vẻ giận dỗi, nửa bực dọc thực sự.

Tuần đầu tiên trong năm mới diễn ra suôn sẻ. Chúng tôi vẫn bận bịu mở các gói quà và liệt kê vào danh mục. Vừa sáng nay thôi, tôi mở ra một hộp đựng giày cao gót đẹp đứng tim, đính đầy những viên pha lê Swarovski. Chúng tôi không phải gói quà gửi đi nữa, và điện thoại cũng ít đổ chuông, vì phần lớn mọi người còn chưa đi nghỉ về. Miranda cuối tuần này sẽ từ Paris về, nhưng thứ hai mới đi làm. Emily yên tâm là tôi sẽ đảm đương được công việc của mình, tôi cũng tin thế. Chúng tôi soát đi soát lại mọi công việc mà tôi cần biết, và tôi chép lại các hướng dẫn gần kín một cuốn sổ tay. Tôi đọc trong đó và hy vọng sẽ nhớ ra mọi đều khi cần. Cà phê: chỉ mua của Starbucks, pha với sữa trong cốc lớn, hai viên đường, hai khăn giấy, thìa. Bữa sáng: mua của dịch vụ cung cấp Mangia, số điện 555-3948, một bánh bột xốp kẹp pho mát, bốn lát thịt muối xông khói, hai xúc xích nhỏ. Nhật báo: quầy báo ở tiền sảnh, mua các tờ Thời báo New York, Tin tức hàng ngày, Bưu điện New York, Thời báo tài chính, Bưu điện Washington, USA ngày nay, Tập san phố Wall, Thời trang Phụ nữ hằng ngày, và mỗi thứ Tư thêm tờ Người quan sát New York. Các tuần báo, mua vào thứ Hai: Thời báo, Tuần tin tức, Tin tức Mỹ,The New Yorker (!), New York giữa giờ, New York, Kinh tế. Và cứ thế tiếp tục hàng trang chi chít, Miranda thích loại hoa nào nhất, ghét loại nào nhất, tên, địa chỉ và số điện thoại riêng của các bác sĩ, các nhân viên dọn nhà, các đồ ăn vặt và loại nước khoáng ưa thích, kích cỡ mọi thứ quần áo, từ đồ lót cho đến ủng trượt tuyết. Tôi lên danh sách những người Miranda muốn nói chuyện ( đã duyệt ) , tách riêng danh sách những người Miranda không muốn tiếp ( Không bao giờ ). Tôi cắm cúi viết không ngưng tay, trong khi Emily mấy tuần liền nhồi nhét cho tôi đủ mọi thông tin, và khi đã ghi xong tôi cảm thấy không còn gì về Miranda Priestly mà tôi chưa biết. Tất nhiên, trừ câu hỏi tại sao bà ta quan trọng đến nỗi tôi phải ghi đặc một cuốn sổ về những gì bà ta thích hay ghét. Cớ gì mà tôi phải lo lắng đến thế?

" Anh ấy thật tuyệt vời làm sao," Emily thở dài não nuột, mơ màng xoắn dây điện thoại quanh ngón tay. " Có lẽ đó là kỳ cuối tuần thơ mộng nhất trong đời tôi."

Reng! Máy tính báo có email của Alex.

Bé cưng, ngày hôm nay của em tốt chứ?? Ở đây mọi thứ lộn tùng phèo cả, như mọi khi. Em còn nhớ có lần anh đã kể rằng Jerremiah dọa các bạn gái bằng một cái dao cắt bìa mà nó đem từ nhà đến? Có vẻ như không phải chuyện đùa. Hôm nay nó lại đem theo một con dao đến trường. Giờ ra chơi nó rạch vào tay một bạn gái và chửi là đồ đĩ. Vết rạch không sâu, nhưng khi giáo viên canh sân hỏi nó nghĩ gì khi làm việc ấy thì nó nói là bạn trai của mẹ nó cũng làm như thế với mẹ nó. Andy, em có thể tưởng tượng được không, thằng bé mới sáu tuổi? Tối nay ông hiệu trưởng triệu tập một cuộc họp khẩn cấp. Anh sợ là không đi ăn tối được. Anh xin lỗi nhé! Mặt khác thì anh cũng phải nói là anh hài hòng khi thấy người ta đã phản ứng khi xảy ra vụ này - anh tưởng chẳng ai quan tâm đến nữa. Em hiểu tại sao anh không thể gặp em chứ? Đừng giận anh. Lát nữa anh sẽ gọi điện cho em. Anh hứa sẽ đền em việc này.

Yêu em, Alex

Đừng giận anh? Em hiểu tại sao anh không thể gặp em chứ? Một đứa học sinh sáu tuổi của Alex tấn công học sinh khác bằng dao và anh mong tôi đừng giận vì anh không đi ăn với tôi được? Tôi đã cắt hẹn đi ăn lần cuối, sau khi tôi cho là những lúc được lái xe đưa đi khắp chốn và gói ghém quà tặng là quá mệt mỏi. Tôi suýt trào nước mắt, chỉ muốn gọi điện tắp lự là tôi rất tự hào khi thấy anh quan tâm đến bọn trẻ như vậy và nhận công việc ở đây. Tôi kích vào mục "Trả lời" và toan viết cho anh thì nghe tiếng gọi tên mình.

"Andrea, sếp đang trên đường. Mười phút nữa đến nơi," Emily lớn tiếng thông báo, rõ ràng là cố giữa bình tĩnh.

"Xin lỗi, tôi không nghe rõ chị nói gì..."

"Miranda đang trên đường, sẽ tới văn phòng ngay tắp lự. Mọi việc phải đâu vào đấy ngay."

"Đến văn phòng à? Tôi tưởng là bà ấy mãi thứ Bảy mới từ Pháp về cơ mà?"

"Vậy nghĩa là kế hoạch đã thay đổi chứ sao. Nhanh chân lên, chạy xuống tầng trệt lấy báo và xếp lên bàn như tôi đã chỉ cho chị. Xong rồi thì đánh bóng mặt bàn và đặt một ly Pellegrino bên mé trái, có đá và một lát chanh. Nhớ kiểm tra phòng vệ sinh xem có thiếu thứ gì không, rõ chưa? Chạy đi! Bà ấy lên xe rồi, nghĩa là tùy đường sá mà chậm nhất là mười phút nữa đến nơi."

Tôi phi khỏi phòng như tên bắn, còn kịp nghe Emily nhanh chóng gửi báo động qua máy đàm thoại: "Sếp đang trên đường tới đây, báo ngay cho mọi người biết!" Trong lúc chỉ cần ba giây đồng hồ để lướt qua hành lang và phòng thời trang tôi vẫn nghe được tiếng hét kinh hoàng "Emily nói là sếp đang trên đường tới đây" và thậm chí cả tiếng rú rợn người "Miranda về rồồồồồồồồi." Các trợ lý cuống cuồng chỉnh đốn lại mẫu quần áo treo trên giá, biên tập viên đổ xô về phòng làm việc, lẳng vội đôi giầy đi trong nhà vào góc và cố nhét chân vào đôi giày cao gót, tô lại son môi, uốn lông mi và xốc lại nịt vú cho ngay ngắn. Khi cửa phòng vệ sinh nam hé mở, tôi thoáng thấy James đang nhớn nhác phủi vai áo len cashmere đen và nhét vào mồm mấy viên kẹo bạc hà. Không hiểu anh chàng nhận từ đâu tin khẩn cấp, chẳng lẽ trong phòng vệ sinh nam cũng có loa truyền thanh?

Kể ra thì tôi cũng toan dừng chân mấy phút để ngắm cảnh này, song tôi chỉ còn chưa đầy mười phút để chuẩn bị cho cuộc chạm trán đầu tiên với tư cách là trợ lý mới của Miranda, và đương nhiên tôi không muốn làm hỏng việc. Tôi tăng tốc chạy tiếp.

"Andrea! Chị đã nghe tin Miranda đang tới văn phòng rồi chứ?" Sophy ở quầy lêc tân gọi khi thấy tôi lao qua.

"Tôi biết rồi, nhưng sao chị biết?"

"Cưng ơi, có gì mà tôi lại không biết? Giờ thì tôi khuyên chị rảo cẳng lên đi. Có một chân lý là: Miranda Priestly không quen đợi."

Tôi bước vào thang máy và cảm ơn Sophy. "Ba phút nữa tôi sẽ đem mấy tờ báo quay lại!" Hai người phụ nữ trong thang máy trố mắt nhìn, lúc ấy tôi mới nhận ra mình vừa hét quá to.

"Xin lỗi," tôi thở hổn hển. "Nhưng chúng tôi vừa được tin là sếp đang trên đường tới văn phòng. Chuyện quá bất ngờ, do vậy ở chỗ chúng tôi đang náo loạn cả lên." À mà tại sao tôi lại phải biện hộ trước mấy người này nhỉ?

"Trời ạ, vậy thì nhất định chị làm việc ở chỗ Miranda! Để tôi đoán xem nào. Chị là trợ lý mới của Miranda? Andrea, đúng chưa?" Cô gái tóc nâu chân dài để lộ hàm răng trắng loang loáng. Cô bạn cũng đột nhiên tỏ ra thân thiện hơn.

"Vâng, đúng thế, Andrea." Tôi nhắc lại tên mình, tựa như nó không thuộc về tôi. "Vâng, đúng thế, tôi là trợ lý mới của Miranda."

Thang máy vừa vặn xuống đến tầng trệt, cửa mở ra và tôi lấn qua hai cô gái để ra tiền sảnh bằng cẩm thạch sáng choang. Một cô gọi với theo: "Andrea, chị là người may mắn đấy, Miranda là một người tuyệt vời, và hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được làm công việc của chị đấy!"

Tôi vòng sát sạt qua một đám luật sư mặt mũi bực bội và suýt nữa đâm sầm phải quầy bán báo ở góc tiền sảnh. Đây là giang sơn của một người Kuwait nhỏ thó tên là Ahmed với hàng loạt sách báo sặc sỡ, bánh kẹo và đồ uống không đường mà trong quá trình tập huấn Emily đã giới thiệu với tôi từ trước lễ Giáng sinh. Hy vọng ông sẽ là cứu tinh của tôi trong cơn hoạn nạn này.

"Gượm đã nào!" Ông ta kêu lên khi thấy tôi gỡ mấy tờ báo trên giá xuống. "Chị là cộng tác viên mới của Miranda, đúng không? Thế thì lại đây."

Ahmed cúi xuống lục lọi trong một ngăn nào đó dưới két thu ngân. Khuôn mặt đỏ bừng của ông lại hiện ra: "Đây này!" Ông lại kêu lên, lăng xăng nói: "Của chị đây, không thì chị xới tung cả giá báo của tôi lên. Ngày nào tôi cũng cất riêng báo của Miranda, cũng để khỏi bị lỡ bán hết," ông nháy mắt.

"Cám ơn ông Ahmed. Ông đã giúp tôi rất nhiều. Liệu tôi có nên lấy luôn cả mấy tờ tạp chí không?"

"Nhất định rồi. Chị xem này, hôm nay đã là thứ Tư và tất cả các tờ tạp chí đã ra từ thứ Hai. Sếp của chị chắc sẽ không vui nếu thiếu báo đọc," ông nói vẻ đầy hiểu biết, lại chui lần nữa xuống ngăn dưới két tiền để lôi lên một chồng báo nữa. Tôi liếc nhanh danh sách xem có gì thiếu không - quả là không thừa và không thiếu một tờ.

Thẻ thông hành, cái thẻ thông hành chết tiệt của tôi đâu rồi nhỉ? Đây rồi, dĩ nhiên là nó treo lủng lẳng dưới sợi dây lụa mà Emily làm cho tôi bằng một chiếc khăn Hermès trắng của Miranda. "Thật ra thì không bao giờ Miranda được phép thấy chị như thế này," Emily nói, "nhưng nếu chẳng may chị quên tháo nó ra thì ít nhất nó cũng không bị treo dưới sợi cước nylon." Phải nói ra chữ nylon chị nhăn mặt như khỉ nhai gừng/

"Thẻ đây, ông Ahmed. Cám ơn ông lần nữa, tôi vội quá. Sếp đang tới."

Ông quẹt thẻ qua máy đọc để cạnh két tiền và đeo lại cho tôi sợi dây lụa vào cổ như vòng hoa. "Thế thì nhanh chân lên!"

Tôi vớ vội nylon đầy căng báo, vừa chạy vút đi vừa kéo cái thẻ thông hành ra để đi qua cửa xoay chắn trước dãy thang máy của tòa nhà Elias Clark. Tôi quẹt thẻ qua máy đọc rồi đẩy. Không được. Làm lại lần nữa, lần này đẩy mạnh hơn. Vẫn không được.

"Some boys kiss me, some boys hug me, I think they're okay-ay," Leonardo, tay bảo vệ béo tròn và luôn dâm dấp mồ hôi cất giọng the thé hát sau quầy thường trực. Khốn nạn thật. Không cần nhìn tôi cũng nhận ra kiểu gã bắt tôi cùng chơi trò chơi ngớ ngẩn của mình như gã vẫn làm hằng ngày trong mấy tuần qua. Có lẽ gã là một người thích hát và lúc nào cũng ư ử không dứt, và gã không bao giờ cho tôi đi qua cửa xoay mà lại không làm trò cùng với bài hát điên rồ của gã.

Hôm qua gã hành hạ tôi với bài. "I'm too sexy". Trong khi gã hát "I'm too sexy for Milan, too sexy for Milan, New York and Japan," tôi phải làm bộ đi trên sàn diễn thời thời trang tưởng tưởng giữa tiền sảnh. Lúc nào đang vui thì tôi cũng thích diễn trò đó với gã, thậm chí có lúc còn thấy thú vị. Nhưng hôm nay là cú chạm trán đầu tiên với Miranda và tôi không thể làm mọi việc quá muộn, hôm nay thì không. Bên phải bên trái tôi mọi người điềm nhiên đi qua cửa xoay; tôi chỉ muốn vả cho gã một phát lệch mặt.

Tôi nhăn nhó hát, kéo dài giọng ngân đúng kiểu Madonna "If they don't give me proper credit, I just walk away-ay".

Gã nhướng mày: "Vẫn thiếu bốc lửa lắm, cô bé ạ."

Chỉ nghe gã nói thêm một câu nữa là tôi phát rồ lên mất. Thôi được. Tôi quẳng túi báo lên mặt quầy, vung cả hai tay lên, lắc hông và chúm chím môi rất kịch, tiếp tục hát hay đúng hơn là hét lên trước khi lên cơn điên: "A material! A material! A material! A material... WORLD!". Gã cười và vỗ tay, cho tôi qua.

Ghi nhớ: phải nói cho Eduardo biết là bao giờ và ở đâu được phép đùa nhả như vậy.

Lại vào thang máy, lại lao ra, chạy ngang mặt Sophy, cô lẳng lặng ấn nút mở cửa cho tôi vào văn phòng. Thậm chí tôi còn nhớ chạy vào ngăn bếp tí xíu để lấy chiếc ly pha lê của Miranda trong giá treo trên lò vi sóng và ném vào đó mấy viên đá. Một tay cầm ly và tay kia cầm túi báo, tôi rẽ quặt qua góc nhà và đâm phải Jessica - cô gái có bộ móng tay tuyệt tác. Mắt cô lộ vẻ bực dọc pha lẫn khiếp sợ.

"Andrea, chắc chị đã biết là Miranda đang trên đường tới văn phòng rồi chứ?" Cô hỏi, trong khi ngắm tôi từ đầu đến chân.

"Tất nhiên rồi. Đây là báo, còn đây là ly của Miranda, tôi chỉ còn phải vào phòng Miranda để sắp xếp lại bàn làm việc cho tử tế. Chị cho tôi xin lỗi..."

"Andrea!" Cô hét lên khi tôi vội chạy qua mặt cô và làm một viên đá bắn tung ra ngoài ly. "Đừng quên thay ngay đôi giày!"

Tôi đứng sững lại như mọc rễ và nhìn xuống chân. Chết rồi, tôi đang đi đôi giày thể thao đế thấp cho thoải mái. Quy định chính thức và bất thành văn về trang phục cũng không được chấp hành nghiêm cẩn khi Miranda không có mặt. Đương nhiên các cộng tác viên trông vẫn lộng lẫy, nhưng tất cả đều cho phép mình mang một thứ gì đó mà nếu trước mặt Miranda thì họ không đời nào dám trưng ra. Thí dụ điển hình là đôi giày thể thao đỏ chót của tôi.

Tôi vã mồ hôi lạnh trong khi chạy vào phòng. "Tôi đã kiếm đủ nhật báo, cẩn thận lấy hết các tạp chí trong tuần. Nhưng có vấn đề: xem giày tôi này!"

Emily giật tai nghe xuống và quẳng lên bàn. "Không thể được, đồ này không thể xài được." Cô với điện thoại, quay một số nội bộ và ra lệnh: "Jeffy, đem ngay cho tôi một đôi Jimmy, cỡ..." cô nhìn tôi.

"Chín rưỡi." Tôi lấy một chai San Pellegrino nhỏ trong tủ ra và rót vào ly.

"Chín rưỡi. Không, bây giờ. Ngay tắp lự. Không, chuyện nghiêm chỉnh. Ngay bây giờ. Andrea đang đi giày thể thao, màu đỏ, và sếp sắp có mặt ở đây bất cứ lúc nào. Okay, cám ơn."

Lúc đó tôi mới nhận ra là trong bốn phút mà tôi chạy xuống tầng trệt Emily đã kịp đổi bộ cánh. Thay vì quần bò mài bây giờ cô mặc quần da, giày thể thao ngang tàng được thế chỗ bởi giày cao gót. Phòng cũng được dọn ngăn nắp. Giấy tờ bị đút vào ngăn kéo và các gói quà Noel chưa đưa đến nhà Miranda biến ngay vào tủ. Emily cũng tô lại môi bằng bút bóng và thoa chút son lên gò má. Cô cuống cuồng ra hiệu bảo tôi làm tiếp.

Tôi vớ lấy túi báo, chạy sang bên cạnh và đổ lên mặt bàn có lắp đèn ở dưới mà Miranda, như Emily đã cho tôi biết, đôi khi soi xét các bức hình chụp mẫu hàng tiếng đồng hồ. Ngoài ra, báo chí cũng phải bày lên đó. Tôi so sánh với tờ ghi chép để xếp báo theo đúng thứ tự. Trước tiên là tờ Thời báo New York, rồi đến Tạp san phố Wall và Bưu điện Washington, luôn đè lên nhau một chút và nhìn về tổng thể giống như hàng lính khi duyệt binh vậy. Ngoại lệ duy nhất là tạp chí Thời trang Phụ nữ Hằng ngày nằm chính xác ngay giữa bàn Miranda.

"Sếp đến rồi! Ra đi, Andrea! Sếp đang lên tầng," Emily nén giọng gọi. "Yuri gọi điện báo là sếp vừa ra khỏi xe được một giây."

Tôi đặt tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày lên bàn giấy, ly San Pellegrino bên cạnh (phía nào nhỉ? Trời ơi, tôi không nhớ là bên phải hay bên trái nữa), đưa mắt kiểm tra lần cuối khắp phòng rồi chạy ra ngoài. Jeffy, một trợ lý thời trang phụ trách trang phục ném cho tôi hộp bìa đựng giày buộc băng chun rồi cũng biến luôn. Tôi mở hộp ngay. Một đôi xăng đan cao gót hiệu Jimmy Choo quai bằng lông lạc đà ngự trên nền giấy lụa, chắc chắn phải có giá đến 800 dollar. Khỉ gió thật! Thọc chân vào thế nào đây.

Tôi lột giày thể thao và đôi tất không còn mới lắm, tống hết xuống gầm bàn. Chiếc bên phải thì không vấn đề gì, nhưng khi xỏ chiếc kia thì móng tay quá ngắn của tôi mãi không mở được khóa. Lọ mọ mãi tôi mới làm xong. Cho được chân trái vào dép và đóng quai thì lông lạc đà cứa vào thịt. Một, hai giây sau thì cài xong khóa, tôi vừa ngồi dậy cho thẳng lưng thì đúng lúc Miranda bước vào.

Tôi đờ người ra. Ngồi cứng đờ trên ghế, tuyệt đối không động đậy gì cả. Miranda nhìn thấy tôi ngay, có lẽ vì bà vẫn nghĩ rằng Emily đang ngồi ở vị trí cũ. Bà đến chỗ tôi, chống cùi tay lên tấm che và ngả hẳn người qua bàn, ngày càng sát mặt tôi. Đôi mắt xanh thép của bà quét lên thân hình đờ dại của tôi, từ trên xuống dưới, từ phải qua trái, quét lên chiếc sơ mi trắng, chiếc váy mini đỏ bằng nhung kẻ hiệu GAP tôi đang mặc, và trong tích tắc cuối cùng cũng nhìn đến đôi xăng đan Jimmy Choo có quai bằng lông lạc đà đã được cài tử tế. Tôi cảm nhận rõ tia mắt kiểm tra từng phân trên da, tóc và quần áo. Cho dù mắt bà lướt rất nhanh trên người tôi, nét mặt bà vẫn lạnh như băng. Bà ngả sát chút nữa về phía tôi, cho đến khi chỉ cách mặt tôi một gang tay và một làn hương thơm ngát xộc vào mũi tôi, một hương thơm trộn lẫn mùi nước gội đầu đắt tiền và nước hoa hảo hạng. Gần đến mức tôi nhìn thấy cả những nếp nhăn li ti quanh mắt và miệng bà mà nếu xa chút nữa thì chắc là tôi sẽ không nhận ra. Nhưng đằng nào thì tôi cũng không thể chịu đựng được lâu vụ đấu mắt, vì bà nhìn tôi một cách quá săm soi. Chẳng có một chút dấu hiệu gì chứng tỏ là a) bà đã nhận ra rằng hai chúng tôi đã từng gặp nhau một lần rồi, b) bà biết tôi là cộng tác viên mới, hay c) tôi không phải là Emily.

"Xin chào bà Priestly," tôi nghe mình lí nhí nói với giọng khản đặc, mặc dù bà không nói gì với tôi. Nhưng tôi căng thẳng không chịu nổi, phải thốt ra điều gì không thì nổ tung lên mất. "Tôi rất vui mừng được phép làm việc cho bà. Rất cám ơn bà đã tạo cơ hội cho tôi..." Im mồm đi nào, mi không có chút tự trọng hay sao!

Bà vươn thẳng người đi tiếp. Chấm dứt thị sát tôi, để mặc tôi ngồi trơ ra và mồm vẫn lắp bắp nói tiếp như một con ngố. Mặt tôi nóng bừng lên vì lúng túng, xấu hổ và nhục nhã. Thêm vào đó là cảm giác bị tia mắt sát thủ của Emily xuyên suốt làm tôi càng cuống hơn. Tôi ngẩng đầu lên nhìn cô, và đúng thế, Emily đang giận dữ ngó qua.

"Bản tin cập nhật rồi chứ?" Miranda vừa đi vào phòng mình vừa hỏi trống không; tôi sung sướng nhận thấy bà đi thẳng tới bàn lắp đèn, nơi tôi đã bày sẵn báo cho bà.

"Vâng, Miranda, đây ạ," Emily hăng hái đáp lời và xăng xái chạy theo chân bà để nộp cặp giấy mà chúng tôi vẫn kẹp những tin tức gửi đến cho bà.

Tôi không rời chỗ của mình và quan sát Miranda đi lại trong phòng mình: bóng bà hiện ra trong những khung ảnh lồng kính treo trên tường. Emily lại chạy từ đó về bàn của mình. Không ai nói câu nào. Không được nói chuyện với nhau nữa khi sếp ở văn phòng hay sao?, tôi tự hỏi. Rồi tôi đặt câu hỏi đó cho Emily, nhưng không nói ra mồm mà gửi email! Mấy giây sau tôi nhận được trả lời trên màn hình: chị học nhanh đấy, cô viết. Nếu mình có chuyện gì nói với nhau thì chỉ nói thầm thôi. Ngoài ra thì nên giữ mồm. À, chị KHÔNG BAO GIỜ nói với sếp nếu không được sếp hỏi tới. Và tuyệt đối KHÔNG BAO GIỜ được gọi sếp là bà Priestly, chỉ được gọi là Miranda. Hiểu chưa? Một lần nữa tôi có cảm giác vừa bị ăn một bạt tai. Nhưng tôi chỉ gật đầu. Đột nhiên tôi thấy chiếc măng tô. Một tuyệt tác bằng lông thú, bị lơ đãng vứt lên bàn giấy của tôi và tay áo thõng xuống gần chạm đất. Tôi ném cái nhìn đó hỏi qua Emily. Cô nhướng mắt, khoát tay về phía tủ tường và thì thào: "Treo lên!" Chiếc măng tô nặng như cái chăn lông vũ vừa lôi từ máy giặt ra, tôi phải nâng cả hai tay để nó khỏi quệt xuống sàn. Rồi thì tôi cũng loay hoay treo được nó lên mắc áo một cách cẩn thận và khép cửa tủ êm ru.

Tôi chưa kịp về đến bàn mình thì đã thấy Miranda đứng ngay bên cạnh. Lần này thì bà có dịp nhìn tôi từ mọi phía và đương nhiên không bỏ lỡ. Có cảm giác như trong ánh mắt xanh thép của bà từng điểm trên người tôi bắt lửa, nhưng tôi tê liệt hẳn và không về nổi ghế. Đúng lúc mái tóc của tôi sắp bùng cháy thì bà nhìn vào mắt tôi.

"Măng tô của tôi," bà nói khẽ, nhìn thẳng mặt tôi, và tôi không rõ là bà có biết tôi là ai, hay chẳng cần biết rằng có một người lạ đang đóng vai trợ lý của bà. Không có gì gợi nhớ là bà đã nhận ra tôi, mặc dù buổi phỏng vấn mới cách đây chừng bốn tuần.

"Có ngay," tôi thốt ra và chạy lại phía tủ tường. Nói dễ hơn làm, vì bà đứng chắn giữa đường. Tôi luồn qua bên cạnh, chú ý không chạm phải người bà khi mở cửa tủ. Bà không tránh ra lấy một phân, tôi có cảm giác mắt bà dõi theo. Rốt cuộc, may mắn thay, tôi túm cả hai tay để cẩn thận nâng chiếc áo lông thú ra. Thiếu chút nữa là tôi quẳng nó cho bà và đợi xem bà có bắt được nó không, nhưng trong giây cuối cùng tôi đã tự chủ được và mở nó ra như một người đàn ông lịch thiệp phục vụ một quý bà. Bà nhẹ nhàng luồn vào và lấy ra chiếc điện thoại di động, đồ vật duy nhất bà đem đến văn phòng.

"Emily, tối nay tôi muốn xem cuốn SÁCH," bà nói trong khi nhẹ bước ra khỏi phòng, bận bịu với những suy nghĩ riêng đến nỗi không nhận ra đám đàn bà con gái ngoài sảnh và nhanh chân túa đi mất khi nghe tiếng chân bà.

"Vâng, Miranda, tôi sẽ bảo Andrea đưa tới cho bà."

Thế là hết. Bà ta đã đi khỏi. Chuyến thăm viếng mà vì nó cả ban biên tập phát cuồng cả lên để thay quần áo và sửa sang son phấn sau bốn phút là chấm dứt, và - theo cách đánh giá ít hiểu biết của tôi - chẳng có ý nghĩa gì cả.

"Đừng quay lại nhìn," James thì thào, môi không động đậy. "Tôi nghĩ là chếch sau lưng chị tôi vừa phát hiện ra Reese Witherspoon."

Tất nhiên là tôi quay phắt lại. James nói đúng: Reese đứng đó với ly sâm banh, đang ngả đầu ra sau cười. James phát ngượng vì sự tò mò của tôi, nhưng tôi không thế làm khác: Reese là một trong những nữ diễn viên mà tôi yêu thích nhất.

"James cưng, rất vui mừng vì anh đã đến dự buổi liên hoan nhỏ của tôi," một người đàn ông mảnh mai xinh xắn vừa đến sau lưng chúng tôi thỏ thẻ. "Cậu đem ai tới cùng thế này?" Hai người hôn nhau.

"Marshall Madden, vua của sắc màu, xin giới thiệu với anh Andrea Sachs. Andrea hiện nay là..."

"... trợ lý mới của Miranda," Marshall nói nốt câu và mỉm cười với tôi. "Tôi đã nghe hết mọi chuyện về cô rồi, bé con ạ. Chào mừng cô trong vòng tay gia đình. Hy vọng cô sẽ còn đến chơi. Tôi hứa là chúng ta sẽ cùng nhau làm gì đó cho... phong cách của cô." Ông ta âu yếm xoa đầu tôi, nâng ngọn tóc để so sánh màu với chân tóc. "Đúng rồi, thêm một chút màu mật ong nữa thì cô sẽ là siêu mẫu mới. Cô bảo James cho cô số điện của tôi nhé. Hôm nào kiếm được vài phút rảnh rỗi thì cô cứ qua chỗ tôi, okay? Nhưng chắc là cô bé bận lắm!" Ông nói trong khi lượn qua phía Reese.

James thở dài và đắm đuối ngó theo ông. "Một bậc thầy," anh thì thào. "Người xuất sắc nhất. Vĩ đại nhất. Đàn ông nhất. Nói thế vẫn còn quá ít. Thật tuyệt vời." Anh mê muội nói. Nhưng - đàn ông nhất? Buồn cười thật. Trước đó nghe ai xài chữ ấy thì chắc tôi nghĩ đến Shaquille O'Neal nhảy lên ném bóng vào rổ - chứ không phải một thợ nhuộm tóc!

"Ông ấy thật tuyệt với, tôi cũng nghĩ như anh. Anh đã có gì với ông ấy chưa?" Có vẻ như đó sẽ là một đôi lứa tương xứng: trợ lý biên tập thẩm mỹ của Runway đi với nghệ sĩ làm tóc đắt nhất thế giới.

"Đừng có mơ hão. Ông ấy từ bốn năm nay chỉ có một bạn trai duy nhất. Không thể tin nổi. Bốn năm liền! Từ bao giờ dân gay có giá như bọn này lại chung thủy thế? Thật không công bằng."

"Ơ kìa. Thế dân dị tính có giá mà chung thủy thì tốt hay sao? Nhưng, bạn trai tôi chung thủy thì okay." Tôi rít một hơi thuốc thật dài và thổi mấy vòng khói khá tròn.

"Thôi đi Andy, chị hãy công nhận là cũng bõ công đi cùng tôi tới đây, đúng không? Hay đây không phải là dạ hội hoành tráng nhất mọi thời?" Anh mỉm cười nói.

Sau khi Alex bỏ buổi hẹn, tôi quyết định đi cùng James, chủ yếu vì anh cứ bám nhằng nhằng không dứt ra được. Trí tưởng tượng của tôi phong phú đến mấy cũng không nghĩ ra là một cuốn sách về màu tóc lại có thể hay ho được, nhưng bây giờ phải thú nhận là tôi bị ngạc nhiên một cách dễ chịu. Khi Johnny Deep đến chỗ James chào hỏi, tôi giật mình vì anh ta không những chỉ nói ra được một câu có chấm phẩy tử tế mà còn biết kể tiếu lâm dí dỏm. Và sướng nhất là được thấy Gisele Bỳndchen, người mẫu hot nhất trong giới người mẫu hiện tại, hóa ra chỉ là một người bé tẹo. Dĩ nhiên tôi sẽ còn sướng hơn nếu cô ta béo phục phịch hay mặt đầy trứng cá khiến các thợ sửa ảnh phải tút hàng tiếng đồng hồ, nhưng thật ra được chứng kiến cô ta lùn tịt là tôi đã hài lòng lắm rồi. Tóm lại là cho đến lúc này thì buổi tối hôm nay khá ổn.

"Nói thế thì có lẽ hơi quá lời," tôi đáp và vươn người tới trước để quan sát một người đàn ông đẹp trai đang lui vào góc đằng sau bàn để sách. "Nhưng cho đến giờ thì mọi thứ đúng là không tồi tệ như tôi tưởng. Sau một ngày như hôm nay thì bất cứ cú lên giây cót nào tôi cũng thích."

Sau cú xuất hiện bất thình lình và ra đi cũng bất thình lình của sếp, Emily thông báo tối nay lần đầu tiên tôi có nhiệm vụ đem cuốn SÁCH đến nhà Miranda. Cuốn SÁCH này là một tập hợp các trang bản thảo của tạp chí Runway, đóng lại to như cuốn danh mục điện thoại. Theo lời Emily kể lại thì công việc biên tập và xuất bản chỉ thực sự bắt đầu khi Miranda đã về nhà. Các chuyên viên đồ họa và biên tập viên phải liên lạc suốt ngày với bà vì đều đặn mỗi giờ một lần bà tung hê mọi thứ và bắt làm lại từ đầu. Chỉ đến tối, khi bà bắt đầu chơi với hai đứa trẻ thì các cộng tác viên khác mới chính thức bắt tay vào việc. Lúc đó mọi đề nghị thay đổi được thực thi, các bài báo được Miranda duyệt và đánh dấu bằng chữ MP to tướng trên bản thảo được hoàn tất. Sau đó biên tập viên gửi tất cả các dự thảo cho trợ lý nghệ thuật để lùa bài viết và tranh ảnh qua một chiếc máy dán chất dẻo lên mặt sau từng trang và in vào SÁCH. Khi mọi việc đã xong, cuốn SÁCH được nộp cho Miranda ở nhà để đọc kiểm tra. Thông thường thì Miranda nhận được cuốn SÁCH vào khoảng từ tám đến mười một giờ tối, tùy thuộc vào công đoạn sản xuất. Hôm sau bà đem SÁCH đến văn phòng để ban biên tập kiểm tra lại từ đầu đến cuối một lần nữa.

Khi biết là tôi vẫn muốn cùng James đi dạ hội, Emily nói giọng cay cú: "Chắc chị biết là chị chưa được ra khỏi đây trước khi hoàn thành cuốn SÁCH chứ?"

Tôi trố mắt. Còn James nom như sắp lấy đà lao vào bóp cổ Emily.

"Thế đấy, tôi buộc phải nói rằng đó là một phần công việc của chị mà tôi may mắn không phải làm nữa. Việc này đôi khi kéo dài rất, rất lâu, nhưng tối nào Miranda cũng muốn được thấy cuốn SÁCH, chị biết đấy. Sếp làm việc ở nhà. Hôm nay thì tôi ở lại lâu hơn và chỉ dẫn cho chị mọi việc, nhưng từ mai trở đi thì chị tự làm hết."

"Okay, cám ơn chị. Liệu bao giờ sẽ xong nhỉ?"

"Sao mà biết được. Mỗi tối mỗi khác. Chị có thể sang phòng nghệ thuật hỏi xem sao."

May mà SÁCH hôm nay xong khá sớm, khoảng tám rưỡi. Sau khi nhận nó từ tay trợ lý nghệ thuật mệt rũ rượi, chúng tôi cùng nhau đi xuống phố 59. Emily vác một núi quần áo vừa giặt là bọc trong bao nylon, cô giải thích cho tôi biết là việc nộp SÁCH luôn đi kèm với vận chuyển quần áo. Mỗi sáng Miranda đem quần áo bẩn tới văn phòng, một người trong bọn tôi (từ hôm nay trở đi chính là tôi) gọi điện cho bên giặt là, họ đến ngay và hôm sau trả quần áo đã giặt là xong. Chúng tôi treo chúng vào tủ ở sảnh, đợi tới lúc chuyển tiếp cho Yuri hay tự đem đến nhà Miranda. Công việc của tôi quả là ngày càng đòi hỏi nhiều chất xám hơn!

"Chào Rich!" Emily thân mật gọi người phụ trách đội xem đang phì phèo tẩu thuốc mà tôi đã làm quen hôm đầu. "Đây là Andrea, từ hôm nay tối nào chị ấy cũng đi nộp SÁCH. Ông lo cho chị ấy luôn có một ô tô tử tế nhé."

"Được thôi, Tóc đỏ ạ." Ông lấy tẩu khỏi mồm và trở vể phía tôi. "Tôi sẽ chăm sóc Tóc vàng cẩn thận."

"Tuyệt quá. À, hôm nay xin ông cho thêm một xe đi theo nhé. Nộp xong SÁCH thì Andrea và tôi đi hai ngả khác nhau."

Hai chiếc Limousine to tướng đi ra. Người lái xe phục phịch của xe thứ nhất nhảy ra khỏi xe và mở cửa. Emily lên xe trước tôi, nói với lái xe: "Cho đến nhà Miranda Priestly" và lôi điện thoại di động ra. Anh ta gật đầu và cho xe chuyển bánh.

"Hôm nào cũng vẫn một lái xe ấy à?" Tôi ngạc nhiên vì không thấy lái xe hỏi địa chỉ.

Emily ra hiệu cho tôi im lặng trong khi nhắn tin cho người ở cùng nhà rồi mới trả lời: "Không, nhưng công ty không có nhiều lái xe. Tôi đã đi đến hai chục lần với mỗi người rồi, do đó họ đều biết đường cả." Cô lại bấm số điện thoại tiếp. Tôi quay lại và thấy chiếc xe thứ hai không chở ai đi cách sau một đoạn.

Chúng tôi dừng trước một ngôi nhà có bảo vệ, đặc trưng cho đại lộ Fifth Avenue: vỉa hè sạch bóng, bao lơn chỉn chu, tiền sảnh sáng dịu và thân thiện. Một người mặc áo đuôi tôm và đội mũ ra mở cửa xe và Emily bước xuống. Tôi ngạc nhiên vì nghĩ rằng chúng tôi chỉ đơn giản trao cho bảo vệ cuốn SÁCH và áo quần. Nếu tôi không nhầm - ở cái thành phố kỳ lạ này thì ai mà dám chắc - thì đó chính là công việc của những người canh cửa. Nhưng Emily đã lấy một túi da Louis Vuitton đựng chìa khóa trong chiếc túi Gucci của cô ra và dúi vào tay tôi.

"Tôi đợi ở đây. Chị đưa đồ lên gác, Penthouse A. Mở khóa cửa và đặt quyển SÁCH lên bàn con ở hàng lang, quần áo thì treo lên móc bên cạnh tủ, nhớ không treo vào tủ, mà cạnh tủ. Rồi đi ra. Bất kỳ trường hợp nào cũng không được gõ cửa hay nhấn chuông, sếp không muốn bị quấy quả. Ra vào lặng lẽ, chớ gây ồn ào!" Cô đưa tôi túi chìa khóa và lại quay ra bấm điện thoại đi động. Okay, tôi làm xong ngay. Một quyển sách và máy thứ áo quần chứ có gì mà vẽ chuyện.

Người gác thang máy mỉm cười thân thiện và lặng lẽ ấn nút "Penthouse" sau khi quay chìa khóa. Trông ông như một bà lão ốm yếu, buồn bã buông tay chấp nhận mọi ngang trái của số phận.

"Tôi đợi chị ở đây," ông cúi đầu nói. "Chị chỉ cần một phút là cùng."

Khu tiền sảnh trải thảm màu vang chát, dày đến nỗi tôi suýt nữa trẹo mắt cá khi móc gót giày vào. Trên tường dán giấy màu kem có sọc nhỏ li ti. Cánh cửa lò xo trước mặt tôi có chữ Penthouse B; tôi quay lại và nhận ra Penthouse A. Tôi phải hết sức tự chủ để không nhấn chuông khi nhớ đến lời cảnh báo của Emily và đút chìa khóa vào ổ. Trước khi kịp vuốt tóc cho gọn hay tự hỏi đằng sau cánh cửa có gì thì tôi đã bước vào một hành lang rộng, sáng sủa và ngửi thấy mùi sườn cừu thơm phức. Rồi tôi thấy Miranda, đang lịch thiệp đưa dĩa lên miệng, bên phải và bên trái bà là hai đứa nhỏ tóc đen đang chành chọe, chúng giống nhau như hai giọt nước, bên đối diện là một người đàn ông cao to với nét mặt đanh, tóc trắng như cước và mũi sư tử đang đọc báo.

"Mẹ ơi, mẹ nói em không được tự tiện vào phòng con và dùng quần bò của con, em không nghe lời con gì cả," một trong hai đứa ngúng nguẩy nói với Miranda. Bà đặt dĩa xuống và uống một ngụm San Pellegrino với một lát chanh, đặt trên mặt bàn, phía trái!

"Caroline, Cassidy, đủ rồi. Mẹ không muốn nghe thêm câu nào nữa. Tomas, đưa món thạch bạc hà vào đi," bà gọi. Lập tức một người đàn ông tiến vào, chắc là đầu bếp, bưng trên tay một khay bạc tinh xảo với chiếc bát con bằng bạc.

Tôi chợt nhận ra là tôi đã đứng đực ra đến ba mươi giây để quan sát họ ăn. Họ chưa thấy tôi. Nhưng trong khi rón rén đi tiếp thì tôi cảm thấy rõ tia nhìn trên lưng. Thiếu chút nữa thì tôi cất tiếng chào, nhưng sực nhớ lần gặp mặt Miranda mới đây tôi đã lắp bắp và xử sự ngu ngốc ra sao nên tôi ngậm ngay miệng. Cái bàn con đâu nhỉ, à, đây rồi. Đặt SÁCH lên đó. Okay, xong rồi, giờ đến lượt quần áo. Tôi ngơ ngác nhìn quanh, nhưng lúng túng đến nỗi không tìm ra cái móc để treo đâu cả. Bàn ăn lặng hẳn đi, và tôi cảm thấy rõ họ đang quan sát mình. Nhưng không ai hé môi lấy một tiếng. Không chào hỏi. Ngay cả hai cô bé cũng chẳng có vẻ ngạc nhiên khi một phụ nữ lạ hoắc đứng giữa nhà. Rốt cuộc tôi cũng phát hiện ra một chiếc tủ quần áo nhỏ sau cửa. Tôi cẩn thận treo quần áo lên thanh ngang.

"Không treo vào tủ, Emily," Miranda từ tốn và chậm rãi nói. "Treo vào cái móc riêng cho chỗ quần áo này."

"Ồ, à, xin chào!" Đồ ngu! Im mồm đi! Bà ấy không cần câu trả lời, hãy làm những gì bà ấy nói. Nhưng tôi không nhịn được. Thật vô lý khi không người nào chào tôi hay hỏi tôi là ai. Và bà ta gọi tôi là Emily! Miranda thích đùa chăng? Hay mù? Bà ta thực sự không biết rằng tôi đâu phải Emily, người đã làm cho bà hơn một năm nay? "Miranda, tôi là Andrea, trợ lý mới của bà."

Im lặng. Một sự im lặng bao trùm lên tất cả, khó chịu, vô biên, choáng ngợp và đè nén.

Tôi biết là nói tiếp thì chẳng khác gì vác xẻng tự đào huyệt mình, nhưng tôi không thể đừng. "Xin lỗi là tôi đã sơ suất. Tôi treo đồ lên móc như bà nói rồi đi ngay." Đừng dông dài! Bà ấy đâu cần đếm xỉa mi đang làm gì. Làm nhanh rồi biến đi. "Vâng, chúc ăn ngon. Hân hạnh được làm quen với mọi người." Tôi quay ra. Thật khó tin là tôi không những chỉ mở miệng nói mà còn toàn thốt ra những lời ngu xuẩn. Hân hạnh được làm quen à? Có ai trong bọn họ nói một lời nào với tôi đâu cơ chứ?

"Emily!" Tôi nghe tiếng gọi sau lưng khi tay đã đặt lên tay nắm cửa. "Emily, đừng để chuyện đó xảy ra lần nữa! Chúng tôi không muốn bị quấy rầy." Cánh cửa như tự mở ra, tôi đã ra đến tiền sảnh. Toàn bộ sự việc diễn ra chưa đầy một phút, nhưng tôi thấy mệt rũ ra như vừa bơi hết một chiều dài bể bơi thi đấu Olympic mà không một lần lấy hơi.

Tôi thả phịch người xuống chiếc ghế băng ngoài sảnh và hít một hơi thật sâu. Mụ già chết tiệt! Gọi tôi lần đầu là Emily thì cứ cho là nhầm lẫn, nhưng lần thứ hai đích thực là có chủ ý. Còn có cách nào hạ thấp và khinh rẻ một người tốt hơn là gọi sai tên, sau khi không thèm nhận mặt người đó trong nhà mình? Đã đành là tôi thuộc vào hình thái sinh tồn thấp nhất ở Runway - Emily không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để chứng tỏ cho tôi rõ điều đó - nhưng cớ gì mà cả Miranda cũng phải rắc muối vào vết thương ấy?

Có lẽ tôi sẽ ngồi đó suốt đêm và tưởng tượng ra cảnh bắn một loạt đại bác vào cánh cửa đề chữ "Penthouse A" nếu như không có tiếng đằng hắng của ông già gác thang máy ốm yếu đang kiên nhẫn chờ.

...

"Xin lỗi ông," tôi nói khi vào thang máy.

"Không sao," ông nói như gió thoảng trong khi mắt vẫn cắm xuống mặt sàn lát gỗ, "dần dần sẽ khá hơn."

"Gì cơ ạ? Xin lỗi, cháu không nghe rõ ông nói gì..."

"Không có gì, không có gì. Ta đến nơi rồi. Chúc chị buổi tối tốt lành." Cửa thang máy mở, tôi ra chỗ Emily đang nói to vào điện thoại. Cô tắt máy khi thấy tôi.

"Thế nào? Không có vấn đề gì chứ?"

Nếu không đoán trước là đằng nào cũng bị nghe chửi thì tôi đã kể cho cô nghe những gì đã xảy ra. Tiếc rằng cô không phải là một đồng nghiệp đồng cảm, được như thế thì chúng tôi sẽ là một nhóm ăn ý. Quên luôn chuyện này đi.

"Mọi việc ổn cả. Không có vấn đề gì. Họ đang ăn tối, tôi làm mọi việc chính xác như chị dặn."

"Tốt. Vậy thì từ hôm nay tối nào chị cũng làm như thế. Xong xuôi thì chị bảo xe đưa về nhà là hết việc. À, chúc chị vui vẻ ở dạ hội hôm nay của Marshall. Tôi cũng thích tới đó lắm, nhưng hôm nay lại có hẹn đắp sáp tẩy lông để mặc bikini, không bỏ được - chị có tin là chẳng còn buổi hẹn nào trống trong hai tháng tới không? Bây giờ đang giữa mùa đông và mọi người đều đi nghỉ đông mới đúng chứ? Tôi không hiểu tại sao toàn bộ đàn bà New York lại đi đắp sáp vào lúc này. Biết làm sao được, phải sống với lũ thôi."

Đầu tôi như vỡ bung ra vì nghe Emily nói hươu vượn, chẳng thèm để ý tôi có lắng nghe hoặc trả lời. Nếu biết trước là cô không dứt lời lảm nhảm chuyện đắp sáp thì tôi thà nghe chửi vì quấy bữa tối của Miranda còn hơn.

"Chà, đúng là không may. Bây giờ tôi phải đi đây. Tôi hẹn James lúc chín giờ mà bây giờ đã quá mười phút rồi. Mai gặp lại nhé."

"À, chuyện ngày mai nữa. Bây giờ đã quen việc rồi, chị sẽ bắt đầu làm việc vào bảy giờ, còn tôi đến lúc tám giờ. Miranda đã được thông báo. Trợ lý chính đi làm muộn hơn, vì phải làm việc nặng hơn." Tôi chỉ muốn vặn cổ cô ta lập tức. "Sáng sớm chị làm những việc thông thường như tôi đã nói. Khi cần thì gọi điện cho tôi, nhưng chắc chị cũng đã thạo việc rồi đấy. Bye," cô leo lên ghế sau của chiếc ô tô thứ hai vẫn đợi trước nhà.

"Bye!" Tôi toác miệng cười giả dối. Lái xe định ra mở cửa nhưng tôi nói cứ để tôi tự làm. "Cho tôi đến Plaza."

James đợi tôi ở bậc tam cấp bên ngoài, mặc dù trời lạnh đến năm độ là ít. Anh chàng đã về nhà thay đồ và trông gày teo tóp trong chiếc quần da đen và áo pull trắng, nhưng nó tôn nước da rám nâu nhân tạo cực gợi cảm giữa mùa đông. Trong chiếc váy GAP mini tôi còn thua xa.

"Chào Andy! Chị đã nộp SÁCH ổn thỏa rồi chứ?" Trong khi xếp hàng gửi áo khoác ngoài, người đầu tiên tôi nhìn thấy là Brad Pitt.

"Tôi có nhìn đúng không nhỉ, Brad Pitt ở đây?"

"Đúng thế, Marshall làm đầu cho Jennifer mà. Nghĩa là cô ta cũng phải có mặt ở đâu đó. Lần sau thì chị nên tin là đi theo tôi sẽ không uổng công. Ta uống chút gì đi."

Sau Brad Pitt là Reese Witherspoon rồi đến Johnny Depp, đến một giờ đêm thì tôi đã cạn bốn ly và hăng hái tán gẫu với một trợ lý thời trang của tạp chí Vogue. Chúng tôi tranh luận về tẩy lông bằng sáp để mặc đồ tắm hai mảnh. Rất say sưa, tôi hoàn toàn không phiền lòng tí nào. Ơn Chúa, tôi nghĩ bụng trong khi rẽ đám đông đi tìm James và mỉm cười hú họa về phía Jennifer Aniston, bữa dạ hội này khá ổn đây. Nhưng tôi đã khá chếnh choáng và chưa đầy sáu tiếng nữa lại phải xuất hiện ở văn phòng rồi, về đến nhà cũng đã nửa đêm. Tôi phát hiện ra James đang mải tán tỉnh một thợ nhuộm tóc của Marshall. Vừa định lẳng lặng chuồn thì tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên ngang eo.

"Ê," anh chàng đẹp trai mà tôi vừa nãy thấy trong góc gần bàn sách gọi. Tôi chờ câu xin lỗi, chắc là anh ta nhầm tôi với bạn gái mình từ phía sau. Nhưng anh ta cười trơ tráo: "Chị có vẻ không nhiều lời lắm nhỉ?"

"Thế hả, tôi đoán là anh cũng chỉ nói được chữ ê thôi, đúng không?" Andy, ngậm mồm lại đi! Tôi thầm trách mình. Một chàng trai như trong mộng đột nhiên bắt chuyện với mi ở dạ hội toàn nhân vật quan trọng, còn mi thì phản công ngay. Nhưng có vẻ như anh chàng không lấy đó làm bận tâm, thậm chí còn ngoác miệng cười to hơn.

"Xin lỗi," tôi khẽ nói và nhìn xuống ly rượu gần cạn của mình. "Ta bắt đầu lại cho tử tế đi, tên tôi là Andrea." Tôi đưa tay ra bắt, anh chàng muốn gì ở tôi nhỉ?

"Bắt đầu như thế cũng chẳng dở đâu. Tôi là Christian. Rất vui được làm quen chị." Anh vuốt lọn tóc nâu rủ xuống mắt trái và uống một ngụm trong chai Budweise. Trông anh ta quen quen, nhưng tôi không nhớ từ đâu.

"Bud à?" Tôi hỏi và chỉ vào tay anh. "Tôi không ngờ là người ta xài thứ đồ cao cấp này ở một dạ hội như hôm nay."

Anh cười khùng khục. "Chị quen nghĩ gì nói nấy, đúng không?" Chắc tôi trông lúng túng lắm, vì anh ta vừa cười vừa nói tiếp: "Không sao, không sao, thế là tốt. Và cũng hiếm nữa. Nhất là trong ngành này. Chị biết không, đơn giản là tôi không thể chịu được cảnh uống bằng ống hút từ một chai sâm banh con con. Mất cả vẻ đàn ông. Thế là tay phục vụ bar phải chạy đi kiếm đâu đó trong bếp cho tôi chai bia này." Lại một lọn tóc nữa rủ vào trán, nhưng anh vừa gạt lên thì tóc lại xõa xuống. Anh lấy bao thuốc từ túi áo khoác thể thao đen ra mời tôi. Tôi lấy một điếu và làm rơi ngay trước mũi giày anh ta, nhưng nhờ đó mà tôi có dịp thẩm định anh chàng từ dưới lên: giày lười Gucci màu đen cực hot, quần bò Diesel trễ cạp hơi loe, mài đúng chỗ và gấu hơi sờn, thắt lưng đen, hình như cũng đồ Gucci, T-shirt vải cotton trắng đơn giản, chỉ có con mắt trong nghề sành điệu mới nhận ra là của Armani hay Hugo Boss, chắc chỉ mặc lên để khoe nước da rám nâu tuyệt đẹp. Chiếc áo khoác đen trông rất đắt tiền, cắt đẹp, có thể may đo cũng nên, bó khít thân hình cao lớn trung bình nhưng sexy trên trung bình. Song đôi mắt xanh dương mới thực sự nổi bất. Xanh nước biển, tôi nghĩ bụng, hay xanh chai? Độ cao và toàn bộ thân hình hơi giống Alex, tuy nhiên ở đẳng cấp trội hơn. Ngang tàng hơn một chút, điển trai hơn một chút. Và già hơn hẳn, chừng ba mươi tuổi. Chắc cũng thuộc loại ma lanh.

Anh bật lửa ngay và ghé lại gần để điếu thuốc dễ bắt lửa hơn. "Có gì khiến chị đến những buổi dạ hội kiểu này, Andrea? Có phải chị là một trong những kẻ may mắn được Marshall Madden chăm sóc?"

"Được thế thì đã tốt. Nhưng cái gì chưa đến thì còn có thể đến, ông ta nói khá rõ là tôi có thể ghé qua làm tóc mà," tôi cười và nhận ra mình đã ra sức gây ấn tượng cho anh chàng lạ mặt này. "Không, tôi làm việc ở Runway, một anh bạn đẹp trai đã kéo tôi đi cùng."

"Tạp chí Runway, đúng không? Chỗ ấy hay đấy, dành cho những ai ưa roi vọt. Chị có thích ở đó không?"

Tôi chiếu cố là anh chàng ám chỉ công việc chứ không định nhấn mạnh chuyện roi vọt. Nhưng nghe có vẻ như anh ta biết mình nói gì. Có thể kinh nghiệm bản thân cho anh biết là nội bộ không hoành tráng như bên ngoài nhìn vào. Có nên kể cho anh chuyện kinh dị tối nay là tôi đã đi nộp SÁCH ra sao không nhỉ? Không, không, biết anh ta là người thế nào... Biết đâu anh ta cũng là người của Runway, trong một ban phòng xó xỉnh nào đó mà tôi chưa biết, hoặc ở một tờ báo khác của Elias Clark. Hay có khi, biết đâu đấy, là một trong những phóng viên lá cải mà Emily vẫn cẩn thận dặn tôi tránh xa: "Bọn ấy luôn xuất hiện bất ngờ. Có đủ mẹo để lừa mình và lượm tin tức về Miranda hoặc Runway. Nhớ chú ý." Chứng hoang tưởng bị theo dõi ở Runway không rời tôi nửa bước.

"Cũng được," tôi trả lời thật thản nhiên và lập lờ. "Ở đấy cũng lắm chuyện lạ đời. Tôi không quan tâm đến thời trang lắm, tôi thích viết bài hơn. Nhưng bước khởi đầu như thế cũng không dở. Còn anh làm gì?"

"Tôi làm nghề viết."

"Thật à? Chắc là thú vị lắm." Tôi hy vọng là nghe câu này không có vẻ khinh mạn lắm, nhưng quả thật tôi ngán đến tận cổ tất cả những kẻ ở New York tự gọi mình là văn sĩ hay diễn viên hay thi sĩ hay nghệ sĩ. Tôi đã viết báo tường ở đại học, tôi nghĩ bụng. Và hồi ở trường phổ thông, thậm chí một tiểu luận của tôi còn được đăng trên nguyệt san. Vì thế mà tôi cũng là nhà văn sao? "Anh viết gì?"

"Chủ yếu là sách văn học. Hiện giờ tôi đang viết tiểu thuyết lịch sử đầu tay." Anh làm một ngụm bia nữa và lại cố gạt mớ tóc nhiễu sự rủ xuống trán.

Tiểu thuyết lịch sử đầu tay đồng nghĩa với việc anh đã viết vài cuốn tiểu thuyết khác ngoài đề tài lịch sử. Được đấy. "Về đề tài gì?"

Anh nghĩ một lát. "Một truyện về cuộc sống ở đất nước này trong Thế chiến thứ hai, theo cách nhìn của một cô gái trẻ. Tôi sắp hoàn tất phần thu thập tài liệu, còn phải đánh máy các bài phỏng vấn và mấy việc tương tự. Do vậy tôi chưa viết được nhiều, nhưng khởi đầu khá thuận lợi..."

Anh tiếp tục kể, nhưng tôi chỉ nghe nửa tai. Thôi xin bố kể in ít cho con nhờ. Truyện này tôi nhớ ra rồi, có một bài viết về nó trong tờ The New Yorker, bình luận về cuốn tiểu thuyết tương lai bắt cả văn giới phải nín thở ngóng đợi và nữ nhân vật chính trong đó được tả thực như một người hùng đầy ấn tượng. Thì ra tôi đang trò chuyện với Christian Collinsworth, một thần đồng văn học từng xuất phát từ thư viện đại học Yale ở lứa tuổi hai mươi. Cuốn sách đầu tiên của bố này được giới phê bình khen ngợi không tiếc lời như một trong những tác phẩm đỉnh cao của thế kỷ hai mươi. Kế đó là hai tiểu thuyết nữa mà quyển nào cũng trụ lâu trên danh mục sách bán chạy nhất. Bài báo trong The New Yorker kèm phần phỏng vấn tác giả gọi Christian "không chỉ là ngôi sao mới mọc" trong làng sách, mà còn là một người đàn ông với "ánh mắt và phong thái sát thủ cũng như đủ sức quyến rũ bẩm sinh, đủ bảo đảm thành công suốt đời trước phái yếu, ngay cả trong trường hợp vô tưởng là thành công văn học không còn nữa."

"Wow, kinh khủng quá," tôi nói, quá mệt mỏi để nghĩ ra một câu trả lời hóm hỉnh hay khôi hài hay lanh lợi. Nhà văn vĩ đại này có lý do gì để lãng phí thời gian với tôi cơ chứ? Có lẽ anh ta chỉ định giết thời gian trong khi đợi bạn gái đứng làm mẫu chụp ảnh với giá 10.000 dollar/ngày. Dính dáng gì đến mi hả Andrea? Tôi nghiêm khắc tự hỏi mình. Chớ quên là mi đã có một người bạn trai vô cùng đáng yêu và giàu lòng tương ái vè dễ thương. Chấm dứt được rồi đấy. Lập tức tôi thoái thác phải về nhà ngay bây giờ, và Christian lộ vẻ thích thú.

"Chị sợ tôi," anh nhận xét với nụ cười giễu cợt.

"Sợ anh? Có lý do gì trên đời này khiến tôi sợ anh cơ chứ? Hay là..." tôi không thể không trêu ngược lại; chính anh ta gây ra tình huống đó.

Anh nắm cùi tay tôi và khéo léo xoay tôi ra phía cửa. "Nào, tôi đưa chị ra taxi." Chưa kịp nói rằng tôi đủ tỉnh táo để tự tìm ra đường về nhà và rất vui được nói chuyện với anh nhưng anh đừng tưởng sẽ được cùng tôi về nhà thì tôi đã ra đến ngoài Plaza và đứng trên tấm thảm đỏ cạnh anh.

"Hai người cần taxi không?" Người canh cửa hỏi.

"Vâng, một xe cho cô này," Christian đáp.

"Không, cám ơn, tôi có xe rồi," tôi nói và trỏ sang dãy xe đang xếp hàng đợi trên phố 58 trước Nhà hát Paris.

Không nhìn anh nhưng tôi có cảm giác là anh lại mỉm cười. Nụ cười sát thủ. Anh đưa tôi ra xe, mở cửa và lịch thiệp khoát tay về phía ghế sau.

"Cảm ơn anh, Christian." tôi nói kiểu cách và chìa tay ra bắt để từ biệt. "Thực sự hân hạnh được làm quen anh."

"Tôi cũng thế, chào Andrea." Anh nắm tay tôi chìa ra nhưng không lắc mà áp môi lên. "Hy vọng là chúng ta sớm tái ngộ." Tôi đã thả người xuống ghế saumà không bị vấp chân hay thất thố, tập trung tinh thần để không đỏ chín mặt mũi lên vì thẹn, tiếc rằng quá muọn. Anh đóng cửa rồi nhìn theo xe.

Con người thay đổi cũng lạ, cách đây hai tháng tôi chưa khi nào ngồi trong một chiếc xe Limousine, giờ thì gần như chuyện thường tình khi tôi có một lái xe đưa đi suốt sáu tiếng đồng hồ. Trước đây tôi chưa thực sự tiếp xúc với ai đó gọi là hơi hơi nổi tiếng, song hôm nay tôi đã sánh vai cạnh các nhân vật nổi tiếng của Hollywood, lại còn cho một trong số những chàng trai độc thân và rõ ràng cao giá nhất New York City hít tay - vâng, đúng thế, anh ấy đã hít tay tôi! Không, trò này chẳng có ý nghĩa gì cả, tôi nhắc đi nhắc lại để chính mình đừng quên, đó là một phần trong thế giới mà mi không có chỗ. Có thể nhìn từ bên ngoài thì rất hay, tôi nghĩ bụng, nhưng ở đó mi sẽ lạc vào ma trận ngay. Tuy nhiên tôi không thể rời mắt nhìn xuống tay và cố nhớ lại những chi tiết cuối cùng khi anh ta hôn lên đó, rồi thọc bàn tay tội lỗi ấy vào túi xách để lấy điện thoại ra. Tôi bấm số Alex và tự hỏi, nếu nói chuyện với anh thì nói chuyện gì bây giờ.

Chap 9

Mười hai tuần lễ trôi qua cho đến khi tôi bắt đầu tích trữ quần áo hàng hiệu mà Runway gần như ấn vào tay. Mười hai tuần dài đằng đẵng với ngày làm việc kéo dài mười bốn tiếng và đêm ngủ lâu nhất là năm tiếng. Mười hai tuần dài lê thê mà hằng ngày tôi bị xét nét từ đầu đến chân, không được nghe lấy một lời khen ngợi hay ít nhất cũng khích lệ đã làm được việc. Mười hai tuần dài kinh hãi với cảm giác là mình ngu dốt, bất tài và ngô nghê đủ mọi mặt. Bắt đầu vào tháng thứ tư ở Runway ( may quá, chỉ còn chín tháng nữa thôi! ) thì tôi quyết định trở thành một cô gái mới và ăn mặc đúng lệ bộ.

Cho đến nay thì tôi khốn khổ nhất khi chọn quần mỗi sáng. Ngay một người như tôi cũng phải ngộ ra là mặc đồ " chính thống" đỡ phiền toái hơn nhiều. Sáng sớm nào cũng khó nhọc, nhưng khó nhọc nhất vẫn là chuyện quần áo. Đồng hồ báo thức réo chuông sớm đến mức tôi không dám kể chuyện ấy cho ai, tựa như nhắc đến thời điểm đó đã đủ đau hết mình mẩy. Sáng nào cũng đúng bảy giờ có mặt ở văn phòng đã là một thử thách lớn đến phát khóc. Tất nhiên là đã có lúc tôi trèo khỏi giường trước bảy giờ, ví dụ như để ra kịp chuyến máy bay nào đó hay cố ôn thi vào phút cuối cùng. Chứ ngoài ra tôi chỉ biết thời gian đó như điểm kết của một đêm dạ hội, không có gì đáng sợ khi người ta có cả một ngày hôm sau để được thoải mái ngủ bù. Nhưng bây giờ thì khác. Đây là một kiểu mất ngủ liên tục, đều đặn và vô nhân đạo mà tôi thì không sao lên giường được trước nửa đêm. Hai tuần vừa rồi mới thật là lắm stress, vì công việc chuẩn bị ra số báo mùa xuân đang đi vào giai đoạn quyết định và có hôm tôi ngồi đợi đến gần mười một giờ đêm ở ban biên tập để đợi lấy SÁCH. Về đến nhà thì thường là đã xong đâu, tôi còn phải ăn chút gì đó và cởi quần áo trước khi lăn ra ngủ như chết.

Đúng năm rưỡi, một tiếng chuông xé tai chấm dứt giấc ngủ - tiếng động duy nhất mà tôi không lờ đi nổi. Tôi cố thò một chân ra khỏi chăn và duỗi về hướng đồng hồ báo thức ( được bố trí một cách chiến lược để tôi phải chuyển động mới với tới). Tôi lọ mọ dùng ngón chân tìm nút tắt để sau vài lần ấn trượt thì rồi cũng ngắt được chuông. Cứ sau bảy phút nó lại kêu lần nữa, và đúng 6 giờ 04 tôi hoảng hốt vùng dậy để lao vào nhà tắm.

Tiếp theo là cuộc chiến với tủ quần áo, thông thường từ 6 giờ 30 đến 6 giờ 37. Lily vốn quen đồng phục thống nhất ở trường là quần Jeans, áo pull, dây chuyền sợi gai và dĩ nhiên không phải chuyên gia thời trang; cô luôn ngạc nhiên khi chúng tôi gặp nhau: " Tớ vẫn không rõ cậu mặc đồ gì đến chỗ làm việc? Quần áo của cậu thì okay, nhưng làm sao mặc đến Runway được?"

Tôi không tiết lộ với cô rằng từ mấy tháng nay tôi chủ tâm dậy sớm và lì lợm quyết định sửa đổi phong thái thể thao của mình theo hướng Runway. Sáng nào tôi cũng đứng nửa tiếng trước tủ quần áo, tay cầm tách cà phê lấy trong lò vi sóng ra, lưỡng lự giữa đống bốt và thắt lưng, len và sợi micro. Sau khi thay tất năm lần để chọn được tông màu thích hợp thì mới nhớ ra là không được đi tất. Gót giầy của tôi luôn lùn quá, rộng quá, to quá. Tôi không có lấy một thứ đồ nào bằng len cashmere. Do chưa hề biết khái niệm xi líp dây nên tôi bận rộn rất lâu để chọn cái quần lót nào không hằn vết ra ngoài - một trong những chuyện được ưa đem ra đàm tiếu nhất trong giờ giải lao. Và cho dù đã ngập ngừng nhiều lần nhưng tôi vẫn chưa dám mặc áo không dây đến văn phòng.

Sau ba tháng thì tôi đầu hàng. Mệt mỏi quá. Việc chọn lựa trang phục hằng ngày đã làm tôi kiệt quệ về thể xác lẫn linh hồn. Sáng nào cũng thế, một tay tôi cầm tách cà phê đứng trước tủ, tay kia lục trong đống quần áo ưa thích ngày xưa. Sao phải khổ thế? Tôi tự hỏi. Đơn giản khoát hàng hiệu lên người không nhất thiết có nghĩa là tôi bán rẻ linh hồn mình. Sau khi bị nghe những câu góp ý ngày càng cay nghiệt hơn về vẻ bề ngoài của mình, tôi tự hỏi là liệu mình có vì vậy mà mất việc như chơi. Tôi ngắm mình trong tấm gương cao đến đầu và bật cười: cô gái trong chiếc áo nịt Maidenform ( tôi!) và xi líp vải bông Jockey kia ( cũng là tôi! ) định bước chân vào làng Runway hay sao? Cho vào thùng rác được rồi. Chả gì thì tôi cũng làm việc ở Runway, tạp chí thời trang có ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Chỉ ăn mặc sạch sẽ và đứng đắn thôi chưa đủ. Tôi gạt mấy thứ đồ ngán ngẩm sang một bên, lấy ra chiếc váy đen tuýt Prada, áo cổ lọ đen Prada và đôi bốt thấp cổ Prada mà James đưa hôm buổi tối ngồi đợi lấy SÁCH.

" Gì thế?" Tôi hỏi khi mở bao đựng quần áo.

" Đồ để chị mặc. Andy ạ, nếu chị không muốn bị mất việc," anh mỉm cười nhưng tránh nhìn thẳng vào mắt tôi.

" Sao cơ?"

" Thế này nhé. Tôi nghĩ là chị cũng biết rằng kiểu... kiểu ăn mặc của chị không hẳn giống mọi người ở đây. Tôi hiểu, chơi hàng hiệu là thú vui đắt đỏ, nhưng đã có cách. Tôi có rất lắm đồ trong kho quần áo, sẽ chẳng ai nhận ra là chị thỉnh thoảng ... mượn vài thứ." Anh lấy ngón tay ra hiệu cho chữ mượn vào ngoặc kép. " Và đương nhiên là chị cũng nên gọi bên phòng quan hệ đại chúng để lấy thẻ giảm giá khi mua hàng hiệu. Tôi chỉ được giảm giá 30% thôi, nhưng chị làm việc cho Miranda nên tôi không tin là họ tính tiền với chị đâu. Chả có lý do gì để chị cố giữ phong cách... sinh viên của mình cả."

Tôi không muốn phải giải thích là mang đồ Nine West thay cho Manolo hay quần bò trẻ con ở hiệu Macy's chứ không mua ở tầng tám hiệu Barney sang trọng chính để chứng tỏ với mọi người xung quanh là tôi không bị lóa mắt bởi thế giới Runway. Ai xúi James làm việc này với tôi nhỉ? Emily? Hay chính Miranda? Nhưng ai giật dây cũng thế thôi. Nói cho cùng thì tôi đã sống sót qua ba tháng ở Runway, và nếu chiếc áo cổ lọ Prada chứ không phải đồ rẻ của Urban Outfitters giúp tôi vượt qua nốt chín tháng sắp tới thì cũng tốt thôi. Tôi quyết định kể từ hôm nay chỉ mang đồ mới tử tế hơn.

6 giờ 50 tôi ra khỏi nhà và cực kỳ hài lòng với bộ cánh của mình. Mấy gã ở quầy bán quà sáng cạnh nhà huýt sáo theo, và chưa đi tiếp lấy mười bước chân nữa thì một cô gái nói với tôi là cô vẫn băn khoăn từ ba tháng nay trước quyết định mua chính đôi bốt của tôi. Mi sẽ thích tình trạng này, tôi nghĩ bụng. Nói cho cùng thì chẳng ai trần truồng đi làm cả, cũng phải mặc thứ gì đó lên người, và mang đồ này tôi cảm thấy cao cấp hơn hẳn những quần áo ngày xưa của mình. Đến góc phố tôi lên taxi, lần này không phải vì trường hợp khẩn cấp nữa mà thành thói quen. Trong xe ấm áp dễ chịu nhưng tôi quá mệt mỏi để có sức mà vui mừng khi không phải chen chúc lên tàu điện ngầm với những người đi làm khác. Tôi nói khản đặc: " 640 Madison, nhanh lên nhé." Người lái xe nhìn tôi trong gương hậu - tôi thề là với ánh mắt đồng cảm - và hỏi: " Tòa nhà Elias Clark, đúng không?" Anh nhấn ga. Xe lao vun vút lên phố 97, rẽ qua Lex, bay xuyên qua hàng đèn của phố 59 về hướng Tây đến Madison. Sau đúng sáu phút - giờ này xe cộ thưa thớt - taxi phanh kít trước khối bê tông cao vút mảnh mai mà những người làm trong đó có vẻ muốn ganh đua thân hình với nó. Giá taxi hôm nào cũng 6,40 dollar, tôi đưa lái xe tờ 10 dollar và nói: " Cứ giữ chỗ tiền thừa." Và cũng như mọi hôm, tôi vui mừng nhìn bộ mặt ngạc nhiên và vui mừng của anh ta. " Runway cám ơn."

Cũng là chuyện thường. Sau tuần đầu tiên ở Runway tôi đã nhận ra thanh toán công tác phí không phải là mặt mạnh của Elias Clark. Ngày nào cũng 10 dollar tiền taxi? Không sao cả. Các công ty khác ắt sẽ kiểm tra xem tôi có được phép đi taxi đến chỗ làm không. Ở Elias Clark người ta chỉ ngạc nhiên tại sao tôi sử dụng mấy cái taxi vớ vẩn mà không gọi xe của công ty đến đón. Mỗi ngày xơi của Runway 10 dollar làm tôi cực kỳ khoái chí, cho dù công ty coi đó như muỗi đốt sắt. Người khác có thể cho là một dạng phản kháng ngầm, tôi gọi việc này là tái phân chia thu nhập.

Sung sướng vì ít nhất cũng làm cho một người vui vẻ bắt đầu ngày làm việc, tôi nhảy khỏi xe và đi về hướng 640 Madison. Tòa nhà tuy tên là Elias Clark Building nhưng phân nửa diện tích cho JS Bergmann, nhà băng danh tiếng nhất thành phố, thuê. Tuy hai bên không chung chạ gì, ngay cả thang máy cũng tách riêng, nhưng không tránh khỏi các nhân viên nhà băng phong lưu và người đẹp của làng thời trang cắt đường nhau ở tiền sảnh và để mắt nhòm ngó nhau.

Tôi đang thầm chuẩn bị cuộc trạm trán hằng ngày với Eduardo thì một giọng mệt mỏi và chán nản từ sau lưng làm tôi bất ngờ: " Ê, Andy! Khỏe không? Lâu ngày không gặp." Tôi quay lại thấy Benjamin, một trong vô số bạn trai ngày xưa của Lily ở trường đại học. Anh ngả người đánh phịch bên cạnh cửa vào tòa nhà, thậm chí có vẻ không phiền lòng là mình đang ngồi bệt trên vỉa hè. Anh chỉ là một trong nhiều bạn trai của Lily, nhưng là người đầu tiên mà Lily mến thực sự và chân thành. Tôi không hề tiếp xúc với Benji ( anh rất ghét bị gọi như thế ) từ khi Lily bắt quả tang anh ta với hai cô gái đang nằm ườn trong phòng ký túc xá. Hai cô này cùng hát với Lily ở dàn đồng ca accapella, một giọng cao và một giọng trầm, sau đó không dám nhìn thẳng vào mắt Lily nữa. Tôi cố giải thích cho Lily là họ chỉ định đùa ác, nhưng cô không tin và khóc ti tỉ mấy ngày liền, sau đó bắt tôi hứa không được kể cho ai chuyện mà cô phát hiện ra. Tôi giữ lời, bù lại thì Benji rêu rao khắp nơi thành tích đã " đóng đinh hai con bé xướng ca vô loài" trong khi "con bé thứ ba ngồi nhìn," cứ như là Lily tự nguyện chiêm ngưỡng màn diễn của sư phụ. Sau vụ này Lily thề không bao giờ thèm yêu nữa, và cho đến nay có vẻ như cô vẫn trung thành với lời thề đó. Cô lôi nhiều chàng lên giường, nhưng cũng tống tiễn họ ra cửa sớm vì sợ nhỡ đâu lại sa vào mê lộ của tình yêu.

Tôi nhìn xuống anh, cố tìm lại Benji ngày xưa trên khuôn mặt này. Anh ấy là người thể thao và lanh lợi như trăm nghìn người khác. Nhưng công việc ở Bergmann đã vắt kiệt anh. Bộ com lê của anh nhàu nhĩ và rộng thùng thình, anh rít điếu Marlboro một cách thèm khát như bị ma túy vật. Mặc dù mới bảy giờ nhưng trông anh đã mệt rũ, vẻ ngoài tàn tạ ấy làm tôi thấy trong người phấn chấn hơn. Vì nó cũng là một dạng trả đũa cho sự điểu cáng của anh đối với Lily và tôi không phải là đứa ngu xuẩn duy nhất phải đi làm vào lúc nhọ mặt người này. Chắc anh ta được trả mỗi năm 150.000 dollar để xuống dốc thê thảm như vậy, nhưng kệ xác.

Benji vẫy tôi với điếu thuốc trong tay, ra hiệu gọi tôi lại, đầu thuốc vẽ một vòng sáng trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sớm mùa đông. Tôi ngập ngừng vì không muốn đến muộn, nhưng Eduardo đã phát tín hiệu " không lo, bà ấy chưa đi làm đâu, cứ bình tĩnh" và tôi đi ra chỗ Benji. Trông anh lờ đờ và tuyệt vọng. Rõ ràng anh cho là anh có một ông sếp hà khắc. Nếu như anh biết mọi chuyện! Tôi suýt phá ra cười.

" Này, tôi nhận thấy hằng ngày chị là người duy nhất đến làm việc sớm như vậy," anh lầm bầm nói trong khi tôi lục lọi túi xách tìm thỏi son môi trước khi đi tới thang máy. " Tại sao thế?"

Trông anh mệt mỏi và kiệt quệ làm lòng tôi trào lên chút thương cảm. Nhưng tôi cũng mệt chết đi được, và tôi nhớ lại vẻ mặt của Lily khi được một người trong số bạn thể thao của Benji hỏi là lúc xem mấy người kia làm tình có thích không hay cũng muốn tham gia, và chút thương cảm ấy cũng biến mất luôn.

" Tại sao à? Vì tôi làm việc cho một bà sếp có đòi hỏi rất khắc nghiệt nên phải đến sớm hơn tất cả mọi người ở tòa báo những hai tiếng rưỡi để chuẩn bị mọi việc," tôi đáp với giọng đầy cay nghiệt.

" Thôi, tôi chỉ hỏi thôi mà, xin lỗi chị. Nhưng nghe có vẻ tệ quá, chị làm cho báo nào vậy?"

" Tôi làm cho Miranda Priestly," tôi nói và cầu mong đừng thấy phản ứng gì. Tôi luôn thích thú khi gặp một người tương đối có đầu óc mà chẳng hề biết Miranda là ai cả, thích lắm. Cực kì thích là đằng khác. Và quả thật, lần này Benji không làm tôi thất vọng. Anh nhún vai, hít một hơi thuốc và nhìn tôi dò hỏi.

" Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway," tôi hạ giọng và khoái trá kể tiếp, " và là mụ già ghê gớm nhất mà tôi từng gặp. Trước đó tôi không tưởng tượng ra có loại người như thế, thậm chí không phải là người nữa." Tôi chỉ muốn tuôn hết bài ca thán về bà ta cho Benji nghe, nhưng trước khi hăng hái vào cuộc thì cơ chế thụt vòi ở Runway đã lại thắng thế. Lập tức tôi luống cuống, thậm chí khiếp sợ rằng con người ngây ngô và lãnh đạm kia biết đâu là tay sai của Miranda hay cây bút của một tờ lá cải kiểu Observer và Page Six đến săn tin. Tôi biết đó là chuyện ngớ ngẩn và vô lý, vì tôi quen Benji từ nhiều năm nay và tin chắc rằng anh ta không làm việc cho Miranda ở bất kỳ tư cách nào. Nhưng sao mà tuyệt đối yên tâm được? Có thể ai đó sau lưng trong mấy giây vừa rồi đã nghe thấy những lời độc địa của tôi thì sao? Phải bắt tay vào hạn chế thiệt hại ngay mới được.

" Tất nhiên, bà ấy LÀ người phụ nữ có quyền lực nhất trong giới thời trang và xuất bản, và không ai suốt ngày dịu dàng phân phát bánh kẹo mà leo lên được đỉnh cao của hai lĩnh vực chính yếu ấy của New York City. Vào địa vị bà ấy thì tôi cũng làm thế. Thôi nhé, tôi phải đi đây. Tạm biệt." Thế là tôi biến luôn, hệt như khi nói chuyện với ai đó trong những tuần qua. Chỉ khi tán gẫu với Lily, Alex hay bố mẹ là tôi mới thoải mái chửi bới mụ phù thủy ấy.

" Đừng phiền muộn quá đáng như thế, Andy," Benji gọi với theo khi tôi đi về phía thang máy. " Tôi ngồi từ sáng thứ Năm ở đây rồi cơ," anh thả rơi mẫu thuốc xuống đất và hờ hững dí mũi giầy lên.

"Chào Eduardo," tôi nói và nhìn ông với cặp mắt mệt mỏi cố toát ra cảm xúc. "Sao mà tôi ghét những ngày thứ Hai thế."

"Kìa cục cưng, đừng bực bội thế. Ít nhất thì hôm nay chị cũng đến sớm hơn sếp," ông mỉm cười. Ông ám chỉ những buổi sớm chết tiệt mà Miranda xuất hiện từ năm giờ sáng và đòi có bảo vệ đưa lên tầng vì bà không bao giờ chịu đem thẻ thông hành theo người. Rồi bà lồng lộn đi lại trong văn phòng và nhấc điện thoại, liên tục tấn công tôi và Emily cho đến khi một trong hai chúng tôi vùng dậy mặc quần áo và phi đến chỗ làm việc, cứ như là vừa ban bố tình trạng khẩn cấp toàn quốc.

Tôi ấn vào cửa xoay, hy vọng vào ngày thứ Hai này được ông ta cho qua mà không cần rút thẻ. Nhầm to.

"Yo, tell me what you want, what you really, really want," ông hát với nụ cười toe toét và pha khẩu ngữ Tây Ban Nha. Thế là tiêu tan mọi niềm vui của tôi từng làm người lái taxi sung sướng và đến văn phòng sớm hơn Miranda. Như mọi hôm, tôi điên tiết đứng trước cửa xoay và chỉ muốn vặn cổ Eduardo. Nhưng vì tôi là người dễ tính và Eduardo thuộc vào nhúm bạn bè ít ỏi trong tòa nhà này nên tôi cắn răng phục tùng số phận: "I'll tell you what I want, what I really, really want, I wanna - I wanna - I wanna - I wanna - I really, really wanna zigga zig aaaaahhhh," tôi ngoan ngoãn tỏ lòng kính trọng với ca khúc đỉnh của Spice Girls hồi thập kỷ 90. Và Eduardo ngoác miệng cười, ấn nút cho tôi qua.

"Nhớ ngày mười sáu tháng Bảy đấy," ông gọi theo.

"Tôi biết rồi, mười sáu tháng Bảy..." tôi đáp lại, nhớ rằng đó là hôm chúng tôi cùng có sinh nhật. Không rõ bằng cách nào mà ông ta biết ngày sinh của tôi trùng với ông. Vì lý do nào đó, chuyện này trở thành một phần trong nghi lễ hàng ngày của riêng chúng tôi, thật ngớ ngẩn.

Tòa nhà phía công ty Elias Clark có tám thang máy, một nửa cho các tầng từ một đến mười bảy, nửa kia cho các tầng trên. Thật ra chỉ có bốn thang máy đầu tiên là quan trọng vì ban biên tập của các tạp chí danh tiếng nhất đều ở mười bảy tầng dưới. Trên các cửa thang máy có biển lớn sáng đèn, chỉ rõ địa chỉ từng văn phòng. Ở tầng hai là một phòng tập thể hình cực hiện đại cho nhân viên sử dụng miễn phí, trong đó có đủ kỹ thuật tối tân như máy luyện cơ chống đau lưng, tối thiểu một trăm máy tập leo thang, băng chạy và máy đạp xe. Chưa kể đến phòng tắm khô, bồn tắm kiểu Nhật, xông hơi, bên cạnh khu vực thay quần áo là phòng chăm sóc sắc đẹp, khi cần có thể chăm sóc móng tay móng chân hay đắp mặt nạ. Thậm chí người sử dụng không cần đem khăn riêng theo, nhưng đó là tôi nghe kể lại mà thôi - không chỉ vì tôi chẳng có thì giờ, mà còn vì từ sáu giờ sáng đến mười giờ tối ở đây chật cứng, không có chỗ đặt chân. Bất kể người viết bài, biên tập viên hay trợ lý kinh doanh đều phải gọi điện trước ba ngày để đặt chỗ ở lớp Yoga hay tập võ, nhưng vẫn có nguy cơ bị mất chỗ nếu không đến sớm mười lăm phút trước giờ vào lớp. Như hầu hết mọi lời mời nhằm cải thiện cuộc sống của nhân viên Elias Clark, tôi thấy tập luyện ở đây chỉ gây thêm stress.

Tôi cũng nghe phong phanh là ở tầng trệt có nhà gửi trẻ, nhưng tôi chẳng quen ai có con cả nên chưa biết thông tin đó có chính xác không. Tầng ba mới thực sự đáng chú ý với phòng căng tin. Miranda không đặt chân tới đó bao giờ, trừ những lần hẹn ăn trưa với Irv Ravitz, chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark - ông thích ra vẻ thân mật dùng bữa cùng với nhân viên của mình.

Thang máy lên cao, cao nữa, lướt qua các danh vị khả kính. Hầu hết trong số họ dùng chung tầng, nhưng khu lễ tân thì tách riêng hẳn. Tôi ra khỏi thang máy trên tầng mười bảy, liếc nhìn bóng mình phản chiếu trong kính. Ở 640 Midison các kiến trúc sư nhạy cảm và thiên tài đã bỏ hẳn giương trong thang máy! Lại lần nữa tôi quên cái thẻ thông hành - vốn sinh ra để theo dõi mọi chuyển động, mua bán và hiện diện của chúng tôi trong tòa nhà - nên chỉ còn cách đột nhập vào văn phòng thôi. Sophy thì chín giờ mới đến, tôi phải tự lực vậy. Tôi luồn xuống dưới mặt quầy, ấn nút mở cửa và lấy đà lao qua khe cửa trước khi tấm kính tự đóng lại. Nhiều hôm tôi cần đến ba, bốn lần thử mới qua được cửa, hôm nay hai lần là đủ.

Như mọi hôm, tôi đi qua hành lang giờ này còn tối om đến phòng mình. Bên trái là ban quảng cáo, nơi các nữ nhân viên ưa diện T-shirt hiệu Chloé và bốt cao gót chạy đi chạy lại phân phát danh thiếp in chữ "Runway" to tướng. Họ sống và làm việc trong một thế giới riêng, chẳng dính dáng gì đến nửa bên kia hành lang dành cho bộ phận biên tập. Ban biên tập lựa ra mẫu quần áo cho các trang mốt, tìm cách lôi kéo các cây bút giỏi, thống nhất phụ kiện với trang phục, sửa bài, trang trí đồ họa và mời thợ nhiếp ảnh. Biên tập viên đến mọi ngóc ngách đẹp nhất thế giới để bố trí chụp hình, được các nhà tạo mốt dúi cho đủ quà tặng và phiếu giảm giá, bám sát các xu hướng thời trang cũng như mọi sự kiện quan trọng, vì họ "phải điều tra xem ai mặc gì".

Bộ phận kinh doanh quảng cáo có nhiệm vụ bán diện tích đăng quảng cáo. Đôi khi họ tổ chức lễ hội, nhưng do chưa có nhân vật danh tiếng nào xuất hiện ở đó nên chẳng dân New York có máu mặt nào (như Emily cay độc tiết lộ cho tôi biết) thèm đến. Tôi chỉ biết đến các buổi tiệc ấy khi người ngoài kể lại, khi điện thoại réo chuông suốt ngày vì những nhân vật tầm tầm hy vọng tôi kiếm hộ giấy mời. "Nghe nói Runway tổ chức tiệc, sao tôi không có giấy mời nhỉ?" Các biên tập viên không khi nào có giấy mời, vì đằng nào thì chúng tôi cũng không đến. Lũ đàn bà ở Runway chuyên khinh miệt, khủng bố và kỳ thị người ngoài, nhưng vẫn chưa đủ, họ còn tự dựng những rào cản giữa các thứ bậc nội bộ.

Sau bộ phận kinh doanh quảng cáo là một hành lang hẹp, dài hun hút, dẫn đến một phòng bếp nhỏ xíu. Ở đây có đủ loại trà, cà phê, thậm chí cả một tủ lạnh cho những người đem bữa trưa từ nhà đến. Dịch vụ này lẽ ra là thừa, từ khi Starbucks độc quyền cung cấp cà phê hằng ngày, các bữa ăn được cẩn thận lấy từ căng tin hay từ hàng nghìn dịch vụ cơm hộp trong thành phố. Nhưng căn bếp có gì đó dễ thương, dường như Elias Clark muốn nói: " Xem này, chúng tôi lo mọi bề cho nhân viên! Ở đây có trà Lipton, đường ăn kiêng, cả lò vi sóng để hâm món để lại từ đêm qua! Chúng ta là người nhà cả mà!"

Đúng 7 giờ 05 thì tôi cũng vào đến ốc đảo của Miranda, mệt không lê nổi bước nữa. Công việc đầu tiên hằng ngày là mở khóa phòng Miranda. Tôi nhìn ra ngoài trời còn tối, ngắm ánh điện của New York City và thấy mình như đang trong một cuốn phim (có các cặp tình nhân ôm nhau trên sân thượng bao la của căn hộ sáu triệu dollar với tầm nhìn ra sông), trên đỉnh cao thế giới, để khi ấn nút bật hết đèn lên thì giấc mơ ngày của tôi cũng chấm dứt cùng với cảm giác thăng hoa trong thành phố New York của mọi khả năng vô tận, thay vào đó là ảnh khuôn mặt cười giống nhau như đúc của cặp song sinh Caroline và Cassidy.

Tiếp theo là mở khóa tủ tường ngoài sảnh, nơi tôi treo chiếc măng tô thú của Miranda (hoặc măng tô của tôi, nếu hôm đó bà không tình cờ mặc lông thú. Miranda không ưa để áo của bà treo bên cạnh áo len mạt hạng của Emily hay của tôi) và cất giữ vô số các đồ khác: măng tô và quần áo bị loại bỏ có giá trị hàng chục nghìn dollar, đồ giặt là để đưa đến nhà Miranda, tối thiểu 300 chiếc khăn trắng Hermès khét tiếng. Emily cho biết là cô đã quyết định mua hết loại khăn này mà hồi đó có thể tìm được. Cô giải thích rằng nhờ vậy Miranda không bao giờ thiếu khăn và chúng tôi sẽ tránh được tình cảnh hốt hoảng đi mua sắm khi cần. Với cách suy luận đơn giản đó, cô mua hết 500 chiếc khăn tại toàn bộ thị trường Mỹ và Pháp. Tôi còn chưa kể với ai là đã mở một bức thư của ban lãnh đạo công ty Hermès từ Paris gửi đến cho "Madame Priestly," họ lải nhải dài dòng về niềm hân hạnh được Miranda chọn dùng khăn quàng của mình, rằng bà đã tôn vinh mác Hermès nhiều hơn bà tưởng, và họ vô cùng áy náy khi không còn sự lựa chọn nào khác là phải dùng mẫu hàng hơi khác mẫu mà bà vẫn ưa dùng. Trong phong bì có nửa tá mẫu lụa trắng kèm với mẫu Miranda vẫn thích xưa nay - một nghĩa cử xoa dịu nỗi bực dọc của Miranda trong giai đoạn khó khăn này. Tôi săm soi đến hai mươi phút mà không nhận ra sự khác biệt nào giữa các mẫu vải, nhưng tôi biết, Miranda liếc qua là nhận ra ngay. Đương nhiên là bức thư và mẫu vải vẫn nằm dưới đống giấy tờ vô thưởng vô phạt trong ngăn bàn tôi, thực sự tôi không biết làm gì khi chỗ khăn dự trữ bị dùng hết.

Miranda vứt khăn khắp nơi: ở nhà hàng, rạp phim, nơi trình diễn thời trang, phòng họp hay trên taxi. Bà bỏ quên chúng trên máy bay, ở trường của lũ trẻ hay sân tennis. Tất nhiên không bao giờ bà ra khỏi nhà mà lại thiếu chiếc khăn Hermès sang trọng, điều đó không có nghĩa là bà biết chúng biến đâu mất. Hay là bà sử dụng chúng như khăn giấy? Nhất định bà cho rằng đây là sản phẩm dùng một lần rồi vứt đi, và không ai dám cải chính! Elias Clark trả hàng trăm dollar cho mỗi chiếc khăn, còn Miranda tiêu thụ chúng nhanh như khăn giấy. Nếu bà còn tiếp tục như thế thì hai năm nữa là chẳng còn lấy một chiếc mà dùng.

Trong tủ tường vẫn còn nhiều hộp bìa cứng màu da cam. Cứ ba, bốn hôm một lần, khi đi ăn là Miranda lại gọi: "Aaa-dree-aa, tôi cần khăn mới." Niềm an ủi lớn của tôi là khi chỗ khăn này đã hết sạch thì tôi cũng đã biến khỏi đây từ lâu rồi. Người kế nhiệm mà tôi chưa biết sẽ là kẻ bất hạnh phải thông báo cho Miranda biết rằng không còn khăn quàng Hermès trắng nữa. Chỉ nghĩ đến đã thấy khiếp.

Tôi chuẩn bị xong mọi thứ thì Yuri gọi điện.

"Andrea? A lô, a lô. Yuri đây. Chị xuống tầng trệt được không? Tôi đang ở phố 58 gần Park Avenue, trước New York Sports Club."

Cho dù không chắc chắn tuyệt đối, cuộc gọi là một thông báo hữu hiệu rằng Miranda sắp đến nơi rồi. Có thể thế. Phần nhiều bà cho Yuri đến trước để đưa đồ giặt, báo, các bài viết bà đã biên tập ở nhà, giày và túi đem đi sửa, và cuốn SÁCH. Tôi khuân đống đồ ấy lên gác và làm mọi việc cần thiết để bà không bị quấy rầy bởi mấy chuyện vặt vãnh. Bình thường thì bà đến sau đó khoảng nửa giờ. Yuri giao đồ cho tôi rồi quay lại ngay để đón bà.

Không rõ Yuri đón bà ở đâu, vì như Emily kể thì bà không ngủ bao giờ. Thoạt tiên tôi không tin, cho đến một hôm tôi đi làm trước Emily và phải nghe các tin nhắn trong hộp thoại. Mỗi đêm, không hề có ngoại lệ, từ một đến sáu giờ sáng Miranda gửi cho chúng tôi tám đến mười tin nhắn khá mập mờ, đại loại như: "Cassidy thích một cái túi nylon như bọn con gái bây giờ hay dùng. Chị đặt mua một cái cỡ trung bình, màu mà nó vẫn thích," hay: "Tôi cần số điện và địa chỉ của cửa hàng đồ cổ ở giữa phố 70 và phố 80 có cái tủ cánh cong mà tôi đã thấy." Cứ làm như chúng tôi đương nhiên phải biết trẻ con mười tuổi dạo này thích mốt túi nylon nào, hoặc cửa hàng nào trong số hàng trăm cửa hàng đồ cổ có thứ hàng nào đó mà bà đã nhìn thấy. Tuy nhiên sáng nào tôi cũng ngoan ngoãn chép lại các tin nhắn từ băng ghi âm - một việc không đơn giản, vì tôi phải tua đi tua lại đoạn băng hàng chục lần mới hiểu được giọng Anh của bà cũng như tinh thần của các mệnh lệnh mà không phải trực tiếp hỏi lại cho rõ.

Có lần tôi đã phạm sai lầm khi đề nghị Emily gọi Miranda hỏi lại, và hình phạt là tia nhìn giết người của cô. Trực tiếp hỏi Miranda cho rõ chuyện là một việc không tưởng. Tốt nhất là cứ lọ mọ làm tiếp và sau đó nghe chửi vì lại hiểu sai lệnh. Tôi mất hai ngày rưỡi đi tìm cái tủ đồ cổ cánh cong mà Miranda thích, bắt xe chở đi vòng quanh Manhattan và chạy dọc hai chiều công viên. Bỏ qua đại lộ York (toàn nhà ở) lên phố 1, xuống phố 2, lên phố 3, xuống Lex. Bỏ qua Park (cũng toàn nhà ở) nhưng vẫn lên Madison rồi lặp lại từ đầu bên West Side. Trong tay bút giấy lăm lăm, mắt như cú vọ, sổ điện thoại mở sẵn trên đùi và sẵn sàng lao ra khi thấy một cửa hàng bán đồ cổ. Tôi đích thân vào từng cửa hàng kể cả nhiều hiệu bán đồ mới. Tới hiệu thứ tư thì tôi đã tìm ra kỹ thuật hỏi.

"Xin chào, ở đây có tủ cánh cong cổ không ạ?" Vừa qua cửa là tôi đã réo lên. Tới cửa hàng thứ sáu, tôi dừng chân ngoài cửa. Một con bé bán hàng nhìn tôi từ đầu xuống chân - chuyện dễ hiểu! - ước lượng xem có bõ công trả lời tôi không. Sau đó thì đa số cũng nhìn thấy chiếc Limousine đợi tôi ngoài đường và miễn cưỡng đáp "có" hay "không". Vài người khác còn bắt tôi miêu tả chi tiết loại tủ muốn tìm.

Nếu họ có đồ gỗ đúng như tôi hỏi bằng hai từ (tủ + cổ) tôi tiếp ngay: "Miranda Priestly hôm nọ mới vào đây phải không ạ?" Ai trước đó chưa đoán là tôi dở hơi thì bây giờ cũng chuẩn bị gọi cảnh sát. Nhiều người chưa nghe tên ấy bao giờ, tôi càng vui vì hai lẽ: thứ nhất là tôi được gặp những người bình thường, cuộc đời họ không bị Miranda chế ngự, sau nữa là tôi có thể đi ngay mà không phải tranh luận dài dòng. Những người ngô nghê có biết tên Miranda thì dỏng ngay tai lên. Nhiều khi họ muốn biết tôi là phóng viên cho tờ lá cải nào. Dù cho tôi bịa ra chuyện gì thì cũng chẳng ai thấy mặt bà ở cửa hàng của họ (trừ ba cửa hàng đã không thấy mặt bà từ vài tháng rồi, ôi, sao lâu quá chưa thấy đến lại! Xin chuyển lời chào nồng nhiệt của Franck/Charlotte/Sarabeth nhé!)

Sau khi hoài công đi tìm, trưa ngày thứ ba Emily bật đèn xanh cho phép tôi đến văn phòng hỏi Miranda lần nữa. Xe đỗ trước tòa nhà là tôi đã túa mồ hôi, và khi Eduardo không mở ngay cửa xoay thì tôi dọa sẽ trèo qua. Tôi lên tầng, áo ướt đẫm, tay run rẩy khi vào đến văn phòng, lúng túng quên tiệt những câu đã sắp sẵn trong óc để trình bày (Chào Miranda, tôi khỏe, xin cám ơn. Bà có khỏe không? Vâng, tôi muốn trình bày là tôi đã vất vả đi tìm cửa hàng đồ cổ như bà nói nhưng không gặp may. Bà có thể cho biết là nó bên Tây hay Đông Manhattan được không ạ? Hay bà nói lại lần nữa tên cửa hàng là gì ạ?). Thay vì viết ra giấy các câu hỏi và đem nộp như thường lệ, tôi xin gặp bà trực tiếp ở bàn giấy, và - có lẽ bị bất ngờ vì tôi không được hỏi mà vẫn lên tiếng - bà đồng ý cho gặp. Phần cuối tôi tóm gọn lại như sau: Miranda thở dài và chặc lưỡi và chán nản một cách lịch thiệp rất riêng của bà, rốt cuộc bà mở cuốn sổ da Hermès màu đen ghi kế hoạch (buộc bằng chiếc khăn Hermès trắng một cách bất tiện nhưng rất đẹp) và lấy ra... tấm danh thiếp của cửa hàng.

"Aan-dree-aa, tôi đã đọc địa chỉ cửa hàng cho chị vào băng rồi mà. Tôi nghĩ là khó khăn gì mà chị không chép lại chứ?" Tôi ước gì được vớ lấy tấm thiếp và quật lên mặt bà ta, song chỉ lẳng lặng gật đầu nghe lời trách cứ. Khi nhìn thấy địa chỉ trên thiếp, thiếu chút nữa thì tôi phát điên: 244 phố 68! Thảo nào tôi không tìm ra. Tôi mất toi ba mươi ba tiếng đồng hồ đi tìm cửa hàng ở một khu phố khác hẳn!

Tôi cứ nghĩ đến chuyện này trong khi chép lại những tin nhắn đêm qua của bà. Sau đó tôi vội xuống tầng trệt để nhận đồ ở chỗ hẹn với Yuri. Mỗi sáng ông báo chính xác địa điểm đỗ xe, nhưng tôi có nhanh chân đến mấy thì khi xuống đến nơi Yuri cũng đã lấy hết đồ khỏi xe và khuân vào nhà để tôi đỡ mất công tìm ông lâu. Hôm nay cũng thế. Ông đã đứng đợi tôi như một người ông hiền từ ở tiền sảnh trước cửa xoay, tay ôm đầy túi nylon, quần áo và sách báo.

"Đừng chạy nhanh thế, nghe chưa," ông nói đặc giọng Nga. "Suốt ngày tôi thấy chị chạy và chạy và chạy, chị vất vả quá đấy. Vì vậy tôi đem đồ tận tay cho chị," ông giúp tôi chất hết các túi và hộp lên tay. "Chị là một cô bé ngoan, nghe chưa. Chúc chị một ngày tốt lành."

Tôi nhìn ông đầy hàm ơn, ngó qua Eduardo với tia mắt nửa đùa nửa thật báo hiệu tôi sẽ bóp cổ ông nếu ông lại định bắt tôi diễn trò như mọi hôm, và bằng lòng thấy Eduardo nhấn nút cho tôi qua cửa xoay mà không nói một lời nào. Lạ lùng là tôi nhớ đảo qua quầy Ahmed để nhận báo. Mặc dù phòng báo chí cứ chín giờ sáng là chuyển báo cho Miranda, tôi vẫn phải lấy thêm một tập để bảo đảm cho bà không phải ngồi ở bàn lấy một giây thiếu báo đọc. Các tuần san cũng thế. Dường như không ai ngạc nhiên khi chúng tôi mua mỗi ngày chín tờ nhật báo và mỗi tuần bảy tạp chí cho bà sếp vốn chỉ quan tâm tới cột buôn chuyện và thời trang.

Trước hết tôi đẩy tất cả xuống gầm bàn, vì đã đến giờ đặt hàng rồi. Tôi quay số đã thuộc lòng của cửa hàng điểm tâm cao cấp Mangia ở trung tâm. Như mọi khi, Jorge nhấc máy.

" Chào ông anh, em đây," tôi kẹp ống nghe dưới cằm để rảnh tay kiểm tra e-mail. " Ta bắt đầu nào." Jorge và tôi rất thân nhau. Sáng nào cũng gọi điện cho nhau bốn, năm lần thì người ta dễ thành bạn.

" Chào bé con. Anh cho một cậu đến ngay chỗ cô đây. Bà ấy đến chưa?" Anh hỏi. Dù biết " bà ấy" là bà sếp điên dở của tôi và làm ở Runway, nhưng chắc anh không rõ người sắp dùng đồ ăn sáng mà tôi vừa đặt là người như thế nào. Jorge là một trong những người mà tôi ưa gọi điện buổi sáng. Eduardo, Juri, Jorge và Ahmed đảm bảo cho ngày làm việc khởi đầu tử tế. Điểm hay nhất ở họ là thật ra họ chẳng liên quan gì tới Runway, dù là sự tồn tại của họ có vẻ như chỉ xoay quanh việc kiến tạo cuộc sống hoàn hảo cho bà sếp của tôi. Không ai trong họ mảy may biết gì về quyền lực và danh tiếng của Miranda.

Gói quà sáng đầu tiên chỉ mấy giây sau là lên đường tới 640 Madison, song chắc cũng bị ném vào thùng rác ngay. Mỗi sáng Miranda dùng bốn lát ba chỉ dày mỡ, hai xúc xích nhỏ, pho mát, và cho tất cả xuống dạ dày theo một cốc cà phê sữa to đùng của Starbucks ( nhớ thêm hai viên đường mía!) Ở văn phòng, mọi người tranh cãi nhau về chuyện này. Người thì bảo Miranda luôn theo chế độ ăn kiêng kiểu Atkins, người khác cho rằng bà là người hạnh phúc vì bộ gene trao đổi chất siêu việt. Dù thế nào thì bà cũng không tăng lấy một gam trong khi ăn những đồ nhiều mỡ nhất, nhiều đường nhất, bổ béo nhất thế giới - một tội lỗi mà không người bình thường nào dám phạm. Vì quà sáng chỉ giữ nóng tối đa được mười phút, tôi liên tục đặt mới cho đến khi bà có mặt, đồ cũ cho vào thùng rác. Đã có lần tôi làm nóng lại trong lò vi sóng, chỉ mất có năm phút thôi ( nhưng đã bị gọi: Aan-dree-aa, tởm quá. Chị lấy cho tôi đồ tươi đi.") Cứ khoảng hai mươi phút là tôi lại đặt đồ mới, cho đến khi bà gọi từ điện thoại di động sai tôi đặt đồ ăn sáng ( Aan-dree-aa, tôi sắp đến văn phòng. Gọi quà sáng đi.")

Điện thoại đổ chuông. Giờ này chỉ có thể của Miranda.

" Văn phòng Miranda Priestly đây", tôi ríu rít, không mong đợi gì tốt lành.

" Emily, mười phút nữa tôi đến nơi, chị nhớ làm quà sáng sẵn sàng."

Bà đã quen gọi cả hai chúng tôi cùng là Emily, qua đó cho thấy - hoàn toàn có lý - hai người chẳng khác nhau điểm nào và hoàn toàn có thể tráo cho nhau được. Tôi thấy khá bị xúc phạm, tuy đến hôm nay cũng đã quen dần. Thêm nữa là cũng quá mệt mỏi để thực sự bực mình vì mấy trò vặt vãnh như bị gọi sai tên.

" Vâng, Miranda, xong ngay." Nhưng bà đã chấm dứt. Emily chính cống bước vào văn phòng.

"Ê, Miranda đến chưa?" Cô thì thào.Như mọi khi, cô len lén ngó về phía cửa phòng Miranda và không thèm phí một câu chào, giống hệt sếp.

" Không, nhưng vừa gọi điện báo là mười phút nữa đến nơi. Tôi quay về ngay."

Tôi đút điện thoại và bao thuốc vào túi áo khoác và lao ra ngoài. Mười phút, không hơn không kém, tôi có đúng chừng ấy thời gian để xuống tầng dưới, chạy qua quảng trường Madison đi mua cà phê rồi quay lại bàn giấy - dọc đường còn kịp rít điếu thuốc ngon lành đầu tiên trong ngày. Di tắt mẩu thuốc, tôi luôn vào hiệu Starbucks góc phố 57 vá Lex. Tôi ngắm hàng người mua: nếu không nhiều hơn tám người thì tôi xếp hàng như một khách hàng bình thường. Nhưng hầu như hôm nào cũng như hôm nay, có đến hai chục người lao động tội nghiệp hoặc nhiều hơn đang xếp hàng đợi liều cafein đẳt đỏ, và tôi phải chen hàng. Chẳng hay ho gì trò này, nhưng hình như Miranda không chịu hiểu là người ta không chỉ từ chối đưa cà phê sữa của bà đến tận nơi mà lúc đông người tôi mất đến nửa tiếng mới đến lượt. Mấy tuần liền tôi bị bà hành hạ qua điện thoại di động ( Aan-dree-aa, tôi không thể hiểu được. Tôi gọi chị trước hai mươi lăm phút là tôi sắp đến, thế mà quà sáng vẫn chưa xong. Không thể chấp nhận được.") Tôi xin gặp cô chủ cửa hàng.

" Chào bà, cám ơn chị có vài phút tiếp chuyện," tôi nói với người phụ nữ da đen nhỏ nhắn. " Tôi biết là chuyện này nghe hơi kỳ quái, tôi chỉ muốn hỏi chị, liệu có cách nào đó để tôi được phục vụ nhanh hơn một chút không?" Tôi lấy hơi để giải thích rằng tôi làm việc cho một bà sếp quan trọng và cứng đầu, không chấp nhận phải đợi cốc cà phê sáng. May quá. Cô chủ hiệu Marion đang học thêm buổi tối ở lớp tạo mốt.

" Trời ạ, tôi không nghe nhầm chứ? Chị làm việc cho Miranda Priestly? Và bà ấy dùng cà phê sữa của hiệu tôi? Cốc lớn? Sáng nào cũng thế? Thế mà tôi không biết. Vâng, vâng, tất nhiên rồi. Được ngay thôi. Tôi sẽ nói với nhân viên là chị luôn luôn được phục vụ đầu tiên. Chị không phải bận tâm gì cả. Bà ấy là nhân vật số một trong giới thời trang đấy," Marion hăng hái nói, và tôi cũng cảm ơn nồng nhiệt.

Và thế là tôi được thản nhiên lướt qua mặt những người New York mệt mỏi, cáu kỉnh và tự mãn đang rồng rắn xếp hàng từ lâu. Tôi chẳng vui thú hay kiêu hãnh gì, thậm chí còn ghét mỗi khi phải làm trò này, nhất là những hôm hàng dài đằng đặc như hôm nay. Để chuộc lỗi, tôi không đặt một cốc mà mua cả khay bưng ra. Mạch đập thình thịch, mắt cay; tôi cố quên đây là cuộc đời mình sau mấy năm trời học văn thơ và tốt nghiệp điểm cao. Thay vào đó là đi đặt cốc cà phê sữa lớn cho Miranda cộng thêm vài cốc cho mình. Tôi đặt một cốc Grande Amaretto Cappuccino, một Mocha Frappuccino và một Caramel Macchiato lên khay, lấy thêm nửa tá bánh flan và bánh sừng bò, tổng cộng tốn hết 28,83 dollar. Tôi cho hóc đơn vào ngăn riêng trong cái ví chật cứng để thanh toán với Elias Clark mà chưa bao giờ bị hỏi han lâu la.

Bây giờ phải rảo cẳng lên, vì từ lúc Miranda gọi điện đến giờ đã hai mươi phút trôi qua. Chắc chắn Miranda đã ngồi đó và bực dọc tự hỏi, sáng nào tôi cũng biến đi đâu lâu thế ( logo của Starbucks trên cốc lẽ ra đã đưa lại cho bà câu trả lời). Nhưng trước khi tôi kịp bưng các thứ lên thì đã có chuông điện thoại. Tim tôi đập rộn, lần nào cũng thế. Tôi biết nhất định đó là Miranda. Rõ quá, nhưng tôi vẫn hoảng. Số máy hiện ra khắng định phỏng đoán của tôi, nhưng tôi ngạc nhiên nghe giọng Emily - cô gọi từ máy của Miranda.

" Sếp đến rồi, đang điên tiết," cô thì thầm. " Chị chạy đi đâu thế?"

" Tôi không nhanh hơn được," tôi càu nhàu, cố bưng khay cho cân, một tay giữ túi bánh, tay kia cầm điện thoại.

Tôi và Emily giờ đây được nối bằng sự phản cảm mãnh liệt. Từ khi cô lên chức trợ lý trưởng thì chủ yếu tôi làm trợ lý riêng cho Miranda. Tôi gọi đồ ăn thức uống, giúp hai cô bé làm bài về nhà , sục sạo khắp thành phố để kiếm loại bát đĩa thích hợp cho bà tổ chức mời khách ăn tiệc. Emily lo tính toán chi tiêu, đặt vé máy bay, vài tháng một lần đặt mua áo quần mới cho Miranda - nhiệm vụ lớn nhất. Buổi sáng, khi tôi ra ngoài chạy việc thì một mình Emily phải canh văn phòng, bắt điện thoại và sẵn sàng phục vụ Miranda mọi bề. Tôi ghen ghét với Emily được mặc áo không tay trong văn phòng, vì chị không phải rời phòng ấm áp mỗi ngày sáu lần để chạy khắp New York lạnh như cắt ruột. Chị ghen ghét với tôi được rời khỏi văn phòng và luôn lợi dụng được vài phút để gọi điện nói chuyện riêng hay hút thuốc.

Thông thường thì đường về văn phòng lâu hơn đường đến Starbucks, vì tôi còn phải đi phân phát cà phê và bánh. Tôi đem cho một nhóm người vô gia cư, mấy người mà tôi đã quen mặt ở phố 57. Họ ngồi vất vưởng trên các bậc thang, ngủ trong lối đi vào nhà và trốn tránh nỗ lực của thành phố muốn dọn họ đi. Cảnh sát hay đi lùng vào sáng sớm, khi chưa có nhiều người ngoài phố, nhưng lúc tôi đi mua cà phê lần đầu thì họ vẫn còn đấy. Thật phấn chấn và thích thú khi thấy món cà phê đắt lòi mắt do Elias Clark tài trợ được đem đến cho những người bị thành phố hắt hủi nhất.

Người đàn ông hôi mùi nước tiểu ngủ trước nhà băng Chase ngày nào cũng được uống Mocha Frappuccino. Ông không bao giờ thức giấc khi tôi đặt cốc xuống cùi tay ông ( có ống thuốc! tất nhiên!) nhưng mấy tiếng sau, khi tôi đi mua cà phê lần nữa thì cà phê biến mất - cùng với ông già.

Cốc Caramel Macchiato dành cho bà già có xe mua hàng và tấm biển KHÔNG NHÀ/ TÌM VIỆC/ ĐÓI. Sau này tôi biết tên bà là Theresa, mới đầu tôi hay bưng cho bà một cốc lớn cà phê sữa như của Miranda. Bà luôn cảm ơn, nhưng không bao giờ uống một ngụm khi cà phê còn nóng. Một hôm tôi hỏi, liệu có phải bà không thích cà phê. Bà lắc đầu quầy quậy và móm mém nói là bà đâu có tính kén chọn, nhưng cà phê đặc quá và bà ưa uống ngọt hơn. Hôm sau tôi đem cho bà có vị vani và kem béo. Như thế đúng hơn? Vâng, ngon hơn nhiều, nhưng lần này có lẽ hơi bị ngọt quá. Hôm sau nữa thì tôi gãi đúng chỗ ngứa: không pha thêm vị gì, chỉ thêm một chút kem béo và si rô mạch nha. Theresa cười, miệng gần rụng hết răng, từ hôm đó uống hết ngay khi tôi đem cà phê đến.

Cốc thứ ba cho Rio, người Nigeria, anh ngồi trên tấm chăn và bán CD. Có vẻ như anh không phải vô gia cư, nhưng một lần tôi đem khẩu phần hằng ngày cho Theresa thì anh đi tới và hỏi, hay đúng hơn là hát: " Chị là cô tiên của Starbucks à? Phần tôi đâu?" Hôm sau tôi biếu anh một cốc Caramel Macchiato và từ đó chúng tôi thành bạn.

Mỗi ngày tôi chi lạm 24 dollar tiền cà phê ( cà phê sữa cho Miranda chỉ có giá hơn bốn dollar), thêm một cú đá ngầm của riêng tôi vào công ty, vì tôi đem đồ ăn thức uống cho những kẻ bẩn thỉu, hôi hám và điên dở - chứ không phải vứt tiền của Miranda đi theo nghĩa đen.

Tôi vào đến tiền sảnh khi Pedro, người Mexico giao hàng của Mangia, đang tán gẫu với Eduardo trước dãy thang máy.

" Xin chào, cô bé yêu của chúng ta đến kìa," anh nói, mấy con bé tọc mạch ngoái cổ lại nhìn. " Mọi thứ đây, như mọi khi, ba chỉ, xúc xích và món pho mát kinh dị. Hôm nay chị chỉ gọi có một lần. Đồ ăn chị cho đi đâu hết, trông chị gầy thế kia," anh cười. Gầy! Tôi mà gầy? Anh chàng này chẳng biết gì. Pedro biết rõ là đồ ăn không phải mua cho tôi. Nhưng cũng giống như mọi người tôi gặp trước tám giờ, anh không biết các chi tiết. Tôi ấn vào tay anh tờ 10 dollar cho gói quà sáng giá 3.99 và đi lên tầng.

Miranda đang gọi điện khi tôi vào phòng. Chiếc áo khoác Gucci bằng da rắn của bà nằm vắt ngang bàn tôi. Máu tôi dồn lên mặt. Mất gì mà bà không đi thêm hai bước, mở tủ tường và treo áo mình vào đó, thay vì quẳng nó lên bàn tôi? Tôi đặt cốc cà phê xuống, ngó qua Emily đang đồng thời bận bịu với ba máy điện thoại rồi đem chiếc áo da rắn đi treo. Chiếc măng tô của tôi thì đút xuống gầm bàn, vì tôi không muốn nó treo trong tủ làm nhiễm trùng áo sếp.

Tôi lấy hai viên đường mía, thìa và khăn ăn từ ngăn kéo ra và phải rất cố kiềm chế mình để khỏi nhổ một bãi vào cốc cà phê. Sau khi để mấy lát mỡ béo, xúc xích căn tròn và miếng " pho mát kinh dị" lên một đĩa sứ nhỏ, tôi chùi tay vào mấy đồ giặt còn giấu dưới bàn ( để Miranda không biết là chúng chưa được lấy đi). Về lý thuyết thì lẽ ra ngày nào tôi cũng phải rửa đĩa bằng nước nóng trong bếp, nhưng đơn giản là tôi không sao làm nổi. Đóng vai ô sin riêng của Miranda trước mặt bàn dân thiên hạ thì nhục quá. Do đó tôi lấy khăn giấy chùi đĩa, lấy móng tay cào chỗ pho mát dính trên đĩa. Nếu đĩa dính bẩn quá thì tôi lấy một ít San Pellegrino rỏ vào cho mềm. May cho Miranda là tôi không sử dụng cồn lau màn hình máy tính! Những suy nghĩ kiểu ấy chứng tỏ đạo đức của tôi đã đạt mức suy đồi tệ hại. Tôi chỉ thấy khiếp sợ, tại sao quá trình này diễn ra nhanh thế.

" Nhớ là tôi muốn các người mẫu cười," tiếng bà vang lên trong phòng. Nghe giọng thì biết là Miranda đang gọi điện cho Lucia, phụ trách thời trang trong buổi chụp ảnh sắp tới ở Brazil. " Tôi muốn thấy các cô gái hạnh phúc, cười rạng rỡ, khỏe mạnh. Không được mặt mũi đăm chiêu, cau có, nhăn nhó, không đánh phấn màu tối. Tôi muốn họ tỏa sáng. Nhớ chưa Lucia: chớ làm sai một li!"

Tôi vào phòng, đặt đĩa đồ ăn và cà phê lên bàn, khăn ăn, đường và thìa bên cạnh. Bà không thèm nhìn tôi. Tôi đợi một lát xem bà có đưa tài liệu nào để gửi fax hay lưu trữ, nhưng bà lờ đi và tôi lại ra khỏi phòng.

Tám rưỡi. Tôi ra khỏi giường cách đây ba giờ và mệt rũ như đã làm việc suốt mười hai tiếng; vừa định kiểm tra hộp thư điện tử lần nữa thì Miranda đi ra. Chiếc áo khoác buộc thắt lưng làm nổi rõ đáy lưng ong và làm chiếc váy bó sát của bà càng đẹp lý tưởng. Bà lên cơn thịnh nộ.

"Aan-dree-aa! Cà phê nguội ngắt. Tôi không hiểu tại sao. Chắc chắn chị đi lâu quá. Lấy cho tôi cốc khác."

Tôi hít hơi thật sâu và cắn răng không để lộ nét căm ghét ra mặt. Miranda đặt cốc cà phê bị chê lên bàn tôi và mở cuốn tạp chí Vanity Fair số mới nhất do một nhân viên gửi lại cho bà trên bàn tôi. Tôi cảm nhận được tia mắt của Emily có lẽ pha trộn giữa thông cảm và tức giận. Một mặt, cô thương tôi phải chạy ra ngoài lần nữa mua cà phê, nhưng mặt khác cô bực mình vì tôi không chịu tươi cười chấp nhận một điều bất khả kháng. Chả gì thì hàng triệu cô gái khác sẵn sàng xin chết để được làm công việc của tôi.

Với một tiếng thở dài không thể không nghe thấy, nhưng cũng không bị hiểu là công khai phản kháng, tôi chui vào chiếc măng tô và đi ra thang máy. Chuyện đã rõ ràng: hôm nay sẽ lại là một ngày rất, rất dài.

Chuyến đi mua cà phê lần thứ hai trôi chảy hơn lần đầu nhiều. Ở Starbucks không còn đông người nữa, và Marion bắt đầu rót ngay cốc cà phê sữa khi cô thấy tôi đi vào. Lần này tôi không mua nhiều thứ, tôi muốn hoàn thành công việc thật nhanh và quay về bàn của mình, chỉ lấy thêm cho Emily và tôi mỗi người một cốc Cappuccino. Tôi vừa định trả tiền thì có chuông điện thoại. Con mụ chết tiệt này. Không biết cách cư xử, kiên nhẫn và tôn trọng ai cả. Tôi ra ngoài chưa đầy bốn phút, cớ gì mà bà ta phải làm ầm lên? Tôi giữ khay cà phê bằng một tay, tay kia thọc vào túi áo măng tô tìm điện thoại. Tôi quyết định châm một điếu thuốc để phản kháng trò đàn áp nô lệ này thì thấy số máy gọi đến là số ở nhà Lily.

" Tớ có quấy cậu không?" Cô hỏi. Giọng cô nóng vội. Tôi nhìn đồng hồ. Tại sao giờ này cô lại ở nhà mà không đến trường?

" Không sao, tớ đang đi mua cà phê lần thứ hai. Có chuyện gì thế? Giờ này cậu đang ở trường mới đúng chứ?"

" Ừ, chính ra là thế. Nhưng tối qua tớ đi chơi với T-shirt-hồng và rất tiếc đã uống vài ly Margarita quá mức bình thường. Nói chính xác hơn là tám ly. Hắn còn ngủ, và tớ không muốn tự dưng bỏ đi. Nhưng tớ gọi cậu vì một chuyện khác."

" Sao nữa?" Tôi không tập trung nghe lắm. Một chiếc cốc giấy đựng Cappuccino đã bắt đầu ngấm ra ngoài, và với chiếc điện thoại kẹp dưới cằm thì phải thật khéo léo mới dùng một tay moi được điếu thuốc và châm lửa.

" Ông chủ nhà của tớ tám giờ sáng nay đến gõ cửa và nói rằng tớ phải ra khỏi nhà," cô nói giọng vui vẻ.

"Ra khỏi nhà à? Nhưng tại sao, Lily? Bây giờ cậu định làm gì?"

" Chắc là họ biết tớ không phải Sandra Gers, và cô ta không sống ở đây từ sáu tháng nay. Tớ không có họ với cô ấy, vì vậy không được thuê tiếp căn hộ được xã hội trợ giá. Chuyện ấy tớ biết ngay từ đầu, do đó tớ vẫn mang tên cô ta. Chẳng hiểu tại sao họ lại phát hiện ra. Nhưng chuyện cũng đã xảy ra rồi. Bây giờ tớ có một ý rất hay. Tại sao bọn mình không đến ở cùng nhau nhỉ? Phòng của cậu ở chỗ Shanti và Kendra thuê từng tháng một, đúng không? Và cậu dọn đến đó vì không có chỗ nào khác, đúng không?"

" Đúng."

" Okay. Vậy thì bọn mình cùng tìm một chỗ hợp lý!"

"Tuyệt" Tôi nói hơi to quá, mặc dù đúng là cũng thích kế hoạch của cô.

"Vậy là cậu đồng ý rồi nhé?" Cô nói, nghe chừng đã bớt phấn khởi một chút.

"Nhất định rồi, Lily. Sáng kiến của cậu rất hay. Tiếc là tớ không nhảy lên vì sung sướng được, vì tớ đang đứng ngoài mưa và cà phê nóng bỏng đang chảy dọc cánh tay trái..." Píp píp. Có một cuộc gọi khác đang chờ. Suýt nữa tôi phải bỏng vì điếu thuốc trong khi cầm điện thoại lên xem số điện gọi đến. Đó là Emily.

"Chết tiệt, Lily, Miranda gọi. Tớ phải chấm dứt đây, chúc mừng cậu bị đuổi khỏi nhà! Tớ rất mừng cho hai chúng mình. Lát nữa tớ gọi lại, okay?"

"Okay, thế thì..."

Tôi đã chuyển kênh và chuẩn bị tinh thần nghe chửi.

"Lại tôi đây," Emily cay nghiệt. "Chị biến đi đâu vậy? Việc của chị chỉ là mua cà phê, có gì ghê gớm đâu. Chị quên là ngày xưa tôi làm việc này của chị, và tôi biết là không thể lâu đến mức ấy..."

"Gì cơ?" Tôi lớn tiếng hỏi và che ngón tay lên máy. "Có chuyện gì thế? Tôi không nghe thấy gì cả. Chị có nghe thấy tôi nói không? Một phút nữa tôi về!" Tôi gập máy lại và dúi thật sâu vào túi áo. Sau đó tôi vứt điếu thuốc Marlboro vừa châm xuống vỉa hè, chạy vội về văn phòng.

Miranda lần này rộng lòng chấp nhận cốc cà phê sữa hơi nóng hơn một chút. Từ mười đến mười một giờ, bà không gọi Emily và tôi lần nào, vì còn mải tán chuyện điện thoại với Mr. Mờ-Cờ-Đờ. Về danh chính ngôn thuận thì tôi mới làm quen chồng bà tuần trước, vào tối thứ Tư khi đến nộp SÁCH. Tôi vào đến sảnh khi ông đang lấy măng tô khỏi tủ. Mười phút liền ông lảm nhảm kể cho tôi về "Mr. Tomlinson". Sau lần gặp gỡ ấy ông luôn đối xử đặc biệt ân cần với tôi, hỏi thăm sức khỏe và khen tôi làm việc tốt. Đương nhiên là sự thân mật đó không hề lây sang vợ ông.

Tôi toan gọi sang bên quan hệ đại chúng để kiếm vài đồ tử tế mặc trong văn phòng thì giọng Miranda lanh lảnh dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ: "Emily, ăn trưa". Emily thứ thiệt gật đầu ra hiệu: việc của tôi. Tôi bấm số điện đã lưu của Smith and Wollensky, ở đầu dây bên kia là cô nhân viên mới.

"Chào Kim. Đây là Andrea, văn phòng Miranda Priestly. Sebastian có đấy không?"

"Xin chào. Xin cho biết tên một lần nữa." Mỗi tuần hai lần, tôi gọi điện đúng vào giờ này, vậy mà lần nào cô ta cũng như không biết tôi là ai.

"Văn phòng Miranda Priestly. Runway. Tôi không muốn tỏ ra khiếm nhã" - đúng thế - "nhưng tôi khá vội. Chị nối máy cho tôi với Sebastian được không?" Gặp một nhân viên khác thì nhất định tôi sẽ nhờ chuyển tiếp các món Miranda vẫn đặt, nhưng cô Kim này quá tối dạ, vì vậy tôi có thói quen nói trực tiếp với chủ nhà hàng.

"Xin đợi một chút. Tôi xem ông ấy có thì giờ nói chuyện không." Tất nhiên là có, cứ tin tôi đi cô Kim. Ông ấy sống nhờ vào Miranda Priestly đấy.

"Andy thân mến. Cô có khỏe không?" Giọng Sebastian như gió thoảng. "Tôi hi vọng được chị gọi vì bà tổng biên tập thời trang yêu mến của chúng ta muốn ăn trưa, đúng không?"

Không hiểu ông ta phản ứng ra sao, nếu tôi cho phép đùa ông là bữa trưa này không phải cho Miranda mà là cho tôi? Smith and Wollensky đâu phải là một hiệu cung cấp pizza, mà là nhà hàng năm sao, và chỉ cho phép nữ hoàng hưởng một ngoại lệ.

"Vâng, đúng thế. Miranda vừa nói là bà muốn thử đặc sản của nhà hàng ông, và gửi ông lời chào thân ái." Có lẽ cả đời Miranda không thốt ra mấy lời sến như thế, nhưng Sebastian là một fan lớn của bà nên tôi muốn dành cho ông niềm vui nho nhỏ này. Ông khúc khích cười rất xúc động.

"Tuyệt vời! Cực kỳ tuyệt vời! Chúng tôi bắt đầu ngay đây. Chị đến lấy thức ăn lúc nào cũng được," giọng ông vui vẻ tươi tắn. "Và tất nhiên hãy cho tôi gửi đến bà lời chào thân ái!"

"Nhất định rồi, tôi sẽ chuyển ngay, xin chào ông."

Nịnh ông một chút cũng bõ công, vì ông giúp tôi rất nhiều và đỡ việc cho tôi. Hôm nào Miranda không đi ăn, tôi dọn bữa cho bà trong văn phòng, và cất giữ trong tủ lạnh mấy thứ bát đĩa sứ cho mục đích này. Chủ yếu đó là hàng mẫu của các bộ đồ ăn mới do các nhà tạo mốt gửi đến, phần còn lại lấy từ căng tin. Kiếm khay, dao cắt bít tết và khăn ăn vải lanh thì quá phiền phức, tôi bảo Sebastian cung cấp luôn. Lại một lần nữa trong ngày tháng Hai lạnh lẽo và xám xịt này, tôi khoác lên người chiếc măng tô len đen, đút điện thoại và thuốc lá vào túi rồi đi ra ngoài. Mặc dù đi bộ đến nhà hàng chỉ mất mười lăm phút, tôi vẫn suy nghĩ có nên gọi ôtô không. Nhưng khi hít vào phổi không khí trong lành thì tôi thay đổi ý định, châm một điếu thuốc và lên đường. Không rõ vì khói hay vì gió lạnh nhưng tôi thấy phấn chấn hẳn.

Vào mùa này ít khi gặp nhiều khách du lịch lang thang đi lại. Ngày xưa tôi hay bực mình về những người vừa đi vừa gọi điện thoại, nhưng bây giờ chính tôi cũng có thói quen xấu đó. Tôi rút điện thoại và gọi đến trường của Alex, nếu trí nhớ kém cỏi của tôi không nhầm thì giờ này có thể anh đang nghỉ trưa ở phòng giáo viên.

Sau hai hồi chuông, thì tôi nghe một giọng phụ nữa rất chua trả lời.

"Alô, trường phổ thông số 277, tôi là Mrs. Whitmore. Quý vị cần gì?"

"Tôi muốn gặp Alex Feinman."

"Cho phép tôi hỏi chị là ai?"

"Tôi là Andrea Sachs, bạn gái của Alex. "

"A, Andrea đấy à. Chúng tôi đã nghe kể nhiều về chị. " Giọng bà không có vẻ vui, thậm chí ngược lại.

"Ồ, thế ạ? Xin cám ơn. Tôi cũng được nghe kể nhiều về bà Miranda Priestly. Vâng, Alex rất mến các đồng nghiệp ở trường."

"Cám ơn chị. Andrea, tôi muốn nói là, hình như chị có công việc rất thú vị, khi được làm cho một phụ nữ tài năng như vậy. Chị là người rất may mắn đấy."

Vâng, Mrs. Whitmore, tôi là người nhiều may mắn. Bà không biết tôi may mắn đến mức nào đâu. Nếu bà biết là mới ngày hôm qua tôi được phép đi mua tampon cho bà sếp của tôi và sau đó được biết là mua nhầm loại và tôi chẳng biết làm gì cho tử tế cả. May mắn là chữ duy nhất khả dĩ đúng với cảm nhận của tôi vào mỗi buổi sáng khi tôi phân loại đống quần áo dính đầy mồ hôi và thức ăn của bà sếp để đem đi giặt. À, còn nữa! Tôi không biết có gì làm tôi sung sướng hơn là ba tuần liền chạy đến những người nuôi chó tốt nhất thành phố để tìm mua hai con chó giống Bulldog của Pháp cho hai con bé được chiều chuộng và láo toét nhất. Vâng, may mắn là thế đấy!

"Vâng, đúng thế, đúng là một cơ hội tốt," tôi nói như con vẹt. "Hàng triệu cô gái xin chết để làm việc này đấy."

"Chị nói đúng quá. Ai thế nhỉ? À, Alex vừa đến. Chị nói chuyện với anh ấy nhé."

"Chào Andy, em có khỏe không? Ngày hôm nay ra sao?"

"Đừng hỏi thì hơn. Em đang đi mua đồ ăn cho BÀ ẤY. Còn anh thì sao?"

"Cho đến giờ thì ổn. Lớp của anh sau giờ ăn trưa sẽ học nhạc, nghĩa là anh sẽ rảnh một tiếng rưỡi, may quá. Sau đó còn phải tập phát âm!" Anh nói hơi chán nản. "Anh cũng không rõ bọn trẻ rồi sẽ học đọc cho tử tế sao nữa."

"Được, hôm nay có xảy ra chuyện đâm chém gì không?"

"Không."

"Thấy chưa, anh còn đòi gì nữa? Hôm nay anh có một ngày ít đau đớn nhé và không có máu chảy. Hãy vui đi chứ. Mai vẫn còn thì giờ tập đọc cơ mà. Anh đã nghe tin mới nhất chưa? Sáng nay Lily gọi điện, cô ấy bị tống ra khỏi nhà ở Harlem, bọn em sẽ đến ở cùng nhau. Hay đấy chứ?"

"Xin chúc mừng! Thời điểm rất thuận lợi, ở chỗ hai người sẽ rất vui đấy. Nhưng suốt ngày có Lily bên cạnh cũng mệt...và các bạn trai của Lily nữa... Em hãy hứa là thường xuyên đến chỗ anh hơn!"

"Tất nhiên. Nhưng anh cũng sẽ thích ở chỗ bọn em. Giống như ngày xưa ở ký túc xá sinh viên ấy mà."

"Thật rủi cho cô ấy phải bỏ căn hộ rẻ. Đối với em tất nhiên lại là may mắn."

"Vâng, em cũng chưa tin nổi. Em không có chuyện gì với Shanti và Kendra, nhưng có lẽ em đã quá tuổi ở nhờ ở đậu nơi người lạ." Cũng phải nói thêm là tôi rất thích đồ ăn Ấn Độ, nhưng không nhất thiết quần áo luôn luôn phải có mùi cà ri. "Em định đề nghị với Lily tối nay liên hoan mừng một khởi đầu mới. Anh có đi cùng không? Bọn mình sẽ đến East Village, anh đỡ phải đi xa."

"Rất hay. Chiều nay anh ở nhà với Joey, nhưng khoảng tám giờ tối anh phải vào thành phố. Lúc đấy em cũng chưa xong việc. Max sẽ đi cùng, mình sẽ gặp nhau sau. Này, dạo này Lily có bạn trai không? Max đang độc thân mà, nếu..."

"Sao cơ?" Tôi cười. "Anh định nói bạn gái của em là một đứa lăng nhăng hay sao? Cô ấy là người có tư tưởng tự do. Còn chuyện bạn trai thì nói thế nào nhỉ? Tối qua có một gã ngủ ở chỗ cô ấy tên là Mr. T-shirt-hồng, em cũng không biết tên thật là gì."

"Không quan trọng. Vừa có chuông báo giờ nghỉ. Gọi điện cho anh khi em đã nộp SÁCH xong nhé."

"Okay."

Tôi chưa kịp đút điện thoại vào túi thì lại có chuông. Số lạ, nghĩa là không phải Miranda hay Emily. Tôi thở phào.

"Văn ph...a lô?" Bất kể ở chỗ làm, ở nhà hay dọc đường, tôi luôn bắt điện thoại với câu "Văn phòng Miranda Priestly," nhiều khi phát ngượng, nếu người khác gọi điện (ngoài bố mẹ tôi hay Lily). Tôi phải khẩn trương bỏ thói xấu này đi mới được.

"Có phải đó là cô bé Andrea xinh đẹp mà tôi vô tình gây khiếp sợ ở buổi dạ hội của Marshall không đấy?" Một giọng khàn khàn và rất sexy hỏi. Christian! Tôi có cảm giác nhẹ người khi anh ta biến mất tăm sau vụ hôn tay. Song sau khi nghe tiếng anh trong điện thoại thì tôi lại cảm thấy một mong muốn khó tả - giống như hôm dạ hội - được quyến rũ anh bằng sự duyên dáng của mình, và tôi vội vàng hứa với mình sẽ thật tự chủ.

"Đúng thế. Cho phép tôi hỏi ai đấy ạ? Tối hôm đó có nhiều đàn ông làm tôi khiếp sợ lắm." Okay, bắt đầu thế là ổn. Lấy hơi thật sâu và bình tĩnh nào.

"Thế mà tôi không biết là hôm ấy lực lượng cạnh tranh hùng mạnh đến thế," anh nói trơn tru. "Có lẽ đúng thế thật. Chị có khỏe không, Andrea?"

"Rất khỏe, cực khỏe, siêu khỏe," tôi nói dối như chớp. Tôi vừa nhớ lại mấy chỉ dẫn tán tỉnh trong tờ Cosmopolitan, trong đó họ nói là khi mới quen ai thì luôn phải "nhẹ nhàng, tung tẩy và vui vẻ," bởi vì đa số đàn ông bình thường không ưa phụ nữ cay nghiệt. "Công việc của tôi rất thú vị, tôi không ước gì hơn! Càng ngày càng hấp dẫn, có nhiều chuyện để học và làm. Anh có khỏe không?" Bạn đừng nói nhiều quá về mình, hãy tạo điều kiện để anh ấy nói về đề tài mà anh ấy thạo nhất và cũng thích nói nhất: về chính bản thân mình.

"Chị là một người nói dối tuyệt với, Andrea. Người nào không sành sẽ tin những lời ca ngợi của chị lắm đấy. Nhưng chắc chị biết câu tục ngữ cổ: rất khó nói dối một người chuyên nói dối. Không sao, lần này tôi thứ lỗi cho chị." Thật ra thì tôi định căm phẫn bác bỏ lời buộc tội này, nhưng khó quá. Thay vào đó, tôi phá ra cười. Quả là không nói dối được anh ta. "Cho phép tôi vào chuyện luôn nhé, chả là tôi sắp bay đi Washington, và nhân viên an ninh ở đây sẽ không cho tôi vượt qua máy dò kim loại nếu điện thoại còn bật. Tối thứ Bảy này chị có kế hoạch gì chưa?"

Tôi ghét những người hỏi tôi có kế hoạch gì chưa mà không tiết lộ trước chủ ý của mình. Biết trả lời thế nào nhỉ? Người ta không thể biết sẽ có chuyện gì xảy ra. Có thể anh ta tìm cho bạn gái của mình một đứa ngốc nghếch giàu lòng tương ái và tôi là ứng cử viên lý tưởng cho trò này? Hoặc cần một người dắt chó đi ỉa trong khi anh ta lại phải đi trả lời phỏng vấn cho tờ New York Times? Trong khi tôi cố nghĩ ra một câu trả lời lập lờ, anh đã nói tiếp: "Tôi đặt trước một bàn ở Babbo lúc chín giờ. Sẽ có một vài bạn bè thân quen, ngày báo chí, tương đối thú vị. Một biên tập viên của The Buzz và vài phóng viên của The New Yorker. Rất dễ thương. Chị đến nhé?"

Một cuộc hẹn phải không nhỉ? Đúng thế, đúng là một cuộc hẹn. Anh ta hẹn tôi đi chơi! Anh ta hẹn tôi đi chơi ! Christian Collinsworth mời tôi đi chơi vào tối thứ Bảy. Không chỉ có vậy: anh mời tôi đến Babbo và tình cờ đặt bàn cho mình và cho tôi và một nhóm người thông minh và hấp dẫn, những người giống anh. Chưa kể đến mấy cây bút của The New Yorker! Hình như ở buổi dạ hội tôi tình cờ nhắc đến Babbo là nhà hàng New York trong mộng của tôi và tôi yêu bếp Ý và tôi biết Miranda thích nhà hàng này và tôi muốn chi cả núi tiền để đi ăn ở đó? Thậm chí đã có lần tôi định đặt bàn đi ăn cùng Alex nhưng trong năm tháng tới không còn bàn trống. Từ ba năm nay chưa ai hẹn hò với tôi nữa cả, trừ Alex.

"Hừm, Christian, vâng, tuyệt quá," tôi trả lời, cố quên ngay là tôi vừa nói "rất thích." Tuyệt quá! Ai lại nói thế? "Nghe rất hấp dẫn," - đồ ngu, mi đã nói câu ấy thì tự lo dẫn tiếp câu chuyện đi - "nhưng tôi không đến được. Tôi, à, tôi đã có kế hoạch khác cho thứ Bảy." Trả lời thế được đấy, tôi nghĩ bụng. Tôi phải hét lên để át tiếng còi xe cảnh sát, nhưng trả lời thế khá ổn. Vừa không thú nhận là không có kế hoạch thứ Bảy vừa không nói là mình có bạn trai. Đời tư của tôi thì liên quan gì tới anh ta?

"Thật là chị đã có kế hoạch khác, Andrea, hay chị sợ bạn trai chị không thích đi gặp một người đàn ông khác?" Anh ta đoán mò, tôi nghĩ thế.

"Không phải việc của anh," tôi giở giọng bà cô, tự ngạc nhiên về chính mình. Mải nói chuyện, tôi qua phố 3 lúc đèn chuyển tín hiệu và suýt bị một chiếc xe tải đâm phải.

"Vâng, tôi nghe chị lần này. Nhưng đây không phải lời mời cuối cùng, tôi tin bận sau chị sẽ đồng ý."

"Thật à? Ai nói với anh thế?" Sự tự tin của anh ta ngày càng mang vẻ kiêu căng. Tiếc rằng không vì thế mà anh bớt sexy.

"Tôi linh cảm thế thôi, Andrea ạ, vì linh cảm thôi. Chị đừng làm nhăn nếp trán xinh đẹp của mình vì điều đó nhé - hoặc của bạn trai chị. Tôi chỉ định thân mật mời chị đi ăn một bữa vui vẻ với một nhóm bạn vui vẻ. Có thể bạn chị cũng muốn đi cùng chăng, Andrea? Chắc chắn anh ta là người dễ mến, tôi thực sự thích làm quen."

"Không!" Tôi suýt hét lên, Christian và Alex ngồi đối diện cùng bàn, hai con người tuyệt vời nhưng không có chút gì trùng hợp. Tôi có thể hình dung rõ Christian sẽ phản ứng ra sao với Alex, người thiện tâm nhất thế giới này. Bên cạnh Christian thì Alex chỉ là một anh nhà quê ngô nghê và ngoan ngoãn. Nhận định của Alex chắc cũng chẳng hay ho gì về những mặt xấu của Christian mà tôi vô cùng cảm kích: thanh lịch, bặm trợn, bạo miệng và lòng tự tin bất khả suy suyển.

"Không," tôi cười gượng gạo, cố ra vẻ bình thản. "Tôi cho là ý định ấy không hay lắm. Mặc dù anh ấy chắc cũng vui được làm quen anh."

Christian cũng cười, nhưng có ý giễu cợt kẻ cả. "Đùa thôi, Andrea. Tôi tin anh ấy là người dễ mến, nhưng không phải cố làm quen bằng được."

"Vâng, tất nhiên. Tôi hiểu anh chỉ định..."

"Xin lỗi chị, tôi đang vội. Chị cứ gọi điện cho tôi nếu thay đổi ý định... hoặc thay đổi kế hoạch, okay? Tôi vẫn giữ lời mời. Vâng, chúc chị một ngày tốt lành." Trước khi tôi kịp trả lời, anh đã ngắt điện.

Tôi sửng sốt. Rồi điểm lại cuộc nói chuyện: nhà văn cực thờithượng kiếm ra từ đâu đó số điện thoại của tôi, gọi điện và mời ăn tối thứ Bẩy ở một nhà hàng loại cực thời thượng. Không rõ là trước đấy anh có biết tôi đã có bạn trai, song dù thế nào thì anh ta cũng không mảy may bận tâm vì lẽ đó. Điểm mấu chốt mà tôi nhận ra khi liếc xuống đồng hồ là: tôi đã nói chuyện điện thoại quá lâu. Tôi đã ra khỏi văn phòng trước đó ba mươi hai phút, lâu hơn quãng thời gian bình thường đi lấy thức ăn và quay về.

Tôi cất điện thoại và nhận ra đã tới trước nhà hàng. Tôi kéo cánh cửa gỗ nặng nề và bước vào phòng ăn lặng lẽ và ít ánh sáng. Tất cả các bàn đều có người, các nhân viên nhà băng và luật sư đang cưa cắt bít tết, song không gian im lặng như tờ, tựa như lớp thảm và màu sắc đàn ông nuốt chửng mọi tiếng động.

"Andrea!" Tôi nghe Sebastian gọi to từ phía quầy phục vụ. Ông vội lao về phía tôi, tựa như đến nhận liều thuốc cứu mạng do xe cấp cứu đem đến. "Rất vui mừng được tiếp chị!" Hai cô gái trẻ váy xám đứng sau ông nghiêm trang gật đầu khẳng định.

"Thật ạ? Nhưng vì sao cơ chứ?" Như mọi khi, nhìn thấy Sebastian tôi không cưỡng nổi ý định chọc ghẹo kẻ nịnh đầm này một chút.

Ông khom lưng, ghé về phía tôi với vẻ đồng lõa, giọng đầy xúc động: "Chị biết là toàn bộ nhân viên của Smith and Wollensky kính trọng bà Miranda Priestly như thế nào, đúng không ạ? Runway là một tạp chí danh giá, ảnh chụp tuyệt hảo, trình bày hoành tráng, và tất nhiên cả những bài viết quyến rũ! Cái gì cũng mê!"

"Những bài viết nữa à?" Tôi cố nhịn cười. Ông gật đầu tự hào, một người phục vụ khẽ đập vai ông và trao gói đồ ăn.

"Vâng, bữa ăn tuyệt đỉnh cho bà chủ tuyệt đỉnh - và cô trợ lý tuyệt đỉnh," ông vừa nói thêm vừa nháy mắt với tôi.

"Cám ơn, Sebastian, thay mặt cả Miranda." Tôi mở túi vải bông trông như mốt siêu sành điệu hiện nay của sinh viên các trường đại học New York đeo vai, tuy không in logo, và kiểm tra bên trong. Một suất sườn nửa ký, tươi gần như để sống nguyên, okay. Hai củ khoai tây nướng, to như con mèo con, còn bốc hơi, okay. Bát khoai tây nghiền trộn nhiều kem béo và bơ, okay. Đúng tám thanh măng tây trắng tinh, đầu mọng nước, okay. Thêm chén bạc đựng nước xốt, hộp nhỏ chứa muối tinh hạt to, dao ăn bít tết cán gỗ và khăn lanh trắng hồ cứng, hôm nay gấp thành hình chiếc váy.

"Rất tốt, Sebastian," tôi nói, giọng như khen con cún con đã biết chạy ra khỏi nhà đi ị. "Hôm nay ông đã vượt lên chính mình."

Ông rạng rỡ mặt mày, rồi khiêm tốn nhìn xuống. "Vân, xin cám ơn. Chị hiểu lòng kính trọng của tôi đối với bà Priestly, và, rất hân hạnh được..."

"... làm thức ăn mời bà?" Tôi nói đỡ ông.

"Vâng, đúng thế ạ. Niềm hân hạnh lớn, chị biết đấy."

"Dĩ nhiên, Sebastian. Tôi cam đoan là bà Priestly sẽ rất vừa lòng." Tôi không đủ tàn nhẫn để nói cho ông biết là về đến văn phòng, việc đầu tiên là phá ngay tác phẩm nghệ thuật khăn ăn, vì bà Priestly mà ông ngưỡng mộ sẽ nổi cơn tam bành khi thấy một chiếc khăn ăn không giống như một chiếc khăn ăn. Tôi cầm túi quay đi, đúng lúc có chuông điện thoại.

Sebastian hồi hộp nhìn tôi, tha thiết hy vọng giọng nói bên kia đầu dây là của người ông ngưỡng mộ và ý nghĩa cuộc đời ông. Và ông đã không thất vọng.

"Emily? Emily phải không? Nghe khó quá!" Giọng Miranda the thé chối tai, như súng máy.

"A lô, Miranda. Vâng, Andrea đây." Sebastian gần ngất đi khi nghe tên bà.

"Chị tự nấu bữa ăn cho tôi hay sao, Andrea? Theo đồng hồ của tôi thì chị ra khỏi đây đúng ba mươi lăm phút trước. Tôi chưa rõ vì bất cứ lý do nào mà đồ ăn chưa ở trên bàn tôi - nếu chị làm việc tử tế - chị nghĩ sao?"

Bà gọi đúng tên tôi! Quả là một thắng lợi nhỏ, nhưng bây giờ không phải lúc vui mừng.

"Vâng ạ, vâng, tôi xin bà thứ lỗi sự chậm trễ, có mấy vấn đề..."

"Chị chưa biết là tôi không quan tâm đến chi tiết cụ thể hay sao?"

"Vâng, tất nhiên, tôi hiểu rồi ạ. Xong ngay đây ạ..."

"Tôi gọi điện để báo cho chị là muốn ăn, ngay tắp lự, có gì để diễn giải lòng vòng cơ chứ, Emily. Tôi. Muốn. Ăn. Ngay!" Bà đặt máy, và tay tôi run bắn, thả rơi cả điện thoại xuống sàn, cứ như nó là cục than hồng. Sebastian như tỉnh khỏi cơn sốc, cúi xuống nhặt điện thoại đưa lại cho tôi.

"Bà ấy bực mình với chúng mình sao? Andrea? Tôi mong bà ấy đừng nghĩ là mình làm bà ấy giận! Phải thế không? Bà ấy có nghĩ thế không?" Ông há hốc mồm, một mạch máu hằn lên trán, lúc này tôi còn ghét ông không kém Miranda, nhưng kỳ thực tôi thấy thương hại ông. Cớ gì mà người đàn ông bạc nhược này phải phụ thuộc vào một Miranda Priestly đến nỗi ấy? Cớ gì mà ông phải tất bật xun xoe phục vụ và tỏ lòng trung thành với bà ta? Có lẽ ông là người lý tưởng cho vị trí của tôi. Ông có thể viết đơn xin việc được rồi, vì tôi sẽ tung hê tất cả. Tôi quyết định quay về văn phòng ngay lập tức và xin thôi việc. Vứt hết. Cái gì cho bà ta quyền ăn nói với tôi như vậy? Vị thế? Quyền lực? Danh tiếng? Nhãn hiệu Prada trời đánh? Ở đâu trong thế giới công bằng này chấp nhận lối đối xử đó?

Biên lai cho Elias Clark, 95 dollar như thường lệ cho bữa trưa, nằm trên mặt quầy. Tôi nguệch ngoạc một vệt xuống dưới, không thèm quan tâm đó là chữ ký của tôi, của Miranda, Emily hay Mahatma Gandhi. Tôi vớ túi đồ ăn và thình thịch đi ra khỏi nhà hàng, bỏ mặc Sebastian run rẩy đứng đó. Tôi vội nhảy lên chiếc taxi gần nhất, suýt xô ngã một ông già đi ngang. Không có thì giờ bận tâm, tôi sắp bỏ việc. Tuy xe cộ giữa trưa đang đông nhưng sau mười phút tôi đã về đến nơi. Tôi ấn tờ 20 dollar vào tay lái xe. Trong ví không có, chứ tôi cũng định đưa cho anh ta tờ năm chục và nghĩ cách lấy lại của Elias. Trong khi anh ta đếm tiền trả lại thì tôi đóng dập cửa xe và chạy mất. Cứ giữ lấy tờ hai chục, mua quà cho con gái hay sửa máy đun nước nóng cũng được, hoặc nốc vài vại bia với đồng nghiệp của mình ở bến đỗ taxi - tiền ấy dùng làm gì cũng có ý nghĩa hơn đi mua cà phê Starbucks.

Trong đầu sục sôi căm giận, tôi xông vào nhà, tảng lờ ánh mắt ngạc nhiên của bọn con gái tọc mạch đứng ở góc nhà. Benji vừa ra khỏi thang máy Bergmann, nhưng tôi xoay lưng thật nhanh về phía anh ta. Không để mất thì giờ, tôi quẹt thẻ và đẩy cửa xoay. Chết tiệt! Tôi va mạnh xương hông phải thanh kim loại, chắc chắn sẽ bị một vết bầm tím. Tôi ngẩng lên và thấy hàm răng lấp loáng cùng khuôn mặt tròn trịa rớm mồ hôi. Eduardo. Ông phải đùa bằng được. Đúng lúc này phải đùa.

Tôi quắc mắt nhìn ông. Mọi hôm thì hay có kết quả, nhưng hôm nay chẳng có tác dụng gì. Không rời mắt nhìn ông, tôi chạy vòng qua cửa xoay bên cạnh, quẹt thẻ và ấn vào thanh sắt. Quá muộn, Eduardo vẫn nhanh hơn. Trong lúc tôi đứng trơ ra trước hàng rào, Eduardo lần lượt cho từng người đi qua cửa xoay đầu tiên. Sáu người liền. Và tôi vẫn đứng đó, tức phát khóc lên. Eduardo không khoan nhượng.

"Kìa cô bé, đừng nhăn nhó thế. Đây không phải trò tra tấn, mà là trò vui. Nào, xin mời. Chú ý nhé, vì... I think we're alone now. There doesn't seem to be anyone a-rou-ound. I think we're alone now. The beatin' of our hearts is the only sou-ound."

"Eduardo, tôi không có thì giờ làm cái trò khỉ này!"

"Okay, okay, lần này tha diễn, chỉ hát thôi nhé. Tôi đoạn đầu, chị đoạn kết. Children, behave! That's what they say when we're together. And watch how you play! They don't understand, and so we're..."

Có lẽ tôi không cần phải cắt hợp đồng làm việc nữa, kể cả khi hôm nay còn kịp lên tầng. Vì đến lúc đó thì Miranda đã sa thải tôi từ lâu. Vậy thì đằng nào cũng thế, còn gì để mất nữa đâu. Hãy cho người khác một niềm vui nào. "Running just as fast as we can." Tôi tiếp lời, không để lỡ nhịp. "Holdin' on to one another's hand. Tryin' to get away into the night and then you put your arms around me and we tumble to the ground and then you say..."

Tôi vươn người về phía Eduardo khi thấy Mikey, gã đồng nghiệp khả ố mà tôi làm quen hôm đầu đang dỏng tai lên nghe. Eduardo hát nốt đoạn cuối: "I think we're alone now. There doesn't seem to be anyone a-rou-ound. I think we're alone now. The beatin' of our hearts is the only sou-ound." Ông cười vang, vung tay lên không. Tôi vỗ tay. Thanh sắt được mở thông.

"Ăn ngon miệng nhé, Andy!" Ông vui vẻ nói.

"Ông cũng thế, Eduardo, ông cũng thế."

Trong thang máy tôi dần dần hồi lại, nhưng đứng trước cửa văn phòng tôi mới thực sự suy nghĩ nghiêm chỉnh và quyết định không bỏ việc nữa. Ngoài lý do dễ hiểu nhất là tôi sợ chưa hề chuẩn bị gì mà đã ra trước mặt bà. Chắc chắn bà sẽ chỉ lạnh nhạt nhìn tôi và nói "Không, tôi cấm chị bỏ việc." Lúc ấy tôi sẽ nói gì? Tôi phải nhớ rằng, đây chỉ là một năm trong đời. Một năm có tác dụng mở mọi cánh cửa. Một năm, mười hai tháng, năm mươi hai tuần, ba trăm sáu mươi lăm ngày, rời khỏi xó này thì tôi muốn làm gì cũng được. Không sẵn lời mời. Thêm vào đó là tôi rất mệt mỏi khi nghĩ đến lúc đi tìm việc khác. Quá mệt mỏi.

Emily ngước mắt khỏi bàn khi tôi vào phòng. "Sếp sẽ về ngay. Chỉ ghé qua chỗ ông Ravitz một lát. Andrea, chị chạy đâu lâu thế? Chị biết là khi bị chị bắt đợi lâu là bà ấy đổ hết giận dữ lên đầu tôi. Lúc ấy tôi biết nói gì? Nói là chị thích hút thuốc hơn đi mua cà phê, thích buôn chuyện với bồ hơn là đi kiếm đồ ăn hay sao? Không công băng, thế là không công bằng." Cô chán nản quay sang computer.

Cô có lý, dĩ nhiên. Không công bằng đối với tôi, đối với cô, đối với bất cứ người nào có chút văn minh. Tôi cắn rứt quá, vì kéo dài giờ nghỉ mà bắt cô chịu khổ lây. Tôi hứa sẽ tử tế hơn.

"Emily, chị hoàn toàn có lý. Tôi xin lỗi. Và sẽ không để xảy ra lần nữa."

Nét mặt cô hơi ngạc nhiên và thỏa mãn. "Tôi rất hiểu, Andrea. Tôi muốn nói là tôi đã làm công việc của chị từ rất lâu. Tôi biết chị phải chịu gánh nặng nào. Có những hôm tôi phải chạy đi mua cà phê năm, sáu, bảy lần, bất kể có mưa bão hay tuyết rơi. Và tôi mệt không nhấc nổi chân lên nữa. Tôi biết hết. Có bữa tôi xuống đến tầng dưới thì sếp đã gọi điện theo để hỏi đã mua cà phê chưa, hay đồ ăn trưa, hay thuốc đánh răng đặc biệt cho răng nhạy cảm - kể ra cũng là một niềm an ủi lớn khi biết là bà ấy còn có chút nhạy cảm, ít nhất là trong hàm răng. Nhưng sếp mình là thế, phải sống chung với lũ thôi. Bà ấy không phải người độc ác, thật đấy. Nhưng kiểu bà ấy như thế."

Tôi gật đầu, nhưng không hẳn muốn chấp nhận. Cho dù chưa làm việc ở một công ty khác bao giờ, song tôi không tưởng tượng ra được mọi ông chủ bà chủ đều hành xử như Miranda. Biết đâu đúng thế thật?

Tôi đặt túi xuống và bắt đầu dọn bàn ăn. Tôi lấy tay bốc đồ ăn từ hộp bảo ôn, bày mọi thứ (thật kiểu cách, hy vọng thế) lên chiếc đĩa sứ lấy trong tủ ra. Rồi tôi chùi tay dính mỡ vào chiếc quần Versace của Miranda chưa đem đi giặt, đặt đĩa lên chiếc khay gỗ tếch lát gạch men vẫn cất dưới bàn. Cạnh đĩa là chén đựng nước xốt và bơ lỏng, muối và dao dĩa bạc vừa tháo ra khỏi khăn ăn (giờ đây không còn hình váy xếp nữa). Liếc mắt kiểm tra, tôi nhận ngay ra còn thiếu ly San Pellegrino. Nhanh chân lên - bất cứ lúc nào Miranda cũng có thể quay về! Trong bếp tôi lấy một nắm đá viên, phải thổi phù phù vào tay để khỏi bị bỏng lạnh. Thổi và liếm kỳ thực chỉ khác nhau tí tị tì ti. Không, Andrea! Hay giữ tư cách! Mi sẽ không nhổ vào đồ ăn, không liếm lên mấy viên đá. Mi không thể hèn hạ đến thế được!

Khi tôi ra khỏi phòng, Miranda vẫn chưa quay lại. Chỉ còn phải rót một chai nước và sắp xếp tử tế quanh khay đồ ăn trên bàn. Khi nào ngồi xuống cạnh chiếc bàn khổng lồ của mình, Miranda sẽ gọi chúng tôi đóng cửa phòng lại. Đó sẽ là mệnh lệnh duy nhất trong ngày mà tôi vui sướng chấp hành, không chỉ vì bây giờ chúng tôi sẽ có nửa tiếng rảnh rang trong khi bà buôn chuyện với Mr. Mờ-Cờ-Đờ như mọi trưa, mà cũng là lúc chính chúng tôi được đi ăn. Một người trong hai chúng tôi phi xuống tầng dưới, vớ lấy thứ gì ăn được rồi lại lao lên tầng; sau đó đến lượt người kia. Chúng tôi giấu đồ ăn dưới bàn hay sau màn hình máy tính, phòng khi Miranda bất ngờ đi đến. Nếu ở Runway có một đạo luật bất thành văn, nhưng bất di bất dịch, thì đó là: không ai được ăn trước Miranda Priestly. Chấm hết.

Theo đồng hồ thì đã là 2 giờ 15 phút. Theo dạ dày tôi thì phải tối khuya rồi. Trước đây bảy tiếng tôi được ăn miếng cuối cùng, một cái bánh xốp vội vàng trên đường từ Starbucks về văn phòng. Tôi đói đến mức chỉ rình xơi tái đĩa đồ ăn của Miranda.

"Emily, nếu bây giờ không được ăn gì ngay thì tôi xỉu luôn. Tôi chạy xuống nhà kiếm thứ gì nhé. Chị có cần gì ở đó không?"

"Chị điên à? Chị còn chưa phục vụ bữa trưa cho sếp mà. Miranda có thể về bất cứ lúc nào."

"Nhưng tôi thực sự không khỏe. Tôi không đợi được nữa." Thiếu ngủ cộng với đường huyết thấp làm tôi choáng váng. Tôi yếu đến nỗi ngay bây giờ Miranda xuất hiện cũng không đủ sức bưng cho bà khay đồ ăn.

"Andrea, suy nghĩ kỹ đi nào. Sẽ có chuyện gì khi chị chạm trán sếp trong thang máy hay ở khu lễ tân? Miranda sẽ biết là chị rời khỏi văn phòng và làm ầm lên! Thế thì nguy lắm. Đợi chút, tôi đi mua cho." Cô cầm ví tiền và đi ra ngoài. Chưa đầy bốn giây sau tôi thấy Miranda đang đi về. Cơn chóng mặt, đói và mệt đột nhiên biến mất khi tôi nhìn bộ mặt cau có của bà. Tôi thoăn thoắt vùng dậy, bưng khay đồ ăn sắp xếp đẹp mắt vào phòng rồi quay về ghế ngồi. Mũi giày Jimmy Choo của bà đưa qua ngưỡng cửa khi tôi đã ngồi xuống sau bàn, đầu quay cuồng và miệng khô rang. Bà không nhìn về phía tôi và, may mắn thay, có vẻ cũng không nhận ra là Emily không có mặt ở vị trí mình. Tôi có linh cảm là cuộc chuyện trò với Mr. Ravitz không được ổn lắm, song có thể bà khó chịu vì phải rời phòng làm việc của mình để đi lên chỗ ông. Mr. Ravitz là người duy nhất trong tòa nhà này được Miranda chiếu cố.

"Aan-dree-aa! Cái gì thế này? Nói cho tôi biết, của nợ gì thế này?"

Tôi lao như tên vào phòng bà. Trước mặt hai chúng tôi là món ăn mà bà vẫn gọi nếu bà không đi nhà hàng. Tôi thầm điểm qua các mục quan yếu. Không thứ gì thiếu, không thứ gì đặt sai vị trí hay sai bên, không thứ gì nấu sai. Bà ta có vấn đề gì vậy?

"Vâng, à, vâng, bữa trưa của bà mà," tôi khẽ nói, cố không để giọng mình đượm chút mỉa mai. "Có gì không đúng ạ?"

Nói cho công bằng thì tôi công nhận là bà chỉ nhúc nhích cặp môi, song trong trạng thái nửa mê sảng tôi dường như thấy bà nhe răng nanh đẫm máu.

"Có gì không đúng ạ?" Bà nhại lời tôi với giọng chua loét chẳng giống gì giọng tôi, cũng chẳng phải giọng người nữa. Bà nheo tịt mắt lại và cúi xuống. "Vâng, có gì đó không đúng. Hoàn toàn và tuyệt đối không đúng. Tại sao tôi phải về đây để nhìn thấy thứ này nằm chình ình trên bàn mình?"

Tôi như đứng trước một câu đố hóc hiểm. Tại sao bà phải nhìn thấy thứ này trên bàn mình nhỉ? Rõ ràng chuyện bà đặt bữa ăn trưa cách đây một tiếng không phải là câu trả lời chính xác. Nhưng tôi không tìm ra câu trả lời nào khác. Hay là bà không thích cái khay? Không, chuyện vô lý: bà đã thấy nó một triệu lần và chưa bao giờ ngỏ lời phàn nàn cả. Nhà hàng chọn sai loại thịt chăng? Đã có lần nhà hàng cung cấp miếng thịt thăn ngon tuyệt, vì họ cho rằng thịt này vừa ngon miệng hơn thịt sườn. Vừa trông thấy thịt là Miranda suýt nổi cơn đau tim. Bà bắt tôi gọi điện thoại cho ông bếp trưởng để mắng cho một trận, trong lúc bà đứng bên cạnh và bảo tôi phải nói gì.

"Xin lỗi bà, rất đáng tiếc," đầu bếp nói nhẹ nhàng như con người đáng yêu nhất hành tinh. " Lỗi của tôi. Tôi cứ nghĩ là nên mời một khách hàng đáng kính như Ms. Priestly những gì tốt nhất trong nhà hàng. Tôi cũng không tính thêm tiền. Xin bà yên tâm là không bao giờ xảy ra lần nữa. Tôi xin hứa." Tôi suýt phát khóc khi phải thốt ra rằng ông là đồ vô dụng và cho đến cuối đời chỉ xứng đáng được nấu cho một quán ăn hạng hai mà thôi. Ông ta xin lỗi lần nữa và đồng ý là " tôi" có lý. Từ hôm đó trở đi Miranda luôn được mời món sườn rán lòng đào. Vậy thì không phải lỗi của nhà hàng. Tôi không hiểu bà bất bình vì cái gì.

" Aan-dree-aa, trợ lý của ông Ravitz không cho chị biết là tôi và ông ấy lúc nãy vừa đi ăn ở cái phòng căng tin thảm hại dưới kia hay sao?" Bà hỏi chậm rãi, tựa như phải hết sức kiềm chế cơn thịnh nộ.

Bà ấy vừa làm gì cơ? Chạy đi chạy lại, nghe Sebastian nịnh nọt, nghe chửi mắng trên điện thoại di động, món ăn 95 dollar, bài hát của Tiffany, sắp đặt khay đồ ăn, cảm giác choáng váng, bụng lép kẹp ngồi đợi bà ta quay về - thì ra bà đã ăn rồi?

" À, không ạ, cô ấy không gọi điện đến đây. Vâng, à, nghĩa là bà không muốn ăn thứ này nữa ạ?" Tôi hỏi và chỉ vào khay.

Bà nhìn tôi như vừa nghe tôi đề nghị hãy ăn thịt một trong hai đứa song sinh. " Thế chị nghĩ tôi muốn gì, Emily?" Tiếc quá, suốt từ nãy bà nói đúng tên tôi rồi.

" Tôi nghĩ là, vâng, à, bà không muốn ăn."

" Chị nhanh trí quá, Emily ạ. Tôi thật hạnh phúc được gặp một người thông minh như chị. Dọn đi. Và đừng để xảy ra lần nữa. Chấm hết."

Tôi nghĩ là mình vừa nhập vào một cuốn phim. Tôi thấy cảnh diễn ngay trước mắt mà trong đó tôi vồ lấy khay đồ ăn trên bàn và liệng chéo qua phòng. Bừng tỉnh sau hành động ấy, Miranda hối hận xin tha tội đã ăn nói với tôi một cách miệt thị. Nhưng tiếng gõ tay sốt ruột lên mặt bàn của bà đã nhanh chóng kéo tôi trở về thực tế. Tôi bưng khay ra ngoài.

" Aan-dree-aa! Chị đóng cửa lại. Tôi cần nghỉ một lát," bà gọi với theo. Tôi đoán là đột nhiên nhận được món đặc sản do chính mình đặt thì thật là một cú sốc trong ngày hôm nay.

Đúng lúc đó Emily quay về với một lon Dier Coke và một túi nho khô để tôi sống sót qua bữa trưa. Và tất nhiên trong đó không có lấy một calo hay một hạt đường hay một gam chất béo. Nghe Miranda gọi, chị đặt đồ xuống và nhảy xổ ra đóng cửa.

" Có chuyện gì vậy?" Cô thì thầm và nhìn khay thức ăn còn nguyên mà tôi bưng trên tay trong khi đứng như mọc rễ cạnh bàn.

" Ồ, hình như bà sếp yêu quý của chúng ta đã ăn trưa rồi thì phải," tôi rít qua kẽ răng. " Lúc nãy tôi chỉ chạy đi mua đồ ăn vì tôi không có tài tiên tri và ngoại cảm, cũng chẳng nhìn thấu được vào dạ dày bà ấy để biết là bà không đói nữa."

" Thật à?" Emily nói. " Bà ấy mắng chị vì chị đã chạy đi mua đồ ăn cho mình và không biết bà ấy đã ăn rồi? Thật là đồ khốn kiếp."

Tôi gật đầu. Thật khó tin vào ngoại lệ là Emily hùa về phe tôi, thay vì giảng giải về những gì mà tôi tối dạ không làm được. Nhưng tôi vui mừng quá sớm! Trong vòng một giây, hệt như mặt trời lặn xuống và chỉ còn để lại mấy vệt xanh tím, vẻ bực dọc trên mặt chị đã nhường chỗ cho hối hận. Cú thụt vòi đúng kiểu Runway.

" Andrea, chị hãy nhớ lúc nãy mình bàn chuyện gì." À, run rồi phải không! " Bà ấy không định xúc phạm chị, không phải có ác ý. Nhưng không thể để bà ấy phải nghĩ đến từng chuyện lặt vặt. Đừng bực mình nữa. Đổ đồ ăn đi rồi quên mọi chuyện đi nhé." Emily quay đi và bật máy tính. Tất nhiên là cô ấy sợ Miranda cài rệp ở phòng và nghe hết mọi chuyện. Mặt cô đỏ dừ, chắc vì hối hận đã buột mồm nói thật. Tôi không hình dung ra làm sao cô ấy chịu đựng được công việc này lâu thế.

Tôi nghĩ xem có nên ăn béng đĩa sườn, nhưng nhớ lại trước đó mấy phút nó ở trên bàn Miranda là tôi muốn lộn mửa. Tôi bưng khay vào bếp và giữ nghiêng cho tất cả những gì trên đó trôi tuột thẳng vào thùng rác - toàn bộ món ăn được xào nấu và tra gia vị đúng kiểu, chiếc đĩa sứ, chén bạc đựng nước xốt, muối, khăn ăn, dao dĩa, dao bít tết, ly pha lê. Đi tong, chấm hết. Việc gì phải bận tâm. Trưa mai, hoặc lúc nào đó tôi lại mua đồ mới, nếu bà ta tình cờ gọi ăn trưa lần nữa.

Khi tôi mò được tới tiệm Drinkland thì Alex trông cáu bẳn và Lily mặt mũi phờ phạc. Tôi tự hỏi, liệu Alex có biết là hôm nay một người đàn ông khác muốn hẹn gặp tôi? Một người đàn ông không chỉ nổi tiếng và già hơn, mà cón điên điên nữa? Liệu anh có linh cảm thấy? Có nên kể cho anh biết không? Thôi, im đi thì hơn. Nói cho cùng thì tôi cũng không định nhận lời, và đằng nào anh ta cũng không hấp dẫn tôi lắm. Vẽ chuyện ra làm gì cho thêm rắc rối.

" Xin chào cô búp bê thời trang," Lily lè nhè, nâng cốc Gin pha Tonic lên chào. Một chút rượu sánh lên áo len song cô cũng không nhận ra. " Hay nên gọi là người cùng phòng tương lai thì hơn? Lấy thứ gì uống đi. Ta có dịp chút mừng."

Tôi hôn Alex và ngồi xuống cạnh anh.

" Trông em hôm nay hot quá," Alex nói và ngắm bộ đồ Prada đầy thán phục. " Lên đời từ khi nào thế?"

" Từ hôm nay. Từ khi người ta giải thích cho em hiểu là nên ăn mặc cho đúng kiểu nếu không muốn sớm bị ra đường. Đồ khá choáng đấy, nhưng cũng phải mặc đồ gì đó lên người. Bây giờ thì em phải xin lỗi mọi người vì đã đến muộn quá. SÁCH hôm nay mãi không xong, và nộp xong rồi thì Miranda lại sai chạy ra cửa hiệu đặc sản để lấy ít húng quế."

" Anh tưởng là bà ấy nuôi đầu bếp?" Alex chọc ngay. " Sao không sai bếp đi mua?"

" Đúng là bà ấy có đầu bếp. Có cả một cô giúp việc, một cô trông trẻ và hai con. Em hoàn toàn không hiểu nổi vì sao bà ấy lại sai chính em. Em đâu cần niềm vinh hạnh đó. Nhất là khi cả đại lộ 5 không có cửa hiệu đặc sản nào. Suốt đường Park và Madison cũng vậy. Ra đến Lex mới gặp một cửa hiệu, song tất nhiên ở đó họ lại không có húng quế. Em mất đúng bốn mươi lăm phút để mua được. Tốt nhất là em lấy tiền công ty mua cả tủ gia vị và hằng ngày đeo trên lưng. Nhưng mọi người nên biết là bốn mươi lăm phút ấy không hề uổng công vô ích, vì em đã học được nhiều điều quan trọng, nhiều kiến thức và kinh nghiệm cho tương lai làm báo của mình. Bây giờ em đang trên đường cao tốc tiến đến ghế biên tập viên!" Tôi mỉm cười đắc thắng.

" Mừng cho tương lai cậu!" Lily lên tiếng, chắc chắn không nhận ra giọng mỉa mai của tôi.

" Cô nàng hết biết trời đất rồi," Alex khẽ nói, lo lắng nhìn sang Lily như đi thăm một bà cô ốm nằm viện. " Chắc cô ấy đến sớm hơn Max và anh hàng mấy tiếng, hoặc có tốc độ uống rất nhanh. Max cũng đi rồi."

Lily luôn uống nhiều, nhưng không có gì lạ - đã làm gì là cô phải làm đến nơi đến chốn. Hồi học cấp hai, cô là người đầu tiên hút cần sa, và lên cấp ba cũng là người đầu tiên đánh mất sự trong trắng. Cô yêu tất cả những ai và những gì không đáp lại tình yêu ấy, cốt chỉ để cảm nhận được mình đang sống.

" Tớ không hiểu tại sao cậu có thể lên giường với thằng cha đó, mặc dù cậu biết rõ là hắn không bao giờ chịu chia tay bạn gái mình," có lần tôi nói về một bạn trai mà cô vụng trôm quan hệ ở trường.

" Còn tớ không hiểu tại sao cậu cứ ngoan ngoãn tuân thủ luật chơi," cô đả lại tức thì. " Ở cậu mọi thứ đều theo kế hoạch và quy định, hãy sống đi, hãy vui đi chứ, Andy! Cảm nhận đi chứ! Cuộc sống vui lắm!"

Có thể gần đây cô uống nhiều hơn ngày xưa thật, nhưng tôi biết là cô học cực kì vất vả, ngay cả khi cô là người có nhiều nghị lực. Và các giáo sư ở đại học Columbia đòi hỏi cao hơn và nghiêm khắc hơn ở Brown. Biết đâu, tôi nghĩ bụng trong khi vẫy tay gọi bồi bàn, có thể rượu lại là một thứ trợ lực. Tôi gọi một ly Absolut với nước bưởi và làm một ngụm lớn. Nhưng tôi xỉu hẳn đi, vì ngoài lon Diet Coke và gói nho khô Emily mua cho lúc trưa tôi chẳng có gì trong dạ dày.

" Em biết là mấy tuần nay Lily bị nhiều stress ở trường lắm," tôi nói với Alex, cứ như không có cô ngồi cạnh. Đằng nào thì cô cũng không nhận ra tôi nói về mình, vì đang mải đá lông nheo mời một tay điển trai cạnh quầy bar. Alex vòng tay ôm tôi, và tôi áp sát người anh. Thật dễ chịu khi ở gần anh, tôi có cảm giác mấy tuần liền chưa được anh ôm.

" Anh ghét phá cuộc vui, nhưng anh phải về nhà đây," Alex nói và tém tóc tôi ra sau tai. " Hai người ở lại có ổn không?"

" Anh đi rồi à? Sớm thế?"

"Sớm? Andy, anh ngồi đây và quan sát bạn gái thân nhất của em uống đã được hai tiếng rồi. Anh muốn đến với em, nhưng em không có mặt. Gần nửa đêm rồi, anh còn phải chữa bài cho học sinh nữa." Anh nói từ tốn, nhưng tôi nhận ra anh khó chịu.

" Em biết, em xin lỗi, thật đấy, anh biết là nếu có thể được thì em đã đến đúng giờ. Anh biết là..."

"Anh biết hết. Anh không bảo đó là lỗi của em. Anh hiểu em. Nhưng em cũng phải hiểu cho anh, okay?"

Tôi gật đầu và hôn anh, nhưng không thoát được mặc cảm tội lỗi. Tôi hứa nhất định sẽ đền đáp bằng cả một tối chỉ dành cho anh. Quả là anh phải chịu đựng nhiều vì tôi và công việc của tôi.

" Anh không muốn đến chỗ em hôm nay?" Tôi hỏi, giọng chan chứa hy vọng.

" Không, trừ khi em nhờ anh giúp đưa Lily về nhà. Anh phải về nhà, còn hàng chồng vở phải chữa." Anh lại ôm tôi, hôn Lily lên má rồi đi về phía cửa. " Nếu cần anh thì gọi điện," anh nói trước khi ra đến đường.

" Sao Alex bỏ đi sớm thế?" Lily hỏi, mặc dù suốt buổi cô ngồi cạnh hai chúng tôi. " Anh ấy giận cậu à?"

" Có thể," tôi thở dài. " Dạo này tớ đối xử với anh ấy quá tệ." Tôi ra bar lấy tờ thực đơn, khi quay về thì gã có dáng nhân viên chứng khoán đã sán cạnh Lily và ngồi sát đùi vào cô. Trông gã chưa đến ba mươi, nhưng trán hói hai bên vẻ già đi hơn nhiều.

Tôi ném chiếc áo khoác cho Lily. " Mặc vào đi, Lily, mình đi thôi," tôi nói, mắt nhìn gã. Đã đành gã không thuộc loại người cao lớn, nhưng chiếc quần kaki xếp li làm cho lùn một mẩu. Và cái miệng gã còn cách năm phân đến tai cô bạn gái thân nhất không làm tôi có thêm cảm tình với gã.

" Ê, sao vội thế?" Giọng gã lè nhè. " Bạn em và anh vừa mới làm quen nhau mà." Lily gật đầu và toan làm một ngụm từ cái ly cạn khô.

" Nghe rất hay, nhưng bọn tôi phải về. Anh tên gì?"

" Stuart."

" Rất vui được làm quen anh, Stuart. Sao anh không cho Lily số điện? Cô ấy sẽ gọi anh khi khỏe lên một chút - hoặc không gọi. Được không ạ?" Tôi nhe răng cười.

Tại sao không, thế cũng được, tạm biệt," gã nhỏm dậy và biến nhanh về phía quầy bar đến nỗi Lily không nhận ra là gã đã đi khỏi.

" Stuart và tớ vừa làm quen nhau một chút, đúng không? Stu..." cô quay sang bên cạnh, nhìn thấy chỗ trống và ngớ mặt ra.

" Stuart có việc gấp. Lily, ta đi thôi."

Tôi choàng chiếc áo khoác thủy thủ xanh lên trên áo len và kéo Lily dậy. Cô loạng choạng theo tôi ra cửa . Không khí bên ngoài lạnh như cắt, càng tốt.

" Tớ không được khỏe," cô lè nhè.

" Biết rồi, cưng ạ, biết rồi. Đi, ta kiếm taxi trở về nhà cậu, okay? Cậu có nghĩ mình tự làm được không?"

Cô gật đầu, thản nhiên cúi về phía trước và nôn ọc lên đôi bốt nâu của mình, bắn lên cả quần bò. Bây giờ mà mấy con bé Runway nhìn thấy bạn nối khố của mình nhỉ - tôi bất giác nghĩ bụng.

Tôi dựng Lily ngồi lên bậu cửa sổ một cửa hiệu mà tôi đoán không lắp hệ thống báo động, dặn cô không được động đậy rồi chạy qua bên đường vào một cửa hiệu Tây Ban Nha giờ này còn mở cửa. Trước khi tôi trở về cô còn nôn lần nữa, lần này nạn nhân là ngực áo, mắt cô đờ đẫn. Tôi vừa mua hai chai nước khoáng, một để uống và một để rửa. Nhưng thấy Lily thảm hại quá, tôi đổ cả hai chai lên áo và giày cô. Thà mặc đồ ướt hơn là bốc mùi tanh tưởi, chẳng taxi nào cho lên. Cô say đến nỗi không biết chuyện gì xung quanh.

Tôi phải xin đến gãy lưỡi để làm mềm lòng ông lái taxi chấp nhận chở Lily trong tình trạng này. Giá taxi đã đủ chóng mặt, tôi còn hứa cho thêm tiền bo hậu hĩnh vì chúng tôi phải đi từ Lower East Side đến tận Upper West Side, tôi đã nhẩm tính mất tới 20 dollar chứ không ít. Khoản này có lẽ phải ghi vào vụ mua sắm thứ gì đó cho Miranda để thanh toán. Chắc không khó.

Mấy bậc thang lên nhà Lily ở tầng bốn còn kém thú vị hơn đi hai mươi lăm phút taxi. Sau khi được tôi cởi quần áo, cô tự tắm một mình dưới vòi hoa sen. Tôi dìu cô thẳng vào giường, cô đổ sấp xuống nệm và thiếp đi luôn. Tôi nhìn Lily và trong lòng trào lên kí ức hồi tưởng thời đi học và tất cả những gì chúng tôi cùng làm với nhau. Bây giờ thì vui, rõ rồi, nhưng không bao giờ chúng tôi trở lại thanh thản được như hồi ấy.

Lily dạo này hơi quá trớn trong chuyện rượu chè và thường xuyên trong tình trạng say xỉn. Tuần trước Alex có nhắc tới chuyện ấy nhưng tôi bênh cô: Lily vẫn là sinh viên và chưa bước chân vào thế giới thực sự để gánh những trách nhiệm thực sự ( ví dụ như rót một ly Pellegrino cho tử tế ) Chính tôi cũng không phải là một con chiên ngoan đạo. Đã bao lần hai chúng tôi chè chén và cạn hết bao nhiêu chai vang chát. Sau buổi liên hoan mừng thi xong, Lily là người vỗ về tôi trong khi tôi cắm mặt vào bồn cầu mà nôn. Một tối mà tôi chẳng còn nhớ gì ngoài tám ly rượu Rum pha Coca và bài " Every Rose Hat Its Thorn" chuyển sang dạng karaoke kinh tởm, Lily đánh xe đưa tôi về nhà, dọc đường phải dừng bốn lần để tôi nôn. Hôm sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của Lily, tôi vác cô lên giường và cứ mười phút một lần kiểm tra xem cô còn thở không, cho đến khi chính tôi kiệt sức ngủ thiếp đi dưới sàn nhà. Đêm đó cô còn tỉnh dậy hai lần nữa, một lần vì lợm giọng, một lần để nói rằng tôi là người bạn tốt nhất đời mà cô có thể có được. Người ta có bạn để cùng đập phá, làm những trò ngu xuẩn và chăm sóc nhau, đúng không nào? Hay tất cả chỉ là những nghi thức phải trải qua ở đại học? Alex tin chắc lần này không chỉ là trò vui vô hại, nhưng tôi lại nghĩ khác.

Đúng ra thì đêm nay tôi không được để Lily ở nhà một mình, nhưng lúc này đã gần hai giờ đêm, năm tiếng nữa là tôi đã phải có mặt ở văn phòng. Quần áo tôi hôi hám mùi nôn mửa, và trong tủ quần áo của Lily nhất định không có bộ nào mà tôi mặc đến Runway được - lại càng bất khả thi từ ngày tôi lên hạng Prada. Tôi thở dài, đắp chăn cho cô và đặt đồng hồ báo thức bảy giờ, hy vọng cô đủ sức bò dậy để đi đến trường.

" Bye, Lily. Tớ về đây. Cậu ổn chứ?" Tôi đặt điện thoại xuống gối, cạnh đầu cô.

Cô mở mắt nhìn tôi mỉm cười. " Cám ơn," cô lẩm bẩm và mắt lại nhắm nghiền tại chỗ. Tình trạng của cô lúc này chắc chắn không cho phép lập kỷ lục chạy marathon, nhưng cũng chẳng có bệnh trạng gì, ngủ dậy là lại ổn.

" Không có gì." Tôi nhận ra là hai mươi mốt tiếng đồng hồ vừa qua chỉ làm con hầu đi phục dịch cho cả thế giới này. " Mai tớ gọi điện cho cậu," tôi nói lúc lê cẳng ra cửa, " nếu một trong hai chúng mình chưa chết." Giờ thì về, về nhà được rồi.

Chap 10

" Xin chào, may mà tôi tóm được chị," tôi nghe tiếng Cara bên kia đầu dây. Có chuyện gì mà chưa đến tám giờ sáng nghe giọng cô đã hụt hơi thế nhỉ?

" À, vâng, chị có bao giờ gọi sớm thế này đâu. Chuyện gì vậy?" Tôi hỏi, đồng thời vẽ ra hàng chục tình huống Miranda sẽ cần mình.

" Không, không, không có vấn đề gì. Tôi chỉ định cảnh báo là Mr. Mờ-Cờ-Đờ đã lên đường tới chỗ chị và rất khoái buôn chuyện đấy."

" Thế hả, tốt thôi. Ừ, dễ đến một tuần rồi, kể từ lần ông ấy hỏi tôi về đủ mọi chuyện đời. Tôi đã lo là có chuyện gì xảy ra với fan ruột của mình." Tôi viết xong các mục ghi nhớ và chuyển sang máy in.

" Chị là người nhiều may mắn mà, tôi biết. Ông ấy có thèm hỏi tôi câu nào đâu," cô làm bộ. " Ông ấy chỉ chú ý đến chị thôi. Tôi nghe nói là ông định cùng chị duyệt các chi tiết buổi dạ hội Whitney."

" Hay, hay tuyệt. Tôi rất hồi hộp chuẩn bị được yết kiến em trai của ông ta. Tôi mới chỉ nói chuyện qua điện thoại với ông ấy thôi, toàn phải nghe chuyện ấm ớ. Chị có chắc là Mr. Mờ-Cờ-Đờ đang tới đây không? Chẳng lẽ hôm nay không thánh thần nào trên trời rủ lòng thương tôi?"

" Quên đi, hôm nay chị không thoát đi đâu được. Miranda tám rưỡi đến chỗ chuyên gia chăm sóc chân, tôi nghĩ là ông ấy sẽ đi một mình."

Tôi xem lại các ghi chép trong lịch làm việc của Emily. Đúng thật, một buổi sáng không có mặt Miranda. " Thích quá, có diễm phúc nào lớn hơn là được hầu chuyện Mr. Mờ-Cờ-Đờ lúc mới sáng bảnh mắt. Này, sao ông ấy lắm mồm thế nhỉ?"

" Có gì khó hiểu đâu: ai lấy Miranda thì ắt không phải loại sáng suốt. Ông ấy nói chuyện ngớ ngẩn gì thì chị nhớ kể cho tôi nghe nhé. Tôi phải đi đây. Caroline, không rõ vì cớ gì, vừa lấy một thỏi son môi Stila của Miranda đâm thật lực vào gương nhà tắm."

" Bọn mình đúng là có cuộc đời nhiều biến động nhỉ? Nhưng vẫn ngoan cường lắm. Cảm ơn lời cảnh báo nhé, ta nói chuyện sau."

" Okay, bye."

Trong khi đợi Mr. Mờ-Cờ-Đờ, tôi xem lại những việc cần làm. Một lá thư của Miranda gửi ban lãnh đạo bảo tàng Whitney, bà xin phép tổ chức ở đó một bữa tiệc vào tháng Ba cho ông em chồng. Theo tôi biết thì Miranda không ngửi được ông này nhưng chẳng có cách gì để tẩy tên ông ra khỏi gia phả. Jack Tomlinson, cậu em trai ngỗ ngược của Mr. Mờ-Cờ-Đờ cũng mới tuyên bố sẽ bỏ vợ và ba đứa con để cưới cô gái chuyên mát xa cho ông. Anh em Mờ-Cờ-Đờ thật ra là dòng dõi đặc trưng của giới quý tộc Bờ Đông nước Mỹ, nhưng đến tuổi ba mươi là Jack tung hê hình tượng Harvard của mình và chuyển đến Nam California, chẳng mấy chốc kiếm được một núi tiền nhờ bất động sản. Theo lời Emily, ông trở thành một người miền Nam quê kệch thực thụ, mồm nhằn ống hút và nhổ nước thuốc lá toèn toẹt - cái gai trong mắt Miranda, vốn là hiện thân của đẳng cấp và văn hóa. Mờ-Cờ-Đờ nhờ Miranda tổ chức lễ đính hôn cho em trai, và với tư cách người vợ chu đáo thì dĩ nhiên bà không thể lắc đầu. Và khi đã nhận thì làm, tất nhiên, Miranda ưa làm phức tạp như có thể.

Thay vì làm tiệc ở một nhà hàng, ồ, không, Miranda muốn gây ấn tượng hơn cho khách mời bằng cách tổ chức tiệc ở một bảo tàng, cho dù bà thẳng tay gạch hầu hết các địa chỉ khỏi danh sách ( Bảo tàng nghệ thuật Met " cứng quá," Guggenheim " tối quá," Bảo tàng lịch sử tự nhiên " trông ngứa mắt lắm, nhất là từ khi có thêm cái đài thiên văn kinh dị"). Cuối cùng bà chọn Whitney ( " khiêm nhường, hiện đại, thân mật"). Tôi quá mừng khi bảo tàng đồng ý làm tiệc ở nhà hàng giá rẻ hoặc ở tiền sảnh tầng trệt, nhưng cũng biết là ở đó quá rẻ rúng. Lúc tôi báo tin cho Miranda, bà thở dài não ruột, đầy vẻ thương cảm với đầu óc ngu si của tôi, và cho biết rằng bà không chấp nhận địa điểm nào khác ngoài phòng trưng bày bộ tranh tuyển của Kooning. Rõ rồi. Kính thưa quý vị ( ...) chúng tôi xin phép được tổ chức một dạ hội nhỏ , nếu được, ở phòng cuối tầng hai ( ...) thức ăn, hoa và ban nhạc - tất nhiên - thuộc hạng cao cấp ( ...) mong đợi hồi âm (...) Sau khi kiểm tra không thấy lỗi gì, tôi nhanh tay ký nhái tên Miranda xuống dưới và gọi điện cho dịch vụ đưa thư lên lấy.

Mấy giây sau có tiếng gõ cửa. Giờ sáng sớm tôi luôn đóng cửa vì chưa có ai đến. Tôi đang ngạc nhiên vì tốc độ của dịch vụ bưu điện thì cửa mở tung ra và Mờ-Cờ-Đờ xuất hiện với nụ cười đến mang tai - quá lạ lùng ở thời điểm trước tám giờ.

" Andrea," ông bả lả, nhanh nhẹn tiến đến bàn tôi và nở một nụ cười đáng yêu đến nỗi tôi phải áy náy tại sao mình vẫn không thể có chút cảm tình nào với ông.

" Chào ông Tomlinson, có chuyện gì khiến ông phải đến sớm vậy?" Tôi hỏi. " Rất tiếc phải nói với ông là Miranda chưa có mặt ở văn phòng."

Ông nháy nháy cánh mũi như con nhím đánh hơi : " Vâng, vâng, Miranda sẽ không đến trước bữa trưa, nếu tôi không nhầm . Cô bé Andy, chúng ta gặp nhau lần cuối đã lâu rồi đấy nhỉ. Cho Mr. Tomlinson biết là sức khỏe của cô ra sao?"

" Để tôi cầm đỡ đồ hộ ông đã," tôi nói và đón lấy chiếc bao vải thô thêu kí tự MP đầy quần áo bẩn mà tôi sẽ phải đem đến chỗ giặt là. Tôi cũng giải phóng ông luôn khỏi chiếc túi Fendi, một tác phẩm độc bản do tự tay Silvia Venturini Fendi làm riêng để cảm ơn Miranda. Một trợ lý thời trang của Runway phỏng đoán nó có giá 10.000 dollar. Cầm nó vào tay, tôi phát hiện ra một trong hai quai da mỏng mảnh đã rời ra lủng lẳng. Bộ phận thời trang đã khiếu nại cả chục lần, và Fendi luôn khẩn trương sửa lại miễn phí. Túi này dùng để đựng một chiếc ví tiền, bí lắm thì chứa thêm cặp kính râm, và nếu không tránh được thì có thể đút thêm chiếc điện thoại di động tí xíu vào - những hạn chế mà Miranda chưa bao giờ để ý đến. Lần này bà tống vào đó một chai nước hoa Bulgari cỡ XL, một chiếc xăng đan gãy gót - chắc tôi phải đem đi sửa, quyển lịch công tác Hermès có khả năng đánh gục mọi laptop về kích cỡ và trọng lượng, một vòng cổ chó ngoại cỡ đóng gai nhọn mà tôi đoán không phải của Madeleine hoặc để dùng cho buổi chụp ảnh thời trang tới, và quyển SÁCH tôi nộp ở nhà tối qua. Phải tay tôi thì cái túi 10.000 dollar này đã được bán luôn với lãi cao nhất để trả tiền nhà cho cả năm. Đối với Miranda nó chỉ là sọt rác.

" Cám ơn Andy, cô chăm sóc chúng tôi tận tình quá. Bây giờ thì Mr. Tomlinson sốt ruột muốn nghe cô sống ra sao. Có gì hay ho không nào."

Có gì hay ho không? Có gì hay ho không? Hừm, ta xem nào, tôi nghĩ là chẳng có nhiều chuyện để nói. Phần lớn thời gian của tôi chỉ để hầu hạ bà vợ tàn ác của ông thôi. Mấy phút rỗi rãi hiếm hoi trong tuần - nếu vợ ông không bịa ra thêm việc gì để nhét thêm vào - cốt để tôi nỗ lực chống lại chứng nhũn não sinh ra từ những lời lảm nhảm của cô trợ lý chính. Trong những dịp ngày càng hi hữu tránh khỏi được vòng kiềm tỏa của Runway , tôi tự nhủ mỗi ngày tiêu thụ tám trăm calo là tốt và mình không phải quá béo với cỡ áo 38. Tóm lại, câu trả lời cho ông là : không có gì đặc biệt.

"Mr. Tomlinson, thật ra không có gì đặc biệt. Tôi nhiều việc phải làm lắm. Xong việc, tôi làm gì đó với cô bạn thân hoặc với bạn trai. Và còn gia đình nữa." Ngày xưa tôi đọc nhiều sách, tôi định nói thêm, nhưng bây giờ không còn sức đâu mà đọc nữa. Tôi cũng thích thể thao, nhưng bây giờ đơn giản

là chẳng có thì giờ.

" Cho phép tôi đoán tuổi cô nhé, hai mươi lăm, đúng không?" Chà, ông này có ý gì đây nhỉ?

" À, không, mới hai mươi ba. Tôi vừa tốt nghiệp hồi tháng năm vừa rồi."

" Thật à, hai mươi ba!" Ông không biết phải nói gì. Tôi nín hơi chuẩn bị tinh thần. " Cô cho Mr. Tomlinson biết đi, những người hai mươi ba tuổi có trò giải trí gì trong thành phố? Nhà hàng? Câu lạc bộ hay những chốn tương tự." Ông lại mỉm cười, và tôi tự hỏi, liệu ông có cần sự chú ý của tôi thật không. Có thể ông chẳng có ẩn ý gì cả mà chỉ đơn giản thích nói chuyện.

Có nhiều thứ để giải trí, tôi nghĩ thế. Không hẳn ở các câu lạc bộ, mà ở các quán nhỏ và quầy bar đẹp. Hay đi ăn, hoặc xem phim."

" Nghe có vẻ nhiều thứ hay đấy. Hồi ở tuổi cô thì tôi cũng thế. Bây giờ thì trong chương trình chỉ toàn ăn cơm khách và các bữa tiệc từ thiện. Cứ vui chơi thật nhiều vào, chừng nào còn có dịp, Andy." Ông nháy mắt kiểu bố già lẩm cẩm.

" Vâng, đúng thế," tôi gượng gạo đáp. Thôi biến đi, biến đi, biến đi cho rảnh, tôi nghĩ thầm. Mỗi ngày tôi chỉ có ba phút hòa bình và yên ổn, ông đừng có phá nốt.

Ông định nói gì đó thì cửa mở ra, Emily bước vào, uốn éo theo điệu nhạc trong tai nghe. Nhìn thấy khách, cô giật mình.

" Mr. Tomlinson!" Cô giật phắt tai nghe và đút chiếc iPod vào túi Gucci. " Mọi việc đều ổ chứ ạ? Hay có chuyện gì với Miranda?" Giọng nói và điệu bộ cho thấy cô lo lắng thực sự. Diễn xuất tuyệt hảo: xem đây, người trợ lý luôn luôn chuyên cần và lịch sự.

" Chào Emily, không, không có chuyện gì. Miranda sắp đến rồi. Mr.Tomlinson chỉ tạt qua đưa mấy thứ đồ. Cô có khỏe không?"

Emily tươi tỉnh nhìn ông. Cô vui thực sự khi thấy ông? " Rất khỏe, cảm ơn ông đã hỏi thăm. Còn ông? Andrea có giúp được ông như ý không?"

" Có chứ," ông nói và nở nụ cười thứ 1000 về hướng tôi. " Tôi định bàn mấy chuyện về lễ đính hôn của em trai tôi, nhưng có lẽ hôm nay còn sớm quá , phải không?"

Trong một thoáng, tôi tưởng ông nói "sớm quá" là ám chỉ giờ này. Tôi định nói "vâng" thì hiểu ra là kế hoạch chưa đi đến chi tiết cụ thể để có thể đem ra bàn.

Quay sang Emily, ông nói: " Cô có một trợ lý tuyệt vời đấy, Emily ạ."

" Nhất định rồi," cô nghiến răng," người giỏi nhất đấy ạ." Cô cười toe toét.

Tôi cũng cười toe toét.

Mr. Tomlinson cười toe toét gấp đôi. Tôi thầm hỏi, liệu ông có bị chứng rối loạn cân bằng chất, hay một dạng hưng cảm gì đó.

" Vâng, thế thì Mr. Tomlinson lại lên đường thôi. Chào các cô, nói chuyện với các cô rất vui, lần nào cũng thế. Chúc hai cô một buổi sáng tốt lành. Good-bye."

" Bye, MR. Tomlinson," Emily nói với theo trong khi ông đã ra đến góc quầy lễ tân.

" Sao chị thiếu lịch sự với ông ấy thế?" Cô hỏi trong khi cởi chiếc áo khoác da mỏng dính. Bên dưới là một chiếc áo the còn mỏng hơn, cổ khoét tròn và phía trước ngực xâu dây chằng như cooc xê.

" Thiếu lịch sự? Tôi nhận đồ từ tay ông và nói chuyện với ông trước khi chị đến. Có gì thiếu lịch sự đâu?"

"Ví dụ, chị không nói tạm biệt. Và kiểu nhìn của chị nữa."

" Kiểu nhìn?"

" Đúng. Kiểu chị nhìn khiến mọi người hiểu là chị cao hơn tất cả và chị ghét mọi thứ ở đây. Chị làm thế với tôi thì được, chứ không thể với Mr. Tomlinson. Ông ấy là chồng Miranda, chị không thể đối xử với ông như thế được."

" Emily, chị có thấy ông ấy hơi..., nói thế nào nhỉ, hơi ...kỳ khôi không? Ông ấy nói liên hồi kỳ trận. Tại sao ông ấy dễ mến thế, trong khi vợ ông ... không dễ mến lắm?" Emily liếc vào phòng Miranda xem tôi đặt báo trên bàn có đúng cách không.

" Kỳ khôi à? Sao chị lại nghĩ thế, Andrea? Ông ấy là một trong những cố vấn thuế cự phách nhất Manhattan đấy."

Nói nữa cũng vô nghĩa." Thôi quên đi, tôi không biết mình nói vớ vẩn gì nữa. Còn chị? Tối qua ra sao?"

"À, không đến nỗi nào. Tôi cùng Jessica đi sắm đồ cho các phù dâu của chị ấy. Chạy đủ mọi cửa hàng - Scoop, Bergdorf's, Infinity, khắp nơi. Và tôi mặc thử hàng đống quần áo có thể đem đi Paris, nhưng có lẽ hãy còn sớm quá."

"Paris? Chị đi Paris à? Nghĩa là chị để tôi một mình ở đây với bà ấy?" Câu cuối cùng đúng là tôi buột miệng. Emily nhìn tôi như muốn hỏi, liệu tôi có dở hơi không. " Ừ, tháng 10 tôi đi cùng Miranda sang Paris tới các show trình diễn thời trang mùa xuân. Miranda năm nào cũng đem trợ lý chính đi cùng để quan sát thực tế. Ở đây tôi đã tham gia một triệu buổi rồi, như show ở Châu Âu nhất định khác."

Tôi tính nhanh. " Tháng 10, nghĩa là bảy tháng nữa kể từ hôm nay. Còn bảy tháng nữa mới đi mà hôm nay chị đã thử quần áo?" Tôi không chủ ý nhưng giọng tôi quá gay gắt, và Emily lui vào thế thủ ngay.

" Ừ. Tôi cũng chẳng định mua gì, đến lúc đó thì mốt cũng thay đổi nhiều rồi. Nhưng tôi muốn ngó nghiêng xem có gì mới không. Chị biết không, rất đồ sộ nhé. Ở khách sạn năm sao, tối tối toàn dạ hội cực hoành tráng. Và, trời ạ, được đến các show thời trang hot nhất, chọn lọc nhất thế giới."

Đã có lần Emily kể là mỗi năm Miranda bay ba, bốn lần sang Châu Âu dự trình diễn thời trang. Như tất cả mọi người, bà tránh London nhưng đến Milan và Paris vào tháng 10 xem thời trang mùa xuân, tháng 7 xem bộ sưu tập mùa đông và tháng 3 xem mốt của mùa thu sắp tới. Đôi khi bà kèm thêm mấy ngày nghỉ. Chúng tôi phải làm việc không ngơi tay để chuẩn bị các show thời trang vào cuối tháng. Tôi băn khoăn tại sao Miranda rõ ràng không bao giờ cần trợ lý cho những buổi ấy.

" Vì sao sếp không đem chị đi cùng đến mọi nơi?" Tôi liều hỏi, tuy biết rằng câu trả lời sẽ là một kiểu giải thích dài dòng. Việc Miranda hai tuần liền ( Milan và Paris) không có mặt ở văn phòng đã đủ làm tôi mừng cuống lên rồi, nghĩ đến một nửa thời gian đó không phải nhìn mặt Emily làm tôi phát ngất vì sung sướng. Trong thâm tâm, tôi vẽ ra hình ảnh chiếc Cheeseburger kẹp thịt ba chỉ rán, lại được mặc quần bò rách te tua và đôi giày thấp gót ngày xưa của mình, thậm chí cả giày thể thao nữa cũng nên! " Tại sao chỉ trong tháng 10?"

" Không phải là sếp không có trợ lực ở bên đó. Tờ Runway ở Pháp và ở Ý nhất định sẽ cử trợ lý giúp Miranda, nói chung cả các biên tập viên cũng sẵn sàng phục vụ bà. Nhưng khi khai trương show thời trang mùa xuân Miranda luôn tổ chức một dạ hội khổng lồ - nghe tất cả nói đó là bữa tiệc lớn nhất và thú vị nhất trong ngành, năm nào cũng thế. Tôi chỉ bay đến Paris trong tuần mà bà ở đó, hiển nhiên vì bà chỉ tin cậy tôi ở đó." Hiển nhiên là như vậy.

" Chà chà, nghe có vẻ là một tuần hoành tráng lắm nhỉ. Trong lúc đó thì tôi ở đây canh văn phòng?"

" Đại khái là thế. Nhưng chẳng sung sướng gì đâu, tôi nói cho chị biết. Thậm chí có khi là tuần gian khó nhất trong năm, vì trên đường đi bà ấy luôn cần sự hỗ trợ nào đó. Chị sẽ thường xuyên nhận được điện thoại đấy."

" Sướng thật," tôi nói. Emily nhướng mắt nhìn.

Tôi lơ mơ ngủ trước màn hình trắng tinh cho đến khi mọi người lục tục đến và tôi bắt buộc phải chú ý. Khoảng mười giờ, các cô gái là lượt bắt đầu xuất hiện, họ kín đáo khắc phục hậu quả của mấy ky Champagner quá chén đêm qua bằng vài ngụm cà phê (với sữa gầy, không đánh bọt). Như mọi hôm, James ngó vào chỗ tôi nếu anh thấy Miranda chưa đến. Anh kể là tối qua ở Balthazar đã bắt quen được người chồng tương lai lý tưởng.

"Anh ấy ngồi ở bar và mặc cái áo khoác da màu đỏ bắt mắt nhất mà tôi từng thấy - và những đồ bên trong cũng không phải là hạng hai, chị biết không. Chị phải xem anh ấy để con sò lướt lên lưỡi ra sao..." Anh thở dài đánh sượt. "Trên cả tuyệt vời".

"Có xin được số điện thoại của anh ấy không?" Tôi hỏi.

"Xin số điện thoại? Xin cái quần thì đúng hơn. Mười một giờ đêm thì anh ấy đã nằm trần như nhộng trên ghế đệm nhà tôi, và trời ạ, chị phải biết là..."

"Được rồi, James, hay rồi, việc gì phải làm vòng vèo lâu la, đúng không? Nhưng thú thật là - anh có hơi nhẹ dạ quá không đấy? Thời buổi Aids, anh biết rồi đấy."

"Cưng ơi, cưng là thiên thần cuối cùng của thế giới này thật, nhưng chính cưng nếu nhìn thấy chàng thì cưng sẽ muốn quỳ sụp xuống và từ bỏ mọi lý tưởng của mình. Chàng là đỉnh cao. Đỉnh cao tuyệt đối."

Tới mười một giờ thì mọi việc đâu vào đấy: ví dụ như ai đã chộp được một cái quần trong xê ri mới nhất của Theory Max hay - điều không tưởng - của Sevens. Bây giờ đã đến lúc giải lao vài phút cạnh các giá treo đồ của Jeffy và nhân dịp ấy bàn tiếp về chuyện quần áo ở tầm cao hơn. Sáng nào Jeffy cũng đẩy ra ngoài mấy giá treo áo dài, áo tắm, quần sơ mi, măng tô, giày và tất cả những thứ khác có thể được dùng trong buổi chụp ảnh thời trang. Anh xếp giá treo thành một hàng liền nhau dọc tường, kín khắp tầng nhà. Các biên tập viên chỉ việc lựa chọn ra thứ đồ cần thiết mà không phải vất vả lục lọi trong kho quần áo.

Nói chính xác thì không thể gọi đó là kho quần áo, mà là một khu triển lãm nhỏ. Xung quanh là giày dép đủ kích cỡ, màu sắc và hình dạng, thiên đường của những kẻ nghiện giày: xăng đan thấp gót, xăng đan cao gót buộc dây, giày múa ba lê, bốt cao gót, giày mở, ủng nạm cườm. Các ngăn hộp, bất kể giấu trong tường hay chất thành núi ở góc nhà, chứa không trừ bất cứ loại nào của tất dài, tất ngắn, nịt vú, xi líp, váy lót, cooc xê, nịt lót. Ai cần gấp một chiếc nịt vú độn cao của La Perla in họa tiết da báo? Người nào tìm tất quần bằng vải lưới màu da hay kính râm thời thượng của Dior? Hãy vào đây. Các ngăn kéo và giá hàng chiếm hết toàn bộ chiều dài của hai bức tường hậu. Nhìn chỗ hàng - chưa tính đến giá trị - là đủ ngốt người. Bút máy, trang sức, vải trải giường, khăn quàng, găng tay, mũ len, áo ngủ, mũ lông, khăn phu la, đồ văn phòng, hoa giả, vô thiên lủng những mũ là mũ. Và túi nữa: túi đi mua sắm, túi du lịch, ví đầm, ba lô, túi đeo vai, túi quàng chéo, túi tài liệu, túi cặp nách - đơn giản là không thiếu gì trên đời, từ mini đến ngoại cỡ, tất cả đều mang nhãn hiệu nổi tiếng và bảng giá mà nhìn vào là một người Mỹ trung bình đủ choáng vì nó đắt hơn gấp bội tiền mua nhà trả góp hàng tháng. Diện tích còn thừa là dành cho các giá treo quần áo, kê sát nhau không cho ai đi lọt.

Nghĩa là suốt ngày Jeffy tất bật sắp xếp kho quần áo sao cho mọi người có thể đi lại một cách không quá vất vả. Ở đó các người mẫu (và trợ lý, kể cả loại muỗi như tôi) thử quần áo và thậm chí còn được leo được đến lớp thứ ba chứa giày và túi. Để làm được thế, Jeffy phải đẩy hết các giá treo ra hành lang. Tôi chưa từng chứng kiến một ai, bất kể phóng viên, sưu tầm, chở hàng hay trang điểm, khi nhìn thấy dãy quần áo vô tận ngoài hàng lang mà không đứng như trời trồng và trố mắt ra nhìn. Lần thì show thời trang (ở Sydney hay Santa Barbara) quyế tđịnh nội dung giá treo, lần thì chia theo danh mục (bikini, bộ kết hợp), nhưng phần nhiều thì tất cả trông như một kho sưu tầm ngổn ngang toàn những đồ đắt lòi mắt. Và tuy rằng ai cũng phải dừng chân để kính cẩn chạm tay vào chiếc khăn cashmere mềm như tơ hay những áo dài dạ hội nạm cườm tinh xảo, nhưng những chủ nhân đích thực - tự phong - lại là các cô người mẫu, họ luôn hăm hở canh giữ trang phục "của mình" và bàn tàn vô tận về từng chiếc một.

"Phụ nữ duy nhất trên thế giới này mặc được thứ quần Capri này là Maggie Rizzer," Hope phát biểu ngoài sảnh. Cô là trợ lý thời trang, nặng 47 kg và cao 1,80 mét. "Tôi có mặc vào thì mông cũng quá to."

"Andrea," bạn gái của cô gọi tôi, một người làm ở phòng phụ kiện mà tôi cũng chỉ quen sơ sơ. "Nói với Hope là chị ấy không béo đi."

"Chị không béo," tôi nhắc lại như con vẹt. Lẽ ra tôi nên in câu ấy lên ngực áo T-shirt hay xăm luôn lên trán thì tiết kiệm được khối thời gian. Tôi liên tục phải cả quyết với các nữ cộng tác viên ở Runaway là họ không béo.

"Ối trời ơi, sao mà tôi béo thế này, bụng như bà chửa, ghê quá!" Họ không có tí mỡ nào trên người, nhưng bù lại thì trong đầu chỉ nghĩ đến mỡ. Emily thề sống thề chết là đùi cô còn "to hơn cột đình". Jessica cho rằng bắp tay cô nhẽo như của Roseanne Barr vậy. Ngay cả James cũng than thở là một hôm ra khỏi phòng tắm anh thấy mông mình nom xấu dáng đến nỗi anh cân nhắc có nên xin công ty cho "nghỉ ốm vì chứng béo phì."

Thoạt tiên tôi còn trả lời những câu hỏi Tôi-có-béo-không một cách thản nhiên và hợp lý: "Hope, nếu chị béo thì tôi là gì? Tôi thấp hơn chị năm phân và nặng hơn."

"Thôi đừng đùa nữa, Andy. Tôi béo quá. Chị rất gầy và xinh."

Tất nhiên là tôi cứ nghĩ là cô ta xạo. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra là Hope - như tất cả các đồng nghiệp gầy như que củi của cô và hầu hết đàn ông ở văn phòng - có tài đoán trọng lượng chính xác từng gam. Duy chỉ khi ngó vào gương thì họ tá hỏa thấy một con voi ngó ra.

Tôi cố gắng đến mấy cũng vô ích, chẳng có cách nào để nhìn tất cả từ một góc độ biết điều và tự nhủ rằng tôi là một người bình thường chứ không như tất cả mọi người - những chuyện đàm tiếu xung quanh đề tài quá cân đã bắt đầu ngấm. Mới chỉ ở đây có bốn tháng nhưng tôi đã đủ nhạy cảm (hay hoang tưởng) để cho rằng mỗi nhận xét bình phẩm đều có thể chủ ý nhằm vào mình. Đại khái : tôi đây này, trợ lý thời trang, dong dỏng cao, quyến rũ, mảnh mai, nhưng ra vẻ kêu mình béo ục ịch, cốt chỉ để cậu, đồ nấm lùn trợ lý sai vặt, rốt cuộc nhận ra rằng chính CẬU mới là béo. Với 52 cân và 1,75 mét tôi được coi là thon thả so với bạn bè cùng lứa. Ngoài ra, cho đến giờ tôi vẫn cho là mình cao hơn 90% phụ nữ (và tối thiểu một nửa đàn ông) quanh mình. Chỉ từ khi vào làm việc trong vương quốc của những kẻ hoang tưởng này tôi mới thấu hiểu cảm giác từ sáng đến tối và 365 ngày trong năm tự thấy mình thấp và béo. Như một con hà mã giữa bầy tiên nữ. Lúc nào có được một giây quên đi là tôi mang đồ số 38 thì những cuộc đàm tiếu hằng ngày sẽ nhắc nhở tôi ngay lập tức.

"Bác sĩ Eisenberg nói, phong độ cao nhất chỉ đạt được khi từ bỏ cả hoa quả," Jessica nhảy vào tranh luận cùng, trong khi cô nhấc một chiếc váy Narcisco Rodriguez từ giá treo xuống. Mới đây cô hứa hôn với một phó chủ tịch tập đoàn Goldman Sachs và sống trong trạng thái stress liên miên, chỉ vì luôn nghĩ đến đám cưới diễm lệ sắp diễn ra. "Bà ấy nói đúng. Từ lần trình diễn cuối, tôi đã xuống tối thiểu năm cân." Tôi không quan tâm đến chuyện ăn kiêng của cô, nhưng cơ thể cô không còn đủ lượng mỡ để hoạt động bình thường nữa; cái mà tôi không tha thứ được là, cô còn nói về chuyện ấy. Kệ cho cô dẫn lời những thần tượng nào của ngành y hoặc khoe khoang thành tích nào mới, mối quan tâm của tôi về đề tài này chỉ là con số không tròn trĩnh.

Gần một giờ chiều, mọi người trong văn phòng tăng tốc làm hết phần việc dang dở để nghỉ trưa. Cần nói thêm là "nghỉ trưa" không liên quan tới ăn! Tôi uể oải quan sát nhóm quen thuộc gồm thợ làm tóc, cộng tác viên cơ hữu, dân làm hợp đồng và bạn bè tới đây để tắm mình trong thế giới thời trang - giữa những bộ quần áo sang trọng nhất, những khuôn mặt xinh như mộng và những cặp đùi dài đến nách.

Khi biết rõ là cả Miranda lẫn Emily đều đã đi nghỉ trưa, Jeffy đến chỗ tôi và dúi cho tôi hai túi mua hàng to tướng.

"Đây, chị thử xem, chắc sẽ đủ cho thời kỳ đầu."

Tôi đổ một túi ra sàn nhà cạnh bàn giấy và phân loại. Quần hiệu Joseph màu cát và than đá, dài và không bó, cạp trễ, cắt bằng len mềm như tơ. Quần da lộn nâu của Gucci, mặc vào thì một bà bán cá cũng thành siêu mẫu. Hai quần bò mài đúng độ của Marc Jacobs, cứ như may đo cho riêng tôi. Tám, chín áo quây bằng thun dệt nổi gân của Calvin Klein bó chét. Sơ mi kiểu dân gian, trong suốt và ngắn cũn, mác Donna Karan. Một váy quấn cực khêu gợi hiệu Diane Von Furstenburg xếp ngay ngắn cạnh bộ đồ xanh dương bằng nhung the của Tahari. Vừa nhìn là tôi mê ngay chiếc váy bò xếp ly của Habitual, dài đến đầu gối tôi và rất hợp với áo vest in hoa phá cách hiệu Katayone Adelie.

"Chỗ quần áo này... tất cả cho tôi à?" Hy vọng là giọng tôi thật hứng khởi chứ không có vẻ chạnh lòng.

"Vâng, chuyện vặt mà. Để trong kho rất lâu rồi. Có thể đã lấy ra dùng vài thứ để chụp ảnh thời trang, nhưng chưa bao giờ gửi trả lại bên cung cấp cả. Cứ vài tháng một lần, tôi phải dọn dẹp và vứt đi vài thứ, lần này tôi chợt nhớ đến chị. Chị mặc cỡ 38 chứ gì?"

Tôi gật đầu, vẫn chưa thốt nên lời.

"Tôi cũng đoán thế. Đa số mọi người mang cỡ 32 hoặc còn nhỏ hơn, chị cứ dùng thoải mái."

A! "Hay quá, hay tuyệt, Jeffy, tôi không biết cám ơn ra sao đây. Thích quá."

"Chị xem nốt túi kia đi," anh chỉ vào túi thứ hai trên nền nhà. "Chị đừng tưởng sẽ gây ấn tượng với bộ nhung the này nếu như vẫn tiếp tục xách cái túi đi chợ dặt dẹo kia."

Cái túi thứ hai còn đầy hơn, chứa một núi đồ cao cấp. Giày, túi, mấy chiếc măng tô liền. Bốt cao gót hiệu Jimmy Choo, cao đến mắt cá và đến đầu gối, hai đôi xăng đan mở có gót cao hiệu Manolo, giầy Prada kinh điển màu đen, giày lười của Tod (nhất định không được dùng ở văn phòng - Jeffy cảnh cáo ngay). Tôi quàng lên vai một túi mềm bằng da lộn màu đỏ, mặt trước có ký tự "CC" lồng nhau không lẫn vào đâu được - mặc dù không thể sánh được với túi mua hàng bằng da màu cà phê của Celine mà tôi đeo lên vai kia. Đỉnh cao là chiếc áo khoác dài, mốt quân sự, khuy cài to đùng nổi bật, mác Jacobs.

"Anh lại đùa rồi," tôi khẽ nói và vớ lấy chiếc kính râm Dior, hình như được nhồi thêm vào túi ở phút cuối. "Đúng là chuyện đùa."

Anh nhún vai hài lòng. "Chị hãy chiều tôi, và mặc chúng nhé! Và đừng đi kể ở đâu rằng chị là người đầu tiên được phép chọn, vì ai cũng tranh nhau đồ thanh lý của kho thời trang đấy." Anh biến nhanh như chớp khỏi cửa khi vừa nghe tiếng Emily gọi gì đó đầu hành lang, còn tôi lấy chân đẩy đống quần áo xuống gầm bàn. Emily đem mấy thứ quen thuộc từ căng tin về: sữa hoa quả, một bát nhựa đựng xà lách và súp lơ xanh trộn dấm. Không phải nước xốt, mà là dấm tinh. Miranda sắp đến văn phòng - Yuri gọi điện báo là Miranda vừa xuống xe, nghĩa là tôi không còn bảy phút xông xênh như thường lệ để lao bổ xuống quầy xúp rồi về bàn dốc tuột vào họng. Thời gian trôi đi vùn vụt, tôi đói lả cả người nhưng không có đủ ý chí để chen qua đám người mẫu, để cô thu ngân đánh giá mình rồi húp bát xúp nóng bỏng (và làm béo!) với tốc độ âm thanh xuống dạ dày sau khi làm hỏng thực quản. Chẳng bõ công, tôi nghĩ bụng. Thỉnh thoảng bỏ một bữa chẳng chết đâu mà lo, tôi tự nhủ. Ngược lại, nó sẽ làm mi mạnh hơn, như các nữ đồng nghiệp khỏe mạnh về thể xác và linh hồn của mi vẫn nói. Với lại, chiếc quần 2.000 dollar không hề đẹp khi cô gái mặc nó thuộc giống phàm ăn tục uống. Vậy thì tôi thả người ngồi xuống ghế và tự an ủi mình đã đại diện một cách xứng đáng cho tạp chí Runaway.

Sâu thẳm trong mơ, điện thoại di động của tôi đổ chuông - đủ dai dẳng để tôi thức giấc và tự hỏi, có phải bà ấy không. Sau giai đoạn định hướng nhanh bất ngờ - Ta ở đâu? "Bà ấy" là ai? Hôm nay thứ mấy? - tôi linh cảm có gì đó chẳng lành, khi chuông điện thoại reo lúc tám giờ sáng thứ Bảy. Trong đám bạn tôi không ai dậy vào giờ này, và sau nhiều năm bị chặn máy thì bố mẹ tôi cũng nghiến răng chấp nhận là con gái của ông bà không bao giờ bắt máy trước buổi trưa. Trong bảy giây đồng hồ để nghĩ những chuyện kể trên, tôi còn ngẫm nghĩ xem có cớ gì bắt tôi phải nhận cuộc gọi. Cho đến khi nhớ ra các lý do quan trọng mà Emily đã nói cho tôi hôm đầu tiên đi làm. Tôi thò tay khỏi chăn ấm, quờ quạng quét xuống nền nhà và túm được điện thoại trước khi chuông ngừng kêu.

"A lô?" Ái chà, giọng tôi rất mạch lạc và khỏe, cứ như là mấy tiếng vừa qua tôi chăm chú tập trung làm một việc gì khókhăn chứ không phải ngắc ngoải trong cơn hôn mê sâu.

"Xin chào con gái yêu! Rất vui thấy con đã dậy rồi. Mẹ chỉ muốn báo là bố mẹ đã vào đến đầu phố 3 và khoảng mười phút nữa là tới chỗ con, okay?" Tiếng mẹ tôi trong điện thoại làm váng tai. Chuyển nhà! Hôm nay là ngày chuyển nhà! Tôi quên khuấy là bố mẹ tôi muốn đến giúp chở mấy thùng quần áo, CD và album ảnh đến căn hộ mà Lily và tôi mới thuê. Cái giường quái vật thì phải nhờ dịch vụ xử lý thôi.

"Ôi, con chào mẹ," tôi lúng búng nói rồi chuyển về chế độ buồn ngủ. "Con cứ tưởng bà ấy gọi."

"Làm gì có chuyện, hôm nay con được nghỉ. Đỗ xe ở đâu đây? Ở gần đây có tầng ngầm đỗ xe không?"

"Có ạ, ngay dưới hầm nhà, lối vào từ phố 3 rẽ phải. Nói với họ số phòng thì được giảm lệ phí trông xe. Con dậy mặc quần áo ngay đây."

"Okay, con gái yêu, chuẩn bị bắt tay vào việc nhé!"

Tôi thả người lên gối và tính nhẩm xem có cơ may chợp mắt một lát nữa không. Nhưng sau khi bố mẹ đi cả đoạn đường từ Connecticut đến đây để giúp tôi thì... Đúng lúc đó thì đồng hồ báo thức réo lên. À, thì ra tôi cũng không quên hẳn vụ chuyển nhà. Từ đó suy ra là tôi chưa mất trí hẳn, cũng là một niềm an ủi nho nhỏ.

Trèo ra khỏi giường hôm nay còn khó nhọc hơn trong tuần, mặc dù tôi đã ngủ lâu hơn mấy tiếng. Cơ thể tôi bị lừa bởi ảo tưởng được bù lại chứng "thiếu ngủ" mà các khóa tâm lý học đại cương nào cũng nhắc đến. Cạnh giường là một chồng quần áo, cùng với bàn chải đánh răng là những thứ tôi chưa xếp vào thùng. Tôi xỏ chân vào quần gió Adidas, mặc áo liền mũ Brown rồi đi đôi giầy thể thao New Balance dơ dáy đã từng theo tôi đi khắp thế giới. Đúng lúc tôi nhổ nước súc miệng vào bồn thì chuông cửa vang lên.

"Chào bố mẹ, con mở cửa cho mọi người lên tâng đây, một giây thôi."

Hai phút sau có tiếng gõ cửa, và không phải bố mẹ tôi mà là Alex đứng đó trong bộ quần áo nhàu nát, nhưng trông vẫn đẹp trai như thường lệ. Quần bò bạc phếch không giấu nổi mông tóp, T-shirt xanh dương dài tay cộc cỡn. Sau cặp mắt kính không giọng mà anh chỉ đeo khi kính áp tròng gây vấn đề là đôi mắt đỏ ngầu, và tóc tai bù xù như cái chổi. Tôi ôm chầm lấy anh. Từ lần uống cà phê vội vã chiều thứ Bảy tuần trước tôi chưa gặp lại anh. Đáng lẽ chúng tôi định ở với nhau cả ngày và cả đêm nhưng Miranda đã làm hỏng kế hoạch vì bà phải đưa Caroline đến bác sĩ và khẩn cấp biến tôi thành cô giữ trẻ cho Cassidy. Về được đến nhà thì đã quá muộn để đi chơi với Alex, dạo này anh cũng bỏ thói quen cắm trại trên giường đợi tôi về - cũng dễ hiểu thôi. Đêm qua anh định ở lại đây, nhưng tôi vẫn đang trong giai đoạn nửa nạc nửa mỡ đối với bố mẹ: mọi người trong cuộc đều biết là hai chúng tôi ngủ với nhau, nhưng chớ có ai hé một câu về chuyện ấy. Vậy thì tôi không muốn anh có mặt trong phòng lúc phụ huynh đến.

"Bé cưng, anh nghĩ là hôm nay mọi người cần trợ lực," anh giơ một túi bánh lên, tôi biết chắc trong đó là loại bánh mặn tôi thích và mấy cốc cà phê lớn. "Bố mẹ em đã đến chưa? Anh mua cà phê cho cả mọi người đây."

"Em tưởng hôm nay anh phải dạy thêm," tôi hỏi, vừa lúc Shanti ra khỏi phòng ngủ trong bộ đồ đen. Cô nhìn xuống đất khi đi ngang qua và lẩm bẩm gì đó về chuyện hôm nào cũng đi làm rồi biến ra cửa. Hiếm khi chúng tôi nói chuyện với nhau, có lẽ cô cũng không biết là hôm nay tôi dọn khỏi đây.

"Đúng thế, nhưng anh đã gọi điện cho bố mẹ hai cô học sinh và họ nói là sáng mai học cũng được, thế là em toàn quyền sai bảo anh."

"Andy! Alex!" Bố tôi hiện ra trong hành lang sau lưng Alex, mặt mũi rạng rỡ cứ như hôm nay là ngày đẹp nhất thế kỷ. Mẹ tôi cũng tươi tỉnh không ngờ, khiến tôi tự hỏi có phải bà dùng chất kích thích. Tôi soát lại tình thế và đi đến kết luận, nhất định phụ huynh sẽ đoán rằng Alex vừa đến trước họ một lát, vì anh vẫn đang đi giày và cầm trong tay gói đồ ăn mới mua. May quá.

"Andy kể là hôm nay cháu không có thì giờ," bố tôi nói và đặt cà phê và gói giấy lên bàn phòng khách - chắc là bánh mặn. Ông tránh nhìn thẳng Alex. "Cháu vừa đến hay sắp đi?"

Tôi mỉm cười nhìn Alex và hy vọng anh không hối hận đã bỏ công đến đây từ sáng sớm tinh mơ.

"Cháu đến cách đây một phút, bác sĩ Sachs ạ," anh sôi nổi kể. "Cháu đã đổi giờ dạy thêm, vì cháu nghĩ là gia đình ta cần có người giúp một tay."

"Thế thì hay quá, chắc chắn sẽ cần hỗ trợ. Đây, cháu tự lấy bánh ăn đi, Alex. Tiếc là chỉ có ba cốc cà phê vì bác không biết cháu có mặt ở đây." Tôi cảm động thấy ông già áy náy ra mặt. Rõ ràng là ông không được tự nhiên lắm khi thấy con gái út của ông đã có bạn trai, nhưng ông cố gắng không để lộ ra.

"Không sao ạ, thưa bác sĩ Sachs. Cháu cũng đem đến mấy thứ, chắc sẽ đủ cho tất cả." Sau đó bố tôi và bạn tôi ngồi xuống ghế và chia nhau đồ ăn sáng, không hề làm khách.

Tôi nếm từ mỗi túi một chiếc bánh mặn và nhận ra mình đang mừng khấp khởi được dọn đến chỗ Lily. Ngót một năm kể từ khi tốt nghiệp chúng tôi tuy cố gắng gọi điện cho nhau, tối thiểu mỗi ngày một bận, nhưng hầu như không gặp nhau mấy khi. Từ nay trở đi chúng tôi sẽ cùng về phòng chung vào buổi tối và chuyện trò như thời xưa về những thảm họa xảy ra trong ngày. Alex và ông già tôi hàn huyên về thể thao (bóng rổ thì phải), trong khi mẹ và tôi viết chữ lên các thùng quần áo trong phòng tôi. Quả thật rất nghèo nàn: vài thùng bìa cứng đựng chăn gối, một thùng album ảnh và giấy bút (cho chiếc bàn giấy tưởng tượng), vài thứ đồ mỹ phẩm và vệ sinh cũng như một chồng quần áo hoàn toàn không phù hợp với Runway. Thật ra chẳng bõ công đánh dấu, nhưng người trợ lý mẫn cán trong tôi đã xuất hiện.

"Ta đi thôi," bố tôi gọi từ phòng khách.

"Suỵt! Bố làm Kendra thức dậy mất," tôi thì thào. "Mới có chín giờ sáng, hôm nay là thứ Bảy."

Alex lắc đầu. "Cô ấy đi cùng với Shanti lúc nãy rồi, anh nghĩ thế. Chắc chắn là anh thấy hai người, họ đều mặc trang phục văn phòng và trông không tươi tỉnh lắm. Em ngó vào phòng mà xem."

Cửa chỉ khép hờ, tôi khẽ mở ra. Chiếc giường tầng (cũng chẳng đủ chỗ cho hai giường đơn) được dọn gọn ghẽ, trên mỗi chiếc gối là một con chó bông giống nhau ngồi chễm chệ. Hôm nay tôi mới nhận ra là chưa bao giờ mình đặt chân vào phòng của hai cô cho thuê nhà. Trong mấy tháng chung sống, tôi chưa hề nói chuyện lâu quá ba mươi giây cùng một lúc với hai cô. Tôi cũng không rõ họ làm nghề gì, hay đi đâu và có bạn bè gì không. Không, chẳng có gì giữ tôi lại đây cả.

Alex và ông già tôi đã ăn xong, bây giờ họ phác thảo kế hoạch hành động. "Đúng, họ đi rồi. Con nghĩ là họ không hề biết con dọn đi hôm nay."

"Hay là con viết lại tin nhắn?" Mẹ tôi đề nghị. "Để trên bàn chơi xếp chữ của con được không?" Tôi thừa hưởng chứng nghiện chơi xếp chữ của bố tôi, cùng với lập luận là nhà mới phải có trò chơi mới, vậy nên tôi để lại trò chơi cũ ở đây.

Năm phút cuối cùng trong phòng này tôi dùng để xếp các miếng in chữ thành "Cám ơn và chúc may mắn, Andy". 108 điểm. Không tồi.

Một tiếng sau thì hai ô tô đã chất đầy đồ, nhiệm vụ của tôi chủ yếu là đứng giữ cửa và trông chừng hai chiếc xe trong khi một người vác đồ từ xe xuống. Nhóm thợ chuyên nghiệp của dịch vụ chuyển nhà đòi tiền chuyên chở cao hơn giá mua cái giường khốn kiếp ngày xưa. Chờ mãi chưa thấy họ đến, bố tôi và Alex đánh xe về phía trung tâm. Cho đến lúc ấy tôi chỉ biết căn hộ mới mà Lily tìm được trên trang quảng cáo của tờ Village Voice qua lời kể lại. Cô gọi tôi giữa giờ làm việc và hét vào điện thoại: "Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi! Rất tuyệt! Phòng tắm có nước, sàn gỗ tương đối phẳng phiu, tớ đứng đây đã bốn phút rồi mà chưa thấy con chuột hay con gián nào. Nhanh lên, đến đây xem!"

"Cậu có say rượu không đấy? Tôi thì thào. "Bà ấy đang ở đây, tớ không được đi đâu cả."

"Một là đến ngay, hai là không bao giờ. Cậu biết chuyện này ra sao rồi đấy. Tớ mang theo tập giấy tờ và mọi thứ cần thiết đây."

"Lily, nghe đây. Kể cả khi được hẹn tới bệnh viện ghép tim tớ cũng không được đứng dậy, nếu không muốn bị đuổi việc. Làm sao có thể xin đi xem nhà được?"

"Okay, nửa phút nữa là mất nhà. Đây là cuộc hẹn cho nhiều người, tối thiểu còn hai mươi lăm ứng cử viên khác nữa, họ đều đang điền đơn xin thuê nhà. Bây giờ hoặc không bao giờ."

Trong thị trường nhà cửa quái gở của Manhattan, phòng ở tương đối bình thường còn hiếm hơn - và quý hơn - là đàn ông dị tính tương đối bình thường. Nếu còn đòi hỏi giá thuê nhà khá dễ chịu thì khó khăn hơn đi tìm mua một hòn đảo tư nhân bờ biển phía Nam của châu Phi. Tôi đoán thế. Vậy thì đòi hỏi gì hơn, đa số những căn hộ kiểu ấy không hơn gì một ổ chuột với sàn gỗ mục nát, giấy dán tường bong lả tả và trang thiết bị từ thời đồ đá. Không có gián? Không có chuột? Lấy luôn!

"Lily, tớ tin cậu, làm đi. Miêu tả cho tớ qua email nhé?" Tôi phải đặt máy ngay lập tức - Miranda quay về bất cứ lúc nào, nếu bà ấy bắt gặp tôi nói chuyên riêng thì tong đời.

"Tớ có trong tay bảng lương copy của cậu - trông khá tanh đấy..., và giấy chứng nhận ngân hàng của cả hai cùng với chứng chỉ tín dụng và hợp đồng làm việc của cậu. Vấn đề duy nhất là bảo lãnh. Người bảo lãnh phải sống trong địa phận New York và lân cận, và có thu nhập gấp hơn bốn mươi lần tiền nhà của bọn mình. Bà tớ không thể nào có quá một trăm tờ, quên đi. Bố mẹ cậu có bảo lãnh cho bọn mình được không?"

"Lily, sao mà biết được. Tớ phải hỏi bố mẹ đã, nhưng bây giờ không gọi điện dược. Cậu làm hộ tớ đi."

"Được. Họ có thu nhập cao như thế không?"

Tôi không rõ, nhưng biết hỏi ai bây giò? "Cứ gọi họ đi," tôi nói. "Giải thích với họ chuyện Miranda, nói là tớ không thể nào tự nói chuyện với họ được."

"Tớ sẽ làm," cô nói. "Quan trọng nhất là lấy được phòng này. Tớ sẽ gọi lại," rồi cô đặt máy. Hai mươi giây sau lại có chuông, tôi thấy số của Lily trên điện thoại văn phòng. Emily ngó lên trần nhà, đúng kiểu như cô vẫn làm mỗi khi nghe tôi nói chuyện với bạn bè. Tôi với lấy ống nghe, nhưng trước tiên nhìn qua phía cô.

"Rất quan trọng," tôi nghiến răng. "Bạn gái tôi cố kiếm một căn phòng cho tôi qua điện thoại, bởi vì tôi không được ra khỏi đây lấy một giây..."

Ba giọng nói cùng lúc bổ xuống đầu tôi. Giọng của Emily nhẹ nhàng, thân thiện và mang chút cảnh báo. "Andrea, kìa," cô cất giọng, trong khi Lily hét vào tai tôi đúng lúc ấy: "Bố mẹ cậu gật đầu rồi, Andy, cậu nghe chưa?" Mặc dù cả hai cùng nói trực tiếp với tôi, nhưng tôi không hiểu ai chính xác. Giọng duy nhất mạch lạc và rõ ràng xuyên vào tai tôi là của Miranda.

"Có vấn đề gì không, Aan-dree-aa?" Sốc! Lần này bà ấy gọi đúng tên tôi. Miranda khom lưng đứng trước mặt tôi, sẵn sàng tấn công.

Lập tức tôi cắt cuộc gọi của Lily (hy vọng được cô thông cảm) và sẵn sàng nghênh chiến. "Không, Miranda, mọi việc ổn cả."

"Được. Thế thì tôi muốn một cốc kem, tốt nhất là trước khi nó chảy hết thành nước. Kem va ni, không phải sữa chua, chị hiểu rõ chứ, không phải sữa đóng băng, cũng không phải loại kiêng đường kiêng mỡ, kèm sô cô la lỏng và thật nhiều kem tươi. Không phải loại trong bình xịt, hiểu chưa? Kem tươi chính cống. Chấm hết." Bà quay gót đi. Có vẻ như bà chỉ mò vào để kiểm tra tôi. Emily nhếch mép cười đắc ý. Điện thoại đổ chuông. Lại Lily. Chết tiệt - tại sao cô ta không gửi email? Tôi nhấc máy, ép chặt ống nghe vào tai, không nói một lời.

"Tớ biết rồi, cậu không nói chuyện được, vậy chỉ nghe thôi nhé. Bố mẹ cậu bảo lãnh cho bọn mình, thế là tuyệt lắm rồi. Căn hộ có một phòng ngủ lớn và nếu mình làm một vách ngăn ở phòng khách thì vẫn còn đủ chỗ cho một giường đôi và một ghế bành. Không có bồn tắm, nhưng vòi hoa sen trông được. Không có máy rửa bát, tất nhiên. Máy điều hòa cũng không, nhưng mình có thể lắp vào cửa sổ được. Máy giặt ở tầng hầm, có người gác theo giờ, khá gần tuyến số 6, và - chú ý này - có ban công!"

Nghe tiếng tôi lấy hơi, cô nàng có cớ cao giọng: "Thật đấy! Trên cả tuyệt vời, đúng không nào? Trông như có thể đổ sập xuống bất cứ lúc nào, nhưng bây giờ vẫn còn dính vào nhà! Đủ chỗ cho hai người, bọn mình có thể ra đấy hút thuốc, không thể tin nổi!"

"Bao nhiêu?" Tôi gượng hỏi và tự thề rằng đây là hai chữ cuối cùng.

"Tổng cộng: 2.280 mỗi tháng. Cậu nghĩ xem, mỗi người trả 1.140 dollar là bọn mình có ban công, cơ hội trăm năm có một lần. Sao, tớ làm nhé?"

Tôi toan trả lời, nhưng đúng lúc đó Miranda đang từ từ quay về văn phòng, vừa đi vừa chửi mắng người điều phối trình diễn trước toàn bộ nhân viên có mặt. Rõ ràng bà đang có chuyện bực bội, và hôm nay tôi không việc gì phải đổ thêm dầu vào lửa. Cô gái bị khiển trách xấu hổ cúi xuống đất, má đỏ lựng, và tôi cầu nguyện để cô đừng khóc ré lên làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn.

"Andy! Thật là nực cười. Nói có hay không đi! Hôm nay tớ trốn học chưa đủ hay sao, còn cậu thì không được rời khỏi nơi làm để xem phòng. Cậu không thể mở mồm nói có hay không được à? Tớ nên làm gì..." Lily sắp nổi cơn thịnh nộ, tôi hiểu quá rõ, nhưng mặc dù vậy không thể làm gì khác là cúp máy. Cô hét trong máy to đến nỗi cả văn phòng đều nghe thấy, và Miranda chỉ đứng cách đó một mét. Ước gì tôi kéo cô gái điều phối trình diễn tội nghiệp vào nhà vệ sinh và cùng nhau khóc trong đó. Hay là hai chúng tôi hợp sức ấn Miranda vào một phòng vệ sinh và siết chiếc khăn Hermès quấn lỏng lẻo quanh cái cổ gà của bà ta chặt hơn chút nữa. Phần việc của tôi sẽ là gì - siết chặt khăn hay giữ chặt bà ta? Cuối cùng có lẽ gây tác động mạnh hơn nếu chúng tôi nhồi cái khăn khốn nạn vào họng và đứng ngắm bà cố gắng lấy hơi và...

"Aan-dree-aa!" Giọng bà giật cục và sắc lẹm. "Tôi nhờ chị làm gì cách đây năm phút?" Chết rồi! Kem. Tôi đã quên mua kem. "Có lý do đặc biệt gì để chị vẫn còn ngồi đấy, thay vì làm nhiệm vụ của mình? Phải chăng đó là kiểu khôi hài của chị? Trong tư cách hay lời nói của tôi có gì khiến chị hiểu là tôi không nói nghiêm chỉnh không? Có không?" Đôi mắt xanh của bà trông như lòi ra khỏi tròng, giọng bà gần như lạc đi. Tôi mở miệng, nhưng Emily đã chêm vào.

"Miranda, tôi vô cùng xin lỗi. Lỗi tôi đấy. Tôi bảo Andrea trả lời điện thoại vì tôi tưởng Caroline hay Cassidy gọi đến và tôi đang nói ở máy kia về chuyện chiếc sơ mi Prada bà muốn đặt. Andrea đã định đi rồi, xin lỗi bà, chuyện này sẽ không xảy ra lần nữa!"

Quả là vẫn còn phép màu! Con người mẫu mực đã lên tiếng, và bênh vực kẻ hèn hạ này.

Miranda có vẻ dịu xuống. "Thôi được. Bây giờ chị đi mua kem cho tôi, Andrea." Dứt lời bà đi vào phòng mình, nhấc điện thoại và lập tức rót ngay một lít mật vào tai ông Mờ-Cờ-Đờ.

Tôi nhìn sang Emily đang ra vẻ chăm chú làm việc. Email mà tôi gửi cho cô chỉ có mỗi hai chữ: Tại sao?

Câu trả lời đến ngay: Vì tôi tin là bà ấy sẽ sa thải chị, và tôi không có chút hứng thú nào tập sự cho một nhân viên mới. Vậy thì tôi bắt đầu cuộc săn lùng cốc kem lý tưởng và gọi Lily bằng điện thoại di động khi thang máy xuống đến tầng dưới.

"Xin lỗi, thật đấy, chỉ vì..."

"Nghe này, tớ không có thừa thời gian," giọng Lily đều đều. "Cậu có thấy cậu hơi quá đáng không? Cậu không thể nói có hay không trong điện thoại hay sao?"

"Tớ rất khó giải thích, Lily, chỉ vì..."

"Quên đi. Tớ phải đi đây. Tớ sẽ gọi cậu nếu thuê được phòng. Cho dù cậu không quan tâm lắm."

Tôi định phản đối, nhưng cô đã tắt máy. Chết tiệt! Nhưng làm sao Lily hiểu nổi những gì chính tôi trước đây bốn tháng còn coi là hoàn toàn ngớ ngẩn. Bắt cô chạy ngang chạy dọc Manhattan để tìm nhà cho cả hai rồi không thèm trả lời điện thoại, quả là không công bằng, nhưng tôi đâu có lựa chọn nào khác.

Quá nửa đêm, rốt cuộc tôi cũng tóm được cô trong điện thoại và nghe thông báo là chúng tôi đã có nhà.

"Không thể tin nổi, Lily. Biết cảm ơn cậu như thế nào bây giờ. Tớ xin nợ cậu chuyện này, hứa danh dự đấy!" Rồi tôi nảy ra một ý. Làm một cú bất ngờ đi! Gọi taxi, phóng xuống Harlem và cảm ơn cô bạn thân nhất đi! "Lily, cậu đang ở nhà hả? Tớ đến chỗ cậu, và mình liên hoan nhé?"

Tiếng hét vui mừng không vang lên. "Không phải cố," cô nói bình thản. "Tớ có một chai Southern Comfort trước mặt, và chàng Xỏ-khuyên-lưỡi đang ở đây. Hiện tại thế là đủ."

Tên bắn trúng đích. Nhưng tôi biết rồi. Hiếm khi Lily giận dỗi, nhưng khi đã xảy ra rồi thì phải để cô một mình, xong chuyện cô sẽ tự chui khỏi vỏ ốc. Tôi nghe tiếng chất lỏng rót vào ly và đá viên kêu lanh canh. Cô uống một ngụm lớn.

"Okay. Nhưng hãy gọi tớ, nếu cậu cần."

"Để làm gì? Để nghe cậu im như thóc trong điện thoại à? Cám ơn."

"Lily..."

"Chớ lo lắng gì, tớ rất ổn." Một ngụm nữa. "Tớ sẽ gọi lại. À, chúc mừng hai chúng ta."

"Chúc mừng hai chúng ta," tôi nói như tiếng vọng, nhưng cô đã bỏ máy.

Tôi gọi vào máy di động của Alex và hỏi có được ghé qua chỗ anh không. Cả anh cũng có vẻ không phấn khởi như tôi mong đợi.

"Andy, anh cũng muốn gặp em, em biết đấy. Nhưng anh đang đi chơi với Max và các bạn khác. Vì lý do nào đó mà cả tuần em đã không có thì giờ nên tối nay anh đã hẹn các bạn."

"Thế à? Các anh đang ở đâu? Brooklyn hay loanh quanh gần đây? Em đến cùng được không?" Có thể họ ở ngay đâu đây vì những người kia đều sống ở Upper East Side.

"Em nghe này, bình thường thì được ngay, nhưng hôm nay đơn giản là tối liên hoan đàn ông."

"Thôi được, okay, thật ra em định mừng nhà mới với Lily, nhưng bọn em bỗng dưng có chuyện hục hặc. Lily không thông cảm tại sao ở văn phòng em không gọi điện thoại thoải mái được."

"Chà, Andy, anh buộc phải nói là đôi khi anh cũng khó thông cảm nổi. Anh biết là Miranda này không vừa - em phải tin anh, anh biết thật đấy - nhưng vì sao đó mà anh có cảm tưởng là em coi trọng quá mức tất cả những gì dính dáng đến bà ta!" Nghe rõ ràng Alex cố không làm gì để chúng tôi sinh ra đối đầu.

"Có thể em như thế thật!" Tôi phản pháo. Tôi điên người lên vì anh không quỳ xuống xin tôi đến cùng tối nay, và cũng vì anh đứng về phía Lily, tuy rằng nói cho cùng thì cô có lý và anh cũng có lý. "Đây là cuộc sống của em, anh hiểu không? Đường công danh và tương lai của em! Em phải làm gì cơ chứ? Coi tất cả là trò cười chăng?"

"Andy, em bẻ cong lời anh. Em biết rõ là ý anh không phải như vậy."

Muộn rồi, máu tôi đã sôi đến một trăm độ. Đầu tiên Lily, giờ đến Alex. Thêm Miranda nữa, ngày này qua ngày khác? Giọt nước tràn ly. Tôi ức phát khóc, thay vào đó tôi gào lên.

"Tất cả là trò cười? Mọi người coi công việc của em là thế hả? Ồ Andy, em làm bên thời trang mà, chắc chẳng có gì ghê gớm lắm đâu?" Tôi nhại lại và tự thấy ngán mình. "Xin lỗi, không phải ai cũng là người hảo tâm hay sắp thành tiến sĩ! Xin lỗi, nếu..."

"Em hãy gọi điện cho anh khi đã bình tĩnh lại," anh nói. "Anh không muốn phải nghe thêm nữa." Ngắt máy. Tôi nghĩ là anh sẽ gọi lại, nhưng đến tận ba giờ sáng lúc tôi ngủ thiếp đi, cả Alex lẫn Lily đều im tiếng.

Chuyện xảy ra chẵn một tuần rồi, cả hai tuy không giận dỗi ra mặt nữa nhưng có vẻ thay đổi một cách không rõ rệt. Tôi không có dịp đích thân xin lỗi họ vì văn phòng đang giữa lúc biên tập giai đoạn cuối của số tạp chí sắp in, chỉ hy vọng là mọi thứ sẽ trở lại đâu vào đấy khi Lily và tôi lại sống chung nhà. Ở căn hộ mới chung nhau mọi thứ sẽ lại như ngày xưa ở đại học, khi cuộc sống còn cởi mở hơn nhiều với bọn tôi.

Dịch vụ chuyển nhà mãi mười một giờ mới thèm đến, họ mất đúng chín phút để tháo xong chiếc giường yêu quý của tôi ra từng mảnh và quẳng lên xe tải. Mẹ và tôi chui lên ca bin cùng người lái. Ở tiền sảnh nơi tôi chuyển đến, ông già tôi và Alex đang hăng hái tranh luận với nhân viên thường trực.

"May quá, con đến rồi, Andy. Ông Fisher tất nhiên có lý khi chỉ chịu mở khóa phòng nếu người thuê nhà có mặt," bố tôi vừa nói vừa cười tươi và nháy mắt với ông thường trực.

"Sao, Lily chưa đến à? Cô ấy định mười giờ hay mười rưỡi có mặt cơ mà."

"Chưa thấy đến. Anh gọi cô ấy nhé?"

"Vâng, thế thì tốt hơn. Em sẽ đi cùng ông Fisher lên nhà để mọi người có thể bắt tay vào việc. Hỏi xem Lily có cần giúp đỡ không."

Nụ cười của Mr. Fisher vô cùng dâm đãng. "Xin mời, chúng ta như người nhà mà," giọng ông cợt nhả, đồng thời mắt xoáy vào ngực tôi. "Chị cứ gọi tôi là John cho thân mật." Thiếu chút nữa thì tôi nghẹn vì ngụm cà phê đã nguội ngắt mà tôi vẫn cầm theo.

Alex gật đầu và lấy gấu áo lau kính, một cử chỉ đáng yêu vô cùng. "Em lên nhà với bố mẹ đi. Anh gọi Lily."

Tôi hơi ngần ngại khi thấy bố tôi bỗng dưng làm thân với ông thường trực, vì ông ta sẽ mặc nhiên biết mọi chi tiết về cuộc sống của tôi. Khu tiền sảnh rất dễ thương, tuy không hẳn đáng được gọi là hiện đại. Tường lát đá màu sáng, mấy chỗ ngồi không êm ái lắm trước thang máy và sau dãy hộp thư. Phòng chúng tôi, số 8C, hướng về Tây Nam, tôi nghe nói là một ưu điểm. John mở cửa với chìa khóa chính, tự hào như lần đầu tiên được làm bố, và lui lại một bước.

"Nhà đây," ông khoát tay hãnh diện. Tôi là người đầu tiên liều mạng bước vào phòng và chuẩn bị sẵn tinh thần, nhưng trong phòng không hề có mùi lưu huỳnh nồng nặc hay dơi bay chấp chới dưới trần nhà. Mọi thứ sạch sẽ một cách ngạc nhiên và sáng sủa, phía tay phải là bếp, một căn phòng nhỏ lát gạch men trắng, các cánh tủ hơi ngả vàng và mặt bàn bếp giả đá có nhiều vết ố. Phía trên bếp lò là một lò vi sóng ẩn trong tường.

"Được đấy chứ," mẹ tôi nói sau khi nhìn vào tủ lạnh. "Có cả khuôn làm đá." Mấy công nhân khuân vác ì ạch khuân chiếc giường của tôi qua hành lang.

Qua bếp đi vào phòng khách, vách ngăn để tạo ra phòng ngủ thứ hai đã dựng xong. Cũng vì thế mà mọi cửa sổ đều bị vô hiệu hóa, nhưng cũng không quan trọng lắm. Phòng ngủ mới có kích cỡ dễ coi (ít nhất cũng lớn hơn phòng cũ của tôi), tường phía ban công bị chiếm gần hết bởi một cửa đẩy rất cao bằng kính. Phòng tắm trông cực phản nghệ thuật: tường và gạch men là hai tông màu hồng khác nhau, trông khá chướng mắt. Phòng ngủ lớn hơn hẳn diện tích sinh hoạt còn lại, trong đó có một tủ tường bé xíu, quạt trần và một cửa sổ nhỏ đã một nghìn năm chưa cọ rửa, chĩa thẳng qua một căn hộ của nhà hàng xóm. Lily muốn lấy phòng này, tôi thấy cũng được, bởi vì cô cần một phòng ngủ và một phòng làm việc, nghĩa là cần nhiều diện tích hơn, còn tôi ưa nhiều ánh sáng và lối ra thẳng ban công.

"Cám ơn Lily," tôi thì thầm.

"Con vừa nói gì vậy?" Mẹ tôi đứng ngay sau lưng.

"Không có gì ạ. Đúng là Lily đã làm mọi việc rất cừ. Con không biết trước những gì ở đây, nhưng phòng đẹp đấy chứ, mẹ thấy sao?"

Mẹ tôi hết sức cố gắng để phát biểu một cách tế nhị. "Ờ, đối với New York thì chắc chắn đây là căn hộ rất tốt. Mẹ chỉ thấy phiền lòng là các con trả nhiều tiền mà chỉ nhận được ít như vậy. Chị con và Kyle trả góp tổng cộng 1.400 mỗi tháng cho căn hộ, trong đó có máy điều hòa không khí, máy rửa bát mới tinh, máy giặt kiêm sấy, hai phòng tắm lát đá cẩm thạch, và ba phòng ngủ!" Bà nói như một nhà truyền giáo. Dĩ nhiên, với 2.280 dollar người ta có thể được một ngôi nhà dọc sông ở Los Angeles, một căn hộ với cây xanh ngay trước cửa ở Chicago, một căn hộ năm phòng ở Miami hay cả một lâu đài có hào nước chạy quanh ở Cleveland. Chẳng có gì lạ.

"Và hai chỗ đậu xe cũng như sử dụng miễn phí sân golf, phòng tập thể dục và bể bơi," tôi tình nguyện bổ sung. "Con biết, con biết mà. Mẹ có tin hay không thì tùy, căn hộ này là nhất rồi đấy. Con tin rằng ở đây bọn con sẽ sống tử tế."

Mẹ ôm tôi. "Mẹ cũng tin vậy. Chừng nào các con không phải làm việc quá nhiều để còn thì giờ mà tận hưởng." mẹ nói thêm.

Bố tôi đến bên và mở gói mà ông xách suốt ngày. Không như tôi đoán, trong gói không có đồ áo thể thao để bố tôi hôm nay đi tập, mà là một hộp màu hạt dẻ với dòng chữ nổi bật. "Phát hành có hạn!" Trò xếp chữ. Phiên bản cho người sưu tầm, có đáy xoay cho bàn xếp chữ và các ô lõm để những ô chữ không bị trượt. Mười năm liền chúng tôi trầm trồ ngắm nó trong các cửa hiệu, nhưng chưa bao giờ có một dịp xứng đáng để bỏ tiền mua báu vật này.

"Ôi, bố ơi, có nhất thiết thế không!" Tôi biết, phiên bản đặc biệt này giá trên 200 dollar. "Đẹp quá!!!"

"Hãy tận hưởng, chừng nào còn sống và khỏe mạnh," ông nói và đáp lại vòng ôm của tôi. "Hay tốt hơn là hãy làm bố già của con sợ cuống lên. Chắc chắn mọi việc sẽ diễn biến như thế đấy. Bố còn nhớ hồi xưa hay phải để con thắng, không thì con chạy khắp nhà như một con bò điên và dỗi suốt buổi tối. Bây giờ thì sao? Những tế bào não tội nghiệp của bố đã thui chột cả rồi, bố không còn cơ may thắng con nữa. Tuy nhiên, nhất định bố vẫn sẽ thử đấy."

Tôi vừa định đáp lại là tôi đã có thầy dạy tốt nhất thì Alex đi vào. Vẻ mặt của anh không nói lên điều gì tốt lành.

"Có chuyện gì thế?" Tôi hỏi.

"À, không có gì." Ánh mắt anh nói lên tất cả: anh không muốn bố mẹ tôi biết chuyện. "Anh vừa đưa một thùng lên."

"Nào, mình cũng đi lấy vài thùng," bố tôi nhận câu gợi ý và kéo mẹ ra cửa. "Có thể ông Fisher có xe đẩy hay thứ gì tương tự, đặt được mấy thùng lên."

Alex và tôi đợi đến khi cửa thang máy khép lại.

"Thế này nhé, anh vừa nói chuyện với Lily," anh nói chậm rãi.

"Cô ấy chắc không còn giận em nữa chứ? Cả tuần nay tương đối kỳ cục."

"Không, không phải thế."

"Thế chuyện gì?"

"À, cô ấy không ở nhà..."

"Thế thì ở đâu? Ở nhà gã nào à? Chẳng lẽ Lily quên ngày chuyển nhà của mình?" Tôi mở tung cửa số ở phòng ngủ mới bị ngăn đôi cho không khí trong lành ùa vào, át mùi sơn đi.

"Không. Nói một cách chính xác là, cô ấy ở đồn cảnh sát." Alex nhìn chằm chằm xuống giày.

"Ở đâu cơ? Có chuyện gì với Lily? Lạy chúa! Cô ấy bị cướp hay bị hãm hiếp? Em phải đến chỗ đó ngay."

"Cô ấy ổn, Andy. Chỉ bị bắt thôi." Anh nói bằng giọng bình tĩnh, như báo với phụ huynh tin buồn là con họ không được lên lớp.

"Bị bắt à? Người ta bắt cô ấy à?" Tôi bất giác nói quá to. Đúng lúc đó bố tôi lôi một chiếc xe đẩy to tướng vào phòng, nghiêng ngả chực đổ dưới mấy thùng chồng lên nhau.

"Người ta bắt ai cơ?" Ông lơ đãng hỏi. "Đây, Mr.Fisher đã đưa lên tất cả cho mình đây."

Tôi nát óc tìm một câu nói dối tương đối lọt tai, nhưng Alex nhanh hơn. "À, cháu chỉ kể cho Andy là tối qua trong kênh VH-1 có một phóng sự về ba ca sĩ nhạc rap của nhóm TLC, một cô trong bọn họ bị bắt vì có ma túy trong người. Chính là cô luôn gây ấn tượng tương đối bình thường..."

Bố tôi vừa nhìn khắp phòng vừa lắc đầu. Ông chỉ nghe một tai và chắc ngạc nhiên, từ bao giờ Alex và tôi quan tâm đến các nữ ca sỹ nhạc pop đến thế. "Bố nghĩ là vị trí duy nhất kê vừa cái giường là đẩy đầu giường vào phía tường kia," ông nói. "À, phải xem họ làm đến đâu rồi mới được."

Cửa phòng vừa đóng, tôi nhảy bổ ra trước mặt Alex.

"Nào, nói đi, chuyện gì đã xảy ra?"

"Andy, đừng hét lên như thế. Không tệ đến mức ấy. Đúng ra là khá buồn cười." Với những nếp nhăn quanh mắt khi cười, trong một thoáng anh giống hệt Eduardo.

"Alex, nếu anh không nói ngay chuyện gì đã xảy ra với bạn em..."

"Okay, okay, bình tĩnh. Đêm qua cô ấy đi chơi với một gã. Mr. Xỏ-khuyên-lưỡi, cô ấy gọi thế. Mình có quen hắn ta không nhỉ?"

Tôi chỉ chằm chằm nhìn anh.

"Không quan trọng. Hai người đi ăn, sau đó Mr. Xỏ-khuyên-lưỡi muốn tiễn Lily về nhà và cô có một ý tưởng cho là rất hay: "khoe hàng" cho gã xem giữa phố, ngay trước nhà hàng. Để gã phải cắn câu."

Tôi tưởng tưởng ra cảnh Lily sau bữa ăn tối lãng man, viên kẹo bạc hà còn ngậm trong miệng, tung tẩy đi dọc phố, và đột ngột kéo T-shirt lên, cho một gã bỏ tiền ra xỏ một miếng kim loại qua lưỡi. Trời ạ.

"Không thể được. Lily không thể..."

Alex gật đầu đầy vẻ quan trọng và cố nhịn cười.

"Anh muốn nói là người ta bắt giữ bạn gái em chỉ vì cô ấy vạch ngực ra? Đúng là chuyện tiếu lâm. Ta đang ở New York. Hằng ngày em nhìn thấy phụ nữ gần như cởi trần - giữa nơi làm việc!" Giọng tôi lại rít lên, không kiềm chế nổi.

"Khoe mông." Anh lại cắm mắt xuống giày mình, mặt đỏ lựng. Không hiểu vì xấu hổ hay cố nhịn cười.

"Khoe gì cơ?"

"Không khoe ngực. Khoe mông. Phần dưới. Toàn bộ. Đằng trước và đằng sau." Giờ thì anh ngoác miệng ra cười. Rõ ràng anh thấy rất khôi hài. Cẩn thận kẻo tè ra quần, tôi nghĩ bụng.

"Ôi, không thể thế được," tôi rên lên. Cô bạn tôi đã tự dẫn mình làm trò gì thế này? "Cảnh sát đã nhìn thấy và bắt cô ấy?"

"Không, hai đứa trẻ con đã chứng kiến cảnh ấy và mách với mẹ..."

"Lạy chúa."

"...và bà mẹ nhắc cô hãy kéo quần lên. Lily hét tướng lên là bà hãy đút những lời đề nghị của bà vào đâu đó, lập tức bà ta chạy đến góc phố và tìm được một cảnh sát."

"Không, không thể thế được, thôi đi."

"Chưa thấm gì. Khi bà này và tay cảnh sát đến nơi thì Lily và Mr. Xỏ-khuyên-lưỡi, theo cô khai, đang hành sự ngay trên phố."

"Sao cơ? Bạn Lily Goodwin của em? Bạn gái xinh đẹp, khả ái, thân nhất của em từ lớp tám? Cởi quần áo và làm việc đó ở góc phố? Với một thằng cha xỏ khuyên vào lưỡi?"

"Bình tĩnh lại đi, Andy. Cô ấy không bị sao, thật mà. Tay cảnh sát chỉ bắt cô vì khi được hỏi, có đúng là trước đó cô tụt quần xuống không, thì cô giơ ngón tay giữa lên..."

"Lạy Chúa, em hết chịu nổi. Cảm nhận của những người làm mẹ là như thế này đây."

"...nhưng họ chỉ cảnh báo thôi. Bây giờ Lily muốn quay về nhà cũ và nghỉ ngơi một chút - nghe chừng hôm qua đã phê tràn cung mây. Lúc tỉnh táo chắc cũng không dám trêu cảnh sát. Em không phải lo. Bây giờ mình dọn đồ của em vào, sau đó đến chỗ Lily nếu em muốn." Anh nhấc thùng đầu tiên từ xe đẩy mà bố tôi đặt giữa phòng.

Không thể đợi được; tôi phải biết ngay chuyện gì xảy ra. Mãi đến hồi chuông thứ tư Lily mới nhấc máy, ngay trước khi hộp thoại bật lên, tựa như đến giây cuối cùng cô vẫn cân nhắc có nên trả lời không.

"Mọi chuyện ổn chứ?" Tôi bộp ngay.

"Chào Andy, hy vọng là tớ không làm hỏng vụ chuyển nhà. Mọi người không cần tớ trong lúc này lắm, đúng không? Xin lỗi vì tất cả mọi chuyện."

"Tớ không quan tâm chuyện ấy, chỉ cần hỏi về cậu thôi. Cậu ổn chứ?" Tôi chợt nhớ ra là nếu Lily lúc này, sáng sớm thứ Bảy, trên đường về nhà thì có nghĩa là cô đã qua đêm ở đồn cảnh sát. "Họ giữ cậu qua đêm ở đó à? Ở trong tù?"

"Ừ, tớ nghĩ là gọi thế cũng được. Nhưng không có gì ghê gớm như trong tivi vẫn chiếu. Có một căn phòng đơn giản, và tớ ngủ ở đó, cạnh một cô bé hoàn toàn ngây thơ vừa làm trò ngu xuẩn gì đó giống tớ. Mấy người gác rất thú vị, mọi chuyện tương đối nhẹ nhàng. Không có song sắt hay mấy thứ tương tự." Cô cười, nhưng nghe giả tạo.

Tôi nghỉ một giây để tiêu hóa vụ này và thử tưởng tượng ra cảnh cô bé hippie xinh xẻo đáng yêu Lily của tôi lội qua vũng nước đái sâu đến mắt cá trong xà lim và lọt vào tay một mụ đồng tính phát cuồng. "Thế Mr. Xỏ-khuyên-lưỡi đóng góp gì trong chuyện này? Hắn để cậu mục xác trong tù à?" Đột nhiên tôi nghĩ: còn tôi đóng góp gì trong chuyện này? Vì sao Lily không gọi cho tôi?

"À, anh ấy thật ra rất tốt..."

"Lily, tại sao..."

"... cũng muốn ở lại cùng và thậm chí đã gọi luật sư của bố mẹ anh ấy..."

"Lily, Lily, ngừng một giây đã nào! Tại sao cậu không gọi tớ? Lẽ ra chỉ một phút sau là tớ có mặt và sẽ không đi khỏi trước khi họ thả cậu ra. Vậy thì tại sao? Tại sao cậu không gọi điện?"

"Thôi, Andy, chuyện đã qua rồi. Thực sự không có gi ghê gớm cả,tớ thề với cậu đấy. Đơn giản là tớ đã xử sự ngu xuẩn vì quá chén."

"Tại sao? Tại sao cậu không gọi điện? Tớ ở nhà cả tối."

"Không quan trọng lắm. Tớ không gọi điện vì tớ nghĩ, hoặc là cậu còn ở văn phòng, hoặc là đã mệt lử nên tớ không muốn quấy. Tối thứ Sáu lại càng không."

Tôi nghĩ lại, hôm qua mình làm gì. Việc duy nhất mà tôi còn nhớ rõ là đã xem phim Dirty Dancing trên kênh TNT, chính xác là lần thứ sáu mươi tám trong đời. Và lần đầu tiên ngủ thiếp đi trước khi đến cảnh Johnny nói "không ai bỏ rơi Baby cả" và đẩy cô ta ngã, và bác sĩ Houseman nói, ông biết Johnny không phải người làm khó cho Penny, rồi vỗ lưng Johnny và hôn Baby và lần đầu tiên Baby lại muốn người ta gọi mình là Frances. Cảnh này tôi vẫn cho là cốt lõi nhất trong phim.

"Ở văn phòng? Cậu nghĩ là tớ còn ở văn phòng? Và thế nào là mệt lử cơ chứ, một khi cậu cần giúp đỡ? Lily, tớ không chấp nhận."

"Thôi, cho qua đi, Andy. Cậu làm việc như điên, ngày lẫn đêm, cuối tuần cũng thế. Và khi nào rỗi rãi thì cậu kêu ca về công việc. Tất nhiên, tớ hiểu quá rõ công việc khốn nạn của cậu ở chỗ con mẹ điên luôn xua cậu chạy khắp thành phố. Tớ không muốn là người quấy quả vào tối thứ Sáu, khi cậu rốt cuộc muốn nghỉ ngơi hay ở bên Alex. Anh ấy nói là hai người hầu như không thấy mặt nhau bao giờ, và tớ không muốn làm vào thời giờ của anh ấy. Nếu thật cấp thiết thì tớ đã gọi cậu và tớ biết là cậu sẽ lao tới ngay. Nhưng tớ nhắc lại để cậu yên tâm, chuyện không ghê gớm lắm. Ta hãy quên đi, okay? Tớ rất mệt, bây giờ chỉ muốn tắm và lên giường thôi."

Tôi sững sờ không nói được lời nào, Lily thì hiểu sự im lặng là đồng tình.

"Cậu còn đó chứ?" Cô hỏi, sau khi tôi im lặng đến nửa phút cố tìm một lời xin lỗi hay giải thích hay nói gì đó. "Này, tớ vừa vào đến nhà. Tớ phải ngủ đã, sẽ gọi lại cho cậu nhé?"

"À, ừ, tất nhiên," tôi gặng nói. "Lily, tớ rất có lỗi. Nếu cậu có cảm giác là cậu không thể..."

"Gượm đã, Andy. Mọi việc đều ổn - với cậu, với hai chúng mình. Ta nói chuyện sau."

"Okay, ngủ ngon nhé. Hãy gọi tớ nếu cần gì..."

"Tớ sẽ gọi. À này, cậu thấy nơi ở mới của bọn mình ra sao?"

"Tuyệt vơi, Lily, rất tuyệt vời. Cậu đã làm việc rất cừ. Tốt hơn tớ mong đợi. Bọn mình nhất định sẽ thích ở đây." Tôi tự thấy giọng mình rỗng tuếch, rõ ràng tôi nói chỉ để mà nói, để giữ Lily bên điện thoại và tự nhủ là tình bạn giữa hai người không bị sứt mẻ một cách vô hình nhưng sâu sắc.

"Rất hay. Tớ cũng vui khi cậu thích. Hy vọng Mr. Xỏ-khuyên-lưỡi cũng thích." Kiểu pha trò của Lily nghe tương đối gượng gạo.

Tôi đứng trong phòng khách và nhìn chòng chọc chiếc điện thoại đến khi mẹ tôi vào. Bà muốn mời tôi và Alex đi ăn trưa.

"Có chuyện gì hả Andy? Lily đâu rồi? Mẹ nghĩ là cũng nên giúp đỡ nó một chút, nhưng ba giờ là bố mẹ phải lên đường rồi. Nó sắp đến chưa?"

"Không, Lily, à, Lily ốm, từ tối qua. Thấy không khỏe từ mấy hôm rồi. Chắc hoãn chuyển nhà sang ngày mai. Nó vừa gọi điện xong."

"Con có chắc là nó ổn không? Hay là mình ghé qua xem sao? Mẹ lúc nào cũng thương nó quá, bố mẹ thì như thế, bà thì già nua gàn dở." Mẹ đặt tay lên vai tôi, khiến tôi còn ngán hơn. "May mà nó có con làm bạn, không thì đúng là thân cô thế cô trên đời này."

Tôi nghẹn họng, mấy giây sau mới cất nên lời: "Vâng, có lẽ thế. Nhưng nó đỡ rồi, ngủ dậy là khỏe thôi. Mình đi mua vài chiếc bánh kẹp nhân đi, được không ạ? Ông thường trực nói cách đây bốn phố có tiệm cà phê bán nhiều đồ ngon lắm."

"Văn phòng Miranda Priestly," tôi nhấc máy với giọng ngán ngẩm mới học được, báo cho người nghe là họ đang cả gan quấy quả tôi trong khi viết email.

"Xin chào, có phải Em-Em-Emily đấy không?" Một giọng cà lăm và ngọng nghịu bên kia đầu dây.

"Không ạ, đây là Andrea, trợ lý mới của Miranda," tôi báo cho người tò mò thứ một nghìn biết.

"A, trợ lý mới của Miranda," giọng người đàn bà lạ rống lên. "Cô gái hạnh phúc nhất th-th-thế giới đấy! Cho đên nay cô thấy công việc của mình ở chỗ mụ yêu tinh ấy như thế nào?"

Tôi vụt tỉnh. Lạ qua. Từ khi làm việc ở Runway đến giờ, tôi chưa thấy một người duy nhất nào dám thóa mạ Miranda như vậy. Bà này nói nghiêm chỉnh, hay định bẫy tôi?

"Hừm, vâng, làm việc ở Runway là một bài học trải nghiệm lớn," tôi nghe chính mình lắp bắp. "Hàng triệu cô gái sẵn sàng xin chết để được nhận việc này đấy ạ." Có đúng là tôi vừa mới nói ra câu ấy?

Im lặng một lát, rồi bà ta rú lên. "Ôi, thật là h-h-hoàn hảo đến kinh tởm!" Bà cười ằng ặc như bị bóp cổ. "Bà ta giam cô vào đó rồi lấy đi mọi đồ G-g-gucci cho đến khi tẩy não xong để cô nói những lời nhảm nhí đó hả? T-t-tuyệt vời quá! Bà này quả là không vừa! Vậy thì, cô gái Bài-học-trải-nghiệm ơi, tôi có nghe đồn là Miranda lần này vớ được một đ-đ-đầy tớ có đầu óc. Nhưng hóa ra tin đồn lại vẫn sai như mọi khi thôi. Chắc cô thích t-t-twinset của Michael Kors và áo lông thú đẹp mắt của J. Mendel chứ gì? Được thôi, bé ngoan ạ. Giờ thì nối máy cho tôi với bà sếp đít tóp của cô đi!"

Tôi bối rối không biết nên làm gì. Ý nghĩ đầu tiên là tôi bảo bà biến đi cho rảnh, bà ta có biết tôi là ai đâu, và rõ ràng là điệu bộ bặm trợn của bà ta chỉ để che lấp chứng cà lăm của mình. Nhưng ý nghĩa thứ hai còn mạnh hơn - ghé miệng sát điện thoại và thì thầm khẩn thiết: "Vâng, tôi là một tù nhân, và còn tệ hơn những gì bà có thể tưởng tượng ra cơ... ôi, xin bà, xin bà hãy tới đây giải thoát tôi khỏi cuộc tẩy não ma quái này. Bà nói đúng, tình cảnh đúng như bà miêu tả. Nhưng tôi thì khác!" Cuối cùng thì cả ý này lẫn ý kia đều không thể thực thi vì tôi kịp nhớ ra là mình không biết ai nấp đằng sau cái giọng cà lăm ở đầu dây kia.

Tôi hừ một hơi dài, quyết định sẽ đả lại từng điểm một - chỉ chừa Miranda ra thôi. "Vâng, tôi rất cảm phục Michael Kors, tất nhiên, nhưng nhất định không vì những bộ twinset của ông ấy. Áo lông thú của J. Mendel thì tuyệt diệu, tất nhiên, song người bên Runway - nghĩa là có gu thẩm mỹ tinh đời và không chê vào đâu được - thì ưa đồ may đo của Pologeorgis ở phố 29 hơn. Vâng, còn trong tương lai tôi sẽ sung sướng hơn nếu bà ưa dùng khái niệm thông dụng nhân viên thay cho chữ đầy tớ, nghe chướng tai và khó chấp nhận lắm. Tất nhiên, tôi sẽ rất hân hạnh được giúp bà sửa lại những phỏng đoán lệch lạc mà bà sẽ còn có, song trước hết tôi xin được phép hỏi đang được hầu chuyện ai thế ạ?"

"Được lắm, trợ lý mới của Miranda, được lắm! Cô và tôi c-c-có thể làm bạn với nhau được đấy. Tôi ch-ch-chẳng ưa gì lũ rôbôt mà bà ấy tuyển dụng, cũng phải thôi, vì tôi cũng không ưa bà ấy. Tôi là Judith Mason, và n-n-nếu cô chưa nghe tên ấy bao giờ: hằng th-th-tháng tôi viết bài về du lịch cho Runway. Giờ thì cô cho tôi biết, vì cô còn khá mới ở đây, tháng trăng mật đã qua chưa?"

Tôi lặng im. Bà ấy ám chỉ gì nhỉ? Có vẻ như một quả bom nổ chậm đang chờ phát hỏa.

"Kìa, cô đang hưởng tình thế tuyệt vời khi mọi người đều biết tên cô trong khi cô chưa biết ai đủ lâu để nhận ra và tận dụng các điểm yếu của họ. Đến l-l-lúc ấy thì mới là thiên đường thực sự, cô cứ tin tôi đi. Cô có một chỗ làm hơi bị đặc biệt đấy."

Trước khi tôi kịp trả lời thì bà nói: "T-t-tán chuyện hôm nay thế là đủ rồi, cô bạn mới quen ạ. Cô đ-đ-đỡ phải nối máy, đằng nào bà ấy cũng chẳng nghe điện của tôi đâu. Tật cà lăm của tôi không êm tai lắm, tôi nghĩ thế. Cô cứ ghi t-t-tên tôi vào bản tin, bà ấy sẽ sai người gọi lại cho tôi. Cám ơn cô b-b-bạn nhé." Cạch.

Tôi ngớ người ra rồi cười phá lên. Emily đang xem danh mục công tác phí của Miranda, cô ngẩng lên hỏi ai vừa gọi điện. Nghe tên Judith, cô trợn tròn mắt và kêu lên: "Bà này là đồ yêu tinh. Thật đấy. Tôi hiểu tại sao Miranda không thể nói chuyện với bà ta lấy một câu. Đằng nào thì Miranda cũng không nhận điện của Judith, chị chỉ cần đưa tên bà ấy vào bản tin là đủ, Miranda sẽ sai ai đó gọi lại." Dường như Judith thông thạo công việc nội bộ văn phòng hơn cả tôi.

Tôi nhắp chuột vào biểu tượng "Bản tin" trên màn hình iMac và xem qua những mục trên đó. "Bản tin" là quân chủ bài cùa văn phòng Miranda Priestly và, trong phạm vi quan sát của tôi, tâm điểm của đời bà. Một cộng tác viên mẫn cán nào đó trước đây mấy năm đã tạo ra văn bản dạng danh sách này để điền các câu hỏi hay tin tức mới vào đó. Chúng tôi in bản mới nhất ra và đính lên bảng treo phía trên bàn giấy của tôi, gỡ bản cũ xuống. Trong ngày, cứ vài phút một lần Miranda xem bản tin, trong khi Emily và tôi bận túi bụi để viết, in và sắp xếp tin song song với các cuộc điện thoại mới. Liên tục một người trong hai chúng tôi giục người kia đóng bản tin để mình còn bổ sung tin mới. Chúng tôi in kết quả trên hai máy in riêng biệt rồi gắn lên bảng, lúc đó mới biết ai là người có tin thời sự nhất.

"Judith là tin mới nhất trên bản tin của tôi," tôi nói, mệt rũ vì áp lực phải làm xong mọi thứ trước khi Miranda tới. Eduardo đã gọi điện từ phòng bảo vệ ở tầng trệt để báo động là bà đang lên tầng. Chỉ còn vài giây nữa là đến tín hiệu báo động lần thứ hai của Sophy.

"Tôi có tin của lễ tân khách sạn Ritz sau tin Judith," Emily gần như reo lên đắc thắng trong khi gắn tờ lên bảng. Tôi đem bản tin bị lạc hậu mất bốn giây của mình về bàn và nhìn lướt qua. Các số điện thoại tách ra bằng dấu chấm chứ không bằng gạch nối. Giữa các số chỉ giờ và phút cũng đánh chấm chứ không phải hai chấm. Thời gian được làm tròn thành từng mười lăm phút. Số điện cần gọi lại ghi vào một cột riêng để có thể đập ngay vào mắt. Các cuộc gọi đến ghi kèm giờ gọi. Trong mục "Ghi chú" là các thông báo của tôi hay Emily gửi Miranda (không được hỏi mà tự dưng đến nói với Miranda là điều cấm kị, vì vậy mọi thông tin quan trọng đều đưa lên bản tin). Mục "Ghi nhớ" bao gồm thông điệp mà Miranda thích gửi cho chúng tôi vào hộp thoại trong khoảng từ một giờ đến năm giờ sáng, với niềm tin chắc chắn là mọi mệnh lệnh ghi lại coi như đã được thi hành. Nếu một trong hai chúng tôi tình cờ được nêu tên trong đó thì hoàn toàn ở ngôi thứ ba.

Bà thường sai chúng tôi tìm ra chính xác bao giờ thì gọi được cho ai theo số nào. Kết quả điều tra của chúng tôi ghi vào mục "Ghi chú" hay "Ghi nhớ" thì chưa nhất trí. Khi mới vào làm, tôi thấy bản tin giống như danh sách "Who's Who" của thế giới Prada, giờ thì não bộ trơ lì của tôi chỉ còn lơ đễnh ghi nhận tên tuổi của những người siêu giàu, siêu mốt và siêu quan trọng. Trong cuộc đời mới của tôi ở Runway thì bà phụ trách lễ tân của Nhà Trắng cũng không hơn gì ông bác sĩ thú y gọi điện hẹn ngày tiêm chủng cho hai con mèo của Miranda (và hân hạnh được bà gọi lại!)

Thứ Năm, 4/8

7.30: Simone gọi điện từ văn phòng Paris. Thống nhất thời điểm chụp ảnh thời trang ở Rio với Mr. Testino và đại diện của Giselle. Muốn bàn về bộ tuyển chọn với bà. Đề nghị gọi lại.

011.33.1.55.91.30.65

8.15: Mr. Tomlonson gọi. Đề nghị gọi lại vào số di động. Ghi chú: Bruce hỏi Andrea: tấm gương lớn ngoài hành lang nhà bà bị thiếu miếng trang trí ở góc trái phía trên, ông ấy đã tìm ra một tấm giương giống hệt trong một của hàng đồ cổ ở Bordeaux. Bà có muốn bảo ông ấy đặt mua không?

8.30: Jonathan Cole gọi. Thứ Bảy sẽ bay sang Melbourn và đợi được nhận nhiệm vụ cụ thể. Đề nghị gọi lại. 555.7700

Ghi nhớ: Gọi Karl Lagerfeld về buổi lễ "Người mẫu của năm" theo số cá nhân ở Biarritz, hôm nay từ 8.00 đến 8.30 tối, giờ địa phương.

011.33.1.55.22.06.78: nhà riêng

011.33.1.55.22.58.29: văn phòng riêng

011.33.1.55.22.92.64: lái xe

011.33.1.55.66.76.33: trợ lý ở Paris trong trường hợp khẩn

9.00: Natalie ở Glorious Fooods hỏi: nhân pho mát mềm Vacherin nên dùng các loại dâu trộn sô cô la hay mứt đại hoàng nóng. Đề nghị gọi lại. 555.9887

9.00: Ingris Sischy gọi chúc mừng nhân số báo tháng Tư. Bìa "rất hấp dẫn, như mọi khi". Muốn biết, ai là người trình bày chân dung khổ lớn ở trang ruột. Đề nghị gọi lại.

555.6246: văn phòng

555.8833: nhà riêng

Ghi chú: Miho Kosudo gọi, xin lỗi không chuyển được bó hoa của Damien Hirst. Nhờ nhắn lại bằng được là họ chờ bốn tiếng trước cửa rồi phải đi về vì không thấy có thường trực. Ngày mai sẽ thử lại lần nữa.

9.15: Mr. Samuels gọi, báo là không có mặt trước bữa trưa, cẩn thận nhắc là tối nay có họp phụ huynh ở Horace Mann. Muốn bàn về bản thuyết trình môn Sử của Caroline trước giờ họp. Đề nghị gọi lại sau 2 giờ, nhưng trước 4 giờ.

9.15: Mr. Tomlinson lại gọi lần nữa. Nhờ Andrea đặt bàn sau cuộc họp phụ huynh. Đề nghị gọi lại vào di động.

Ghi chú: Andrea đã đặt bàn ở La Cravelle cho bà và Mr. Tomlinson lúc 8 giờ tối. Rita Jammed vui mừng được gặp lại bà, hân hạnh được bà chọn nhà hàng của mình.

9.30: Donatella Versace gọi, báo đã tổ chức xong xuôi mọi thứ cho chuyến viếng thăm của bà. Muốn biết là bà còn cần ai thêm ngoài lái xe, đầu bếp, huấn luyện viên, thợ làm tóc và trang điểm, trợ lý riêng, ba cô giúp việc và thuyền trưởng. Nếu cần, đề nghị báo trước khi bà ấy đi Milan. Sẽ chuẩn bị sẵn điện thoại di động. Nhưng không trực tiếp đến được vì còn bận chuẩn bị show.

011.3901.55.27.55.61

9.45: Judth Mason gọi. Đề nghị gọi lại.

555.6834

Tôi vò tờ giấy và ném vào sọt rác dưới gầm bàn. Lập tức nó ngấm đầy mỡ từ gói quà sáng thứ ba của Miranda mà tôi đã quẳng vào. Theo bản tin thì mọi việc trong ngày cho đến giờ diễn biến tương đối bình thường. Tôi và định nhắp vào mục "Inbox" của Hotmail xem có ai gửi thư mới không thì Miranda đi vào. Con bé Sophy thổ tả! Lại quên báo động rồi.

"Tôi hy vọng là bản tin đã cập nhật," bà nói lạnh lẽo, không hề nhìn chúng tôi hay ngó xem chúng tôi có mặt không.

"Vâng ạ, Miranda," tôi trả lời và giơ tờ giấy lên để bà không phải với tay lấy. Ba chữ, và đồng hồ bắt đầu đếm, tôi nghĩ và đoán - cầu nguyện thì đúng hơn - ngày làm việc của mình sẽ không hơn bảy mươi lăm chữ. Bà trút chiếc áo khoác ngắn bằng lông chồn có lớp lông mềm mại làm tôi chỉ muốn ấp mặt vào, và quẳng lên bàn tôi. Tôi mang chiếc áo làm bằng mấy con chồn chết vào tủ tường; khi nén áp má vào lớp lông tôi giật mình cảm thấy có gì lạnh và ướt: những hạt tuyết li ti còn dính trong đó. Thật thích hợp quá chừng.

Rồi tôi nhấc chiếc nắp cốc cà phê sữa âm ấm, cẩn thận dồn thịt mỡ, xúc xích và bánh kẹp pho mát thành một đống mỡ màng trên chiếc đĩa nhem nhuốc. Tôi nhón chân đi vào phòng bà và cẩn thận đặt mọi thứ lên một góc bàn. Miranda đang tập trung ghi chép trên trang giấy viết thư của Dempsey and Carroll và nói dịu dàng như tôi chưa bao giờ được nghe:

"Aan-dree-aa, tôi muốn bàn với chị về lễ đính hôn. Chị lấy sổ ghi chép đi."

Tôi gật đầu và đồng thời nhận ra rằng gật đầu không được coi là một từ. Lễ đính hôn này, ngay bây giờ, đã là nắm đinh đóng vào quan tài của tôi, kể cả khi còn hơn một tháng nữa mới diễn ra. Nhưng Miranda sắp xuất hành sang châu Âu dự show thời trang và vắng mặt hai tuần nên mấy hôm nay Emily và tôi bận bịu chủ yếu với sự kiện vĩ đại này. Tôi mang giấy bút quay vào văn phòng, không hy vọng sẽ hiểu lấy một chữ nào bà sẽ nói ra mồm. Trong một thoáng, tôi định ngồi xuống ghế vì sẽ thuận tiện hơn khi phải ghi chép, nhưng tôi khôn ngoan cưỡng lại.

Bà thở dài não ruột như sắp lăn ra ngất trước những cố gắng phi thường, kéo góc khăn Hermès trắng buộc quanh cổ tay. "Chị liên lạc với Natalie ở Glorious Fooods, nói với bà ấy là tôi ưa mứt đại hoàng hơn. Đừng để bà ấy xin xỏ muốn nói chuyện trực tiếp với tôi, không có lý do gì cần thiết cả. Chị giải thích cho Miho vụ tôi đặt hoa. Về chuyện khăn bàn, thiếp ghi tên chỗ ngồi và khay thì chị nối máy cho tôi với Robert Isabell trước giờ ăn trưa. Ngoài ra phải nói chuyện với bà nhân viên của Whitney, chị bảo bà ấy gửi trước cho tôi sơ đồ kê bàn qua fax để tôi xếp chỗ. Hiện tại thế là hết."

Bà nói tuồn tuột mọi việc trong khi tay không ngừng viết lấy một giây, sau đó đưa tôi tờ giấy đã viết xong để chuyển đi. Tôi ngoáy nốt dòng cuối cùng vào sổ, hy vọng là hiểu đúng mọi thứ bà dặn - với phương ngữ và tốc độ súng máy của bà, quả không đơn giản.

"Okay," tôi lẩm bẩm và quay ra. Tổng cộng số từ mà Miranda nói ngoài công việc: 5. Có thể hôm nay mi sẽ đạt mức dưới 50, tôi nghĩ thầm. Tôi cảm thấy tia mắt của bà đánh giá vòng mông mình trong khi đi ra bàn, cân nhắc xem có nên quay gót đi giật lùi như những người Do thái sùng tín khi rời khỏi Bức tường Than khóc. Không. Thà tôi cố gắng nhẹ nhàng lướt về chỗ ngồi an toàn của mình và tưởng tượng ra hàng nghìn tín đồ Do thái mặc đồ Prada đen chạy giật lùi quanh Miranda Priestly.

12

Rốt cuộc, ngày tràn trề hạnh phúc mà tôi mãi mơ ước đã đến. Miranda không chỉ rời khỏi văn phòng, mà còn ra khỏi biên giới. Gần một tiếng trước đây bà nhảy lên chiếc Concorde đi gặp mấy nhà tạo mốt châu Âu và hiển nhiên biến tôi thành cô gái hạnh phúc nhất trần gian. Emily vẫn cố thuyết phục tôi là Miranda sẽ ra nhiều lệnh hơn khi bà ra nước ngoài, nhưng tôi không tin cô. Giữa lúc hoạch định từng giây phút quý như vàng mà tôi sẽ sống trong hai tuần tới thì có email của Alex.

Cưng có khỏe không? Hy vọng em có một ngày tốt lành. Chắc còn tốt lành hơn khi bà ấy đi khỏi, đúng không? Hãy tận hưởng đi. Anh chỉ định hỏi em có thể gọi cho anh lúc ba rưỡi được không. Anh có một giờ nghỉ trước tiết tập đọc và muốn nói với em một chuyện. Không có gì trọng đại, nhưng anh muốn nói chuyện với em. Yêu em, A

Tôi lập tức thấy lo và viết lại, hỏi có chuyện gì không, nhưng chắc anh đã ra khỏi mạng ngay nên không thấy trả lời gì cả. Tôi ghi nhớ trong đầu là đúng ba rưỡi sẽ gọi điện cho anh. Cảm giác tuyệt vời của tự do khi biết bà ta không có mặt và phá ngang vào chuyện của tôi. Cẩn thận, tôi lấy mảnh giấy của Runway và viết GỌI ĐIỆN CHO A, 3.30 CHIỀU rồi dán vào cạnh màn hình. Vừa định gọi điện cho một cô bạn học cách đây một tuần đã nói vào hộp thoại thì tôi nghe có chuông điện thoại.

"Văn phòng Miranda Priestly," thiếu chút nữa thì tôi thở dài. Bây giờ là lúc tôi không muốn nói chuyện với bất cứ ai trên thế giới này cả.

"Emily, chị đấy à? Emily?" Giọng không lẫn được, nó nói qua đường dây và dường như lan tỏa khắp văn phòng. Từ chỗ mình ở góc bên kia Emily không thể nghe được gì, mặc dù vậy cô ngó qua phía tôi.

"A lô Miranda. Andrea đây. Tôi có thể giúp bà chuyện gì ạ?" Quái quỷ, bà ta mò đâu ra điện thoại nhỉ? Tôi thoăn thoắt điểm lại hành trình mà Emily đã in ra phân phát cho mọi người trong thời gian Miranda vắng mặt. Bà cất cánh chưa đầy sáu phút mà đã gọi từ ghế phi cơ.

"Tôi hy vọng chị có thể. Tôi vừa đọc bản kế hoạch. Lịch hẹn làm tóc và trang điểm trước bữa ăn tối thứ Năm vẫn chưa được khẳng định."

"Vâng, Miranda, lý do là ông Renaud chưa khẳng định chắc chắn được với những người làm hôm thứ Năm, nhưng ông ấy nói là 99 phần trăm sẽ ổn cả, và..."

"Aan-dree-aa, chị trả lời cho tôi: 99 phần trăm có giống như 100 phần trăm không? Có giống như khẳng định chắc chắn không?" Tôi chưa kịp trả lời thì đã nghe bà nói với ai đó, chắc là nhân viên hàng không, rằng bà "không thể quan tâm đến các quy định và hạn chế sử dụng đồ điện tử" và người ta hãy "đem nó đi quấy rầy người khác".

"Nhưng như vậy là vi phạm quy định, thưa quý bà, và tôi xin đề nghị bà tắt điện thoại cho đến khi chúng ta ổn định độ cao. Đơn giản vì rất nguy hiểm," giọng người kia van nài.

"Aan-dree-aa, chị còn nghe tôi không? Chị..."

"Thưa quý bà, tôi buộc phải kiên quyết. Xin bà tắt máy ngay cho!" Cơ miệng tôi sắp bị chuột rút vì cười - tôi hình dung rõ là Miranda ghét bị gọi là "quý bà" ra sao, vì ai cũng biết là người ta chỉ nói vậy với bà già.

"Aan-dree-aa, cô phục vụ này bắt tôi phải cúp máy. Tôi gọi lại, khi cô phục vụ này cho phép. Cho đến lúc ấy chị lo khẳng định lịch hẹn thợ làm tóc và trang điểm đi, và bắt đầu phỏng vấn cô trông trẻ mới đi. Chấm hết." Sau một lần cuối "quý bà" của nhân viên hàng không nói với Miranda là điện thoại tắt.

"Sếp muốn gì?" Emily hỏi, trán dồn nếp nhăn lo lắng thực sự.

"Sếp đã nói đúng tên tôi ba lần liền," tôi hể hả nói, thích thú kéo dài sự nóng ruột của Emily. "Ba lần liền, chị có tin nổi không? Tôi cho rằng đó là khởi đầu một tình bạn tuyệt vời, phải không? Ai dám nghĩ thế cơ chứ? Andrea Sachs và Miranda Priestly - tình bạn bất diệt."

" Andrea, sếp nói gì?"

" À, bà ấy muốn khẳng định chắc chắn lịch hẹn thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm, vì chắn chắn 99% vẫn chưa đủ để yên tâm. Còn chuyện phỏng vấn gì đó với cô trông trẻ mới thì phải, chắc là tôi hiểu nhầm chăng? Ba mươi giây nữa sếp sẽ gọi lại."

Emily hít một hơi thật sâu và cố lấy hết nghị lực để chịu đựng sự ngu xuẩn của tôi. Quả không dễ dàng cho cô. " Không, chị không hiểu nhầm chút nào cả. Sau khi Cara không làm ở chỗ Miranda lâu nữa, tất nhiên là bà cần một cô trông trẻ mới."

" Sao cơ? Không làm ở chỗ Miranda nữa nghĩa là gì? Không ở chỗ Miranda nữa thì ở đâu cơ chứ?" Tôi khó tin là Cara không kể với tôi là cô đột ngột cắt việc.

" Miranda cho là Cara thích làm ở một nơi khác hơn," Emily nói - nhất định là một cách nói ngoại giao hơn từ miệng Miranda. Cứ như Miranda có chút đồng cảm nào với số phận của người khác!

" Emily, tôi xin chị, nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra."

" Tôi hiểu theo lời Caroline là mới đây Cara đã bắt bọn trẻ lên phòng vì chúng cãi lại cô ấy. Miranda thấy Cara tự ra quyết định kiểu ấy là không thích đáng. Tôi hoàn toàn đồng ý với bà trong chuyện này. Nói cho đúng thì Cara không phải là mẹ bọn trẻ, phải không nào?"

Nghĩa là Cara bị sa thải vì cô bắt hai đứa trẻ ngồi phòng sau khi chúng cãi cô? " Vâng, tôi hiểu ý chị. Rõ ràng nghĩ chuyện tương lai của bọn trẻ không phải là nhiệm vụ của người trông trẻ, " tôi gật gù đầy vẻ nghiêm trọng. Cara đã đi quá giới hạn của mình."

Emily không bập vào ý mỉa mai rõ rệt của tôi đã đành, cô còn có vẻ không hề nghi ngờ gì. " Chính xác. Thêm vào đó là Miranda luôn luôn bất bình chuyện Cara không biết tiếng Pháp, làm thế nào bọn trẻ con học nói không bị pha cách phát âm Mỹ được?"

Tôi cũng không biết làm thế nào đây. Bọn trẻ vẫn đi học ở trường tư thục, học phí mỗi năm 18.000 dollar và cả ba giáo viên tiếng Pháp đều nói tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ mà? Mẹ chúng cũng sống nhiều năm ở Pháp, mỗi năm mấy lần qua đó, nói và viết tiếng Pháp hoàn hảo, phát âm cực du dương mà? " Chị nói đúng. Không biết tiếng Pháp không trông trẻ được. Tôi hiểu rồi."

" Ừ, thế nào thì thế, bây giờ chị chịu trách nhiệm tìm một cô trông trẻ mới. Đây là số điện của dịch vụ

mối người vẫn cộng tác với mình," cô nói và gửi qua email sang chỗ tôi. " Họ biết Miranda kỹ tính sao rồi - hàon toàn có lý, tất nhiên - và thường rất cố gắng trong tuyển chọn."

Tôi cảnh giác nhìn cô, không hiểu cuộc đời cô ra sao trước khi biết Miranda Priestly? Tôi mở mắt ngủ một lát, cho đến khi lại có chuông điện thoại. May thay, Emily bắt máy.

" A lô Miranda. Vâng, vâng, tôi nghe rõ. Không. Tuyệt đối không có vấn đề. Thợ làm tóc và trang điểm hôm thứ Năm đã chắc chắn. Và Andrea đã lấy các thông tin đầu tiên về cô trông trẻ. Khi nào về, bà sẽ có ba ứng cử viên tử tế đợi phỏng vấn tuyển chọn." Cô nghiêng đầu, để bút trượt trên môi. " À, vâng. Vâng, khẳng định chắc chắn. Không, không phải 99 phần trăm, 100. Nhất định. Vâng, Miranda. Vâng, chính tay tôi làm việc đó mà, và tôi tin chắc. Mọi người đều hồi hộp đợi . Okay. Chúc bà một chuyến bay tốt đẹp. Vâng, khẳng định rồi. Tôi gửi fax ngay. Okay. Good-bye." Cô đặt máy và toàn thân run lên vì giận dữ.

" Tại sao bà ấy không hiểu ra nhỉ? Tôi nói là lịch hẹn thứ Năm đã được khẳng định. Nhắc lại lần nữa. Tại sao phải nhai đi nhai lại năm mươi lần? Chị có biết bà ấy nói gì không?"

Tôi lắc đầu.

" Chị biết bà ấy nói gì không? Trong khi bà ấy bù đầu vì công việc thì tôi phải viết lại kế hoạch làm việc là lịch hẹn cho thợ làm tóc và trang điểm đã được khẳng định và fax sang khách sạn Ritz để lúc đến nơi là bà ấy có bản kế hoạch đã sửa đúng. Tôi làm tất cả cho bà ấy, hiến cả cuộc đời cho bà ấy, vậy mà phải chịu những lời lẽ như thế?" Trông cô nước mắt lưng tròng. Dù có hồi hộp theo dõi Emily trong cơn giận dữ hi hữu chống lại Miranda, tôi vẫn phải tiếp tục cẩn trọng vì bất cứ lúc nào cũng có thể diễn ra cú thụt vòi kiểu Runway. Bây giờ phải nói đúng giọng: thông cảm, nhưng không hùa vào bè.

" Emily, không phải lỗi chị, hoàn toàn không phải. Miranda biết chị làm việc vất vả ra sao và chị là một trợ lý cừ. Nếu bà ấy không cho rằng chị làm việc tốt thì đã tống chị đi từ lâu rồi. Bình thường ra bà ấy đâu có ngại chuyện đó."

Emily đã chặn xong nước mắt và chuyển sang giai đoạn thách thức, nghĩa là trong thâm tâm cô nhận là tôi đúng, nhưng sẽ bảo vệ Miranda ngay nếu tôi đi quá trớn. Trong môn tâm lý học tôi có nghe giảng về hội chứng Stockholm, khi nạn nhân hòa đồng với thủ phạm, nhưng không bao giờ hiểu rõ thực tế ra sao. Có lẽ khi nào có dịp tôi nên quay video một trong những tiểu cảnh với Emily và tôi rồi gửi cho giáo sư làm tài liệu trực quan dạy sinh viên năm thứ nhất. Tiếp tục cẩn trọng nữa thì quá mệt, tôi lấy hơi và liều bước tiếp.

" Bà ấy điên mà, Emily," tôi nói khẽ và chậm, đợi cô thuận ý mình. " Không phải lỗi chị, mà là lỗi bà ấy. Bà ấy là người rỗng tuếch, nông cạn và cay đắng, có hàng núi quần áo lộng lẫy và cũng chỉ có thế mà thôi."

Vẻ mặt Emily căng lên trông thấy, da má và cổ căng ra như sắp rách và tay cô không còn run nữa. Tôi biết cô sắp nghiền nát tôi bất cứ lúc nào, nhưng không dừng được nữa.

" Chị đã bao giờ thấy bà ấy có bạn bè nào không? Tất nhiên, suốt ngày những nhân vật trọng yếu nhất gọi điện đến, nhưng không phải để nói chuyện với bà về con cái, gia đình hay bố mẹ. Họ gọi vì họ muốn gì đó ở bà. Nhìn từ bên ngoài thì dĩ nhiên cực kì ấn tượng, nhưng chị tưởng tượng xem, mọi người đều gọi điện cho chị vì họ ..."

" Chấm dứt!" Cô hét lên, và nước mắt lại tràn xuống mặt. " Câm ngay mồm đi! Chị bước vào văn phòng này và tưởng mình hiểu hết mọi chuyện. Nàng công chúa chuyên mỉa mai và đứng cao hơn tất cả! Nghe đây, chị không hiểu gì cả, không hiểu tí gì cả!"

" Emily!"

" Không Emily gì cả, Andy, để tôi nói hết. Tôi biết Miranda là người khó tính. Tôi biết đôi khi bà ấy như mất trí. Tôi biết tình trạng không bao giờ được ngủ và luôn sợ bà ấy có thể gọi điện, và không ai trong đám bạn bè mình thông cảm. Tôi biết hết! Nhưng nếu chị thấy thế là đáng ghét, nếu chị không làm gì khác ngoài kêu ca suốt ngày về công việc, về Miranda, và về tất cả mọi người, sao chị không biến đi? Vấn đề thực sự ở đây là quan điểm của chị. Nếu chị bảo Miranda điên, được, còn tôi cho là nhiều người, rất nhiều người nghĩ rằng Miranda có tài và năng khiếu, và bảo chính chị mới là điên vì không bỏ hết sức phụng sự cho người đàn bà kiệt xuất này. Bởi vì bà ấy là người kiệt xuất, Andy, thực sự kiệt xuất."

Tôi cân nhắc một lát và phải công nhận cô nói đúng. Trong tầm đánh giá của tôi, Miranda là một chủ bút thượng hạng. Mỗi bài đưa vào tạp chí đều được bà biên tập từng chữ, và bà không ngần ngại đạp đổ tất cả để bắt đầu lại lần nữa, kệ cho hậu quả ra sao đối với mọi người. Tuy từng biên tập viên thời trang tự quyết định phục trang đem chụp ảnh, nhưng duy nhất Miranda chọn ra toàn bộ quần áo và từng người mẫu. Cả những cộng tác viên phụ trách hình ảnh thật ra cũng chỉ thi hành chính xác và cụ thể yêu cầu của Miranda. Bà nói lời cuối cùng - thường cũng cả lời đầu tiên và lời quyết định - trong mỗi số báo, từ vòng tay, túi xách, giày, phục trang và đầu tóc cho đến bài viết, phỏng vấn, ảnh, người mẫu, cả đến địa điểm chụp hình và thợ nhiếp ảnh. Không nghi ngờ gì, bà đứng ở vị trí tiên phong bảo đảm cho thành công đáng kinh ngạc của Runway, tháng này qua tháng khác. Thiếu Miaranda thì Runway không còn là Runway, không là gì cả, điều đó tôi cũng rõ như mọi người khác. Mặc dù vậy tôi vẫn chưa chấp nhận, tại sao bà có quyền đối xử thô bạo với mọi người như vậy. Bà có đủ tài năng khiến một cô người mẫu châu Á chân dài mắt gườm gườm mang áo dài Balmain trong một ngõ nhỏ ở San Sebastian mà vẫn được kính cẩn tôn sùng, song tại sao năng khiếu ấy cho phép bà không phải chịu trách nhiệm về cách hành xử của mình? Đó là chuyện tôi chưa hiểu nổi, nhưng tôi biết rồi, tôi chỉ là một đứa ngu xuẩn, trái hẳn với Emily.

" Emily, tôi chỉ muốn nói rằng chị là một trợ lý xuất sắc của Miranda, và bà ấy may mắn có được một người làm việc gian khổ và tận tụy như chị. Chị chỉ nên hiểu rằng chị không có lỗi khi bà ấy có gì không hài lòng. Bản chất bà ấy là không hài lòng. Chị đã làm tất cả những gì có thể."

" Tôi biết, tôi biết chứ. Nhưng chị không tôn trọng Miranda đủ mức, Andy. Hãy suy nghĩ lại đi. Bà ấy đã được rất nhiều và đã phải hy sinh rất nhiều, nhưng mọi nhân vật siêu thành công ở mỗi lĩnh vực đều thế cả. Hãy chỉ cho tôi một giám đốc, một đối tác kinh doanh hay một đạo diễn phim nào mà đôi khi không phải tỏ ra khắc nghiệt? Đó là một phần của công việc thôi."

Về chuyện này, có thể nói là chúng tôi sẽ không dung hòa được quan điểm. Rõ ràng là Emily đã hiến mình cho Miranda và Runway và mọi thứ trong đó, còn tôi thì đơn giản không hiểu nổi lý do tại sao. Cô hòan toàn không khác gì hàng trăm trợ lý riêng và trợ lý biên tập và trợ lý phó tổng biên tập và phó tổng biên tập và tổng biên tập khác của tạp chí thời trang. Nhưng dù vậy tôi vẫn chưa hiểu vì sao. Như tôi đã từng trải nghiệm, mỗi người trong số họ đều bị lãnh đạo trực tiếp của mình hạ nhục, đàn áp và hành hạ đủ điều - để rồi lại áp dụng chính những biện pháp đó với những người dưới quyền mình sau khi được thăng chức. Để đến cuối bậc thang dài lê thê và gian khổ họ có thể nói là, ta đã ngồi hàng đầu ở show thời trang của Yves Saint-Laurent và thỉng thoảng vớ được chiếc túi Prada miễn phí?

Đã đến lúc dàn hòa. " Tôi biết," tôi thở dài đầu hàng trước sự cứng đầu của cô. " Tôi hy vọng chị hiểu ra rằng chị làm bà ấy hài lòng khi ôm mấy việc chết tiệt ấy, chứ không phải ngược lại."

Tôi đợi cú phản công tức thì, nhưng Emily chỉ cười. " Chị biết đấy, tôi đã nói với bà ấy cả trăm lần là lịch hẹn hôm thứ Năm đã được khẳng định rồi."

Tôi gật đầu. Trông cô vui vẻ đáng ngờ.

" Tôi đã nói dối trơn tuột. Tôi chẳng gọi ai hay khẳng định chuyện gì hết!" Cô nói như hát.

" Emily, chị nói nghiêm chỉnh đấy chứ? Thế bây giờ chị sẽ làm gì? Chị thề sống thề chết là đã tự tay hàon tất vụ này." Lần đầu tiên từ khi vào làm việc ở Runway tôi muốn ôm chầm lấy cô.

" Andy, nghĩ cho kỹ xem, chị có thật lòng tin là một người còn đủ trí khôn lại lắc đầu khi Miranda gọi làm tóc và trang điểm? Cả sự nghiệp của hắn có thể thăng thiên,ai điên mà bỏ lỡ dịp này. Tôi tin là hắn đã vào kế hoạch từ lâu, có thể chỉ phải thay đổi kế hoạch đi lại hay gì đó. Tôi không khẳng định lại lịch hẹn, vì tôi biết hắn sẽ làm. Hắn chẳng có sự lựa chọn nào khác, vì đó là Miranda Priestly!"

Giờ đến lượt tôi muốn trào nước mắt, song tôi chỉ nói: " Tôi cần biết gì khi tuyển cô trông trẻ mới? Có lẽ tôi nên bắt tay vào việc luôn."

" Ừ," cô đồng ý, rõ ràng đang rất hài lòng với nước cờ thông minh của mình. " Có lẽ là một ý hay đấy."

Cô gái đầu tiên mà tôi phỏng vấn sửng sốt trông thấy.

" Trời ơi!" Cô rú lên khi tôi hỏi trong điện thoại, liệu cô có sắp xếp thời gian đến gặp tôi ở văn phòng. " Trời ơi! Chị có nói thật không? Trời ơi!"

" Hừm, thế nghĩa là có hay không?"

" Trời ơi, có, có, có, có! Ở Runway? Trời ơi! Tôi mà kể cho các bạn tôi thì họ lăn ra chết mất. Chết đứ đừ. Chị nói đi, ở đâu và bao giờ."

" Chị đã hiểu là Miranda đang đi xa và không trực tiếp gặp chị được?"

" Vâng, tôi biết rồi."

" Và chị cũng biết là chị sẽ trông hai con gái của Miranda? Và công việc này không liên quan gì đến Runway cả?"

Cô thở dài như cam chịu một sự thật buồn thảm, khốn khổ. " Vâng, tất nhiên. Trông trẻ, tôi rõ rồi."

Rõ đâu mà rõ. Vì lúc xuất hiện tuy bề ngoài cô ta khá thích hợp với các đòi hỏi ( cao lớn, chải chuốt không chê được, khá đúng mốt , và suy dinh dưỡng nghiêm trọng), nhưng hỏi đi hỏi lại sẽ làm việc ở đâu trong ban biên tập.

Tôi bắn sang một tia mắt chết người, song hình như cô không để ý. " Hừm, chả ở đâu cả. Chị nhớ là ta đã nói chuyện đó rồi chứ? Tôi chỉ được Miranda ủy nhiệm nói chuyện trước, và bây giờ ta đang ở văn phòng thôi. Còn hai đứa song sinh của bà ấy không sống ở đây, chị hiểu chứ?"

" Có chứ, có chứ," cô nói theo, nhưng tôi đã cho cô ra ngoài danh sách.

Ba người tiếp theo của công ty mối người đợi sẵn ngoài khu lễ tân cũng không hơn gì: tuy bề ngoài họ thích ứng với đòi hỏi của Miranda - quả thật công ty biết chính xác nguyện vọng của bà - nhưng không ai trong số họ đủ tin cậy để tôi cho trông giữ đứa cháu tương lai, và đó là tiêu chuẩn mà tôi đặt ra khi chọn người. Một người đã học nuôi dạy trẻ ở Cornell, nhưng khi tôi khéo léo nhắc là việc này hơi khác so với công việc ngày xưa thì cô chỉ trố mắt ra nhìn tôi. Một cô khác từng đi với một cầu thủ bóng rổ nổi tiếng của NBA và qua đó " quen giới nổi tiếng". Khi tôi hỏi cô đã va chạm với con cái những người nổi tiếng bao giờ chưa thì cô bất giác chun mũi và nói, con cái người nổi tiếng " luôn thuộc loại khó tiêu". Gạch tên. Ứng viên thứ ba sáng giá nhất, cô lớn lên ở Manhattan, vừa tốt nghiệp ở Middlebury và muốn làm trông trẻ một năm để kiếm đi du lịch Paris. Nghĩa là cô biết tiếng Pháp? Vâng. Vấn đề duy nhất : cô là người thành phố từ đầu đến chân mà lại không có bằng lái xe. Có nguyện vọng học lái xe không? Không, cô thấy đường sá đã đủ ùn tắc lắm rồi. Số ba thế là cũng bị loại. Thời gian còn lại trong ngày tôi vắt óc tìm cách thể hiện một cách khéo léo cho Miranda biết là một cô gái hấp dẫn, thể thao, thạo cư xử trong giới thượng lưu, nhà ở Manhattan, biết lái xe và biết bơi, có bằng đại học, nói tiếng Pháp và xông xênh giờ giấc thì khó thích hợp làm nghề trông trẻ lắm.

Không hiểu bà có đọc được suy nghĩ của tôi không mà lập tức có chuông điện thoại. Tôi nhẩm tính và biết ngay là Miranda đã xuống sân bay Charles de Gaule. Lịch trình chính xác từng giây mà Emily cẩn thận in ra cho biết Miranda đang trên xe về Ritz.

" Văn phòng Miran..."

" Emily!" Bà rít lên. Tôi khôn hồn nhận ra không phải lúc cải chính, " Emily! Lái xe đưa một chiếc điện thoại khác loại tôi vẫn dùng, có nghĩa là tôi không có một số điện thoại nào cả. Không thể chấp nhận được. Làm sao tôi có thể chỉ đạo công ty từ đây mà lại thiếu danh sách điện thoại được? Chị nối máy cho tôi ngay với ông Lagerfeld."

" Vâng, Miranda, bà đợi một chút." Tôi chuyển bà sang chế độ chờ và gọi Emily cầu cứu, tuy rằng nuốt chửng cả ống nghe điện thoại còn dễ tìm ra Karl Lagerfeld trước khi Miranda nổi cơn lôi đình cắt điện thoại, chỉ để gọi lại ngay lần nữa và hỏi: "Ông ấy đâu rồi? Tại sao chị không tìm thấy ông ấy? Chị không biết sử dụng điện thoại hay sao?"

" Sếp muốn nói chuyện với Karl," tôi gọi Emily. Cái tên khiến cô tức khắc lao vào lục đống giấy tờ trên bàn.

"Okay, nghe đây, mình còn hai mươi đến ba mươi giây nữa. Chị chọn số Biarritz và lái xe, tôi thử gọi Paris và trợ lý," cô nói trong khi tay thoăn thoắt ấn số. Tôi nhắp chuột vào danh sách hơn một nghìn tên mà hai chúng tôi cùng có trong ổ cứng và lấy ra đúng năm số để thử gọi: số chính ở Biarritz, số phụ ở Biarritz, Studio ở Biarritz, bể bơi ở Biarritz, lái xe ở Biarritz. Xem mục " Karl Lagerfeld" tôi biết Emily còn bảy số nữa để thử gọi, ngoài các số khác ở New York và Milan. Chúng tôi sẽ chết trước khi xong việc.

Sau số chính ở Biarritz, tôi đang gọi số phụ thì đèn đỏ ngừng nhấp nháy. Emily thông báo, phòng trường hợp tôi chưa nhận ra, là Miranda đã bỏ máy, mặc dù bà mới đợi mười lăm giây là cùng - nghe chừng hôm nay rất vội. Tất nhiên điện thoại lại réo chuông ngay, tôi nhìn Emily với ánh mắt van nài, và cô rủ lòng thương. Câu chào cũng bị cắt giữa chừng giống như tôi lúc nãy, rồi cô gật đầu đầy vẻ nghiêm trọng và hứa hẹn gì đó với Miranda. Như có phép màu, tôi gọi được đến bể bơi ở Biarritz và gặp một phụ nữ không biết lấy một chữ tiếng Anh bẻ đôi. Nỗi ám ảnh phải nói tiếng Pháp có lẽ là nguyên nhân?

"Vâng, Miranda, vâng, Andrea và tôi vẫn đang gọi thử. Chỉ vài giây nữa thôi. Vâng tôi hiểu mà. Không, tôi biết là rất thất vọng. Nếu tôi được phép chuyển bà sang chế độ chờ, mười giây thôi, nhất định sẽ tìm được ông ấy. Okay?" Cô nhấn nút và lật đật chọn số tiếp. Tôi nghe cô cố gắng lắp bắp bằng thứ tiếng Pháp bồi với ai đó, người ấy xem ra không biết Karl Lagerfeld là ai. Chúng tôi thế là chết. Chết cứng. Tôi toan cắt cú điện thoại với bà người Pháp dở hơi cứ tiếp tục hét om lên trong máy thì đèn đỏ lại tắt.

"Bà ấy đi rồi!" Tôi nghe tiếng mình như tiếng bác sĩ cấp cứu khi xoa bóp tim.

"Nhấc máy đi!" Emily hét và tay vẫn thoăn thoắt bấm số.

Điện thoại đổ chuông.

Tôi nhấc máy và không cần phải mở mồm vì biết rõ ai bên kia đầu dây.

"Aan-dree-aa! Emily! Ai cũng được! Tại sao tôi đang nói với chị chứ không phải với ông Lagerfeld? Tại sao?"

Linh tinh mách bảo tôi hãy im mồm và đợi cho cơn chửi mắng qua đi, nhưng như mọi khi, linh tính của tôi lại sai.

"A lôôô! Có ai đấy không? Chuyển tiếp một cuộc gọi hình như quá khó khăn đối với cả hai trợ lý của tôi hay sao ấy nhỉ?"

"Không phải, tất nhiên không, Miranda. Tôi xin lỗi..." Giọng tôi run rẩy nhưng tôi không sao kiềm chế được. "...nhưng có vẻ như không thể tìm ra ông Lagerfeld. Chúng tôi đã thử gọi đến tám số..."

"Có vẻ như không thể tìm ra," bà nhại lại với giọng chua loét, "Chị nói có vẻ như không thể tìm ra nghĩa là gì?"

Chữ nào trong bảy chữ ấy khiến bà không lĩnh hội được nhỉ? Tôi ngạc nhiên. Có. Vẻ. Như. Không. Thể. Tìm. Ra. Đối với tôi thì quá rõ ràng và chính xác: chúng tôi không tìm thấy thằng cha đó! Vì thế mà bà không thể nói chuyện với hắn được. Nếu bà tìm ra ông ấy thì bà đã tha hồ nói chuyện. Một triệu câu trả lời nanh nọc quay cuồng trong đầu tôi, nhưng tôi chỉ lúng búng như một học trò bị cô giáo phạt vì nói chuyện riêng trong lớp.

"Vâng, Miranda, nghĩa là chúng tôi đã gọi tới tất cả các số có trong danh sách ở văn phòng, nhưng ông ta không có mặt ở bất cứ đâu.:

"Ở đâu được cơ chứ!" Bà nói như hét. Vẻ điềm đạm và lạnh lùng mà bà cố giữ đột nhiên biến mất. Bà lấy hơi một cách cường điệu và nhẹ nhàng tiếp: "Aan-dree-â, chị có biết là tuần này ông Lagerfeld đang ở Paris không?" Tôi cảm thấy như đang ngồi trong lớp dạy tiếng Anh cho người nước ngoài.

"Tất nhiên, Miranda. Emily đã thử hết các số ở..."

"Ngoài ra, chị có biết là ông Lagerfeld đã nói là trong thời gian ở Paris có thể gọi ông vào số di động?" Mỗi sợi cơ trong họng bà cố gắng hết sức để làm cho giọng bà điềm đạm và bình thản.

"À không, trong danh sách điện thoại ở văn phòng không ghi số di động, do vậy chúng tôi không biết là ông Lagerfeld có điện thoại di động. Nhưng Emily vừa gọi được trợ lý của ông ấy và sẽ có số điện thoại ngay." Emily giơ ngón tay ra hiệu cho tôi trước khi ngoáy một dòng ra giấy và liên tục la lên: "Merci, vâng cám ơn, tội định nói là merci!"

"Miranda, tôi có số điện rồi. Tôi nối máy cho bà ngay nhé!" Tôi cảm thấy mũi phồng ra vì tự hào. Làm việc quá giỏi ! Thành tích quá cao trong điều kiện stress ! Chiếc sơ mi dân gian xinh xắn của tôi mà hôm nay hai - không phải một, mà hai - trợ lý thời trang khen ngợi, lúc này đã có hai vết mồ hôi dưới nách, nhưng không sao ! Tôi sắp cho ngay con mẹ điên rồ này ra khỏi cú điện thoại đường dài - hồi hộp thật.

"Aan-dree-aa?" Nghe như một câu hỏi, nhưng tôi chỉ tập trung dò ra quy luật của sự lẫn lộn tên tuổi bừa bãi này. Ban đầu tôi cho là bà cố tình làm thế để chúng tôi tự cảm thấy mình nhỏ nhoi hơn, hèn kém hơn, nhưng rồi tôi nghĩ rằng trong mắt bà chúng tôi đã nhỏ nhoi và hèn kém đủ rồi, do đó bà làm thế vì chẳng thể bận bịu với những chi tiết ngớ ngấn lặt vặt như tên tuổi các trợ lý của mình. Emily khẳng định nghi vấn này của tôi và nói, Miranda gọi cô lúc thì Emily, lúc thì Andrea hay Allison - người tiền nhiệm của cô. Tôi thấy nhẹ người hơn.

"Vâng ạ?" Giọng tôi lại the thé, bực thật! Bao giờ thì tôi giữ được chút tư thế và bản lĩnh trước mặt bà ta.

"Aan-dree-aa, tôi không hiểu việc gì khiến chị phải nhặng xị lên vì số di động của Karl Lagerfeld, tôi có nó đây rồi? Ông ấy đưa tôi trước đây năm phút, nhưng điện thoại bị ngắt và khi tôi bấm số thì lại không được." Bà nói câu cuối, tựa như cả thế giới này - trừ bà ra - là nguyên nhân gây ra sự nhầm lẫn và khó chịu vừa rồi.

"Ồ, thì ra bà có số điện thoại? Và bà biết là suốt buổi có thể gọi ông ấy qua số này?" Tôi hỏi, chỉ vì Emily - nhưng vô hình trung lại chọc tức Miranda thêm.

"Tôi nói chưa đủ rõ hay sao? Nối tôi ngay với số 03.55.23.56.67.89. Ngay lập tức. Hay việc đó quá khó ?"

Emily chầm chậm lắc đầu vẻ nghi hoặc trong khi vò mảnh giấy có số điện thoại mà chúng tôi vất vả mãi mới kiếm được.

"Không, không, Miranda, tất nhiên là không. Tôi nối máy ngay. Một giây thôi". Tôi chuyển sang chế độ hội nghị, chọn số và nghe giọng một người đàn ông lớn tuổi nói "A lô!" và lại bấm nút hội nghị lần nữa. "Ông Lagerfeld đấy, Miranda, tôi nối máy," tôi nói như nữ nhân viên tổng đài vào thời xảy ra những câu chuyện trong phim Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên. Rồi thay vì ấn nút "loa" để tôi và Emily cùng nghe, tôi đặt máy luôn. Mấy phút liền chúng tôi ngồi im lặng và tôi phải rất kìm mình để không chửi um lên, rồi lấy khăn lau mồ hôi trán và chầm chậm hít một hơi thật sâu. Emily lên tiếng đầu tiên.

"Để tôi không hiểu đúng việc này: bà ấy có số điện thoại trong tay nhưng không biết bấm số ra sao?"

"Hoặc có thể không thích bấm số chăng?" Tôi chêm vào, không chịu để tuột mất dịp hợp sức chống lại Miranda vì biết rằng rất hiếm khi có cơ hội làm cùng với Emily.

"Lẽ ra tôi phải biết," cô lắc đầu, cứ như là thất vọng khủng khiếp về chính mình. "Đúng là tôi phải biết mới phải. Bà ấy liên tục gọi tôi để tôi nối máy với những người ở phòng bên hay ngồi trong khách sạn cách đó hai phố. Tôi nhớ là ban đầu tôi thấy chuyện này vô cùng kỳ cục - gọi từ Paris về New York để sai nối máy với ai đó ở Paris. Bây giờ thì đó là chuyện thường, đương nhiên, nhưng khó hiểu là lần này tôi lại không đoán trước có gì xảy ra."

Tôi toan chạy xuống căng tin ăn trưa thì lại có chuông điện thoại. Tin vào lý thuyết Sét-chẳng-đánh-ai-hai-lần, tôi hào hiệp nhấc máy.

"Văn phòng Miranda Priestly."

"Emily! Tôi đứng dầm mưa ở phố Rue de Rivolo và lái xe biến đâu mất. Biến mất! Chị có hiểu tôi không? Biến mất! Chị tìm ông ta ngay cho tôi!" Tôi chưa thấy bà ta ở trạng thái kích động như thế bao giờ.

"Một giây thôi, Miranda. Tôi có số điện thoại của ông ấy đây." Tôi tìm tờ in lịch trình vừa để ra bàn, nhưng chỉ nhìn thấy đủ loại giấy tờ, bản tin lạc hậu và một chồng báo Runway cũ. Chỉ có ba, bốn giây trôi qua, nhưng tôi có cảm giác như đứng cạnh Miranda và ngắm nước mưa xối lên chiếc áo lông Fendi của bà và làm nhòe nhoẹt lớp phấn trên mặt. Bà sẽ giơ tay tát vào mặt tôi và gọi tôi là cục cứt vô dụng, bất tài, vụng về, một kẻ hèn đớn hết chỗ nói. Tôi không có thì giờ để bình tĩnh lại và nhớ ra rằng bà cũng chỉ đơn thuần (về lý thuyết) là một con người, nay đứng trong mưa và đổ giận dữ lên người trợ lý ở cách đó gần sáu nghìn cây số. Không phải tội tôi. Không phải tội tôi. Không phải tội tôi.

"Aan-dree-aa! Tan tành đôi giầy tôi rồi! Chị nghe chứ? Chị có chú ý nghe không đấy? Chị tìm ông lái xe ngay đi!"

Một dự cảm bất thường chực trào lên - trong cổ tôi như có cục gì chặn ngang, cơ gáy cứng đờ, trạng thái dở khóc dở cười, và khóc hay cười đều dở. Chắc Emily linh cảm được điều gì, cô đứng phắt lên và trao cho tôi tờ lịch trình. Thậm chí cô đã đánh dấu ba số điện thoại của lái xe: số trong ôtô, số di động và số nhà riêng.

"Miranda, tôi phải để bà đợi một giây để gọi cho lái xe. Được không ạ?" Tôi chẳng đợi câu trả lời, tuy biết bà sẽ phát điên, và chuyển sang chế độ chờ rồi gọi Paris lần nữa. May mà ông lái xe nhận điện ngay khi tôi bấm số đầu tiên và chuông reo lần đầu tiên. Rủi quá, ông không biết tiếng Anh. Tôi chưa bao giờ có hành động hủy hoại mình, nhưng lúc đó không biết làm gì hơn là dập trán mình xuống mặt bàn. Sau ba cú dập thì Emily chuyển cuộc gọi sang bàn mình. Cô chuyển sang hét, không phải vì mong ông lái xe qua đó có thể hiểu tốt hơn thứ tiếng Pháp dở ẹc của mình, mà để ông nhận ra mức nghiêm trọng của tình thế. Lái xe mới luôn luôn cần một chút dạy dỗ, đặc biệt là phải dạy họ quên ngay lập luận ngớ ngẩn là cứ để Miranda đợi bốn mươi lăm giây hay một phút, bà ấy không chết ngay đâu mà sợ! Chính xác đó là cái khiến Emily và tôi phải cho họ mở mắt ra.

Sau khi Emily cho ông lái xe nghe đủ những lời nhục mạ để ông vội phi về nơi ông thả Miranda xuống trước đó ba, bốn phút, chúng tôi gục đầu xuống bàn. Tôi hết cả đói bụng, và lấy làm ngạc nhiên. Phải chăng chứng bệnh Runway đã lây sang tôi? Hay chất adrenaline và thần kinh hợp sức chặn cơn đói? Đúng rồi! Bệnh gầy ở Runway không xuất phát từ ý chí, mà đơn thuần là phản ứng cơ thể trước sự khủng bố triền miên và không khí phiền muộn đè lên bao tử. Tôi dự định sẽ nghiên cứu hiện tượng này kỹ hơn; rất có thể Miranda tinh ranh hơn tôi nghĩ và chú ý biến thành một con quỷ để hù mọi người cho gầy nhom đi.

"Ơ kìa các quý bà! Ngẩng đầu lên nào! Quý bà có thể tưởng tượng Miranda nhìn thấy mình ngay lúc này không? Bà ấy sẽ không vui đâu!" James líu lo ngoài hành lang. Anh xịt một thứ gôm gì đó cho tóc lật ra sau, mốt này tên là "Đầu giường" (Tên rất choáng, ai mà cưỡng lại được?"), và mặc một kiểu áo cầu thủ bóng đá bó sát người in số 69 ở ngực và lưng. Hiện thân của sự tinh tế và khiêm nhường, như mọi khi.

Hai chúng tôi không thèm nhìn anh. Đồng hồ mới chỉ bốn giờ, theo cảm giác thì đã nửa đêm.

"Okay, để tôi đoán nhé. Mẹ già gọi điện liên tục vì mẹ đánh mất bông tai ở đâu đó giữa Ritz và Alain Ducase, mẹ sai các chị tìm ngay về, kể cả khi các chị đang ở New York chứ không phải Paris."

Tôi khịt mũi. "Anh tưởng là vì chuyện vặt ấy mà chúng tôi khốn khổ thế này à? Đó là việc của chúng tôi. Ngày nào cũng làm. Nghĩ ra thứ gì hay hơn đi."

Thậm chí Emily cũng cười. "Thật đấy, James, thế chưa đủ. Một bông tai thì bất cứ thành phố nào trên thế giới tôi cũng chỉ tìm thấy sau mười phút," cô nói, mặt mũi chợt vui vẻ hẳn lên vì những lý do mà tôi không hiểu nổi. "Chỉ đáng gọi là một thử thách, nếu sếp không nói là đánh mất ở thành phố nào. Nhưng tôi cuộc là rồi chúng tôi cũng làm được."

James làm ra vẻ sợ hãi và đi giật lùi ra khỏi văn phòng. "Tốt thôi, chúc các quý bà một ngày đẹp nhé! Ít nhất thì sếp cũng chưa làm quý bà gục hẳn. Tôi khuyên các quý bà hãy cảm ơn Chúa về chuyện đó, các quý bà trông còn vượng sắc lắm. Tạm biệt..."

"CHỚ VỘI VÃ THẾ, CẬU ĐỒNG CÔ!" Ai đó hét rất to ngoài hành lang, giọng the thé. "TÔI BẢO CẬU QUAY TRỞ LẠI NGAY VÀ NÓI CHO CÁC CÔ GÁI BIẾT, CẬU NGHĨ GÌ KHI MẶC LÊN NGƯỜI THỨ GIẺ RÁCH NÀY SÁNG SỚM NAY!" Nigel véo tai trái của James và kéo anh ta đến giữ hai bàn chúng tôi.

"Kìa, Nigel." James rên rỉ và làm ra vẻ bực bội, song anh thích thú ra mặt khi được Nigel tóm. "Anh cũng ưa cái áo của tôi đấy chứ!"

"ƯA CÁI ÁO NÀY? CẬU NGHĨ LÀ TÔI ƯA CÁI KIỂU ĐỒ THỂ THAO SẶC MÙI MỒ HÔI MÀ CẬU ĐANG MẶC À? JAMES, CẬU PHẢI NGHĨ LẠI ĐI, OKAY, OKAY?"

"Áo bóng đá mặc bó thì có gì sai? Tôi thấy nó rất hot." Emily và tôi gật đầu, hùa về phe James. Có thể chiếc áo không hẳn đại diện cho thẩm mỹ cao, nhưng James mặc trông cực sành điệu. Ngoài ra thì, kể cũng khá khó tiêu khi được một người góp ý về mốt mà người này mang quần bò may bó in sọc ngựa vằn, áp pull đen cổ chữ V và sau lưng có trổ hình lỗ khóa để hở cơ lưng cuồn cuộn, đi kèm mũ cói và một vệt thoang thoảng (tôi công nhận là rất khéo!) kẻ mắt bằng phấn đen.

"CẬU BÉ, THỜI TRANG KHÔNG SINH RA ĐỂ CẬU TRƯNG SỞ THÍCH TÌNH DỤC CỦA MÌNH LÊN ÁO. KHÔNG, KHÔNG, KHÔNG PHẢI THẾ. CẬU MUỐN KHOE MỘT ÍT DA THỊT? HOT ĐẤY. CẬU MUỐN KHOE MỘT CHÚT ĐƯỜNG CONG GỢI CẢM CỦA TUỔI TRẺ? HOT ĐẤY. NHƯNG QUẦN ÁO KHÔNG PHẢI LÀ NƠI CẬU NÓI CHO MỌI NGƯỜI BIẾT CẬU THÍCH LÀM TÌNH Ở TƯ THẾ NÀO. BẠN ƠI, GIỜ ĐÃ HIỂU CHƯA?"

"Được, Nigel," James đóng vai kẻ thua trận rất thuyết phục để không lộ ra rằng anh rất thích được Nigel chú ý quan tâm.

"ĐỪNG GỌI TÔI LÀ NIGEL, CƯNG ƠI, GIỜ THÌ BIẾN RA CHỖ JEFFY NGAY. NÓI LÀ TÔI CỬ CẬU ĐẾN, VÀ JEFFY HÃY ĐƯA CHO CẬU CÁI ÁO QUÂY KIỂU MỚI CỦA CALVIN MÀ CHÚNG TÔI ĐẶT MUA ĐỂ ĐI CHỤP ẢNH Ở MIAMI, THỨ ĐỒ CHO CÔ NGƯỜI MẪU XINH ĐẸP MẶC ẤY. LẠY CHÚA, THẰNG CHA NÀY NGON QUÁ, NHƯ THANH SÔ CÔ LA SỮA VẬY. ĐI ĐI NÀO, VÀ NHỚ QUAY VỀ CHO TÔI XEM."

James chạy vụt đi như một con thỏ đồ chơi vừa được lên giây cót và Nigel lại quay sang với chúng tôi. "CÁC CÔ ĐÃ GỬI PHIẾU ĐẶT ĐỒ CHO BÀ ẤY CHƯA?"

"Không, sếp chưa muốn chọn trước khi nhận được catalog." Emily chán nản đáp. "Sếp nói là hôm nào quay về đặt cũng chưa muộn."

"ĐƯỢC, NHỚ CHO TÔI BIẾT TIN SỚM ĐỂ TÔI THỐNG NHẤT CHƯƠNG TRÌNH DẠ HỘI." Ông đi ra kho quần áo, chắc để chộp được James.

Tôi đã từng trải qua quá trình đặt quần áo cho Miranda, quả là không sung sướng gì. Ở các buổi trình diễn thời trang, bà đi đi lại lại giữa các sàn diễn với cuốn sổ ghi chép, qua đó chuẩn bị buổi diễn hoành tráng tại sân khấu duy nhất có trọng lượng Runway, nơi bà cho xã hội New York biết là trong mùa tới phải mặc gì, và giới trung lưu Mỹ muốn được mặc gì. Hồi đó tôi chưa linh cảm được rằng Miranda sở dĩ chú ý theo dõi các mốt trên sàn diễn đến thế, một phần cũng vì ở đó lần đầu tiên bà nhìn thấy những gì chính bà sẽ mặc trong mấy tháng tới.

Sau khi Miranda quay về văn phòng được mấy tuần, Emily được bà đưa danh sách các nhà tạo mốt mà bà muốn xem catalog : những người thuộc diện xét chọn vội cuống lên để nộp sách cho bà, trong khi ảnh chụp thời trang đôi khi còn chưa kịp rửa chứ chưa nói đến chuyện tút sửa và tập hợp thành sách sưu tập mẫu. Trong lúc đó toàn bộ nhân sự của Runway đứng nghiêm sẵn sàng đợi bộ catalog. Đứng đầu dĩ nhiên là Nigel, với nhiệm vụ thẩm định chung và chọn đồ riêng cho Miranda. Nếu cần, ông lấy thêm một người ở bộ phận phụ kiện giúp ông chọn giày và túi tương thích, đôi khi cả một biên tập viên thời trang cử đến để thống nhất kết luận, nhất là khi có hàng trọng lượng hơn như măng tô lông thú hay áo dài dạ hội. Khi các ban phòng đã tập hợp tất cả những hàng được đặt thành một tổng thể thuyết phục thì thợ may riêng của Miranda đóng đô tại Runway mấy ngày liền để sửa những gì cần thiết. Không ai lấy được đồ ra nữa vì Jeffy đã dọn toàn bộ kho quần áo để Miranda và thợ may chiếm toàn bộ phòng. Lần thử áo đầu tiên, tình cờ tôi đi qua và nghe Nigel rống lên: "MIRANDA PRIESTLY! VỨT NGAY CÁI GIẺ RÁCH ẤY XUỐNG! MẶC ĐỒ ĐÓ BÀ TRÔNG NHƯ CON NGỢM, NHƯ MỘT CON CAVE RẺ TIỀN!" Tôi dán tai vào cánh cửa để nghe - liều vô cùng vì cửa có thể bật ra bất cứ lúc nào - cốt chỉ để chứng kiến cảnh bà ta hạ nhục Nigel theo kiểu rất riêng không ai bắt chước được. Thay vào đó, tôi không nghe thấy gì ngoài lời làu bàu đồng ý và tiếng quần áo sột soạt kéo qua đầu.

Đến giờ thì tôi đã phục vụ Miranda được một thời gian, dường như niềm hân hạnh được đặt quần áo mới cho bà sẽ chuyển sang tôi. Mỗi năm bốn lần, chính xác như máy đồng hồ, bà giở xem các catalog hàng mẫu, tựa như chúng chỉ in ra cho riêng bà, và chọn đồ bộ của Alexander McQueen và quần của Balenciaga như người ta chọn rau ở siêu thị. Một mảnh giấy vàng dính vào chiếc quần vải thun cắt bó của Fendi, một mảnh nữa vào giữa bộ đồ của Chanel, mảnh thứ ba với chữ "KHÔNG" to đùng dán đè lên chiếc áo quây bằng lụa. Cứ thế tiếp tục, trang này qua trang khác, mảnh giấy này tiếp mảnh giấy kia, cho đến khi toàn bộ trang phục cho mùa tới được bà chọn xong, trực tiếp từ sàn diễn - nhiều thứ thậm chí còn chưa may xong.

Tôi đã quan sát Emily khi fax đơn đặt hàng cho Miranda đến các nhà tạo mốt khác nhau. Cột để điền cỡ và màu bao giờ cũng để trống. Ai biết giá trị Manolo của mình thì cũng phải biết Miranda ưa loại nào. Nhưng chỉ chọn đúng cỡ thì chưa xong - khi mọi thứ chuyển tới Runway, chúng đều phải cắt ngắn hay chiết bớt để trông như đồ may đo. Khi toàn bộ trang phục đã đặt, gửi đến, chữa lại cho vừa khít và được lái xe riêng chở bằng Limousine đến nhà thì Miranda mới nhả đồ của mùa cũ ra: lúc văn phòng chất đầy túi rác đựng đồ Yves, Celine và Helmut Lang. Đồ cũ nhất từ bốn đến sáu tháng, giỏi lắm mới được mặc một, hai lần hoặc chưa bao giờ đụng đến người, và tất cả đều thời trang kinh khủng đến nỗi đôi khi cũng chưa có mà mua ở đa số các cửa hàng. Nhưng đối với Miranda, nếu đó là đồ của mùa trước thì chúng chỉ có giá trị như đồ ăn thiu.

Năm thì mười họa tôi cũng kiếm được thứ mặc vừa, một chiếc áo quây hay áo khoác ngoại cỡ, nhưng nói chung không có nhiều triển vọng vì mọi thứ đều cỡ 32. Thường là chúng tôi phân phát đồ này đến người quen có con gái dưới 12 tuổi là những người duy nhất khả dĩ mặc vừa. Tôi tưởng tượng ra cảnh những đứa bé gái với thân hình con trai vung vinh đi lại trong chiếc váy Prada hay áo hai dây quyến rũ của Dolce & Gabbana. Nếu thấy được một thứ gì thực sự thời thượng thì tôi giải phóng nó khỏi túi rác và cất xuống dưới bàn, đợi đến khi lén lút đem ra được khỏi văn phòng. Chỉ cần đảo nhanh vài lần vào trang eBay hay tạt vào mấy cửa hàng đồ cũ sang trọng ở đại lộ Madison là tôi đã cải thiện đồng lương còm của mình được chút đỉnh rồi. Không phải là ăn trộm, tôi nghĩ thế, mà là sử dụng tài sản được giao phó một cách có ích.

Miranda còn gọi điện sáu cuộc nữa giữa sáu và chín giờ tối - đối với bà thì nửa đêm là ba giờ sáng - để sai nối máy với một số người đã đến Paris từ lâu. Tôi hờ hững thi hành, không có gì trục trặc lớn, rồi xếp đồ đạc để chuồn nhanh trước khi điện thoại réo chuông. Mãi đến khi mệt mỏi khoác măng tô lên người, tôi mới chợt thấy mảnh giấy mà tôi đã dán cạnh màn hình để không thể quên được - nhưng rồi vẫn cứ quên: "GỌI ĐIỆN CHO A, 3.30 CHIỀU". Đầu óc tôi chợt chao đảo, kính áp tròng đã từ lâu khô quắt lại thành hai miếng thủy tinh nhỏ tí cứng quèo, và bây giờ còn thêm tiếng mạch đập thình thịch trong đầu. Không phải đau nhói, chỉ là cảm giác khó ở ngột ngạt không rõ ở đâu, nhưng lờ mờ, nghiệt ngã, ngày càng rõ hơn cho đến khi nó thương hại khiến tôi ngất xỉu đi hay làm vỡ bung đầu ra. Mê muội vì những cuộc điện thoại xuyên lục địa và cuống cuồng lo sợ mà tôi quên dành ba mươi giây để làm cái việc Alex nhờ. Đơn giản là quên bẵng đi một việc dễ dàng như gọi lại cho một người chua bao giờ cần đến mình chuyện gì cả.

Tôi ngồi xuống bên bàn trong văn phòng quạnh quẽ và tối đèn và cầm lấy ống nghe còn nhớp dính mồ hôi bởi cuộc nói chuyện với Miranda cách đây ít phút. Điện thoại ở nhà Alex rung chuông rất lâu rồi bật sang ghi âm, nhưng gọi di động thì Alex bắt điện ngay.

"Chào em." Anh nhìn số máy hiện lên và biết tôi gọi. "Hôm nay ra sao?"

"Như mọi hôm thôi, không quan trọng. Alex, em muốn xin lỗi là lúc ba rưỡi không gọi lại cho anh. Em không nên bắt đầu giải thích thì hơn, ở đây như một trại điên, bà ấy liên tục gọi điện và..."

"Thôi được rồi, không có gì ghê gớm cả. Em này, hiện tại không tiện lắm. Mai em gọi anh được không?" Có vẻ như anh không tập trung, giọng anh nghe xa lắc như gọi từ bốt điện thoại công cộng ở một làng ven biển đầu kia thế giới.

"À, vâng, nhưng mọi việc okay cả chứ? Anh muốn nói nhanh nhanh cho em biết anh định nói gì lúc chiều à? Em thực sự lo là có chuyện không ổn."

Anh im lặng một lát rồi nói: "Nhưng thật ra anh không thấy em có vẻ lo lắng. Anh nhờ em một lần duy nhất là gọi cho anh vào một giờ thuận tiện cho anh - chưa kể là sếp em đang ở nước ngoài - nhưng em không làm được trước sáu tiếng. Không thực sự là dấu hiệu cho thấy em quan tâm, đúng không?" Giọng anh không có chút mỉa mai hay chê trách, anh chỉ tổng hợp các sự kiện.

Tôi cuốn dây điện thoại quanh ngón tay đến khi nghẽn máu, khớp xương lồi lên và đầu ngón tay trắng bợt, lưỡi tôi chợt có vị mặn: tôi đã cắn môi đến bật máu.

"Không, không phải em quên," tôi nói dối để tránh lời cáo trạng chưa nói ra, "em chỉ không rỗi lấy một giây, và không muốn vừa nhấc máy lên gọi đã bị cắt ngay. Em muốn nói là bà ấy gọi em chiều nay tối thiểu hai chục lần, lần nào cũng có chuyện khẩn cả. Emily về nhà lúc năm giờ và để em lại một mình với chiếc điện thoại. Miranda thì gọi điện không nghỉ lấy một phút. Cứ mỗi lần em định gọi cho anh thì bà ấy lại xuất hiện ở máy kia. Em, anh biết đấy..."

Những lời xin lỗi như bắn súng máy nghe rất thảm hại, ngay cả với tôi, nhưng tôi không ngừng lại được. Alex biết rõ cũng như chính tôi ở chỗ đơn giản là tôi quên bẵng việc này. Không phải vì anh không quan trọng trong tôi, mà vì tất cả những gì không liên quan tới Miranda đột nhiên vô nghĩa khi tôi vào đến văn phòng. Ở khía cạnh nào đó, bản thân tôi cũng không hiểu nổi. Lại càng không thể giải thích cho người ngoài, nói gì đến chuyện hy vọng họ sẽ thông cảm là thế giới này ngoài chẳng còn gì quan trọng nữa. Đặc biệt phức tạp khi đó chính là chuyện mà tôi ghét nhất, huống hồ là những người quan trọng nhất đời tôi.

"Này, anh phải quay ra chỗ Joey và hai đứa bạn nó kẻo chúng nó phá tan nhà cửa ra mất."

"Joey? Anh đang ở Larchmont à? Bình thường anh có phải trông nó vào thứ Tư đâu ? Mọi việc ổn cả chứ? " Hy vọng với câu hỏi thăm mà tôi nghĩ là thân thiện này sẽ đánh lạc hướng anh khỏi chuyện rành rành là sáu tiếng liền tôi không nghĩ đến gì khác ngoài công việc của mình. Anh sẽ kể cho tôi nghe là mẹ anh bận gì đó ở chỗ làm, hoặc phải đi họp phụ huynh, và người trông trẻ mọi hôm không thể đến được, Alex không có thói than phiền, nhưng ít nhất cũng kể cho tôi nghe chuyện gì xảy ra

"Ổn cả, ổn cả, mẹ anh chỉ phải đi họp gấp, Andy, bây giờ anh không thể nói lâu hơn. Anh chỉ định báo cho em một tin mừng, nhưng em không gọi lại," anh nói không chút biểu cảm.

Dây điện thoại thắt chặt quanh ngón giữa và ngón trỏ đến nỗi máu đập thình thịch. "Em xin lỗi," tôi không nói được gì hơn. Đúng, anh nói đúng, tôi thật vô cảm khi quên gọi lại cho anh, nhưng bây giờ thì tôi quá mệt mỏi để nghĩ ra chiến lược tự vệ phức tạp nào khác. "Alex, em xin anh, đừng làm thế. Anh có biết là từ bao lâu rồi không có ai đem lại cho em một tin mừng trong điện thoại không? Anh nói đi!" Tôi biết là anh không thể từ chối một lời đề nghị hợp lý như thế, và quả nhiên.

"Có gì kinh khủng lắm đâu. Anh tổ chức xong mọi thứ cho cuộc họp mặt bạn cũ đầu tiên của chúng mình."

"Gì cơ? Thật hả? Chúng mình sẽ đi?" Thỉnh thoảng tôi vẫn hay hỏi anh - một cách hờ hững và qua loa, như tôi cố ra vẻ thế - liệu chúng tôi có cùng nhau đến cuộc họp mặt cựu sinh viên, nhưng Alex không trả lời chắc chắn, một chuyện khá lạ, và không muốn quyết định rõ. Tuy hãy còn quá sớm để lập kế hoạch, nhưng khách sạn và nhà hàng ở Providence thường bị đặt chỗ hết trước vài tháng. Cuối cùng, trước đây vài tuần tôi quên đề tài này đi và nghĩ rồi cũng sẽ tìm được chỗ nào đó. Còn Alex hẳn nhiên là nhận ra tôi cực kỳ muốn cùng anh đến đó, và đã lo hết mọi chuyện.

"Ừ, chuyện xong hết rồi. Mình có một chiếc xe thuê, một chiếc jeep nhé, anh đã đặt một phòng ở Biltmore."

"Biltmore! Anh không đùa đấy chứ? Anh lấy được phòng ở Biltmore? Không thể tin nổi."

"Em vẫn hay nói em muốn ở đấy một lần mà, thế là anh thử. Thậm chí anh còn đặt một bàn lớn cho mười người ăn sáng ở Al Forno. Anh và em có thể cùng lúc mời các bạn mình đến."

"Không thể tin nổi. Anh đã lo mọi thứ xong cả rồi?"

"Tất nhiên. Anh cũng muốn kể cho em và chứng kiến emnhảy cẫng lên ra sao, nhưng em chắc là quá bận bịu nên không gọi lại được."

"Alex, em vui quá đi mất. Em không biết phải nói gì, và không thể tin là anh đã tổ chức xong mọi thứ. Tha lỗi cho em lúc nãy, nhưng em chỉ muốn tháng Mười đến ngay thôi. Mình sẽ có một kỳ cuối tuần tuyệt vời, đó là công của anh."

Chúng tôi còn nói mấy phút nữa, và khi đặt máy thì anh không có vẻ bực mình nữa. Bù lại thì tôi không muốn động đậy tay chân vì mệt. Kết quả của mọi nỗ lực để dàn hòa với anh, để tìm lời thuyết phục anh rằng không phải vì coi thường anh mà tôi không gọi điện, song cũng để tỏ lòng hàm ơn và vui sướng. Tôi không nhớ đã ra đến ô tô ra sao và có thân thiện chào hỏi Mr. Fisher ở tiền sảnh hay không. Tôi kiệt quệ đến tận xương tủy, kiệt quệ đến nỗi lại thấy lòng mình gần như thanh thản, và nhẹ cả người khi thấy cửa phòng Lily đã đóng, không thấy cả vệt đèn dưới cửa. Tôi ngẫm nghĩ có nên gọi đồ ăn, nhưng nghĩ đến chuyện đi tìm thực đơn và điện thoại đã thấy ớn - lại một bữa ăn bị bỏ qua.

Thay vì ăn, tôi ngồi phệt xuống ban công sứt sẹo bê tông và không bàn ghế, ngon lành rít một điếu thuốc. Tôi không còn đủ sức mà phả khói ra, cứ để nó tự bay khỏi miệng. Một lúc sau có tiếng mở cửa và Lily loẹt quẹt ra hành lang. Tôi nhanh tay tắt đèn và ngồi trong bóng tối. Nói luôn mồm mười lăm tiếng liền, thế là đủ rồi.

Chap 13

"Cho vào làm," Miranda hạ lệnh sau khi nói chuyện với Annabelle - người thứ mười hai được tôi phỏng vấn và là một trong hai người tôi thấy xứng đáng giới thiệu cho Miranda. Annabelle là người Pháp (cô nói tiếng Anh ít đến nỗi hai đứa song sinh phải phiên dịch cho tôi nghe), có bằng tốt nghiệp Sorbonne, cao lớn, gân guốc, tóc nâu tuyệt đẹp. Ngoài ra có phong thái. Cô không ngại kiểu hiện diện sống sượng của Miranda lẫn đòi hỏi phải đi bốt cao gót đi làm. Bản thân cô cũng lạnh và sống sượng, tránh nhìn thẳng vào mắt người đối diện, luôn tỏ ra hơi chán chường và lãnh đạm, và rất tự tin. Tôi rất mừng khi Miranda chọn cô, thứ nhất vì tôi không phải mất hàng tuần lễ để thử các ứng cử viên có hợp nghề trông trẻ, và thứ hai, tôi coi đó là dấu hiệu le lói chứng tỏ tôi đã nhận ra đường đi lối lại.

Đường đi lối lại nào, tôi cũng chưa chắc lắm, nhưng hiện tại mọi việc đều trót lọt như ý. Quần áo tôi đã đặt xong, không phạm phải lỗi gì đáng kể. Miranda không điên tiết lên khi tôi đưa những thứ bà đặt ở Givenchy và lỡ mồm phát âm cái tên đó như tiếng Tàu. Nhưng sau khi lườm sắc lẹm và tung ra vài câu bình phẩm độc địa thì bà cũng dạy tôi phát âm cho chuẩn, mọi việc đều ổn cả, cho đến lúc ai đó phải báo với bà là chỗ hàng đặt ở Robert Cavalli chưa được sản xuất và phải ba tuần nữa mới có. Nhưng vụ này tôi cũng khắc phục xong, sắp xếp cả lịch hẹn thử đồ với thợ may riêng của bà ở kho quần áo, sau đó đưa toàn bộ chỗ quần áo về nhà bà, đưa vào phòng quần áo nổi tiếng, to như một căn hộ độc thân.

Kế hoạch chuẩn bị dạ hội vẫn tiến triển trong khi Miranda vắng mặt, từ khi bà về thì tăng tốc gấp bội, chỉ ngạc nhiên là không gây ra sự kinh hoàng nào lớn - có vẻ như mọi việc đều xong xuôi để thứ Sáu tới có thể diễn ra trôi chảy. Trong lúc Miranda còn ở châu Âu, Channel đưa đến một chiếc áo đỏ dài đến gót, cắt bó, đính cườm, đẹp như trong mộng. Tôi đưa ngay sang bên giặt là để họ hoàn tất những nét cuối cùng. Tôi có thấy trong số tháng trước của Thời trang Phụ nữ Hằng ngày một chiếc áo dài tương tự màu đen; khi nghe tôi nhắc chuyện đó, Emily gật đầu đầy vẻ bí hiểm.

"Bốn mươi nghìn dollar," cô nói và lúc lắc đầu như một mụ già, trong khi nhắp chuột vào một chiếc quần đen trên trang "style.com" để kiếm ý tưởng cho chuyến đi châu Âu sắp tới với Miranda.

"Bốn mươi nghìn GÌ?"

"Áo dài của sếp. Cái màu đỏ của Chanel. Giá ở hiệu là bốn mươi nghìn dollar. Miranda tất nhiên không trả giá ấy, nhưng chắc họ cũng chẳng biếu không đâu. Kinh khủng thật đấy nhỉ."

"Bốn mươi nghìn DOLLAR?" Tôi hỏi lại lần nữa. Không tưởng tượng được là trước đây mấy phút tôi mang trên tay một sản phẩm độc bản giá trị đến thế. Bất giác tôi mường tượng ý nghĩa của nó - bốn trăm tờ: học phí của hai năm đại học, vốn cơ bản cho một ngôi nhà, thu nhập trung bình mỗi năm của một gia đình bốn người ở Mỹ. Hay nếu không chí ít là: một núi túi xách Prada. Nhưng nếu chỉ là một chiếc áo dài duy nhất thì quả là tột đỉnh, tôi nghĩ bụng, song đòn tiếp theo mới thật là trời giáng, khi bên giặt là đưa trả áo dài. Trong phong bì với hàng chữ bay bướm Ms. Miranda Priestly là một tấm thiếp màu kem, viết tay nắn nót:

Loại: Áo dài. Designer: Chanel. Dài: mắt cá. Màu: đỏ. Cỡ: 32. Đặc điểm: đính cườm (thủ công), không tay, cổ xẻ chữ U, khóa kéo bên sườn may ẩn, lót tơ tằm dày. Việc: Giặt là lần đầu. Phí: 670$.

Kèm theo hóa đơn là một bức thư riêng của bà phụ trách, tôi tin là bà trả góp cửa hàng và căn hộ của mình chỉ bằng lệ phí giặt là mà chứng nghiện sạch sẽ Miranda đem lại:

Chúng tôi rất hân hạnh được nhận vào một sản phẩm tuyệt diệu như vậy, và hy vọng nó sẽ làm bà hài lòng tại buổi dạ hội ở bảo tàng Whitney. Như đã được báo trước, thứ Hai ngày 24/5 chúng tôi sẽ đến lấy áo về giặt là. Nếu cần chúng tôi phục vụ gì thêm, xin bà cho biết. Kính chào. Colette.

Hôm nay mới thứ Năm, Miranda đã có một chiếc áo dài mới tinh và vừa giặt là thơm tho, treo cẩn thận trong tủ. Emily đã tìm được chính xác đôi xăng đan Jimmy Choo màu nhũ bạc tương thích. Thợ làm tóc được gọi đến nhà đúng 5 giờ 30, thợ trang điểm đến lúc 5 giờ 45, và Yuri đợi sẵn vào hồi 6 giờ 15 để đưa Miranda và Mr. Tomlinson đến bảo tàng.

Miranda đang trên đường đến hội thể thao của Cassidy, tôi cũng mong sẽ được rời văn phòng sớm. Hôm nay Lily viết bài thi học kỳ cuối cùng, một dịp xứng đáng để bất ngờ đến đâu đó liên hoan với cô.

"Emily, hôm nay tôi có thể sáu rưỡi bảy giờ về nhà được không? Miranda nói là bà không cần quyển SÁCH, đằng nào cũng chưa có gì mới cả," tôi nhanh miệng nói thêm. Tại sao tôi phải xin phép một đồng nghiệp ngang hàng, khi muốn về sau mười hai tiếng làm việc - thay vì mười bốn tiếng như mọi hôm?

"À, tất nhiên. Chẳng sao cả. Tôi cũng về đây." Cô xem giờ trên màn hình. Đã quá năm giờ. "Chị ở lại thêm một, hai tiếng nữa rồi về. Hôm nay bà ấy có kế hoạch với hai đứa bé, chắc không có điện thoại đâu." Cô có hẹn với anh chàng mới làm quen dịp năm mới ở Los Angeles. Rốt cuộc anh ta không chỉ đến được New York, mà lạ thay, còn gọi điện nữa. Họ định tới Craftbar uống chút gì, sau đó nếu anh chàng xử sự tử tế thì sẽ được cùng đến Nobu. Emily đã đặt bàn trước đấy năm tuần, sau khi anh ta báo email là sẽ đến thăm; tuy nhiên cô vẫn phải đội tên Miranda để được vào danh sách khách.

"Chị làm gì khi đến đó và rõ ràng không phải là Miranda Priestly?" Tôi ngớ ngẩn hỏi và nhận được ngay một cú đảo-mắt-thở-dài quen thuộc. "Tôi chỉ cần nói là Miranda hôm nay có hẹn bất ngờ nên không ở New York, đưa danh thiếp của văn phòng và bảo là tôi nhận lịch hẹn này cho Miranda. Vấn đề gì đâu?"

Sau khi Emily đi khỏi, Miranda chỉ gọi điện một lần để báo cho tôi là khoảng trưa mai bà mới tới văn phòng. Cho đến lúc ấy bà muốn tôi kiếm một bản sao bài viết về nhà hàng mà hôm nay bà đọc thấy "trên báo". Nhanh trí, tôi hỏi bà có nhớ tên nhà hàng hay tên tờ báo, nhưng chỉ tổ làm bà thiếu hài lòng.

"Aan-dree-aa, tôi tới hội thể thao đã hơi muộn rồi. Chị đừng quấy tôi với những trò vặt vãnh ấy nữa. Đó là một nhà hàng châu Á, và báo của hôm nay. Chấm hết." Như mọi khi, mỗi lần bà ngắt điện thoại giữa chừng bằng cạch gập cái Motorola V60 lại là tôi mường tượng ra cảnh chiếc điện thoại đột ngột ngoạm vào bàn tay chăm sóc kỹ lưỡng của bà và nuốt chửng, không quên hả hê nhai bét bộ móng sơn đỏ. Phí công hy vọng. Đến hôm nay vẫn chưa xảy ra.

Tôi nhẩm trong óc, việc đầu tiên sáng mai là tìm ra nhà hàng bí ẩn này, rồi chạy vội ra xe. Tôi gọi Lily từ máy di động, cô trả lời lúc tôi đến trước nhà và chuẩn bị lên tầng. Tôi ngồi lại trong xe và chỉ vẫy chào Mr. Fisher.

"Chào, thế nào? Tớ đây!"

"Chàooo," cô líu lo vui vẻ như chưa từng thấy trong mấy tuần, thậm chí mấy tháng qua. "Tớ xong rồi. Xong! Học kỳ hè chấm dứt, xong hết mọi thứ, trừ một bài nhỏ không đáng kể sắp phải nộp cho bài luận án cao học, nhưng bài ấy tớ có thể viết lại mười lần nếu cần. Nghĩa là đến tháng Bảy tớ rảnh. Cậu thấy sao?" Giọng cô hân hoan tưng bừng.

"Tuyệt vời! Tớ mừng cho cậu! Có thích liên hoan không? Cậu được phép chọn, hóa đơn do Runway thanh toán!"

"Thật hả? Tự do chọn?"

"Ừ. Tớ đang ở dưới nhà, có ô tô. Xuống đi, mình đi đập phá một chầu."

Cô ré lên: "Hay quá! Tớ cũng định kể cho cậu nghe từ lâu về đồ đệ Freud nhỏ của tớ, đẹp trai ngất trời. Một giây thôi, tớ xuống ngay, chỉ mặc quần bò là xong."

Năm phút sau, cô chạy bổ xuống. Đã lâu lắm tôi chưa thấy cô bảnh bao và hạnh phúc như vậy. Cô diện quần bò bó, ống lửng, nhạt màu, cạp vừa xinh, áo dân gian dài tay bằng vải chảy, đỉnh cao là đôi xăng đan tôi chưa hề thấy - quai da nâu, đính cườm xanh ngọc. Chưa đủ! Cô còn đánh phấn và những lọn tóc quăn ắt đã được sấy lại trong hai mươi giờ qua.

"Trông cậu xinh quá," tôi nói khi cô nhảy lên ghế sau. "Có bí quyết gì không đấy?"

"Đồ đệ nhỏ của Freud chứ gì nữa. Anh chàng này trên cả tuyệt vời. Tớ tin là tớ bị gục hẳn. Tóm lại là được điểm chín trên mười, cậu tin hay không thì tùy."

"Vậy thì trước tiên hãy quyết định nên đi đâu. Tớ chưa đặt bàn, nhưng tớ có thể gọi đến khắp nơi và xưng tên là Miranda. Cậu muốn đến đâu cũng được."

Cô đánh sáp môi, quan sát mình trong giương và mơ màng hỏi: "Đến đâu cũng được?"

"Đâu cũng được. Đến Chicama uống Mojito được không?" Tôi gợi ý, biết chắc là gạ Lily với đồ uống dễ hơn là mời ăn. "Hoặc Meer, ở đấy nghe nói Cosmos rất hay. Hay đến khách sạn Hudson, có thể có chỗ ngồi bên ngoài? Còn nếu cậu thích uống vang hơn thì..."

"Andy, mình đến Benihana được không? Tớ vẫn muốn ngó vào đó xem sao." Cô bẽn lẽn hỏi.

"Benihana? Cậu muốn đến Benihana? Đến chuỗi nhà hàng bắt mình ngồi cạnh hàng đoàn khách du lịch và trẻ con khóc ti tỉ, và thức ăn được chế biến tại bàn bởi các diễn viên châu Á thất nghiệp? Có phải Benihana ẤY không?"

Cô gật đầu phấn khởi đến nỗi tôi đành phải hỏi lái xe địa chỉ, nhưng cô cắt lời tôi: "Không cần thiết, tớ có rồi." Cô nói với lái xe: "Phố 56, giữa phố 5 và phố 6, dãy phía Bắc."

Nhất định cô không để ý đến ánh mắt kinh hoàng của tôi. Cô bạn gái phấn khích kỳ lạ của tôi hạnh phúc kể về đồ đệ nhỏ của Freud, gọi như vậy vì anh đang viết luận án tiến sĩ tâm lý học vào năm cuối. Họ làm quen nhau ở phòng sinh viên tại Low Library. Tôi phải nghe kể hết các phẩm chất của anh ta: hai mươi chín tuổi ("chín chắn hơn hẳn so với những người khác, nhưng không hề già"), sinh ở Montreal ("giọng Pháp rất dễ thương, nhưng tất nhiên vẫn đặc Mỹ"), tóc không húi ngắn ("nhưng không như mấy tay buộc tóc đuôi gà quái đản"), râu vừa phải ("sau ba ngày không cạo thì trông giống hệt Antonio Banderas").

Các samurai nhà bếp trình diễn, thái chặt và tung thịt khéo léo, Lily cười và vỗ tay bôm bốp như trẻ con đi xem xiếc. Khó có thể tin là Lily tìm thấy người mình mến - nhưng làm gì có lời giải thích logic nào khác cho tình trạng hưng phấn này. Càng khó tin là cô chưa ngủ với anh ta ("Bọn mình quấn lấy nhau hai tuần rưỡi ở trường rồi, và chưa làm gì! Cậu không tự hào về tớ à?"). Khi tôi hỏi, tại sao tôi chưa hề thấy anh ở nhà, cô mỉm cười tự hào và nói: "Thời điểm chưa chín để mời anh ấy đến nhà. Bọn mình từ từ đã." Ăn xong, chúng tôi còn đứng trước quán và cô kể chuyện về đồ đệ Freud. Bất ngờ Christian Collinworth hiện ra.

"Andrea! Andrea yêu quý! Tôi phải thú thật là ngạc nhiên phát hiện ra chị là fan của Benihana đấy!... không rõ Miranda sẽ nói gì đây?" Anh giễu cợt và quàng tay lên vai tôi.

"Tôi, à, vâng..." tôi lúng búng không nói ra câu. Lời nói như bay mất, chỉ những suy nghĩ rời rạc bắn ra trong óc. Ăn tại Benihana. Christian biết! Miranda ở Benihana! Trông quá đẹp trai trong chiếc áo da phi công! Nhất định thấy mình còn mang mùi Benihana! Không hôn lên má! Hôn lên má! "À, không phải là, à..."

"Chúng tôi đang suy tính, bây giờ lên đi đâu," Lily chêm vào và chìa tay cho Christian; lúc này tôi mới nhận ra là anh đang đi một mình. "Mải nói chuyện nên chúng tôi không nhận ra là đứng ngay giữa đường. Buồn cười thật! Cậu có thấy thế không, Andy? Tôi là Lily" Cô nói với Christian, anh bắt tay cô rồi gạt một lọn tóc xõa xuống trán, như anh vẫn hay làm ở dạ hội. Trong tôi trào lên cảm xúc khó tả, tôi có thể ngắm anh hàng giờ, hàng ngày, khi anh gạt lọn tóc tuyệt diệu ấy ra khỏi khuôn mặt tuyệt đỉnh.

Tôi nhìn chòng chọc hai người, cho đến khi nhớ ra là cũng nên nói gì, nhưng có vẻ như họ không cần đến tôi lắm.

"Lily," Christian uốn lưỡi ngân nga. "Lily, tên rất hay, gần hay bằng Andrea." Ít nhất thì tôi cũng trấn tĩnh không quay mặt đi. Lily tươi rói. Tôi biết rõ cô nghĩ gì: tay này không chỉ kha khá tuổi và đẹp trai, mà còn có duyên nữa. Óc cô đang làm việc: tôi có muốn gì ở anh chàng này không? Vì Alex. Nếu có thì, làm gì để tiến triển tiếp? Cô thấy Alex rất tốt, tất nhiên, ai chả thế, nhưng cô không hiểu nổi vì sao hai người trẻ tuổi có thể bên nhau nhiều như vậy - cô vẫn khẳng định thế. Nhưng tôi biết là chuyện đơn thê làm cô nhức đầu, và nếu có tí gì nảy nở giữa Christian và tôi thì cô nhiệt tình ủng hộ ngay.

"Lily, rất vui được quen chị. Tôi là Christian, bạn của Andy. Các chị hay đứng trước Benihana để tán gẫu à?" Nụ cười của anh tức khắc làm tôi choáng váng.

Lily lấy tay gạt mớ tóc nâu của mình ra sau và nói: "Anh nghĩ gì vậy Christian! Chúng tôi vừa ăn tối ở Town và đang tìm một nơi hay hay để uống chút gì. Anh có ý tưởng gì không?"

Town! Nhà hàng này hot nhất và đắt nhất thành phố. Miranda đến đó. Jessica và người yêu đến đó. Emily bao lần say sưa nói là cô muốn đến đó. Nhưng Lily?

"Thế à, lạ nhỉ," Christian nói, chắc là tin lắm. "Tôi vừa ăn tối ở đó với đại diện của mình. Thế mà không thấy hai chị..."

"Chúng tôi ngồi tận phía sau, góc khuất sau quầy bar," tôi vội chêm vào. Tôi đã dần dần bình tĩnh trở lại. May mà tôi chợt nhớ ra hình ảnh bé xíu của nhà hàng mà Emily chỉ cho tôi xem khi tìm trên trang "citysearch.com" một nơi tử tế cho cuộc hẹn.

"À ha." Anh gật đầu khá lãng đãng, trông càng đáng yêu hơn. "Thì ra hai chị còn muốn đi uống một chút gì."

Tôi hết sức mong muốn được tẩy hết mùi hôi của Benihana ra khỏi quần áo đầu tóc, song Lily không chịu ủng hộ. Liệu Christian có linh cảm được Lily đang muốn ghép đôi chúng tôi bằng được không? Anh thì quá hấp dẫn, còn Lily quyết tâm sắt đá, vậy thì tôi im miệng đã.

"Chính thế, chúng tôi đang suy nghĩ nên đi đâu. Anh có đề nghị nào không? Nếu anh đi cùng thì hay quá," Lily khăng khăng và giật tay áo anh mơn trớn. "Ở gần đây có chỗ nào hay không?"

"Ở khu văn phòng này không sẵn quán bar đâu, nhưng tôi sắp gặp đại diện của mình ở Au Bar, ở đấy được không? Anh ấy đi lấy mấy giấy tờ ở văn phòng. Có thể chị cũng nên làm quen, Andy, biết đâu có khi cần một đại diện cũng nên. Chị thấy Au Bar thế nào?"

Lily ném cho tôi một cái nhìn khích lệ, tựa như áp đặt: anh ấy thật tuyệt vời, Andy! Rất tuyệt vời! Tớ chẳng rõ anh ta là của nợ nào và làm gì, nhưng anh ta thích cậu, vậy thì hãy cố gắng lên và nói là cậu rất thích Au Bar!

"Tôi rất thích Au Bar," tôi nói một cách thuyết phục, mặc dù chưa đến đó bao giờ. "Tôi nghĩ ở đó lý tưởng."

Lily mỉm cười. Christian mỉm cười, và thế là ba chúng tôi đi. Christian và tôi đi uống rượu. Có thể gọi đó là hẹn hò không? Tất nhiên là không, đừng làm trò cười, tôi tự nhủ. Alex, Alex, Alex, tôi thầm cầu nguyện, quyết tâm không quên là mình đã có bạn trai rất yêu mình, đồng thời cũng thất vọng về bản thân vì đã phải hạ quyết tâm là mình đã có bạn trai rất yêu mình.

Một ngày thứ Năm như mọi ngày khác, đội gác cửa mặc đồng phục nhung có mặt đông đủ và để chúng tôi vào cửa thoải mái, nhưng không có nghĩa là giảm giá: Hai chục mỗi người, riêng tiền vào cửa.

Trước khi tôi chạm tay vào ví thì Christian đã lôi một tập tiền ra, gẩy ba tờ hai chục và lẳng lặng đưa cho gác cổng.

Tôi định phản đối, nhưng Christian đặt hai ngón tay lên môi tôi. "Andy yêu quý, chị không phải để tâm mấy chuyện vặt." Và tôi chưa kịp tránh sự đụng chạm ấy thì anh đã lấy cả hai tay ấp vào mặt tôi. Ở đâu đó sâu thẳm trong bộ não hoàn toàn rối tung của tôi, các đầu mối thần kinh bắn ra một loạt súng cảnh cáo là sắp có một nụ hôn. Tôi biết thế, tôi linh cảm sẽ có nụ hôn, nhưng không dộng đậy được. Anh coi một phần trăm giây đồng hồ ngập ngừng đó là thuận tình, cúi xuống và chạm môi vào cổ tôi. Thật ra chỉ sượt qua, rất ngắn, có thể hơi đá lưỡi, đâu đó giữa cằm và tai, nhưng nói cho cùng thì, đó là một cái hôn vào cổ; rồi anh nắm tay tôi kéo vào phía trong.

"Christian, đợi chút! Tôi, à, tôi phải nói với anh điều này," tôi cất tiếng, hoàn toàn không chắc chắn là sau một cái hôn bất ngờ, mới đá tí ti lưỡi liệu có nhất định phải tiếp đến lời giải thích dông dài là "tôi đã có bạn trai" và "không muốn đưa ra tín hiệu sai" Christian rõ ràng không nghĩ vậy, vì anh đã đưa tôi đến chiếc ghế đệm ở một góc tối để ngồi xuống, và tôi đành nghe lời.

"Tôi đi lấy đồ uống đây, okay? Chị đừng nhăn nhó thế. Tôi không cắn đâu." Anh cười, và tôi thấy mặt mình đỏ lên. "Và nếu có thì chị sẽ thấy thích đấy, tôi hứa với chị." Anh bỏ tôi ngồi đó và đi ra quầy bar.

Không muốn lăn ra hay vắt óc suy nghĩ về chuyện vừa xảy ra, tôi nhìn quanh trong căn phòng nhập nhoạng như hang động tìm Lily. Chúng tôi vào đây chưa đầy ba phút, nhưng cô đã hăng hái bắt chuyện với một anh chàng da đen cao lớn, mắt cô dán vào môi gã, đầu ngật ra sau một cách khoái chí. Tôi len qua đống người tứ chiếng đang uống. Làm sao mà họ biết quán hàng này là điểm đến của những ai không có hộ chiếu Mỹ? Một nhóm đàn ông trên ba mươi tuổi nói gì đó như tiếng Nhật, hai phụ nữ vung tay múa chân tranh luận bằng tiếng Ả Rập, một đôi trẻ, nom có vẻ hục hặc, trừng mắt và quát tháo với nhau, nghe như tiếng Tây Ban Nha hoặc cũng có thể tiếng Bồ Đào Nha. Gã trai của Lily đã để tay gần mông cô, nom có vẻ ngất ngây. Không thì giờ đâu mà tế nhị, tôi quyết định. Christian Collinsworth vừa ấn môi lên cổ tôi mà. Tôi lờ gã kia đi, tóm tay phải Lily và toan lôi cô về phía ghế ngồi.

"Andy! Bỏ ra nào," cô rít lên, gỡ tay tôi ra, miệng vẫn mỉm cười với gã trai. "Cậu mạnh tay thế. Cho tôi giới thiệu cậu với bạn tớ nhé? William, đây là Andrea bạn thân nhất của em, bình thường ra cô ấy không hay cư xử như vậy đâu. Andy, đây là William."

"Chà, cho phép hỏi, tại sao chị định bắt cóc bạn gái của chị khỏi tôi, Aan-dree-aa?" Giọng trầm của William vang vang trong căn nhà hầm. Giá ở một nơi khác, thời điểm khác hay với những người khác thì tôi đã nhận ra nụ cười ấm áp của anh, hay chuyện anh đứng phắt dậy nhường chỗ cho tôi, nhưng ở đây và bây giờ thì cái duy nhất mà tôi cảm nhận rõ ràng là giọng phát âm kiểu Anh. Và hoàn toàn không quan trọng rằng giọng nói ấy của một người đàn ông, cao lớn, da đen, không có chút gì trong kích cỡ và màu sắc giống Miranda Priestly. Tôi nghe giọng ấy, nghe anh ta phát âm tên tôi, giống hệt bà ấy, vậy là đủ để tim tôi đập nhanh hơn.

"William, tôi xin lỗi, không phải chuyện anh. Có một vấn đề nhỏ mà tôi muốn nói riêng với Lily. Tôi đưa cô ấy lại ngay." Và tôi nắm tay Lily, lần này chặt hơn, lôi cô đi. Đã đến lúc điên lắm rồi, tôi cần cô.

Chúng tôi ngồi xuống ghế đệm mà Christian lúc nãy chỉ cho. Tôi kiểm tra lại cho chắc là Christian vẫn mải gây chú ý với người phục vụ (một người dị tính tại quầy bar - có mà đợi hết đêm). Tôi hít hơi thật dài.

"Christian vừa hôn tớ."

"Thì có vấn đề gì? Hôn kém quá à? À, thì ra thế, đúng không? Không có cách nào mất điểm nhanh hơn là..."

"Lily, giỏi hay kém, ở đây có gì khác nhau?"

Cô nhướng mày và mở miệng toan nói gì, nhưng tôi cắt lời.

"Không quan trọng là kém hay giỏi, nhưng anh ấy hôn vào cổ tớ. Vấn đề ở đây không phải anh ấy làm thế nào, mà trước tiên là chuyện đó đã xảy ra.Với Alex thì sao đây? Tớ không phải kiểu người chạy đi hôn lung tung các đàn ông khác, cậu biết đấy."

"Biết quá đi chứ," cô lầm bầm một mình rồi nói:

"Andy, cậu buồn cười thật. Cậu yêu Alex, anh ấy yêu cậu, nhưng dù vậy nếu thỉnh thoảng cậu thích hôn người khác thì hoàn toàn okay. Cậu năm nay hai mươi ba tuổi, trời ạ, thoáng thoáng chút đi."

"Không phải tớ hôn anh ấy... Anh ấy hôn tớ!"

"Nghe này, giờ thì mình phải thống nhất một điểm đã. Cậu còn nhớ vụ vụ xảy ra hồi xưa giữa Monica và Bill, cả nước và bố mẹ chúng mình và Ken Starr vội vã gọi đó là sex? Nhưng đó không phải là sex. Cũng như không thể gọi là hôn ai đó khi một người định hôn má cậu nhưng nhầm xuống cổ."

"Nhưng..."

"Im mồm, để tớ nói xong đã. Quan trọng hơn cả chuyện gì xảy ra, là cậu muốn nó xảy ra. Thú nhận đi, Andy. Cậu muốn hôn Christian, kệ cho sai hay kém hay không đúng luật chơi, nếu cậu không thú nhận thì cậu nói dối."

"Lily, nghiêm túc đi, tớ cho là không công bằng khi..."

"Andy, tớ biết cậu đã chín năm rồi. Cậu không tin là nhìn mặt cậu tớ biết rõ rằng cậu chết mê chết mệt với Christian à? Cậu cắn rứt lương tâm vì anh ấy không theo luật chơi của cậu, đúng không? Nhưng có lẽ đó chính là cái khiến cậu thích anh ấy. Thôi, hãy tận hưởng đi. Nếu Alex là người trong mộng của cậu thì vẫn là người trong mộng cơ mà. Giờ thì tha lỗi cho tớ, tớ vừa tìm được người trong mộng... cho hôm nay." Cô đứng bật khỏi ghế và nhảy chân sáo ra chỗ William, còn gã thì sướng run.

Tôi thấy hơi khó coi khi ngồi một mình trên chiếc ghê nhung ngoại cỡ. Tôi ngó quanh tìm Christian, nhưng anh không ở quầy bar nữa. Từ từ đã nào, tôi tự bảo. Mọi chuyện sẽ lại đâu vào đấy, nếu tôi thôi vò đầu bứt tai. Có thể Lily nói đúng, và tôi thích Christian thật - có gì sai đâu? Anh là người có đầu óc và rõ ràng là rất đẹp trai, và phong cách chiếm lòng tin của anh thật sexy. Ngồi quán với một người rất sexy nào đó không thể hiểu là phản bội. Trong chừng ấy năm học và làm việc nhất định Alex đã gặp một hai cô gái xinh đẹp và hấp dẫn, biết đánh thức những ý nghĩ nào đó trong anh. Có phải vì thế mà anh thay lòng? Tất nhiên không. Với sự tự tin mới được củng cố (và cố gắng tuyệt vọng để nhìn, nghe và ở cạnh Christian), tôi lao đi tìm.

Tôi tìm được anh đang hăng hái nói chuyện với một người lớn tuổi, khoảng gần năm mươi, mặc một bộ com lê với gi lê rất sang trọng. Trong khi nói, Christian vung tay loạn xạ, trông vẻ mặt trong trạng thái giữa vui thích và cực kỳ bực dọc. Đứng xa nên tôi không nghe thấy họ nói gì, nhưng chắc do tôi nhìn chằm chằm nên người đàn ông kia nhận ra và mỉm cười với tôi. Christian hơi giật mình, nhìn theo ánh mắt ông và nhận ra tôi.

"Andy cưng," anh nói với giọng khác hẳn mấy phút trước. Rõ ràng anh chuyển từ vai Don Juan thành một người bạn cỡ cha chú không khó khăn gì. "Chị ra đây, tôi muốn giới thiệu chị với một người bạn. Gabriel Brooks là đại diện và ông bầu và người hùng mọi lĩnh vực của tôi. Gabriel, đây là Andrea Sachs, đang làm việc cho Runway."

"Rất hân hạnh được làm quen chị, Andrea," Gabriel nói và bắt tay tôi một cách rón rén như muốn nói ra rằng mạnh-tay-một-chút-thì-nát-bét. "Christian đã kể cho tôi nghe nhiều về chị."

"Thật à?" Tôi nói và nắm chặt hơn nữa, lập tức tay ông lỏng lẽo hẳn ra. "Hy vọng là toàn chuyện tốt."

"Tất nhiên rồi. Như tôi biết thì chị cũng là một năng khiếu viết lách đang nổi, giống người bạn của chúng ta đây." Ông mỉm cười.

Lạ thật. Đúng là Christian đã nói với ông về tôi thật. Hồi ấy chúng tôi nói chuyện viết lách không khác gì mấy câu xã giao. "À vâng, tôi rất mê viết, và hy vọng sẽ có một ngày..."

"Chị chỉ cần bằng một nửa những người mà Christian thỉnh thoảng đưa tới là tôi đã rất mừng được đọc bài viết của chị." Ông lấy trong túi ngực ra một chiếc hộp nhỏ và đưa tôi danh thiếp. "Hiện tại còn quá sớm với chị, tôi biết, nhưng khi định đưa bản thảo cho ai đó xem thì hy vọng chị sẽ nhớ đến tôi."

Tôi vận hết sức bình sinh để đừng há hốc mồm ra và khuỵu gối xuống vì choáng. Hy vọng chị sẽ nhớ đến tôi? Người đàn ông đại diện cho Christian Collinsworth, thần đồng văn học ngoại hạng, vừa nói ra điều ông hy vọng rằng tôi sẽ nhớ tới ông? Trên cả tuyệt vời.

"Ôi, cám ơn ông," tôi lúng búng và cất danh thiếp vào túi để có dịp nào gần nhất là rút ra chiêm ngưỡng từng ly trên đó. Hai người đàn ông mỉm cười thân thiện, chừng khoảng một phút sau tôi hiểu ra đó là dấu hiệu nhắc tôi có thể đi được rồi. "Vâng, Mr Brooks, à, Gabriel, rất vui mừng được làm quen ông. Tôi phải về nhà sớm, nhưng tôi hy vọng chúng ta lại có dịp gặp nhau."

"Tôi cũng rất vui, Andrea, một lần nữa chúc mừng chị trúng số độc đắc. Rời ghế đại học vào thẳng Runway, rất ấn tượng."

"Tôi tiễn chị ra cửa," Christian nói, đỡ khuỷu tay tôi và ra hiệu với Gabriel là anh quay lại ngay.

Chúng tôi dừng lại một chút cạnh quầy bar và Lily, giữa hai cú hôn bão táp của William, khỏi cần nói ra lời là tôi nên về nhà một mình. Ở chân cầu thang ra phố, Christian hôn lên má tôi.

"Thật thú vị được tình cờ gặp chị. Tôi linh cảm sắp phải nghe những lời khen ngợi của Gabriel bây giờ đây," anh cười.

"Đã nói quá hai câu với nhau đâu." Tôi ngạc nhiên, tại sao người nào cũng lịch sự thế.

"Đúng vậy, Andy, nhưng chắc chị chưa hiểu ra là thế giới văn sĩ rất nhỏ. Bất kể chị viết trinh thám, viết truyện hay báo, mọi người đều biết nhau. Gabriel nhìn ra tiềm năng của chị từ việc chị vớ được việc làm ở Runway, từ việc chị ăn nói lưu loát và thông minh, và, nói thế nào nhỉ, chị là bạn tôi. Ông ấy đưa danh thiếp cho chị thì có mất gì? Với chút may măn, biết đâu ông ấy đã phát hiện ra một tác giả best-seller. Chị cứ tin tôi - quen Gabriel Brooks chị không bị thiệt gì."

"Hừm, có lẽ anh nói đúng. Dù sao thì tôi cũng phải về nhà đây, vì mấy tiếng nữa đã phải đi làm rồi. Tôi rất biết ơn anh vì mọi việc." Tôi rướn lên để hôn vào má anh; nửa mong anh đưa mặt ra, nửa đợi anh cũng làm vậy với mình. Nhưng anh chỉ cười mỉm.

"Tôi thì trên cả vui mừng, Andrea Sachs, chúc chị ngủ ngon." Và trước khi tôi nghĩ ra một lời đáp tương đối thông minh thì anh đã trên đường quay lại với Gabriel.

Tôi thầm trách mình và ra đường tìm taxi. Trời bắt đầu mưa, không nặng hạt, chỉ mưa phùn dai dẳng, đủ để tất cả taxi Manhattan đều có người. Vậy là tôi gọi điện tới đội xe của Elias Clark, báo số VIP của mình và đúng sáu phút sau một chiếc xe phanh kít bên hè. Trong hộp thoại có tin nhắn của Alex: anh muốn biết ngày hôm nay ra sao, gợi ý là cả tối nay anh ở nhà và viết thời khóa biểu. Lần cuối cùng tôi gây bất ngờ cho anh là bao giờ nhỉ? Đã đến lúc làm một cú bột phát, ngay cả khi rất mất công. Lái xe đồng ý đợi theo yêu cầu, tôi chạy lên tầng, nhảy vào phòng tắm, sấy tóc mất thêm năm phút và khẩn trương tống đồ đạc cần dùng cho hôm sau vào túi. Sau mười một giờ đêm rất ít xe cộ trên đường, chưa đầy mười lăm phút sau chúng tôi đã tới Brooklyn. Alex vui mừng thực sự, nhắc đi nhắc lại rằng anh rất bất ngờ là vào ngày trong tuần mà tôi cũng có thời gian đến chỗ anh, và đó là bất ngờ lớn nhất mà anh mong ước. Lát sau, tôi nằm gối đầu lên ngực anh - vì tôi thích nằm thế nhất - và nghe anh thở đều đặn và trong khi anh nghịch tóc tôi và xem Conan trên tivi thì tôi đã chẳng còn nhớ gì đến Christian nữa.

"À, xin chào, cho tôi nói chuyện với biên tập viên về ẩm thực được không ạ? Không? Thế thì với một trợ lý hoặc người nào đó có thể cho tôi biết về một bài về nhà hàng mới đăng?" Bà trực điện thoại ở New York Times đúng là một con yêu tinh. "Gì?" Bà ta quát vào ống nghe, làm như chúng tôi nói hai thứ tiếng khác nhau (có lẽ thế cũng nên). Nhưng tôi kiên trì và cố đạt mục đích. Ba lần tôi hỏi bà ta tên biên tập viên ("Chúng tôi không nói tên, thưa chị"), dọa sẽ khiếu nại lên sếp của bà ("Gì cơ? Chị tưởng ông ấy bận tâm à? Tôi nối máy luôn nhé?"), rốt cuộc tôi thề là sẽ đích thân đến tận tòa báo ở quảng trường Times và làm hết sức mình để bà ta bị sa thải tại chỗ ("Ôi, thật à? Sợ quá nhỉ"). Cuối cùng thì bà ta cũng ngán ngẩm nối máy cho tôi với ai đó.

"Ban biên tập," một giọng phụ nữ đầy vẻ bực bội khác. Không rõ khi tôi trả lời Miranda giọng tôi có giống được đến thế không? Và nếu không thì tôi sẽ cố tập. Bị hiểu một cách rõ rệt là mình chỉ quấy rầy với cuộc điện thoại, tôi chỉ muốn cúp máy cho rồi.

"Xin chào, tôi có một câu hỏi ngắn," tôi nói ào ào, chỉ sợ cô ta quẳng máy xuống. "Trong số báo ngày hôm qua có bài viết nào về nhà hàng không ạ?"

Cô ta thở dài, cứ như là tôi hỏi cô có hiến một cẳng chân cho mục đích nghiên cứu khoa học không vậy. Rồi thở dài lần nữa. "Chị đã xem trên mạng chưa?" Thở dài cú thứ ba.

"Vâng, vâng, tất nhiên, nhưng tôi không..."

"Nếu chúng tôi có bài báo nào thì cũng thấy nó trên mạng. Nói đúng ra thì tôi cũng không thuộc từng chữ ở trên báo."

Giờ thì đến lượi tôi lấy hơi. Tôi cố giữ bình tĩnh. "Bà trực điện thoại dễ mến đã nối tôi với chị vì chị làm việc ở bộ phận lưu trữ. Tôi tin là công việc của chị là ghi lại từng chữ."

"Thưa chị, nếu ngày nào tôi cũng phải tra lại những câu phỏng đoán lờ mờ mà hàng trăm người đem đến thì chẳng bao giờ hết việc. Chị phải xem lại trên mạng." Hai lần thở dài não nuột tiếp theo. Hy vọng cô ta không bị chứng thở dốc.

"Không, không, bây giờ tôi xin chị lắng nghe một phút," tôi ra tay. Lũ lười nhác này phải được một bài học, trái với tôi, họ làm việc nhẹ nhàng hơn nhiều. "Tôi gọi điện từ văn phòng Miranda Priestly, và tình cờ..."

"Xin lỗi, chị nói là chị gọi điện từ văn phòng Miranda Priestly?" Tôi nghe thấy tai cô ta dựng đứng lên. "Miranda Priestly... của tạp chí Runway?"

"Chính thế. Tại sao? Chị nghe tên rồi à?"

Giờ thì ở cô ta diễn ra sự biến hóa thần kỳ từ cô trợ lý biên tập thành kẻ nô lệ của thời trang. "Nghe tên? Chuyện dĩ nhiên? Có ai nghe tên Miranda Priestly mà không nghĩ ra chuyện gì không? Người phụ nữ quan trọng trong làng thời trang. Chị vừa nói là chị tìm gì nhỉ?"

"Một bài phê bình. Trong số báo hôm qua. Nhà hàng châu Á. Tôi không thấy trên mạng, nhưng có thể tôi tìm không kỹ."

Tôi bịa. Tôi đã tìm và khá chắc chắn là cả tuần nay trong New York Times không có lấy một bài phê bình về nhà hàng châu Á nào, nhưng tôi không muốn lộ cho cô ta biết. Có thể cô trợ lý biên tập dở hơi này làm được điều kỳ diệu.

Cho đến lúc này, ngoài Times tôi đã gọi cho tờ Post và Daily News, không kết quả. Sau khi nhấn số thẻ tín dụng công ty của Miranda tôi còn vào được kho lưu trữ phải trả phí của Wall Street Journal, ở đó quả thật có bài báo ngắn về một nhà hàng Thái mới mở ở Village. Nhưng tôi lại phải gạch ngay, sau khi biết là các món chính ở đó trung bình chỉ có giá 7 dollar và trang citysearch.com xếp nó ở mục "quán rẻ".

"Vâng, tất nhiên, chị đợi một phút thôi, tôi tìm cho chị ngay." Và cô bé không-thuộc-từng-chữ-ở-trên-báo bấm phím liên tục, miệng ngân nga hát cho cả hai nghe.

Đầu tôi còn ù hết lên vì đêm qua. Làm Alex ngạc nhiên thì vui, và nằm ườn ra nghỉ ở nhà anh cũng rất có tác dụng thư giãn, song lần đầu tiên từ nhiều tháng trở lại đây tôi không nhắm được mắt. Tôi luôn bứt rứt trăn trở về chuyện

Christian hôn lên cổ tôi và tôi đã không kể cho Alex biết. Càng cố đẩy bật những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu thì chúng càng quay lại mạnh mẽ hơn. Rốt cuộc khi tôi ngủ thiếp đi được lại mơ thấy Alex trông giữ trẻ cho Miranda và - không giống như những người làm khác - phải ở luôn đó. Trong mơ, mỗi lần muốn gặp anh ở nhà Miranda tôi phải theo bà về nhà. Bà luôn gọi tôi là Emily và sai làm những việc ngớ ngẩn. Cho đến sáng, Alex bị Miranda phù phép và không hiểu tại sao tôi ghét bà ta, và tệ hơn nữa, Miranda đã câu được Christian. May mà tôi giật mình tỉnh khỏi cơn ác mộng đúng vào cảnh sáng Chủ nhật, Miranda, Alex và Christian mặc áo choàng loại xa xỉ trong nhà ngồi quanh bàn, đọc báo Times, họ vui hơn hớn trong lúc tôi bưng bữa sáng lên và sau đó dọn đi. Giấc ngủ đêm qua cũng thư giãn như đi dạo một mình qua Bronx lúc bốn giờ sáng, và bây giờ bài phê bình nhà hàng bóp chết tia hy vọng le lói cuối cùng vào một ngày thứ Sáu không bị stress.

"Hừm, không, dạo này chúng tôi không đăng bài nào về quán ăn châu Á cả. Tôi đang cố nghĩ xem có quán ăn châu Á mới mở nào hay ho không. Những nơi mà Miranda có thể muốn đến ấy." Nghe có vẻ cô ta muốn kéo dài cuộc nói chuyện bằng bất kỳ giá nào.

Tôi thì chỉ muốn cho cô ta ra khỏi đường dây càng sớm càng tốt nên phớt lờ cái giọng thân mật mà cô ta gọi tên riêng của Miranda. "Okay, được rồi, tôi cũng nghĩ thế. Rất cám ơn chị. Tạm biệt."

"Đợi chút!" Cô kêu lên khẩn thiết làm tôi lại đưa ống nghe lên tai. "À, vâng, tôi chỉ định nói là nếu lại có chuyện gì mà tôi hay mọi người ở đây có thế giúp được thì chị cứ gọi điện nhé? Tất cả chúng tôi đều rất khâm phục Miranda, chúng tôi sẽ, à, làm mọi thứ nếu có thể."

Người ngoài có thể tưởng rằng Đệ nhất Phu nhân của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ vừa sai cô trợ lý biên tập ngớ ngẩn tìm ra cho Tổng thống một bài báo có thông tin sinh tử về cuộc chiến tranh sắp nổ ra - chứ không phải một bài phê bình nào đó về quán ăn nào đó trong tờ báo nào đó. Buồn nhất là tôi không bị ngạc nhiên: tôi biết trước là cô ta sẽ ngoan ngoãn vâng lời.

"Okay, tôi sẽ nhắn lại, nhất định. Rất cám ơn."

Emily ngẩng đầu khỏi danh sách chi và hỏi: "Lại không gặp may à?"

"Zê-zô. Tôi không hiểu bà ấy ám chỉ gì, và hình như không ai trong thành phố này hiểu cả. Tôi đã gọi điện tới mọi tờ báo Manhattan mà sếp đọc, đã mò trên Internet, nói chuyện với kho lưu trữ và những người chuyên viết về nhà hàng và đầu bếp. Không ai biết đến một nhà hàng châu Á nào vừa khai trương tuần vừa rồi chứ chưa nói đến bài phê bình nào in ra trong hai mươi tư tiếng qua. Bà này lẩm cẩm thật rồi. Làm gì bây giờ?" Tôi thả người xuống ghế và buộc tóc lại thành đuôi gà. Chưa đến chín giờ, song đầu tôi đã nhức lan xuống cổ và vai.

"Tôi nghĩ là chị không còn cách nào là phải hỏi lại sếp cho rõ," cô chậm rãi nói, vẻ thông cảm.

"Ôi, không đâu, bà ấy sẽ phản ứng ra sao?"

Như thường lệ, câu mỉa mai của tôi như nước đổ đầu vịt với Emily. "Sếp đến khoảng buổi trưa, vào địa vị chị tôi sẽ nghĩ kỹ nên nói gì, vì sếp sẽ phát bẳn lên khi chị chưa tìm được bài phê bình. Nhất là khi sếp đã hỏi từ tối qua," Emily không giấu vẻ khoái trá. Rõ ràng cô vui sướng đợi trận cạo đầu mà tôi sắp nhận.

Tôi chẳng làm được gì ngoài chờ đợi. May cho tôi, Miranda đang có cuộc nói chuyện marathon hằng tháng ở chỗ tư vấn tâm lý ("Sếp không có thì giờ để tuần nào cũng đến đó một lần,"Emily giải thích khi tôi hỏi, tại sao lại ngồi đó ba tiếng đồng hồ liền). Đó là ba tiếng đồng hồ liền nhau duy nhất trong ngày, bảo đảm chúng tôi không bị bà gọi điện đến - nhưng đó lại chính là cái tôi đang cần. Chỗ thư chưa mở chất thành núi trên bàn tôi chỉ chực đổ xuống, và nếu đổ thì nó sẽ ụp xuống mớ quần áo bẩn dồn lại từ hai hôm nay dưới gầm bàn đợi đưa đi giặt là. Tôi thở dài não nuột để báo cho cả thế giới biết nỗi bất hạnh của mình rồi bấm số xưởng giặt là.

"Chào Mario, tôi đây. Biết rồi, lâu quá không nghe tiếng. Cử người nào đến lấy đồ đi! Tốt quá, cám ơn." Tôi đặt máy rồi miễn cưỡng đặt vài thứ quần áo lên đùi để phân loại và ghi vào danh sách đồ đem đi giặt trong máy tính. Nếu Miranda gọi điện lúc 9 giờ 45 tối và hỏi bộ đồ Chanel của bà đâu thì tôi chỉ việc mở tệp tin để báo với bà là hôm qua đã đem đi giặt và ngày mai xong. Tôi vào danh sách những đồ giặt là hôm nay (sơ mi Bissoni, hai quần Alberta Ferretti giống nhau, hai áo len Jil Sander, hai khăn Hermès trắng và một áo khoác Burberry), nhồi tất cả vào một túi mua hàng in logo Runway và gọi một người phục vụ đem xuống tầng dưới cho nhân viên giặt là đến lấy.

Tôi cũng được việc đấy chứ! Mặc dù đã phải làm việc này thường xuyên, trước sau tôi vẫn thấy tởm khi phải sục tay vào quần áo bẩn của người khác. Phân loại và cho đồ vào túi xong, tay tôi vẫn sặc mùi Miranda - một mùi pha trộn nước hoa Bulgari và kem giữ ẩm, đôi khi thêm chút khói thuốc của Mờ-Cờ-Đờ và nhìn chung không khó chịu lắm - dù vậy tôi vẫn thấy ngán và phải đi rửa tay ngay. Phát âm giọng Anh, nước hoa Bulgari, khăn quàng cổ trắng - đơn cử vài niềm vui giản dị trong cuộc sống mà cho đến cuối đời tôi không tiêu hóa nổi.

Nội dung đống thư từ vẫn như mọi khi: 99% là rác mà Miranda không bao giờ được thấy. Mọi thư đề "Tổng biên tập" được chuyển thẳng sang phòng "Thư độc giả"; tuy nhiên có nhiều bạn đọc đã tinh ý nhận ra và viết thẳng cho Miranda. Tôi cần trung bình bốn giây để lướt qua và xác định là thư độc giả gửi chủ bút (vứt!) chứ không phải giấy mời dự dạ hội từ thiện hay thư của một bạn gái mất tích lâu năm. Hôm nay lại hàng chồng thư bay vào thùng rác: vài thư lâm ly của lũ choai choai và các bà nội trợ, thậm chí cả mấy chàng đồng tính lẫn vào (có lẽ không nên kỳ thị, biết đâu chỉ là người dị tính nhưng rất chú trọng thời trang): "Miranda Priestly, bà không chỉ là tâm điểm của thế giới thời trang, mà còn là hoàng hậu trong thế giới của tôi!" như một người thổ lộ. "Thật táo bạo, nhưng thần tình, khi đưa bài Đỏ - đồ Đen hiện đại vào số tháng Tư! Tôi hoàn toàn ủng hộ bà!" Một người khác thốt lên. Một số khác chửi rủa quảng cáo Gucci là dâm đãng quá, vì in hai cô gái mặc nịt lót và giày cao gót ngồi áp vào nhau trên chiếc giường nhàu nhĩ, mấy người khác phẫn nộ khi xem các người mẫu gầy nhom nhem có hố mắt sâu - trông như dân dật dẹo - được làm minh họa cho bài viết về "Sức khỏe trên hết: Làm gì để thấy khỏe hơn" trong Runway. Một bưu thiếp in sẵn, mặt này viết bay bướm địa chỉ Miranda Priestly, mặt kia chỉ có một câu hỏi đơn giản: "Tại sao? Tại sao bà in một tạp chí nhàm chán và ngu xuẩn đến thế?" Tôi phá lên cười và đút tấm bưu thiếp vào túi. Bộ sưu tập những phê phán của tôi ngày càng nhiều, sắp choán hết cửa tủ lạnh rồi. Lily cho là tôi chỉ đem nghiệp chướng vào nhà với những tư tưởng tiêu cực và lời lẽ thù nghịch của người khác, và cô lắc đầu khi tôi định thuyết phục cô rằng mọi nghiệp chướng ban đầu chống lại Miranda chỉ làm tôi hạnh phúc mà thôi.

Trước khi xem hai tá giấy mời mà Miranda nhận được mỗi ngày, tôi rút lá thư dưới cùng trong chồng thư dày ra: hàng chữ tròn uốn lượn, rõ ràng là của một cô bé mới lớn, dấu chấm trên chữ i được thay bằng hình trái tim và sau mỗi câu vui vẻ là khuôn mặt cười. Tôi chỉ định lướt mắt qua như thường lệ, nhưng nó cưỡng lại với sự thẳng thắn trong sầu muộn và chân thật, như một lời van xin viết bằng máu. Bốn giây đã trôi qua, và tôi vẫn đọc tiếp.

Bác Miranda yêu quý.

Cháu tên là Anita, mười bảy tuổi, và cháu học năm cuối, trường Barringer Highschool ở Newark, NJ. Cháu rất xấu hổ vì thân hình mình, mặc dù mọi người nói là cháu không béo. Cháu muốn mình như các người mẫu trong báo của bác. Tháng nào cháu cũng mong đợi ngày bưu điện đưa tờ Runway đến. Mẹ cháu bảo cháu ngốc nghếch khi bỏ hết tiền túi cho một tờ báo thời trang. Mẹ cháu không hiểu cháu mơ ước gì, nhưng bác thì hiểu, phải không ạ? Cháu mơ ước từ khi còn bé, nhưng cháu không tin là sẽ toại nguyện. Bác hỏi vì sao? Vòng một của cháu rất phẳng và vòng ba to hơn so với người mẫu của bác, vì vậy cháu xấu hổ lắm. Cháu tự hỏi, mình có nên sống như thế này không, rồi tự trả lời KHÔNG!, vì cháu muốn thay đổi và xinh đẹp hơn và cảm thấy hài lòng hơn, vì vậy cháu xin bác giúp cháu. Cháu muốn đẹp lên hơn và khi nhìn vào gương thấy mình có vòng một và vòng ba tuyệt đẹp, giống như trong tạp chí số một thế giới.

Bác Miranda, cháu biết bác là con người tuyệt vời và chủ bút tuyệt vời, bác có thể làm cháu thành con người khác, bác hãy tin cháu, cháu sẽ ơn bác đời đời. Nhưng nếu bác không làm cháu thành con người khác được thì bác có thể kiếm cho cháu một chiếc áo dài thật, thật, thật đẹp cho nhưng dịp quan trọng không? Cháu chưa hẹn hò với ai bao giờ, mẹ cháu nói là con gái đi chơi một mình cũng được, cháu sẽ làm theo. Cháu có một chiếc áo dài, nhưng nó cũ rồi và không phải loại của nhà tạp mốt như vẫn thấy trong Runway. Những nhà tạo mốt mà cháu thích nhất là Prada (số 1), Versace (số 2) và John Paul Gotier (3). Cháu còn thích nhiều người, nhưng đó là ba người thích nhất. Cháu không sỡ hữu áo dài của họ và cũng chưa thấy trong cửa hàng bao giờ (cháu không rõ có mua được ở Newark không, nếu biết thì bác viết cho cháu nhé. Cháu sẽ đến đó và xem tận mắt) nhưng cháu đã thấy trong Runway, đẹp tuyệt trần.

Cháu không muốn quấy rầy bác lâu, cháu chỉ muốn nói một điều, kể cả khi bác vứt thư này vào sọt rác, cháu vẫn mãi là fan của báo Runway, đơn giản vì cháu rất thích các người mẫu và quần áo trong đó, và tất nhiên thích cả bác nữa.

Kính chào bác,

Anita Alvarez

TB: Số điện của cháu là 973-555-3948, bác có thể viết trả lời hay gọi điện, nhưng phải trước hôm 4/7, vì đến hôm ấy cháu cần một chiếc áo dài đẹp. CHÁU YÊU BÁC!

Cảm ơn bác!

Lá thư đầy mùi Jan Naté, loại Eau de Toilette hăng hắc mà lũ con gái chưa dậy thì cả nước ưa dùng. Song không phải vì thế mà tôi nghẹn thở. Có bao nhiêu Anita ngoài đời? Bao nhiêu cô bé trẻ măng có cuộc đời trống rỗng đến mức lấy quần áo và người mẫu của Runway làm thước đo giá trị, lòng tự tin và cả cuộc đời mình? Bao nhiêu người khác nữa mù quáng khâm phục người đàn bà biết quảng bá một thế giới ảo đầy quyến rũ - và không hề xứng đáng với lòng khâm phục ấy lấy một giây? Bao nhiêu cô gái không hề linh cảm được rằng đối tượng của lòng thành kính ấy là một người đàn bà cô đơn, bất hạnh sâu sắc và có cơ địa tàn bạo, không mảy may đáng được hưởng mối thiện cảm ngây thơ ấy?

Tôi muốn khóc nức lên, vì Anita và tất cả các bạn cô đang tuyệt vọng cố công biến mình thành các người mẫu như Shalom hay Stella hay Carmen - để qua đó gây ấn tượng hay làm vừa ý một người đàn bà vốn chỉ nhếch mép, nhún vai vứt thư họ vào sọt rác, không nghĩ đến một tích tắc đến cô gái đã giãi bày hết lòng mình trong một lá thư. Tôi cất lá thư vào ngăn kéo trên cùng của bàn giấy và trang trọng tự hứa với mình sẽ phải làm được gì đó cho Anita. Cô tỏ ra tuyệt vọng hơn mọi người khác từng viết nhưng lá thư tương tụ, và trong đống quần áo vứt bừa bãi vô dụng ở đây nhất định phải có một chiếc áo dài cho cuộc hẹn mà hy vọng là Anita sắp có.

"Emily, tôi chạy xuống quầy báo dưới nhà xem số Thời trang Phụ nữ Hằng ngày mới đã có chưa nhé. Trời ơi, đã muộn thế rồi. Chị có cần gì không?"

"Chị mua hộ tôi một lon Diet Coke nhé?" Cô hỏi.

"Được ngay, một chút thôi," tôi hứa và nhanh nhẹn lách giữa mấy giá áo đi ra thang máy, ở đó tôi nghe tiếng Jessica và James hút chung một điếu thuốc và đoán mò có những ai tối nay đến Whitney dự tiệc của Miranda. Tôi thở phào khi Ahmed đã có sẵn cho tôi một số Thời trang Phụ nữ Hằng ngày, tôi với thêm lon Diet Coke mà Emily đặt. Nghĩ một thoáng, tôi cũng đổi lon Pepsi của mình lấy Diet Coke. Pepsi ngon hơn thật, nhưng bù lại tôi thì không phải chịu ánh mắt và lời bình trên tầng.

Mải ngắm hình bìa sặc sỡ của Tommy Hilfinger, tôi không thấy cửa một thang máy mở ra. Trong khóe mắt tôi nhận ra có gì đó màu xanh, một màu xanh lá cây rất đặc biệt - chủ yếu vì bà sếp kính mến của tôi có một bộ Chanel vải tuýt đúng màu xanh này, một kiểu xanh tôi chưa hề nhìn thấy và khiến tôi thích thực sự. Cưỡng lại linh cảm, tôi ngẩng đầu lên và không ngạc nhiên lắm khi đó lại chính là Miranda. Bà đứng thẳng như tượng trong thang máy, tóc chải lật ra sau như thường lệ, chăm chú quan sát nét mặt tôi lúc đó chắc đượm vẻ hoảng sợ. Tôi không còn cách nào khác là tiến vào hang hùm.

"Ồ, Miranda, xin chào," tôi thốt lên, nghe như nói thầm. Cửa thang máy khép lại sau lưng: chỉ hai chúng tôi cùng đi lên mười bảy tầng liền. Miranda lẳng lặng rút cuốn sổ da ghi chép lịch làm việc là lật trang. Mỗi giây mà chúng tôi đứng sát vai nhau trôi qua, sự im lặng càng sâu sắc và nặng nề hơn. Bà ấy có nhận ra tôi không? Hay là sự hiện diện của tôi ở văn phòng trong bảy tháng qua làm trợ lý cá nhân không hề được bà ghi nhận? Hoặc tôi thì thào quá khẽ khiến bà không nghe được? Tại sao bà không hỏi tôi ngay về bài phê bình nhà hàng, và tôi đã nhận được tin nhắn của bà sai đặt mua đồ sứ mới chưa, hay mọi thứ cho bữa tiệc tối nay đã sẵn sàng? Bà xử sự như trong hộp thang máy này ngoài bà ra không còn sinh vật nào khác - ít nhất là sinh vật nào đáng để bà chú ý đến.

Sau chừng một phút, tôi nhận ra thang máy chưa chuyển dịch được phân nào từ khi tôi bước vào. Ôi lạy chúa! Có nghĩa là bà đã thấy tôi, và chắc mẩm là tôi sẽ nhấn nút lên tầng. Song tôi lại choáng váng đứng ngây ra. Tôi lấm lét với tay nhấn nút số mười bảy, luôn sẵn sàng đợi sấm sét giáng xuống đầu. Nhưng ngoài việc thang máy vút lên cao, không có gì xảy ra cả; chắc là bà không nhận ra là chúng tôi từ nãy đứng im tại chỗ.

Tầng năm, sáu, bảy... thời gian như kéo dài vô tận, không gian tĩnh lặng làm tai tôi ù lên: rốt cuộc tôi thu hết cam đảm nhìn lên và thấy Miranda đang quan sát tôi từ chân đến đầu. Bà đưa mắt điềm nhiên quét từ giày lên quần và áo, lên tiếp mặt và tóc nhưng không nhìn vào mắt tôi. Ánh mắt của bà báo hiệu sự kinh tởm vô cảm của các cảnh sát chai lì trong mấy xê-ri phim hình sự khi thấy xác chết bét nhè máu me thứ một trăm. Tôi thoáng điểm qua xem có lý do gì để bà phản ứng như vậy: sơ mi ngắn tay kiểu quân sự, quần bò Seven mới tinh, được bên quảng cáo tặng vì tôi làm việc ở Runway, xăng đan đen có gót tương đối thấp (năm phân) - đôi duy nhất phải bốt hay giày thể thao hay giày lười cho phép tôi mỗi ngày bốn lần, hoặc nhiều hơn, chạy sang Starbucks mà chân không ê ẩm đau. Thường ngày tôi vẫn cố xỏ giày Jimmy Choo của Jeffy đưa cho, nhưng mỗi tuần một lần chân tôi réo đòi nghỉ ngơi. Tóc tôi mới gội và cuốn thành búi trể nải nhưng khéo léo hệt như Emily vẫn làm, móng tay tôi tuy không sơn màu song bù lại rất dài và trông tương đối ưa mắt. Lần cạo nách cuối cùng cũng chưa đến bốn mươi tám tiếng. Kiểm tra da mặt vừa rồi cũng không thấy mụn nhọt gì cả. Mặt đồng hồ đeo tay Fossil của tôi quay vào phía trong, đề phòng ai đó thoạt nhìn là nhận ra mác ngay. Tôi cẩn thận sờ tay phải xem quai nịt vú có hở ra ở đâu không. Vậy thì sao? Tại sao bà ấy nhìn tôi như vậy?

Tầng 12, 13, 14... Thang máy dừng lại để lộ một khu lễ tân trắng toát đến chói mắt và một cô gái toan bước vào. Nhưng khi thấy Miranda cô hốt hoảng bật ngược trở lại.

"Ô, tôi, à..." cô lắp bắp. Trong nỗi kinh hoàng, cô ngó quanh tìm một cớ thoái thác để khỏi phải bước vào địa ngục cá nhân của chúng tôi. Trong thâm tâm tôi chúc cô thoát khỏi chốn này, tuy nếu có ai cùng vào thì tất nhiên dễ chịu hơn cho tôi. "Thôi chết, tôi quên mất cuốn ảnh đem kiểm tra rồi," rốt cuộc cô cũng nảy ra một cớ và quay phắt trên đôi Manolo gót cao lênh khênh nguy hiểm để biến mất. Miranda có vẻ không để ý gì. Cửa đóng lại.

15, 16, rồi cuối cùng cũng đến tầng 17! Trước cửa thang máy là một nhóm trợ lý thời trang của Runway đang vội vã đi lấy thuốc lá. Diet Coke và rau trộn, nghĩa là đi ăn trưa. Những khuôn mặt xinh đẹp, trẻ trung và khiếp sợ. Thiếu chút nữa thì họ giẫm đạp lên nhau để mở đường cho Miranda. Đám đông tách ra ở giữa, ba người tránh sang trái, hai người sang phải, và nữ hoàng hạ cố đi vào chính giữa. Mọi người im lặng ngó theo bà, tôi bám theo Miranda vì cũng chẳng thế làm khác. Đằng nào bà ấy cũng chẳng buồn để ý, tôi nghĩ bụng. Nói theo cảm nghĩ của tôi thì chúng tôi đã chịu đựng nhau cả một tuần lễ ngột ngạt trong cái hộp bé xíu tên là văn phòng này mà bà ấy có nhận ra sự có mặt của tôi đâu. Nhầm to, vừa ra khỏi thang máy Miranda quay sang nhìn tôi.

"Aan-dree-aa?" Giọng bà bóp vụn sự im lặng căng thẳng trong phòng. Tôi không trả lời, vì nghĩ đó chỉ là một kiểu nói. Nhưng bà đợi.

"Aan-dree-aa?"

"Vâng, Miranda?"

"Chị đi dép của ai thế kia?" Bà chống nhẹ một tay vào mạng sườn và nhìn tôi chằm chằm. Thang máy đã trôi tuột đi mất, không đem theo lũ trợ lý thời trang đang ngẩn người đứng đó vì rốt cuộc cũng nhìn thấy - và nghe thấy - Miranda bằng xương bằng thịt. Tôi cảm thấy sáu cặp mắt dán vào đôi chân mình, vừa đây thôi vẫn còn thấy dễ chịu nhưng dưới cặp mắt soi mói của năm trợ lý thời trang và một nữ hoàng mốt thì nó đang râm ran ngứa ngáy phát điên lên.

Sự lúng túng nảy sinh từ chuyến đi thang máy cùng nhau (lần đầu tiên!) và chừng ấy cặp mắt dồn vào làm tê liệt trí óc tôi: vì vậy tôi hiểu sai câu hỏi của Miranda, tưởng bà hỏi loại giày nào.

"A, dép này hả?" Tôi trả lời và khi đã buộc mồm nói ra rồi mới nhận ra câu ấy không chỉ vô lễ, mà đơn giản là quá độc địa. Mấy con bé kia cười ré lên và lập tức thu hút cơn thịnh nợ của Miranda.

"Tôi không hiểu vì sao đại đa số các trợ lý thời trang của tôi có vẻ không biết làm gì tốt hơn là ngồi lê đôi mách như mấy đứa trẻ con." Bà trỏ ngón tay vào từng cô, bởi vì có bị gí súng vào đầu thì bà cũng không biết được lấy một tên trong số họ.

"Chị!" Bà cao giọng nói với một cô mới tinh có lẽ lần đầu tiên trong đời thấy mặt sếp. "Chúng tôi tuyển chị vào đây để tán phép hay để đặt quần áo chụp ảnh?" Cô gái cúi đầu và định mở miệng xin lỗi, nhưng Miranda đã quay sang người tiếp theo.

"Còn chị!" Bà tiến sang Jocelin, người có cấp bậc cao nhất trong đám trợ lý thời trang và được tất cả các biên tập viên yêu mến. "Chị có nghĩ là hàng triệu cô gái khác muốn làm việc của chị và cũng thạo về thời trang như chị?" Bà lui một bước, quan sát những người đứng trước bà từ đầu đến chân, thời gian đủ lâu để mỗi người tự thấy mình béo, xấu và ăn mặc vụng về, rồi xua họ về bàn mình. Đầu cúi gằm, gật lấy gật để, thành thật ngượng nghịu xin lỗi, các cô gái xô nhau chạy về phòng thời trang - để lại tôi một mình. Lại một mình, với Miranda.

"Aan-dree-aa! Tôi không thể cho phép trợ lý của tôi nói giọng ấy với tôi," bà giải thích và quay về hướng cửa vào hành lang. Tôi có nên đi theo không? Hy vọng Eduardo, Sophy hay một trong số trợ lý đã kịp thời thông báo cho Emily là Miranda đến.

"Miranda, tôi..."

"Đủ rồi," Bà dừng ở cửa và nhìn tôi. "Chị đi dép của ai thế kia?" Bà nhắc lại câu hỏi. Giọng bà không báo trước điềm lành.

Tôi đưa mắt kiểm tra lần nữa đôi xăng đan đen và nghĩ cách giải thích cho người đàn bà thanh lịch nhất Tây bán cầu rằng tôi đang xỏ đôi dép của Ann Taylor Loft. Liếc nhìn mặt bà, tôi biết im đi là hơn.

"Tôi mua ở Tây Ban Nha," tôi vội nói và nhìn đi chỗ khác. "Trong một cửa hiệu dễ thương ở Barcelona, ngay cạnh Las Rablas. Ở đấy có cả xê ri của nhà tạo mốt." Khỉ thật, đôi giày này tôi lôi ở đâu ra ấy nhỉ?

Bà nghiêng đầu, để nắm tay trước miệng. Qua cửa kính tôi nhìn thấy James đi tới, nhưng nhìn thấy Miranda là quay gót biến luôn. "Aan-dree-aa, dép này không chấp nhận được. Các cô gái của tôi là bộ mặt của tạp chí Runway, và loại dép này không phù hợp với thông điệp mà tôi muốn quảng bá. Chị tìm trong kho quần áo một đôi tử tế. Và đi lấy cà phê cho tôi." Ánh mắt bà rời tôi, chuyển sang phía cửa, cho đến khi tôi hiểu là phải chạy tới mở cửa ra. Bà lướt qua cửa đi về văn phòng, không một lời cảm ơn. Để đi lấy cà phê, tôi cần tiền và thuốc lá, nhưng không cần đến mức phải lạch bạch đi theo bà như một con vịt ngoan ngoãn. Tôi ra thang máy. Năm dollar cho một cốc cà phê sữa thì có thể mượn của Eduardo, và bao thuốc lá mới sẽ được Ahmed ghi vào hóa đơn Runway như ông vẫn làm mấy tháng nay. Tôi đã tưởng có thể lẳng lặng rút lui, song tiếng bà đã bập vào gáy tôi như lưỡi xẻng.

"Aan-dree-aa!"

"Vâng, Miranda," tôi đứng sững lại, quay nhìn bà.

"Bài phê bình nhà hàng mà tôi bảo chị kiếm đã có trên bàn tôi chưa?"

"À, vâng, thú thật là tôi có vấn đề khi tìm nó. Tôi đã gọi điện cho tất cả các báo, không tờ nào đăng một bài phê bình về nhà hàng châu Á nào trong tuần qua. Bà có tình cờ còn nhớ nhà hàng tên gì không ạ?" Bất giác tôi nín thở đợi đợt tấn công mới.

Dường như bà không để tâm đến lời giải thích của tôi, vì bà vẫn tiếp tục đi về phía văn phòng. "Aan-dree-aa, tôi đã nói với chị là bài này ở tờ Post, chẳng lẽ lại khó tìm đến thế?" Và bà biến mất. Ở tờ Post? Sáng sớm nay tôi vừa nói chuyện với người viết phê bình nhà hàng ở đó, anh ta trang trọng thề với tôi là ở báo ấy không có bài phê bình nào như tôi miêu tả, hơn nữa cả tuần vừa rồi không có lễ khai trương nào đáng kể. Bà này lẩm cẩm thật rồi, và tôi lại là đứa giơ đầu chịu báng.

Vào giờ này thì mua cà phê rất nhanh, tôi tự cho phép mình mười phút để gọi điện cho Alex. Đúng mười hai giờ rưỡi là anh đi ăn trưa. May quá, tôi túm được anh ở số di động chứ không phải lằng nhằng nói chuyện với các giáo viên khác.

"Bé cưng, hôm nay thế nào rồi?" Giọng anh vui vẻ đến khả nghi, khiến tôi phải thật kiềm chế để không phát cáu lên.

"Cho đến phút này thì kinh khủng như mọi hôm, sướng lắm. Hôm nay em mất năm tiếng để đi tìm một bài báo chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng quỷ quái của một người thà chết chứ không nhận là mình nhầm lẫn. Còn chỗ anh thì sao?"

"À, hôm nay rất tuyệt. Anh đã kể cho em về Shauna chưa nhỉ?" Tôi gật đầu, tất nhiên là anh không nhìn thấy. Shauna là một trong những học trò trỏ của Alex và cho đến nay chưa nói một lời nào trong lớp. Alex đã gây áp lực, hứa thưởng quà và nói chuyện lâu với cô bé nhưng không kết quả gì. Anh gần như phát cuồng lên khi cô bé chín tuổi này xuất hiện ở lớp hôm đầu tiên, do một nhân viên công tác xã hội đưa đến và trước đó chưa hề thấy một lớp học từ bên trong. Từ đó anh nung nấu ý định giúp nó.

"Cứ như là con bé không ngậm miệng lại được nữa! Hát một chút thôi. Hôm nay anh mời một ca sĩ nhạc folk đến đây chơi ghi ta với bọn trẻ, và Shauna hát theo ngay. Như lớp băng đã bị phá tan, nó nói chuyện với mọi người, không nghỉ. Nó biết tiếng Anh. Vốn từ tương thích với lứa tuổi, nó hoàn toàn và tuyệt đối bình thường!" Niềm phấn khích của anh lây sang tôi, khiến tôi phải mỉm cười, và đột nhiên thấy nhớ anh. Cú thăm bất ngờ tôi qua rất thú vị, nhưng như thường lệ tôi quá mệt mỏi để có thể góp vui. Giữa hai chúng tôi có một thỏa thuận không nói ra lời và lặng lẽ đợi cho hết hạn tù, hết năm nô lệ này đi, rồi mọi chuyện sẽ lại tiếp diễn như ngày xưa. Mặc dù vậy, tôi vẫn nhớ anh, và vẫn thấy bứt rứt vì chuyện Christian.

"Chúc mừng anh! Không phải vì anh cần sự khẳng định cho khả năng sư phạm kiệt xuất của mình, đó là mặc nhiên! Chắc là anh đang vui lắm."

"Ừ, cực vui." Tôi nghe tiếng chuông ở hậu trường.

"Anh ơi, anh vẫn giữ hẹn gặp nhau tối nay đấy chứ?" Tôi hỏi, mong manh hy vọng là anh chưa có kế hoạch nào khác. Sáng sớm nay, khi tôi loạng choạng ra khỏi giường và lê bộ xương đâu nhức vào phòng tắm, anh gọi với theo là anh sẽ mượn băng video, đặt đồ ăn và nghỉ ngơi thoải mái. Tôi lầm bầm đáp một cách mỉa mai không cần thiết là anh nên nghĩ ra trò gì hay hơn cho chính mình, vì đằng nào thì cũng tận nửa đêm tôi mới về và lăn đùng ra giường, và ít nhất thì một trong hai chúng tôi nên tận hưởng cuộc sống vào buổi tối thứ Sáu. Lúc này tôi chỉ muốn nói với anh rằng tôi bực mình về Miranda, về Runway và về chính mình chứ không tại anh, và tôi không tưởng tượng ra thú vui nào lớn hơn là mười lăm tiếng đồng hồ liền được lười nhác nằm trên sofa và âu yếm với anh.

"Dĩ nhiên," giọng anh có vẻ bị bất ngờ, nhưng vui vẻ. "Anh có thể đợi ở nhà em, rồi mình nghĩ xem làm gì. Cho đến lúc em về anh tán gẫu với Lily."

"Thế thì quá hay. Bảo cô ấy kể hết về đồ đệ nhỏ của Freud cho mà nghe."

"Về ai?"

"Không quan trọng. Anh ơi, em phải đi đây. Em không được phép bắt nữ hoàng đợi cà phê lâu hơn nữa. Tối nay nhé, em sốt ruột rồi đấy."

Eduardo để tôi qua rào bảo vệ sau hai lần hát điệp khúc của "We Didn't Start the Fire" (tôi tự chọn), còn Miranda đang mải nói chuyện khi tôi đặt cà phê lên góc tận cùng bên trái bàn giấy. Phần thời giờ còn lại trong buổi chiều tôi gây sự với tất cả trợ lý và biên tập ở New York Post mà tôi vớ được qua điện thoại và cố giải thích là tôi biết rõ tờ báo của họ hơn chính họ, và tôi chỉ muốn xin một bản sao nhỏ bé của bài phê bình nhà hàng châu Á ra mắt hôm qua mà thôi.

"Thưa chị, tôi đã nói cả chục lần và nói thêm lần nữa: chúng tôi không có bài phê bình nhà hàng nào. Tôi biết bà Prestly là ngườ điên điên và không hề nghi ngờ chuyện bà ấy đày dọa mọi người như dưới địa ngục, nhưng tôi không thể bịa ra một bài báo khi nó không có thực. Rõ chứ ạ?" Đó là câu chót của một cộng tác viên tự do mục Chuyện vỉa hè bị cử đi tìm bài báo ấy để tôi hết quấy rầy. Anh ta rất kiên nhẫn và nhiệt tình, nhưng ý chí làm việc thiện của anh cũng có hạn. Emily đang bàn luận với một phóng viên tự do mục nhà hàng của tờ Post, và James sau khi bị tôi xin xỏ cũng gọi một anh bạn cũ đang làm việc ở phòng quảng cáo, biết đâu anh ta cũng có thể giúp được. Đã ba giờ chiều rồi, và Miranda đã hỏi từ hôm qua: lần đầu tiên tôi không cung cấp được ngay thứ bà muốn.

"Emily!" Có tiếng Miranda gọi từ căn phòng sáng sủa và thân thiện của bà.

"Vâng, Miranda?" Chúng tôi đồng thanh trả lời và bật dậy, không rõ bà gọi ai.

"Emily, tôi nghe chị vừa nói chuyện với bên tờ Post?" Emily thực thở phảo ngồi phịch xuống ghế.

"Vâng, Miranda, tôi vừa đặt máy. Tổng cộng tôi đã nói chuyện với ba người, và họ bảo đảm chắc chắn là trong tuần vừa qua họ không hề có lấy một bài báo nào về nhà hàng châu Á ở Manhattan cả. Có thể báo đăng ở số trước đó?" Tôi đã ra đến trước bàn bà, luôn đổi chân - giờ đã được nâng cao thêm mười phân - và cúi đầu quan sát đôi xăng đan Jimmy Choo đen mà Jeffy cười nhếch mép lấy cho tôi từ kho trang phục ra.

"Manhattan?" Làm sao có thể vừa ngơ ngác vừa thịnh nộ như vậy nhỉ? "Ai nói với chị về Manhattan?"

Giờ đến lượt tôi ngơ ngác.

"Aan-dree-aa, tôi đã nói với chị tối thiểu năm lần là bài phê bình nói về một nhà hàng ở Washington mà chị phải đặt bàn cho tôi ở đó trong tuần tới." Bà nghiêng đầu, nhếch môi thành một nụ cười - không thể nói khác được - độc ác. "Chính xác là thử thách nào trong dự án này vượt quá sức chị vậy?"

Washington? Bà đã nói với tôi năm lần là nhà hàng ở Washington? Tôi không tin. Hoặc là bà mất trí, hai là bà có niềm vui tàn bạo khi ngắm tôi trong quá trình mất trí. Nhưng chắc tôi mới là đồ ngốc như bà nghĩ, vì tôi lại mở miệng không suy nghĩ.

"Ồ, Miranda, tôi khá chắc chắn là New York Post không có bài nào về nhà hàng ở Washington cả. Như tôi biết, họ chỉ đến xem và bình luận các nhà hàng mới khai trương ở New York."

"Chuyện tiếu lâm hả, Aan-dree-aa? Chị nghĩ là mình khôi hài lắm à?" Nụ cười của bà vụt biến mất, bà rướn người tới trước trong tư thế ngồi, khiến tôi liên tưởng đến con kền kền đói đang sốt ruột đảo vòng trên con mồi.

"Không, Miranda, à, tôi chỉ nghĩ là..."

"Aan-dree-aa, tôi đã giải thích cặn kẽ hàng chục lần là bài phê bình mà tôi tìm ở trên tờ Washington Post. Có thể chị đã nghe nói về tờ báo tẹp nhẹp này rồi chăng? Giống như New York có tờ New York Times, Washington D.C. cũng có báo riêng của mình. Chị có hiểu mối liên quan ấy không?" Nghe bà không giễu cợt chút nào nữa, thay vào đó là giọng hết sức kẻ cả, tiếp nữa chỉ còn là nói với tôi kiểu bập bẹ trẻ con.

"Tôi kiếm ngay," tôi cố nói bình tĩnh như vẫn có thể và lặng lẽ ra ngoài.

"À này, Aan-dree-aa?" Tim tôi nảy xóc, dạ dày nhói lên vì phải đợi cú bất ngờ mới. "Tôi xếp chị làm lễ tân ở buổi tiệc tối nay. Chấm hết."

Tôi nhìn qua Emily, cô ngồi đần ra và những nếp nhăn trên trán cô cho thấy cô điếng người như chính tôi.

"Tôi nghe có đúng không đấy?" Tôi thì thầm với Emily. Cô chỉ gật đầu và ra hiệu tôi ra góc cô ngồi.

"Tôi đã lo chuyện ấy xảy ra," cô thì thầm đầy quan trọng như một bác sĩ phẫu thuật phải thông báo với gia quyến bệnh nhân là mổ phanh khoang ngực ra sẽ thấy một điều khủng khiếp.

"Không thể thế được. Bây giờ là bốn giờ chiều thứ Sáu. Tiệc bắt đầu lúc bảy giờ. Bắt buộc phải mặc đồ đại lễ. Bà ấy không thể xếp tôi làm ở đó được." Tôi ngờ vực nhìn vào đồng hồ và cố nhớ từng lời Miranda vừa nói.

"Có chứ, sếp nói nghiêm túc đấy," cô nói và nhấc điện thoại. "Tôi sẽ giúp chị, okay? Bây giò chị đi tìm bài phê bình trong Washington Post và nộp bản copy cho sếp trước khi bà ấy đi. Yuri sắp chở bà ấy về nhà làm tóc và trang điểm. Tôi kiếm cho chị áo dài và những đồ khác mà chị sẽ cần tối nay. Đừng lo. Chúng mình sẽ làm xong tất." Cô nhấc số điện với tốc độ súng máy và thì thào vào máy các lệnh nghe rất khẩn thiết. Tôi đứng đực ra nhìn cô, cho đến khi cô - không ngẩng lên - phẩy tay về phía tôi và chớp nhoáng đưa tôi về thực tại.

"Đi đi," cô khẽ nói và đưa mắt sang tôi một ánh nhìn mang chút cảm thông vô cùng hiếm hoi. Và tôi đi.

"Cậu không thể đi taxi đến đó được," Lily nói trong khi tôi vụng về chấm mascara Maybelline Great Lash mới mua lên mi. "Đây là một đại lễ, cậu phải gọi xe đi, trời ạ." Cô quan sát tôi thêm một phút rồi giật lấy que chuốt dính đầy màu và cẩn thận chuốt lên mi mắt tôi.

"Có lẽ cậu nói đúng." Tôi thở dài, vẫn điên đầu khi nghĩ đến tối thứ Sáu của tôi đi tong, chỉ để khoác đồ đại lễ chào đón mấy bọn nhà quê giàu xổi từ Georgia và Bắc hay Nam Carolina lên và mỉm cười giả dối với những khuôn mặt đánh phấn vụng về. Sau khi được tin, tôi còn đúng ba tiếng để kiếm áo dài, mua son phấn, mặc đồ lên người và tung hê mọi kế hoạch cho cuối tuần, kết quả là trong khi cuống quýt vội vã đã quên hẳn chuyện xe cộ.

May mắn thay, đi làm cho một trong những tạp chí thời trang lớn nhất trong nước cũng có lợi thế (một công việc mà hàng triệu cô gái xin chết để được nhận!) Đúng 4 giờ 20 tôi là bà chủ kiêu hãnh ngắn hạn của một chiếc áo dài Oscar de la Renta đen chấm gót, do Jeffy hào hiệp xuất kho cho - ông chủ của kho quần áo và người say mê tất cả những gì thuộc về phái yếu ("Này người đẹp, đã mặc đồ dạ hội thì phải là Oscar, thế thôi. Nào, đừng xấu hổ, tụt quần ra và thử đồ này cho Jeffy xem." Khi tôi mở khuy, anh rùng mình. Tôi hỏi anh, chẳng lẽ cơ thể bán khỏa thân của tôi làm anh ngán đến thế, anh trở lời, tất nhiên là không; cái làm anh ngán là xi líp của tôi hằn ra ngoài quần). Các trợ lý thời trang đã mang đến một đôi Manolo màu nhũ bạc đúng cỡ chân tôi, và một cô ở phòng phụ kiện đưa chiếc túi màu bạc Judith Leiber quá ư diêm dúa, có quai dài bằng xích mỗi khi chuyển động lại rung lên xủng xoảng. Tôi rụt rè ngỏ ý xin chiếc ví đầm kẹp nách loại giản dị của Calvin Klein, nhưng cô ta chỉ khịt mũi khinh bỉ và ép tôi dùng túi này. Stef còn lưỡng lự, liệu tôi có nên đeo một dây chuyền ngắn hay dài, còn Allison, vừa được thăng chức biên tập viên thẩm mỹ, bám lấy chiếc điện thoại và gọi cho tôi một nhân viên về móng tay đến tận văn phòng.

"Cô ấy đợi chị lúc 5 giờ kém 15 ở phòng họp," Allison báo cho tôi qua máy nội bộ. "Chị mặc đồ đen à? Thế thì đòi màu Chanel Ruby Red. Công ty trả tiền."

Cả văn phòng nhộn nhạo hẳn lên, cốt chỉ để tôi xuất hiện tương đối tử tế tại buổi tiệc tối nay. Một điều chắc chắn: họ bày trò múa rối này hoàn toàn không phải vì thấy tôi đáng yêu và xinh đẹp hoặc không tưởng tượng ra việc gì hay hơn là giúp tôi trong lúc rối ren: mà họ biết chắc rằng ý tưởng kỳ khôi này là của Miranda, vậy nên phải hăng hái chứng minh cho bà biết khả năng của mình về thẩm mỹ và phong cách.

Trước khi rời khỏi nhà, tôi đi lại trong phòng trên đôi Manolo cao mười phân lênh khênh, hôn lên trán Alex. Anh hầu như không ngẩng lên khỏi tờ tạp chí đang đọc.

"Nhất định em sẽ về trước mười một giờ, sau đó mình có thể đi ăn uống ở đâu đó, okay? Rất tiếc có chuyện xen vào, thật đấy. Nếu anh muốn đi chơi với các bạn thì gọi điện cho em, có thể em gặp bọn anh ở đâu đấy, okay?" Như đã hứa, anh rời khỏi trường là đến ngay để tối nay ở cùng tôi, và tỏ ra không phấn khởi lắm khi nghe tin tối nay sẽ được nghỉ ngơi thoải mái, nhưng không có mặt tôi. Lúc này anh ngồi ngoài ban công cạnh phòng tôi, đọc một số Vanity Fair cũ nằm lăn lóc trong phòng, uống một chai bia mà Lily để sẵn trong tủ lạnh cho khách. Tôi chợt nhận ra là anh không ngồi cùng Lily.

"Lily đâu?" Tôi hỏi. "Cô ấy không đi học, và em biết là cả mùa hè này không làm thứ Sáu."

Alex uống một ngụm bia và nhún vai. "Cửa phòng cô ấy đóng, nhưng lúc nãy anh thấy có thằng cha đi lại ở đây."

"Một thằng cha? Anh có nhớ vài đặc điểm không? Kiểu người gì?" Kẻ trộm à? Hay tay đồ đệ nhỏ của Freud rốt cuộc đã được mời đến?

"Anh không biết, nhưng trông hắn hơi kỳ dị. Xăm mình, xỏ khuyên, ngổ ngáo, không thiếu thứ gì. Chẳng rõ cô ấy lôi hắn từ đâu về?" Anh lặng lẽ uống thêm một ngụm nữa.

Tôi càng không rõ Lily gặp hắn ở đâu, tối qua lúc mười một giờ đêm tôi còn để cô lại với một người hết sức lịch thiệp tên là William, mà William thì, như tôi đánh giá, không có dáng ngổ ngáo hay xăm trổ đầy mình.

"Alex, anh nói nghiêm túc xem nào! Chẳng lẽ có một thằng lưu manh quanh quẩn trong căn hộ em, bất kể được mời hay không, mà anh không thèm để ý? Buồn cười thật! Mình phải làm gì chứ," tôi nói, đứng dậy khỏi ghế và ngạc nhiên, như mọi khi, tại sao sự chuyển dịch trọng lực không làm sập cả ban công.

"Bình tĩnh nào, Andy. Lưu manh thì chắn chắn không phải." Anh giở tiếp một trang. "Có thể một dạng Punk-Grunger [chỉ nhưng người có cách sống bên lề, kỳ quái cũng nên, nhưng không phải lưu manh."

"Hay, hay thật đấy. Anh dậy đi cùng em xem có chuyện gì, hay định ngồi cả đêm ở đây?"

Anh vẫn tránh ánh mắt tôi, cuối cùng thì tôi cũng hiểu ra là anh phần nào bực mình vì buổi tối nay. Dĩ nhiên, không phải bàn, nhưng chính tôi cũng bực mình vì phải làm việc và cũng không có lựa chọn nào khác. "Nếu cần gì thì em cứ gọi điện cho anh."

"Thôi được," tôi nổi xung và chuẩn bị sẵn sàng tấn công vào phòng bên. "Anh chẳng cần bận tâm khi thấy em nằm bét nhè trên sàn nhà tắm. Thật đấy, chuyện vặt mà..."

Tôi đi lại sầm sập trong nhà và tìm kiếm dấu hiệu chứng tỏ có người trong phòng thực sự. Vật duy nhất đập vào mắt tôi là một chai "Ketel One" đã cạn trong bồn rửa tay. Chẳng lẽ Lily từ nửa đêm đến giờ đã kịp mua một chai vodka và tu sạch? Tôi gõ cửa phòng cô. Không ai trả lời. Gõ lần nữa, lâu hơn, một giọng đàn ông nói "có người gõ cửa kìa". Đợi không thấy ai ra, tôi xoay nắm cửa.

"Có ai trong phòng không?" Tôi định không ngó vào phòng, nhưng chỉ giữ ý định đó được năm giây. Ánh mắt tôi quét qua hai quần bò quăng bừa nằm dưới sàn, một nịt vú treo lủng lẳng ở ghế đẩu, và gạt tàn đầy mẩu thuốc khiến cả phòng hôi xì như sau một buổi liên hoan sinh viên. Rồi tôi nhìn thẳng vào giường, cô bạn thân nhất của tôi nằm nghiêng quay lưng ra, không mảnh che thân. Bên cạnh cô là một tay nom ốm yếu, vệt mồ hôi phía trên môi, tóc tai dính bết. Vô số hình xăm ngoằn ngoèo như chìm lẫn đi trong vải trải giường xanh của Lily. Một vòng khuyên xỏ qua lông mày, tai đeo đầy kim loại lấp lánh, và hai gai kim loại mài đầu chọc ra từ cằm. May mà gã mặc quần soóc lửng, nhưng trông nó bẩn thỉu, cũ và ghê tởm đến nỗi thà tôi thấy gã trần truồng còn hơn - về lý thuyết. Gã khoan khoái rít một hơi thuốc và gật đầu về phía tôi.

"Chào," gã nói và vẫy điếu thuốc. "Đóng cửa lại được không, cô bạn?"

Gì cơ? Cô bạn à? Thằng cha người Úc nhếch nhác này đinh láo toét với tôi?

"Mày hút crack?" Việc gì phải giả vờ lịch sự nữa. Tôi đâu có sợ. Gã nhỏ hơn tôi, chưa đến sáu mươi cân. Xét tình cảnh hiện tại thì chuyện tệ nhất có thể xảy ra là hắn đụng vào tôi. Tường tượng ra cảnh hắn chạm vào Lily khiến tôi rùng mình, nhưng cô bạn thân nhất của tôi vẫn bình yên thiêm thiếp trong vòng tay che chở của gã. "Mày tưởng mày là ai ở đây? Đây là nhà tao, mày biến khỏi đây đi, ngay lập tức!" Tôi cao giọng, được thúc đẩy bởi áp lực thời gian: tôi còn đúng một tiếng để chuẩn bị trang phục cho buổi tối căng thẳng nhất từ trước đến nay trong sự nghiệp, và việc tống cổ một thằng nghiện ra khỏi nhà không hề nằm trong kế hoạch.

"Kìa cô nàng, từ từ đã nào," gã thở ra và rít hơi nữa. "Không có vẻ cô bạn cô muốn tôi ra khỏi đây..."

"Cô ấy sẽ muốn mày ra khỏi đây, nếu Ở TRẠNG THÁI TỈNH TÁO, ĐỒ KHỐN NẠN!" Tôi hét lên, rợn tóc gáy khi nghĩ Lily - rất có thể - đã làm tình với thằng này. "Tao cam đoan với mày là tao nhân danh cả hai để TỐNG CỔ MÀY RA KHỎI NHÀ NÀY!"

Một bàn tay đặt lên vai tôi, tôi quay phắt lại và thấy khuôn mặt Alex lo lắng đánh giá tình thế. "Andy, em đi tắm đi, để anh lo chuyện này, okay?" Alex không thể được gọi là vạm vỡ, nhưng so với thằng cha lẻo khoẻo có bộ mặt dính đầy kim loại đang áp vào lưng cô bạn thân nhất của tôi thì trông anh như một đô vật chuyên nghiệp.

"EM. MUỐN," - tôi chỉ thẳng, không để hiểu nhầm - "THẰNG. KIA. RA. KHỎI. NHÀ. NÀY."

"Anh biết em muốn gì. Và anh biết anh ấy cũng muốn đi khỏi đây rồi, đúng không anh bạn?" Alex hỏi với giọng êm dịu mà người ta vẫn khuyên dùng khi gặp chó dại.

"Anh bạn, đừng có lắm chuyện. Vui vẻ với Lily một chút thôi mà. Tối qua ở Au Bar cô ấy cứ sán vào tôi, hỏi mọi người ai cũng biết. Cô ấy chỉ muốn tôi về cùng."

"Tôi không nghi ngờ chuyện đó," Alex nói dịu dàng. "Lily là một cô gái thân thiện lúc bình thường, nhưng đôi khi cô ấy quá say sưa không biết mình làm gì nữa. Là bạn của cô ấy, tôi đề nghị, bây giờ anh nên đi."

Gã nghiện dụi mẩu thuốc và vung tay lên đầy kịch tính ra bộ lui bước: "Anh bạn, không có vấn đề gì cả. Tôi tắm thật nhanh và nói với cô bé Lily lời tạm biệt, xong rồi đi luôn." Gã vung cẳng khỏi giường và với chiếc khăn treo gần bàn.

Alex bước tới, giật phắt khăn khỏi tay và nhìn thẳng vào mắt gã: "Không. Tôi nghĩ anh nên đi. Ngay lập tức!" Trong gần ba năm quen nhau, tôi chưa thấy Alex như thế bao giờ. Anh đứng sừng sững trước mặt gã để cho lời cảnh cáo có hiệu nghiệm.

"Anh bạn, được rồi, tôi sẽ đi đây," gã làu bàu sau khi nhìn Alex mà gã chưa đứng đến cằm. "Để tôi mặc quần áo nhanh nhanh rồi ra cửa luôn." Gã nhặt chiếc quần Jeans dưới đất và kéo chiếc T-shirt cắt gấu từ dưới người Lily lúc này vẫn khỏa thân. Cô cựa quậy và mấy giây sau mới mở được mắt.

"Đắp chăn cho cô ấy!" Alex quát cộc cằn, rõ ràng thích vai trò bảo vệ mới mẻ này. Gã nghiện lẳng lặng kéo chăn đến vai Lily, chỉ để hở ra những lọn tóc đen quăn bù xù.

"Chuyện gì thế?" Lily khàn giọng hỏi trong khi cố giữ mắt mở. Cô quay hẳn người lại, thấy tôi giận dữ đứng trong khung cửa, trong khi Alex giữ tư thế trấn áp và xem gã kia gói mớ quần áo xanh vàng sặc sỡ lại để chuồn trước khi quá muộn. Quá muộn. Cô đã nhìn thấy gã.

"Thằng cha nào đây?" Cô hỏi và ngồi bật dậy, thậm chí không ý thức được là trên người không có mảnh che nào. Alex và tôi bất giác ngoảnh mặt đi, trong khi cô hoảng hốt kéo chăn. Trái lại, gã nghiện thèm thuồng nhìn vào bầu vú cô.

"Cưng, em không nhớ anh là ai nữa hay sao?" Giọng phát âm Úc của gã ngày càng chối tai hơn. "Đêm qua em còn biết rõ lắm cơ mà."

Điệu bộ gã như sắp ngồi xuống giường với cô, nhưng liền bị Alex túm tay xốc lên.

"Đi ra. Ngay bây giờ. Không thì tao phải giúp một tay," anh ra lệnh, rất đáng yêu và tự tin trong vai trò người hùng.

Gã giơ hai tay và chặc lưỡi. "Tôi đi rồi. Gọi điện cho anh nhé, Lily. Đêm qua em khá lắm." Gã vù nhanh khỏi phòng ngủ, qua phòng khách, Alex theo sát chân. "Chà, con bé hăng khiếp," tôi còn nghe gã nói với Alex trước khi cửa phòng sập lại. Lily chắc không nghe thấy câu ấy. Cô trèo khỏi giường và mặc T-shirt.

"Lily, thằng quỷ nào đấy? Tớ chưa từng thấy một thằng ngu nào như thế, chưa kể là còn bẩn đến phát tởm."

Cô chầm chậm lắc đầu, rõ ràng đang cố nhớ lại đã chạm trán gã kia ở đâu. "Tởm thật, cậu nói đúng, quá tởm, tớ cũng chẳng nhớ chuyện gì đã xảy ra. Tớ còn biết tối qua, lúc cậu đi khỏi và tớ trò chuyện với một anh chàng dễ thương nào đó mặc com lê. Chúng tớ uống vài ly Jaegermeister, không rõ tại sao, thế thôi."

"Lily, cậu phải phê đến mức nào để không những chỉ ngủ với một thằng khốn khiếp như vậy, lại còn đưa nó về nhà bọn mình nữa!" Tôi nghĩ là mình chỉ nói rõ lại những gì xảy ra, nhưng Lily trố mắt ngạc nhiên.

"Cậu bảo là tớ làm tình với hắn?" Cô lí nhí hỏi, như không muốn chấp nhận sự thật trần trụi.

Tôi nhớ lại Alex nói gì trước đây mấy tháng: Lily uống quá mức bình thường - mọi dấu hiệu đều rõ cả. Cô thường xuyên bỏ học, đã từng bị bắt, hôm nay còn lôi một dị dạng độc nhất cô nhị của giống đực về nhà. Tôi còn nhớ lại tin nhắn của một giáo sư nói vào băng ghi âm cho cô ngay sau hôm thi tốt nghiệp: đại khái là bài viết của cô rất xuất sắc nhưng ông không thể cho điểm tuyệt đối vì cô vắng quá nhiều buổi thảo luận và bài nào cũng nộp chậm. Tôi quyết định sẽ tiếp cận một cách cẩn trọng. "Lily yêu, tớ cho rằng vấn đề không phải là thằng cha ấy, mà là chuyện uống, đó mới là nguyên nhân."

Cô chải đầu, và lúc này tôi sực nhận ra là cô vừa ra khỏi - sáu giờ tối thứ Sáu! Cô không cãi lại, vậy tôi nói tiếp.

"Về nguyên tắc thì tớ không can chuyện uống," tôi cố gắng nói sao cho không phá vỡ không khí hòa bình. "Tất nhiên, tớ không nói phải tuyệt đối kiêng rượu. Tớ chỉ ngại khi mọi thứ vượt khỏi tầm kiểm soát thôi, hiểu không? Chuyện ở trường có okay không?"

Cô định trả lời nhưng Alex thò đầu vào cửa và đưa tôi chiếc điện thoại réo chuông. "Bà ấy đấy," anh nói rồi đi ra. Điên thật! Mụ già này quả có năng khiếu đặc biệt có thể phá phách mọi chuyện.

"Xin lỗi," tôi nói với Lily và bực tức nhìn hàng chữ "MP DI ĐỘNG" nhấp nháy trên màn hình. "Thường thì bà ấy chỉ cần một giây để mắng chửi tớ, vậy chớ quên là cậu định nói gì nhé." Lily đặt lược xuống và nhìn tôi gọi điện.

"Văn phòng Mi..." tôi suýt trả lời như mọi lần. "Andrea đây," tôi chữa lại và sẵn sàng chờ đạn.

"Andrea, chị biết là tôi đợi chị tối nay đúng sáu rưỡi ở đây chứ?" Bà sủa vào máy,bỏ qua câu chào hỏi, xưng tên tuổi hay đại loại thế.

"Ô, à, bà đã nói lúc nãy là bảy giờ. Tôi còn phải..."

"Tôi đã nói là sáu rưỡi, và nói lại lần nữa là s-á-u-r-ư-ỡ-i. Rõ chưa?" Cạch. Ngắt máy. Tôi nhìn vào đồng hồ. 6 giờ 5. Làm sao bây giờ?

"Hai mươi lăm phút nữa là phải có mặt," tôi nói to cho mọi người biết.

Lily vui mừng đón cú ngắt quãng. "Nào, thế thì ta vào việc đi."

"Bọn mình đang dở chuyện, và là chuyện quan trọng. Cậu vừa định nói gì?" Đúng cả, nhưng rõ ràng cả hai đều biết là tâm trí tôi đã ở tận đẩu tận đâu. Không tắm nữa. Tôi còn đúng mười lăm phút để trang điểm xong xuôi và nhảy lên ô tô.

"Nhanh lên, Andy, cậu phải đi rồi. Mình nói chuyện ấy lần sau."

Và lại một lần nữa tôi không thể làm gì khác là cuống quýt làm, mạch đập thình thịch: mặc áo dài, chải đầu sơ sơ, đồng thời liếc qua tờ Emily in ảnh các khách đến tối nay để xếp cho khớp với tên. Lily quan sát toàn bộ trò này với vẻ khoái trá, nhưng tôi biết chuyện gã nghiện làm cô áy náy, va tôi cảm thấy cắn rứt khi phải để cô một mình. Alex đang gọi điện cho cậu em nhỏ, cố thuyết phục rằng mẹ không phải là bà phù thủy độc ác khi bà cấm cậu ở tuổi này đi xem phim buổi chín giờ tối.

Tôi hôn lên má anh từ biệt; Alex huýt sáo và nói, có thể anh sẽ đi ăn tối với các bạn, và tôi nên gọi điện nếu định đến đó nhập bọn. Tôi ra phòng khách trên đôi giày lênh khênh, Lily đợi đó với một tấm lụa đen hoành tráng. Tôi đưa mắt dò hỏi.

"Khăn quàng cho buổi tối trọng đại của cậu," cô véo von và xổ tung nó ra như khăn trải giường. "Andy của tớ phải diện tưng bừng như bọn nhà giàu lỗ mãng từ Carolina mà tối nay cậu phải phục vụ. Bà tớ tặng tớ trước đây mấy năm đấy, nhân dịp đám cưới của Eric. Tớ vẫn băn khoăn không biết xếp nó vào hạng sang trọng hay nhà quê nữa. Nhưng nó hợp với đồ đại lễ, và của Chanel nữa, thế là đủ."

Tôi ôm cô. "Hứa với tớ là nếu tớ bị Miranda sa thải vì ăn nói thất thố thì cậu sẽ đốt cái áo dài này và cho tớ mặc lại đồ bò của Brown nhé. Hứa đi!"

"Trông cậu rất đẹp, Andy. Tớ không ngờ có ngày được chứng kiến cậu mặc đồ Oscar de la Renta đến dự tiệc của Miranda Priestly, nhưng trông cậu xứng đáng lắm, giờ thì nhanh chân lên."

Cô ấn vào tay tôi cái túi Judith Leiber rực rỡ ghê tởm với quai xích lủng lẳng và mở cửa ra sảnh: "Vui vẻ nhé!"

Ô tô đợi trước nhà. Trong khi lái xe mở sẵn cửa thì John, hiện thân của sự lỗ mãng cao cấp, huýt sáo sau lưng tôi.

"Cho bọn nó đo ván hết đi, cô em," ông gọi với theo và cường điệu vẫy tay. "Tối muộn lại gặp nhau nhé." Tất nhiên ông ta không biết tôi đi đâu, nhưng cũng là một an ủi khi ông nghĩ là tôi về trước bữa sáng. Có thể không đến nỗi tệ đâu, tôi nghĩ bụng và thả người xuống chiếc ghế đệm rộng rãi của chiếc Limousine. Nhưng lúc áo xòa lên gối và lưng tôi chạm phải lớp da lạnh toát thì tôi lại giật mình. Nếu mọi việc tệ như mi vẫn nghĩ?

Đợi đến khi tài xế nhảy khỏi xe và chạy vòng quanh để mở cửa thì tôi đã ra đến vỉa hè từ lâu.

Tôi đã tới bảo tàng Withney một lần, theo tua tham quan thắng cảnh trong một ngày cùng với mẹ và Jill. Bản thân bảo tàng không gợi ra hồi tưởng nào, nhưng nhìn thấy cửa ra vào như cây cầu thì tôi nhớ lại ngay. Ngày ấy còn là đứa trẻ mười bốn tuổi, tôi đứng gần hai mươi phút trên lối đi này nhìn xuống thềm dưới, nơi dân Upper East Side giàu có và dân ngoại tỉnh giàu có đứng lẫn lộn. Tất cả có vẻ đang tranh luận đầy tin cậy và hồ hởi về triển lãm kiến trúc mang tính cách mạng hay bộ ảnh đen trắng độc đáo của một nhà nhiếp ảnh đồng tính trẻ tuổi. Họ trò chuyện với nhau một cách nhẹ nhàng và đi lại với vẻ tin cậy mà tôi, đứa trẻ mới lớn, không cảm nhận được và chắc chắn không muốn cảm nhận.

Tôi quả thật có lý. Hôm nay, mười lăm sau, sự khác biệt duy nhất giữa hai thời điểm là giá tiền của bộ cánh tôi mặc trên người. Và độ cao của gót giày, tất nhiên. Tôi suy tính nhanh, trước tiên là phăng đôi giày qua lối đi, sau đó chính tôi, nhưng một con tính nhẩm cho biết ngay tôi chỉ có thể tàn phá một xương bánh chè hay một ống đồng mà thôi, không đủ để thoái thác dự buổi lễ tối nay. Không còn sự lựa chọn nào nữa, tôi lấy hơi thật sâu, nắm chặt tay để kìm ý định hút điếu thuốc cuối cùng và rút thanh son môi Fudgsicle ra. Đã đến giờ vào vai một quý bà.

Người gác cửa mở cửa cho tôi, mỉm cười và hơi cúi lưng, chắc cho tôi là khách mời.

"Xin chào chị. Nhất định chị là Andrea. Mời chị ngồi đợi một lát ở chỗ kia, Ilana sẽ đến ngay." Xây lưng lại phía tôi, ông kín đáo nói vào micro ở tay áo và gật đầu khẳng định khi có tiếng trả lời trong tai nghe. "Vâng, đúng ạ, ở bên kia, thưa chị. Ilana đến ngay."

Tôi ngó quanh trong tiền sảnh, không muốn bị chỉnh sửa lại áo dài sau khi ngồi. Với lại, bao giờ cho có dịp vào bảo tàng Whitney - hay bất cứ bảo tàng nào đó - sau giờ mở cửa và là người duy nhất? Quầy bán vé trống vắng, phòng bán sách ở tầng trệt tối đèn, nhưng cảm giác gì đó trọng đại diễn ra ở tầng trên thì rõ mồn một.

Sau gần mười lăm phút ngó quanh, luôn cẩn thận không đi quá xa người gác cảnh giác như một ứng cử viên CIA, một người phụ nữ không có gì nổi bật trong áo dài xanh dương đi qua tiền sảnh choáng lộn về phía tôi. Tôi ngạc nhiên vì bề ngoài giản dị của người có vai trò quan trọng như vậy (tổ chức các sự kiện lớn trong bảo tàng). Lập tức tôi thấy mình lố bịch, như một con bé nhà quê diện ngất ngây đi dạ hội, nhưng thực ra tôi nào có khác gì? Ilana thì ngược lại không nhất thiết phải thay bộ đồ văn phòng. Sau này tôi hỏi cô chuyện đó.

"Để làm gì?" Cô cười. "Mọi người đến đây có phải để xem tôi đâu?" Mái tóc nâu của cô mới gội, nhưng không có gì đặc biệt, và đôi giày nâu thấp gót thì cực lạc mốt. Nhưng cặp mắt xanh của cô sáng ngời và thân mật, và tôi biết ngay là mình sẽ mến cô.

"Chị là Ilana ạ?" Linh tính cho tôi biết trong lúc này tôi nên chủ động nói trước và làm chủ tình thế. "Tôi là Andrea, trợ lý của Miranda, tôi đến đây để làm mọi việc khi cần."

Nhìn cô dịu hẳn lo âu, tôi muốn hỏi ngay Miranda đã nói gì với cô. Khả năng này thì vô tận, nhưng chắc chắn dính dáng đến bộ cánh của Ilana như lấy trong Tạp chí người nội trợ ra. Tôi rùng mình khi nghĩ cô gái khả ái này đã phải nghe những lời nào của Miranda và chỉ cầu nguyện để cô đừng khóc òa lên. Thay vào đó, cô nhìn tôi với cặp mắt vô tội và thốt ra rõ tiếng: "Sếp của chị là đồ chó chết."

Tôi cần một lát để qua cơn sốc. "Đúng quá," tôi nói, và hai chúng tôi cùng bật cười.

"Chị cần tôi làm gì? Miranda có đủ linh cảm để mười giây sau là phát hiện tôi đang ở đây. Tôi phải ra vẻ đang làm gì đó."

"Tôi chỉ cho chị xem bàn tiệc," cô nói và vào thang máy, nhấn nút lên lầu một. "Chị sẽ ngã ngửa ra mà xem."

Chúng tôi ra khỏi thang máy, qua cửa nữa, đi vòng qua một bức tượng mà tôi không nhận ra ngay hình ai, đến một phòng nhỏ phía cuối tầng. Một dãy bàn với hai mươi tư chỗ ngồi kê chữ nhật chính giữa phòng. Robert Isabell có giá của mình, tôi biết. Ông là người tổ chức tiệc có máu mặt ở New York, người duy nhất chắc chắn đánh đúng thị hiếu và không bao giờ bỏ sót một chi tiết: luôn đúng gu nhưng không theo trào lưu nào, sang trọng mà không xa xỉ nặng nề, độc đáo nhưng không quá trớn. Miranda gửi gắm Robert làm mọi yến tiệc, nhưng cho đến nay tôi mới biết công việc của ông qua sinh nhật mười tuổi của Cassidy và Caroline. Ông đã biến phòng khách theo phong cách thuộc địa của Miranda thành một phòng hiện đại (đủ thứ, từ quầy bar nước ngọt - uống bằng ly Martini, tất nhiên - sofa da lộn êm ái, lều trang trí kiểu Ma rốc có lò sưởi để khiêu vũ ngoài sân thượng), nhưng những gì tôi thấy ở đây mới là tuyệt đỉnh.

Tất cả trắng tinh. Trắng dịu, trắng ấm, trắng sáng, trắng thô, trắng lóa. Một bụi mẫu đơn trắng sữa như mọc giữa bàn, đúng tầm để mọi người còn nhìn thấy nhau lúc nói chuyện, đồ sứ Trung Hoa trắng ngà (có vân trắng chìm) ngự trên khăn bàn trắng mới hồ cứng, ghế gỗ sồi sơn trắng có tựa cao và bọc da lộn màu trắng mịn, tất cả trên một tấm thảm dày màu trắng riêng cho dịp này. Nến nhà thờ màu trắng trong giá cắm bằng sứ trắng đơn giản chiếu sáng những bông mẫu đơn từ phía dưới (nhưng kỳ lạ thay, không làm cháy cánh) và tỏa sáng một cách nhã nhặn và kín đáo. Màu sắc duy nhất trong toàn bộ căn phòng đến từ những tấm toan tinh xảo treo trên tường quanh phòng. Liếc nhanh qua, tôi hiểu là ông em của Mờ-Cờ-Đờ muốn bữa tiệc của mình diễn ra giữa các bức họa sơn dầu của Rothko, Steel, Kline, và tất nhiên, của Kooning. Màu trắng của bàn tiệc trong sự tương phản có tính toán và chọn lọc với màu sắc tưng bừng của các tấm thảm ngoại cỡ. Lúc quay đầu chiêm ngưỡng sự tương phản giữa trắng và màu ấy ("Robert quả là một thiên tài!") thì một màu đỏ rực xoáy vào mắt tôi. Trong góc phòng, dưới bức Four Dark in Red của Rothko, Miranda đứng thẳng như tượng trong chiếc áo dài đỏ Chanel đính cườm đặt riêng cho buổi này, cắt lại cho vừa và giặt là. Trong giây phút này tôi hiểu ngay, vì sao bà khăng khăng đòi làm ở bảo tàng này và mặc bộ này, hiểu là bà dùng những bức tranh để tôn chiếc áo lên - khó có lời giải thích nào khác. Gì thì gì, đó là một kết quả hoàn hảo. Trông bà đẹp ngột thở. Bản thân bà là một tác phẩm nghệ thuật sống, cằm vươn ra kiêu hãnh và cơ bắp căng bóng, một bức phù điêu hậu cổ điển trong lụa và cườm của Chanel. Bà không đẹp - mắt hơi nhỏ, tóc búi quá chặt và nét mặt quá đanh - nhưng bà gây một ấn tượng mà tôi không gọi tên được; ngay cả khi cố tỏ ra bình thản và chăm chú ngắm nghía căn phòng, tôi vẫn không rời mắt khỏi bà được.

Như thường tình, tiếng bà dứt tôi khỏi cơn mơ màng: "Aan-dree-aa, chị biết mặt và tên khách đến tối nay chứ? Tôi cho là chị đã xem kỹ chân dung của mọi người. Tôi mong chị tối nay không làm tôi xấu mặt khi chào hỏi ai đó nhầm tên." Bà nói, mắt nhìn vào hư vô, chỉ có tên gọi cho biết là câu vừa rồi dành cho chính tôi.

"À, vâng, tôi đã xem rồi," tôi trả lời, suýt nữa thì đứng nghiêm chào, mắt vẫn đăm đăm nhìn bà như bị thôi miên. "Bây giờ tôi cẩn thận xem lại lần nữa cho chắc." Bà nhìn tôi như muốn nói Thế thì làm đi, con ngố kia. Tôi cố gắng quay mặt đi và ra khỏi phòng. Ilana theo sau.

"Bà ấy vừa nói gì thế?" Cô thì thầm. "Chân dung? Bà ấy có điên không?"

Hai chúng tôi cùng muốn lánh nạn, trốn vào một hành lang tối và kiếm chỗ ngồi trên một chiếc ghế băng cứng. "À, chuyện ấy. Bình thường thì cả tuần nay tôi phải kiếm ảnh khách và học thuộc tên để tối nay chào họ với tên tuổi cụ thể," tôi giải thích cho Ilana đang tròn mắt nhìn. "Nhưng tối nay bà ấy mới nói là tôi phải có mặt nên lên ô tô tôi chỉ có mấy phút để xem qua mấy cái ảnh. Nhưng sao cơ? Chị ngạc nhiên à? Khi Miranda mở tiệc thì đó là chuyện thường."

"Tôi cứ nghĩ là hôm nay không có nhân vật nổi tiếng nào đến," cô nói.

"Chà, không phải bỗng dưng mà dễ nhận ra những tỉ phú có địa ốc ở phía Nam tuyến Mason-Dixon. Như mọi khi thì muốn nhớ mặt khách, tôi chỉ việc vào mạng xem Thời trang Phụ nữ Hằng ngày hay những chỗ tương tự. Tôi định nói là ảnh của nữ hoàng Noor, của Michael Bloomberg hay Yohji Yamamoto nếu cần cũng dễ kiếm. Nhưng Mr. hay Mrs. Packard ở vùng ngoại ô quý phái nào đó của Charleston hay ở xó xỉnh quỷ quái nào đó thì tìm đâu ra. Cô trợ lý kia của Miranda đã săn lùng tại các mục tin vỉa hè địa phương hay trang mạng của các công ty, quả là một việc khó chịu, trong khi nhóm còn lại của văn phòng bận trang điểm tôi cho buổi tối hôm nay."

Ilana nhìn tôi không chớp mắt. Tôi biết, vì lý do nào đó mà tôi nói như một rôbôt, nhưng không sao ngừng lại được. Vẻ mặt kinh hoàng của Ilana chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn.

"Chỉ còn vài người là tôi không nhận mặt được thôi. Nhưng tôi sẽ làm phép tính loại trừ là xong," tôi nói.

"Sợ thật, tôi không rõ chị làm thế nào. Tôi mất buổi tối thứ Sáu là đủ bực mình rồi, không thể tưởng tượng lại có thể làm được việc của chị. Làm sao chị để người ta xỉ vả và đối xử với mình như thế?"

Tôi giật mình, Ilana đã đánh trúng chỗ hiểm của tôi với câu hỏi này. Cho đến nay chưa có ai vô cớ nói gì đó tiêu cực về công việc của tôi. Tôi luôn luôn tin là trong số hàng triệu cô gái xin chết để được nhận việc này thì chỉ có tôi là người duy nhất thấy tình cảnh của mình không tuyệt đối lý tưởng. Ánh mắt kinh hoàng của Ilana còn kinh khủng hơn hàng trăm chuyện ngu xuẩn mà tôi trông thấy hằng ngày ở văn phòng; lòng thương hại thuần khiết và thành thực của cô là giọt nước làm tràn ly trong tôi. Những gì tôi cố đè nén trong chừng ấy tháng quần quật làm việc cho một bà chủ vô nhân tính, dành cho thời điểm thích hợp, nay trào lên. Tôi bật khóc.

Ilana càng bị sốc mạnh hơn. "Ôi, tội nghiệp quá, tôi xin lỗi! Tôi không muốn thế. Chị là một thiên thần, nếu chị chịu được mụ phù thủy ấy, chị hiểu tôi không? Chị đi ra đây với tôi," cô kéo tay tôi ra một phòng làm việc ở cuối một hành lang khác tối đèn. "Chị ngồi đây một phút, và không cần biết lũ ngu xuẩn ấy mặt mũi ra sao."

Tôi sụt sịt, thấy chính mình ngu xuẩn.

"Chị không việc gì phải tự trách mình. Tôi cảm thấy chị giữ việc này quá lâu trong lòng rồi đấy. Thỉnh thoảng khóc cho nhẹ người là tốt."

Trong lúc tôi cố gắng cọ mascara trên má, chị lục lọi trong ngăn bàn mình. "Đây rồi," cô reo lên đắc thắng. "Cho chị, trước khi tôi vứt đi; nhưng nếu chị định kể cho ai thì tôi giết chết chị." "Trông này, hay lắm," cô mỉm cười đưa tôi một phong bì nâu dán nhãn "Mật".

Tôi bóc nhãn và lôi một kẹp bìa ra. Trong đó có một tấm ảnh - copy màu thì đúng hơn - của Miranda, ngồi duỗi trên ghế đệm của một nhà hàng thượng hạng. Tôi nhận ra ngay tấm ảnh này: một phóng viên nhiếp ảnh xã hội nổi tiếng đã chụp nó mới đây tại một bữa liên hoan sinh nhật của Dona Karan ở Pastis. Ảnh đã xuất hiện trên tạp chí New York, sẽ có các tờ khác đăng lại. Trong ảnh Miranda mặc một chiếc áo khoác dài da rắn nâu trắng, một đồ đặc hiệu của bà, nó luôn gợi tôi nhớ đến con rắn.

Không chỉ mình tôi, vì trên tấm ảnh - đã tút sửa thêm - ai đó có tay nghề và năng khiếu đã ghép một đuôi rắn quẫy lộn vào thay cho cẳng chân. Kết quả trên cả thuyết phục: con rắn Miranda, cằm nổi bật tựa lên tay, duỗi dài trên ghế da, để một khúc đuôi rắn vắt qua bên cạnh. Hoàn hảo.

"Quá siêu, đúng không?" Ilana hỏi và vươn người trên vai tôi. "Một buổi chiều, Linda rầm rập vào phòng tôi sau khi mất một giờ đồng hồ đàm phán điện thoại với Miranda là tổ chức tiệc ở phòng nào. Mặc dù Miranda biết trước là bà muốn phòng Kooning, nhưng bà bắt Linda miêu tả từng li trên từng tầng. Linda điên tiết chỉ muốn bóp cổ bà ra, vì vậy tôi làm bức tranh nhỏ này cho cô ấy. Chị biết cô ấy làm gì không? Thu nhỏ lại trên máy fotocopy để đút vừa vào ví! Tôi nghĩ nó là chút khích lệ cho chị. Kể cả khi chỉ để nhắc nhở là không phải một mình chị chịu trận. Chị hứng nhiều nhất, tất nhiên, nhưng không phải một mình."

Tôi đút bức hình vào phong bì và trả lại cho Ilana. "Chị tốt quá," tôi nói và đặt tay lên vai cô. "Tôi rất, rất cảm kích. Nếu tôi hứa sẽ không bao giờ kể cho ai thì chị có cho tôi xin một tấm được không? Tôi nghĩ là nó không vừa vào xắc Leiber này, nhưng rất muốn chị gửi cho tôi một tấm về nhà, được không ạ?"

Cô chấp thuận với một nụ cười. Tôi viết địa chỉ để lại, và tôi sau khi vội sửa lại son phấn, hai người quay về tiền sảnh bảo tàng (cô đi, tôi tập tễnh). Đã sắp bảy giờ. Khách đến bất cứ lúc nào, Miranda và Mờ-Cờ-Đờ nói chuyện với em trai kiêm thượng khách chú rể; trông dáng ông thì biết hồi đi học ở miền Nam ông đã chơi bóng đá, bóng chày, bóng ném và bóng bầu dục trước cặp mắt trầm trồ của các cô bé tóc vàng. Cô bé tóc vàng hai mươi sáu tuổi sắp lên xe hoa đứng bên cạnh, trầm trồ nhìn ông trìu mến, tay cầm thứ gì đó để phất và khúc khích tán thưởng những chuyện tiếu lâm ông kể.

Miranda ngoắc tay Mờ-Cờ-Đờ và toe toét cười nụ cười giả dối thượng hạng. Không cần nghe họ nói chuyện gì tôi cũng rõ, Miranda cùng lắm là trả lời nhát gừng lúc cần thiết. Những quy tắc giao tiếp xã hội không phải điểm mạnh của bà, và bà không chịu nổi chuyện xã giao - nhưng tôi biết, tối nay bà không ngần ngại tung hết tất cả các chiêu. Tôi nhận ra những người gọi là bạn của bà được chia làm hai loại: số người mà xếp vào loại cao hơn và nhất quyết muốn gây ấn tượng thì ít ỏi và toàn là những nhân vật quan trọng như Irv Ravitz, Oscar de la Renta, Hillary Clinton cùng toàn bộ các minh tinh màn bạc. Số còn lại đứng "dưới trướng" bà, là những người liên tục được che chở và xoa đầu để đừng quên thân phận của mình, về nguyên tắc bao gồm mọi phần tử còn lại: toàn bộ cộng tác viên Runway, người trong gia đình, bố mẹ các bạn của hai đứa con gái (nếu họ không tình cờ có mặt trong loại một), hầu hết các nhà tạo mốt và chủ bút các tạp chí khác cũng như tất cả - không có ngoại lệ - nhân viên dịch vụ trong nước ngoài nước. Buổi tối hôm nay hứa hẹn sẽ rất thú vị, chỉ riêng vì khách mời thật ra thuộc loại hai, nhưng nhờ quan hệ với Mr. Tomlinson và em ông mà phải được đối xử như loại một. Tôi vui sướng tận hưởng những dịp hi hữu được chứng kiến Miranda dùng nét duyên dáng giả cầy của mình để gây ấn tượng cho mọi người.

Tôi cảm thấy sự hiện diện của những vị khách đầu tiên, ngay cả khi họ chưa đến. Không khí trong phòng căng như dây đàn. Với trang in ảnh màu trong đầu, tôi vội bước đến cặp đầu tiên và xin phép đỡ hộ bà chiếc khăn lông thú đem cất tạm. "Mr. và Mrs. Wilkinson, chúng tôi rất vui mừng được ông bà hạ cố đến thăm tối nay. Cho phép tôi nhận đồ này. Ilana sẽ đưa ông bà tới sảnh trên đã bày sẵn cocktail." Hy vọng là trong lúc độc thoại tôi không tọc mạch ngó một cách quá lộ liễu, nhưng trò hề này không phải hôm nào cũng thấy. Tôi đã thấy ở các bữa tiệc khác của Miranda đàn bà mặc như ca ve, đàn ông mặc như đàn bà và người mẫu mặc như cởi truồng, nhưng chưa bao giờ thấy người ta ăn mặc như ở đây. Dĩ nhiên, tôi biết hôm nay không phải buổi họp mặt của giới sảnh thời trang New York , song những gì phất phới tiến vào không gợi tôi nhớ đến các nhân vật trong bộ phim nhiều tập Dallas, mà giống đoàn người diện đồ đẹp đi dạo chơi Chủ nhật trong phim Deliverance.

Em trai của Mr. Tomlinson, thật ra là một hình ảnh đầy ấn tượng với mái tóc bạch kim, mắc lỗi trầm trọng là mặc áo đuôi tôm trắng (giữa trời tháng Năm!), nhét khăn ca rô vào túi ngực và chống ba toong. Cô vợ chưa cưới của ông khoác một cơn ác mộng làm bằng vải dệt màu xanh ngọc xếp li lùng bùng, nó đẩy bộ ngực vĩ đại của cô ra ngoài cổ khoét rộng đến nỗi cô có nguy cơ bị đôi gò silicon ép cho nghẹt thở. Bông tai bằng kim cương to như chén xúp treo lủng lẳng ở tai, nhưng không ăn thua gì so với hạt xoàn lấp lánh bên tay trái. Tóc cô tẩy trắng bằng hóa chất, như hàm răng, chân cô dận đôi giày có gót nhỏ và cao chóng mặt, trông cô lênh khênh đi lại như một cầu thủ bóng chày sắp về hưu non.

"Các bạn yêu mến, tôi rất vui khi các bạn đến dự bữa tiệc nhỏ của chúng tôi. Ai mà không thích tiệc, đúng không ạ?" Miranda véo von giọng mũi. Quý bà Tomlinson tương lai trông như sắp lăn ra ngất khi đứng sát Miranda Priestly. Nỗi phấn khích của cô làm tất cả khó xử, và thế là cả đoàn người đáng thương lục tục theo Miranda ra thang máy. Phần còn lại của buổi tối diễn ra đúng như lúc bắt đầu. Tôi nặn óc ra tên của mọi người có mặt và lạng tránh được mọi cái bẫy nguy hiểm. Đám diễu hành của áo đuôi tôm trắng, lượt là, tóc vấn cao, trang sức hoành tráng và phụ nữ vừa qua ngưỡng dậy thì cứ mỗi giờ lại giảm giá trị đối với tôi, chỉ có Miranda là vẫn hút hồn tôi. Một quý bà chính cống, đối tượng ghen tị và ganh đua của mọi phụ nữ có mặt ở bảo tàng tối hôm đó, luôn thèm khát vị thế và sự bặt thiệp của bà tuy biết rằng hai thứ đó không mua được bằng tiền.

Tôi mỉm cười thật lòng khi bà cho tôi về lúc giữa bữa ăn, như thường lệ không có một lời cám ơn hay chúc ngủ ngon ("Aan-dree-aa, tối nay chúng tôi không cần chị nữa. Chị có thể về nhà.") Tôi nhìn quanh tìm Ilana, nhưng cô đã biến mất. Mười phút sau khi tôi gọi thì xe đến, thật ra tôi đã suy tính có nên đi tàu điện ngầm hay không, nhưng chiếc áo Oscar và đôi chân tôi phản đối kịch liệt. Mệt mỏi nhưng hài lòng, tôi ngã người xuống ghế sau.

Trên đường tới thang máy, tôi qua trước mặt John; ông rút dưới bàn ra một phong bì nâu đưa tôi. "Vừa đến cách đây mấy phút. Có đề Thư khẩn." Tôi cám ơn ông và ngồi xuống góc sảnh, ngạc nhiên vì nhận được thư lúc mười giờ tối thứ Sáu. Tôi xé phong bì, rút một tờ thiếp ra:

Andrea thân mến,

Rất vui được gặp chị tối nay! Tuần sau mình cùng đi ăn sushi hay thứ gì khác nhé? Trên đường về nhà tôi đem thư này qua luôn, vì tôi nghĩ là chị cần một chút giải trí, sau một buổi tối như chúng mình vừa có hôm nay. Vui vẻ nhé!

Ôm hôn chị,

Ilana

Trong bì thư là ảnh con rắn Miranda mà Ilana đã phóng to lên cỡ A4. Tôi ngắm kỹ bức hình mấy phút liền trong khi xoa bóp đôi chân được giải phóng khỏi đôi Manolo, nhìn vào đôi mắt Miranda. Chúng mang vẻ dọa nạt và hèn hạ và như con người xấu xa mà tôi thấy mặt mỗi ngày. Nhưng tối nay chúng cũng biểu lộ sự buồn bã và cô đơn. Dán nó lên cửa tủ lạnh làm trò đùa với Alex và Lily cũng không làm chân tôi bớt đau hoặc trả lại tối thứ Sáu bị mất. Tôi xé tờ tranh rồi đi cà nhắc lên tàu.

"Andrea, Emily đây," tôi nghe một giọng rền rĩ trong điện thoại. "Chị có nghe rõ không?" Lần cuối Emily gọi tôi ở nhà vào tối muộn như thế này cách đây vài tháng. Chắc phải có chuyện hệ trọng.

"Nghe rõ. Giọng chị nghe sợ quá," tôi nói và ngồi bật dậy khỏi gối, nghĩ ngay là hẳn Miranda đã làm gì đó để giọng cô ấy nghe thảm thiết đến như vậy. Lần trước, Miranda gọi điện cho Emily lúc mười một giờ đêm thứ Bảy và đòi cô thuê một chiếc phi cơ tư nhân cho bà và ông Tomlinson bay về từ Miami, vì chuyến bay về New York bị cắt bởi thời tiết xấu. Đúng lúc Emily vừa định đến tiệc sinh nhật của mình; ngày hôm sau tôi mới nghe được lời cầu cứu của cô trong hộp thoại. Tội gọi lại cho Emily lúc cô vẫn đầm đìa nước mắt.

"Tôi đã mất buổi sinh nhật của mình rồi, Andrea," cô nức nở lên khi vừa bắt điện thoại. "Mất liên hoan sinh nhật, chỉ bởi phải đặt chuyến bay cho sếp!"

"Thế tại sao bà ấy không ngủ lại một đêm ở khách sạn nào đó và sáng hôm sau bay tiếp như những người bình thường khác?" Tôi hỏi một câu biết trước vô lý.

"Chị tưởng là tôi không biết thế à? Bảy phút dau khi bà ấy gọi, tôi đã đặt ngay một penhouse cho họ ở Shore Club, ở Albion và ở Delano, vì tôi nghĩ là bà ấy không quan trọng hóa vấn đề. Lạy Chúa, đêm thứ Bảy! Có mà điên khi tìm máy bay tư nhân vào đêm thứ Bảy"

"Tôi đoán là bà không khoái ý tưởng đó lắm?" Tôi nhẹ nhàng nói, vừa áy náy vì đã không có mặt để giú Emily, đồng thời cũng sướng rơn lên vì không bị hứng quả tạ này.

"Hoàn toàn không! Bà ấy gọi mười phút một lần và muốn biết tại sao tôi chưa tìm thấy gì, buộc tôi phải chuyển các cuộc gọi khác sang chế độ chờ, và nói chuyện xong với Miranda thì họ đã cúp máy rồi." Cô thở dài sườn sượt. "Đúng là ác mộng."

"Và kết cục ra sao?" Tôi hầu như không dám hỏi tiếp.

"Ra sao à! Chẳng ra sao cả thì đúng hơn. Tôi gọi tất cả các công ty bay tư nhân của bang Florida, chị có thể tưởng tượng ra là nửa đêm thứ Bảy làm gì có ai bắt máy. Tôi đàm phán qua điện đài với các phi công làm ngoài, nói chuyện với cá tuyến hàng không trong nước xem còn khả năng nào nữa không, thậm chí còn túm được một đại gia của Sân bay quốc tế Miami. Tôi kể là cần ngay trong nửa tiếng nữa một phi cơ cho hai người về New York. Chị biết ông ấy nói gì không ?"

"Gì cơ?"

"Ông ấy cười. Như lên cơn thần kinh. Xếp tôi vào dạng chim mồi cho bọn khủng bố, buôn bán ma tuý hay đại loại như thế. Nói là giờ này mà kiếm được một phi cơ và người lái thì còn khó hơn là khả năng bị sét đánh trúng đầu hai mươi lần liền, bất kể tôi sẵn sàng trả bao nhiêu tiền. Và nếu tôi còn hỏi lần nữa thì ông ta sẽ chuyển cuộc gọi trực tiếp cho FBI. Chị có tin được không?" Đến đây giọng cô rít lên. "Thắng chó chết, chị có tin được không? FBI!"

"Tôi đoán là Miranda không vừa lòng lắm?"

" Đúng thế, và còn hơn thế. Sếp mất đến hai mươi phút để tin được rằng không có chiếc máy bay duy nhất nào sẵn sàng phục vụ cả. Tôi phải thề sống thề chết là không phải hết chỗ, mà đơn giản là giờ này không thể kiếm nổi máy bay tư nhân"

"Rồi sao nữa?" Tôi biết là chuyện không kết thúc có hậu.

"Khoảng một rưỡi sáng thì rốt cuộc bà ấy cũng chấp nhận là đêm nay không về nhà được nữa, mặc dù không phải vì thế mà sinh ra chuyện gì - hai đứa bé đang ở chỗ bố, cô trông trẻ sẵn sàng làm cả ngày Chủ nhật nếu cần - và tôi phải kiếm cho bà vé bay chuyến sáng sớm."

Khó hiểu thật. Nếu chuyến bay của bà bị hủy thì bên hàng không đằng nào cũng xếp bà vào chuyến đầu tiên của hôm sau, nhất là khi bà có thẻ ưu tiên kiêm khách hàng thường xuyên kiêm vàng kiêm bạch kim kiêm kim cương kiêm VIP và một đống tiền cho vé hạng nhất. Đúng không nào ?

"Tất nhiên, Continental đã đặt cho bà chuyến 6 giờ 50. Nhưng khi Miranda nghe đâu ra là có chuyến Delta lúc 6 giờ 35"

".... 6 giờ 35 thì bà làm ầm lên, gọi tôi là đồ ngu xuẩn vô dụng, làm trợ lý mà một việc đơn giản như đặt chuyến bay tư nhân cũng không xong." Cô sụt sùi và uống một ngụm gì đó, có lẽ cà phê.

"Trời đất ơi, tôi biết chị định nói gì. Đừng nói nữa..."

"Cứ nói."

"Không. Chị không đùa chứ? Vì mưới lăm phút?"

"Đúng! Tôi có được phép lựa chọn đâu? Sếp rất cáu tôi, làm như tôi đã gây ra chuyến ấy. Chỉ thêm vài nghìn dollar là chuyên vặt. Bà còn có vẻ hài lòng khi chúng tôi nói chuyện xong. Chà, biết nói gì đây?"

Đến đây thì hai chúng tôi cùng phải bật cười. Không cần cô kể tiếp tôi cũng biết - và Emily hiểu là tôi biết: cô đã mua hẳn hai vé hạng thương gia của Delta chỉ để cho Miranda ngậm mồm lại và sau vụ rắc rối thảm hại này rốt cuộc cũng được mãn nguyện.

Tôi cười đứt ruột. "Gượm nào, chị còn bố trí xe chở sếp đi Delano nữa chứ..."

"...lúc ấy đã gần ba giờ sáng. Chính xác là từ mười một giờ đêm trở đi bà ấy đã gọi tôi vào di động hai mươi hai lần. Lái xe đợi ở trước penhouse trong lúc hai người tắm và thay quần áo, rồi khẩn trương đưa trở về sân bay để họ kịp đi chuyến sớm hơn."

"Thôi, chị đừng kể nữa," tôi rú lên giữa hai trận cười tắc thở về diễn biến câu chuyện. "Đúng là chuyện bịa."

Emily cố giữ vẻ nghiêm nghị. "Thật hả? Chị nghĩ là hết rồi hay sao, còn đoạn cao trào nữa."

"Ôi, kể đi, kể đi!" Cuối cùng thì cũng có thời điểm mà tôi và Emily cùng tìm ra niềm vui. Cảm giác cùng hội cùng thuyền, một đôi bạn đồng tâm chống lại bạo chúa. Tôi cảm nhận rõ ràng là năm làm việc này sẽ trôi qua khác hẳn nếu Emily và tôi là bạn bè thực sự, che chở và bảo vệ cho nhau, tin cậy lẫn nhau để cùng kháng cự lại Miranda. Được như thế thì nhiều chuyện đâu đến nỗi nặng nề, nhưng, ngoài những ngoại lệ hiếm hoi như lần này thì chúng tôi thường xuyên bất đồng ý kiến.

"Cao trào của vụ này là..." cô kéo dài niềm vui chung thêm một lát, "sếp không biết được rằng theo lịch trình thì chuyến bay của Delta cất cánh sớm hơn, nhưng lại đến muộn hơn tám phút so với Continental mà bà đã có chỗ."

"Thôi nào!" Tôi không còn sức để cười thêm về kết cục bất ngờ này nữa. "Đúng là chuyện tiếu lâm."

Khi chúng tôi bỏ máy, tôi ngạc nhiên nhận ra chúng tôi đã tán chuyện hơn một tiếng, như giữa hai người bạn thân. Tất nhiên là sáng thứ Hai chúng tôi lại cụp mắt xuống, song từ hôm đó trở đi tôi lờ mờ có thêm một chút cảm tình với Emily. Cho đến lúc này, tất nhiên. Mối thiện cảm ấy chưa đủ để tôi sung sướng đón nhận mọi điều khó chịu mà cô chực dồn xuống đầu tôi.

"Giọng chị nghe sợ quá. Chị ốm à?" Tôi cố gắng nói cho có vẻ pha chút cảm thông, nhưng giọng tôi vẫn cứng và trách móc.

"Đúng vậy," cô nghèn nghẹn thốt ra trước khi ho rũ rượi.

"Ốm lắm."

Tôi chưa bao giờ thực sự tin khi ai đó kêu ốm lắm: chừng nào chưa chuẩn đoán ra một căn bệnh đích xác và không chừng nguy hiểm đến tính mạng thì người ta vẫn đủ khỏe mạnh để làm việc ở Runaway. Do vậy mà khi Emily ho xong và nhắc lại là cô có trọng bệnh thì tôi cũng không nghi ngờ một giây là sáng thứ Hai cô sẽ lại đi làm. Nhất là khi đã có kế hoạch bay sang Paris hôm 18 tháng Mười với Miranda, chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Ngoài ra, bản thân tôi trong ngót một năm làm việc ở đây cũng phải nhắm mắt lờ đi vài lần đau cổ, viêm phế quản, một cú ngộ độc thực phẩm kinh hoàng cũng như ho mãn tính của dân hút thuốc để dừng nghỉ ốm lấy một hôm.

Lần duy nhất cần gấp kháng sinh chống viêm họng, tôi phải lên xin bác sĩ (tôi chui vào phòng mạch và đòi được khám ngay, trong khi Miranda và Emily tưởng là tôi đi tìm xe mới cho ông Tomlinson), chứ lấy đâu ra thì giờ cho những biện pháp phòng bệnh. Mặc dù tôi có cả chục buổi nhuộm tóc highlight ở chỗ Marshall, vài lần tẩm phất miễn phí mà tiệm spa hân hạnh được phục vụ trợ lý riêng của Miranda cũng như vô số vụ đi chăm sóc móng chân, móng tay và da mặt, song cả năm trời tôi chưa thấy mặt bác sĩ răng và phụ khoa.

"Tôi có thể làm được gì không?" Tôi hỏi, làm ra vẻ hờ hững trong khi nát óc suy nghĩ tại sao cô ấy gọi mình và kể chuyện ốm đau. Xét riêng hai chúng tôi, chuyện ấy chẳng có tí tị nghĩa lý gì. Emily sẽ có mặt sớm thứ Hai ở văn phòng, bất kể ốm hay khỏe.

Cô ho khùng khục, tôi nghe như có tiếng đờm trong phổi. "Hừm, ờ, có thể đấy. Trời ơi, không ngờ lại xảy ra với tôi!"

"Cái gì? Cái gì xảy ra?"

"Tôi không qua Châu Âu với Miranda được. Tôi bị viêm tuyến bạch cầu. "

"Gì cơ?"

"Chị nghe rồi đấy, tôi không đi được. Hôm nay bác sĩ vừa gọi điện báo cho tôi kết quả thử máu, kể từ nay tôi không được ra khỏi nhà, trong ba tuần tới."

Ba tuần! Cô ta định đùa chắc. Bây giờ không phải lúc để thương hại cô - cô vừa nói là cô không đi Châu Âu, và chính ý nghĩ Emily và Miranda biến khỏi cuộc đời tôi đã giúp tôi trụ được mấy tháng vừa qua.

"Emily, bà ấy sẽ giết chị - chị phải đi. Bà ấy biết chuyện chưa?"

Im lặng bên kia đầu dây, điềm gở rồi. "À, biết rồi."

"Chị đã gọi điện báo?"

"Vâng, tôi bảo bác sĩ gọi, vì bà ấy cho rằng chứng viêm tuyến bạch cầu không có gì ghê gớm. Bác sĩ đã giải thích cho bà là tôi có thể làm bà và mọi người lây bệnh, với lại..." Cô ngừng lời, nhưng giọng cô báo hiệu có chuyện không lành.

"Với lại gì?" Bản năng tự bảo toàn của tôi vụt tỉnh.

"Với lại...bà ấy muốn chị đi theo"

"Bà ấy muốn tôi đi theo à? Nghe được đấy. Bà ấy có thể thật à? Bà ấy không định sa thải chị vì bị ốm chứ?"

"Andrea, tôi..." - một trận ho ra đờm cắt tiếng cô, trong một thoáng tôi nghĩ là cô sx chết luôn bên điện thoại - "...nói nghiêm túc đấy. Hoàn toàn và tuyệt đối nghiêm túc. Bà ấy nói gì đó về những trợ lý do họ cắt đặt bên đó toàn là đồ ngốc và bà ấy thà làm việc với chị còn hơn."

"Ồ, được đấy, nếu đúng như chị nói thì tôi nhận lời ngay! Không có gì công hiệu hơn một câu tâng bốc khi sai tôi làm việc gì. Thật đấy, bà ấy không việc gì phải nói ngọt như thế, làm tôi đỏ cả mặt!" Tôi không rõ nên quan tâm chuyện gì hơn - Miranda muốn tôi cùng đi Paris, hay bà muốn tôi đi cùng chỉ vì nghĩ rằng tôi đỡ ngu hơn một tẹo so với lũ nhân bản vô tính còm nhom...của tôi bên Pháp.

"Im mồm đi," cô hét lên giữa hai cơn ho đang dần làm tôi ngứa tai. "Chị là người may mắn nhất thế giới đấy, đồ quỷ ạ. Tôi đã đợi chuyến di này hai năm, hơn hai năm rồi, và bây giờ không đi được. Một sự trớ trêu đau đớn, chị không hiểu ra điều đó sao?"

"Tất nhiên tôi hiểu! Sao lại sến thế không biết: chị thì muốn đi bằng được, còn tôi thà chết còn hơn, giờ thì người đi là tôi chứ không phải chị. Đời cũng vui thật nhỉ. Tôi cười đứt ruột mất," tôi khô khốc, không thay đổi nét mặt.

"Hiểu rồi. Tôi cũng thấy ngán chuyện này, nhưng biết làm sao bây giờ? Tôi đã gọi Jeffy để chuẩn bị đặt quần áo cho chị là vừa. Chị sẽ cần hàng núi quần áo, cú mỗi show thời trang, mỗi bữa ăn lại cần đồ mới, và tất nhiên, cho bữa tiệc của Miranda ở khách sạn Costes. Allison lo chuyện make-up cho chị. Về túi, giày và đồ trang sức thì nói với Stef. Chị còn một tuần nữa thôi, nghĩa là sáng mai phải bắt đầu ngay, okay?"

"Tôi vẫn chưa tin là bà ấy trông chờ tôi làm việc này."

"Cứ tin đi thì hơn. Miranda không thích đùa đâu. Cả tuần này tôi sẽ không có mặt ở văn phòng, có nghĩa là chị..."

"Gì cơ? Chị không đến cả văn phòng nữa à?" Chừng nào Miranda ở đây thì tôi và Emily không được nghỉ ốm lấy một ngày hay rời văn phòng một giờ. Hồi cụ cố của Emily qua đời, cô đã bay về Philadelphia dự đưa đám rồi quay về mà không lỡ mất một phút làm việc. Mọi thứ ở đây hoạt động như thế đấy. Chấm hết. Trừ trường hợp đám ma (của người thân nhất trong gia đinh), cụt chân cụt tay (chính mình), hay chiến tranh hạt nhân (chỉ khi chính phủ Hoa Kỳ công nhân Manhattan bị ảnh hưởng trực tiếp), còn lại thì ai cũng phải có mặt. Vậy là sắp có một bước ngoặt lớn trong chính thể Priestly.

"Andrea, tôi bị viêm tuyến bạch cầu, rất dễ lây. Chuyện nghiêm trọng đấy. Thậm chí không được rời khỏi nhà đi uống một cốc cà phê, nói gì đến đi làm cả ngày. Miranda đã chấp nhận, vậy thì chị phải gánh hết mọi chuyện. Chuẩn bị cho chuyến đi Paris của hai người sẽ là một núi việc. Thứ Tư Miranda đi Milan, thứ Ba tuần sau chị sẽ gặp bà ấy ở Paris."

"Bà ấy chấp nhận? Quên đi! Chị kể lại xem bà ấy thực sự nói gì." Tôi không muốn tin Miranda chấp nhận một chuỵen vặt như chứng viêm tuyến bạch cầu là khả dĩ để có thể xin phép vắng mặt. "Cho tôi niềm tin nhỏ nhoi ấy đi, chẳng gì thì mấy tuần tới của tôi sẽ là địa ngục trần gian."

Emily thở dài, và tôi có thể cảm nhận qua điện thoại là cô nhướng mắt lên. "Hừm, bà ấy không nhẩy cẫng lên reo mừng. Tôi không nói trực tiếp với bà, nhưng ông bác sĩ kể là bà hỏi đi hỏi lại mấy lần, viêm tuyến bạch cầu có phải là bệnh thực sự không. Nhưng khi nghe ông xác nhận thì phản ứng của bà là tỏ ra rất thông cảm."

Tôi cười váng lên. "Tôi tin bà ấy thông cảm, Emily, tôi tin bà ấy thông cảm mà. Thôi đừng lo lắng nữa, okay? Chị cố gắng chóng khỏe, tôi sẽ lo mọi việc ở đây."

"Tôi gửi email danh mục các việc cần làm, để chị không bị quên gì."

"Quên sao được. Năm ngoái bà ấy đi Paris bốn lần, tôi biết phải làm gì rồi. Tôi sẽ lấy tiền mặt ở nhà băng tầng trệt, đổi vài nghìn sang Euro, mua thêm vài nghìn dollar séc du lịch, khẳng định ba lần cho chắc các lịch hẹn thợ làm đầu và trang điểm trong thời gian Miranda ở đó. Gì nữa nhỉ? Ồ, phải dặn Ritz lần này đưa cho bà một cái di động đúng loại, và nói chuyện với các lái xe ngay từ đầu để họ biết là không được bắt bà đợi. Tôi đã nghĩ xem ai cần bán lịch trình của bà ấy - tôi sẽ đánh máy ra, không vấn đề - và lo cả chuyện phân phát khắp nơi. Tất nhiên ngày nào bà cũng nhận được báo cáo cụ thể hai dứa song sinh đến trường, học hành, tập tành và gặp gỡ ra sao, cũng như chương trình làm việc của mọi nhân viên. Thấy chưa! Chị không phải lo. Tôi đã nắm vững tất cả."

"Nhớ đừng quên vải the," cô nói như robot. "Cả khăn quàng nữa!"

"Tất nhiên rồi! Đã trong danh sách rồi." Trước khi Miranda gói đồ - đúng hơn là sai cô quản gia gói - Emily hoặc tôi đi mua súc vải nhung the to tướng ở kho nhà máy và đem đến nhà Miranda. Ở đó, chúng tôi cùng cô quản gia cắt thành những miếng đúng kích cỡ để gói những đồ bà định đem theo vào thứ vật liệu quý giá này. Những gói ấy được cẩn thận cho vào hàng tá va li Louis Vuitton cùng nhiều đồ bổ sung, vì khi mở vali ở Paris bà quăng luôn gói đầu tiên vào góc. Ngoài ra, thường là một nửa va li chỉ để cất mấy tá hộp màu da cam đựng khăn quàng Hermès, trong mỗi hộp là một chiếc khăn trắng nằm đợi đến lúc bị đánh mất, bỏ quên, để vương vãi hay đơn giản là bị quẳng đi.

Sau khi cố gắng tỏ sự đồng cảm chân thành với Emily, tôi đặt máy và thấy Lily nằm duỗi trên sofa. Cô hút thuốc và nhâm nhi từ ly cocktail một thứ chất lỏng trong suốt, rõ ràng không phải nước.

"Tớ nghĩ là mình không hút trong phòng," tôi nói, thả người xuống cạnh cô và gác chân lên chiếc bàn gỗ con sứt sẹp mà bố mẹ tôi để lại cho. "Tớ không bận tâm, nhưng đó là quy định của cậu," Lily không phải là người đốt thuốc có nghề như tôi; thường thì cô chỉ hút khi uống và cũng không tự mua thuốc. Một bao Camel Special Lights mới tinh thò ra ở túi ngực áo sơ mi ngoại cỡ. Tôi lấy chân đi giàu trong nhà hích vào đùi cô và hất cằm về phía bao thuốc. Cô đưa tôi thuốc cùng bật lửa.

"Tớ biết cậu không bận tâm," cô nói và khoái trá rít một hơi. "Tớ đang tắc tị, hút thuốc sẽ tập trung tốt hơn."

"Cậu đang làm gì?" Tôi hỏi, châm thuốc và ném trả lại bật lửa. Học kỳ này cô nhận mười bảy học trình để cải thiện bảng điểm dặt dẹo của học kỳ trước. Tôi ngắm cô làm một mồm khói nữa rồi chiêu cho trôi xuống bằng một ngụm lớn thứ chất lỏng không-phải-nước. Tôi không nghĩ là cô tỉnh táo.

Cô thở dài nặng nề và đầy ý nghĩa, để điều thuốc dính hờ hững trên khóe miệng khi nói. Nó chuyển động lên xuống và chực rơi khỏi miệng bất cứ lúc nào, và cùng với mái tóc bù xù chưa gội và phần mắt nhoe nhoét khiến cô - trong khoảnh khắc này - trông như một bí cáo trong phim tòa án Judge Judt (hay nguyên đơn cũng thế, hai bên trông chẳng khác nhau - răng sún, tóc bết, mắt lờ đờ, và ưa dùng phủ định từ kép). "Bài viết cho một tạp chí đặc hàn lâm bất kỳ nào đó mà sẽ không ma nào đọc, nhưng tớ vẫn phải biết để cho có đủ bài đăng báo."

"Bực nhỉ. Bao giờ phải nộp?"

"Mai." Hoàn toàn lãnh đạm. Không có vẻ gì bận tâm.

"Mai? Thật chứ?"

Cô bắn tia nhìn cảnh cáo, nhanh chóng nhắc tôi đừng quên là mình cùng phe với cô. "Ừ, mai. Đúng là vớ vẩn, vì đồ đệ nhỏ của Freud được giao biên tập. Không ai cần biết là anh chàng đang viết luận án tiến sĩ tâm lý chứ không phải văn học Nga - họ có quá ít biên tập viên, và thế là anh ấy đọc bài của tớ. Làm sao mà nộp kịp cho anh ấy được đây, đồ chết tiệt."

Lại một ngụm chất lỏng nữa trôi vào họng, trong khi Lily cố không để nó chạm vài thần kinh vị giác. Cô nhăn mặt.

"Lily, chuyện ra sao rồi? Đã đành là cũng mấy tháng rồi, nhưng lần cuối cậu nói là các cậu sẽ làm từ từ, và anh ấy là người hoàn hảo. Tất nhiên là trước bận câuk lôi của nợ ấy về nhà, nhưng..."

Lại một tia nhìn cảnh cáo nữa, lần này là đi kèm ánh mắt giận dữ. Tôi đã hàng chục lần định nói chuyện với cô về vụ lôi thôi với gã nghiện đợt trước, nhưng dạo này chúng tôi hầu như không có dịp và không ai có thời gian cho một lần tâm sự tay đôi. Cứ lúc nào tôi đả động đến đề tài này là cô lại đánh trống lảnh ngay. Tôi hiểu là cô rất ngượng, cô công nhận gã đó là một thằng cha kinh tởm, nhưng về chuyện rượi chè quà trớn là nguyên nhân gây ra cú bê bối hồi đó thì cô nhất quyết không chịu hé môi.

"Ừ, có lẽ đêm hôm đó tớ đã gọi điện cho anh ấy từ Au Bar và nài anh ấy về nhà cùng," cô nói, tránh nhìn mắt tôi mà tập trung bấm điều khiển từ xa để chọn bài trên đĩa CD nhạc của Jeff Buckley ảm đảm mà tôi có cảm giác là luôn được bật đi bật lại trong phòng.

"Thế à? Anh ấy đã tới và thấy cậu đang chuyện trò với...với một người khác?"

Tôi cố dịu giọng phê phán để không đẩy cô xa cách thêm. Rõ ràng là trong đầu cô đang trăm mối tơ vò - vấn đề ở trường, rượu, nguồn đàn ông hầu như vô tận - và toi chỉ mong cô mở lòng mình với một ai đó. Cho đến giờ cô không giấu tôi điều gì, cũng có thể thế chỉ vì tôi là người tin cậy duy nhất, nhưng dạo này cô kín tiếng hẳn đi. Chuyện xảy ra đã bốn tháng rồi mà hôm nay chúng tôi mới đem ra nói, kể cũng lạ.

"Không, không hẳn thế," cô cay đắng thốt ra. "Anh ấy đi từ Morningside Heights đến Au Bar, nhưng tớ không còn ở đó nữa. Hình như anh ấy gọi và di động của tớ và Kenny đã trả lời không được nhã nhặn cho lắm."

"Kenny?"

"Của nợ mà tớ lôi về nhà hồi đầu hè ấy, cậu nhớ ra chưa?" Giọng cô chua chát, nhưng lần này cô mỉm cười.

"À ra thế. Tớ đoán là đồ đệ nhỏ của Freud không phấn khởi lắm. "

"Dĩ nhiên. Biết làm sao. Chóng được thì chóng mất, đúng không?" Cô vụt dậy chạy vào bếp, rót từ chai "Ketel One" đã cạn nửa, pha thêm chút soda rồi quay về sofa.

Tôi toan khéo léo chọn lời hỏi vì sao cô lại nốc vodka khi còn phải biết bài báo để mai kịp nộp thì có tiếng chuông bấm từ phòng thường trực.

"Ai đấy?" Tôi nhấn nút hỏi John.

"Mr. Fineman muốn gắp Mr. Sachs," ông nói rất trang trọng khi người khác có mặt.

"Thật à? Ôi, hay quá. Cho anh ấy lên đi ạ."

Lily nhướng mày nhìn tôi. Lại một lần nữa chúng tôi không nói được hết chuyện. "Bình tĩnh lại đi," cô nói đầy vẻ mỉa mai. "Trông nàng không được xúc động cho lắm khi chàng bất ngờ đến thăm nhỉ?"

"Có chứ, có chứ," tôi chống đỡ. Cả hai đều biết là tôi nói dối. Từ mấy tuần nay quan hệ với Alex trở nên căng thẳng. Thực sự căng thẳng. Chúng tôi đã trải qua mọi mức độ tình cảm của gắn bó lứa đôi, và sau gần bốn năm thì người này biết rõ người kia muốn nghe gì và nên làm gì. Song giờ làm việc khắc nghiệt của tôi khiến anh tìm cách cân bằng qua hàng đống việc tự nguyện ở trường: trông coi học sinh, dạy thêm, tư vấn và phụ trách đủ các hoạt động diễn ra trong trường - thời gian mà chúng tôi rảnh rỗi nhìn mặt nhau lúc này chứa chan hồi hộp theo cái cách của một đôi vợ chồng già đã cưới nhau được ba chục năm. Chúng tôi thầm hiểu là phải đợi cho hết năm làm việc này của tôi, nhưng sau đó mối quan hệ sẽ ra sao thì tôi không dám nghĩ đến nữa.

Giờ thì là lúc hai người gần gũi nên tôi đã nói ra miệng đề tài này. Thoạt tiên là Jill (hôm qua chị đã làm ầm lên trong điện thoại), bây giờ đến lượt Lily, người chỉ ra rằng Alex và tôi không phải cặp uyên ương trong mộng nữa, và tôi phải công nhận là dù đang trong trạng thái phê phê nhưng Lily hoàn toàn đủ nhạy cảm để nhận ra rằng tôi không hẳn vui sướng khi Alex đến. Tôi lo lắng kho phải cho anh biết là tôi sắp đi Châu Âu, lo lắng không tránh nổi cuộc xung đột sau đó mà tôi chần chừ muốn hoãn lại vài hôm. Lý tưởng nhất là khi tôi đã sang Châu Âu rồi. Nhưng may mắn không mỉm cười với tôi, anh đã gõ cửa rồi.

"Chào anh!" tôi mở toang cửa và chào vẻ hơi quá phấn khích, rồi vòng tay ôm cổ anh. "Bất ngờ quá!"

"Em không ngờ là anh ghé qua hả? Anh và Max đi uống ngay gần đây và anh định lên chào một câu."

"Tất nhiên em không ngờ, anh ngốc ạ! Vui quá. Anh vào nhà đi." Tôi biết là về bề ngoài rất ổn, nhưng bất cứ một chuyên gia tâm lý nào cũng dễ dàng chỉ ra rằng sự phần khích thái quá của tôi chỉ nhằm khỏa lấp những gì thiếu hụt bên trong.

Anh lấy một chai bia, hôn má Lily và ngồi xuống chiếc ghế bành màu da cam vàng chóe mà bố mẹ tôi còn sáng suốt giữ lại từ những năm 70 cho con mình. "Tình hình ra sao?" Anh hỏi và hất hàm về phía dàn âm thanh đang om sòm phát ra bài "Hallelujah" sướt mướt.

Lily nhún vài. "Đang đoạn nước rút. Như mọi khi thôi."

"À, em có chuyện phải kể," tôi nói, cố lấy giọng phấn khởi để tự mình và Alex thấy là có tin vui. Anh rất sung sướng vì đã hoạch định được hai ngày cuối tuần gặp lại bạn cũ - và chính tôi luôn thúc anh phải làm - bây giờ thật tàn nhẫn khi chưa đầy mười hôm trước đó lại sổ toẹt hết. Chúng tôi đã bỏ cả một tối để thống nhất sẽ mời ai dự bữa sáng Chủ nhật thịnh soạn, thậm chí còn biết sẽ cùng ai đi đâu làm picnic trên thùng xe hôm thứ Bảy trước trận Brown gặp Dartmouth.

Hai người nhìn tôi, không chút đề phòng và Alex lên tiếng: "Chuyện gì thế?"

"Em vừa nhận điện thoại là sẽ đi Paris một tuần!" Tôi nói với vẻ phấn chấn như thông báo với đôi vợ chồng hiếm muộn là họ sẽ có sinh đôi.

"Cậu đi đâu?" Lily ngơ ngác hỏi, nhưng cô không có vẻ chú ý quan tâm lắm.

"Sao lại đi?" Alex cũng hỏi cùng lúc, mặt anh lộ niềm vui sướng tựa như vừa nghe báo là tôi đi thử HIV dương tính.

"Emily bị viêm tuyến bạch cầu, và Miranda muốn em đi cùng tới các show thời trang. Tuyệt vời không?" Tôi mỉm cười hoạt bát. Mệt quá. Phải đi Paris đã là một tin xấu, nay lại còn phải thuyết phục Alex rằng đó là một cơ hội tuyệt vời thì mệt gấp mười lần.

"Anh không hiểu. Bà ấy không đi show cả nghìn lần trong năm hay sao?" Anh hỏi và tôi gật đầu. "Tại sao bỗng dưng lần này bà ấy lại muốn em đi cùng?"

Lily lẩn, ra vẻ chăm chú đọc một tờ The New York cũ rích trong đống báo mà tôi sưu tầm năm năm qua.

"Bà ấy mở một tiệm lớn trong thời gian làm show thời trang mùa xuân ở Paris và cần một trong số các trợ lý Mỹ của mình đi theo. Bà ấy đi Milan trước, sau đó em gặp bà ở Paris, anh biết đấy, để điều phối mọi việc."

"Và trợ lý Mỹ này nhất thiêt phải là em chứ gì, nghĩa là em sẽ không có mặt khi họp lớp cũ," anh nói lạnh tanh.

"Vâng, chuyện này cũng không bình thường. Mà là một ưu tiên hiếm hoi và chỉ có trợ lý chính mới được đi cùng. Nhưng vì Emily ốm, vâng, nên em sẽ đi thay. Thứ Ba tới em bay, vì vậy sẽ không đến họp lớp được. Em rất tiếc, tiếc lắm." Tôi muốn xích lại gần anh trên sofa, nhưng Alex lập tức lạnh nhạt hẳn.

"Đơn giản thế thôi chứ gì? Em biết là anh đã trả trước toàn bộ tiền phòng để được lấy giá đặc biệt, chưa kể anh đã đảo lộn toàn bộ kế hoạch đẻ đi cùng em cuối tuần. Anh phải bảo mẹ tìm một người trông trẻ khác, chỉ vì em muốn đến họp lopứ. Không thành vấn đề, Runaway quan trọng hơn, đúng không?" Trong chừng ấy năm đi lại với nhau, tôi chưa từng thấy anh giận dữ như thế bao giờ. Lily cũng ngẩng đầu lên khỏi trang báo rồi kiếm đường chuồn trước khi chiến tranh thế giới thứ ba bùng nổ.

Tôi muốn dụi đầu vào lòng anh, nhưng anh gác hai chân lên nhau và xua tay. "Nghiêm túc đi, Andrea..." anh chỉ gọi tôi như thế khi rất bực mình. "Chuyện này có xứng đáng như thế không? Hãy chân thật với anh một giây: chuyện có đáng để em làm thế không?"

"Chuyện này là chuyện gì? Có xứng đáng gấp bội khi bỏ lỡ một kỳ cuối tuần vì công việc của em đòi hỏi ? Một công việc giúp em mở mọi cảnh cửa như em chưa từng dám mơ, và nhanh hơn mọi mong đợi ? Thế thì, vâng! Rất xứng đáng!"

Anh gục cằm xuống ngực, trong một thoáng tôi tưởng anh khóc, nhưng lúc anh ngẩng lên thì trên mặt anh chỉ thấy cơn thịnh nộ.

"Anh không nghĩ là em thích đi Connecticut với anh hơn là một tuần lễ làm nô lệ 24/24 cho người khác?" Tôi quát lên, quên bẵng là Lily còn ở đâu đó trong căn hộ. "Anh có thể tin lấy một giây rằng, thực tế em không thích qua Paris, nhưng em không được lựa chọn?"

"Không được lựa chọn? Em được lựa chọn quá đi chứ! Andy, công việc của em không thể gọi là công việc được nữa - nó chiếm hết thời gian cuộc đời em!" Anh quát lại, mặt đỏ xuống tận cổ và hai tai. Lúc thường tôi thấy thế rất đáng yêu, thậm chí sexy, nhưng bây giờ tôi chỉ muốn lên giường ngủ cho nhanh.

"Alex, anh nghe này, em..."

"Không, em nghe đã! Hãy quên anh đi một giây, cho dù không phải cố gắng lắm. Quên cả chuyện mình không thấy mặt nhau bao giờ vì em làm việc suốt ngày không nghỉ. Nhưng bố mẹ em thì sao? Em gặp bố mẹ lần cuối cùng khi nào? Chị em nữa? Em có nhớ là em chưa thấy mặt cháu em từ khi nó ra đời không? Chẳng lẽ tất cả không có ý nghĩa gì nữa?" Anh hạ giọng và ngả sang phía tôi. Tôi tưởng anh muốn dàn hóa, nhưng không. "Còn Lily nữa? Em chưa nhận ra là cô bạn thân nhất của em đã biến thành người nát rượi rồi hay sao?" Chắc chắn trông tôi rất kinh hoảng, nhưng anh vẫn bồi tiếp: "Em đừng nói là em không nhận ra. Andy, có mù cũng phải thấy."

"Vâng, em biết Lily uống nhiều. Anh cũng uống, em cũng uống, mọi người mà mình quen đều uống. Lily là sinh viên, và sinh viên thế là thường. Alex, có gì mà phải ầm lên?" Nghe có vẻ lâm ly hơn khi tôi nói như vậy mà anh cũng chỉ lắc đầu. Chúng tôi ngồi im hồi lâu, cho đến khi Alex cất tiếng.

"Em không hiểu gì cả, Andy. Anh không rõ vì sao, nhưng anh cảm thấy như không hiểu em nữa. Anh nghĩ là mình nên ngừng lại."

"Sao? Anh nói gì? Anh muốn chấm dứt?" Tôi hỏi và nhận ra là đã quá muộn khi thấy anh nói cực kỳ nghiêm túc. Anh luôn cảm thông, đáng yêu, luôn có mặt khi cần, và dần dà là tôi yên tâm là lúc nào anh cũng ở bên để lắng nghe tôi sau một ngày dài dằng dẵng hay động viên tôi sau khi cả thế giới cho tôi ăn đòn. Vấn đề duy nhất ở đây là tôi không chăm chút gì cho quan hện này.

"Không, không, không chấm dứt. Chỉ nghỉ lấy hơi. Anh nghĩ sẽ có lợi cho cả hai nếu mình nhìn lại những gì mình có. Dạo này em có vẻ không hài lòng với anh, anh cũng không thể nói là hạnh phúc với em. Có lẽ một chút khoảng cách sẽ tốt cho cả hai chúng mình."

"Lợi cho cả hai? Anh nghĩ sẽ tốt cho chúng mình?" Tôi muốn phát điên lên vì những lời anh nói và cái ý nghĩ nghỉ lấy hơi sẽ làm chúng tôi gần nhau hơn. Hành động của anh quá ích kỷ, ngay lúc một năm làm việc của tôi ở Runaway sắp vào hồi kết thúc như tôi mong chờ, và thử thách lớn nhất trong sự nghiệp sắp diễn ra. Vừa rồi tôi còn buồn rầu và áy náy, nhưng giờ lại nhường chỗ cho nỗi tức giận. "Thôi được. Mình sẽ nghỉ lấy hơi," tôi chua chát và độc địa. "Nghe có vẻ là kế hoạch hay đấy."

Trong cắp mắt nâu anh nhìn tôi chằm chằm hiện lên vẻ sững sờ và tổn thương. Rồi anh nhắm mắt thật chặt như cố gắng đẩy hình ảnh gương mặt tôi khỏi trí nhớ. "Okay, Andy. Anh sẽ để em khỏi phải khó xử và anh cũng phải đi đây. Chúc em vui vẻ ở Paris, anh chúc thật lòng đấy." Và trước khi tôi kịp định thần, anh hôn vào má tôi - tựa như làm với Lily hau mẹ tôi - rồi đi ra cửa.

"Alex, anh có nghĩ là mình nên nói chuyện lại lần nữa?" Tôi nói, cố gắng giữ giọng bình tĩnh - "chẳng lẽ anh đi luôn bây giờ?"

Anh quay lại và mỉm cười buồn bà: "Hôm nay thì thôi, Andy. Lẽ ra mình làm việc đó trong mấy tháng vừa qua, trong cả năm vừa qua thì đúng hơn, chứ không nhồi vào một lúc được. Em cứ suy nghĩ mọi chuyện đi, okay? Mấy tuần nữa anh sẽ gọi điện, lúc em đã quay lại và nghỉ ngơi. Chúc em may mắn ở Paris. Anh biết là em sẽ làm việc tốt." Anh mở cửa, bước ra và khẽ đóng lại.

Tôi chạy ngay vào phòng Lily để nghe cô khẳng định là Alex đã phản ứng quá đà, và chuyến đi Paris là cơ may lớn nhất trong tương lai, và cô không có vấn đề rượu chè gì hết, và tôi không phải đứa em gái tồi chỉ vì đi nước ngoài lúc Jill vừa có đứa con đầu lòng. Nhưng cô đã lăn ra ngủ, để nguyên quần áo và còn chưa kịp giở chăn ra, cái ly cạn khô để trên bàn ngủ. Chiếc laptop Toshiba còn mở cạnh người. Không rõ cô đã viết được dòng nào chưa? Tôi nhìn lên màn hình. Giỏi thật! Lily đã viết xong đầu đề, điền tên họ, số luận văn, tên giáo sư và đầu đề tạm thời cho bài báo: "Hậu quả tâm lý của tương quan tình cảm giữa tác giả và độc giả." Tôi cười to, nhưng cô không cựa quậy. Tôi vác máy tính trở lại bàn, đặt chuông báo thức bảy giờ và tắt đèn.

Tôi vừa vào đến phòng mình thì di động có chuông. Sau năm giây đứng tim như thường lệ - vì lần nào tôi cũng nghĩ là BÀ-ẤY gọi - tôi bật nắp máy ngay vì đoán biết là Alex. Tôi biết, anh không bỏ lửng chuyện. Anh không thể chợp mắt mà không có nụ hôn chúc ngủ ngon và giấc mơ đẹp. Không thể có chuyện anh để tôi trơ ra đấy mà đi, hoàn toàn vô cảm khi biết chúng tôi trong mấy tuần tới không thấy mặt nhau.

"Cưng à?" Tôi phả nhẹ hơi vào điện thoại. Cho dù đã thấy nhớ anh, nhưng hiện úc này tôi hài lòng vì chỉ gặp nah trên điện thoại chứ không có gì phải trực tiếp giảng giải. Đầu tôi nhức, người ngợm mỏi như, và tôi chỉ muốn nghe nói rằng tất cả chỉ là một sự hiểu lầm khủng khiếp và mai anh sẽ gọi lại. "Rất vui khi anh gọi."

"Cưng? Wow! Tiến bộ quá nhỉ, Andy? Cẩn thận không tôi lại tơ tưởng nghĩ là chị mến tôi," Christian nói dịu dàng, trong điện thoại tôi cũng nghe được tiếng anh cười.

"Ồ, thì ra anh."

"Chà, đó không phải là câu chào thân mật nhất mà tôi từng được nghe. Có vấn đề gì vậy, Andy? Dạo này chị lờ hẳn tôi đi, hay tôi nhầm?"

"Đâu có," tôi nói dối. "Tôi chỉ có một ngày chết tiệt, như mọi hôm thôi. Có chuyện gì không ạ?"

Anh cười. "Andy, Andy, Andy, đừng thế, có lý do gì để chị mất vui đâu. Chi đang thênh thang trên đường hạnh phúc. À, nhân tiện hỏi chị có thích đến dự buổi trao giải thưởng hội Văn bút và đọc sách tối mai không? Chắc sẽ có rất nhiều nhân vật thú vị, và cũng lâu lắm tôi chưa gặp chị - hoàn toàn vì lý do công việc thôi, tất nhiên."

Với tôi, một cô gái đã đọc không biết bao nhiêu bài báo trong Cosmo về đề tài "Làm sao nhận ra là anh ấy nghiêm túc?" Thì chậm nhất lúc này là đèn báo động đã bật đỏ. Và đèn cũng bật thật - nhưng tôi kệ xác nó. Hôm nay là một ngày lê thê, và tôi cho phép mình nghĩ rằng - dù chỉ vài phút thôi - biết đâu, biết đâu, BIẾT ĐÂU, anh ta lại chân thành. Việc chó gì phải quan tâm. Cảm giác dễ chịu khi tán chuyện vài phút với một người đàn ông không kêu la gì mình, thậm chí sẵn sàng chấp nhận là tôi đã có người yêu. Tôi biết là sẽ không nhận lời mời của anh, nhưng vài phút tán tỉnh trong trắng qua điện thoại thì có chết ai?

"Thật thế ạ?" Tôi hỏi điệu rớt. "Anh kể tiếp đi!"

"Tôi có thể đọc cả danh sách lý do khiến chị nên đi cùng tôi, Andy, nhưng mục số một là mục đơn giản nhất: tôi biết cái gì tốt cho chị. Chấm hết." Chà, bố này kiểu quá đi mất. Tại sao tôi lại bập vào nhỉ?

Games đã khởi động. Games thủ vào cuộc, và chỉ vài phút sau là tất cả - chuyến đi Paris, thói nhậu vodka đáng ngại của Lily và ánh mắt Alex buồn thảm - tất cả lùi ra xa lắc nhường chỗ cho cuộc đàm luận quả là bất-lương-và-dạt-dào-cảm-xúc-và-nguy-hiểm-nhưng-tuy-vậy-thực-sự-gợi-tình-và-thú-vị với Christian.

Chương 16 đây

Theo kế hoạch Miranda sẽ ở Milan một tuần , hoàn tất các show thời trang cùng các trợ lý người địa phương , sau đó bà đến Pari vào một buổi sáng với tôi để cùng bàn thảo mọi chi tiết về bữa tiệc như hai người bạn gái thân thiết (ha ha ha). Hãng Delta không chịu dễ dàng bỏ tên Lily trên vé bay thành tên tôi, làm tôi đã bực sẵn lại càng bực thêm và đặt luôn vé mới 2.200 dollar, vì đang tuần lễ thời trang và tôi mua quá sát giờ . Tôi giật mình khi báo số thẻ tín dụng của công ty. Mặc kệ, tôi nghĩ, chỉ bằng số tiền Miranda chi mỗi tuần riêng cho giặt là.

Với chức danh trợ lý phụ cho Miranda, tôi là sinh vật cấp thấp nhất ở Runway. Ngược lại, muốn đầu xuôi đuôi lọt thì Emily và tôi là 2 nhân vật hung mạnh nhất thế giới thời trang : chúng tôi nắm quyền định đoạt , ai và bao giờ được nhận lịch hẹn (ưu tiên giờ sáng sớm, khi son phấn còn mới và quần áo chưa có lớp nhàu) tin tức của ai được chuyển tiếp (người nào không hiện tên trên bản tin, người ấy không tồn tại trên đời )

Có nghĩa là khi một trong hai chúng tôi cần hỗ trợ thì toàn bộ số nhân lực còn lại bắt buộc phải sẵn sàng .Đúng vậy, đồng thời chúng tôi lờ mờ nhận biết là cả lũ này - nếu hai chúng tôi không tình cờ làm việc cho Miranda Priestly - không ngần ngại gì dùng Limousine của công ty cán bét nhè chúng tôi ra . Hiện giờ thì khi nghe huýt sáo là họ chạy thoăn thoắt đi tha về khúc củi như những con cẩu được huấn luyện thuần thục

Công việc chuẩn bị số báo sắp ra bị dừng đột ngột . Bây giờ quan trọng nhất là tạo cho tôi một hình ảnh tử tế khi sang đến Paris . Ba cô búp bê của phòng thời trang khẩn trương tập hợp mấy bộ cánh thích hợp với những sự kiện mà Miranda đòi có sự hiện diện của tôi . Cho đến khi cất cánh , sếp phụ trách thời trang Lucia hứa sẽ lo cho tôi một sổ ghi chép với các ký họa chì than chuyên nghiệp thể hiện mọi thứ trang phục mà tôi đem theo , dựa vào đó tôi có thể kết hợp các phần trang phục với nhau theo đủ kiểu nhằm đạt phong cáhc tối đa và hạn chế sai lầm xuống tối thiể . Tóm lại : chừng nào tôi đừng dựa vào gu lựa chọn và xếp bộ riêng của mmình thì sẽ có cơ may - tuy rất mong manh - xuất hiện một cách bảnh bao

Giả sử khi tôi theo Miranda vào một quán nhỏ và phải đứng im trong góc như một xác ướp trong khi bà nhâm nhi ly Bordeaux thì sao ? Quần Theory có gấu lơ vê màu than chì , đi kèm áo cổ lọ Celine lụa đen. Đến câu lạc bộ tennis để bà tập với huấn luyện viên riêng , sẵn sàng đi lấy nước và, nếu có lệnh , đem khăn trắng nếu bà toát mồ hôi - ở đó tôi sẽ mặc đồ thể thao từ đầu đến chân: áo liền mũ có kháo kéo ( hở rốn, tất nhiên) mặc trên áo lưới cắt gấu giá 185 dollar , giày da lộn - đều là đồ Prada cả. Còn nếu tình cờ - hoàn toàn tình cờ - như mọi người thề sống thề chết là tôi được ngồi hàng đầu ở một show thời trang thì sao ? Lúc đó thì tha hồ lựa chon thoải mái. Cho đến nay (nhớ là bây giờ mới là chiều thứ Hai) tôi ưa nhất váy xếp kiểu nữ sinh của Anna Sui, hợp với bốt lửng Christian Labourtin rất khêu gợi và áo vest da hiệu Katayone Adeli bó chẽn đến mức gọi là dâm đãng cũng được. Từ mấy tháng nay, quần bò Express và đôi giày lười Franco Sarto của tôi nằm mốc trong tủ , và thú thật là tôi cũng không nhớ chúng nắm.

Tôi cũng phát hiện ra là Allison, biên tập viên thẩm mỹ, xứng đáng mang danh hiệu ấy trong công nghệ làm đẹp. trong vòng 24h khi nhận thông báo là tôi cần một chút make-up và rất nhiều hướng dẫn , cô đã tập hợp trọn gói một bộ mỹ phẩm không thiếu thứ gì . Tráp mỹ phẩm Burberry ngoại cỡ mà không sân bay nào cho phép đem theo lên cabin chứa phấn đánh mi mắt, kem giữ ẩm, son bóng, kem, bút kẻ và make-up ở đủ dạng thức trên đời, son mội loại mờ, bóng , không tan trong nước, mascara sáu độ độ đậm nhạt từ xanh da trời đến đen như mực Tàu , kẹp long mi và hai chổi long đề phòng (lạy chúa), phấn vón cục

Các loại phấn- tính ra chiếm đến nửa số mỹ phẩm - dùng để lót hoặc nhấn hoặc làm dịu mi mắt, da mặt hay gò má , phong phú đến nỗi mọi bảng pha màu của họa sĩ phải phát ghen : có loại để tạo nhũ , có loại chuyên gây điểm nhấn, nhiều loaị khác dùng để gây ấn tượng to ra , nhỏ đi hoặc che bớt khiếm khuyết.

Tôi được thoải mái chọn loại lỏng, rắn hay dạng bột, hoặc trộn cả ba thứ để tạo máu mới. Kinh khủng nhất là lớp lót: cứ như ai dó lột một miếng da mặt tôi và trộn thyành một bát tô với màu sắc chính xác như bản mẫu . Gọi là "tạo bóng" hay "che chỗ thô"- thú thật là mỗi một lọ tí xíu trong bộ mỹ phảm đều làm cho da mặt tôi đẹp hơn so với lúc cha sinh mẹ đẻ . Trong một cái ráp in ca rô khác, không nhỏ hơn mấy, là các phụ kiện : nắm bong, giấy thấm, que bông bọt biển, gần hai tá bàn chải , khăn tẩy trang , hai loại nước tẩy phấn mắt ( giữ ẩm và không pha dầu ), và không dưới một tá - MỘT TÁ - kem giữ ẩm cho da mặt, cho cơ thể, với tác dụng ngấm vào da, hệ số chống nắng 15, không làm bóng, trộn màu, có hương không hương , chống dị ứng chống nếp nhăn, kháng khuẩn và - phòng trường hơp trong tháng Mười mà ánh nắng Paris chết tiệt còn vớ được tôi - kem lô hội.

Trong túi cạnh của tráp nhỏ hơn còn có them các tấm hình cỡ lớn với những khuôn mặt in sẵn , đã được trang điểm hoàn hảo mà Allison cẩn thạn cất vào làm tài liệu trực quan. Một trong những khuôn mặt mẫu ấy mang tiêu đề khá lạ tai "KHÔNG THÍCH HỢP ĐẠI LỄ! QUÁ TẦM THƯỜNG !" Khuôn mặt tầm thường này có lớp phấn lót mỏng , dùng phấn nhũ lấy màu và kết thúc bằng hai chấm son dạng nước hay kem : hai mắt đóng viền thâm rtấ sexy , quầng đậm , lông mi chuốt đen thui và son ướt có màu bóng lộn tô môi rất đại khái . Tôi lẩm bẩm nói với Allison là tôi không thể làm được kiểu này , cô giận dữ đáp . " hy vọng chị không có dịp phải làm kiểu này " cô nói gay gắt, đồng thời cũng rất bức xúc , chắc vì quá sức chịu đựng sự ngu dốt của tôi.

:Thế tại sao tôi phải đem theo ngót hai tá mặt mẫu và các hướng dẫn sử dụng khác nhau?"

Ánh mắt khinh miệt của cô giống Miranda như tạc.

"Andrea, không đùa đâu . Chỉ đề phòng trường hợp khẩn cấp thôi, nếu Miranda gọi chị đi theo vào đúng phút cuối cùng, hoặc thợ trang điểm của chị không có mặt. Á nhân tiện tôi nhớ ra là tôi định cho chị xem những mỹ phẩm làm tóc đã chuẩn bị ".

Trong lúc Allison bày tôi cách sử dụng bốn lọaị bàn chải tròn khác nhau khi sấy tóc, tôi cô gắng đóan ý nghĩa những lời cô vừ nói. Theo tôi hiể thì tôi cũng có nhân viên làm tóc và trang điểm ? Tôi chỉ chuẩn bị cho Miranda, thế ai sẽ chăm sóc tôi?

"Văn phòng Paris", Allison thở dài trả lời. "Chị đại diện cho Runway, hiểu không , và Miranda rất nhạy cảm với chuyện này. Chị sắp có mặt tại một số nơi trong các sự kiện hoành tráng nhất thế giới, bên cạnh Miranda Priestl. Chắc chị không định nói là chị sẽ tự trang điểm cho mình?"

" Không, tất nhiên là không. Nhất định có chuyên nghiệp hỗ trợ thì sẽ tốt hơn. Cám ơn chị.

Allison còn hành hạ tôi them hai tiếng nữa, cho đến khi cô yên chí là nếu một trong mười bốn lịch làm việc với nhân viên làm tóc và trang điểm của tuần tới chẳng may bị lỡ thì tôi sẽ không làm xấu mặt sếp bằng cách bôi mascara lên môi, hoặc cạo trọc hai bên đầu chừa lại chỏm tóc chào mào. Khi mọi việc xong xuôi, tôi tưởng có thì giớ chạy xuống căn tin mua bát xúp béo ngây, song Allison đã vớ điện thoại của Emily - chính của cô ngày trước và gọi cho Stef bên bộ phận phụ kện.

"Chào chị. Tôi đã xong rồi , cô ấy vẫn còn đây. Chị có lên đây không?"

"Đợi đã . Tôi ăn trưa đã , trước khi Miranda quay về."

Allison trợn tròn mắt , hệt như Emily. Tôi tự hỏi, liệu có phải vị trí công tác này khiến người ta thể hiện bất bình giống nhau: " Thôi được. Không, không tôi vừa nói với Andrea ,"cô nói vào điện thoại và nhường mày - bất ngờ quá, bất ngờ quá- giống hệt Emily. "Có vẻ như cô ấy đói bụng. Tôi biết, vâng tôi biết mà. Tôi sẽ nhắn cô ấy. Nhưng cô ấy vẫn nhất định muốn.. ăn."

Trong vòng ba phút tôi đã quay lại văn phòng với bát xúp kem súp lơ xanh với pho mát cheddar và thấy Miranda ngồi ở bàn , bà giữ ống nghe cách xa tai với vẻ kinh sợ, tựa như có đỉa quấn xung quanh. Không hiểu tôi có còn sống đến tối nay đ63 thấy bà bay đi Milan theo kế hoạch?

"Có chuông điện thoại. Andrea , nhưng khi tôi nhấc máy - vì rõ ràng là chị không quan tâm việc đó - thì không nghe ai nói cả . Chị giải thích cho tôi hiện tượng này được không ?"

Tất nhiên là tôi giải thích được , nhưng không phải cho bà . Tuy rất hiếm khi nhưng có lúc Miranda một mình ở văn phòng, và nhấc máy khi có chuông. Dễ dàng là người gọi tới sẽ bị choáng khi nghe tiếng bà và vội vàng đặt máy. Không ai chuẩn bị tinh thần được nói chuyện với bà, vì khả năng được nối máy bằng không. Trong mấy phút vắng mặt trong hộp thư của tôi có thêm hang chục email của các biên tập viên và trợ lý báo vcho biết - nếu tôi chưa biết- là Miranda vừa tự cầm điện thoại "các cậu đi đâu rồi?" Là câu hỏi kinh hoàng trong tất cả các email. " Bà ấy tự nhận điện thoại đấy!!!"

Tôi lầm bầm nói đại khái là thỉng thoảng vẫn xảy ra chuyện có người gọi tôi rồi cúp máy., nhưng Miranda không còn muốn nghe. Bà không nhìn tôi nữa, mà chuyển ánh mắt qua bát xúptrên tay tôi. Một vệt chất lỏng đặc sệt rịn từ từ dọc theo thành bên ngòai bát. Nỗi ghê tởm nhận rõ ra nét mặt khi bà nhận ra rằng tôi không chỉ cầm thứ đồ ăn gì đó trong tay mà còn có dự định sẽ cho nó vào bụng .

" Chị vứt ngay đi hộ tôi!" Bà rống lên từ khoảng cách năm thước. " Chỉ ngửi thấy mùi là tôi đủ phát ốm lên rồi ".

Tôi tống thủ phạm quấy nhiễu vào sọt rác và nuối tiếc nhìn theo đồ ăn bị mất đi, trước khi tiếng bà kéo giật tôi về thực tại .

" Tôi đã sẵn sàng tổng duyệt ". Bà rít lên, dựa lưng vào ghế , thanh thản hơn vì đã tống khứ được thực phẩm khỏi Runway.Khi" KHi nào tổng duyệt xong thì chị gọi phiên họp chính"

Mỗi lời nói của bà gây ra một luồng adrenaline chạy qua thân thể tôi: chưa bao giờ tôi biết chắc chắn bà muốn gì, do đó luôn nghi ngại không rõ mình có làm đúng hay không . Kỳ thực phân lịch tổng duyệt và họp hằng tuần là việc của Emily. Nhìn vào lịch công tác, tôi biết 3 giờ chiều nay có mục Tổng duyệt chụp ảnh Sedona, Lucis/Helen. Tôi vội bấm số máy của Lucia và nói ngay khi khi thấy đầu knhấc máy.

" Sếp đợi " tôi nói dứt khoát như truyền quân lệnh. Helen, trợ lý của Lucia, đặt máy không nói một lời, và tôi biết cô cùng Lucia đã đi được nửa đoạn đường đến văn phòng. Nếu trong vòng hai mươi lăm, tối đa hai mươi lăm giây nữa mà chưa thấy ai đến thì tôi sẽ bị cử đi để tìm họ và trực tiếp nhắc nhở điều mà thật ra họ đã biết rồi : nếu tô gọi điện và nói :" Sếp đợi " thì có nghĩa là ngay lạp tức . Về nguyên tắc chỉ có một điều làm bực mình, đó là lệnh bắt đi giày cao gót càng nhọn càng tốt . Chạy khắp văn phòng đi tìm những người chỉ rình trón biệt trước Miranda đã là việc không có gì vui vẻ cả , khổ hơn nữa là khi họ trốn vào phòng vệ sinh.bất kể việc người ta làm trong đó là việc gì nếu không được coi là cớ để xin lỗi không xuất hiện được ở thời điểm đã định - bắt buộc tôi phải tấn tới, nhiều khi phải đoán người qua giày dép lấp ló dưới cửa toa lét rồi vừa nài xin vừa ra lệnh kẻ bị túm cổ hãy nhanh nhanh chấm dứt công việc để đến trình diện ở phòng Miranda Priestly . Ngay lập tức

May mắn cho mọi người trong cuộc là Helen đến sau vài giây, cô đẩy một giá treo nặng trĩu quần áo đến nỗi lệch hẳn sang một bên, kéo theo một giá treo nữa sau lưng . Sau chút ngập ngừng, cô thấy Miranda vẫy tay lơ đãng và cô đẩy cả hai giá treo qua cửa kép lên nền thảm dày.

" Hết rồi à? Hai giá thôi" Miranda hỏi , thoáng ngẩng lên khỏi tờ sửa bài.

Helen bị bất ngờ ra mặt khi bà hỏi cô trực tiếp , vì Miranda không bao giờ nói chuyện với trợ lý của người khác. Nhưng khi Lucia chưa hiện ra với giá treo thì chắc Miranda nói với cô.

" À, không Lucia đến ngay và đem theo hai gá treo nữa . Tôi có được phép, à, bắt đầu cho bà xem những thứ chúng tôi đã đặt không ạ?" Helen luống cuống hỏi và kéo chiếc áo quây trùm lên cạp váy.

" Không"

Rồi thì : "Aan-dree-aa, đi tìm Lucia. Theo đồng hồ tôi là ba giờ. Tôi có nhiều việc để làm hơn là ngồi đợi cho đến khi quý bà xong" Kể ra cũng không đúng hẳn, vì bà vẫn đang sử bài , và từ khi tôi gọi điện đến giờ chưa quá ba mươi lăm phút. Nhưng tôi ngậm miệng thì hơn.

" Không cần thiết, Miranda, tôi đây rồi," Luca vừa nói vừa hổn hển, tay kéo tay đểy hai giá treo qua trước mặt tôi khi tôi định dứng dậy đi tìm. "Xin lỗi. Chúng tôi cứ ngồi đợi bên YSL đưa đến chiếc măng tô cuối cùng"

Cô dựng các giá treo đã phân loại ( theo sơ mi, áo khoác, quần và váy, áo dài) thành hình vòng cung trước bàn Miranda rồi khoát tay cho Helen đi khỏi. Sau đó Miranda và Lucia tổng duyệt từng thứ một và tranh cãi xem đồ nào đem đi chụp ảnh ở Sedona, Arizona. Lucia ủng hộ kiểu thời trang "nữ cao bồi điệu" theo ý cô sẽ rất nổi trước dãy núi đá màu đỏ phía sau, nhưng Miranda khăng khăng bác bỏ vì bà thích "điệu" thôi, bản thânn"cao bồi" và "điệu" là hai khái niệm phản nhau rõ rệt . Có lẽ bà bị bội thực món "nữ cao bồi điệu" ở bữa tiệc của em trai Mờ-Cờ-Đờ . Tôi chủ ý không góp lời nào vào cuộc tranh luận, cho đến khi Miranda gọi tên tôi, sai đi gọ những người chịu trách nhiệm tổng duyệt phụ kiện

Tôi lập tức xem lại sổ ghi chép của Emily, nhưng đúng như tôi nghĩ, hôm nay không có chương trình tổng duyệt phụ kiện.

Tôi gọi điện cho Stef, báo cho cô biết Miranda đang đợi và cầu Chúa là Emily chỉ quên ghi vào lịch thôi.

Vô ích. Họ chỉ có lịch hẹn chiều mai tổng duyệt phụ kiện; tối thiểu một phần tư những sản phẩm họ cần còn đợi bên quảng cáo đem tới.

"Không thể làm được đâu," Stef giải thích, nhưng giọng cô yếu sức thuyết phục hơn những lời cô nói ra.

"Tôi biết nói gì với sếp bây giờ?" Tôi thì thào

"Nói cho sếp biết sự thật : mai mới có lịch tổng duyệt , đa số hàng chưa có đây, tôi nói nhiêm túc đấy. Bọn tôi đang đợi một chiếc túi dạ hội, một ví đầm, ba chiếc ví có tua khác nhau, bốn đôi giày, hai dây chuyền, ba..."

" Okay, okay, tôi sẽ nói với sếp. Chị cứ đứng cạnh điện thoại nhé, v2 nhấc máy khi tôi gọi lại. Ở địa vị của chị tôi sẽ thu xếp mọi thứ sẵn sàng . Tôi cá với chị là sếp không quan tâm đến lịch tổng duyệt được bố trí lúc nào ."

Không nói một lời, Stef cúp máy . Tôi quay lại và ngoan ngoãn đợi cạnh cửa cho đến khi Miranda nhìn thấy tôi. Đợi bà nhìn sang phía tôi dò hỏi , tô nói: "Miranda, tôi vừ nói chuyện với Stef , và cô ấy nói là ngày mai mới có lịch tổng duyệt , do vậy còn thiếu nhiều thứ . Nhưng tất cả sẽ..."

"Aan-dree-aa, đơn giản là tôi không thể tưởng tượng ra các người mẫu trông ra sao nếu thiếu giày, túi hay trang sức , và nagỳ mai tôi đã ở Ý rồi. Nói với Stef đưa cho tôi tổng duyệt những gì đã có sẵn , và chuẩn bị những thứ khác để xem trên ảnh cũng được ." bà quay lại với Lucia và mấy giá treo quần áo

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#mun