YTDLK hoi 26.......30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG

Miệng không nói nhưng lòng ta vẫn nói,

Mặt không còn nhưng chí chẳng hề suy.

Cái danh Hữu Sứ bỏ đi,

Vào trong hang hổ ở khi chờ thời.

*

* *

Xế trưa hôm đó, ba con ngựa, một chiếc xe cùng lên đường hướng bắc, chẳng bao lâu đã đến kinh đô nhà Nguyên là Đại Đô. Thời đó người Mông Cổ dùng ngựa mà chinh phục nước Tàu, đất đai của họ rộng đến mấy vạn dặm, xưa nay các đế quốc tính theo diện tích không có nước nào lớn bằng. Đại Đô về sau gọi là Bắc Kinh, là nơi nhà vua ở, các tiểu quốc, các sứ thần đến triều cống không biết bao nhiêu mà kể. Bọn Trương Vô Kỵ vừa vào cửa thành đã thấy trên đường rất nhiều người qua lại, một số đông tóc vàng mắt xanh.

Bốn người đi đến phía tây, kiếm một khách điếm nghỉ ngơi. Dương Tiêu chi tiêu rộng rãi, làm như một khách thương buôn bán lớn, gọi ba phòng hạng nhất. Điếm tiểu nhị thấy thế xun xoe đon đả, phục thị rất ân cần.

Dương Tiêu hỏi thăm xem Đại Đô trong thành có cổ tích danh thắng nào, nói chuyện một hồi, làm như vô tình hỏi đến các chùa chiền miếu mạo. Chùa đầu tiên điếm tiểu nhị nói đến là chùa Vạn An:

- Chùa Vạn An có một cái rừng thật lớn, bên trong chùa lại có ba tượng Phật bằng đồng, dù có đi khắp thiên hạ cũng không tìm đâu ra pho tượng thứ tư lớn như thế, ai cũng nên đến xem cho biết. Có điều khách quan thật không may, độ nửa năm nay, trong chùa có các Phật gia tây phiên ở, dân thường không ai dám vào nữa.

Dương Tiêu hỏi:

- Có phiên tăng ở ư? Đến xem cũng không được à?

Tên tiểu nhị le lưỡi, nhìn quanh bốn bề nói khẽ:

- Không phải là tiểu nhân lắm chuyện nhưng khách quan mới đến kinh đô lần đầu, nói năng nên cẩn thận. Những Phật gia tây phiên kia gặp ai thích đánh là đánh, muốn giết là giết, thấy đàn bà con gái xinh đẹp là bắt vào chùa. Đó là do hoàng thượng kim khẩu hạ thánh chỉ cho họ làm. Đâu có ai dám vuốt râu hùm mà lại gần các tây phiên Phật gia đó làm chi?

Các phiên tăng Tây Vực dựa thế người Mông Cổ, hoành hành vô pháp, khinh khi người Hán, Dương Tiêu đã biết từ lâu, có điều không ngờ ngay giữa kinh thành mà không e ngại gì, nên không nói gì thêm với gã tiểu nhị nữa.

Ăn cơm chiều xong, mọi người nhắm mắt nghỉ ngơi một lát, đợi đến canh hai, ba người mới nhảy cửa sổ ra, chạy về hướng tây tìm kiếm. Chùa Vạn An có lầu cao bốn tầng, sau chùa có một tòa bảo tháp mười ba gác nên từ xa đã thấy ngay. Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu ba người thi triển khinh công, chỉ giây lát đã đến trước cửa chùa. Ba người ra hiệu cho nhau, cùng lẻn qua phía bên trái chùa, toan trèo lên bảo tháp, để từ trên cao nhìn xuống quan sát toàn cảnh. Ngờ đâu khi tới cách tháp chừng hai chục trượng, thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng, trên mỗi tầng đều có người qua lại tuần tra, dưới chân tháp cũng có đến hai ba chục người canh gác.

Ba người thấy thế, vừa mừng vừa lo, tháp này thủ vệ nghiêm nhặt, các người của phái Thiếu Lâm, Võ Đương hẳn là bị nhốt nơi đây, cũng bõ công đi dò thám. Có điều kẻ địch canh gác cẩn mật như thế, muốn cứu người quả không phải dễ dàng. Huống chi Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê các người ai ai cũng võ công trác tuyệt, vậy mà đều bị bắt cả, hẳn là đối phương có nhiều cao thủ, thủ đoạn lại cũng hơn người, chẳng cần nói thì cũng biết. Trước khi đi, ba người đã bàn tính không thể hành sự cẩu thả, thành thử thấy vậy bèn toan tháo lui.

Ngay lúc đó, trên từng thứ sáu của bảo tháp có ánh lửa lấp loáng, tám chín người cầm đuốc đi chầm chậm đi xuống tầng thứ năm, rồi tầng thứ tư, đến tầng cuối cùng theo cửa chính của bảo tháp đi ra phía chùa. Dương Tiêu vẫy tay, từ bên hông men ra. Trong chùa Vạn An cây nào cây nấy đều là cổ thụ, ba người nấp sau gốc cây, cứ mỗi khi nghe gió thổi lại chạy lên vài trượng. Ba người khinh công tuy cao thật, nhưng cũng sợ bị người ta phát giác, nên cũng phải nhờ đến gió lay, lá rụng mới dám di động.

Cứ như thế khi lên được độ hơn hai chục trượng rồi mới thấy rõ hơn chục người đàn ông mặc áo vàng, trong tay ai cũng có binh khí, áp giải một ông già mặc trường bào, tay áo thụng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Trương Vô Kỵ nhìn rõ mặt chính là chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, trong lòng không khỏi xốn xang: "Quả nhiên cả Hà Thái Xung cũng ở đây".

Bọn người đó đi vào chùa Vạn An bằng cửa sau, ba người chờ một lát, thấy bốn bề quả không có ai mới theo cửa đó lẻn vào. Ngôi chùa này thật nhiều phòng ốc, qui mô rất lớn, tương tự như chùa Thiếu Lâm, thấy bên trong song cửa một tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng, xem chừng Hà Thái Xung bị bắt đem vào đây. Ba người len lén tiến tới, đến bên ngoài điện. Trương Vô Kỵ nằm phục dưới đất, nhìn vào khe hở của cửa sổ. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng hai bên canh gác, đề phòng bị tập kích. Ba người tuy võ nghệ cao cường, đảm lược lớn, nhưng lúc này đi vào đầm rồng hang hổ, trong bụng không khỏi phập phồng.

Khe cửa rất hẹp, Trương Vô Kỵ chỉ nhìn được nửa thân dưới của Hà Thái Xung, còn bên trong có những ai thì không sao biết được. Chỉ nghe Hà Thái Xung hậm hực nói:

- Ta trúng phải gian kế, lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, muốn xẻo thì xẻo, một lời là xong. Còn bắt ép ta làm ưng khuyển cho triều đình thì nhất định là không được, dù có nói ba năm năm năm cũng chỉ phí lời thôi.

Trương Vô Kỵ ngầm gật đầu, nghĩ thầm: "Vị Hà tiên sinh này tuy không phải chính nhân quân tử, nhưng ở lúc nguy nan mà vẫn vững lòng, không mất khí khái của chưởng môn một phái".

Lại nghe tiếng một người đàn ông giọng lạnh như tiền:

- Ngươi nếu cố chấp không đổi, chủ nhân cũng không ép. Thế qui củ ở đây ngươi đã biết chưa?

Hà Thái Xung nói:

- Dù có cả mười ngón tay ta đều bị chặt đứt, cũng không chịu đầu hàng.

Người kia nói:

- Được, để ta nói lại một lượt, nếu ngươi thắng được ba người trong chúng ta thì lập tức thả ngươi ra. Còn như nếu thua, thì sẽ bị chặt đứt một ngón tay, giam thêm một tháng, sẽ hỏi lại xem hàng hay không hàng.

Hà Thái Xung đáp:

- Ta đã đứt mất hai ngón tay rồi, có đứt thêm ngón nữa, thì cũng đã sao? Đưa kiếm cho ta.

Người kia cười khẩy:

- Đợi đến khi ngươi cả mười ngón tay đều đứt hết, lúc ấy mới đầu hàng thì bọn ta cũng chẳng cần cái con người bỏ đi ấy làm gì. Đưa kiếm cho y. Ma Ha Ba Tư, ngươi đấu với y xem nào.

Một người giọng ồm ồm đáp:

- Vâng.

Trương Vô Kỵ ám vận thần công lên ngón tay, nhẹ nhàng moi cái khe hở ra một mảng, thấy Hà Thái Xung tay cầm một thanh kiếm gỗ, mũi kiếm có bọc vải, vừa mềm vừa lụt, không cách nào có thể đả thương người khác được. Còn trước mặt y là một phiên tăng cao to, tay cầm một thanh giới đao sáng loáng. Hai bên binh khí kẻ sắc người cùn khác nhau như thế đâu cần phải tỉ thí, ai mạnh ai yếu đã thấy ngay. Thế nhưng Hà Thái Xung không sợ hãi chút nào, vung thanh kiếm gỗ một cái, nói:

- Xin mời.

Nghe soẹt một cái y đã đâm ra một kiếm khí thế thật là độc địa. Kiếm pháp của phái Côn Lôn, quả nhiên có chỗ độc đáo. Gã phiên tăng Ma Ha Ba Tư kia tuy thân thể to lớn nhưng hành động lại nhanh nhẹn, thanh giới đao liền vung ra, nhát nào cũng nhắm chỗ yếu hại của Hà Thái Xung chém tới. Trương Vô Kỵ chỉ coi mấy chiêu đã ngầm kinh hãi: "Sao Hà tiên sinh bước chân bông bênh, hơi thở dồn dập, dường như nội lực mất hết không còn gì cả?".

Kiếm pháp của Hà Thái Xung tuy tinh diệu, nội lực so với người thường cũng chẳng khác gì, những lợi hại trong kiếm chiêu không sao thi thố được. Được cái là gã phiên tăng võ công kém y hai bực, mấy lần tấn công mãnh liệt đều bị Hà Thái Xung dùng kiếm thuật tinh kỳ chiếm lại tiên cơ. Hai bên đánh tới ngoài năm mươi chiêu, Hà Thái Xung quát lên một tiếng: "Trúng" thanh kiếm từ đông vòng ngược lại phía tây, đâm xéo về trước, nghe cạch một tiếng nhỏ, đã đâm trúng dưới nách gã phiên tăng. Nếu như trong tay y chỉ là một thanh kiếm thông thường, hoặc nội lực không mất, mũi kiếm cũng đã xuyên qua da thịt rồi.

Lại nghe tiếng lạnh lẽo của gã kia nói:

- Ma Ha Ba Tư lui, Ôn Ngọa Nhi lên.

Trương Vô Kỵ nhìn theo tiếng nói, thấy kẻ đó mặt như phủ một lớp khói đen, cằm mọc một chùm râu hoa râm lưa thưa, chính là một trong Huyền Minh nhị lão. Y khoanh tay đứng nhìn, mắt nửa thức nửa ngủ, làm như không quan tâm gì đến chuyện trước mắt.

Chàng nhìn lên trên, thấy trên một cái đôn thấp bọc gấm có một đôi bàn chân mang giày đoạn màu vàng nhạt, đầu giày có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung động trong lòng, thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn, mắt cá chân tròn trịa, dường như quen quen, chính là đôi bàn chân mà chàng đã nắm được lúc ở Lục Liễu Trang của Triệu Mẫn. Khi chàng gặp lại cô ta trên núi Võ Đương, hai bên là kẻ thù nhưng lúc này nhìn thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đó, không hiểu vì sao, tự nhiên đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch.

Chỉ thấy Triệu Mẫn đong đưa bàn chân, xem ra nàng đang để hết tâm hết ý vào trận đấu giữa Hà Thái Xung và Ôn Ngọa Nhi. Độ thời gian uống một tuần trà, Hà Thái Xung lại kêu lên: "Trúng", bàn chân Triệu Mẫn liền dậm trên cẩm đôn một cái, Ôn Ngọa Nhi lại thua trận đó rồi. Lão già mặt đen trong Huyền Minh nhị lão lại nói:

- Ôn Ngọa Nhi xuống, Hắc Lâm Bát Phu lên.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng Hà Thái Xung thở hổn hển, nghĩ chắc y liên tiếp đánh bại hai người, tốn rất nhiều hơi sức. Chỉ giây lát lại có tiếng kịch đấu nổi lên, gã Hắc Lâm Bát Phu sử dụng một cây thiền trượng vừa to vừa nặng, múa lên gió nổi vù vù, đèn nến trong điện lúc mờ lúc tỏ, bóng người chẳng khác gì mây bay thấp thoáng qua lại nơi chân Triệu Mẫn. Bỗng thấy trong điện tối sầm, mấy ngọn nến đỏ phía bên phải bị gió từ cây thiền trượng làm tắt ngúm, nghe cách một tiếng, thanh kiếm gỗ gẫy làm đôi. Hà Thái Xung thở dài một tiếng, ném kiếm xuống đất, trận này thế là y thua.

Huyền Minh lão nhân hỏi:

- Thiết Cầm tiên sinh, ông đã chịu hàng chưa?

Hà Thái Xung ngang nhiên đáp:

- Ta không chịu hàng, cũng không phục. Nếu như nội lực ta còn, tên phiên tăng kia đâu có phải là đối thủ của ta?

Huyền Minh lão nhân lạnh lùng nói:

- Chặt ngón tay vô danh bên trái của y, tống trở lại tháp.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại, Dương Tiêu xua xua tay, ý muốn nói: "Lúc này xông vào điện cứu người, có thể làm lỡ việc lớn". Chỉ nghe tiếng chặt tay trong điện, rịt thuốc, băng bó cầm máu nhưng Hà Thái Xung cũng rất cứng đầu, đến tiếng suýt xoa cũng không hé răng. Bọn người áo vàng lại cầm đuốc giải y trở lại giam trong tháp. Bọn Trương Vô Kỵ nép mình ở góc tường, dưới ánh lửa thấy Hà Thái Xung mặt xanh nhợt, nghiến răng bậm môi, thần sắc cực kỳ tức giận.

Cả đoàn người đó đi xa rồi, bỗng nghe một giọng thanh thoát yểu điệu từ trong điện vọng ra:

- Lộc Trượng tiên sinh, kiếm pháp phái Côn Lôn quả là cao siêu, y đâm trúng Ma Ha Ba Tư một chiêu, trước đó y chém phía bên trái, rồi vòng qua bên phải...

Trương Vô Kỵ hé mắt dòm vào, thấy người đang nói chính là Triệu Mẫn. Nàng vừa nói vừa đi vào giữa điện, tay cầm một thanh kiếm gỗ, bắt chước theo Hà Thái Xung vung kiếm ra. Phiên tăng Ma Ha Ba Tư tay múa song đao, cùng nàng tập luyện.

Huyền Minh lão nhân mặt đen mà Triệu Mẫn gọi là Lộc Trượng tiên sinh kia tên là Lộc Trượng Khách, lên tiếng khen ngợi:

- Chủ nhân quả thật thông minh, chiêu đó sử không sai một li nào.

Triệu Mẫn luyện một lần rồi lại luyện lần nữa, chiêu nào cũng đâm trúng nách Ma Ha Ba Tư, tuy chỉ là kiếm gỗ nhưng đâm mạnh như thế, lần nào cũng trúng cùng một chỗ, xem chừng cũng khá đau. Ma Ha Ba Tư tập trung hết tinh thần ra chiêu cho nàng tập, không dám suýt xoa, cũng chẳng dám né tránh.

Nàng luyện thành thục mấy chiêu đó rồi, lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra, tập lại chiêu mà Hà Thái Xung đã sử dụng đánh bại y. Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ, thì ra Triệu Mẫn bắt giam các cao thủ tại đây, cho họ uống thuốc mất hết nội lực, bức bách họ đầu hàng triều đình. Bọn họ dĩ nhiên không hàng, nàng liền sai người ra đấu với họ, nàng ngồi bên quan sát, học trộm các chiêu số tinh diệu của các môn phái. Dụng tâm vừa ác độc, bày kế lại tàn ác khiến người ta phải dựng tóc gáy.

Sau đó Triệu Mẫn lại cùng Hắc Lâm Bát Phu đối luyện, đến lúc sau cùng nàng hơi chần chừ, hỏi lại:

- Lộc Trượng tiên sinh, có phải thế này không?

Lộc Trượng Khách trầm ngâm không đáp, quay đầu lại hỏi:

- Hạc huynh đệ, ngươi nhìn có rõ không?

Từ phía góc trái có tiếng người vọng ra:

- Khổ đại sư thể nào cũng nhớ rõ.

Triệu Mẫn cười:

- Khổ đại sư, làm phiền ông một chút đi ra chỉ cho tôi nào.

Chỉ thấy bên phải đi ra một đầu đà tóc dài đến vai, thân thể cao lớn, mặt có đến bảy tám vết sẹo dài vắt ngang, khiến cho bộ mặt thật của y không còn làm sao nhận nổi. Tóc của y màu đỏ hung hung, xem ra không phải người Trung Thổ. Y không nói một lời, cầm lấy thanh kiếm gỗ trong tay Triệu Mẫn, soẹt soẹt soẹt soẹt đâm luôn mấy nhát vào Hắc Lâm Bát Phu, sử dụng chính là kiếm pháp của phái Côn Lôn.

Người đầu đà được gọi là 'Khổ đại sư" kia bắt chước kiếm chiêu của Hà Thái Xung nhưng cũng không dùng chút nội lực nào, còn gã Hắc Lâm Bát Phu kia thì giở toàn lực ra đấu, đến lúc sau cùng y vung thanh trượng tạt ngang, những ngọn nến lúc trước bị tắt nay đã châm lại cùng tắt phụp. Hà Thái Xung ở chiêu này không né tránh được, đành phải để kiếm gỗ đụng phải thiết trượng, nên bị gãy kiếm chịu thua. Thế nhưng khổ đầu đà liền đổi phương vị, nhẹ nhàng lách qua, chẳng khác gì con nhạn sà xuống chạm mặt nước, điểm vào thiết trượng rồi bay vụt lên.

Bàn tay Hắc Lâm Bát Phu cầm trượng bị kiếm lóc trúng, các huyệt đạo nơi hổ khẩu tê chồn, không cầm vững nữa, bỏ rơi thiết trượng nghe keng một tiếng, những miểng gạch dưới đất văng lên tung tóe.

Hắc Lâm Bát Phu mặt đỏ bừng, biết rằng nếu như kiếm gỗ mà là kiếm thật, tám ngón tay của mình đã đứt lìa, khom lưng nói:

- Bái phục, bái phục.

Y cúi xuống nhặt thiết trượng lên. Khổ đầu đà hai tay cầm thanh kiếm, trả lại cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Khổ đại sư, chiêu sau cùng đó tinh diệu tuyệt luân, có phải là kiếm pháp phái Côn Lôn không?

Khổ đầu đà lắc đầu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thảo nào Hà Thái Xung không biết, khổ đại sư, ông dạy cho tôi nhé?

Khổ đầu đà tay không đấu với kiếm, Triệu Mẫn liền dùng kiếm ra chiêu. Luyện đến lần thứ ba, khổ đầu đà hành động nhanh như chớp, không sao tưởng nồi, Triệu Mẫn không sao tấn công được. Tuy kiếm chiêu của nàng có chậm nhưng cứ theo đúng như thế không sai chút nào. Khổ đầu đà xoay người qua, hai tay tống về phía trước, giữ như thế không cử động. Trương Vô Kỵ tấm tắc khen thầm: "Hay thật, quả là cao minh".

Triệu Mẫn lúc ấy vẫn chưa hiểu rõ, nghiêng đầu nhìn tư thế của khổ đầu đà, suy nghĩ một hồi lúc ấy mới rõ, nói:

- Khổ đại sư, nến trong tay ông có binh khí, trượng đó đã đánh trúng vai tôi phải không? Chiêu này hóa giải cách nào?

Khổ đầu đà giơ tay làm hiệu nắm lấy cây gậy, chân trái đá lên, đầu ngẩng cao, ra vẻ đã đoạt được trượng của địch rồi đá y bay đi. Chiêu đó trông như vụng về nhưng lại thật là khéo léo, là một thức ngoại môn công phu cực kỳ cương mãnh. Triệu Mẫn cười nói:

- Hảo sư phụ, dạy ngay cho tôi đi nào.

Thần tình thật là nhõng nhẽo. Trương Vô Kỵ tim đập bình một cái nghĩ thầm: "Cô nội lực chưa đủ, làm sao học chiêu này được? Thế nhưng cô dáng điệu nũng nịu thế, thực khó mà từ chối". Khổ đầu đà giơ tay ra hiệu hai lần, ý muốn nói là: "Cô nội lực không đủ không thể học được". Y xoay mình đi luôn không ngó ngàng gì tới nàng nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Khổ đầu đà võ công cao cường như thế, so ra cũng chẳng kém gì Huyền Minh nhị lão, không biết nội lực y đến đâu nhưng chiêu số thần diệu, quả là một kình địch. Y chỉ ra hiệu mà không nói năng gì, không lẽ y câm chăng? Thế nhưng tai y không điếc. Triệu cô nương đối với y có vẻ kính trọng, có lẽ y là một người lai lịch rất lớn".

Triệu Mẫn thấy khổ đầu đà không chịu dạy mình nữa, nhoẻn miệng cười không tỏ ra tức giận, nói:

- Gọi Đường Văn Lượng của phái Không Động lên đây nào.

Một lát sau, Đường Văn Lượng bị áp giải tới điện. Lộc Trượng Khách lại sai ba người ra đấu với y. Đường Văn Lượng không vì địch nhân dùng binh khí mà thua sút, y tay không đấu chưởng, thắng được hai trận, đến trận thứ ba, đối thủ thúc đẩy nội lực ra, Đường Văn Lượng không cách nào chống cự nổi, nên cũng bị chặt một ngón tay.

Lần này Triệu Mẫn luyện chiêu do Lộc Trượng Khách đứng bên cạnh chỉ điểm. Trương Vô Kỵ lúc này đã nhìn ra ngọn nguồn, Triệu Mẫn vì nội lực không đủ, biết rằng khó lòng mà tốc thành, nên muốn học tất cả các sở trường của các môn phái để thành một cao thủ. Cách đó cũng có thể làm được vì chiêu số luyện đến mức thật tinh vi, có thể bổ túc cho nội công chưa đủ.

Triệu Mẫn luyện xong chưởng pháp rồi nói:

- Gọi Diệt Tuyệt lão ni lên đây.

Một tên trong đội áo vàng liền bẩm:

- Diệt Tuyệt lão ni đã tuyệt thực năm ngày rồi, hôm nay mụ ta lại cứng đầu lạ thường, không chịu tuân lệnh.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cứ mặc cho mụ ta chết đói. Hừ, gọi tiểu cô nương Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lên.

Bọn thủ hạ liền đáp ứng, quay mình đi ra khỏi điện.

Trương Vô Kỵ vẫn mang một nỗi cảm kích cái ơn Chu Chỉ Nhược năm xưa trên sông Hán Thủy ân cần lo lắng cho mình. Lú ở trên Quang Minh Đính, cô ta lại chỉ điểm cho chàng phương vị Dịch kinh, nhờ thế mới phá được đao kiếm liên thủ của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn. Về sau tuy nàng đâm chàng một kiếm, chẳng qua chỉ vì phải tuân nghiêm lệnh sư môn nên chàng không đem lòng oán trách, lúc này nghe Triệu Mẫn cho gọi nàng lên, trong lòng không khỏi thảng thốt.

Một lát sau, một bọn hoàng y áp giải Chu Chỉ Nhược vào trong điện. Trương Vô Kỵ thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ hơi tiều tụy so với khi ở trên Quang Minh Đính, tuy bị địch nhân bắt giữ, nhưng vẫn bình thản, tưởng như không còn coi chuyện sống chết vào đâu. Lộc Trượng Khách theo lệ hỏi nàng có chịu hàng không, Chu Chỉ Nhược lắc đầu, không trả lời.

Lộc Trượng Khách đang định cử người ra đấu kiếm với nàng, Triệu Mẫn bỗng nói:

- Chu cô nương, cô tuổi trẻ như thế mà đã là cao đệ trong phái Nga Mi, thực đáng khen ngợi. Nghe nói cô là một đệ tử đắc ý của Diệt Tuyệt sư thái, đã kế thừa được kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, có phải vậy không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư võ công bác đại tinh thâm, nói đến học kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, tiểu nữ tuổi trẻ học vấn nông cạn thực còn xa mới tới được.

Triệu Mẫn cười nói:

- Qui củ ở đây, ai thắng được ba người trong bọn tôi, thì sẽ bình an đưa ra khỏi cửa, không làm khó gì. Tôn sư sao lại quá tự cao thân phận, không chịu hạ mình chỉ dạy cho bọn chúng tôi là sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Gia sư thà chết chứ không chịu nhục. Đường đường là chưởng môn phái Nga Mi, đời nào lại chịu cầu xin sống còn dưới tay các người sao? Cô nương nói quả không sai, gia sư coi bọn tiểu nhân âm độc hèn hạ không ra gì, không thể cùng chúng động thủ quá chiêu.

Triệu Mẫn không nổi giận, mỉm cười:

- Thế còn Chu cô nương thì sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi tuổi còn nhỏ, có gì dám tự mình quyết định đâu? Sư phụ bảo thế nào thì tôi cứ làm đúng thế.

Triệu Mẫn hỏi:

- Tôn sư bảo cô không động thủ với chúng tôi, có phải thế không? Thế là vì duyên cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Kiếm pháp của phái Nga Mi, tuy không dám nói là tuyệt học gì cả, nhưng cũng là võ công của một danh môn chính phái Trung Nguyên, không thể để cho bọn phiên bang Hồ Lỗ vô liêm sỉ học trộm được.

Nàng nói câu đó thần thái thật là nhu mì, nhưng ngôn từ sắc bén, chẳng nể mặt chút nào.

Triệu Mẫn ngạc nhiên, không ngờ dụng tâm của mình lại để Diệt Tuyệt sư thái đoán ra được, nghe Chu Chỉ Nhược nói đến "tiểu nhân âm độc", rồi "vô sỉ chi đồ", không thể không nổi cáu, nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã cầm trong tay nói:

- Sư phụ ngươi chửi chúng ta là bọn vô sỉ ư? Được, để ta hỏi ngươi, thanh kiếm Ỷ Thiên này rõ ràng là bảo vật gia truyền nhà ta, sao phái Nga Mi lại ăn trộm là sao?

Chu Chỉ Nhược thản nhiên đáp:

- Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, trước nay là hai món lợi khí của võ lâm Trung Nguyên, không nghe nói có liên can gì đến bọn phiên bang cả.

Triệu Mẫn mặt đỏ lên, giận dữ nói:

- Hừ, xem ra miệng lưỡi ngươi đáo để lắm. Ngươi nhất định không ra tay phải không?

Chu Chỉ Nhược lại lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Người khác tỉ thí mà thua, hoặc không chịu động thủ thì ta chặt một ngón tay. Còn con nhãi này chắc nó cho là hoa dung nguyệt mạo cho nên mới kiêu ngạo đến thế, ta cũng chẳng thèm chặt tay nó làm gì.

Nói xong nàng giơ tay chỉ khổ đầu đà nói:

- Để ta làm cho ngươi giống vị đại sư phụ kia, trên mặt rạch hai ba chục nhát kiếm, xem ngươi có còn kiêu ngạo nữa không nào?

Nàng phất tay một cái, hai tên áo vàng liền xông lên, mỗi đứa nắm một bên tay Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn cười khẩy:

- Muốn rạch mặt ngươi nát như tổ ong, chẳng cần phải sử dụng kiếm pháp tinh diệu của phái Nga Mi làm gì. Chỉ cần mấy miếng mèo quào của ta thôi, để xem có biến ngươi thành xấu như ma được không?

Chu Chỉ Nhược nước mắt doanh tròng, thân hình run rẩy, thấy mũi thanh kiếm Ỷ Thiên chỉ còn cách mặt mình vài tấc, con ác ma này chỉ nhấn một cái, trong nháy mắt mình sẽ chẳng khác gì gã đầu đà quái đản kia ngay. Triệu Mẫn cười hỏi:

- Ngươi có sợ không hả?

Chu Chỉ Nhược không còn dám ương ngạnh, gật đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hay lắm, thế là ngươi chịu hàng phải không?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ta không hàng, ngươi cứ giết ta đi.

Triệu Mẫn cười:

- Ta trước nay chưa từng giết người. Ta chỉ rạch nát mặt ngươi ra thôi.

Ánh sáng lóe lên, trường kiếm trong tay Triệu Mẫn đã đâm vào mặt Chu Chỉ Nhược. Đột nhiên nghe keng một tiếng, một vật từ bên ngoài điện ném vào, đẩy Ỷ Thiên kiếm trệch qua một bên. Ngay lúc đó, cửa sổ vỡ tung, một người phi thân nhảy vào, hai tên đang nắm Chu Chỉ Nhược không hiểu sao bay văng lên. Người đó giơ tay đỡ ngang người Chu Chỉ Nhược, tay phải đánh ra, cùng Lộc Trượng Khách hai bên trao đổi một chưởng nghe bùng một tiếng, mỗi người đều lùi lại hai bước.

Mọi người nhìn kỹ hóa ra chính là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Chàng ra mặt chẳng khác gì tướng nhà trời bay xuống, ai nấy đều kinh hãi giật mình, ngay cả loại cao thủ bậc nhất như Huyền Minh nhị lão cũng không biết trước tí nào. Lộc Trượng Khách nghe thấy trường song bị vỡ, lập tức nhảy lên trước mặt Triệu Mẫn hộ vệ, đánh với Trương Vô Kỵ một chưởng, thế nhưng chân không đứng vững, phải lùi hai bước, toan đề khí tiến lên thì thấy trong ngực nóng ran chẳng khác nào rơi vào trong một lò lửa.

Chu Chỉ Nhược thấy đại họa lâm đầu, đâu ngờ lại có người ra tay cứu. Nàng được Trương Vô Kỵ ôm vào người, ép vào bộ ngực bề thế rắn chắc, mũi ngửi thấy một mùi đàn ông đậm đà, vừa mừng vừa sợ, trong một sát na thấy nhẹ nhàng thơ thới tưởng như muốn ngất đi. Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công đối địch với Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chân khí toàn thân trào lên, Chu Chỉ Nhược trước nay chưa từng đụng chạm với da thịt đàn ông, huống chi người con trai đó lại chính là người nàng ngày đêm mơ tưởng, rày ước mai ao? Trong lòng nàng cảm thấy một niềm vui sướng không đâu kể hết, dù cho kẻ địch bốn bề có xông tới chém xuống nghìn vạn nhát dao, nàng cũng không hề sợ hãi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ xông vào cứu người, lập tức cũng nhảy vào theo, chia ra đứng giữ hai bên. Thủ hạ của Triệu Mẫn thấy biến cố bất ngờ, lúc đầu cũng hơi rối loạn, nhưng thấy bên địch chỉ có ba người, các võ sĩ canh gác trong ngoài nghe tiếng đáp ứng, biết rằng ngoài ra không còn ai khác nữa, lập tức chia nhau chặn giữ các cửa nẻo, chờ lệnh Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn không tỏ ra kinh hãi, cũng không giận dữ, chỉ ngẩn ngơ nhìn Trương Vô Kỵ một cái, rồi đưa mắt xuống khối vàng lấp lánh ở góc phòng. Thì ra khi nàng dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Trương Vô Kỵ ném một vật vào, đẩy mũi kiếm ra, vật đó chính là cái hộp vàng nàng đã tặng cho chàng.

Thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén lạ thường, vừa đụng phải, lập tức chặt đứt đôi cái hộp. Nàng nhìn hai mảnh vỡ một hồi, nói:

- Anh ghét cái hộp đó đến thế, không làm hỏng nó thì chưa vừa lòng hay sao?

Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng đầy vẻ u oán, tuyệt nhiên không có vẻ gì trách cứ tức tối, dường như thê thảm không đâu kể xiết, hơi ngẩn ngơ, cảm thấy hối hận, nhỏ nhẹ đáp:

- Tôi không mang ám khí, trong cơn hốt hoảng thò tay vào túi, chỉ có cái hộp đó thôi, thực không có ý gì, mong cô nương tha lỗi.

Ánh mắt Triệu Mẫn sáng lên, hỏi lại:

- Cái hộp này công tử luôn luôn mang theo ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng thấy Triệu Mẫn chăm chăm nhìn mình, còn mình trong tay vẫn ôm Chu Chỉ Nhược, mặt hơi đỏ lên, vội buông tay ra. Triệu Mẫn thở dài nói:

- Tôi không biết Chu cô nương là... là bạn của anh, nếu không đâu có đối xử với cô ta như thế. Thì ra hai người...

Nói đến đây nàng quay đầu nhìn sang chỗ khác. Trương Vô Kỵ nói:

- Chu cô nương và tôi... chưa có gì hết... chỉ là... chỉ là...

Chàng nói hai tiếng "chỉ là", không nói tiếp được nữa. Triệu Mẫn lại đưa mắt nhìn hai mảnh hộp vàng dưới đất, không nói gì nhưng trong ánh mắt, thần sắc cũng chẳng khác gì nói lên nghìn lời. Chu Chỉ Nhược trong bụng hơi hoảng: "Con nữ ma đầu này đối với chàng thật là lưu luyến, không lẽ..."

Trương Vô Kỵ bụng dạ đâu có được sâu sắc như hai cô gái, thần sắc của Triệu Mẫn tuy chàng cũng lờ mờ đôi phần nhưng đâu có hiểu thâm ý bên trong. Chàng chỉ thấy rằng Triệu Mẫn tặng cho mình hộp vàng, hoa ngọc để trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình khỏi tàn phế, nay làm hỏng nó đi, xem ra có điều không phải, nên rảo bước tới góc điện cúi xuống nhặt hai mảnh hộp lên nói:

- Để tôi đi kiếm thợ hàn nó lại.

Triệu Mẫn mừng rỡ nói:

- Có thật không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm cả cô lẫn tôi đều thống suất vô số anh hùng hào kiệt, lại quá coi trọng cái hộp chẳng quan trọng chút nào là sao? Cái hộp vàng này mặc dầu tinh vi nhưng đâu có phải quí giá lạ lùng gì, còn cao bên trong thì đã dùng hết, cái hộp không còn dùng vào việc gì nữa, có hỏng cũng chẳng đáng hối tiếc, có hàn lại thì cũng chỉ là chuyện nhỏ nhoi. Chàng thấy trước mắt còn biết bao nhiêu việc lớn phải làm, vậy mà cô gái này cứ hỏi đi hỏi lại chuyện cái hộp, đúng là bụng dạ đàn bà quan tâm đến những vật nho nhỏ nên bỏ luôn hai mảnh đó vào túi.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì đi đi.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và những người khác chưa cứu được ra, đâu có thể đi được, nhưng bên địch cao thủ đông như kiến, bên mình lại chỉ có ba người, nói đến cứu người thật không phải dễ bèn nói:

- Triệu cô nương, cô bắt giữ cả bọn đại sư bá tôi là vì cớ gì?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi vốn chỉ có lòng tốt muốn bọn họ ra sức cho triều đình cùng hưởng vinh hoa phú quí. Nào ngờ bọn họ cố chấp không nghe, ép họ không xong đành để từ từ khuyên giải.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, quay sang tiến đến bên cạnh Chu Chỉ Nhược. Chàng ở trong chốn đầy cao thủ mà đi đến nhặt cái hộp rồi đi về tự nhiên tưởng chừng như chỗ không người. Trương Vô Kỵ lạnh lùng nhìn quét qua một lượt, nói:

- Nếu đã như thế, bọn chúng tôi xin cáo từ.

Nói xong cầm tay Chu Chỉ Nhược, xoay người định ra đi. Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Các người muốn đi, tôi cũng không giữ lại làm gì. Thế nhưng nếu công tử muốn dẫn Chu cô nương theo, cũng chẳng thèm nói với tôi một tiếng thì công tử coi tôi là hạng người gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cái này quả thực tại hạ khiếm lễ. Triệu cô nương, xin cô thả Chu cô nương để cô ta đi cùng với chúng tôi.

Triệu Mẫn không trả lời, đưa mắt ra hiệu cho Huyền Minh nhị lão. Hạc Bút Ông tiến lên một bước nói:

- Trương giáo chủ đến là đến, đi là đi, muốn cứu ai là cứu, thế thì còn mặt mũi nào bọn già chúng tôi nữa? Nếu ông không lưu lại một tuyệt kỹ, anh em chúng tôi không thể tâm phục được.

Trương Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng của Hạc Bút Ông, lửa giận bừng bừng, quát:

- Năm xưa khi ta còn bé, bị ngươi bắt được, tính mệnh tưởng như không còn. Hôm nay ngươi còn mặt dày mày dạn đến nói chuyện với ta nữa sao? Tiếp chiêu.

Nghe vù một tiếng, chàng đã đánh ngay một chưởng vào Hạc Bút Ông. Lộc Trượng Khách mới rồi bị chàng cho nếm mùi đau khổ, biết rằng nếu chỉ một mình Hạc Bút Ông thì không phải là địch thủ của chàng, liền tiến lên đánh ra một chưởng. Trương Vô Kỵ tay phải đánh Hạc Bút Ông, tay trái đánh lòn dưới tay phải, trả lại Lộc Trượng Khách một đòn. Đây là chân lực đấu với chân lực, không ai có thể khéo léo ma mãnh gì được cả. Ba người bốn chưởng đụng nhau, ai nấy đều lảo đảo.

Hôm trước trên núi Võ Đương, Huyền Minh nhị lão song chưởng đánh với Trương Vô Kỵ, hai tay kia liền đánh ngay vào người Trương Vô Kỵ, lần này cũng giở đòn cũ, lại đánh thêm hai chưởng ra. Trương Vô Kỵ đã bị đòn một lần, lẽ nào lại còn đi theo vết xe cũ? Cùi chỏ chàng hơi chìm xuống, thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nghe bụp một tiếng lớn, tả chưởng của Hạc Bút Ông liền đánh ngay vào hữu chưởng của Lộc Trượng Khách.

Hai người cùng học một thầy, chưởng pháp giống nhau, công lực ngang ngửa, cả hai liền bị chấn động đến cánh tay rã rời, còn làm cách nào mà hai sư huynh đệ lại đánh lẫn nhau, hai người võ công tuy cao, nhưng cũng không sao hiểu được cái áo diệu bên trong. Hai người còn đang kinh hãi tức tối, song chưởng của Trương Vô Kỵ đã đánh đến nơi. Huyền Minh nhị lão lại hai tay đánh ra, một bên thủ, một bên công, chưởng pháp hai người hoàn toàn khác hẳn hồi nãy. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại vừa dẫn vừa kéo, tả chưởng của Lộc Trượng Khách lại đánh trúng ngay hữu chưởng của Hạc Bút Ông. Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp thật là khéo léo, tính toán lại thật là vừa vặn, không ai có thể ngờ nổi.

Huyền Minh nhị lão đều kinh hãi thất sắc, thấy Trương Vô Kỵ đánh ra lần thứ ba, không hẹn mà cùng đưa đơn chưởng ra chống đỡ. Ba người chân lực đụng nhau, Huyền Minh nhị lão thấy chưởng lực đối phương có một luồng thuần dương chân khí cuồn cuộn tuôn ra, khó mà đương cự nổi. Trương Vô Kỵ phát chưởng nhanh như gió, nghĩ đến năm xưa bị Hạc Bút Ông đánh một chưởng, trong mấy năm liền chịu biết bao thống khổ, cho nên chưởng đánh vào Lộc Trượng Khách còn nhẹ tay, còn đối với Hạc Bút Ông thật không nể nang chút nào.

Hơn hai mươi chưởng đánh ra, khuôn mặt xanh của Hạc Bút Ông biết thành đỏ rực. Y lại thấy đối phương đánh tới liền nhứ tay trái định hóa giải, tay phải tiếp theo hết sức đánh ra. Chỉ nghe hai tiếng bộp bộp, chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay vai Lộc Trượng Khách, còn chưởng của Trương Vô Kỵ trúng ngay ngực y. Trương Vô Kỵ chưa muốn lấy mạng đối phương, chưởng đó chỉ mới dùng ba thành chân lực, Hạc Bút Ông thân hình loạng choạng ọe một cái, hộc ra một ngụm máu tươi, khuôn mặt từ đỏ thành tím bầm. Nếu Trương Vô Kỵ thừa thế đánh thêm một chưởng thì y sẽ chết ngay tại đương trường, còn Lộc Trượng Khách vai bị trúng đòn, đau đến mặt mày biến sắc, môi cắn chặt bật cả máu ra.

Huyền Minh nhị lão là hai thủ hạ cao cường nhất của Triệu Mẫn, nào ngờ chưa đầy ba mươi chiêu đã bị thương cả. Các thủ hạ võ sĩ khác ai nấy thất sắc, ngay cả Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cũng kinh ngạc không ngờ. Hai người đã từng chính mắt trông thấy Huyền Minh nhị lão ra tay trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ trúng chưởng bị thương, ngờ đâu chỉ qua vài tháng lại có thể tiến triển nhanh đến thế. Thế nhưng hai người cũng nghĩ ra ngay, Trương Vô Kỵ ở lại núi Võ Đương vài tháng, một mặt chữa trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, một mặt học thêm của Trương Tam Phong những võ công tinh vi áo diệu, thành ra Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, với tuyệt học của phái Võ Đương là Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm cả ba dần dần dung hợp thành một. Hai người càng nghĩ càng thấy Trương Tam Phong võ học kỳ tài, quả xứng đáng với bốn chữ "không sao lường nổi".

Huyền Minh nhị lão đấu chưởng bại rồi, cả hai cùng hú lên một tiếng, đồng thới lấy binh khí ra. Lộc Trượng Khách trong tay cầm một thanh đoản trượng đen nhánh, đầu gậy chia ra hai nhánh như chiếc sừng hươu, không biết đúc bằng chất gì. Còn Hạc Bút Ông tay cầm song bút, đầu bút nhọn như mỏ chim hạc, sáng loáng như gương. Hai người đi theo Triệu Mẫn đã lâu, thế nhưng ngay nàng cũng chưa từng thấy họ sử dụng binh khí bao giờ. Ba món binh khí đó đánh ra, chỉ thấy một làn hắc khí, hai làn bạch khí quấn Trương Vô Kỵ vào giữa. Trương Vô Kỵ không mang binh khí, tay chân không quả có bất lợi, nhưng chàng chẳng sợ hãi gì, muốn thử xem võ công mình đến đâu, có thể tay không đánh với hai cao thủ được không.

Huyền Minh nhị lão tự cho mình nội lực thâm hậu, Huyền Minh thần chưởng là tuyệt học trong thiên hạ nên vừa bước ra liền cùng chàng đối chưởng, ngờ đâu Cửu Dương thần công không gì sánh kịp, chỉ vài chục chưởng đã thua. Binh khí của họ chỉ dùng chiêu số kỳ lạ để thắng, tên của hai người chính là do binh khí mà thành, đoản trượng sừng hươu và song bút mỏ hạc, chiêu nào chiêu nấy vô cùng lợi hại, trên đời ít thấy. Trương Vô Kỵ tập trung tinh thần, giữa ba món binh khí lượn qua lượn lại, công thủ dễ dàng nhưng nhất thời chưa nhìn ra đường đi nước bước của đối phương, muốn thắng cũng không phải dễ. Cũng may là Hạc Bút Ông mới bị thương nên ra chiêu chậm đi một chút.

Triệu Mẫn vỗ tay ba tiếng, trong điện ánh sáng lấp loáng, ba người tấn công Dương Tiêu, bốn người tấn công Vi Nhất Tiếu, còn hai người giơ binh khí chế ngự Chu Chỉ Nhược. Dương Tiêu lập tức cướp ngay được một thanh kiếm múa lên như ánh chớp, thoáng một cái đã khiến một người bị thương. Vi Nhất Tiếu cậy mình có khinh công tuyệt thế, dùng Hàn Băng Miên Chưởng đánh ngã hai người. Thế nhưng bên địch người quá đông, đánh ngã một người thì lập tức có hai người tiến lên.

Trương Vô Kỵ bị Huyền Minh nhị lão ngăn chặn, không cách gì có thể phân thân cứu viện. Chàng và Dương Vi ba người muốn chạy thoát, thật không có gì là khó, nhưng muốn cứu Chu Chỉ Nhược thì thật không sao làm được. Đang trong cơn gấp rút, bỗng nghe Triệu Mẫn nói:

- Tất cả ngừng tay.

Tuy tiếng nàng không lấy gì làm lớn nhưng các thủ hạ đều tuân lệnh, vội vàng lùi ra. Dương Tiêu vứt thanh kiếm xuống đất, Vi Nhất Tiếu cũng đoạt được một thanh đơn đao, thuận tay ném trả nguyên chủ, cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ thấy một gã cầm đoản đao dí vào lưng Chu Chỉ Nhược, không khỏi lo lắng. Chu Chỉ Nhược buồn bã nói:

- Trương công tử, xin ba vị cứ tự nhiên. Tâm ý của ba vị, tiểu nữ cực kỳ cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Trương công tử, cô gái hoa nhường nguyệt thẹn này, đến tôi cũng thích. Có phải cô ta là ý trung nhân của công tử không?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên nói:

- Chu cô nương và tôi biết nhau từ nhỏ. Tại hạ khi còn bé trúng phải Huyền Minh thần chưởng của vị này...

Nói tới đây chỉ vào Hạc Bút Ông:

- ...âm độc vào trong cơ thể, toàn thân khó mà cử động, may nhờ Chu cô nương chăm sóc cho ăn cho uống, cái ân đức đó, không bao giờ quên.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như thế, hai người có cái tình thanh mai trúc mã[1]đấy nhỉ? Anh định lấy nàng làm giáo chủ phu nhân, phải không?

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên nói:

- Hung nô chưa diệt, nói gì đến chuyện gia thất.

Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:

- Anh nhất định chống tôi đến cùng, không diệt được tôi thì không được, có phải vậy chăng?

Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:

- Cho đến giờ này tôi nào đã biết gì về lai lịch của cô, tuy trước đây có vài lần tranh chấp, nhưng lần nào cũng là do cô tìm đến gây chuyện với Trương Vô Kỵ, đâu có phải Trương mỗ tìm cô nương kiếm chuyện. Chỉ cần cô nương thả sư bá sư thúc cùng các môn phái võ lâm ra, tại hạ cực kỳ cảm kích, không dám có địch ý với cô nương. Huống chi cô còn sai tôi làm ba chuyện, tại hạ nhất định tận tâm kiệt lực, không dám dối dá cho xong.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, trên mặt liền hiện vẻ vui mừng, chẳng khác gì bông hoa vừa hé nhụy, cười nói:

- Ha, thì ra anh vẫn chưa quên.

Nàng quay sang liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nói với Trương Vô Kỵ:

- Nếu cô nương này không phải là ý trung nhân của anh, cũng không phải sư huynh sư muội, vợ chồng chưa cưới, thì nếu tôi có hủy dung mạo cô ta cũng có liên quan gì đến anh...

Nàng đưa mắt một cái, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông lập tức cầm binh khí đứng chắn ngay trước mặt Chu Chỉ Nhược, còn một hán tử cầm dao sắc, để luôn vào mặt Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nếu như muốn xông lên cứu người, cái ải Huyền Minh nhị lão chưa dễ qua được. Triệu Mẫn cười nhạt nói:

- Trương công tử, anh có nói thực cho tôi không nào?

Vi Nhất Tiếu đột nhiên ngửa tay ra, nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giơ ra xoa xoa mấy cái vào gót giày, cười lên ha hả, mọi người chưa biết y định làm trò quỉ gì, bỗng hấy một ánh xanh thấp thoáng. Triệu Mẫn cảm thấy má mình như có ai sờ phải, nhìn lại Vi Nhất Tiếu thì y đã đứng lại chỗ cũ nhưng tay cầm thêm hai thanh đoản đao, không biết lấy được của ai. Triệu Mẫn chợt động tâm, biết rằng không ổn, chẳng dám đưa tay chùi mặt, vội lấy khăn tay ra lau quả nhiên khăn đen sì bùn đất, đúng là nước bọt trộn chất bẩn nơi gót giày của Vi Nhất Tiếu, càng nghĩ càng thêm lợm giọng.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Triệu cô nương, cô muốn hủy dung mạo Chu cô nương, cái đó cũng tùy cô. Thế nhưng nếu như cô tâm địa độc ác thế, họ Vi này cũng chẳng bỏ qua đâu. Hôm nay cô rạch một đường trên mặt Chu cô nương, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, rạch cô hai nhát. Cô rạch hai đường, ta rạch lại bốn đường, cô chặt một ngón tay, ta chặt cô hai ngón.

Y nói đến đây, lấy hai thanh đoản đao trong tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, tiếp:

- Họ Vi này nói được là làm được, Thanh Dực Bức Vương nói ra giữ lời, trước nay chưa bao giờ nói ngoa. Cô đề phòng được sáu tháng, một năm chứ làm sao đề phòng được tám năm, mười năm. Còn cô muốn sai người giết tôi ư, chưa chắc đuổi kịp. Cáo từ nhé!

Chữ "nhé" vừa dứt, y đã biến đâu mất, chỉ nghe hai tiếng phập phập, hai thanh đoản đao đã cắm vào trên cột, tiếp theo "Ối chà" "Ối" hai tiếng, hai tên phiên tăng ngồi phịch xuống, trường kiếm trong tay đã bị Vi Nhất Tiếu đoạt mất từ hồi nào, huyệt đạo trên người cũng bị điểm trúng.

Mấy câu đó Vi Nhất Tiếu nói ra nghe chẳng có ghê gớm, nhưng ai cũng biết y không chỉ dọa xuông, thấy khuôn mặt trắng trẻo của Triệu Mẫn có ẩn nét hồng, trên làn da mịn màng như mỡ đông kia bị Vi Nhất Tiếu quẹt mấy đường đất bẩn. Nếu như trong tay y là một con dao, khuôn mặt nàng ắt đã bị hủy rồi. Thân pháp y nhanh như chớp, không khác gì quỉ mị thì dù có cao thủ như Trương Vô Kỵ cũng phải chịu thua. Nếu chạy đường dài, Trương Vô Kỵ còn có thể dựa vào nội lực mà thắng, nhưng nếu chỉ ở bên trong một gian phòng thì tiến thoái nhanh như thế, thiên hạ không ai có thể hơn y được.

Trương Vô Kỵ cúi mình vái chào, nói:

- Triệu cô nương, hôm nay đắc tội vậy xin cáo từ.

Nói xong dắt tay Dương Tiêu, quay mình đi ra khỏi điện, trong bụng biết rằng Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu dọa như thế, ắt không dám giở trò gì với Chu Chỉ Nhược đâu.

Triệu Mẫn nhìn bóng hai người đi khỏi, vừa thẹn vừa tức nhưng không dám ra lệnh cho người giữ lại.

Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu về đến khách điếm, Vi Nhất Tiếu đã ngồi chờ sẵn. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Vi Bức Vương, hôm nay ông làm cho họ tởn mặt, để biết rằng Minh giáo không phải dễ đối phó.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Dọa một tiểu cô nương thì có gì là khó đâu. Nàng ta làm ra vẻ hung thần ác sát nhưng nghe tôi dọa hủy dung mạo, bảo đảm là ba ngày ba đêm sẽ không ngủ được cho mà xem.

Dương Tiêu cũng cười:

- Nàng ta ngủ không được thì thật không hay chút nào, bọn mình đến cứu người lại càng khó khăn thêm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dương tả sứ, nói đến cứu người, ông có diệu kế gì không?

Dương Tiêu ngần ngừ nói:

- Bên mình ở đây chỉ có ba người, huống chi hình tích lại đã bại lộ rồi, chuyện này quả là bó tay thôi.

Trương Vô Kỵ sượng sùng nói:

- Tôi thấy Chu cô nương bị nguy nhịn không nổi nên ra tay thành ra làm hỏng đại sự.

Dương Tiêu nói:

- Đã đến nước đó, ai thì cũng không nhịn nổi thôi. Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho bọn địch mất hết uy phong, cũng là hay lắm. Huống chi bọn chúng biết được là mình đã đến đây rồi, đối với nhóm Tống đại hiệp ắt không dám vô lễ quá đáng.

Triệu Mẫn đối với Hà Thái Xung, Đường Văn Lượng dày vò nhục nhã như thế, Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá, Du nhị sư bá các người đang nằm trong tay kẻ địch, không khỏi lo lắng rất mực. Ba người bàn thảo một hồi nhưng chưa tìm ra phương cách nào, đành phải chia tay đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau, trong giấc ngủ Trương Vô Kỵ nghe dường như ngoài cửa sổ có tiếng động, lập tức tỉnh dậy, vừa mở mắt ra, thấy cánh cửa từ từ mở ra, có người thò đầu vào nhìn chàng. Chàng kinh hãi vén màn lên coi, thấy khuôn mặt đó nhằng nhịt đầy vết sẹo, xấu xí đến ghê người, chính là gã khổ đầu đà. Chàng định thần nhảy từ trên giường xuống, thấy y ngơ ngẩn nhìn mình, nhưng xem ra không có ý ra tay làm hại. Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Dương tả sứ, Vi Bức Vương.

Dương Vi hai người ở phòng bên lên tiếng đáp lại. Chàng cảm thấy yên tâm, thấy khuôn mặt khổ đầu đà đã biến mất sau cửa sổ, vội vàng theo đó nhảy ra, thấy khổ đầu đà đang hấp tấp đi ra khỏi cửa chính. Lúc đó Dương Vi đã đến nơi, thấy bên ngoài không còn kẻ địch nào khác, ba người liền đuổi theo khổ đầu đà. Khổ đầu đà đợi ngay góc đường, thấy ba người ra đến lập tức quay mình chạy về hướng bắc, tuy rảo bước nhưng không chạy. Ba người ra hiệu cho nhau, lập tức theo sau.

Khi đó trời mờ mờ sáng, trên đường còn vắng vẻ nên chẳng mấy chốc đã ra khỏi cửa bắc. Khổ đầu đà tiếp tục đi, rẽ vào một con đường nhỏ, rồi lại đi thêm đến bảy tám dặm, đến một cái gò đầy đá tảng, lúc ấy mới ngừng. Y quay lại vẫy tay ra hiệu cho Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu hai người đứng tránh ra, sau đó ôm quyền chào Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ hoàn lễ, trong bụng nghĩ thầm: "Gã đầu đà này đưa bọn ta đến đây không biết có dụng ý gì? Ở đây chung quanh không có ai, nếu như động võ, y một mình địch với ba người, quả thực vô cùng bất lợi. Xem cách thức của y dường như không có địch ý".

Chàng còn đang tính toán, khổ đầu đà đã gầm gừ, song trảo vồ tới. Y tay trái dùng hổ trảo, tay phải long trảo, mười ngón tay như mười cái móc, thế công cực kỳ mãnh liệt.

Trương Vô Kỵ tay phải vung lên hóa giải chiêu đó hỏi lại:

- Thượng nhân muốn gì? Xin nói rõ tôn ý trước, sau hãy hành động cũng chưa muộn.

Khổ đầu đà không để ý tới, làm như không nghe chàng nói gì, tay trái từ hổ trảo biến thành ưng trảo, tay phải từ long trảo biến thành hổ trảo, một bên đánh vào vai, một bên đánh vào bụng ra tay thật ác độc. Trương Vô Kỵ nói:

- Không lẽ không đánh nhau không được hay sao?

Khổ đầu đà chiêu lại biến ngay, ưng trảo liền thành sư chưởng, hổ trảo đổi ra hạc chủy, một bên đánh ra, một bên mổ tới. Chỉ mới ba chiêu, hai tay y đã biến sáu tư thức liền.

Trương Vô Kỵ không dám coi thường vội vàng thi triển Thái Cực Quyền, thân hình chẳng khác gì nước chảy mây trôi, đấu với y trên đống đá ngổn ngang. Khổ đầu đà chiêu số thật là phức tạp, có khi thì sử dụng võ công hoàn toàn quang minh chính đại, có lúc lại quái dị lạ lùng, toàn là võ công tà phái, rõ là tà chính kiêm tu, uyên bác vô cùng. Trương Vô Kỵ chỉ dùng Thái Cực Quyền để chiến đấu, đến bảy tám mươi chiêu, khổ đầu đà vù một tiếng, đánh một quyền thẳng vào trung cung. Trương Vô Kỵ dùng chiêu Như Phong Tự Bế, vây chặt lấy quyền lực của y, tiếp theo là chiêu Đơn Tiên, tay trái đánh vào lưng, nhưng chưởng đó không dùng nội lực, chỉ đụng tới rồi thu về.

Khổ đầu đà biết chàng hạ thủ lưu tình, nhảy về phía sau, nghiêng đầu nhìn Trương Vô Kỵ một hồi, đột nhiên giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu, muốn mượn thanh trường kiếm đang đeo. Dương Tiêu cởi giây buộc, cả kiếm lẫn bao hay tay thẩy tới trước mặt khổ đầu đà. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên thầm hỏi: "Tại sao Dương tả sứ lại đưa binh khí cho kẻ địch mượn là sao?".

Khổ đầu đà rút kiếm ra khỏi bao, ra hiệu cho Trương Vô Kỵ mượn kiếm của Vi Nhất Tiếu. Trương Vô Kỵ lắc đầu, cầm lấy cái vỏ trên tay y, sử chiêu "Thỉnh Thủ", dùng bao kiếm làm kiếm, tay trái thành kiếm quyết, múa vòng qua trước mặt, khổ đầu đà liền xeo xéo đâm lại một nhát. Trương Vô Kỵ đã thấy y dạy kiếm cho Triệu Mẫn, biết y kiếm thuật cực kỳ cao minh, nên sử dụng môn võ chàng nghiền ngẫm tập luyện mấy tháng qua trên núi Võ Đương là Thái Cực Kiếm, tập trung tinh thần tiếp chiến. Chỉ thấy đối phương kiếm chiêu khi nhanh khi chậm, chỗ nào cũng dấu những thế lợi hại, nhưng Trương Vô Kỵ vừa ra chiêu sách giải là y thu kiếm lại ngay, sử qua chiêu khác, làm như chẳng chiêu nào sử dụng đến đầu đến đũa.

Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: "Nếu sáu tháng trước mình gặp phải y, kiếm pháp mình không phải là địch thủ. So với Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch, khổ đầu đà còn cao hơn một mức".

Chàng nổi lòng yêu tài, không muốn thắng y bằng chiêu số. Khổ đầu đà trường kiếm múa tít lên, sử thế Loạn Phi Phong, lưỡi kiếm dưới ánh mặt trời chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con rắn vàng đang lồng lộn. Chàng liền nhắm kỹ, đảo ngược cái bao kiếm lại, nghe soẹt một tiếng, bao kiếm đã chụp luôn vào lưỡi kiếm, hai tay khua một vòng nhẹ nhàng nắm ngay hai cổ tay khổ đầu đà, mỉm cười tung mình nhảy vọt về phía sau. Khi đó nếu tay chàng chỉ hơi sử kình thì đã đoạt ngay được thanh trường kiếm. Chiêu này dùng đoạt kiếm thật là hung hiểm, lại cũng thật là khéo léo.

Chàng nhảy về sau, chân chưa chấm đất, khổ đầu đà đã vứt trường kiếm xuống, nghe vù một tiếng đánh ngay một chưởng. Trương Vô Kỵ nghe tiếng gió, biết ngay chưởng này chân lực sung mãn, mạnh mẽ vô cùng, có ý muốn xem y nội công bực nào, chưởng phải xoay lại, đón ngay lấy chưởng của y, chân trái lúc ấy mới đụng đất. Chỉ trong giây lát, nội lực của khổ đầu đà cuồn cuộn tuôn ra, Trương Vô Kỵ liền vận Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, đem nội lực của y dần dần tụ lại, đột nhiên quát lên một tiếng, đánh ngược trở về, không khác nào chiếc hồ tích đầy nước bất ngờ đổ ào đánh vỡ bờ đê, nước cuồn cuộn tuôn ra, bao nhiêu chưởng lực khổ đầu đà đánh tới nay trả lại.

Chiêu đó đem tất cả hơn một chục chưởng của đối phương tụ thành một chưởng đánh ra, trên đời không ai có thể có nội lực mạnh đến thế. Nếu như khổ đầu đà bị trúng chưởng này, ắt sẽ cổ tay, cánh tay, đầu vai, xương sườn tất cả đều gãy nát, đến máu cũng không ọc ra nổi, thành ra một khối thịt bầy nhầy, chết thảm khốc không sao kể xiết.

Khi đó song chưởng hai bên dính chặt vào nhau, khổ đầu đà không cách gì có thể né tránh, Trương Vô Kỵ tay trái liền thò ra nắm ngực y tung lên, thân thể cao to của khổ đầu đà bay vụt lên trời, nghe bình một tiếng lớn, loạn thạch bay tung tóe, chưởng lực ghê gớm đó đã đánh trúng ngay những tảng đá.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng bên thấy tình hình như vậy, cả hai cùng kinh hãi kêu lên. Hai người nghĩ khổ đầu đà cùng giáo chủ tỉ đấu nội lực, ít ra cũng phải thời gian uống một chén trà mới phân cao thấp, đâu ngờ chỉ trong giây lát, đã đến lúc sinh tử quan đầu. Hai người trong bụng tuy có điều muốn nói, nhưng chưa kịp nói ra, đến khi khổ đầu đà bình an rớt xuống, lòng bàn tay hai người đều toát mồ hôi.

Khổ đầu đà hai chân vừa chạm đất, lập tức hai tay để theo hình ngọn lửa đang bốc cháy, đặt lên ngực, cúi mình chào Trương Vô Kỵ, nói:

- Tiểu nhân Quang Minh hữu sứ Phạm Dao, tham kiến giáo chủ. Kính tạ cái ơn tha chết, tiểu nhân vô lễ mạo phạm, mong được tha tội cho.

Y hơn chục năm qua không mở mồm nói, thanh âm không mấy tự nhiên. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ, gã khổ đầu đà câm này mở miệng nói ra, hóa ra lại là Quang Minh hữu sứ của bản giáo, chuyện đó không sao ngờ được. Chàng vội đưa tay đỡ y lên nói:

- Thì ra là Phạm hữu sứ của bản giáo, thật là mừng không sao kể xiết, người nhà với nhau không cần đa lễ làm gì.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu khi đi theo đến gò loạn thạch đã đoán được ba phần, chỉ hiềm diện mạo Phạm Dao biến đổi quá nhiều, không tiện lên tiếng hỏi. Đến khi y thi triển võ công, hai người đoán ra đến tám chín phần, bây giờ nghe y tự báo tính danh, hai người liền tiến lên, nắm chặt lấy tay y. Dương Tiêu chăm chăm nhìn mặt y một hồi, nước mắt lã chã nói:

- Phạm hiền đệ, ca ca đâu ngờ em lại ra nông nỗi này.

Phạm Dao cũng nắm tay Dương Tiêu nói:

- Đại ca, đa tạ Minh Tôn phù trì, cho mình một vị giáo chủ tài ba đến thế, cho nên anh em mới có dịp gặp gỡ hôm nay.

Dương Tiêu hỏi:

- Huynh đệ sao lại biến thành thế này là sao?

Phạm Dao đáp:

- Nếu như tiểu đệ không tự hủy dung mạo thì làm sao đánh lừa được tên gian tặc Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?

Ba người nghe rồi mới biết y cố ý hủy khuôn mặt, lẻn vào nằm phục trong phe địch. Dương Tiêu càng thêm thương cảm, nói:

- Huynh đệ, cái đó thật là khổ cho ngươi.

Dương Tiêu, Phạm Dao hai người năm xưa được giới giang hồ gọi tên là "Tiêu Dao nhị tiên", là hai chàng trai tiêu sái đẹp đẽ, Phạm Dao lại tự mình hủy hoại nhan diện đến như thế, phải biết đau lòng đến chừng nào, người thường khó mà làm nổi. Vi Nhất Tiếu trước nay không mấy hòa thuận với Phạm Dao, bây giờ trong lòng cực kỳ cảm kích, phục xuống lạy nói:

- Phạm hữu sứ, Vi Nhất Tiếu này đến hôm nay mới thực sự phục ngươi.

Phạm Dao quì xuống trả lễ, cười nói:

- Vi Bức Vương khinh công độc bộ thiên hạ, còn hơn năm xưa nhiều, khổ đầu đà đêm qua quả thật mở mắt.

Dương Tiêu nhìn quanh bốn bề nói:

- Nơi này cách kinh thành không xa, tai mắt của kẻ địch rất nhiều, bọn mình đến thung lũng phía trước nói chuyện.

Bốn người chạy thêm mươi dặm nữa, đến sau một cái đồi. Ở đây nhìn chung quanh quan sát được cả dặm, không ngại có người nằm ẩn đâu đó nghe trộm, ở xa lại không nhìn thấy tình cảnh đẳng sau gò. Bốn người ngồi xuống, kể lại đầu đuôi khúc nhôi.

Năm xưa khi Dương Đính Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ Minh giáo tranh chấp địa vị giáo chủ, chẳng ai chịu nhường ai, đến thành chia năm xẻ bảy. Phạm Dao thì cho rằng giáo chủ chưa chết, một mình lê bước giang hồ, đi tìm tung tích của Dương Đính Thiên. Qua mấy năm liền không thấy chút dấu vết nào, về sau lại nghĩ hay là Cái Bang làm hại, lén bắt cóc mấy nhân vật trọng yếu của Cái Bang khảo đả bắt phải khai ra, nhưng không tìm được chút đầu mối nào, lại giết chết không ít bang chúng Cái Bang vô tội. Về sau nghe thấy người trong Minh giáo phân tranh, càng lúc càng thêm khốc liệt, lại có người đi tìm y, muốn y đứng lên làm đầu não. Phạm Dao tuyệt nhiên không có ý muốn tranh ngôi giáo chủ, cũng không muốn vướng vào vòng tranh chấp, nên ẩn trốn thật xa, lại e anh em trong Minh giáo gặp được nên để râu dài, giả làm một thư sinh già cả ngao du đó đây, tiêu dao tự tại.

Một hôm y ở Đại Đô gặp phải một người, nhận ra y là sư huynh của giáo chủ phu nhân Thành Côn, không khỏi ngầm kinh hãi. Lúc đó trong võ lâm đang loan truyền tin tức không ít cao thủ bị người giết chết, trên tường để lại hàng chữ: "Kẻ giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn". Y muốn tra xét xem sự thực như thế nào, lại cũng muốn do thám xem tung tích Dương giáo chủ ở Thành Côn, nên đi theo ở xa xa. Y thấy Thành Côn đi vào một tòa tửu lâu, nơi đó đã có hai lão già đợi sẵn, chính là Huyền Minh nhị lão.

Phạm Dao biết Thành Côn võ công cao cường, nên ngồi xa xa giả vờ uống rượu, chỉ nghe loáng thoáng ba người nói chuyện nhưng nghe rõ ràng họ nói câu "cần phải phá hủy Quang Minh Đính". Phạm Dao nghe thấy bản giáo gặp nạn, không thể thõng tay không ngó ngàng gì, nên len lén đi theo, thấy cả ba người vào phủ Nhữ Dương Vương. Về sau lại tra ra là Huyền Minh nhị lão chính là hai cao thủ đứng đầu trong các võ sĩ của vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ[2] làm quan Thái Úy, chấp chưởng binh mã đại quyền, trí dũng song toàn, là người tài ba nhất trong triều đình. Nghĩa quân vùng Giang Hoài khởi sự bị y đem quân tiễu trừ, mấy lần nổi lên đều thất bại cũng vì Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ điều binh có phương lược. Bọn Trương Vô Kỵ đã nghe tên y từ lâu, nay mới biết bọn Lộc Trượng Khách là thủ hạ của y, tuy không kinh hãi nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG

Dương Tiêu hỏi:

- Thế Triệu cô nương đó là ai?

Phạm Dao hỏi lại:

- Đại ca thử đoán xem nào?

Dương Tiêu đáp:

- Chẳng lẽ cô ta là con gái của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ?

Phạm Dao vỗ tay cười:

- Đúng đó, đoán một lần là đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái là cô nương đó, tên Mông Cổ của cô ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ tập vương tước, còn cô gái được phong làm Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con đều hiếu võ, ai cũng giỏi võ công. Hai người lại thích ăn mặc như người Hán, nói tiếng Hán, lại lấy một cái tên Hán, con trai là Vương Bảo Bảo, con gái là Triệu Mẫn. Triệu Mẫn chính là từ tước hiệu Thiệu Mẫn quận chúa mà ra.

Vi Nhất Tiếu cười:

- Hai anh em nhà này kể cũng lạ, một người họ Vương, một người họ Triệu, nếu như là người Hán mình thì tức cười đến chết được.

Phạm Dao nói:

- Thật ra họ đều thuộc họ Đặc Mục Nhĩ, nhưng tên lại để trước, phong tục của phiên bang là như thế. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có tên Hán, ông ta họ Lý.

Nói đến đây cả bốn người cùng cười ồ[3].

Dương Tiêu nói:

- Triệu cô nương dung mạo hình dáng, có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng khi nhìn nàng hành sự, tính tình man dã của con gái phiên bang lập tức hiện ra ngay.

Trương Vô Kỵ đến bây giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn, tuy vẫn biết nàng hẳn là quí nhân trong triều đình nhưng không ngờ lại là quận chúa con gái của vị đại nguyên soái thống lãnh thiên hạ binh mã. Mấy lần chàng đụng độ với cô ta, lần nào cũng bị lép vế không nhiều thì ít, tuy võ công nàng không bằng mình, nhưng mưu lược tâm cơ, biến hóa vô cùng, chàng quyết không phải là địch thủ.

Phạm Dao lại kể tiếp:

- Thuộc hạ vẫn ngầm thám thính, biết Nhữ Dương Vương quyết tâm tiêu diệt hết các môn phái bang hội. Y nghe theo kế của Thành Côn, việc đầu tiên là làm sao tiêu diệt bản giáo. Tôi suy nghĩ rất kỹ, nội bộ của mình đang phân tranh khốc liệt, ngoại địch lại mạnh mẽ như thế, cái họa diệt vong thật ngay trước mắt, muốn tìm cách cứu thì phải làm sao trà trộn vào trong vương phủ, tìm cho ra âm mưu của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu, ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác.

Có điều tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu được là Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ Pháp Vương, vì sao lại đối đầu với bản giáo một cách quyết liệt tàn độc đến thế. Nguyên do bên trong, không thể nào nghĩ ra được, chỉ nghĩ y tham đồ phú quí diệt bản giáo để lập công với triều đình. Tuy những anh em trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều nhưng tôi đã gặp y rồi sợ y sẽ nhận ra và mưu tính của tôi sẽ bị bại lộ nên phải nghĩ cách giết y cho được.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Đúng là như thế.

Phạm Dao nói tiếp:

- Thế nhưng tên này quả thực giảo hoạt, võ công lại cao siêu, tôi liên tiếp ám toán y ba lần đều không thành công. Lần thứ ba tuy có đâm được y một kiếm, nhưng tôi cũng bị y đánh trúng một chưởng, cũng may mà chạy thoát được không đến nỗi lộ hình tích, nhưng cũng bị trọng thương phải dưỡng bệnh hơn một năm mới khỏi.

Khi đó Nhữ Dương Vương phủ đang toan tính việc tiêu diệt giới giang hồ, tôi nghĩ nếu mình có cải trang thì cũng chỉ được một thời gian. Năm xưa tôi cùng Dương huynh cùng nổi tiếng, trên giang hồ không phải là ít người biết mặt biết tên Tiêu Dao nhị tiên, nếu để lâu thể nào cũng lộ hình tích, đành nghiến răng hủy dung mạo mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm đầu rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô[4] bên Tây Vực.

Vi Nhất Tiếu lạ lùng hỏi:

- Sang bên Hoa Thích Tử Mô? Đường xa hàng vạn dặm, có liên can gì đến vụ này đâu?

Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời Dương Tiêu đã vỗ tay nói:

- Kế đó hay lắm. Vi huynh, Phạm huynh đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô, tìm cách biểu diễn tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định thu dụng. Nhữ Dương Vương đang lúc chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vua chúa nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thể nào chẳng đưa y sang vương phủ để lập công. Như thế, Phạm huynh đệ thành võ sĩ sắc mục từ bên Hoa Thích Tử Mô cống hiến, dung mạo lại biến đổi rồi, không mở miệng nói năng, Thành Côn dù có tài thánh cũng không nhận ra được.

Vi Nhất Tiếu thở dài một tiếng, nói:

- Dương giáo chủ để Tiêu Dao nhị tiên đứng trên Tứ Đại Pháp Vương, quả thực có mắt. Kế mưu đó Ưng Vương, Bức Vương không thể nào nghĩ ra được.

Phạm Dao đáp:

- Vi huynh khen quá lời. Quả đúng như Dương tả sứ đã liệu, tôi ở Hoa Thích Tử Mô giết sư tử đánh hổ, cũng có chút uy danh, vương công nơi đó liền đưa tôi vào Nhữ Dương Vương phủ. Thế nhưng lúc đó Thành Côn không còn ở trong vương phủ nữa không biết đi đâu.

Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe Thành Côn kết oán với Minh giáo ra sao, lén lên Quang Minh Đính đánh trộm thế nào, rồi gian mưu bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra sao, sau đấu nội lực với Ân Dã Vương chết như thế nào.

Phạm Dao nghe xong, ngơ ngẩn xuất thần, mới biết bên trong có nhiều điều uẩn khúc, đứng lên, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có một chuyện thuộc hạ phải thú tội với giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn như thế.

Phạm Dao nói:

- Thuộc hạ đến Nhữ Dương Vương phủ rồi, để làm cho vương gia tin tưởng, tại nơi phố chợ kinh thành Đại Đô này, chính tay đánh chết ba tên hương chủ của bản giáo để cho mọi người biết bản nhân và Minh giáo đã có thù từ trước.

Trương Vô Kỵ không nói gì, nghĩ thầm: "Tàn sát anh em trong bản giáo là một trong năm điều đại cấm kỵ. Dương tả sứ, tứ pháp vương, ngũ hành kỳ các người tranh đoạt chức vị giáo chủ, tuy đánh nhau dữ dội nhưng không ai dám giết anh em trong Minh giáo. Tội này của Phạm hữu sứ thực không nhỏ, nhưng y bản tâm chỉ muốn hộ giáo, chẳng phải vì tư thù, theo lý thì không thể trách phạt y được". Chàng bèn nói:

- Phạm hữu sứ vì tấm lòng muốn hộ giáo, bản nhân không thể trách cứ được.

Phạm Dao khom mình nói:

- Tạ ơn giáo chủ tha tội.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Vị Phạm hữu sứ này hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y dám rạch lên mặt mình bảy tám nhát dao, nếu có giết vài tên hương chủ trong bản giáo chắc y cũng chẳng coi vào đâu. Minh giáo bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, cũng có nguyên do, không biết làm sao mai này y có thể thay đổi cái tà khí đó được?".

Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ bề ngoài nói là "không thể trách cứ", nhưng mặt lại lộ vẻ bất bình, liền giơ tay rút phắt ngay kiếm Dương Tiêu đeo ngang lưng, tay trái vung lên, chặt đứt ngay hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ giật mình hoảng hốt, giơ tay giựt lại thanh kiếm, hỏi:

- Phạm hữu sứ, ông ... ông ...sao thế?

Phạm Dao đáp:

- Tàn sát anh em vô tội trong bản giáo là một trọng tội. Phạm Dao đại sự chưa thành, không thể tự tận, chặt hai ngón tay trước, ngày sau sẽ chặt cái đầu trên cổ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bản nhân đã tha có cái lỗi cũ của Phạm hữu sứ rồi, sao lại còn phải khổ như thế? Thân đang phải lo nhiệm vụ quan trọng ắt phải tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không đề cập nữa.

Chàng vội lấy kim sang ra rịt vào vết thương cho y, tự xé vạt áo mình băng lại, biết người này tính quật cường, nói năng không thể xúc phạm đến y mà đến vẻ mặt cũng không thể khó chịu. Chàng nghĩ đến đó, sợ y sau này tự vẫn tạ tội thật, y đã vì bản giáo mà phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, trong lòng hết sức cảm động, đột nhiên quì xuống, nói:

- Phạm hữu sứ, ông lập đại công cho bản giáo, xin nhận một lạy này. Nếu ông còn tự tàn hại thân thể, ấy là bảo tôi vô đức vô năng, không xứng đáng với nhiệm vụ giáo chủ. Ông còn tự mình đâm một kiếm, tôi sẽ đâm tôi hai kiếm. Tôi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, không rõ sự tình thành ra không phân biệt được thế nào là tốt thế nào là xấu.

Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quì xuống cũng lật đật lạy phục dưới đất. Dương Tiêu gạt lệ nói:

- Phạm huynh đệ, ngươi không nên làm như thế. Bản giáo hưng suy toàn ở một mình giáo chủ, giáo chủ đã ra lệnh, ngươi nhất quyết không được vi phạm.

Phạm Dao lạy tạ nói:

- Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đối với giáo chủ dĩ nhiên kính phục lắm rồi. Khổ đầu đà tính tính ngang ngạnh, xin giáo chủ tha tội cho.

Trương Vô Kỵ hai tay đỡ y dậy. Chuyện này qua rồi, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn gì ngăn cách nữa. Phạm Dao lại kể tiếp những chuyện đã thấy đã nghe trong Nhữ Dương Vương phủ.

Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ thực sự là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền nhưng triều chính bị kẻ gian chèn ép, lại thêm đương kim hoàng đế hôn ám vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, dân tâm công phẫn, toàn nhờ vào công Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Thế nhưng diệt xong nơi này thì nơi khác lại nổi lên, không lúc nào yên, Nhữ Dương Vương vì bận chuyện điều binh khiển tướng nên chuyện tiêu diệt các môn phái bang hội phải dẹp qua một bên.

Mấy năm sau, con trai con gái của y khôn lớn, thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha chỉ huy quân, con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất võ sĩ Mông Hán, phiên tăng Tây Vực tấn công các môn phái. Thành Côn đứng bên trong ngầm giúp nàng đưa ra sách lược, nhân dịp lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính, Triệu Mẫn liền dẫn các đại cao thủ, mưu toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Việc hạ độc ở Lục Liễu Sơn Trang chính là vì thế mà ra. Có điều khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ Nhữ Dương Vương nên không tham dự chuyến du hành Tây Vực, cho nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao cho biết thêm, y ở phủ Nhữ Dương Vương tuy không lộ hình tích nhưng vì từ Tây Vực đến, Triệu Mẫn cũng không cho y tham gia chiến dịch, có lẽ đó cũng là chủ ý của Thành Côn không chừng.

Triệu Mẫn dùng độc dược các phiên tăng hiến cho nàng là Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, bỏ vào đồ ăn thức uống của sáu đại môn phái từ Quang Minh Đính trở xuống. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này không sắc, không mùi, bỏ vào nước trà thì ai mà nhận ra cho được? Chất độc dược này một khi phát tác, lập tức toàn thân gân cốt mềm nhũn, một vài ngày sau, tuy có thể hành động như thường nhưng nội lực hoàn toàn không thể phát huy, cho nên các cao thủ của lục đại môn phái viễn chinh Quang Minh Đính chỉ trong vòng một tháng đều bị sa lưới.

Riêng phái Thiếu Lâm thì đoàn người thứ ba do Không Tính chỉ huy kẻ hạ độc sơ xuất bị lộ, hai bên liền giao tranh. Không Tính bị "A Tam" giết chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, thần tiễn bát hùng cùng bọn "A Đại", "A Nhị", "A Tam" nên chết mất hơn chục người, số còn lại thì bị bắt cả.

Sau đó là tiến đánh ngay các cơ sở căn bản của các môn phái, đầu tiên là phái Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào hạ độc thật không phải dễ, nếu tại các khách điếm nơi thị trấn trên đường đi bỏ thuốc độc thì dễ dàng hơn. Còn không hạ độc thì chỉ có cách lấy thịt đè người, ỷ đông tấn công vào.

Phạm Dao nói tiếp:

- Quận chúa muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm lại e không đủ người nên mới điều từ Đại Đô tới một nhóm tiếp viện, chính là do tôi dẫn đầu, cũng may là đi bắt bọn sư chùa Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm trước nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho chúng nó nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu có đem bọn sư sãi thối tha của chùa Thiếu Lâm giết sạch, khổ đầu đà này cũng chẳng thèm nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha.

Dương Tiêu vội cướp lời:

- Huynh đệ, vậy những pho tượng La Hán bị xoay lại cũng là do tay ngươi phải không?

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi thấy quận chúa sai người đục mười sáu chữ sau lưng tượng, ý muốn giá họa cho bản giáo, nên lẻn quay trở lại, xoay các tượng La Hán. Đại ca, các người quả thực tinh tế, vậy mà vẫn nhìn thấy được. Khi đó đại ca có nghĩ là tiểu đệ chăng?

Dương Tiêu đáp:

- Bọn ta suy nghĩ rằng bên trong bọn đối đầu, hình như có một vị cao thủ ẩn bên trong duy hộ bản giáo, nhưng đâu có ngờ được rằng đó là hảo huynh đệ cùng hàng với ta hồi xưa.

Cả bốn người cùng cười ha hả. Dương Tiêu liền nói sơ qua cho Phạm Dao nghe, Minh giáo từ nay quyết định làm hòa với các môn phái khác, bỏ hết hiềm khích để cùng chung sức kháng quân Mông Cổ, do đó muốn cứu các cao thủ ra. Phạm Dao nói:

- Địch đông ta ít, chỉ có bốn người mình thật khó mà làm được việc này. Chi bằng đi tìm giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho bọn sư sãi thối tha, ni cô khắm khú, cùng bọn mũi bò uống, đợi chúng nó phục hồi công lực rồi cùng xông ra, đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp, sau đó tất cả chạy ra khỏi Đại Đô.

Minh giáo trước nay vẫn thù nghịch với các phái Thiếu Lâm, Võ Đương và danh môn chính phái nên lời ăn tiếng nói của y với lục môn phái chẳng nể nang tí nào. Dương Tiêu cứ nháy mắt với y luôn nhưng Phạm Dao chẳng hề để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi những tiểu tiết đó ra gì, vỗ tay nói:

- Lời của Phạm hữu sứ đúng lắm, nhưng làm sao có được giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bây giờ?

Phạm Dao nói:

- Tôi trước nay không mở lời, thành thử quận chúa đối với tôi tuy có chút kính nể, nhưng không bao giờ bàn những chuyện quan trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, người kia không trả lời nửa câu chẳng mất hứng sao? Huống chi tôi lại từ một tiểu quốc bên Tây Vực sang, nàng ta không coi là kẻ tâm phúc, thành ra giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán ra thế nào tôi không hề hay biết. Tôi chỉ biết là chuyện này trọng đại nên cũng cố gắng để ý. Nếu tôi không nhầm, độc dược và giải được do Huyền Minh nhị lão chia nhau cầm giữ, một kẻ cầm độc dược, một kẻ cầm giải dược, nhưng luôn luôn đổi qua đổi lại.

Dương Tiêu thở dài:

- Cái nàng quận chúa nương nương đó quả thật lắm mưu mẹo, đàn ông con trai bình thường không sao theo kịp. Chẳng lẽ đến cả Huyền Minh nhị lão cô ta cũng chưa tin hẳn hay sao?

Phạm Dao đáp:

- Thứ nhất cô ta không yên tâm, thứ nhì làm như thế càng thêm kỹ càng. Chẳng hạn như mình lúc này định ăn trộm thuốc giải, đâu có biết được đang do Lộc Trượng Khách giữ hay là do Hạc Bút Ông giữ. Hơn nữa, nghe nói thuốc độc và thuốc giải hương vị màu sắc hoàn toàn giống nhau, ngoài người giữ thuốc ra không ai biết được. Người ngoài ăn trộm thuốc giải, không chừng lại lấy nhằm thuốc độc. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán lại có một chỗ rất ghê gớm là người trúng phải thuốc độc rồi, gân cốt mềm nhũn không cử động được, thế nhưng nếu uống thêm thuốc độc lần thứ hai, dù chỉ một tí xíu, lập tức máu chạy ngược lên, ngừng thở chết liền không thuốc gì cứu được.

Vi Nhất Tiếu le lưỡi nói:

- Nếu thế thuốc giải không thể nào lấy nhầm được.

Phạm Dao nói:

- Nói thế nhưng cũng không có gì quan trọng. Bọn mình cứ lấy thuốc của cả Huyền Minh nhị lão, kiếm một tên đệ tử tép riu nào của phái Hoa Sơn, Không Động gì đó cho uống thử, nếu y chết thì là thuốc độc, thế có phải tiện không?

Trương Vô Kỵ biết tà tính của y rất nặng, không coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười nói:

- Cái đó không được. Thế lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ ăn cắp được toàn là thuốc độc cả thì sao?

Dương Tiêu vỗ đùi nói:

- Giáo chủ nói vậy phải lắm. Đêm hôm qua mình đến quấy rối như thế, chắc làm cho quận chúa sợ lắm rồi, có thể giữ luôn giải dược ngay bên mình. Theo ý tôi, mình phải tra xét rõ ràng xem ai giữ thuốc giải trước đã, sau đó mới tính kế mà làm.

Y trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Huynh đệ, Huyền Minh nhị lão kia thích cái gì hơn cả?

Phạm Dao cười đáp:

- Lộc hiếu sắc, Hạc hiếu tửu thế thôi chứ chẳng còn thích gì nữa.

Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho người ta gân cốt mềm nhũn, giống như là uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chăng?

Trương Vô Kỵ suy nghĩ một chốc, cười nói:

- Nếu muốn cho toàn thân không còn chút hơi sức nào, mơ mơ màng màng buồn ngủ thì không khó, nhưng dùng cho cao thủ thì chỉ được nửa giờ dược lực sẽ hết, còn để được lâu dài như Thập Hương Nhuyễn Cân Tán thì không có cách nào cả.

Dương Tiêu cười đáp:

- Được nửa giờ cũng đủ rồi. Thuộc hạ có một kế này, không biết có dùng được hay không, nhờ giáo chủ xem thế nào. Nói là kế thực không bõ cười. Phạm huynh đệ làm sao dụ được Hạc Bút Ông đi uống rượu, trong rượu bỏ thuốc giáo chủ chế ra. Sau đó Phạm huynh đệ sẽ giải vờ làm dữ nói là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Hạc Bút Ông, lúc đó giải dược ở trong tay ai là mình biết liền, thừa cơ đoạt lấy đem ra cứu người.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kế đó có dùng được hay không, cũng còn tùy tính tình Hạc Bút Ông ra sao mới biết được, Phạm hữu sứ ông thấy sao?

Phạm Dao duyệt lại trong óc từ đầu chí cuối một lần, thấy kế đó tuy giản dị nhưng không có gì sơ hở liền nói:

- Tôi xem kế của Dương đại ca có thể làm. Hạc Bút Ông tính tình độc ác, nhưng mưu mẹo khôn ngoan không bằng Lộc Trượng Khách, nếu giải dược mà ở trong người Hạc Bút Ông, tôi võ công tuy không bằng y nhưng có thể đối phó được.

Dương Tiêu nói:

- Thế nếu giải dược ở trong người Lộc Trượng Khách thì sao?

Phạm Dao nhíu mày nói:

- Nếu thì thì khó thật.

Y đứng thẳng lên, tại bên cạnh ngọn đồi đi qua đi lại, một hồi lâu, bỗng vỗ tay một cái nói:

- Nếu như thế, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, đánh lừa y thể nào y cũng nhìn ra được, chỉ có cách nắm đúng chỗ nhược của y. Nếu mình lấy ra để uy hiếp, y tính nặng nhẹ hơn thiệt, có chịu khuất phục hay không mình chưa biết. Đương nhiên chuyện ngang tàng thế này là chuyện mạo hiểm rất lớn, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào hay hơn.

Dương Tiêu hỏi:

- Lão ta có tâm sự gì vậy? Y già người trẻ bụng, có cái thóp nào huynh đệ nắm được chăng?

Phạm Dao đáp:

- Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tôi đến hoa sảnh ăn tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp của mình xinh đẹp nên sai tân nương ra chuốc rượu. Tôi thấy đôi mắt cú vọ của Lộc Trượng Khách nhìn hau háu, mồm chảy nước dãi, dường như thèm muốn lắm.

Vi Nhất Tiếu hỏi:

- Rồi sau ra sao?

Phạm Dao đáp:

- Sau chẳng sao cả, đây là ái thiếp của vương gia, dù y lớn mật đến mấy, cũng chẳng dám giở trò gì.

Vi Nhất Tiếu nói:

- Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì?

Phạm Dao nói:

- Chẳng tội vạ gì thì mình làm cho thành tội vạ. Chuyện này phải nhờ đến Vi huynh thi triển khinh công, đến cướp ái cơ của Nhữ Dương Vương đem về, vứt vào giường của Lộc Trượng Khách. Cha già dê đó mười phần đến tám chín sẽ nhịn không nổi, thể nào cũng làm láo làm lếu một phen. Nếu y có cố gắng gò cương bờ vực, tôi cũng cứ xông vào phòng, khiến cho y có mồm cũng không cãi được, có rửa cũng không sạch tội, chỉ có nước hai tay dâng giải dược lên thôi.

Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười nói:

- Cái kế chặn họng này quả là cao minh. Gã Lộc Trượng Khách kia gian ngoan cách mấy cũng sẽ bị ê mặt.

Trương Vô Kỵ vừa tức cười vừa ngại ngùng nghĩ thầm những người thuộc hạ mình hành sự gian trá âm độc, so với các thủ hạ của Triệu Mẫn cũng chẳng khác gì, chỉ điều một bên thiện, một bên ác, hai bên cách biệt rất xa, lấy gậy ông đập lưng ông, có thể nói là dĩ độc công độc. Chàng nghĩ đến đó cũng thấy yên tâm, mỉm cười nói:

- Chỉ có điều làm lụy đến người ái cơ của Nhữ Dương Vương.

Phạm Dao cười đáp:

- Tôi sẽ xông ngay vào phòng, không để cho Lộc Trượng Khách sơ múi gì, thế là xong.

Sau đó bốn người bàn tính cẩn thận, lấy được giải dược rồi sẽ do Phạm Dao đem vào trong tháp, chia cho cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương uống. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa tại chùa Vạn An, thì cũng đốt nhà dân chúng chung quanh, quần hiệp sẽ thừa cơ náo loạn chạy được ra ngoài. Dương Tiêu sẽ mua ngựa trước, dự bị xe cộ chờ sẵn nơi cửa tây, những người chạy ra sẽ chia nhau lên chạy tới Xương Bình gặp lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện đốt nhà dân chúng, không khỏi làm liên lụy người vô tội, Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ, mọi việc không phải lúc nào cũng hai mặt đều chu toàn. Bọn mình cứu được quần hiệp sáu môn phái ra, mai sau nếu đuổi được Thát tử đó là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay nếu có phải hại vài trăm gia đình, cái đó cũng không đáng gì.

Bốn người kế sách đã định rồi, chia nhau vào thành lo liệu. Dương Tiêu thì đi lo mua ngựa mua xe, Trương Vô Kỵ điều chế một liều thuốc mê. Để cho bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu để khi trộn vào rượu rồi, uống vào vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu đi ra chợ mua một cái túi vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào Nhữ Dương Vương phủ cướp người ái cơ của vương gia.

*

* *

Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão vì có nhiệm vụ canh chừng các cao thủ của lục đại môn phái nên đều ở luôn trong chùa Vạn An, còn Triệu Mẫn thì ở trong vương phủ, đến tối mới đánh xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ đến hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công lao mình phải chịu muôn vàn khổ sở, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người thật là nhân nghĩa khiến ai ai cũng tâm phục nhưng vì thiếu cái tính quyết liệt độc địa, không khỏi có tính mềm yếu đàn bà quả là mỹ trung bất túc.

Y ở bênh cánh tây, còn Huyền Minh nhị lão thì ở tại Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y cũng ngại hai gã này, sợ có khi lộ tẩy nên rất ít giao du, thành thử hai bên ở xa xa nhau, lúc này nghĩ đến việc mời Hạc Bút Ông đi uống rượu mà sao không lộ hình tích quả không phải dễ.

Y nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang ngả về tây, hơn một nửa của mười ba tầng bảo tháp đã khuất nắng, mái ngói lưu ly trên đỉnh cũng nhạt dần. Y chưa biết phải tính sao, chắp hai tay sau lưng đi lững thững về phía hậu viện, đột nhiên ngửi thấy mùi thịt thật thơm từ hàng hiên đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi, hai người trong thần tiễn bát hùng.

Phạm Dao chợt động tâm, đi đến trước sương phòng giơ tay đẩy cửa, mùi thịt liền bay thốc vào mũi. Lý Tứ Tồi đang ngồi xổm dưới đất đang quạt lấy quạt để một cái lò lửa đỏ hồng, trên lò để một cái nồi đất lớn, hương thơm từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp bát dọn đũa, rõ ràng hai tên đang sắp sửa đánh chén.

Hai người thấy khổ đầu đà đẩy cửa bước vào, giật mình kinh hãi, nhìn y mặt mày đăm đăm không khỏi chột dạ. Chúng mới rồi đánh chết một con chó vàng ngoài đường, chặt bốn chân len lén đem về phòng nấu ăn. Chùa Vạn An là chỗ sư sãi thanh tu, ở trong chùa đun thịt chó quả thực không phải. Chuyện này giá như người ngoài nhìn thấy thì cũng không đến nỗi nào nhưng khổ đầu đà này lại là đệ tử nhà Phật, y mà nổi nóng, đánh cho một trận, hai đứa không sao địch lại. Võ công khổ đầu đà đã cao cường, huống chi lại lỗi về phần họ, nếu như bị đòn cũng đáng.

Hai đứa đang phập phồng lo sợ, thấy khổ đầu đà đi đến bên bếp lửa, mở vung ra, nhìn vào rồi hít một hơi dài dường như muốn nói: "Thơm quá, thơm quá!". Y đột nhiên thò tay vào trong nồi, không kể nước đang sôi sùng sục, nhón lấy một miếng thịt, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm, chỉ giây lát ăn hết sạch. Y liếm môi xem chừng có vẻ ngon lắm khiến Tôn Lý hai người mừng không để đâu cho hết, vội nói:

- Mời khổ đại sư ngồi xuống đây, ngồi xuống đây. Chúng tôi có biết đâu lão nhân gia cũng thích món thịt cầy.

Khổ đầu đà không ngồi, lại thò tay vào nồi bốc thêm một miếng thịt khác, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lửa mà ăn. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem đến. Khổ đầu đà cầm bát rượu lên ực một hơi, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái đưa lên xua xua nơi mũi, ý nói rượu cay quá, uống không vừa miệng, đứng lên tất tả bước ra khỏi phòng.

Tôn Lý hai người thấy y hầm hầm bỏ đi, lại đâm lo, nhưng chẳng mấy chốc lại thấy y tay cầm một bầu rượu lớn quay lại, lúc ấy mới hoàn hồn, vui mừng nói:

- Đúng vậy, đúng vậy. Rượu của chúng tôi không phải loại ngon, khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì thật còn gì bằng.

Hai người vội vàng dọn bàn xếp bát cung kính mời khổ đầu đà ngồi chỗ thượng thủ, đem thịt chó bày đầy một mâm để ngay trước mặt. Khổ đầu đà võ công thật cao cường, là loại đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời thần tiễn bát hùng đâu có dám vói cao, hôm nay may sao lại mời được y ăn thịt chó, biết đâu lão nhân gia lại vui lòng truyền cho một hai tuyệt chiêu, thật cả đời dùng không hết.

Khổ đầu đà mở chiếc nút gỗ trên đầu hồ lô, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, đặc sánh như mật ong, vừa rót ra đã bốc lên thơm ngát. Tôn Lý hai người cùng reo lên:

- Rượu ngon quá, ngon quá!

Phạm Dao nghĩ thầm: "Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà không, nếu như y đi khỏi chưa về thì phen này mình thật phí công". Y cầm bát rượu bở vào nồi nước đang sôi, lúc đó thịt chó nấu đã nhừ, hơi bốc lên càng làm mùi rượu thêm nồng. Tôn Lý thèm nhỏ dãi, đang định cầm rượu lên, khổ đầu đà liền giơ tay ra hiệu đừng vội, bảo hai người bỏ rượu vào hâm trước rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi bốc ra thơm lừng, Hạc Bút Ông chẳng ở trong chùa thì thôi, nếu không thì dù có cách mấy dãy nhà cũng phải ngửi thấy.

Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá nghe tiếng mở cửa kẹt một cái rồi nghe tiếng Hạc Bút Ông:

- Rượu ngon quá, ngon quá, hà hà.

Y chẳng khách khí gì liền đi qua sân đẩy cửa bước vào, thấy khổ đầu đà và Tôn Lý ba người ngồi bên bếp lửa uống rượu ăn thịt, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười nói:

- Khổ đại sư, hóa ra ngài cũng thích món này, đâu có ngờ mình lại là chỗ đồng đạo với nhau.

Tôn Lý hai người vội đứng dậy mời:

- Hạc công công, mời ngài ngồi uống vài chén, đây là mỹ tửu của khổ đại sư, chẳng mấy khi có được.

Hạc Bút Ông liền ngồi ngay trước mặt khổ đầu đà, hai người là khách mà làm như chủ ăn uống thật tận tình, còn Tôn Lý thành ra kẻ hầu bưng thịt rót rượu. Bốn người cao hứng ngồi uống một hồi, người nào cũng ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: "Ta hạ thủ là vừa". Y liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay để cái bầu rượu nằm xuống. Thì ra y đã khoét rỗng cái nút đậy hồ lô, để bột thuốc Trương Vô Kỵ chế ra vào trong đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu để đứng thì bột thuốc không xuống được, bốn người chỉ uống rượu bình thường nhưng một khi để nằm xuống, rượu ngấm qua lần vải làm tan thuốc, rượu trong bình nay biến thành rượu độc. Đáy bầu vốn tròn, để đứng để nằm chẳng ai để ý, huống chi bốn người uống đã một lúc lâu, đang lúc mềm môi hơi men bừng bừng.

Phạm Dao thấy Hạc Bút Ông cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch liền mở nắp rót thêm rượu cho y. Hạc Bút Ông thấy bát của mình đã đầy, tiện tay cũng châm thêm cho Tôn Lý, thấy bát của khổ đầu đà vẫn còn nguyên nên không rót. Bốn người liền bưng bát lên uống ừng ực.

Chỉ trừ Phạm Dao ra, ba người kia đều uống phải rượu độc. Tôn Lý hai người nội lực kém, độc tửu vừa vào bụng, chỉ giây lát đã thấy chân tay bải hoải, toàn thân rã rời không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy liền nói:

- Tứ đệ, bụng ta sao có gì trục trặc.

Lý Tứ Tồi cũng nói:

- Ta ... ta ... cũng dường như trúng độc.

Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã thấy khác, vội vận khí, nội tức sao không đưa lên được, mặt liền biến sắc. Phạm Dao liền đứng ngay lên, mặt hầm hầm, chộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ nhưng không nói ra được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:

- Khổ đại sư, chuyện gì thế?

Phạm Dao giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên trên bàn năm chữ "Thập Hương Nhuyễn Cân Tán". Tôn Lý hai người đều biết Thập Hương Nhuyễn Cân Tán do Huyền Minh nhị lão cất giữ, thấy tình hình trước mắt xem ra khổ đầu đà và mình đều bị trúng phải thuốc độc này. Hai người đưa mắt nhìn nhau, khom lưng nói với Hạc Bút Ông:

- Hạc công công, anh em chúng tôi đâu có dám mạo phạm với lão nhân gia, xin ngài nương tay cho.

Tôn Lý cho rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn ra tay đối phó với khổ đầu đà, hai người chẳng may vướng vào tròng, cùng mắc phải cái vạ giữa đàng chứ đối phó với họ thì cần gì phải dùng đến độc dược.

Hạc Bút Ông cũng kinh ngạc vạn phần, Thập Hương Nhuyễn Cân Tán tháng này do y giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc phía bên trái, hai món binh khí đó là vật bất ly thân, dẫu có kẻ nào muốn trộm thuốc từ trong mình ra thật không sao làm được. Thế nhưng y vừa vận khí thấy không cách gì có thể dụng lực, thì đúng là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán không sai vào đâu. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ điều chế tuy có mạnh thật nhưng khác xa Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, tình trạng lúc uống vào cũng không giống tí nào. Thế nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là uống Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào thì gân cốt mềm nhũn, chân tay bải hoải nhưng chính mình chưa hề thử bao giờ, thành ra tuy hai loại thuốc khác nhau xa nhưng y làm sao phân biệt được? Chỉ thấy khổ đầu đà vừa hoảng hốt, vừa giận dữ, còn Tôn Lý hai người đứng bên van xin không ngớt nên không nghi ngờ liền nói:

- Khổ đại sư đừng có nóng, mình là chỗ anh em, tại hạ làm gì có ý gia hại? Chính tôi cũng trúng phải thuốc độc, thân thể rã rời, không biết đứa nào làm trò ma mãnh, thật là lạ.

Phạm Dao lại chấm tay vào rượu viết lên mấy chữ: "Lấy thuốc giải mau". Hạc Bút Ông gật đầu nói:

- Đúng thế, mình uống thuốc giải trước đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc nào giở trò ra tính sổ với nó sau. Giải dược ở bên mình Lộc sư ca, xin khổ đại sư cùng đi với tôi.

Phạm Dao trong bụng mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại dễ dàng đến thế, biết ngay giải dược đang ở trong tay ai. Y giơ tay nắm cổ tay Hạc Bút Ông, cố ý làm ra vẻ lảo đảo đi về phía Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy y dường như đi không nổi, trong bụng mừng thầm: "Gã khổ đầu đà này võ công vốn dĩ cực cao, nhưng chưa bao giờ anh em mình có dịp cùng y so tài cao thấp, xem y trúng độc rồi chân đi không vững, chắc nội lực kém mình xa lắc".

Hai người đi đến trước cửa tinh xá, căn phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, còn phòng phía bắc là của Lộc Trượng Khách, thấy phòng phía bắc cửa đóng kín mít. Hạc Bút Ông gọi lớn:

- Sư ca có nhà không?

Lập tức có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong đáp lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nào ngờ cửa cài then từ bên trong. Y kêu lên:

- Sư ca mở cửa mau, có việc gấp.

Lộc Trượng Khách nói:

- Chuyện gấp cái gì? Ta đang luyện công, ngươi đừng đến quấy rầy có được không?

Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học một thầy, không ai kém ai nhưng một là Lộc Trượng Khách vai sư huynh, hai nữa y trí mưu hơn nhiều nên Hạc Bút Ông đối với y có phần tôn kính, nghe giọng y có vẻ không vui không dám réo nữa.

Phạm Dao nghĩ chuyện này không nên dây dưa, một khi thuốc mê tan rồi thì mình sẽ bị lộ tẩy nên chẳng nói chẳng rằng, ghé vai ẩy một cái, then cửa gãy ra, cánh cửa mở toang, nghe tiếng đàn bà kêu rú lên.

Lộc Trượng Khách đang đứng bên cạnh giường, nghe thấy tiếng cửa mở, quay đầu nhìn ra, vẻ mặt cực kỳ sượng sùng. Phạm Dao thấy trên giường có một người đàn bà, toàn thân quấn trong một chiếc chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, bên ngoài tấm vải có buộc dây, trông như một cuộn mành mành. Người đàn bà tóc xõa ra ngoài, da dẻ trắng muốt, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là Hàn thị, người ái cơ Nhữ Dương Vương mới nạp, bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương quả nhiên giỏi thật, một mình vào ra vương phủ, bắt được Hàn cơ rồi".

Thực ra tuy Nhữ Dương Vương phủ canh gác cẩn mật nhưng tựu trung các võ sĩ chỉ hộ vệ vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương rất đông nên chẳng ai nghĩ đến việc có người đến cướp đem đi nên phải canh phòng. Hơn nữa Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, lại biến hóa thật gọn gàng, vừa vào phủ là vác ngay Hàn cơ đi, thật là thần không hay quỉ không biết. Còn như làm sao bỏ được vào trong phòng Lộc Trượng Khách thật khó hơn nhiều, y phải đợi cả nửa ngày mới gặp được lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, lẻn vào đặt Hàn cơ lên trên giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.

Lộc Trượng Khách trở về thấy có một người đàn bà nằm trên giường, vội vàng nhảy lên mái nhà, nhìn chung quanh bốn bề thì lúc đó Vi Nhất Tiếu đã chạy xa rồi, ngoài phòng Tôn Lý vọng ra tiếng ăn nhậu rức lác, không còn gì khác. Lộc Trượng Khách thấy việc này quả thật quái lạ, nhưng lặng thinh thản nhiên quay về phòng, nhìn lại cô gái kia, không khỏi trố mắt há hốc mồm. Ngày hôm đó vương gia nạp cơ có làm tiệc đãi luôn một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ kia lúc kính tửu mủm mỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy tuổi đã cao nhưng cũng không khỏi mê mẩn. Y tham dâm hiếu sắc, một đời làm hại không biết bao nhiêu đời đàn bà con gái lương gia, nay thấy Hàn cơ xinh đẹp, trong bụng không khỏi tiếc rẻ, sao không sớm gặp được mỹ nhân. Nếu như trước khi vương gia lấy về mà trông thấy thì làm sao thoát được tay y. Về sau y có nghĩ đến mấy lần nhưng lại kiếm được người mới nên cũng quên đi. Bây giờ không hiểu đâu từ trời rơi xuống nàng Hàn cơ lại nằm ngay trên giường.

Y vừa sợ vừa mừng, suy nghĩ qua lập tức đoán ngay chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên lén đến cướp Hàn cơ đem về. Y thấy nàng thò đầu ra khỏi tấn chăn cuốn, mặt cổ nước da trắng ngần, thấp thoáng bờ vai trần, dường như trên người không mặt quần áo, y bụng phập phồng hỏi nhỏ vì sao nàng lại tới đây. Hỏi luôn mấy câu, Hàn cơ không trả lời, Lộc Trượng Khách bấy giờ mới biết nàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, đang toan giơ tay giải huyệt, đột nhiên Hạc Bút Ông đến trước cửa, rồi nghe cửa bị khổ đầu đà phá vỡ.

Biến cố đó thật là bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy rất ư là quỉ quyệt nhưng muốn che đấu cũng không kịp nữa rồi. Y chợt nghĩ ra, e chừng vương gia phát giác ái cơ bị cướp, sai khổ đầu đà đến tróc nã mình, việc đến nước này chỉ còn nước chạy là hơn cả. Chỉ nghe soẹt một tiếng, trượng đầu hươu đã nằm trong tay y, tay trái ôm luôn Hàn cơ lên, toan bề phá cổ sổ nhảy ra.

Hạc Bút Ông kinh hãi kêu lên:

- Sư ca, mau đưa giải dược đây.

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Cái gì?

Hạc Bút Ông nói:

- Tiểu đệ và khổ đại sư chẳng hiểu vì sao trúng phải chất độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.

Lộc Trượng Khách ú ớ:

- Ngươi nói sao?

Hạc Bút Ông lại nhắc lại lần nữa, Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chẳng phải do ngươi giữ hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu đệ chẳng biết táy máy thế nào cả bốn người đang ngồi uống rượu nhậu nhẹt, đột nhiên cả bọn đều bị trúng độc. Lộc sư ca, mau đem thuốc giải cho bọn tôi uống đi nào.

Lộc Trượng Khách nghe nói thế hồn phách bình tĩnh lại, để Hàn cơ lại trên giường, xoay mặt nàng về bên trong. Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này tính tình phong lưu, trong phòng y có đàn bà con gái, cũng không lấy gì làm lạ nên chẳng để ý, huống chi Hạc Bút Ông trúng độc rồi, hồn vía lên mây còn hơi đâu mà để ý xem người đó là ai. Dẫu có bình thời y cũng không nhận ra vì hôm đó trong bữa tiệc nơi vương phủ, Hàn cơ bước ra mời rượu chỉ chào một cái rồi đi, Hạc Bút Ông chăm chăm vào việc uống rượu đâu có để ý xem người đàn bà đeo vòng ngọc, mặc áo gấm kia đẹp hay xấu?

Lộc Trượng Khách nói:

- Mời khổ đại sư về phòng Hạc huynh đệ nghỉ ngơi, tại hạ đem thuốc giải tới ngay.

Y vừa nói vừa giơ tay đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy đó khiến cho Hạc Bút Ông lảo đảo, suýt nữa ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng bước theo, giả vờ như nội lực cũng mất hết, tuy nhiên y nội lực thâm hậu, gặp ngoại lực tự nhiên sinh ra sức phản kích. Lộc Trượng Khách chỉ giơ tay ra lập tức phát giác sư đệ quả nhiên mất hết nội lực, khổ đầu đà thì giả vờ. Y sợ mình đoán nhầm, lại dụng lực đẩy thêm lần nữa, cả Hạc Bút Ông lẫn khổ đầu đà cùng ngã bổ chửng ra ngoài. Tuy cùng ngã, một người thân thể bông bênh, người kia rơi cái bịch.

Lộc Trượng Khách giả vờ như không cười nói:

- Khổ đại sư, quả thực đắc tội.

Nói rồi y đưa tay ra đỡ, vừa giơ tay đã nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan nơi cổ tay khổ đầu đà. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết ngay mình đã bị bại lộ, tay trái vung lên, dùng trọng thủ đánh ngay vào huyệt Hồn Môn trên lưng Hạc Bút Ông, để cho y trong một thời gian thân thể uể oải không cử động được. Trong hai đại cao thủ trừ đi một người, còn một đánh một không sợ gì Lộc Trượng Khách. Y cất tiếng cười khẩy mấy tiếng nói:

- Ngươi không muốn sống hay sao mà dám đi trộm ái cơ của vương gia về đây?

Y vừa mở mồm nói, Huyền Minh nhị lão ngạc nhiên đến ngơ ngẩn cả người. Hai người biết khổ đầu đà đã mười lăm, mười sáu năm qua, chưa từng nghe y mở miệng nói một câu nào, vẫn tưởng trời sinh y câm. Lộc Trượng Khách tuy biết y chẳng phải tốt lành gì nhưng không ngờ y lại nói được, nên nghĩ ngay nếu như y cố tình đóng vai câm như thế thì tình cảnh như mình bây giờ ắt phải nguy nan, liền nói:

- Thì ra khổ đại sư không phải câm thật, hơn mười năm nay khổ tâm đóng kịch như thế là do cớ gì?

Phạm Dao đáp:

- Vương gia biết ngươi có bụng không ngay, sai ta giả làm thằng câm để tiện gần ngươi giám sát.

Câu đó đúng ra có rất nhiều sơ hở nhưng lúc này Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách trong bụng có tà ý, không thể không tin, huống chi y vốn biết rõ Nhữ Dương Vương thích bày chuyện ràng buộc tròng tréo đối với thuộc cấp. Câu đó của Phạm Dao nói ra, Lộc Trượng Khách thấy thót cả ruột liền hỏi:

- Vương gia sai ngươi đến bắt ta ư? Ha ha, khổ đại sư võ nghệ tuy cao nhưng chưa chắc đã bắt Lộc Trượng Khách này giơ tay chịu trói được đâu?

Nói rồi y liền vung lộc trượng lên toan động thủ. Phạm Dao cười nói:

- Lộc tiên sinh, khổ đầu đà tuy võ công không bằng được ông, nhưng chắc hai bên cũng không hơn kém bao nhiêu. Nếu ông muốn đánh bại tôi, e rằng trong một hai trăm chiêu chưa chắc đã thắng. Ông thắng tôi một vài chiêu thì dễ nhưng nếu tính chuyện vừa ôm Hàn cơ đi, lại cứu cả sư đệ, Lộc Trượng Khách chắc gì đã có đủ tài làm chuyện đó.

Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời của khổ đầu đà chẳng phải ngoa. Y hai sư huynh đệ từ nhỏ học nghệ với nhau, lớn lên cho tới lúc già, mấy chục năm qua chưa rời xa nhau lấy một ngày. Hai người đều không vợ không con, có thể nói coi người kia như chính sinh mạng mình, bảo y bỏ sư đệ chạy lấy một mình, ắt không nỡ nào làm như thế.

Phạm Dao thấy y có vẻ động tâm liền quát gọi Tôn Lý hai người vào phòng, đóng chặt cửa lại nói:

- Lộc tiên sinh, việc này chưa bị bại lộ, cứ tin vào khổ đầu đà này nhất định sẽ che đậy cho ông đến nơi đến chốn.

Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:

- Làm thế nào mà che đậy được?

Phạm Dao không quay đầu lại, thò tay ngược về sau điểm luôn huyệt câm và huyệt tê của hai gã Tôn Lý, thủ pháp nhanh nhẹn, nhận huyệt chuẩn xác, Lộc Trượng Khách cũng phải ngầm thán phục. Chỉ nghe khổ đầu đà nói tiếp:

- Chính ông không nói ra, lệnh sư đệ chắc chẳng thể nào làm khó sư huynh được, khổ đầu đà là người câm, từ nay vẫn là người câm không nói. Còn hai vị huynh đệ này, khổ đầu đà sẽ giúp ông bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, cái đó cũng chẳng đáng gì.

Tôn Lý hai người kinh hoàng thất sắc, nghĩ thầm chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến mình, có ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà tội vạ ở đâu giáng xuống đầu, tuy muốn ngỏ lời van xin nhưng lại mở miệng không được. Phạm Dao lại chỉ vào Hàn cơ nói:

- Còn như cô hầu này, lão nạp đã sẵn hai phương sách. Một là phủi tay phủi chân, đem cô ta và Tôn Lý hai người xách đến chỗ nào vắng vẻ cho mỗi người một đao, báo cho vương gia hay cô nàng và tên đĩ đực Lý Tứ Tồi tằng tịu với nhau, hai đứa bỏ trốn bị khổ đầu đà bắt được, nổi giận giết cả gian phu dâm phụ, giết lây cả tên Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là do chính ông đem cô nàng đi dấu một nơi, về sau nếu có tiết lộ cơ mật cái đó là toàn ở ông cả.

Lộc Trượng Khách không khỏi quay đầu lại nhìn Hàn cơ một cái, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ là muốn y nhận giải pháp thứ hai. Lộc Trượng Khách nhìn khuôn mặt xinh đẹp trời cho kia, nếu như một đao giết chết quả thật là đáng tiếc, trong lòng rung động liền nói:

- Đa tạ ngươi đã sắp xếp cho ta chu đáo như thế. Vậy ngươi muốn ta làm gì nào?

Y biết rằng khổ đầu đà ắt có chuyện nhờ mình, nếu không chắc chẳn thể nào bỏ qua. Phạm Dao đáp:

- Việc này cũng thật là dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và tôi giao tình rất thâm, cô gái trẻ tuổi họ Chu kia là con tư sinh của tôi với lão ni cô. Cầu ông cho chút giải dược, rồi thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, một mình lão nạp nhận hết cả, nếu mà có làm liên lụy đến ông thì gia đình khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni, trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương, chết không toàn thây, đời đời không được siêu sinh.

Y nghĩ Lộc Trượng Khách tính tình phong lưu, nếu dùng ngay truyện gái trai ra làm cớ thì dễ khiến y tin hơn. Y nghe Dương Tiêu nói anh em Minh giáo rất đông người chết dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên đặt ra ngay câu chuyện hoang đường hòa thượng ni cô kia. Y cả đời tà tính thành thói, ăn nói hành động không thể nào như một chính nhân quân tử bình thường. Còn như thề thốt "trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương" gì gì nữa, y cũng chẳng để tâm.

Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn người, nhưng lập tức mỉm cười, nghĩ thầm gã đầu đà này mọi chuyện đem ra bức bách mình thì ra là để cứu mụ tình nhân già cùng với đứa con gái, âu cũng là chỗ thường tình, việc này tuy rất nhiều nguy hiểm, nhưng đổi lại được một tuyệt sắc giai nhân, âu cũng đáng. Y thấy khổ đầu đà có chuyện cầu mình, trong bụng cởi được mối lo cười đáp:

- Vậy thì cướp ái cơ của vương gia đem tới đây, chắc cũng là do tay khổ đại sư phải không?

Phạm Dao đáp:

- Chuyện lớn như thế, lẽ nào chỉ tay không đến xin? Cũng phải có gì đền đáp chứ.

Lộc Trượng Khách mừng lắm, nhưng còn e bên ngoài có người nên không dám cười thành tiếng. Đột nhiên y nghĩ lại hỏi thêm:

- Thế thì sư đệ của ta tại sao lại trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán? Độc dược này ngươi ở đâu mà có được?

Phạm Dao đáp:

- Cái đó có khó gì đâu? Lệnh sư đệ hiện đang giữ độc dược, y là người tham ăm thích uống, uống đến lúc ngà ngà, khổ đầu đà ăn cắp gì mà không được?

Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại gì nữa liền nói:

- Hay lắm! Khổ đại sư, huynh đệ kết giao bằng hữu với ngươi, ta quyết không bán ngươi mà ngươi cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó như thế này nữa.

Phạm Dao chỉ vào Hàn cơ nói:

- Lần tới nếu còn một việc khó mà xinh đẹp như thế này, xin Lộc tiên sinh cứ sắp đặt để đưa khổ đầu đà vào tròng, lão nạp vui vẻ mà nhận ngay.

Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong bụng mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, chuyện khó khăn trước mắt một khi qua rồi, làm sao xuất kỳ bất ý giết chết gã ác đầu đà này. Phạm Dao biết rằng Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình bức bách, nhưng Huyền Minh nhị lão là loại người cỡ nào, bị một vố đau như thế đâu lẽ chịu bỏ qua, chỉ đợi khi an trí Hàn cơ xong xuôi, giải được huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lập tức sẽ kiếm mình động thủ, nhưng khi đó các cao thủ sáu đại môn phái đã cứu xong, mình đã cúp đuôi chạy mất rồi.

Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách chần chừ không chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu mình thúc giục, y sẽ càng làm khó thêm, nên ngồi xuống cười nói:

- Lộc huynh sao không giải khai huyệt đạo cho Hàn cơ, cả bọn cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc đó mấy kiếp tu dễ gì có được.

Lộc Trượng Khách biết rằng chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào thì thêm một phần nguy hiểm liền lấy trượng sừng hươu ra, mở một nhánh, lấy một cái chén đổ vào chén một ít bột phấn nói:

- Khổ đại sư, ngươi quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế, giải dược đây mau cầm lấy.

Phạm Dao lắc đầu:

- Có chút xíu bột như thế thì làm được trò gì?

Lộc Trượng Khách nói:

- Đừng nói chi cứu hai người, đến sáu bảy người cũng đủ.

Phạm Dao nói:

- Sao ngươi nhỏ mọn thế, cho thêm chút nữa thì đã sao? Nói thực, các hạ túc trí đa mưu, khổ đầu đà này sợ lại bị mắc hỡm nữa.

Lộc Trượng Khách thấy y đòi thêm thuốc giải, đột nhiên khởi nghi nói:

- Khổ đại sư, ngươi định cứu chẳng phải chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái mà thôi, phải không?

Phạm Dao đang định nói khéo để giải thích cho qua, bỗng nghe bên trong chùa có tiếng chân rầm rập, bảy tám người chạy tới, nghe một người nói:

- Dấu chân đến tận đây, không lẽ Hàn cơ lại ở trong chùa Vạn An chăng?

Lộc Trượng Khách mặt liền biến sắc, chộp ngay cái ly chứa thuốc giải, bỏ ngay vào bọc, cho rằng Khổ đầu đà phục sẵn người ở bên ngoài đợi vừa có giải dược liền phản mình ngay.

Phạm Dao xua tay, bảo y đừng kinh hoảng, lấy một chiếc chăn mỏng chùm lên người Hàn cơ từ đầu đến chân rồi bỏ màn che xuống. Lại nghe một người hỏi:

- Lộc trượng tiên sinh có nhà không?

Phạm Dao chỉ chỉ vào miệng mình, ý muốn nói mình câm, nên bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách lớn tiếng quát:

- Cái gì thế?

Người kia đáp:

- Vương phủ có một cơ nhân bị gian đồ cướp đi, theo dấu kẻ gian thì tới chùa Vạn An.

Lộc Trượng Khách hầm hầm nhìn Phạm Dao, ý muốn nói: "Nếu không phải ngươi cố ý giá họa, với tài nghệ của ngươi làm sao lại có dấu chân được?". Phạm Dao liền nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo y đuổi gã này đi, trong bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ tới tận đây".

Lộc Trượng Khách liền cười khẩy đáp:

- Các ngươi không biết chia nhau đi lùng kiếm, tới đây léo nhéo cái gì?

Với địa vị và võ công như y, ai nấy đều hết sức kiêng nể, người kia vội vâng vâng dạ dạ, không dám nói thêm gì nữa, lập tức phân phái anh em tra tìm những vùng chung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này chung quanh chùa Vạn An có rất đông người tra xét, tuy bọn họ không dám vào phòng mình mà tìm, nhưng ôm được Hàn cơ đi nơi khác để dấu thật không phải dễ, không khỏi nhíu mày hậm hực nhìn khổ đầu đà.

Phạm Dao bỗng nghĩ ngay một kế hạ giọng nói:

- Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi rất tốt, mình tạm dấu cục cưng này, qua một ngày một buổi bên ngoài tra xét dãn ra, lúc đó đem đi cũng chưa muộn.

Lộc Trượng Khách giận dữ nói:

- Trừ phi dấu ngay trong phòng ngươi thì được.

Phạm Dao cười:

- Người đẹp thế dấu ở phòng tôi, lão đầu đà chắc đâu đã không động lòng, Lộc huynh không ghen đấy chứ?

Lộc Trượng Khách hỏi lại:

- Thế ngươi bảo dấu ở đâu?

Phạm Dao mỉm cười giơ tay chỉ ngọn tháp ngoài cửa sổ. Lộc Trượng Khách thông minh cơ cảnh, thoáng cái biết ngay, giơ ngón tay cái lên khen:

- Hay lắm!

Bảo tháp đó là nơi giam giữ các cao thủ lục đại môn phái, tổng quản trông nom chính là đại đệ tử của Lộc Trượng Khách Ô Vượng A Phổ, người khác có nghi là nghi chỗ khác, chứ không ai lại ngờ rằng ái cơ của vương gia lại bị bắt dấu nơi nhà giam canh phòng giới bị cẩn mật này. Phạm Dao hạ giọng nói:

- Lúc này trong viện không có ai, chẳng nên chậm trễ, động thủ ngay đi.

Y cuốn bốn bề cái chăn trên giường lại, dấu kỹ Hàn cơ ở bên trong thành một cái bọc lớn, nhắc lên giao cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghĩ thầm ngươi không làm lại đẩy cho mình, ta vừa vác Hàn cơ ra khỏi cửa ngươi liền kêu toáng lên, lúc đó tang chứng rành rành, còn chối cãi vào đâu được nữa, mặt không khỏi biến sắc, không dám đưa tay nhận. Phạm Dao biết bụng dạ y liền nói:

- Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây phương, khổ đầu đà hôm nay làm thêm vụ đưa dâu nữa thì đã sao nào? Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?

Nói xong nhắc cái bọc lên, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:

- Ngươi đi trước dẹp đường, nếu có kẻ nào ngăn trở tra vấn, giết quách nó đi.

Lộc Trượng Khách nghiêng người lách qua, nhưng không dám đưa lưng ngay mặt Phạm Dao, sợ y từ sau đánh lén. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, cõng Hàn cơ đi lên bảo tháp.

Lúc đó đã cuối giờ tuất, ngoại trừ võ sĩ canh gác bảo tháp ra, không còn ai khác. Các võ sĩ thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, lập tức khom mình hành lễ, cung kính đứng tránh qua một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra nghinh tiếp nói:

- Sư phụ, lão nhân gia hôm nay có hứng hay sao mà lên bảo tháp ngồi chơi?

Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang toan tiến lên bỗng nhiên từ chiếc cửa tròn ở phía tây một người bước ra, chính là Triệu Mẫn.

Lộc Trượng Khách có tật giật mình, kinh hoảng không để đâu cho hết, lại tưởng Triệu Mẫn đích thân đem thủ hạ đến bắt y, không biết tính sao chỉ đành thu hết cam đảm cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào. Đêm hôm qua bọn Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn có biết đâu tất cả Minh giáo chỉ có ba người, e ngại họ đem đại đội nhân mã đến tấn công nên muốn đích thân đến tháp xem xét, thấy Phạm Dao ở đây liền mỉm cười nói:

- Khổ đại sư, tôi đang định đi tìm ông đây.

Phạm Dao gật đầu, bình thản như không. Triệu Mẫn nói:

- Tôi muốn ông đi cùng với tôi đến một nơi.

Phạm Dao trong bụng kêu khổ thầm: "Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách vào trong bảo tháp mình sẽ ra tay rồi đoạt lấy giải dược của y thế là thành công, ngờ đâu con nhãi này lại đến đây tìm mình". Đã toan tìm cớ thoái thác không đi, nhưng nhất thời không tìm ra được cách nào, huống chi y lại giả câm, nếu muốn từ chối cũng không nói nên lời được. Tình cấp trí sinh, nghĩ thầm: "Để mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nào vậy". Y liền chỉ cái bọc trên tay mình, quay sang Lộc Trượng Khách lắc lắc mấy cái. Lộc Trượng Khách hoảng hốt, trong bụng chửi thầm khổ đầu đà hại mình không ít. Triệu Mẫn hỏi:

- Lộc tiên sinh, cái bọc của khổ đầu đà đựng gì thế?

Lộc Trượng Khách đáp:

- À, à, đó là chăn gối của khổ đại sư đấy mà.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Chăn gối? Khổ đại sư mang chăn gối đi đâu?

Nàng mủm mỉm cười nói tiếp:

- Khổ đại sư thấy tôi tối dạ quá, không chịu thu làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối đi không ở nữa đấy ư?

Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: "Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ ra nói láo, mình câm cũng có cái lợi của người câm". Triệu Mẫn trông không hiểu y làm thế nghĩa là sao, chỉ đành nhìn Lộc Trượng Khách chờ y giải thích. Lộc Trượng Khách động linh cơ có ngay một cớ liền nói:

- Chuyện như thế này, tối hôm qua mấy ma đầu của Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ e ngại bọn hạ có âm mưu lớn ... biết đâu ... biết đâu ... chúng lại không đến tháp cứu người. Thành thử sư huynh đệ thuộc hạ cùng khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, tự mình canh phòng để khỏi làm hỏng việc lớn của quận chúa. Cái bọc chăn gối này là đồ ngủ của khổ đại sư.

Triệu Mẫn mừng lắm, cười nói:

- Tôi vẫn định nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân trông coi, có điều như thế làm nhọc các ông quá nên không dám mở miệng. Ngờ đâu ba vị lại chia xẻ mối lo với tôi, thật còn gì bằng. Có Lộc Hạc hai vị ở nơi đây trấn giữ, bọn ma đầu đâu có dám héo lánh đến, tôi khỏi phải lên tháp trông coi làm gì. Khổ đại sư theo tôi đi đằng này một chút.

Nói xong nàng nắm tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm như lúc này có nói toạc âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng chẳng đi đến đâu, thứ nữa Hàn cơ đang ở trong tay mình, chưa chắc đã làm cho Triệu Mẫn tin được, đành giao cái bọc lại cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giơ tay đỡ lấy nói:

- Khổ đại sư, tôi đợi ông ở trên tháp nhé.

Ô Vượng A Phổ nói:

- Sư phụ, để đệ tử mang bọc chăn gối cho.

Lộc Trượng Khách cười đáp:

- Không sao, đây là đồ của khổ đại sư, thầy đang muốn lấy lòng ông ấy tự mình mang lên cũng được.

Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc một cái, chính trúng ngay mông của Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt nên không thể kêu lên được, nhưng Lộc Trượng Khách cũng sợ đến mặt tái mét, không dám dây dưa thêm nữa, quay sang chào Triệu Mẫn rồi vác Hàn cơ đi lên tháp. Y trong bụng đã tính sẵn, một khi vào trong tháp rồi lập tức lấy chăn mền thật ra đổi ngay, nếu như khổ đầu đà có cáo giác với Triệu Mẫn thì y cũng nhất định chối phắt đi.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tình bạn từ lúc còn thơ (nguyên điển lấy từ thơ Lý Bạch)

[2] tức Chaghan Temur. Đặc Mục Nhĩ như vậy là một danh tướng gốc Tân Cương (Uighur), vốn là một địa chủ có công dẹp được cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo ở đất Hoài trở thành một người có thế lực chính trị và quân sự. Đời Nguyên, địa chủ có quyền tuyển mộ, huấn luyện và chỉ huy dân quân riêng để chống nhau với những thế lực tôn giáo và các cuộc nổi dậy (xem thêm Cuộc Khởi Nghĩa của nhà Minh của dịch giả)

[3] Chú thích của Kim Dung: Theo Tân Nguyên Sử, quyển thứ hai trăm hai mươi "Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi truyện" chép: Ông tổ bốn đời Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là A Lỗ Ôn, sống ở Hà Nam, đất Tần Châu, Trẩm Khâu, sau đổi qua họ Lý. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ (Koko Temur) tuy là thế tử nhưng thực ra là cháu gọi bằng cậu của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, kế vị ông khi Sát Hãn bị ám sát năm 1362. Tiểu tiết này tác giả Kim Dung cố tình bỏ qua.

[4] Tức Khwraozm (hay Khuwraizm, Khwraezm, Khwraizm) là một nước Hồi giáo ở gần Ba Tư bị Thành Cát Tư Hãn chinh phục hồi thế kỷ thứ 13.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG

Tháp cao trăm thước ai người đỡ,

Thù oán bao đời một phút tan.

Tưởng nguy nhưng lại hóa an,

Lục đại môn phái chịu ơn muôn đời.

Phạm Dao bị Triệu Mẫn nắm tay dẫn đi thẳng ra khỏi chùa Vạn An, trong bụng vừa bồn chồn, vừa ngạc nhiên, không biết nàng ta đưa mình đi đâu. Triệu Mẫn đội thêm một cái nón lá để che mái tóc dài, thản nhiên nói:

- Khổ đại sư, mình đi gặp tên tiểu tử Trương Vô Kỵ.

Phạm Dao kinh hoảng, liếc mắt nhìn cô ta thấy mắt nàng long lanh, má ửng hồng bảy phần thẹn thùng, ba phần hoan hỉ xem ra không phải đã khám phá ra chân tướng của y. Khổ đầu đà thấy an tâm, nhớ lại tình cảnh đêm trước ở chùa Vạn An Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai kẻ oan gia đối đầu gặp nhau. Y vừa nghĩ đến hai chữ "oan gia", đột nhiên trong lòng nảy sinh một câu hỏi: "Oan gia ư? Hay là quận chúa có tình ý gì với Trương giáo chủ chăng?". Y nghĩ tiếp: "Nàng ta sao không gọi Huyền Minh nhị lão là kẻ thân tín hơn mà lại bảo mình đi theo? Đúng rồi, chỉ vì mình câm không nói được nên sẽ không tiết lộ bí mật của cô ta". Y bèn gật gù, nở một nụ cười kỳ bí.

Triệu Mẫn làm mặt giận nói:

- Ông cười gì thế?

Phạm Dao biết rằng chớ nên đùa với nàng, bèn hoa chân múa tay ra hiệu, ý nói khổ đầu đà sẽ hết sức bảo vệ cho quận chúa chu toàn, dù phải vào đầm rồng hang hổ cũng nhất quyết đi theo.

Triệu Mẫn không nói gì thêm, đi trước dẫn đường, không bao lâu đã đến trước cửa khách điếm nơi Trương Vô Kỵ đang trú ngụ. Phạm Dao ngầm kinh hãi: "Quận chúa quả thật thần thông quảng đại, mới đây đã tìm ra ngay chỗ giáo chủ đang ở". Y liền đi theo Triệu Mẫn vào trong khách điếm.

Triệu Mẫn hỏi chưởng quĩ:

- Chúng tôi muốn tìm khách quan họ Tăng.

Thì ra Trương Vô Kỵ khi đến ở trọ lại dùng cái tên giả "Tăng A Ngưu", điếm tiểu nhị liền đi vào thông báo.

Trương Vô Kỵ đang đả tọa dưỡng thần, chỉ chờ chùa Vạn An lửa bốc lên là chạy đến tiếp ứng, bỗng nghe có người đến thăm không khỏi ngạc nhiên, ra đến khách đường thấy Triệu Mẫn và Phạm Dao, kêu thầm: "Hỏng rồi, chắc là Triệu cô nương khám phá ra chân tướng của Phạm hữu sứ nên đem y tới đây nói phải quấy với mình chăng?". Chàng đành tiến lên vái chào, hỏi:

- Không biết có Triệu cô nương giá lâm nên thất lễ nghinh tiếp.

Triệu Mẫn nói:

- Nơi đây nói chuyện không tiện, mình đi tìm một quán rượu nhỏ uống với nhau ba chén, có được chăng?

Trương Vô Kỵ đành trả lời:

- Hay lắm.

Triệu Mẫn lại đi trước dẫn đường đi đến một quán rượu nhỏ cách khách điếm chừng năm dãy phố. Trong quán bày biện sơ sài vài cái bàn, trên mỗi bàn để một ống đũa gỗ. Lúc ấy trời đã khuya, trong quán chẳng còn người khách nào. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người ngồi đối diện nhau, Phạm Dao ra hiệu mình ra ngoài ngồi uống rượu. Triệu Mẫn gật đầu, sai điếm tiểu nhị đem lên một cái bếp than và ba cân thịt dê sống, thêm hai cân rượu trắng.

Trương Vô Kỵ trong bụng đầy ngờ vực, nghĩ thầm nàng là một quận chúa cao quí như thế, sao lại mời mình đến một cái nhỏ bé tồi tàn dơ dáy như thế này ngồi uống rượu là sao, không biết sắp xếp kế mưu gì. Triệu Mẫn rót ra hai chén rượu, cầm chén của Trương Vô Kỵ lên, nhấp một ngụm, cười nói:

- Trong rượu này không có bỏ thuốc độc đâu, công tử cứ yên tâm uống đừng ngại.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Cô nương gọi tôi đến đây, không biết có chuyện gì dạy bảo?

Triệu Mẫn nói:

- Uống xong ba chén đã rồi mình hãy nói vào chuyện chính. Tôi cạn chén trước mời công tử.

Nói xong nàng nâng ly một hơi cạn sạch. Trương Vô Kỵ cầm chén lên, dưới ánh lửa bập bùng thấy miệng chén còn lưu lại mờ mờ một vết son môi, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, không biết hương thơm đó từ vết son trên chén hay từ người nàng tỏa ra, lòng không khỏi lâng lâng, vội uống cạn. Triệu Mẫn nói:

- Mình uống thêm hai chén nữa. Tôi biết anh chưa hết nghi ngại nên mỗi chén tôi uống trước một ngụm.

Trương Vô Kỵ biết nàng ngụy kế đa đoan, việc gì cũng nên đề phòng, may là nàng nhắp trước như thế, mình đỡ phải mạo hiểm nên liên tiếp uống cạn ba ly rượu nàng uống dở dang, trong bụng không thấy có gì khác lạ, ngửng lên thấy nàng tủm tỉm cười, hơi rượu khiến nàng hồng hồng đôi má, thật kiều diễm không sao tả xiết. Trương Vô Kỵ không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Trương công tử, anh có biết tôi là ai không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu. Triệu Mẫn nói:

- Hôm nay tôi nói cho anh biết, cha tôi là Nhữ Dương Vương hiện đang chấp chưởng binh mã đại quyền đương triều. Tôi là gái Mông Cổ, tên thực là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Hoàng thượng phong cho tôi làm Thiệu Mẫn quận chúa. Hai chữ Triệu Mẫn là tên Hán tôi tự đặt cho tôi đó.

Nếu như Phạm Dao không nói qua rồi, Trương Vô Kỵ lúc này ắt không khỏi hết sức lạ lùng, nhưng thấy nàng không dấu diếm gì đem thân phận nói cho mình hay cũng thật ngoài dự liệu, có điều chàng không khéo giả vờ nên không làm ra vẻ ngạc nhiên.

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Sao? Anh biết trước rồi ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, làm sao tôi biết được? Thế nhưng tôi thấy một cô gái trẻ tuổi như thế vậy mà có thể sai khiến bao nhiêu là cao thủ võ lâm, thân phận ắt không phải là tầm thường.

Triệu Mẫn xoay xoay nghịch cái chén, một hồi lâu không nói gì, lại cầm bầu rượu lên rót thêm hai chén nữa, chậm rãi nói tiếp:

- Trương công tử, tôi hỏi anh một câu nhé, anh cứ thực lòng mà trả lời tôi. Nếu như tôi đem Chu cô nương giết đi, anh sẽ đối với tôi thế nào?

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi, hỏi lại:

- Chu cô nương có đắc tội gì với cô đâu, sao bỗng dưng lại giết cô ta là sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Người nào tôi không thích là tôi muốn giết, chứ đâu phải cứ đắc tội với tôi tôi mới giết đâu? Có người thì đắc tội với tôi nhiều lần, tôi lại để yên không giết, chẳng hạn như anh, đắc tội với tôi mấy lần rồi thì sao?

Nàng nói tới đây, ánh mắt long lanh ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Triệu cô nương, tôi đắc tội với cô âu cũng là chuyện bất đắc dĩ. Thế nhưng cô đã tặng cho tôi thuốc để chữa bệnh cho tam sư bá, lục sư thúc tôi, lòng tôi thật là cảm kích.

Triệu Mẫn cười nói:

- Anh nói câu đó có phần dở hơi. Du Đại Nham và Ân Lê Đình bị thương đều do thuộc hạ của tôi gây ra, anh chẳng trách thì thôi, sao lại cảm ơn là sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tam sư bá của tôi bị thương đã ngoài hai mươi năm, khi đó cô chưa ra đời.

Triệu Mẫn nói:

- Thì do bộ thuộc của cha tôi cũng có khác gì là bộ thuộc của tôi? Anh đừng nói lảng qua chuyện khác: tôi hỏi anh, nếu như tôi giết Chu cô nương, anh sẽ đối với tôi như thế nào? Anh có định giết tôi báo thù cho cô ta không?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Tôi cũng không biết nữa.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao lại không biết? Anh không chịu nói, có phải không nào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cha mẹ tôi bị người ta bức tử. Bức tử cha mẹ tôi là phái Thiếu Lâm, phái Hoa Sơn, phái Không Động. Sau này khi tôi lớn lên, thấy mọi việc rõ ràng hơn nhiều, nhưng càng suy nghĩ lại càng chẳng hiểu, thực sự ai là người hại cha mẹ tôi? Không thể nói là Không Trí đại sư, Thiết Cầm tiên sinh những người đó được; cũng không thể bảo là ông ngoại tôi hay cậu tôi; thậm chí cũng không thể nói là những thủ hạ của cô như "A Nhị", "A Tam" hay Huyền Minh nhị lão. Cái lý do nào trời xui đất khiến ra thế, biết bao nhiêu điều tôi không hiểu được. Dẫu như có những người là hung thủ thực chăng nữa, dù tôi có giết hết tất cả thì cũng để làm gì? Cha mẹ tôi có sống lại được đâu. Triệu cô nương, mấy hôm nay tôi chỉ nghĩ rằng nếu tất cả mọi người không giết lẫn nhau, sống hòa bình thân ái làm bạn của nhau chẳng hay hơn ư? Tôi không nghĩ đến chuyện báo thù giết người, cũng mong người khác cũng đừng hại ai giết ai.

Chàng nói một mạch những gì đã nghĩ trong lòng rất lâu, nhưng chưa hề nói cho Dương Tiêu hay, cũng chẳng nói cho Trương Tam Phong biết, cũng không nói cho Ân Lê Đình hay, bỗng nhiên nơi quán rượu nhỏ bé này lại nói cho Triệu Mẫn nghe, những lời đó nói ra rồi chính chàng cũng lấy làm lạ.

Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, suy nghĩ một lát nói:

- Đó là tại anh tâm địa nhân hậu, nếu phải tay tôi ư tôi sẽ làm tới nơi tới chốn. Nếu như ai làm hại cha tôi, anh tôi, tôi sẽ giết sạch cả nhà người đó, ngay cả thân thích bằng hữu, phàm người nào y quen biết, tôi sẽ giết sạch không còn một mống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Như thế tôi sẽ ngăn không cho cô làm.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Vì sao vậy? Anh về phe kẻ thù của tôi ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô giết một người, bản thân cô sẽ thêm một phần tội nghiệt. Người bị cô giết, chết đi ra sao thì không biết, cái đó cũng đã xong, thế nhưng còn cha mẹ con cái, vợ chồng anh em người ta đau lòng biết mấy? Về sau mỗi khi cô nghĩ lại, lương tâm cô sẽ không an. Nghĩa phụ tôi giết nhiều người lắm, tôi biết tuy ông không nói ra, nhưng trong lòng thật là hối hận.

Triệu Mẫn không nói, chỉ suy nghĩ về những điều Trương Vô Kỵ vừa nói ra. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Cô đã giết người bao giờ chưa?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Hiện tại thì chưa, tương lai khi tôi lớn rồi, muốn giết thật nhiều người. Tổ tiên tôi là Thành Cát Tư Hãn đại đế, là Đà Lôi, là Bạt Đô, là Húc Liệt Ngột, là Hốt Tất Liệt đều anh hùng. Tôi chỉ hận mình là con gái, nếu tôi là con trai ư, ha ha, thể nào cũng phải làm một đại sự nghiệp thật là oanh liệt.

Nàng rót thêm một chén rượu, tự mình uống cạn nói:

- Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như cô giết Chu cô nương, hoặc giả giết bất cứ một người thủ hạ thân cận nào của tôi, tôi sẽ không coi cô là bạn tôi nữa. Tôi sẽ vĩnh viễn không gặp lại cô, nếu có gặp cũng không nói chuyện.

Triệu Mẫn cười:

- Thế ra hiện tại anh coi tôi là bạn của anh ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu như trong lòng tôi thù ghét cô, tôi đâu có ngồi uống rượu với cô như thế này. Ôi, tôi chỉ thấy thù ghét một người quả là khó. Tôi bình sinh chỉ ghét một mình Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, thế nhưng nay y cũng chết rồi, tôi lại thấy thương y, dường như muốn y đừng chết.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như ngày mai tôi chết đi, trong lòng anh sẽ nghĩ sao? Trong bụng anh thể nào chẳng nói: tạ trời tạ đất, con bé điêu ngoa hung ác đại đối đầu kia chết rồi, từ nay ta bớt đi được bao nhiêu là phiền muộn.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Không, không đâu. Tôi không mong cô chết đâu, hoàn toàn không bao giờ. Vi Bức Vương dọa cô, đòi sẽ rạch mặt cô mấy vết dao, từ đó đến nay tôi nghĩ đi nghĩ lại thật là lo cho cô.

Triệu Mẫn nở một nụ cười, đôi má đỏ lên liền cúi đầu xuống. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, cô đừng làm khó chúng tôi nữa, thả hết các cao thủ của lục đại môn phái ra đi, tất cả vui vẻ làm bạn với nhau, chẳng hay lắm sao?

Triệu Mẫn vui mừng nói:

- Hay lắm, chính tôi cũng chỉ muốn như thế. Anh là giáo chủ Minh giáo, một lời nặng như chín cái đỉnh, anh đến nói tất cả qui hàng triều đình. Cha tôi sẽ tâu lên hoàng thượng phong thưởng cho mọi người.

Trương Vô Kỵ chầm chậm lắc đầu nói:

- Người Hán chúng tôi ai ai cũng có một tâm nguyện, muốn người Mông Cổ rút ra khỏi đất của người Hán.

Triệu Mẫn đứng phắt dậy, nói:

- Cái gì? Sao anh dám nói những lời phạm thượng tác loạn như thế, chẳng phải là công nhiên phản loạn hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi vốn dĩ là kẻ phản loạn, không lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?

Triệu Mẫn nhìn chàng hồi lâu, nét phẫn nộ và kinh ngạc trên mặt dầu dần dịu xuống, trở lại thật ôn nhu, nhưng cũng thật thất vọng, sau cùng ngồi lại xuống ghế nói:

- Tôi cũng sớm biết thế rồi, nhưng bây giờ chính miệng anh nói ra, tôi mới thật là tin hẳn, không còn làm sao hơn được nữa.

Mấy câu đó nàng nói ra nghe thật là đau đớn. Trương Vô Kỵ lòng chùng hẳn đi, dường như không còn chịu nổi cảnh thấy nàng đau lòng như muốn buột miệng nói ra: "Thôi tôi bằng lòng nghe lời cô vậy". Thế nhưng ý nghĩ đó vừa lóe lên là tắt ngay, cố hết sức nhưng không biết nói thế nào để an ủi nàng.

Hai người lặng yên ngồi đối diện nhau một lúc. Trương Vô Kỵ nói:

- Triệu cô nương, đêm đã khuya rồi, để tôi đưa cô về nhé!

Triệu Mẫn nói:

- Đến ngồi thêm với tôi một chút anh cũng không muốn hay sao?

Trương Vô Kỵ vội vàng đáp:

- Không đâu, nếu cô thích ngồi đây uống rượu nói chuyện, tôi sẽ ngồi với cô.

Triệu Mẫn mỉm cười, chậm rãi nói:

- Có lúc tôi nghĩ rằng giá như tôi không phải là gái Mông Cổ, cũng chẳng phải là quận chúa, chỉ là một người như Chu cô nương, là một cô gái người Hán con nhà bình thường, chắc anh sẽ tử tế với tôi hơn. Trương công tử, anh bảo tôi và Chu cô nương ai đẹp hơn?

Trương Vô Kỵ đâu ngờ nàng lại hỏi câu đó, nghĩ thầm con gái phiên bang tính tình sảng trực, không biết môi miếng, dưới ánh đèn thấp thoáng, thấy nàng kiều diễm bội phần, buột miệng nói luôn:

- Dĩ nhiên là cô đẹp.

Triệu Mẫn giơ tay ra đặt lên tay chàng, ánh mắt đầy vẻ vui mừng nói:

- Trương công tử, anh thích hay không thích gặp tôi? Nếu tôi thỉnh thoảng rủ anh ra đây uống rượu, anh có đi không?

Bàn tay Trương Vô Kỵ bị lòng bàn tay mềm mại của nàng đè vào, tim đập thình thình, cố gắng định thần rồi nói:

- Tôi ở lại đây không lâu, chỉ độ vài ngày sẽ xuôi nam.

Triệu Mẫn hỏi:

- Anh về phương nam làm gì?

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

- Tôi chẳng nói thì cô cũng đoán ra được, nhưng nói ra thì cô sẽ nổi giận...

Triệu Mẫn nhìn ra vầng trăng ngoài song cửa, bỗng nói:

- Anh bằng lòng làm cho tôi ba việc, chưa quên chứ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Dĩ nhiên là không quên. Xin cô nương cứ việc sai bảo, tôi sẽ tận lực mà làm.

Triệu Mẫn quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Bây giờ tôi chỉ mới nghĩ ra một việc thứ nhất. Tôi muốn anh đi với tôi để lấy thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ vốn đã đoán trước, ba việc nàng ta bảo mình làm thể nào cũng rất khó nhưng không ngờ việc đầu tiên là một nạn đề tày trời đến thế. Triệu Mẫn thấy chàng đầy vẻ nghi ngại, nói:

- Làm sao? Anh không chịu à? Chuyện này đâu có đi ngược lại đạo hiệp nghĩa, cũng không phải không thể làm được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đao Đồ Long nằm trong tay nghĩa phụ ta, trên giang hồ ai cũng biết rồi, không thể nào nói dối nàng". Chàng bèn nói:

- Đao Đồ Long là của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp. Tôi làm sao có thể phản bội cha nuôi, lấy đao đó cho cô được?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi đâu có bảo anh đến ăn trộm ăn cướp, đánh lừa hay sang đoạt, tôi không phải thực sự muốn có thanh đao này. Tôi chỉ muốn anh đến mượn nghĩa phụ anh, cho tôi nghịch chơi một giờ thôi, sau đó sẽ trả lại ngay. Hai người là cha nuôi, con nuôi, chẳng lẽ mượn một giờ mà không được hay sao? Chỉ mượn xem đâu có phải là lấy luôn, cũng chẳng phải dùng nó đi cướp của giết người, không lẽ cũng đi ngược lại đạo hiệp nghĩa ư?

Trương Vô Kỵ nói:

- Thanh đao đó tuy danh tiếng vang động võ lâm, thực ra có đẹp đẽ gì đâu, chỉ thật là nặng nề, và rất sắc bén thôi.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy sao người ta nói "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?" Ỷ Thiên kiếm nay ở trong tay tôi rồi, tôi muốn xem thử thanh đao Đồ Long như thế nào. Nếu anh không yên tâm, khi tôi xem thanh đao, anh đứng ngay bên cạnh. Với bản lãnh của anh, tôi đâu có thể cưỡng chiếm không trả lại được.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Cứu được sáu đại môn phái ra rồi, ta vốn định bụng sẽ đi đón nghĩa phụ ngay để mời lão nhân gia giữ chức vụ giáo chủ. Triệu cô nương đã nói là chỉ mượn xem một giờ, tuy không biết chắc nàng ta có ngụy kế gì hay không, nhưng mình hết sức đề phòng, không để cho nàng ta đoạt thanh đao. Có điều nghĩa phụ nói rằng trong thanh đao Đồ Long có bí mật dấu một pho võ công tuyệt học. Khi nghĩa phụ chưa mù đã lấy được thanh bảo đao, thông minh tài nhứ như ông mà vẫn không nghĩ ra được, Triệu cô nương chỉ một giờ đồng hồ thì làm được gì? Huống chi ta và nghĩa phụ xa nhau đã mười năm, ông ta một mình trên hoang đảo đã tìm ra được bí mật trong thanh đao không chừng".

Triệu Mẫn thấy chàng trầm ngâm không trả lời, cười nói:

- Nếu anh không chịu, cũng tùy anh thôi. Tôi sẽ nhờ anh làm một việc khác còn khó hơn thế nhiều.

Trương Vô Kỵ biết cô gái này cực kỳ điêu ngoa giảo hoạt, nếu quả đưa ra một nạn đề e rằng mình sẽ không làm nổi, vội nói:

- Được rồi, tôi bằng lòng đi mượn thanh đao Đồ Long cho cô. Thế nhưng mình nói trước với nhau, cô chỉ được mượn xem một giờ thôi, nếu như có ý chiếm đoạt, tôi không để yên đâu đấy nhé.

Triệu Mẫn cười nói:

- Đúng thế. Tôi không biết sử đao, nặng chình chịch thế tôi lấy làm gì? Dù anh có cung kính hai tay đưa lên cho tôi, tôi cũng chẳng thèm. Vậy bao giờ thì anh khởi hành?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Độ vài ngày nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì càng tốt. Để tôi đi thu xếp, chừng nào anh đi thì đến hẹn trước với tôi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:

- Cô cũng đi nữa ư?

Triệu Mẫn nói:

- Đương nhiên là thế. Nghe nói nghĩa phụ anh ở trên một hòn đảo hoang ở ngoài biển, lỡ như ông ta không chịu về, không lẽ anh đường xa vạn dặm tít mù mượn thanh đao về đây cho tôi xem một giờ rồi lại quay lại trả? Trên đời này có ai lại làm thế bao giờ.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến sóng to gió cả nơi biển bắc, biển cả mênh mông, tìm cho ra được Băng Hỏa đảo quả thật khó khăn vô cùng, nếu như đi đi về về ba lần chẳng đâu vào đâu, thật không cách gì làm nổi. Cô ta nói quả không sai, nghĩa phụ ở nơi hoang đảo đã hai chục năm, chưa chắc đã muốn sống những ngày tàn của cuộc đời nơi Trung Thổ. Chàng bèn nói:

- Trên biển cả sóng gió vô tình, cô phải mạo hiểm như thế làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh mạo hiểm được, sao tôi lại không được?

Trương Vô Kỵ chần chừ nói:

- Liệu cha cô có chịu cho cô đi không?

Triệu Mẫn nói:

- Gia gia bảo tôi thống suất quần hào giang hồ, mấy năm nay tôi chạy đông chạy tây, cha tôi không ngó ngàng gì đến cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói "Cha tôi bảo tôi thống suất quần hào giang hồ", trong bụng chột dạ: "Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh tiếp nghĩa phụ, không biết năm nào tháng nào mới quay về. Nếu như đây là kế điệu hổ ly sơn của cô ta, nhân dịp mình không có nơi đây đem đại binh đối phó với bản giáo thì sao. Mình không thể không đề phòng, nếu như nàng ta đi chung, thủ hạ của cô ta có điều cấm kỵ, cũng đỡ lo phần nào". Nghĩ vậy bèn gật đầu:

- Thế thì được, khi nào tôi ra đi sẽ đến hẹn với cô.

Câu nói chưa dứt, đột nhiên bên ngoài cửa sổ đỏ rực, tiếng người reo hò từ nơi xa xa truyền đến. Triệu Mẫn chạy lại cửa sổ nhìn ra, kinh hoảng kêu lên:

- Ối chao, bảo tháp của chùa Vạn An bị cháy rồi. Khổ đại sư, khổ đại sư, lại đây mau.

Nàng gọi luôn mấy tiếng, không thấy khổ đầu đà đâu vội chạy ra ngoài cũng chẳng thấy tăm hơi Phạm Dao đâu cả, hỏi chưởng quĩ thì y nói rằng vị đầu đà vừa đến là đi ngay, xem ra cũng đã lâu rồi. Triệu Mẫn cực kỳ lạ lùng, nghĩ đến hồi tối y nở một nụ cười bí hiểm, đôi má không khỏi đỏ bừng, cúi đầu quay lại liếc Trương Vô Kỵ một cái.

Trương Vô Kỵ thấy lửa bốc mỗi lúc một cao, sợ rằng đại sư bá các người công lực chưa khôi phục, bị chết cháy ở trên tháp nên nói:

- Triệu cô nương, xin lỗi tôi phải đi đây.

Nói chưa dứt câu, chàng đã vội vàng chạy ra. Triệu Mẫn gọi:

- Chờ chút nào, để tôi đi với anh.

Thế nhưng khi nàng ra đến cửa thì Trương Vô Kỵ đã chạy đâu mất rồi.

*

* *

Lộc Trượng Khách thấy khổ đầu đà bị quận chúa gọi đi, cảm thấy yên tâm lập tức cõng Hàn cơ đi đến phòng của đệ tử Ô Vượng A Phổ. Bảo tháp chùa Vạn An cả thảy mười ba tầng, cao mười ba trượng. Ba tầng trên cùng để thờ Phật, chứa kinh và xá lợi không ai được ở. Ô Vượng A Phổ là tổng quản trông coi bảo tháp, y ở tầng thứ mười cho tiện việc nhòm ngó chung quanh, khống chế toàn cục.

Lộc Trượng Khách vào trong phòng rồi nói với Ô Vượng A Phổ:

- Ngươi đứng canh ở bên ngoài, không cho ai vào.

Ô Vượng A Phổ vừa ra khỏi cửa, y lập tức đóng chặt cửa phòng, cởi cái bọc cho Hàn cơ ra. Chỉ thấy nàng sợ hãi đến mặt hoa tái mét, ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn. Lộc Trượng Khách ôn tồn nói:

- Cô đã đến nơi đây, không có gì phải sợ cả, tôi sẽ đối đãi tử tế.

Y chưa tiện giải huyệt cho nàng ta, sợ cô ta kêu lên thì hỏng việc, nên đặt nàng nằm trên giường Ô Vượng A Phổ, lấy chăn đắp lên, lại lấy thêm một cái mền chèn ở bên cạnh. Nơi Hàn cơ đang ở đây không phải là nơi có thể sàm sỡ được nên y không dám ở lâu, vội vàng ra khỏi phòng dặn Ô Vượng A Phổ không được vào, cũng không được cho ai vào. Y biết tên đại đệ tử này vừa kính vừa sợ mình, quyết không dám trái lời.

Y tính thầm trong bụng: "Việc này nếu muốn cho khổ đầu đà giữ bí mật cho mình, không thể không mua lòng y, chi bằng mình đi thả mụ tình nhân và con gái y ra trước. Cũng may đêm qua giáo chủ ma giáo đến quấy phá, mọi việc lại chính ngay từ Chu cô nương mà ra, mình cứ đổ cho giáo chủ ma giáo cứu Diệt Tuyệt lão ni và Chu cô nương đi, thế là ổn thỏa, quận chúa chắc sẽ không nghi ngờ gì. Tên tiểu ma đầu võ công cao cường như thế, quận chúa sẽ không thể trách mình phòng bị không kỹ càng được".

Các nữ đệ tử phái Nga Mi bị giam ở tầng thứ bảy, riêng Diệt Tuyệt sư thái là địa vị chưởng môn, bị giam một mình tại một căn phòng nhỏ. Lộc Trượng Khách bảo người cai ngục mở cửa cho y vào, thấy Diệt Tuyệt sư thái ngồi xếp bằng trên nền, nhắm mắt tĩnh tu. Bà ta đã tuyệt thực mấy ngày nay, dung nhan tuy có đôi chút tiều tụy nhưng lại đầy vẻ ngạo nghễ ngang tàng.

Lộc Trượng Khách nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, khỏe chứ?

Diệt Tuyệt sư thái từ từ mở mắt ra nói:

- Ở nơi đây là đã không khỏe, còn gì phải hỏi?

Lộc Trượng Khách nói:

- Bà ương ngạnh như thế, chủ nhân nói là có để thêm cũng vô dụng nên sai ta đến đưa bà về Tây phương đây.

Diệt Tuyệt sư thái đã quyết chí chọn cái chết bèn nói:

- Hay lắm, không cần phải mất công các hạ động thủ, cho ta mượn một thanh đoản kiếm, để ta lo lấy cũng xong. Xin các hạ gọi đứa học trò Chu Chỉ Nhược của ta lại đây, ta có vài lời trối trăn với nó.

Lộc Trượng Khách quay mình đi ra, sai người dẫn Chu Chỉ Nhược đến, nghĩ thầm: "Hai người mẹ con quả nhiên cũng khác, sao không gọi đại đệ tử đến mà lại chỉ gọi cô ta". Chẳng mấy chốc Chu Chỉ Nhược đã đến phòng sư phụ, Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Lộc tiên sinh, xin ông ra ngoài chờ, ta chỉ nói vài câu là xong.

Chu Chỉ Nhược đợi Lộc Trượng Khách ra khỏi, khép cửa lại, sà vào lòng sư phụ khóc tấm tức. Diệt Tuyệt sư thái vốn tính tình cứng rắn nhưng lúc sinh ly tử biệt này không khỏi thương cảm, nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc nàng.

Chu Chỉ Nhược biết rằng không có thì giờ nói chuyện lâu với sư phụ, liền đem chuyện đêm hôm qua Trương Vô Kỵ đến cứu nàng như thế nào kể lại cho sư phụ nghe. Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày, trầm ngâm một hồi nói:

- Tại sao y lại chỉ cứu mình con mà không cứu những người khác? Hôm đó con đâm y một kiếm trên Quang Minh Đính, sao y lại trở ngược cứu con là sao?

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:

- Con cũng không biết nữa.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:

- Hừ, tên tiểu tử đó cực kỳ âm hiểm ác độc, y là đại ma đầu của ma giáo, làm gì có lòng tốt bao giờ. Y chính là sắp xếp một cái bẫy để cho con chui đầu vào đó.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Y... y sắp xếp để đưa con vào bẫy ư?

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chúng ta là tử đối đầu của ma giáo, dưới kiếm Ỷ Thiên của ta không biết bao nhiêu tà ác gian đồ của ma giáo bị bỏ mạng. Lẽ dĩ nhiên ma giáo hận phái Nga Mi thấu xương, sao lại quay ra cứu mình là sao? Tên ma đầu họ Trương kia hẳn là thích con, muốn con bị sa vào vòng tay y nên y sai người giả vờ bắt bọn mình, sau đó cố ý lấy lòng, giả vờ cứu con ra, để con từ nay hết lòng hết dạ nhớ ơn y.

Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:

- Sư phụ, con xem ra y... y không phải giả đâu.

Diệt Tuyệt sư thái giận quá, quát lên:

- Ngươi lại định đi theo vết của đứa không ra gì Kỷ Hiểu Phù kia hay sao mà lại phải lòng một dâm đồ của ma giáo? Nếu ta công lực không mất, một chưởng đánh chết ngươi là xong.

Chu Chỉ Nhược sợ đến toàn thân run rẩy, nói:

- Đồ nhi không dám thế.

Diệt Tuyệt sư thái gay gắt nói:

- Ngươi quả thực không dám hay lại chỉ mồm mép xuông, đánh lừa sư phụ?

Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:

- Đồ nhi quyết không dám trái lời dạy dỗ của ân sư.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con quì xuống lập một trọng thệ xem nào.

Chu Chỉ Nhược y lời, quì xuống không biết nói sao cho phải. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Con nói như thế này: tiểu nữ là Chu Chỉ Nhược xin thề cùng trời đất, nếu như sau này có lòng ái mộ tên dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của ma giáo, kết thành vợ chồng cùng y, cha mẹ con chết nằm dưới đất xương cốt không yên, sư phụ con Diệt Tuyệt sư thái sẽ thành ma quỉ khiến cho con một đời ngày đêm không ổn, nếu như con sau này sinh con đẻ cái với y, con trai thì đời đời làm đầy tớ, con gái thì đời đời làm gái lầu xanh.

Chu Chỉ Nhược giật mình hoảng sợ, nàng bản tính nhu hòa ôn thuận, chưa bao giờ nghĩ đến chuyện thề một câu độc địa đến thế, không những rủa xả cả đến cha mẹ đã chết rồi, lại rủa xả đến cả sư phụ, luôn cả lời nguyền lây đến con cái mình nhưng thấy sư phụ mắt trừng trừng, hầm hầm nhìn thẳng vào mặt nàng, không khỏi mắt hoa đầu váng, liền y theo lời thầy nói đọc lại một lần.

Diệt Tuyệt sư thái thấy nàng thề độc như thế gương mặt liền dịu lại, ôn tồn nói:

- Ngoan lắm, thôi con đứng lên đi.

Chu Chỉ Nhược nước mắt lã chã tuôn rơi, uể oải đứng lên. Diệt Tuyệt sư thái mặt trầm xuống nói:

- Chỉ Nhược, ta không phải cố ý ép buộc con đâu, chỉ vì muốn tốt lành cho con đấy thôi. Con chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi, từ rày sư phụ đâu có còn để lo cho con nữa, nếu như con lại sa vào bước chân của Kỷ sư tỉ, sư phụ ở dưới cửu tuyền cũng không được an tâm. Huống chi sư phụ muốn con đảm trách trọng nhiệm hưng phục bản phái, không thể lầm lỡ chút nào được.

Nói đến đây bà tháo chiếc nhẫn sắt ở ngón tay vô danh nơi bàn tay trái ra, đứng thẳng dậy nói:

- Nữ đệ tử của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược quì xuống nghe dụ.

Chu Chỉ Nhược ngạc nhiên, lập tức quì xuống. Diệt Tuyệt sư thái giơ chiếc nhẫn lên cao khỏi đỉnh đầu, nói tiếp:

- Chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi nữ ni Diệt Tuyệt, kính cẩn truyền chức chưởng môn bản phái cho chưởng môn đời thứ tư Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược bị sư phụ ép phải thề độc, đầu óc hỗn loạn bỗng nghe sư phụ truyền chức chưởng môn bản phái cho mình, lại càng hoang mang ngơ ngẩn, kinh hãi đến thừ người ra. Diệt Tuyệt sư thái lại từng tiếng một nói thật rõ ràng:

- Chu Chỉ Nhược, đưa tay trái ra phụng tiếp thiết chỉ hoàn chưởng môn của bản phái.

Chu Chỉ Nhược hoảng hốt giơ tay ra, Diệt Tuyệt sư thái liền đeo chiếc nhẫn vào ngón tay áp út cho nàng. Chu Chỉ Nhược run rẩy nói:

- Sư phụ, đệ tử tuổi trẻ, nhập môn cũng chưa lâu làm sao có thể đảm đương việc lớn được? Lão nhân gia thể nào cũng thoát khỏi cảnh khốn cùng, mà nếu có không ra được thì đệ tử cũng không thể...

Nói đến đây, nàng ôm hai đầu gối sư phụ, khóc òa lên.

Lộc Trượng Khách ở bên ngoài đợi lâu đã thấy khó chịu, nghe tiếng khóc liền đẩy cửa nhìn vào nói:

- Này, hai người nói chuyện xong chưa? Ngày sau còn dài nói lúc nào chẳng được?

Diệt Tuyệt sư thái quát:

- Ngươi léo nhéo cái gì?

Nói xong quay lại Chu Chỉ Nhược:

- Mệnh lệnh sư tôn, con dám trái lời sao?

Nói xong đem giới luật của chưởng môn bản phái nói hết một lượt bắt nàng phải nhớ nằm lòng. Chu Chỉ Nhược thấy trong cách nói của sư phụ như có vẻ trối trăn lời sau cùng, lại càng kinh sợ nói:

- Đệ tử không muốn, đệ tử không đủ tài...

Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng nói:

- Ngươi không nghe lời ta, vậy là kẻ khi sư diệt tổ rồi.

Bà thấy Chu Chỉ Nhược nem nép thật tội nghiệp, nghĩ đến chính mình còn thấy là quá to lớn, nay đem gánh nặng trút lên vai đưa học trò nhu thuận yếu đuối này, e rằng nàng không sao làm nổi. Thế nhưng trong các đệ tử của phái Nga Mi chỉ có nàng ngộ tính cao hơn cả, muốn tu tập võ công tối cao, làm rạng rỡ cho môn phái, ngoại trừ nàng ra không một người thứ hai nào thích hợp. Bà nghĩ đến rồi đây con đường đằng đẵng, biết bao gian lao khổ sở đang đón chờ đứa học trò nhỏ bé này, trong lòng không khỏi se lại, giơ tay đỡ nàng lên, ôm vào trong lòng ôn tồn vỗ về:

- Chỉ Nhược, ta sở dĩ đem chức vụ chưởng môn truyền cho con mà không truyền cho các sư tỉ, không phải vì sư phụ thiên vị, chỉ vì phái Nga Mi nữ lưu làm chủ, chưởng môn ắt phải võ công trác tuyệt để có thể đứng vững trước quần hùng trong võ lâm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Võ công của đệ tử làm sao sánh được với các vị sư tỉ?

Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười nói:

- Bọn nó thành công chỉ có hạn, đến mức như hiện nay, không còn tiến thêm bao nhiêu, đó là do thiên tư mà có chứ chẳng phải ý muốn con người. Con hiện nay tuy không bằng các sư tỉ của con, nhưng sau này không biết đâu mà kể. Ôi, không biết đâu mà kể, không biết đâu mà kể, cũng vì ở những chữ ấy.

Chu Chỉ Nhược thần sắc hoang mang, nhìn sư phụ không hiểu ý bà muốn nói gì. Diệt Tuyệt sư thái ghé miệng vào tai nàng nói nhỏ:

- Con đã là chưởng môn của bản phái rồi, ta đem một đại bí mật của môn phái kể cho con nghe.

Tổ sư khai sáng ra môn phái Quách nữ hiệp, vốn là con gái út của đại hiệp Quách Tĩnh. Năm xưa Quách đại hiệp danh chấn thiên hạ, trong đời có hai môn tuyệt nghệ, một là binh pháp hành quân chiến đấu, hai là võ công. Quách phu nhân Hoàng Dung nữ hiệp cực kỳ thông minh cơ trí, bà thấy thế của quân Nguyên quá lớn, thành Tương Dương rồi cũng sẽ không giữ được, hai vợ chồng quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước, ấy là biết không làm được đành giữ tấm lòng son tận trung, nhưng nếu vì thế mà tuyệt nghệ của Quách đại hiệp bị thất truyền, không đáng tiếc lắm hay sao? Huống chi bà nghĩ người Mông Cổ dù nhất thời có chiếm được Trung Quốc, người Hán cũng không cam chịu làm nô lệ mãi mãi. Sau này huyết chiến đất trung nguyên, hai môn binh pháp và võ công kia thể nào chẳng có chỗ đại dụng. Vì thế bà gọi các thợ đúc lành nghề, lấy thanh huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá Dương đại hiệp tặng cho Quách tổ sư của bản phái nấu chảy ra, lại thêm thép ròng của người Tây phương đúc thành một thanh đao Đồ Long, một thanh Ỷ Thiên kiếm.

Chu Chỉ Nhược nghe tiếng hai thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đã lâu, bây giờ mới biết hai thanh đao kiếm này là do mẫu thân của tổ sư bản phái Quách Tương nữ hiệp đúc thành. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Trước khi đúc đao rèn kiếm, Hoàng nữ hiệp cùng Quách đại hiệp hai người để ra một tháng, chép hết võ công và binh pháp tinh yếu, chia ra dấu trong hai thanh đao và kiếm. Trong đao Đồ Long cất giữ binh pháp, cái tên Đồ Long ý muốn người sau học được binh thư trong đao có thể đuổi được Thát tử, giết được hoàng đế Mông Cổ. Còn trong kiếm Ỷ Thiên thì cất giữ võ học bí cấp, trong đó hai môn quí giá nhất gồm có một bộ Cửu Âm Chân Kinh và một bộ Hàng Long Thập Bát Chưởng chưởng pháp tinh nghĩa, hi vọng hậu nhân tập được võ công trong thanh kiếm, thế thiên hành đạo, vì dân trừ hại.

Chu Chỉ Nhược mở to đôi mắt, càng nghe càng thấy lạ lùng, lại nghe sư phụ kể:

- Vợ chồng Quách đại hiệp đúc đao kiếm xong, đem bảo đao giao cho con trai là Quách công Phá Lỗ, bảo kiếm giao cho Quách tổ sư bản phái. Lẽ dĩ nhiên Quách tổ sư đã từng được cha mẹ dạy võ công rồi, còn Quách công Phá Lỗ thì được truyền thụ binh pháp. Thế nhưng khi thành Tương Dương thất thủ, cả vợ chồng Quách đại hiệp lẫn Quách công Phá Lỗ đều tuẫn nạn. Quách tổ sư tính tình không hợp với võ công của cha, thành thử võ học bản phái không cùng đường với võ công của Quách đại hiệp khi trước.

Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Một trăm năm sau, trong võ lâm biết bao nhiêu sóng gió, đôi đao kiếm đó qua tay đổi chủ nhiều lần. Người sau chỉ biết đao Đồ Long là võ lâm chí tôn, chỉ có kiếm Ỷ Thiên mới đương cự nổi, thế nhưng vì sao mà tôn quí hơn hết thì không ai biết cả. Quách công Phá Lỗ tuẫn quốc từ khi còn thanh niên, không có truyền nhân, thành ra bí mật trong hai thanh đao kiếm chỉ một mình Quách tổ sư bản phái biết mà thôi. Lão nhân gia lúc sinh tiền từng hết tâm hết sức đi tìm thanh đao Đồ Long nhưng không thành công. Đến khi lìa trần mới đem bí mật đó truyền lại cho ân sư ta là Phong Lăng sư thái. Ân sư ta nhận di mệnh của tổ sư đi tìm thanh đao Đồ Long cũng không có kết quả. Lão nhân gia lúc viên tịch lại đem thanh kiếm và di mệnh của tổ sư truyền lại cho ta. Ta tiếp nhiệm chức vụ chưởng môn bản phái chưa lâu thì sư bá ngươi Cô Hồng Tử gây sự với một thanh niên cao thủ của ma giáo, hai bên ước định tỉ võ, một đánh một, không ai có người giúp đỡ. Sư bá ngươi biết đối thủ tuy tuổi còn trẻ, võ công lại rất ghê gớm, nên mới đến mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của ta.

Chu Chỉ Nhược nghe tới "thanh niên cao thủ trong ma giáo", trong bụng chột dạ, tự nhiên mặt đỏ lên, nhưng lại nghĩ ngay: "Không phải chàng đâu, e rằng khi đó chàng chưa ra đời nữa".

Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Khi đó ta muốn đi theo để trợ giúp nhưng sư bá ngươi là người hết sức tín nghĩa, nói rằng đã nói trước với ma đầu kia rằng không để cho người thứ ba nào tham dự thành thử kiên quyết không cho ta đi. Trận tỉ thí đó, sư bá ngươi võ công tuy không kém gì đối thủ nhưng gã ma đầu liên tiếp thi hành ngụy kế, sau cùng bị trúng một chưởng vào ngực, kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi vỏ thì đã bị ma đầu kia đoạt mất.

Chu Chỉ Nhược "A" lên một tiếng, nghĩ đến khi Trương Vô Kỵ đoạt kiếm từ tay Diệt Tuyệt sư thái lúc ở Quang Minh Đính, thì nghe sư phụ kể thêm:

- Gã ma đầu kia liên tiếp cười khẩy nói: "Kiếm Ỷ Thiên nghe danh ghê gớm thế nhưng dưới mắt ta có khác gì đồng nát sắt rỉ đâu". Nói xong y vứt toẹt thanh kiếm xuống đất rồi đi thẳng. Sư bá ngươi nhặt thanh kiếm lên, muốn quay lại núi trả cho ta. Ngờ đâu ông tâm cao khí ngạo, càng nghĩ càng tức không chịu nổi, chỉ mới đi được ba ngày thì ở trên đường ngã bệnh không dậy được, thanh kiếm Ỷ Thiên bị quan phủ lấy mất đem hiến cho triều đình. Con có biết tên ma đầu đã chọc tức sư bá Cô Hồng Tử đó là ai không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không...con không biết. Ai thế?

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Chính là kẻ sau này đã hại đời làm chết Kỷ Hiểu Phù sư tỉ con đại ma đầu Dương Tiêu đó.

Bỗng nghe Lộc Trượng Khách giơ tay gõ cửa nói:

- Xong chưa nào? Ta không đợi thêm được nữa đâu.

Diệt Tuyệt sư thái đáp:

- Không việc gì phải gấp, chỉ một lúc nữa là xong thôi.

Bà điềm nhiên nói với Chu Chỉ Nhược:

- Thời khắc không còn nhiều, ta không nói với con được bao nhiêu nữa. Thanh kiếm Ỷ Thiên sau đó hoàng đế Thát tử ban cho Nhữ Dương Vương, ta đến phủ Nhữ Dương Vương đoạt lại. Lần này bất hạnh thay trúng phải gian kế, thanh kiếm đó vào tay bọn ma giáo.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Không phải đâu, đó là bị cô nương họ Triệu kia đoạt mất đó.

Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn nàng, nói:

- Con bé họ Triệu rõ ràng cùng bọn với ma đầu của ma giáo, không lẽ giờ phút này, con vẫn chưa tin lời sư phụ hay sao?

Chu Chỉ Nhược quả thực khó mà tin như thế nhưng không dám cãi lại lời sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Sư phụ muốn con tiếp nhiệm chưởng môn cũng là có thâm ý. Ta kỳ này rơi vào tay bọn gian đồ, anh danh một đời trôi theo giòng nước, thực không còn muốn sống mà ra khỏi cái tháp này. Tên dâm đồ họ Trương kia có tà ý, ắt sẽ không hại tính mạng con, thành thử con có thể giả vờ khứng chịu, thừa cơ đoạt lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn thanh đao Đồ Long ở trong tay nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Tên tiểu tử đó dù cách nào cũng không thổ lộ chỗ ở của Tạ Tốn nhưng trên đời này chỉ một người có thể bảo y đi lấy thanh đao đó được thôi.

Chu Chỉ Nhược biết sư phụ nàng nói đây là nói về mình, vừa thẹn thùng vừa e ngại, vừa sợ hãi vừa vui mừng. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Người đó chính là con đó. Ta muốn con dùng sắc đẹp dụ y lấy được bảo đao bảo kiếm, việc đó quả không phải là đường lối của người hiệp nghĩa. Thế nhưng để thành được đại sự không thể nề tiểu tiết. Con thử nghĩ xem, thanh kiếm Ỷ Thiên nay ở trong tay con bé họ Triệu, còn đao Đồ Long ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, chúng nó cùng một phường tồi bại với nhau, nếu như một ngày nào đó đao kiếm tương phùng, lấy được binh pháp võ công của Quách đại hiệp, dùng đó tàn hại dân lành, thiên hạ biết bao nhiêu kẻ vô tội bị bỏ mạng, vợ chồng chia lìa, cha con ly tán, việc đuổi quân Thát tử đã khó lại càng khó hơn.

Chỉ Nhược, ta biết việc này khó tày trời, thực không nỡ để con phải gánh vác, thế nhưng chúng ta một đời học võ cốt để làm gì? Chỉ Nhược, ta vì trăm họ mà cầu khẩn con.

Bà nói tới đây, đột nhiên đứng lên quì hai gối, hướng về Chu Chỉ Nhược phục xuống lạy. Chu Chỉ Nhược kinh hãi không để đâu cho hết, vội vàng quì theo, kêu lên:

- Sư phụ, sư phụ, thầy...

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Bình tĩnh nào, đừng để cho ác tặc bên ngoài kia nghe thấy, con có bằng lòng không? Nếu con không nhận lời, ta sẽ không đứng lên đâu.

Chu Chỉ Nhược lòng rối như tơ vò, trong một thời gian ngắn ngủi như thế, sư phụ bảo nàng làm ba chuyện thật to lớn, trước là lập một lời thề thật độc không được phải lòng Trương Vô Kỵ, kế đến bắt nàng tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, sau cùng lại bắt nàng dùng mỹ sắc để dụ dỗ Trương Vô Kỵ hầu lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ba chuyện ấy trong vòng mười năm mà bảo nàng làm, dẫu nàng tính hạnh ôn nhu cũng đã thấy không làm nổi, huống chi chỉ trong một giây một phút? Nàng thần trí bấn loạn, lúc này người mê đi không còn biết gì nữa.

Đột nhiên nàng thấy môi trên đau nhói, mở mắt ra thấy sư phụ vẫn quì sừng sững ở trước mặt. Chu Chỉ Nhược khóc nói:

- Sư phụ, xin lão nhân gia đứng lên đi.

Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vậy con đã bằng lòng làm việc sư phụ cầu ở con chưa?

Chu Chỉ Nhược nước mắt chảy dài lặng lẽ gật đầu nhưng dường như lại muốn ngất đi lần nữa. Diệt Tuyệt sư thái nắm lấy cổ tay nàng, hạ giọng nói:

- Con lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long rồi, tìm một nơi thật kín đáo, một tay cầm đao, một tay giữ kiếm vận nội lực lên lấy đao kiếm chém vào nhau, cả bảo đao lẫn bảo kiếm sẽ cùng gãy cả, là cách duy nhất lấy được bí cấp dấu bên trong thân đao và lưỡi kiếm, từ nay về sau đao kiếm đã bị hủy rồi. Con có nhớ không?

Bà ta tuy nói rất nhỏ nhưng âm thanh cực kỳ gay gắt. Chu Chỉ Nhược gật đầu.

Diệt Tuyệt sư thái lại tiếp:

- Đây là bí mật tối quan trọng của bản phái, từ thuở Quách đại hiệp truyền lại cho Quách tổ sư tới nay chỉ một mình người chưởng môn được biết. Ai cũng biết đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đều sắc bén tuyệt luân, dẫu người nào có được cả hai món binh khí này, ai dám mạo hiểm đem bảo đao bảo kiếm chém vào nhau? Con lấy được binh pháp rồi, chọn người nào tâm địa nhân hậu, hết lòng hết dạ với đất nước, đem truyền thụ cho y, bắt y thề phải dùng để đuổi quân Hồ Lỗ. Còn võ công bí cấp thì con tự mình luyện lấy. Hàng Long Thập Bát Chưởng là môn thuần cương mãnh, con không luyện được, chỉ nên luyện công phu Cửu Âm chân kinh.

Cứ như ân sư ta thuật lại di ngôn của Quách tổ sư thì pho Cửu Âm chân kinh này bác đại tinh thâm, vốn không thể mong tốc thành được nhưng vì Hoàng nữ hiệp nghĩ đến việc tru diệt bọn Thát tử hung ác là chuyện thật gấp gáp, sớm ngày nào thiên hạ đỡ khổ ngày nấy cho nên trong bí cấp dấu nơi kiếm Ỷ Thiên có viết mấy chương cốt luyện cho nhanh. Thế nhưng sau khi đã làm xong đại sự, phải đi lại từ đầu cho có căn cơ, công phu gấp gáp kia chỉ dùng được một thời, là do trí tuyệt đính thông minh của Hoàng nữ hiệp sáng tạo ra dùng lúc quyền nghi mà thôi, không phải là võ học chân chính vô địch thiên hạ. Chỗ đó con phải ghi nhớ kỹ trong lòng.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG

Chu Chỉ Nhược ngơ ngẩn bần thần lặng lẽ gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:

- Cả cuộc đời thầy chỉ có hai tâm nguyện lớn, một là làm sao đuổi được bọn Thát tử lấy lại giang sơn cho người Hán; hai là làm sao cho phái Nga Mi võ công đứng đầu thiên hạ, vượt cả Thiếu Lâm, Võ Đương trở thành môn phái số một của trung nguyên. Hai chuyện đó thật là khó khăn nhưng đến bây giờ thấy có chút hi vọng, chỉ cần con theo đúng lời dặn dò của sư phụ thì chuyện gì rồi cũng xong, ta dù ở nơi cửu tuyền cũng còn cảm kích chịu ơn con.

Bà ta nói tới đây, bỗng nghe bên ngoài có tiếng Lộc Trượng Khách gõ cửa. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Vào đi.

Cửa mở toang ra, người bước vào không phải là Lộc Trượng Khách mà là khổ đầu đà. Diệt Tuyệt sư thái cũng không ngạc nhiên, nghĩ bọn này đều cá mè một lứa, người nào thì cũng thế thôi liền nói:

- Ngươi đem đứa bé này ra đi.

Bà không muốn tự vẫn trước mặt Chu Chỉ Nhược để nàng khỏi thêm đau lòng. Khổ đầu đà đến gần hạ giọng nói khẽ:

- Đây là thuốc giải, mau uống đi. Đợi đến khi nào bên ngoài có tiếng la hét tất cả cùng xông ra chém giết một lượt.

Diệt Tuyệt sư thái lạ lùng hỏi:

- Các hạ là ai? Sao lại đưa thuốc giải cho ta.

Khổ đầu đà đáp:

- Tại hạ là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao, trộm được thuốc giải, đặc biệt đến đây cứu sư thái.

Diệt Tuyệt sư thái giận dữ đáp:

- Gian tặc Ma giáo kia, đến giờ này còn đùa cợt với ta nữa sao?

Phạm Dao cười nói:

- Hay nhỉ, nếu như ta đùa cợt với mụ thì thuốc độc uống rồi, thêm thuốc độc nữa, mụ có gan thì uống đi? Thuốc này uống vào bụng một giờ sau ruột đứt ra từng tấc, chết thảm không đâu kể xiết.

Diệt Tuyệt sư thái không thèm nói thêm một tiếng nào, cầm ngay lấy thuốc bột trên tay y há mồm uống ngay vào bụng. Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên:

- Sư phụ... sư phụ...

Phạm Dao giơ một bàn tay ra, quát lên:

- Không được lên tiếng, ngươi cũng uống thuốc độc ngay đi.

Chu Chỉ Nhược sợ quá nhưng đã bị Phạm Dao bóp mồm, đổ thuốc vào miệng, tiếp theo lấy một bình nước tưới vào, thuốc liền trôi ngay xuống họng. Diệt Tuyệt sư thái hoảng hốt nghĩ nếu như Chu Chỉ Nhược chết đi, tất cả những gì mình mưu tính trôi theo giòng nước, nên cố hết sức xông lên, múa chưởng đánh thẳng vào Phạm Dao. Thế nhưng bà ta công lực hoàn toàn mất hết, chưởng đó chiêu số tinh diệu nhưng không có chút hơi sức nào, bị Phạm Dao đẩy nhẹ một cái đã văng vào tường.

Phạm Dao cười nói:

- Tăng chúng Thiếu Lâm, chư hiệp Võ Đương cũng đều uống thuốc độc của ta rồi. Minh giáo hay hay dở, xấu hay tốt một lát nữa thì biết ngay.

Y nói xong cười sằng sặc, quay ra đóng trái cửa phòng lại.

*

* *

Thì ra Phạm Dao hộ tống Triệu Mẫn đến gặp Trương Vô Kỵ, trong lòng khắc khoải làm sao có được thuốc giải nên khi Triệu Mẫn ra lệnh cho y ở ngoài quán rượu chờ nàng, y lập tức đi ngay, chạy thẳng về chùa Vạn An đi lên trên tháp đến tầng thứ mười nơi ngoài phòng của Ô Vượng A Phổ.

Ô Vượng A Phổ lúc đó đang đứng ngoài cửa, vừa thấy y liền cung kính chào một tiếng:

- Khổ đại sư.

Phạm Dao gật đầu, trong bụng cười thầm: "Giỏi thật, tên già họ Lộc làm thầy mà chẳng ra thể thống gì, chui ở trong phòng hú hí với ái cơ của vương gia, lại bắt học trò đứng ngoài canh cửa. Lợi dụng lúc tên này còn đang không biết trời trăng, ta phải xông vào cướp lấy giải dược mới được". Y bèn khom người lại, đi ngang qua người Ô Vượng A Phổ, bất ngờ giơ ngón tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi bụng dưới y. Chẳng nói Ô Vượng A Phổ tuyệt nhiên không đề phòng, dẫu y có chăm chăm phòng bị cũng không sao tránh được một chỉ đó. Yếu huyệt của y bị điểm trúng rồi, lập tức đứng trơ trơ không cử động gì được, trong bụng cực kỳ ngạc nhiên, không biết làm gì nên nỗi, gây tội với lão đầu đà câm này. Không lẽ câu "Khổ đại sư" kia chào chưa đủ cung kính hay sao?

Phạm Dao vừa bước vào phòng, nhanh như điện xông luôn tới bên giường, hai chân chưa chấm đất, một chưởng đã đánh luôn vào người nằm ở trên. Y biết Lộc Trượng Khách võ công rất ghê gớm, nếu chưởng này không đánh y trọng thương hai bên sẽ phải đánh nhau một trận chưa biết bên nào sống bên nào chết, bên nào được bên nào thua. Thành thử chưởng đó y sử dụng đủ mười phần kình lực. Chỉ nghe một tiếp bộp, chiếc chăn bị đánh nát, bông bay tứ tán. Y lật mền lên coi, chỉ thấy Hàn cơ mũi mồm ứa máu, người đẹp kia ngọc nát vàng phai còn Lộc Trượng Khách không thấy đâu cả.

Phạm Dao chợt nghĩ ra một kế, vội vàng đi ra ngoài ôm Ô Vượng A Phổ vào, nhét xuống gầm giường, vừa khép cửa lại đã nghe tiếng Lộc Trượng Khách ở bên ngoài gắt lên:

- A Phổ, A Phổ, sao ngươi dám chạy đi đâu?

Thì ra Lộc Trượng Khách đứng bên ngoài phòng giam Diệt Tuyệt sư thái đợi một hồi, nghĩ thầm hai mẹ con mụ kể lể dông dài biết chừng nào mới xong, nhưng vì không dám đắc tội với khổ đầu đà, nên đành để yên, y ngong ngóng nhớ đến Hàn cơ, không còn chịu nổi nữa bèn quay trở lại phòng Ô Vượng A Phổ. Y đến nơi không thấy tên đệ tử ngoan ngoãn kia đâu, trong bụng bực dọc, đẩy cửa bước vào may quá chưa thấy gì khác, Hàn cơ nằm xoay mặt vào trong, trên mình phủ chiếc chăn bông.

Lộc Trượng Khách cầm then cài cửa phòng lại, quay mình cười nói:

- Người đẹp ơi, để ta giải huyệt cho nàng, nhưng nàng không được lên tiếng đấy nhé.

Y vừa nói vừa thò tay xuống dưới chăn, toan mò vào lưng Hàn cơ, đột nhiên cổ tay bị nắm chặt, năm ngón tay ai như gọng kìm bấm ngay vào mạch môn. Y kình lực toàn thân mất hết, không còn chút hơi sức nào nữa. Đột nhiên chăn tung qua, một nhà sư để tóc dài nhảy ra chính là khổ đầu đà.

Phạm Dao tay phải nắm được mạch môn, tay trái nhanh như gió liên tiếp điểm mười chín đại huyệt trên người Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền nhũn ra xụm người xuống không còn cử động chút nào nhưng mắt dường như nổ lửa.

Phạm Dao chỉ vào y nói:

- Lão phu đi không đổi họ, ngồi chẳng thay tên, chính là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo, họ Phạm tên Dao đây. Hôm nay ngươi bị ta ám toán, uổng cho ngươi tự cho mình là cơ trí tuyệt luân, thực ra tầm thường ngu độn quá lắm. Nếu lúc này ta giết ngươi, không phải là kẻ anh hùng hảo hán nên tạm cho ngươi sống, nếu ngươi có giỏi thì ngày sau đi kiếm Phạm Dao này báo thù.

Y cao hứng chưa hết, lột luôn quần áo Lộc Trượng Khách không còn một mảnh vải, để y nằm chung với cái xác Hàn cơ, lấy chăn bao ra bên ngoài chùm cả hai người một sống một chết lại.

Sau đó y mới lấy trượng sừng hươu, mở cái nhánh đổ hết thuốc giải đi từng phòng giam, chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu mọi người uống. Đợi cho mọi người uống xong thời giờ cũng khá lâu, lại còn mất công giải thích mỗi người ít câu. Sau cùng đi đến phòng của Diệt Tuyệt sư thái, Phạm Dao thấy bà ta không tin đây là thuốc giải đành phải dọa một trận nói là độc dược. Y hận bà giết hại rất nhiều anh em trong Minh giáo nên hù được mấy câu cũng khoái trong lòng.

Y chia thuốc giải xong rồi, cảm thấy đắc ý bỗng nghe thấy dưới chân tháp có tiếng người lao xao, trong đó tiếng của Hạc Bút Ông nghe rõ ràng hơn cả:

- Tên khổ đầu đà là gian tế, mau bắt y xuống đây.

Phạm Dao kêu khổ thầm: "Bỏ mẹ, hỏng rồi, không biết ai cứu tên đó ra vậy?". Vừa thò đầu ra ngoài nhìn xuống dưới chân tháp, thấy Hạc Bút Ông tất lãnh một bầy võ sĩ vây chặt tháp lại, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi thấy y liền liền bắn hai mũi tên, chửi lớn:

- Ác tặc đầu đà, ngươi hại bọn ta quá đỗi.

Ba người Hạc Bút Ông bị điểm huyệt, vốn dĩ không thể thoát thân, lại nằm trong phòng Lộc Trượng Khách nên đâu có ai dám tự tiện tiến vào. Nào ngờ bọn võ sĩ do Nhữ Dương Vương phủ sai đến chùa Vạn An tra xét, không thấy tung tích ái cơ của vương gia đâu, liền có người nghĩ ngay đến tính tình hiếu sắc tham hoa của Lộc Trượng Khách. Thế nhưng các võ sĩ xưa nay vẫn e ngại y, tuy nghi ngờ việc mất tích của ái cơ vương gia có dính líu đến y nhưng có ai dám vuốt râu hùm? Mãi một lúc sau, người chỉ huy đội võ sĩ là Cáp tổng quản nghĩ ra một kế, sai một tên lính hầu đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách, Lộc Trượng Khách thân phận cực cao dù có nổi nóng, không lẽ lại trừng phạt một tên tiểu binh như thế. Tên lính gõ cửa mấy lần trong phòng không nghe tiếng đáp lại.

Cáp tổng quản bậm môi, ra lệnh cho tên lính đẩy cửa vào xem có gì khác lạ không. Vừa nhìn vào, y liền thấy Hạc Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi ba người nằm lăn dưới đất. Lúc đó Hạc Bút Ông vận khí xung huyệt cũng đã giải được ba bốn phần, Cáp tổng quản liền giúp y giải huyệt nên chẳng mấy chốc lại hành động được như thường.

Hạc Bút Ông nộ khí xung thiên, liền tra hỏi xem Lộc Trượng Khách và khổ đầu đà đi đâu, biết được hai người lên trên tháp liền dẫn đám võ sĩ bao vây, lớn tiếng reo hò, gọi khổ đầu đà xuống một phen tử chiến.

Phạm Dao chửi thầm trong bụng: "Muốn tử chiến thì tử chiến, không lẽ họ Phạm này sợ ngươi chắc? Có điều bọn hòa thượng ni cô thối tha uống thuốc chưa bao lâu, nhất thời công lực chưa khôi phục. Tên Hạc Bút Ông đã nghe ta và Lộc Trượng Khách nói chuyện rồi, dù ta có đem lão Lộc này giết đi, cũng không thể diệt khẩu, phải làm sao bây giờ đây?". Y còn bàng hoàng chưa nghĩ ra kế gì, lại nghe Hạc Bút Ông kêu lên:

- Đầu đà chết tiệt kia, ngươi không xuống thì ta lên.

Phạm Dao liền trở vào đem chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ ra bao lơn, giơ cao lên nói:

- Con hạc già kia, ngươi mà tiến lên tháp một bước, ta sẽ ném con hươu dâm này xuống đó.

Bọn võ sĩ tay giơ cao đuốc, chiếu sáng như ban ngày mặc dù ngọn tháp quá cao, ánh lửa không chiếu tới, nhưng trong ánh sáng bập bùng, vẫn thấp thoáng nhìn thấy mặt Lộc Trượng Khách và Hàn cơ. Hạc Bút Ông kinh hãi, kêu lên:

- Sư ca, sư ca, anh không sao chứ?

Y gọi liên tiếp mấy câu không nghe Lộc Trượng Khách đáp lại tưởng đã bị khổ đầu đà giết chết rồi, trong lòng đau khổ kêu lên:

- Tặc đầu đà, ngươi giết sư ca ta, ta quyết một mất một còn với ngươi.

Phạm Dao liền giải huyệt câm cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền lên tiếng chửi:

- Tặc đầu đà, ngươi là gian tế nội ứng ngoại hợp, ta sẽ lăng trì tùng xẻo giết ngươi mới hả...

Phạm Dao chỉ để cho y nói vài câu, lại điểm huyệt câm của y. Hạc Bút Ông thấy sư huynh chưa chết, trong bụng cũng yên chỉ sợ khổ đầu đà ném xuống thật nên không dám tiến đến cửa tháp nữa. Hai bên cứ dây dưa như thế một hồi lâu, Hạc Bút Ông không dám lên cứu sư huynh, còn Phạm Dao thì chỉ mong kéo dài thời khắc, thêm được chút nào hay chút nấy. Y đứng ở lan can cười ha hả nói:

- Hạc lão nhi, sư huynh ngươi thật là mật lớn tày trời, dám đi bắt trộm ái cơ của vương gia về đây. Ta bắt kẻ gian bắt luôn cả đôi, quả tang cả hai người. Ngươi vẫn còn mong che đậy cho sư huynh ngươi hay sao? Tổng quản đại nhân, mau mau bắt lấy gã đó. Hai sư huynh đệ của y phản loạn, tội đó không thể tha được. Ông bắt được y rồi, vương gia thể nào cũng trọng thưởng.

Cáp tổng quản liếc nhìn Hạc Bút Ông, đã toan ra tay nhưng lại không dám. Y thấy khổ đầu đà đột nhiên biết nói, tuy quái lạ thực nhưng rõ ràng nhìn thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ nằm chung trong một cái chăn, huống chi trước đây vốn đã nghi ngờ nên nay tin cũng phải chín phần mười. Y liền lớn tiếng nói:

- Khổ đại sư, xin mời ông xuống đây, tất cả cùng đến gặp vương gia trình bày ai trái ai phải. Cả ba vị đều là tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám mạo phạm người nào cả.

Phạm Dao vốn là kẻ lớn mật, nghĩ thầm nếu tất cả cùng đến gặp vương gia, để khi phân biện trắng đen trái phải rồi, chư hiệp trên tháp uống thuốc giải cũng đã ngấm, liền kêu lên:

- Hay lắm, hay lắm! Ta đang muốn đi gặp vương gia lãnh thưởng. Tổng quản đại nhân, ông canh chừng tên hạc già này, quyết chớ để y có dịp đào tẩu.

Ngay lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn rịp, một người cưỡi ngựa chạy vào tiến đến ngay dưới chân tháp. Các võ sĩ trông thấy liền khom lưng hành lễ:

- Tiểu vương gia.

Phạm Dao từ trên tháp nhìn xuống, thấy người đó mặc cẩm bào đội mũ vàng sáng loáng, cưỡi trên một con ngựa trắng cao to, chính là thế tử của Nhữ Dương Vương Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, có tên Hán là Vương Bảo Bảo.

Vương Bảo Bảo gay gắt quát hỏi:

- Hàn cơ đâu? Phụ vương đang nổi cơn lôi đình, sai ta đích thân tới tra xét.

Cáp tổng quản liền tiến lên bẩm báo, nói là Lộc Trượng Khách bắt cóc Hàn cơ, hiện đã bị khổ đầu đà bắt được. Hạc Bút Ông vội nói:

- Tiểu vương gia, đừng nghe y nói năng láo lếu. Tên đầu đà đó là gian tế, y hãm hại sư ca tôi...

Vương Bảo Bảo nhướng mày lên, quát:

- Tất cả xuống đây nói chuyện.

Phạm Dao ở vương phủ đã lâu, biết rằng Vương Bảo Bảo sáng suốt tinh minh không kém gì cha, ngụy kế của mình chỉ lừa được người khác nhưng không lừa nổi y. Một khi xuống chân tháp rồi, chỉ một hai câu là tiểu vương gia biết ngay, hạ lệnh cho võ sĩ vây đánh, riêng Hạc Bút Ông không thôi cũng đã gay go, một mình thoát thân không khó nhưng chư hiệp trên tháp không thể nào cứu ra được. Y liền lớn tiếng nói:

- Tiểu vương gia, tôi bắt được Lộc Trượng Khách rồi, sư đệ y căm hận thấu xương, tôi chỉ xuống tới nơi là y giết tôi ngay.

Vương Bảo Bảo nói:

- Ngươi mau xuống đây, Hạc tiên sinh không dám giết ngươi đâu.

Phạm Dao lắc đầu, cao giọng nói:

- Tôi ở trên tháp thấy yên tâm hơn. Tiểu vương gia, khổ đầu đà này một đời không nói năng, hôm nay việc chẳng đặng đừng phải mở miệng cũng toàn là do tấm lòng son trung nghĩa đối với vương gia. Nếu tiểu vương gia không tin, khổ đầu đà này sẽ nhảy xuống, vỡ đầu chết trước mặt ngài là xong.

Vương Bảo Bảo nghe y nói, mười phần đến bảy tám là láo lếu, rõ ràng có ý diên trì, hạ giọng hỏi nhỏ Cáp tổng quản:

- Y có mưu toan gì mà cố tình lần khân, chẳng lẽ còn chờ ai chăng?

Cáp tổng quản nói:

- Tiểu nhân không biết...

Hạc Bút Ông liền xen vào:

- Tiểu vương gia, tên tặc đầu đà này cướp thuốc giải của sư huynh tôi, muốn cứu bọn phản nghịch đang giam ở trong tháp.

Vương Bảo Bảo nghe liền hiểu ngay, gọi lớn:

- Khổ đại sư, ta biết công lao của ông rồi, mau xuống đây ta sẽ trọng thưởng.

Phạm Dao đáp:

- Tôi bị Lộc Trượng Khách đá hai cái, xương đùi gãy cả, bây giờ không sao cử động được. Tiểu vương gia, xin ngài đợi cho một chút, tôi vận khí chữa thương sẽ xuống ngay.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Cáp tổng quản, ngươi sai người lên cõng khổ đại sư xuống dưới này.

Phạm Dao vội kêu:

- Không được đâu, không được đâu, người nào đụng đến tôi là hai chân sẽ bị phế đó.

Vương Bảo Bảo lúc này không còn hoài nghi gì nữa, thấy Hàn cơ và Lộc Trượng Khách hai người nằm chung trong một cái chăn, dẫu như chưa có chuyện gì, phụ vương cũng không còn có thể giữ nàng hầu đó nữa, liền nói nhỏ:

- Cáp tổng quản, nổi lửa đốt cái tháp đi. Cho người nạp sẵn cung tên, dù ai nhảy ra cũng bắn chết hết.

Cáp tổng quản tuân lệnh truyền xuống, các võ sĩ cung tên sẵn sàng vây quanh ngọn tháp, còn những người khác chạy đi kiếm củi cỏ để đốt lửa. Hạc Bút Ông hoảng quá, kêu lên:

- Tiểu vương gia, sư ca tôi cũng ở trên đó.

Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:

- Tên đầu đà đó không dám ở trên đó lâu đâu, một khi đốt lửa lên là y phải chạy xuống.

Hạc Bút Ông lập cập nói:

- Lỡ như y vứt sư ca tôi xuống thì làm thế nào? Tiểu vương gia, không thể đốt lửa được.

Vương Bảo Bảo hừ một tiếng không thèm để ý gì đến y. Chỉ trong giây lát, các võ sĩ đã mang củi cỏ và các đồ bén lửa, đốt dưới chân tháp. Hạc Bút Ông là người rất có thân phận trong võ lâm, được Nhữ Dương Vương dùng lễ mời vào phủ, trước nay đối đãi cực kỳ kính trọng, nào ngờ hôm nay vì trúng kế của khổ đầu đà, đến tiểu vương gia cũng chẳng coi y vào đâu. Y thấy tính mạng sư huynh nguy ngập đến nơi, không còn coi tiểu vương gia, đại vương gia ra gì nữa, cầm đôi bút mỏ hạc, nhảy vọt lên gạt hai tên võ sĩ đang châm lửa, huỵch huỵch hai tiếng, hai đứa đó liền văng ra xa.

Vương Bảo Bảo giận lắm, quát lên:

- Hạc tiên sinh, ngươi muốn phạm thượng tác loạn hay sao?

Hạc Bút Ông đáp:

- Tiểu vương gia đừng sai đốt lửa, tôi đâu có dám làm gì.

Vương Bảo Bảo quát lên:

- Châm lửa.

Y phất tay một cái, năm tên phiên tăng áo đỏ từ đằng sau nhảy lên, cầm lấy mấy bó đuốc trong tay các võ sĩ, ném luôn vào đống củi dưới chân tháp. Cỏ củi bén lửa, lập tức cháy lên bùng bùng.

Hạc Bút Ông quýnh quít, cướp một cây giáo của một tên võ sĩ, gạt những củi đang cháy ra. Vương Bảo Bảo quát lên:

- Bắt y.

Năm tên hồng y phiên tăng tay cầm giới đao liền vây Hạc Bút Ông lại. Hạc Bút Ông giận lắm, vứt trường mâu xuống, giơ tay toan cướp giới đao trong tay một phiên tăng. Tên đó không phải tầm thường, giới đao vòng lại chém luôn lên đầu vai y. Hạc Bút Ông đang toan né tránh, đằng sau đã nghe tiếng gió, lại có thêm hai thanh đao chém tới.

Thủ hạ Vương Bảo Bảo có mười tám phiên tăng võ công cao cường, gọi là Thập Bát Kim Cương, chia thành ngũ đao, ngũ kiếm, tứ trượng, tứ bạt. Năm phiên tăng này là Ngũ Đao Kim Cương, nếu một chọi một thì họ kém Hạc Bút Ông xa nhưng cả năm người cùng ra tay, kẻ công người thủ tương trợ lẫn nhau thì uy lực rất lớn. Hạc Bút Ông võ công tuy cao cường nhưng hôm trước bị Trương Vô Kỵ đánh cho bị thương hộc máu, nội lực giảm đi nhiều, lại thêm lửa cháy bừng bừng, tính mạng sư huynh đang nguy cấp, nên trong bụng phập phồng hốt hoảng không thể nào thắng ngay được.

Thủ hạ của Vương Bảo Bảo liên tục thêm củi thêm lửa, càng lúc cháy càng mạnh. Bảo tháp này xây vừa gạch vừa gỗ, chẳng mấy chốc những tầng dưới cùng đã bén lửa cháy lốp bốp rồi. Phạm Dao vội để Lộc Trượng Khách xuống, đến phòng giam chư hiệp phái Võ Đương, kêu lên:

- Thát tử đang đốt tháp, các vị nội lực đã hồi phục chưa?

Chỉ thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cả bọn đang ngồi xếp bằng vận công, hết sức tập trung tinh thần, không người nào lên tiếng trả lời hiển nhiên đang ở vào lúc sinh tử quan đầu của việc luyện công. Có mấy tên võ sĩ canh giữ tiến lên ngăn trở đều bị Phạm Dao chộp từng tên vứt xuống dưới chân tháp chết tươi. Số còn lại cố xông qua khói lửa chạy xuống dưới.

Một lúc sau, lửa đã bén đến từng thứ tư, những người bị giam nơi đây là phái Hoa Sơn không đợi công lực hồi phục, hốt hoảng chạy lên tầng thứ năm. Lửa vẫn tiếp tục cháy lên cao, khiến cho những người bị giam ở tầng thứ năm là phái Không Động cũng phải chạy lên. Có người chậm chân, quần áo râu tóc bị cháy xém.

Phạm Dao không biết làm cách nào, bỗng nghe có tiếng người gọi:

- Phạm hữu sứ, đón lấy.

Chính là tiếng của Vi Nhất Tiếu. Phạm Dao mừng quá, nhìn theo hướng thanh âm thấy Vi Nhất Tiếu đứng trên nóc hậu viện chùa Vạn An vung tay một cái ném một sợi dây dài qua, Phạm Dao vội vàng giơ tay bắt lấy. Vi Nhất Tiếu nói:

- Ngươi buộc vào lan can để làm một cái cầu dây.

Phạm Dao còn đang loay hoay buộc, Triệu Nhất Thương trong thần tiễn bát hùng liền bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa sợi dây thừng đứt đôi. Cả Phạm Dao lẫn Vi Nhất Tiếu cùng cất tiếng chửi, biết rằng muốn làm cái cầu dây không thể không trừ bọn thần tiễn bát hùng trước. Vi Nhất Tiếu mắng:

- Bắn cái con mẹ ngươi. Đứa nào không ném cung tên đi thì ông giết trước.

Y vừa chửi vừa rút kiếm ra nhảy ngay xuống đất. Chân y chưa chấm đất, năm tên phiên tăng áo xanh lập tức cầm kiếm tiến lên vây lại, chính là Ngũ Kiếm Kim Cương trong thập bát phiên tăng của Vương Bảo Bảo. Năm người đó kiếm vung lên loang loáng, kiếm chiêu quái lạ đấu với Vi Nhất Tiếu.

Hạc Bút Ông vẫn múa đôi song bút mỏ hạc chiến đấu, lớn tiếng kêu:

- Nếu tiểu vương gia không ra lệnh cứu hỏa, ta sẽ không còn nể nang gì nữa đâu.

Vương Bảo Bảo không thèm để ý, bốn tên phiên tăng cầm trượng liền chia nhau ra đứng bốn bên tiểu vương gia, e sợ có người đánh lén. Hạc Bút Ông nóng ruột, song bút đột nhiên sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, đẩy dạt ba phiên tăng trước mặt, đề khí chạy đến bên chân tháp, năm tên phiên tăng lập tức đuổi theo. Hạc Bút Ông nhún mình một cái đã nắm ngay được mái hiên tầng thứ nhất, năm phiên tăng thấy lửa đang cháy to liền ngừng lại không đuổi theo nữa.

Hạc Bút Ông từng tầng một tiếp tục nhảy lên, đến khi y tới từng thứ tư, Phạm Dao ở trên tầng thứ bảy thò đầu ra trông thấy liền giơ cao Lộc Trượng Khách lớn tiếng nói:

- Hạc lão nhi, mau đứng lại. Ngươi còn đi thêm một bước là ta cho Lộc lão nhi nát bấy ra ngay.

Quả nhiên Hạc Bút Ông không dám tiến thêm kêu lên:

- Khổ đại sư, anh em tôi trước đây không thù oán gì với ông, sao lại làm khó chúng tôi thế? Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì.

Diệt Tuyệt sư thái uống thuốc giải của khổ đầu đà rồi, tưởng rằng đó là thuốc độc và mình thể nào cũng chết, lại thấy Chu Chỉ Nhược cũng bị ép đổ thuốc vào mồm, bao nhiêu kỳ vọng tan ra mây khói, trong lòng cực kỳ đau đớn. Đang lúc thương tâm, bỗng nghe dưới tháp tiếng người lao xao, sau đó là Hạc Bút Ông và khổ đầu đà tranh cãi, Vương Bảo Bảo ra lệnh đốt tháp... mọi việc bà ta đều nghe rõ ràng. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng lạ lùng: "Không lẽ tên đầu đà trông như quỉ này quả thực muốn cứu mình chăng?". Bà ta liền thử vận khí, lập tức thấy ở đan điền có một luồng hơi ấm xông lên, so với tình hình từ khi trúng độc đến giờ hoàn toàn khác hẳn.

Bà ta không khứng chịu việc Triệu Mẫn gọi ra điện tỉ võ nên nhịn ăn đã sáu bảy ngày, trong dạ dày không còn một chút gì, giải dược vào ruột liền chạy thẳng vào máu cho nên thuốc ngấm nhanh hơn những người khác nhiều. Huống chi bà ta nội lực thâm hậu, còn cao hơn cả Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Hà Thái Xung có lẽ chỉ kém Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm một chút thôi, thành thử độc tính của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bị thuốc giải làm tiêu tan rất mau, Diệt Tuyệt sư thái chỉ vận khí một hồi, nội lực lập tức tái sinh chưa đến nửa giờ đã khôi phục được năm sáu thành.

Bà ta thấy vậy đang tính vận công gấp rút hơn bỗng nghe Hạc Bút Ông ở bên ngoài la lối: "... Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì". Mấy chữ "lão tình nhân" vân vân từng tiếng như tên nhọn đâm vào tai, bà ta nghe không nổi giận sao được, liền bước ra lan can, bực tức quát lên:

- Ngươi nói nhăng nói càn, không biết trước biết sau gì cả là sao?

Hạc Bút Ông liền năn nỉ:

- Lão sư thái, xin bà làm ơn khuyên ông... ông bạn già thả sư huynh tôi ra. Tôi đảm bảo một nhà ba mạng bình an ra khỏi đây. Huyền Minh nhị lão nói một là một, nói hai là hai, không phải là loại nói rồi lại nuốt lời.

Diệt Tuyệt sư thái càng giận thêm, hỏi dồn:

- Cái gì mà một nhà ba mạng?

Phạm Dao tuy đang trong cảnh nguy nan, vẫn cười sằng sặc, thật là đắc ý nói:

- Lão sư thái, tên già đó nói tôi với bà là cựu tình nhân, còn Chu cô nương kia, thì là con tư sinh của hai đứa mình.

Diệt Tuyệt sư thái giận không để đâu cho hết, trong ánh lửa khi mờ khi tỏ, khuôn mặt trông thật đáng sợ, nghiến răng nói:

- Hạc lão nhi, ngươi lên đây, ta với ngươi trao đổi một trăm chưởng rồi hãy tính.

Nếu phải lúc bình thời, nói Hạc Bút Ông lên là y lên ngay, há sợ gì người chưởng môn phái Nga Mi, nhưng phút này sư huynh y rơi vào tay người khác nên không dám ngang tàng, kêu lên:

- Khổ đầu đà, cái đó là chính ngươi nói ra, chứ đâu phải ta bịa đặt đâu.

Diệt Tuyệt sư thái hầm hầm nhìn Phạm Dao, gay gắt hỏi lại:

- Có phải ngươi nói đó không?

Phạm Dao lại cười ha hả, đang định nói châm chọc bà ta mấy câu, bỗng nghe dưới chân tháp có tiếng người lao xao, ghé mắt nhìn xuống, thấy trong ánh lửa có một người thân hình chẳng khác gì bướm vờn hoa chạy qua chạy lại nhanh nhẹn dị thường, giữa đám đông lạng qua lạng lại, tiếng loảng xoảng, loảng xoảng liên tiếp không dứt, binh khí trong tay các phiên tăng, võ sĩ đều rơi xuống đất, chính là giáo chủ Trương Vô Kỵ đã đến nơi.

Trương Vô Kỵ vừa ra tay, năm thanh kiếm trong tay những người vây đánh Vi Nhất Tiếu đều bay đi cả. Vi Nhất Tiếu mừng quá, lạng người đến gần chàng, nói nhỏ:

- Để thuộc hạ đến đốt phủ Nhữ Dương Vương.

Trương Vô Kỵ gật đầu hiểu ngay ý của y, bên mình nơi đây chỉ có vài người, nếu như không cứu kịp quần hào lục đại môn phái ra, đối phương viện binh sẽ đến mỗi lúc một đông. Thanh Dực Bức Vương đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa, các võ sĩ sẽ thấy việc bảo vệ vương gia cần hơn, chính là kế điệu hổ ly sơn, phủ để trừu tân[1] thật tuyệt diệu. Chỉ thấy một bóng xanh vụt qua, Vi Nhất Tiếu đã nhảy qua tường chạy mất.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, lớn tiếng hỏi:

- Phạm hữu sứ, ra sao rồi?

Phạm Dao đáp:

- Nguy ngập lắm, đường xuống bị cháy mất rồi, không một ai có thể chạy thoát được cả.

Lúc đó trong số mười tám phiên tăng thủ hạ của Vương Bảo Bảo, đã có mười bốn người tiến đến vây đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nghĩ phá giặc phải bắt thủ lãnh trước, có bắt được gã vương công Thát tử đầu đội kim quan kia thì mới có thể ép bọn thuộc hạ dập lửa thả người ra, thành thử chẳng khác gì con cá quẫy mình, lắc người một cái đã vọt ra khỏi bọn phiên tăng, tới ngay trước mặt Vương Bảo Bảo.

Nào ngờ từ phía trái một thanh kiếm đâm tới, hàn quang lạnh người, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực. Trương Vô Kỵ vội vàng lùi lại, chỉ nghe một giọng đàn bà nói:

- Trương công tử, đây là gia huynh, xin đừng đụng đến.

Chỉ thấy người đứng đó thân hình yểu điệu, thanh kiếm trong tay rung động, lưỡi kiếm sáng loáng như nước chính là thanh kiếm Ỷ Thiên, còn người thì mặt đẹp như hoa chính là Triệu Mẫn. Nàng đuổi theo Trương Vô Kỵ đến đây cũng chỉ chậm hơn một bước.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô nương mau hạ lệnh dập lửa cứu người, nếu không tại hạ sẽ phải vô lễ với hai vị đó.

Triệu Mẫn quát lên:

- Thập bát Kim Cương, người này võ công ghê gớm lắm, mau lập thành Kim Cương trận chặn y lại.

Mười tám phiên tăng mới rồi đã nếm mùi đau khổ của Trương Vô Kỵ, chẳng cần quận chúa chỉ điểm cũng đã biết chàng tới bực nào. Chỉ nghe choang một tiếng lớn, tám chiếc thanh la bằng đồng trong tay Tứ Bạt Kim Cương cùng gõ vào nhau, mười tám người chạy qua chạy lại, làm thành một bức tường người chặn ngay trước mặt Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn, đẩy lùi Trương Vô Kỵ ra.

Trương Vô Kỵ thấy mười tám phiên tăng chạy vòng quanh, bộ pháp kỳ lạ, xem ra bên trong còn chất chứa nhiều biến hóa. Chàng đang toan nhảy vào phá trận Kim Cương này xem sao, thì ngay lúc ấy nghe một tiếng bình thật lớn, một chiếc cột từ trên tháp đổ xuống.

Chàng quay đầu lại thấy lửa đã bén đến tầng thứ bảy, trong ánh lửa đỏ rực lem lém có bóng hai người đang đấu với nhau cực kỳ khốc liệt. Đó chính là Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông, còn trên lan can tầng thứ mười đầy những người của các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, những người đó võ công chưa hoàn toàn hồi phục, huống chi tháp cao đến hơn chục trượng, dù có khinh công tuyệt đính mà nội lực không mất chút nào, nhảy xuống cũng chết tươi ngay.

Một ý nghĩ liền nảy vụt ra trong đầu Trương Vô Kỵ: "Trận Kim Cương này không phải trong chốc lát mà phá được, huống chi đánh bại được bọn phiên tăng thì lại có những hảo thủ khác xông lên, muốn bắt người anh của Triệu cô nương thật không phải dễ. Diệt Tuyệt sư thái đấu với Hạc Bút Ông từ nãy giờ không thấy sút kém chút nào, xem chừng võ công đã khôi phục, như thế nhóm đại sư bá nội lực cũng đã có rồi, chỉ điều bảo tháp này quá cao không thể nào nhảy xuống được".

Chàng nghĩ như thế lập tức chạy khắp nơi, hay tay lúc đánh lúc bắt, lúc đập lúc đoạt đánh ngã toàn bộ bọn thần tiễn bát hùng, ngoài ra bọn võ sĩ ai cầm cung tên đều bị chàng hoặc bẻ gãy, hoặc điểm huyệt, đến khi tất cả chung quanh không còn một hảo thủ cung tiễn nào, lúc ấy mới cao giọng nói:

- Các vị tiền bối trên tháp, xin nhảy xuống đây, tại hạ ở dưới này sẽ đỡ cho.

Những người ở trên tháp nghe thế đều ngạc nhiên, nghĩ thầm nơi đây cao đến hơn mười trượng, nhảy xuống thế sẽ mạnh lắm, dù chàng có sức nghìn cân cũng không thể nào đón được. Phái Không Động, phái Côn Lôn liền có người nhao nhao lên:

- Không thể nào được, chớ nên mắc hỡm tiểu tử đó. Y định lừa cho mình nhảy xuống chết nát xương đấy mà.

Trương Vô Kỵ thấy lửa đã bốc lên gần đến các cao thủ rồi, nếu như mọi người không nhảy xuống, thế tất đều chết cháy cả nên lớn tiếng nói:

- Du nhị bá, bác đối với cháu ơn nặng như núi, không lẽ tiểu điệt lại có bụng dạ hại bác hay sao? Bác nhảy xuống trước đi.

Du Liên Châu xưa nay vẫn tin tưởng Trương Vô Kỵ, biết võ công chàng cao cường nhưng không chắc có thể đỡ nổi mình. Tuy nhiên ở lại để bị bị chết thui và ngã xuống chết có khác gì nhau, nên kêu lên:

- Được, để ta nhảy xuống.

Ông liền tung mình, từ cao tháp nhảy vọt ra. Trương Vô Kỵ nhắm kỹ càng, đợi đến khi người ông còn cách mặt đất chừng năm thước, một chưởng nhẹ nhàng đánh ra, trúng ngay vào hông. Trong chưởng đó chàng đã vận dụng môn võ công tuyệt đính Càn Khôn Đại Na Di, cực kỳ khéo léo biến sức từ trên đi xuống trở thành từ trái sang phải.

Thân hình Du Liên Châu văng ngang qua, xa đến mấy trượng. Lúc này công lực ông đã khôi phục được bảy tám thành, vừa xoay mình một cái đã trầm ổn đứng được trên mặt đất, thuận tay một chưởng đánh ra hộc máu một võ sĩ Mông Cổ. Ông lớn tiếng gọi:

- Đại sư ca, tứ sư đệ, mau nhảy xuống đi thôi.

Người trên tháp thấy Du Liên Châu bình an rơi xuống, lớn tiếng reo hò. Tống Viễn Kiều thương con, muốn y thoát hiểm trước, nói:

- Thanh Thư, con nhảy xuống đi.

Tống Thanh Thư từ khi ra khỏi tù thất, lúc nào cũng đứng bên cạnh Chu Chỉ Nhược liền nói:

- Chu cô nương, cô nhảy đi.

Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục không thể giúp gì cho sư phụ được, nhưng cũng không muốn một mình chạy thoát, nghe Tống Thanh Thư nói liền lắc đầu:

- Tôi đợi sư phụ tôi.

Lúc đó Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đã trước sau nhảy xuống, đều được Trương Vô Kỵ thi triển Càn Khôn Đại Na Di thần công xuất chưởng đánh ra, sức rơi thẳng biến thành văng ngang nên ai nấy đều thoát hiểm. Những người đó công lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng chỉ cần năm sáu thành, cũng đã khiến cho bọn phiên tăng, võ sĩ không sao đương cự nổi.

Bọn Du Liên Châu trong giây lát đã đoạt được binh khí, bao vây hộ vệ cho Trương Vô Kỵ. Thủ hạ của Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn toan xông lên ngăn chặn, đều bị Du Liên Châu, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đẩy lui. Trên tháp một người nhảy xuống, bên Trương Vô Kỵ lại có thêm một người tiếp tay. Những người này từ khi bị Triệu Mẫn bắt giam nơi tháp đến nay, ai nấy chịu biết bao nhiêu nhục nhã, biết bao nhiêu người bị chặt ngón tay, bây giờ thoát khỏi lao lung, căm phẫn phát tiết chỉ trong giây lát đã có hơn hai chục võ sĩ bị đánh chết lăn trên mặt đất.

Vương Bảo Bảo thấy tình hình không ổn, truyền lệnh:

- Mau điều đội thân binh cung nỏ của ta lại đây.

Cáp tổng quản đang toan đi ra truyền lệnh của tiểu vương gia, bỗng thấy góc đông nam lửa cháy ngút trời, y hoảng hốt kêu lên:

- Tiểu vương gia, vương phủ đang cháy. Chúng ta quay về bảo vệ vương gia là hơn.

Vương Bảo Bảo cũng lo cho an nguy của phụ thân, không còn lòng dạ nào tính chuyện bắt bọn phản tặc, vội nói:

- Muội tử, ta về phủ trước, em ở lại phải cẩn thận.

Y không đợi Triệu Mẫn trả lời, quay đầu giục ngựa chạy thẳng ra ngoài. Vương Bảo Bảo đi rồi, mười tám kim cương cũng chạy theo, bọn võ sĩ cũng đi đến quá nửa. Những người còn lại thấy vương phủ bị cháy, đâu ngờ chỉ một mình Vi Nhất Tiếu gây ra, lại tưởng bọn phản tặc đã kéo đại đội binh mã đến tấn công nên ai nấy đều kinh hoàng.

Đến lúc này, Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng đã nhảy xuống khỏi tháp, hai bên yếu mạnh nay đổi chiều, đến khi Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư cùng các cao tăng trong Đạt Ma Đường, La Hán Đường xuống cả rồi, các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn không cách gì kháng cự nổi.

Triệu Mẫn nghĩ lúc này mình không chạy cho nhanh, lại bị bên kia bắt được không chừng, lập tức hạ lệnh:

- Tất cả lui ra khỏi chùa Vạn An.

Nàng quay lại nói với Trương Vô Kỵ:

- Chiều ngày mai, tôi lại mời công tử đi uống rượu, nhớ đến nhé.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, chưa kịp trả lời, Triệu Mẫn đã cười đi vào hậu điện của chùa Vạn An. Chỉ nghe Phạm Dao trên tháp cao hô to:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống, lửa cháy đến nơi rồi, không nhảy ngay là thành mỹ nhân nướng trui đó.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Tôi phải theo sư phụ.

Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông hai bên đánh nhau một trận kịch liệt, mỗi khi khói lửa bén lên thì lại nhảy lên một tầng sau cùng đến tận tầng thứ mười. Bà ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng lúc này không còn coi sống chết vào đâu, chưởng pháp chỉ công mà không thủ. Hạc Bút Ông một mặt lo cho sư huynh nên phân tâm, hơn nữa bị thương chưa khỏi hẳn, lại mới uống phải thuốc mê, huyệt đạo bị đóng khá lâu nên chân tay không được linh hoạt thành thử hai bên không phân cao thấp. Diệt Tuyệt sư thái nghe tiếng học trò trả lời, kêu lên:

- Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi, đừng lo cho ta làm gì. Tên giặc già này làm nhục ta quá lắm, không thể để cho y sống được.

Hạc Bút Ông lòng kêu khổ thầm: "Con mụ ni cô này đánh kiểu thí mạng, ta cứu sư huynh mới là cần, không lẽ chết chùm với mụ trong đống lửa này hay sao?". Y liền lớn tiếng nói:

- Diệt Tuyệt sư thái, câu đó là của khổ đầu đà nói chứ có liên quan gì đến ta đâu.

Diệt Tuyệt sư thái liền thu chưởng về, hỏi Phạm Dao:

- Tên đầu đà chết tiệt kia, câu nói điên khùng kia có phải do ngươi nói không?

Phạm Dao cười rung cả mặt nói:

- Câu nói điên khùng nào?

Câu nói đó rõ ràng y muốn cho Diệt Tuyệt sư thái tự miệng mình nói ra một lần: "Y bảo ta và ngươi là người tình cũ, Chu Chỉ Nhược là con tư sinh của ta". Thế nhưng hai câu đó làm sao bà ta có thể nói ra? Tuy nhiên khi nghe Phạm Dao nói thế, bà ta biết là lời Hạc Bút Ông quả không sai, tức đến run lên được.

Hạc Bút Ông thấy Diệt Tuyệt sư thái lưng quay về phía mình, vừa lúc có một đám khói đen ùa tới, đúng là cơ hội bằng vàng nên y liền đánh luôn một chưởng. Chu Chỉ Nhược và Phạm Dao đều nhìn rõ, cùng kêu lên:

- Sư phụ coi chừng.

- Lão ni cô cẩn thận.

Thế nhưng không kịp nữa, Hạc Bút Ông đã đánh trúng ngay lưng bà ta. Huyền Minh thần chưởng lợi hại biết là chừng nào, năm xưa trên núi Võ Đương chỉ có mình Trương Tam Phong có thể đỡ được một chưởng, Diệt Tuyệt sư thái trúng rồi, thân hình lảo đảo, ngã quị xuống. Chu Chỉ Nhược kinh sợ, chạy đến đỡ sư phụ lên.

Phạm Dao giận quá, quát lên:

- Quân tiểu nhân âm độc đê tiện, còn để ngươi làm gì?

Y xách chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ lên, ném ngay xuống. Hạc Bút Ông tình đồng môn thắm thiết, trong cơn nguy cấp không kịp suy xét, liền nhảy theo để chộp lấy Lộc Trượng Khách. Thế nhưng cái bọc đó văng ra quá xa, Hạc Bút Ông chỉ nắm được một góc, chính y cũng rơi theo.

Trương Vô Kỵ đứng bên dưới, trong khói lửa không nhìn rõ mọi việc bên trên, chỉ thấy một vật lớn từ cao rơi xuống, đâu còn kịp nhìn xem là vật gì, thấp thoáng dường như có người trong đó, còn ở bên ngoài chính là Hạc Bút Ông. Chàng biết y là kẻ gây ra cho mình bao nhiêu khổ sở, ngay cả cái chết của cha mẹ mình cũng có liên quan rất nhiều, nhưng không nỡ thõng tay để cho y bị rơi xuống nát thây, lập tức nhảy tới, hai tay chia ra đánh vào Hạc Bút Ông và cái chăn, mỗi bên văng ra xa hơn ba trượng.

Hạc Bút Ông xoay người một cái đã đứng được, trong bụng kêu thầm: "Nguy hiểm thực". Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, cứu mạng cho mình, quay qua nhìn đến sư huynh, không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra Trương Vô Kỵ đánh trúng, chiếc chăn tung ra hai người trần truồng như nhộng, rơi ngay vào đống lửa. Lộc Trượng Khách huyệt đạo chưa giải, không cử động được, đầu tóc liền bắt lửa cháy ngay. Hạc Bút Ông kêu lên:

- Sư ca.

Y liền xông vào trong đám lửa bồng Lộc Trượng Khách lên, vừa nhảy ra ngoài, chân chưa vững đã nghe Du Liên Châu quát:

- Nếm một chưởng của ta nào.

Chưởng trái liền đánh luôn vào vai y. Hạc Bút Ông không dám chống đỡ, hạ vai xuống tránh, nhưng Du Liên Châu chưởng đó chưa ra hết tay, vai đã hạ xuống, đánh luôn xuống dưới, nghe bịch một tiếng, khiến y đau đến trán toát mồ hôi. Lúc này việc cứu sư huynh quan trọng hơn, Hạc Bút Ông vội ôm Lộc Trượng Khách phi thân nhảy qua tường.

Ngay khi đó, từ trên tháp một cái cột đang cháy bừng bừng đổ xuống, đè luôn lên xác Hàn cơ, chỉ trong giây lát lửa bao phủ toàn thân. Người đứng dưới tất cả đều kêu lên:

- Mau nhảy xuống, mau nhảy xuống.

Phạm Dao chạy qua né lại cố tránh lửa tạt vào. Cái cột cái của bảo tháp đã bị hủy, gạch ngói tung tóe rơi xuống, đỉnh tháp bắt đầu lung lay, không biết lúc nào đổ ụp xuống. Diệt Tuyệt sư thái gắt lên:

- Chỉ Nhược, con nhảy xuống đi.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sư phụ nhảy trước đi, con sẽ nhảy theo.

Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên vọt tới, đánh thẳng vào vai trái Phạm Dao, quát lên:

- Ác tặc của ma giáo kia, không thể nào tha cho ngươi được.

Phạm Dao cười một tràng dài, tung mình nhảy xuống. Trương Vô Kỵ một chưởng đánh ra, nhẹ nhàng đẩy y vọt sang một bên, khen ngợi:

- Phạm hữu sứ, việc lớn đã xong, công của ông quả thực khó ai bì kịp.

Phạm Dao vừa đứng vững đã nói:

- Nếu không có thần công cái thế của giáo chủ, tất cả mọi người đã thành heo quay trên tháp rồi. Phạm Dao hành sự chẳng đâu vào đâu, có công cán gì?

Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ôm Chu Chỉ Nhược, nhảy vọt xuống, đợi còn cách mặt đất chừng một trượng, hai tay vận kình tung lên, ném Chu Chỉ Nhược lên vài thước. Hành động đó khiến cho Chu Chỉ Nhược giống như chỉ từ hơn một trượng rơi xuống, không bị nguy hiểm chút nào trong khi Diệt Tuyệt sư thái rơi xuống càng mạnh thêm.

Trương Vô Kỵ tiến lên, vận Càn Khôn Đại Na Di đẩy vào ngang hông bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái không còn muốn sống nữa, cũng không để phải chịu ơn của Minh giáo, thấy chàng tung chưởng đánh ra, thu hết tàn lực toàn thân, đánh ngược lại một chưởng. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, chưởng lực của Trương Vô Kỵ bị bà ta làm sai phương hướng, nghe lách cách mấy tiếng, Diệt Tuyệt sư thái đã rơi phịch xuống đất, xương sống gãy thành mấy đoạn. Trương Vô Kỵ cũng bị chưởng của lão ni cô cộng thêm sức rơi từ trên xuống khiến ngực bị chấn động, khí huyết nhộn nhạo phải lùi về sau mấy bước, trong lòng không hiểu tại sao Diệt Tuyệt sư thái lại muốn tự sát.

Chu Chỉ Nhược nhào tới ôm sư phụ khóc lóc:

- Sư phụ, sư phụ.

Các môn đệ phái Nga Mi cũng chạy tới vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, náo loạn cả lên. Diệt Tuyệt sư thái nói:

- Chỉ Nhược, từ nay trở đi, con là chưởng môn bản phái. Điều ta bảo con làm, con chớ... chớ có sai lời, nghe chưa?

Chu Chỉ Nhược khóc đáp:

- Thưa sư phụ vâng, đệ tử quyết không dám quên.

Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười nhợt nhạt:

- Có thế, ta chết mới nhắm mắt...

Lúc đó Trương Vô Kỵ đã chạy tới, định thăm mạch bà ta, Diệt Tuyệt sư thái liền lật tay, nắm chặt cổ tay chàng, rít lên:

- Dâm đồ của ma giáo kia, nếu ngươi làm ô uế tấm thân thanh bạch của ái đồ ta, dù thành quỉ ta cũng không tha...

Chữ "ngươi" sau cùng chưa ra khỏi miệng, hơi thở đã tuyệt nhưng Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn nắm chặt tay Trương Vô Kỵ không buông, năm móng tay bấm vào cổ tay chàng bật cả máu ra.

Phạm Dao kêu lên:

- Tất cả mọi người chạy theo tôi qua đến cửa thành phía tây gặp nhau. Nếu như còn chần chừ, đại đội nhân mã của gian vương kéo đến bây giờ.

Trương Vô Kỵ ôm xác Diệt Tuyệt sư thái lên, nói nhỏ:

- Thôi mình đi.

Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng gỡ mấy ngón tay ân sư ra khỏi cổ tay chàng, đỡ lấy thi thể lão ni cô, không nhìn Trương Vô Kỵ đến một lần, chạy thẳng ra ngoài cửa chùa.

Khi đó cao thủ các môn phái Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động cũng đã chạy khỏi rồi, chỉ còn Không Văn, Không Trí hai vị cao tăng không mất phong phạm tiền bối, bước tới chắp tay vái chào cảm tạ Trương Vô Kỵ, cùng Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu các người nói mấy câu thăm hỏi, sau đó mới đi ra. Trương Vô Kỵ sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công giúp cho sáu đại môn phái xuống đất an toàn, nội lực hao phí rất nhiều, sau cùng lại đối chưởng với Diệt Tuyệt sư thái, nguyên khí bị thương tổn trầm trọng, lúc này bước đi không nổi nữa. Mạc Thanh Cốc liền cõng trên lưng, Trương Vô Kỵ vận Cửu Dương thần công, nội lực mới dần dần trở lại.

Khi ấy trời đã hưng hửng sáng, quần hùng đi ra đến cửa tây, đánh đuổi bọn quan binh giữ cửa rồi chạy ra khỏi thành. Chạy được mấy dặm, cả bọn gặp Dương Tiêu đem xe ngựa đến đón, chúc mừng mọi người thoát cơn hoạn nạn.

Không Văn đại sư nói:

- Hôm nay nếu như không được Trương giáo chủ của Minh giáo và các vị cứu giúp thì không biết sáu đại môn phái của Trung Nguyên khí vận sẽ đi về đâu. Đại ân không thể chỉ dùng lời cảm tạ là đủ, kế hoạch lúc này phải làm sao xin Trương giáo chủ đứng ra sắp đặt.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ kiến thức nông cạn, chẳng dám có chủ ý gì, xin phương trượng chùa Thiếu Lâm phát hiệu thi lệnh cho.

Không Văn đại sư cương quyết từ chối không nhận. Trương Tùng Khê nói:

- Nơi đây cách thành không xa, đêm qua mình quấy phá long trời lở đất ngay trong kinh đô của Thát tử, gian vương đời nào chịu bỏ qua? Đến khi vương phủ dập được lửa rồi, thể nào cũng đem binh mã đuổi theo. Chúng ta nên đi khỏi nơi đây rồi sau đó hãy bàn tính cũng được.

Hà Thái Xung nói:

- Gian vương nếu đem binh đuổi theo thì còn gì bằng, mình sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời hoa lá cho hả cơn giận bấy lâu nay.

Trương Tùng Khê nói:

- Hầu hết chúng ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, việc giết Thát tử không phải chỉ một ngày hôm nay, mình nên tránh trước là hơn.

Không Văn đại sư nói:

- Trương tứ hiệp nói phải lắm, nếu hôm nay mình chém giết Thát tử, bên mình thương vong cũng không phải là ít, nên tạm thời tránh đi cũng phải.

Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm nói ra so với người khác hơn hẳn thành thử không còn ai bàn thêm gì nữa. Không Văn đại sư lại hỏi:

- Trương tứ hiệp, theo như cao kiến của ông, chúng ta nên đi về hướng nào?

Trương Tùng Khê đáp:

- Thát tử sẽ nghĩ mình nếu không đi về hướng nam thì cũng đi về hướng đông nam. Thành ra mình đi ngược lại, đi hướng tây bắc, các vị nghĩ sao?

Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Dương Tiêu liền vỗ tay nói:

- Ý kiến của Trương tứ hiệp thật là cao. Phía tây bắc đất rộng người thưa, chỗ nào cũng có núi hoang, muốn tìm chỗ trú ẩn cũng dễ, bọn Thát tử không thể nào ngờ tới được.

Mọi người càng nghĩ càng thấy kế của Trương Tùng Khê rất hay, cùng quay đầu ngựa đi về hướng tây bắc.

Đi được chừng hơn năm chục dặm, quần hiệp ghé lại một thung lũng nghỉ ngơi. Dương Tiêu vốn đã dự bị mọi thứ, lương khô rượu thịt không thiếu món gì. Mọi người kể lại chuyện thoát khỏi nguy khốn vừa qua, đều nói toàn là do Trương Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu mạng.

Tới đây Chu Chỉ Nhược và các đồng môn phái Nga Mi mới đem xác Diệt Tuyệt sư thái ra hỏa táng. Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Trương Vô Kỵ tất cả đều đến hành lễ chia buồn. Diệt Tuyệt sư thái là một đại hiệp danh vọng, tuy tính tình hơi khác thường nhưng bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, chính khí lẫm lẫm trong võ lâm ai ai cũng kính trọng. Quần đệ tử phái Nga Mi khóc lóc thảm thiết khiến ai nấy đều phải mủi lòng.

Không Văn đại sư lớn tiếng nói:

- Người chết rồi không thể sống lại được, chư hiệp phái Nga Mi nếu cố kế thừa di chí của sư thái, thì người đã chết rồi cũng như còn sống vậy. Lần này chúng ta bị gian nhân hạ độc, ai ai cũng gặp phải cảnh đau lòng, Không Tính sư đệ của bản phái cũng bị Thát tử giết chết, mối thù này không thể không báo, thế nhưng làm thế nào thì mình phải từ từ mà tính.

Không Trí đại sư tiếp lời:

- Sáu đại môn phái của Trung Nguyên vốn coi Minh giáo là thù nghịch, nhưng Trương giáo chủ lấy đức báo oán, ra tay cứu chúng ta, bao nhiều hiềm thù cũ của đôi bên từ nay xóa hết. Từ giờ trở đi tất cả chúng ta đồng tâm hiệp lực, quyết đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi cõi bờ.

Tất cả mọi người đều một lòng như thế. Thế nhưng nói tới chuyện làm sao báo thù, các môn phái bàn ra tán vào mãi không có định kiến nào cả. Sau cùng Không Văn đại sư nói:

- Chuyện này không phải một ngày một buổi có thể quyết định được, chúng ta nên nghỉ ngơi ít ngày, chia tay nhau quay trở về bản sơn. Việc báo thù sẽ cùng thương lượng sau để tìm ra thiện sách.

Mọi người gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ nói:

- Hiện nay đại sự coi như đã xong, tôi có một số việc riêng, phải quay lại Đại Đô một chuyến, xin từ biệt các vị. Từ nay về sau mong rằng mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Quần hào đều hô to:

- Mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.

Tiếng reo vang trời dậy đất vang mãi trong sơn cốc. Mọi người tiễn chàng ra tận ngoài thung lũng. Trương Vô Kỵ hành lễ cáo từ, Dương Tiêu nói:

- Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều kỳ vọng vào giáo chủ, xin cố gắng bảo trọng tấm thân.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Huynh đệ đã hiểu được điều đó.

Nói xong chàng giục ngựa chạy về hướng nam.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Rút củi dưới nồi ý nói làm cho nước mau nguội. Đây là một trong ba mươi sáu kế (tam thập lục kế) cổ của Trung Hoa.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG

Đứng đầu Tứ Đại Pháp Vương,

Chúa rồng kia lại thiên hương một cành.

Ra tay dứt nghĩa đoạn tình,

Hôm nao huynh muội nay thành người dưng.

*

* *

Khi đến gần Đại Đô, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đêm qua trận chiến nơi chùa Vạn An rất nhiều thủ hạ, võ sĩ của Nhữ Dương Vương đã biết mặt mình nên đi lại rất là bất tiện. Chàng bèn kiếm một nhà nông mua một bộ quần áo cũ thay vào, đầu đội thêm một chiếc nón, lấy tro than bôi lên cho đầu cổ tay chân đen đúa rồi mới vào thành.

Chàng về đến khách điếm nơi thành phía tây, nhìn quanh bốn bề, trước sau trái phải không thấy có gì khác mới lẻn vào trong, tiến đến phòng của mình. Tiểu Siêu lúc đó đang ngồi bên song cửa, tay cầm một chiếc kim đan, thấy chàng đi vào đang ngạc nhiên nhưng nhận ra ngay, vẻ mặt vui mừng như bông hoa mới nở, cười nói:

- Công tử gia, em lại tưởng anh nhà quê nào vào nhầm phòng, đâu có ngờ là công tử.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô làm gì đó? Ở một mình có buồn không?

Tiểu Siêu mặt đỏ lên, dấu chiếc áo đang đan ra sau lưng, thẹn thùng đáp:

- Em đang tập đan áo, chưa cho ai xem được.

Nàng dấu chiếc áo xuống dưới gối, rót trà cho Trương Vô Kỵ uống, thấy chàng mặt đầy bùn than cười nói:

- Công tử có rửa mặt không?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Tôi cố ý xoa lên mặt nên không cần rửa.

Chàng cầm chén trà lên, trong bụng suy tính: "Triệu cô nương muốn ta đưa nàng đi mượn thanh đao Đồ Long. Đại trượng phu một lời nặng như núi, không thể thất tín cùng người, huống chi chính ta cũng muốn đi mời nghĩa phụ quay về trung thổ. Nghĩa phụ vốn ngại kẻ thù quá nhiều, sau khi mắt bị mù rồi không đối phó nổi. Lúc này quần hào võ lâm đồng tâm kháng Hồ, mọi thù oán riêng tư tất cả đều hòa giải hết. Chỉ cần ta ở bên cạnh lão nhân gia, người ngoài không ai dám động đến một cái lông của cha nuôi ta. Biển cả sóng to gió lớn, cô bé Tiểu Siêu không nên đi cùng. Thôi, được rồi, để ta nhờ Triệu cô nương đem Tiểu Siêu vào gửi trong vương phủ, so với nơi khác còn bình an hơn nhiều".

Tiểu Siêu thấy chàng bỗng nhiên mỉm cười, hỏi:

- Công tử nghĩ gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi phải đi đến một nơi xa thật là xa, đem cô theo thật là bất tiện. Tôi vừa nghĩ ra một nơi có thể gửi cô ở nhờ được.

Tiểu Siêu nghe thế mặt liền biến sắc nói:

- Công tử gia, em nhất định đi theo, Tiểu Siêu muốn được ngày ngày hầu hạ công tử.

Trương Vô Kỵ vội khuyên:

- Chuyện đó cũng là để cho cô thôi. Tôi phải đi một nơi thật xa, thật nguy hiểm, không biết đến bao giờ mới quay về.

Tiểu Siêu nói:

- Từ khi ở trong đường hầm nơi Quang Minh Đính, em đã quyết định trong lòng, công tử đi đâu em đi theo tới đó, trừ khi công tử giết em đi thì mới ngăn được em thôi. Hay là công tử chán ghét em, không muốn em ở bên cạnh?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không, không đâu. Cô biết tôi rất thích cô, tôi chỉ không muốn cô phải mạo hiểm một cách vô lý thôi. Tôi trở về là sẽ đi kiếm cô ngay.

Tiểu Siêu lắc đầu:

- Chỉ cần ở bên cạnh công tử, dù có nguy hiểm tới đâu em cũng không sờn. Công tử gia dẫn em đi theo nhé?

Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Siêu nói:

- Tiểu Siêu, tôi cũng không dấu cô nữa làm gì. Tôi nhận lời Triệu cô nương đưa cô ta đi hải ngoại. Biển cả mênh mông, sóng gió ngày này sang ngày khác, phần tôi không đi không được, còn cô mạo hiểm như thế thật chẳng ích lợi gì.

Tiểu Siêu mặt đỏ lên nói:

- Nếu đi chung với Triệu cô nương thì em lại càng cần phải ở bên cạnh công tử.

Nói xong câu đó, trong mắt nàng dường như đã long lanh ngấn lệ. Trương Vô Kỵ nói:

- Cô lại phải đi với tôi là sao?

Tiểu Siêu đáp:

- Cái cô họ Triệu đó tâm địa ác độc, ai biết cô ta sẽ đối với công tử ra sao. Có em đi cùng, ít ra cũng còn có người trông nom công tử.

Trương Vô Kỵ chợt động tâm, tự hỏi: "Không lẽ cô bé này cũng có tình ý với mình chăng?" Chàng thấy lời của cô thật thành khẩn, không khỏi cảm kích, cười nói:

- Được rồi, cô đi theo cũng không sao, trên thuyền sóng to gió cả lúc ấy đừng than khổ.

Tiểu Siêu mừng quá, luôn mồm vâng dạ, nói:

- Nếu như em làm công tử bực mình thì công tử cứ vứt em xuống biển cho cá ăn.

Trương Vô Kỵ cười:

- Làm sao tôi bỏ cô cho đành.

Hai người tuy ở cùng với nhau lâu ngày, có khi trên đường khách xá không tiện, ngủ chung một phòng nhưng Tiểu Siêu biết mình thân phận tôi tớ, còn Trương Vô Kỵ trước nay chưa bao giờ bông đùa chớt nhả, lúc này chàng buột miệng nói ra: "Làm sao tôi bỏ cô cho đành" biết mình lỡ lời không khỏi đỏ mặt, vội quay đầu giả vờ nhìn ra song cửa. Tiểu Siêu cũng nhè nhẹ thở dài, đến ngồi bên cạnh chàng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô em lại thở dài thế?

Tiểu Siêu nói:

- Công tử thực sự không bỏ được đâu phải chỉ một người. Chu cô nương của phái Nga Mi, Quận Chúa nương nương của Nhữ Dương Vương phủ, rồi mai này không biết bao nhiêu người nữa, lúc đó trong lòng công tử liệu có còn nhớ đến đứa tớ gái này nữa chăng?

Trương Vô Kỵ đi vòng lại trước mặt nàng chậm rãi nói:

- Tiểu Siêu, em từ trước đến nay đối với tôi tốt biết mấy, chẳng lẽ tôi không biết đến hay sao? Chẳng lẽ tôi lại vong ân phụ nghĩa, không biết người tốt kẻ xấu hay sao?

Chàng nói hai câu đó vẻ mặt đầy trịnh trọng, lời nói thật chân thành. Tiểu Siêu vừa thẹn thùng, lại vừa vui sướng, cúi đầu nói nhỏ:

- Em chẳng mong được công tử đối với em khác gì hơn, chỉ mong được làm một đứa a hoàn suốt đời hầu hạ công tử, cũng đã thỏa nguyện lắm rồi. Đêm qua công tử không ngủ, chắc là mệt lắm, thôi lên giường nghỉ một lát đi.

Nói rồi nàng liền trải chăn, hầu hạ chàng đi nằm, còn mình thì lại ngồi bên cửa sổ, chăm chú đan áo. Trương Vô Kỵ nghe tiếng sợi dây xích nơi cổ tay Tiểu Siêu leng keng như tiếng khánh, cảm thấy trong lòng bình an phẳng lặng, chẳng bao lâu đã thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một mạch đến xế chiều mới dậy, ăn một bát mì rồi nói:

- Tiểu Siêu, tôi đưa cô đến gặp Triệu cô nương, mượn thanh kiếm Ỷ Thiên chặt dây xích ở chân tay cho cô.

Hai người đi ra đường, thấy binh lính Mông Cổ cưỡi ngựa đi qua đi lại, canh phòng thật nghiêm, chắc là vì chuyện đêm qua phủ Nhữ Dương Vương bị đốt, chùa Vạn An đại loạn mà ra. Hai người mỗi khi nghe tiếng chân ngựa lại nép mình vào dưới mái hiên hay góc nhà, không cho lính tuần trông thấy, chẳng mấy chốc đã đến cái quán rượu nhỏ.

Trương Vô Kỵ dẫn Tiểu Siêu tiến vào quán, đã thấy Triệu Mẫn ngồi ở chỗ hai người ngồi hôm qua, cười mủm mỉm đứng lên nói:

- Trương công tử quả là người thủ tín.

Trương Vô Kỵ thấy nàng thần sắc như thường, không có vẻ gì là khó chịu về chuyện đêm qua, nghĩ thầm: "Cô gái này quả là người có bản lãnh, cứ lý mà nói ta sai người giết mất ái cơ của cha cô ta, lại cứu thoát tất cả người của lục đại môn phái cô ta mất bao tâm huyết mới bắt được, đáng lẽ phải giận ta lắm, ngờ đâu vẫn bình tĩnh như không, chẳng biết nàng ta sẽ làm gì đây".

Chàng thấy trên bàn đã bày hai chiếc bát, hai đôi đũa liền cúi chào một cái rồi ngồi xuống còn Tiểu Siêu đứng hầu ở xa xa.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Triệu cô nương, chuyện xảy ra đêm qua, tại hạ quả là đắc tội, mong cô tha lỗi cho.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Cái nàng Hàn cơ của gia gia õng a õng ẹo, tôi gặp là chán ngấy. Cảm ơn anh sai người giết đi, mẹ tôi cũng khen anh có tài.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên không ngờ lại ra thế, quả thực ngoài dự liệu. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Bọn kia anh cứu ra cũng tốt, còn không họ chẳng qui hàng, tôi có giữ thêm cũng vô dụng. Anh cứu họ ra, mọi người hẳn là cảm kích lắm, từ nay thanh vọng trong võ lâm Trung Nguyên không ai bằng anh được. Trương công tử, để tôi kính mừng anh một chén.

Nói xong cười khúc khích nâng chén rượu lên.

Ngay khi đó, từ ngoài cửa một người bước vào, chính là Phạm Dao. Y tiến đến hành lễ với Trương Vô Kỵ, sau đó cung kính vái Triệu Mẫn, nói:

- Quận chúa, khổ đầu đà xin cáo từ â.

Triệu Mẫn không thèm đáp lễ, lạnh lùng đáp:

- Khổ đại sư, ông đánh lừa tôi thật quá lắm. Quận chúa của ông phen này thật hố to.

Phạm Dao đứng thẳng người lên, ngang nhiên nói:

- Khổ đầu đà họ Phạm tên Dao, là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo. Bản nhân trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương, cũng có lý do mà đến, may được quận chúa dùng lễ kính đãi, hôm nay đến để từ biệt.

Triệu Mẫn vẫn lạnh lùng:

- Ông muốn đi thì đi, việc gì phải đa lễ thế?

Phạm Dao đáp:

- Đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, từ nay trở đi, tại hạ là kẻ địch của quận chúa, nếu không cáo từ minh bạch chẳng hóa ra phụ tấm lòng đối đãi lâu nay của quận chúa hay sao?

Triệu Mẫn nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:

- Anh có tài gì mà thủ hạ đối với anh kiệt tâm tận lực đến thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chúng tôi chỉ vì nước, vì dân, vì nhân hiệp, vì nghĩa khí. Phạm hữu sứ với tôi vốn không biết nhau, nhưng mới gặp đã như quen lâu, lấy ruột gan lo liệu cho nhau, cũng chẳng qua cũng chỉ là một chữ "nghĩa" của tình huynh đệ mà ra.

Phạm Dao cười ha hả nói:

- Mấy câu nói đó của giáo chủ chính đã nói lên tâm sự của thuộc hạ. Giáo chủ xin cố bảo trọng tấm thân. Vị quận chúa nương nương này tuy tuổi còn trẻ nhưng lòng dạ tàn độc không phải tầm thường. Giáo chủ tâm địa quá tốt không thể nào sánh được đâu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng, bản thân tôi không dám khinh suất.

Triệu Mẫn cười:

- Đa tạ khổ đại sư đã ca ngợi.

Phạm Dao quay người đi ra khỏi quán rượu, đi ngang qua Tiểu Siêu, đột nhiên giật mình, trên mặt lộ vẻ kinh ngạc dị thường, chẳng khác gì trông thấy ma quỉ gớm ghiếc, thất thanh kêu lên:

- Ngươi ... ngươi ....

Tiểu Siêu lạ lùng:

- Cái gì thế?

Phạm Dao ngây người nhìn cô ta một hồi, lắc đầu đáp:

- Không phải... không phải ..., tôi nhìn lầm.

Y thở dài một tiếng, thần sắc trở lại bình thường đẩy cửa đi ra, miệng vẫn lẩm bẩm: "Giống quá, giống quá".

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, không biết y nói giống đây là giống cái gì.

Bỗng nghe từ xa truyền tới mấy hồi còi, ba tiếng dài, hai tiếng ngắn, âm thanh sắc nhọn chói tai. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nhớ lại đây là tiếng còi triệu tập đồng môn của phái Nga Mi, trước đây tại Tây Vực ở cùng đoàn người của phái Nga Mi đã thấy mấy lần họ dùng tiếng còi như thế này để liên lạc, nghĩ thầm: "Tại sao phái Nga Mi lại quay trở lại Đại Đô? Không lẽ họ gặp địch chăng?". Triệu Mẫn nói:

- Đây là phái Nga Mi, dường như họ có chuyện gì gấp, mình đi xem coi thế nào, anh nghĩ sao?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Cô cũng biết thế à?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi ở Tây Vực dẫn người đuổi theo họ luôn bốn ngày bốn đêm, sau cùng bắt được Diệt Tuyệt sư thái, không lẽ không biết?

Trương Vô Kỵ nói:

- Được, vậy mình đi xem sao. Triệu cô nương, tôi nhờ cô một việc trước, cô cho tôi mượn thanh kiếm Ỷ Thiên một chút.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Anh chưa đi mượn đao Đồ Long cho tôi đã mượn thanh kiếm Ỷ Thiên rồi, tính thế quả thực tinh minh.

Nàng cởi thanh kiếm buộc bên hông đưa cho Vô Kỵ. Vô Kỵ cầm lấy, rút kiếm ra khỏi vỏ nói:

- Tiểu Siêu, cô lại đây.

Tiểu Siêu đi đến trước mặt chàng, Trương Vô Kỵ múa kiếm chém xuống, loảng xoảng mấy tiếng nho nhỏ, các khóa xích trên tay chân Tiểu Siêu đứt rời, rơi xuống đất. Tiểu Siêu phục xuống lạy nói:

- Đa tạ công tử, đa tạ quận chúa.

Triệu Mẫn cười nói:

- Cô bé này xinh thật. Giáo chủ hẳn là thích ngươi lắm.

Tiểu Siêu mặt đỏ bừng, mắt sáng lên một niềm vui vô bờ bến. Trương Vô Kỵ tra kiếm vào vỏ, trả lại cho Triệu Mẫn, thấy tiếng còi hiệu của phái Nga Mi chạy thẳng về hướng đông bắc, liền nói:

- Thôi mình đi.

Triệu Mẫn lấy ra một đĩnh bạc nhỏ vứt lên bàn, quay mình ra khỏi tiểu điếm. Trương Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu không theo kịp, tay phải nắm lấy tay cô gái, tay trái đỡ ngang lưng, chạy theo sát ngay sau Triệu Mẫn. Chỉ chạy độ hơn chục trượng, chàng thấy thân hình Tiểu Siêu nhẹ lâng lâng, bước chân di động thật là nhanh nhẹn, chàng hơi lạ lùng, tay không đỡ nữa, thấy Tiểu Siêu vẫn đi ngang với mình, trước sau không bị sút kém chút nào. Tuy lúc này chàng chưa thi triển khinh công thượng thừa nhưng chân đã chạy rất nhanh, vậy mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.

Chẳng mấy chốc, Triệu Mẫn đã đi qua mấy đường hẻm vắng vẻ, đến bên ngoài một cái nhà nhỏ có tường vây quanh. Trương Vô Kỵ nghe loáng thoáng bên trong có tiếng đàn bà cãi cọ, biết ngay người của phái Nga Mi đang ở trong đó, liền nắm tay Tiểu Siêu nhảy qua tường, trong đêm tối rơi xuống không một tiếng động. Dưới chân tường cỏ mọc cao, thì ra là một khu vườn hoang. Triệu Mẫn cũng nhảy vào theo, cả ba người nằm phục trong đám cỏ dày.

Ở phía bắc khu vườn có một tòa lương đình đổ nát, bên trong thấp thoáng tụ tập phải đến hai chục người. Có tiếng đàn bà nói:

- Ngươi là đệ tử trẻ nhất của bản môn, nói đến dáng dấp bề ngoài cho chí võ công, chẳng chỗ nào thấy xứng đáng làm chưởng môn ...

Trương Vô Kỵ nhận ra ngay đó là tiếng nói của Đinh Mẫn Quân, liền bò lần trong đám cỏ cao tới gần hơn, đến cách đám người chừng vài trượng mới ngừng lại. Khi đó ánh sao mờ mờ, chỉ thấy một số đông người nhưng khi chàng định thần nhìn kỹ thấy dường như có cả nam lẫn nữ, toàn là đệ tử của phái Nga Mi, ngoài Đinh Mẫn Quân, các đệ tử lớn của Diệt Tuyệt sư thái cũng đều có mặt. Phía bên trái có một người thân hình dong dỏng, quần xanh dài chấm đất, chính là Chu Chỉ Nhược. Giọng của Đinh Mẫn Quân hết sức gay gắt, tiếp tục nói:

- Ngươi nói, ngươi nói ...

Chu Chỉ Nhược chậm rãi nói:

- Đinh sư tỉ nói phải lắm, tiểu muội là một đệ tử trẻ tuổi của bản môn, nói về kinh nghiệm, võ công, tài cán, phẩm hạnh không có mặt nào xứng đáng gọi là chưởng môn bản phái cả. Sư phụ ra lệnh cho tiểu muội đảm đương trọng nhiệm, tiểu muội đã hết sức chối từ, nhưng tiên sư nặng lời trách mắng, bắt tiểu muội phải thề độc không được phụ lời dặn bảo của sư phụ.

Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền nói:

- Sư phụ anh minh, đã ra lệnh cho Chu sư muội nhận chức vụ chưởng môn, ắt có thâm ý. Chúng ta ai ai cũng chịu ơn của sư phụ tài bồi, phải tôn trọng di chí của lão nhân gia, đồng tâm phò tá Chu sư muội, làm rạng rỡ võ đức của bản môn.

Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Tĩnh Huyền sư tỉ nói sư phụ ắt có thâm ý, bốn chữ "ắt có thâm ý" quả thực đúng rồi. Chúng ta khi ở chùa, người trên tháp, kẻ dưới đất, có ai không chính tai nghe khổ đầu đà và Hạc Bút Ông nói với nhau đâu? Cha mẹ của Chu sư muội là ai, tại sao sư phụ lại đặc biệt hơn hết đối với Chu sư muội, chuyện rành rành ra đó còn gì?

Khổ đầu đà nói với Lộc Trượng Khách Diệt Tuyệt sư thái là người tình cũ của y, Chu Chỉ Nhược là con riêng của hai người, chẳng qua là cái tính tình tà ma ngoại đạo của y, thuận mồm nói đùa cho vui, nhưng Hạc Bút Ông lại công khai nói ra, người ngoài nghe thấy, tuy chẳng ai hoàn toàn tin nhưng cũng không khỏi nghi ngờ vài phần. Chuyện tư tình nam nữ, người đời thường nặng phần tin cái có, mấy ai tin cái không, mà Diệt Tuyệt sư thái thương yêu đặc biệt đối với Chu Chỉ Nhược, các đệ tử đều chẳng hiểu vì đâu, thành thử mấy chữ "con gái riêng" giải thích ổn thỏa hơn cả. Mọi người nghe Đinh Mẫn Quân đề cập đến chuyện đó, ai nấy lặng yên không trả lời.

Chu Chỉ Nhược run run đáp:

- Đinh sư tỉ, nếu như chị không bằng lòng việc tiểu muội tiếp nhiệm chưởng môn, thì cứ nói thẳng ra. Còn chuyện chị nói năng bậy bạ, làm bại hoại thanh dự một đời của sư phụ, cái đó tội gì? Tiên phụ của tiểu muội họ Chu, là một người chèo thuyền trên sông Hán Thủy, không biết chút võ công nào. Tiên mẫu họ Tiết, tổ tiên cũng là thế gia, gốc người ở Tương Dương, khi thành Tương Dương bị vỡ chạy về phía nam, luân lạc không nơi nương tựa, kết duyên với cha tiểu muội. Tiểu muội may được Trương chân nhân của phái Võ Đương tiến dẫn nên được vào làm môn hạ phái Nga Mi, còn trước đó chưa bao giờ gặp sư phụ bao giờ. Sư tỉ chịu đại ân của sư phụ, hôm nay lão nhân gia vừa về Tây phương, đã mở miệng ăn nói những lời như thế, còn ... còn ...

Nàng nói tới đây, âm thanh nghẹn ngào, nước mắt lã chã rơi xuống, không nói thêm được nữa. Đinh Mẫn Quân cười khẩy:

- Ngươi tiếp nhiệm chưởng môn bản phái nhưng chưa được đồng môn công nhận, thân phận mình còn mù mờ đã toan tác oai tác phúc, nói ta không phải, làm bại hoại thanh dự sư phụ, tội này tội nọ. Ngươi định trị tội ta chăng? Vậy ta hỏi ngươi: ngươi đã chịu lời dặn dò của sư phụ kế thừa chưởng môn, sao không lập tức quay về núi Nga Mi? Sư phụ tạ thế, công việc bản phái biết bao nhiêu, chuyện gì cũng cần có người chưởng môn để giải quyết. Tại sao ngươi lại một thân một mình quay lại Đại Đô, thế là cớ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Sư phụ giao cho tiểu muội một việc hết sức quan trọng, tiểu muội không về Đại Đô không được.

Đinh Mẫn Quân hỏi lại:

- Chuyện đó là chuyện gì? Ở đây chỉ toàn là đồng môn bản phái, không người ngoài nào, sao ngươi không nói rõ ra đi?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Đó là một chuyện tối bí mật của bản phái, trừ người chưởng môn ra, không thể nói cho ai khác.

Đinh Mẫn Quân lại cười khẩy:

- Gớm nhỉ, gớm nhỉ? Chuyện gì ngươi cũng đổ lên đầu ba chữ "chưởng môn nhân", tưởng đánh lừa được ai chăng? Này ta hỏi ngươi: bản phái và ma giáo thù sâu như bể, đồng môn chúng ta biết bao nhiêu người táng mạng ở tay ma giáo, còn giáo chúng ma giáo chết dưới kiếm Ỷ Thiên của sư phụ cũng không phải là ít. Sư phụ sở dĩ qua đời, cũng chỉ vì không muốn chịu giáo chủ ma giáo ra tay đỡ cho. Vậy mà tro tàn của sư phụ chưa lạnh, ngươi đã đi tìm tên tiểu dâm tặc họ Trương, hiện là đại ma đầu giáo chủ của ma giáo là sao?

Mấy câu sau cùng Trương Vô Kỵ nghe vào tai mà choáng váng. Ngay lúc đó, chàng thấy một ngón tay mềm mại của ai quẹt quẹt vào má mấy cái, chính là Triệu Mẫn ở bên cạnh trêu chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ ửng lên, nghĩ thầm: "Không lẽ Chu cô nương đi tìm ta thật chăng?".

Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược bẽn lẽn nói:

- Sư tỉ ... lại nói quấy nói quá ...

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng đáp:

- Ngươi còn chối nữa ư? Ngươi bảo mọi người về núi Nga Mi trước, chúng ta hỏi ngươi quay lại Đại Đô có chuyện gì, ngươi ấp úng không chịu nói ra. Các đồng môn biết có chuyện không phải mới lén theo ngươi, ngươi hỏi cha ngươi là khổ đầu đà chỗ ở của tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao? Ngươi đến khách điếm kiếm tên tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao?

Mụ ta hết "tiểu dâm tặc" này đến "tiểu dâm tặc" khác, Trương Vô Kỵ vốn tốt nhịn nhưng cũng bực mình, đột nhiên thấy trên cổ có ai phà một hơi, biết ngay là Triệu Mẫn lại trêu mình nữa. Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- Ngươi muốn kiếm ai nói chuyện, muốn tằng tịu với ai, người ngoài ai rỗi hơi để ý tới làm gì. Thế nhưng tên tiểu dâm tặc họ Trương này là kẻ sinh tử đối đầu của bản phái, vậy mà đêm hôm qua tất cả chạy ra khỏi Đại Đô, trên đường đi, sao ngươi vẫn còn nhìn y đắm đuối? Y đi đâu, mắt ngươi liếc theo đó, cái đó chẳng phải là ta đặt điều mà đồng môn ai ai cũng chính mắt trông thấy cả. Hôm trước trên Quang Minh Đính, tiên sư bảo ngươi đâm y một kiếm, y chẳng tránh né thì thôi, còn cười tít mắt lên với ngươi. Còn ngươi thì cũng liếc mắt đưa tình, chỉ rạch một đường như gãi ngứa. Kiếm Ỷ Thiên sắc bén là thế, sao đâm y không chết? Nếu hai đứa chẳng chuyện nọ chuyện kia, có ai mà tin cho được?

Chu Chỉ Nhược khóc òa lên, nói:

- Ai liếc mắt đưa tình bao giờ? Chị đừng có đem mấy tiếng khó nghe đó ra để vu hãm người khác.

Đinh Mẫn Quân cười khan một tiếng nói:

- Ta nói khó nghe, thế sao những gì ngươi làm không bảo khó coi? Thế ngươi nói năng dễ nghe lắm đấy? Hứ, thế lúc đó ngươi hỏi người chưởng quĩ thế nào? "Xin lỗi ngài, ở đây có vị khách họ Trương nào không? Ồ, chừng hai mươi tuổi, thân hình cao cao, hoặc giả ông ta không dùng họ Trương, dùng họ khác cũng nên".

Mụ ta eo éo, bắt chước giọng ngập ngừng của Chu Chỉ Nhược, giơ chân múa tay, cố làm cho ra vẻ yểu điệu, khiến người khác nghe phải nổi da gà. Trương Vô Kỵ trong lòng giận dữ, nghĩ thầm con mụ Đinh Mẫn Quân này là đứa điêu ngoa tai ác nhất trong phái Nga Mi, Chu Chỉ Nhược hiền lành yếu đuối, không thể nào là địch thủ của mụ được, nhưng nếu mình đứng ra che chở cho Chu Chỉ Nhược, trước là việc riêng của phái Nga Mi, người ngoài không tiện xen vào, thứ nữa như thế càng đẩy Chu Chỉ Nhược vào thêm bất lợi, nên thấy nàng bị dồn ép tới tận chân tường mà mình đành chịu bó tay.

Phái Nga Mi đại đa số đệ tử tuân theo di mệnh của sư phụ, nhận Chu Chỉ Nhược là chưởng môn, nhưng nay nghe Đinh Mẫn Quân lời nói sắc bén, nói ra hợp với thế thái nhân tình đều nghĩ thầm: "Sư phụ và ma giáo kết oán quá sau xa, nhưng Chu sư muội và giáo chủ ma giáo có liên hệ quả không tầm thường, ví như nàng đem bản phái bán đứt cho ma giáo thì biết làm sao đây?".

Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói tiếp:

- - Chu sư muội, ngươi do Trương chân nhân của phái Võ Đương dẫn nhập làm môn hạ của sư phụ, còn tên tiểu dâm tặc Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương ngũ hiệp. Bên trong có âm mưu gì quái lạ, nào ai biết đâu?

Mụ ta cao giọng nói:

- Chúng vị sư huynh, sư tỉ, sư đệ, sư muội, sư phụ tuy có di ngôn ra lệnh cho Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn, thế nhưng lão nhân gia không thể nào ngờ được người vừa viên tịch, tro tàn chưa lạnh thì người chưởng môn bản phái đã lẻn đi kiếm ngay giáo chủ ma giáo để tư tình. Việc đó có liên hệ trọn đại đến sự hưng suy tồn vong của bản phái, nếu như tiên sư có mặt hôm nay, lão nhân gia ắt sẽ chọn người chưởng môn khác. Di chí của sư phụ là làm sao bản phái phát dương quang đại, quyết chẳng thể nào mong muốn phái Nga Mi bị tiêu diệt bởi tay ma giáo. Cứ theo ý kiến tiểu muội, chúng ta nên kế thừa di chí của tiên sư, xin Chu sư muội giao lại thiết chỉ hoàn chưởng môn, chúng ta sẽ chọn một vị sư tỉ tài đức vẹn toàn, tiếng tăm võ công đều trội hơn tất cả đồng môn đứng ra giữ chức chưởng môn.

Mụ nói xong, trong đám đồng môn có đến sáu bảy người phụ họa. Chu Chỉ Nhược nói:

- Tiểu muội nhận mệnh lệnh của sư phụ, tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, chiếc nhẫn sắt này quyết không giao lại. Tiểu muội quả thực không ham chức chưởng môn, nhưng đã từng lập trọng thệ trước sư phụ, quyết sẽ không ... quyết sẽ không phụ lòng lão nhân gia ủy thác.

Mấy câu đó dường như không có chút uy lực nào cả, có những đồng môn trước kia chẳng ở phe nào, nghe nàng nói thế không khỏi thầm lắc đầu. Đinh Mẫn Quân gay gắt nói:

- Cái nhẫn sắt chưởng môn kia, ngươi có chịu giao ra hay không? Hai giới luật nghiêm trọng nhất của môn qui bản phái là khi sư diệt tổ và dâm tà vô sỉ ngươi đều đã phạm thì có còn đủ tư cách để chưởng lý môn hộ của phái Nga Mi nữa chăng?

Triệu Mẫn ghé môi để sát tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Chu cô nương của anh nguy mất rồi! Anh gọi tôi một tiếng "hảo tỉ tỉ", tôi sẽ ra mặt giải vây cô ta cho.

Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, biết cô gái này túc trí đa mưu, ắt có diệu kế giúp cho Chu Chỉ Nhược thoát cảnh khó khăn, nhưng nàng ta còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, phải hạ mình gọi nàng bằng chị không nhục nhã lắm ư. Chàng còn đang do dự, Triệu Mẫn nói tiếp:

- Anh không gọi cũng không sao, tôi đi đây.

Trương Vô Kỵ chẳng cách nào hơn, đành ghé tai nàng gọi một tiếng:

- Hảo tỉ tỉ.

Triệu Mẫn cười khúc khích, đang toan nhảy ra, trong đình đã có người phát giác. Đinh Mẫn Quân quát lên:

- Ai đó? Sao dám lén lút ở đó nghe lén?

Đột nhiên bên ngoài tường vọng vào mấy tiếng ho khan, tiếng một thiếu nữ trong trẻo hỏi:

- Đêm khuya thanh vắng, phái Nga Mi các ngươi ở đó lén lút làm cái gì?

Một làn gió theo mấy cái bóng lướt vào, bên ngoài lương đình đã có thêm hai người. Hai người đó dưới bóng trăng, Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, một lão bà già cả, tay cầm quài trượng, chính là Kim Hoa bà bà, còn một cô gái thân hình yểu điệu, mặt mày xấu xí, chính là cô em họ của Trương Vô Kỵ Châu Nhi A Ly, con gái của Ân Dã Vương.

Hôm đó Vi Nhất Tiếu bắt được Châu Nhi, chưa kịp lên Quang Minh Đính thì hàn độc phát tác, cố nhịn không hút máu nàng, chịu không nổi ngã ra đất, về sau được Chu Điên cứu tỉnh, đi tìm Châu Nhi thì không còn thấy bóng dáng đâu. Trương Vô Kỵ từ khi chia tay với nàng vẫn thường tưởng đến, không ngờ giờ phút này nàng lại xuất hiện, chàng mừng quá suýt nữa thì lên tiếng gọi.

Đinh Mẫn Quân lạnh lùng nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đến đây làm gì?

Kim Hoa bà bà hỏi lại:

- Sư phụ ngươi có ở đây không?

Đinh Mẫn Quân đáp:

- Tiên sư mới viên tịch tối hôm qua, bà ở ngoài tướng nghe trộm đã lâu, sao biết rồi mà còn hỏi?

Kim Hoa bà bà thất thanh kêu lên:

- A, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi đấy. Làm sao mà chết? Sao không đợi gặp ta một lần? Ôi chao, thật tiếc quá, tiếc quá ...

Bà ta chưa nói dứt câu đã gập người xuống ho sù sụ. Châu Nhi nhè nhẹ đấm lưng bà lão, nhìn Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:

- Ai thèm đến nghe lén chuyện của chúng bay? Ta và bà đi đi ngang qua đây, nghe thấy léo nhéo xí xố liên tu bất tận, nhận ra tiếng ngươi nên vào xem ra thế nào. Bà bà hỏi ngươi, ngươi không nghe à? Sư phụ ngươi vì sao mà chết?

Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:

- Cái đó có liên can gì đến ngươi? Tại sao ta lại phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở một hơi dài, chậm rãi nói:

- Ta bình sinh động thủ với người, chỉ thua sư phụ ngươi một lần. Cái đó chẳng phải vì võ công chiêu số không bằng, mà chỉ vì thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén quá. Ta mấy năm nay nguyện sẽ tìm ra một thanh bảo đao, để cùng với sư phụ ngươi phân cao thấp một lần nữa. Lão bà đi khắp chân trời góc bể, nhưng cũng không đến nỗi uổng công, đã được một người bạn cũ cho mượn đao để sử dụng. Ta nghe thấy phái Nga Mi bị triều đình bắt giam tại chùa Vạn An, định bụng đến cứu thầy ngươi ra, để hai bên tỉ đấu bằng bản lãnh chân thực, nà ngờ hôm nay đến đây, chùa Vạn An đã thành một đống gạch vụn. Ôi! Mệnh đã định rồi, Kim Hoa bà bà đời này không rửa được cái nhục bị thua. Diệt Tuyệt sư thái ôi là Diệt Tuyệt sư thái, sao mụ không chết trễ hơn một bữa nửa ngày?

Đinh Mẫn Quân nói:

- Nếu sư phụ ta lúc này nếu có còn tại nhân thế thì ngươi bất quá lại thua thêm một lần nữa thôi, để cho ngươi không còn bụng dạ nào ...

Đột nhiên nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật ròn, Đinh Mẫn Quân mắt hoa đầu váng, lảo đảo muốn ngã, bị Kim Hoa bà bà xoạc cẳng xuống tấn đánh cho bốn cái liền. Mọi người thấy bà ta ốm yếu ho hen, luôn mồm húng hắng nào ngờ ra tay lại nhanh đến thế, thủ pháp lại hết sức quái dị, bốn cái tát đó khiến cho Đinh Mẫn Quân không có cách nào kháng cự hay tránh né. Bà ta đứng cách Đinh Mẫn Quân vốn đến cả hai trượng, trong nháy mắt vụt đến bên cạnh, đánh bốn cái xong lại quay về, hành động không khác gì ma quỉ.

Đinh Mẫn Quân vừa sợ vừa tức, rút phắt kiếm ra, xông lên chỉ vào Kim Hoa bà bà nói:

- Con mụ ăn mày kia, bộ ngươi không muốn sống hay sao?

Kim Hoa bà bà dường như không nghe mụ ta chửi mắng, còn thanh kiếm trong tay coi như không thấy, chỉ chậm rãi hỏi:

- Sư phụ ngươi vì cớ gì mà chết?

Giọng nói buồn thiu, dường như trong lòng chán chường hết sức. Mũi kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân bất quá chỉ cách yết hầu bà ta chừng ba thước, nhưng vẫn không dám đâm vào, chỉ chửi:

- Mụ ăn mày, việc gì ta phải nói cho ngươi nghe?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: "Diệt Tuyệt sư thái, bà một đời anh hùng, đáng là một nhân vật xuất quần bạt tụy trong võ lâm. Vậy mà khi thác đi, trong đám đệ tử chẳng có đứa nào đứng ra tiếp nhiệm chưởng môn hay sao?".

Tĩnh Huyền sư thái tiến lên một bước, chắp tay hành lễ nói:

- Bần ni Tĩnh Huyền, tham kiến bà bà. Tiên sư lúc viên tịch có di mệnh cho Chu Chỉ Nhược Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn. Thế nhưng trong bản phái vẫn có một số đồng môn chưa phục. Tiên sư nay đã viên tịch rồi khiến cho bà bà không được thỏa lòng, âu cũng là cái số như thế còn biết nói sao bây giờ? Chưởng môn bản phái chưa định xong thành thử không thể cùng bà bà ước hội được. Thế nhưng phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, không thể nào làm mất uy danh của tiên sư. Bà bà có điều gì dạy bảo, xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn bản phái ắt sẽ theo qui củ võ lâm giải quyết cho xong. Còn như bà bà tự thị mình là bậc tiền bối, cưỡng bức khinh khi chúng tôi, phái Nga Mi tuy hôm nay gặp phải đại nạn nhưng cũng sẽ theo bà bà đến cùng, dù phải máu chảy khu vườn hoang này, cùng lắm đến chết thì thôi.

Những câu đó rạch ròi có lý, không ngang tàng mà cũng không luồn cúi, cả Trương Vô Kỵ lẫn Triệu Mẫn đều ngầm tấm tắc khen là đanh thép. Kim Hoa bà bà ánh mắt sáng lên nói:

- Thì ra lúc tiên sư viên tịch cũng đã truyền lại di mệnh, định người kế nhiệm chức chưởng môn, thế thì hay lắm. Vậy là vị nào đó? Xin cho gặp mặt.

Lời nói của bà ta lúc này so với khi nói chuyện với Đinh Mẫn Quân có vẻ khách sáo hơn nhiều. Chu Chỉ Nhược tiến lên thi lễ nói:

- Bà bà vạn phúc. Chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược, xin chào bà bà.

Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:

- Sao không biết xấu, tự phong cho mình làm chưởng môn đời thứ tư của bản phái.

Châu Nhi cười khẩy:

- Vị Chu tỉ tỉ này tốt lắm, hồi ta ở Tây Vực vẫn thường được Chu tỉ tỉ thăm nom. Chị ta không đáng làm chưởng môn, không lẽ ngươi mới đáng hay sao? Ngươi mà còn nói quấy quá trước mặt bà bà, ta sẽ thưởng cho ngươi thêm vài cái tát.

Đinh Mẫn Quân giận quá, rút phắt trường kiếm đâm luôn vào ngực Châu Nhi. Châu Nhi nghiêng người qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân. Thân pháp của nàng y hệt của Kim Hoa bà bà, nhưng ra tay thì chậm hơn nhiều. Đinh Mẫn Quân lập tức hụp đầu xuống tránh nên kiếm của mụ ta không trúng Châu Nhi. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con bé này, ta dạy ngươi bao nhiêu lần, cái chiêu dễ thế vẫn học chưa xong. Xem cho kỹ đây này.

Bà ta vung tay phải ra, thuận thế tát luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân một cái, tiếp theo tát trái vào má bên kia, thuận chiều tát qua má phải, lại qua bên trái, bốn cái cái nào cũng rõ ràng, ai cũng nhìn thấy thật rõ ràng nhưng Đinh Mẫn Quân tưởng như có ai dùng sức giữ chặt, chân tay không cử động được. Mụ ta bị bốn chưởng hoàn toàn không né tránh gì được cả, cũng may là Kim Hoa bà bà không vận nội kình lên tay nên mụ chưa bị trọng thương. Châu Nhi cười nói:

- Bà bà, thủ pháp đó con học được rồi, nhưng không có đủ nội kình như bà bà thôi. Để con thử lại.

Đinh Mẫn Quân bị nội lực của Kim Hoa bà bà giữ chặt, thấy Châu Nhi lại vả vào mặt mình, tức tối dường như muốn ngất đi. Đột nhiên Chu Chỉ Nhược lạng người tiến lên, tay trái đưa ra, đỡ chưởng của Châu Nhi lại, nói:

- Xin chị ngừng tay.

Nàng quay lại nói với Kim Hoa bà bà:

- Bà bà, Tĩnh Huyền sư tỉ chúng tôi mới đây đã nói rõ, đồng môn bản phái lúc này tuy võ học chưa tinh thâm được bằng bà bà, nhưng không chịu để cho bà bà muốn lăng nhục thế nào cũng được.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Con mụ họ Đinh kia mồm năm miệng mười, hở môi ra là không phục ngươi làm chưởng môn, ngươi lại còn ra đỡ cho y thị hay sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Việc bên trong môn phái chúng tôi, không liên can gì đến người ngoài. Tiểu nữ được tiên sư trối trăn, tuy bản lãnh thấp kém, nhưng quyết không để ai làm nhục đến môn nhân trong bản phái.

Kim Hoa bà bà cười:

- Giỏi lắm, giỏi lắm, giỏi lắm.

Bà ta mới nói ba tiếng "giỏi lắm" đã nổi cơn ho sù sụ. Châu Nhi liền lấy ra một viên thuốc đưa ra, Kim Hoa bà bà liền cầm lấy nuốt luôn, thở dốc một hồi, đột nhiên hai chưởng cùng tung ra, một tay để ngay ngực Chu Chỉ Nhược, một tay đè luôn lên lưng, ép chặt thân hình nàng giữa hai bàn tay, những nơi ấn vào đều là đại huyệt chí mạng.

Chiêu đó tung ra thật là quái dị, Chu Chỉ Nhược lúc này võ công tuy chưa nhiều nhưng cũng học được ba phần chân truyền của Diệt Tuyệt sư thái, không ngờ bị đối phương khống chế ngay các đại huyệt nơi ngực và lưng, khiến nàng sợ đến mặt tái mét, không nói ra được lời nào. Kim Hoa bà bà thản nhiên nói:

- Chu cô nương, cô là chưởng môn mà võ công sao quá tầm thường. Không lẽ sư tôn mang trọng nhiệm gánh vác phái Nga Mi giao cho một cô gái liễu yếu dào tơ như cô hay sao? Ta xem ra quá nửa là cô thổi phồng lên thôi.

Chu Chỉ Nhược định thần nghĩ thầm: "Lúc này bà ta chỉ cần nhả nội kình là tâm mạch ta bị chấn đoạn, chết ngay tại chỗ. Ta làm cách nào để khỏi làm mất uy phong của sư phụ đây?". Nàng nghĩ đến thầy, dũng khí lập tức tăng gia gấp trăm lần, giơ tay ra nói:

- Đây là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, do chính tiên sư đeo vào tay tiểu nữ, không lẽ còn giả hay sao?

Kim Hoa bà bà cười rộ nói:

- Lúc nãy sư tỉ ngươi có nói, Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm. Lời đó xem ra cũng đúng, thế nhưng chỉ bằng chút bản lãnh như nhà ngươi mà có thể làm chưởng môn một phái lớn trong võ lâm hay sao? Xem ra các ngươi nên nghe lời ta dạy bảo là hơn.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Kim Hoa bà bà, tiên sư tuy đã viên tịch nhưng phái Nga Mi không phải vì thế mà bị tiêu diệt. Tiểu nữ rơi vào tay bà bà rồi, muốn giết thì giết, chứ đừng tưởng đến chuyện ép tôi làm điều không nên không phải. Bản phái bị hãm vào gian kế của triều đình, bị giam trong tháp nhưng có ai chịu đầu hàng đâu? Chu Chỉ Nhược này tuy chỉ là một đứa con gái tuổi thì trẻ, sức thì yếu nhưng đã gánh vác trọng nhiệm trên vai vốn đã chẳng coi sống chết vào đâu rồi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng lưng và ngực đã bị Kim Hoa bà bà đè tay lên, sống chết chỉ còn là một hơi thở nhưng vẫn hiên ngang, chỉ e Kim Hoa bà bà nổi giận lên sẽ lấy mạng nàng không chừng. Trong cơn nguy cấp, chàng toan nhảy ra cứu nhưng Triệu Mẫn đã đoán được bụng dạ chàng, nắm cánh tay lay lay mấy cái ý nói đừng nóng.

Lại nghe Kim Hoa bà bà cười ha hả nói:

- Diệt Tuyệt sư thái quả nhiên có mắt thật. Cô tiểu chưởng môn này võ công tuy kém nhưng tính hạnh lại cứng cỏi. Ôi, quả là thế võ công kém còn luyện được cho giỏi chứ núi sông dễ đổi, bản tính khó thay.

Thực ra lúc này Chu Chỉ Nhược sợ đã đến mất hồn vía, chỉ vì nghĩ đến sư phụ khi lâm chung mang trọng nhiệm ủy thác cho mình nên cố gắng ngang tàng, không chịu khuất phục đấy thôi.

Các đồng môn phái Nga Mi vốn không coi Chu Chỉ Nhược ra gì, nhưng lúc này thấy nàng không kể tư hiềm, dám đứng ra bảo vệ Đinh Mẫn Quân, đến lúc bị địch uy hiếp vẫn không làm mất thanh danh bản phái, ai nấy đều mang lòng kính phục. Thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền rung một cái, huýt mấy tiếng còi, người của phái Nga Mi lập tức dãn ra, rút binh khí, bao vây tòa lương đình lại. Kim Hoa bà bà cười nói:

- Làm gì đấy?

Tĩnh Huyền đáp:

- Bà bà bắt giữ chưởng môn phái Nga Mi là có ý gì?

Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:

- Các ngươi tưởng cậy đông mà thắng được hay sao? Ha ha, dưới mắt Kim Hoa bà bà này, dù có đông gấp mười cũng có khác gì bao nhiêu?

Đột nhiên bà ta bỏ Chu Chỉ Nhược ra, thân hình rung động vọt đến ngay trước mặt Tĩnh Huyền, ngón tay trỏ và ngón tay giữa đâm vào hai mắt. Tĩnh Huyền vội múa kiếm lên chém vào hai cánh tay, chỉ nghe "hự" một tiếng, một đồng môn sư muội đứng kế bên đã ngã gục. Kim Hoa bà bà giả vờ tấn công Tĩnh Huyền nhưng chân trái đã đá trúng huyệt đạo nơi hông của một nữ đệ tử phái Nga Mi. Chỉ thấy thân hình bà ta bay qua bay lại thoăn thoắt trong lương đình, cánh tay áo phất phới, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho mấy tiếng, trường kiếm của phái Nga Mi đâm ra nhưng không ai trúng nổi vạt áo bà ta, trong nam nữ đệ tử đã có đến bảy tám người bị đánh trúng huyệt đạo ngã xuống. Thủ pháp đả huyệt của bà ta cũng thật lạ lùng, người trúng đòn ai nấy đều kêu rống lên. Trong giây lát, trong khu vườn hoang tiếng kêu la hết người nọ tới người kia thật ghê rợn, ai nghe thấy cũng phải rùng mình.

Kim Hoa bà bà vỗ tay một cái quay trở vào lương đình nói:

- Chu cô nương, võ công của phái Nga Mi so với Kim Hoa bà bà thì thế nào?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Võ công bản phái lẽ dĩ nhiên phải cao hơn bà bà rồi. Năm xưa bà bà bị đánh bại dưới kiếm của tiên sư, không lẽ bà quên rồi sao?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Diệt tuyệt lão ni ỷ vào thanh kiếm sắc bén, đâu có tính được?

Chu Chỉ Nhược hỏi lại:

- Bà bà cứ theo lương tâm nói một câu, nếu như tiên sư và bà bà hai người tay không đấu với nhau thì ai thua ai được?

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Không biết nữa. Ta đã định để xem tôn sư và ta ai mạnh ai yếu, chính thế mà hôm nay mới tới Đại Đô. Ôi, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi, trong võ lâm lại mất đi một cao nhân. Tre già đã tàn rồi, măng mới lại chưa mọc, phái Nga Mi từ nay sẽ suy đồi.

Bảy đệ tử phái Nga Mi nằm ngoài kia kêu la không ngớt càng làm chứng cho lời của Kim Hoa bà bà. Tĩnh Huyền và những đệ tử lớn tuổi cố sức xoa bóp cho bọn họ được máu huyết lưu thông nhưng không thấy công hiệu chút nào, xem ra chỉ một mình Kim Hoa bà bà mới có thể giải được.

Trương Vô Kỵ năm xưa đã từng chữa cho biết bao nhiêu người bị Kim Hoa bà bà đả thương, biết rằng bà lão này ra tay rất ác độc, trên giang hồ ít thấy ai như thế. Chàng định nhảy ra cứu chữa nhưng nghĩ lại: "Nếu mình ra giúp Chu cô nương thì lại đắc tội với Châu Nhi. Biểu muội đối với ta rất tốt, lại là chỗ cốt nhục chí thân, ta đâu có thể bên dày bên mỏng cho được?".

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Chu cô nương, ngươi đã phục chưa?

Chu Chỉ Nhược cứng đầu cứng cổ đáp:

- Võ công bản phái sâu như biển cả, không thể chỉ một sớm một chiều mà thành tựu được. Chúng tôi tuổi còn trẻ, biết rằng không bằng bà bà nhưng ngày sau tiến triển, đâu có biết đến đâu cho cùng.

Kim Hoa bà bà cười đáp:

- Giỏi nhỉ! Giỏi nhỉ! Vậy thì Kim Hoa bà bà này xin cáo từ. Đợi đến khi các ngươi võ công tiến triển không biết thế nào cho cùng sẽ quay lại giải huyệt cho bọn kia cũng được.

Nói xong dắt tay Châu Nhi, quay mình đi ra. Chu Chỉ Nhược nghĩ đến nỗi khổ của đồng môn, một giờ một phút còn chịu không nổi, Kim Hoa bà bà một khi đi mất rồi, chỉ e họ đau đến chết mất, vội nói:

- Bà bà hãy khoan đã. Xin giải huyệt cho những vị sư tỉ sư huynh đồng môn này đi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Muốn ta giải cứu cũng chẳng khó khăn gì. Từ nay trở đi, Kim Hoa bà bà và đứa học trò này đi đến đâu, người của phái Nga Mi phải tránh ra tìm đường khác mà đi.

Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: "Ta vừa mới làm chưởng môn đã gặp ngay đại địch thế này. Nếu như bằng lòng chịu khuất phục như thế, phái Nga Mi còn đứng trong võ lâm làm sao được? Không lẽ phái Nga Mi này lại bị hủy diệt trong tay ta ư?".

Kim Hoa bà bà thấy nàng còn đang lưỡng lự không trả lời, cười nói tiếp:

- Ngươi không muốn thanh danh phái Nga Mi bị đắm chìm thì cũng chẳng sao, ngươi đưa thanh kiếm Ỷ Thiên cho ta dùng, ta sẽ giải cứu đồng môn cho.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Thầy trò chúng tôi trúng phải gian kế của triều đình bị giam nơi cao tháp, thanh Ỷ Thiên kiếm còn ở trong tay chúng tôi sao được?

Kim Hoa bà bà vốn không nghĩ ra chuyện đó, chuyện đòi mượn kiếm xem ra chắc như cua gạch, nay nghe Chu Chỉ Nhược nói vậy, mặt đầy vẻ thất vọng, đột nhiên hậm hực nói:

- Nếu ngươi muốn bảo toàn thanh danh phái Nga Mi, thì không bảo vệ được tính mạng của mình ...

Nói xong lấy trong bọc ra một viên thuốc, nói:

- Đây là thuốc độc Đoạn Trường Liệt Tâm, ngươi uống đi thì ta cứu bọn kia cho.

Chu Chỉ Nhược nghĩ đến lời trối trăn của sư phụ mà đứt từng tấc ruột, nghĩ thầm: "Thầy ta bảo ta đánh lừa Trương công tử, chuyện đó ta vốn không thể nào làm được, có sống cũng chịu biết bao dày vò, chi bằng chết đi là hơn, một việc xong thì mọi việc cũng xong không còn gì phải lo lắng nữa". Nàng nghĩ thế tay run run cầm viên thuốc độc. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội, không được uống.

Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, toan nhảy ra ngăn cản, Triệu Mẫn liền ghé tai chàng nói thầm:

- Ngốc ơi là ngốc! Thuốc giả đấy, có phải thuốc độc đâu.

Trương Vô Kỵ còn đang ngạc nhiên thì Chu Chỉ Nhược đã bỏ viên thuốc vào mồm nuốt luôn. Bọn Tĩnh Huyền liền nhao nhao lên, tất cả xông vào Kim Hoa bà bà toan động thủ. Kim Hoa bà bà nói:

- Giỏi lắm, quả là có cốt khí, viên thuốc độc này không phát tác ngay đâu. Chu cô nương, ngươi đi theo ta, ngoan ngoãn nghe lời, nếu như lão bà vui lòng, không chừng sẽ cho ngươi thuốc giải.

Nói xong đi đến chỗ những đồng môn phái Nga Mi bị điểm huyệt, vỗ vào mỗi người mấy cái. Những người đó liền hết đau ngay, ai nấy vô cùng cảm kích, có người nói:

- Đa tạ chưởng môn.

Kim Hoa bà bà cầm tay Chu Chỉ Nhược, dịu dàng nói:

- Con ngoan lắm, đi theo ta, bà bà không ngược đãi con đâu.

Chu Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, thấy một luồng kình lực cực mạnh nhấc lên, thân hình lập tức bay bổng. Tĩnh Huyền kêu lên:

- Chu sư muội ...

Người ni cô xông ra toan ngăn trở, bỗng thấy có một luồng chỉ phong đâm tới, chính là Châu Nhi ở bên cạnh dùng ngón tay tấn công. Tĩnh Huyền tay trái vung lên chặn lại, không ngờ chỉ đó chỉ là hư chiêu, nghe bộp một cái, tát trúng ngay mặt Đinh Mẫn Quân, môn "Chỉ Đông Đả Tây" ấy chính là võ học của Kim Hoa bà bà.

Chỉ nghe Châu Nhi cười khanh khách, đã nhảy vọt qua tường mà đi. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Mau đuổi theo!

Một tay chàng nắm Triệu Mẫn, một tay chàng dắt Tiểu Siêu, ba người cùng vượt tường ra ngoài. Bọn Tĩnh Huyền thấy trong đám cỏ có ẩn ba người ai nấy đều kinh ngạc. Khinh công của Kim Hoa bà bà và Trương Vô Kỵ cao siêu biết bao, đến khi người của phái Nga Mi nhảy được lên trên tường, cả sáu người đã chìm vào trong bóng đêm không biết đi về hướng nào.

Trương Vô Kỵ đuổi theo được chừng mươi trượng, Kim Hoa bà bà chân không chậm lại quát lên:

- Đệ tử của phái Nga Mi vẫn còn có kẻ dám đuổi theo Kim Hoa bà bà, ha ha, quả cũng gớm thật.

Triệu Mẫn quát:

- Mau thả chưởng môn bản phái ra.

Nàng thân hình lạng một cái, vọt lên mấy trượng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã đâm luôn vào sau lưng Kim Hoa bà bà. Chiêu "Kim Đính Phật Quang"[1] chính là một chiêu đích truyền của phái Nga Mi, nàng học được từ các nữ đệ tử phái Nga Mi nơi chùa Vạn An, nhưng vì không được xem Diệt Tuyệt sư thái thi triển, thành thử không mấy tinh diệu.

Kim Hoa bà bà thấy tiếng binh khí xé gió ở sau lưng, liền buông Chu Chỉ Nhược ra, vội xoay người lại. Triệu Mẫn cổ tay lách một cái, dùng ngay chiêu "Thiên Phong Cạnh Tú"[2]. Kim Hoa bà bà biết món binh khí trong tay nàng chính là bảo kiếm Ỷ Thiên, trong lòng vừa mừng vừa sợ, liền tiến lên vươn tay toan cướp lấy. Hai bên trao đổi mấy chiêu, Kim Hoa bà bà đã tiến đến sát bên mình Triệu Mẫn, mấy ngón tay đang định chộp vào cổ tay cầm kiếm của nàng, nào ngờ Triệu Mẫn liền vòng kiếm lại, sử một chiêu "Thần Đà Tuấn Túc"[3] của phái Côn Lôn.

Kim Hoa bà bà thấy nàng là một cô gái trẻ tuổi, tay lại cầm kiếm Ỷ Thiên, sử dụng đích truyền kiếm pháp của phái Nga Mi nên vẫn tưởng nàng là người của phái Nga Mi. Để đối phó với Diệt Tuyệt sư thái, bà ta đã nghiên cứu kiếm pháp phái Nga Mi mấy năm qua, thấy Triệu Mẫn sử qua mấy chiêu, nghĩ nàng công lực chắc chẳng đến đâu nên đã tính toán rõ ràng, một khi tiến được đến gần nàng thì ắt sẽ đoạt được thanh kiếm. Nào ngờ cô gái này đột nhiên đổi qua Côn Lôn kiếm pháp, Kim Hoa bà bà nếu như không định tâm trước thì kiếm pháp phái Côn Lôn bà ta có coi vào đâu, chỉ vì chiêu này quá ư bất ngờ, nên dù võ công cao cường nhưng cũng sợ đến toát mồ hôi, vội lăn xuống đất mới tránh thoát được. Tuy thế tay áo bên trái cũng đã bị mũi kiếm rạch một đường mất một miếng lớn.

Kim Hoa bà bà vừa sợ vừa tức, lại xông lên. Triệu Mẫn biết võ công mình kém bà ta quá xa, không dám sách chiêu, chỉ múa thanh Ỷ Thiên kiếm, đâm trái chém phải, lách qua đông lượn qua tây, lúc thì kiếm pháp của phái Không Động, lúc thì của phái Hoa Sơn, vừa sử xong chiêu "Đại Mạc Phi Sa"[4] của phái Côn Lôn, lại ra ngay chiêu "Kim Châm Độ Kiếp" trong Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm. Chiêu nào cũng là tinh hoa của các môn phái, chiêu nào cũng đầy uy lực, lại thêm thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén khiến Kim Hoa bà bà bụng kinh ngạc vô cùng, nhất thời chưa có cách nào tới gần được.

Châu Nhi xem lại càng gấp gáp, vội cởi thanh kiếm đeo bên hông ra ném cho Kim Hoa bà bà. Triệu Mẫn tấn công bảy tám thế liền, đến chiêu thứ chín, Kim Hoa bà bà không còn cách nào khác phải vung kiếm gạt ra, nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã gãy làm hai.

Kim Hoa bà bà mặt liền biến sắc, nhảy vọt ra ngoài, quát hỏi:

- Con nhãi kia, ngươi là ai?

Triệu Mẫn cười đáp:

- Sao mụ không rút đao Đồ Long ra?

Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:

- Nếu ta có đao Đồ Long trong tay, ngươi làm sao đỡ được tám chiêu, mười chiêu? Ngươi có giỏi thì đi theo ta thử một phen xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu như mụ có được đao Đồ Long thì hay lắm. Ta sẽ ở Đại Đô chờ mụ, để mụ đi lấy đao Đồ Long về đấu nữa.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ngươi quay đầu lại cho ta nhìn rõ mặt nào.

Triệu Mẫn liền nghiêng người, le lưỡi, mắt trái nhắm, mắt phải mở, nhăn mặt méo mồm thành một người thật quái dị để trêu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giận quá, nhổ toẹt một bãi xuống đất, ném thanh kiếm gãy đi, hai tay dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược đi mất.

Trương Vô Kỵ nói:

- Mình mau đuổi theo.

Triệu Mẫn đáp:

- Cái đó cũng không gấp gì, anh cứ để tôi. Tôi bảo đảm là Chu cô nương không sao đâu.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao cô lại nhắc tới đao Đồ Long?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi nghe bà ta nói nơi khu vườn hoang là đã đi khắp chân trời góc biển, sau cùng đã mượn được của người quen cũ một thanh bảo đao, muốn đấu với kiếm Ỷ Thiên của Diệt Tuyệt sư thái. "Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?". Muốn tranh phong với kiếm Ỷ Thiên chỉ có đao Đồ Long thôi, không lẽ bà ta đã mượn được của Tạ tiền bối nghĩa phụ anh thanh đao này? Khi tôi múa kiếm đấu với bà ta chỉ cốt ép cho bà ta rút đao ra. Thế nhưng bà ta không có đao bên người, lại bảo tôi đi theo bà ta để thử, xem chừng đã biết được đao Đồ Long ở nơi đâu nhưng không lấy được đấy thôi.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm rồi đáp:

- Kể cũng lạ thật.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi chắc là bà ta ra bờ bể, giương buồm đi tìm thanh đao. Mình phải làm sao chặn trước đừng để một người hai mắt đã mù, tâm địa lại nhân hậu như Tạ lão tiền bối bị bà ta lừa dối.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói đến câu sau cùng, nhiệt huyết trào lên, vội nói:

- Đúng lắm, đúng lắm.

Chàng lúc trước nhận lời Triệu Mẫn đi mượn thanh đao Đồ Long, chỉ vì lời nói của kẻ đại trượng phu đáng giá nghìn vàng, không thể nuốt lời, lúc này nghĩ đến Kim Hoa bà bà gây khó khăn cho nghĩa phụ mình lại hận không có cánh để bay ra cứu giúp.

Sau đó Triệu Mẫn dẫn hai người đến trước vương phủ, dặn dò người canh cửa một hồi. Tên vệ sĩ đó luôn mồm vâng dạ, quay mình đi vào, chẳng bao lâu dắt ra chín con tuấn mã, xách theo một bọc vàng bạc đưa cho nàng. Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu ba người cưỡi ba con ngựa, còn sáu con kia dẫn theo thay đổi, chạy về hướng đông.

Sáng sớm hôm sau, chín con ngựa đều đã mỏi mệt chịu không nổi. Triệu Mẫn liền đưa kim bài điều động binh mã của Nhữ Dương Vương cho quan địa phương, đổi lấy chín con ngựa khác nên tới khuya hôm đó đã đến bờ biển.

Triệu Mẫn cưỡi ngựa chạy thẳng vào huyện thành, ra lệnh cho quan huyện cấp tốc chuẩn bị một chiếc thuyền đi biển kiên cố nhất, trên thuyền chuẩn bị đà công, thủy thủ, lương thực, nước ngọt, binh khí, áo lạnh cho thật đầy đủ. Ngoài ra, các thuyền bè lập tức đuổi cả về phía nam, chung quanh bờ biển năm mươi dặm không cho một chiếc thuyền nào được đậu cả. Kim bài của Nhữ Dương Vương đưa đến, một tên quan huyện nho nhỏ lẽ nào dám trái lệnh? Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Tiểu Siêu ở lại vệ môn uống rượu chờ tin. Chưa tới một ngày, quan huyện đến báo cho hay mọi thứ đã sắp đặt hoàn bị.

Ba người đến bờ biển nhìn chiếc thuyền, Triệu Mẫn không khỏi dậm chân kêu lên:

- Hỏng rồi.

Thì ra chiếc thuyền đang đậu nơi đó là một chiếc hải thuyền thật lớn, cao hai tầng, đầu thuyền và hai bên mạn có gắn súng, chính là một chiếc pháo thuyền của quân Mông Cổ. Năm xưa người Mông Cổ đem đại quân viễn chinh Nhật Bản nên tập họp rất nhiều thuyền bè, không ngờ bị một cơn bão, bao nhiêu tàu bè bị đắm hết, việc đông chinh tan ra bọt nước. Thế nhưng qui củ của thuyền bè từ đó đã thành hình. Triệu Mẫn tính toán trăm sự đều hay, chỉ có một điều sơ sót, không ngờ gã huyện quan nhận lệnh xong muốn tâng công, chạy ngay đi gặp thủy sư mượn một chiếc pháo thuyền. Lúc này trên thuyền lương thực, nước uống đã dự bị đầy đủ cả, chung quanh mấy chục dặm thuyền bè theo lệnh Nhữ Dương Vương truyền xuống đã xuôi nam cả không còn một chiếc nào. Triệu Mẫn chỉ đành cười gượng, ra lệnh cho các thủy thủ lấy lưới cá treo đầy lên các khẩu thần công, trên thuyền để thêm vài chục sọt cá tươi, làm như chiến thuyền cũ không còn dùng nữa nên đã sửa lại thành thuyền đánh cá.

Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu thay quần áo mặc thành thủy thủ, dùng dầu màu bôi lên mặt cho vàng vọt, dán thêm mấy chiếc ria mép, trông không ai còn nhận biết được. Ba người lên thuyền ngồi chờ Kim Hoa bà bà đến nơi.

Nàng Thiệu Mẫn quận chúa kia liệu sự như thần, quả nhiên đến tối, một chiếc xe lớn đã chạy đến bến, Kim Hoa bà bà dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược xuống hỏi thuê thuyền. Thủy thủ trên thuyền đã được Triệu Mẫn dặn trước nên đều từ chối, nói đây là pháo thuyền cũ nay sửa thành thuyền đánh cá, chỉ đi chài lưới chứ không chở khách, đến lúc Kim Hoa bà bà đưa ra hai đĩnh vàng trả công, gã đầu nậu mới miễn cưỡng nhận lời. Kim Hoa bà bà dẫn Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược lên thuyền rồi lập tức truyền lệnh giương buồm ra khơi.

Trên biển cả mênh mang không bờ bến, một chiếc thuyền lênh đênh theo hướng đông nam mà đi. Thuyền đi được hai ngày, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người ở dưới khoang nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy mặt trời mọc lên buổi sáng, mặt trăng lặn xuống ban đêm ở phía tay trái, hiển nhiên thuyền đang đi về phương nam. Khi đó trời đã vào đầu mùa đông, gió bấc thổi mạnh, buồm căng gió trôi băng băng.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người bàn với nhau mấy lần: "Nghĩa phụ tôi ở tại Băng Hỏa đảo miền cực bắc, mình muốn kiếm ông ta phải đi về hướng bắc mới phải, sao lại đi ngược về hướng nam?". Lần nào Triệu Mẫn cũng trả lời: "Kim Hoa bà bà ắt có điều gì quái lạ, huống chi lúc này gió nam không thổi, có muốn lên phương bắc cũng không sao được".

Đến chiều ngày thứ ba, đà công đi xuống khoang bẩm lại cho Triệu Mẫn, nói là Kim Hoa bà bà rất thuần thục với hải trình này, vùng nào có cồn cát, vùng nào có đảo san hô, so với đà công còn biết rõ hơn nhiều. Trương Vô Kỵ đột nhiên chợt nghĩ ra, nói:

- Hay là bà ta quay về Linh Xà đảo?

Triệu Mẫn hỏi:

- Linh Xà đảo nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ông chồng của Kim Hoa bà bà ở tại đảo Linh Xà tên là Ngân Diệp tiên sinh, nay đã qua đời. Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà, không lẽ cô chưa nghe tới hay sao?

Triệu Mẫn cười khúc khích, nói:

- Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, chuyện trên chốn giang hồ có vẻ rành quá nhỉ?

Trương Vô Kỵ cũng cười đáp:

- Tà ma ngoại đạo Minh giáo chắc chắn là phải biết những chuyện rỗi của chốn giang hồ hơn quận chúa nương nương chứ.

Hai người vốn là tử địch, mỗi bên chỉ huy một nhóm hào kiệt, đánh nhau mấy trận kịch liệt nhưng nay ở dưới khoang thuyền với nhau mấy ngày, nói năng không cần giữ ý, lại có chung một kẻ địch là Kim Hoa bà bà nên xa cách giữa hai người mỗi lúc một giảm thiểu. Đà công xuống bẩm báo rồi chỉ sợ Kim Hoa bà bà biết được nên lại vội quay về buồng lái. Triệu Mẫn cười nói:

- Đại giáo chủ, vậy phiền ngài kể lại chuyện Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà uy chấn thiên hạ như thế nào kể lại cho con bé quê mùa kém cỏi này nghe có được không?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nói ra thật xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người như thế nào, thực tình tôi cũng không biết. Còn Kim Hoa bà bà thì tôi đã phải đối phó với mụ ta một lần.

Chàng bèn kể lại ở Hồ Điệp Cốc học nghề thuốc với Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ra sao, các người của những môn phái bị Kim Hoa bà bà hạ độc sống dở chết dở thế nào phải đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa bệnh, chàng được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm mới chữa khỏi cho họ, rồi Kim Hoa bà bà đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái bị thua ra sao, về sau hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô bị Kim Hoa bà bà hạ thủ kể hết mọi chuyện cho nàng nghe.

Chàng nghĩ đến Hồ Thanh Ngưu tuy tính khí có điều quái đản, nhưng đối với mình chẳng có điều gì không phải, nhớ lại xác hai vợ chồng bị giết treo trên cây, không khỏi rưng rưng nước mắt. Chàng lại kể sơ qua việc Châu Nhi muốn bắt mình lên đảo Linh Xà làm bạn, chàng cắn vào tay cô ta một cái ra sao. Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chỉ thuật sơ lược vụ này, hay là chuyện đó có vẻ gì bất nhã chăng.

Triệu Mẫn chăm chú nghe không nói một lời, mặt đầy vẻ trịnh trọng nói:

- Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là bà bà này là một người võ công cực kỳ cao siêu thôi, không ngờ bên trong lại còn rất nhiều chuyện ân oán qua lại. Nghe anh nói chuyện, lão bà bà này không phải là kẻ dễ đối phó, chúng mình phải hết sức cẩn thận mới được.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Quận chúa nương nương văn võ kiêm toàn, dưới tay lại biết bao nhiêu kỳ tài dị sĩ, đối phó với một mình Kim Hoa bà bà, có gì mà không được?

Triệu Mẫn cười:

- Có điều là trên biển cả mênh mông, không làm sao mà gọi các võ sĩ, phiên tăng thủ hạ của tôi tới được.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế mấy người nấu bếp, thủy thủ giương buồm chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên chốn giang hồ hay mới chỉ là hạng nhì?

Triệu Mẫn ngạc nhiên, cười khanh khách nói:

- Bội phục, bội phục. Đại giáo chủ quả thật tinh đời, không thể nào dấu nổi chuyện gì.

Thì ra khi nàng quay về vương phủ lấy tiền và ngựa, đã ngầm dặn vệ sĩ điều động một số hạ thuộc chạy gấp ra bờ biển chờ lệnh, đến nơi chỉ chậm hơn bọn Trương Vô Kỵ nửa ngày. Những người này không tham dự cuộc chiến nơi chùa Vạn An, cũng chưa gặp Trương Vô Kỵ bao giờ, chia ra kẻ giả làm nhà bếp, thủy thủ. Thế nhưng người đã học võ, thần tình cử chỉ đều sẽ lộ ra, dù cho hết sức che dấu, nhưng Trương Vô Kỵ nhìn vào là đã biết ngay.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ đã nhìn ra, Kim Hoa bà bà hiểu biết rộng rãi, mèo già hóa cáo, chắc đã sớm biết rồi. Cũng may bên mình người nhiều thế mạnh, Trương Vô Kỵ võ công cao cường, dù có biết hay không biết cũng thế thôi, nếu như phải động thủ, cả bà ta lẫn Châu Nhi cũng chỉ hai người không có gì phải ngại. Còn nếu như bà ta chưa nhìn ra thì mình cứ tiếp tục giả trang cũng không sao.

Trong mấy ngày qua, mối lo nhất của Trương Vô Kỵ là việc Chu Chỉ Nhược uống viên thuốc của Kim Hoa bà bà rồi chất độc đã phát tác chưa. Triệu Mẫn biết rõ bụng dạ chàng, thấy chàng nhíu mày liền sai người lên sàn thuyền giả vờ bưng trà rót nước, xem xét động tĩnh, mỗi lần quay về đều nói Chu cô nương hành động, ngôn ngữ chẳng có gì khác lạ, xem ra không có triệu chứng gì trúng độc cả. Sau mấy lần như thế, Trương Vô Kỵ cũng an tâm phần nào.

Chàng ngồi tĩnh tọa ở một góc khoang, nghĩ đến tình cảnh lúc trước nơi tuyết địa, Châu Nhi bầu bạn với mình thế nào, đến khi bị Hà Thái Xung, Võ Liệt, Đinh Mẫn Quân vây đánh cố đòi về gặp mình một lần, chính chàng trước mặt bọn Hà Thái Xung cũng từng lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Chàng nghĩ đến những câu đó không khỏi mặt đỏ bừng.

Triệu Mẫn nói:

- Hứ, anh lại nghĩ đến Chu cô nương rồi phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đâu có.

Triệu Mẫn nói:

- Gớm, anh muốn nghĩ thì nghĩ, muốn không nghĩ thì không nghĩ, không lẽ tôi kiểm soát được sao? Đàn ông con trai việc gì phải dấu diếm.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi dấu cô làm chi? Nói cho cô hay, tôi không nghĩ đến Chu cô nương đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu như anh nghĩ đến khổ đầu đà, Vi Nhất Tiếu thì bộ mặt anh đâu có thế. Những người đó mặt mày quái đản, không lẽ khi anh nghĩ đến lại ra vẻ vừa ôn nhu, vừa bẽn lẽn hay sao?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Cô quả thật là lợi hại, người khác nghĩ đến ai xấu hay đẹp cô cũng biết nữa. Nói thực cho cô hay, người mà tôi nghĩ đến đây lại chẳng xinh đẹp chút nào cả.

Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành khẩn, mỉm cười không lý đến nữa. Dù nàng thông minh thế nào cũng không thể tưởng tượng nổi người chàng đang nghĩ đến lại chính là cô gái xấu xí Châu Nhi đang ở trên sàn thuyền kia.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Châu Nhi đang luyện môn công phu âm độc Thiên Châu Vạn Độc Thủ nên diện mạo sưng vù, nổi u từng cục, đêm qua ở nơi vườn hoang chàng xem ra còn tệ hơn trước. Nghĩ đến đây chàng không khỏi buông tiếng thở dài, môn tà môn công phu đó càng luyện thêm e rằng cơ thể tâm tính đều hỏng cả. Chàng lại nghĩ đến lúc Ân Lê Đình nói chàng rơi xuống vực chết rồi, Châu Nhi phục xuống đất khóc lóc thật thảm thiết, trong lòng không khỏi cảm kích. Chàng từ khi lên Quang Minh Đính, ngày cũng như đêm, nếu không phải luyện công thì cũng bôn ba với Minh giáo, có mấy khi được yên tĩnh để nghĩ xem trong lòng mình như thế nào? Tuy cũng có khi nhớ đến Châu Nhi, cũng từng hỏi Vi Nhất Tiếu, cũng bảo Dương Tiêu sai người tìm kiếm chung quanh Quang Minh Đính, nhưng đều không thấy cô nàng đâu cả, bây giờ mới tự trách thầm: "Châu Nhi đối với ta tốt như thế, sao mình lại lạnh nhạt bạc bẽo với nàng như vậy? Sao trong bao lâu nay, dường như ta chẳng hề nghĩ tới nàng chút nào?". Từ khi làm giáo chủ Minh giáo, mọi việc riêng tư chàng đều bỏ qua một bên không hề tính đến.

Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Anh lại hối hận chuyện gì chăng?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên trên sàn thuyền truyền xuống tiếng la hét, một hồi sau có thủy thủ chạy xuống bẩm báo:

- Trước mặt có đất liền, lão bà bà bảo chúng tôi dong thuyền đến.

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn qua cửa sổ, thấy cách vài dặm có một hòn đảo lớn cây cối xanh tươi, có mấy ngọn núi cao vươn thẳng lên trời. Chiếc thuyền no gió, chạy băng băng về phía trước. Chỉ chừng một bữa ăn, thuyền đã đến đảo. Phía đông hòn đảo núi đá chạy thẳng xuống biển, không có bãi cạn thành thử chiến thuyền tuy chìm dưới nước sâu nhưng vẫn đậu được ngay cạnh bờ.

Chiến thuyền đậu nơi bến chưa xong, bỗng nghe từ phía trên núi vọng xuống một tiếng rống thật lớn, trung khí sung túc, cực kỳ uy mãnh. Nghe thấy thế Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, tiếng đó thật là quen thuộc, chính là do nghĩa phụ chàng là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hú lên.

Hai người cách biệt mười năm, xem ra hùng phong của ông vẫn như xưa chàng không vui mừng sao được? Chàng không kịp suy nghĩ tại sao Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo nơi cực bắc lại đến được nơi đây, cũng chẳng nghĩ đến việc Kim Hoa bà bà có thể nhìn ra được chân tướng mình, liền vội vàng theo cầu thang đi lên sau thuyền, nhìn về phía sơn cương nơi phát ra tiếng hú.

Chỉ thấy bốn người đàn ông tay cầm binh khí, đang vây đánh một người thân thể cao to. Người đó tay không nghinh địch, chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Chỉ thoáng nhìn, Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ hai mắt đã mù, lại một chọi bốn, tay không chống với bốn món binh khí nhưng không kém sút chút nào. Chàng chưa bao giờ được thấy nghĩa phụ động thủ với ai, lúc này chỉ coi vài chiêu, trong bụng mừng thầm: "Năm xưa Kim Mao Sư Vương uy chấn thiên hạ, quả thật danh bất hư truyền. Nghĩa phụ ta quả võ công còn cao hơn Thanh Dực Bức Vương, có thể ngang với ông ngoại ta chứ không kém". Bốn người kia võ công cũng khá cao cường, từ trên thuyền nhìn về mỏm núi không rõ mặt mũi, nhưng thấy áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải, hẳn là người của Cái Bang. Bên cạnh còn có thêm ba người đứng tiếp ứng.

Chỉ nghe một người lên tiếng nói:

- Giao thanh đao Đồ Long ra ... tha cho ngươi khỏi chết ... bảo đao thế mạng ...

Gió núi thổi ra truyền tiếng của y lúc được lúc mất, vì khoảng cách khá xa nên nghe không rõ ràng nhưng cũng hiểu được bọn này đang muốn đoạt thanh đao Đồ Long. Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Đao Đồ Long ở ngay bên cạnh ta đây, bọn giặc thối tha của Cái Bang kia, có giỏi thì cứ đến mà lấy.

Tuy miệng nói mà chân tay ông ta ra chiêu vẫn không chậm lại chút nào. Kim Hoa bà bà thân hình nhún một cái đã nhảy lên trên bờ, ho khúc khắc mấy tiếng, nói:

- Quần hiệp Cái Bang giáng lâm đảo Linh Xà, sao không đến nói chuyện với lão bà, lại đến làm phiền quí khách của đảo, ý muốn gì đây?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Đảo này quả nhiên là Linh Xà đảo, nghe giọng của Kim Hoa bà bà, xem ra nghĩa phụ ta là khách bà ta mời đến? Năm xưa nghĩa phụ nhất định không chịu rời Băng Hỏa đảo để về Trung Nguyên, sao Kim Hoa bà bà lại mời ông ta đến đây được? Làm sao Kim Hoa bà bà biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta?". Trong chốc lát trong đầu chàng nổi lên không biết bao nhiêu là nghi hoặc.

Bốn người trên đỉnh núi thấy chủ nhân hòn đảo đã đến, chỉ mong thanh toán Tạ Tốn cho xong nên thế công càng thêm gấp gáp. Họ có ngờ đâu đó chính là đại kỵ trong võ học, Tạ Tốn hai mắt đã mù, toàn do tiếng gió từ binh khí của địch mà biện vị để đối phó. Bốn người ra tay càng nhanh, phong thanh càng nhiều, Tạ Tốn cười ha hả một hồi dài, bình một quyền đã đánh trúng ngực một tên, người đó rú lên một tiếng, từ sơn cương lăn xuống, đầu vỡ tan, óc văng tung tóe.

Một người lược trận đứng bên ngoài liền quát:

- Lui ra.

Y nhẹ nhàng đấm ra một quyền, quyền lực dường như có như không, khiến Tạ Tốn không thể nào nhận được đường đi. Quả nhiên quyền đầu đến cách thân hình Tạ Tốn mấy tấc ông mới hay biết, vội vàng ra chiêu, chân tay luống cuống, cực kỳ hốt hoảng. Ba người đánh khi nãy vừa tránh ra, một lão già đứng ngoài liền gia nhập cuộc chiến. Người đó cũng dùng phương pháp đánh như người kia, xuất chưởng khinh nhu, chỉ trong mấy chiêu, Tạ Tốn đã lạng quạng suýt nữa thì trúng hiểm chiêu.

Kim Hoa bà bà quát lên:

- Quí trưởng lão, Trịnh trưởng lão, Kim Mao Sư Vương mắt không được sáng, các ngươi giở thủ đoạn đê hèn như thế, uổng cho hai tiếng anh hùng trong chốn giang hồ.

Bà ta một mặt nói, tay vẫn cầm gậy chạy lên núi. Trông người bà ta run rẩy già cả như thế, tưởng như bị gió núi thổi rơi xuống vực đến nơi nhưng thân hình di động cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ thấy bà ta điểm đầu gậy xuống đất một cái, thân hình đã phất phới vọt lên, chỉ nhún nhẩy mấy lần đã đến lưng chừng núi. Châu Nhi lẽo đẽo chạy theo, nhưng bị cách một quãng xa.

Trương Vô Kỵ lo cho an nguy của nghĩa phụ cũng đã chạy vọt lên núi. Triệu Mẫn chạy lên ghé tai nói nhỏ:

- Có lão bà đó rồi, Sư Vương không bị nguy hiểm gì đâu, anh không cần phải ra tay, ẩn tàng hình tích là hơn.

Trương Vô Kỵ gật đầu, chạy đằng sau Châu Nhi. Lúc này chàng chỉ thấy đằng sau Châu Nhi, thân hình yểu điệu, nếu không nhìn mặt nàng ai chẳng bảo là một tuyệt sắc giai nhân, đâu có kém Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, hay Tiểu Siêu chút nào? Chàng nghĩ như thế lại tự trách mình: "Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, nghĩa phụ ngươi đang gặp nguy nan, ngươi lại đi lo nhìn đàn bà con gái, trong bụng khen chê tướng mạo thân hình đẹp hay không đẹp là sao?".

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG

Bốn người chỉ chốc lát đã đến đỉnh sơn cương, thấy Tạ Tốn ra chiêu thật ngắn, chỉ thủ mà không công, đợi khi quyền cước địch nhân đến gần mới dùng tiểu cầm nã thủ sách giải. Lối đánh đó tuy có thể tự bảo vệ được nhưng muốn thắng địch thì lại thật khó. Trương Vô Kỵ đứng dưới một cây tùng lớn, thấy cha nuôi mặt đầy vết nhăn, đầu tóc đã bạc khá nhiều, so với khi chia tay thì già hẳn đi, chắc là hơn chục năm qua một mình nơi hoang đảo, sống qua ngày thật là gian nan, trong lòng chàng không khỏi chua xót, ngực nóng ran lên, muốn chạy ra thay ông đánh bại kẻ địch, cha con nhận nhau. Triệu Mẫn biết tâm ý chàng, lấy tay cào vào lòng bàn tay, lắc đầu.

Bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Quí trưởng lão, Âm Sơn Chưởng Đại Cửu Thức của nhà ngươi nổi tiếng trên giang hồ, sao lại ma mãnh lén lút làm như miên chưởng là sao? Còn Trịnh trưởng lão sao cũng chẳng ra gì, đem Hồi Phong Phất Liễu Quyền dấu ở bên trong Bát Quái Quyền, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp đâu có biết được ... khụ khụ ..

Tạ Tốn không nhìn thấy chiêu thức của địch nhân, đối địch mười phần khó khăn, hai gã Quí Trịnh lại cực kỳ giảo hoạt, lúc ra chiêu cố ý biến thức để ông không thể nhận ra. Kim Hoa bà bà nói câu đó ra, Tạ Tốn lập tức có chủ định, đợi quyền pháp của Trịnh trưởng lão vừa tới chỗ sắp biến đổi, liền đánh vù ra một quyền, trúng ngay quyền vừa đánh tới, Trịnh trưởng lão phải lùi hai bước mới gượng lại được. Quí trưởng lão ở bên cạnh vội vàng múa quyền bảo vệ khiến cho Tạ Tốn không thể truy kích.

Trương Vô Kỵ nhìn lại hai trưởng lão của Cái Bang, thấy Quí trưởng lão lùn lùn mập mập, mặt mày hồng hào trông chẳng khác gì gã đồ tể, còn Trịnh trưởng lão thì ốm yếu khô gầy, mặt xanh như tàu lá, trông đúng là kẻ ăn mày không sai vào đâu được. Hai người trên lưng đều đeo tám cái túi vải. Đứng xa xa là một thanh niên tuổi chừng ba mươi, cũng ăn mặc theo lối Cái Bang, nhưng quần áo sạch sẽ, trên lưng cũng đeo tám cái túi. Tuổi y còn trẻ như thế mà đã lên đến trưởng lão tám túi trong Cái Bang, quả thực là hiếm có. Đột nhiên nghe gã nói:

- Kim Hoa bà bà, bà đã nói trước là không giúp Tạ Tốn, câu nói đó chẳng lẽ không tính hay sao?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng nói:

- Các hạ cũng là trưởng lão trong Cái Bang hay sao? Tha lỗi cho lão bà mắt kém, chưa từng biết đến.

Người kia đáp:

- Tại hạ mới nhập Cái Bang chưa lâu, bà bà dĩ nhiên không biết. Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng.

Kim Hoa bà bà lẩm bẩm nói một mình:

- Trần Hữu Lượng? Trần Hữu Lượng? Chưa từng nghe đến.

Chỉ nghe tiếng kêu la vang động, cánh tay trái Trịnh trưởng lão đã bị Tạ Tốn đánh trúng một quyền, ba tên đệ tử Cái Bang đứng ngoài liền cầm binh khí xông vào vây đánh. Ba tên này võ công không bằng được Trịnh Quí hai trưởng lão, đúng ra thì chỉ thêm vướng chân vướng tay nhưng Tạ Tốn từ khi mắt mù đến giờ chưa từng động thủ quá chiêu với ai, thành ra kinh nghiệm lâm địch không có, hôm nay lần đầu gặp phải cường địch, địch nhân ngoài quyền cước còn thêm binh khí, âm thanh hỗn tạp, khó mà phân biệt phương vị nên chỉ trong phút chốc đầu vai đã trúng ngay một quyền.

Trương Vô Kỵ thấy tình hình nguy cấp đang toan ra tay, Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Không lẽ Kim Hoa bà bà không ra tay cứu?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, chỉ thấy Kim Hoa bà bà chống gậy đứng xem, miệng cười khẩy, không có vẻ gì muốn ra tay cứu viện. Ngay lúc đó, đùi bên trái của Tạ Tốn lại bị Trịnh trưởng lão đá trúng một cái thật mạnh khiến ông loạng choạng tưởng như muốn ngã.

Trong tay Trương Vô Kỵ đã hờm sẵn bảy viên đá sỏi, lúc này không còn nhẫn nại thêm được nữa, tay phải vung ra, bảy viên sỏi chia ra bắn vào năm người. Đá chưa tới nơi, bỗng thấy một làn hắc quang lóe lên, nghe soẹt một tiếng, ba món binh khí lập tức gãy đôi, trong năm người có bốn kẻ bị chém ngang lưng đứt thành tám khúc, văng ra tứ phía rơi xuống triền núi, riêng Trịnh trưởng lão chỉ bị đứt một cánh tay phải nằm lăn ra đất, trên lưng lại bị hai viên sỏi của Trương Vô Kỵ bắn trúng. Bốn gã bị chém chết kia cũng mỗi người bị trúng một viên nhưng vì bị đao chém trước, trúng đá sau thành thử Trương Vô Kỵ xuất thủ quả là thừa.

Biến cố đó xảy ra quá nhanh, ai nấy trong lòng kinh hãi. Chỉ thấy trong tay Tạ Tốn đã cầm một thanh đại đao đen sì, chính là thanh đao Đồ Long được người đời xưng là "võ lâm chí tôn". Ông ta thu đao về đứng ở trên đỉnh núi, uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời. Trương Vô Kỵ từ bé đã thấy thanh đao này rồi, nhưng không ngờ nó sắc bén uy mãnh đến thế. Kim Hoa bà bà lẩm bẩm:

- Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long! Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long!

Trịnh trưởng lão một cánh tay bị đứt, kêu rống lên như lợn bị chọc tiết. Trần Hữu Lượng mặt trắng bệch, lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp võ công cái thế, thật là bội phục. Vị Trịnh trưởng lão kia xin cho xuống núi, tại hạ nguyện đền mạng cho y vậy xin Tạ đại hiệp cứ việc ra tay.

Lời nói ra ai nấy đều cảm động, không ngờ người này nghĩa khí thâm trọng đến thế, Trương Vô Kỵ trong lòng không khỏi thầm ngưỡng phục. Tạ Tốn nói:

- Trần Hữu Lượng, Ôi, ngươi quả thực là hảo hán, cứ ôm gã họ Trịnh này đi đi, ta không làm khó gì ngươi đâu.

Trần Hữu Lượng nói:

- Tại hạ xin cảm tạ đại ân tha cho không giết, thế nhưng Cái Bang có năm người chết dưới tay Tạ đại hiệp, nếu như trong vòng mười năm tại hạ học võ thành công, sẽ quay lại để báo ân trả oán mối thù này.

Tạ Tốn nghĩ thầm mình chỉ cần tiến lên một bước, bảo đao vung lên người này ắt khó mà thoát chết, trong lúc cực kỳ nguy hiểm như thế này mà vẫn còn dám nói đến chuyện sau này tầm cừu, quả là người hết sức can đảm, nên ông liền nói:

- Lão phu nếu như sống thêm được mười năm, xin được lãnh giáo.

Trần Hữu Lượng lại vòng tay hướng về Kim Hoa bà bà hành lễ nói:

- Cái Bang xâm nhập quí đảo, xin tạ tội.

Y cúi xuống ôm Trịnh trưởng lão lên, hiên ngang đi xuống chân núi.

Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ, lạnh lùng hỏi:

- Lão già kia, thủ pháp đả huyệt của ngươi giỏi nhỉ? Sao ngươi lại ném ra tới bảy viên đá là sao? Có phải một viên định bắn vào Trần Hữu Lượng, còn một viên dành cho ta phải không?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta nhìn ra ý định của mình bắn tới bảy viên sỏi, nhưng chưa nhìn ra bộ mặt thật, thành thử không trả lời, chỉ mỉm cười. Kim Hoa bà bà gay gắt nói tiếp:

- Lão già kia, tôn tính đại danh là gì? Sao lại giả làm thủy thủ đi theo lão bà, là cớ làm sao? Ngươi giở trò trước mặt lão bà bộ không muốn sống nữa ư?

Trương Vô Kỵ không quen nói láo, ngẩn người ra không biết trả lời sao cho phải.

Triệu Mẫn giả vờ khàn khàn đáp:

- Bọn ta Cự Kình bang vốn kiếm cơm ăn trên mặt biển, lâu nay không có tiền tiêu. Lão bà bà chịu trả giá cao, nên đành chở khách một chuyến. Vị huynh đệ này thấy bọn Cái Bang cậy đông hà hiếp người nên ra tay tương trợ, cũng là hảo ý thôi. Đâu ngờ Tạ đại hiệp võ công cao cường đến thế, bọn ta hóa ra thành người đa sự.

Nàng sửa giọng đàn ông nhưng vẫn the thé chói tai, cũng may là hóa trang kỹ lưỡng, mặt mày vàng vọt già cả, Kim Hoa bà bà chưa nhìn ra sơ hở nào. Tạ Tốn xua tay trái một cái nói:

- Đa tạ! Ôi, Kim Mao Sư Vương thật là hổ xuống đồng bằng[5] nay lại để đến cả Cự Kình bang giúp đỡ. Xa cách chốn giang hồ hai chục năm, trong võ lâm có bao người tài giỏi xuất hiện, ta còn quay về làm gì?

Ông nói mấy câu cuối cùng, giọng dường như tiêu tan ý chí, thật là cảm khái thê lương. Vừa rồi Trương Vô Kỵ bắn bảy viên sỏi ra, kình lực mạnh mẽ, trên đời hiếm có, Tạ Tốn nghe thật rõ ràng, kinh hãi không ngờ trong võ lâm nay lại có người ghê gớm đến thế, còn mình toàn nhờ thanh bảo đao Đồ Long mới thoát được bọn chuột nhắt kia vây đánh. Nhớ lại hơn hai mươi năm trước kia, ông một mình hùng phong trấn nhiếp quần hào nơi Vương Bàn Sơn đảo mà tưởng như ở kiếp nào.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tiểu muội biết ông không muốn người ngoài giúp đỡ thành thử chẳng ra tay, tam ca không trách chứ?

Trương Vô Kỵ thấy bà ta gọi nghĩa phụ mình là "tam ca", cảm thấy ngạc nhiên, không biết ông đứng hàng thứ ba, nhưng xem tuổi tác, Kim Hoa bà bà xem ra còn già hơn. Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Có gì mà trách hay không trách? Lần này bà về Trung Nguyên, có nghe ngóng được tin tức gì của thằng bé Vô Kỵ của tôi không?

Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động, cảm thấy bàn tay mềm mại bóp chặt tay mình, biết Triệu Mẫn không muốn mình đứng ra nhận. Vừa rồi chàng không nghe lời nàng bắn sỏi cứu viện, tuy cũng mạo muội nhưng vì quan thiết quá đáng không muốn nghĩa phụ bị người ta hiếp đáp, còn bây giờ có kiên nhẫn thêm một chút, cũng không có gì đáng lo cả.

Kim Hoa bà bà nói:

- Không có.

Tạ Tốn thở dài một tiếng, một lúc sau mới nói:

- Hàn phu nhân, chúng ta vốn là chỗ anh em, xin bà đừng lừa dối kẻ mù lòa này. Thằng con Vô Kỵ của tôi, có thực còn sống trên đời hay không?

Kim Hoa bà bà còn đang lưỡng lự chưa biết trả lời sao, Châu Nhi đột nhiên nói:

- Tạ đại hiệp ...

Kim Hoa bà bà vội giơ tay trái ra nắm chặt cổ tay nàng, trừng mắt nhìn khiến Châu Nhi không dám nói tiếp. Tạ Tốn hỏi:

- Ân cô nương, cô nói đi, nói đi! Có phải bà bà muốn lừa tôi, phải không?

Châu Nhi hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống, Kim Hoa bà bà giơ tay phải lên để lên trên đỉnh đầu nàng, Châu Nhi chỉ nói một câu không hợp ý bà ta sẽ nhả nội lực ra là nàng chết ngay. Châu Nhi nói:

- Tạ đại hiệp, bà bà không lừa đại hiệp đâu, lần này chúng tôi về Trung Nguyên không nghe tin tức gì của Trương Vô Kỵ cả.

Kim Hoa bà bà nghe nàng nói thế mới bỏ tay ra khỏi đầu nàng nhưng vẫn nắm chặt cổ tay. Tạ Tốn nói:

- Như thế các ngươi nghe được tin tức gì? Minh giáo ra sao? Những anh em cũ bây giờ thế nào rồi?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Không biết nữa. Chuyện trên giang hồ tôi không hỏi tới làm gì. Tiểu muội chỉ đi tìm gã đầu đà giết hại chồng tôi để thanh toán thôi, rồi đi tìm Diệt tuyệt lão ni của phái Nga Mi báo thù một kiếm lúc trước, còn những chuyện khác, lão bà này đều để ngoài tai.

Tạ Tốn giận dữ nói:

- Giỏi nhỉ, Hàn phu nhân, hôm trước nơi Băng Hỏa đảo bà nói với tôi những gì? Bà bảo vợ chồng Trương ngũ đệ vì không chịu thổ lộ nơi tôi đang ẩn mình, bị người ta ép phải tự vẫn trên núi Võ Đương, còn thằng bé Vô Kỵ thành kẻ mồ côi không ai trông nom, lưu lạc giang hồ, đến đâu cũng bị người ta lăng nhục, thê thảm không để đâu cho hết, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Đúng thế.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Bà lại bảo y bị người ta đánh một Huyền Minh thần chưởng, ngày đêm khổ sở dày vò, chính bà gặp y tại Hồ Điệp Cốc, bảo y đi đảo Linh Xà nhưng nó không chịu, có phải thế không?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Đúng thế, nếu tôi nói sai thì trời tru đất diệt, Kim Hoa bà bà không bằng những kẻ vô lại trên chốn giang hồ, chồng tôi chết rồi cũng không yên ổn.

Tạ Tốn gật đầu nói:

- Ân cô nương, còn cô thì nói sao?

Châu Nhi đáp:

- Cháu nói là lúc đó hết sức khuyên y lên đảo Linh Xà, y đã không nghe, ngược lại còn cắn cháu một cái. Trên lưng bàn tay cháu vẫn còn vết răng đây, lời đó không thể nào sai được. Cháu ... cháu vẫn nhớ y lắm.

Bàn tay Triệu Mẫn đang nắm Vô Kỵ bỗng bóp một cái, đưa mắt lườm y, ánh mắt vừa có vẻ chế riễu, vừa có vẻ giận dỗi, dường như muốn nói: "Anh dấu tôi giỏi ghê! Thì ra cô nương này biết anh từ bao giờ, hai người lại còn bao nhiêu là chuyện khác nữa". Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ đến mối tình lạ lùng của Châu Nhi đối với mình, vừa cảm thấy êm đềm, vừa cảm thấy chua xót.

Đột nhiên Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ đưa lên mồm cắn lên lưng bàn tay chàng một cái rõ đau. Bàn tay Trương Vô Kỵ máu ứa ra nhưng lực đề ngự của Cửu Dương thần công trong cơ thể lập tức bật ra khiến miệng nàng cũng máu chảy ròng ròng. Tuy thế hai người đền cố nhịn không kêu.

Trương Vô Kỵ quay qua nhìn Triệu Mẫn, không hiểu sao nàng tự nhiên lại cắn mình, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ vui sướng, đôi má ửng hồng như hoa mùa xuân, tuy trên miệng có gắn bộ râu giả nhưng vẫn không dấu được vẻ xinh tươi khiến chàng lòng đầy ngờ vực, không hiểu vì sao.

Tạ Tốn nói tiếp:

- Giỏi nhỉ! Hàn phu nhân, tôi chỉ vì lo lắng cho thằng bé Vô Kỵ cô đơn khổ sở nên mới vạn dặm xa xôi từ Băng Hỏa đảo về lại Trung Nguyên. Bà đã bằng lòng đi nghe ngóng tin tức thằng bé cho tôi, sao không giữ lời?

Trương Vô Kỵ hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, bây giờ mới hay nghĩa phụ tuy biết đâu đâu cũng có kẻ thù, nhưng lại không nề nguy hiểm quay lại Trung Nguyên hóa ra cũng chỉ vì mình. Kim Hoa bà bà nói:

- Hôm đó chúng ta đã nói rõ rồi, tôi đi tìm Trương Vô Kỵ cho ông, ông cho tôi mượn thanh đao Đồ Long. Tạ tam ca, nếu ông cho tôi mượn đao, lão bà này một lời nặng như núi, ắt sẽ đi dò hỏi tin tức thiếu niên đó cho ông.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà cứ tìm Vô Kỵ lại đây, lập tức tôi đưa đao cho bà mượn.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông không tin tôi ư?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện ở trên đời này khó nói lắm. Thân thiết như cha con, anh em cũng có khi còn không tin được nhau nữa là.

Trương Vô Kỵ biết ông nhớ lại chuyện Thành Côn, trong lòng không khỏi chua xót. Kim Hoa bà bà nói:

- Thế sao ông lại không cho tôi mượn đao trước đi?

Tạ Tốn nói:

- Tôi thả cho Trần Hữu Lượng của Cái Bang hạ sơn, từ nay đảo Linh Xà này không một ngày nào yên, không biết bao nhiêu kẻ thù trong võ lâm tới đây kiếm tôi gây sự. Kim Mao Sư Vương nay đâu còn như ngày xưa, ngoài thanh đao Đồ Long này ra, không còn biết nương tựa vào đâu, ha ha ...

Ông ta đột nhiên cười khan mấy tiếng, quay sang hỏi:

- Hàn phu nhân, vừa rồi năm người vây đánh tôi, ngay cả vị hảo hán của Cự Kình bang cũng cầm sẵn trong tay bảy viên sỏi, không lẽ bà không có ý hại tôi hay sao? Bà chỉ mong tôi táng mạng dưới tay bọn Cái Bang, thế là tiến lên thu lợi. Tạ Tốn mắt tuy mù nhưng lòng đâu đã mù. Hàn phu nhân, tôi hỏi lại bà một câu: Tạ Tốn đến đảo Linh Xà vốn thật là kín đáo, làm sao người của Cái Bang lại biết được?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôi cũng đang muốn tìm hiểu cho rõ ràng tại sao.

Tạ Tốn giơ tay búng lên thanh đao Đồ Long một cái, đút trở lại vào trong trường bào, nói:

- Bà không chịu đi tìm Vô Kỵ cho tôi, cái đó cũng tùy bà thôi. Tạ Tốn này sẽ trở lại giang hồ, làm cho một trận nghiêng trời lệch đất.

Nói xong ông ngửng mặt lên trời hú lên một tiếng dài, nhảy vọt lên theo phía triền núi phía tây chạy xuống. Chỉ thấy bước chân ông ta nhanh nhẹn, chạy thẳng về một ngọn núi ở phía bắc. Trên núi đó có một cái lều tranh trơ trọi, hẳn là nơi ở của ông ta.

*

* *

Kim Hoa bà bà đợi Tạ Tốn đi rồi, quay lại trừng mắt nhìn Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn quát:

- Cút đi.

Triệu Mẫn dắt tay Trương Vô Kỵ, lập tức xuống núi, trở lên thuyền. Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi muốn đi thăm nghĩa phụ.

Triệu Mẫn đáp:

- Khi nghĩa phụ anh ra đi, mắt Kim Hoa bà bà lộ hung quang, anh không thấy sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không sợ bà ta.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi xem trên đảo này có rất nhiều điều ngụy bí. Người của Cái Bang sao lại tụ tập nơi đây là sao? Kim Hoa bà bà làm sao biết được nơi ở của nghĩa phụ anh? Làm sao kiếm ra được Băng Hỏa đảo? Bên trong quả có nhiều chỗ chưa hiểu được. Anh tới một chưởng đánh chết Kim Hoa bà bà không có gì khó nhưng những điều đó sẽ không bao giờ có câu trả lời minh bạch.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đâu có định giết Kim Hoa bà bà, chì vì nghĩa phụ nhớ tôi quá, tôi phải đi gặp ông ta ngay.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Hai người xa cách nhau mười năm, đợi thêm một hai ngày thì đã sao. Trương công tử, để tôi nói cho anh nghe, bọn mình phải đề phòng Kim Hoa bà bà là chuyện dĩ nhiên rồi, nhưng cũng còn phải đề phòng luôn cả Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Gã Trần Hữu Lượng ư? Người này thật là nghĩa khí, quả là một trang hán tử.

Triệu Mẫn nói:

- Trong bụng anh có thật sự nghĩ thế không? Anh không đánh lừa tôi đấy chứ?

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Đánh lừa cô ư? Gã Trần Hữu Lượng cam chịu chết thay cho Trịnh trưởng lão, cái đó quả thật là hiếm có.

Triệu Mẫn chăm chăm nhìn chàng, thở dài một tiếng nói:

- Trương công tử ơi là Trương công tử, anh là giáo chủ Minh giáo, muốn thống suất bao nhiêu là anh hùng hào kiệt, mưu toan việc lớn, lại dễ bị người ta đánh lừa đến vậy, thì làm sao được?

Trương Vô Kỵ càng ngạc nhiên hỏi lại:

- Người ta đánh lừa?

Triệu Mẫn nói:

- Gã Trần Hữu Lượng kia rõ ràng đánh lừa Tạ đại hiệp, mắt anh nhìn từ đầu chí cuối vậy mà không thấy hay sao?

Trương Vô Kỵ nhảy nhổm lên:

- Y lừa nghĩa phụ tôi?

Triệu Mẫn nói:

- Khi đó Tạ đại hiệp vung đao lên một cái, cao thủ Cái Bang bốn chết một bị thương, gã Trần Hữu Lượng kia võ công có cao cách mấy cũng chưa chắc tránh nổi một nhát chém của đao Đồ Long. Ở vào hoàn cảnh đó, nếu không tiến lên đánh thí mạng thì chỉ còn cách quì xuống van xin. Thế nhưng anh thử nghĩ, Tạ đại hiệp không muốn cho hành tung của mình bị người ta biết được, Trần Hữu Lượng dù có rập đầu ba trăm cái cũng chưa chắc đã khiến cho ông ta mềm lòng, trừ việc giả vờ nhân hiệp trọng nghĩa, còn có cách nào khác đâu?

Nàng vừa nói vừa thoa lên vết thương trên lưng bàn tay Vô Kỵ một chút thuốc cao, lấy khăn tay của mình buộc lại. Trương Vô Kỵ nghe nàng giải thích cảnh ngộ của Trần Hữu Lượng, xem ra không sai chút nào, nhưng nghĩ lại lúc đó Trần Hữu Lượng hiên ngang trình bày, trong lối nói không có chút gì là giả dối, chàng không khỏi bán tín bán nghi.

Triệu Mẫn nói tiếp:

- Thôi được, tôi hỏi anh thêm câu này: Khi Trần Hữu Lượng nói với Tạ đại hiệp mấy câu đó, hai tay y làm gì, hai chân y làm gì?

Khi Trương Vô Kỵ nghe Trần Hữu Lượng nói, lúc thì chàng nhìn vào mặt y, lúc thì quay qua nhìn nghĩa phụ, đâu có để ý tay chân y ra sao nhưng toàn thân y vẫn nhìn thấy hết, người ngoài không nhắc đến thì chàng cũng chẳng nhớ ra nhưng Triệu Mẫn bây giờ hỏi đến, hình ảnh đó lại quay trở lại nên nói:

- Ồ, gã Trần Hữu Lượng đó tay phải hơi giơ lên, tay trái giơ ngang, chính là chiêu "Sư Tử Bác Thố"[6], còn hai chân y ư? Ồ, đúng rồi, đó là "Hàng Ma Thích Đẩu Thức". Hai chiêu đó đều là quyền pháp của phái Thiếu Lâm, cũng không phải là chiêu gì tệ hại đâu. Chẳng lẽ y giả vờ cầu tình với nghĩa phụ tôi nhưng lại định bụng đánh lén hay sao? Chuyện đó xem ra không đúng, hai chiêu đó đâu có thể dùng được.

Triệu Mẫn cười khẩy nói:

- Trương công tử, lòng dạ con người trên đời này hiểm ác anh chẳng biết gì cả. Dẫu cho Trần Hữu Lượng võ công cao cường đến mấy, đánh lén Tạ đại hiệp đâu có thể thành công? Người đó thông minh cơ trí, quả là một nhân tài hạng nhất, sao lại không biết như thế? Nếu việc y giả vờ nghĩa khí thâm trọng kia bị Tạ đại hiệp khám phá ra, không tha mạng cho y, ở vào chỗ y đang đứng lúc đó thì chiêu "Hàng Ma Thích Đẩu Thức" đá vào ai? Còn chiêu "Sư Tử Bác Thố" kia chộp người nào?

Trương Vô Kỵ chỉ nghĩ đến chuyện tốt cho người khác chưa bao giờ tìm hiểu gian kế của Trần Hữu Lượng ra sao, nay Triệu Mẫn đề cập đến, trong óc chợt bừng lên, lưng toát mồ hôi, run run nói:

- Y ... y định đá vào Trịnh trưởng lão, còn giơ tay định chộp Ân cô nương.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Đúng rồi. Y định là đá Trịnh trưởng lão vào Tạ đại hiệp, tiếp theo chộp luôn người có tình thanh mai trúc mã, cắn tay ước định với anh là Ân cô nương đẩy về phía Tạ đại hiệp, như thế sẽ hoãn lại được một chút để y có cơ hội chạy thoát thân. Tuy nhiên Tạ đại hiệp thần công cái thế, tay cầm bảo đao, kế đó chưa chắc đã thành công nhưng trừ cách đó ra không còn biện pháp nào khác. Nếu như là tôi, cũng chỉ làm như y thôi, cho đến lúc này tôi cũng chưa nghĩ ra được cách nào khác cả. Người này chỉ trong khoảnh khắc mà đã mưu mẹo như thế, quả là một nhân vật ghê gớm.

Nói xong nàng tấm tắc khen mãi. Trương Vô Kỵ càng nghĩ càng thấy e ngại, trên đời này lòng người hiểm độc, chàng từ bé đã chứng kiến nhiều, nhưng người ghê gớm như Trần Hữu Lượng, quả là ít thấy, một lát sau mới nói:

- Triệu cô nương, cô chỉ nhìn qua đã thấy ngay mưu kế của y, xem ra cô cũng chẳng kém gì đâu.

Mặt Triệu Mẫn sầm xuống, hỏi:

- Anh định mỉa mai tôi đấy chăng? Nói cho anh hay, nếu anh ngại tôi tâm địa hiểm ác thì tránh xa tôi ra là hơn.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chẳng cần phải thế. Cô đã sử dụng ngụy kế nhiều lần với tôi rồi, việc gì tôi cũng phải đề phòng cho chắc.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Anh bảo anh đề phòng? Thế sao tôi bôi thuốc độc lên lưng bàn tay anh, anh không biết?

Trương Vô Kỵ kinh hãi, quả nhiên vết thương thấy hơi ngứa xem ra có gì khác lạ, vội vàng cởi khăn ra, giơ tay đưa lên mũi ngửi, kêu lên:

- Ối chao!

Chàng biết là Triệu Mẫn đã bôi Khứ Hủ Tiêu Cơ Cao lên tay mình, là loại thuốc cao để tiêu trừ thịt bị thối, tuy không phải là thuốc độc nhưng bôi lên sẽ làm cho vết thương càng loét ra sâu thêm. Loại thuốc này vốn dĩ có mùi hăng hăng, Triệu Mẫn trộn với son môi, lại dùng khăn tay bao lại, mùi thơm át cả mùi thuốc khiến chàng không nhận ra. Trương Vô Kỵ vội chạy ra sau thuyền lấy nước rửa sạch, Triệu Mẫn đi theo, cười khúc khích giúp chàng vẩy nước lên. Trương Vô Kỵ đẩy cô gái ra, hậm hực nói:

- Tránh xa tôi ra, nghịch ác thế chưa đủ hay sao? Cô tưởng tôi không biết đau ư?

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Thật đúng là lấy oán báo ơn, tôi sợ anh đau nhiều nên mới làm ra thế.

Trương Vô Kỵ không thèm để ý đến nàng, mặt hầm hầm quay về trong khoang thuyền, nhắm mắt lại. Triệu Mẫn cũng đi theo sau, gọi khẽ:

- Trương công tử.

Trương Vô Kỵ giả vờ ngủ, Triệu Mẫn lại gọi thêm hai tiếng nữa, chàng vẫn làm thinh. Cô gái thở dài:

- Nếu biết thế tôi bôi thuốc độc thật cho anh chết luôn còn hơn là để anh không ngó ngàng gì tới tôi.

Trương Vô Kỵ mở mắt ra nói:

- Cái gì mà "lấy oán báo ơn", cô nói thử xem nào?

Triệu Mẫn cười nói:

- Nếu tôi giải thích cho anh chịu phục thì làm sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mồm năm miệng mười, tôi làm sao nói lại cô được.

Triệu Mẫn lại cười:

- Anh chưa nghe tôi nói gì mà đã không tin rồi, có biết đâu tôi chỉ vì tốt bụng với anh đấy thôi.

Trương Vô Kỵ hứ một tiếng nói:

- Trên đời này ai có ai lại tốt bụng như cô? Chẳng duyên cớ gì cắn chảy máu tay tôi ra thì cũng còn được, lại còn bôi thuốc độc lên, quả thật tôi không chịu nổi lòng tốt của cô nữa.

Triệu Mẫn nói:

- Ừ, thế tôi hỏi anh: tôi cắn anh đau hơn hay anh cắn Ân cô nương đau hơn?

Trương Vô Kỵ mặt mày bẽn lẽn nói:

- Cái ... cái đó lâu lắm rồi, nhắc tới làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Tôi cứ nhắc đến. Tôi hỏi anh anh đừng có lảng qua chuyện khác.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thì cứ coi như tôi cắn Ân cô nương đau hơn đi. Thế nhưng cô ta nắm tay tôi, lúc đó võ công tôi không bằng, không thể nào thoát thân được, trẻ con gấp rút hoảng hốt chỉ đành cắn một cái. Còn cô đâu có phải trẻ con, tôi cũng đâu có nắm tay cô bắt cô đi lên đảo Linh Xà?

Triệu Mẫn cười:

- Lạ nhỉ, lúc đó cô ta nắm tay anh muốn anh đi lên đảo Linh Xà, anh nhất định không đi. Thế sao lúc này người ta không mời anh, anh lại lót tót đi theo là sao? Hay là người lớn rồi lòng cũng lớn theo, cái gì cũng biến đổi cả.

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên, cười nói:

- Cái này là cô bảo tôi đi đấy chứ.

Triệu Mẫn nghe chàng nói thế cũng thấy thẹn thùng, lòng dâng lên một nỗi êm đềm, tưởng như Trương Vô Kỵ muốn nói: "Cô ta bắt tôi đi, tôi thà chết cũng không đi, còn cô bảo tôi đi thì tôi đi ngay".

Hai người lặng yên không ai nói thêm câu nào, ánh mắt vừa chạm nhau, vội vàng quay đầu ra chỗ khác. Triệu Mẫn cúi đầu nói nhỏ:

- Thôi được, để em nói cho nghe, năm xưa anh cắn Ân cô nương một cái, thế mà bao lâu nay cô ấy vẫn khắc khoải nhớ thương anh, em nghe cô ta nói thế cũng sợ người khác quên mình. Thành ra em cắn anh một cái, cũng chỉ cốt để anh đừng bao giờ quên em cả.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, hiểu ngay thâm ý của Triệu Mẫn, trong lòng cảm động nhưng không dám nói ra lời. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Em nhìn vết sẹo trên lưng bàn tay cô ta, thấy anh cắn sâu lắm. Em nghĩ vết cắn càng sâu, thì nhớ càng lâu nên cũng định cắn anh thật đau nhưng lòng không nỡ, còn cắn nhè nhẹ thì lại sợ anh rồi sẽ quên em thôi. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn nước cắn anh một cái, sau đó bôi "Khứ Hủ Tiêu Cơ Tán" để cho vết thương loét ra to hơn.

Trương Vô Kỵ nghe thấy thật tức cười, nghĩ lại nàng làm ra như thế cũng chỉ vì cảm tình sâu xa đối với mình, thở dài một tiếng, ôn tồn nói:

- Tôi cũng không trách cô đâu. Thế ra chính tôi mới là kẻ "lấy oán báo ơn". Cô đối với tôi như thế, dù có thế nào chăng nữa, tôi cũng không bao giờ quên cô cả.

Triệu Mẫn đang ôn nhu bẽn lẽn, nghe chàng nói vậy, ánh mắt liền lộ vẻ tinh quái, cười hỏi:

- Anh nói "em đối với tôi như thế" là nói em tốt với anh hay là em không tốt với anh? Trương công tử, em đối với anh nhiều điều không ra gì, còn đã có gì tốt với anh đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Từ nay về sau cô đối với tôi tốt là được rồi.

Chàng cầm tay nàng đưa lên môi, cười nói:

- Để tôi cắn một cái cho cô suốt đời không quên tôi.

Triệu Mẫn đột nhiên hổ thẹn, vội giựt tay chạy ra khỏi khoang thuyền. Nàng vừa mở cửa đụng ngay phải Tiểu Siêu đứng đó, giật mình nghĩ thầm: "Ôi chao, những gì ta nói với chàng con tiểu a đầu này nghe thấy hết, xấu hổ muốn chết được". Mặt nàng đỏ bừng vội vàng chạy lên trên sàn.

Tiểu Siêu đến trước mặt Trương Vô Kỵ nói:

- - Công tử gia, em thấy Kim Hoa bà bà và cô gái xấu xí kia mới đi ra, hai người trên lưng ai cũng vác một cái bọc to, không biết họ làm trò quỉ gì.

Trương Vô Kỵ ồ một tiếng, từ nãy giờ chàng cùng Triệu Mẫn nói chuyện đùa với nhau toàn chuyện riêng tư, nay thấy Tiểu Siêu không khỏi xấu hổ, mặt ngẩn ra một lát mới nói:

- Có phải họ đi về căn nhà nhỏ ở hòn núi phía bắc chăng?

Tiểu Siêu đáp:

- Không phải, hai người đi về hướng bắc thật nhưng không trèo lên núi, dường như đang tranh cãi điều gì. Kim Hoa bà bà xem chừng có vẻ bực tức lắm.

Trương Vô Kỵ chạy xuống đằng sau, thấy Triệu Mẫn ở xa xa nơi đầu thuyền đứng thẫn thờ nhìn ra biển. Chàng nghe tiếng sóng bập bềnh vỗ vào mạn thuyền, cũng thấy trong lòng dạt dào, trồi lên hụp xuống không sao bình tĩnh được. Một hồi thật lâu, khi vầng thái dương đã chìm hẳn xuống những đợt sóng ở phía tây, cây cối trên đảo dần dần thẫm lại, bấy giờ chàng mới quay vào trong khoang thuyền.

Trương Vô Kỵ ăn cơm tối xong, quay sang nói với Triệu Mẫn và Tiểu Siêu:

- Tôi đi thăm dò nghĩa phụ, hai cô ở lại thuyền để khỏi đông người khiến Kim Hoa bà bà có thể phát giác được.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy anh chờ thêm một canh nữa cho thật tối rồi hãy đi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Được.

Chàng mong nhớ nghĩa phụ, trong lòng nóng như lửa đốt, một canh đó thật là khó chịu. Đợi đến khi chung quanh tối đen cả, chàng liền đứng dậy, mỉm cười nhìn Tiểu Siêu và Triệu Mẫn, dợm bước ra khỏi khoang thuyền. Triệu Mẫn cởi thanh Ỷ Thiên kiếm đeo ở lưng ra nói:

- Trương công tử hãy đeo thanh kiếm này phòng thân.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Cô cứ giữ lấy đi.

Triệu Mẫn nói:

- Không, anh đi chuyến này em không an tâm.

Trương Vô Kỵ cười:

- Có gì mà không an tâm?

Triệu Mẫn nói:

- Em cũng không nói ra được. Kim Hoa bà bà kỳ quái không biết thế nào, Trần Hữu Lượng cũng nhiều ngụy kế, chẳng biết nghĩa phụ anh có tin anh là "thằng bé Vô Kỵ" hay không nữa ... Ôi, hòn đảo này tên là Linh Xà, không chừng lại còn những độc vật ghê gớm, huống chi thêm ...

Nàng nói tới đây, nín bặt không thêm gì nữa. Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Huống chi cái gì?

Triệu Mẫn đưa tay mình lên, giả vờ như cắn một cái, cười hì hì, mặt đỏ lên. Trương Vô Kỵ biết nàng nói tới biểu muội Ân Ly, xua xua tay, đi ra cửa khoang. Triệu Mẫn gọi to:

- Đón lấy.

Nói rồi nàng thẩy thanh kiếm Ỷ Thiên lại cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ đón lấy thanh kiếm, trong lòng bồi hồi: "Nàng thật chẳng tiếc gì với ta, đến thanh kiếm Ỷ Thiên cũng đưa cho mượn". Chàng bèn gài thanh kiếm ra sau lưng, đề khí chạy tới mỏm núi ở phía bắc. Nhớ tới lời Triệu Mẫn, Vô Kỵ sợ trong cỏ có độc trùng rắn rít nên chỉ bước vào những nơi trống trải. Chỉ chừng uống xong một chén trà chàng đã đến chân núi, ngửng đầu nhìn lên thấy căn lều tối thui không đèn đóm gì cả, nghĩ thầm: "Nghĩa phụ chắc đi ngủ rồi". Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: "Lão nhân gia hai mắt đã mù, có cần gì đến đèn đuốc?". Ngay lúc đó, từ bên lưng chừng núi phía trái vọng qua tiếng người nói chuyện rì rầm. Chàng nép mình xuống, theo hướng âm thanh lần tới nhưng lại không nghe thấy gì nữa.

Vừa lúc đó một trận gió bấc thổi tới khiến có cây cỏ xào xạc. Trương Vô Kỵ nhân tiếng gió vội vàng chạy vọt lên, thấy cách trước mặt chừng bốn, năm trượng tiếng Kim Hoa bà bà hạ giọng nói thật nhỏ:

- Sao chưa ra tay? Ngươi còn chần chừ gì nữa?

Ân Ly đáp:

- Bà bà làm thế này, xem chừng ... xem chừng không phải với bạn bè xưa. Tạ đại hiệp giao tình với bà mấy chục năm mới tin ở bà mà từ Băng Hỏa đảo về Trung Nguyên.

Kim Hoa bà bà cười khẩy:

- Hắn tin ta ư? Ngươi nói lạ nhỉ? Nếu quả thực y tin ở ta, sao không cho ta mượn thanh đao? Y về Trung Nguyên cốt để đi tìm nghĩa tử, có liên quan gì đến ta đâu nào!

Trong bóng đêm chỉ thấy mờ mờ bóng Kim Hoa bà bà khom lưng xuống, đột nhiên nghe keng một tiếng nho nhỏ như tiếng kim châm chạm vào đá núi, một lúc sau, lại có một tiếng như thế nữa. Trương Vô Kỵ lạ lùng nhưng sợ bị hai người phát giác nên không dám tiến lên nhìn cho rõ ràng. Lại nghe Ân Ly nói:

- Bà bà muốn đoạt thanh bảo đao sao không ra mặt giao chiến để khỏi mất đi thân phận anh hùng. Việc đang làm đây nếu như truyền ra chốn giang hồ, chẳng bị người ta sỉ tiếu hay sao? Diệt Tuyệt sư thái nay đã chết rồi, bà bà còn muốn lấy thanh đao làm gì nữa?

Kim Hoa bà bà giận quá, đứng thẳng người lên, gay gắt nói:

- Con nhãi kia, năm xưa ai cứu ngươi thoát khỏi bàn tay cha ngươi? Bây giờ ngươi khôn lớn, không còn nghe lời bà bà dặn dò nữa phải không? Gã Tạ Tốn kia không bà con thân thích gì với ngươi hết, sao ngươi cứ nhất định phải bênh y chầm chập là sao? Ngươi thử nói duyên cớ cho bà bà nghe xem nào?

Tuy giọng điệu chì chiết thế nhưng âm thanh vẫn rất nhỏ dường như sợ rằng trên đỉnh núi Tạ Tốn có thể nghe thấy được. Thực ra từ đó đến đây khoảng cách rất xa, nếu không dùng nội lực đẩy tiếng nói đi, dù có lớn tiếng kêu gào chưa chắc đã nghe thấy.

Ân Ly cầm cái bao trong tay ném phịch xuống đất, nghe leng keng leng keng một hồi, rồi lùi lại ba bước. Kim Hoa bà bà gắt lên:

- Gì thế? Ngươi đủ lông đủ cánh muốn bay đi phải không?

Tuy trời tối mịt, Trương Vô Kỵ vẫn nhìn thấy đôi mắt bà ta sáng quắc như điện đầy vẻ uy hiếp. Ân Ly nói:

- Bà bà, con quyết không quên ơn cứu mạng, ơn dạy dỗ võ công của bà bà. Thế nhưng Tạ đại hiệp là ... là nghĩa phụ của y.

Kim Hoa bà bà cười khan mấy tiếng, nói:

- Sao trên đời này lại có đứa ngu si đến như ngươi. Tên tiểu tử họ Trương kia đã rơi xuống vực sâu vạn trượng ở Tây Vực rồi, chính tai ngươi nghe thấy Võ Liệt, Võ Thanh Anh kể lại. Thế nhưng ngươi vẫn còn chưa tin hẳn, lại bắt cóc chúng tới đây khảo vấn thêm nữa, họ đã nói hết cả rồi, không lẽ còn giả hay sao? Đến bây giờ đến xương cốt của tiểu tử họ Trương cũng đã thành tro bụi, sao vẫn còn canh cánh không quên y là sao?

Ân Ly đáp:

- Bà bà, sao trong lòng con không sao quên y được. Hẳn là, như bà bà đã nói là ... là oan nghiệt kiếp trước đấy chăng?

Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, nói:

- Chẳng nói gì năm xưa thằng bé đó không chịu theo ngươi lên đảo Linh Xà, dẫu có cùng ngươi thành vợ thành chồng thì nó cũng chết rồi, còn chờ gì nữa? Cũng may nó chết sớm, chứ như hôm nay còn sống thấy ngươi hình dạng như thế này, làm sao còn yêu ngươi được? Lúc đó ngươi thấy y yêu thương người khác, trong bụng sẽ nghĩ sao?

Mấy câu đó giọng bà ta trở lại ôn hòa. Ân Ly lặng thinh không nói, hẳn là không biết phải trả lời sao. Kim Hoa bà bà lại nói tiếp:

- Chẳng nói chi người khác, riêng Chu cô nương của phái Nga Mi ta bắt giữ kia, xinh đẹp như thế, gã họ Trương nhìn thấy lẽ nào không động tâm? Ngươi giết Chu cô nương hay là giết tên tiểu tử ấy? Hừ hừ, nếu như ngươi không luyện cái môn Thiên Châu Vạn Độc Thủ thì cũng là một tuyệt sắc giai nhân, nhưng bây giờ thì cái gì cũng đã xong cả rồi.

Ân Ly nói:

- Người đó chết rồi, tướng mạo con cũng đã hủy, còn gì để nói nữa đâu? Thế nhưng Tạ đại hiệp là nghĩa phụ của anh ta, bà bà ơi, mình không nên đụng chạm tới ông ta. Bà bà, con chỉ xin bà bà một chuyện thôi, còn việc gì con nghe bà bà cả.

Nói tới đây nàng quì xuống. Trương Vô Kỵ trong lòng lạ lùng: "Ta lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đó đã chấn động võ lâm, sao hai người lại không biết gì cả là sao? Ôi, đúng rồi, chắc là họ đi lên Băng Hỏa đảo đón nghĩa phụ ta, đi về mất một thời gian dài, lần này lên Đại Đô rồi quay lại ngay, chẳng lai vãng với ai cả cho nên tên ta không hề nghe đến".

Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:

- Thôi được, ngươi đứng lên đi.

Ân Ly mừng rỡ nói:

- Đa tạ bà bà.

Kim Hoa bà bà nói:

- Ta nhận lời ngươi không giết y, nhưng thanh đao Đồ Long không lấy không được ...

Ân Ly nói:

- Thế thì ...

Kim Hoa bà bà liền cắt ngang, quát lên:

- Không được lôi thôi gì nữa, đừng để cho ta phải bực mình.

Nói xong giơ tay một cái, nghe keng một tiếng. Chỉ thấy bà ta hai tay giơ lên liên tiếp, mỗi lúc một xa, tiếng leng keng liên miên bất tuyệt còn Ân Ly ngồi trên một tảng đá, ôm mặt khóc rấm rứt.

Trương Vô Kỵ thấy nàng đối với mình sâu đậm như thế, trong lòng cực kỳ cảm kích. Một lúc sau, Kim Hoa bà bà ở cách xa khoảng mươi trượng quát lên:

- Đem lại đây.

Ân Ly không còn cách nào khác hơn, đành xách hai cái túi lên chạy lại phía Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, cúi đầu xem, kinh hãi không để đâu cho hết, thấy cứ cách hai ba thước lại có một cái kim dài chừng bảy tám tấc cắm trên mặt đá, đầu nhô lên sáng lấp lánh bén nhọn lạ thường. Chàng càng nghĩ càng ghê người, hẳn là Kim Hoa bà bà sẽ đến khiêu chiến với Kim Mao Sư Vương nhưng sợ không địch lại, bắn ám khí thì sợ Tạ Tốn sẽ nghe tiếng gió mà tránh được, nên cắm kim châm dưới đất, vô thanh vô tức, chỉ cần dụ được ông ta tiến vào vùng đã dàn sẵn, người mù cả hai mắt làm sao đề phòng? Chàng lửa giận bốc lên nhịn không nổi, giơ tay toan nhổ các kim ra để cho âm mưu của bà ta xôi hỏng bỏng không nhưng chợt nghĩ lại: "Mụ ác bà này gọi nghĩa phụ ta là Tạ tam ca, ngày xưa giao tình của hai người hẳn không phải tầm thường. Để đến khi mụ đoạn tình với nghĩa phụ ta rồi, ta sẽ bước ra phá quỉ kế của bà ta. Hôm nay trời cho Trương Vô Kỵ này ở đây quyết không để cho nghĩa phụ bị thương tổn".

Nghĩ thế chàng bèn ngồi bó gối đằng sau tảng đá, đợi xem biến chuyển ra sao. Bỗng nghe trong tiếng gió núi dường như có lá rơi, một kẻ khinh công cao cường đang lặng lẽ tiến tới. Chàng quay đầu nhìn lại, thấy gã kia lấp ló đi tới, chính là tên trưởng lão Cái Bang Trần Hữu Lượng, tay cầm loan đao nhưng lấy vải bao lại cho khỏi sáng. Chàng nghĩ thầm Triệu Mẫn liệu không sai, gã này quả không phải là người tốt.

Chỉ nghe Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng nói:

- Tạ tam ca, có tên cẩu tặc không sợ chết đi kiếm ông đó.

Trương Vô Kỵ giật mình không ngờ Kim Hoa bà bà lợi hại đến thế, chẳng lẽ tung tích của mình bà ta đã biết rồi chăng, cứ theo lý thì không thể nào biết được. Chỉ thấy Trần Hữu Lượng nằm phục trong đám cỏ không động đậy chút nào. Trương Vô Kỵ lại nhún mình mấy cái đã tiến lên thêm vài trượng nữa. Chàng muốn càng gần bên nghĩa phụ càng tốt để phòng Kim Hoa bà bà đột nhiên giở ngụy kế cứu viện không kịp.

Qua một lúc nữa, một bóng người cao lớn từ căn nhà nhỏ trên đỉnh núi bước ra, chính là Tạ Tốn. Ông từ từ đi xuống, còn cách Kim Hoa bà bà chừng vài trượng liền đứng lại, không nói một lời. Kim Hoa bà bà nói:

- Ha ha, Tạ tam ca, ông đối với cố nhân thì nhất mực đề phòng, còn đối với người ngoài thì lại quá cả tin. Hôm nay ông thả Trần Hữu Lượng ra, bây giờ gã lại đến kiếm ông đó.

Tạ Tốn lạnh lùng cười nói:

- Minh thương dị đóa, ám tiễn nan phòng[7]. Tạ Tốn này một đời lúc nào chả bị người ta lợi dụng. Tên Trần Hữu Lượng kia đến kiếm tôi để làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái bọn tiểu nhân gian xảo đó, nói tới làm gì? Sáng hôm nay khi ông tha mạng cho y, có biết tay chân y chuẩn bị chiêu thức gì không? Hai tay y thành thế Sư Tử Bác Thố, còn chân tập trung sức lực toan ra chiêu Hàng Ma Thích Đẩu Thức, ha ha, ha ha.

Bà ta nói nghe thanh tao dễ nghe nhưng tiếng cười lại như tiếng cú rúc, trong đêm vắng thật là thê lương. Tạ Tốn ngạc nhiên, biết lời Kim Hoa bà bà không phải là giả, chỉ vì mắt mù nên ông không nhìn thấy những gì Trần Hữu Lượng làm. Ông thản nhiên nói:

- Tạ Tốn này bị người ta lừa dối đâu phải chỉ mới lần đầu. Cái bọn tiểu nhân đó trên giang hồ bao nhiêu mà chẳng có, giết thêm một đứa hay ít đi một đứa có gì khác đâu? Hàn phu nhân, nếu như bà còn coi là bạn của tôi, lúc đó thấy lại để mặc, lúc này lại nói cho tôi nghe, có ý chọc tức tôi hay sao?

Nói tới đây, đột nhiên tung mình nhảy lên nhanh như chớp tới ngay trước mặt Trần Hữu Lượng. Trần Hữu Lượng kinh hãi vung đao lên chém, Tạ Tốn tay trái giơ ra đoạt luôn thanh đao, bốp bốp bốp tát cho y ba cái liền, tay phải nắm cổ giơ lên nói:

- Nếu lúc này ta giết ngươi, có khác gì giết con gà, nhưng Tạ Tốn đã nói trước, hẹn với ngươi mười năm nữa quay lại kiếm ta. Nếu còn để ta gặp lần nữa trên hòn đảo này ta sẽ lấy cái mạng chó của ngươi ngay.

Ông giơ tay vứt y ra ngoài. Nơi Trần Hữu Lượng sắp rơi xuống chính là nơi cắm đầy kim, một khi đụng đất thể nào cũng bị kim đâm phải, gian kế của Kim Hoa bà bà bố trí suốt đêm qua sẽ bị lộ mất. Bà ta liền phi thân tới trước, giơ quài trượng điểm vào hông y một cái, đẩy vọt y ra ngoài mấy trượng, quát lên:

- Ngươi mà còn đặt chân lên đảo Linh Xà này một bước, ta sẽ giết một trăm tên ăn mày của Cái Bang. Kim Hoa bà bà này nói là giữ lời, hôm nay thưởng cho ngươi một bông kim hoa trước.

Mụ giơ tay lên, một điểm vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng một bông kim hoa đã trúng ngay huyệt Giáp Xa trên má Trần Hữu Lượng khiến y không nói năng gì được để khỏi tiết lộ chuyện cơ mật. Trần Hữu Lượng giơ tay ôm má, vội chạy xuống núi.

Khi đó Tạ Tốn chỉ còn cách vùng cắm kim chừng vài trượng, thành ra Trương Vô Kỵ lại ở đằng sau lưng ông ta. Nội công Trương Vô Kỵ cao hơn Trần Hữu Lượng nhiều, chàng nín hơi khiến Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn không hề hay biết chàng nằm ngay bên cạnh.

Kim Hoa bà bà quay lại khen:

- Tạ tam ca, ông dùng tai thay mắt không kém chút nào, từ nay trùng chấn hùng phong tung hoành trên giang hồ thêm hai chục năm nữa.

Tạ Tốn nói:

- Ta đâu có nghe được Sư Tử Bác Thố và Hàng Ma Thích Đẩu Thức? Chỉ cần biết tin của thằng con Vô Kỵ thôi ta có chết cũng nhắm mắt. Tạ Tốn này nợ máu ngập đầu, chết hẳn phải thảm khốc lắm nói gì chuyện tung hoành trên chốn giang hồ?

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Hộ giáo pháp vương của Minh giáo, giết vài mạng người có kể vào đâu? Tạ tam ca, ông đưa thanh đao Đồ Long cho tôi mượn đi.

Tạ Tốn lắc đầu không trả lời. Kim Hoa bà bà lại nói:

- Nơi đây hình tích đã lộ rồi, ông không còn ở lại được nữa. Để tôi đi tìm một nơi kín đáo, đưa ông đến ở vài tháng, tôi mang thanh đao Đồ Long đi đánh thắng đại địch phái Nga Mi rồi, sẽ hết sức đi tìm Trương công tử. Với bản lãnh của tôi, đem Trương công tử đến gặp ông không phải là chuyện khó.

Tạ Tốn lại lắc đầu. Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông có còn nhớ đến tám chữ Tứ Đại Pháp Vương, Tử Bạch Kim Thanh chăng? Nghĩ lại năm xưa chúng ta cùng ở dưới quyền Dương giáo chủ, Ưng Vương Ân nhị ca, Bức Vương Vi tứ ca, thêm ông và tôi, hoành hành thiên hạ, có ai dám chống trả đâu? Đến nay con hổ tuy có già nhưng hùng tâm đâu đã mất, sao ông lại để cho người ta khinh khi đứa em gái Tử Sam này mà không ra tay giúp là sao?

Trương Vô Kỵ giật mình: "Nghe bà ta nói, chẳng lẽ bà ta là Tử Sam Long Vương, đứng đầu trong tứ đại pháp vương của bản giáo? Sao trên đời này lại có chuyện lạ thế bao giờ? Tại sao bà ta lại gọi Vi Bức Vương là tứ ca?".

Chỉ nghe Tạ Tốn bùi ngùi nói:

- Chuyện cũ nay còn nhắc lại làm gì? Già cả rồi, ai cũng già cả rồi.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, tôi già nhưng mắt đâu đã hoa, chẳng lẽ không thấy hai mươi năm qua võ công ông tiến triển rất nhiều hay sao? Ông việc gì phải khiêm tốn? Mình còn sống được bao lâu nữa trên cõi đời này? Cứ theo tiểu muội, nhân khi tứ đại pháp vương của Minh giáo chưa ai chết, lại liên thủ giang hồ làm một sự nghiệp thật là oanh liệt.

Tạ Tốn thở dài:

- Ân nhị ca và Vi tứ đệ lúc này chắc gì còn sống. Nói riêng Vi tứ đệ, hàn độc trong cơ thể y khó mà trừ, chỉ sợ không còn trên đời này nữa.

Kim Hoa bà bà cười nói:

- Cái đó ông nói sai rồi. Tôi nói thực ông nghe, Bạch Mi Ưng Vương và Thanh Dực Bức Vương cả hai đều đang ở trên Quang Minh Đính.

Tạ Tốn lạ lùng:

- Hai người về Quang Minh Đính rồi ư? Làm gì thế?

Kim Hoa bà bà nói:

- Cái đó chính mắt A Ly trông thấy. A Ly là cháu ngoại của Ân nhị ca, vì đắc tội với phụ thân nên cha nó định giết nó. Lần thứ nhất chính tôi cứu thoát, lần thứ hai thì Vi tứ ca cứu thoát. Vi tứ ca đem nó lên Quang Minh Đính, giữa đường bị tôi lẻn bắt đi. A Ly, ngươi kể lại chuyện sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính cho Tạ công công nghe nào!

Ân Ly bèn đem chuyện nàng thấy ở Tây Vực kể sơ qua cho Tạ Tốn nghe, nhưng vì chưa lên đến Quang Minh Đính đã bị Kim Hoa bà bà mang đi rồi nên những gì xảy ra trên Quang Minh Đính không hề hay biết. Tạ Tốn càng nghe càng nóng ruột, hỏi dồn:

- Rồi sau ra sao? Rồi sau ra sao?

Cuối cùng ông giận dữ nói:

- Hàn phu nhân, tuy bà vì chuyện hôn nhân mà bất hòa với anh em, nhưng khi bản giáo bị nạn sao đành tụ thủ bàng quan? Dương giáo chủ là nghĩa phụ của bà, năm xưa đãi bà ra sao bà không còn nghĩ gì tới nữa hay sao? Bà xem Ân nhị ca và Vi tứ đệ, Ngũ Tản Nhân và Ngũ Hành Kỳ ai ai cũng lên Quang Minh Đính cả đấy thôi?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Tôi không có được thanh đao Đồ Long, thì vẫn chỉ là bại tướng dưới tay Diệt Tuyệt lão ni của phái Nga Mi thôi, dẫu lên Quang Minh Đính cũng còn mặt mũi nào mà động thủ với mụ ta đâu, chẳng lẽ lên để xin tha mạng?

Hai người lặng yên, một lát sau Tạ Tốn mới hỏi:

- Làm cách nào bà lại biết chỗ ở của tôi, sao trước nay vẫn không chịu nói thật? Người của phái Võ Đương cho bà hay ư?

Kim Hoa bà bà đáp:

- Người của phái Võ Đương làm sao mà biết được? Vợ chồng Trương Thúy Sơn bị cưỡng ép, thà tự vẫn chứ không chịu nói nơi ở của ông, người phái Võ Đương dĩ nhiên không thể nào biết. Được, hôm nay tôi cũng chẳng dấu ông làm gì nữa. Tôi ở Tây Vực gặp một gã tên là Võ Liệt, y vốn là con cháu của Võ Tam Thông, truyền nhân của Đoàn gia nước Đại Lý năm xưa. Trời xui đất khiến làm sao, tôi nghe y nói với con gái bị tôi bắt nọn, dùng cực hình khiến y phải cung khai ra chỗ ở của ông.

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi mới nói:

- Tên họ Võ đó gặp được thằng Vô Kỵ con tôi phải không? Chắc là y đánh lừa trẻ con mới tìm ra được cái bí mật đó.

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, trong lòng hết sức hổ thẹn, nghĩ đến năm xưa mình ở Chu gia trang bị hai cha con Chu Trường Linh, Chu Cửu Chân lừa dối, dùng ngụy kế khiến mình phải thổ lộ chân tình, nếu như vì thế mà nghĩa phụ rơi vào tay gian nhân, thật mình dù có chết vạn lần cũng không chuộc được. Nghĩa phụ tuy mắt đã mù nhưng suy tính mọi chuyện cũng chẳng khác gì chính mắt trông thấy.

Lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Lục đại môn phái vây đánh Minh giáo không phải chuyện nhỏ, bản giáo rồi sau ra sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Minh giáo hưng suy tồn vong không còn liên quan gì đến lão bà cả. Năm xưa trên Quang Minh Đính, ai ai cũng làm khó tôi, ông có quên chứ tôi lúc nào cũng nhớ rất rõ. Lúc đó chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tốt với tôi thôi, tôi không quên đâu.

Tạ Tốn nói:

- Ôi, tư oán là chuyện nhỏ, hộ giáo là chuyện lớn. Hàn phu nhân, lòng dạ bà như thế hẹp hòi quá.

Kim Hoa bà bà giận dữ nói:

- Ông là nam tử hán đại trượng phu, còn tôi là đàn bà tính khí hẹp hòi. Năm xưa tôi phá môn xuất giáo đã thề không liên quan gì đến Minh giáo nữa. Nếu không vì thế thì gã Hồ Thanh Ngưu đâu có coi tôi là người ngoài? Sao y lại muốn tôi phải quay về Minh giáo mới chịu chữa độc cho Ngân Diệp tiên sinh? Hồ Thanh Ngưu bị tôi giết đó, Tử Sam Long Vương đã phạm đại giới của Minh giáo rồi, tôi còn liên hệ gì đến Minh giáo đâu?

Tạ Tốn lắc đầu nói:

- Hàn phu nhân, tôi hiểu lòng dạ bà lắm. Bà định mượn đao Đồ Long của tôi, miệng nói là để đối phó với phái Nga Mi, nhưng thực ra là để đối phó với Dương Tiêu, Phạm Dao. Bà lúc nào cũng chăm chăm lẻn vào bí đạo trên Quang Minh Đính, vì thế nên tôi không thể nào cho bà mượn thanh đao Đồ Long được.

Kim Hoa bà bà ho khúc khắc mấy tiếng rồi nói:

- Tạ tam ca, năm xưa tôi với ông võ công ai cao hơn ai?

Tạ Tốn đáp:

- Tứ đại pháp vương mỗi người có sở trường riêng.

Kim Hoa bà bà nói:

- Hiện nay đôi mắt ông hỏng rồi, so với lão bà thì thế nào?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Bà định cậy mạnh đoạt đao, có phải thế chăng? Tạ Tốn có thanh đao Đồ Long trong tay cũng thay thế được đôi mắt.

Ông thở một hơi dài, tiến lên một bước, đôi mắt mù hướng về phía Kim Hoa bà bà, thần uy lẫm lẫm. Ân Ly thấy vậy hãi sợ vội lùi về sau mấy bước. Kim Hoa bà bà vẫn khom lưng đứng đó, tay chống quài trượng, thỉnh thoảng lại ho mấy tiếng, xem ra Tạ Tốn chỉ cần vung đao lên chém xuống là bà ta đứt làm đôi ngay. Tuy nhiên bà ta vẫn lặng thinh không cử động, tưởng như không coi Tạ Tốn vào đâu. Trương Vô Kỵ đã thấy bà ta ra tay mấy lần, nhanh nhẹn tuyệt luân, lại còn có phần ngụy bí quái dị hơn cả Vi Nhất Tiếu chẳng khác gì quỉ mị, yêu ma. Lúc này bà ta đứng đối diện với Tạ Tốn, một người đang sắp sửa bung ra tấn công thế như giương cung tuốt kiếm hết sức căng thẳng, còn người kia vẫn nhàn nhã đứng đợi, thản nhiên như không.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm bà ta còn được xếp hạng trên cả ông ngoại, nghĩa phụ và Vi Bức Vương, võ công ắt phải cực kỳ lợi hại, khiến chàng không khỏi lo thầm cho Tạ Tốn.

Chỉ nghe bốn bề gió rít vù vù, xen lẫn tiếng sóng biển truyền tới, trong tình thế hung hiểm như thế này càng thêm vẻ thê lương. Hai người đứng đó cách nhau chỉ chừng hơn một trượng nhưng không ai dám ra tay trước.

Qua một lúc lâu, Tạ Tốn bỗng nói:

- Hàn phu nhân, hôm nay bà ép tôi phải động thủ, vi phạm lời thế kết nghĩa năm xưa của tứ đại pháp vương, Tạ Tốn này quả thật là khó xử.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông xưa nay vẫn là người bụng dạ từ bi, quả thật trước đây tôi không ngờ nổi bao nhiêu nhân vật thành danh, anh hùng hào kiệt lại do tay ông giết chết.

Tạ Tốn thở dài:

- Tôi vì quá thương cha mẹ vợ con chết thảm muốn báo thù nên việc gì cũng làm. Trong đời tôi việc đau lòng nhất là đã đánh liên tiếp mười ba quyền, giết chết Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm.

Kim Hoa bà bà kinh hoảng nói:

- Không Kiến thần tăng quả thực bị ông đánh chết đấy ư? Ông luyện thành võ công ghê gớm đến thế từ bao giờ?

Bà ta vốn tự tin mình sẽ có thể đối phó được với Tạ Tốn nhưng lúc này xem chừng e sợ. Tạ Tốn nói:

- Bà đừng sợ. Không Kiến thần tăng chỉ chịu đòn mà không đánh trả lại, ông ta muốn đem Phật pháp quảng đại vô biên để hóa giải tà ma ngoại đạo.

Kim Hoa bà bà hừ một tiếng nói:

- Có thế chứ, lão bà không bằng được Không Kiến thần tăng, ông chỉ mười ba quyền đánh chết ông ta thì chỉ cần chín, mười quyền là đánh chết được tôi rồi.

Tạ Tốn lùi lại một bước, giọng nói đột nhiên biến thành ôn hòa:

- Hàn phu nhân, ngày trước nơi Quang Minh Đính bà đối với tôi thật là chí tình. Hồi đó người ca ca này bị bệnh, nội tử lại mới sinh người còn yếu, không dậy được. Bà hết lòng hết sức lo cho tôi hơn một tháng trời, tôi lúc nào cũng ghi nhớ trong tim.

Ông giơ tay phủi trên bộ trường bào nói tiếp:

- Tôi ở hải ngoại mặc bằng da thú, bà may cho tôi áo quần, bên ngoài bên trong chỗ nào cũng vừa vặn, đủ biết tình nghĩa với nhau ở trên Quang Minh Đính vẫn còn. Thôi bà đi đi, từ nay trở đi, mình đừng gặp lại nhau nữa là xong. Tôi chỉ cần bà loan truyền tin tức ra ngoài bảo thằng Vô Kỵ con tôi đến đảo này gặp tôi một chuyến, người anh này thật là cảm ơn đại đức.

Kim Hoa bà bà cười buồn nói:

- Ông vẫn còn nhớ đến tình nghĩa ngày xưa. Không dấu gì ông, từ khi Ngân Diệp đại ca chết đi, tôi đã coi nhân tình thế thái nhẹ lắm rồi, chỉ vì còn mấy món oán thù phải trả cho xong nên tôi không đành lòng mà chết để theo Ngân Diệp đại ca về dưới suối vàng. Tạ tam ca, trên Quang Minh Đính biết bao nhiêu người, dù võ công cao siêu, cơ mưu hơn người nhưng đứa em này chẳng coi vào đâu, chỉ nể trọng riêng một mình Tạ tam ca, ông có biết tại sao không?

Tạ Tốn ngẩng lên nhìn trời, trầm tư một lúc lắc đầu nói:

- Tạ Tốn này tầm thường kém cỏi, chẳng hiểu sao hiền muội lại có bụng nể nang.

Kim Hoa bà bà tiến lên mấy bước, giơ tay phủi một tảng đá lớn chậm rãi ngồi xuống nói:

- Năm xưa trên Quang Minh Đính, chỉ có Dương giáo chủ và Tạ tam ca là tiểu muội coi hợp mắt thôi. Khi cô em này gá nghĩa với Ngân Diệp tiên sinh chỉ có hai người không trách là tôi lấy lầm người.

Tạ Tốn cũng ngồi xuống nói:

- Hàn đại ca tuy không phải là người trong bản giáo nhưng rất anh hùng. Các anh em điều nọ tiếng kia, lòng dạ quả có hẹp hòi. Ôi, lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính, không biết chúng huynh đệ có sao không?

Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, ông ở hải ngoại nhưng lòng vẫn hướng về trung thổ, lòng khắc khoải không quên được anh em cũ. Cuộc đời này mấy chục năm chỉ trong chớp mắt đã trôi qua, việc gì mà phải quá lo cho người khác làm gì?

Hai người lúc này chỉ cách nhau vài ba thước, hơi thở của người kia cũng nghe được. Tạ Tốn thấy Kim Hoa bà bà mỗi lần nói lại húng hắng ho liền nói:

- Năm xưa bà ở Bích Thủy Hàn Đàm bị lạnh phổi, dây dưa mãi đến bây giờ cũng chưa khỏi hẳn hay sao?

Kim Hoa bà bà nói:

- Mỗi khi trời lạnh thì lại ho nhiều. Ôi, ho mấy chục năm nay cũng quen đi. Tạ tam ca, tôi nghe ông hơi thở không đều, có phải vì luyện Thất Thương Quyền mà bị thương nội tang chăng? Ông phải cố gắng giữ gìn sức khỏe.

Tạ Tốn nói:

- Đa tạ hiền muội quan hoài.

Đột nhiên ông ngẩng đầu lên nói với Ân Ly:

- A Ly, cháu lại đây.

Ân Ly đi đến trước mặt Tạ Tốn gọi:

- Tạ công công!

Tạ Tốn nói:

- Cháu dùng toàn lực đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly ngạc nhiên đáp:

- Cháu không dám.

Tạ Tốn cười nói:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ của cháu đâu có làm ta bị thương được, cứ việc sử kình đâm ta đi. Ta chỉ muốn thử xem công lực cháu đến đâu thôi.

Ân Ly vẫn khăng khăng:

- Hài nhi không dám.

Nàng nói tiếp:

- Tạ công công, ông và bà bà năm xưa kết nghĩa tri giao, chuyện gì mà chẳng nói phải quấy với nhau được? Hai bên tranh với nhau thanh đao để làm gì?

Tạ Tốn buồn bã cười nói:

- Cháu cứ đâm ta một chỉ xem nào.

Ân Ly không còn cách nào khác, lấy khăn tay ra bao đầu ngón tay trỏ lại, đâm vào đầu vai Tạ Tốn. Chỉ nghe "Ối chao" một tiếng, nàng đã ngã ngửa về sau, văng xa đến hơn một trượng, rơi phịch xuống đất, toàn thân xương cốt như muốn gãy rời.

Kim Hoa bà bà thản nhiên như thường, chậm rãi nói:

- Tạ tam ca, sao bụng dạ ông độc ác thế, sợ tôi có thêm một người giúp đỡ nên ra tay trừ trước phải không?

Tạ Tốn không trả lời, trầm ngâm một hồi nói:

- Đứa bé này bụng dạ thật tốt, nó đâm tôi chỉ dùng hai ba thành lực, ngón tay lại bọc khăn không dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ để làm tôi bị thương. Tốt lắm, tốt lắm, nếu không phải thế, Thiên Châu Vạn Độc Thủ trở ngược về tim, giờ phút này ắt không toàn mạng nữa rồi.

Trương Vô Kỵ nhe mấy câu đó, trên lưng chảy mồ hôi lạnh, thấy nghĩa phụ nói rằng muốn thử công lực của Ân Ly, nếu như nàng dùng toàn lực đâm vào thì đã chết rồi. Người trong Minh giáo lòng dạ độc ác, nghĩa phụ là người hiền như thế cũng không tránh khỏi. Chàng có biết đâu Tạ Tốn và Kim Hoa bà bà giao thiệp với nhau đã bao nhiêu năm, hai bên đều biết rõ bụng dạ của người kia, nói mấy câu thăm hỏi xong là sẽ ra tay ác đấu quyết chẳng dung tình, Kim Hoa bà bà có thêm Ân Ly trợ giúp cực kỳ bất lợi nên ông dùng kế trừ trước đi cho xong.

Tạ Tốn nói:

- A Ly, sao ngươi lại tốt với ta như thế?

Ân Ly đáp:

- Ông ... ông là nghĩa phụ của anh ta, cũng là ... cũng là vì anh ta mà đến đây. Trên đời này, chỉ còn ông và cháu hai người là còn nhớ đến anh ta mà thôi.

Tạ Tốn "A" lên một tiếng nói:

- Không ngờ cháu lại tốt với thằng Vô Kỵ của ta đến như thế, vậy mà ta lại định giết cháu. Cháu lại đây.

Ân Ly gượng đứng lên, cố gắng mon men tới chỗ Tạ Tốn. Tạ Tốn ghé miệng sát vào tai nàng nói:

- Để ta truyền cho cháu một pho Nội Công tâm pháp do ta tham ngộ trên Băng Hỏa đảo, có thể nói là tập đại thành võ công của cả đời ta.

Ông không đợi Ân Ly nhận lời, liền đem tâm pháp từ đầu đến cuối đọc cho nàng nghe một lượt. Ân Ly nhất thời chưa hiểu rõ, chỉ cố gắng ghi nhớ trong lòng. Tạ Tốn sợ nàng không nhớ hết, lại đọc lại hai lần nữa, hỏi thêm:

- Nhớ được chưa?

Ân Ly đáp:

- Cháu nhớ rồi.

Tạ Tốn nói:

- Cháu tu tập năm năm thì có thể tiểu thành. Nhưng cháu có biết dụng ý của ta truyền cho cháu là sao không?

Ân Ly đột nhiên khóc òa lên nói:

- Cháu ... cháu biết rồi. Có điều ... có điều cháu không làm được.

Tạ Tốn gay gắt hỏi lại:

- Cháu biết cái gì? Sao lại không làm được?

Nói xong ông giơ tay trái lên, nêu như Ân Ly nói sai một câu lập tức sẽ đập xuống giết nàng ngay. Ân Ly hai tay ôm mặt nói:

- Cháu biết ông muốn cháu đi tìm Vô Kỵ, đem công phu này truyền lại cho anh ấy. Cháu biết ông muốn cháu luyện thành võ công thượng thừa rồi sẽ che chở cho anh ta, để khỏi ai hiếp đáp, có điều ... có điều ...

Nàng nói hai câu "có điều" rồi lại sụt sùi khóc. Tạ Tốn đứng lên quát hỏi:

- Có điều làm sao? Có phải thằng con Vô Kỵ của ta đã gặp chuyện không hay rồi ư?

Ân Ly sà vào lòng ông, khóc nức nở:

- Anh ấy ... anh ấy sáu năm trước, tại Tây Vực ... tại Tây Vực đã ngã xuống vực sâu chết rồi.

Tạ Tốn bàng hoàng, run rẩy nói:

- Có ... có thật không?

Ân Ly khóc nói:

- Đúng như thế. Hai cha con Võ Liệt chính mắt trông thấy anh ta táng mạng. Cháu đã dùng Thiên Châu Vạn Độc Thủ điểm lên người họ bảy lần, bảy lần cứu họ tỉnh lại, lần nào cũng nói y như thế, chắc là không nói láo đâu.

Khi Ân Ly thuật lại cái chết của Trương Vô Kỵ, đáng lẽ Kim Hoa bà bà ra tay ngăn lại nhưng chợt nghĩ ra, Tạ Tốn một khi nghe thấy nghĩa tử chết rồi, tâm thần ắt sẽ hỗn loạn, giao đấu sẽ thêm ba phần hung dữ nhưng sẽ kém đi ba phần cẩn thận, càng dễ dụ vào trận địa cương châm hơn, thành thử chỉ đứng bên cạnh mỉm cười, không nói gì hết.

Tạ Tốn ngửng đầu lên trời rú lên một tiếng dài, hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống hai bên má. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ và biểu muội hai người vì mình mà đau lòng như thế, nhịn không nổi toan nhảy ra giải thích bỗng nghe Kim Hoa bà bà nói:

- Tạ tam ca, cậu con nuôi Trương công tử của tam ca nay đã tạ thế, ông giữ thanh đao Đồ Long ấy có ích gì? Chi bằng cho tôi mượn có hơn không?

Tạ Tốn nghẹn ngào nói:

- Bà đánh lừa tôi quá lắm. Muốn lấy bảo đao, hãy lấy mạng tôi trước.

Ông nhẹ nhàng đẩy Ân Ly qua một bên, soẹt một tiếng đã xé rách vạt áo trước vứt về phía Kim Hoa bà bà, cái đó gọi là "Cát Bào Đoạn Nghĩa". Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ta phải tiến ra ngay nói rõ mọi chuyện để cho hai người khỏi tổn thương nghĩa khí một cách chẳng đâu vào đâu". Vừa ngay lúc đó bỗng nghe từ trong đám cỏ cao nơi phía trái vọng lại tiếng thở của ai đó, khoảng cách đã xa, hơi lại nhẹ, nếu không phải tai Trương Vô Kỵ thật thính thì không thể nào phát giác nổi. Chàng nghĩ ngay: "Thì ra Kim Hoa bà bà lại còn ngầm mai phục người giúp đỡ. Ta chưa có thể ra mặt lúc này được". Chỉ nghe tiếng đao vù vù, Tạ Tốn đã đấu với Kim Hoa bà bà.

Tạ Tốn múa thanh đao chẳng khác gì một con rồng đen quấn quít chung quanh thân mình, biến hóa như thần. Kim Hoa bà bà e ngại thanh đao quá sắc bén, chỉ chạy vòng quanh xa xa, mỗi khi Tạ Tốn có chỗ sơ hở, bà ta không hãi sợ gì liền xông vào tấn công, đến khi ông ta thu đao về chém, lại cực kỳ khéo léo tránh vụt ra ngoài. Hai người rất quen thuộc võ công của đối phương, thành thử trong một hai trăm hiệp chưa thể nào phân cao thấp được. Tạ Tốn dựa vào thanh đao Đồ Long sắc bén, còn Kim Hoa bà bà coi thường ông ta mắt mù không thấy, hai người đều khai thác cái sở trường của mình để mong thủ thắng, tuyệt nhiên không lý gì đến chiêu số hay nội lực.

Đột nhiên vụt vụt hai điểm vàng lấp lánh, Kim Hoa bà bà đã ném ra hai đóa kim hoa. Tạ Tốn vung thanh đao Đồ Long lên, hai bông hoa đều dính vào lưỡi đao. Thì ra bông hoa vàng đúc bằng thép, bên ngoài mạ vàng, còn thanh đao Đồ Long đúc bằng huyền thiết có từ tính rất mạnh, gặp sắt là hút ngay. Bông kim hoa đó chính là ám khí thành danh của Kim Hoa bà bà, khi phóng ra biến hóa trăm chiều, dẫu cho Tạ Tốn mắt có còn tinh cũng phải xuất toàn lực mới tránh né được. Nào ngờ thanh đao Đồ Long này lại là khắc tinh của ám khí, Kim Hoa bà bà bên trái bên phải ném luôn tám bông hoa vàng, đều bị thanh đao hút hết. Khi đó ánh trăng suông mờ mờ, bóng đêm thảm đạm, tám bông hoa dính trên thanh đao đen sì, khi múa lên chẳng khác nào một đàn đom đóm đang lập lòe bay lượn trên không.

Đột nhiên Kim Hoa bà bà ho một tiếng, ném ra một nắm ám khí, phải đến mười sáu mười bảy đóa kim hoa, cốt để cho đao của Tạ Tốn hút được hoa bên đông thì không hút được bông hoa bên tây. Tạ Tốn vung tay áo lên, cuốn được bảy tám bông, còn tám bông khác dính trên đao Đồ Long, quát lớn:

- Hàn phu nhân, bà xưng là Tử Sam Long Vương, tên đó kỵ với thanh đao này, nếu con ham đánh tiếp e rằng không có lợi đâu.

Kim Hoa bà bà thấy lạnh người, phàm người học võ, tính mạng cầm bằng treo trên đầu đao mũi kiếm nên rất kiêng những gì kỵ với mình, bà ta tự xưng "Long Vương" mà thanh đao nào lại tên là "Đồ Long" quả thực chẳng hay chút nào. Nghĩ thế bà ta trầm giọng cười khẩy:

- Biết đâu Sát Sư Trượng của tôi lại giết được con sư tử mù trước thì sao?

Nghe vù một tiếng vung trượng đánh ra. Tạ Tốn hạ vai né tránh, đột nhiên chân bước hụt, "A" lên một tiếng, trượng đó đã đánh trúng đầu vai, tuy lực đạo đã giảm quá nửa nhưng cũng không phải nhẹ.

Trương Vô Kỵ mừng thầm suýt nữa reo lên. Chàng thấy Tạ Tốn cố ý giả vờ né tránh không kịp để bị trúng một gậy trong bụng tính thầm: "Nghĩa phụ chỉ cần bắn những bông hoa trong tay áo ra, tiếp theo đao Đồ Long sử chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" chém liên tiếp, Kim Hoa bà bà không dám đỡ thế đao sắc bén, ắt phải né qua bên trái, liên tiếp hai lần sẽ không còn lùi được nữa, khi đó nghĩa phụ dùng nội lực hất những bông hoa trên thanh đao Đồ Long ra bắn thẳng vào, Kim Hoa bà bà không còn đường tránh né ắt sẽ trọng thương".

Chàng vừa nghĩ thế, quả nhiên thấy ánh sáng vàng thấp thoáng, Tạ Tốn đã đem tất cả các bông kim hoa trong tay áo ném ra, Kim Hoa bà bà phải nghiêng qua bên trái. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra một chuyện kêu thầm: "Chao ôi, không xong rồi, Kim Hoa bà bà tương kế tựu kế".

Lú này trong người chàng võ học bao la, hai đại cao thủ kia công thủ tiến thoái, đều nằm trong tính toán của chàng cả, chỉ thấy Tạ Tốn ra chiêu "Thiên Sơn Vạn Thủy" múa tít thanh đao chém xuống, Kim Hoa bà bà lại lùi qua bên trái. Tạ Tốn quát lên một tiếng, bắn vụt tất cả những bông kim hoa đang dính trên bảo đao ra. Kim Hoa bà bà kêu lên "Ối chà" một tiếng, chân không vững, phải lùi về sau mấy bước.

Tạ Tốn là người rất quyết liệt, đã cát bào đoạn nghĩa rồi ra tay không còn nể nang chút nào, liền tung mình nhảy lên, múa đao chém xuống, đột nhiên nghe Ân Ly thảng thốt kêu lên:

- Coi chừng, có kim nhọn dưới chân.

Tạ Tốn nghe tiếng kêu, giật mình kinh hãi nhưng thu về không còn kịp nữa, chỉ nghe mấy tiếng vụt vụt, hơn chục bông hoa vàng đã bị Kim Hoa bà bà bắn tới. Bà ta liệu chừng Tạ Tốn đang ở trên lưng chừng trời, không có cách gì né tránh, khi rơi xuống hai chân thể nào cũng đạp trúng kim châm. Tạ Tốn không biết tính sao, chỉ còn nước múa đao gạt những bông hoa ra, bỗng nghe dưới chân hai tiếng tách tách, chân ông ta đã đạp tới đất rồi nhưng an nhiên không sao cả.

Ông cúi xuống giơ tay mò thử thấy bốn phía trên đá chỗ nào cũng có cắm kim nhọn dài chừng bảy tám tấc, sắc bén lạ thường. Chỉ riêng nơi ông ta hạ chân xuống thì bốn chiếc kim đã bị ai dùng đá bắn văng đi, nghe kình lực của kẻ trịch thạch trừ kim kia, chính là thanh niên của Cự Kình bang ném bảy viên sỏi lúc ban ngày. Người này ở bên cạnh coi hai bên giao đấu mà mình không hề hay biết chút nào, nếu không được y ra tay cứu thì chân mình ắt đã bị thương nặng, chỉ còn nằm đó cho Kim Hoa bà bà chém giết thôi. Ý niệm đó nổi lên trong đầu, Tạ Tốn không khỏi lưng toát mồ hôi lạnh.

Hai người cùng thi hành khổ nhục kế, Tạ Tốn đầu vai bị đánh một trượng, còn Kim Hoa bà bà cũng bị trúng hai đóa kim hoa, tuy vết thương đều không phải là yếu hại, nhưng chịu đựng kình lực đối phương cũng không phải dễ. Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, quay qua chỗ Trương Vô Kỵ đang ẩn núp nói:

- Tiểu tử của Cự Kình bang kia, ngươi lại can thiệp vào chuyện của lão bà, mau để tên cho ta biết.

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên một ánh vàng lấp lánh, Ân Ly hự lên một tiếng đã bị ba đóa kim hoa bắn trúng ngay nơi yếu hại trên ngực. Thì ra Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ võ công ghê gớm, nếu mình trừng trị Ân Ly, y thể nào cũng ngăn trở, nên một mặt nói chuyện với chàng, thưa dịp không phòng bị ném kim hoa ra.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới, đang ở trên không bắt luôn hai bông hoa khác của Kim Hoa bà bà, khi rơi xuống đất ôm luôn Ân Ly vào lòng. Ân Ly thần trí vẫn còn tỉnh táo, thấy một người đàn ông râu ria ôm mình, vội vàng đẩy ra, nhưng vừa mới dùng sức đã hộc ra mấy ngụm máu. Trương Vô Kỵ hiểu ý, vội vàng giơ tay xoa mặt mình mấy cái, gạt hết những râu ria và hóa trang, để lộ bộ mặt thật ra. Ân Ly ngạc nhiên kêu lên sững sờ:

- A Ngưu ca ca, anh đấy ư?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Chính ta đây.

Ân Ly bấy giờ mới cảm thấy yên tâm, lập tức bất tỉnh. Trương Vô Kỵ thấy nàng bị thương nặng, không dám nhổ những bông kim hoa cắm trên người ra, lập tức điểm các huyệt Thần Phong, Linh Khư, Bộ Lang, Thông Cốc để bảo vệ tâm mạch. Chỉ nghe Tạ Tốn lớn tiếng nói:

- Các hạ hai lần ra tay giúp đỡ, Tạ Tốn thật muôn vàn cảm ơn đại đức.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào:

- Nghĩa ... nghĩa ... hà tất ...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Vòng hào quang của Phật chói lòa

[2] Nghìn ngọn núi đua tranh vẻ đẹp

[3] Con lạc đà thần có chân khỏe

[4] Cát bay trong sa mạc

[5] nguyên từ câu ca dao Long phùng thiển thủy tao hà hí, Hổ lạc bình nguyên bị khuyển khi (Rồng gặp ao tù tôm bỡn cợt, Hổ xuống đồng bằng bị cho khinh) ý nói kẻ anh hùng gặp lúc sa cơ thất thế

[6] sư tử vồ con thỏ

[7] Cây thương trước mặt dễ đỡ, mũi tên bắn lén sau lưng khó phòng.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 29

TỨ NỮ ĐỒNG CHU HÀ SỞ VỌNG

Tình này ví xẻ làm tư,

Bốn người bốn vẻ biết chừa cho ai.

Riêng em anh để trên vai,

Lưng anh cõng một, hai tay hai nàng.

*

* *

Ngay lúc đó, bỗng nghe từ phía sau hai tiếng leng keng lạ lùng, ba người từ đâu chạy vụt tới. Thoạt nhìn Trương Vô Kỵ thấy ba người đó mặc áo bào trắng rộng thùng thình, hai người thân hình thật cao còn bên trái là một người đàn bà. Ba người quay lưng về phía mặt trăng thành thử không nhìn rõ diện mạo của họ nhưng người nào trên chéo áo đều có thêu hình một ngọn lửa, hẳn là người trong Minh giáo. Mỗi người cầm trong tay hai hắc bài dài chừng hai thước giơ lên, người cao nhất trong bọn lớn tiếng nói:

- Thánh hỏa lệnh của Minh giáo đã đến, hộ giáo Long Vương, Sư Vương sao chưa quì xuống nghinh tiếp còn đợi tới bao giờ?

Giọng nói cứng ngắc cực kỳ khó nghe. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: "Trong di ngôn của Dương giáo chủ có nói, thánh hỏa lệnh của bản giáo bị thất lạc từ đời Thạch giáo chủ thứ ba mươi mốt, sao nay lại ở trong tay ba người này? Không biết có phải là thánh hỏa lệnh thực không? Ba người này phải chăng cũng là đệ tử bản giáo?".

Kim Hoa bà bà nói:

- Bản nhân vốn đã phá môn xuất giáo, bốn chữ Hộ Giáo Long Vương đừng nói đến nữa. Các hạ tôn tính đại đanh là gì? Thánh hỏa lệnh đó thực hay giả đó? Ở đâu mà có được?

Người kia quát lớn:

- Nếu mụ đã phá môn xuất giáo thì còn lôi thôi gì nữa.

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Kim Hoa bà bà từ trước tới nay chưa ai dám nói nặng một câu, năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế cũng kính nể ba phần. Ngươi là cái thá gì ở trong Minh giáo mà dám phách lối đối với ta?

Đột nhiên ba người kia cùng lao vụt tới gần, ba cánh tay trái cùng chộp vào Kim Hoa bà bà. Quài trượng của Kim Hoa bà bà vung lên, quét luôn vào ba người kia, không ngờ những người đó di chuyển thế nào không biết, thân hình đã biến đổi sang vị trí khác. Gậy của Kim Hoa bà bà đánh vào chỗ không, lại bị ba người đó vươn tay phải ra nắm luôn vào sau ót, vung tay một cái ném luôn bà ta ra ngoài xa.

Võ công của Kim Hoa bà bà cao cường như thế, dẫu có ba cao thủ lợi hại nhất trong thiên hạ vây đánh cũng không thể nào chỉ một chiêu đã chộp được ném ra ngoài. Thế nhưng ba người áo trắng này bộ pháp thật quái dị, ra tay lại nhịp nhàng ăn khớp, chẳng khác gì một người có ba đầu sáu tay khiến Trương Vô Kỵ không khỏi "Ối" lên một tiếng. Ba người đó vừa di chuyển qua chàng đã nhìn rõ, người cao nhất mặt đầy râu mắt biếc, một người nữa râu vàng mũi khoằm, còn người đàn bà tóc đen không khác gì người Trung Hoa nhưng tròng mắt rất nhạt dường như không có màu, mặt trái soan, chừng ngoài ba mươi tuổi, tuy trông lạ lùng nhưng tướng mạo thật là xinh đẹp. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Thì ra ba người này đều là người Hồ, thảo nào giọng cứng ngắc, nói câu nào cũng đều đều nghe như đọc thuộc trong sách".

Lại nghe gã râu xồm lớn tiếng nói:

- Thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn sao không quì xuống nghinh tiếp?

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị là ai? Nếu là đệ tử bản giáo, Tạ Tốn này phải biết chứ, còn nếu không phải người trong Minh giáo, thánh hỏa lệnh có liên quan gì đến các vị đâu?

Gã râu xồm nói:

- Minh giáo từ đâu mà ra?

Tạ Tốn đáp:

- Khởi nguyên từ Ba Tư.

Người râu xồm nói:

- Đúng thế, đúng thế! Ta là Lưu Vân Sứ của tổng giáo Ba Tư, còn hai người này là Diệu Phong Sứ và Huy Nguyệt Sứ. Bọn ta phụng mệnh của tổng giáo giáo chủ, từ Ba Tư đến trung thổ.

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ đều ngạc nhiên. Trương Vô Kỵ đã đọc cuốn Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký của Dương Tiêu viết, biết rằng quả thực Minh giáo từ Ba Tư truyền sang, xem ra ba người này đúng là người Hồ ở Ba Tư, võ công thân pháp như thế hẳn không phải giả. Gã râu vàng Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo chủ chúng ta nghe tin giáo chủ chi phái bên Trung Thổ mất tích, các đệ tử tàn sát lẫn nhau, bản giáo ngày càng suy vi nên sai Vân Phong Nguyệt ba sứ giả đến để chỉnh đốn lại giáo vụ. Tất cả các giáo chúng từ trên xuống dưới đều phải nghe lệnh, không được sai xẩy.

Trương Vô Kỵ mừng thầm: "Tổng giáo chủ đã có lệnh truyền đến, quả thật đáng mừng. Mình hiểu biết nông cạn nay phải đảm trách trọng nhiệm, có thể làm lỡ đại sự".

Tạ Tốn nói:

- Minh giáo Trung Thổ tuy xuất phát từ Ba Tư thật nhưng đứng một mình thành riêng một cõi đã mấy trăm năm qua, trước nay không hề chịu sự quản thúc của tổng giáo Ba Tư. Ba vị đến Trung Thổ, Tạ Tốn này rất lấy làm mừng nhưng quì nghinh gì gì đó không biết do đâu mà ra?

Gã râu xồm Lưu Vân Sứ liền lấy hai miếng hắc bài gõ vào nhau, nghe keng một tiếng, thanh âm không phải tiếng kim khí mà cũng không phải ngọc khí, cực kỳ lạ lùng, nói:

- Đây là thánh hỏa lệnh của Minh giáo Trung Thổ. Giáo chủ họ Thạch đời trước không cẩn thận làm mất ra ngoài, nay bọn tay lấy lại được. Trước nay thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, Tạ Tốn còn chưa chịu nghe lệnh ư?

Khi Tạ Tốn gia nhập Minh giáo thì thánh hỏa lệnh đã thất lạc từ lâu cha từng thấy bao giờ nhưng thánh hỏa lệnh đó lạ lùng thần kỳ ra sao đã từng nghe tiếng, trong kinh thư điển tịch của Minh giáo cũng có nhắc đến, nay nghe âm thanh lạ lùng kia, biết rằng những người này quả thực đang cầm thánh hỏa lệnh của bản giáo, huống chi ba người này vừa ra tay đã chộp được Kim Hoa bà bà ném ra ngoài người thường quyết không sao làm được nên không còn hoài nghi gì nữa, nói:

- Tại lạ tin lời tôn giá nhưng không biết có điều chi sai khiến?

Lưu Vân Sứ tay trái phất một cái, Diệu Phong Sứ, Huy Nguyệt Sứ cùng y ba người lập tức nhảy tới, chỉ nhô lên hụp xuống hai lần đã nhảy tới ngay bên cạnh Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà liền ném hoa vàng ra, chia ra bắn vào ba sứ giả. Ba người đó liền né qua đông lạng qua tây tránh được, còn Huy Nguyệt Sứ nhảy ngay tới trước giơ ngón tay đâm vào yết hầu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà vung quài trượng lên chặn lại, rồi đánh trả luôn, đột nhiên thân hình bay bổng, thì ra lưng bà ta đã bị Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ nắm được, nhắc lên cao. Huy Nguyệt Sứ tiến lên ba bước, vỗ luôn vào ngực và bụng bà ta ba chưởng, tuy không nặng nhưng Kim Hoa bà bà không còn cử động gì được nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Ba người này nhô lên hụp xuống, thân pháp đó không có gì là ghê gớm chỉ có điều ba người phối hợp thật là nhịp nhàng. Huy Nguyệt Sứ dụ địch ở phía trước, hai người còn lại thần xuất quỉ một bắt giữ Kim Hoa bà bà. Nếu tính võ công từng người xem ra còn kém Kim Hoa bà bà. Người kia vỗ ba chưởng tuy không phải là đả huyệt nhưng công hiệu cũng không khác gì phép điểm huyệt của Trung Thổ".

Lưu Vân Sứ giơ Kim Hoa bà bà lên, rung tay một cái đã ném bà ta ngay trước mặt Tạ Tốn nói:

- Sư Vương, giáo qui của bản giáo là đã nhập giáo rồi thì suốt đời không được từ bỏ. Người này khai là đã phá môn xuất giáo là phản đồ của Minh giáo, ngươi hãy chém đầu y thị trước đi.

Tạ Tốn ngạc nhiên nói:

- - Minh giáo Trung Thổ trước nay không có luật lệ đó.

Lưu Vân Sứ lạnh lùng nói:

- Từ nay trở đi Minh giáo Trung Thổ phải nghe hiệu lệnh của tổng giáo Ba Tư. Xuất giáo bạn đồ có để cũng chỉ gây thêm mầm họa, mau mau trừ khử đi.

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tứ vương của Minh giáo tình nghĩa chẳng khác gì anh em. Hôm nay bà ta tuy đối với Tạ mỗ vô tình nhưng Tạ mỗ quyết không vô nghĩa, không thể ra tay làm hại bà ta được.

Diệu Phong Sứ cười ha hả nói:

- Người Trung Thổ dây dưa nhùng nhằng thật là lắm chuyện. Kẻ đã xuất giáo không giết đi là sao? Thế là nghĩa lý gì? Thật là kỳ quái không sao hiểu được.

Tạ Tốn dáp:

- Tạ mỗ giết người không chớp mắt nhưng không giết bạn bè đồng giáo.

Huy Nguyệt Sứ nói:

- Ngươi không thể không giết y thị. Nếu như ngươi không tuân lệnh, bọn ta sẽ giết ngươi trước.

Tạ Tốn đáp:

- Ba vị vừa đến Trung Thổ, trước hết đã bức bách Kim Mao Sư Vương giết Tử Sam Long Vương, có phải định ra oai dọa người đấy chăng?

Huy Nguyệt Sứ nhoẻn một nụ cười nói:

- Ngươi hai mắt đã mù nhưng lòng lại sáng nhỉ. Mau động thủ đi.

Tạ Tốn ngẩng đầu lên trời cười một hồi dài, âm thanh vang dội trong sơn cốc rồi lớn tiếng nói:

- Kim Mao Sư Vương quang minh lỗi lạc, không nói gì đến việc chẳng sát hại bằng hữu, dẫu cho người này có là kẻ thâm thù đại oán nhưng đã bị các ngươi bắt giữ rồi, không còn sức kháng cự, Tạ mỗ cũng chẳng nỡ nào chém thêm một đao đâu!

Trương Vô Kỵ nghe lời nói đầy hào khí của Tạ Tốn không khỏi kính phục nghĩa phụ đồng thời nẩy sinh ác cảm với ba sứ giả của Minh giáo Ba Tư. Lại nghe Diệu Phong Sứ nói:

- Giáo đồ của Minh giáo, thấy thánh hỏa lệnh cũng như thấy giáo chủ, ngươi dám phản giáo chăng?

Tạ Tốn ngang nhiên đáp:

- Tạ mỗ hai mắt đã mù hơn hai chục năm nay, dẫu các ngươi để thánh hỏa lệnh ngay trước mắt mỗ cũng không trông thấy, "kiến thánh hỏa lệnh như kiến giáo chủ" có ý nghĩa gì đâu?

Diệu Phong Sứ giận dữ nói:

- Được, vậy là ngươi quyết tâm phản giáo phải không?

Tạ Tốn dáp:

- Tạ Tốn này không dám phản giáo, thế nhưng giáo chỉ của Minh giáo là hành thiện khử ác, lấy nghĩa khí làm trọng. Tạ Tốn thà đầu rơi xuống đất nhưng nhất định không làm chuyện chẳng ra gì.

Kim Hoa bà bà tuy không cử động được nhưng mỗi câu mỗi chữ Tạ Tốn nói ra đều lọt vào tai. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình sống chết chỉ còn trong nháy mắt nên len lén bỏ Ân Ly xuống. Lưu Vân Sứ nói:

- Người trong Minh giáo không tuân theo thánh hỏa lệnh đều phải giết không chừa một ai.

Tạ Tốn quát lên:

- Bản nhân là hộ giáo pháp vương, dẫu cho giáo chủ muốn giết ta cũng phải khai đàn bẩm rõ với trời đất cùng các vị minh tôn, nói rõ tội trạng.

Diệu Phong Sứ cười hì hì đáp:

- Minh giáo ở Ba Tư tốt đẹp biết bao, qua đến Trung Thổ sao lại đẻ ra lắm luật lệ thối tha đến thế.

Ba sứ giả liền cùng hú lên xông đến. Tạ Tốn múa thanh đao Đồ Long hộ vệ trước mặt, ba sứ giả tấn công liên tiếp ba lần đều không sao đến gần được. Huy Nguyệt Sứ lạng người tiến lên, tay trái cầm lệnh bài đập lên đỉnh đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn vung đao lên gạt, nghe keng một tiếng thật là quái lạ, thanh đao Đồ Long dẫu vật gì cứng rắn mấy cũng chém gãy nhưng không chặt đứt được thánh hỏa lệnh. Ngay trong một chớp mắt, Lưu Vân Sứ lách qua bên trái, dùng lệnh bài đánh ngay vào đùi Tạ Tốn. Tạ Tốn vừa loạng choạng, Diệu Phong Sứ liền xoay thánh hỏa lệnh đánh vào sau lưng. Đột nhiên cổ tay y bị ai nắm chặt, lệnh bài trên tay đã bị ai cướp mất. Y kinh hãi quay đầu lại thấy một thanh niên đã cầm trong tay thánh hỏa lệnh bài.

Trương Vô Kỵ nhảy tới cướp thánh hỏa lệnh bài nhanh nhẹn vô tỉ, xảo diệu tuyệt luân. Lưu Vân Sứ và Diệu Phong Sứ vừa sợ vừa tức, liền chia ra hai bên xông tới. Trương Vô Kỵ thân hình nghiêng qua bên trái tránh né, không ngờ nghe bịch một cái đã bị Huy Nguyệt Sứ đánh một lệnh bài vào sau lưng.

Thánh hỏa lệnh đó làm bằng một kim loại quái dị, cứng rắn vô cùng, chàng bị đánh trúng thấy mắt tối sầm tưởng chừng muốn ngất đi. Cũng may thần công hộ thể lập tức phát sinh uy lực, chàng lập tức cố trấn nhiếp tâm thần, nhảy luôn tới trước ba bước. Ba sứ giả Ba Tư cũng đuổi theo vây lại, Trương Vô Kỵ tay phải cầm lệnh bài đánh nhứ vào Lưu Vân Sứ một cái, tay trái vươn ra đã cướp được thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ. Ngờ đâu Huy Nguyệt Sứ vừa buông ra liền nhấn xuống một cái, đầu bên kia của thánh hỏa lệnh bật lên nghe bạch một cái trúng ngay cổ tay Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay chàng liền tê dại, phải buông chiếc lệnh bài đã cướp được trong tay, Huy Nguyệt Sứ vươn tay ra chộp ngay lấy.

Từ khi Trương Vô Kỵ luyện thành Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, sau lại được Trương Tam Phong chỉ điểm thêm những tinh diệu trong Thái Cực Quyền đến giờ chàng chưa gặp địch thủ nào ngờ nay lại bị một người đàn bà đánh trúng liên tiếp, lần sau nếu không nhờ có hộ thể thần công thì cổ tay e đã gãy rồi. Chàng kinh hãi không dám cùng địch nhân đối công, chỉ đứng yên chăm chú quan sát cho rõ ràng chiêu số của họ như thế nào.

Ba sứ giả của Ba Tư thấy chàng hai lần trúng đòn nhưng dường như không hề bị thương cũng ngạc nhiên khôn cùng. Diệu Phong Sứ đột nhiên cúi đầu, dùng đầu làm chùy lao vào người Trương Vô Kỵ. Lối đánh này vốn là đại kỵ trong võ học, dùng bộ phận quan trọng nhất của mình xông vào địch thủ. Trương Vô Kỵ đứng yên không cử động biết chiêu này của y trông thì có vẻ vụng về nhưng thực ra rất tinh diệu, ắt phải có hờm sẵn một chiêu khác rất lợi hại, đợi đầu y đến còn cách thân hình chừng một thước mới lùi lại một bước. Ngay lúc dó Lưu Vân Sứ nhảy vọt lên trên không, nhắm ngay đầu chàng hạ xuống. Chiêu này thực là quái dị, dùng mông đít tấn công đối phương, võ học thiên hạ tuy đa dạng thật nhưng chưa có đường lối nào lại dùng một chiêu số vừa vô dụng, vừa vụng về như thế. Trương Vô Kỵ vẫn bình tĩnh như thường, lách qua một bên, đột nhiên thấy đau nhói trên ngực, hóa ra đã bị Diệu Phong Sứ dùng cùi chỏ thúc vào, nhưng y cũng bị Cửu Dương thần công dội ngược ra, phải lùi lại ba bước, rồi lại thêm ba bước nữa, những tưởng đã đứng vững nhưng lại phải lùi thêm ba bước nữa.

Ba sứ giả Ba Tư ngạc nhiên biến sắc, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ liền quét ngang, còn Lưu Vân Sứ bỗng nhiên nhảy lộn ba vòng. Trương Vô Kỵ không hiểu họ định làm gì, trong bụng nghĩ mình nên tránh đi là hơn, liền lách qua bên trái một bước, thấy trước mắt một luồng bạch quang lấp loáng, vai bên phải đã bị Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng một đòn thật nặng. Chiêu đó chàng không thể nào ngờ được, trước khi ra tay không hề có một triệu chứng nào, mà Lưu Vân Sứ rõ ràng đang lộn mèo trên không tại sao đột nhiên lại tung lệnh bài đánh trúng vai chàng được? Trương Vô Kỵ còn đang kinh hãi, không dám ham đánh, huống chi vai trúng đòn kỳ này khá đau, dẫu đã có Cửu Dương thần công đẩy bật ra rồi nhưng cũng buốt nhói tới tận xương. Tuy nhiên chàng biết nếu mình lùi ra, tính mạng nghĩa phụ ắt sẽ nguy nên vội vàng hít một hơi dài, nghiến răng phi thân nhảy tới, giơ chưởng đánh vào ngực Lưu Vân Sứ.

Lưu Vân Sứ cũng đồng thời nhảy tới trước, hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, Trương Vô Kỵ cảm thấy choáng váng, thân hình đang ở trên không lập tức rơi tụt xuống, thấy ngang hông đau nhói lên, thì ra đã bị Diệu Phong Sứ đá trúng rồi. Chỉ nghe bình một tiếng, Diệu Phong Sứ ngã ngửa về sau nhưng thánh hỏa lệnh trong tay Huy Nguyệt Sứ cũng đã đánh trúng cánh tay phải Trương Vô Kỵ.

Tạ Tốn ở bên cạnh nghe thấy hết, biết rằng thanh niên của Cự Kình bang kia liên tiếp gặp nguy nan, chỉ cố hết sức chống đỡ, tiếc rằng mình mắt lại mù không có cách gì tiến lên tiếp viện được, trong lòng cực kỳ sốt ruột, nếu như một mình mình đối địch thì còn nghe tiếng gió phân biện đường đi nước bước của binh khí, quyền cước đối phương, nhưng nếu tiến lên hiệp lực thì làm sao biết được đường quyền nào là của bạn, binh khí nào của địch? Nếu ông vung đao Đồ Long lên chẳng may chém chết bên bạn chẳng hóa ra hối hận lắm sao? Tạ Tốn bèn lớn tiếng nói:

- Thiếu hiệp mau mau chạy thoát thân, đây là chuyện của Minh giáo không có liên can gì đến các hạ. Hôm nay thiếu hiệp đến giúp, Tạ Tốn này cảm kích khôn cùng.

Trương Vô Kỵ ấp úng đáp:

- Tôi ... tôi ... Sư Vương mau chạy đi thôi, cứ nghe tôi, mau chạy đi ...

Chàng thấy Lưu Vân Sứ vung lệnh bài đập tới, chàng liền lấy thánh hỏa lệnh trong tay gạt ra, hai thanh thánh hỏa lệnh đụng nhau, nghe cạch một tiếng chẳng khác gì mặt trống vỡ, cây gỗ mục thanh âm cực kỳ khó nghe. Lưu Vân Sứ tay cầm không vững, thánh hỏa lệnh bay vọt lên không, Trương Vô Kỵ nhảy lên vừa toan cướp lấy, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, lưng áo đã bị Huy Nguyệt Sứ xé toạc một mảng lớn. Móng tay nàng ta cào trúng lưng Vô Kỵ rách mấy đường dài, cảm thấy hơi rát, chỉ chậm một chút thì thánh hỏa lệnh đã bị Lưu Vân Sứ chộp lại được rồi.

Sau mấy chiêu, Trương Vô Kỵ đã biết công lực ba người này so với mình người nào cũng kém xa, chỉ vì võ công cực kỳ quái dị, lại thêm binh khí thần kỳ, nguy hiểm nhất là ba người liên thủ, trận pháp không ra trận pháp, bài bản không ra bài bản, vừa ngụy bí vừa âm độc không sao lường được phải đánh ngã được một người trong bọn họ thì trận chiến hôm nay mới có cơ thủ thắng. Thế nhưng nếu chàng đánh một người thì hai người kia ắt đầu đuôi tiếp ứng, quyền pháp biến đổi, khiến cho không cách nào phá được ba người liền tay nhau, ngược lại còn bị thánh hỏa lệnh đánh trúng hai lần. Cũng may là ba sứ giả Ba Tư mỗi lần đánh trúng người chàng đều bị phản kích mạnh mẽ, khiến cho họ cũng chùn bước không dám dùng quyền cước đụng vào đối phương.

Tạ Tốn quát lên một tiếng, ôm thanh Đồ Long đao vào ngực nhảy vào trận chiến, đến bên cạnh Trương Vô Kỵ nói:

- Thiếu hiệp, dùng đao.

Ông cầm thanh đao thẩy lại cho chàng, Trương Vô Kỵ nghĩ đến thần uy của thanh đao có thể đẩy lui đại địch liền nhận lấy. Tạ Tốn chân trái điểm một cái nhảy vọt về phía sau, ngay lúc đó lưng đã bị Diệu Phong Sứ đấm một quyền mạnh đến nỗi ông tưởng như lục phủ ngũ tạng của mình đều đảo lộn. Quyền đó không một chút hình tích nào khiến Tạ Tốn không sao biện nhận được tiếng gió.

Trương Vô Kỵ múa đao chém vào Lưu Vân Sứ, Lưu Vân Sứ liền giơ hai thanh thánh hỏa lệnh ra đỡ, hai tay kẹp một cái, lệnh bài dính chặt vào thanh đao Đồ Long. Trương Vô Kỵ thấy lòng bàn tay rung động mạnh, đao Đồ Long suýt nữa thì tuột khỏi tay, hết sức kinh hãi vội vàng vận kình giữ lại. Lưu Vân Sứ dùng thánh hỏa lệnh để cướp binh khí địch thủ, ra tay là trúng, chưa bao giờ hụt lần này không cướp nổi thanh đao Đồ Long cũng hết sức ngạc nhiên. Huy Nguyệt Sứ rú lên một tiếng thanh thoát, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y thị cũng kẹp luôn vào đao Đồ Long, tứ lệnh đoạt đao khiến uy lực càng thêm mạnh mẽ.

Trương Vô Kỵ trên người đã bảy tám chỗ trúng đòn, tuy chỉ toàn là vết thương nhẹ nhưng cũng làm cho nội lực giảm đi nhiều, lúc này thấy một nửa người nóng bừng, tay phải cầm đao rung rung. Chàng biết thanh đao này quan hệ mật thiết với tính mạng nghĩa phụ, tuy Tạ Tốn không biết chân tướng chàng là ai nhưng đã đưa cho chàng mượn, thật là một cử chỉ hào khí can vân, nếu như mình để mất thì còn mặt mũi nào mà nhìn người cha nuôi nữa? Chàng liến quát lên một tiếng, Cửu Dương thần công trong người cuồn cuộn tuôn ra. Lưu Vân Sứ, Huy Nguyệt Sứ hai người mặt đều biến sắc, Diệu Phong Sứ thấy tình hình không xong, thanh thánh hỏa lệnh còn lại trong tay cũng đè luôn lên thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ một mình địch ba nhưng thấy không suy yếu chút nào, trong bụng mừng thầm, nếu như mình không cướp được một thanh thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ thì cả sáu thanh lệnh bài cùng kẹp vào ắt sẽ khó khăn hơn nhiều. Lúc này bốn người đã đến lúc đấu nội lực, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm nếu các ngươi dùng nội lực đấu với mình là lấy đoản chống trường, chàng nào có sợ gì đâu? Trong giây lát cả bốn người đứng yên không ai động đậy cố vận nội công. Đột nhiên Trương Vô Kỵ thấy ngực đau nhói, tưởng như bị một vật gì thật nhọn đâm vào.

Mũi nhọn đó đâm vào ngực đi thẳng vào trong tim phổi, tay Trương Vô Kỵ liền lỏng ra, thanh đao Đồ Long bị năm chiếc thánh hỏa lệnh hút mất. Chàng gặp đại biến nhưng không hoảng hốt chút nào, thuận tay rút luôn thanh Ỷ Thiên kiếm đeo trên hông dùng ngay chiêu Viên Chuyển Như Ý trong Thái Cực Kiếm pháp, vạch xéo một vòng tròn, cùng đâm vào bụng ba sứ giả Ba Tư. Ba người kia vừa toan nhảy về sau tránh né, Trương Vô Kỵ đã gài thanh kiếm vào trong bao, vươn tay ra đoạt lại thanh đao Đồ Long. Bốn giai đoạn, mất đao, rút kiếm, trả kiếm, đoạt đao thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn chẳng khác gì một ánh chớp, chính là công phu của cấp thứ bảy trong Càn Khôn Đại Na Di.

Ba sứ giả Ba Tư cùng "Ồ" lên một tiếng, hết sức lạ lùng. Họ nội lực kém xa Trương Vô Kỵ nên vừa mở miệng, ba thanh thánh hỏa lệnh liền bị thanh đao Đồ Long hút chặt. Ba người vội vận nội kình giữ lại, thành thế kéo co không bên nào hơn bên nào. Đột nhiên trên ngực Trương Vô Kỵ lại bị đâm nhói một cái nhưng lần này chàng đã đề phòng, bảo đao không tuột khỏi tay. Hai lần bị đâm đó tưởng như hữu hình nhưng lại không phải, một luồng hàn khí luồn qua Cửu Dương thần công hộ thể, xuyên thẳng vào nội tạng. Chàng biết ba sứ giả Ba Tư này nội lực cực kỳ âm hàn, tập trung vào một điểm theo thánh hỏa lệnh truyền đi, vượt qua luồng nội lực cứng rắn của chàng mà vào. Vốn dĩ chí âm công chí dương chưa chắc thắng nổi Cửu Dương thần công, có điều thần công của chàng tỏa ra toàn thân, còn âm kình kia tụ lại nhỏ như sợi tóc mà luồn vào nên chống đỡ hết sức khó khăn. Cái đó cũng chẳng khác gì một đứa trẻ con, một người đàn bà vẫn có thể dùng một kim thêu đâm lủng da của một con voi to lớn. Âm kình vào trong người chàng lập tức biến mất nhưng cũng khiến chàng đau buốt đến xương.

Huy Nguyệt Sứ liên tiếp sử dụng hai lần nội kình "Thấu Cốt Châm", thấy đối phương chống đỡ không cần phải phí một chúc khí lực nào rất lấy làm ngạc nhiên. Diệu Phong Sứ tuy tay trái để không nhưng kình lực toàn thân đã dồn qua bên tay phải, tay trái cũng không khác gì tê liệt. Trương Vô Kỵ biết rằng nếu cứ để dây dưa, địch nhân cứ dùng âm kình chọc tới hết lần này qua lần khác chàng sẽ chịu không nổi, thực không có cách nào đối phó. Chàng nghe tiếng thở của Tạ Tốn mỗi lúc một thêm dồn dập, ông ta đang tới gần, biết ông đang muốn đánh ngã địch để giúp mình. Lúc này bốn người nội kình đã trải rộng ra khắp toàn thân nên Tạ Tốn đánh vào kẻ địch cũng không khác gì đánh vào Trương Vô Kỵ cho nên chần chừ không dám ra tay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Tình thế nguy hiểm thế này, chi bằng bảo nghĩa phụ chạy thoát trước là hơn". Chàng bèn lớn tiếng nói:

- Tạ đại hiệp, võ công của ba sứ giả Ba Tư tuy kỳ lạ thật nhưng tại hạ thoát thân không lấy gì làm khó. Xin đại hiệp tránh đi trước, tại hạ chạy theo, sẽ phụng hoàn bảo đao sau.

Ba sứ giả Ba Tư thấy chàng đang hết sức chống đỡ mà vẫn có thể mở miệng nói thản nhiên như thường, trong bụng hết sức kinh hãi. Tạ Tốn nói:

- Cao tính đại danh của thiếu hiệp là gì?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm giờ phút này không thể nào hai người nhận nhau, nếu không nghĩa phụ vì quá yêu thương mình sẽ nhất định cùng sống chết với ba sứ giả Ba Tư để bảo vệ cho mình nên đáp:

- Tại hạ họ Tăng, tên A Ngưu. Tạ đại hiệp sao chưa chạy đi chẳng lẽ không tin nổi tại hạ, sợ lấy mất bảo đao hay sao?

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Tăng thiếu hiệp chẳng cần phải dùng lời để khích Tạ mỗ làm gì. Ta với các hạ lấy bụng dạ đo lường nhau, Tạ Tốn này ở vào tuổi gần đất xa trời còn được kết giao với một bằng hữu như thiếu hiệp, quả là một việc cực kỳ sung sướng. Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ định dùng Thất Thương Quyền để đánh người đàn bà này, ta vừa phát kình thì các hạ lập tức bỏ đao rút tay về ngay.

Trương Vô Kỵ biết Thất Thương Quyền của nghĩa phụ rất lợi hại, chàng chỉ cần buông đao cho địch nhân là Tạ Tốn sẽ một quyền đánh chết Huy Nguyệt Sứ ngay. Thế nhưng nếu xảy ra như thế, bản giáo sẽ có mối thâm thù với tổng giáo Ba Tư, chính mình vẫn khăng khăng khuyên nhủ anh em đồng giáo là phải lấy hòa mục làm trọng, nay lại không hỏi đầu đuôi đánh chết sứ giả Ba Tư thì còn làm giáo chủ Minh giáo thế nào được? Chàng vội đáp:

- Hãy khoan.

Quay sang nói với Lưu Vân Sứ:

- Tất cả tạm thời ngừng tay, tại hạ có mấy lời muốn nói cho rõ cùng quí vị.

Lưu Vân Sứ gật đầu, Trương Vô Kỵ nói:

- Tại hạ có liên hệ với Minh giáo hết sức mật thiết, ba vị lại mang thánh hỏa lệnh đến đây, vậy là khách quí của tại hạ, mới đây vô lễ quả thật đắc tội. Tất cả chúng mình cùng thu nội lực về, ngừng tay không đấu nữa được không?

Lưu Vân Sứ liên tiếp gật đầu. Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức thu kình lực về, ôm thanh đao Đồ Long vào ngực, thấy ba sứ giả Ba Tư cũng đồng thời thu lực về, bất ngờ một luồng âm hàn nhọn như dao, sắc như kiếm, bén như tên, mạnh như dùi đâm thẳng vào huyệt Ngọc Đường trên ngực chàng.

Luồng âm hàn đó tuy vô hình vô chất nhưng khi đâm vào cơ thể cũng chẳng khác gì đao kiếm, Trương Vô Kỵ lập tức ngừng thở bế khí, toàn thân không thể cử động gì được, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm: "Sau khi ta chết rồi, nghĩa phụ chắc khó thoát khỏi độc thủ, không ngờ sứ giả của Ba Tư lại không đếm xỉa gì đến tín nghĩa. Biểu muội Ân Ly liệu có sống được không? Triệu cô nương và Chu cô nương sẽ ra sao? Tiểu Siêu, ôi, cô bé thật đáng thương! Sự nghiệp kháng Nguyên cứu dân của bản giáo sẽ đi về đâu?". Chỉ thấy Lưu Vân Sứ giơ thanh thánh hỏa lệnh lên đập lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ vội vận nội lực xung kích huyệt Ngọc Đường trên ngực đang bị điểm nhưng vẫn chậm mất một bước.

Đột nhiên có tiếng đàn bà kêu lên:

- Đại đội nhân mã Minh giáo Trung Thổ đã kéo đến rồi.

Lưu Vân Sứ ngạc nhiên, cánh tay cầm thánh hỏa lệnh giơ lên ngừng lại trên không chưa đánh xuống. Chỉ thấy một bóng màu xám nhanh như điện xẹt tới, rút phắt thanh kiếm Ỷ Thiên bên hông Trương Vô Kỵ, cả người lẫn kiếm lao vào Lưu Vân Sứ. Trương Vô Kỵ tuy không cử động được nhưng vẫn nhìn thấy rõ ràng, người đó chính là Triệu Mẫn, mừng quá nhưng lại kinh hãi không sao kể xiết. Thì ra nàng sử dụng là một sát chiêu của phái Côn Lôn tên là Ngọc Toái Côn Cương cốt để mình và kẻ địch cùng chết một lượt. Trương Vô Kỵ tuy không biết tên chiêu này nhưng biết rằng nàng dùng kiếm ra chiêu, kiếm Ỷ Thiên sắc bén như thế Lưu Vân Sứ ắt sẽ bị nàng đâm chết nhưng chính nàng cũng khó thoát khỏi độc thủ của địch.

Lưu Vân Sứ thấy kiếm thế ghê gớm quá, không nói gì ba sứ giả liên thủ mà tự mình bảo vệ cũng không xong, trong cơn nguy cấp liền giơ thánh hỏa lệnh dùng sức gạt ra, tiếp theo không kể sống chết lăn ngay xuống đất. Chỉ nghe thấy một tiếng keng, thánh hỏa lệnh đã gạt được Ỷ Thiên kiếm ra nhưng má bên trái cũng thấy mát rượi, chẳng biết mình thế nào đến khi đứng lên được giơ tay sờ má mới thấy dấp dính đau đớn lạ lùng, một mảng râu lẫn thịt trên mặt đã bị kiếm hớt đi, nếu thánh hỏa lệnh không phải là kỳ vật gạt được thanh kiếm ra thì một nửa cái đầu đã bị chém đứt.

Trương Vô Kỵ đi đến gặp Tạ Tốn, Triệu Mẫn nghĩ đến Kim Hoa bà bà gian trá ngụy bí, Trần Hữu Lượng lại có vẻ đáng nghi không yên tâm nên cũng len lén đi theo. Nàng biết mình khinh công không phải là loại thượng thừa, chỉ đi gần một chút là sẽ bị phát giác ngay, nên chỉ theo ở xa xa. Đến khi Trương Vô Kỵ ra tay đấu với ba sứ giả Ba Tư nàng mới đám đến gần, tới lúc Trương Vô Kỵ tỉ đấu nội công với ba người, nàng trong lòng mừng thầm, nghĩ thầm ba người Hồ này võ công tuy quái lạ nhưng làm sao hồn hậu bằng Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ. Đột nhiên Trương Vô Kỵ mở miệng kêu gọi hai bên ngừng tay, Triệu Mẫn đang định lên tiếng bảo chàng cẩn thận thì đối phương đã sử dụng Âm Phong Đao khiến Vô Kỵ ngã lăn ra đất. Trong cơn nguy cấp, Triệu Mẫn không kể sống chết xông ra rút được thanh kiếm Ỷ Thiên ra liền sử dụng ngay một chiêu của phái Côn Lôn nàng học được ở chùa Vạn An xả mệnh tấn công.

Triệu Mẫn chỉ một chiêu đã đánh bật được Lưu Vân Sứ ra, nhưng kiếm Ỷ Thiên cũng bật lại một vòng, cắt đứt một nửa chiếc mũ đội trên đầu để lộ mái tóc dài đen nhánh. Trường kiếm của nàng vòng xéo qua, cả người lao luôn vào Diệu Phong Sứ, thành ra Ỷ Thiên kiếm lại còn ở đằng sau. Chiêu này tên là Nhân Quỉ Đồng Đồ là một tuyệt chiêu của phái Không Động, cùng một kiểu như chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, đều là những chiêu khi biết mình thua nên cùng địch nhân ngọc đá đều vỡ cả. Lối đánh đó cực kỳ thảm khốc, các phái Thiếu Lâm, Nga Mi là võ công Phật môn không có những loại như vậy. Ngọc Toái Côn Cương và Nhân Quỉ Đồng Đồ không phải là những chiêu chuyển bại thành thắng, trong cái chết tìm cái sống mà chỉ cốt sao lưỡng bại câu thương, cùng về địa phủ. Hôm trước cao thủ hai phái Côn Lôn, Không Động bị bắt giam bị làm nhục, khi tỉ võ công lực mất cả rồi không cách nào có thể thắng nên một số người tính tình cứng cỏi liều sử hai chiêu này nhưng vì nội kình mất hết, muốn thí mạng cũng không sao làm được nên Triệu Mẫn đã ghi nhớ trong lòng.

Diệu Phong Sứ thấy nàng ra những thế ghê gớm như vậy, hết sức kinh hãi toàn thân lạnh ngắt đứng sững như trời trồng. Người này võ công tuy cao nhưng lại nhát gan, thấy chiêu này không có cách gì chống đỡ kinh sợ cực điểm nên đành đứng yên chịu chết.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 29

TỨ NỮ ĐỒNG CHU HÀ SỞ VỌNG

Thân hình Triệu Mẫn lao vào thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ rồi, cổ tay rung một cái trường kiếm nhắm ngay ngực y đâm tới. Chiêu này trước lấy lấy thân mình xông vào binh khí của địch nhân, dù đao hay kiếm, dù thương hay phủ khi đụng phải thân mình rồi cũng phải chựng lại một chút, mình liền múa kiếm đâm tới, dù địch võ công cao cường cũng khó mà thoát được. Diệu Phong Sứ thấy chiêu này lợi hại quá, sợ đến đứng chết trân. Cũng may trong tay y chỉ là một khối sắt dài chừng một thước không có mũi nhọn nên Triệu Mẫn lao vào rồi cũng không bị thương, trường kiếm vừa đâm ra thì sau lưng đã bị Huy Nguyệt Sứ ôm chặt.

Ba sứ giả Ba Tư liên thủ nghinh địch, phối hợp rất là chặt chẽ không có thể chê vào đâu được. Triệu Mẫn vừa xông ra đã dùng hai chiêu thí mạng để đánh, khiến cho trận pháp của tam đại cao thủ hỗn loạn nên đến bây giờ Huy Nguyệt Sứ mới từ đằng sau ôm được nàng. Thế ôm đó tưởng như không có gì kỳ lạ thực ra rất chính xác, không sai một li, ứng biến thật nhanh chẳng khác gì sao băng. Kiếm đó của Triệu Mẫn tuy lợi hại thật nhưng đâm chưa tới Diệu Phong Sứ thì đằng sau đã bị níu lại. Nàng biết là không xong, thuận theo thế Huy Nguyệt Sứ kéo mình về sau liền quay kiếm đâm ngược vào bụng của mình.

Chiêu kiếm đó rất là mạnh mẽ chính là một chiêu của phái Võ Đương tên là Thiên Địa Đồng Thọ, không phải do Trương Tam Phong sáng tạo mà do Ân Lê Đình khổ tâm nghĩ ra, cốt là để được cùng Dương Tiêu chết chung một lượt. Từ khi Kỷ Hiểu Phù chết đi, trong lòng chỉ còn một ý niệm duy nhất là làm sao giết được Dương Tiêu nhưng tự biết mình không thể nào địch lại, sư phụ tuy là thiên hạ đệ nhất cao thủ nhưng tư chất ngộ tính của ông ta không thể nào học được ba bốn thành của thầy, chỉ mong sao giết được Dương Tiêu rồi mình cũng chẳng muốn sống nữa nên ở trên núi Võ Đương tự nghĩ ra mấy thế đánh thí mạng.

Khi Ân Lê Đình lén tập luyện những thế kiếm đó bị sư phụ bắt gặp, Trương Tam Phong chỉ đành thở dài, biết khó mà có thể khuyên giải nên đặt cho chiêu kiếm này cái tên Thiên Địa Đồng Thọ, ý nói người dẫu chết đi tinh thần không hủ nát thì cũng để lại mãi mãi đến muôn đời, là một chiêu kiếm tự giết mình để giữ được điều nhân, bỏ mạng sống để thu được điều nghĩa, thật là vừa bi thương vừa hùng tráng. Đại đệ tử của Ân Lê Đình tại chùa Vạn An dùng chiêu này được Phạm Dao xông ra cứu kịp. Triệu Mẫn bây giờ lại đem ra sử dụng, chính là chiêu dùng để giết chết kẻ đang ở đằng sau ôm chặt lấy mình, kiếm sắc sẽ đâm qua bụng mình vào bụng kẻ địch, Huy Nguyệt Sứ làm sao tránh được?

Ví như Diệu Phong Sứ chưa sợ đến chết đứng hay Lưu Vân Sứ đứng gần ngay bên, với lối đánh ba người liền thành một khối như thế may ra còn có thể cứu được hai người đàn bà. Chỉ thấy thanh Ỷ Thiên đang sắp sửa đâm lút vào bụng của cả Triệu Mẫn lẫn Huy Nguyệt Sứ thì ngay trong đường tơ kẽ tóc đó, Trương Vô Kỵ vận nội lực xung huyệt đã thành công, vươn tay ra cướp luôn thanh kiếm.

Triệu Mẫn cố vùng ra một cái thoát khỏi vòng tay Huy Nguyệt Sứ đang ôm, phản ứng cực kỳ thần tốc, cầm luôn thánh hỏa lệnh trong tay Trương Vô Kỵ ném ra xa, nghe keng một tiếng rơi vào ngay trận địa cắm đầy kim của Kim Hoa bà bà.

Thánh hỏa lệnh đó ba người Ba Tư coi chẳng khác gì tính mệnh, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ không còn dám tiếp tục đối địch với Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, cũng chẳng thèm để ý đến Diệu Phong Sứ sống chết ra sao, vội vàng nhảy đi tìm. Hai người chạy được hơn một trượng đã đạp vào trong bãi kim nhọn. Huy Nguyệt Sứ thét lên một tiếng, cô nàng đã đạp phải một mũi chông. Ánh trăng mờ, gió thổi mạnh, cỏ cao đến gối thật khó mà nhìn cho ra thánh hỏa lệnh và kim cắm bên dưới, hai người vừa nhổ kim ra vừa mò tay tìm lệnh bài. Diệu Phong Sứ như từ một giấc mơ tỉnh dậy, kêu lên kinh hoàng cũng vội chạy đến.

Triệu Mẫn vì muốn cứu tính mạng Trương Vô Kỵ, ba chiêu kiếm tung ra nhanh như cắt không còn kịp suy nghĩ gì nữa, lúc này bình tâm lại một chút, càng nghĩ càng thấy rùng mình, kêu "Ôi" lên một tiếng sà luôn vào lòng Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm lấy nàng trong lòng hết sức cảm động, biết rằng ba sứ giả Ba Tư một khi kiếm được thánh hỏa lệnh rồi thể nào cũng quay lại ngay nên vội nói:

- Thôi mình chạy đi.

Chàng quay lại trả thanh đao cho Tạ Tốn, ôm Ân Ly đang bị thương nặng lên nói với Tạ Tốn:

- Tạ đại hiệp, trước mắt mình nên tránh đi một chút.

Tạ Tốn nói:

- Đúng thế.

Ông cúi xuống giải khai huyệt đạo cho Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng Kim Hoa bà bà qua cơn chết hụt này, ắt phải xóa hết hiềm thù cùng Tạ Tốn.

Bốn người chạy được mấy trượng, Trương Vô Kỵ nghĩ tuy Ân Ly là biểu muội của mình nhưng dẫu sao nam nữ thụ thụ bất thân, nên giao lại Ân Ly cho Kim Hoa bà bà bồng. Triệu Mẫn đi trước dẫn đường, kế đến là Kim Hoa bà bà và Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ đi cuối phòng địch nhân truy kích. Chàng quay đầu lại thấy ba sứ giả Ba Tư vẫn đang lom khom trong đám cỏ cao tìm kiếm. Chàng phen này bị thua to, nghĩ lại những chuyện hung hiểm vừa rồi, cũng thấy hổ thẹn, lại không biết Ân Ly bị thương nặng như thế có thể cứu sống được không.

Ngay khi đang chạy, bỗng nghe Tạ Tốn gầm lên một tiếng dữ dội, giơ quyền đánh thẳng vào lưng Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà xoay tay lại đỡ, đồng thời ném Ân Ly xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, phi thân nhảy tới. Tạ Tốn quát lên:

- Hàn phu nhân, sao bà lại ra tay định giết Ân cô nương?

Kim Hoa bà bà lạnh lùng đáp:

- Ông giết hay không giết tôi là chuyện của ông. Tôi giết hay không giết nó là chuyện của tôi, ông có quyền gì can thiệp vào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Có tôi ở đây thì không để cho ai tùy tiện giết người đâu.

Kim Hoa bà bà nói:

- Tôn giá hôm nay rỗi hơi xen vào chuyện người khác chưa đủ hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện này chưa chắc đã là chuyện rỗi hơi đâu. Ba sứ giả Ba Tư chỉ chốc lát là quay lại ngay, sao bà còn không mau chạy đi?

Kim Hoa bà bà hứ một tiếng, chạy về hướng tây, đột nhiên vung tay ném ngược lại ba đóa kim hoa nhắm sau cổ Ân Ly phóng tới. Trương Vô Kỵ giơ tay búng ra, nghe keng keng keng ba tiếng, ba bông hoa bay trở lại Kim Hoa bà bà, tiếng đi rít trên không, xem ra còn mạnh hơn cả dùng cung nõ mà bắn. Lần trước khi chàng ôm Ân Ly đã xóa bỏ hết những râu ria trên mặt, Kim Hoa bà bà đã nhìn rõ diện mạo của chàng, nay thấy thanh niên này nội công thâm hậu đến thế, không dám đưa tay ra bắt, vội vàng nằm mọp xuống đất để tránh. Ba đóa hoa bay xẹt ngang lưng bà ta, xé rách lưng áo ba đường dài, bà ta sợ đến tim đập thình thịch không dám quay đầu lại nữa.

Trương Vô Kỵ bồng Ân Ly lên, bỗng nghe Triệu Mẫn rên một tiếng, cúi gập người xuống, hai tay ôm bụng. Chàng vội vàng chạy đến hỏi:

- Em sao thế?

Chỉ thấy bàn tay nàng đầy những máu, rỉ cả ra những kẽ tay. Thì ra nàng sử chiêu Thiên Địa Đồng Thọ, đã rạch phải bụng rồi. Trương Vô Kỵ kinh hãi thất sắc, vội hỏi:

- Bị thương có nặng không?

Bỗng nghe Diệu Phong Sứ đang ở trong bãi kim reo lên:

- Tìm thấy rồi, tìm thấy rồi.

Triệu Mẫn nói:

- Mặc kệ em, mau chạy đi, chạy đi.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng lên, theo hướng chân núi chạy xuống. Triệu Mẫn nói:

- Xuống dưới thuyền, nhổ neo đào tẩu.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế.

Chàng một bên ôm Ân Ly, một bên ôm Triệu Mẫn chạy xuống. Tạ Tốn chạy theo sau trong lòng lạ lùng: "Thanh niên này quả thực ghê gớm, hai tay ôm hai người mà còn chạy nhanh đến thế".

Trương Vô Kỵ lòng rối như tơ vò, nếu một trong hai thiếu nữ trên tay bị thương không cứu được thì đều là mối hận cả đời. Cũng may chàng vẫn thấy hai người còn ấm, không có dấu hiệu gì đang lạnh dần.

Ba sứ giả Ba Tư tìm được thánh hỏa lệnh rồi, lại đuổi theo nhưng ba người đó khinh công không bằng được Trương Vô Kỵ, so với Tạ Tốn cũng kém xa. Trương Vô Kỵ chạy gần đến thuyền, lớn tiếng nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa có lệnh: Các thủy thủ giương buồm nhổ neo, lập tức khai thuyền.

Khi chàng và Tạ Tốn lên được thuyền thì buồm đã kéo lên. Tuy nhiên người lái thuyền phải đợi chính miệng Triệu Mẫn ra lệnh nên chạy lên hỏi ý kiến. Triệu Mẫn mất máu quá nhiều, chỉ thều thào nói:

- Nghe ... nghe lệnh Trương công tử ... là được ...

Người tiêu công liền lái thuyền ra, khi ba sứ giả Ba Tư chạy đến bên bờ thì thuyền đã cách bờ đến mấy chục trượng.

Trương Vô Kỵ đem Ân Ly và Triệu Mẫn đặt nằm trong khoang thuyền, có Tiểu Siêu ở bên giúp đỡ, cởi áo hai người để lộ vết thương ra. Trương Vô Kỵ xem xét thương thế, thấy trên bụng Triệu Mẫn bị một vết thương sâu đến nửa tấc, máu chảy tuy nhiều nhưng không đến nỗi nguy đến tính mạng. Ân Ly thì bị ba đóa kim hoa toàn chỗ yếu hại, Kim Hoa bà bà ra tay rất nặng cứu được hay không cũng thật khó mà biết. Chàng liền rắc thuốc buộc vết thương cho cả hai người. Ân Ly vốn dĩ đã hôn mê bất tỉnh từ lâu không còn biết gì nữa, còn Triệu Mẫn nước mắt rưng rưng, Trương Vô Kỵ hỏi trong người ra sao, nàng chỉ bặm môi không trả lời.

Tạ Tốn nói:

- Tăng thiếu hiệp, Tạ mỗ xa rời nhân thế nay vô tình trở về Trung Thổ, lại quen biết được một người bạn nghĩa khí thâm trọng như các hạ, quả thật vui mừng ngoài dự liệu.

Trương Vô Kỵ đỡ ông ngồi trên ghế trong khoang thuyền, quì phục xuống lạy, khóc nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ bất hiếu, không đến đón cha sớm hơn được khiến cho cha phải chịu biết bao nhiêu khổ sở.

Tạ Tốn giật mình hoảng hốt, lắp bắp:

- Cậu ... cậu nói gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hài nhi chính là Trương Vô Kỵ đây.

Tạ Tốn làm sao tin cho nổi, vẫn ấp úng:

- Cậu ... cậu nói sao?

Trương Vô Kỵ liền đọc:

- Quyền học chi đạo tại ngưng thần, ý tại lực tiên năng chế thắng[1] ...

Chàng cứ thao thao bất tuyệt đọc thuộc lòng, toàn là võ học yếu quyết Tạ Tốn đã từng dạy chàng trên Băng Hỏa đảo. Đọc được chừng hai chục câu, Tạ Tốn vừa mừng vừa sợ nắm chặt hai tay chàng, run run nói:

- Con ... con có thực là thằng bé Vô Kỵ của ta không?

Trương Vô Kỵ đứng lên, ôm chặt lấy ông, đem mọi chuyện quan trọng kể lại, nhưng việc lên làm giáo chủ Minh giáo thì chàng tạm thời không đề cập đến để nghĩa phụ khỏi phải theo tôn ti mà hành lễ với mình. Tạ Tốn tưởng như đang trong một giấc mơ, lúc này không còn không tin nữa chỉ nhắc đi nhắc lại:

- Thật ông trời có mắt, thật ông trời có mắt.

Bỗng nghe từ phía đuôi thuyền các thủy thủ kêu lên:

- Thuyền địch đang đuổi theo.

Trương Vô Kỵ chạy lên sau thuyền nhìn ra, thấy thuyền địch nhiều buồm thân nhẹ càng lúc càng gần, trong lòng hoang mang không biết phải làm sao cho phải, nghĩ thầm chỉ còn cách để cho ba sứ giả Ba Tư lên thuyền rồi dụ họ vào khoang đấu một trận nữa, đưa mắt tìm chỗ chật hẹp cốt ba người kia không thể liên thủ. Chàng bèn dời Triệu Mẫn và Ân Ly sang một bên, lên khoang trên xách hai cái neo sắt lớn đem xuống để làm vật cản để cho các sứ giả Ba Tư phải từng người một đấu với mình.

Chàng sắp đặt xong, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, thuyền chao qua một bên, nước biển bốc vọt lên cao, tạt cả vào sàn thuyền. Thủy thủ đằng sau kêu lên:

- Thuyền địch khai pháo, thuyền địch khai pháo.

Phát đạn đó bắn vào bên hông cũng may chưa trúng. Triệu Mẫn quay về phía Trương Vô Kỵ vẫy tay, nói nhỏ:

- Thuyền mình cũng có súng đó.

Câu đó khiến Trương Vô Kỵ nhớ ra, lập tức chạy lên trên sàn chỉ huy các thủy thủ gỡ các vật che đậy các cỗ súng, nhồi thuốc lắp đạn, châm mồi bắn trả. Chỉ nghe bình một tiếng lớn, một phát đạn đã bắn ra. Thế nhưng những thủy thủ đó đều là võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn cải trang, võ công tuy cao, hải chiến lại không biết gì, thành thử viên đạn bắn ra rơi ngay giữa hai chiếc thuyền, nước văng lên cao cả mấy trượng nhưng thuyền địch không lay động chút nào. Thế như thuyền địch thấy đối phương cũng có đại pháo không còn dám tiến tới gần nữa. Một lát sau, thuyền địch lại bắn thêm một quả đạn nữa, trúng ngay đầu thuyền, thuyền liền bốc hỏa.

Trương Vô Kỵ liền chỉ huy các thủy thủ dội nước dập lửa, bỗng thấy tầng trên một ngọn lửa bốc ra. Chàng hai tay bưng một thùng nước, đạp tung cửa khoang hắt luôn vào, ngọn lửa liền tắt ngúm. Trong đám khói mù mịt chàng nhìn thấy một thiếu nữ ướt mèm nằm sóng soài trên giường, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ vứt thùng xuống, chạy vào trong phòng hỏi gấp:

- Chu cô nương, có sao không?

Chu Chỉ Nhược đầu tóc đầy những nước, hình dáng thật là thảm hại, trong cơn nguy cấp bỗng thấy chàng xuất hiện, kinh ngạc không đâu kể xiết. Nàng vừa cử động hai tay, lập tức có tiếng loảng xoảng. Thì ra chân tay nàng đều bị Kim Hoa bà bà dùng xích sắt khóa chặt, Trương Vô Kỵ vội chạy xuống tầng dưới lấy thanh Ỷ Thiên kiếm lên chặt đứt xích. Chu Chỉ Nhược nói:

- Trương giáo chủ, sao ... sao giáo chủ lại đến được nơi đây?

Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, thân thuyền lại dao động đữ đội khiến nàng loạng choạng sà luôn vào lòng chàng. Trương Vô Kỵ vội giơ tay ra đỡ, ánh lửa từ ngoài cửa sổ chiếu vào, thấy khuôn mặt tái nhợt của nàng ửng hồng, lại thêm mấy giọt nước trông thật xinh đẹp thanh nhã, tưởng như một nàng tiên vừa dưới nước hiện lên. Trương Vô Kỵ định thần, nói:

- Thôi mình đi xuống khoang dưới.

Hai người ra khỏi cửa khoang thấy thuyền chòng chành dữ dội, thì ra khi địch bắn vào đã làm gãy nát bánh lái, ngay cả người tài công cũng bị văng xuống biển chết rồi. Người thuyền trưởng hoảng hốt, vội đích thân đến nhồi thuốc bắn trả, chỉ mong trúng thuyền địch cho chìm nên đổ thật đầy, dùng thiết côn nén thật chặt. Y chỉnh khẩu súng ngóc lên cao, đốt dây mồi. Chỉ thấy một ánh lửa lóe lên, một tiếng nổ vang trời, cỗ đại pháo vỡ tan, mảnh sắt văng tung tóe, cả viên thuyền trưởng lẫn các thủy thủ đứng chung quanh đều tan xác, máu thịt bay tứ phía. Chỉ vì viên thuyền trưởng muốn cho sức nổ thật mạnh nên nhồi quá nhiều thuốc súng thành thử vỡ luôn khẩu thần công.

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chạy lên trên sàn thuyền thấy chung quanh chỗ nào cũng có lửa cháy, chỉ chốc lát là chìm, thấy ở bên hông có buộc một chiếc thuyền con vội kêu lên:

- Chu cô nương, mau nhảy xuống thuyền nhỏ đi ...

Lúc này Tiểu Siêu đã ôm được Ân Ly, Tạ Tốn bồng Triệu Mẫn từ khoang dưới chạy lên. Tiếng nổ vừa rồi khiến cho đáy thuyển thủng một lỗ lớn, nước biển liền ùa vào như thác. Trương Vô Kỵ đợi Tạ Tốn, Tiểu Siêu đã xuống thuyền nhỏ rồi, vung kiếm chặt đứt dây buộc, nghe bạch một tiếng chiếc thuyền rơi luôn xuống biển. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nhảy xuống, đúng ngay giữa thuyền, cầm luôn hai mái giầm ra sức bơi ra.

Khi đó chiếc chiến thuyền lửa đã bốc cao chiếu đỏ cả một vùng biển. Trương Vô Kỵ toàn lực chèo thuyền, nghĩ thầm chỉ cần bơi ra được vùng lửa không soi tới, ba sứ giả Ba Tư không nhìn thấy thuyền tưởng rằng mọi người đã chết hết trong biển cả rồi sẽ không đuổi theo nữa. Tạ Tốn cũng cầm một mảnh ván chèo phụ.

Chiếc thuyền nhỏ lướt đi trên mặt biển, chỉ trong chốc lát đã ra khỏi vùng lửa chiếu tới. Chỉ thấy chiếc đại chiến thuyền kia từng tiếng nổ vang, thuốc nổ trên thuyền không ngừng bùng lên, chiếc thuyền Ba Tư không dám đến gần chỉ neo lại xa xa quan sát. Một số võ sĩ của Triệu Mẫn thông thạo thủy tính, cố bơi lại gần thuyền địch cầu cứu đều bị người Ba Tư dùng cung tên bắn chết.

Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn không dám ngừng tay, nếu như trên đất liền gặp ba sứ giả Ba Tư đuổi tới còn liều tử chiến một phen, bây giờ nơi biển cả mênh mông này, địch nhân chỉ cần bắn một phát đại bác, dẫu chỉ cách chiếc thuyền vài trượng thôi, sóng ụp vào thể nào cũng lật. Cũng may hai người nội lực thâm hậu, chèo đến nửa đêm cũng chưa tỏ vẻ gì mỏi mệt.

Đến khi trời sáng lại thấy mây đen kéo đầy trời, bốn bề sương mù xám xịt. Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:

- - Sương mù này thật tốt, chỉ thêm nửa ngày nữa, kẻ địch không thể nào kiếm thấy chúng ta được.

Nào ngờ đến quá trưa hôm đó, gió bỗng thổi mạnh, rồi mưa như trút. Chiếc thuyền nhỏ bị gió thổi trôi giạt về hướng nam. Lúc này trời đang vào mùa đông, quần áo ai nấy ướt đẫm, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hậu không đến nỗi nào, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu mỗi lần gió bấc thổi đến, lại run lập cập hàm răng đánh vào nhau lách cách. Thế nhưng trên thuyền chẳng có gì khác không ai có thể nghĩ được cách nào cho bớt lạnh. Khi đó mấy chiếc giầm không ai chèo nữa, bốn người cởi giày làm gàu tát nước mưa trong thuyền ra.

Tạ Tốn nay gặp được Trương Vô Kỵ trong lòng hết sức vui mừng, tuy trước mắt đầy hiểm nguy nhưng chẳng coi vào đâu, trong mưa gió vẫn nói cười như không. Tiểu Siêu tính tình ngây thơ, cũng cười đùa vui vẻ, chỉ riêng Chu Chỉ Nhược vẫn lặng yên không nói lời nào, thỉnh thoảng ánh mắt chạm phải Trương Vô Kỵ, lập tức quay đầu sang chỗ khác. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, năm xưa ta cùng cha mẹ con dong thuyền ra biển xuất dương, giữa đường bị một trận bão, so với trận bão hôm nay ghê gớm hơn nhiều. Bọn ta về sau lên được băng sơn, bắt hải cẩu ăn thịt. Có điều hồi đó là gió nam, thổi chúng ta đến miền cực bắc băng sơn tuyết địa, còn hôm nay lại là gió bắc, không lẽ ông trời thấy Tạ Tốn này không hợp nhãn, nên đày ta đến chỗ Nam cực tiên ông, sống ở đó thêm hai chục năm nữa hay sao? Ha ha, ha ha!

Ông ta cười một tràng rồi nói tiếp:

- Năm xưa cha mẹ con một nam một nữ, trai tài gái sắc, đúng là duyên trời se, còn nay con lại mang theo tới bốn cô gái, thế là thế nào đây? Ha ha, ha ha!

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, cúi đầu xuống, còn Tiểu Siêu vẫn bình thản nói:

- Tạ lão gia tử, cháu chỉ là con tiểu a đầu hầu hạ công tử thôi, không tính vào trong đó được.

Triệu Mẫn tuy bị thương nặng nhưng cũng đã tỉnh, đột nhiên nói:

- Tạ lão gia tử, ông mà còn nói nhăng nói cuội nữa, đợi tôi khỏi rồi, tôi sẽ nắm tai ông đánh cho một trận.

Tạ Tốn le lưỡi, cười nói:

- Gớm cô này ghê thật.

Ông ta bỗng ngừng lại không cười nữa, trầm ngâm rồi nói:

- Ồ, đêm qua cô đánh thí mạng ra ba chiêu, chiêu thứ nhất là chiêu Ngọc Toái Côn Cương của phái Côn Lôn, chiêu thứ hai là chiêu Nhân Quỉ Đồng Đồ của phái Không Động, còn chiêu thứ ba, hừ, lão già này quê mùa dốt nát, không nghĩ ra là chiêu nào.

Triệu Mẫn trong bụng kinh hãi thầm: "Thảo nào Kim Mao Sư Vương năm xưa danh chấn thiên hạ, đại náo một phen khiến chốn giang hồ nghiêng trời lệch đất. Hai mắt ông ta không nhìn thấy, thế mà cũng đoán ra được hai chiêu ta sử dụng, quả đúng là danh bất hư truyền".

Nàng liền nói:

- Chiêu thứ ba có tên là Thiên Địa Đồng Thọ của phái Võ Đương, hình như là chiêu số mới sáng tác lão gia tử không biết là phải.

Giọng nàng lúc này thật là cung kính. Tạ Tốn thở dài:

- Cô hết sức cứu Vô Kỵ, quả thực tốt lắm, nhưng việc gì phải thí mạng như thế? Hử, việc gì phải thí mạng như thế?

Triệu Mẫn ấp úng:

- Anh ấy ... anh ấy ...

Nói đến đây nàng dừng lại, ngập ngừng không muốn nói tiếp, nhưng sau cùng nhịn không nổi nghẹn ngào:

- Anh ấy ... ai bảo anh ấy ... ôm Ân cô nương tình tứ ... tình tứ đến thế, tiểu nữ cũng chẳng còn muốn sống làm gì!

Nàng nói hết câu, nước mắt ròng ròng chảy xuống. Bốn người nghe thấy cô gái trẻ tuổi này thổ lộ tâm sự không khỏi ngạc nhiên, đâu ai biết rằng Triệu Mẫn là gái Mông Cổ, yêu ai thì nói là yêu, ghét ai thì nói là ghét, không vờ vĩnh che đậy, khác hẳn gái Trung Thổ vốn thấm nhuần lễ giáo khuôn sáo. Hơn nữa đang lúc trên thuyền, chung quanh biển cả mênh mông, mưa như trút, bất cứ lúc nào thuyền cũng có thể bị đắm, sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc, nên không còn gì để phải kiêng dè.

Trương Vô Kỵ nghe Triệu Mẫn nói mấy câu đó trong lòng cực kỳ xúc động: "Triệu cô nương vốn là đại địch của ta, lần này ta theo nàng ra hải ngoại, chủ ý vốn để nghinh tiếp nghĩa phụ về, đâu ngờ nàng lại mang một mối thâm tình với ta đến thế". Chàng không cầm lòng nổi giơ tay ra nắm tay nàng, ghé miệng vào tai nói nhỏ:

- Từ nay dù thế nào cũng không được làm vậy nữa, nghe chưa?

Triệu Mẫn vừa nói ra, chợt thấy ăn năn nghĩ thầm mình là con gái không biết giữ gìn lời ăn tiếng nói, những chuyện như thế lẽ nào lại chính miệng thốt ra để cho chàng coi thường mình? Bây giờ nàng nghe lời ân cần trách cứ của Trương Vô Kỵ, vừa mừng vừa sợ, vừa thẹn vừa yêu, trong lòng biết bao ngọt ngào êm ấm, cảm thấy tối qua ba lần vào sinh ra tử, hôm nay trên biển cả phiêu bạt lênh đênh cũng không phải là uổng phí.

Mưa một trận to rồi cũng tạnh dần nhưng mây đen thì mỗi lúc một nhiều. Bỗng nghe một tiếng quẫy mạnh, một con cá ước chừng ba mươi cân từ dưới nước nhảy lên, Tạ Tốn giơ tay trái ra chộp luôn vào bụng cá, bắt ngay vào trong thuyền. Ai nấy đều lên tiếng reo hò, Tiểu Siêu rút trường kiếm đem cá ra mổ bụng đánh vảy, cắt thành từng miếng. Mọi người ai nấy đói lòng, nhưng cá sống thật tanh, cố gắng mãi mới ăn được. Riêng Tạ Tốn ăn thật ngon lành, ông ở trên hoang đảo hơn hai mươi năm, món gì cũng đã ăn qua nói gì đến cá sống? Huống chi cá sống nếu nhai lâu một chút, sau cái mùi vị tanh tanh sẽ thấy ngon ngọt lạ thường.

Sóng gió trên biển lặng dần, mọi người ăn cá xong nhắm mắt dưỡng thần, hôm qua một ngày một đêm kịch đấu, ai nấy đều cực kỳ mỏi mệt. Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu tuy không giao đấu nhưng bị kinh hãi cũng không phải là ít. Biển cả lay động con thuyền chẳng khác gì nằm võng đu đưa, trên thuyền cả sáu người trước sau đều thiếp đi.

Mọi người ngủ một giấc dài, phải đếm ba giờ sau mới dậy. Tạ Tốn tuổi già tỉnh trước, nghe tiếng thở của năm người trai gái nhịp nhàng cùng với tiếng gió biển. Triệu Mẫn và Ân Ly bị thương rồi, hơi thở xem ra dồn dập, Chu Chỉ Nhược thì nhẹ và dài, còn Trương Vô Kỵ giữa mỗi lần hô hấp, lúc đứt quãng lúc liên tục, không rõ ràng khiến Tạ Tốn ngầm kinh dị: "Thằng bé này nội lực thật là thâm hậu, ta bình sinh chưa gặp bao giờ". Riêng Tiểu Siêu hơi thở lúc nhanh, lúc chậm, rõ ràng nàng luyện một môn võ công hết sức lạ lùng, Tạ Tốn nhíu mày, nghĩ thầm: "Quả thật là lạ lùng, không lẽ con bé này là ...".

Đột nhiên Ân Ly quát lên:

- Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ kia, sao không lên đảo Linh Xà với ta?

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu nghe tiếng hét đó đều choàng tỉnh. Lại nghe nàng ta nói tiếp:

- Ta ở một mình trên đảo, tịch mịch cô đơn ... sao ngươi không đến chơi với ta? Ta ngày đêm khổ sở nhớ thương ngươi, ngươi ... ngươi ở dưới âm có biết cho chăng?

Trương Vô Kỵ giơ tay sờ đầu nàng, thấy hầm hập như một lò than, biết là nàng bị thương nặng lên cơn sốt, nói mê nói sảng. Tuy chàng y thuật tinh thâm, nhưng trong chiếc thuyền nhỏ không thuốc men cũng đành chịu bó tay, đành xé một mảnh áo, thấm nước đắp lên trán cho bớt nóng.

Ân Ly vẫn nói tiếp tục nói lảm nhảm, đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Cha ơi, cha ... cha đừng giết mẹ con, đừng giết mẹ con ... Dì hai là do con giết đó, cha giết con đi, không liên quan gì đến mẹ con cả ... Mẹ ơi, mẹ chết rồi! Con làm hại mẹ rồi! Hu hu ... hu hu ...

Nàng cất tiếng khóc thật là thương tâm. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ nói:

- Châu Nhi, Châu Nhi, em tỉnh lại đi. Cha em đâu có ở đây, đừng sợ.

Ân Ly giận dữ nói:

- Cha em không ra gì, em có sợ cha em đâu. Tại sao ông ấy lại lấy vợ hai, vợ ba? Một người đàn ông lấy một vợ chưa đủ hay sao? Cha ơi, cha thay lòng đổi dạ, có mới nới cũ, lấy hết người này đến người khác, làm khổ mẹ con quá, làm khổ lây cả con nữa! Ông không phải là cha tôi, ông là kẻ bạc tình, là đại ác nhân!

Trương Vô Kỵ bỗng giật mình kinh hoảng, sợ đến mặt mày tái mét. Thì ra mới rồi chàng mơ một giấc mơ thật đẹp, thấy mình lấy được Triệu Mẫn, lại lấy cả Chu Chỉ Nhược. Khuôn mặt sưng phù của Ân Ly cũng biến thành đẹp, luôn cả Tiểu Siêu cũng lấy mình luôn. Ban ngày ban mặt chàng đâu có dám nghĩ tới, nhưng trong giấc ngủ lại thành sự thực, thấy cả bốn cô nào nào cũng tốt, mình không thể bỏ người nào. Khi chàng an ủi Ân Ly, trong đầu vẫn mơ màng nghĩ tới những phút giây vui sướng ấy.

Bây giờ chàng nghe Ân Ly trách mắng phụ thân, nghĩ lại chuyện kể hồi trước, nàng không chịu để cho mẹ bị khinh khi nên giết chết ái thiếp của cha, mẹ nàng vì thế mà phải tự vẫn, chính cậu chàng là Ân Dã Vương đã toan một đao giết chết con ruột mình. Câu chuyện luân thường đại biến, thảm khốc kia cũng chỉ vì Ân Dã Vương không chung tình với một người lại năm thê bảy thiếp mà ra. Chàng quay qua nhìn Triệu Mẫn, lại liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nghĩ đến giấc mộng không khỏi thẹn thùng.

Ân Ly lại nằm mơ nói lảm nhảm một hồi, đột nhiên đổi giọng van xin:

- Vô Kỵ, anh đi với em đi, đi với em đi. Anh cắn lưng bàn tay em một cái nhưng em chẳng giận anh chút nào. Em nguyện một đời hầu hạ anh, chiều chuộng anh, coi anh như chủ của em vậy. Nếu anh thấy em xấu xí, em sẽ hủy hết võ công để cho anh vui lòng, bỏ hết chất nhện độc để anh thấy em vẫn như hồi mới gặp nhau ...

Câu đó nàng nói thật dịu dàng, uyển chuyển, Trương Vô Kỵ nghĩ đến cô em họ tính khí thất thường, vui buồn thay đổi, tuy bề ngoài lạ lùng như trong lòng đầy vẻ ôn nhu. Lại nghe nàng nói tiếp:

- Vô Kỵ, em đi khắp nơi tìm anh, đủ mọi chân trời góc biển, nghe được tin mới biết anh ở Tây Vực rơi xuống hang núi chết rồi, em đau lòng không còn muốn sống nữa. Ở Tây Vực em gặp một thanh niên tên là Tăng A Ngưu, y võ công cao cường, tính hạnh cũng tốt, anh ta bảo sẽ lấy em làm vợ.

Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu đều biết Tăng A Ngưu chính là tên giả của Trương Vô Kỵ, không hẹn mà cùng quay lại nhìn chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc chín, hết sức bối rối thấy ba cô gái nhìn mình bằng cặp mắt lạ lùng, chỉ hận không nhảy xuống biển ngay được chờ cho Ân Ly tỉnh lại mới quay trở lên.

Lại nghe Ân Ly lẩm bẩm nói tiếp:

- Cái anh A Ngưu đó nói với em rằng: "Cô nương, tôi thành tâm thành ý, mong được lấy cô làm vợ, chỉ mong cô đừng cho rằng tôi không xứng đáng thôi". Y lại nói: "Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước". Vô Kỵ, cái anh A Ngưu đó nhân phẩm còn tốt hơn anh nhiều, võ công giỏi hơn cả Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi. Thế nhưng trong lòng em đã có một tên tiểu quỉ lang tâm đoản mệnh rồi, nên em không nhận lời anh ta. Anh chết sớm, em sẽ ở vậy thủ tiết cùng anh. Vô Kỵ, anh thử xem, A Ly đối với anh tốt hay không tốt? Năm xưa anh coi thường em, bây giờ trong lòng anh có hối hận hay không?

Lúc đầu Trương Vô Kỵ nghe nàng kể lể những gì mình nói với cô ta thấy thật là xấu hổ nhưng càng nghe càng thêm cảm động, tự nhiên nước mắt ròng ròng. Lúc này sương mù cũng đã tan đi, một vầng trăng non chiếu xuống Ân Ly nằm nghiêng nghiêng, chỉ thấy thân hình thon thả của nàng. Lại nghe nàng nói nho nhỏ:

- Vô Kỵ, anh ở chốn u minh có tịch mịch lắm không? Có cô đơn không? Em theo bà bà đi đến Băng Hỏa đảo ở bắc hải tìm đón nghĩa phụ anh về, sau đó sẽ lên núi Võ Đương quét dọn cúng tế mộ phần cha mẹ anh, rồi sẽ đến Tây Vực nơi đỉnh núi tuyết anh táng mệnh nhảy xuống, để bầu bạn với anh. Có điều em phải đợi cho bà bà trăm tuổi rồi chứ không thể theo anh sớm hơn để bà bà ở lại một mình lênh đênh khổ sở. Bà bà đối với em tốt lắm, nếu không có bà bà cứu cho thì cha em đã giết em rồi. Em vì cha nuôi của anh mà phải phản lại bà bà, chắc là bà bà hận em lắm. Em chỉ muốn thật tốt với bà bà thôi, Vô Kỵ, anh nghĩ có phải không?

Câu nói đó dường như nàng muốn trần tình với Trương Vô Kỵ. Trong lòng nàng, Trương Vô Kỵ đã là quỉ ở dưới âm, những câu nói hết sức ôn nhu dịu dàng với một hồn ma, nơi một chiếc thuyền lênh đênh trong đêm vắng, dưới ánh trăng suông, quả thật thê lương.

Nàng nói tiếp câu nọ xọ câu kia, chỗ này một câu chỗ kia một câu, lúc thì hoảng hốt kêu la, lúc thì giận dữ chửi bới, câu nào cũng nói lên tâm trạng vô cùng bi thương, thống khổ. Những câu nói mê lảm nhảm ấy nhỏ dần rồi nàng lại ngủ thiếp đi. Năm người không ai nói một câu, mỗi người một tâm sự, nghe tiếng sóng bập bềnh nơi mạn thuyền, thấy rằng chỉ có gió mát trăng trong là mãi mãi thôi, còn mối âu lo của con người không bao giờ dứt.

Đột nhiên một giọng ca thật nhẹ nhàng, thật phiếu diểu vang lên trên mặt biển:

Cõi trần kẻ trước người sau,

Cuối cùng cũng đến cái cầu xuôi tay.

Hôm nay chỉ biết hôm nay,

Trăm năm thấm thoát đã hay một đời.

Mấy ai thọ được bảy mươi,

Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu.

Chính là tiếng hát của Ân Ly trong giấc mơ cất lên. Trương Vô Kỵ nghe xong giật mình, nhớ lại trên con đường hầm nơi Quang Minh Đính khi bị Thành Côn đóng mất lối ra, không còn cách nào thoát thân, Tiểu Siêu cũng đã hát lên khúc hát này. Chàng đưa mắt nhìn Tiểu Siêu, dưới ánh trăng cũng thấy cô gái đang say đắm ngẩn ngơ nhìn mình.

------------------------------------------------

[1] Phép luyện quyền cốt ở tập trung tinh thần, ý đi trước sức đi sau mới mong thắng được ...

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG

Dẫu cho xa cách muôn trùng,

Thân tuy hai ngả nhưng lòng không chia.

*

* *

Ân Ly hát khúc hát đó rồi, sau đó lại thêm một bài khác, lần này tiếng ca hết sức ngụy bí, không giống điệu hát Trung Thổ chút nào, nghe cho kỹ thấy từ ý cũng giống như khúc hát của Tiểu Siêu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như thể chiêm bao,

Về đâu rồi sẽ ra sao bây chừ?

(Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung)

Nàng cứ hát đi hát lại hai câu ấy mãi, càng lúc càng nhỏ dần, đến khi tiếng hát lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió không còn nghe thấy gì nữa. Mọi người nghĩ đến sinh tử vô thường, cõi nhân sinh như nước sông chảy mãi không hiểu từ đâu mà đến, dẫu cho anh hùng hào kiệt cũng không ai qua khỏi được cái chết, có khác gì gió mát kia chẳng biết thổi về nơi nào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay nhỏ nhắn của Triệu Mẫn lạnh như băng nằm trong tay mình hơi run rẩy.

Tạ Tốn bỗng nói:

- Khúc hát Ba Tư này là do Hàn phu nhân dạy cho cô ta đó, một buổi chiều hơn hai mươi năm trước, ta ở trên Quang Minh Đính đã từng nghe rồi. Ôi, đâu có ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến thế, ra tay hạ độc thủ với con bé đến thế này.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Lão gia tử, Hàn phu nhân làm sao biết hát khúc hát Ba Tư, hay vốn là bài ca của Minh giáo chăng?

Tạ Tốn đáp:

- Minh giáo truyền từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có uyên nguyên với Minh giáo nhưng không phải là bài ca của Minh giáo. Bài hát này là do một vị thi nhân rất nổi tiếng của Ba Tư hơn hai trăm năm trước đây tên là Nga Mặc làm, nghe nói người Ba Tư ai ai cũng biết cả. Năm xưa khi ta nghe khúc hát này thấy hay quá nên có hỏi Hàn phu nhân về lai lịch của bài ca, bà ta có kể rõ ràng đầu đuôi cho ta nghe.

Ngày đó đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở trường dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt xuất: Nga Mặc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị còn Thôi Sơn giỏi về võ công. Ba người hợp tính nhau nên cùng thề ước nếu giàu sang sẽ không quên nhau. Về sau Ni Nhược Mâu đường mây rong ruổi được làm Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ cũng tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo Vương phong quan chức cho Thôi Sơn. Nga Mặc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền bổng hàng năm để có thì giờ nghiên cứu thiên văn lịch số, uống rượu ngâm thơ. Ni Nhược Mâu mọi việc đều ưng thuận, đối xử thật hậu hĩ.

Ngờ đâu Thôi Sơn vẫn mang hùng tâm không chịu ở dưới người khác, âm mưu phản loạn. Việc y làm thất bại bèn kết tụ đồng đảng vào trong núi thành một thủ lãnh tông phái uy chấn thiên hạ, gọi là phái Y Tư Mỹ Lương chuyên ám sát giết người. Thời Thập Tự Quân, người Tây Vực khi nói đến tên Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn, không ai là không kinh sợ. Thời đó vua các nước Tây Vực bị chết về tay các thủ hạ của Thôi Sơn không biết bao nhiêu mà kể.

Hàn phu nhân nói rằng, bên phía cực tây ngoài biển khơi có một đại quốc, tên là Anh Cách Lan, vua nước đó là Ái Đức Hoa có lỗi với Sơn Trung lão nhân bị y sai người hành thích. Quốc vương bị trúng dao tẩm thuốc độc, may nhờ vương hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra, nhờ thế nhà vua mới thoát chết. Thôi Sơn chẳng kể gì đến ân nghĩa ngày xưa, lại sai người giết chết Thủ tướng Ba Tư là Ni Nhược Mâu. Khi sắp chết, Thủ tướng ngâm bài thơ của Nga Mặc, chính là hai câu "Đến như nước chảy hề, đi như gió, Ai biết về đâu hề, rồi ra sao?". Hàn phu nhân cũng có nói rằng về sau võ công của Sơn Trung Lão Nhân do Minh giáo học được. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị lạ lùng, có lẽ học từ Sơn Trung lão nhân.[1]

Triệu Mẫn hỏi:

- Tạ lão gia, tính tình của Hàn phu nhân cũng chẳng khác gì Sơn Trung lão nhân. Ông đối xử với bà ta hết tình hết nghĩa vậy mà bà ta lại âm mưu hại ông.

Tạ Tốn thở dài:

- Ở trên đời này con người lấy oán báo đức là chuyện thật là bình thường, có gì lạ đâu?

Triệu Mẫn cúi đầu suy nghĩ một lát nói:

- Hàn phu nhân được đứng đầu tứ vương của Minh giáo, sao võ công không có gì là cao cường hơn lão gia cả. Đêm hôm qua bà ta động thủ với ba sứ giả Ba Tư, sao không thấy sử dụng Thiên Châu Vạn Độc Thủ là sao?

Tạ Tốn ngạc nhiên:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ? Hàn phu nhân đâu có biết sử dụng. Bà ta là một tuyệt sắc mỹ nhân, quí dung nhan còn hơn tính mạng của mình đời nào lại luyện công phu đó.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược đều ngạc nhiên, nghĩ thầm tướng mạo Kim Hoa bà bà xấu xí, cứ như hiện nay mà nói, dù có trẻ lại ba bốn chục tuổi, cũng không thể nào gọi là "tuyệt sắc mỹ nhân". Bà ta mũi thì thấp, môi thì dày, mặt vuông bành bành, tai xòe ra đón gió, khuôn mặt đó có cách nào mà thay đổi được. Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, tiểu nữ chẳng thấy Kim Hoa bà bà đẹp ở chỗ nào cả.

Tạ Tốn nói:

- Sao thế? Tử Sam Long Vương đẹp như tiên trên trời, hơn hai mươi năm trước là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, bây giờ dù tuổi có cao, nhưng dáng dấp năm xưa hẳn cũng vẫn còn ... ôi, tiếc thay ta lại không còn nhìn được nữa.

Triệu Mẫn thấy ông ta nói hết sức trịnh trọng, xem ra bên trong có điều gì bí ẩn, bà lão lưng còng bệnh hoạn xấu xí kia, không lẽ đã có thời là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, nói gì cũng không thể nào tin được liền hỏi lại:

- Tạ lão gia danh chấn giang hồ, võ công cao cường, chẳng cần phải nói đến. Bạch Mi Ưng Vương tự mình sáng lập một ngành, cùng lục đại môn phái chống trả, tranh hùng võ lâm hơn hai chục năm, Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỉ một, hôm trước nơi chùa Vạn An dọa sẽ hủy dung mạo tiểu nữ, bây giờ nghĩ lại vẫn còn kinh hãi. Kim Hoa bà bà võ công tuy cao, mưu trí tuy sâu nhưng được đứng trên ba vị xem ra có điều bất xứng, không hiểu vì duyên cớ gì?

Tạ Tốn nói:

- Đó là Ân nhị ca, Vi tứ đệ và ta ba người tình nguyện nhường bà ta đấy chứ.

Triệu Mẫn nói:

- Vì sao thế?

Đột nhiên nàng cười lên khanh khách nói:

- Hay là vì bà ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, người anh hùng không qua nổi cửa ải người đẹp, ba vị đại hào kiệt cam tâm đứng sau bóng quần hồng?

Nàng là gái phiên bang, không chấp nê lễ mạo tôn ti, trong lòng nghĩ sao liền chẳng ngại ngùng gì mở miệng nói đùa Tạ Tốn. Tạ Tốn không nổi giận, thở dài:

- Cam tâm bái phục dưới bóng quần hồng, đâu phải chỉ có ba người thôi đâu? Khi đó dù trong hay ngoài Minh giáo, mong được lọt vào mắt xanh của nàng Đại Ỷ Ti nói là hàng trăm người cũng còn là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Đại Ỷ Ti? Có phải đó là Hàn phu nhân không? Cái tên sao kỳ lạ vậy?

Tạ Tốn nói:

- Bà ta từ Ba Tư đến, đó là tên Ba Tư.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược đều giật mình cùng kêu lên:

- Bà ta là người Ba Tư ư?

Tạ Tốn lạ lùng:

- Không lẽ các ngươi không nhìn ra sao? Bà ta là con lai Trung Quốc - Ba Tư, tuy con ngươi và tóc đen nhưng mắt sâu, mũi cao, da trắng như tuyết khác xa gái Trung Nguyên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.

Triệu Mẫn nói:

- Không đâu, không đâu! Mũi bà ta thì tẹt, mắt thì hí, khác xa với gì ông mô tả. Trương công tử, chàng nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế! Không lẽ bà ta cũng như khổ đầu đà, cố ý hủy dung mạo mình chăng?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Khổ đầu đà là ai thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao.

Chàng liền đem chuyện Phạm Dao tự hủy dung mạo để trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương thuật sơ qua cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn thở dài:

- Việc đó Phạm huynh làm thật là đau lòng nhưng cũng thật đơn côi, có công to với bản giáo, người thường làm sao có được. Ôi, có lẽ phần lớn cũng vì Hàn phu nhân mà ra chăng?

Triệu Mẫn nói:

- Thôi Tạ lão gia đừng nói vòng vo nữa, kể cho chúng tôi nghe từ đầu chí cuối nào.

Tạ Tốn hừ một tiếng, ngửng đầu lên trời, xuất thần hồi lâu mới chậm rãi nói:

- Hơn hai mươi năm trước đây, lúc đó Minh giáo dưới quyền thống lãnh của Dương giáo chủ, thật là hưng vượng. Hôm đó đột nhiên có ba sứ giả người Hồ từ Ba Tư đến đỉnh Quang Minh, mang theo một lá thư từ giáo chủ tổng giáo bên Ba Tư yết kiến Dương giáo chủ. Trong thư có viết là tổng giáo Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người gốc Trung Hoa, đã đến ở bên Ba Tư từ lâu, gia nhập Minh giáo, lập được nhiều công lao, lấy một người đàn bà Ba Tư làm vợ, sinh được một đứa con gái. Vị Tịnh Thiện sứ giả kia mới chết cách đây một năm, khi lâm chung lòng nhớ về cố quốc nên để lại di ngôn muốn con gái được trở về Trung Thổ. Giáo chủ tổng giáo tôn trọng di chí ấy nên sai người đưa con gái ông ta về Quang Minh Đính, nhờ Minh giáo Trung Thổ chăm lo chiếu cố cho. Dương giáo chủ liền bằng lòng ngay, mời cô gái đó vào.

Thiếu nữ kia vừa bước chân vào sảnh đường, lập tức căn phòng bừng sáng, thấy nàng xinh đẹp tuyệt trần không ai sánh kịp. Khi nàng uyển chuyển phục xuống vái chào Dương giáo chủ, trong sảnh đường tả hữu Quang Minh sứ giả, ba pháp vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ sứ không ai là không chấn động. Ba sứ giả Ba Tư hộ tống nàng ở lại Quang Minh Đính một đêm, qua hôm sau liền bái biệt, còn người con gái xinh đẹp Ba Tư Đại Ỷ Ti kia ở lại trên Quang Minh Đính.

Triệu Mẫn cười nói:

- Tạ lão gia, lúc ấy lão gia cũng mê cô gái xinh đẹp người Ba Tư kia, phải không? Đừng có xấu hổ, cứ thực thà nói cho chúng tôi nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Không đâu! Khi đó ta mới vừa lấy vợ, đang trong thời kỳ mặn nồng, vợ ta lại mới mang thai, ta làm gì có tình ý khác được?

Triệu Mẫn "A" lên một tiếng, cảm thấy mình hơi lỡ lời. Nàng biết vợ con Tạ Tốn đều bị Thành Côn giết hại, lúc này vô ý đề cập đến, không khỏi chạm đến vết thương lòng của ông ta, vội nói:

- Đúng thế, đúng thế! Thảo nào Hàn phu nhân có nói, năm xưa bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, trên Quang Minh Đính ai ai cũng phản đối, chỉ có Dương giáo chủ và lão gia là tốt với bà ấy thôi. Chắc là phu nhân của Dương giáo chủ không những đã xinh đẹp mà cũng lại ghê gớm lắm nên đấng trượng phu mới nem nép một bề.

Tạ Tốn nói:

- Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, Đại Ỷ Ti tuổi tác chỉ đáng con gái ông ta. Huống chi tổng giáo giáo chủ Ba Tư đã gửi gấm ông ta chiếu cố, Dương giáo chủ đối với cô ta hết lòng hết dạ, quyết không thể nào có ý khác được. Dương giáo chủ phu nhân là sư muội của sư phụ ta Thành Côn, là sư cô của ta. Dương giáo chủ đối với phu nhân cực kỳ yêu thương kính trọng.

Thành Côn giết toàn thể gia đình Tạ Tốn, tuy trong tâm khảm thù hận càng lúc càng sâu nhưng khi đề cập đến tên Thành Côn, ông chỉ nhắc qua đến thôi không khác gì nhắc tới một người bình thường. Triệu Mẫn nói:

- Khổ đầu đà Phạm Dao nghe nói khi còn trẻ là một thanh niên thật đẹp trai, chắc là mê nàng Đại Ỷ Ti lắm nhỉ?

Tạ Tốn gật đầu:

- - Quả đúng là yêu một khắc mà tình đà muôn kiếp, gặp một lần mà suốt đời khắc sâu trong tâm khảm. Thực ra đâu phải chỉ một mình Phạm huynh, kẻ nhìn thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp mà không động lòng chắc chẳng bao nhiêu. Thế nhưng giáo qui Minh giáo rất nghiêm nhặt, ai ai cũng lấy lễ mà đãi, những người muốn cầu thân với Đại Ỷ Ti đều là những thanh niên chưa vợ. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti đối với ai cũng lạnh như tiền, hoàn toàn không giả vờ chút nào, dẫu là ai nếu lộ tình ý đều bị nàng ta mắng cho một trận, khiến cho người đó thẹn không còn đất đứng không còn dám tơ tưởng gì nữa. Sư cô ta Dương phu nhân có ý tác hợp, muốn ghép nàng với Phạm Dao thành vợ chồng. Đại Ỷ Ti nhất mực cự tuyệt, nói mãi nàng liền vung kiếm thề trước mặt mọi người quyết ý không lấy chồng, nếu bị ép uổng thà chết còn hơn. Từ đó trở đi ai ai cũng nản lòng chẳng còn dám nghĩ chuyện làm quen với nàng nữa.

Qua được nửa năm, một ngày kia có một người từ đảo Linh Xà ở ngoài khơi đến, tự xưng họ Hàn, tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ khi trước, lên Quang Minh Đính để báo cừu cho cha. Mọi người thấy gã họ Hàn kia là một thanh niên tướng mạo không có gì đặc biệt khác thường, vậy mà dáng ngang nhiên một thân một mình lên Quang Minh Đính thách đấu với Dương giáo chủ không khỏi cười ồ lên. Tuy nhiên Dương giáo chủ lại rất trịnh trọng, tiếp như khách quí, mở đại tiệc thết đãi. Sau khi ăn uống rồi ông mới nói cho tất cả các anh em nguyên do vì đâu. Thì ra năm xưa Dương giáo chủ cùng cha y hai người nói năng không hợp sinh ra động thủ, đánh một chưởng Đại Cửu Thiên Thủ khiến đối phương bị trọng thương, ngã gục xuống không đứng lên nổi. Khi đó cha y có nói là ngày sau ắt sẽ báo mối thù đó, nhưng biết võ công mình không thể nào bì kịp, nếu không sai con trai ắt sẽ sai con gái đến tầm cừu. Dương giáo chủ nói: "Bất kể dù là con trai con gái gì chăng nữa, ta cũng nhường trước ba chiêu". Người kia nói: "Không cần phải nhường chiêu, nhưng tỉ võ thế nào thì phải do con ta định đoạt". Dương giáo chủ khi đó liền bằng lòng. Việc qua đã hơn mười năm, Dương giáo chủ không còn nghĩ gì đến nữa, nào ngờ người con trai của họ Hàn hôm nay lại đến đây.

Mọi người ai cũng nghĩ rằng, kẻ hiền lành chẳng ai đến, đã đến chắc chẳng ra gì, người này dám một thân một mình lên Quang Minh Đính, ắt phải có tài nghệ kinh người. Thế nhưng võ công của Dương giáo chủ cực kỳ cao cường, có thể nói là vô địch trong thiên hạ, chỉ trừ Trương chân nhân của phái Võ Đương ra, khó mà có ai thắng được ông ta một chiêu nửa thức. Gã họ Hàn kia được bao nhiêu tuổi, dù ba người, năm người như y cùng xông lên, Dương giáo chủ cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ đáng lo là không biết y ra đề mục khó khăn gì.

Ngày hôm sau, gã Hàn Thiên Diệp trước mặt mọi người nói rõ ước ngôn khi xưa, cốt chặn trước Dương giáo chủ, để ông không thể nuốt lời, sau đó mới đưa đề mục tỉ đấu ra. Y muốn cùng Dương giáo chủ cùng nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm trên Quang Minh Đính để so tài cao thấp.

Lời y vừa nói ra, mọi người ai nấy kinh hãi đến thất thần. Bích Thủy Hàn Đàm nước lạnh thấu xương, dẫu ngay nắng hạ cũng chẳng một ai dám xuống, huống chi lúc này lại chính giữa mùa đông? Dương giáo chủ võ công tuy cao nhưng lại không biết bơi, chỉ nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm, chẳng cần tỉ võ cũng đủ đông cóng, chết đuối ngay. Khi đó ở trong Thánh Hỏa Sảnh, quần hào ai cũng lên tiếng chửi rủa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện đó thật là khó xử, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Dương giáo chủ năm xưa đã bằng lòng chấp thuận cho họ Hàn kia là phương cách tỉ võ do con y lựa chọn, vị Hàn Thiên Diệp tiền bối chọn thủy chiến, cứ theo lý thì Dương giáo chủ không thể nào từ chối được.

Triệu Mẫn đưa tay nắm lấy tay chàng, véo nhẹ một cái, mỉm cười nói:

- Đúng thế, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Giáo chủ Minh giáo thân phận cao quí dường nào, không lẽ nói rồi lại nuốt lời, thất tín với thiên hạ? Đã nhận lời rồi là phải làm cho xong.

Nàng nói đây là nói về Trương Vô Kỵ, nhắc lại lời thề ước giữa hai người. Tạ Tốn làm sao biết được chuyện đó, nói:

- Chính là như thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: "Tại hạ một mình lên trên đỉnh Quang Minh này, nguyên không mong sống sót mà xuống núi. Các vị anh hùng hào kiệt có thể đem tại hạ loạn đao phân thây, ngoại trừ người trong Minh giáo ra, trên giang hồ có ai biết đấy là đâu. Tại hạ chỉ là một gã vô danh tiểu tốt, có giết đi cũng chỉ một người, có gì đáng nói? Các vị muốn giết thì cứ tiến lên động thủ.

Mọi người nghe y nói thế, không ai còn dám nói thêm câu nào. Dương giáo chủ trầm ngâm một hồi rồi nói: "Hàn huynh đệ, tại hạ năm xưa quả có ước hẹn cùng lệnh tôn. Hảo hán tử phải cho quang minh lỗi lạc, vụ đấu võ này tại hạ nhận thua. Huynh đệ muốn xử trí thế nào, cũng nguyện tuân theo". Hàn Thiên Diệp lật cổ tay một cái, trong tay y đã cầm một thanh chủy thủ sáng loáng, để ngay vào tim mình nói: "Con dao găm này là di vật của tiên phụ, tại hạ chỉ xin Dương giáo chủ cúi lạy con dao này ba lạy".

Quần hùng nghe thế, không ai là không phẫn nộ, đường đường là giáo chủ Minh giáo sao lại chịu để cho người ta làm nhục đến thế? Thế nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua rồi, cứ theo qui củ giang hồ, không thể không để cho đối phương xử trí. Tình thế trước mắt ai cũng rõ, Hàn Thiên Diệp phen này lên đây thí mạng, nhận ba lạy của Dương giáo chủ rồi, y sẽ lập tức đâm con dao vào tim để khỏi chết dưới tay quần hào Minh giáo.

Khi đó trong đại sảnh im phăng phắc không ai nói một lời. Quang Minh tả hữu sứ Tiêu Dao nhị tiên, Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca, Bành Oánh Ngọc hòa thượng mọi người bình thời vốn là những kẻ túc trí đa mưu, nhưng trước nạn đề này, không có cách nào khác. Hành động đó của Hàn Thiên Diệp rõ ràng muốn bức tử Dương giáo chủ để trả mối thù năm xưa cha y bị trọng thương phải quì xuống, rồi sau sẽ tự sát.

Ngay trong lúc khẩn bách vạn phần đó, Đại Ỷ Ti đột nhiên lách khỏi đám đông tiến ra, nói với Dương giáo chủ: "Gia gia, người ta có được đứa con trai có hiếu, không lẽ cha lại không đứa con gái có lòng? Vị Hàn gia này vì cha mà báo thù, để con thay cha tiếp y vài chiêu. Chuyện đời trước để đời trước lo, chuyện đời sau để đời sau lo, không thể nào làm loạn vai vế được".

Mọi người ai nấy ngạc nhiên: "Sao nàng ta lại gọi Dương giáo chủ là gia gia?". Thế nhưng hiểu ngay nàng ta mạo xưng là con gái của giáo chủ cốt để giải tỏa cho ông khỏi cảnh nguy khốn, ai nấy nghĩ thầm: "Xem hình dáng cô ta yểu điệu thướt tha gió thổi cũng ngã thế kia, không hiểu có biết võ nghệ gì không? Nếu như có biết thì cũng không cao cường, nói gì đến chuyện nhảy vào Bích Thủy Hàn Đàm thủy chiến".

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời, Hàn Thiên Diệp đã cười khẩy nói: "Cô nương nếu như thay cha tiếp chiêu, không có gì là không được. Thế nhưng nếu cô nương thua, tại hạ vẫn yêu cầu Dương giáo chủ cúi lạy thanh chủy thủ của tiên phụ ba cái". Y thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp yếu đuối nên nào có coi ra gì? Đại Ỷ Ti đáp: "Nếu như tôn giá thua thì sao?". Hàn Thiên Diệp nói: "Lúc đó muốn đâm chém, muốn lăng trì gì cũng xin chịu cả". Đại Ỷ Ti nói: "Được, vậy thì mình đi ra Bích Thủy Hàn Đàm". Nói xong nàng đi trước dẫn đầu. Dương giáo chủ vội vàng xua tay nói: "Không được, việc này không liên quan gì đến con". Đại Ỷ Ti nói: "Thưa cha, cha đừng lo". Nói xong nàng nhẹ nhàng quì xuống vái lạy. Cái lễ đó hẳn là nàng nhận Dương giáo chủ làm cha nuôi.

Dương giáo chủ biết nàng đã có chủ định, ngoài việc đó ra ông không còn cách nào khác, nên đành phải để nàng lo liệu. Tất cả mọi người cùng đi ra Bích Thủy Hàn Đàm nơi phía dưới chân núi. Lúc đó gió bấc đang thổi mạnh, mới đến bên hồ đã thấy lạnh buốt, những người nội lực hơi kém đều chịu không nổi. Nước trong hồ đã kết thành một lớp băng dầy, nhìn vào chỉ thấy xanh biếc, sâu không thấy đáy.

Dương giáo chủ nghĩ không nên để cho Đại Ỷ Ti vì mình mà phải bỏ mạng, ngang nhiên nói: "Con gái ngoan! Lòng tốt của con cha ghi nhớ trong lòng, để cha ra tiếp cao chiêu của Hàn huynh". Nói xong ông cởi áo khoác ngoài, cầm một thanh đơn đao, quyết ý nhảy vào trong đầm nước, rồi sẽ không bao giờ ra nữa. Đại Ỷ Ti nở một nụ cười đáp: "Cha ơi! Con sinh trưởng lớn lên nơi bờ biển, bơi lội nào có kém ai". Nói xong rút trường kiếm ra phi thân nhảy vào trong hồ đứng trên mặt băng, giơ mũi kiếm vẽ trên mặt hồ một vòng tròn ước chừng hai thước, chân trái đạp xuống, nghe soẹt một tiếng nhỏ, đã đạp mặt băng tụt xuống, cả người chìm luôn vào trong hồ.

Khi đó trên mặt biển gió bấc lạnh ngắt thổi tới lay động quần áo mọi người, Tạ Tốn nói tiếp:

- Đứng bên bờ Bích Thủy Hàn Đàm nhìn vào, hôm nay nghĩ lại tưởng chừng như việc chỉ mới hôm qua. Đại Ỷ Ti hôm đó mặc một chiếc áo màu tím nhạt, nàng đứng trên mặt băng quả thật chẳng khác gì lăng ba tiên nữ[2], đột nhiên không một tiếng động chui tuột xuống nước, quần hào đứng ngoài không ai là không kinh ngạc. Hàn Thiên Diệp thấy thân thủ của nàng nhảy vào trong hồ, nét cuồng ngạo trên mặt lập tức biến mất, tay cầm chủy thủ cũng nhảy luôn vào.

Bích Thủy Hàn Đàm nước màu xanh lục, đứng bên trên không ai nhìn thấy tình hình hai người giao đấu ra sao, chỉ thấy mặt nước dao động không ngớt, một lúc sau, mặt nước lặng dần nhưng chỉ một lát nước lại quấy lên lần nữa. Quần hào Minh giáo ai nấy âu lo, thấy hai người xuống nước đã lâu, dưới hồ làm sao chịu nổi lâu như thế? Lại một hồi nữa, đột nhiên một luồng máu đỏ từ dưới nước nổi lên, ai nấy càng thêm lo sợ, chẳng hiểu có phải Đại Ỷ Ti bị thương chăng?

Bỗng nghe cách một tiếng, Hàn Thiên Diệp từ dưới lỗ băng nhảy vọt lên, thở hổn hển. Mọi người thấy y ra trước, ai nấy kinh hãi, cùng hỏi dồn: "Đại Ỷ Ti đâu? Đại Ỷ Ti đâu?". Chỉ thấy y hai tay không, thanh chủy thủ cắm trên ngực, hai bên má có hai đường cắt dài.

Mọi người còn đang kinh dị, Đại Ỷ Ti chẳng khác gì một con cá bay vọt lên khỏi nước, trường kiếm hộ thân, ở trên không nhẹ nhàng lượn một vòng rồi mới rơi xuống mặt băng. Quần hùng lớn tiếng reo hò, Dương giáo chủ tiến lên cầm tay nàng, cao hứng không để đâu cho hết. Có ai ngờ đâu, người con gái thiên kiều bách mị kia công phu dưới nước lại cao siêu đến thế. Đại Ỷ Ti liếc nhìn Hàn Thiên Diệp nói: "Gia gia, người này bơi lội giỏi lắm, thương cho lòng hiếu thảo vì cha báo thù của y, tội vô lễ với giáo chủ, gia gia tha cho y nhé?". Dương giáo chủ dĩ nhiên nhận lời, ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Hàn Thiên Diệp.

Tối hôm đó trên Quang Minh Đính mở đại tiệc ăn mừng, ai ai cũng bảo Đại Ỷ Ti là đại công thần của Minh giáo, nếu không có nàng đứng ra giải vây, tên tuổi một đời của Dương giáo chủ đành trôi theo dòng nước. Sau đó sắp xếp chức vụ, Dương phu nhân tặng cho nàng mỹ hiệu "Tử Sam Long Vương", đứng ngang hàng cùng Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương. Ba người bọn ta tình nguyện nhường nàng đứng đầu tứ vương, vì quả thật công lao của Đại Ỷ Ti hôm đó, so với tam vương từ trước đến nay hơn hẳn. Từ đó ba người hộ giáo pháp vương chúng ta cùng nàng huynh muội kết nghĩa, nàng gọi ta là Tạ tam ca.

Ngờ đâu sau trận chiến ở Bích Thủy Hàn Đàm, kết cục lại không ai ngờ tới được. Hàn Thiên Diệp tuy thua nhưng không hiểu vì sao lại chiếm được trái tim của Đại Ỷ Ti. Có lẽ vì ngày ngày nàng đến xem tình hình y ra sao, nơi giường bệnh, từ thương hại mà thành thương yêu, thù hận biến sang cảm tình, đến khi Hàn Thiên Diệp khỏi hẳn, Đại Ỷ Ti đột nhiên thưa với giáo chủ cho nàng kết hôn với y.

Mọi người nghe được tin ấy, kẻ thì đau lòng thất vọng, người thì phẫn nộ bừng bừng. Gã Hàn Thiên Diệp kia trước đây bức bách giáo chủ khiến người trong Minh giáo hận y không để đâu cho hết, hộ giáo pháp vương của bản giáo sao lại lấy y được? Có người tính tình nóng nảy liền chỉ ngay mặt y mắng chửi. Đại Ỷ Ti tính tình cứng cỏi, cầm kiếm đứng ngay cửa sảnh, lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, Hàn Thiên Diệp là phu quân của ta. Người nào làm nhục Hàn lang thì hãy ra thử với trường kiếm của Tử Sam Long Vương". Mọi người thấy việc ra như thế, chỉ đành hậm hực bỏ đi.

Khi Đại Ỷ Ti thành hôn với Hàn Thiên Diệp, có đến quá nửa anh em không đến uống rượu mừng. Chỉ có Dương giáo chủ và ta cảm kích việc nàng đứng ra giải vây nên ra sức giúp nàng sắp đặt và giải hòa để việc cưới xin xuông xẻ, không xảy ra chuyện gì rắc rối.

Thế nhưng khi Hàn Thiên Diệp muốn gia nhập Minh giáo, vì số người chống đối quá nhiều, Dương giáo chủ không tiện làm ngược với ý của số đông. Chẳng bao lâu sau, vợ chồng Dương giáo chủ đột nhiên mất tích, người trên Quang Minh Đính ai cũng hoang mang. Mọi người đổ ra tứ phía tìm kiếm, một đêm kia Quang Minh hữu sứ Phạm Dao bắt gặp Hàn phu nhân Đại Ỷ Ti từ trong đường hầm đi ra.

Trương Vô Kỵ giật mình hỏi lại:

- Bà ta từ trong bí đạo đi ra ư?

Tạ Tốn đáp:

- Đúng thế. Giáo qui của Minh giáo cực kỳ nghiêm nhặt, đường hầm này chỉ một mình giáo chủ được phép ra vào mà thôi. Phạm Dao vừa tức giận vừa kinh hãi liền tiến lên tra vấn. Hàn phu nhân nói: "Tôi đã phạm phải trọng tội của bản giáo, muốn đâm muốn chém gì cũng đành cam chịu". Tối hôm đó đại hội quần hào, Hàn phu nhân cũng chỉ một câu đó nói ra mà thôi. Hỏi nàng đi vào trong bí đạo làm gì, nàng bảo không muốn nói láo nhưng cũng không muốn nói ra sự thực; hỏi đến Dương giáo chủ đi đâu, nàng bảo nàng không biết, còn chuyện lẻn vào đường hầm thì một mình làm, một mình chịu nói nhiều vô ích. Nếu theo lý, nếu nàng không tự vẫn thi cũng phải tự chặt một cánh tay, nhưng một là Phạm Dao tình cũ chưa quên, hết sức che chở cho nàng, hai là ta đứng bên cạnh trần tình nên quần hào nghị tội chỉ giam cấm mười năm để ăn năn sám hối. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti cãi lại: "Dương giáo chủ không có ở đây, không ai quản thúc gì tôi được".

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Nghĩa phụ, Hàn phu nhân lẻn vào bí đạo làm gì thế?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện này nói ra thật là dài, trong Minh giáo chỉ một mình ta biết mà thôi. Khi đó ai cũng nghi nàng có dính líu với việc vợ chồng Dương giáo chủ thất tung nhưng ta cực lực chống chế hai việc không có gì liên hệ. Nơi Thánh Hỏa Sảnh trên Quang Minh Đính quần hào nói mãi cũng không đến đâu, sau cùng Hàn phu nhân đành phải phá môn xuất giáo, nói là từ nay về sau, không còn liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ nữa. Nàng ta là người đầu tiên ra khỏi Minh giáo, ngay hôm đó cùng Hàn Thiên Diệp lặng lẽ xuống núi không biết đi đâu.

Về sau trong Minh giáo các anh em tìm Dương giáo chủ không ra, qua vài năm sau tranh nhau ngôi giáo chủ, sự việc mỗi lúc một thêm bi đát. Bạch Mi Ân nhị ca cũng rời Quang Minh Đính tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo. Ta hết sức khuyên giải, ông ta khăng khăng không nghe hai bên lại còn hục hặc. Hai mươi năm trước nơi Vương Bàn Sơn đảo, Thiên Ưng giáo dương đao lập uy, Kim Mao Sư Vương đến đây phá cho tan nát, trước là cướp lấy thanh đao Đồ Long, sau là để cho hả mối hận năm trước, cốt để cho Ân nhị ca mất mặt, cho ông ta hiểu rằng ra khỏi Minh giáo rồi chưa chắc đã đi đến đâu. Ôi, hôm nay nghĩ lại, ta không khỏi thấy mình nhỏ nhen quá!

Ông ta thở dài một tiếng, trong tiếng thở dài bao hàm không biết bao nhiêu điều đau lòng của ký vãng, bao nhiêu chuyện sóng gió trên giang hồ. Mọi người lặng yên hồi lâu không ai nói gì. Triệu Mẫn nói:

- Lão gia tử, sau này Kim Hoa, Ngân Diệp hai người uy chấn giang hồ, sao người trong Minh giáo lại không nhận ra? Ngân Diệp tiên sinh hẳn là Hàn Thiên Diệp, về sau tại sao trúng độc mà chết?

Tạ Tốn nói:

- Những chuyện bên trong đó ta hoàn toàn không biết gì cả. Có lẽ vợ chồng đó hành tẩu giang hồ hết sức tránh mặt người trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy. Kim Hoa bà bà sau này không muốn gặp người trong Minh giáo. Khi lục đại môn phái vây đánh Minh giáo, bà ta tuy có đến Quang Minh Đính nhưng không lên núi tiếp tay.

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ rồi tiếp:

- Lạ là Tử Sam Long Vương dung nhan xinh đẹp tuyệt trần sao lại biến đổi trở thành xấu xí như thế? Xem ra khuôn mặt không bị hủy hoại chút nào cả.

Tạ Tốn đáp:

- Ta đoán là bà ta dùng một phương pháp gì rất khéo léo thay đổi khuôn mặt. Hàn phu nhân trước nay hành sự rất kỳ quái, thực ra cũng vì có chuyện khổ tâm không nói cho ai được. Bà ta cứ phải trốn tránh tổng giáo Ba Tư truy tầm, nào ngờ rồi sau cũng không sao thoát được.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng hỏi:

- Sao tổng giáo Ba Tư lại đi lùng kiếm bà ta làm gì?

Tạ Tốn nói:

- Đây là chuyện đại bí mật của Hàn phu nhân, đáng lẽ không nên nói ra. Nhưng ta mong các ngươi quay lại đảo Linh Xà cứu bà ta nên không thể không nói.

Triệu Mẫn kinh hãi kêu lên:

- Mình quay lại đảo Linh Xà ư? Làm sao đánh lại ba sứ giả Ba Tư?

Tạ Tốn không trả lời chỉ bắt đầu kể lại:

- - Mấy trăm năm nay, giáo chủ Minh giáo Trung Thổ đều do đàn ông đảm nhiệm, nhưng giáo chủ tổng giáo Ba Tư lại là đàn bà, mà phải là con gái chưa chồng còn là xử nữ. Trong kinh điển của tổng giáo có qui định một cách trịnh trọng rằng phải do thánh xử nữ đảm nhiệm giáo chủ thì mới duy trì được sự trinh khiết thần thánh của Minh giáo. Mỗi một giáo chủ khi tiếp nhiệm xong đều tuyển trong số con cái của các viên chức cao cấp trong tổng giáo ba người con gái, gọi là "thánh nữ". Khi các thánh nữ này nhận chức có thề rằng sẽ du hành tứ phương, vì Minh giáo lập công tích đức. Sau khi giáo chủ từ trần các trưởng lão trong tổng giáo sẽ tập họp, suy xét công lao trong ba người thánh nữ ai cao ai thấp, rồi sẽ chọn người công đức cao nhất lên tiếp nhiệm giáo chủ. Nếu trong ba thánh nữ kia ai bị mất trinh thì sẽ bị tội thiêu sống, dẫu cho trốn đến chân trời góc bể họ cũng sai người đuổi theo bắt cho kỳ được để bảo tồn trinh thiện của thánh giáo ...

Ông vừa kể tới đây, Triệu Mẫn thất thanh kêu lên:

- Không lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của tổng giáo chăng?

Tạ Tốn gật đầu:

- Chính thế! Trước khi Phạm Dao phát hiện bà ta lén vào bí đạo, thì ta đã bắt gặp rồi. Hàn phu nhân coi ta là tri kỷ nên đem tất cả mọi chuyện nói cho ta nghe. Khi nàng đấu với Hàn Thiên Diệp trong Bích Thủy Hàn Đàm, hai người thịt da đụng chạm, sau lại an ủi nhau trên giường bệnh để thành mối tình oan nghiệt. Nàng biết là sẽ có ngày tổng giáo sai người sang kiếm nên chỉ mong lập được đại công chuộc tội. Bà ta lén vào bí đạo, cốt là tìm kiếm "Càn Khôn Đại Na Di" võ công tâm pháp, tâm pháp này tổng giáo thất lạc đã lâu, nhưng Minh giáo bên Trung Thổ vẫn còn giữ được. Tổng giáo sai nàng lên Quang Minh Đính chính là vì lẽ đó.

Trương Vô Kỵ "A" lên một tiếng, dường như chàng thấy có điều gì mù mờ không ổn, nhưng là chuyện gì, ngay lúc này chưa nghĩ ra. Chỉ nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Hàn phu nhân mấy lần lẻn vào bí đạo, nhưng vẫn không tìm thấy võ công tâm pháp đó. Khi ta biết chuyện rồi liền nghiêm nghị răn đe là việc đó phạm phải đại qui của Minh giáo, khó có thể khoan dung ...

Triệu Mẫn xen vào:

- A, tôi hiểu rồi. Hàn phu nhân phá môn xuất giáo cốt để có thể tiếp tục lẻn vào đường hầm vì bà ta không còn là người trong Minh giáo Trung Thổ nữa, không bị ước thúc bởi qui luật vào ra bí đạo.

Tạ Tốn nói:

- Triệu cô nương thông minh thật. Thế nhưng Quang Minh Đính là cơ sở trọng địa của bản giáo, đâu thể để người ngoài ra vào tùy ý? Lúc đó ta đã đoán được dụng ý của bà ta rồi nên sau khi Hàn phu nhân hạ sơn, ta đích thân canh giữ cửa đường hầm, ba lần nàng lén lên núi lần nào cũng gặp ta nên không dám tiếp tục nữa.

Tạ Tốn suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Phục sắc của ba sứ giả Ba Tư có khác gì với Minh giáo Trung Thổ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Bọn họ đều mặc áo bào trắng, bên góc áo có thêu một ngọn lửa đang cháy ... Ồ, áo bào có riềm màu đen, cái đó là điểm khác biệt duy nhất.

Tạ Tốn vỗ vào mạn thuyền nói:

- Đúng rồi, tổng giáo giáo chủ qua đời. Người Tây Vực dùng màu đen là màu tang, áo bào trắng thêu viền đen là để tang đó. Bọn họ đang tuyển lập tân giáo chủ nên mới đường xa vạn dặm tới Trung Thổ, truy tìm Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hàn phu nhân nếu từ Ba Tư đến ắt phải biết võ công quái dị của ba sứ giả, sao lại chỉ mới một chiêu đã bị bọn họ bắt rồi?

Triệu Mẫn cười nói:

- Sao anh ngốc thế. Hàn phu nhân giả vờ đó, bà ta muốn che dấu thân phận mình nên không để lộ ra là mình biết võ công Ba Tư, theo như em nghĩ, nếu như Tạ lão gia tử nghe lệnh ba sứ giả giết bà ta, Hàn phu nhân thể nào cũng có cách thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà ta không chịu để lộ thân phận thì đúng rồi. Thế nhưng sau khi bị ba sứ giả Ba Tư đánh trúng huyệt đạo vẫn còn có thể thoát thân thì chưa chắc. Hàn phu nhân thà để ta một đao chém chết còn hơn chịu cái khổ hỏa thiêu.

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ tưởng Minh giáo Trung Thổ đã là tà giáo, ai ngờ Minh giáo Ba Tư lại còn tà hơn. Sao lại cứ phải gái còn trinh mới làm giáo chủ được? Sao lại đem thánh nữ thất trinh ra thiêu sống là sao?

Tạ Tốn gắt lên:

- Tiểu cô nương chỉ nói lăng nhăng. Giáo phái nào cũng có qui luật nghi điển truyền từ đời này sang đời khác. Hòa thượng ni cô không được lấy vợ lấy chồng, không được ăn mặn thì chẳng phải qui luật là gì? Thế cái đó tà hay không tà?

Đột nhiên nghe tiếng răng Ân Ly lách cách đập vào nhau, người run cầm cập. Trương Vô Kỵ vội vàng sờ đầu cô ta thấy nóng hầm hập, rõ ràng là đang bị hàn nhiệt giao công, bệnh tình cực kỳ nguy ngập. Chàng liền nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi nghĩ mình chắc phải quay trở lại đảo Linh Xà. Ân cô nương thương thế không phải nhẹ, phải tìm thuốc cứu chữa ngay. Thôi mình cứ hết sức mà làm, nếu không cứu được Hàn phu nhân thì cũng cứu được Ân cô nương.

Tạ Tốn nói:

- Đúng vậy. Cô gái này đối với con tình sâu ý nặng lẽ nào lại không cứu? Chu cô nương, Triệu cô nương, hai cô ý ra sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Thương thế của Ân cô nương quan trọng hơn, còn vết thương của tôi không lấy gì làm nặng. Nhưng nếu không trở lại Linh Xà đảo thì làm cách nào khác được?

Chu Chỉ Nhược chỉ thản nhiên nói:

- Lão gia tử bảo quay lại thì tất cả cùng quay lại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chờ cho sương mù tan hết, nhìn thấy trăng sao mới có thể biết phương hướng được. Nghĩa phụ, gã Lưu Vân Sứ kia lộn hai vòng trên không là có thể dùng thánh hỏa lệnh đả thương con, thế là duyên cớ vì đâu?

Sau đó hai người cùng nghiên cứu võ công gia số của ba sứ giả Ba Tư, sở học của Triệu Mẫn rất rộng rãi, thỉnh thoảng cũng góp ý vào nhưng bàn luận một hồi lâu vẫn không tìm ra được yếu chỉ của công phu ba người kia liên thủ ra sao.

Sương mù trên biển mãi đến khi mặt trời mọc mới tan dần. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình từ phương bắc trôi xuống phương đông nam, bây giờ đi ngược lên tây bắc mà tìm.

Chàng cùng Tạ Tốn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu bốn người luân lưu chèo thuyền. Điều khiển chiếc thuyền nhỏ xông pha các đợt sóng trên biển cả thực không phải dễ dàng, may nhờ Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hâu, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu cũng ngang ngửa nhau, chèo thuyền cũng chẳng khác gì đang luyện võ công.

Chèo như thế mấy ngày liền, chiếc thuyền nhỏ cứ theo hướng tây bắc mà tiến. Cũng trong mấy ngày đó, Tạ Tốn nhíu mày suy nghĩ võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, ngoài việc hỏi lại Trương Vô Kỵ vài câu, không nói thêm một lời nào. Đến chiều ngày thứ sáu, bỗng nhiên Tạ Tốn tra hỏi thật kỹ công phu phái Nga Mi mà Chu Chỉ Nhược học được, Chu Chỉ Nhược cứ sự thực trình bày. Hai người một hỏi một đáp, nói chuyện đến tận khuya. Tạ Tốn xem ra thất vọng nói:

- Võ công của cả ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi đều có quan hệ với Cửu Dương Chân Kinh, cùng một đường với Trương Vô Kỵ thuộc lộ dương cương. Nếu như có Trương Tam Phong chân nhân ở đây, với sở học vừa dương cương vừa âm nhu bao gồm của ông ta liên thủ với Trương Vô Kỵ, thì mới có thể âm dương phối hợp, đánh bại được Ba Tư tam sứ. Thế nhưng nước xa không cứu được lửa gần, Hàn phu nhân nếu như lọt vào tay của ba sứ giả Ba Tư thì thật không biết sao đây?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên hỏi:

- Lão gia tử, nghe nói một trăm năm trước trong võ lâm có vị cao nhân tinh thông Cửu Âm Chân Kinh, có thực như thế chăng?

Khi còn ở trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ đã từng nghe thái sư phụ nói tới tên Cửu Âm Chân Kinh, biết rằng cha của sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là đại hiệp Quách Tĩnh, Thần Điêu đại hiệp Dương Quá đều học được võ công trong Cửu Âm Chân Kinh nhưng công phu tập luyện quá ư gian nan, Quách Tương dẫu là con ruột của Quách Tĩnh mà cũng không học được. Nay nghe Chu Chỉ Nhược hỏi đến, chàng nghĩ thầm: "Không lẽ sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có truyền lại công phu trong Cửu Âm Chân Kinh chăng?".

Tạ Tốn nói:

- Các bậc cố lão có truyền lại như thế nhưng không một ai biết thật giả ra sao. Nếu như hiện nay có ai học được những tài nghệ thần kỳ của môn võ công đó, liên thủ với Trương Vô Kỵ đối phó với địch thì chỉ ra tay là trừ được Ba Tư tam sứ giả ngay.

Chu Chỉ Nhược "Ồ" lên một tiếng nhưng không hỏi thêm nữa. Triệu Mẫn hỏi:

- Chu cô nương, phái Nga Mi có ai biết những võ công ấy chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu phái Nga Mi có được thần công đó, tiên sư đã không táng mạng tại chùa Vạn An.

Diệt Tuyệt sư thái sở dĩ lìa trần, đầu dây mối nhợ cũng do Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược hết sức căm ghét nàng, bao nhiêu ngày mưa gió ngồi chung trên một con thuyền nhưng không hề trao đổi với nhau một câu nào. Lúc này Triệu Mẫn hỏi ngay Chu Chỉ Nhược nên nàng liền nói móc lại một câu. Chu Chỉ Nhược tính tình dịu dàng, trước nay chưa từng nói với ai một câu đốp chát như thế bao giờ, Triệu Mẫn nghe nhưng không nổi giận, chỉ mỉm cười.

Trương Vô Kỵ vẫn không ngừng chèo thuyền đột nhiên nhìn về phía xa xa kêu lên:

- Xem kìa, xem kìa. Đằng kia có ánh lửa.

Mọi người nhìn theo hướng mắt chàng, quả nhiên tại hướng tây bắc nơi chân trời giáp biển có ánh lửa lấp lánh. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng tâm trạng cũng vừa mừng vừa lo như những người khác, vội cầm chiếc mái chèo cố sức bơi.

Ánh lửa kia trông thì không xa, thực ra trên biển khơi, phải cách đến mấy chục dặm. Hai người chèo một hồi lâu mới tới gần được một chút. Trương Vô Kỵ thấy nơi ánh lửa có những ngọn núi mờ mờ, chính là đảo Linh Xà liền nói:

- Mình về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thảng thốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, hỏi:

- Có phải ở đảo Linh Xà lửa bốc lên cao chăng? Không lẽ bọn họ đang định thiêu sống Hàn phu nhân?

Chỉ nghe lịch bịch mấy tiếng, Tiểu Siêu đã ngã lăn ra sàn thuyền. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội nhảy tới đỡ nàng dậy, thấy cô gái hai mắt nhắm nghiền bất tỉnh, vội xoa bóp huyệt đạo nơi nhân trung để cứu nàng dậy, hỏi:

- Tiểu Siêu, cô sao thế?

Tiểu Siêu hai mắt rưng rưng, nói:

- Em nghe nói thiêu sống người, nên em ... em ... sợ quá.

Trương Vô Kỵ an ủi cô ta:

- Cái đó chỉ là Tạ lão gia đoán thế thôi, chưa chắc đã là sự thật. Nếu ví phỏng như Hàn phu nhân lạc vào tay bọn chúng, chúng mình bây giờ đến nơi, chắc cũng còn có thể cứu kịp.

Tiểu Siêu nắm lấy tay chàng, cầu khẩn:

- Công tử, em cầu xin công tử ra tay cứu mạng cho Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả chúng mình sẽ hết sức để làm chuyện đó.

Nói rồi chàng quay lại đuôi thuyền, cầm mái giầm lên ra sức chèo, so với lúc trước nhanh hơn nhiều. Tiểu Siêu cũng cầm mái chèo tuy tay run run nhưng cũng cố gắng chèo tiếp. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Trương công tử, có hai việc em nghĩ đã lâu nhưng vẫn chưa hiểu rõ, mong chàng chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ tự nhiên thấy nàng ăn nói có vẻ khách sáo như thế, lạ lùng hỏi:

- Chuyện gì thế?

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước bên ngoài Lục Liễu Trang, tiểu muội sai người tấn công lệnh ngoại công, Dương tả sứ các vị, chính Tiểu Siêu cô nương này đã điều động nhân mã chống trả. Quả thật đúng là tướng đã mạnh ắt quân chẳng yếu, một tiểu a đầu của giáo chủ Minh giáo mà cũng đã tài ba đến thế, quả thật lạ kỳ ...

Tạ Tốn vội vàng xen vào:

- Cái gì mà giáo chủ Minh giáo?

Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, bây giờ nói ra cho ông biết cũng vừa, công tử con nuôi của lão gia chính là đường đường giáo chủ Minh giáo, ông ngược lại là thuộc hạ của anh ta đó.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, không biết nói sao cho phải. Triệu Mẫn liền đem việc Trương Vô Kỵ làm sao đảm nhận chức vụ giáo chủ Minh giáo thuật sơ qua, nhưng nhiều chi tiết nàng không biết. Trương Vô Kỵ bị Tạ Tốn hỏi gặng, không cách gì dấu diếm được nữa, đành phải kể lại lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính ra sao, mình làm sao ở trong bí đạo học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp thế nào. Tạ Tốn mừng quá, đứng phắt dậy, phục xuống lạy ngay trên thuyền nói:

- Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:

- Nghĩa phụ bất tất đa lễ. Dương giáo chủ có di mệnh để nghĩa phụ tạm nhiếp chức vụ giáo chủ, hài nhi đang lo không đảm trách nổi việc lớn, may sao nghĩa phụ yên lành trở về, đúng là phúc của bản giáo. Sau khi mình về đến Trung Thổ rồi, chức vị giáo chủ xin nghĩa phụ tiếp nhiệm cho.

Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Cha nuôi con tuy đã trở về nhưng hai mắt đã mù, hai chữ "yên lành" không còn đúng nữa. Thủ lãnh của Minh giáo làm sao có thể do người mắt kém đảm nhiệm? Triệu cô nương, trong lòng cô có hai chuyện gì chưa rõ ràng?

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ định hỏi Tiểu Siêu cô nương, kỳ môn bát quái, âm dương ngũ hành do ai dạy cô đó? Cô còn nhỏ như thế làm sao lại học được những công phu lạ lùng vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Đó là võ công gia truyền của tôi, không bõ quận chúa nương nương cười cho.

Triệu Mẫn lại hỏi:

- Lệnh tôn là ai? Con gái đã thế, cha mẹ ắt phải là cao thủ tiếng tăm vang dậy thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

- Gia phụ mai danh ẩn tính, đâu đáng để quận chúa phải hỏi? Không lẽ quận chúa lại định chặt hai ngón tay tôi để ép cho tôi phải lộ võ công ra hay sao?

Nàng tuổi còn nhỏ thế nhưng đối với Triệu Mẫn không chịu kém câu nào, nói đến chuyện chặt ngón tay, ý muốn khơi dậy mối thù của Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang hỏi với Trương Vô Kỵ:

- Trương công tử, tối hôm đó tại quán rượu nơi Đại Đô lần thứ hai mình gặp nhau, khổ đầu đà Phạm Dao đến chào từ biệt tiểu muội, khi y gặp Tiểu Siêu cô nương, có nói hai câu gì?

Trương Vô Kỵ vốn đã quên chuyện đó rồi, nghe nàng hỏi tới, nghĩ lại bèn nói:

- Khổ đại sư hình như nói là tướng mạo Tiểu Siêu giống một người nào mà ông ta quen.

Triệu Mẫn nói:

- Đúng thế. Anh thử đoán xem khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi làm sao đoán được?

Hai người còn đang nói chuyện, chiếc thuyền đã đến gần đảo Linh Xà, thấy bên phía tây hòn đảo một dãy thuyền lớn, trên mỗi chiếc buồm trắng đều có thêu một ngọn lửa đỏ lớn, trên các cột buồm treo những giải vải màu đen. Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:

- Tổng giáo Ba Tư quả thực mất công, đưa người sang đây không phải là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Mình chèo thuyền ra phía sau đảo, kiếm một nơi kín đáo nào lên đảo để khỏi bị bọn họ phát giác.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Đúng thế.

Thế nhưng chỉ mới bơi được ba bốn trượng, đột nhiên trên đại thuyền có tiếng tù và u u, tiếp theo là bình bình hai tiếng, hai quả đạn đại bác bắn ra, một viên rơi ở bên trái chiếc thuyền con, còn viên kia rơi ở bên phải làm tung lên hai cột nước khiến cho chiếc thuyền chòng chành dường như muốn lật. Trên thuyền lớn có người kêu to:

- Thuyền kia mau chèo lại đây, nếu không nghe lệnh sẽ bị bắn chìm ngay.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm, biết rằng hai phát đạn kia địch chỉ mới thị uy, cố ý bắn sang hai bên, bây giờ hai bên gần nhau như thế, địch nhân điều chỉnh thật dễ dàng, chỉ cần một viên đạn trúng thuyền thì cả sáu người không ai có thể sống sót. Thành thử chàng đành chầm chậm bơi thuyền tới. Ba khẩu đại pháo trên thuyền lớn cũng chầm chậm quay đầu nhắm đúng vào thuyền nhỏ. Đợi đến khi thuyền nhỏ đã tới sát, người trên thuyền lớn liền thả thang dây. Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình lên trên tùy cơ đoạt thuyền.

Tạ Tốn mò thấy thang dây leo lên trước nhất. Chu Chỉ Nhược không nói lời nào, cúi xuống ôm Ân Ly, leo lên, kế đó là Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn, leo lên sau cùng. Chỉ thấy trên thuyền rất đông người người nào cũng tóc vàng mắt biếc, thân thể cao lớn đều là người Hồ xứ Ba Tư nhưng bọn sứ giả Vân Phong Nguyệt ba người không có trong số đó.

Một người Ba Tư biết nói tiếng Trung Quốc liền hỏi:

- Các người là ai? Đến đây làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chúng tôi đi thuyền bị bão, thuyền chìm nhờ các vị cứu cho.

Gã Ba Tư nửa tin nửa ngờ, quay lại nói với một người thủ lãnh ngồi trên ghế ngay chính giữa sàn thuyền vài câu tiếng Ba Tư. Người thũ lãnh đó liền nói xí xố mấy câu với đám thủ hạ.

Tiểu Siêu đột nhiên nhảy tới, giơ chưởng đánh luôn vào tên thủ lãnh. Người đó kinh hãi vội vàng tránh qua, chộp luôn cái ghế đang ngồi đập luôn vào Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu chẳng nói chẳng rằng ra tay động thủ ngay, lạng người một cái đã vọt lên ba trượng giơ tay điểm luôn huyệt đạo gã thủ lãnh, mấy chục người Ba Tư trên thuyền liền loạn cả lên, hò hét rút binh khí ra vây cả bọn lại. Những người này ai cũng biết võ công nhưng so với ba sứ giả Phong Vân Nguyệt thì kém xa. Trương Vô Kỵ tay trái đỡ Ân Ly, tay phải đông điểm một cái tây đánh một chưởng. Tạ Tốn cũng múa thanh đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược huy động trường kiếm, thêm vào Tiểu Siêu thân hình linh động, chỉ trong giây lát, đã thanh toán hết mấy chục người Ba Tư trên thuyền. Hơn một chục người bị chém nằm lăn trên sàn thuyền, bảy tám người rớt xuống biển, còn lại bao nhiêu đều bị điểm huyệt cả.

Ngay lúc đó trên biển có tiếng kêu la rầm rĩ, tiếng tù và vang động khắp nơi, các thuyền còn lại của người Ba Tư đều tiến tới, những người trên thuyền toan nhảy qua đấu với bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xách gã thủ lãnh Ba Tư nhảy lên đà treo buồm, lớn tiếng nói:

- Kẻ nào lên thuyền là ta đánh chết gã này ngay.

Chỉ thấy thuyền chung quanh tiếng người bàn tán xôn xao, tuy câu nói của Trương Vô Kỵ họ nghe không hiểu gì cả nhưng không một ai dám nhảy lên thuyền, hẳn là người bị bắt kia hẳn có địa vị khá cao, đối phương e ngại nên chưa dám tấn công sang.

Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống, đang định thả gã thủ lãnh ra bỗng nghe đằng sau keng một tiếng, vội vàng tránh qua, đá ngược trở lại, thấy trước mặt một thanh thánh hỏa lệnh đánh tới, bên trái lại một thanh khác quét ngang. Trương Vô Kỵ kêu khổ thầm, không ngờ Phong Vân tam sứ lại nhanh như thế, kêu lên:

- Tất cả lui vào trong khoang thuyền.

Chàng liền giơ gã thủ lãnh lên đỡ một thanh lệnh bài, Huy Nguyệt Sứ vội vàng rút về nhưng vì quá vội vã nên hạ bàn để hở, Trương Vô Kỵ chân liền quét qua, đá trúng ngay đùi cô ta. Lưu Vân, Diệu Phong hai sứ giả ở hai bên liền xông vào khiến cho cú đá của Trương Vô Kỵ chưa hết chân đã phải thu lại. Hai bên đánh được tám chín chiêu, thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ đánh xéo từ dưới lên, chiêu số hết sức quái dị, suýt nữa đánh trúng bụng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội hạ gã thủ lãnh Ba Tư xuống, chiêu của Diệu Phong Sứ thật là cổ quái, nhưng bàn tay Trương Vô Kỵ hạ xuống thật khéo léo, nghe bạch một tiếng, thánh hỏa lệnh liền đập ngay mặt viên thủ lãnh Ba Tư. Phong Vân tam sứ kinh hoàng kêu lên, mặt mày biến sắc, cùng nhảy vọt về sau, trao đổi mấy câu tiếng Ba Tư, đột nhiên cúi chào viên thủ lãnh trong tay Trương Vô Kỵ, thần sắc hết sức cung kính rồi quay trở về thuyền.

Chỉ thấy tiếng loa chỗ này kêu lên u u, chỗ kia kêu lên u u, một chiếc thuyền lớn từ từ tiến đến, trên mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu bằng chỉ vàng. Đầu thuyền có để mười hai chiếc ghế bành lót da hổ, trong đó một chiếc để trống, còn mười một chiếc kia có người ngồi. Chiếc thuyền đó đến gần lập tức ngừng lại. Triệu Mẫn thấy chiếc ghế bành da hổ bỏ trống kia đứng hàng thứ sáu, trong bụng nghĩ ngay ra liền nói:

- Người mà mình bắt được ăn mặc giống như những người đang ngồi trên thuyền kia, xem ra là một trong mười hai đại thủ lãnh của họ, vị trí đứng hàng thứ sáu.

Tạ Tốn nói:

- Mười hai đại thủ lãnh? Ồ, thì ra mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều đến Trung Thổ quả thật vô cùng quan trọng.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Mười hai Bảo Thụ Vương là gì thế?

Tạ Tốn đáp:

- Trong tổng giáo Ba Tư, dưới giáo chủ có mười hai đại kinh sư [3] gọi là Thập Nhị Bảo Thụ Vương, thân phận địa vị tương đương với tứ đại pháp vương của Minh giáo Trung Thổ. Mười hai Bảo Thụ Vương này thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, mười một Tề Tâm, mười hai Câu Minh. Mười hai Bảo Thụ Vương này lấy việc tinh thông giáo nghĩa, kinh điển làm chính nhưng không hẳn võ công đã cao cường. Người này đứng hàng thứ sáu vậy là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống bên cột buồm, để Bình Đẳng Vương nằm ngang trên đầu gối, người này vị trí trong tổng giáo Ba Tư cực cao, cả bọn sống chết thoát hiểm hay không đều do ở ông ta. Chàng cúi xuống thấy má bên trái ông ta sưng vù, cũng may vết thương không phải là chí mệnh. Có lẽ Diệu Phong Sứ một lệnh bài đánh ra, thấy không xong nên vội thu lực về, hoặc giả nội công người này cũng tương đương nên có kình lực đề ngự.

Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu gom những người Ba Tư trên sàn lại, những người nào chết rồi thì kéo vào khoang sau, còn ai chưa chết thì để thành một hàng. Chỉ thấy khoảng hơn một chục thuyền Ba Tư vây chung quanh, các khẩu đại pháo đều chĩa vào thuyền Trương Vô Kỵ đang ngồi, trên các mạn thuyền đều đầy người Ba Tư, dưới ánh lửa đao kiếm lấp loáng, đông nghẹt không biết là bao nhiêu. Trương Vô Kỵ kinh hãi thầm, không nói gì các khẩu đại pháo bắn tới, chỉ cần những người này cùng xông vào, dẫu chàng có ba đầu sáu tay cũng không cách gì chống trả, dù có tuyệt đính võ công thoát thân được thì cũng không thể nào bảo vệ chu toàn những người còn lại. Ân Ly và Triệu Mẫn hai người bị thương nguy hiểm hơn hết.

Chỉ nghe một người Ba Tư cao giọng nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Kim Mao Sư Vương nghe đây: Tất cả mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều có mặt ở đây cả. Ngươi đắc tội với tổng giáo, các Bảo Thụ Vương đều đồng ý tha cho, mau mau thả các giáo hữu tổng giáo về rồi dong thuyền đi ngay.

Tạ Tốn cười đáp:

- Tạ mỗ đâu phải là đứa trẻ lên ba, bọn ta vừa thả những tù binh này về, đại pháo trên thuyền các ngươi liền bắn vào thì sao?

Người kia giận dữ nói:

- Nếu các ngươi không thả liệu đại pháo chúng ta không bắn được ư?

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi nói:

- Ta có ba điều kiện, nếu bên quí vị bằng lòng, chúng ta sẽ cung kính giao trả các giáo hữu tổng giáo lên bờ.

Người kia hỏi:

- Điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

- Từ nay tổng giáo và Minh giáo Trung Thổ phải tương thân tương kính, không bên nào xâm phạm bên nào.

Kim Dung

Ỷ Thiên đồ long ký

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG

Người kia nói:

- Hừ, còn điều thứ hai?

Tạ Tốn nói tiếp:

- Các ngươi giao Đại Ỷ Ti qua đây, tha cho tội bà ta thất trinh, từ nay không được truy cứu nữa.

Người kia giận dữ nói:

- Việc này không thể được. Đại Ỷ Ti phạm vào đại qui của tổng giáo, phải chịu tội thiêu sống, có liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ các ngươi đâu? Còn điều kiện thứ ba?

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ hai nếu không bằng lòng, việc gì phải hỏi đến điều thứ ba?

Người kia nói:

- Được rồi, ví thử như bằng lòng điều kiện thứ hai, điều kiện thứ ba nói ta nghe thử nào.

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ ba ư? Chuyện này rất dễ dàng. Các ngươi đem một chiếc thuyền nhỏ đi theo thuyền của chúng ta. Đi khoảng năm mươi dặm, nếu như bọn ta không thấy thuyền lớn các ngươi đuổi theo, sẽ đem những người bị bắt thả xuống thuyền nhỏ, muốn đi đâu thì đi.

Người kia giận dữ nói:

- Nói quấy nói quả, nói quấy nói quả.

Bọn Tạ Tốn nghe rồi ai nấy ngạc nhiên, không hiểu y định nói gì. Triệu Mẫn cười nói:

- Gã này học nói tiếng Trung Quốc nhưng học chưa đi đến đâu. Y định bảo mình "nói quấy nói quá" lại nói thành "nói quấy nói quả".

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói không sai, tuy cục thế đang lúc gay go nhưng cũng nhịn không nổi cười sằng sặc. Người nói câu "nói quấy nói quả" kia là người đứng cuối cùng trong mười hai Bảo Thụ Vương là Câu Minh Vương, thấy bọn Tạ Tốn cười càng giận thêm, huýt một tiếng còi, cùng người thứ mười một là Tề Tâm Vương nhảy qua bên thuyền.

Trương Vô Kỵ liền tiến lên, tả chưởng đánh vào ngực Tề Tâm Vương nhưng Tề Tâm Vương không né tránh, giơ tay trái chộp lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ thấy chưởng của mình sẽ đánh tới ngực y trước, nào ngờ Câu Minh Vương ở bên cạnh song chưởng cùng đánh ra đỡ ngay chưởng của chàng, còn năm ngón tay của Tề Tâm Vương vẫn vồ lên đầu Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, tránh được, nào ngờ hai người công thủ liền lạc, chẳng khác gì một người bốn tay bốn chân. Ba người nhanh như chớp đã trao đổi liền bảy tám chiêu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi thầm, hai người này tuy so với Phong Vân tam sứ không bằng nhưng võ công mười phần quái dị, rất giống Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nhưng khi sử dụng lại biến đổi khác hẳn, không thể mò ra được chút đầu mối nào, mặc dầu chiêu số ác liệt khéo léo không bằng được Càn Khôn Đại Na Di. Hai người đánh chẳng khác gì người điên ngẫu nhiên học được Càn Khôn Đại Na Di nhưng học chưa đến đâu, thần trí hỗn loạn, đánh đấm lung tung thành ra không biết cách nào mà chống đỡ.

Thế nhưng hai người liên thủ hết sức khít khao, cũng không khác gì Phong Vân tam sứ. Trương Vô Kỵ hết sức đề ngự nhưng chỉ ngang tay, hi vọng đánh thêm hai ba chục chiêu nữa sẽ chiếm được thượng phong. Ngay khi đó, Phong Vân tam sứ cùng hú lên, nhảy vọt lên thuyền, xông cả vào định cướp lại Bình Đẳng Vương để chuộc cái tội lỡ tay đánh trúng y.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương lên quay ngang, làm thành một vòng tròn thật lớn. Phong Vân tam sứ lần này làm sao dám tấn công một cách khinh suất, chỉ né qua né lại tìm sơ hở để xông vào.

Bỗng nghe Câu Minh Vương hự lên một tiếng, trúng một ngọn cước ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ cúi xuống định bắt sống y, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ hai người cầm lệnh bài nhảy tới, còn Diệu Phong Sứ ôm được Câu Minh Vương nhảy trở về thuyền. Lần này Tề Tâm Vương và Vân Nguyệt hai sứ liên thủ, phối hợp không được chặt chẽ như ba người Phong Vân Nguyệt, chỉ đánh vài hiệp, xem chừng khó mà thủ thắng nên cùng hú lên một tiếng nhảy ngược trở về thuyền.

Trương Vô Kỵ định thần rồi nói:

- Những người này giống như từng học Càn Khôn Đại Na Di nhưng lại học không đúng, quả thực rất khó đối phó.

Tạ Tốn nói:

- Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của bản giáo vốn gốc ở Ba Tư. Mấy trăm năm trước truyền vào Trung Thổ rồi, ngay tại bản quốc Ba Tư lại bị thất truyền, cứ như Đại Ỷ Ti nói thì chỉ còn sót lại những phần thô thiển chẳng đâu vào đâu, nên họ sai nàng trở lại Quang Minh Đính để lén lấy lại tâm pháp.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn họ căn cơ võ công thật là nông cạn, quả đúng là chỉ mới học được chút ít bên ngoài, nhưng vận dụng lại hết sức khéo léo. Hiển nhiên bên trong có điều gì hết sức quan trọng mà mình chưa tìm ra. Ôi, trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cấp thứ bảy có một số con chưa luyện tới, không lẽ lại là ở trong chỗ này?

Nói xong chàng ngồi xuống sàn thuyền, ôm đầu suy nghĩ. Bọn Tạ Tốn không ai dám nói năng gì sợ chàng không tập trung được tinh thần. Đột nhiên Tiểu Siêu hoảng hốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, Trương Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn thấy Phong Vân tam sứ áp giải một người ra trước mặt mười một Bảo Thụ Vương. Người đó lưng còng, tay chống gậy chính là Kim Hoa bà bà. Người ngồi ở ghế thứ hai là Trí Tuệ Bảo Thụ Vương lên tiếng hỏi mấy câu, Kim Hoa bà bà nghiêng đầu la lớn:

- Ngươi nói gì ta không hiểu?

Trí Tuệ Vương cười khẩy một tiếng, đứng phắt dậy, giơ tay trái ra, đã lột ngay nắm tóc bạc trên đầu Kim Hoa bà bà xuống, lộ ra mái tóc đen nhánh. Kim Hoa bà bà vừa nghiêng qua bên phải tránh, tay phải của Trí Tuệ Vương đã thò ra lột một lớp da trên mặt bà ta. Bọn Trương Vô Kỵ ai nấy đều nhìn rõ, lớp da Trí Tuệ Vương lột kia chỉ là một mặt nạ, trong nháy mắt Kim Hoa bà bà đã biến thành một người đàn bà da trắng như mỡ đông, mắt to má hồng, xinh đẹp không đâu kể xiết.

Đại Ỷ Ti bị y vạch lộ bộ mặt thật, đành vứt quài trượng xuống, chỉ cười nhạt không nói gì. Trí Tuệ Vương nói mấy câu, bà ta liền dùng tiếng Ba Tư đáp lại. Hai người một hỏi một trả lời, nhưng xem thần sắc những Bảo Thụ Vương mỗi lúc một thêm trịnh trọng. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu cô nương, họ nói gì thế?

Tiểu Siêu khóc nói:

- Quận chúa thật thông minh, chuyện gì cũng biết hết nhưng sao không ngăn đừng để Tạ lão gia nói ra?

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Ngăn đừng nói cái gì?

Tiểu Siêu nói:

- Bọn họ vốn không biết Kim Hoa bà bà là ai cả, về sau biết được bà ta là Tử Sam Long Vương nhưng đâu có biết Tử Sam Long Vương lại là thánh nữ Đại Ỷ Ti. Bà bà khổ tâm cũng chỉ mong đánh lừa được bọn họ. Tạ lão gia đề cập đến điều kiện thứ hai là yêu cầu họ thả thánh nữ Đại Ỷ Ti ra, tuy có lòng tốt nhưng không lừa được Trí Tuệ Bảo Thụ Vương. Tạ lão gia mắt không nhìn thấy nên không biết Kim Hoa bà bà hóa trang thật hay, che dấu được mọi người. Triệu cô nương, cô nhìn thấy rõ như thế không lẽ không nghĩ ra sao?

Kỳ thực khi Triệu Mẫn nghe Tạ Tốn kể chuyện biết được Kim Hoa bà bà chính là thánh nữ Đại Ỷ Ti của tổng giáo Ba Tư nhưng lại không nghĩ ra là dưới mắt người Ba Tư thì chưa biết chân diện mục của bà ta thế nào. Nàng định lên tiếng cãi lại nhưng thấy giọng nói của Tiểu Siêu thật là bi thương, xem ra giữa nàng và Kim Hoa bà bà có một liên quan thật mật thiết nên chỉ nói:

- Tiểu Siêu muội tử, tôi quả thực không nghĩ đến. Nếu như có ý gia hại Kim Hoa bà bà thì trời không cho tôi được chết yên chết lành.

Tạ Tốn lại càng ăn năn, không nói lên một lời nào nhưng trong bụng đã định thầm dù cho tính mạng mình không còn cũng nhất quyết cứu cho được Đại Ỷ Ti thoát hiểm. Tiểu Siêu khóc nói:

- Bọn họ trách cứ Kim Hoa bà bà nói sao dám lấy chồng, lại phản giáo, muốn ... muốn đem ra thiêu sống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô đừng quá hốt hoảng, một khi có cơ hội, tôi sẽ nhảy qua cứu bà bà ngay.

Chàng gọi là "bà bà" kỳ thực lúc này đã nhìn thấy bản lai diện mục của Tử Sam Long Vương rồi, tuy đã trung niên, nhưng phong tư yểu điệu chẳng khác gì Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược xem chỉ đáng chị của Tiểu Siêu thôi. Tiểu Siêu nói:

- Không được, không được đâu. Mười một Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ giả, công tử đấu không lại, có qua chỉ thêm uổng mạng, lúc này họ đang bàn tính làm sao cướp lại Bình Đẳng Vương đó.

Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Hừ, dẫu Bình Đẳng Vương có sống sót mà về trên mặt có in mấy hàng chữ cũng xấu hổ đến chết được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Trên mặt có in hàng chữ ư?

Triệu Mẫn nói:

- Gã sứ giả râu vàng kia dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng má y ... A! Tiểu Siêu!

Đột nhiên nàng nghĩ ra một chuyện vội hỏi:

- Tiểu Siêu muội tử, cô có biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

- Có biết.

Triệu Mẫn nói:

- Cô xem đây, trên mặt Bình Đẳng Vương có in những chữ gì?

Tiểu Siêu nâng đầu Bình Đẳng Vương lên nhìn trên má y, thấy má y sưng vù, trên có in ba hàng chữ Ba Tư. Thì ra trên những thánh hỏa lệnh đều có khắc chữ, Diệu Phong Sứ đánh nhầm Bình Đẳng Vương nên chữ trên thánh hỏa lệnh in lên mặt y. Có điều chỗ thánh hỏa lệnh chạm vào mặt chỉ chừng ngang hai tấc, dài ba tấc nên những hàng đó chữ có chữ không.

Khi Tiểu Siêu đi cùng với Trương Vô Kỵ vào trong bí đạo nơi Quang Minh Đính, nàng đã từng đọc Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mấy lần, tuy chưa được Trương Vô Kỵ chỉ bảo, tự mình cũng chưa tập luyện nhưng môn võ công tâm pháp đó nàng nhớ rất kỹ. Khi Trương Vô Kỵ trong đường hầm học tới cấp thứ bảy gặp chỗ nghi nan bỏ qua không luyện, Tiểu Siêu từng ghi nhớ hết, bây giờ đọc những hàng chữ trên mặt Bình Đẳng Vương nàng chợt kêu lên:

- Cái này là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Cô bảo đây là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp ư?

Tiểu Siêu nói:

- Không, không phải. Em vừa thoạt nhìn tưởng là thế nhưng hóa ra không phải. Dịch thành tiếng Trung Quốc ý tứ như sau: "muốn phải thì trước, muốn trái thì sau, ba giả bảy thật, trong không sinh có" ... rồi cái gì "trời vuông đất tròn ..." bên dưới không đọc rõ nữa.

Mấy hàng chữ đó chẳng qua chỉ độ mươi chữ nhưng Trương Vô Kỵ nghe rồi chẳng khác nào đầy trời mây đen, nay có một làn chớp lóe lên, tuy rằng ánh sáng qua rồi bốn bề lại tối đen như mục, nhưng mấy ánh chớp đó cũng khiến chàng nhìn được phương hướng mà đi nên lẩm bẩm đọc:

- Ứng tả tắc hậu, tu hữu nãi tiền...

Cố hết sức nghĩ cho ra mấy câu khẩu quyết đó làm sao phối hợp được với võ công Càn Khôn Đại Na Di, có lúc tưởng như đã nghĩ ra, nhưng rồi lại không phải, xem ra hai bên không ăn khớp với nhau. Đột nhiên Tiểu Siêu kêu lên:

- Công tử, để ý! Bọn họ truyền lệnh, Phong Vân tam sứ tới tấn công công tử, còn Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương, Công Đức Vương qua đoạt lại Bình Đẳng Vương.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương giơ lên ngang ngực, vứt thanh đao Đồ Long cho Vô Kỵ nói:

- Con dùng đao chém thật hăng.

Triệu Mẫn cũng giao thanh Ỷ Thiên kiếm cho Chu Chỉ Nhược. Hai nàng bây giờ cùng hội cùng thuyền, sát cánh nghinh địch là trên hết. Trương Vô Kỵ nhận lấy thanh đao Đồ Long, đầu óc đâu đâu cắm luôn vào lưng, miệng vẫn lẩm bẩm:

- Tam hư thất thực, vô trung sinh hữu ...

Triệu Mẫn nóng ruột kêu lên:

- Chàng ngốc ơi, bây giờ đâu còn là lúc nghiền ngẫm võ công, mau mau chuẩn bị nghinh địch đi thôi.

Nói chưa dứt lời, Cần Tu, Trấn Ác, Công Đức tam vương đã tung mình nhảy qua, giơ chưởng tấn công Tạ Tốn. Ba người đó sợ làm Bình Đẳng Vương bị thương cho nên không dùng binh khí, chỉ sử dụng quyền chưởng, nếu một người nào nắm được Bình Đẳng Vương là ra sức kéo về. Chu Chỉ Nhược thủ tại bên cạnh Tạ Tốn, mỗi khi nguy cấp thì lại giơ kiếm đâm vào Bình Đẳng Vương. Như thế Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương không thể không xuất chưởng tấn công Chu Chỉ Nhược để kiếm của nàng khỏi đâm vào người đồng bọn.

Ở mé bên kia, Trương Vô Kỵ cùng ba sứ giả tụ lại một chỗ. Bốn người mấy lần đụng tay, ai nấy đều nếm mùi kình lực của Trương Vô Kỵ nên không còn ai dám thờ ơ nữa. Chỉ qua mấy hiệp, Huy Nguyệt Sứ đánh ra một lệnh bài, cứ theo đúng đạo lý võ học, chiêu đó phải đánh vào vai trái Trương Vô Kỵ, nào ngờ thánh hỏa lệnh ở trên không lại quay vòng lại một cách kỳ lạ, nghe bạch một tiếng trúng ngay sau cổ chàng.

Trương Vô Kỵ bị đau nhói nhưng trong đầu lập tức hiểu ra, kêu lên:

- Muốn trái thì sau, muốn trái thì sau! Đúng rồi! Đúng rồi!

Chỉ trong khoảnh khắc chàng vỡ lẽ ngay, những gì Phong Vân tam sứ sử dụng đây chẳng qua chỉ là công phu nhập môn của Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ nhất, nhưng trên thánh hỏa lệnh có khắc những biến hóa lạ lùng, khiến cho càng thêm rắc rối. Chàng vừa nghĩ ra, bốn câu khẩu quyết Tiểu Siêu đọc lên lập tức minh bạch, nhưng cái gì "thiên phương địa viên" thì chàng chưa hiểu được định bụng phải tìm cách đọc được những chữ khắc trên thánh hỏa lệnh để thông hiểu tinh yếu võ công của Ba Tư.

Chàng liền rú lên một tiếng dài, hai tay thi triển cầm nã, "tam hư thất thực" đoạt luôn hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Huy Nguyệt Sứ, rồi tiếp theo "vô trung sinh hữu" lại cướp được hai thánh hỏa lệnh của Lưu Vân Sứ. Hai người còn đang ngơ ngẩn, Trương Vô Kỵ đã bỏ luôn bốn chiếc thánh hỏa lệnh vào trong túi, hai tay nắm cổ hai người, ném ra ngoài.

Tất cả những người Ba Tư liền xí xố ầm cả lên, Diệu Phong Sứ cũng vội vàng nhảy trở về thuyền. Lúc này Trương Vô Kỵ đã rõ được yếu quyết của họ, tuy rất hữu hạn, nhưng võ công của Diệu Phong Sứ đối với chàng không còn gì là kỳ bí nữa, tay phải thò ra đã nắm ngay được chân trái y, lôi y từ trên không về, giơ tay cướp luôn hai thanh thánh hỏa lệnh còn lại, cầm luôn người y đập xuống đầu Trấn Ác Vương. Tam vương kinh hãi, vung tay một cái nhảy luôn trở về. Trương Vô Kỵ điểm huyệt Diệu Phong Sứ, ném xuống dưới chân.

Chàng đắc thắng phen này thật là đột ngột nên chỉ khoảnh khắc đang từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, cả bọn vô cùng mừng rỡ, hỏi nguyên do. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nếu không vì trời xui đất khiến trên má Bình Đẳng Vương bị trúng một đòn thì mình thật là khốn khổ. Tiểu Siêu, cô hãy dịch những chữ trên thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe, mau đi, mau đi.

Mọi người nhìn vào những thánh hỏa lệnh, thấy không phải kim loại mà cũng không phải ngọc đá, cứng rắn vô cùng, sáu lệnh bài cái dài cái ngắn không đều nhau, trông như trong mà không trong, ở giữa mờ mờ hình ngọn lửa bốc lên, sắc lấp lánh thật là đẹp đẽ. Trên mỗi thanh lệnh bài khắc rất nhiều chữ Ba Tư, không nói đến tìm hiểu cho kỹ, chỉ dịch qua một lần cũng đã mất rất nhiều thời giờ.

Thế nhưng Trương Vô Kỵ biết rằng muốn thoát ra khỏi được cái khốn cảnh hiện thời, không thể nào không tìm hiểu cho ra nguyên ủy của võ công Ba Tư nên quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, nhờ cô cầm Ỷ Thiên kiếm ghìm vào cổ Bình Đẳng Vương. Nghĩa phụ, nhờ cha nhứ đao Đồ Long vào cổ Diệu Phong Sứ để kéo dài thời giờ.

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược gật đầu đáp ứng. Tiểu Siêu cầm sáu thanh thánh hỏa lệnh lên, thấy thanh lệnh bài ngắn nhất trên khắc ít chữ nhất, lại đen sì trông không đẹp mắt chút nào, dịch từng câu cho Vô Kỵ nghe. Trương Vô Kỵ nghe xong không hiểu gì cả, cố gắng suy nghĩ nhưng không rõ nghĩa càng thêm hoảng hốt. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu muội tử, cô giải thích thanh thánh hỏa lệnh đánh vào Bình Đẳng Vương trước.

Câu nói đó khiến Tiểu Siêu bừng tỉnh, vội vàng coi các chữ khắc thấy thanh dài thứ hai hợp nghĩa vội vàng giải thích cho Vô Kỵ nghe, lần này chàng mười phần hiểu đến bảy tám. Đợi đến khi giải nghĩa xong, giải thích tiếp thanh dài nhất, Trương Vô Kỵ nghe qua vài câu mừng rỡ nói:

- Tiểu Siêu, văn tự trong sáu thanh thánh hỏa lệnh này, càng dài thì càng dễ. Những thanh này đều là công phu nhập môn cả.

Thì ra những thánh hỏa lệnh này là do Sơn Trung Lão Nhân Thôi Sơn ngày xưa đúc thành, trên khắc võ công tinh yếu một đời của y. Cả sáu thánh hỏa lệnh lẫn Minh giáo cùng truyền vào Trung Thổ một lúc, trước đây vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ nhưng về sau, Minh giáo Trung Thổ không còn ai biết tiếng Ba Tư nữa. Mấy chục năm trước, thánh hỏa lệnh bị người của Cái Bang đoạt mất, lại do thương nhân Ba Tư mua được, nên quay trở về Minh giáo Ba Tư. Tổng giáo Ba Tư nghiên cứu văn tự trên đó mấy chục năm qua nên những người có võ công kha khá trong tổng giáo tiến bộ rất nhiều. Thế nhưng võ công khắc trên đó bác đại tinh thâm nên ngay cả người giỏi nhất là Đại Thánh Bảo Thụ Vương cũng chỉ học được ba bốn thành.

Còn như Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, trước đây vốn là hộ giáo thần công của Minh giáo Ba Tư nhưng môn đó người thường không thể tu tập được. Giáo chủ Minh giáo Ba Tư lại qui định chỉ do xử nữ đảm nhiệm, trước nay vốn chỉ là những cô gái võ công tầm thường nên tâm pháp truyền xuống rất là hữu hạn, ngược lại Minh giáo bên Trung Quốc lại còn giữ được toàn phần. Minh giáo Ba Tư kết hợp chưa tới một thành còn lại của Càn Khôn Đại Na Di với hai ba thành của võ công thánh hỏa lệnh thành một môn võ công kỳ dị cổ quái.

Trương Vô Kỵ ngồi xếp bằng nơi đầu thuyền, còn Tiểu Siêu đem thánh hỏa lệnh từng câu từng chữ dịch lại cho chàng nghe. Võ học trong thánh hỏa lệnh này vốn dĩ thật là kỳ diệu, thế nhưng nhất pháp thông, vạn pháp thông, những học vấn thâm áo đến chỗ cùng cực thì cũng đều qui về một mối. Trương Vô Kỵ thông hiểu Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm đạo lý Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của phái Võ Đương. Võ công thánh hỏa lệnh tuy có kỳ lạ thật, nhưng cũng chỉ là đỉnh cao của sở học bàng môn tả đạo, nói đến tinh thâm rộng rãi so ra kém xa ba môn võ học kia. Trương Vô Kỵ nghe Tiểu Siêu dịch xong cả sáu thanh thánh hỏa lệnh trong nhất thời chỉ nhớ được sáu bảy phần, biết rõ ràng thì lại chỉ được năm sáu phần, nhưng như thế thôi võ công của các Bảo Thụ Vương và Phong Vân tam sứ, dưới mắt chàng nay đã rõ như ban ngày không còn gì mù mờ nữa.

Chàng hết tâm hết ý để vào việc nghiên cứu võ học hết giờ này sang khắc khác, không còn biết đến chuyện gì chung quanh nhưng Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thì nóng ruột vô cùng. Bọn họ thấy Đại Ỷ Ti chân tay đã bị xích chặt, mười một Bảo Thụ Vương cùng họp bàn, Bảo Thụ Vương thứ mười một cởi trường bào ra, thay bằng nhuyễn giáp, những người chung quanh đưa ra mười một món binh khí hình dáng quái dị. Kế đến những người Ba Tư dàn ra trước sau trái phải đầy tay cầm cung tên, nhắm thẳng vào mình, lại đến mười tên Ba Tư tay cầm búa dùi nhảy xuống nước, chỉ cần thủ lãnh hạ lệnh là bơi đến đục chìm thuyền.

Bỗng Đại Thánh Bảo Thụ Vương ngồi chính giữa quát lớn một tiếng, chung quanh bốn bên trống đánh liên hồi, tù và thổi lên rầm rĩ. Trương Vô Kỵ kinh hoảng ngửng đầu nhìn lên thấy mười một Bảo Thụ Vương đều mặc áo giáp vàng sáng chói, tay cầm binh khí, nhảy lên trên thuyền. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược tay cầm đao kiếm để vào cổ Bình Đẳng Vương và Diệu Phong Sứ. Mười một vương kia nhìn thấy thế, tuy đã nhảy lên đầu thuyền rồi nhưng không dám đến gần mà tản ra thành hình bán nguyệt, mắt lăm lăm tìm cơ hội xông vào. Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn thấy mười một người đó hình dáng hung hăng, thân thể to lớn đều không khỏi khiếp sợ.

Trí Tuệ Vương nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Chúng mày mau mau thả giáo hữu chúng tao ra thì ta tha cho chúng mày khỏi chết. Những giáo hữu này bọn tao có khác gì con heo con chó, chúng bay kề đao vào cổ họ đâu có ích gì? Chúng bay có giỏi thì đem bọn họ giết đi. Trong thánh giáo Ba Tư những người như thế có cả nghìn cả vạn, giết một hai người đâu có sao.

Triệu Mẫn nói:

- Chúng mày đừng có lớn lối, định đánh lừa chúng tao. Chúng tao biết rồi, hai người này một người là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương, một người là Diệu Phong Sứ trong Minh giáo địa vị rất cao. Mày bảo y là heo là chó là nói sai rồi, sai thật là sai.

Gã Trí Tuệ Vương học tiếng Trung Hoa toàn ở trong sách vở nên những tiếng "chúng mày" "bọn tao" đều là dùng những tiếng của bọn hạ lưu. Triệu Mẫn bắt chước giọng điệu của y khiến cho Tạ Tốn các người nghe thấy, dẫu đang trong cảnh nguy hiểm nhưng cũng nhịn không nổi phải mỉm cười.

Trí Tuệ Vương nhíu mày rồi nói:

- Trong thánh giáo có cả thảy ba trăm sáu mươi Bảo Thụ Vương, Bình Đẳng Vương đứng thứ ba trăm năm mươi chín. Bọn tao có một nghìn hai trăm sứ giả, gã Diệu Phong Sứ này võ công tầm thường, chẳng ra quái gì, chúng bay mau mau đem nó giết đi.

Triệu Mẫn đáp:

- Hay lắm, hay lắm. Các bạn cầm đao kiếm, mau đem hai gã vô dụng này giết đi.

Tạ Tốn đáp:

- Tuân lệnh.

Ông giơ thanh đao Đồ Long lên, nghe vù một tiếng chém hớt ngang đầu Bình Đẳng Vương, chỉ cách không quá nửa tấc, một mảng lớn tóc bị cắt đứt gió biển thổi vào bay tứ tán. Tạ Tốn lại giơ đao lên chém bên trái một nhát, bên phải một nhát xuống hai bên vai Bình Đẳng Vương.

Hai nhát dao đó ai cũng tưởng sẽ chặt đứt hai cánh tay y nhưng khi đao vừa chạm vào người thì cổ tay hơi nghiêng đi, cắt đứt mỗi bên tay áo một mảnh. Ba nhát dao đó bộ vị chuẩn xác, chẳng nói gì người mù, đến như người mắt sáng cũng thật là khó mà làm được.

Bình Đẳng Vương chết đi sống lại, sợ tưởng như muốn ngất xỉu. Mười một Bảo Thụ Vương lẫn Phong vân tam sứ giả ai ai cũng há hốc mồm le lưỡi. Triệu Mẫn lại nói:

- Chúng bay đã thấy võ công Minh giáo Trung Thổ rồi. Đây là Kim Mao Sư Vương, ở Minh giáo đứng hàng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín, chúng bay nếu ỷ đông, sau này Minh giáo Trung Thổ sẽ đến Ba Tư trả thù, đánh cho tan tành tổng đàn chúng bay, chúng bay không đánh lại đâu, mau mau chịu thua đi là vừa.

Trí Tuệ Vương biết là Triệu Mẫn không nói thực nhưng nhất thời không biết làm sao. Gã Đại Thánh Bảo Thụ Vương bỗng nói vài câu, Tiểu Siêu kêu lên:

- Trương công tử, bọn họ định đục thuyền.

Trương Vô Kỵ hơi kinh hoảng, nếu như thuyền chìm, mọi người không ai biết bơi ắt sẽ bị bắt cả, vội nhún một cái đã vọt tới trước mặt Đại Thánh Vương. Trí Tuệ Vương quát lên:

- Mày làm gì đó?

Hai bên Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương một người cầm roi, một người cầm chùy cùng xông lại. Lúc này Trương Vô Kỵ đã hiểu được võ công của Ba Tư rồi, không tránh né cũng không lách qua, chỉ vươn hai tay ra, nắm đúng ngay yết hầu của hai vương. Chỉ nghe keng một tiếng, thiết tiên của Công Đức Vương đã đụng phải bát giác chùy của Chưởng Hỏa Vương, lửa bắn tung tóe còn hai người thì bị chàng nắm trúng yếu huyệt, lôi sềnh sệch về. Trong lúc nhốn nháo, Trương Vô Kỵ lại liên tiếp đá ra bốn cái, hai ngọn cước đá văng hai thanh đao trong tay Tề Tâm Vương và Trấn Ác Vương, còn hai cú đá văng Cần Tu Vương và Câu Minh Vương xuống biển.

Một Bảo Thụ Vương thân hình cao gầy liền xông tới, hai tay cầm hai đoản kiếm, đâm vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại tung chân lên, đá vào cổ tay y. Người đó đột nhiên chập tay lại đâm vào bụng Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến hóa thật là linh động, Trương Vô Kỵ vội nhảy về sau mới tránh được. Thì ra y là Thường Thắng Bảo Thụ Vương, là người võ công cao cường nhất trong mười hai người của tổng giáo Ba Tư. Trương Vô Kỵ liền khóa huyệt đạo của Công Đức và Chưởng Hỏa ném hai người vào khoang thuyền rồi lại tiến lên đấu tiếp với song kiếm của Thường Thắng Vương. Người này tuy cũng là một trong mười hai vương nhưng võ công cao siêu những người khác không sao bì kịp. Trương Vô Kỵ công ba chiêu, thủ ba chiêu, ba lần tiến, ba lần thoái, trong bụng khen thầm: "Gã Ba Tư Hồ nhân này giỏi thật".

Chàng hiểu được võ công trên thánh hỏa lệnh nhưng chưa từng luyện tập lại gặp ngay cường địch, một mặt nhớ lại những gì mới biết, một mặt giao đấu với Thường Thắng Vương. Trong khoảng mười chiêu đầu, chàng chỉ nhờ vào nội lực thâm hậu, chiêu số xảo diệu để giữ sao cho được ngang tay không thắng không bại, đến hai mươi chiêu sau, bí quyết trên thánh hỏa lệnh phối hợp với Càn Khôn Đại Na Di càng lúc càng thuần thục, Thường Thắng Vương được tiếng là 'thường thắng" xưa nay chưa gặp đối thủ, lúc này bị đối phương ép cho bó chân bó tay, y chưa từng bị như thế bao giờ khiến cho vừa kinh dị, vừa sợ hãi. Đấu đến hơn ba chục chiêu, Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, đột nhiên ngồi phịch xuống sàn, ôm chặt lấy đùi Thường Thắng Vương. Chiêu quái dị này vốn ghi trong thánh hỏa lệnh là công phu hết sức cao thâm, Thường Thắng Vương tuy biết nhưng chưa dám sử dụng bao giờ. Trương Vô Kỵ vừa ôm được mười ngón tay liền bấm ngay hai huyệt Trung Đô, Trúc Tân là phương pháp điểm huyệt của Trung Thổ. Nửa người bên dưới của Thường Thắng Vương liền tê dại, đành thở dài để cho bị bắt.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng yêu tài của y bèn nói:

- Ngươi võ công giỏi lắm. Ta không muốn ngươi bị mất tiếng, mau mau đi về.

Nói xong chàng buông tay ra, Thường Thắng Vương vừa cảm kích vừa xấu hổ, nhảy trở về thuyền. Đại Thánh Vương thấy Thường Thắng Vương hết sức chiến đấu mà vẫn thua, Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương lại rơi vào tay địch, dẫu có đục chìm thuyền thì ném chuột cũng vỡ đồ, bốn người bọn Bình Đẳng Vương cũng chết hết, liền ra lệnh gọi tất cả trở về thuyền mình.

Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Chúng bay mau mau chấp thuận ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đem Đại Ỷ Ti đưa qua bên này.

Chín người Bảo Thụ Vương còn lại liền chụm đầu thương nghị một hồi, Trí Tuệ Vương nói:

- Ba điều kiện đó bọn ta có thể chấp thuận được, thế nhưng thanh niên kia võ công đúng là cùng phái với Ba Tư chúng ta, y học ở đâu thế bọn ta không hiểu rõ.

Triệu Mẫn cố nhịn cười, giả vờ nghiêm trang đáp:

- Chúng bay không hiểu rõ, không thông suốt, không biết tí gì, không đâu vào đâu. Vị công tử thanh niên này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ giả bản giáo. Y còn bảy sư huynh, bảy sư đệ sắp đến rồi, khi đó thì tan tành loạn xạ, chúng bay chẳng sướng lắm sao, ô hô ai tai.

Trí Tuệ Vương vốn rất thông minh nhưng Hoa ngữ chưa được giỏi, Triệu Mẫn nói y chỉ hiểu bảy tám phần, cũng đoán được nàng khoác lác, suy nghĩ một chút rồi nói:

- Được, để cho đem Đại Ỷ Ti qua thuyền.

Hai tên giáo đồ Ba Tư liền dẫn Đại Ỷ Ti đưa qua bên thuyền Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược rung trường kiếm một cái, leng keng hai tiếng chặt đứt ngay các khóa ở chân tay bà ta. Hai tên giáo đồ Ba Tư thấy kiếm sắc bén đến thế, sợ đến mất mật, vội vàng nhảy trở về thuyền.

Trí Tuệ Vương nói:

- Chúng mày mau mau khai thuyền, đi về Trung Thổ. Bọn tao sẽ cho thuyền nhỏ đi theo chúng mày.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Minh giáo Trung Thổ vốn xuất phát từ Ba Tư, quí vị và chúng tôi tình như anh em, hôm nay hiểu lầm nhau, mong các vị đừng để bụng. Mai này có dịp mời lên Quang Minh Đính, hai bên uống chén rượu chung vui. Những điều sai sót, xin tạ lỗi cùng quí vị.

Trí Tuệ Vương cười ha hả nói:

- Mày võ giỏi lắm, bọn tao thật là kính phục. Học mà được luyện tập, chẳng sướng lắm sao? Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao? Tan tành loạn xạ, chẳng sướng lắm sao?[4]

Trương Vô Kỵ khi mới nghe y dẫn chứng hai câu trong sách, nghĩ thầm người này đã biết được lời Khổng Tử, quả không phải dễ không ngờ y liền nối theo hai câu học của Triệu Mẫn, nhịn không nổi phải phì cười. Triệu Mẫn nói:

- Câu mày nói hay lắm. Kẻ man di như Ba Tư mà biết thế thật là hiếm có. Chúc chúng mày đa phúc đa thọ, sống lâu thêm nhục, họa đến tổ tiên, không bệnh cũng chết.

Trí Tuệ Vương chỉ hiểu được "đa phúc đa thọ", nghĩ chắc những chữ sau cũng đều là những câu chúc tụng, cười hì hì, luôn mồm "đa tạ, đa tạ".

Trương Vô Kỵ sợ Triệu Mẫn cao hứng quá không biết sẽ giở thêm những trò điêu ngoa cổ quái gì khác, mình đang ở nơi giữa bầy lang hổ, đêm dài lắm mộng, chạy thoát sớm lúc nào hay lúc nấy nên vội vàng kéo neo, chuyển bánh lái, giương buồm cho thuyền từ từ dong ra. Những người Ba Tư ở chung quanh thấy chàng kéo neo dương buồm, một mình làm bằng cả chục người khác, thần lực kinh người đều lớn tiếng reo hò. Chỉ thấy dây buộc theo một chiếc thuyền nhỏ ném qua, Trương Vô Kỵ liền bắt lấy buộc nơi đuôi tàu kéo theo từ từ đi ra mỗi lúc một xa. Trong chiếc thuyền nhỏ chỉ có hai người, một nam một nữ, chính là Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ.

Trương Vô Kỵ cầm tay lái, cho thuyền đi về hướng tây, thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, đi được mấy dặm, nhìn lại hướng Linh Xà đảo thấy thuyền địch chỉ còn nhỏ tí vẫn ở yên đó nên cũng an tâm.

Chàng bèn nhờ Tiểu Siêu giữ tay lái, vào trong khoang xem xét bệnh tình Ân Ly, thấy nàng nửa tỉnh nửa mê nằm thiêm thiếp, tuy không thấy bớt chút nào nhưng cũng không nặng thêm, nghĩ thầm trong chiếc thuyền lớn của Ba Tư có khi kiếm được thuốc men không chừng.

Đại Ỷ Ti đứng nơi đầu thuyền nhìn ra biển, nghe tiếng bước chân Trương Vô Kỵ đi lên trên sàn nhưng cũng không quay lại. Trương Vô Kỵ nhìn từ sau lưng thấy bà ta thật xinh đẹp, mái tóc dài bay phất phơ để lộ chiếc cổ trắng như ngọc, Tạ Tốn bảo là năm xưa được xưng đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm quả thật không sai, nghĩ đến khi ở trên Quang Minh Đính nơi Bích Thủy Hàn Đàm, tà áo tím phất phới như hoa, cầm thanh kiếm sáng loáng như tuyết thật quả điên đảo bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Thuyền đi đến chiều, tính ra phải cách đảo Linh Xà đến một trăm dặm, nhìn về phương đông, trên biển không thấy một cánh buồm nào, quả thực tổng giáo Ba Tư bị ép buộc không dám đuổi theo. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, mình đã tha bọn họ ra được chưa?

Tạ Tốn đáp:

- Được rồi, bọn họ dẫu muốn đuổi theo cũng đuổi không kịp nữa.

Trương Vô Kỵ liền giải huyệt cho Bình Đẳng, Công Đức, Chưởng Hỏa tam vương luôn cả Diệu Phong Sứ, luôn mồm xin lỗi, thả cho họ về chiếc thuyền nhỏ kéo theo sau đuôi. Diệu Phong Sứ nói:

- Những thánh hỏa lệnh đó do bọn ta trông coi, đánh mất tội nặng lắm, xin giao lại cho.

Tạ Tốn nói:

- Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung Thổ, hôm nay vật về chủ cũ, làm sao lại có thể giao cho ngươi được.

Diệu Phong Sứ cứ nằng nặc đòi lại nhất định không chịu thôi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm hôm nay mình phải làm cho y tâm phục, khỏi dây dưa rắc rối về sau liền nói:

- Nếu bọn ta giao lại cho ngươi, các ngươi bản lãnh thấp kém làm sao giữ được. Nếu như bị người ta cướp mất với ở trong tay Minh giáo thì cái nào hơn?

Diệu Phong Sứ nói:

- Người ngoài làm sao có thể cướp được?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu ngươi không tin, để thử thì biết.

Chàng giao lại sáu thanh thánh hỏa lệnh cho Diệu Phong Sứ. Y mừng quá chỉ nói được một câu: "Đa tạ". Trương Vô Kỵ tay trái móc nhẹ một cái, tay phải kéo về, lại lấy lại cả sáu chiếc lệnh bài.

Diệu Phong Sứ kinh hãi, giận dữ nói:

- Ta cầm chưa chặt, cái đó không tính.

Trương Vô Kỵ cười:

- Thế thử thêm lần nữa cũng có sao.

Chàng lại giao thánh hỏa lệnh lại cho y. Diệu Phong Sứ để bốn chiếc lệnh bài vào túi, trong tay cầm hai chiếc, thấy Trương Vô Kỵ giơ tay ra cướp, thánh hỏa lệnh bên trái liều đánh vào cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ lật tay một cái, đã bắt được cánh tay y, cầm luôn hất lên, hai chiếc lệnh bài đụng nhau, nghe keng một tiếng chấn động cả người. Nội lực hùng hậu của Trương Vô Kỵ theo tay y mà truyền ra, Diệu Phong Sứ hai tay tê chồn, toàn thân mất hết hơi sức chẳng khác gì bị bại liệt vội rụt tay về để thánh hỏa lệnh rơi xuống sàn.

Trương Vô Kỵ bèn thò tay vào bọc y lấy bốn chiếc thánh hỏa lệnh trước sau đó mới nhặt hai lệnh bài trên sàn thuyền nói:

- Thế nào? Ngươi có muốn thử thêm lần nữa hay không?

Diệu Phong Sứ mặt tái ngắt, chỉ lẩm bẩm:

- Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ.

Y định nhảy trở về thuyền nhỏ, nhưng trượt chân lảo đảo muốn ngã. Lưu Vân Sứ liều nhảy tới bồng y trở về. Chiếc thuyền nhỏ liền dựng buồm lên, Công Đức Vương cầm dây buộc, hai tay kéo một cái, nghe soẹt một tiếng đứt ngay, hai chiếc thuyền liền tách ra. Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Đắc tội thật nhiều xin các vị lượng thứ cho.

Bọn Công Đức Vương mắt người nào cũng hầm hầm đầy thù hận không ai đáp lại lời nào. Chiếc thuyền lớn thuận gió trôi về hướng tây, hai chiếc thuyền xa nhau dần. Đột nhiên Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn giặc này giỏi thật.

Bà ta nhảy vụt xuống biển, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội vàng chuyển tay lái. Chỉ thấy một dòng máu từ dưới biển nổi lên, rồi ở cách một quãng lại có một dòng máu khác, trong giây lát tất cả đếm được sáu đốm máu. Nghe sạch một tiếng, Đại Ỷ Ti từ dưới biển vọt lên, trên miệng ngậm một thanh đoản đao, tay phải cầm tóc một người Ba Tư. Trương Vô Kỵ vội vàng quay thuyền lại đón nhưng vì chiếc thuyền quá lớn, muốn quay đầu lại mà không phải hạ buồm đành phải đánh một vòng thật lớn mới từ từ đến gần. Tử Sam Long Vương bơi lội ở dưới biển không khác gì cá, chẳng mấy chốc đã đến bên thuyền, tay nắm vào dây neo nhún một cái, thân hình bay vọt lên, luôn cả gã Ba Tư kia cũng cùng vọt lên trên sàn thuyền.

Cả bọn ai nấy lạnh người biết người Ba Tư có bụng chơi ác, đợi bọn Công Đức Vương qua được thuyền nhỏ rồi liền lấy chiếc buồm che đi cho người bơi lội giỏi lặn xuống bên cạnh thuyền, định đục cho chìm thuyền của Trương Vô Kỵ. May là Tử Sam Long Vương nhìn thấy những bọt hơi của bọn người lặn dưới nước nhảy xuống biển giết được sáu tên, lại còn bắt sống một đứa.

Bà ta đang định tra hỏi gã Ba Tư bỗng nghe một tiếng nổ lớn nơi đuôi thuyền, khói đen bốc lên. Chiếc thuyền chòng chành như trúng phải đạn đại bác, đuôi thuyền gỗ bay tứ tán. Bọn Trương Vô Kỵ thấy một làn hơi nóng phả vào mặt, vội vàng nằm phục xuống.

Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn này gian ác thật.

Bà ta chạy ra khoang sau thấy đuôi thuyền bị thủng một lỗ lớn, chiếc bánh lái đã bay mất không biết nơi đâu, nước biển theo lỗ thủng đổ vào ào ào. Đại Ỷ Ti dùng tiếng Ba Tư hỏi gã bị bắt mấy câu rồi giơ tay lên đập xuống, đầu gã nát bấy, giơ chân đá luôn xuống biển nói:

- Tôi chỉ tưởng họ toan đục thuyền, đâu có ngờ họ lại buộc thuốc nổ vào bánh lái.

Bấy giờ chiếc thuyền của bọn Công Đức Vương đi đã xa, Đại Ỷ Ti dù bơi có giỏi thế nào chăng nữa cũng không thể nào đuổi kịp. Cả bọn yên lặng nhìn nhau, đành bó tay không làm gì khác được. Triệu Mẫn buồn bã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: "Thuyền địch chẳng mấy chốc sẽ đuổi đến nơi, mình thật chết không có đất mà chôn".

Chiếc thuyền đó thân thật lớn, trong một giờ một khắc chưa thể nào chìm hết được. Ngay lúc đó, Đại Ỷ Ti bỗng quay sang xí xố nói với Tiểu Siêu mấy câu tiếng Ba Tư, Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư đáp lại, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc biến đổi bất định. Chỉ thấy Tiểu Siêu đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đôi má ửng hồng cực kỳ e thẹn. Đại Ỷ Ti lại gay gắt hỏi dồn. Hai người nói chuyện thật lâu, dường như tranh biện chuyện gì, về sau Đại Ỷ Ti lại như khuyên nhủ Tiểu Siêu nhận lời làm việc gì đó, nhưng nàng chỉ nhất quyết lắc đầu không chịu. Sau cùng nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, thở dài một tiếng, nói vài ba câu. Đại Ỷ Ti giang tay ôm nàng vào lòng không ngừng hôn hít cô gái, hai người nước mắt cùng chảy xuống như mưa. Tiểu Siêu thút thít khóc mãi không thôi, còn Đại Ỷ Ti thì ngọt ngào an ủi nàng.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược ba người ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Anh xem, hai người trông giống nhau quá.

Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu cùng có bộ mặt trái soan cực kỳ thanh tú, mũi cao da trắng, ánh mắt long lanh, khuôn mặt phải giống nhau đến sáu bảy phần. Có điều khuôn mặt Tiểu Siêu, nét người Hồ Ba Tư chỉ còn còn loáng thoáng, còn Đại Ỷ Ti thoạt nhìn là biết ngay không phải người Trung Thổ. Chàng nhớ lại khổ đầu đà Phạm Dao khi ở tiểu điếm nơi Đại Đô khi thấy Tiểu Siêu đã nói mấy câu: "Giống quá, giống quá", thì ra giống đây là nói Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương. Vậy Tiểu Siêu là em gái bà ta chăng? Hay là con ruột?

Trương Vô Kỵ lại nghĩ ngay đến cha con Dương Tiêu, Dương Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi khi chàng hỏi tại sao lại đối với một cô bé con mà có phần ngại ngùng như đối phó với đại địch, Dương Tiêu chỉ trả lời rất mù mờ. Bây giờ chàng mới rõ ràng, Dương Tiêu cũng nhìn thấy dung mạo Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương, có điều không có chứng cớ, lại thấy Trương Vô Kỵ có ý bênh vực cô ta thành thử không tiện nói thẳng. Đến như Tiểu Siêu cố ý méo mồm, nhăn mũi cố ý giả làm một cô gái xấu xí, cũng là cốt để che đậy đấy thôi.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc: "Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh Đính để làm gì? Sao nàng lại biết được cửa ra vào bí đạo, hẳn là do Tử Sam Long Vương sai nàng đến, cốt để đánh cắp Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Nàng chịu làm một tì nữ hầu hạ ta, chung sống với nhau đến cả hai năm qua, ta có bao giờ đề phòng đâu, pho tâm pháp này chính nàng đã đọc qua rồi, sau này nếu như có sao lại, thật dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chao ôi! Ta vẫn tưởng nàng là một cô bé ngây thơ, ngờ đâu nàng cũng đầu những mưu mô tâm kế. Hai năm qua ta khác gì người trong mộng, sa vào bẫy của nàng mà có biết gì đâu! Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi vốn cả tin người, đâu đâu cũng bị người ta lừa dối, đến ngay một con tiểu a đầu cũng đem ngươi ra đùa trên tay được". Chàng nghĩ đến đây, không khỏi trào lên một nỗi căm ghét.

Ngay lúc đó, Tiểu Siêu lại đưa mắt nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy trong ánh mắt nàng nhu tình vô hạn, không thể nào bảo là giả dối được, trong lòng bỗng nổi lên một nỗi dạt dào, nghĩ đến khi chiến đấu với lục đại môn phái trên Quang Minh Đính, nàng đã xả thân bảo vệ cho mình, hai năm qua chăm chút hầu hạ, mình nghi ngờ nàng như thế không oan uổng lắm sao? Chàng còn đang ngần ngừ, chiếc thuyền lắc mạnh một cái, chìm xuống thêm một khoảng lớn.

Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, các vị không việc gì phải kinh hoàng. Đợi thuyền của người Ba Tư tới đây, tôi và Tiểu Siêu ắt có biện pháp đối phó. Tử Sam Long Vương tuy là phận nữ nhi nhưng cũng biết ai làm người ấy chịu, không dám để cho quí vị bị liên lụy đâu. Trương giáo chủ và Tạ tam ca đãi tôi ơn nặng tày non, Đại Ỷ Ti lúc này xin được cảm tạ.

Nói xong bà ta phục xuống lạy, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn vội vàng hoàn lễ, nghĩ thầm: "Bọn người Ba Tư hành sự độc ác, thể nào cũng đem bà ta ra thiêu sống, chắc cũng không tha gì bọn mình".

Chiếc thuyền vẫn từ từ chìm xuống, nước đã vào đến trong khoang. Trương Vô Kỵ ôm Ân Ly, Chu Chỉ Nhược ôm Triệu Mẫn, cùng trèo lên đà cột buồm. Tiểu Siêu bỗng chỉ tay về hướng đông, khóc òa lên. Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, thấy tận tít mù khơi những cánh buồm lấm chấm. Một hồi lâu sau, bóng những chiếc buồm đó lớn dần, chính là hơn một chục chiếc thuyền lớn của Ba Tư đã đuổi tới.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu như ta là Đại Ỷ Ti, thà rằng nhảy xuống biển chết còn hơn là chịu bị bắt đem hỏa thiêu". Tuy nhiên thần sắc bà ta vẫn bình tĩnh thản nhiên, không có vẻ gì kinh hãi chàng không khỏi bội phục: "Bà ta đứng đầu trong tứ đại pháp vương, quả không phải tầm thường. Nghĩ lại năm xưa Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương là những hào kiệt lớn tuổi đã thành danh, còn bà ta chỉ là một cô gái trẻ măng, vậy mà lại đứng trên cả ba người, đâu phải chỉ vì công lao một ngày mà được, cũng phải có chỗ hơn người".

Khi thấy đoàn thuyền Ba Tư mỗi lúc một gần, chàng nghĩ thầm: "Ta đắc tội với các Bảo Thụ Vương không phải nhỏ, nếu rơi vào tay họ thì khó mà mong sống được. Chỉ có điều phải nghĩ cách làm sao để nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu Chỉ Nhược, biểu muội được an toàn. Tiểu Siêu hỡi Tiểu Siêu, ôi! Thà rằng để em đối với ta bất nghĩa chứ không thể nào ta đối với em bất nhân".

Đoàn thuyền Ba Tư tới gần, các khẩu đại pháo trên thuyền đều chĩa thẳng vào cột buồm chiếc thuyền đang chìm, khi còn cách chừng hai chục trượng thì lập tức hạ buồm thả neo. Trí Tuệ Vương cười ha hả cực kỳ đắc ý, kêu lên:

- Chúng mày có chịu hàng chưa?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Nghĩa sĩ Trung Thổ, thà chết không khuất phục, sao lại đầu hàng? Ngươi có giỏi thì dùng võ công xem ai hơn ai thua nào.

Trí Tuệ Vương cười nói:

- Đại trượng phu đấu trí không đấu sức, mau mau đưa tay chịu trói đi.

Đại Ỷ Ti bỗng nhiên lớn tiếng nói mấy câu tiếng Ba Tư, giọng nói hết sức nghiêm chính. Trí Tuệ Vương ngạc nhiên, cũng đáp lại bằng tiếng Ba Tư. Hai người nói qua nói lại đến hơn chục câu, rồi gã Đại Thánh Vương cũng chen vào hỏi thêm. Nói thêm mấy câu nữa, thuyền lớn liền thả xuống một chiếc thuyền nhỏ, có tám tên thủy thủy chèo thuyền, bơi qua. Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, tôi và Tiểu Siêu qua bên kia trước, xin quí vị chờ đây giây lát.

Tạ Tốn gằn giọng nói:

- Hàn phu nhân, Minh giáo Trung Thổ đãi bà không bạc. Hưng suy an nguy của bản giáo đều ở một mình Vô Kỵ mà thôi, nếu bà bán rẻ chúng tôi, cái mạng Tạ Tốn này không đáng nói, thế nhưng nếu như hại đến một cái lông, sợi tóc của Vô Kỵ, Tạ Tốn dẫu thành ma cũng không tha cho bà đâu.

Đại Ỷ Ti cười khẩy nói:

- Con nuôi ông là vàng là ngọc, còn con gái tôi thì là đất là bùn hay sao?

Nói xong cầm tay Tiểu Siêu, nhẹ nhàng nhẩy một cái rơi ngay xuống chiếc thuyền con. Tám tên thủy thủ chèo nhanh như bay, quay về thuyền của người Ba Tư. Mọi người nghe bà ta nói câu đó, đều ngạc nhiên. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu quả đúng là con gái bà ta.

Nhìn theo xa xa thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu lên chiếc thuyền lớn, đứng ở đầu thuyền, cùng các Bảo Thụ Vương nói chuyện, còn chiếc thuyền của mình vẫn chìm dần, chiếc cột buồm từng tấc, từng tấc từ từ hạ xuống.

Tạ Tốn thở dài:

- Không phải người cùng chủng tộc với mình, tâm hồn cũng khác xa. Vô Kỵ con ơi, ta quen nhầm Hàn phu nhân, còn con thì quen nhầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, mình cố gắng chịu đựng cái nhục nhất thời, để tìm cách chạy trốn. Trên vai con đảm đương gánh nặng, nghìn vạn dân trăm họ Trung Nguyên, ai ai cũng mong Minh giáo phất ngọn nghĩa kỳ, khu trừ Thát tử. Khi nào thời cơ đến, con cứ một mình thoát thân, đừng phải lo gì cho ai cả. Con đứng đầu của một giáo phái, nặng nhẹ lớn bé phải biết phân biện cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ còn trầm ngâm chưa trả lời, Triệu Mẫn đã hứ một tiếng nói:

- Cái mạng mình còn lo chưa xong, nói gì Thát tử với không Thát tử. Ông bảo người Mông Cổ tốt hay người Ba Tư tốt?

Chu Chỉ Nhược từ nãy vẫn không nói năng gì đột nhiên chen vào:

- Tiểu Siêu đối với Trương công tử tình ý thâm trọng, quyết không thể nào phản bội mình đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Thế cô không thấy Tử Sam Long Vương nằng nặc bức bách cô ta hay sao? Tiểu Siêu lúc đầu không chịu, nhưng sau bị ép quá, rồi cũng phải chịu, còn giả vờ khóc lóc một hồi nữa.

Lúc này cột buồm chỉ còn cách mặt biển chừng hơn một trượng, mỗi lần sóng biển tạt vào, nước bắn lên khiến ai nấy mặt mày ướt đẫm. Triệu Mẫn đột nhiên cười nói:

- Trương công tử, cả bọn cùng chàng chết chung một chỗ càng tốt. Tiểu Siêu gian trá âm hiểm nên không được chết chung với chúng mình.

Câu nói đó vốn là một câu nói đùa, nhưng bên trong tình nghĩa thật triền miên. Trương Vô Kỵ nghe thật cảm động, nghĩ thầm: "Ta không lấy được tất cả một lượt, nhưng cùng ba cô chết chung một chỗ, cũng không uổng chút nào". Chàng quay lại nhìn Triệu Mẫn, rồi lại nhìn Chu Chỉ Nhược, rồi nhìn xuống Ân Ly trong lòng mình. Ân Ly lúc này vẫn hôn mê chưa tỉnh, còn Triệu Chu hai nàng má đỏ hồng, thêm những giọt nước lấm tấm trên mặt chẳng khác gì những giọt sương trên bông hoa buổi sớm, nàng họ Triệu tươi tắn như nụ hồng, còn nàng họ Chu tú lệ như chi lan, khiến đột nhiên chàng thấy trong lòng thật bình an vui sướng.

Bỗng thấy trên hơn một chục chiếc thuyền Ba Tư tiếng hoan hô vang dậy. Cả bọn Trương Vô Kỵ giật mình, cùng chăm chú nhìn qua thấy trên tất cả mọi chiếc thuyền người Ba Tư đều quì phục xuống sàn, hướng về chiếc thuyền lớn hành lễ. Trên chiếc thuyền lớn các Bảo Thụ Vương cũng quì xuống tại đầu thuyền, chính giữa một người ngồi trên ghế, trông hình như là Tiểu Siêu nhưng vì quá xa nên nhìn không rõ. Cả bọn kinh nghi bất định, không biết bọn người Ba Tư đang làm trò quái quỉ gì. Bọn người Hồ hoan hô một chặp rồi đứng cả lên nhưng vẫn không ngừng xí xố, giọng điệu cực kỳ sung sướng, dường như có chuyện gì thật vui mừng.

Một lúc sau, chiếc thuyền nhỏ lại quay lại, trong thuyền ngồi chính là Tiểu Siêu. Nàng vẫy tay nói:

- Trương công tử, xin tất cả các vị cùng lên chiếc thuyền lớn. Minh giáo Ba Tư quyết không làm hại các vị đâu.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Các vị qua rồi sẽ biết. Nếu như có ý làm hại thì Tiểu Siêu ăn nói làm sao với Trương công tử?

Tạ Tốn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu, cô lên làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư, phải không?

Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Một lúc sau, đôi mắt to ứa ra hai hàng lệ trong như ngọc. Ngay khi đó, tai Vô Kỵ bỗng ù đi, mọi việc tiền nhân hậu quả chàng cũng đoán được bảy tám phần, trong lòng cực kỳ đau đớn, lại vô cùng cảm kích, nói:

- Tiểu Siêu, mọi sự em gánh chịu chẳng qua cũng chỉ vì tôi.

Tiểu Siêu nghiêng đầu qua, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Tạ Tốn thở dài:

- Đại Ỷ Ti có đứa con như thế, không hổ cho anh danh một đời của Tử Sam Long Vương. Vô Kỵ, thôi mình qua đi.

Nói xong ông nhảy xuống thuyền trước. Kế đến Chu Chỉ Nhược bồng Ân Ly nhảy xuống theo, Trương Vô Kỵ cũng ôm Triệu Mẫn xuống thuyền.

Tám tên thủy thủ quay thuyền lại, bơi về hướng chiếc thuyền lớn. Khi còn cách chiếc thuyền chừng mươi trượng, các Bảo Thụ Vương đã cùng khom mình nghinh tiếp giáo chủ. Tất cả lên trên đại hạm rồi, Tiểu Siêu dặn dò mấy câu, lập tức có người cung kính dâng lên khăn lau mặt, đồ ăn rồi dẫn mọi người vào phòng thay quần áo ướt.

Trương Vô Kỵ thấy căn phòng chàng vào cực kỳ rộng rãi, trong phòng đầy ngọc ngà châu báu, bày biện thật nhiều đồ quí giá, còn đang lau người nghe kẹt một tiếng cửa phòng mở ra, một người tiến vào chính là Tiểu Siêu. Nàng cầm trên tay một chiếc quần lót, một trường bào nói:

- Công tử, để em hầu chàng thay quần áo.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, nói:

- Tiểu Siêu, em bây giờ giáo chủ của tổng giáo rồi, nói đúng ra tôi còn ở dưới quyền em nữa, việc gì phải làm những việc này?

Tiểu Siêu năn nỉ:

- Công tử, đây là lần cuối cùng. Từ nay hai đứa mình đông tây xa xôi vạn dặm, không biết có còn bao giờ gặp lại nhau không, dẫu em có muốn hầu hạ chàng một lần nữa, cũng không còn được.

Trương Vô Kỵ đau lòng không nói nên lời, chỉ đành để nàng như vẫn thường làm, thay áo, cài khuy, thắt dây lưng, rồi lấy chiếc lược ra chải đầu cho chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nước mắt rưng rưng, đột nhiên trong lòng khích động, giơ tay ôm tấm thân thon nhỏ của cô gái vào lòng. Tiểu Siêu "A" lên một tiếng, thân thể run rẩy, Trương Vô Kỵ hôn lên trên đôi môi nàng một cái, nói:

- Tiểu Siêu, lúc đầu tôi lại tưởng em lừa dối tôi, đâu có ngờ em đối với tôi sâu đậm đến thế.

Tiểu Siêu nép đầu vào bộ ngực nở nang của Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Công tử, lúc đầu em quả có lừa dối chàng thật. Mẹ em vốn là một trong ba thánh nữ của tổng giáo, được phái sang Trung Thổ tích lập công đức để rồi trở về Ba Tư, tiếp nhiệm chức vụ giáo chủ. Ngờ đâu mẹ em gặp cha em rồi, tình ý không dứt ra được nữa, đành phải phản giáo để cùng cha em thành hôn. Mẹ em biết tội mình rất nặng, nên đem chiếc nhẫn thánh xử nữ bằng bảo thạch bảy màu truyền lại cho em, sai em trà trộn lên Quang Minh Đính ăn trộm Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Công tử, chuyện đó em đã dấu chàng nhưng trong lòng em, em chưa bao giờ làm điều gì không phải với anh. Em đã nguyện rằng em chẳng màng chức vụ giáo chủ Minh giáo Ba Tư, chỉ mong được làm một đứa tôi đòi, cả đời hầu hạ anh, vĩnh viễn không bao giờ xa anh thôi. Em cũng đã từng nói cho chàng hay rồi, có phải không? Chàng cũng đã bằng lòng như thế, có phải không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, ôm tấm thân nhỏ nhắn của Tiểu Siêu để lên lòng, lại cúi xuống hôn nàng lần nữa. Đôi môi mềm mại của cô gái ướt đẫm nước mắt, vừa ngọt ngào, vừa cay đắng. Tiểu Siêu lại nói:

- Em đã nhớ hết Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp nhưng quyết không vì có lòng phản bội anh. Nếu không phải vì ngày hôm nay ở vào đường cùng, em chẳng bao giờ nói ra cả ...

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:

- Bây giờ thì anh biết rồi.

Tiểu Siêu ngậm ngùi nói tiếp:

- Khi em còn bé, thấy mẹ em ngày đêm không an, lúc nào cũng sợ hãi, cố gắng che dấu dung nhan của mình, hóa tang thành một bà già xấu xí. Mẹ em lại không cho em được ở gần, đem gửi một người khác nuôi, hai ba năm mới đến gặp em một lần. Lúc đó em cũng đã hiểu rồi, mẹ em cực kỳ mạo hiểm để cùng cha em thành hôn. Công tử, nếu như hôm nay không gặp chuyện thế này, chẳng nói chức vụ giáo chủ, ngay cả làm nữ hoàng toàn thế giới em cũng chẳng màng.

Nói đến đây hai má nàng đỏ hồng lên như bốc lửa. Trương Vô Kỵ thấy người con gái chàng đang ôm trong tay người nóng rực lên, trong lòng xúc động, bỗng nghe tiếng của Đại Ỷ Ti từ ngoài vọng vào:

- Tiểu Siêu, nếu con không khắc chế được tình dục, ấy là làm hại tính mệnh của Trương công tử đó.

Thân hình Tiểu Siêu run lên, nàng vội trườn ra ngoài nói:

- Công tử, từ nay trở đi chàng đừng nhớ tới em làm gì. Ân cô nương theo mẹ em lâu ngày, đối với chàng tình thật sâu đậm, quả xứng đôi vừa lứa với anh.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Bọn mình tấn công ra, bắt giữ một hai Bảo Thụ Vương, ép họ phải thả mình về đảo Linh Xà.

Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu nói:

- Lần này họ có kinh nghiệm rồi, Tạ đại hiệp, Ân cô nương tất cả mọi người đều có người Ba Tư kề dao vào cổ, mình chỉ động đậy, là họ lập tức giết ngay.

Nói xong nàng mở cửa khoang ra, thấy Đại Ỷ Ti đứng tại bên ngoài, hai người Ba Tư cầm trường kiếm đứng ngay sau lưng. Hai người đó khom lưng chào Tiểu Siêu, nhưng mũi kiếm vẫn để ngay lưng Đại Ỷ Ti không rời.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi tới trên sàn, Trương Vô Kỵ đi theo phía sau, quả nhiên thấy Tạ Tốn cả bọn đều có võ sĩ Ba Tư đứng sau lưng cầm kiếm uy hiếp. Tiểu Siêu nói:

- Công tử, ở đây có linh dược trị thương của Ba Tư, chàng lấy mà chữa cho Ân cô nương.

Nói xong dùng tiếng Ba Tư dặn dò mấy câu, Công Đức Vương liền lấy ra một bình thuốc cao đưa cho Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu lại nói:

- Em ra lệnh cho người đưa các vị về Trung Thổ, thôi mình từ biệt nhau nơi đây. Tiểu Siêu thân ở Ba Tư nhưng ngày ngày cầu cho công tử được phúc thể khang ninh, mọi việc như ý.

Nàng nói nhưng giọng nghẹn ngào, Trương Vô Kỵ nói:

- Em ở nơi hang hùm miệng sói, mọi việc nên cẩn thận.

Tiểu Siêu gật đầu ra lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị thuyền bè. Tạ Tốn, Ân Ly, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược từng người đi qua. Tiểu Siêu đem đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên giao lại cho Trương Vô Kỵ, nở một nụ cười tê tái, giơ tay vẫy chào.

Trương Vô Kỵ không biết phải nói sao, chỉ đứng xuất thần giây lát rồi nhảy lên thuyền. Chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu đang đứng có tiếng tù và u u vang động, hai bên cùng giương buồm lên, mỗi lúc một xa dần. Thế nhưng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở đầu thuyền, đăm đăm nhìn về hướng Trương Vô Kỵ. Khoảng biển giữa hai người càng lúc càng xa, chiếc thuyền của nàng chỉ còn là một cái chấm nhỏ, sau cùng biển cả mênh mông, tiếng gió thổi vào buồm tưởng như mang theo cả tiếng ai nức nở, nghẹn ngào.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nga Mặc đây là Omar Khayyam, một thi sĩ, toán học gia, thiên văn gia, triết gia rất nổi tiếng của Ba Tư (1048-1131 - trong Encyclopeadia Britannica viết là 1122). Có thể nói ông là một nhà bác học lỗi lạc và nhiều công trình thiên văn chính xác đến mức chúng ta ngày nay phải kinh ngạc. Ông được Ni Nhược Mâu (Nizam al-Mulk) là quốc sư của vua Malik-Shah, mời về triều, được nhà vua đặt trông coi và thiết lập một đài thiên văn để tính toán lịch số. Sau khi Nizam al-Mulk bị ám sát chết trên đường đi từ kinh đô Esfahan đến Baghdad năm 1092, Omar Khayyam bị thất sủng. Tác phẩm của Omar Khayyam được dịch ra nhiều thứ tiếng và bản tiếng Anh do Edward FitzGerald (1859) rất nổi tiếng. Thơ của ông làm theo thể tứ tuyệt (bốn câu hay quatrain) nay còn lưu truyền khoảng 250 bài.

Về cái chết của Nizam al-Mulk, sách vở chép là do nhóm khủng bố Ismailiyah (Y Tư Mỹ Lương) nhưng cũng có nơi cho là do âm mưu của vợ ông vì con trai bà không được chỉ định làm người thừa kế. Nhóm khủng bố Ismailiyah này có nhiều chi phái, trong đó một nhóm Hồi giáo ly khai cực đoan từ Ai Cập truyền tới Ba Tư do Hasan-e Sabbah (Thôi Sơn 1034-1124) lãnh đạo đã có thời đã kiểm soát một khu vực rộng lớn trong dãy núi Elburz giữa Iran và Syria, có ảnh hưởng mạnh trong tầng lớp thợ thuyền và dân lao động. Hasan có biệt danh là Old Man of the Mountains mà Kim Dung dịch là Sơn Trung Lão Nhân được sử sách kể là dùng môt loại cây có chất ma túy tên là hashish khiến người dùng nó có ảo giác để mê hoặc những đồng đảng. Người được lệnh đi thi hành việc ám sát được gọi là Hashshashin (người hút hashish) và chữ này đã biến thành chữ assassin trong tiếng Anh. Nhóm này đóng một vai trò quan trọng cho tới tận thế kỷ thứ 13 thì bị người Mông Cổ tiêu diệt. Hiện nay vẫn còn một số ít người thuộc nhóm khủng bố này sống ở Trung Á.

Về việc nhóm này ám sát vua Edward nước Anh, người dịch chưa tìm ra tài liệu vì trong suốt lịch sử Anh quốc có rất nhiều vua tên Edward và không có vua nào cùng thời với Hasan cả.

[2] Lăng ba tiên tử mô tả một nàng tiên trên mặt sóng nhưng nghĩa bóng cũng ám chỉ môt đóa sen lay động trên mặt nước

[3] học giả chuyên nghiên cứu kinh điển

[4] Đoạn này tác giả cố ý để Trí Tuệ Vương dẫn một số câu trong Luận Ngữ lại bắt chước Triệu Mẫn nhầm chữ nọ qua chữ kia. Nguyên câu của Khổng Tử là: Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ. Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ có nghĩa là: Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao. Học mà được làm những điều mình đã học, chẳng sướng lắm sao. Tác giả viết rất hoạt kê để cho một người ngoại quốc nói tiếng Hán có nhiều điều nhầm lẫn, lời lẽ thô lỗ.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ytdlk