YThienDoLongKy_30_40

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 30

ĐÔNG TÂY VĨNH CÁCH NHƯ SÂM THƯƠNG

Dẫu cho xa cách muôn trùng,

Thân tuy hai ngả nhưng lòng không chia.

*

* *

Ân Ly hát khúc hát đó rồi, sau đó lại thêm một bài khác, lần này tiếng ca hết sức ngụy bí, không giống điệu hát Trung Thổ chút nào, nghe cho kỹ thấy từ ý cũng giống như khúc hát của Tiểu Siêu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như thể chiêm bao,

Về đâu rồi sẽ ra sao bây chừ?

(Lai như lưu thủy hề, thệ như phong.

Bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung)

Nàng cứ hát đi hát lại hai câu ấy mãi, càng lúc càng nhỏ dần, đến khi tiếng hát lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió không còn nghe thấy gì nữa. Mọi người nghĩ đến sinh tử vô thường, cõi nhân sinh như nước sông chảy mãi không hiểu từ đâu mà đến, dẫu cho anh hùng hào kiệt cũng không ai qua khỏi được cái chết, có khác gì gió mát kia chẳng biết thổi về nơi nào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay nhỏ nhắn của Triệu Mẫn lạnh như băng nằm trong tay mình hơi run rẩy.

Tạ Tốn bỗng nói:

- Khúc hát Ba Tư này là do Hàn phu nhân dạy cho cô ta đó, một buổi chiều hơn hai mươi năm trước, ta ở trên Quang Minh Đính đã từng nghe rồi. Ôi, đâu có ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình đến thế, ra tay hạ độc thủ với con bé đến thế này.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Lão gia tử, Hàn phu nhân làm sao biết hát khúc hát Ba Tư, hay vốn là bài ca của Minh giáo chăng?

Tạ Tốn đáp:

- Minh giáo truyền từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có uyên nguyên với Minh giáo nhưng không phải là bài ca của Minh giáo. Bài hát này là do một vị thi nhân rất nổi tiếng của Ba Tư hơn hai trăm năm trước đây tên là Nga Mặc làm, nghe nói người Ba Tư ai ai cũng biết cả. Năm xưa khi ta nghe khúc hát này thấy hay quá nên có hỏi Hàn phu nhân về lai lịch của bài ca, bà ta có kể rõ ràng đầu đuôi cho ta nghe.

Ngày đó đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở trường dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt xuất: Nga Mặc giỏi về văn học, Ni Nhược Mâu giỏi về chính trị còn Thôi Sơn giỏi về võ công. Ba người hợp tính nhau nên cùng thề ước nếu giàu sang sẽ không quên nhau. Về sau Ni Nhược Mâu đường mây rong ruổi được làm Thủ tướng của Giáo Vương. Hai người bạn cũ cũng tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo Vương phong quan chức cho Thôi Sơn. Nga Mặc không muốn làm quan, chỉ xin một món tiền bổng hàng năm để có thì giờ nghiên cứu thiên văn lịch số, uống rượu ngâm thơ. Ni Nhược Mâu mọi việc đều ưng thuận, đối xử thật hậu hĩ.

Ngờ đâu Thôi Sơn vẫn mang hùng tâm không chịu ở dưới người khác, âm mưu phản loạn. Việc y làm thất bại bèn kết tụ đồng đảng vào trong núi thành một thủ lãnh tông phái uy chấn thiên hạ, gọi là phái Y Tư Mỹ Lương chuyên ám sát giết người. Thời Thập Tự Quân, người Tây Vực khi nói đến tên Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn, không ai là không kinh sợ. Thời đó vua các nước Tây Vực bị chết về tay các thủ hạ của Thôi Sơn không biết bao nhiêu mà kể.

Hàn phu nhân nói rằng, bên phía cực tây ngoài biển khơi có một đại quốc, tên là Anh Cách Lan, vua nước đó là Ái Đức Hoa có lỗi với Sơn Trung lão nhân bị y sai người hành thích. Quốc vương bị trúng dao tẩm thuốc độc, may nhờ vương hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra, nhờ thế nhà vua mới thoát chết. Thôi Sơn chẳng kể gì đến ân nghĩa ngày xưa, lại sai người giết chết Thủ tướng Ba Tư là Ni Nhược Mâu. Khi sắp chết, Thủ tướng ngâm bài thơ của Nga Mặc, chính là hai câu "Đến như nước chảy hề, đi như gió, Ai biết về đâu hề, rồi ra sao?". Hàn phu nhân cũng có nói rằng về sau võ công của Sơn Trung Lão Nhân do Minh giáo học được. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị lạ lùng, có lẽ học từ Sơn Trung lão nhân.[1]

Triệu Mẫn hỏi:

- Tạ lão gia, tính tình của Hàn phu nhân cũng chẳng khác gì Sơn Trung lão nhân. Ông đối xử với bà ta hết tình hết nghĩa vậy mà bà ta lại âm mưu hại ông.

Tạ Tốn thở dài:

- Ở trên đời này con người lấy oán báo đức là chuyện thật là bình thường, có gì lạ đâu?

Triệu Mẫn cúi đầu suy nghĩ một lát nói:

- Hàn phu nhân được đứng đầu tứ vương của Minh giáo, sao võ công không có gì là cao cường hơn lão gia cả. Đêm hôm qua bà ta động thủ với ba sứ giả Ba Tư, sao không thấy sử dụng Thiên Châu Vạn Độc Thủ là sao?

Tạ Tốn ngạc nhiên:

- Thiên Châu Vạn Độc Thủ? Hàn phu nhân đâu có biết sử dụng. Bà ta là một tuyệt sắc mỹ nhân, quí dung nhan còn hơn tính mạng của mình đời nào lại luyện công phu đó.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược đều ngạc nhiên, nghĩ thầm tướng mạo Kim Hoa bà bà xấu xí, cứ như hiện nay mà nói, dù có trẻ lại ba bốn chục tuổi, cũng không thể nào gọi là "tuyệt sắc mỹ nhân". Bà ta mũi thì thấp, môi thì dày, mặt vuông bành bành, tai xòe ra đón gió, khuôn mặt đó có cách nào mà thay đổi được. Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, tiểu nữ chẳng thấy Kim Hoa bà bà đẹp ở chỗ nào cả.

Tạ Tốn nói:

- Sao thế? Tử Sam Long Vương đẹp như tiên trên trời, hơn hai mươi năm trước là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, bây giờ dù tuổi có cao, nhưng dáng dấp năm xưa hẳn cũng vẫn còn ... ôi, tiếc thay ta lại không còn nhìn được nữa.

Triệu Mẫn thấy ông ta nói hết sức trịnh trọng, xem ra bên trong có điều gì bí ẩn, bà lão lưng còng bệnh hoạn xấu xí kia, không lẽ đã có thời là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, nói gì cũng không thể nào tin được liền hỏi lại:

- Tạ lão gia danh chấn giang hồ, võ công cao cường, chẳng cần phải nói đến. Bạch Mi Ưng Vương tự mình sáng lập một ngành, cùng lục đại môn phái chống trả, tranh hùng võ lâm hơn hai chục năm, Thanh Dực Bức Vương thần xuất quỉ một, hôm trước nơi chùa Vạn An dọa sẽ hủy dung mạo tiểu nữ, bây giờ nghĩ lại vẫn còn kinh hãi. Kim Hoa bà bà võ công tuy cao, mưu trí tuy sâu nhưng được đứng trên ba vị xem ra có điều bất xứng, không hiểu vì duyên cớ gì?

Tạ Tốn nói:

- Đó là Ân nhị ca, Vi tứ đệ và ta ba người tình nguyện nhường bà ta đấy chứ.

Triệu Mẫn nói:

- Vì sao thế?

Đột nhiên nàng cười lên khanh khách nói:

- Hay là vì bà ta là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, người anh hùng không qua nổi cửa ải người đẹp, ba vị đại hào kiệt cam tâm đứng sau bóng quần hồng?

Nàng là gái phiên bang, không chấp nê lễ mạo tôn ti, trong lòng nghĩ sao liền chẳng ngại ngùng gì mở miệng nói đùa Tạ Tốn. Tạ Tốn không nổi giận, thở dài:

- Cam tâm bái phục dưới bóng quần hồng, đâu phải chỉ có ba người thôi đâu? Khi đó dù trong hay ngoài Minh giáo, mong được lọt vào mắt xanh của nàng Đại Ỷ Ti nói là hàng trăm người cũng còn là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Đại Ỷ Ti? Có phải đó là Hàn phu nhân không? Cái tên sao kỳ lạ vậy?

Tạ Tốn nói:

- Bà ta từ Ba Tư đến, đó là tên Ba Tư.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược đều giật mình cùng kêu lên:

- Bà ta là người Ba Tư ư?

Tạ Tốn lạ lùng:

- Không lẽ các ngươi không nhìn ra sao? Bà ta là con lai Trung Quốc - Ba Tư, tuy con ngươi và tóc đen nhưng mắt sâu, mũi cao, da trắng như tuyết khác xa gái Trung Nguyên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.

Triệu Mẫn nói:

- Không đâu, không đâu! Mũi bà ta thì tẹt, mắt thì hí, khác xa với gì ông mô tả. Trương công tử, chàng nghĩ có phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế! Không lẽ bà ta cũng như khổ đầu đà, cố ý hủy dung mạo mình chăng?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Khổ đầu đà là ai thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đó là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao.

Chàng liền đem chuyện Phạm Dao tự hủy dung mạo để trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương thuật sơ qua cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn thở dài:

- Việc đó Phạm huynh làm thật là đau lòng nhưng cũng thật đơn côi, có công to với bản giáo, người thường làm sao có được. Ôi, có lẽ phần lớn cũng vì Hàn phu nhân mà ra chăng?

Triệu Mẫn nói:

- Thôi Tạ lão gia đừng nói vòng vo nữa, kể cho chúng tôi nghe từ đầu chí cuối nào.

Tạ Tốn hừ một tiếng, ngửng đầu lên trời, xuất thần hồi lâu mới chậm rãi nói:

- Hơn hai mươi năm trước đây, lúc đó Minh giáo dưới quyền thống lãnh của Dương giáo chủ, thật là hưng vượng. Hôm đó đột nhiên có ba sứ giả người Hồ từ Ba Tư đến đỉnh Quang Minh, mang theo một lá thư từ giáo chủ tổng giáo bên Ba Tư yết kiến Dương giáo chủ. Trong thư có viết là tổng giáo Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả vốn là người gốc Trung Hoa, đã đến ở bên Ba Tư từ lâu, gia nhập Minh giáo, lập được nhiều công lao, lấy một người đàn bà Ba Tư làm vợ, sinh được một đứa con gái. Vị Tịnh Thiện sứ giả kia mới chết cách đây một năm, khi lâm chung lòng nhớ về cố quốc nên để lại di ngôn muốn con gái được trở về Trung Thổ. Giáo chủ tổng giáo tôn trọng di chí ấy nên sai người đưa con gái ông ta về Quang Minh Đính, nhờ Minh giáo Trung Thổ chăm lo chiếu cố cho. Dương giáo chủ liền bằng lòng ngay, mời cô gái đó vào.

Thiếu nữ kia vừa bước chân vào sảnh đường, lập tức căn phòng bừng sáng, thấy nàng xinh đẹp tuyệt trần không ai sánh kịp. Khi nàng uyển chuyển phục xuống vái chào Dương giáo chủ, trong sảnh đường tả hữu Quang Minh sứ giả, ba pháp vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ sứ không ai là không chấn động. Ba sứ giả Ba Tư hộ tống nàng ở lại Quang Minh Đính một đêm, qua hôm sau liền bái biệt, còn người con gái xinh đẹp Ba Tư Đại Ỷ Ti kia ở lại trên Quang Minh Đính.

Triệu Mẫn cười nói:

- Tạ lão gia, lúc ấy lão gia cũng mê cô gái xinh đẹp người Ba Tư kia, phải không? Đừng có xấu hổ, cứ thực thà nói cho chúng tôi nghe đi.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Không đâu! Khi đó ta mới vừa lấy vợ, đang trong thời kỳ mặn nồng, vợ ta lại mới mang thai, ta làm gì có tình ý khác được?

Triệu Mẫn "A" lên một tiếng, cảm thấy mình hơi lỡ lời. Nàng biết vợ con Tạ Tốn đều bị Thành Côn giết hại, lúc này vô ý đề cập đến, không khỏi chạm đến vết thương lòng của ông ta, vội nói:

- Đúng thế, đúng thế! Thảo nào Hàn phu nhân có nói, năm xưa bà ta lấy Ngân Diệp tiên sinh, trên Quang Minh Đính ai ai cũng phản đối, chỉ có Dương giáo chủ và lão gia là tốt với bà ấy thôi. Chắc là phu nhân của Dương giáo chủ không những đã xinh đẹp mà cũng lại ghê gớm lắm nên đấng trượng phu mới nem nép một bề.

Tạ Tốn nói:

- Dương giáo chủ khẳng khái hào hiệp, Đại Ỷ Ti tuổi tác chỉ đáng con gái ông ta. Huống chi tổng giáo giáo chủ Ba Tư đã gửi gấm ông ta chiếu cố, Dương giáo chủ đối với cô ta hết lòng hết dạ, quyết không thể nào có ý khác được. Dương giáo chủ phu nhân là sư muội của sư phụ ta Thành Côn, là sư cô của ta. Dương giáo chủ đối với phu nhân cực kỳ yêu thương kính trọng.

Thành Côn giết toàn thể gia đình Tạ Tốn, tuy trong tâm khảm thù hận càng lúc càng sâu nhưng khi đề cập đến tên Thành Côn, ông chỉ nhắc qua đến thôi không khác gì nhắc tới một người bình thường. Triệu Mẫn nói:

- Khổ đầu đà Phạm Dao nghe nói khi còn trẻ là một thanh niên thật đẹp trai, chắc là mê nàng Đại Ỷ Ti lắm nhỉ?

Tạ Tốn gật đầu:

- - Quả đúng là yêu một khắc mà tình đà muôn kiếp, gặp một lần mà suốt đời khắc sâu trong tâm khảm. Thực ra đâu phải chỉ một mình Phạm huynh, kẻ nhìn thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp mà không động lòng chắc chẳng bao nhiêu. Thế nhưng giáo qui Minh giáo rất nghiêm nhặt, ai ai cũng lấy lễ mà đãi, những người muốn cầu thân với Đại Ỷ Ti đều là những thanh niên chưa vợ. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti đối với ai cũng lạnh như tiền, hoàn toàn không giả vờ chút nào, dẫu là ai nếu lộ tình ý đều bị nàng ta mắng cho một trận, khiến cho người đó thẹn không còn đất đứng không còn dám tơ tưởng gì nữa. Sư cô ta Dương phu nhân có ý tác hợp, muốn ghép nàng với Phạm Dao thành vợ chồng. Đại Ỷ Ti nhất mực cự tuyệt, nói mãi nàng liền vung kiếm thề trước mặt mọi người quyết ý không lấy chồng, nếu bị ép uổng thà chết còn hơn. Từ đó trở đi ai ai cũng nản lòng chẳng còn dám nghĩ chuyện làm quen với nàng nữa.

Qua được nửa năm, một ngày kia có một người từ đảo Linh Xà ở ngoài khơi đến, tự xưng họ Hàn, tên là Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ khi trước, lên Quang Minh Đính để báo cừu cho cha. Mọi người thấy gã họ Hàn kia là một thanh niên tướng mạo không có gì đặc biệt khác thường, vậy mà dáng ngang nhiên một thân một mình lên Quang Minh Đính thách đấu với Dương giáo chủ không khỏi cười ồ lên. Tuy nhiên Dương giáo chủ lại rất trịnh trọng, tiếp như khách quí, mở đại tiệc thết đãi. Sau khi ăn uống rồi ông mới nói cho tất cả các anh em nguyên do vì đâu. Thì ra năm xưa Dương giáo chủ cùng cha y hai người nói năng không hợp sinh ra động thủ, đánh một chưởng Đại Cửu Thiên Thủ khiến đối phương bị trọng thương, ngã gục xuống không đứng lên nổi. Khi đó cha y có nói là ngày sau ắt sẽ báo mối thù đó, nhưng biết võ công mình không thể nào bì kịp, nếu không sai con trai ắt sẽ sai con gái đến tầm cừu. Dương giáo chủ nói: "Bất kể dù là con trai con gái gì chăng nữa, ta cũng nhường trước ba chiêu". Người kia nói: "Không cần phải nhường chiêu, nhưng tỉ võ thế nào thì phải do con ta định đoạt". Dương giáo chủ khi đó liền bằng lòng. Việc qua đã hơn mười năm, Dương giáo chủ không còn nghĩ gì đến nữa, nào ngờ người con trai của họ Hàn hôm nay lại đến đây.

Mọi người ai cũng nghĩ rằng, kẻ hiền lành chẳng ai đến, đã đến chắc chẳng ra gì, người này dám một thân một mình lên Quang Minh Đính, ắt phải có tài nghệ kinh người. Thế nhưng võ công của Dương giáo chủ cực kỳ cao cường, có thể nói là vô địch trong thiên hạ, chỉ trừ Trương chân nhân của phái Võ Đương ra, khó mà có ai thắng được ông ta một chiêu nửa thức. Gã họ Hàn kia được bao nhiêu tuổi, dù ba người, năm người như y cùng xông lên, Dương giáo chủ cũng chẳng coi vào đâu. Chỉ đáng lo là không biết y ra đề mục khó khăn gì.

Ngày hôm sau, gã Hàn Thiên Diệp trước mặt mọi người nói rõ ước ngôn khi xưa, cốt chặn trước Dương giáo chủ, để ông không thể nuốt lời, sau đó mới đưa đề mục tỉ đấu ra. Y muốn cùng Dương giáo chủ cùng nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm trên Quang Minh Đính để so tài cao thấp.

Lời y vừa nói ra, mọi người ai nấy kinh hãi đến thất thần. Bích Thủy Hàn Đàm nước lạnh thấu xương, dẫu ngay nắng hạ cũng chẳng một ai dám xuống, huống chi lúc này lại chính giữa mùa đông? Dương giáo chủ võ công tuy cao nhưng lại không biết bơi, chỉ nhảy vào trong Bích Thủy Hàn Đàm, chẳng cần tỉ võ cũng đủ đông cóng, chết đuối ngay. Khi đó ở trong Thánh Hỏa Sảnh, quần hào ai cũng lên tiếng chửi rủa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện đó thật là khó xử, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Dương giáo chủ năm xưa đã bằng lòng chấp thuận cho họ Hàn kia là phương cách tỉ võ do con y lựa chọn, vị Hàn Thiên Diệp tiền bối chọn thủy chiến, cứ theo lý thì Dương giáo chủ không thể nào từ chối được.

Triệu Mẫn đưa tay nắm lấy tay chàng, véo nhẹ một cái, mỉm cười nói:

- Đúng thế, đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Giáo chủ Minh giáo thân phận cao quí dường nào, không lẽ nói rồi lại nuốt lời, thất tín với thiên hạ? Đã nhận lời rồi là phải làm cho xong.

Nàng nói đây là nói về Trương Vô Kỵ, nhắc lại lời thề ước giữa hai người. Tạ Tốn làm sao biết được chuyện đó, nói:

- Chính là như thế. Hôm đó Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: "Tại hạ một mình lên trên đỉnh Quang Minh này, nguyên không mong sống sót mà xuống núi. Các vị anh hùng hào kiệt có thể đem tại hạ loạn đao phân thây, ngoại trừ người trong Minh giáo ra, trên giang hồ có ai biết đấy là đâu. Tại hạ chỉ là một gã vô danh tiểu tốt, có giết đi cũng chỉ một người, có gì đáng nói? Các vị muốn giết thì cứ tiến lên động thủ.

Mọi người nghe y nói thế, không ai còn dám nói thêm câu nào. Dương giáo chủ trầm ngâm một hồi rồi nói: "Hàn huynh đệ, tại hạ năm xưa quả có ước hẹn cùng lệnh tôn. Hảo hán tử phải cho quang minh lỗi lạc, vụ đấu võ này tại hạ nhận thua. Huynh đệ muốn xử trí thế nào, cũng nguyện tuân theo". Hàn Thiên Diệp lật cổ tay một cái, trong tay y đã cầm một thanh chủy thủ sáng loáng, để ngay vào tim mình nói: "Con dao găm này là di vật của tiên phụ, tại hạ chỉ xin Dương giáo chủ cúi lạy con dao này ba lạy".

Quần hùng nghe thế, không ai là không phẫn nộ, đường đường là giáo chủ Minh giáo sao lại chịu để cho người ta làm nhục đến thế? Thế nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua rồi, cứ theo qui củ giang hồ, không thể không để cho đối phương xử trí. Tình thế trước mắt ai cũng rõ, Hàn Thiên Diệp phen này lên đây thí mạng, nhận ba lạy của Dương giáo chủ rồi, y sẽ lập tức đâm con dao vào tim để khỏi chết dưới tay quần hào Minh giáo.

Khi đó trong đại sảnh im phăng phắc không ai nói một lời. Quang Minh tả hữu sứ Tiêu Dao nhị tiên, Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca, Bành Oánh Ngọc hòa thượng mọi người bình thời vốn là những kẻ túc trí đa mưu, nhưng trước nạn đề này, không có cách nào khác. Hành động đó của Hàn Thiên Diệp rõ ràng muốn bức tử Dương giáo chủ để trả mối thù năm xưa cha y bị trọng thương phải quì xuống, rồi sau sẽ tự sát.

Ngay trong lúc khẩn bách vạn phần đó, Đại Ỷ Ti đột nhiên lách khỏi đám đông tiến ra, nói với Dương giáo chủ: "Gia gia, người ta có được đứa con trai có hiếu, không lẽ cha lại không đứa con gái có lòng? Vị Hàn gia này vì cha mà báo thù, để con thay cha tiếp y vài chiêu. Chuyện đời trước để đời trước lo, chuyện đời sau để đời sau lo, không thể nào làm loạn vai vế được".

Mọi người ai nấy ngạc nhiên: "Sao nàng ta lại gọi Dương giáo chủ là gia gia?". Thế nhưng hiểu ngay nàng ta mạo xưng là con gái của giáo chủ cốt để giải tỏa cho ông khỏi cảnh nguy khốn, ai nấy nghĩ thầm: "Xem hình dáng cô ta yểu điệu thướt tha gió thổi cũng ngã thế kia, không hiểu có biết võ nghệ gì không? Nếu như có biết thì cũng không cao cường, nói gì đến chuyện nhảy vào Bích Thủy Hàn Đàm thủy chiến".

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời, Hàn Thiên Diệp đã cười khẩy nói: "Cô nương nếu như thay cha tiếp chiêu, không có gì là không được. Thế nhưng nếu cô nương thua, tại hạ vẫn yêu cầu Dương giáo chủ cúi lạy thanh chủy thủ của tiên phụ ba cái". Y thấy nàng Đại Ỷ Ti xinh đẹp yếu đuối nên nào có coi ra gì? Đại Ỷ Ti đáp: "Nếu như tôn giá thua thì sao?". Hàn Thiên Diệp nói: "Lúc đó muốn đâm chém, muốn lăng trì gì cũng xin chịu cả". Đại Ỷ Ti nói: "Được, vậy thì mình đi ra Bích Thủy Hàn Đàm". Nói xong nàng đi trước dẫn đầu. Dương giáo chủ vội vàng xua tay nói: "Không được, việc này không liên quan gì đến con". Đại Ỷ Ti nói: "Thưa cha, cha đừng lo". Nói xong nàng nhẹ nhàng quì xuống vái lạy. Cái lễ đó hẳn là nàng nhận Dương giáo chủ làm cha nuôi.

Dương giáo chủ biết nàng đã có chủ định, ngoài việc đó ra ông không còn cách nào khác, nên đành phải để nàng lo liệu. Tất cả mọi người cùng đi ra Bích Thủy Hàn Đàm nơi phía dưới chân núi. Lúc đó gió bấc đang thổi mạnh, mới đến bên hồ đã thấy lạnh buốt, những người nội lực hơi kém đều chịu không nổi. Nước trong hồ đã kết thành một lớp băng dầy, nhìn vào chỉ thấy xanh biếc, sâu không thấy đáy.

Dương giáo chủ nghĩ không nên để cho Đại Ỷ Ti vì mình mà phải bỏ mạng, ngang nhiên nói: "Con gái ngoan! Lòng tốt của con cha ghi nhớ trong lòng, để cha ra tiếp cao chiêu của Hàn huynh". Nói xong ông cởi áo khoác ngoài, cầm một thanh đơn đao, quyết ý nhảy vào trong đầm nước, rồi sẽ không bao giờ ra nữa. Đại Ỷ Ti nở một nụ cười đáp: "Cha ơi! Con sinh trưởng lớn lên nơi bờ biển, bơi lội nào có kém ai". Nói xong rút trường kiếm ra phi thân nhảy vào trong hồ đứng trên mặt băng, giơ mũi kiếm vẽ trên mặt hồ một vòng tròn ước chừng hai thước, chân trái đạp xuống, nghe soẹt một tiếng nhỏ, đã đạp mặt băng tụt xuống, cả người chìm luôn vào trong hồ.

Khi đó trên mặt biển gió bấc lạnh ngắt thổi tới lay động quần áo mọi người, Tạ Tốn nói tiếp:

- Đứng bên bờ Bích Thủy Hàn Đàm nhìn vào, hôm nay nghĩ lại tưởng chừng như việc chỉ mới hôm qua. Đại Ỷ Ti hôm đó mặc một chiếc áo màu tím nhạt, nàng đứng trên mặt băng quả thật chẳng khác gì lăng ba tiên nữ[2], đột nhiên không một tiếng động chui tuột xuống nước, quần hào đứng ngoài không ai là không kinh ngạc. Hàn Thiên Diệp thấy thân thủ của nàng nhảy vào trong hồ, nét cuồng ngạo trên mặt lập tức biến mất, tay cầm chủy thủ cũng nhảy luôn vào.

Bích Thủy Hàn Đàm nước màu xanh lục, đứng bên trên không ai nhìn thấy tình hình hai người giao đấu ra sao, chỉ thấy mặt nước dao động không ngớt, một lúc sau, mặt nước lặng dần nhưng chỉ một lát nước lại quấy lên lần nữa. Quần hào Minh giáo ai nấy âu lo, thấy hai người xuống nước đã lâu, dưới hồ làm sao chịu nổi lâu như thế? Lại một hồi nữa, đột nhiên một luồng máu đỏ từ dưới nước nổi lên, ai nấy càng thêm lo sợ, chẳng hiểu có phải Đại Ỷ Ti bị thương chăng?

Bỗng nghe cách một tiếng, Hàn Thiên Diệp từ dưới lỗ băng nhảy vọt lên, thở hổn hển. Mọi người thấy y ra trước, ai nấy kinh hãi, cùng hỏi dồn: "Đại Ỷ Ti đâu? Đại Ỷ Ti đâu?". Chỉ thấy y hai tay không, thanh chủy thủ cắm trên ngực, hai bên má có hai đường cắt dài.

Mọi người còn đang kinh dị, Đại Ỷ Ti chẳng khác gì một con cá bay vọt lên khỏi nước, trường kiếm hộ thân, ở trên không nhẹ nhàng lượn một vòng rồi mới rơi xuống mặt băng. Quần hùng lớn tiếng reo hò, Dương giáo chủ tiến lên cầm tay nàng, cao hứng không để đâu cho hết. Có ai ngờ đâu, người con gái thiên kiều bách mị kia công phu dưới nước lại cao siêu đến thế. Đại Ỷ Ti liếc nhìn Hàn Thiên Diệp nói: "Gia gia, người này bơi lội giỏi lắm, thương cho lòng hiếu thảo vì cha báo thù của y, tội vô lễ với giáo chủ, gia gia tha cho y nhé?". Dương giáo chủ dĩ nhiên nhận lời, ra lệnh cho thần y Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Hàn Thiên Diệp.

Tối hôm đó trên Quang Minh Đính mở đại tiệc ăn mừng, ai ai cũng bảo Đại Ỷ Ti là đại công thần của Minh giáo, nếu không có nàng đứng ra giải vây, tên tuổi một đời của Dương giáo chủ đành trôi theo dòng nước. Sau đó sắp xếp chức vụ, Dương phu nhân tặng cho nàng mỹ hiệu "Tử Sam Long Vương", đứng ngang hàng cùng Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương. Ba người bọn ta tình nguyện nhường nàng đứng đầu tứ vương, vì quả thật công lao của Đại Ỷ Ti hôm đó, so với tam vương từ trước đến nay hơn hẳn. Từ đó ba người hộ giáo pháp vương chúng ta cùng nàng huynh muội kết nghĩa, nàng gọi ta là Tạ tam ca.

Ngờ đâu sau trận chiến ở Bích Thủy Hàn Đàm, kết cục lại không ai ngờ tới được. Hàn Thiên Diệp tuy thua nhưng không hiểu vì sao lại chiếm được trái tim của Đại Ỷ Ti. Có lẽ vì ngày ngày nàng đến xem tình hình y ra sao, nơi giường bệnh, từ thương hại mà thành thương yêu, thù hận biến sang cảm tình, đến khi Hàn Thiên Diệp khỏi hẳn, Đại Ỷ Ti đột nhiên thưa với giáo chủ cho nàng kết hôn với y.

Mọi người nghe được tin ấy, kẻ thì đau lòng thất vọng, người thì phẫn nộ bừng bừng. Gã Hàn Thiên Diệp kia trước đây bức bách giáo chủ khiến người trong Minh giáo hận y không để đâu cho hết, hộ giáo pháp vương của bản giáo sao lại lấy y được? Có người tính tình nóng nảy liền chỉ ngay mặt y mắng chửi. Đại Ỷ Ti tính tình cứng cỏi, cầm kiếm đứng ngay cửa sảnh, lớn tiếng nói: "Từ nay trở đi, Hàn Thiên Diệp là phu quân của ta. Người nào làm nhục Hàn lang thì hãy ra thử với trường kiếm của Tử Sam Long Vương". Mọi người thấy việc ra như thế, chỉ đành hậm hực bỏ đi.

Khi Đại Ỷ Ti thành hôn với Hàn Thiên Diệp, có đến quá nửa anh em không đến uống rượu mừng. Chỉ có Dương giáo chủ và ta cảm kích việc nàng đứng ra giải vây nên ra sức giúp nàng sắp đặt và giải hòa để việc cưới xin xuông xẻ, không xảy ra chuyện gì rắc rối.

Thế nhưng khi Hàn Thiên Diệp muốn gia nhập Minh giáo, vì số người chống đối quá nhiều, Dương giáo chủ không tiện làm ngược với ý của số đông. Chẳng bao lâu sau, vợ chồng Dương giáo chủ đột nhiên mất tích, người trên Quang Minh Đính ai cũng hoang mang. Mọi người đổ ra tứ phía tìm kiếm, một đêm kia Quang Minh hữu sứ Phạm Dao bắt gặp Hàn phu nhân Đại Ỷ Ti từ trong đường hầm đi ra.

Trương Vô Kỵ giật mình hỏi lại:

- Bà ta từ trong bí đạo đi ra ư?

Tạ Tốn đáp:

- Đúng thế. Giáo qui của Minh giáo cực kỳ nghiêm nhặt, đường hầm này chỉ một mình giáo chủ được phép ra vào mà thôi. Phạm Dao vừa tức giận vừa kinh hãi liền tiến lên tra vấn. Hàn phu nhân nói: "Tôi đã phạm phải trọng tội của bản giáo, muốn đâm muốn chém gì cũng đành cam chịu". Tối hôm đó đại hội quần hào, Hàn phu nhân cũng chỉ một câu đó nói ra mà thôi. Hỏi nàng đi vào trong bí đạo làm gì, nàng bảo không muốn nói láo nhưng cũng không muốn nói ra sự thực; hỏi đến Dương giáo chủ đi đâu, nàng bảo nàng không biết, còn chuyện lẻn vào đường hầm thì một mình làm, một mình chịu nói nhiều vô ích. Nếu theo lý, nếu nàng không tự vẫn thi cũng phải tự chặt một cánh tay, nhưng một là Phạm Dao tình cũ chưa quên, hết sức che chở cho nàng, hai là ta đứng bên cạnh trần tình nên quần hào nghị tội chỉ giam cấm mười năm để ăn năn sám hối. Ngờ đâu Đại Ỷ Ti cãi lại: "Dương giáo chủ không có ở đây, không ai quản thúc gì tôi được".

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Nghĩa phụ, Hàn phu nhân lẻn vào bí đạo làm gì thế?

Tạ Tốn nói:

- Chuyện này nói ra thật là dài, trong Minh giáo chỉ một mình ta biết mà thôi. Khi đó ai cũng nghi nàng có dính líu với việc vợ chồng Dương giáo chủ thất tung nhưng ta cực lực chống chế hai việc không có gì liên hệ. Nơi Thánh Hỏa Sảnh trên Quang Minh Đính quần hào nói mãi cũng không đến đâu, sau cùng Hàn phu nhân đành phải phá môn xuất giáo, nói là từ nay về sau, không còn liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ nữa. Nàng ta là người đầu tiên ra khỏi Minh giáo, ngay hôm đó cùng Hàn Thiên Diệp lặng lẽ xuống núi không biết đi đâu.

Về sau trong Minh giáo các anh em tìm Dương giáo chủ không ra, qua vài năm sau tranh nhau ngôi giáo chủ, sự việc mỗi lúc một thêm bi đát. Bạch Mi Ân nhị ca cũng rời Quang Minh Đính tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo. Ta hết sức khuyên giải, ông ta khăng khăng không nghe hai bên lại còn hục hặc. Hai mươi năm trước nơi Vương Bàn Sơn đảo, Thiên Ưng giáo dương đao lập uy, Kim Mao Sư Vương đến đây phá cho tan nát, trước là cướp lấy thanh đao Đồ Long, sau là để cho hả mối hận năm trước, cốt để cho Ân nhị ca mất mặt, cho ông ta hiểu rằng ra khỏi Minh giáo rồi chưa chắc đã đi đến đâu. Ôi, hôm nay nghĩ lại, ta không khỏi thấy mình nhỏ nhen quá!

Ông ta thở dài một tiếng, trong tiếng thở dài bao hàm không biết bao nhiêu điều đau lòng của ký vãng, bao nhiêu chuyện sóng gió trên giang hồ. Mọi người lặng yên hồi lâu không ai nói gì. Triệu Mẫn nói:

- Lão gia tử, sau này Kim Hoa, Ngân Diệp hai người uy chấn giang hồ, sao người trong Minh giáo lại không nhận ra? Ngân Diệp tiên sinh hẳn là Hàn Thiên Diệp, về sau tại sao trúng độc mà chết?

Tạ Tốn nói:

- Những chuyện bên trong đó ta hoàn toàn không biết gì cả. Có lẽ vợ chồng đó hành tẩu giang hồ hết sức tránh mặt người trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng vậy. Kim Hoa bà bà sau này không muốn gặp người trong Minh giáo. Khi lục đại môn phái vây đánh Minh giáo, bà ta tuy có đến Quang Minh Đính nhưng không lên núi tiếp tay.

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ rồi tiếp:

- Lạ là Tử Sam Long Vương dung nhan xinh đẹp tuyệt trần sao lại biến đổi trở thành xấu xí như thế? Xem ra khuôn mặt không bị hủy hoại chút nào cả.

Tạ Tốn đáp:

- Ta đoán là bà ta dùng một phương pháp gì rất khéo léo thay đổi khuôn mặt. Hàn phu nhân trước nay hành sự rất kỳ quái, thực ra cũng vì có chuyện khổ tâm không nói cho ai được. Bà ta cứ phải trốn tránh tổng giáo Ba Tư truy tầm, nào ngờ rồi sau cũng không sao thoát được.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng hỏi:

- Sao tổng giáo Ba Tư lại đi lùng kiếm bà ta làm gì?

Tạ Tốn nói:

- Đây là chuyện đại bí mật của Hàn phu nhân, đáng lẽ không nên nói ra. Nhưng ta mong các ngươi quay lại đảo Linh Xà cứu bà ta nên không thể không nói.

Triệu Mẫn kinh hãi kêu lên:

- Mình quay lại đảo Linh Xà ư? Làm sao đánh lại ba sứ giả Ba Tư?

Tạ Tốn không trả lời chỉ bắt đầu kể lại:

- - Mấy trăm năm nay, giáo chủ Minh giáo Trung Thổ đều do đàn ông đảm nhiệm, nhưng giáo chủ tổng giáo Ba Tư lại là đàn bà, mà phải là con gái chưa chồng còn là xử nữ. Trong kinh điển của tổng giáo có qui định một cách trịnh trọng rằng phải do thánh xử nữ đảm nhiệm giáo chủ thì mới duy trì được sự trinh khiết thần thánh của Minh giáo. Mỗi một giáo chủ khi tiếp nhiệm xong đều tuyển trong số con cái của các viên chức cao cấp trong tổng giáo ba người con gái, gọi là "thánh nữ". Khi các thánh nữ này nhận chức có thề rằng sẽ du hành tứ phương, vì Minh giáo lập công tích đức. Sau khi giáo chủ từ trần các trưởng lão trong tổng giáo sẽ tập họp, suy xét công lao trong ba người thánh nữ ai cao ai thấp, rồi sẽ chọn người công đức cao nhất lên tiếp nhiệm giáo chủ. Nếu trong ba thánh nữ kia ai bị mất trinh thì sẽ bị tội thiêu sống, dẫu cho trốn đến chân trời góc bể họ cũng sai người đuổi theo bắt cho kỳ được để bảo tồn trinh thiện của thánh giáo ...

Ông vừa kể tới đây, Triệu Mẫn thất thanh kêu lên:

- Không lẽ Hàn phu nhân là một trong ba thánh nữ của tổng giáo chăng?

Tạ Tốn gật đầu:

- Chính thế! Trước khi Phạm Dao phát hiện bà ta lén vào bí đạo, thì ta đã bắt gặp rồi. Hàn phu nhân coi ta là tri kỷ nên đem tất cả mọi chuyện nói cho ta nghe. Khi nàng đấu với Hàn Thiên Diệp trong Bích Thủy Hàn Đàm, hai người thịt da đụng chạm, sau lại an ủi nhau trên giường bệnh để thành mối tình oan nghiệt. Nàng biết là sẽ có ngày tổng giáo sai người sang kiếm nên chỉ mong lập được đại công chuộc tội. Bà ta lén vào bí đạo, cốt là tìm kiếm "Càn Khôn Đại Na Di" võ công tâm pháp, tâm pháp này tổng giáo thất lạc đã lâu, nhưng Minh giáo bên Trung Thổ vẫn còn giữ được. Tổng giáo sai nàng lên Quang Minh Đính chính là vì lẽ đó.

Trương Vô Kỵ "A" lên một tiếng, dường như chàng thấy có điều gì mù mờ không ổn, nhưng là chuyện gì, ngay lúc này chưa nghĩ ra. Chỉ nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Hàn phu nhân mấy lần lẻn vào bí đạo, nhưng vẫn không tìm thấy võ công tâm pháp đó. Khi ta biết chuyện rồi liền nghiêm nghị răn đe là việc đó phạm phải đại qui của Minh giáo, khó có thể khoan dung ...

Triệu Mẫn xen vào:

- A, tôi hiểu rồi. Hàn phu nhân phá môn xuất giáo cốt để có thể tiếp tục lẻn vào đường hầm vì bà ta không còn là người trong Minh giáo Trung Thổ nữa, không bị ước thúc bởi qui luật vào ra bí đạo.

Tạ Tốn nói:

- Triệu cô nương thông minh thật. Thế nhưng Quang Minh Đính là cơ sở trọng địa của bản giáo, đâu thể để người ngoài ra vào tùy ý? Lúc đó ta đã đoán được dụng ý của bà ta rồi nên sau khi Hàn phu nhân hạ sơn, ta đích thân canh giữ cửa đường hầm, ba lần nàng lén lên núi lần nào cũng gặp ta nên không dám tiếp tục nữa.

Tạ Tốn suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Phục sắc của ba sứ giả Ba Tư có khác gì với Minh giáo Trung Thổ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Bọn họ đều mặc áo bào trắng, bên góc áo có thêu một ngọn lửa đang cháy ... Ồ, áo bào có riềm màu đen, cái đó là điểm khác biệt duy nhất.

Tạ Tốn vỗ vào mạn thuyền nói:

- Đúng rồi, tổng giáo giáo chủ qua đời. Người Tây Vực dùng màu đen là màu tang, áo bào trắng thêu viền đen là để tang đó. Bọn họ đang tuyển lập tân giáo chủ nên mới đường xa vạn dặm tới Trung Thổ, truy tìm Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Hàn phu nhân nếu từ Ba Tư đến ắt phải biết võ công quái dị của ba sứ giả, sao lại chỉ mới một chiêu đã bị bọn họ bắt rồi?

Triệu Mẫn cười nói:

- Sao anh ngốc thế. Hàn phu nhân giả vờ đó, bà ta muốn che dấu thân phận mình nên không để lộ ra là mình biết võ công Ba Tư, theo như em nghĩ, nếu như Tạ lão gia tử nghe lệnh ba sứ giả giết bà ta, Hàn phu nhân thể nào cũng có cách thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu:

- Bà ta không chịu để lộ thân phận thì đúng rồi. Thế nhưng sau khi bị ba sứ giả Ba Tư đánh trúng huyệt đạo vẫn còn có thể thoát thân thì chưa chắc. Hàn phu nhân thà để ta một đao chém chết còn hơn chịu cái khổ hỏa thiêu.

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ tưởng Minh giáo Trung Thổ đã là tà giáo, ai ngờ Minh giáo Ba Tư lại còn tà hơn. Sao lại cứ phải gái còn trinh mới làm giáo chủ được? Sao lại đem thánh nữ thất trinh ra thiêu sống là sao?

Tạ Tốn gắt lên:

- Tiểu cô nương chỉ nói lăng nhăng. Giáo phái nào cũng có qui luật nghi điển truyền từ đời này sang đời khác. Hòa thượng ni cô không được lấy vợ lấy chồng, không được ăn mặn thì chẳng phải qui luật là gì? Thế cái đó tà hay không tà?

Đột nhiên nghe tiếng răng Ân Ly lách cách đập vào nhau, người run cầm cập. Trương Vô Kỵ vội vàng sờ đầu cô ta thấy nóng hầm hập, rõ ràng là đang bị hàn nhiệt giao công, bệnh tình cực kỳ nguy ngập. Chàng liền nói:

- Nghĩa phụ, hài nhi nghĩ mình chắc phải quay trở lại đảo Linh Xà. Ân cô nương thương thế không phải nhẹ, phải tìm thuốc cứu chữa ngay. Thôi mình cứ hết sức mà làm, nếu không cứu được Hàn phu nhân thì cũng cứu được Ân cô nương.

Tạ Tốn nói:

- Đúng vậy. Cô gái này đối với con tình sâu ý nặng lẽ nào lại không cứu? Chu cô nương, Triệu cô nương, hai cô ý ra sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Thương thế của Ân cô nương quan trọng hơn, còn vết thương của tôi không lấy gì làm nặng. Nhưng nếu không trở lại Linh Xà đảo thì làm cách nào khác được?

Chu Chỉ Nhược chỉ thản nhiên nói:

- Lão gia tử bảo quay lại thì tất cả cùng quay lại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chờ cho sương mù tan hết, nhìn thấy trăng sao mới có thể biết phương hướng được. Nghĩa phụ, gã Lưu Vân Sứ kia lộn hai vòng trên không là có thể dùng thánh hỏa lệnh đả thương con, thế là duyên cớ vì đâu?

Sau đó hai người cùng nghiên cứu võ công gia số của ba sứ giả Ba Tư, sở học của Triệu Mẫn rất rộng rãi, thỉnh thoảng cũng góp ý vào nhưng bàn luận một hồi lâu vẫn không tìm ra được yếu chỉ của công phu ba người kia liên thủ ra sao.

Sương mù trên biển mãi đến khi mặt trời mọc mới tan dần. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình từ phương bắc trôi xuống phương đông nam, bây giờ đi ngược lên tây bắc mà tìm.

Chàng cùng Tạ Tốn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu bốn người luân lưu chèo thuyền. Điều khiển chiếc thuyền nhỏ xông pha các đợt sóng trên biển cả thực không phải dễ dàng, may nhờ Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hâu, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu cũng ngang ngửa nhau, chèo thuyền cũng chẳng khác gì đang luyện võ công.

Chèo như thế mấy ngày liền, chiếc thuyền nhỏ cứ theo hướng tây bắc mà tiến. Cũng trong mấy ngày đó, Tạ Tốn nhíu mày suy nghĩ võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, ngoài việc hỏi lại Trương Vô Kỵ vài câu, không nói thêm một lời nào. Đến chiều ngày thứ sáu, bỗng nhiên Tạ Tốn tra hỏi thật kỹ công phu phái Nga Mi mà Chu Chỉ Nhược học được, Chu Chỉ Nhược cứ sự thực trình bày. Hai người một hỏi một đáp, nói chuyện đến tận khuya. Tạ Tốn xem ra thất vọng nói:

- Võ công của cả ba phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi đều có quan hệ với Cửu Dương Chân Kinh, cùng một đường với Trương Vô Kỵ thuộc lộ dương cương. Nếu như có Trương Tam Phong chân nhân ở đây, với sở học vừa dương cương vừa âm nhu bao gồm của ông ta liên thủ với Trương Vô Kỵ, thì mới có thể âm dương phối hợp, đánh bại được Ba Tư tam sứ. Thế nhưng nước xa không cứu được lửa gần, Hàn phu nhân nếu như lọt vào tay của ba sứ giả Ba Tư thì thật không biết sao đây?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên hỏi:

- Lão gia tử, nghe nói một trăm năm trước trong võ lâm có vị cao nhân tinh thông Cửu Âm Chân Kinh, có thực như thế chăng?

Khi còn ở trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ đã từng nghe thái sư phụ nói tới tên Cửu Âm Chân Kinh, biết rằng cha của sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách Tương là đại hiệp Quách Tĩnh, Thần Điêu đại hiệp Dương Quá đều học được võ công trong Cửu Âm Chân Kinh nhưng công phu tập luyện quá ư gian nan, Quách Tương dẫu là con ruột của Quách Tĩnh mà cũng không học được. Nay nghe Chu Chỉ Nhược hỏi đến, chàng nghĩ thầm: "Không lẽ sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có truyền lại công phu trong Cửu Âm Chân Kinh chăng?".

Tạ Tốn nói:

- Các bậc cố lão có truyền lại như thế nhưng không một ai biết thật giả ra sao. Nếu như hiện nay có ai học được những tài nghệ thần kỳ của môn võ công đó, liên thủ với Trương Vô Kỵ đối phó với địch thì chỉ ra tay là trừ được Ba Tư tam sứ giả ngay.

Chu Chỉ Nhược "Ồ" lên một tiếng nhưng không hỏi thêm nữa. Triệu Mẫn hỏi:

- Chu cô nương, phái Nga Mi có ai biết những võ công ấy chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu phái Nga Mi có được thần công đó, tiên sư đã không táng mạng tại chùa Vạn An.

Diệt Tuyệt sư thái sở dĩ lìa trần, đầu dây mối nhợ cũng do Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược hết sức căm ghét nàng, bao nhiêu ngày mưa gió ngồi chung trên một con thuyền nhưng không hề trao đổi với nhau một câu nào. Lúc này Triệu Mẫn hỏi ngay Chu Chỉ Nhược nên nàng liền nói móc lại một câu. Chu Chỉ Nhược tính tình dịu dàng, trước nay chưa từng nói với ai một câu đốp chát như thế bao giờ, Triệu Mẫn nghe nhưng không nổi giận, chỉ mỉm cười.

Trương Vô Kỵ vẫn không ngừng chèo thuyền đột nhiên nhìn về phía xa xa kêu lên:

- Xem kìa, xem kìa. Đằng kia có ánh lửa.

Mọi người nhìn theo hướng mắt chàng, quả nhiên tại hướng tây bắc nơi chân trời giáp biển có ánh lửa lấp lánh. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng tâm trạng cũng vừa mừng vừa lo như những người khác, vội cầm chiếc mái chèo cố sức bơi.

Ánh lửa kia trông thì không xa, thực ra trên biển khơi, phải cách đến mấy chục dặm. Hai người chèo một hồi lâu mới tới gần được một chút. Trương Vô Kỵ thấy nơi ánh lửa có những ngọn núi mờ mờ, chính là đảo Linh Xà liền nói:

- Mình về đến nơi rồi.

Tạ Tốn bỗng thảng thốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, hỏi:

- Có phải ở đảo Linh Xà lửa bốc lên cao chăng? Không lẽ bọn họ đang định thiêu sống Hàn phu nhân?

Chỉ nghe lịch bịch mấy tiếng, Tiểu Siêu đã ngã lăn ra sàn thuyền. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội nhảy tới đỡ nàng dậy, thấy cô gái hai mắt nhắm nghiền bất tỉnh, vội xoa bóp huyệt đạo nơi nhân trung để cứu nàng dậy, hỏi:

- Tiểu Siêu, cô sao thế?

Tiểu Siêu hai mắt rưng rưng, nói:

- Em nghe nói thiêu sống người, nên em ... em ... sợ quá.

Trương Vô Kỵ an ủi cô ta:

- Cái đó chỉ là Tạ lão gia đoán thế thôi, chưa chắc đã là sự thật. Nếu ví phỏng như Hàn phu nhân lạc vào tay bọn chúng, chúng mình bây giờ đến nơi, chắc cũng còn có thể cứu kịp.

Tiểu Siêu nắm lấy tay chàng, cầu khẩn:

- Công tử, em cầu xin công tử ra tay cứu mạng cho Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tất cả chúng mình sẽ hết sức để làm chuyện đó.

Nói rồi chàng quay lại đuôi thuyền, cầm mái giầm lên ra sức chèo, so với lúc trước nhanh hơn nhiều. Tiểu Siêu cũng cầm mái chèo tuy tay run run nhưng cũng cố gắng chèo tiếp. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Trương công tử, có hai việc em nghĩ đã lâu nhưng vẫn chưa hiểu rõ, mong chàng chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ tự nhiên thấy nàng ăn nói có vẻ khách sáo như thế, lạ lùng hỏi:

- Chuyện gì thế?

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước bên ngoài Lục Liễu Trang, tiểu muội sai người tấn công lệnh ngoại công, Dương tả sứ các vị, chính Tiểu Siêu cô nương này đã điều động nhân mã chống trả. Quả thật đúng là tướng đã mạnh ắt quân chẳng yếu, một tiểu a đầu của giáo chủ Minh giáo mà cũng đã tài ba đến thế, quả thật lạ kỳ ...

Tạ Tốn vội vàng xen vào:

- Cái gì mà giáo chủ Minh giáo?

Triệu Mẫn cười nói:

- Lão gia tử, bây giờ nói ra cho ông biết cũng vừa, công tử con nuôi của lão gia chính là đường đường giáo chủ Minh giáo, ông ngược lại là thuộc hạ của anh ta đó.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, không biết nói sao cho phải. Triệu Mẫn liền đem việc Trương Vô Kỵ làm sao đảm nhận chức vụ giáo chủ Minh giáo thuật sơ qua, nhưng nhiều chi tiết nàng không biết. Trương Vô Kỵ bị Tạ Tốn hỏi gặng, không cách gì dấu diếm được nữa, đành phải kể lại lục đại phái vây đánh Quang Minh Đính ra sao, mình làm sao ở trong bí đạo học được Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp thế nào. Tạ Tốn mừng quá, đứng phắt dậy, phục xuống lạy ngay trên thuyền nói:

- Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ nói:

- Nghĩa phụ bất tất đa lễ. Dương giáo chủ có di mệnh để nghĩa phụ tạm nhiếp chức vụ giáo chủ, hài nhi đang lo không đảm trách nổi việc lớn, may sao nghĩa phụ yên lành trở về, đúng là phúc của bản giáo. Sau khi mình về đến Trung Thổ rồi, chức vị giáo chủ xin nghĩa phụ tiếp nhiệm cho.

Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Cha nuôi con tuy đã trở về nhưng hai mắt đã mù, hai chữ "yên lành" không còn đúng nữa. Thủ lãnh của Minh giáo làm sao có thể do người mắt kém đảm nhiệm? Triệu cô nương, trong lòng cô có hai chuyện gì chưa rõ ràng?

Triệu Mẫn nói:

- Tiểu nữ định hỏi Tiểu Siêu cô nương, kỳ môn bát quái, âm dương ngũ hành do ai dạy cô đó? Cô còn nhỏ như thế làm sao lại học được những công phu lạ lùng vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Đó là võ công gia truyền của tôi, không bõ quận chúa nương nương cười cho.

Triệu Mẫn lại hỏi:

- Lệnh tôn là ai? Con gái đã thế, cha mẹ ắt phải là cao thủ tiếng tăm vang dậy thiên hạ.

Tiểu Siêu đáp:

- Gia phụ mai danh ẩn tính, đâu đáng để quận chúa phải hỏi? Không lẽ quận chúa lại định chặt hai ngón tay tôi để ép cho tôi phải lộ võ công ra hay sao?

Nàng tuổi còn nhỏ thế nhưng đối với Triệu Mẫn không chịu kém câu nào, nói đến chuyện chặt ngón tay, ý muốn khơi dậy mối thù của Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang hỏi với Trương Vô Kỵ:

- Trương công tử, tối hôm đó tại quán rượu nơi Đại Đô lần thứ hai mình gặp nhau, khổ đầu đà Phạm Dao đến chào từ biệt tiểu muội, khi y gặp Tiểu Siêu cô nương, có nói hai câu gì?

Trương Vô Kỵ vốn đã quên chuyện đó rồi, nghe nàng hỏi tới, nghĩ lại bèn nói:

- Khổ đại sư hình như nói là tướng mạo Tiểu Siêu giống một người nào mà ông ta quen.

Triệu Mẫn nói:

- Đúng thế. Anh thử đoán xem khổ đại sư nói Tiểu Siêu giống ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi làm sao đoán được?

Hai người còn đang nói chuyện, chiếc thuyền đã đến gần đảo Linh Xà, thấy bên phía tây hòn đảo một dãy thuyền lớn, trên mỗi chiếc buồm trắng đều có thêu một ngọn lửa đỏ lớn, trên các cột buồm treo những giải vải màu đen. Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:

- Tổng giáo Ba Tư quả thực mất công, đưa người sang đây không phải là ít.

Triệu Mẫn nói:

- Mình chèo thuyền ra phía sau đảo, kiếm một nơi kín đáo nào lên đảo để khỏi bị bọn họ phát giác.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Đúng thế.

Thế nhưng chỉ mới bơi được ba bốn trượng, đột nhiên trên đại thuyền có tiếng tù và u u, tiếp theo là bình bình hai tiếng, hai quả đạn đại bác bắn ra, một viên rơi ở bên trái chiếc thuyền con, còn viên kia rơi ở bên phải làm tung lên hai cột nước khiến cho chiếc thuyền chòng chành dường như muốn lật. Trên thuyền lớn có người kêu to:

- Thuyền kia mau chèo lại đây, nếu không nghe lệnh sẽ bị bắn chìm ngay.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm, biết rằng hai phát đạn kia địch chỉ mới thị uy, cố ý bắn sang hai bên, bây giờ hai bên gần nhau như thế, địch nhân điều chỉnh thật dễ dàng, chỉ cần một viên đạn trúng thuyền thì cả sáu người không ai có thể sống sót. Thành thử chàng đành chầm chậm bơi thuyền tới. Ba khẩu đại pháo trên thuyền lớn cũng chầm chậm quay đầu nhắm đúng vào thuyền nhỏ. Đợi đến khi thuyền nhỏ đã tới sát, người trên thuyền lớn liền thả thang dây. Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn mình lên trên tùy cơ đoạt thuyền.

Tạ Tốn mò thấy thang dây leo lên trước nhất. Chu Chỉ Nhược không nói lời nào, cúi xuống ôm Ân Ly, leo lên, kế đó là Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn, leo lên sau cùng. Chỉ thấy trên thuyền rất đông người người nào cũng tóc vàng mắt biếc, thân thể cao lớn đều là người Hồ xứ Ba Tư nhưng bọn sứ giả Vân Phong Nguyệt ba người không có trong số đó.

Một người Ba Tư biết nói tiếng Trung Quốc liền hỏi:

- Các người là ai? Đến đây làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chúng tôi đi thuyền bị bão, thuyền chìm nhờ các vị cứu cho.

Gã Ba Tư nửa tin nửa ngờ, quay lại nói với một người thủ lãnh ngồi trên ghế ngay chính giữa sàn thuyền vài câu tiếng Ba Tư. Người thũ lãnh đó liền nói xí xố mấy câu với đám thủ hạ.

Tiểu Siêu đột nhiên nhảy tới, giơ chưởng đánh luôn vào tên thủ lãnh. Người đó kinh hãi vội vàng tránh qua, chộp luôn cái ghế đang ngồi đập luôn vào Tiểu Siêu. Trương Vô Kỵ không ngờ Tiểu Siêu chẳng nói chẳng rằng ra tay động thủ ngay, lạng người một cái đã vọt lên ba trượng giơ tay điểm luôn huyệt đạo gã thủ lãnh, mấy chục người Ba Tư trên thuyền liền loạn cả lên, hò hét rút binh khí ra vây cả bọn lại. Những người này ai cũng biết võ công nhưng so với ba sứ giả Phong Vân Nguyệt thì kém xa. Trương Vô Kỵ tay trái đỡ Ân Ly, tay phải đông điểm một cái tây đánh một chưởng. Tạ Tốn cũng múa thanh đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược huy động trường kiếm, thêm vào Tiểu Siêu thân hình linh động, chỉ trong giây lát, đã thanh toán hết mấy chục người Ba Tư trên thuyền. Hơn một chục người bị chém nằm lăn trên sàn thuyền, bảy tám người rớt xuống biển, còn lại bao nhiêu đều bị điểm huyệt cả.

Ngay lúc đó trên biển có tiếng kêu la rầm rĩ, tiếng tù và vang động khắp nơi, các thuyền còn lại của người Ba Tư đều tiến tới, những người trên thuyền toan nhảy qua đấu với bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xách gã thủ lãnh Ba Tư nhảy lên đà treo buồm, lớn tiếng nói:

- Kẻ nào lên thuyền là ta đánh chết gã này ngay.

Chỉ thấy thuyền chung quanh tiếng người bàn tán xôn xao, tuy câu nói của Trương Vô Kỵ họ nghe không hiểu gì cả nhưng không một ai dám nhảy lên thuyền, hẳn là người bị bắt kia hẳn có địa vị khá cao, đối phương e ngại nên chưa dám tấn công sang.

Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống, đang định thả gã thủ lãnh ra bỗng nghe đằng sau keng một tiếng, vội vàng tránh qua, đá ngược trở lại, thấy trước mặt một thanh thánh hỏa lệnh đánh tới, bên trái lại một thanh khác quét ngang. Trương Vô Kỵ kêu khổ thầm, không ngờ Phong Vân tam sứ lại nhanh như thế, kêu lên:

- Tất cả lui vào trong khoang thuyền.

Chàng liền giơ gã thủ lãnh lên đỡ một thanh lệnh bài, Huy Nguyệt Sứ vội vàng rút về nhưng vì quá vội vã nên hạ bàn để hở, Trương Vô Kỵ chân liền quét qua, đá trúng ngay đùi cô ta. Lưu Vân, Diệu Phong hai sứ giả ở hai bên liền xông vào khiến cho cú đá của Trương Vô Kỵ chưa hết chân đã phải thu lại. Hai bên đánh được tám chín chiêu, thánh hỏa lệnh của Diệu Phong Sứ đánh xéo từ dưới lên, chiêu số hết sức quái dị, suýt nữa đánh trúng bụng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội hạ gã thủ lãnh Ba Tư xuống, chiêu của Diệu Phong Sứ thật là cổ quái, nhưng bàn tay Trương Vô Kỵ hạ xuống thật khéo léo, nghe bạch một tiếng, thánh hỏa lệnh liền đập ngay mặt viên thủ lãnh Ba Tư. Phong Vân tam sứ kinh hoàng kêu lên, mặt mày biến sắc, cùng nhảy vọt về sau, trao đổi mấy câu tiếng Ba Tư, đột nhiên cúi chào viên thủ lãnh trong tay Trương Vô Kỵ, thần sắc hết sức cung kính rồi quay trở về thuyền.

Chỉ thấy tiếng loa chỗ này kêu lên u u, chỗ kia kêu lên u u, một chiếc thuyền lớn từ từ tiến đến, trên mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu bằng chỉ vàng. Đầu thuyền có để mười hai chiếc ghế bành lót da hổ, trong đó một chiếc để trống, còn mười một chiếc kia có người ngồi. Chiếc thuyền đó đến gần lập tức ngừng lại. Triệu Mẫn thấy chiếc ghế bành da hổ bỏ trống kia đứng hàng thứ sáu, trong bụng nghĩ ngay ra liền nói:

- Người mà mình bắt được ăn mặc giống như những người đang ngồi trên thuyền kia, xem ra là một trong mười hai đại thủ lãnh của họ, vị trí đứng hàng thứ sáu.

Tạ Tốn nói:

- Mười hai đại thủ lãnh? Ồ, thì ra mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều đến Trung Thổ quả thật vô cùng quan trọng.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Mười hai Bảo Thụ Vương là gì thế?

Tạ Tốn đáp:

- Trong tổng giáo Ba Tư, dưới giáo chủ có mười hai đại kinh sư [3] gọi là Thập Nhị Bảo Thụ Vương, thân phận địa vị tương đương với tứ đại pháp vương của Minh giáo Trung Thổ. Mười hai Bảo Thụ Vương này thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, mười một Tề Tâm, mười hai Câu Minh. Mười hai Bảo Thụ Vương này lấy việc tinh thông giáo nghĩa, kinh điển làm chính nhưng không hẳn võ công đã cao cường. Người này đứng hàng thứ sáu vậy là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống bên cột buồm, để Bình Đẳng Vương nằm ngang trên đầu gối, người này vị trí trong tổng giáo Ba Tư cực cao, cả bọn sống chết thoát hiểm hay không đều do ở ông ta. Chàng cúi xuống thấy má bên trái ông ta sưng vù, cũng may vết thương không phải là chí mệnh. Có lẽ Diệu Phong Sứ một lệnh bài đánh ra, thấy không xong nên vội thu lực về, hoặc giả nội công người này cũng tương đương nên có kình lực đề ngự.

Chu Chỉ Nhược và Tiểu Siêu gom những người Ba Tư trên sàn lại, những người nào chết rồi thì kéo vào khoang sau, còn ai chưa chết thì để thành một hàng. Chỉ thấy khoảng hơn một chục thuyền Ba Tư vây chung quanh, các khẩu đại pháo đều chĩa vào thuyền Trương Vô Kỵ đang ngồi, trên các mạn thuyền đều đầy người Ba Tư, dưới ánh lửa đao kiếm lấp loáng, đông nghẹt không biết là bao nhiêu. Trương Vô Kỵ kinh hãi thầm, không nói gì các khẩu đại pháo bắn tới, chỉ cần những người này cùng xông vào, dẫu chàng có ba đầu sáu tay cũng không cách gì chống trả, dù có tuyệt đính võ công thoát thân được thì cũng không thể nào bảo vệ chu toàn những người còn lại. Ân Ly và Triệu Mẫn hai người bị thương nguy hiểm hơn hết.

Chỉ nghe một người Ba Tư cao giọng nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Kim Mao Sư Vương nghe đây: Tất cả mười hai Bảo Thụ Vương của tổng giáo đều có mặt ở đây cả. Ngươi đắc tội với tổng giáo, các Bảo Thụ Vương đều đồng ý tha cho, mau mau thả các giáo hữu tổng giáo về rồi dong thuyền đi ngay.

Tạ Tốn cười đáp:

- Tạ mỗ đâu phải là đứa trẻ lên ba, bọn ta vừa thả những tù binh này về, đại pháo trên thuyền các ngươi liền bắn vào thì sao?

Người kia giận dữ nói:

- Nếu các ngươi không thả liệu đại pháo chúng ta không bắn được ư?

Tạ Tốn trầm ngâm một hồi nói:

- Ta có ba điều kiện, nếu bên quí vị bằng lòng, chúng ta sẽ cung kính giao trả các giáo hữu tổng giáo lên bờ.

Người kia hỏi:

- Điều kiện gì?

Tạ Tốn đáp:

- Từ nay tổng giáo và Minh giáo Trung Thổ phải tương thân tương kính, không bên nào xâm phạm bên nào.

Người kia nói:

- Hừ, còn điều thứ hai?

Tạ Tốn nói tiếp:

- Các ngươi giao Đại Ỷ Ti qua đây, tha cho tội bà ta thất trinh, từ nay không được truy cứu nữa.

Người kia giận dữ nói:

- Việc này không thể được. Đại Ỷ Ti phạm vào đại qui của tổng giáo, phải chịu tội thiêu sống, có liên quan gì đến Minh giáo Trung Thổ các ngươi đâu? Còn điều kiện thứ ba?

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ hai nếu không bằng lòng, việc gì phải hỏi đến điều thứ ba?

Người kia nói:

- Được rồi, ví thử như bằng lòng điều kiện thứ hai, điều kiện thứ ba nói ta nghe thử nào.

Tạ Tốn nói:

- Điều kiện thứ ba ư? Chuyện này rất dễ dàng. Các ngươi đem một chiếc thuyền nhỏ đi theo thuyền của chúng ta. Đi khoảng năm mươi dặm, nếu như bọn ta không thấy thuyền lớn các ngươi đuổi theo, sẽ đem những người bị bắt thả xuống thuyền nhỏ, muốn đi đâu thì đi.

Người kia giận dữ nói:

- Nói quấy nói quả, nói quấy nói quả.

Bọn Tạ Tốn nghe rồi ai nấy ngạc nhiên, không hiểu y định nói gì. Triệu Mẫn cười nói:

- Gã này học nói tiếng Trung Quốc nhưng học chưa đi đến đâu. Y định bảo mình "nói quấy nói quá" lại nói thành "nói quấy nói quả".

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói không sai, tuy cục thế đang lúc gay go nhưng cũng nhịn không nổi cười sằng sặc. Người nói câu "nói quấy nói quả" kia là người đứng cuối cùng trong mười hai Bảo Thụ Vương là Câu Minh Vương, thấy bọn Tạ Tốn cười càng giận thêm, huýt một tiếng còi, cùng người thứ mười một là Tề Tâm Vương nhảy qua bên thuyền.

Trương Vô Kỵ liền tiến lên, tả chưởng đánh vào ngực Tề Tâm Vương nhưng Tề Tâm Vương không né tránh, giơ tay trái chộp lên đầu chàng. Trương Vô Kỵ thấy chưởng của mình sẽ đánh tới ngực y trước, nào ngờ Câu Minh Vương ở bên cạnh song chưởng cùng đánh ra đỡ ngay chưởng của chàng, còn năm ngón tay của Tề Tâm Vương vẫn vồ lên đầu Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, tránh được, nào ngờ hai người công thủ liền lạc, chẳng khác gì một người bốn tay bốn chân. Ba người nhanh như chớp đã trao đổi liền bảy tám chiêu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi thầm, hai người này tuy so với Phong Vân tam sứ không bằng nhưng võ công mười phần quái dị, rất giống Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nhưng khi sử dụng lại biến đổi khác hẳn, không thể mò ra được chút đầu mối nào, mặc dầu chiêu số ác liệt khéo léo không bằng được Càn Khôn Đại Na Di. Hai người đánh chẳng khác gì người điên ngẫu nhiên học được Càn Khôn Đại Na Di nhưng học chưa đến đâu, thần trí hỗn loạn, đánh đấm lung tung thành ra không biết cách nào mà chống đỡ.

Thế nhưng hai người liên thủ hết sức khít khao, cũng không khác gì Phong Vân tam sứ. Trương Vô Kỵ hết sức đề ngự nhưng chỉ ngang tay, hi vọng đánh thêm hai ba chục chiêu nữa sẽ chiếm được thượng phong. Ngay khi đó, Phong Vân tam sứ cùng hú lên, nhảy vọt lên thuyền, xông cả vào định cướp lại Bình Đẳng Vương để chuộc cái tội lỡ tay đánh trúng y.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương lên quay ngang, làm thành một vòng tròn thật lớn. Phong Vân tam sứ lần này làm sao dám tấn công một cách khinh suất, chỉ né qua né lại tìm sơ hở để xông vào.

Bỗng nghe Câu Minh Vương hự lên một tiếng, trúng một ngọn cước ngã lăn xuống. Trương Vô Kỵ cúi xuống định bắt sống y, Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ hai người cầm lệnh bài nhảy tới, còn Diệu Phong Sứ ôm được Câu Minh Vương nhảy trở về thuyền. Lần này Tề Tâm Vương và Vân Nguyệt hai sứ liên thủ, phối hợp không được chặt chẽ như ba người Phong Vân Nguyệt, chỉ đánh vài hiệp, xem chừng khó mà thủ thắng nên cùng hú lên một tiếng nhảy ngược trở về thuyền.

Trương Vô Kỵ định thần rồi nói:

- Những người này giống như từng học Càn Khôn Đại Na Di nhưng lại học không đúng, quả thực rất khó đối phó.

Tạ Tốn nói:

- Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của bản giáo vốn gốc ở Ba Tư. Mấy trăm năm trước truyền vào Trung Thổ rồi, ngay tại bản quốc Ba Tư lại bị thất truyền, cứ như Đại Ỷ Ti nói thì chỉ còn sót lại những phần thô thiển chẳng đâu vào đâu, nên họ sai nàng trở lại Quang Minh Đính để lén lấy lại tâm pháp.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bọn họ căn cơ võ công thật là nông cạn, quả đúng là chỉ mới học được chút ít bên ngoài, nhưng vận dụng lại hết sức khéo léo. Hiển nhiên bên trong có điều gì hết sức quan trọng mà mình chưa tìm ra. Ôi, trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cấp thứ bảy có một số con chưa luyện tới, không lẽ lại là ở trong chỗ này?

Nói xong chàng ngồi xuống sàn thuyền, ôm đầu suy nghĩ. Bọn Tạ Tốn không ai dám nói năng gì sợ chàng không tập trung được tinh thần. Đột nhiên Tiểu Siêu hoảng hốt kêu lên "Ối chà" một tiếng, Trương Vô Kỵ ngẩng đầu lên nhìn thấy Phong Vân tam sứ áp giải một người ra trước mặt mười một Bảo Thụ Vương. Người đó lưng còng, tay chống gậy chính là Kim Hoa bà bà. Người ngồi ở ghế thứ hai là Trí Tuệ Bảo Thụ Vương lên tiếng hỏi mấy câu, Kim Hoa bà bà nghiêng đầu la lớn:

- Ngươi nói gì ta không hiểu?

Trí Tuệ Vương cười khẩy một tiếng, đứng phắt dậy, giơ tay trái ra, đã lột ngay nắm tóc bạc trên đầu Kim Hoa bà bà xuống, lộ ra mái tóc đen nhánh. Kim Hoa bà bà vừa nghiêng qua bên phải tránh, tay phải của Trí Tuệ Vương đã thò ra lột một lớp da trên mặt bà ta. Bọn Trương Vô Kỵ ai nấy đều nhìn rõ, lớp da Trí Tuệ Vương lột kia chỉ là một mặt nạ, trong nháy mắt Kim Hoa bà bà đã biến thành một người đàn bà da trắng như mỡ đông, mắt to má hồng, xinh đẹp không đâu kể xiết.

Đại Ỷ Ti bị y vạch lộ bộ mặt thật, đành vứt quài trượng xuống, chỉ cười nhạt không nói gì. Trí Tuệ Vương nói mấy câu, bà ta liền dùng tiếng Ba Tư đáp lại. Hai người một hỏi một trả lời, nhưng xem thần sắc những Bảo Thụ Vương mỗi lúc một thêm trịnh trọng. Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu cô nương, họ nói gì thế?

Tiểu Siêu khóc nói:

- Quận chúa thật thông minh, chuyện gì cũng biết hết nhưng sao không ngăn đừng để Tạ lão gia nói ra?

Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:

- Ngăn đừng nói cái gì?

Tiểu Siêu nói:

- Bọn họ vốn không biết Kim Hoa bà bà là ai cả, về sau biết được bà ta là Tử Sam Long Vương nhưng đâu có biết Tử Sam Long Vương lại là thánh nữ Đại Ỷ Ti. Bà bà khổ tâm cũng chỉ mong đánh lừa được bọn họ. Tạ lão gia đề cập đến điều kiện thứ hai là yêu cầu họ thả thánh nữ Đại Ỷ Ti ra, tuy có lòng tốt nhưng không lừa được Trí Tuệ Bảo Thụ Vương. Tạ lão gia mắt không nhìn thấy nên không biết Kim Hoa bà bà hóa trang thật hay, che dấu được mọi người. Triệu cô nương, cô nhìn thấy rõ như thế không lẽ không nghĩ ra sao?

Kỳ thực khi Triệu Mẫn nghe Tạ Tốn kể chuyện biết được Kim Hoa bà bà chính là thánh nữ Đại Ỷ Ti của tổng giáo Ba Tư nhưng lại không nghĩ ra là dưới mắt người Ba Tư thì chưa biết chân diện mục của bà ta thế nào. Nàng định lên tiếng cãi lại nhưng thấy giọng nói của Tiểu Siêu thật là bi thương, xem ra giữa nàng và Kim Hoa bà bà có một liên quan thật mật thiết nên chỉ nói:

- Tiểu Siêu muội tử, tôi quả thực không nghĩ đến. Nếu như có ý gia hại Kim Hoa bà bà thì trời không cho tôi được chết yên chết lành.

Tạ Tốn lại càng ăn năn, không nói lên một lời nào nhưng trong bụng đã định thầm dù cho tính mạng mình không còn cũng nhất quyết cứu cho được Đại Ỷ Ti thoát hiểm. Tiểu Siêu khóc nói:

- Bọn họ trách cứ Kim Hoa bà bà nói sao dám lấy chồng, lại phản giáo, muốn ... muốn đem ra thiêu sống.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tiểu Siêu, cô đừng quá hốt hoảng, một khi có cơ hội, tôi sẽ nhảy qua cứu bà bà ngay.

Chàng gọi là "bà bà" kỳ thực lúc này đã nhìn thấy bản lai diện mục của Tử Sam Long Vương rồi, tuy đã trung niên, nhưng phong tư yểu điệu chẳng khác gì Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược xem chỉ đáng chị của Tiểu Siêu thôi. Tiểu Siêu nói:

- Không được, không được đâu. Mười một Bảo Thụ Vương lại thêm Phong Vân tam sứ giả, công tử đấu không lại, có qua chỉ thêm uổng mạng, lúc này họ đang bàn tính làm sao cướp lại Bình Đẳng Vương đó.

Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Hừ, dẫu Bình Đẳng Vương có sống sót mà về trên mặt có in mấy hàng chữ cũng xấu hổ đến chết được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Trên mặt có in hàng chữ ư?

Triệu Mẫn nói:

- Gã sứ giả râu vàng kia dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng má y ... A! Tiểu Siêu!

Đột nhiên nàng nghĩ ra một chuyện vội hỏi:

- Tiểu Siêu muội tử, cô có biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Siêu đáp:

- Có biết.

Triệu Mẫn nói:

- Cô xem đây, trên mặt Bình Đẳng Vương có in những chữ gì?

Tiểu Siêu nâng đầu Bình Đẳng Vương lên nhìn trên má y, thấy má y sưng vù, trên có in ba hàng chữ Ba Tư. Thì ra trên những thánh hỏa lệnh đều có khắc chữ, Diệu Phong Sứ đánh nhầm Bình Đẳng Vương nên chữ trên thánh hỏa lệnh in lên mặt y. Có điều chỗ thánh hỏa lệnh chạm vào mặt chỉ chừng ngang hai tấc, dài ba tấc nên những hàng đó chữ có chữ không.

Khi Tiểu Siêu đi cùng với Trương Vô Kỵ vào trong bí đạo nơi Quang Minh Đính, nàng đã từng đọc Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mấy lần, tuy chưa được Trương Vô Kỵ chỉ bảo, tự mình cũng chưa tập luyện nhưng môn võ công tâm pháp đó nàng nhớ rất kỹ. Khi Trương Vô Kỵ trong đường hầm học tới cấp thứ bảy gặp chỗ nghi nan bỏ qua không luyện, Tiểu Siêu từng ghi nhớ hết, bây giờ đọc những hàng chữ trên mặt Bình Đẳng Vương nàng chợt kêu lên:

- Cái này là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Cô bảo đây là Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp ư?

Tiểu Siêu nói:

- Không, không phải. Em vừa thoạt nhìn tưởng là thế nhưng hóa ra không phải. Dịch thành tiếng Trung Quốc ý tứ như sau: "muốn phải thì trước, muốn trái thì sau, ba giả bảy thật, trong không sinh có" ... rồi cái gì "trời vuông đất tròn ..." bên dưới không đọc rõ nữa.

Mấy hàng chữ đó chẳng qua chỉ độ mươi chữ nhưng Trương Vô Kỵ nghe rồi chẳng khác nào đầy trời mây đen, nay có một làn chớp lóe lên, tuy rằng ánh sáng qua rồi bốn bề lại tối đen như mục, nhưng mấy ánh chớp đó cũng khiến chàng nhìn được phương hướng mà đi nên lẩm bẩm đọc:

- Ứng tả tắc hậu, tu hữu nãi tiền...

Cố hết sức nghĩ cho ra mấy câu khẩu quyết đó làm sao phối hợp được với võ công Càn Khôn Đại Na Di, có lúc tưởng như đã nghĩ ra, nhưng rồi lại không phải, xem ra hai bên không ăn khớp với nhau. Đột nhiên Tiểu Siêu kêu lên:

- Công tử, để ý! Bọn họ truyền lệnh, Phong Vân tam sứ tới tấn công công tử, còn Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương, Công Đức Vương qua đoạt lại Bình Đẳng Vương.

Tạ Tốn liền cầm Bình Đẳng Vương giơ lên ngang ngực, vứt thanh đao Đồ Long cho Vô Kỵ nói:

- Con dùng đao chém thật hăng.

Triệu Mẫn cũng giao thanh Ỷ Thiên kiếm cho Chu Chỉ Nhược. Hai nàng bây giờ cùng hội cùng thuyền, sát cánh nghinh địch là trên hết. Trương Vô Kỵ nhận lấy thanh đao Đồ Long, đầu óc đâu đâu cắm luôn vào lưng, miệng vẫn lẩm bẩm:

- Tam hư thất thực, vô trung sinh hữu ...

Triệu Mẫn nóng ruột kêu lên:

- Chàng ngốc ơi, bây giờ đâu còn là lúc nghiền ngẫm võ công, mau mau chuẩn bị nghinh địch đi thôi.

Nói chưa dứt lời, Cần Tu, Trấn Ác, Công Đức tam vương đã tung mình nhảy qua, giơ chưởng tấn công Tạ Tốn. Ba người đó sợ làm Bình Đẳng Vương bị thương cho nên không dùng binh khí, chỉ sử dụng quyền chưởng, nếu một người nào nắm được Bình Đẳng Vương là ra sức kéo về. Chu Chỉ Nhược thủ tại bên cạnh Tạ Tốn, mỗi khi nguy cấp thì lại giơ kiếm đâm vào Bình Đẳng Vương. Như thế Cần Tu Vương, Trấn Ác Vương không thể không xuất chưởng tấn công Chu Chỉ Nhược để kiếm của nàng khỏi đâm vào người đồng bọn.

Ở mé bên kia, Trương Vô Kỵ cùng ba sứ giả tụ lại một chỗ. Bốn người mấy lần đụng tay, ai nấy đều nếm mùi kình lực của Trương Vô Kỵ nên không còn ai dám thờ ơ nữa. Chỉ qua mấy hiệp, Huy Nguyệt Sứ đánh ra một lệnh bài, cứ theo đúng đạo lý võ học, chiêu đó phải đánh vào vai trái Trương Vô Kỵ, nào ngờ thánh hỏa lệnh ở trên không lại quay vòng lại một cách kỳ lạ, nghe bạch một tiếng trúng ngay sau cổ chàng.

Trương Vô Kỵ bị đau nhói nhưng trong đầu lập tức hiểu ra, kêu lên:

- Muốn trái thì sau, muốn trái thì sau! Đúng rồi! Đúng rồi!

Chỉ trong khoảnh khắc chàng vỡ lẽ ngay, những gì Phong Vân tam sứ sử dụng đây chẳng qua chỉ là công phu nhập môn của Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ nhất, nhưng trên thánh hỏa lệnh có khắc những biến hóa lạ lùng, khiến cho càng thêm rắc rối. Chàng vừa nghĩ ra, bốn câu khẩu quyết Tiểu Siêu đọc lên lập tức minh bạch, nhưng cái gì "thiên phương địa viên" thì chàng chưa hiểu được định bụng phải tìm cách đọc được những chữ khắc trên thánh hỏa lệnh để thông hiểu tinh yếu võ công của Ba Tư.

Chàng liền rú lên một tiếng dài, hai tay thi triển cầm nã, "tam hư thất thực" đoạt luôn hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Huy Nguyệt Sứ, rồi tiếp theo "vô trung sinh hữu" lại cướp được hai thánh hỏa lệnh của Lưu Vân Sứ. Hai người còn đang ngơ ngẩn, Trương Vô Kỵ đã bỏ luôn bốn chiếc thánh hỏa lệnh vào trong túi, hai tay nắm cổ hai người, ném ra ngoài.

Tất cả những người Ba Tư liền xí xố ầm cả lên, Diệu Phong Sứ cũng vội vàng nhảy trở về thuyền. Lúc này Trương Vô Kỵ đã rõ được yếu quyết của họ, tuy rất hữu hạn, nhưng võ công của Diệu Phong Sứ đối với chàng không còn gì là kỳ bí nữa, tay phải thò ra đã nắm ngay được chân trái y, lôi y từ trên không về, giơ tay cướp luôn hai thanh thánh hỏa lệnh còn lại, cầm luôn người y đập xuống đầu Trấn Ác Vương. Tam vương kinh hãi, vung tay một cái nhảy luôn trở về. Trương Vô Kỵ điểm huyệt Diệu Phong Sứ, ném xuống dưới chân.

Chàng đắc thắng phen này thật là đột ngột nên chỉ khoảnh khắc đang từ thế yếu chuyển sang thế mạnh, cả bọn vô cùng mừng rỡ, hỏi nguyên do. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nếu không vì trời xui đất khiến trên má Bình Đẳng Vương bị trúng một đòn thì mình thật là khốn khổ. Tiểu Siêu, cô hãy dịch những chữ trên thánh hỏa lệnh này cho tôi nghe, mau đi, mau đi.

Mọi người nhìn vào những thánh hỏa lệnh, thấy không phải kim loại mà cũng không phải ngọc đá, cứng rắn vô cùng, sáu lệnh bài cái dài cái ngắn không đều nhau, trông như trong mà không trong, ở giữa mờ mờ hình ngọn lửa bốc lên, sắc lấp lánh thật là đẹp đẽ. Trên mỗi thanh lệnh bài khắc rất nhiều chữ Ba Tư, không nói đến tìm hiểu cho kỹ, chỉ dịch qua một lần cũng đã mất rất nhiều thời giờ.

Thế nhưng Trương Vô Kỵ biết rằng muốn thoát ra khỏi được cái khốn cảnh hiện thời, không thể nào không tìm hiểu cho ra nguyên ủy của võ công Ba Tư nên quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, nhờ cô cầm Ỷ Thiên kiếm ghìm vào cổ Bình Đẳng Vương. Nghĩa phụ, nhờ cha nhứ đao Đồ Long vào cổ Diệu Phong Sứ để kéo dài thời giờ.

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược gật đầu đáp ứng. Tiểu Siêu cầm sáu thanh thánh hỏa lệnh lên, thấy thanh lệnh bài ngắn nhất trên khắc ít chữ nhất, lại đen sì trông không đẹp mắt chút nào, dịch từng câu cho Vô Kỵ nghe. Trương Vô Kỵ nghe xong không hiểu gì cả, cố gắng suy nghĩ nhưng không rõ nghĩa càng thêm hoảng hốt. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu muội tử, cô giải thích thanh thánh hỏa lệnh đánh vào Bình Đẳng Vương trước.

Câu nói đó khiến Tiểu Siêu bừng tỉnh, vội vàng coi các chữ khắc thấy thanh dài thứ hai hợp nghĩa vội vàng giải thích cho Vô Kỵ nghe, lần này chàng mười phần hiểu đến bảy tám. Đợi đến khi giải nghĩa xong, giải thích tiếp thanh dài nhất, Trương Vô Kỵ nghe qua vài câu mừng rỡ nói:

- Tiểu Siêu, văn tự trong sáu thanh thánh hỏa lệnh này, càng dài thì càng dễ. Những thanh này đều là công phu nhập môn cả.

Thì ra những thánh hỏa lệnh này là do Sơn Trung Lão Nhân Thôi Sơn ngày xưa đúc thành, trên khắc võ công tinh yếu một đời của y. Cả sáu thánh hỏa lệnh lẫn Minh giáo cùng truyền vào Trung Thổ một lúc, trước đây vẫn dùng làm lệnh phù của giáo chủ nhưng về sau, Minh giáo Trung Thổ không còn ai biết tiếng Ba Tư nữa. Mấy chục năm trước, thánh hỏa lệnh bị người của Cái Bang đoạt mất, lại do thương nhân Ba Tư mua được, nên quay trở về Minh giáo Ba Tư. Tổng giáo Ba Tư nghiên cứu văn tự trên đó mấy chục năm qua nên những người có võ công kha khá trong tổng giáo tiến bộ rất nhiều. Thế nhưng võ công khắc trên đó bác đại tinh thâm nên ngay cả người giỏi nhất là Đại Thánh Bảo Thụ Vương cũng chỉ học được ba bốn thành.

Còn như Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, trước đây vốn là hộ giáo thần công của Minh giáo Ba Tư nhưng môn đó người thường không thể tu tập được. Giáo chủ Minh giáo Ba Tư lại qui định chỉ do xử nữ đảm nhiệm, trước nay vốn chỉ là những cô gái võ công tầm thường nên tâm pháp truyền xuống rất là hữu hạn, ngược lại Minh giáo bên Trung Quốc lại còn giữ được toàn phần. Minh giáo Ba Tư kết hợp chưa tới một thành còn lại của Càn Khôn Đại Na Di với hai ba thành của võ công thánh hỏa lệnh thành một môn võ công kỳ dị cổ quái.

Trương Vô Kỵ ngồi xếp bằng nơi đầu thuyền, còn Tiểu Siêu đem thánh hỏa lệnh từng câu từng chữ dịch lại cho chàng nghe. Võ học trong thánh hỏa lệnh này vốn dĩ thật là kỳ diệu, thế nhưng nhất pháp thông, vạn pháp thông, những học vấn thâm áo đến chỗ cùng cực thì cũng đều qui về một mối. Trương Vô Kỵ thông hiểu Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm đạo lý Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của phái Võ Đương. Võ công thánh hỏa lệnh tuy có kỳ lạ thật, nhưng cũng chỉ là đỉnh cao của sở học bàng môn tả đạo, nói đến tinh thâm rộng rãi so ra kém xa ba môn võ học kia. Trương Vô Kỵ nghe Tiểu Siêu dịch xong cả sáu thanh thánh hỏa lệnh trong nhất thời chỉ nhớ được sáu bảy phần, biết rõ ràng thì lại chỉ được năm sáu phần, nhưng như thế thôi võ công của các Bảo Thụ Vương và Phong Vân tam sứ, dưới mắt chàng nay đã rõ như ban ngày không còn gì mù mờ nữa.

Chàng hết tâm hết ý để vào việc nghiên cứu võ học hết giờ này sang khắc khác, không còn biết đến chuyện gì chung quanh nhưng Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thì nóng ruột vô cùng. Bọn họ thấy Đại Ỷ Ti chân tay đã bị xích chặt, mười một Bảo Thụ Vương cùng họp bàn, Bảo Thụ Vương thứ mười một cởi trường bào ra, thay bằng nhuyễn giáp, những người chung quanh đưa ra mười một món binh khí hình dáng quái dị. Kế đến những người Ba Tư dàn ra trước sau trái phải đầy tay cầm cung tên, nhắm thẳng vào mình, lại đến mười tên Ba Tư tay cầm búa dùi nhảy xuống nước, chỉ cần thủ lãnh hạ lệnh là bơi đến đục chìm thuyền.

Bỗng Đại Thánh Bảo Thụ Vương ngồi chính giữa quát lớn một tiếng, chung quanh bốn bên trống đánh liên hồi, tù và thổi lên rầm rĩ. Trương Vô Kỵ kinh hoảng ngửng đầu nhìn lên thấy mười một Bảo Thụ Vương đều mặc áo giáp vàng sáng chói, tay cầm binh khí, nhảy lên trên thuyền. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược tay cầm đao kiếm để vào cổ Bình Đẳng Vương và Diệu Phong Sứ. Mười một vương kia nhìn thấy thế, tuy đã nhảy lên đầu thuyền rồi nhưng không dám đến gần mà tản ra thành hình bán nguyệt, mắt lăm lăm tìm cơ hội xông vào. Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn thấy mười một người đó hình dáng hung hăng, thân thể to lớn đều không khỏi khiếp sợ.

Trí Tuệ Vương nói bằng tiếng Trung Quốc:

- Chúng mày mau mau thả giáo hữu chúng tao ra thì ta tha cho chúng mày khỏi chết. Những giáo hữu này bọn tao có khác gì con heo con chó, chúng bay kề đao vào cổ họ đâu có ích gì? Chúng bay có giỏi thì đem bọn họ giết đi. Trong thánh giáo Ba Tư những người như thế có cả nghìn cả vạn, giết một hai người đâu có sao.

Triệu Mẫn nói:

- Chúng mày đừng có lớn lối, định đánh lừa chúng tao. Chúng tao biết rồi, hai người này một người là Bình Đẳng Bảo Thụ Vương, một người là Diệu Phong Sứ trong Minh giáo địa vị rất cao. Mày bảo y là heo là chó là nói sai rồi, sai thật là sai.

Gã Trí Tuệ Vương học tiếng Trung Hoa toàn ở trong sách vở nên những tiếng "chúng mày" "bọn tao" đều là dùng những tiếng của bọn hạ lưu. Triệu Mẫn bắt chước giọng điệu của y khiến cho Tạ Tốn các người nghe thấy, dẫu đang trong cảnh nguy hiểm nhưng cũng nhịn không nổi phải mỉm cười.

Trí Tuệ Vương nhíu mày rồi nói:

- Trong thánh giáo có cả thảy ba trăm sáu mươi Bảo Thụ Vương, Bình Đẳng Vương đứng thứ ba trăm năm mươi chín. Bọn tao có một nghìn hai trăm sứ giả, gã Diệu Phong Sứ này võ công tầm thường, chẳng ra quái gì, chúng bay mau mau đem nó giết đi.

Triệu Mẫn đáp:

- Hay lắm, hay lắm. Các bạn cầm đao kiếm, mau đem hai gã vô dụng này giết đi.

Tạ Tốn đáp:

- Tuân lệnh.

Ông giơ thanh đao Đồ Long lên, nghe vù một tiếng chém hớt ngang đầu Bình Đẳng Vương, chỉ cách không quá nửa tấc, một mảng lớn tóc bị cắt đứt gió biển thổi vào bay tứ tán. Tạ Tốn lại giơ đao lên chém bên trái một nhát, bên phải một nhát xuống hai bên vai Bình Đẳng Vương.

Hai nhát dao đó ai cũng tưởng sẽ chặt đứt hai cánh tay y nhưng khi đao vừa chạm vào người thì cổ tay hơi nghiêng đi, cắt đứt mỗi bên tay áo một mảnh. Ba nhát dao đó bộ vị chuẩn xác, chẳng nói gì người mù, đến như người mắt sáng cũng thật là khó mà làm được.

Bình Đẳng Vương chết đi sống lại, sợ tưởng như muốn ngất xỉu. Mười một Bảo Thụ Vương lẫn Phong vân tam sứ giả ai ai cũng há hốc mồm le lưỡi. Triệu Mẫn lại nói:

- Chúng bay đã thấy võ công Minh giáo Trung Thổ rồi. Đây là Kim Mao Sư Vương, ở Minh giáo đứng hàng thứ ba nghìn năm trăm lẻ chín, chúng bay nếu ỷ đông, sau này Minh giáo Trung Thổ sẽ đến Ba Tư trả thù, đánh cho tan tành tổng đàn chúng bay, chúng bay không đánh lại đâu, mau mau chịu thua đi là vừa.

Trí Tuệ Vương biết là Triệu Mẫn không nói thực nhưng nhất thời không biết làm sao. Gã Đại Thánh Bảo Thụ Vương bỗng nói vài câu, Tiểu Siêu kêu lên:

- Trương công tử, bọn họ định đục thuyền.

Trương Vô Kỵ hơi kinh hoảng, nếu như thuyền chìm, mọi người không ai biết bơi ắt sẽ bị bắt cả, vội nhún một cái đã vọt tới trước mặt Đại Thánh Vương. Trí Tuệ Vương quát lên:

- Mày làm gì đó?

Hai bên Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương một người cầm roi, một người cầm chùy cùng xông lại. Lúc này Trương Vô Kỵ đã hiểu được võ công của Ba Tư rồi, không tránh né cũng không lách qua, chỉ vươn hai tay ra, nắm đúng ngay yết hầu của hai vương. Chỉ nghe keng một tiếng, thiết tiên của Công Đức Vương đã đụng phải bát giác chùy của Chưởng Hỏa Vương, lửa bắn tung tóe còn hai người thì bị chàng nắm trúng yếu huyệt, lôi sềnh sệch về. Trong lúc nhốn nháo, Trương Vô Kỵ lại liên tiếp đá ra bốn cái, hai ngọn cước đá văng hai thanh đao trong tay Tề Tâm Vương và Trấn Ác Vương, còn hai cú đá văng Cần Tu Vương và Câu Minh Vương xuống biển.

Một Bảo Thụ Vương thân hình cao gầy liền xông tới, hai tay cầm hai đoản kiếm, đâm vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lại tung chân lên, đá vào cổ tay y. Người đó đột nhiên chập tay lại đâm vào bụng Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến hóa thật là linh động, Trương Vô Kỵ vội nhảy về sau mới tránh được. Thì ra y là Thường Thắng Bảo Thụ Vương, là người võ công cao cường nhất trong mười hai người của tổng giáo Ba Tư. Trương Vô Kỵ liền khóa huyệt đạo của Công Đức và Chưởng Hỏa ném hai người vào khoang thuyền rồi lại tiến lên đấu tiếp với song kiếm của Thường Thắng Vương. Người này tuy cũng là một trong mười hai vương nhưng võ công cao siêu những người khác không sao bì kịp. Trương Vô Kỵ công ba chiêu, thủ ba chiêu, ba lần tiến, ba lần thoái, trong bụng khen thầm: "Gã Ba Tư Hồ nhân này giỏi thật".

Chàng hiểu được võ công trên thánh hỏa lệnh nhưng chưa từng luyện tập lại gặp ngay cường địch, một mặt nhớ lại những gì mới biết, một mặt giao đấu với Thường Thắng Vương. Trong khoảng mười chiêu đầu, chàng chỉ nhờ vào nội lực thâm hậu, chiêu số xảo diệu để giữ sao cho được ngang tay không thắng không bại, đến hai mươi chiêu sau, bí quyết trên thánh hỏa lệnh phối hợp với Càn Khôn Đại Na Di càng lúc càng thuần thục, Thường Thắng Vương được tiếng là 'thường thắng" xưa nay chưa gặp đối thủ, lúc này bị đối phương ép cho bó chân bó tay, y chưa từng bị như thế bao giờ khiến cho vừa kinh dị, vừa sợ hãi. Đấu đến hơn ba chục chiêu, Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, đột nhiên ngồi phịch xuống sàn, ôm chặt lấy đùi Thường Thắng Vương. Chiêu quái dị này vốn ghi trong thánh hỏa lệnh là công phu hết sức cao thâm, Thường Thắng Vương tuy biết nhưng chưa dám sử dụng bao giờ. Trương Vô Kỵ vừa ôm được mười ngón tay liền bấm ngay hai huyệt Trung Đô, Trúc Tân là phương pháp điểm huyệt của Trung Thổ. Nửa người bên dưới của Thường Thắng Vương liền tê dại, đành thở dài để cho bị bắt.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng yêu tài của y bèn nói:

- Ngươi võ công giỏi lắm. Ta không muốn ngươi bị mất tiếng, mau mau đi về.

Nói xong chàng buông tay ra, Thường Thắng Vương vừa cảm kích vừa xấu hổ, nhảy trở về thuyền. Đại Thánh Vương thấy Thường Thắng Vương hết sức chiến đấu mà vẫn thua, Công Đức Vương và Chưởng Hỏa Vương lại rơi vào tay địch, dẫu có đục chìm thuyền thì ném chuột cũng vỡ đồ, bốn người bọn Bình Đẳng Vương cũng chết hết, liền ra lệnh gọi tất cả trở về thuyền mình.

Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Chúng bay mau mau chấp thuận ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương đem Đại Ỷ Ti đưa qua bên này.

Chín người Bảo Thụ Vương còn lại liền chụm đầu thương nghị một hồi, Trí Tuệ Vương nói:

- Ba điều kiện đó bọn ta có thể chấp thuận được, thế nhưng thanh niên kia võ công đúng là cùng phái với Ba Tư chúng ta, y học ở đâu thế bọn ta không hiểu rõ.

Triệu Mẫn cố nhịn cười, giả vờ nghiêm trang đáp:

- Chúng bay không hiểu rõ, không thông suốt, không biết tí gì, không đâu vào đâu. Vị công tử thanh niên này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ giả bản giáo. Y còn bảy sư huynh, bảy sư đệ sắp đến rồi, khi đó thì tan tành loạn xạ, chúng bay chẳng sướng lắm sao, ô hô ai tai.

Trí Tuệ Vương vốn rất thông minh nhưng Hoa ngữ chưa được giỏi, Triệu Mẫn nói y chỉ hiểu bảy tám phần, cũng đoán được nàng khoác lác, suy nghĩ một chút rồi nói:

- Được, để cho đem Đại Ỷ Ti qua thuyền.

Hai tên giáo đồ Ba Tư liền dẫn Đại Ỷ Ti đưa qua bên thuyền Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược rung trường kiếm một cái, leng keng hai tiếng chặt đứt ngay các khóa ở chân tay bà ta. Hai tên giáo đồ Ba Tư thấy kiếm sắc bén đến thế, sợ đến mất mật, vội vàng nhảy trở về thuyền.

Trí Tuệ Vương nói:

- Chúng mày mau mau khai thuyền, đi về Trung Thổ. Bọn tao sẽ cho thuyền nhỏ đi theo chúng mày.

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Minh giáo Trung Thổ vốn xuất phát từ Ba Tư, quí vị và chúng tôi tình như anh em, hôm nay hiểu lầm nhau, mong các vị đừng để bụng. Mai này có dịp mời lên Quang Minh Đính, hai bên uống chén rượu chung vui. Những điều sai sót, xin tạ lỗi cùng quí vị.

Trí Tuệ Vương cười ha hả nói:

- Mày võ giỏi lắm, bọn tao thật là kính phục. Học mà được luyện tập, chẳng sướng lắm sao? Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao? Tan tành loạn xạ, chẳng sướng lắm sao?[4]

Trương Vô Kỵ khi mới nghe y dẫn chứng hai câu trong sách, nghĩ thầm người này đã biết được lời Khổng Tử, quả không phải dễ không ngờ y liền nối theo hai câu học của Triệu Mẫn, nhịn không nổi phải phì cười. Triệu Mẫn nói:

- Câu mày nói hay lắm. Kẻ man di như Ba Tư mà biết thế thật là hiếm có. Chúc chúng mày đa phúc đa thọ, sống lâu thêm nhục, họa đến tổ tiên, không bệnh cũng chết.

Trí Tuệ Vương chỉ hiểu được "đa phúc đa thọ", nghĩ chắc những chữ sau cũng đều là những câu chúc tụng, cười hì hì, luôn mồm "đa tạ, đa tạ".

Trương Vô Kỵ sợ Triệu Mẫn cao hứng quá không biết sẽ giở thêm những trò điêu ngoa cổ quái gì khác, mình đang ở nơi giữa bầy lang hổ, đêm dài lắm mộng, chạy thoát sớm lúc nào hay lúc nấy nên vội vàng kéo neo, chuyển bánh lái, giương buồm cho thuyền từ từ dong ra. Những người Ba Tư ở chung quanh thấy chàng kéo neo dương buồm, một mình làm bằng cả chục người khác, thần lực kinh người đều lớn tiếng reo hò. Chỉ thấy dây buộc theo một chiếc thuyền nhỏ ném qua, Trương Vô Kỵ liền bắt lấy buộc nơi đuôi tàu kéo theo từ từ đi ra mỗi lúc một xa. Trong chiếc thuyền nhỏ chỉ có hai người, một nam một nữ, chính là Lưu Vân Sứ và Huy Nguyệt Sứ.

Trương Vô Kỵ cầm tay lái, cho thuyền đi về hướng tây, thấy các thuyền lớn của Ba Tư không đuổi theo, đi được mấy dặm, nhìn lại hướng Linh Xà đảo thấy thuyền địch chỉ còn nhỏ tí vẫn ở yên đó nên cũng an tâm.

Chàng bèn nhờ Tiểu Siêu giữ tay lái, vào trong khoang xem xét bệnh tình Ân Ly, thấy nàng nửa tỉnh nửa mê nằm thiêm thiếp, tuy không thấy bớt chút nào nhưng cũng không nặng thêm, nghĩ thầm trong chiếc thuyền lớn của Ba Tư có khi kiếm được thuốc men không chừng.

Đại Ỷ Ti đứng nơi đầu thuyền nhìn ra biển, nghe tiếng bước chân Trương Vô Kỵ đi lên trên sàn nhưng cũng không quay lại. Trương Vô Kỵ nhìn từ sau lưng thấy bà ta thật xinh đẹp, mái tóc dài bay phất phơ để lộ chiếc cổ trắng như ngọc, Tạ Tốn bảo là năm xưa được xưng đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm quả thật không sai, nghĩ đến khi ở trên Quang Minh Đính nơi Bích Thủy Hàn Đàm, tà áo tím phất phới như hoa, cầm thanh kiếm sáng loáng như tuyết thật quả điên đảo bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Thuyền đi đến chiều, tính ra phải cách đảo Linh Xà đến một trăm dặm, nhìn về phương đông, trên biển không thấy một cánh buồm nào, quả thực tổng giáo Ba Tư bị ép buộc không dám đuổi theo. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, mình đã tha bọn họ ra được chưa?

Tạ Tốn đáp:

- Được rồi, bọn họ dẫu muốn đuổi theo cũng đuổi không kịp nữa.

Trương Vô Kỵ liền giải huyệt cho Bình Đẳng, Công Đức, Chưởng Hỏa tam vương luôn cả Diệu Phong Sứ, luôn mồm xin lỗi, thả cho họ về chiếc thuyền nhỏ kéo theo sau đuôi. Diệu Phong Sứ nói:

- Những thánh hỏa lệnh đó do bọn ta trông coi, đánh mất tội nặng lắm, xin giao lại cho.

Tạ Tốn nói:

- Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung Thổ, hôm nay vật về chủ cũ, làm sao lại có thể giao cho ngươi được.

Diệu Phong Sứ cứ nằng nặc đòi lại nhất định không chịu thôi. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm hôm nay mình phải làm cho y tâm phục, khỏi dây dưa rắc rối về sau liền nói:

- Nếu bọn ta giao lại cho ngươi, các ngươi bản lãnh thấp kém làm sao giữ được. Nếu như bị người ta cướp mất với ở trong tay Minh giáo thì cái nào hơn?

Diệu Phong Sứ nói:

- Người ngoài làm sao có thể cướp được?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu ngươi không tin, để thử thì biết.

Chàng giao lại sáu thanh thánh hỏa lệnh cho Diệu Phong Sứ. Y mừng quá chỉ nói được một câu: "Đa tạ". Trương Vô Kỵ tay trái móc nhẹ một cái, tay phải kéo về, lại lấy lại cả sáu chiếc lệnh bài.

Diệu Phong Sứ kinh hãi, giận dữ nói:

- Ta cầm chưa chặt, cái đó không tính.

Trương Vô Kỵ cười:

- Thế thử thêm lần nữa cũng có sao.

Chàng lại giao thánh hỏa lệnh lại cho y. Diệu Phong Sứ để bốn chiếc lệnh bài vào túi, trong tay cầm hai chiếc, thấy Trương Vô Kỵ giơ tay ra cướp, thánh hỏa lệnh bên trái liều đánh vào cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ lật tay một cái, đã bắt được cánh tay y, cầm luôn hất lên, hai chiếc lệnh bài đụng nhau, nghe keng một tiếng chấn động cả người. Nội lực hùng hậu của Trương Vô Kỵ theo tay y mà truyền ra, Diệu Phong Sứ hai tay tê chồn, toàn thân mất hết hơi sức chẳng khác gì bị bại liệt vội rụt tay về để thánh hỏa lệnh rơi xuống sàn.

Trương Vô Kỵ bèn thò tay vào bọc y lấy bốn chiếc thánh hỏa lệnh trước sau đó mới nhặt hai lệnh bài trên sàn thuyền nói:

- Thế nào? Ngươi có muốn thử thêm lần nữa hay không?

Diệu Phong Sứ mặt tái ngắt, chỉ lẩm bẩm:

- Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỉ, ngươi là ma quỉ.

Y định nhảy trở về thuyền nhỏ, nhưng trượt chân lảo đảo muốn ngã. Lưu Vân Sứ liều nhảy tới bồng y trở về. Chiếc thuyền nhỏ liền dựng buồm lên, Công Đức Vương cầm dây buộc, hai tay kéo một cái, nghe soẹt một tiếng đứt ngay, hai chiếc thuyền liền tách ra. Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Đắc tội thật nhiều xin các vị lượng thứ cho.

Bọn Công Đức Vương mắt người nào cũng hầm hầm đầy thù hận không ai đáp lại lời nào. Chiếc thuyền lớn thuận gió trôi về hướng tây, hai chiếc thuyền xa nhau dần. Đột nhiên Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn giặc này giỏi thật.

Bà ta nhảy vụt xuống biển, Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội vàng chuyển tay lái. Chỉ thấy một dòng máu từ dưới biển nổi lên, rồi ở cách một quãng lại có một dòng máu khác, trong giây lát tất cả đếm được sáu đốm máu. Nghe sạch một tiếng, Đại Ỷ Ti từ dưới biển vọt lên, trên miệng ngậm một thanh đoản đao, tay phải cầm tóc một người Ba Tư. Trương Vô Kỵ vội vàng quay thuyền lại đón nhưng vì chiếc thuyền quá lớn, muốn quay đầu lại mà không phải hạ buồm đành phải đánh một vòng thật lớn mới từ từ đến gần. Tử Sam Long Vương bơi lội ở dưới biển không khác gì cá, chẳng mấy chốc đã đến bên thuyền, tay nắm vào dây neo nhún một cái, thân hình bay vọt lên, luôn cả gã Ba Tư kia cũng cùng vọt lên trên sàn thuyền.

Cả bọn ai nấy lạnh người biết người Ba Tư có bụng chơi ác, đợi bọn Công Đức Vương qua được thuyền nhỏ rồi liền lấy chiếc buồm che đi cho người bơi lội giỏi lặn xuống bên cạnh thuyền, định đục cho chìm thuyền của Trương Vô Kỵ. May là Tử Sam Long Vương nhìn thấy những bọt hơi của bọn người lặn dưới nước nhảy xuống biển giết được sáu tên, lại còn bắt sống một đứa.

Bà ta đang định tra hỏi gã Ba Tư bỗng nghe một tiếng nổ lớn nơi đuôi thuyền, khói đen bốc lên. Chiếc thuyền chòng chành như trúng phải đạn đại bác, đuôi thuyền gỗ bay tứ tán. Bọn Trương Vô Kỵ thấy một làn hơi nóng phả vào mặt, vội vàng nằm phục xuống.

Đại Ỷ Ti kêu lên:

- Bọn này gian ác thật.

Bà ta chạy ra khoang sau thấy đuôi thuyền bị thủng một lỗ lớn, chiếc bánh lái đã bay mất không biết nơi đâu, nước biển theo lỗ thủng đổ vào ào ào. Đại Ỷ Ti dùng tiếng Ba Tư hỏi gã bị bắt mấy câu rồi giơ tay lên đập xuống, đầu gã nát bấy, giơ chân đá luôn xuống biển nói:

- Tôi chỉ tưởng họ toan đục thuyền, đâu có ngờ họ lại buộc thuốc nổ vào bánh lái.

Bấy giờ chiếc thuyền của bọn Công Đức Vương đi đã xa, Đại Ỷ Ti dù bơi có giỏi thế nào chăng nữa cũng không thể nào đuổi kịp. Cả bọn yên lặng nhìn nhau, đành bó tay không làm gì khác được. Triệu Mẫn buồn bã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: "Thuyền địch chẳng mấy chốc sẽ đuổi đến nơi, mình thật chết không có đất mà chôn".

Chiếc thuyền đó thân thật lớn, trong một giờ một khắc chưa thể nào chìm hết được. Ngay lúc đó, Đại Ỷ Ti bỗng quay sang xí xố nói với Tiểu Siêu mấy câu tiếng Ba Tư, Tiểu Siêu cũng dùng tiếng Ba Tư đáp lại, hai người một hỏi một trả lời, thần sắc biến đổi bất định. Chỉ thấy Tiểu Siêu đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đôi má ửng hồng cực kỳ e thẹn. Đại Ỷ Ti lại gay gắt hỏi dồn. Hai người nói chuyện thật lâu, dường như tranh biện chuyện gì, về sau Đại Ỷ Ti lại như khuyên nhủ Tiểu Siêu nhận lời làm việc gì đó, nhưng nàng chỉ nhất quyết lắc đầu không chịu. Sau cùng nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, thở dài một tiếng, nói vài ba câu. Đại Ỷ Ti giang tay ôm nàng vào lòng không ngừng hôn hít cô gái, hai người nước mắt cùng chảy xuống như mưa. Tiểu Siêu thút thít khóc mãi không thôi, còn Đại Ỷ Ti thì ngọt ngào an ủi nàng.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược ba người ngơ ngác, không hiểu chuyện gì. Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Anh xem, hai người trông giống nhau quá.

Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu cùng có bộ mặt trái soan cực kỳ thanh tú, mũi cao da trắng, ánh mắt long lanh, khuôn mặt phải giống nhau đến sáu bảy phần. Có điều khuôn mặt Tiểu Siêu, nét người Hồ Ba Tư chỉ còn còn loáng thoáng, còn Đại Ỷ Ti thoạt nhìn là biết ngay không phải người Trung Thổ. Chàng nhớ lại khổ đầu đà Phạm Dao khi ở tiểu điếm nơi Đại Đô khi thấy Tiểu Siêu đã nói mấy câu: "Giống quá, giống quá", thì ra giống đây là nói Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương. Vậy Tiểu Siêu là em gái bà ta chăng? Hay là con ruột?

Trương Vô Kỵ lại nghĩ ngay đến cha con Dương Tiêu, Dương Bất Hối lúc nào cũng đề phòng Tiểu Siêu, mỗi khi chàng hỏi tại sao lại đối với một cô bé con mà có phần ngại ngùng như đối phó với đại địch, Dương Tiêu chỉ trả lời rất mù mờ. Bây giờ chàng mới rõ ràng, Dương Tiêu cũng nhìn thấy dung mạo Tiểu Siêu giống Tử Sam Long Vương, có điều không có chứng cớ, lại thấy Trương Vô Kỵ có ý bênh vực cô ta thành thử không tiện nói thẳng. Đến như Tiểu Siêu cố ý méo mồm, nhăn mũi cố ý giả làm một cô gái xấu xí, cũng là cốt để che đậy đấy thôi.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một việc: "Tiểu Siêu trà trộn lên Quang Minh Đính để làm gì? Sao nàng lại biết được cửa ra vào bí đạo, hẳn là do Tử Sam Long Vương sai nàng đến, cốt để đánh cắp Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Nàng chịu làm một tì nữ hầu hạ ta, chung sống với nhau đến cả hai năm qua, ta có bao giờ đề phòng đâu, pho tâm pháp này chính nàng đã đọc qua rồi, sau này nếu như có sao lại, thật dễ dàng như lấy đồ trong túi. Chao ôi! Ta vẫn tưởng nàng là một cô bé ngây thơ, ngờ đâu nàng cũng đầu những mưu mô tâm kế. Hai năm qua ta khác gì người trong mộng, sa vào bẫy của nàng mà có biết gì đâu! Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi vốn cả tin người, đâu đâu cũng bị người ta lừa dối, đến ngay một con tiểu a đầu cũng đem ngươi ra đùa trên tay được". Chàng nghĩ đến đây, không khỏi trào lên một nỗi căm ghét.

Ngay lúc đó, Tiểu Siêu lại đưa mắt nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy trong ánh mắt nàng nhu tình vô hạn, không thể nào bảo là giả dối được, trong lòng bỗng nổi lên một nỗi dạt dào, nghĩ đến khi chiến đấu với lục đại môn phái trên Quang Minh Đính, nàng đã xả thân bảo vệ cho mình, hai năm qua chăm chút hầu hạ, mình nghi ngờ nàng như thế không oan uổng lắm sao? Chàng còn đang ngần ngừ, chiếc thuyền lắc mạnh một cái, chìm xuống thêm một khoảng lớn.

Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, các vị không việc gì phải kinh hoàng. Đợi thuyền của người Ba Tư tới đây, tôi và Tiểu Siêu ắt có biện pháp đối phó. Tử Sam Long Vương tuy là phận nữ nhi nhưng cũng biết ai làm người ấy chịu, không dám để cho quí vị bị liên lụy đâu. Trương giáo chủ và Tạ tam ca đãi tôi ơn nặng tày non, Đại Ỷ Ti lúc này xin được cảm tạ.

Nói xong bà ta phục xuống lạy, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn vội vàng hoàn lễ, nghĩ thầm: "Bọn người Ba Tư hành sự độc ác, thể nào cũng đem bà ta ra thiêu sống, chắc cũng không tha gì bọn mình".

Chiếc thuyền vẫn từ từ chìm xuống, nước đã vào đến trong khoang. Trương Vô Kỵ ôm Ân Ly, Chu Chỉ Nhược ôm Triệu Mẫn, cùng trèo lên đà cột buồm. Tiểu Siêu bỗng chỉ tay về hướng đông, khóc òa lên. Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, thấy tận tít mù khơi những cánh buồm lấm chấm. Một hồi lâu sau, bóng những chiếc buồm đó lớn dần, chính là hơn một chục chiếc thuyền lớn của Ba Tư đã đuổi tới.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Nếu như ta là Đại Ỷ Ti, thà rằng nhảy xuống biển chết còn hơn là chịu bị bắt đem hỏa thiêu". Tuy nhiên thần sắc bà ta vẫn bình tĩnh thản nhiên, không có vẻ gì kinh hãi chàng không khỏi bội phục: "Bà ta đứng đầu trong tứ đại pháp vương, quả không phải tầm thường. Nghĩ lại năm xưa Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương là những hào kiệt lớn tuổi đã thành danh, còn bà ta chỉ là một cô gái trẻ măng, vậy mà lại đứng trên cả ba người, đâu phải chỉ vì công lao một ngày mà được, cũng phải có chỗ hơn người".

Khi thấy đoàn thuyền Ba Tư mỗi lúc một gần, chàng nghĩ thầm: "Ta đắc tội với các Bảo Thụ Vương không phải nhỏ, nếu rơi vào tay họ thì khó mà mong sống được. Chỉ có điều phải nghĩ cách làm sao để nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu Chỉ Nhược, biểu muội được an toàn. Tiểu Siêu hỡi Tiểu Siêu, ôi! Thà rằng để em đối với ta bất nghĩa chứ không thể nào ta đối với em bất nhân".

Đoàn thuyền Ba Tư tới gần, các khẩu đại pháo trên thuyền đều chĩa thẳng vào cột buồm chiếc thuyền đang chìm, khi còn cách chừng hai chục trượng thì lập tức hạ buồm thả neo. Trí Tuệ Vương cười ha hả cực kỳ đắc ý, kêu lên:

- Chúng mày có chịu hàng chưa?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Nghĩa sĩ Trung Thổ, thà chết không khuất phục, sao lại đầu hàng? Ngươi có giỏi thì dùng võ công xem ai hơn ai thua nào.

Trí Tuệ Vương cười nói:

- Đại trượng phu đấu trí không đấu sức, mau mau đưa tay chịu trói đi.

Đại Ỷ Ti bỗng nhiên lớn tiếng nói mấy câu tiếng Ba Tư, giọng nói hết sức nghiêm chính. Trí Tuệ Vương ngạc nhiên, cũng đáp lại bằng tiếng Ba Tư. Hai người nói qua nói lại đến hơn chục câu, rồi gã Đại Thánh Vương cũng chen vào hỏi thêm. Nói thêm mấy câu nữa, thuyền lớn liền thả xuống một chiếc thuyền nhỏ, có tám tên thủy thủy chèo thuyền, bơi qua. Đại Ỷ Ti nói:

- Trương giáo chủ, tôi và Tiểu Siêu qua bên kia trước, xin quí vị chờ đây giây lát.

Tạ Tốn gằn giọng nói:

- Hàn phu nhân, Minh giáo Trung Thổ đãi bà không bạc. Hưng suy an nguy của bản giáo đều ở một mình Vô Kỵ mà thôi, nếu bà bán rẻ chúng tôi, cái mạng Tạ Tốn này không đáng nói, thế nhưng nếu như hại đến một cái lông, sợi tóc của Vô Kỵ, Tạ Tốn dẫu thành ma cũng không tha cho bà đâu.

Đại Ỷ Ti cười khẩy nói:

- Con nuôi ông là vàng là ngọc, còn con gái tôi thì là đất là bùn hay sao?

Nói xong cầm tay Tiểu Siêu, nhẹ nhàng nhẩy một cái rơi ngay xuống chiếc thuyền con. Tám tên thủy thủ chèo nhanh như bay, quay về thuyền của người Ba Tư. Mọi người nghe bà ta nói câu đó, đều ngạc nhiên. Triệu Mẫn nói:

- Tiểu Siêu quả đúng là con gái bà ta.

Nhìn theo xa xa thấy Đại Ỷ Ti và Tiểu Siêu lên chiếc thuyền lớn, đứng ở đầu thuyền, cùng các Bảo Thụ Vương nói chuyện, còn chiếc thuyền của mình vẫn chìm dần, chiếc cột buồm từng tấc, từng tấc từ từ hạ xuống.

Tạ Tốn thở dài:

- Không phải người cùng chủng tộc với mình, tâm hồn cũng khác xa. Vô Kỵ con ơi, ta quen nhầm Hàn phu nhân, còn con thì quen nhầm Tiểu Siêu. Vô Kỵ, đại trượng phu lúc co lúc duỗi, mình cố gắng chịu đựng cái nhục nhất thời, để tìm cách chạy trốn. Trên vai con đảm đương gánh nặng, nghìn vạn dân trăm họ Trung Nguyên, ai ai cũng mong Minh giáo phất ngọn nghĩa kỳ, khu trừ Thát tử. Khi nào thời cơ đến, con cứ một mình thoát thân, đừng phải lo gì cho ai cả. Con đứng đầu của một giáo phái, nặng nhẹ lớn bé phải biết phân biện cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ còn trầm ngâm chưa trả lời, Triệu Mẫn đã hứ một tiếng nói:

- Cái mạng mình còn lo chưa xong, nói gì Thát tử với không Thát tử. Ông bảo người Mông Cổ tốt hay người Ba Tư tốt?

Chu Chỉ Nhược từ nãy vẫn không nói năng gì đột nhiên chen vào:

- Tiểu Siêu đối với Trương công tử tình ý thâm trọng, quyết không thể nào phản bội mình đâu.

Triệu Mẫn nói:

- Thế cô không thấy Tử Sam Long Vương nằng nặc bức bách cô ta hay sao? Tiểu Siêu lúc đầu không chịu, nhưng sau bị ép quá, rồi cũng phải chịu, còn giả vờ khóc lóc một hồi nữa.

Lúc này cột buồm chỉ còn cách mặt biển chừng hơn một trượng, mỗi lần sóng biển tạt vào, nước bắn lên khiến ai nấy mặt mày ướt đẫm. Triệu Mẫn đột nhiên cười nói:

- Trương công tử, cả bọn cùng chàng chết chung một chỗ càng tốt. Tiểu Siêu gian trá âm hiểm nên không được chết chung với chúng mình.

Câu nói đó vốn là một câu nói đùa, nhưng bên trong tình nghĩa thật triền miên. Trương Vô Kỵ nghe thật cảm động, nghĩ thầm: "Ta không lấy được tất cả một lượt, nhưng cùng ba cô chết chung một chỗ, cũng không uổng chút nào". Chàng quay lại nhìn Triệu Mẫn, rồi lại nhìn Chu Chỉ Nhược, rồi nhìn xuống Ân Ly trong lòng mình. Ân Ly lúc này vẫn hôn mê chưa tỉnh, còn Triệu Chu hai nàng má đỏ hồng, thêm những giọt nước lấm tấm trên mặt chẳng khác gì những giọt sương trên bông hoa buổi sớm, nàng họ Triệu tươi tắn như nụ hồng, còn nàng họ Chu tú lệ như chi lan, khiến đột nhiên chàng thấy trong lòng thật bình an vui sướng.

Bỗng thấy trên hơn một chục chiếc thuyền Ba Tư tiếng hoan hô vang dậy. Cả bọn Trương Vô Kỵ giật mình, cùng chăm chú nhìn qua thấy trên tất cả mọi chiếc thuyền người Ba Tư đều quì phục xuống sàn, hướng về chiếc thuyền lớn hành lễ. Trên chiếc thuyền lớn các Bảo Thụ Vương cũng quì xuống tại đầu thuyền, chính giữa một người ngồi trên ghế, trông hình như là Tiểu Siêu nhưng vì quá xa nên nhìn không rõ. Cả bọn kinh nghi bất định, không biết bọn người Ba Tư đang làm trò quái quỉ gì. Bọn người Hồ hoan hô một chặp rồi đứng cả lên nhưng vẫn không ngừng xí xố, giọng điệu cực kỳ sung sướng, dường như có chuyện gì thật vui mừng.

Một lúc sau, chiếc thuyền nhỏ lại quay lại, trong thuyền ngồi chính là Tiểu Siêu. Nàng vẫy tay nói:

- Trương công tử, xin tất cả các vị cùng lên chiếc thuyền lớn. Minh giáo Ba Tư quyết không làm hại các vị đâu.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sao vậy?

Tiểu Siêu đáp:

- Các vị qua rồi sẽ biết. Nếu như có ý làm hại thì Tiểu Siêu ăn nói làm sao với Trương công tử?

Tạ Tốn đột nhiên hỏi:

- Tiểu Siêu, cô lên làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư, phải không?

Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Một lúc sau, đôi mắt to ứa ra hai hàng lệ trong như ngọc. Ngay khi đó, tai Vô Kỵ bỗng ù đi, mọi việc tiền nhân hậu quả chàng cũng đoán được bảy tám phần, trong lòng cực kỳ đau đớn, lại vô cùng cảm kích, nói:

- Tiểu Siêu, mọi sự em gánh chịu chẳng qua cũng chỉ vì tôi.

Tiểu Siêu nghiêng đầu qua, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Tạ Tốn thở dài:

- Đại Ỷ Ti có đứa con như thế, không hổ cho anh danh một đời của Tử Sam Long Vương. Vô Kỵ, thôi mình qua đi.

Nói xong ông nhảy xuống thuyền trước. Kế đến Chu Chỉ Nhược bồng Ân Ly nhảy xuống theo, Trương Vô Kỵ cũng ôm Triệu Mẫn xuống thuyền.

Tám tên thủy thủ quay thuyền lại, bơi về hướng chiếc thuyền lớn. Khi còn cách chiếc thuyền chừng mươi trượng, các Bảo Thụ Vương đã cùng khom mình nghinh tiếp giáo chủ. Tất cả lên trên đại hạm rồi, Tiểu Siêu dặn dò mấy câu, lập tức có người cung kính dâng lên khăn lau mặt, đồ ăn rồi dẫn mọi người vào phòng thay quần áo ướt.

Trương Vô Kỵ thấy căn phòng chàng vào cực kỳ rộng rãi, trong phòng đầy ngọc ngà châu báu, bày biện thật nhiều đồ quí giá, còn đang lau người nghe kẹt một tiếng cửa phòng mở ra, một người tiến vào chính là Tiểu Siêu. Nàng cầm trên tay một chiếc quần lót, một trường bào nói:

- Công tử, để em hầu chàng thay quần áo.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, nói:

- Tiểu Siêu, em bây giờ giáo chủ của tổng giáo rồi, nói đúng ra tôi còn ở dưới quyền em nữa, việc gì phải làm những việc này?

Tiểu Siêu năn nỉ:

- Công tử, đây là lần cuối cùng. Từ nay hai đứa mình đông tây xa xôi vạn dặm, không biết có còn bao giờ gặp lại nhau không, dẫu em có muốn hầu hạ chàng một lần nữa, cũng không còn được.

Trương Vô Kỵ đau lòng không nói nên lời, chỉ đành để nàng như vẫn thường làm, thay áo, cài khuy, thắt dây lưng, rồi lấy chiếc lược ra chải đầu cho chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nước mắt rưng rưng, đột nhiên trong lòng khích động, giơ tay ôm tấm thân thon nhỏ của cô gái vào lòng. Tiểu Siêu "A" lên một tiếng, thân thể run rẩy, Trương Vô Kỵ hôn lên trên đôi môi nàng một cái, nói:

- Tiểu Siêu, lúc đầu tôi lại tưởng em lừa dối tôi, đâu có ngờ em đối với tôi sâu đậm đến thế.

Tiểu Siêu nép đầu vào bộ ngực nở nang của Vô Kỵ, nói nhỏ:

- Công tử, lúc đầu em quả có lừa dối chàng thật. Mẹ em vốn là một trong ba thánh nữ của tổng giáo, được phái sang Trung Thổ tích lập công đức để rồi trở về Ba Tư, tiếp nhiệm chức vụ giáo chủ. Ngờ đâu mẹ em gặp cha em rồi, tình ý không dứt ra được nữa, đành phải phản giáo để cùng cha em thành hôn. Mẹ em biết tội mình rất nặng, nên đem chiếc nhẫn thánh xử nữ bằng bảo thạch bảy màu truyền lại cho em, sai em trà trộn lên Quang Minh Đính ăn trộm Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp. Công tử, chuyện đó em đã dấu chàng nhưng trong lòng em, em chưa bao giờ làm điều gì không phải với anh. Em đã nguyện rằng em chẳng màng chức vụ giáo chủ Minh giáo Ba Tư, chỉ mong được làm một đứa tôi đòi, cả đời hầu hạ anh, vĩnh viễn không bao giờ xa anh thôi. Em cũng đã từng nói cho chàng hay rồi, có phải không? Chàng cũng đã bằng lòng như thế, có phải không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, ôm tấm thân nhỏ nhắn của Tiểu Siêu để lên lòng, lại cúi xuống hôn nàng lần nữa. Đôi môi mềm mại của cô gái ướt đẫm nước mắt, vừa ngọt ngào, vừa cay đắng. Tiểu Siêu lại nói:

- Em đã nhớ hết Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp nhưng quyết không vì có lòng phản bội anh. Nếu không phải vì ngày hôm nay ở vào đường cùng, em chẳng bao giờ nói ra cả ...

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:

- Bây giờ thì anh biết rồi.

Tiểu Siêu ngậm ngùi nói tiếp:

- Khi em còn bé, thấy mẹ em ngày đêm không an, lúc nào cũng sợ hãi, cố gắng che dấu dung nhan của mình, hóa tang thành một bà già xấu xí. Mẹ em lại không cho em được ở gần, đem gửi một người khác nuôi, hai ba năm mới đến gặp em một lần. Lúc đó em cũng đã hiểu rồi, mẹ em cực kỳ mạo hiểm để cùng cha em thành hôn. Công tử, nếu như hôm nay không gặp chuyện thế này, chẳng nói chức vụ giáo chủ, ngay cả làm nữ hoàng toàn thế giới em cũng chẳng màng.

Nói đến đây hai má nàng đỏ hồng lên như bốc lửa. Trương Vô Kỵ thấy người con gái chàng đang ôm trong tay người nóng rực lên, trong lòng xúc động, bỗng nghe tiếng của Đại Ỷ Ti từ ngoài vọng vào:

- Tiểu Siêu, nếu con không khắc chế được tình dục, ấy là làm hại tính mệnh của Trương công tử đó.

Thân hình Tiểu Siêu run lên, nàng vội trườn ra ngoài nói:

- Công tử, từ nay trở đi chàng đừng nhớ tới em làm gì. Ân cô nương theo mẹ em lâu ngày, đối với chàng tình thật sâu đậm, quả xứng đôi vừa lứa với anh.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Bọn mình tấn công ra, bắt giữ một hai Bảo Thụ Vương, ép họ phải thả mình về đảo Linh Xà.

Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu nói:

- Lần này họ có kinh nghiệm rồi, Tạ đại hiệp, Ân cô nương tất cả mọi người đều có người Ba Tư kề dao vào cổ, mình chỉ động đậy, là họ lập tức giết ngay.

Nói xong nàng mở cửa khoang ra, thấy Đại Ỷ Ti đứng tại bên ngoài, hai người Ba Tư cầm trường kiếm đứng ngay sau lưng. Hai người đó khom lưng chào Tiểu Siêu, nhưng mũi kiếm vẫn để ngay lưng Đại Ỷ Ti không rời.

Tiểu Siêu ngang nhiên đi tới trên sàn, Trương Vô Kỵ đi theo phía sau, quả nhiên thấy Tạ Tốn cả bọn đều có võ sĩ Ba Tư đứng sau lưng cầm kiếm uy hiếp. Tiểu Siêu nói:

- Công tử, ở đây có linh dược trị thương của Ba Tư, chàng lấy mà chữa cho Ân cô nương.

Nói xong dùng tiếng Ba Tư dặn dò mấy câu, Công Đức Vương liền lấy ra một bình thuốc cao đưa cho Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu lại nói:

- Em ra lệnh cho người đưa các vị về Trung Thổ, thôi mình từ biệt nhau nơi đây. Tiểu Siêu thân ở Ba Tư nhưng ngày ngày cầu cho công tử được phúc thể khang ninh, mọi việc như ý.

Nàng nói nhưng giọng nghẹn ngào, Trương Vô Kỵ nói:

- Em ở nơi hang hùm miệng sói, mọi việc nên cẩn thận.

Tiểu Siêu gật đầu ra lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị thuyền bè. Tạ Tốn, Ân Ly, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược từng người đi qua. Tiểu Siêu đem đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên giao lại cho Trương Vô Kỵ, nở một nụ cười tê tái, giơ tay vẫy chào.

Trương Vô Kỵ không biết phải nói sao, chỉ đứng xuất thần giây lát rồi nhảy lên thuyền. Chiếc thuyền lớn của Tiểu Siêu đang đứng có tiếng tù và u u vang động, hai bên cùng giương buồm lên, mỗi lúc một xa dần. Thế nhưng vẫn thấy Tiểu Siêu đứng ở đầu thuyền, đăm đăm nhìn về hướng Trương Vô Kỵ. Khoảng biển giữa hai người càng lúc càng xa, chiếc thuyền của nàng chỉ còn là một cái chấm nhỏ, sau cùng biển cả mênh mông, tiếng gió thổi vào buồm tưởng như mang theo cả tiếng ai nức nở, nghẹn ngào.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nga Mặc đây là Omar Khayyam, một thi sĩ, toán học gia, thiên văn gia, triết gia rất nổi tiếng của Ba Tư (1048-1131 - trong Encyclopeadia Britannica viết là 1122). Có thể nói ông là một nhà bác học lỗi lạc và nhiều công trình thiên văn chính xác đến mức chúng ta ngày nay phải kinh ngạc. Ông được Ni Nhược Mâu (Nizam al-Mulk) là quốc sư của vua Malik-Shah, mời về triều, được nhà vua đặt trông coi và thiết lập một đài thiên văn để tính toán lịch số. Sau khi Nizam al-Mulk bị ám sát chết trên đường đi từ kinh đô Esfahan đến Baghdad năm 1092, Omar Khayyam bị thất sủng. Tác phẩm của Omar Khayyam được dịch ra nhiều thứ tiếng và bản tiếng Anh do Edward FitzGerald (1859) rất nổi tiếng. Thơ của ông làm theo thể tứ tuyệt (bốn câu hay quatrain) nay còn lưu truyền khoảng 250 bài.

Về cái chết của Nizam al-Mulk, sách vở chép là do nhóm khủng bố Ismailiyah (Y Tư Mỹ Lương) nhưng cũng có nơi cho là do âm mưu của vợ ông vì con trai bà không được chỉ định làm người thừa kế. Nhóm khủng bố Ismailiyah này có nhiều chi phái, trong đó một nhóm Hồi giáo ly khai cực đoan từ Ai Cập truyền tới Ba Tư do Hasan-e Sabbah (Thôi Sơn 1034-1124) lãnh đạo đã có thời đã kiểm soát một khu vực rộng lớn trong dãy núi Elburz giữa Iran và Syria, có ảnh hưởng mạnh trong tầng lớp thợ thuyền và dân lao động. Hasan có biệt danh là Old Man of the Mountains mà Kim Dung dịch là Sơn Trung Lão Nhân được sử sách kể là dùng môt loại cây có chất ma túy tên là hashish khiến người dùng nó có ảo giác để mê hoặc những đồng đảng. Người được lệnh đi thi hành việc ám sát được gọi là Hashshashin (người hút hashish) và chữ này đã biến thành chữ assassin trong tiếng Anh. Nhóm này đóng một vai trò quan trọng cho tới tận thế kỷ thứ 13 thì bị người Mông Cổ tiêu diệt. Hiện nay vẫn còn một số ít người thuộc nhóm khủng bố này sống ở Trung Á.

Về việc nhóm này ám sát vua Edward nước Anh, người dịch chưa tìm ra tài liệu vì trong suốt lịch sử Anh quốc có rất nhiều vua tên Edward và không có vua nào cùng thời với Hasan cả.

[2] Lăng ba tiên tử mô tả một nàng tiên trên mặt sóng nhưng nghĩa bóng cũng ám chỉ môt đóa sen lay động trên mặt nước

[3] học giả chuyên nghiên cứu kinh điển

[4] Đoạn này tác giả cố ý để Trí Tuệ Vương dẫn một số câu trong Luận Ngữ lại bắt chước Triệu Mẫn nhầm chữ nọ qua chữ kia. Nguyên câu của Khổng Tử là: Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ. Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ có nghĩa là: Có bạn từ xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao. Học mà được làm những điều mình đã học, chẳng sướng lắm sao. Tác giả viết rất hoạt kê để cho một người ngoại quốc nói tiếng Hán có nhiều điều nhầm lẫn, lời lẽ thô lỗ.

Hồi 31

ĐAO KIẾM TỀ THẤT NHÂN VÂN VONG

Giấc Nam Kha khéo bất bình,

Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.[1]

Ngỡ rằng một mối tình chung,

Ngẩn ngơ ai biết vân mòng nào đâu?

Ân Ly được đắp thuốc cao của người Ba Tư rồi nhưng cơn sốt vẫn không giảm, nói mê lảm nhảm không ngừng. Nàng ở trên biển mấy ngày, bệnh rồi lại thêm gió lạnh, thuốc kia chỉ dùng để trị ngoại thương, không trị được nội phong tà. Trương Vô Kỵ trong lòng lo lắng, đến ngày thứ ba trông thấy nơi xa xa phía đông có một hòn đảo nhỏ liền bảo người lái thuyền quay về hướng đó.

Mọi người lên trên đảo rồi, tinh thần thấy thoải mái hơn. Hòn đảo đó chỉ độ vài dặm, đầy những bụi cây thấp và hoa cỏ. Trương Vô Kỵ nhờ Chu Chỉ Nhược trông coi Ân Ly, Triệu Mẫn rồi đi lách hoa vạch cỏ xem có loại thuốc nào không. Thế nhưng trên đảo hoa cỏ khác với Trung Thổ nhiều, phần lớn chàng không biết. Trương Vô Kỵ càng đi càng xa, đến lúc tối mịt mới kiếm được có một vị, đành phải quay về, đem vị thuốc đó nhai nát mớm cho Ân Ly.

Sáu người ngồi quanh đống lửa, ăn cơm chiều xong, bốn bề hoa hương lay động, cây cỏ mát mẻ, khác hẳn khi ở trên thuyền bó chân bó cẳng, ai nấy đều cảm thấy thoải mái. Ân Ly cũng đã bớt nhiều nói:

- A Ngưu ca ca, đêm nay mình ngủ tại đây đi, đừng trở lại thuyền.

Câu dó nói ra ai cũng khen phải. Mọi người thấy hòn đảo nhỏ này cây cối xanh tươi, nước trong mát, không có hung cầm mãnh thú gì nên ai nấy an tâm nằm ngủ.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ đứng lên chỉ mới đi được một bước, thấy loạng choạng như muốn ngã, hai chân dường như không còn hơi sức, từ trước tới nay chưa hề bị như thế bao giờ, chàng dụi mắt nhìn ra không thấy chiếc thuyền Ba Tư, trong bụng hoảng hốt, chạy vội ra mé biển nhìn khắp nơi không còn thấy tăm hơi đâu nữa.

Chàng kinh hãi không biết đâu mà kể kêu lên:

- Nghĩa phụ có sao không?

Chàng không nghe Tạ Tốn trả lời vội chạy đến nơi cha nuôi nằm, thấy ông ta đang ngủ say nên cũng an tâm. Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Ân Ly ba người ngủ tại một nơi xa sau một tảng đá, chàng vội chạy đến coi, thấy Chu Chỉ Nhược nằm đối diện với Ân Ly, còn Triệu Mẫn không có ở nơi đó. Chàng vừa thoạt nhìn thấy mặt Ân Ly đầy những máu, vội cúi xuống coi, thấy mặt nàng bị vật gì sắc bén rạch đến mươi đường, đã hôn mê từ bao giờ, vội đưa tay thăm mạch nàng, may sao vẫn còn đập nhè nhẹ. Nhìn qua Chu Chỉ Nhược thấy mái tóc dài xinh đẹp của nàng bị cắt một mảng lớn, tai trái cũng bị cắt một vết máu vẫn còn chảy chưa ngừng nhưng trên mặt lại nở một nụ cười dường như đang mơ một giấc mộng đẹp, dưới ánh ban mai trông như một đóa hải đường hé nở, xinh đẹp vô cùng.

Chàng trong bụng kêu khổ liên tiếp, vội gọi:

- Chu cô nương, tỉnh đậy. Chu cô nương, tỉnh dậy.

Chu Chỉ Nhược vẫn không tỉnh. Trương Vô Kỵ đưa tay lay vai nàng, Chu Chỉ Nhược mở miệng ngáp dài rồi lại quay qua ngủ tiếp. Trương Vô Kỵ biết nàng bị trúng phải thuốc mê, đêm qua xảy ra nhiều chuyện quái đản, mình tuyệt nhiên không biết tí gì, bây giờ toàn thân không còn chút hơi sức nào, đúng là trúng độc rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Chàng gọi mãi Chu Chỉ Nhược vẫn không tỉnh vội vàng chạy qua chỗ Tạ Tốn, kêu lên:

- Nghĩa phụ, nghĩa phụ.

Tạ Tốn mơ mơ hồ hồ ngồi dậy hỏi:

- Cái gì thế?

Trương Vô Kỵ nói:

- Chết rồi, mình trúng phải gian kế.

Chàng đem việc thuyền Ba Tư đi mất, Chu Chỉ Nhược và Ân Ly bị thương ra sao lược thuật lại cho Tạ Tốn nghe. Tạ Tốn kinh hãi hỏi lại:

- Còn Triệu cô nương thì sao?

Trương Vô Kỵ buồn bã đáp:

- Không thấy cô ta đâu cả.

Chàng hít một hơi, hơi vận nội tức, thấy chân tay mềm uột, không có thể sử dụng kình lực được chút nào, liền buột miệng nói:

- Nghĩa phụ, mình bị người ta hạ độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.

Việc các cao thủ lục đại phái bị Triệu Mẫn dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán đánh ngã rồi bị bắt cả về chùa Vạn An ở Đại Đô, Trương Vô Kỵ đã thuật cho Tạ Tốn nghe qua nên ông hiểu ngay, vội đứng dậy thấy mình chân tay cũng bồng bềnh không còn chút hơi sức nào, cố gắng định thần rồi hỏi:

- Thế còn đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên cũng bị cô tay lấy luôn cả rồi ư?

Trương Vô Kỵ nhìn chung quanh, không thấy đao kiếm đâu cả, trong bụng căm tức khôn cùng, tưởng như muốn khóc được, không ngờ rằng Triệu Mẫn lợi dụng lúc mình bị nguy khốn thế này, lại còn lạc tỉnh hạ thạch[i], ra tay thi hành gian kế như thế này.

Chàng đứng xuất thần một hồi, lại lo cho thương thế của Ân Ly, vội chạy về chỗ Ân Chu hai nàng, lay lay Chu Chỉ Nhược nàng vẫn hôn mê không tỉnh, nghĩ thầm: ?Ta nội lực thâm hậu hơn cả cho nên tỉnh sớm hơn hết, kế tới là nghĩa phụ. Chu cô nương so với hai người mình kém xa, xem ra giờ này chưa thể nào tỉnh lại được?. Chàng bèn xé một mảnh áo lau vết máu trên mặt Ân Ly, thấy mặt nàng bị bảy tám đường nho nhỏ, hiển nhiên là dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt. Ân Ly sau khi bị Kim Hoa bà bà Tử Sam Long Vương đả thương, độc dịch của những con nhện chất chứa trong cơ thể theo máu chảy ra hết nên phù thũng trên mặt đã giảm đi rất nhiều, nét tú lệ khi còn trẻ mấy ngày nay quay trở lại phần nào, nay mặt lại bị rạch mấy đường khiến cho trông thật hãi hùng.

Trương Vô Kỵ vừa đau lòng lại vừa căm tức, nghiến răng nói:

- Triệu Mẫn ơi Triệu Mẫn, nếu có ngày ngươi rơi vào tay ta, Trương Vô Kỵ này mà còn tha thì không kể là người.

Chàng lấy lại bình tĩnh vội chạy vào trong núi kiếm những loại thảo dược cầm máu, nhai đắp lên mặt Ân Ly, đắp cả đầu và tai cho Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược ngáp dài một cái, mở mắt ra, thấy chàng đang giơ tay sờ đầu mình, thẹn đỏ cả mặt, lấy tay đẩy chàng ra, hờn dỗi nói:

- Anh ... anh làm gì thế ...

Nói chưa dứt câu nàng dường như cảm thấy đau, giơ tay lên sờ, kêu ?A? một tiếng kinh hoảng, nhảy dựng lên hỏi:

- Sao thế này?

Đột nhiên hai đầu gối nhũn xuống, rơi phịch vào lòng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ, an ủi nàng:

- Chu cô nương đừng sợ.

Chu Chỉ Nhược nhìn thấy hình dung ghê rợn của Ân Ly, vội đưa tay sờ mặt mình, kinh hãi hỏi:

- Mặt ... mặt em có bị như thế không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không đâu, cô chỉ bị thương nhẹ thôi.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Có phải bọn ác đồ Ba Tư làm đấy chăng? Em ... em sao chẳng biết gì cả?

Trương Vô Kỵ thở dài, buồn bã nói:

- E rằng ... e rằng do Triệu cô nương làm đó. Tối hôm qua khi ăn uống nàng bỏ thuốc độc.

Chu Chỉ Nhược bần thần một hồi, giơ tay sờ lên tai, khóc òa lên. Trương Vô Kỵ vỗ về:

- Cũng may cô bị thương không lấy gì làm nặng, tai chỉ bị khuyết một chút lấy tóc che lại người ngoài không ai thấy gì đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Lại còn nói tới tóc ư? Tóc em cũng đâu còn nữa.

Trương Vô Kỵ nói:

- Trên đỉnh có mất chút da tóc hai bên chải qua che lại cũng được ...

Chu Chỉ Nhược nói dỗi:

- Tại sao em lại phải lấy tóc hai bên che lại? Đến lúc này anh cũng vẫn còn hết sức chống chế cho Triệu cô nương của anh.

Trương Vô Kỵ bị nàng bắt bẻ liền cãi lại:

- Tôi đâu có bênh cô ta đâu. Cô ta độc ác, hại Ân cô nương ra nông nỗi này, tôi ... tôi sẽ không tha cho cô ta được.

Chàng nhìn thấy mặt mày Ân Ly thành như thế, tự nhiên nước mắt ròng ròng chảy xuống. Gặp phải cảnh này, Trương Vô Kỵ bàng hoàng bối rối, ngồi xuống vận công thấy mình bị trúng độc không phải là ít. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này chỉ có thuốc giải của Triệu Mẫn mới giải được thôi nhưng lúc này chỉ còn cách đem nội công chống lại chất độc, liền vận nội tức, từ từ hút các chất độc từ tứ chi vào đan điền, cố gắng ngưng tụ, sau đó mới đẩy từng chút từng chút ra khỏi cơ thể.

Chàng vận công hơn một giờ sau thấy kiến hiệu, trong bụng cũng hơi an tâm nhưng có điều phương pháp đó lấy Cửu Dương thần công làm căn bản, không cách nào có thể truyền thụ cho Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược làm theo, chỉ còn nước đợi đến lúc chàng trừ sạch rồi sẽ giúp Tạ, Chu hai người loại trừ chất độc.

Phương pháp đó nói thì có vẻ giản dị nhưng lúc thực hành lại trăm điều phiền phức, đến ngày thứ bảy chàng chỉ mới loại được độ ba phần. Cũng may là chất độc này chỉ làm cho người ta không sử dụng nội kình được nhưng không làm hại cho cơ thể.

Mấy ngày đầu Chu Chỉ Nhược bực dọc lắm, nhưng về sau cũng quen dần đi, giúp Tạ Tốn bắt cá săn chim, nhóm lửa nấu đồ ăn. Nàng sống một mình trong một cái hang nơi phía đông hòn đảo, ở cách xa bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong lòng hơi sượng sùng, cái họa Triệu Mẫn cũng toàn ở mình mà ra. Triệu cô nương rõ ràng là quận chúa Mông Cổ, là kẻ tử địch của Minh giáo, không biết bao nhiêu cao nhân trong võ lâm từng bị nàng gia hại, vậy mà mình không đề phòng chút nào, quả thực ngu không để đâu cho hết. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược không oán trách gì chàng, đến một câu cũng không nhắc tới khiến chàng lại càng khó chịu, có lúc nhìn vào mắt nàng dường như muốn nói: ?Chỉ vì anh bị sắc đẹp của Triệu Mẫn làm cho mê hoặc nên mới ra nông nỗi này?.

Thế nhưng thương thế của Ân Ly mỗi lúc một nặng. Hòn đảo này ở về biển Nam, quá nửa những cây cỏ Y Kinh của Hồ Thanh Ngưu không đề cập tới, tuy chàng tinh thông y dược biết bệnh của Ân Ly có thể chữa được nhưng không có thuốc men. Khổ nổi trên đảo cây cối lại chỉ toàn là những bụi thấy nhỏ, chỉ có thể dùng làm củi đun chứ không có thể kết thành bè để mạo hiểm vượt biển. Nếu chàng không biết y thuật thì chỉ lo lắng mà thôi, còn trong tình cảnh này thật chẳng khác gì dao nhọn ngày đêm đâm nhoi nhói vào tim. Một buổi chiều, chàng nhai một ít dược thảo dùng cho hạ sốt, mớm cho Ân Ly, thấy nàng không nuốt nổi, trong lòng chua xót, nước mắt lã chã rơi trên mặt cô gái.

Ân Ly đột nhiên mở mắt ra, mỉm cười nói:

- A Ngưu ca ca, anh đừng quá đau khổ. Em muốn được xuống dưới âm đi kiếm tên tiểu quỉ chết non lòng lang Trương Vô Kỵ. Em sẽ nói với y rằng trên trần thế có một người là A Ngưu ca ca, đối với em thật là tử tế, so với ngươi Trương Vô Kỵ gấp nghìn gấp vạn lần.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào không biết phải nói sao, có nên nói cho nàng biết mình chính là Trương Vô Kỵ hay chăng. Ân Ly lại nắm tay chàng nói:

- A Ngưu ca ca, trước sau em vẫn không nhận lời lấy anh, anh có giận em không? Em nghĩ chắc chỉ vì anh muốn em vui lòng, cho nên nói dối em thế thôi. Em tướng mạo xấu xí, tính tình lại quái đản, sao anh lại muốn lấy em?

Trương Vô Kỵ dáp:

- Không đâu, anh không nói dối em đâu. Em là một cô gái tình sâu ý nặng, mong được lây em là nguyện vọng bình sinh của anh. Để khi nào em khỏi rồi, mọi việc mình tính toán xong cả thì sẽ làm lễ cưới, em nghĩ có phải không?

Ân Ly giơ tay nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt Trương Vô Kỵ, lắc đầu nói:

- A Ngưu ca ca, em không thể nào lấy anh được đâu. Tâm hồn em đã sớm hứa lấy tên lang tâm hung ác Trương Vô Kỵ kia rồi ... A Ngưu ca ca, em có điều hơi sợ, khi xuống dưới âm rồi, không biết có gặp lại y không? Y có đối xử với em hung hăng như trước kia chăng?

Trương Vô Kỵ thấy nàng ăn nói tỉnh táo, hai má ửng hồng, trong lòng kinh hãi ngầm: ?Đây là hiện tượng hồi quang phản chiếu, không lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của nàng sao??. Chàng ngẩn ngơ xuất thần, không nghe nàng nói gì cả. Ân Ly nắm chặt tay chàng, hỏi lại một lần nữa. Trương Vô Kỵ nhỏ nhẹ đáp:

- Y vĩnh viễn đối với em thật tử tế, coi em chẳng khác gì báu vật.

Ân Ly hỏi:

- Liệu có được bằng một nửa anh đối với em không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nói có trời đất, Trương Vô Kỵ thành tâm thành ý yêu thương em, y đã sớm hối hận việc hồi đó y dữ dằn với em rồi. Y ... y đối với em, thật chẳng khác gì anh đối với em, không khác một tí nào.

Ân Ly thở hắt ra, miệng mỉm cười:

- Nếu ... nếu thế thì em cũng an tâm ...

Bàn tay nàng cầm Trương Vô Kỵ từ từ lỏng ra, hai mắt nhắm nghiền, sau cùng hơi thở ngừng bặt. Trương Vô Kỵ ôm xác nàng trong tay, nghĩ thầm đến khi nàng tắt hơi cũng vẫn chưa biết mình là Trương Vô Kỵ. Trong bao nhiêu ngày qua, nàng hôn mê nên không cách nào chàng có thể nói cho Ân Ly hay chân tướng của mình, đến lúc lâm chung nàng tỉnh lại một chút thì không còn kịp nữa. Thực ra đã đến nước này, nói hay không nói có khác gì nhau. Chàng đau khổ, khóc không thành tiếng chỉ nghĩ thầm: ?Nếu không phải vì Triệu Mẫn làm nàng bị thương trên mặt, bệnh tình của nàng chưa hẳn đã không chữa nổi. Nếu Triệu Mẫn không bỏ rơi mình trên hoang đảo này, chỉ vài ngày là về đến Trung Nguyên, mình đã có cách cứu được nàng?. Chàng hậm hực nói lên thành tiếng:

- Triệu Mẫn ơi, ngươi lòng dạ có khác gì rắn rết, có ngày ngươi vào tay ta, Trương Vô Kỵ nhất quyết không tha cho ngươi đâu?.

Bỗng từ sau lưng có tiếng người lạnh lùng nói:

- Để xem khi anh thấy khuôn mặt như hoa như ngọc của cô ta, xem anh có dám hạ thủ hay không.

Chàng quay lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng trong gió, khuôn mặt đầy vẻ khinh thường. Chàng vừa đau lòng, vừa xấu hổ nói:

- Tôi đã thề trước xác của biểu muội, nếu không đích tay tru diệt yêu nữ, Trương Vô Kỵ này không còn mặt mũi nào sống trong trời đất nữa.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Có thế mới là một người con trai có chí khí chứ.

Nàng tiến lên, ngồi sụp xuống bên cạnh xác của Ân Ly khóc lóc một hồi. Tạ Tốn nghe tiếng khóc, lần theo tiếng mà đến, biết được Ân Ly đã chết cũng không khỏi thương tâm. Trương Vô Kỵ đi đến bên bóng râm cạnh vách núi đào một cái huyệt. Trên đảo đất thịt thật nông, chỉ mới hai thước đã đến một lớp đá hoa cương, trong tay lại không có cuốc xẻng gì, đành phải bỏ Ân Ly vào trong chiếc hố nông đó, đến khi định lấp đất lên, nhìn thấy khuôn mặt sưng vù của nàng đầy vết máu, nghĩ thầm: ?Nếu đổ đất đá lên e rằng làm nát mặt nàng mất?. Chàng bèn bẻ mấy cành cây xếp lên người nàng rồi mới nhè nhẹ xếp đá lên tưởng như dẫu nàng đã chết rồi nhưng vẫn còn cảm giác, nên sợ đá đè xuống làm nàng đau. Chàng lại bẻ một thân cây, bóc lớp vỏ đi, dùng con dao găm của Ân Ly khắc lên trên khúc gỗ: "Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ", bên dưới khắc thêm "Trương Vô Kỵ cẩn lập". Chàng chôn cất xong rồi, năm phục xuống khóc lóc. Chu Chỉ Nhược khuyên nhủ:

- Ân cô nương đối với anh một tấm chung tình, anh đối với nàng cũng nhân nghĩa tột cùng rồi. Chỉ cần anh đừng quên những điều đã thề hôm nay, giết Triệu Mẫn báo cừu cho nàng, Ân gia muội tử ắt cũng mỉm cười nơi chín suối.

Trương Vô Kỵ đau lòng khiến bao nhiêu chất độc ngưng tụ nơi đan điền lại tan ra hết, phí mất mấy ngày công phu, lại phải từ từ ngưng tụ lại, đến lúc đẩy được hết chất độc ra cũng mất đến hơn mười ngày nữa. Trên hòn đảo khí hậu nóng bức, trái cây dại rất nhiều, tha hồ hái nên không sợ đói, sống qua ngày không có gì là gian nan. Chu Chỉ Nhược biết Trương Vô Kỵ đau lòng vì cái chết của Ân Ly, lại căm giận tính gian trá của Triệu Mẫn, thêm tội nghiệp cho Tiểu Siêu phải ra đi nên càng hết lòng hết sức dịu ngọt với chàng để mong bù lại.

Trương Vô Kỵ vận thần công giúp Tạ Tốn khu trừ hết chất độc rồi, định giúp cho Chu Chỉ Nhược nhưng nghĩ lại phương pháp loại trừ chất độc này, một chưởng đặt vào sau lưng đối phương, một chưởng đè vào trên bụng, hai người thanh niên nam nữ, làm sao lại có thể đụng da chạm thịt như thế được? Thế nhưng nếu không vận công bằng cách này thì không thể nào đem Cửu Dương Chân Khí trút vào người nàng cho nên mấy ngày liền vẫn trù trừ không biết tính sao.

Chiều hôm đó Tạ Tốn bỗng nói:

- Vô Kỵ, con thử nghĩ xem mình sẽ phải ở trên đảo này bao lâu?

Trương Vô Kỵ bần thần đáp:

- Cái đó cũng khó nói lắm, chỉ mong có thuyền bè nào đi ngang qua cứu mình đưa về Trung Thổ.

Tạ Tốn nói:

- Hơn một tháng nay, con có thấy ở xa xa có bóng dáng chiếc thuyền nào không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không thấy.

Tạ Tốn nói:

- Thế đó! Không chừng ngày mai có thuyền đến đây, mà cũng có thể một trăm năm nữa không ai đến cả.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Hòn đảo hoang này chơ vơ trên biển cả, không phải nằm trên đường đi của thuyền bè, mình làm thế nào để về được Trung Thổ quả thật là mờ mịt.

Tạ Tốn nói:

- Hừ, thuốc giải thật không biết làm sao mà có. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán nằm trong cơ thể, trừ việc tay chân bải hoải không hơi sức, có còn hại gì khác không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu không lâu thì cũng không hại gì bao nhiêu nhưng nếu để chất độc xâm nhật vào thịt xương, nếu để lâu tạng phủ không thể nào không thương tổn.

Tạ Tốn nói:

- Vậy ư? Sao con không tìm cách nào trừ khử chất độc cho Chu cô nương? Con nói con và Chu cô nương biết nhau từ nhỏ, năm xưa khi con bị trúng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, cô ta từng có ơn với con. Một thục nữ ôn nhu đức hạnh như thế, kiếm đâu cho ra? Hay là con chê cô ấy không được đẹp?

Trương Vô Kỵ vội đáp:

- Không, không phải đâu. Chu cô nương mà còn không đẹp thì trên đời này còn ai mới đẹp nữa?

Tạ Tốn nói:

- Vậy ta đứng ra làm chủ hôn cho con lấy cô ta làm vợ. Cái hủ lễ nam nữ thụ thụ bất thân kia không còn gì phải cấm kỵ nữa.

Chu Chỉ Nhược đứng bên nghe hai người nói chuyện, bỗng thấy nói đến mình, thẹn đỏ bừng cả mặt, liền đứng dậy toan chạy đi. Tạ Tốn nhảy tới giang hai tay chặn nàng lại cười nói:

- Không được đi đâu, không được đi đâu. Hôm nay ta nhất định làm mối cho hai cô cậu rồi.

Chu Chỉ Nhược hờn dỗi nói:

- Tạ lão gia tử đừng đùa cợt nữa. Mình phải tìm cách nào quay về Trung Thổ, ai lại nói những chuyện lăng nhăng ấy bao giờ?

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Trai lấy vợ gái lấy chồng là chuyện chung thân đại sự, sao lại bảo là chuyện lăng nhăng? Vô Kỵ, cha mẹ con ở trên hoang đảo cũng tự mình bái trời đất thành hôn. Hai người đó nếu khi xưa không phá cái lệ của thế tục, thì hôm nay làm gì có tên tiểu tử này? Huống chi hôm nay lại có nghĩa phụ con đứng chủ hôn. Hay là con không thích Chu cô nương? Hay con không muốn khu trừ chất độc trong cơ thể cô ta chăng?

Chu Chỉ Nhược ôm mặt toan chạy nữa, Tạ Tốn nắm áo cô ta kéo lại cười nói:

- Cô chạy đi đâu? Chẳng lẽ ngày mai mình không gặp nhau nữa à? À, ta biết rồi, cô không muốn gọi lão già mù này là bố chồng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược vội nói:

- Không, không, không phải đâu. Tạ lão gia tử là hào kiệt đời nay ...

Tạ Tốn nói:

- Thế là cô bằng lòng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không, không.

Tạ Tốn nói:

- Chắc cô thấy đứa con nuôi tôi không ra gì phải không?

Chu Chỉ Nhược im lặng giây lát mới nói:

- Trương công tử võ công trác tuyệt, danh dương giang hồ. Được ... được người chồng như thế, còn mong gì hơn nữa? Có điều ... có điều ...

Tạ Tốn nói:

- Có điều sao?

Chu Chỉ Nhược háy Trương Vô Kỵ một cái nói:

- Anh ấy ... anh ấy trong lòng thích là thích Triệu cô nương, cháu biết lắm mà.

Tạ Tốn nghiến răng nói:

- Con tiểu tiện nhân Triệu Mẫn hại mình đến nước này, không lẽ Vô Kỵ vẫn còn chấp mê chưa tỉnh hay sao? Vô Kỵ, ngươi tự mình nói ra ta nghe nào.

Trương Vô Kỵ trong lòng bối rối, nghĩ đến nụ cười giọng nói của Triệu Mẫn chỗ nào cũng khiến rung động lòng người, giá như lấy được nàng chung sống với nhau đếu răng long đầu bạc thì thật là mãn nguyện, thế nhưng lại chuyển qua nhớ tới gương mặt nát bấy của Ân Ly, đầy vết kiếm máu me vội nói:

- Triệu cô nương là kẻ thù của tôi, tôi muốn giết cô ta để báo thù cho biểu muội.

Tạ Tốn nói:

- Thấy chưa, Chu cô nương có còn nghi ngờ gì nữa không?

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:

- Cháu vẫn chưa yên tâm. Trừ phi ... trừ phi lão gia bảo anh ấy ... phải thề đi. Nếu không thà cháu để cho chất độc phát ra mà chết chứ không chịu để cho anh ấy giúp cháu khu trừ chất độc.

Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, mau thề đi.

Trương Vô Kỵ quì xuống nói:

- Tôi Trương Vô Kỵ nếu như quên mối thù của biểu muội thì trời đất không tha.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Em muốn anh nói cho rõ ràng, đối với Triệu cô nương ra sao?

Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, con nói cho rõ ra chứ ?trời đất không tha? mơ hồ quá.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Yêu nữ Triệu Mẫn ra công gắng sức phục vụ hoàng đế Thát tử, làm khổ bách tích, hại cả nghĩa sĩ võ lâm, lại ăn trộm bảo đao của nghĩa phụ, làm hại biểu muội Ân Ly. Trương Vô Kỵ nếu còn sống ngày nào thề sẽ không quên mối thù đó, nếu như vi phạm xin trời hại tôi.

Chu Chỉ Nhược cười nhạt nói:

- Chỉ sợ lúc đó anh lại không nỡ ra tay thôi.

Tạ Tốn nói:

- Thôi ta bảo đây, chọn ngày không bằng gặp ngày, mình là giang hồ hào kiệt, đâu có nệ gì mấy chuyện lễ nghi lôi thôi phiền phức, chi bằng hai đứa hôm nay bái đường thành thân cho xong đi. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này trừ được sớm ngày nào tốt ngày nấy.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Không được! Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, xin hai người nghe tôi nói một lời. Ân cô nương đối với tôi tình thâm ý trọng, từ bé cô ta đã mong mỏi lấy tôi làm chồng, còn tôi trong lòng cũng muốn lấy nàng làm vợ, tuy hai người chưa có cưới xin nhưng cũng có cái tình phu phụ. Nàng chết xác còn chưa lạnh, lẽ nào tôi đã đi lấy người khác cho đành?

Tạ Tốn trầm ngâm rồi nói:

- Con nói thế cũng phải, vậy thì ý con ra sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cứ như ý hài nhi, hôm nay con sẽ cùng Chu cô nương đính ước hôn nhân để giúp nàng trừ độc chữa thương cho tiện. Nếu trời cho mình về được Trung Thổ, đợi khi hài nhi giết được Triệu Mẫn, đoạt lại đao Đồ Long trả về cho nghĩa phụ, lúc đó sẽ kết hôn với Chu cô nương, có thế mới vẹn cả đôi bề.

Tạ Tốn cười đáp:

- Con tính thế thật là gọn. Thế nhưng nếu như tám năm, mười năm mình chưa về được Trung Thổ thì sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Ba năm sau, dù mình có rời khỏi đảo này hay không, lúc đó cũng xin nghĩa phụ chủ trì hôn sự cho hài nhi.

Tạ Tốn gật đầu, quay sang hỏi Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, cô tính sao?

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, một lát sau mới nói:

- Tiểu nữ chỉ là một đứa con gái cô khổ lênh đênh, tự mình làm gì có chủ ý? Mọi sự xin nhờ lão gia tử định đoạt cho.

Tạ Tốn cười ha hả nói:

- Hay lắm, hay lắm, ba người mình một lời là xong. Hai đứa chúng bay bây giờ là vị hôn phu phụ, không còn gì phải úy kỵ nữa. Vô Kỵ, thôi con trừ độc cho đứa con dâu của ta đi.

Nói xong ông hùng dũng đi về phía sau núi. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, nỗi đau lòng của anh em có rộng lượng tha thứ được không?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

- Cũng chỉ vì em xấu xí cho nên chàng mới duỗi ra, chứ nếu phải là Triệu cô nương xem, chỉ sợ tối hôm nay đã ...

Nàng nói tới đây quay đầu ra chỗ khác, không muốn nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ đột nhiên động tâm, tự hỏi: "Khi cả bọn còn trên cùng một chiếc thuyền trôi bồng bềnh, ta đã từng si tâm vọng tưởng, cưới cả bốn nàng. Thế nhưng trong lòng ta thực sự yêu thương lại là con yêu nữ vô ác bất tác, âm độc giảo hoạt kia. Ta thật không đáng gọi là anh hùng hào kiệt khi mê luyến nữ sắc, chẳng biết đâu là thiện đâu là ác?.

Chu Chỉ Nhược quay lại thấy chàng đứng ngơ ngẩn xuất thần, nên đứng lên toan đi ra chỗ khác. Trương Vô Kỵ giơ tay nắm tay nàng kéo một cái, không ngờ Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục, chân không có chút hơi sức nào, lảo đảo ngã luôn vào lòng chàng, vùng vẫy mãi không đứng lên được, hờn dỗi nói:

- Rồi cả đời em sẽ bị anh hiếp đáp thôi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nhõng nhẽo thật là dễ thương, giơ tay ôm lấy thân hình mảnh dẻ của Chu Chỉ Nhược, nói nhỏ:

- Chỉ Nhược, hai đứa mình lúc nhỏ gặp nhau ở sông Hán Thủy một lần, đâu ngờ có ngày hôm nay. Trên đỉnh Quang Minh, anh một mình đấu với hai phái Côn Lôn, Hoa Sơn tứ lão, nhờ có em chỉ điểm những chỗ sơ hở mới cứu được mạng. Khi đó anh chỉ cảm kích lòng em quan hoài chứ nào có dám nghĩ xa nghĩ gần gì đâu.

Chu Chỉ Nhược tựa vào lòng chàng nói:

- Hôm đó em đâm anh một kiếm, không lẽ anh không giận em sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Em không đâm ngay giữa tâm khẩu anh, cũng đủ biết em có tình ý ngầm với anh rồi.

Chu Chỉ Nhược hứ một tiếng, mặt đỏ lên nói:

- Nếu biết thế, hôm đó em đâm ngay giữa tim cho xong, để khỏi sau này không biết bao năm bao tháng bị anh ăn hiếp, bị anh chọc giận.

Trương Vô Kỵ ôm hai vai nàng xiết chặt nói:

- Từ nay trở đi anh chỉ có yêu em hơn, chiều em hơn thôi. Hai đứa mình vợ chồng là một, lẽ nào anh lại còn chọc giận em.

Chu Chỉ Nhược nghiêng người qua, nhìn thẳng vào mặt chàng nói:

- Nếu như em có làm điều gì sai lầm, đắc tội với anh, anh có đánh em, mắng em, giết em không?

Mặt Trương Vô Kỵ và mặt nàng chỉ cách nhau vài tấc, thấy nàng hơi thở thơm như lan, nhịn không nổi hôn lên má nàng một cái nói:

- Con người ôn nhu văn vẻ, đoan trang hiền thục như em, làm gì có chuyện sai lầm?

Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng vuốt ve cổ chàng nói:

- Dẫu có là thánh nhân cũng còn có lúc sai lầm. Em từ nhỏ không được cha mẹ dạy dỗ, không khỏi có lúc hồ đồ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu quả như em có điều gì sai lầm thì anh sẽ từ từ khuyên bảo.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

- Có thực sự anh đối với em không bao giờ thay lòng đổi dạ chăng? Nhất định sẽ không giết em chăng?

Trương Vô Kỵ lại hôn một lần nữa trên trán nàng, ôn tồn nói:

- Em đừng có nghĩ lăng nhăng, làm gì có chuyện đó được.

Chu Chỉ Nhược giọng run run nói:

- Em muốn anh chính miệng hứa với em.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Được rồi, anh đối với em quyết không thay lòng đổi dạ, cũng sẽ không bao giờ giết em.

Chu Chỉ Nhược chăm chăm nhìn thẳng vào Trương Vô Kỵ nói:

- Em không muốn chàng hi hi ha ha, em muốn chàng nói một cách nghiêm chỉnh kìa.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Gớm, không biết trong cái đầu bé nhỏ này đang nghĩ chuyện gì thế này.

Chàng nghĩ thầm: "Thật ra ta đối với biểu muội, với Tiểu Siêu, với Triệu Mẫn ai ai cũng có tình cả khiến nàng không yên bụng. Thế nhưng từ nay trở đi có còn thế nữa hay chăng??. Chàng bèn ngừng không cười nữa, trang nghiêm nói:

- Chỉ Nhược, em là vợ yêu quí của anh. Trước đây anh lòng nọ dạ kia, mong em đừng trách. Từ nay trở đi, anh đối với em một lòng một dạ, dẫu em có sai sót điều gì anh cũng không nói nặng em đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng là nam tử hán đại trượng phu, mong chàng nhớ những gì hôm nay nói với nhau.

Nàng đưa tay chỉ lên trời:

- Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, em nói quả không sai. Vầng trăng sáng kia làm chứng cho hai đứa mình.

Chàng ôm Chu Chỉ Nhược vào lòng, nhìn vầng trăng ở cuối trời nói:

- Chỉ Nhược, một đời anh bị biết bao nhiêu người lừa dối, khi còn nhỏ thật là dễ tin cho nên chịu đau khổ chẳng kể sao cho xiết, đến nay cũng không còn nhớ hết được nữa. Chỉ có khi anh ở trên Băng Hỏa đảo cùng với cha anh, mẹ anh và nghĩa phụ, lúc đó là không có ai gian trá xảo quyệt thôi. Ngay khi anh vừa về đến Trung Thổ, gặp ngay một gã ăn mày đùa với con rắn, y dụ anh thò đầu nhìn vào trong cái túi, ngờ đâu y chụp ngay lên đầu bắt anh. Anh có ngờ đâu bọn mình cùng sống chết, chung hoạn nạn đến cái đảo nho nhỏ này, vậy mà Triệu cô nương ngay đêm đó đã hạ độc mình rồi?

Chu Chỉ Nhược cười nói:

- Anh đúng là:

Hoàng Hà mong đến cho bằng được,

Đến rồi chép miệng hỡi than ôi.

Trương Vô Kỵ bỗng thấy trong lòng thật là hạnh phúc, nói:

- Chỉ Nhược, từ nay em mãi mãi và người bạn đời của anh, trước nay em đối với anh thật hết lòng, nếu mai này mình có dịp được về Trung Nguyên, em sẽ giúp anh đề phòng tiểu nhân gian ác. Được một người vợ hiền như em, anh sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phiền toái trong đời.

Chu Chỉ Nhược lắc đầu:

- Em là đứa con gái thật là vô tích sự, chẳng có tài cán gì lại thật ngu xuẩn. Không nói gì em kém xa lắc người thông minh tuyệt đính như Triệu cô nương, đến người tâm cơ sâu sắc như Tiểu Siêu, cũng gấp nghìn vạn lần em rồi. Chu cô nương của anh chỉ là một con bé khờ khạo thật thà, không lẽ đến bây giờ anh mới biết hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh chỉ cần một trung hậu hiền từ như em, không lừa dối anh là được rồi.

Chu Chỉ Nhược quay đầu sang gục vào lòng chàng, nhỏ nhẹ nói:

- Vô Kỵ ca ca, em được kết duyên thành vợ thành chồng với anh, trong lòng quả thật sung sướng không để đâu cho hết, chỉ mong chàng đừng thấy em ngu độn vô tích sự mà coi thường em, hiếp đáp em thôi. Em ... em sẽ hết tâm hết sức để hầu hạ săn sóc anh.

Ngay hôm sau Trương Vô Kỵ bắt đầu vận Cửu Dương thần công lên để giúp Chu Chỉ Nhược khu trừ chất độc, mới đầu thấy thật không ngờ nàng lại trúng độc rất nhẹ, nghĩ thầm có lẽ nàng ăn uống ít ỏi nên không bị nặng như Tạ Tốn. Thế nhưng đến ngày thứ bảy, bỗng thấy trong cơ thể nàng có một luồng khí âm hàn nổi lên, chống lại với Cửu Dương thần công của chàng, Chu Chỉ Nhược tuy hết sức khắc chế nhưng cũng không dễ dàng có thể đưa Cửu Dương chân khí và trong người.

Trương Vô Kỵ hết sức kinh ngạc, vội hỏi nghĩa phụ. Tạ Tốn trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Việc này ta cũng không hiểu được. Có lẽ từ trước đến nay phái Nga Mi thầy dạy đều là đàn bà, lối tập thiên về âm nhu chăng?

Trương Vô Kỵ gật đầu đồng ý. Cũng may Chu Chỉ Nhược và chàng hai người trình độ khác nhau quá xa, chàng chỉ thúc đẩy thần công liền đè ngay được âm kình của nàng xuống, nhưng vận công như thế so với khi chữa độc cho Tạ Tốn lại phí công hơn nhiều.

Trương Vô Kỵ cũng biết âm kình của nàng hiện nay tuy còn yếu nhưng mai sau một khi thành tựu rồi sẽ mạnh không biết đâu mà lường bèn khen ngợi:

- Chỉ Nhược, tôn sư Diệt Tuyệt sư thái quả thực là hào kiệt một đời. Nội công bà ta truyền cho em, pháp môn thực là cao thâm, mãi bây giờ anh mới biết đấy. Nếu như em tập môn công phu này, mai sau cũng chẳng kém gì Cửu Dương thần công của anh đâu, chưa biết bên nào hơn bên nào.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Anh đừng có phỉnh em. Võ công phái Nga Mi làm sao sánh được với Cửu Dương thần công hay Càn Khôn Đại Na Di của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Em trời sinh đôn hậu, tuy võ công chiêu số học chưa nhiều nhưng căn cơ nội công rất tốt. Thái sư phụ của anh có nói rằng, võ công càng về sau càng liên quan nhiều đến tư chất mỗi người, không hẳn cứ người thông minh lanh lợi là đạt được võ công đến cảnh giới cao siêu. Cứ như nghe nói phụ thân của sáng phái tổ sư Quách nữ hiệp của quí phái là Quách Tĩnh đại hiệp, tư chất vốn rất chậm chạp nhưng võ công đạt tới trình độ xưa nay hiếm có. Chính thái sư phụ của anh cũng có nói rằng võ công ông chưa chắc đã đạt đến trình độ của Quách đại hiệp năm xưa đâu. Nội công của phái Nga Mi xem ra còn cao hơn cả nội công phái Võ Đương, cứ như anh thấy thì mai này em có khi còn thành tựu hơn cả tôn sư Diệt Tuyệt sư thái nữa là khác.

Chu Chỉ Nhược lườm chàng một cái, giận dỗi nói:

- Anh muốn lấy lòng em cứ gì phải nói em võ công giỏi. Em chỉ mong học được một hai thành của sư phụ em thì cũng đã thỏa nguyện rồi. Nếu sau này anh dạy em một vài ngón Cửu Dương thần công hay Càn Khôn Đại Na Di thì em thật là cảm kích.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm chưa trả lời, Chu Chỉ Nhược liền nói:

- Hay là anh bảo em không xứng đáng làm đồ đệ của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Không đâu. Anh thấy nội công của em và sở học của anh hoàn toàn khác hẳn, dường như còn ngược với nhau là khác. Nếu em muốn học công phu của anh là một điều hết sức nguy hiểm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Anh không chịu dạy thì cũng không sao. Học võ không xong thì cùng lắm chẳng đi đến đâu, có gì mà bảo là nguy hiểm?

Trương Vô Kỵ nghiêm mặt đáp:

- Không, không! Cửu Dương thần công của anh là thuần túy dương cương, còn nội công phái Nga Mi em đang tập lại thuộc môn thuần âm nhu. Nếu như quả em luyện môn công phu của anh, âm dương hai bên cùng trộn lẫn với nhau, trừ người võ học kỳ tài như thái sư phụ anh thì mới có thể đến mức thủy hỏa tương tế, cương nhu tương điệu mà thôi, ngoài ra nếu chỉ sai sẩy một bước là sẽ lâm vào đại họa tẩu hỏa nhập ma ngay. Ôi, đợi cho khi nào nội công của em đại thành rồi thì Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của anh em có thể học được.

Chu Chỉ Nhược cười nói:

- Đó là em nói đùa với anh đấy thôi. Sau này giây phút nào em cũng ở bên anh, võ công của anh hay của em có gì phân biệt đâu? Em vốn tính lười biếng đểnh đoảng mà Cửu Dương thần công của anh chắc là cực kỳ khó khăn, dẫu anh có ép em phải luyện, em ngại khó chưa chắc đã làm.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thế, trong lòng thật là êm đềm ấm áp.

Cứ như thế hai người tình ý triền miên quên cả thời giờ, chẳng mấy chốc đã qua mấy tháng, Chu Chỉ Nhược thấy nội công đã hoàn toàn hồi phục, thân thể không thấy triệu chứng gì khác lạ, xem ra độc tính đã hoàn toàn loại trừ được rồi.

Ngày hôm đó bên phía đông hòn đảo, mấy cây đào nở hoa hết sức đẹp đẽ, Trương Vô Kỵ bẻ mấy cành, đem cắm trước mộ Ân Ly. Chàng thấy tấm biển khắc ?Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ? nằm trên mặt đất, không biết bị giống dã thú nào húc đổ. Chàng bèn nhặt lên cắm trở lại cho ngay ngắn, nghĩ đến biểu muội một đời khốn khổ, xem ra chưa từng được hưởng phúc một ngày nào.

Chàng còn đang đau lòng, bỗng nghe ngoài biển hải âu kêu xáo xác, ngửng đầu lên, thấy ở đằng xa một chiếc thuyền buồm đang căng gió chạy tới, chàng thật mừng không để đâu hết, vội kêu lên:

- Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, có thuyền đến kìa, có thuyền đến kìa!

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược nghe tiếng kêu, trước sau chạy dến bên chàng. Chu Chỉ Nhược run run nói:

- Sao lại có thuyền nào đến cái đảo hoang này làm gì?

Trương Vô Kỵ nói:

- Quả thực lạ lùng, không lẽ là thuyền của bọn hải tặc chăng?

Không tới nửa giờ sau, chiếc thuyền đã đậu ngay ngoài khơi, hạ neo ngừng lại, thả một chiếc thuyền con xuống chèo về hướng đảo. Ba người Trương Vô Kỵ đứng chờ bên bờ biển, thấy những thủy thủ trên thuyền đều ăn mặc theo lối quan quân Mông Cổ, Trương Vô Kỵ chợt động tâm nghĩ thầm: ?Không lẽ Triệu cô nương lương tâm nổi dậy nên quay lại chăng??. Chàng liếc nhìn Chu Chỉ Nhược thấy đôi lông mày xinh đẹp của nàng hơi nhíu lại, ngực phập phồng hiển nhiên trong lòng cũng đang xúc động mạnh.

Chỉ trong giây lát chiếc thuyền nhỏ đã đến bờ, năm thủy thủ đi lên, đi đầu là một tên quan thủy sư hướng về Trương Vô Kỵ khom lưng chào nói:

- Chẳng hay vị này có phải là Trương công tử Trương Vô Kỵ chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chính thị, quan trưởng là ai thế?

Người kia nghe thấy Trương Vô Kỵ tự nhận mình, mặt mày hết sức mừng rỡ nói:

- Tiểu nhân tiện danh là Bạt Tốc Đài, hôm nay tìm thấy công tử, quả thực may mắn biết chừng nào. Tiểu nhân nhận lệnh cấp trên nghênh tiếp Trương công tử và Tạ đại hiệp trở về Trung Thổ.

Y chỉ nói đến tên Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn mà không nói gì đến Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nói:

- Trưởng quan từ xa đến thật là khó nhọc nhưng không biết do lệnh ai sai khiến?

Bạt Tốc Đài nói:

- Tiểu nhân là thuộc hạ của thủy sư đề đốc Đạt Hoa Xích Lỗ trú phòng ở Phúc Kiến, nhận lệnh tướng quân Bột Nhĩ Đô Tư đến đây nghinh tiếp. Bột Nhĩ Đô Tư sai cả thảy là tám chiếc thuyền, suốt một dọc biển ngoài khơi các tỉnh Mân Triết Việt đi tìm Trương công tử và Tạ đại hiệp, không ngờ tiểu nhân là người lập được công đầu.

Nghe giọng y xem ra cấp trên của y có hứa rằng ai tìm được sẽ có thăng thưởng. Trương Vô Kỵ nghe y đề cập đến những tên tuổi các tướng lãnh Mông Cổ chàng đều không biết nên chắc rằng những người đó cũng nhận lệnh từ Triệu Mẫn nên hỏi lại:

- Thế ông có biết quí thượng ti được lệnh ai sai đi đón tôi không?

Bạt Tốc Đài đáp:

- Bột Nhĩ Đô Tư tướng quân dặn rằng Trương công tử là đại đại quí nhân, lại là anh hùng hào kiệt đương thời, nếu tìm thấy rồi phải hết sức hầu hạ cho chu đáo. Còn như tại sao đi đón, tiểu nhân chức vụ thấp kém không được tướng quân nói cho biết.

Chu Chỉ Nhược xen vào:

- Có phải là do Thiệu Mẫn quận chúa chăng?

Bạt Tốc Đài ngạc nhiên nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa? Tiểu nhân chưa từng có phúc được gặp bao giờ.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

- Cái gì mà có phúc hay không có phúc?

Bạt Tốc Đài nói:

- Thiệu Mẫn quận chúa là đệ nhất mỹ nhân Mông Cổ, không, phải là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, văn võ toàn tài, là thiên kim của Nhữ Dương Vương gia. Tiểu nhân làm gì có phúc được thấy kim diện của quận chúa?

Chu Chỉ Nhược chỉ hừ một tiếng, không nói thêm nữa. Trương Vô Kỵ nói với Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ, như vậy thì mình lên thuyền đi thôi.

Tạ Tốn nói:

- Vậy mình qua bên hang núi bên kia lấy ít vật phẩm tùy thân rồi hãy lên thuyền, xin trưởng quan chờ nơi đây một chút.

Bạt Tốc Đài nói:

- Xin để cho tiểu nhân và anh em thủy thủ mang hành lý giùm cho ba vị.

Tạ Tốn cười nói:

- Bọn ta làm gì có hành lý? Không dám phiền đến các vị.

Ông nắm tay Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược đi qua sau núi nói:

- Triệu Mẫn tự nhiên sai người đi đón chúng ta về, bên trong ắt có âm mưu, các ngươi nghĩ mình phải đối phó thế nào?

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ, cha nghĩ xem Triệu ... cha nghĩ xem Triệu Mẫn cô ta ... cô ta có ở trên thuyền không?

Tạ Tốn đáp:

- Nếu như con tiểu yêu nữ đó có ở trên thuyền thì lại càng dễ xử. Bọn mình chỉ cần ăn uống cho cẩn thận, đừng để cho y thị giở trò gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, bọn mình mang theo cá ướp muối, trái cây khô lên thuyền, lấy thêm nước uống, không ăn uống món gì ở trên thuyền cả.

Tạ Tốn nói:

- Ta xem Triệu Mẫn chắc không có ở trên thuyền đâu. Có lẽ y thị theo kế sách của bọn Ba Tư, dụ cho bọn mình lên trên thuyền đợi thuyền ra đến ngoài biển khơi thì chiến thuyền Mông Cổ sẽ xuất hiện, khai pháo bắn chìm thuyền của mình.

Trương Vô Kỵ trong lòng đau đớn, run run nói:

- Nàng ta ... nàng ta dụng tâm độc ác đến thế ư? Nàng cứ bỏ mặc mình trên hòn đảo nhỏ này, sống chết mặc bay, vĩnh viễn không trở lại Trung Thổ được thì cũng xong. Ba người mình đã làm gì hại cô ta đâu?

Tạ Tốn cười khẩy nói:

- Con đem thả hết bao nhiêu cao thủ của lục đại môn phái y thị bắt giữ tại chùa Vạn An, không lẽ cô ta không giận? Hơn nữa, giáo chủ Minh giáo mất tích, thể nào anh em trong bản giáo chẳng đổ đi tìm kiếm, không lẽ tìm không ra hòn đảo này? Chỉ có cho chúng ta thân chìm đáy nước, thế mới gọi là nhổ cỏ tận rễ thôi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Bắn chìm thuyền mình? Như thế bon quan binh Mông Cổ Bạt Tốc Đài cũng chết theo sao?

Tạ Tốn cười ha hả, đột nhiên thở dài nói:

- Vô Kỵ hài nhi, những người chấp chưởng quân quốc trọng nhiệm, có ai nghĩ tới sinh mạng người khác đâu? Nếu tâm địa nhân từ như con thì làm sao người Mông Cổ có thể hoành hành bốn bể, quét sạch các nước khác được? Từ xưa tới nay, những đại anh hùng lập nên công danh đều phải tùy thời mà quyết đoán, giết ai là giết. Chẳng nói gì đến quan binh, cho đến cha mẹ con cái mình cũng còn chẳng coi vào đâu nữa là.

Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn một hồi, buồn bã nói:

- Nghĩa phụ nói phải lắm.

Chàng biết rằng xưa nay người Mông Cổ đối với kẻ địch hết sức tàn bạo, nghĩ họ đối với bộ thuộc chắc là thương yêu, bây giờ nghe Tạ Tốn nói thế, không khỏi bàng hoàng, việc trở về Trung Thổ thống suất hào kiệt Trung Nguyên đuổi quân Thát tử đưa đất nước đến thái bình, quả thật ngoài khả năng của mình.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Nghĩa phụ, như vậy mình phải làm sao đây?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Thế cô con dâu của ta có diệu kế gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vậy thì mình đừng lên thuyền nữa, nói với bọn quan binh Mông Cổ là mình ở đây thích lắm, không muốn quay về Trung Nguyên.

Tạ Tốn cười nói:

- Đúng là người ngờ nghệch, ý tưởng cũng ngốc nghếch theo. Bọn mình không lên thuyền, địch nhân nhất định sẽ không tha mình. Nếu như mình giết hết bọn quan binh này, bộ họ không phái đến thêm một chục chiếc khác hay sao? Huống chi Trung Nguyên có biết bao nhiêu việc lớn Vô Kỵ phải về lo liệu, làm sao mình có thể chết già nơi đảo hoang này?

Khuôn mặt xinh đẹp của Chu Chỉ Nhược đỏ lên, nói nhỏ:

- Vậy thì để nghĩa phụ tính sao thì tính, bảo sao chúng con nghe vậy.

Tạ Tốn trầm ngâm nói:

- Vậy thì mình cứ thế này thế này.

Chu Chỉ Nhược và Vô Kỵ hai người nghe xong đều gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ đi đến mộ của Ân Ly lâm râm khấn vái một hồi, nhỏ nước mắt từ biệt, rồi mới lên thuyền. Chu Chỉ Nhược trên đảo ăn không ngồi rồi đã đẽo gọt rất nhiều con rối bằng gỗ, người có ngựa có nay đem gói thành một bọc to đeo trên lưng. Trương Vô Kỵ cũng đi tuần hết một vòng trong ngoài thuyền, quả nhiên không có Triệu Mẫn ở đó, trên thuyền xem ra cũng không người nào đáng gờm, quan binh, thủy thủ dường như không một ai biết võ công.

Khi thuyền đã nhổ neo giương buồm rồi, mới đi được vài dặm, Trương Vô Kỵ liền vung tay một cái, đã bắt ngay được cổ tay Bạt Tốc Đài, tay kia rút ngay thanh đao đeo nơi hông y ra, kề ngay vào cổ, quát lên:

- Ngươi phải nghe lời ta, bảo lái thuyền quay qua hướng đông.

Bạt Tốc Đài kinh hãi, run run nói:

- Trương công ... công tử, tiểu ... tiểu nhân đâu có dám đắc tội với ngài.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ngươi cứ theo lời ta mà làm, nếu sai lời ta chém đầu ngươi trước.

Bạt Tốc Đài vội đáp:

- Vâng, vâng.

Y quát lên ra lệnh:

- Lái ... lái thuyền, mau ... mau lái về hướng đông.

Người tiêu công theo đúng thế mà quay mũi thuyền qua. Chiếc thuyền vòng trở lại qua hòn đảo đi thẳng về hướng đông. Trương Vô Kỵ lại quát:

- Người Mông Cổ các ngươi định mưu hại ta, ta biết hết mưu kế của chúng bay rồi, mau mau khai ra. Nếu mà nói láo thì coi chừng mất mạng.

Nói xong chàng giơ chưởng lên, vỗ vào mạn thuyền một cái, gỗ bay tung tóe, đã vỡ ngay một mảng lớn. Những quan binh trên thuyền trông thấy như thế ai nấy đều kinh hãi. Bạt Tốc Đài nói:

- Xin công tử lượng xét cho: tiểu nhân phụng lệnh thượng ti đi đón công tử trở về, không có ý gì khác. Tiểu nhân ... tiểu nhân chỉ mong lập được chút công lao, được cấp trên thăng thưởng, quả không dám có ý gì xấu xa.

Trương Vô Kỵ thấy y giọng nói thành khẩn, xem chừng không phải giả trá nên bỏ tay y ra đi đến đầu thuyền, tay trái cầm một chiếc neo sắt, tay phải cũng cầm một chiếc neo khác, quát lên:

- Chúng bay nhìn cho rõ này.

Hai tay vung lên. Hai chiếc neo cùng bay vọt lên trên không. Cả bọn quan binh ai nấy rú lên kinh hoảng. Đợi đến khi hai chiếc neo rơi xuống, Trương Vô Kỵ liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hai tay một đẩy một hất, hai chiếc neo lại vọt lên. Chàng làm như thế ba lần mới nhẹ nhàng bắt lại, vứt hai chiếc neo trở về đầu thuyền.

Người Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa mà lấy thiên hạ rất kính phục những người vũ dũng, thấy chàng võ công kinh người đều phục xuống lạy, không một ai còn dám có lòng dạ nào khác nữa.

Người tiêu công cứ theo đúng lệnh của Trương Vô Kỵ giữ theo hướng đông mà đi liên tiếp ba ngày đến khi ra hẳn ngoài biển khơi chỉ còn thấy chung quanh sóng nước mênh mông đến tận chân trời. Tạ Tốn liệu chừng những pháo thuyền Triệu Mẫn điều khiển cũng chỉ tại một dải Mân Việt tuần hành, lúc này thuyền đã đi xa ra ngoài đại dương, không thể nào gặp pháo thuyền được nữa, nên đến ngày thứ năm liền bảo lái thuyền lên phía bắc.

Đi lên hướng bắc liên tiếp hơn hai chục ngày nữa, dẫu Triệu Mẫn có thông minh thế nào cũng không thể nào đoán được thuyền đang ở đâu, lúc đó mới bảo lái thuyền về hướng tây trở về Trung Thổ. Hơn một tháng đó, bọn Trương Vô Kỵ chỉ dùng đồ ăn thức uống mang theo và bắt cá dưới biển ăn sống, tuyệt đối không đụng chạm chút nào đến thực phẩm trên thuyền.

Một hôm kia khoảng giữa trưa thì thấy phía tây có đất liền. Bọn quan binh Mông Cổ đi trên thuyền đã lâu nay thấy đất liền ai nấy đều mừng rỡ. Đến chiều tối hôm đó chiếc thuyền lớn đã đậu vào bờ rồi. Nguyên một dải đó đều là đá núi, nước biển rất sâu, thuyền đậu được sát bờ. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, con lên trên bộ xem coi nơi đây là đâu?

Trương Vô Kỵ vâng lời phi thân nhảy lên bờ. Chàng chạy một hồi chỉ thấy đâu đâu cũng là núi rừng cây cối rậm rạp, dưới đất tuyết đóng băng còn đang tan, thật là lầy lội. Xa thêm một quãng cây cối càng lúc càng nhiều, cây nào cây nấy đều là cổ tùng cao ngất trời xanh, mấy người ôm không xuể. Chàng nhảy lên một cây cao, thấy chung quanh chỉ là cây cối không thấy bến bờ, ở giữa khu rừng này không một vết chân người. Chàng nghĩ thầm dù mình có đi thêm cũng thế mà thôi nên đành phải quay trở về thuyền.

Chàng chạy vừa mới tới bến đã nghe tiếng người kêu la thảm thiết, âm thanh cực kỳ ghê rợn, chính từ chiếc thuyền vọng ra. Chàng kinh hãi vội chạy tới, nhảy lên đầu thuyền. Chỉ thấy trên thuyền xác người la liệt, đều là thi thể quan binh Mông Cổ, từ Bạt Tốc Đài trở xuống đều chết hết, còn Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược đứng đó nhưng không thấy tung tích địch nhân đâu. Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:

- Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, hai người không sao chứ? Địch nhân chạy về hướng nào?

Tạ Tốn hỏi lại:

- Địch nhân nào? Con thấy có tung tích kẻ địch ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không, thế bọn người Mông Cổ này ...

Tạ Tốn đáp:

- Do ta và Chỉ Nhược giết đó.

Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc nói:

- Không ngờ bọn Thát tử vừa mới về đến Trung Thổ đã dám có ý hại người rồi.

Tạ Tốn nói:

- Bọn chúng đâu có dám nổi lòng gia hại mình, đó là ta giết chúng để bịt miệng đấy thôi. Những người này chết hết rồi, Triệu Mẫn không thể nào biết được mình đã về đến Trung Thổ. Từ nay nàng ta ở ngoài sáng còn mình ở trong tối, kiếm cô ta báo thù dễ dàng hơn biết bao nhiêu.

Trương Vô Kỵ bỗng thấy lòng tái tê, lặng người không nói nên lời. Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Sao thế? Con trách ta hành động quá ư tàn nhẫn chăng? Quan binh Thát tử là kẻ địch của mình, làm sao có thể đối với chúng bằng tấm lòng bồ tát được?

Trương Vô Kỵ không nói, nghĩ đến những người này ân cần hầu hạ mình trong bấy lâu nay, không dám sơ sót chút nào, tuy là địch thật nhưng giết sạch họ như thế trong lòng vẫn thấy xót xa. Tạ Tốn nói:

- Người đời thường nói: Bụng dạ nhỏ nhen không phải là người quân tử nhưng kẻ không độc địa thì cũng chẳng đáng mặt trượng phu. Ta chẳng hại người người cũng sẽ hại ta. Triệu Mẫn đối với chúng ta như thế, mình cũng phải gậy ông đập lưng ông.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nghĩa phụ nói phải lắm.

Tuy nói thế nhưng khi nhìn lại thấy bọn Bạt Tốc Đài xác nằm la liệt chàng không khỏi ngậm ngùi rơi lệ. Tạ Tốn nói:

- Cho một mồi lửa đốt chiếc thuyền này đi. Chỉ Nhược, tra xét các xác chết lấy hết tiền bạc, thêm ba món binh khí phòng thân.

Hai người đốt thuyền xong nhảy lên bờ. Chiếc thuyền đó rất to cháy đến nửa đêm mới tắt lửa, luôn cả các xác chết cũng chìm luôn xuống nước. Trương Vô Kỵ thấy xong xuôi mọi việc sạch sành sanh không còn chút dấu vết gì, nghĩ thầm nghĩa phụ tuy hành sự độc ác thật nhưng quả thực là tay giang hồ lão luyện mình không thể nào sánh được.

Ba người tìm kiếm chỗ ngủ cho qua đêm, sáng hôm sau băng rừng theo hướng nam mà đi. Đi đến ngày thứ hai thì gặp bảy tám người đi hái sâm, hỏi ra mới biết đây là đất Liêu Đông ở quan ngoại, cách núi Trường Bạch không xa bao nhiêu.

Đến khi chi tay cùng bọn người đào sâm rồi, Chu Chỉ Nhược liền hỏi:

- Nghĩa phụ, có cần phải giết bọn người này diệt khẩu chăng?

Trương Vô Kỵ quát lên:

- Chỉ Nhược, em nói gì đó? Những người đi đào sâm này có biết mình là ai. Không lẽ từ nay mình đi đường gặp ai cũng giết sạch hay sao?

Chu Chỉ Nhược bối rối mặt đỏ bừng, trong đời Trương Vô Kỵ chưa từng nói với nàng gay gắt như thế bao giờ. Tạ Tốn nói:

- Cứ theo ý ta thì cũng nên giết hết bọn người hái sâm này. Thế nhưng giáo chủ không muốn sát hại nhiều, mình nên tìm cách thay đổi quần áo cho khỏi lộ tung tích.

Ba người vội vàng đi ngay, nhưng phải mất hai ngày sau mới ra khỏi khu rừng. Lại đi thêm một ngày nữa mới gặp một nhà nông dân, Trương Vô Kỵ lấy tiền ra xin mua quần áo của nhà đó. Thế nhưng nhà này quá ư nghèo khổ, không có đâu quần áo dư để nhường cho họ, đi hỏi đến bẩy tám nhà ba người mới mua được ba bộ quần áo hết sức dơ dáy. Chu Chỉ Nhược xưa nay vốn tính sạch sẽ, ngửi thấy mùi hôi tích tụ lâu năm dường như muốn mửa. Thế nhưng Tạ Tốn lại vui sướng vô cùng, bảo hai người lấy bùn đất trét lên mặt mũi. Trương Vô Kỵ nhìn xuống nước soi thấy mình đã biến thành một gã ăn mày đất Liêu Đông, Triệu Mẫn dù có đứng ngay trước mặt cũng chưa chắc nhìn ra.

Cả bọn tiếp tục đi về hướng nam, vượt qua trường thành, hôm đó đến một thị trấn lớn. Ba người đến một đại tửu lâu trong thành, Trương Vô Kỵ lấy ra một đĩnh bạc chừng ba lượng, để lên trên quầy nói:

- Đợi bọn ta ăn uống xong xuôi hãy tính toán sau.

Chàng ngại rằng mình quần áo lam lũ, người chủ quán không chịu đem đồ ăn lên. Nào ngờ gã chưởng quĩ hết sức cung kính đứng ngay dậy, hai tay cầm đĩnh bạc trả lại nói:

- Quí ngài quang lâm tiểu điếm, có vài chén rượu nhạt, cơm thô, đâu có đáng gì? Xin để chúng tôi bao biện cho.

Trương Vô Kỵ hết sức ngạc nhiên, ngồi xuống rồi ghé tai hỏi nhỏ Chu Chỉ Nhược:

- Trên người mình có điểm gì sơ hở chăng? Sao gã chưởng quĩ lại không chịu nhận tiền?

Chu Chỉ Nhược nhìn kỹ diện mạo hình dung quần áo ba người, trông đúng là ba kẻ ăn mày, có lộ hình tích chút nào đâu? Tạ Tốn nói:

- Ta nghe giọng nói của gã chưởng quĩ xem chừng có vẻ sợ sệt, mình cứ cẩn thận thì hơn.

Bỗng nghe có tiếng chân lên cầu thang, bảy người đi lên, thật khéo làm sao, cũng ăn mặc như lối ăn mày. Bảy người đó đến trước cửa sổ khệnh khạng ngồi xuống. Điếm tiểu nhị liền chạy tới cung kính chào hỏi, miệng hết ngài nọ ngài kia, làm như bọn chúng là quan lớn quan bé không chừng. Trương Vô Kỵ nhìn thấy những tên ăn xin này, đứa thì mang trên lưng năm cái túi vải, có đứa mang sáu cái, đều là những đệ tử có vị trí tương đối khá cao trong Cái Bang.

Điếm tiểu nhị vừa chạy đi, chưa kịp mang lên các món rượu thịt bọn này gọi thì lại có thêm sáu bảy tên đệ tử Cái Bang khác lên lầu nữa. Chỉ trong chốc lát, trên tửu lâu lục tục đi lên có đến trên ba mươi tên bang chúng Cái Bang, trong đó có ba người lưng đeo bảy cái bị.

Trương Vô Kỵ bấy giờ hiểu ra, thì ra hôm nay người trong Cái Bang tụ hội ở đây, chưởng quĩ tưởng ba người cũng là trong Cái Bang nên hạ giọng nói nhỏ với Tạ Tốn:

- Nghĩa phụ, mình nên tránh ra khỏi nơi đây, để khỏi gây ra rắc rối, người Cái Bang đến đây không phải là ít.

Ngay lúc đó, điếm tiểu nhị đem lên một đĩa thịt bò to, một con gà quay lại thêm năm cân rượu trắng. Tạ Tốn trong bụng đang đói, mấy tháng nay chưa được ăn bữa nào cho ra hồn, ngửi thấy mùi gà quay, chân tay bủn rủn nói:

- Bọn mình cứ lặng thinh ăn uống, để xem bọn chúng làm gì?

Nói xong bưng chén lên, uống ực ngay một nửa ly rượu đế nghĩ thầm: ?Quả thật trời còn thương, Tạ Tốn này lưu lạc hải ngoại hơn hai mươi năm qua, mãi đến hôm nay mới lại biết mùi vị rượu như thế nào?. Rượu đó cay xè chẳng có gì ngon, chỉ là loại thường nhưng vào miệng ông ta cũng có khác gì quỳnh tương, cam lộ.

Ông ta khà một tiếng, thấy thật là sung sướng ngon lành, liền uống cạn ngay cả chén, đột nhiên hạ giọng nói:

- Cẩn thận, có hai người bản lãnh ghê gớm lắm đang lên.

Trương Vô Kỵ nghe kỹ tiếng bước chân lên cầu thang, quả nhiên hai người đó võ công thật cao cường. Hai người đó vừa lên đến bậc cuối, nghe lạch cạch rào rào một loạt, tất cả các bang chúng Cái Bang đều đứng lên. Tạ Tốn giơ tay ra hiệu, ba người cũng đứng lên nghinh đón. Ba người ngồi trong một góc nhỏ, khi tất cả mọi người đều ngồi thì cũng không có gì lạ nhưng khi tất cả đứng lên ba người vẫn ngồi yên bất động thì e rằng sẽ loạn lên ngay.

Trương Vô Kỵ thấy một người thân hình tầm thước, tướng mạo thanh tú, ba chòm râu dài, ngoài việc ăn mặc theo lối ăn mày ra, thần tình dáng điệu chẳng khác gì một nhà nho chưa đỗ đạt. Người đi sau mặt bành bành, râu xồm vểnh ra, tướng mạo cực kỳ hung mãnh, nếu như đen thêm một chút thì thật chẳng khác gì Chu Thương, người cầm đại đao đứng bên cạnh Quan Công.

Hai người đó tuổi đều khoảng trên năm mươi, râu cũng đã lốm đốm bạc, trên lưng mang đến chín cái túi vải. Chín cái bị đó chẳng qua chỉ để chứng tỏ thân phận của họ mà thôi vì rất nhỏ, khó có thể đựng gì được.

Trương Vô Kỵ trong bụng nghĩ thầm: ?Cái Bang vẫn được coi là bang lớn nhất trên giang hồ, ta từng nghe thái sư phụ nói rằng, ngày xưa bang chủ Cái Bang là Hồng Thất Công nhân hiệp trượng nghĩa, võ công cao siêu, dù trong bạch đạo hay hắc đạo cũng đều kính phục. Về sau Hoàng bang chủ, Gia Luật bang chủ cũng đều là những nhân vật tài ba hơn người, nhưng mấy chục năm nay không có ai chủ trì thành thử thanh vọng kém trước kia xa. Bang chủ hiện nay Sử Hỏa Long rất ít xuất hiện trên giang hồ, không biết người đó ra sao. Hai người này trên lưng đeo đến chín cái bị, trong Cái Bang trừ bang chủ ra, họ là người cao cấp nhất. Hôm trước trên đảo Linh Xà, những người trong Cái Bang toan cướp bảo đao Đồ Long của nghĩa phụ không biết có liên quan gì đến hai người này không??.

Kỳ này đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên bị Triệu Mẫn ăn trộm rồi nhưng sáu thanh thánh hỏa lệnh vẫn còn ở trong bọc của Vô Kỵ, không bị mất, có lẽ vì Triệu Mẫn e ngại võ công chàng quá cao siêu, sợ sau khi trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bản lãnh vẫn còn nên không dám mò vào trong túi chàng. Trương Vô Kỵ lúc này thấy người của Cái Bang đông đảo không dám xem thường, đưa tay vào bọc sờ sáu thanh lệnh bài.

Hai người cửu đại trưởng lão kia liền đi tới một chiếc bàn lớn ngay chính giữa ngồi xuống đó. Bọn người Cái Bang lục tục ngồi xuống, bắt đầu ăn uống, thò tay bốc đồ ăn, bưng tô lên húp canh, thật là hỗn tạp. Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn chăm chú nghe xem hai người trưởng lão chín túi kia nói gì. Ngờ đâu họ chỉ ăn cơm uống rượu, trừ những câu thù tạc kiểu như ?mời bác một chén? hay ?thịt bò này thật ngon? ra không hề nói gì đến việc chính cả.

Đến khi hai gã đầu lĩnh kia ăn uống xong xuôi xuống lầu rồi, bọn người Cái Bang cũng đều cơm no rượu say, lần lượt đi cả. Tạ Tốn đợi bọn ăn mày đi hết mới nói nhỏ:

- Vô Kỵ, con thấy sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Người của Cái Bang tụ hội nơi đây rất đông, nhất định không phải chỉ gặp nhau ăn nhậu một phen rồi thôi. Con đoán rằng buổi tối họ thể nào cũng tụ tập tại một nơi vắng vẻ bàn chuyện chính.

Tạ Tốn gật đầu:

- Ắt là như thế. Cái Bang xưa nay vẫn đối địch với bản giáo, lên đốt Quang Minh Đính có bọn này dự phần vào, lại còn sai người đến toan cướp đao Đồ Long của ta. Mình phải làm sao thám thính cho rõ ràng, xem họ có toan tính gian kế gì với bản giáo chăng.

Ba người xuống lầu đến trả tiền cho chưởng quĩ. Chưởng quĩ hết sức ngạc nhiên, nói sao cũng không dám nhận. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Cái Bang làm loạn khiến hàng quán tửu lâu phải sợ đến thế, ăn uống không phải trả tiền. Chỉ một điểm đó thôi cũng đủ biết ngày thường bọn chúng hoành hành không còn coi vương pháp là gì?.

Ba người kiếm một tiểu khách điếm để nghỉ ngơi. Tuy trong thị trấn ăn mày rất nhiều nhưng xưa nay ăn mày có ở khách điếm bao giờ đâu nên họ không gặp một nhân vật Cái Bang nào. Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ, ta mắt không nhìn được, đi thám thính tin tức thật là bất tiện, còn Chỉ Nhược võ công không cao, có đi theo con cũng chẳng giúp được gì, thôi con chịu khó đi một mình là hơn cả.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chính là như thế.

Chàng ở trong khách điếm nghỉ ngơi rồi đi ra. Thế nhưng trong thị trấn chàng đi suốt cả các con đường từ nam chí bắc không gặp một đệ tử Cái Bang nào cả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Sao chỉ chưa đầy nửa giờ mà các đệ tử Cái Bang không còn một ai, chắc họ đi chưa xa đâu?. Chàng bèn đi vào một tiệm bán đồ tạp hóa, trợn mắt lên, đấm mạnh xuống mặt quầy một cái, quát lớn:

- Này chưởng quĩ, các anh em ta đi về hướng nào thế?

Các người trong tiệm thấy bộ dạng chàng thật là hung thần ác sát, tưởng là một tên ăn mày dữ tợn trong Cái Bang, ai nấy đều khiếp sợ mất vía, trong đó có một tên liều lĩnh nhất chỉ về hướng bắc, cười cầu tài nói:

- Các bằng hữu trong quí bang đều đi về hướng này. Đại gia uống chén trà nhé?

Trương Vô Kỵ quát:

- Không uống. Ai thèm uống thứ trà thổ tả của chúng bay?

Chàng quay mình hung hăng đi về hướng bắc, trong bụng cười thầm. Chàng đi ra khỏi thị trấn không xa, thấy bên trái con đường có bóng người thấp thoáng trong đám cỏ, một tên đệ tử Cái Bang thò đầu lên, xem bộ dạng dường như toan quát hỏi chuyện gì. Trương Vô Kỵ gia tăng cước bộ, chạy vụt qua. Tên đệ tử Cái Bang giơ tay dụi mắt, tưởng mình mắt hoa, sao vừa thấy có bóng người, trong chớp mắt đã không còn thấy đâu nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đường đi Cái Bang ắt bố trí người canh gác, giới bị sâm nghiêm nên liền thi triển khinh công, nhắm hướng bắc mà chạy. Những đệ tử Cái Bang bố trí canh phòng tại các gốc cây, bụi cỏ, khe núi, hốc đá không người nào thoát khỏi cặp mắt chàng, lại hóa thành các dấu chỉ đường đến mục tiêu. Chạy đến bốn năm dặm đường thì thấy cứ năm ba bước lại có một người đứng gác, mỗi lúc một dầy. Những người này tuy võ công không cao nhưng ở vào lúc thanh thiên bạch nhật mà tránh được hết không để họ nhìn thấy thực không phải dễ. Sau cùng chàng đành bỏ đường cái chạy loanh quanh lòng vòng đi tới.

Trước mắt thấy một con đường mòn đi về hướng một toàn miếu lớn nằm ở lưng chừng núi, liệu chừng bọn ăn mày chắc tụ tập nơi đây, chàng liền đề khí chạy tới góc đông bắc, rồi lại vòng qua hướng tây, qua khỏi tên ăn mày đứng gác lẻn đến bên hông miếu. Chỉ thấy ở đằng trước có một tấm biển trên đề ?Di Lặc Phật Miếu? bốn chữ lớn, miếu mạo trang nghiêm thật là hùng vĩ.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Kỳ này những nhân vật trọng yếu trong Cái Bang đến không phải là ít, nếu như ta trà trộn vào trong bọn chúng thể nào cũng bị phát giác?. Chàng nhìn quanh bốn bề, thấy đằng trước đại điện phía bên trái có một cây cổ tùng, bên phía phải có một cây lão bách, hai cây đó cao sừng sững vọt lên hơn mái nhiều, cành lá xum xuê, có thể ẩn thân được. Chàng vòng qua sau điện, phi thân lên trên mái nhà, bò lần đến bên hiên nhẹ nhàng nhảy lên, như một làn khói vào trên đỉnh cây tùng, từ một cành lớn nhìn xuống, kêu thầm: ?May quá? thấy dưới điện trống trải có thể nhìn khắp lượt.

Dưới đại điện ngồi la liệt bang chúng Cái Bang, ít ra cũng phải hơn ba trăm người. Tất cả bọn họ đều ngồi quay vào trong, thành ra khi chàng nhảy lên cây không ai hay biết. Bên trong điện trải năm chiếc bồ đoàn còn để trống chưa có ai, hiển nhiên đang chờ ai đó. Trong điện tuy ngồi đến ba bốn trăm người nhưng không một tiếng động, khác hẳn khi ồn ào tranh ăn tại tửu lâu. Chàng nghĩ thầm: ?Cái Bang danh tiếng mấy trăm năm qua, gần đây tuy có suy đồi nhưng những qui củ đời trước vẫn còn được ít nhiều. Việc hỗn loạn khi ngồi ăn uống nơi quán rượu chẳng qua chỉ là thói quen thường ngày. Xem ra các trưởng lão trong bang ước thúc bang chúng, chấp pháp thật là nghiêm cẩn?.

Ngay chính giữa đại điện là một pho tượng Phật Di Lặc, phanh ngực để lộ cái bụng phệ, miệng cười toe toét trông thật hiền hòa dễ thân cận. Trương Vô Kỵ còn đang tính toán đánh giá bỗng nghe trong điện một người hô lên:

- Chưởng Bát long đầu đến.

Tất cả bọn ăn mày liền đứng lên. Gã trưởng lão chín túi trông như một nhà nho kia tay cầm một chiếc bát mẻ, từ từ đi ra, đứng ở phía bên phải. Người kia lại hô tiếp:

- Chưởng Bổng long đầu đến.

Gã trưởng lão chín túi hình dáng như Chu Thương kia hai tay bưng một chiếc gậy sắt, hùng dũng đi ra, đứng vào phía bên trái. Người đó lại hô tiếp:

- Chấp Pháp trưởng lão đến.

Một người ăn mày già thân hình bé nhỏ đi ra, tay cầm một mảnh trúc vỡ, bước chân nhẹ nhàng, khi đi không có chút bụi nào bay lên. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Người này khinh công cao cường thật, chỉ kém Vi Bức Vương một chút thôi?. Lại có người hô to:

- Truyền Công trưởng lão đến.[ii]

Lần này một người ăn mày già râu tóc bạc phơ đi ra, hai tay không, xem thân hình bộ pháp không thể đoán được ông ta tài nghệ võ công nông sâu đến bực nào. Bốn lão ăn mày già kéo bốn chiếc bồ đoàn lùi lại phía sau, chỉ còn lại một chiếc duy nhất nơi chính giữa, cùng khom lưng cất tiếng:

- Xin mời đại giá bang chủ.

Trương Vô Kỵ trong bụng hơi chấn động: ?Nghe nói bang chủ Cái Bang là Kim Ngân Chưởng Sử Hỏa Long, trong võ lâm rất ít người biết được y mặt mũi thế nào, không biết là loại người ra sao??.

Trong đại điện tất cả các ăn mày đều cúi mình, một lúc sau từ sau bức bình phong có tiếng chân người, một đại hán hùng dũng đi ra. Y thân thể phải cao đến hơn sáu thước, cực kỳ to lớn, mặt mày hồng hào, trông ra dáng một đại quan thân hào, đến giữa đại điện, đứng chắp tay sau lưng. Quần cái cùng hô lên:

- Tọa hạ đệ tử, tham kiến bang chủ đại giá.

Gã bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long kia liền xua tay nói:

- Miễn lễ. Các anh em khỏe cả chứ?

Cả bọn ăn mày cùng đáp:

- Bang chủ an hảo.

Đợi cho Sử Hỏa Long chễm chệ trên cái bồ đoàn chính giữa rồi, cả bọn mới trước sau ngồi xuống. Sử Hỏa Long quay sang nói với Chưởng Bát long đầu:

- Ông huynh đệ, ngươi đem chuyện Kim Mao Sư Vương và đao Đồ Long nói cho tất cả cùng nghe.

Trương Vô Kỵ nghe nói đến ?Kim Mao Sư Vương và đao Đồ Long?, trong lòng xúc động, vội để hết tâm nghe ngóng. Chưởng Bát long đầu đứng lên, quay sang cúi chào bang chủ rồi đứng thẳng trở lại nói:

- Này các anh em, ma giáo và bản bang hai bên tranh đấu đã sáu chục năm qua, tích oán thật là nhiều. Gần đây ma giáo lập một tân giáo chủ tên là Trương Vô Kỵ. Trong chúng ta có người tham dự chiến dịch vây đánh Quang Minh Đính từng thấy đó chỉ là một thanh niên ngốc nghếch chẳng hiểu biết gì. Cái thứ trẻ con miệng còn hôi sữa, chim chửa ra ràng như thế làm được việc gì? Sao có thể kháng cự với một người hùng tài vĩ lược như Sử bang chủ của bản bang?

Bọn ăn mày cùng vỗ tay reo hò vang dậy, còn Sử Hỏa Long mặt mày nhơn nhơn ra chiều đắc ý. Chưởng Bát long đầu nói tiếp:

- Có điều lập tân giáo chủ rồi, cục diện vốn dĩ tứ phân ngũ liệt, tàn sát lẫn nhau của ma giáo liền đổi thay, trở thành một mối lo tâm phúc đại họa của bản bang. Gần một năm nay, các ma đầu của ma giáo nổi lên khắp nơi, một giải Hoài Tứ có Hàn Sơn Đồng, Chu Nguyên Chương, một giải Lưỡng Hồ có bọn Từ Thọ Huy, liên tiếp đánh bại Nguyên binh, chiếm được rất nhiều đất đai, phải nói là cũng đã lớn lao lắm. Nếu như bọn chúng thành được đại sự, đuổi được quân Thát tử, chiếm lấy thiên hạ, thì lúc đó mấy chục vạn anh em bản bang, thật quả chết không có đất mà chôn.

Cả bọn ăn mày giận dữ gào lên:

- Quyết không để cho chúng thành công.

- Cái Bang thề sống chết tới cùng với bọn ma giáo.

- Ma giáo nếu chiếm được thiên hạ thì anh em mình sống sao cho nổi?

- Đánh Thát tử thì ai cũng muốn nhưng quyết không để cho giáo chủ ma giáo lên ngôi hoàng đế.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Không ngờ mình ở hải ngoại mới có vài tháng, anh em đã làm được nhiều chuyện đến thế. Cái Bang lo lắng không phải là không có lý do. Cái Bang nhân chúng đông đảo, trong bang hào kiệt cũng không phải là ít, nếu được liên thủ cùng với họ kháng Nguyên, đại sự sẽ dễ dàng hơn nhiều. Việc như thế này làm cách nào cùng họ bỏ hết hiềm xưa, biến địch thành bạn??.

Chưởng Bát long đầu đợi cho tiếng la ó của các bang chúng dịu xuống mới nói tiếp:

- Sử bang chủ trước nay vốn ở Liên Hoa sơn trang tĩnh dưỡng, đã lâu không bước chân vào giang hồ nhưng nay gặp chuyện đại sự không thể không đứng ra chủ trì. Cũng thật đúng là trời phù hộ cho chúng ta, trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng làm quen được với một đệ tử phái Võ Đương, biết được một tin hết sức quan trọng.

Y cao giọng gọi lớn:

- Trần trưởng lão.

Phía sau tường có người đáp lời:

- Có đây.

Hai người dắt tay nhau đi ra. Một người chừng độ ba mươi tuổi, thần tình láu lỉnh, chính là người Tạ Tốn đã tha mạng trên đảo Linh Xà. Còn người kia chừng hăm bảy, hăm tám, tướng mạo tuấn tú, chính là Tống Thanh Thư, con trai của Tống Viễn Kiều.

Khi Trương Vô Kỵ nghe nói ?Trần Hữu Lượng làm quen được với một đệ tử phái Võ Đương?, tin chắc chỉ là một đệ tử tầm thường nào đó của sư bá sư thúc, không ngờ lại là người số một trong đệ tử đời thứ ba, nghĩ thầm: ?Tống sư ca vì cớ gì lại dây dưa với đám ăn mày này??. Nhưng chàng lại nghĩ ngay: ?Phái Võ Đương và Cái Bang vốn cùng phe hiệp nghĩa, hai bên giao hảo cũng không có gì là lạ?.

Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư trước hết hành lễ với Sử Hỏa Long, sau đó quay sang vái chào Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu, cuối cùng vòng tay ôm quyền chào tất cả bọn ăn mày ngồi ở dưới. Chưởng Bát long đầu nói:

- - Trần trưởng lão, ngươi đem mọi việc từ đầu chí cuối kể cho tất cả các anh em nghe.

Trần Hữu Lượng nắm tay Tống Thanh Thư nói:

- Tất cả các anh em, vị Tống Thanh Thư Tống thiếu hiệp đây, là công tử của Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp, người kế thừa chức chưởng môn của phái Võ Đương trong tương lai còn vào ai khác được nữa. Gã ma giáo giáo chủ Trương Vô Kỵ có thể nói là sư đệ của Tống thiếu hiệp, cho nên mọi việc trong ma giáo, Tống thiếu hiệp rõ như lòng bàn tay. Mấy tháng trước đây, Tống thiếu hiệp có nói cho tôi hay, đại ma đầu của ma giáo là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã về đảo Linh Xà ngoài biển Đông ...

Chấp Pháp trưởng lão liền xen vào:

- Người trong võ lâm hết sức ra công truy tìm Kim Mao Sư Vương, mấy chục năm nay không ai biết được y ở đâu, sao Tống thiếu hiệp đột nhiên biết được? Lão phu mong được thỉnh giáo.

Trương Vô Kỵ trong lòng vẫn mang một nỗi nghi vấn: ?Tử Sam Long Vương từ nơi cha con Võ Liệt mà biết được nơi ở của nghĩa phụ ta nên lên đón ông ta xuôi Nam về đảo Linh Xà, việc này cực kỳ kín đáo, làm sao người trong Cái Bang lại biết được, nên đã sai người lên trên đảo đoạt đao??. Việc đó chàng đã cùng Tạ Tốn bàn thảo mấy lần nhưng vẫn không sao tìm ra lý lẽ, bây giờ nghe Chấp Pháp trưởng lão hỏi đến nên càng chú tâm nghe.

Trần Hữu Lượng nói:

- May nhờ hồng phúc bang chủ, cái duyên đó thật cực kỳ khéo léo. Ở biển Đông có một người tên là Kim Hoa bà bà không hiểu vì sao biết được tung tích của Tạ Tốn. Lão bà bà này sinh trưởng trên biển cả, thuần thục việc tàu bè, nên đã tìm ra được hòn đảo hoang nơi Tạ Tốn ở miền cực bắc đón y về đảo Linh Xà. Trên đảo Linh Xà đó có cầm tù hai cha con tên là Võ Liệt, Võ Thanh Anh là truyền nhân của một phái võ học Đoàn Nam Đế nước Đại Lý. Hai cha con thừa cơ Kim Hoa bà bà trở về Trung Nguyên, giết kẻ cai ngục chạy trốn, đến Sơn Đông bị nguy nan may được Tống thiếu hiệp cứu thoát, nên nói cho nghe mọi chuyện, thành ra Tống thiếu hiệp mới biết được tung tích của Tạ Tốn.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Ồ, thì ra là thế.

Trong lòng Trương Vô Kỵ cũng tự nhủ thầm: ?Cha con Võ Liệt không phải là người đàng hoàng tử tế, năm xưa Chu Trường Linh và y hai người khổ tâm bày mưu kế để dụ cho ta nói ra chỗ ở của nghĩa phụ. Nhưng cũng may là Tử Sam Long Vương biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta, đời nay nói đến bơi lội và thông thạo hàng hải, có lẽ ít ai hơn được Tử Sam Long Vương, nếu không phải do bà ta ra công, trên biển cả mênh mông, ai đủ bản lãnh để kiếm cho được Băng Hỏa đảo? Nếu như cha mẹ ta sống lại, cũng chưa chắc làm được, đủ biết trong chốn mờ mịt kia cũng có ý trời sắp đặt?.

Trần Hữu Lượng nói tiếp:

- Huynh đệ và Tống thiếu hiệp giao tình sống chết có nhau, được tin đó, lập tức cùng Quí, Trịnh hai trưởng lão tám túi, cùng năm đệ tử bảy túi, lập tức tìm đến đảo Linh Xà ý định bắt sống Tạ Tốn, đoạt lấy thanh đao Đồ Long hiến cấp bang chủ. Nào ngờ ma giáo đại đội nhân mã đã đến đảo Linh Xà rồi. Tuy bọn chúng tôi hết sức tử chiến nhưng ít không chống nổi số đông, Quí trưởng lão và bốn đệ tử bảy túi vì bang tuẫn nạn. Tình hình chiến đấu trên đảo Linh Xà thế nào, xin Trịnh trưởng lão bẩm lại với bang chủ.

?Gã Trịnh trưởng lão thân thể tàn phế kia liền ở trong đám người đứng dậy, kể lại Minh giáo và Cái Bang giao chiến thế nào trên đảo Linh Xà. Y không nói người của Cái Bang vây đánh Tạ Tốn, mà lại bảo là người của Minh giáo thật đông, bọn họ chỉ có mấy người nhưng anh dũng chống trả, sau cùng Trần Hữu Lượng xả thân vì đại nghĩa cứu tính mạng y. Giọng y thật là khẳng khái hiên ngang, nước bọt văng tung tóe, nói Tạ Tốn bị chính khí của Trần Hữu Lượng làm cho khuất phục, thành ra không dám động thủ.

Bọn ăn mày trong đại điện nghe thế hết sức khích động, cùng lớn tiếng reo hò. Truyền Công trưởng lão nói:

- - Trần huynh đệ trí dũng song toàn, lại có lòng nghĩa khí như thế, quả thực hiếm lắm thay.

Trần Hữu Lượng khom lưng đáp:

- Huynh đệ nhờ được bang chủ và các trưởng lão giáo huấn, vì đại nghĩa của bản bang thì dẫu nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cũng không dám từ nan. Chuyện nhỏ nhặt đó, lại được Trịnh trưởng lão nhọc lòng khen ngợi, khiến cho huynh đệ cảm thấy lòng không an.

Quần cái thấy y khiêm tốn như thế, không nhận là công của mình, lại càng hoan hô không ngớt. Trương Vô Kỵ ngồi trên cành cây càng nghe càng bực, nghĩ thầm gã này thật là hèn hạ đáng khinh, việc sờ sờ rõ ràng mãi hữu cầu sinh, vậy mà lại biến thành trượng nghĩa cứu người. Có điều y khéo léo che đậy, khiến Trịnh trưởng lão cũng không thấy một chút sơ hở nào, quả thực là một kẻ đại gian hùng. Chàng nghĩ đến đây bỗng thấy trong lòng chua xót: ?Ngụy kế của tên gian tặc này, lúc đó chính nghĩa phụ cũng bị y đánh lừa, ta cũng bị y đánh lừa, chỉ không che dấu được Tử Sam Long Vương và Triệu cô nương thôi, Triệu cô nương thông minh đa tài, vậy mà nhân phẩm lại ...?

Chấp Pháp trưởng lão đứng lên lạnh lùng nói:

- Biết bao nhiêu anh em trong bản bang bị ma giáo giết hại, món huyết hải thâm cừu này, làm sao chúng ta có thể bỏ qua cho được?

Bọn ăn mày lớn tiếng kêu gào:

- Chúng ta nhất định phải báo thù cho Quí trưởng lão.

- San bằng Quang Minh Đính, quét sạch quần ma!

- Xẻ thây Trương Vô Kỵ, xẻ thây Tạ Tốn!

- Bản bang và ma giáo quyết không đội trời chung, gặp tên nào giết tên nấy!

- Xin bang chủ mau mau ra lệnh, tất cả đệ tử Cái Bang cùng xông lên tiêu diệt ma giáo!

Chấp Pháp trưởng lão quay sang nói với Sử Hỏa Long:

- Bang chủ, việc báo thù rửa hận, phải làm thế nào xin bang chủ chỉ thị.

Sử Hỏa Long nhíu mày:

- Việc này ư, là việc đại sự của bản bang, hừ hừ, mình phải bàn tính lâu dài. Ngươi ra lệnh cho các đệ tử từ bảy túi trở xuống tạm thời lui ra, bọn mình thảo luận cho kỹ càng.

Chấp Pháp trưởng lão đáp lời:

- Vâng.

Y quay sang quát lớn:

- Phụng lệnh bang chủ: đệ tử từ bảy túi trở xuống, lui ra khỏi đại điện, chờ ở ngoài miếu.

Bọn ăn mày liều cả tiếng đáp lời, quay sang bọn Sử Hỏa Long khom mình hành lễ, rồi cùng ra khỏi cửa điện. Trong đại điện lúc này chỉ còn các thủ lãnh từ tám túi trở lên mà thôi. Trần Hữu Lượng tiến lên một bước, cúi mình nói:

- Khải bẩm bang chủ, vị Tống Thanh Thư Tống huynh đệ này quả cũng có chút công lao đối với bản bang, nếu như bang chủ thương tình, cho y được gia nhập Cái Bang, với địa vị thân phận của y, sau này thể nào cũng lập được công lớn đối với bản bang.

Tống Thanh Thư nói:

- Cái đó, dường như ... không ...

Y vừa nói tới chữ ?không?, đôi mắt sắc như dao của Trần Hữu Lượng liền nhìn trừng trừng vào mặt y. Tống Thanh Thư thấy bộ dạng đó, lập tức cúi đầu, không dám nói gì thêm. Sử Hỏa Long nói:

- Thế thì hay lắm. Tống Thanh Thư đầu nhập bang chúng ta, tạm thời giữ chức vị đệ tử sáu túi, dưới quyền thống suất của trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Vậy phải tuân thủ bang qui của Cái Bang, hết lòng hết sức phục vụ, có công được thưởng, sai lầm bị tội.

Mắt Tống Thanh Thư lóe lên một vẻ oán hận, nhưng vội vàng hết sức khắc chế, tiến lên quì xuống lạy tạ Sử Hỏa Long nói:

- Đệ tử Tống Thanh Thư, khấu đầu tham kiến bang chủ. Đa tạ bang chủ khai ân, ban cho chức vụ đệ tử sáu túi.

Sau đó y tiếp tục ra mắt các trưởng lão khác. Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Tống huynh đệ, ngươi đã gia nhập bản bang, từ nay phải chịu tuân theo bang qui ước thúc. Ngày sau dù ngươi có lên làm chưởng môn phái Võ Đương, nhưng vẫn phải tuân theo hiệu lệnh của bản bang. Chuyện đó ngươi biết rồi chứ?

Giọng nói của y cực kỳ nghiêm nghị, Tống Thanh Thư nói:

- Vâng.

Chấp Pháp trưởng lão nói tiếp:

- Bản bang và phái Võ Đương tuy cũng đều là hiệp nghĩa, nhưng dẫu sao hai bên cũng khác đường. Chức chưởng môn phái Võ Đương mai sau thể nào chả vào tay ngươi, cớ gì lại cam tâm gia nhập bản bang là sao? Việc này phải nói cho rõ ràng.

Tống Thanh Thư liếc Trần Hữu Lượng một cái, nói:

- Trần trưởng lão đãi đệ tử có ân nghĩa rất lớn, đệ tử kính phục con người của y nên cam tâm theo hầu dưới trướng.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, có nói ra cũng chẳng sao cả. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái chết đi, người kế nhiệm là một cô gái xinh đẹp, tên là Chu Chỉ Nhược. Cô nương này có tình thanh mai trúc mã với Tống huynh đệ, vốn đã có ước định hôn nhân, ngờ đâu lại bị đại ma đầu của ma giáo là Trương Vô Kỵ ép uổng phải theo y đưa ra hải ngoại. Tống huynh đệ phẫn uất không chịu nổi, mới cầu cứu đến đệ tử. Huynh đệ bèn vỗ ngực khẳng khái bảo đảm sẽ giúp y đoạt lại cô gái họ Chu.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng tức lộn ruột, nghĩ thầm: ?Tên này nói năng đặt điều, làm gì có chuyện đó bao giờ??. Chàng nhịn không nổi đã toan nhảy vào đại điện, nói rõ thị phi, nhưng sau cùng cũng cố dằn cơn giận, tiếp tục nghe thêm.

Sử Hỏa Long cười ha hả nói:

- Xưa nay anh hùng vốn khó mà qua được cửa mỹ nhân, cái đó cũng không có gì là lạ. Một người là chưởng môn Võ Đương, một người là chưởng môn Nga Mi, không những môn đương hộ đối, mà lại trai tài gái sắc, hai bên thật xứng đôi vừa lứa.

Chấp Pháp trưởng lão hỏi thêm:

- Nếu Tống huynh đệ gặp cảnh trớ trêu đó, sao không nhờ Trương chân nhân và Tống đại hiệp giải quyết?

Trần Hữu Lượng nói:

- Tống huynh đệ có nói rằng, tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ kia vốn là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đương. Trương Tam Phong bình sinh rất thương yêu Trương Thúy Sơn, nên gần đây phái Võ Đương dường như có ý bắt tay với ma giáo, Trương Tam Phong và Tống đại hiệp không muốn gây chuyện với họ. Xem ra lúc này võ lâm Trung Nguyên chỉ còn bản bang là đủ sức kháng cự ngang tay với ma giáo mà thôi.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Thì ra là thế, chỉ cần diệt được ma giáo, giết quách tiểu tử Trương Vô Kỵ, tâm nguyện của Tống huynh đệ làm gì mà chẳng xong.

Trương Vô Kỵ ẩn trong tàn cây, nghĩ lại trước đây tại sa mạc bên Tây Vực, trên đỉnh Quang Minh, điệu bộ Tống Thanh Thư đối với Chu Chỉ Nhược quả thật khác lạ, bây giờ mới thấy rõ ràng y có tình ý với nàng ta, trong lòng hơi ngạc nhiên: ?Đệ tử Võ Đương muốn gia nhập Cái Bang, không phải là không được nhưng trước hết phải bẩm rõ cho thái sư phụ và Tống sư bá biết đã. Y vì một người con gái mà phản bội sư môn, phản bội phụ thân, nhân phẩm chẳng ư thấp kém lắm sao? Huống chi Chỉ Nhược đối với ta một tấm chân tình, Tống Thanh Thư dẫu có được Cái Bang giúp đỡ, cũng đâu dễ gì ép nàng thuận theo cho được? Tống đại ca tên tuổi sớm nổi trên giang hồ, đáng được gọi là anh tài đời sau của phái Võ Đương, cớ sao hồ đồ như vậy??.

Trần Hữu Lượng nói tiếp:

- Khải bẩm bang chủ, đệ tử ở vùng phụ cận Đại Đô có bắt được một nhân vật trọng yếu trong ma giáo, tên này có liên quan đến đại nghiệp của bản bang, xin bang chủ phát lạc.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

- Mau dẫn lên đây.

Trần Hữu Lượng vỗ tay ba lần, nói:

- Đem tên ma đầu đó lên.

Từ sau điện đi lên bốn tên bang chúng Cái Bang, tay cầm binh khí, áp giải một người bị trói quặt tay ra sau lưng. Trương Vô Kỵ nhìn thấy người đó, thấy thanh niên này độ chừng hai mươi, tướng mạo rất quen thuộc, chàng nhớ đã từng gặp tại đại hội Minh giáo tại Hồ Điệp Cốc nhưng không nhớ được họ tên. Người đó mặt hết sức căm phẫn, đi ngang qua chỗ Trần Hữu Lượng đột nhiên há mồm, nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mặt. Trần Hữu Lượng nghiêng người qua né tránh, tát trái một cái, trúng ngay mặt người nọ, mặt y liền sưng vù lên ngay. Những đệ tử Cái Bang áp giải ở đằng sau liền xô vào lưng, quát lớn:

- Gặp bang chủ, mau quì xuống, khấu đầu.

Người đó lại khạc một tiếng, nhổ toẹt một bãi đờm nhắm ngay mặt Sử Hỏa Long. Người đó lúc này ở ngay cạnh Sử Hỏa Long, bãi đờm đó kình lực rất mạnh, Sử Hỏa Long vội hụp xuống nhưng không tránh kịp, nghe bộp một tiếng, trúng ngay giữa trán. Trần Hữu Lượng liền đá quét qua, người đó ngã liền. Y lập tức sấn tới che trước mặt Sử Hỏa Long, chỉ vào mặt thanh niên kia quát lớn:

- Cuồng đồ lớn mật, ngươi không muốn sống hay sao?

Người kia chửi lại:

- Ông đây lọt vào tay chúng mày, vốn không mong sống mà trở về nữa rồi.

Nhân dịp Trần Hữu Lượng tiến lên che ngang, Sử Hỏa Long liền đưa tay chùi mặt. Trần Hữu Lượng lùi lại hai bước nói:

- Khải bẩm bang chủ, tên tiểu tử này là cao thủ hạng nhất trong ma giáo, võ công xem ra còn cao hơn cả tứ đại pháp vương, mình không thể coi thường.

Trương Vô Kỵ nghe những lời đó, thoạt đầu hơi ngạc nhiên nhưng hiểu ngay, Trần Hữu Lượng cố ý thổi phồng võ công người này chỉ cốt chữa thẹn cho bang chủ. Có điều Sử Hỏa Long là bang chủ Cái Bang, vậy mà không tránh nổi bãi đờm đó, quả thực không hợp tình chút nào, mà khi y bị nhục nhã như vậy, lại không tỏ vẻ gì tức giận, trái lại có vẻ luống cuống kinh hãi. Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Trần huynh đệ, người này là ai?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Y tên là Hàn Lâm Nhi, con trai của Hàn Sơn Đồng.

Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: ?Đúng rồi, hôm ở đại hội nơi Hồ Điệp Cốc, y luôn luôn đứng ở đằng sau cha, không nói chuyện với ta, thành thử mình không nghĩ ra tên của y được?. Chấp Pháp trưởng lão vui mừng nói:

- À, thì ra y là con của Hàn Sơn Đồng. Trần huynh đệ, công lao của ngươi to lắm đó. Khải bẩm bang chủ: Hàn Sơn Đồng mấy năm nay liên tiếp đánh bại quân Nguyên, uy danh lừng lẫy, bọn đại tướng dưới tay y như Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đều là những nhân vật lợi hại trong ma giáo. Bọn ta bắt được tên tiểu tử này làm con tin, lo gì Hàn Sơn Đồng không nghe lệnh của bản bang.

Hàn Lâm Nhi liền ngoạc mồm chửi:

- Con mẹ chúng bay đừng mơ tưởng hão. Cha ta là bậc anh hùng hào kiệt, lẽ nào để bọn vô sỉ chúng bay uy hiếp? Cha ta chỉ nghe lệnh một mình Trương giáo chủ mà thôi. Bọn Cái Bang chúng bay vọng tưởng tranh hùng cùng Minh giáo, thật không biết lượng sức mình. Còn tên bang chủ thối tha nhà ngươi, không đáng xách dép cho giáo chủ chúng ta.

Trần Hữu Lượng cười hì hì nói:

- Hàn huynh đệ, chú em nói Trương giáo chủ của quí giáo anh hùng đến thế, bọn chúng ta thật hết sức ngưỡng mộ, mong được gặp lão nhân gia một lần. Vậy chú em đưa bọn ta đến giới thiệu được chăng?

Hàn Lâm Nhi nói:

- Trương giáo chủ còn phải đảm đương đại sự, đến ngay huynh đệ trong bản giáo cũng chẳng dễ gì được gặp, đâu có rỗi hơi mà gặp các ngươi?

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Trên giang hồ ai ai cũng nói là Trương Vô Kỵ đã bị quân Nguyên bắt được ở Đại Đô, chém đầu làm gương rồi đem thủ cấp đi bêu ở khắp nơi, sao ngươi còn huênh hoang khoác lác được nữa?

Hàn Lâm Nhi nổi sùng, rống lên một tiếng, quát lớn:

- Ngươi nói thối bỏ mẹ, Thát tử bắt được Trương giáo chủ hồi nào? Dẫu có thiên quân vạn mã vây quanh, giáo chủ chúng ta cũng ra vào như chơi. Trương giáo chủ có đến Đại Đô thật, nhưng là đi đến cứu các nhân vật võ lâm sáu đại môn phái ra, làm chó gì có chuyện bêu đầu làm gương? Cái mồm ngươi đừng có ăn mắm ăn ròi nói láo.

Trần Hữu Lượng không tức giận, vẫn cười khì nói tiếp:

- Thì trên giang hồ người ta vẫn đồn thế, bọn ta lẽ nào không tin. Cả nửa năm nay chỉ nghe nói những người trong Minh giáo như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, rồi nào là Chu Nguyên Chương, hòa thượng Bành Oánh Ngọc, nhưng có ai nghe đến Trương Vô Kỵ nào đâu? Thành ra chắc chắn y chết rồi không còn nghi ngờ gì nữa.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ gay, gân xanh nổi cả trên trán, lớn tiếng nói:

- Cha ta và bọn Từ Thọ Huy đều nghe lệnh giáo chủ mà hành sự, sao có thể sánh ngang vai với Trương giáo chủ được?

Trần Hữu Lượng chép miệng thản nhiên nói:

- Gã Trương Vô Kỵ kia võ công thì kể cũng khá, nhưng lại có tướng chết non, có người lấy số cho y, nói sống không qua được đầu năm nay ...

Ngay lúc đó, đột nhiên một cành nơi cây cổ bách trước miếu hơi rung động, trong điện mọi người không ai hay biết, nhưng Trương Vô Kỵ đã nghe thấy mấy tiếng thở từ nơi cành cây vọng ra, nhưng người kia lập tức nén xuống, giữ hơi lại liền. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Thì ra nơi cây cổ bách có ai ẩn náu trong đó. Người này đến trước ta, vậy mà lâu nay ta không phát giác, võ công của y không phải tầm thường?. Chàng chăm chú nhìn qua cây bách, trong đám tàn cây rậm rạp, thấy có một dải áo xanh. Người kia lẩn mình thật khéo, lá cây và áo cùng màu, nếu không phải Trương Vô Kỵ mắt thật tinh thực khó mà nhìn thấy được.

Chỉ nghe Hàn Lâm Nhi giận dữ nói:

- Trương giáo chủ tâm địa nhân hậu, trời cao tất phù hộ cho ông ta. Ông ta tuổi còn trẻ, có sống thêm cả trăm tuổi cũng chưa thấm gì.

Trần Hữu Lượng thở dài:

- Thế nhưng trên đời này biết thế nào mà lường. Nghe nói ông ta bị gian nhân hãm hại, nên bị triều đình bắt được giết mất rồi. Nói đúng ra thì cũng phải thôi, ai đã gặp Trương Vô Kỵ cũng đều nói y không thể nào qua được ba tám hai mươi tư tuổi...

Bỗng thấy từ cây bách một bóng xanh thấp thoáng, một người đã nhảy xuống đất, quát lên:

- Trương Vô Kỵ ở đây, ai bảo ta chết non đâu nào?

Nói chưa dứt câu, thân hình đã vọt vào trong điện. Chưởng Bổng long đầu đứng ở cửa điện liền vung hai tay ra chộp vào sau gáy y, người kia nhẹ nhàng nghiêng người tránh được. Chỉ thấy y áo xanh, mũ vuông, thần thái phiêu dật, mặt trắng như ngọc, mắt trong như nước, chính là Triệu Mẫn ăn mặc giả trai. Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn ra mặt, trong lòng chấn động, vừa kinh hoảng vừa giận dữ, vừa thương nhớ vừa vui mừng, không khỏi ?Ồ? lên một tiếng. Tuy nhiên bọn ăn mày trong đại điện đang hết sức đề phòng Triệu Mẫn, nên không ai nghe thấy tiếng chàng thảng thốt kêu lên.

Người trong Cái Bang không ai biết mặt Trương Vô Kỵ, chỉ biết là giáo chủ Minh giáo là một thanh niên tuổi chừng đôi mươi, võ công cực kỳ cao cường, thấy Triệu Mẫn nhẹ nhàng tránh được một trảo của Chưởng Bổng trưởng lão, quả thực đúng là cao thủ hạng nhất, nên ai cũng nghĩ đúng là giáo chủ Minh giáo đến thực rồi nên đều rúng động.

Thế nhưng Trần Hữu Lượng thấy diện mạo người này quá xinh đẹp, tuổi lại trẻ, trong giọng nói có vẻ kiều mị, so với hình mạo người trên giang hồ đồn đãi về Trương Vô Kỵ xem ra không giống, nên quát lên:

- Trương Vô Kỵ chết rồi, sao lại có kẻ nào giả mạo thò ra đây?

Triệu Mẫn giận dữ đáp:

- Trương Vô Kỵ sống sờ sờ ra, sao ngươi cứ mở miệng nguyền rủa là thế nào? Trương Vô Kỵ hồng phúc tề thiên, trường mệnh bách tuế, dẫu cho các ngươi có chết sạch rồi, y cũng còn sống thêm tám chục năm nữa.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói mấy câu đó giọng có vẻ buồn buồn, chắc là nghĩ đến việc bỏ rơi mình trên hoang đảo, lương tâm không khỏi cắn rứt, nhưng lại nghĩ ngay: ?Thứ người tàn nhẫn vô tình kia, làm gì còn có lương tâm mà bảo cắn rứt? Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, sao lòng ngươi cứ day dứt không quên, lúc nào cũng nghĩ điều tốt cho nàng là thế nào??.

Trần Hữu Lượng nói:

- Ngươi đích thực là ai?

Triệu Mẫn đáp:

- Ta là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Sao ngươi dám bắt giữ thủ hạ anh em của ta, mau mau thả ra, có chuyện gì thì thanh toán với bản nhân được rồi.

Đột nhiên bên cạnh một người cười khẩy nói:

- Triệu Mẫn cô nương, người khác không biết cô, còn Tống Thanh Thư này không lẽ không biết? Khải bẩm bang chủ: cô gái này là con gái của Nhữ Dương Vương. Dưới tay cô ta rất nhiều cao thủ, cần phải đề phòng.

Chấp Pháp trưởng lão liền chúm môi huýt một tiếng, quát lên:

- Chưởng Bổng trưởng lão, ngươi dẫn anh em ra ngoài miếu nghinh địch, phòng địch nhân tấn công vào.

Chưởng Bổng long đầu đáp lời chạy ra, chỉ giây lát đông tây nam bắc bốn phía chỗ nào cũng có tiếng của bang chúng Cái Bang kêu la om xòm. Triệu Mẫn thấy tình hình như thế mặt hơi biến sắc, hai tay vỗ một cái, từ đầu tường nhảy xuống hai người, chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Chấp Pháp trưởng lão quát lớn:

- Bắt chúng nó.

Lập tức bốn tên đệ tử bảy túi liền xông lên chia ra vây đánh Lộc Hạc hai người. Huyền Minh song lão võ công cực cao, chỉ trong ba chiêu, bốn tên Cái Bang bảy túi đều bị thương. Người râu tóc bạc phơ Truyền Công trưởng lão liền đứng lên, vù một chưởng đánh thẳng vào Hạc Bút Ông, tiếng gió phần phật thật là uy mãnh. Hạc Bút Ông liền trả lại một chiêu Huyền Minh thần chưởng. Chỉ nghe bình một tiếng, hai chưởng đụng nhau. Trao đổi đến chưởng thứ ba, Truyền Công trưởng lão xem chừng núng thế.

Phía bên kia Lộc Trượng Khách múa cây trượng sừng hươu, đánh với Chấp Pháp trưởng lão và Chưởng Bát long đầu hai người, nhất thời chưa phân cao thấp. Chưởng Bổng long đầu thấy Truyền Công trưởng lão mặt đỏ gay, phải lùi dần từng bước, không khỏi ngạc nhiên, nghĩ thầm Truyền Công trưởng lão công lực thâm hậu, là cao thủ số một của bản bang, sao lại không địch nổi lão già này? Khi thấy ông ta trao đổi đến chưởng thứ năm, tiếng thở hồng hộc, bộ râu trắng bay phất phới, xem ra đã đến nước cùng, dẫu biết ông ta xưa nay đối địch không muốn người khác tiếp tay, nhưng ở vào tình trạng này, không thể để ông ta chết dưới tay kẻ địch, nên giơ thiết bổng lên, nhắm ngay chân Hạc Bút Ông vụt ngang một cái.

Ngay khi Huyền Minh nhị lão vừa đến, Triệu Mẫn đã toan rút lui nhưng lại bị Trần Hữu Lượng rút trường kiếm ra chặn lại. Triệu Mẫn khi ở chùa Vạn An đã học được rất nhiều tinh túy của sáu đại môn phái, liền vung tay đâm luôn ra ba kiếm, một chiêu Hoa Sơn kiếm pháp, một chiêu Côn Lôn kiếm pháp, còn chiêu thứ ba là Không Động kiếm pháp. Chiêu thứ tư nàng sử dụng là Kim Đính cửu thức của phái Nga Mi. Trần Hữu Lượng kinh hãi, không cách gì có thể chống đỡ kịp, kiếm của Triệu Mẫn liền vòng lại đâm thẳng vào ngực y. Bỗng nghe keng một tiếng, từ bên trái một thanh kiếm vung ra gạt thanh kiếm của nàng ra ngoài, người xuất chiêu chính là Tống Thanh Thư.

Trong đại điện mọi người giao đấu với nhau, Trương Vô Kỵ ngồi trên cây tùng nhìn thấy rõ ràng từng chiêu một. Chỉ thấy Tống Thanh Thư thi triển kiếm pháp Võ Đương, vừa kín đáo, vừa độc địa, quả thực đã được chân truyền của Tống Viễn Kiều. Trần Hữu Lượng từ bên hông liền tấn công vào, Triệu Mẫn tuy mới tập luyện nhiều tuyệt chiêu nhưng dẫu sao cũng hỗn tạp không tinh thuần, huống chi lại một địch hai, thành thử lâm vào tình trạng đỡ gạt thì nhiều mà tấn công thì ít.

Trương Vô Kỵ sốt ruột, lại cảm thấy hơi lạ lùng: ?Sao nàng ta lại chỉ sử dụng một thanh kiếm tầm thường là sao? Nếu rút Ỷ Thiên kiếm ra thì binh khí của đối phương ắt gãy ngay, ra khỏi trùng vi một cách dễ dàng?. Thế nhưng nhìn nàng áo quần mỏng manh, thân hình mảnh dẻ, lưng không thể nào có dấu thanh kiếm Ỷ Thiên được. Trương Vô Kỵ lo lắng một hồi, không khỏi tự trách mình: ?Trương Vô Kỵ, con tiểu yêu nữ này là hung thủ giết chết biểu muội ngươi, ngươi lại lo lắng cho nàng ta là sao? Thế chẳng hóa ra đối với biểu muội chẳng ra gì, mà còn chẳng coi nghĩa phụ và Chỉ Nhược vào đâu nữa?.

Hai bên đấu được một lúc, Cái Bang lại có thêm mấy cao thủ khác xông vào, còn Triệu Mẫn thì không thấy có thêm thủ hạ tới giúp. Lộc Trượng Khách thấy tình hình không xong, kêu lên:

- Quận chúa nương nương, sư đệ, chúng ta lui ra ngoài sân, thừa cơ bỏ chạy.

Triệu Mẫn nói:

- Hay lắm. Tên họ Trần này hủy báng Trương công tử, nói chàng chết non chết chém, ta không thể tha y được, các vị trừng trị y một mẻ cho đích đáng.

Huyền Minh nhị lão cùng nói:

- Tuân mệnh. Xin quận chúa lùi ra trước, tên tiểu tử đó cứ để cho chúng tôi lo.

Triệu Mẫn lại nói:

- Gã Hàn Lâm Nhi đối với Trương công tử hết lòng trung nghĩa, các ngươi tìm cách cứu y ra.

Lộc Trượng Khách đáp:

- Xin quận chúa cứ đi trước một bước, việc cứu người, anh em chúng tôi tùy cơ mà làm.

Ba người trong khi cường địch vây đánh, nói chuyện ra đi và cứu người, thật chẳng coi đối phương vào đâu. Trong đại điện càng lúc đánh nhau càng hăng, bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long đứng một góc, trước sau không nói một lời. Truyền Công, Chấp Pháp hai người nghe Triệu Mẫn và Huyền Minh nhị lão đối đáp, lập tức hạ lệnh cho thuộc hạ chặn các nẻo đường.

Đột nhiên Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông đánh giạt đối phương ra một bên, xông tới phía Sử Hỏa Long, thân pháp cực kỳ thần tốc, xem ra Sử Hỏa Long khó mà chống đỡ. Nào ngờ khi Triệu Mẫn và nhị lão đối đáp, Trần Hữu Lượng đã tính tới chuyện họ sẽ lấy tiến làm thoái nên đi trước một nước, đã vòng qua đứng bên cạnh Sử Hỏa Long. Chưởng lực của Huyền Minh nhị lão chưa đến, Trần Hữu Lượng đã đẩy vào vai Sử Hỏa Long, xô y vào phía sau tượng Phật Di Lặc. Huyền Minh nhị lão đánh ra, nghe ầm một tiếng thật lớn, pho tượng vỡ tan tành lớp đất bên ngoài, ngả nghiêng muốn đổ.

?Hạc Bút Ông tiến lên thêm một bước, đánh thêm hai chưởng nữa, một nửa trên của pho tượng vĩ đại đó liền ngã xuống. Bọn ăn mày kinh hoàng kêu la om xòm, nhảy nhót tránh né. Triệu Mẫn nhân cơ hội đang đại loạn, nhảy luôn ra ngoài sân. Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu một kiếm một gậy cùng tung ra, đánh đuổi theo lưng. Ra đến cửa miếu, lại thêm ba chiếc côn tạt vào đều nhắm vào ngang chân Triệu Mẫn mà đánh. Triệu Mẫn vừa phải tránh cả trường kiếm của Tống Thanh Thư lẫn gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu, lại phải tránh cả ba cây gậy đập tới dưới chân, nhưng chỉ thoát được hai thanh mà không né được cây gậy thứ ba, thấy bắp chân đau nhói, đã bị quất trúng rồi, đứng không vững, ngã bổ nhào về trước. Tống Thanh Thư liền quay ngược cán kiếm lại, gõ luôn vào sau ót Triệu Mẫn, toan đánh nàng bất tỉnh để tiện bề bắt sống.

Cán kiếm chỉ còn cách đầu nàng chừng nửa thước, ngờ đâu cây gậy sắt trong tay Chưởng Bổng long đầu liền đưa ra, gạt ngay thanh trường kiếm của Tống Thanh Thư chệch ra, rồi một bóng người bay vụt lên, nhảy vọt qua tường ra ngoài. Tống Thanh Thư quay đầu lại hỏi:

- Sao mình lại tha cho cô ta đào tẩu?

Chưởng Bổng long đầu giận dữ nói:

- Sao ngươi lại chặn bổng của ta là thế nào?

Tống Thanh Thư đáp:

- Chính ông lấy bổng hất cán kiếm của tôi, còn nói ...

Chưởng Bổng long đầu quát lên:

- Nói nhiều vô ích, mau đuổi theo.

Hai người cùng nhảy qua tường, thấy nơi góc tường nằm gục một tên đệ tử bảy túi, xương đùi gãy lìa, không dậy nổi. Chưởng Bổng long đầu hỏi:

- Con yêu nữ đó chạy về hướng nào?

Bảy tên đệ tử Cái Bang đứng gác bên ngoài cùng đáp:

- Không có ai cả, chẳng thấy người nào hết.

Chưởng Bổng long đầu giận dữ nói:

- Rõ ràng có người từ trong tường nhảy ra ngoài, mắt chúng bay mù hết cả hay sao?

Một tên đệ tử sáu túi đưa tay đỡ tên đệ tử bảy túi gãy chân lên nói:

- Chỉ thấy có vị đại ca này nhảy tường ra, ngoài ra không còn một ai khác.

Chưởng Bổng long đầu gãi đầu gãi tai, quay sang hỏi tên đệ tử bảy túi:

- Ngươi tại sao lại nhảy qua tường ra ngoài làm gì?

Tên đệ tử bảy túi mếu máo đáp:

- Đệ tử ... đệ tử bị người ta chộp cổ quăng ra ngoài đấy chứ. Con yêu nữ đó thủ pháp thật là quái dị.

Chưởng Bổng long đầu quay sang hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư quát lớn:

- Vừa rồi ngươi lấy cán kiếm gạt bổng ta ra là có ý gì? Ngươi vừa mới gia nhập bản bang đã giở trò xanh vỏ đỏ lòng là sao?

Tống Thanh Thư vừa sợ vừa tức nói:

- Đệ tử vừa dùng cán kiếm gõ con yêu nữ kia, long đầu đại ca liền dùng bổng gạt kiếm của đệ tử ra, thế là con yêu nữ chạy mất.

Chưởng Bổng long đầu giận quá nói:

- Làm sao có chuyện đó được. Ta gạt kiếm ngươi ra làm cái gì? Ta ở trong bang mấy chục năm nay, thân cư cao vị Chưởng Bổng long đầu, không lẽ lại ra tay giúp người ngoài? Ta hỏi ngươi lần nữa, sao ngươi không dùng mũi kiếm đâm y thị, mà lại xoay cán kiếm, giả vờ gõ xuống là sao? Hừ hừ, mắt ta đã hoa đâu, làm sao đánh lừa ta được.

Tống Thanh Thư ở trong phái Võ Đương, tuy là một đệ tử trẻ tuổi thuộc đời thứ ba, nhưng môn hạ Võ Đương ai ai cũng biết y là chưởng môn trong tương lai, thành thử ngay cả Du Liên Châu, Trương Tùng Khê những vị sư thúc cũng hết sức nể nang, trước nay chưa nói nặng y nửa câu bao giờ. Y cao ngạo thành thói, tuy biết Chưởng Bổng long đầu trong bang chức vị cao hơn một tên đệ tử mới gia nhập như y nhiều, nhưng việc này rõ ràng bên kia trái lè, làm sao có thể nhịn chịu tiếng oan nên liền nói:

- Bốn chữ ?xanh vỏ đỏ lòng? không phải gặp ai cũng nói được. Long đầu đại ca trách mắng như thế phải có người làm chứng. Đệ tử rõ ràng vừa gõ cán kiếm xuống, đại ca lấy bổng gạt qua, ban ngày ban mặt chỗ đông người, không lẽ không ai trông thấy.

Chưởng Bổng long đầu nghe y nói thế, có ý như đổ cho mình ?xanh vỏ đỏ lòng?, thả Triệu Mẫn chạy thoát, y tính vốn nóng như lửa, liền quát lên:

- Thằng nhãi này không biết kính trọng bề trên, chắc ngươi ỷ vào thanh thế của phái Võ Đương phải không?

Nói xong nhắm đầu Tống Thanh Thư đập ngay một gậy, trong cơn nóng giận, kình lực cực kỳ cương mãnh. Tống Thanh Thư tức quá không nhịn nổi, giơ trường kiếm lên gạt ra. Kiếm bổng chạm nhau, nghe choang một tiếng, tóe ra mấy đốm lửa. Tống Thanh Thư thấy hổ khẩu ngâm ngẩm đau, Chưởng Bổng long đầu quát lớn:

- Họ Tống kia, ngươi dám phạm thượng tác loạn, có phải là do kẻ địch phái đến bản bang để nằm vùng chăng?

Vừa nói vừa đập luôn một gậy nữa. Từ cửa miếu một người xông vào, giơ kiếm lên đẩy lệch thiết bổng ra ngoài nói:

- Long đầu đại ca, xin đừng nổi nóng.

Người đó chính là trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Y hỏi tiếp:

- Con yêu nữ Triệu Mẫn đâu rồi?

Chưởng Bổng long đầu thở hồng hộc chỉ vào Tống Thanh Thư nói:

- Chính nó thả ra chứ ai.

Tống Thanh Thư vội nói:

- Không đâu, chính là long đầu đại ca thả đó.

Hai người đang tranh cãi, Huyền Minh nhị lão đã nhảy từ miếu ra, nhìn quanh quất không thấy Triệu Mẫn, biết nàng đã chạy thoát rồi, cùng phá lên cười ha hả, bốn chưởng tung ra, đánh gục luôn bốn tên đệ tử Cái Bang. Đến khi Truyền Công trưởng lão và Chấp Pháp trưởng lão cả bọn chạy ra đuổi đánh, tiếng cười của hai người đã cách xa hàng chục trượng, không cách gì theo kịp.

Thì ra khi Trương Vô Kỵ thấy Tống Thanh Thư xoay cán kiếm lại đánh vào sau ót Triệu Mẫn, cái đánh đó chưa biết nặng nhẹ ra sao, nhẹ thì mê man bất tỉnh, nặng thì đánh nàng chết ngay tại chỗ, không còn kịp suy nghĩ gì thêm, từ trên cây cổ tùng nhảy xuống, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, ở phía sau đẩy vào cây gậy của Chưởng Bổng long đầu tạt qua gạt trường kiếm của Tống Thanh Thư. Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của chàng vốn dĩ đã luyện đến mức thần diệu vô cùng, mấy tháng qua trên hoang đảo thì giờ nhàn rỗi, lại nghiên cứu thánh hỏa lệnh bí quyết theo bản dịch của Tiểu Siêu, hai bên kết hợp lại, còn cao minh gấp mười võ công kỳ bí của ba sứ giả Ba Tư.

Đến lúc này chàng đem ra sử dụng, tài nghệ cao cường như Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư cao siêu là thế mà cũng không cách gì nhìn ra được. Chưởng Bổng long đầu chỉ nghĩ là Tống Thanh Thư đưa kiếm gạt gậy mình ra, còn Tống Thanh Thư thì thấy rõ ràng Chưởng Bổng long đầu lấy gậy phang vào kiếm của mình. Trương Vô Kỵ nhân dịp hai người còn đang kinh ngạc, tay trái vung ra chộp ngay một tên đệ tử bảy túi, ném luôn ra ngoài. Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư thấy bóng người đó vượt qua tường, tưởng là Triệu Mẫn đã nhảy qua bỏ chạy rồi, cùng đuổi theo, Trương Vô Kỵ liền ôm luôn Triệu Mẫn nhảy lên mái nhà.

Ban ngày ban mặt vốn dĩ khó có thể che dấu hình tích, nhưng bọn ăn mày ào ào như một đàn ong đang chạy theo Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư ra ngoài cửa miếu. Người võ công cao thì đang vây đánh Huyền Minh nhị lão, võ công hơi kém thì đang lo chạy thoát thân, cả bọn trước sau loạn thành một bầy tuy có rất nhiều người hoa mắt, thấy một vật gì nhảy qua đầu vọt ra, nhưng đúng lúc đó tượng Phật Di Lặc trong đại điện đổ xuống, bụi bay mù mịt thành một lớp dày thành ra không một ai trông thấy cả.

Triệu Mẫn đúng lúc nguy nan được người cứu thoát, thân hình nằm trong hai cánh tay rắn chắc, tưởng như đằng vân giá vụ bay lên nóc miếu. Nàng quay đầu lại, dưới ánh mặt trời chiếu vào, thấy người đó mày rậm mắt sáng, chính là Trương Vô Kỵ. Nàng dường như không tin nổi đôi mắt của mình, thảng thốt kêu lên:

- Chàng đấy ư?

Trương Vô Kỵ vội vàng giơ tay bịt miệng Triệu Mẫn, nhìn quanh quất chung quanh, thấy trước sau trái phải miếu Di Lặc chỗ nào cũng đầy bang chúng Cái Bang, muốn cứu Triệu Mẫn thoát thân không có gì là khó nhưng chàng lại muốn xem Cái Bang đang toan tính chuyện gì đối với Minh giáo, Tống sư ca của phái Võ Đương lại gia nhập Cái Bang rồi, nếu không dò xét cho minh bạch, chỉ lo thoát thân thì thật đáng tiếc. Chàng thấy Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu tranh biện, gã ăn mày già mắt lộ hung quang, trong Cái Bang có rất nhiều tay gian hiểm, không chừng Tống Thanh Thư bị trúng phải độc thủ của y, huống chi Hàn Lâm Nhi son sắt một lòng trung nghĩa không thể không cứu. Chỉ thấy đại điện bụi bay mù, chàng bèn tính chuyện chạy vào trong miếu tìm cách trốn tránh.

Trương Vô Kỵ bèn vọt lên trước, bám vào xà nhà chuồn mình xuống dưới, hai chân đeo vào đà ngang, tiếp theo co đùi rút một cái đã chui ngay vào phía sau một pho tượng Phật. Trong điện lúc này chỉ còn mấy tên đệ tử Cái Bang bị thương vì pho tượng đổ trúng đang nằm rên la dưới đất, còn Hàn Lâm Nhi không biết đã bị dẫn đi đâu.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn chung quanh chưa tìm thấy chỗ nào có thể ẩn náu cho ổn thỏa. Triệu Mẫn giơ tay chỉ vào một chiếc trống da lớn treo lủng lẳng trên một cái giá gỗ, cách mặt đất phải đến hơn một trượng, đối chọi với chiếc chuông lớn ở phía bên kia. Trương Vô Kỵ hiểu ngay ra, men theo tường đến sau chiếc trống nhún mình nhảy lên, tay phải giơ ngón trỏ rạch ngang qua, nghe soẹt một tiếng nhỏ, chiếc mặt trống đã bị cắt một vạch dài. Chàng đưa chân móc vào chiếc giá gỗ, tay lại rạch một đường dọc, hai vết cắt thành hình chữ thập rồi ôm Triệu Mẫn chui tọt vào bên trong.

Chiếc trống đó tuy lớn thật nhưng hai người chui vào cũng không thể nào cử động được. Triệu Mẫn gục đầu vào người Trương Vô Kỵ, thở hổn hển. Chiếc trống này chế tạo đã lâu, trong bụng trống đầy bụi bậm, trong mùi ẩm mốc Trương Vô Kỵ lại nhận thấy hương thơm nhè nhẹ của Triệu Mẫn tỏa ra, trong lòng vừa yêu vừa giận, trong lòng không biết bao nhiêu điều muốn trách cứ nàng nhưng khổ nỗi nơi đây không thể nào mở miệng, chỉ thấy thân hình Triệu Mẫn tựa vào lòng mình thật mềm mại, mái tóc xõa cả vào mặt chàng. Chàng bỗng dưng kinh hãi nghĩ thầm: ?Ta ra tay cứu cô ta đã là bậy quá rồi, sao lại còn cùng nàng quá thân cận như thế này??. Chàng đưa tay đẩy đầu Triệu Mẫn ra, không cho nàng tựa đầu vào vai mình nữa. Triệu Mẫn bực bội, lấy cùi chỏ thúc vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ mượn sức đánh sức, đưa kình lực nàng thúc vào bật ngược trở lại, Triệu Mẫn bị đau, nhịn không nổi phải kêu lên. Vô Kỵ đã liệu trước nên giơ tay bịt mồm nàng lại. Chỉ nghe tiếng Chấp Pháp trưởng lão ở dưới điện vọng lên:

- - Khải bẩm bang chủ, địch nhân đã đào tẩu mất tăm mất dạng, thuộc hạ vô năng, không bắt nổi chúng, xin bang chủ phạt tội.

Sử Hỏa Long đáp:

- Thôi miễn! Địch nhân võ công thật cao cường, mọi người ai cũng thấy cả. Con mẹ nó, cả bọn mình đều xui xẻo, chẳng phải một mình trưởng lão mà thôi đâu.

Chấp Pháp trưởng lão đáp:

- Đa tạ bang chủ.

Kế đến là Chưởng Bổng long đầu tố cáo Tống Thanh Thư thả kẻ địch chạy mất, Tống Thanh Thư cứ một mực cãi, hai bên ai cũng cố giữ phần phải về mình, trong điện thành to tiếng. Sử Hỏa Long nói:

- Trần huynh đệ, khi đó ngươi thấy ra sao?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Khải bẩm bang chủ: Chưởng Bổng long đầu là nguyên lão của bản bang, lời nói tất không thể nào sai. Thế nhưng Tống huynh đệ thành tâm gia nhập bản bang, con yêu nữ họ Triệu lại là kẻ đối đầu của y, không thể nào lại định tâm thả cho y thị chạy được. Cứ như ngu kiến của huynh đệ, võ công của con yêu nữ kia quái dị, chắc là thị mượn sức đánh sức, lấy thiết bổng của long đầu đại ca, gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra. Trong cơn hỗn loạn hai bên không ai thấy ai thành ra hiểu lầm.

Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: ?Tên Trần Hữu Lượng này quả thực ghê gớm, y không nhìn thấy tình hình ra sao, chỉ đoán mà mười phần cũng đúng được tám chín?. Lại nghe Sử Hỏa Long nói:

- Lời đó xem có lý lắm. Hai vị huynh đệ đều vì bản bang mà ra sức, đừng để chuyện này làm tổn thương hòa khí anh em.

Chưởng Bổng long đầu mặt vẫn hầm hầm nói:

- Dù cho y ...

Trần Hữu Lượng không đợi y nói hết câu liền xen vào:

- Tống huynh đệ, long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dẫu có trách lầm ngươi, cũng phải thành tâm nghe lời giáo huấn. Ngươi mau xin lỗi long đầu đại ca đi.

Tống Thanh Thư không còn biết làm gì hơn, đành phải tiến lên thi lễ nói:

- Long đầu đại ca, mới rồi tiểu đệ đã lầm lỗi, xin đại ca lượng thứ cho.

Chưởng Bổng long đầu tuy trong bụng còn tức lắm, nhưng phải cố nén chỉ hừ một tiếng nói:

- Thôi được.

Lời nói của Trần Hữu Lượng tuy rằng có vẻ trách cứ Tống Thanh Thư nhưng y đã nói: ?Triệu Mẫn lấy thiết bổng của long đầu đại ca, gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra? rồi thêm: ?... long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dẫu có trách lầm ngươi, cũng phải thành tâm nghe lời giáo huấn?, đều có ý nói Chưởng Bổng long đầu sai quấy, các trưởng lão trong Cái Bang ai cũng nhận ra. Thế nhưng gần đây Trần Hữu Lượng là người được bang chủ hết sức nể vì, nói đâu Sử Hỏa Long cũng nghe theo nên không ai dám thêm bớt gì.

Sử Hỏa Long nói:

- Trần huynh đệ, vừa rồi con yêu nữ đến quấy phá là con gái của Nhữ Dương Vương. Ma giáo vốn đối đầu với triều đình, sao chúng ta nói tới tiểu ma đầu Trương Vô Kỵ, mắc mớ gì mà yêu nữ cái con mẹ nó lại thò đầu ra là sao?

Trần Hữu Lượng còn đang ngẫm nghĩ, Chưởng Bát long đầu liền nói:

- Tôi thấy con quận chúa Thát tử kia mắt rưng rưng, thần sắc cực kỳ tức tối. Trần huynh đệ rủa sả giáo chủ ma giáo, con quận chúa đó làm như mình rủa sả cha anh nó không bằng, thật không thể nào hiểu nổi.

Tống Thanh Thư nói:

- - Khải bẩm bang chủ: tình tiết bên trong thuộc hạ hiểu rõ.

Sử Hỏa Long nói:

- Vậy Tống huynh đệ nói nghe thử nào.

Tống Thanh Thư đáp:

- Tuy ma giáo đối nghịch với triều đình nhưng con tiểu yêu nữ quận chúa này lại say mê Trương Vô Kỵ, chỉ mong lấy được y thôi thành ra hết sức bênh vực y.

Cả bọn ăn mày nghe thế đều ?A? lên một tiếng, ai nấy không ngờ nổi việc lại như thế. Trương Vô Kỵ nằm trong cái trống nghe rõ ràng, tim cũng đập thình thịch, tự hỏi mình: ?Có thực thế không? Có thực thế không??. Triệu Mẫn quay đầu lại, đôi mắt long lanh nhìn chàng. Tuy trong cái trống tối tăm nhưng nhãn quang Trương Vô Kỵ sắc bén, chỉ một chút ánh sáng đã thấy đôi mắt nàng nhu tình vô hạn, không khỏi bồi hồi, giơ tay ôm vai nàng kéo sát vào lòng, toan hôn lên đôi môi anh đào của nàng một cái. Đột nhiên chàng nhớ lại cái chết thảm khốc của Ân Ly, tình yêu đổi ngay thành thù hận, bàn tay đang nắm trên vai Triệu Mẫn bèn bóp lại. Tuy chàng không sử dụng toàn lực nhưng Triệu Mẫn cũng đã chịu không nổi, chỉ thấy mắt tối sầm, đau đến muốn ngất đi, muốn bắt chước Ân Ly mắng một câu: ?Đồ tiểu quỉ lang tâm đoàn mệnh?. Thế nhưng nàng hết sức nén lại không phát ra tiếng nhưng nước mắt đã nhỏ xuống ròng ròng, rơi trên lưng bàn tay Trương Vô Kỵ, rồi tuôn xuống quần áo. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lòng dạ vẫn trơ trơ không để ý đến.

Lại nghe Trần Hữu Lượng hỏi thêm:

- Làm sao ngươi biết? Có chuyện quái lạ như vậy sao?

Tống Thanh Thư hậm hực đáp:

- Tên Trương Vô Kỵ kia tướng mạo cũng bình thường thôi, không có vẻ gì là anh tuấn tiêu sái, chỉ học được tà thuật của ma giáo, giỏi tài mê hoặc đàn bà con gái, không biết bao nhiêu gái tơ đã lọt vào cạm bẫy của y.

Chấp Pháp trưởng lão gật đầu:

- Đúng thế, bọn dâm tà trong ma giáo quả có cái thuật hái hoa, đàn ông đàn bà gì cũng đều biết hết. Nữ đệ tử Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi, cũng vì trúng phải tà thuật của Dương Tiêu mà thành thân bại danh liệt. Phụ thân Trương Vô Kỵ là Trương Thúy Sơn, cũng bị yêu pháp của con gái Bạch Mi Ưng Vương làm cho khốn đốn. Con bé quận chúa Thát tử kia chắc trúng phải tà pháp hái hoa của tên tiểu ma đầu rồi, thất thân cùng y, ván đã đóng thuyền, gạo thổi thành xôi, đành rơi vào chốn bùn nhơ không sao rút ra được nữa.

Tất cả bọn người trong Cái Bang đều gật đầu cho là đúng. Truyền Công trưởng lão nghĩa khí bừng bừng, hậm hực nói:

- Những kẻ bại hoại như thế trên giang hồ phải truy diệt cho kỳ hết, nếu không đàn bà con gái nhà lương thiện không biết bao nhiêu người bị tên tiểu dâm tặc đó làm cho ô uế.

Sử Hỏa Long le lưỡi, chóp chép miệng, cười hềnh hệch:

- Con mẹ nó, tên tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ đó thật là diễm phúc.

Trương Vô Kỵ tức đến toàn thân run rẩy, chàng đến nay vẫn còn là đồng tử nhưng từ khi Diệt Tuyệt sư thái mồm năm miệng mười mắng là dâm tặc, khiến chàng tẩy cũng không sạch, quả thật oan mà không cách nào biện bạch. Cái chuyện Triệu Mẫn thất thân cùng chàng, ván đã đóng thuyền vân vân không biết từ đâu ra, nghĩ đến chuyện đó, đột nhiên kinh hãi: ?Triệu cô nương và ta hai người ôm nhau ở trong này, nhất định không thể để cho bọn chúng biết được, nếu không những lời đó lại càng thêm có chứng cớ để vu hãm?.

Lại nghe Truyền Công trưởng lão nói:

- Nếu như Chu Chỉ Nhược cô nương của phái Nga Mi lạc vào tay tên dâm tặc đó, ắt là trinh tiết khó mà giữ cho được. Tống huynh đệ, chuyện này ngươi cũng đừng để tâm làm gì, bọn ta nhất định sẽ giúp ngươi đoạt lại người vợ yêu, không để cho chuyện của Kỷ Hiểu Phù xảy ra thêm một lần nữa.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Đại ca nói đúng lắm. Phái Võ Đương năm xưa không bảo vệ nổi Ân Lê Đình, nay lại không lo được cho Tống Thanh Thư. Tống huynh đệ đầu nhập bản bang, nếu mình cũng không làm cho y hả được cơn giận, không giúp y hoàn thành tâm nguyện thì tại sao cái danh chưởng môn phái Võ Đương lại không màng, đi làm một đệ tử sáu túi của Cái Bang làm gì?

Cả bọn Cái Bang đều lớn tiếng reo hò, thề quyết xẻ thây tên dâm tặc Trương Vô Kỵ, đoạt lại vợ cho Tống Thanh Thư. Triệu Mẫn ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Ngươi đúng là tên tiểu dâm tặc đáng chết.

Câu nói đó dường như giận hờn, lại như khen ngợi, nói ra thật là êm ấm, Trương Vô Kỵ nghe rồi lòng bỗng rộn ràng, nhất thời ý loạn tình mê, thật là phiền não: ?Giá như nàng đừng gian trá hiểm độc giết chết biểu muội ta, một đời được ở bên nàng, thật không còn cầu gì hơn nữa?.

Chỉ nghe Tống Thanh Thư ấm ứ tạ ơn bọn ăn mày, Chấp Pháp trưởng lão lại hỏi thêm:

- Tên dâm tặc đó làm sao dan díu được với quận chúa Thát tử, ngươi có biết không?

Tống Thanh Thư nói:

- Những chi tiết bên trong người ngoài quả thật không sao biết cho hết được. Hôm đó tiểu yêu nữ tất lãnh võ sĩ triều đình, lên núi Võ Đương bắt thái sư phụ của tiểu đệ, nhưng vừa thấy mặt tên dâm tặc đó liền ngoan ngoãn rút lui ngay, cái đại họa của phái Võ Đương lập tức tiêu giải. Tam sư thúc của tiểu đệ Du Đại Nham hơn hai mươi năm trước bị người ta đánh gãy chân tay, cũng được tiểu yêu nữ tặng thuốc cho tên dâm tặc nối được vết thương.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Thì ra thế đó, xưa nay phái Võ Đương vẫn là cái gai trong mắt triều đình, quận chúa Thát tử nếu không phải thắm thiết lắm với mối gian tình kia đến quên cả cội nguồn, quyết không thể nào lại tặng thuốc giúp cho kẻ địch. Nếu nói cho cùng, tên tiểu dâm tặc đó tuy nhân phẩm không đoan chính nhưng đối với thái sư phụ và các sư thúc bá cũng còn chút tình hương hỏa.

Tống Thanh Thư nói:

- Ồ, tiểu đệ nghĩ y cũng không hoàn toàn vong bản đâu.

Trần Hữu Lượng nói:

- Khải bẩm bang chủ: huynh đệ nghe những điều Tống huynh đệ nói bỗng nảy ra một kế, có thể chế phục được tên tiểu dâm tặc đó khiến cho ma giáo phải hoàn toàn nghe lệnh của bản bang.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

- Trần huynh đệ nếu như có diệu kế, mau nói cho mọi người nghe nào.

Trần Hữu Lượng đáp:

- Nơi đây tai mắt nhiều, tuy đều là anh em trong nhà cả nhưng sợ tiết lộ cơ mật.

Trong đại điện tiếng xì xào liền im bặt, tiếng chân rầm rập, có đến hơn chục người đi ra khỏi điện, ắt rằng chỉ còn lại những nhân vật thủ lãnh chức phận tối cao trong Cái Bang mà thôi. Trần Hữu Lượng nói:

- Việc này nhất định không thể nào tiết lộ phong thanh, Tống huynh đệ, hai vị long đầu đại ca, mình tra xét trước sau một vòng xem có ai nghe lén không nào.

Chỉ nghe hai tiếng vụt vụt, Chưởng Bổng long đầu và Chưởng Bát long đầu đã nhảy lên mái nhà, còn Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư tại trước điện sau điện tra xét kỹ lưỡng, ngay cả sau các pho tượng, các màn che, sau biển ngạch chỗ nào cũng ngó qua.

Trương Vô Kỵ ngầm phục Triệu Mẫn tâm cơ mẫn tiệp, trong đại điện trừ cái trống lớn này ra, quả không còn chỗ nào có thể ẩn náu được. Bốn người tra xét xong, quay trở lại điện, Trần Hữu Lượng hạ giọng nói:

- Việc này hoàn toàn do ở Tống huynh đệ mà thôi.

Tống Thanh Thư ngạc nhiên:

- Tôi ư?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Đúng thế, Chưởng Bát long đầu, nhờ đại ca phối chế mấy thang ?Ngũ Độc Thất Tâm Tán?, giao cho Tống huynh đệ đem về núi Võ Đương, lén bỏ vào đồ ăn thức uống của Trương chân nhân và Võ Đương chư hiệp. Bọn mình ở chân núi tiếp ứng, sau khi thành công rồi, bắt giữ Trương chân nhân và Võ Đương chư hiệp, dùng đó làm chỗ uy hiếp, lo gì tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ không nghe lời bản bang?

Sử Hỏa Long là người đầu tiên vỗ tay khen hay:

- Diệu kế, diệu kế!

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Kế này hay lắm. Ngũ Độc Thất Tâm Tán của bản bang cực kỳ lợi hại, nếu như hạ độc Trương Vô Kỵ, bọn ma giáo phòng phạm nghiêm mật, không dễ gì được. Còn Tống huynh đệ là đệ tử Võ Đương, muốn bắt giữ người của phái Võ Đương, giặc trong nhà còn phòng làm sao được, thật là thần không hay quỉ không biết, thể nào chẳng xong.

Tống Thanh Thư trù trừ đáp:

- Cái này ... cái này ... bảo huynh đệ hạ độc gia phụ, thật không thể nào làm được.

Trần Hữu Lượng nói:

- Ngũ Độc Thất Tâm Tán là linh dược của bản bang, chỉ làm cho người ta tạm thời thần trí mơ hồ, không tổn thương tính mạng. Lệnh tôn Tống đại hiệp là người hiệp nghĩa, bọn chúng tôi vốn hết sức kính trọng, quyết không dám làm hại đến một sợi lông của lão nhân gia.

Tống Thanh Thư vẫn không chịu nhận lời, nói:

- Huynh đệ gia nhập bản bang, việc chưa được thái sư phụ và gia phụ chấp thuận trước, sau này nếu biết ra, thể nào cũng trách phạt thật nặng, huynh đệ chưa biết làm cách nào cho qua đây. Tuy thế bản bang vốn dĩ cũng theo con đường hiệp nghĩa, so với tông chỉ của phái Võ Đương không khác bao nhiêu, cho nên cũng không phải là tội lớn. Thế nhưng bảo làm chuyện bất hiếu phạm thượng như vậy, huynh đệ nhất quyết không thể nào tuân theo được.

Trần Hữu Lượng nói:

- Huynh đệ nghĩ như thế là chưa thông. Xưa nay muốn làm đại sự không thể nề tiểu tiết, người xưa vì đại nghĩa phải bỏ cả người thân cũng đã có rồi, huống chi chúng ta vốn chỉ muốn đối phó với ma giáo, bắt giữ Võ Đương chư hiệp cốt chỉ là kế sách để kiềm chế tên tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ mà thôi. Năm xưa sáu đại môn phái vây diệt Quang Minh Đính, phái Võ Đương chẳng phải là hết sức làm đấy sao?

Tống Thanh Thư đáp:

- Huynh đệ nếu như làm việc này, một là lương tâm không an, hai là trên giang hồ người người sẽ sỉ mắng, còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Vừa rồi ta đã chẳng bảo các trưởng lão tám túi lui ra đấy sao? Cớ gì phải khám xét trước sau trên dưới thật kỹ càng? Chính vì sợ chuyện này lộ ra ngoài đấy thôi. Tống huynh đệ, ngươi sau khi bỏ thuốc rồi, chính mình cũng giả vờ hôn mê, bọn ta cũng trói ngươi lại, cùng với thái sư phụ ngươi, phụ thân và các sư thúc ở chung một chỗ, còn ai nghi cho ngươi được? Trừ bảy người trong chúng ta đây, trên đời này còn một ai hay biết nữa? Chúng ta thì chỉ còn bội phục ngươi là một anh hùng có thể đảm đương đại sự, ai dám chê cười?

Tống Thanh Thư trầm ngâm chốc lát, rụt rè nói:

- Bang chủ và Trần đại ca đã ra lệnh, tiểu đệ quả không dám từ chối, huống chi tiểu đệ mới gia nhập bản bang, đang muốn có dịp lập công, dẫu có nhảy vào chảo đang sôi, lao vào lửa đang cháy cũng phải tận tâm kiệt lực. Có điều người ta sống trên đời, hiếu nghĩa là gốc, sai tiểu đệ đến làm hại gia phụ, thì nói sao cũng không dám phụng mệnh.

Trong Cái Bang xưa nay vốn cực kỳ tôn trọng chữ ?hiếu?, mọi người nghe y nói thế, đều thấy không tiện cưỡng ép thêm. Trần Hữu Lượng đột nhiên cười khẩy một tiếng nói:

- Kẻ dưới làm chuyện phạm thượng, là chuyện đại kỵ đối với người trong võ lâm chúng ta, chẳng cần Tống huynh đệ nói, ta cũng biết rồi. Thế nhưng không biết Mạc thất hiệp với Tống huynh đệ liên quan ra sao? Ông ta vai vế cao hay là ngươi vai vế cao?

Tống Thanh Thư không trả lời, một lúc sau bỗng nói:

- Được, nếu như bang chủ và các vị đã ra lệnh như thế, tiểu đệ đành phải tuân theo. Nhưng các vị phải nhận lời trước, không được làm tổn thương gia phụ mảy may, cũng không được làm nhục ông ta. Nếu không tiểu đệ thà thân bại danh liệt, chứ quyết không làm chuyện sai quấy bất hiếu đâu.

Sử Hỏa Long, Trần Hữu Lượng cả bọn lấy làm mừng rỡ. Trần Hữu Lượng nói:

- Chuyện đó thì chắc chắn là đồng ý rồi. Tống huynh đệ cùng chúng ta gọi nhau là anh em, Tống đại hiệp là tôn trưởng của cả bọn, dù cho Tống huynh đệ chẳng nói đến, chúng ta với lão nhân gia cũng phải đối đãi như phận cháu con.

Trương Vô Kỵ trong lòng nghi vấn: ?Tống sư ca khăng khăng không nhận lời, sao Trần Hữu Lượng vừa nhắc đến Mạc sư thúc thì Tống sư ca không dám từ chối nữa, bên trong ắt phải có chuyện gì khúc mắc. Xem ra chỉ còn hỏi thẳng Mạc thất thúc mới biết rõ đầu đuôi?.

Chỉ nghe Chấp Pháp trưởng lão và Trần Hữu Lượng thì thầm thương lượng, sau khi hạ độc Trương Tam Phong và anh em Tống Viễn Kiều rồi, quần cái sẽ xông lên núi tiếp ứng ra sao. Mỗi khi Trần Hữu Lượng nói đến đâu, Sử Hỏa Long đều mở mồm khen ngợi: ?Hay lắm, diệu kế?.

Chưởng Bát long đầu nói:

- Lúc này đang mùa lạnh, ngũ độc nằm phục dưới đất, tiểu đệ phải đi tới chân núi Trường Bạch đào ngay, chậm thì một tháng, ít thì hai mươi ngày là sẽ điều hợp thành Ngũ Độc Thất Tâm Tán. Độc trùng đào dưới băng tuyết lên độc tính không lộ ra, uống phải không thể nào biết được, để đối phó với các cao thủ hạng nhất thì thật không gì tốt bằng.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Trần huynh đệ, Tống huynh đệ hai vị, đi theo Chưởng Bát long đầu đến núi Trường Bạch chế thuốc, bọn chúng ta xuôi nam trước, một tháng nữa mình gặp nhau ở Lão Hà Khẩu. Hôm nay là mồng tám tháng chạp rồi, đến mồng tám tháng giêng mình gặp nhau.

Y nói tiếp:

- Còn tên Hàn Lâm Nhi rơi vào tay ta, thật là hữu dụng, xin Chưởng Bổng long đầu để tâm canh chừng, phòng bọn ma giáo đoạt lại. Bọn mình chia nhau mà đi để tránh tai mắt của địch.

Sau đó cả bọn lần lượt cáo từ bang chủ, Chưởng Bát long đầu và Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư ba người đi trước về hướng bắc. Chỉ trong giây lát, cả bọn ăn mày đều đi khỏi miếu Di Lặc không còn một ai.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Cung Oán ngâm khúc

--------------------------------------------------------------------------------

[i] Đã rơi xuống giếng còn bị ném đá xuống, ý nói nhân khi người khác nguy nan tấn công cho chết luôn. Đây là một trong ba mươi sáu kế.

[ii] Theo tổ chức của Cái Bang, cao nhất là bang chủ, kế đến là hai người trưởng lão Chấp Pháp (quyết định về phân xử và giải thích luật lệ) và Truyền Công (quyết định về tài nghệ võ công cùng huấn luyện để sắp xếp cấp bậc). Dưới hai trưởng lão là hai long đầu (chính nghĩa là đàn anh, đại ca hay đầu nậu) Chưởng Bát (trông lo hành chánh, quản hạt) và Chưởng Bổng (trông coi về điều động nhân sự). Ba món bảo bối của ăn mày gồm bát ăn xin, gậy (để chống và đánh chó vì ăn xin thường tật nguyền) và bị (để đựng đồ dùng). Tuy nhiên từ trước đến nay chúng ta đều dịch là túi nên người dịch đành chấp nhận thông lệ đó (đúng ra phải là tám bị, chín bị, bảy bị ... mới đúng cách). Tiếng bình dân của Việt Nam vẫn thường nói là bị gậy để chỉ ăn mày, ăn xin.

Hồi 32

OAN MÔNG BẤT BẠCH SẦU DỤC CUỒNG

Một khi sửa mũ vườn đào,

Dẫu không hái trộm ai nào tin cho.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng bọn ăn mày đi đã xa, trong miếu không còn động tĩnh gì nữa, mới từ trong cái trống nhảy ra. Triệu Mẫn cũng nhảy ra theo, sửa lại áo quần, vừa mừng vừa giận lườm chàng một cái. Trương Vô Kỵ giận dữ nói:

- Hứ, cô vậy mà còn mặt mũi nhìn đến tôi nữa ư?

Triệu Mẫn sụ mặt xuống nói:

- Cái gì? Tôi đắc tội với Trương đại giáo chủ ở chỗ nào?

Dung mạo Trương Vô Kỵ như có phủ một làn sương mỏng, quát lên:

- Cô lấy cắp thanh kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long tôi không nói đến. Cô bỏ rơi tôi trên hoang đảo, tôi cũng không trách. Thế nhưng Ân cô nương thân bị trọng thương, sao cô lại còn hạ độc thủ? Thứ đàn bà lòng dạ ác độc như cô trên đời này thật ít có.

Nói đến đây, bi phẫn không dằn nổi, chàng liền tiến lên một bước xoạc cẳng xuống tấn tát cho nàng bốn cái liền. Triệu Mẫn làm sao tránh nổi chưởng của Trương Vô Kỵ? Chỉ nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật kêu, hai má nàng sưng vù lên ngay. Triệu Mẫn vừa đau vừa tức, nước mắt chảy ròng ròng, nghẹn ngào nói:

- Anh bảo tôi ăn cắp kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long, có ai thấy không? Ai bảo là tôi hạ độc thủ với Ân cô nương, anh bảo người ấy ra đối chất với tôi xem nào.

Trương Vô Kỵ càng thêm cáu tiết, lớn tiếng nói:

- Được, để tôi cho cô xuống dưới âm phủ đối chất với cô ta.

Chàng vung tay trái, câu tay phải bóp cổ nàng, hai tay sử kình, Triệu Mẫn không thở được, giơ ngón tay đâm vào ngực chàng. Thế nhưng chỉ đó như trúng phải bông gòn, kình lực mất tiêu chẳng thấy tăm hơi, trong giây lát mặt nàng tím bầm ngất đi không còn biết gì nữa.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến mối thù của Ân Ly, đã toan giết Triệu Mẫn cho hả giận nhưng khi thấy nàng như thế, trong lòng không nỡ nên bỏ hai tay ra. Triệu Mẫn ngã ngửa về sau, nghe bộp một tiếng đầu đã va vào thềm đá của đại điện. Một lúc sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, thấy Trương Vô Kỵ đang chăm chăm nhìn mình, đầy vẻ lo lắng, đến khi nàng mở mắt ra, bấy giờ mới thở phào một tiếng. Triệu Mẫn hỏi:

- Anh bảo Ân cô nương chết rồi ư?

Trương Vô Kỵ lại nổi cơn tam bành, quát lớn:

- Bị cô chém bảy tám nhát kiếm, cô ta ... cô ta còn sống được hay sao?

Triệu Mẫn run run giọng:

- Ai ... ai bảo là tôi chém cô ta bảy tám nhát kiếm? Có phải Chu cô nương nói đó không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chu cô nương đâu có nói xấu sau lưng người khác, cô ta không chính mắt trông thấy, lẽ nào lại vu hãm cho cô.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy thì do chính Ân cô nương nói chăng?

Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:

- Ân cô nương làm sao mà nói được. Trên hoang đảo chỉ có năm người, không lẽ do nghĩa phụ chém hay sao? Hay là tôi? Hay là Ân cô nương tự mình chém mình? Hừ, tôi biết bụng dạ cô, cô sợ tôi cùng biểu muội thành vợ thành chồng nên mới giở trò, ra tay hạ thủ. Để tôi nói cho cô hay, cô ấy chết cũng thế mà sống cũng thế, tôi vẫn coi nàng là vợ tôi.

Triệu Mẫn cúi đầu không nói gì, trầm ngâm một hồi, hỏi thêm:

- Thế làm sao anh về được Trung Nguyên?

Trương Vô Kỵ cười nhạt:

- Đó cũng là nhờ lòng tốt của cô, phái thủy sư đem thuyền đến đảo đón tôi về, cũng may nghĩa phụ tôi không phải loại người khờ khạo thực thà như tôi nên mới không mắc kế của cô. Cô sai pháo thuyền chờ nơi cửa biển định bắn chìm thuyền chở tôi về chỉ phí công toi thôi.

Triệu Mẫn lấy tay xoa xoa chỗ má bị sưng, u uẩn nhìn chàng một hồi lâu, mắt lộ vẻ thương yêu, thở dài một tiếng. Trương Vô Kỵ sợ mình động tâm, bị sắc đẹp và nhu tình của nàng quyến rũ, vội quay đầu sang chỗ khác. Chàng đột nhiên dậm chân nói:

- Tôi đã từng thề sẽ báo thù cho biểu muội nhưng tôi nhút nhát vô dụng, hôm nay không ra tay được. Cô tác ác đa đoan, thể nào cũng có lúc gặp phải tay tôi.

Nói xong chàng hầm hầm đi ra khỏi miếu. Đi được mươi trượng, Triệu Mẫn bỗng chạy đuổi theo kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, anh đi đâu thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chuyện đó có liên quan gì đến cô đâu?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi có điều muốn hỏi Tạ đại hiệp và Chu cô nương, nhờ anh đưa tôi đến gặp họ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi ra tay không có nể nang gì đâu, bộ cô muốn chết hay sao?

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Nghĩa phụ anh tuy tàn ác độc địa thực nhưng đâu có hồ đồ như anh. Hơn nữa, nếu Tạ đại hiệp giết tôi thì anh cũng báo được thù cho biểu muội, có phải là thỏa nguyện hay không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi hồ đồ chỗ nào? Tôi không muốn cô gặp nghĩa phụ tôi.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Gã tiểu tử Trương Vô Kỵ hồ đồ kia ơi, anh trong bụng không bỏ tôi được, nên không muốn tôi bị Tạ đại hiệp giết chứ gì, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ bị nàng nói trúng tim đen, mặt đỏ lên, quát lớn:

- Cô đừng có lằng nhằng nữa. Cô làm ác rồi thể nào cũng gặp ác, tốt hơn hết là tránh tôi cho xa, để tôi khỏi cầm lòng không nổi mà ra tay giết cô.

Triệu Mẫn khoan thai tiến lại gần, nói:

- Tôi có mấy câu không thể không hỏi Tạ đại hiệp và Chu cô nương cho rõ ràng. Tôi không muốn nói xấu người khác ở sau lưng, nhưng trước mặt thì sẽ nói rõ tất cả.

Trương Vô Kỵ bỗng nổi lòng hiếu kỳ, hỏi lại:

- Thế cô muốn hỏi họ chuyện gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Đến lúc đó anh khắc biết. Tôi không sợ nguy hiểm, anh có gì mà sợ?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

- Vậy là chính cô đòi đi, nếu như nghĩa phụ tôi hạ độc thủ, tôi cũng cứu không nổi đâu.

Triệu Mẫn nói chắc nịch:

- Tôi không cần anh phải lo cho tôi.

Trương Vô Kỵ bực dọc nói:

- Lo cho cô? Tôi còn mong cho cô chết là khác.

Triệu Mẫn cười:

- Thế sao anh không động thủ đi.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, không thèm nói nữa, rảo bước đi về hướng phố chợ, Triệu Mẫn lẽo đẽo theo sau. Hai người đến thị trấn rồi, Trương Vô Kỵ ngừng lại quay đầu nói:

- Triệu cô nương, tôi đã nhận lời cô sẽ làm cho cô ba chuyện. Việc thứ nhất là đi kiếm thanh đao Đồ Long, coi như xong rồi. Còn hai chuyện nữa chưa làm xong, nếu cô gặp nghĩa phụ tôi, thể nào cô cũng chết. Vậy cô cứ đi đi, chừng nào tôi làm cho cô xong nốt hai chuyện nữa, lúc đó cô gặp nghĩa phụ tôi cũng chưa muộn.

Triệu Mẫn điềm nhiên mỉm cười, nói:

- Anh cố tìm lý do để cho tôi khỏi bị giết, tôi biết ngay là anh bỏ tôi không nổi mà.

Trương Vô Kỵ lại nổi giận:

- Dẫu cho tôi không nỡ xuống tay thì đã sao?

Triệu Mẫn nói:

- Thì tôi vui sướng lắm. Tôi trước nay vẫn không biết anh có thực lòng với tôi không, bây giờ thì biết rồi.

Trương Vô Kỵ thở hắt ra nói:

- Triệu cô nương, tôi van cô, cô đi chỗ khác đi.

Triệu Mẫn cương quyết lắc đầu:

- Tôi nhất định phải gặp Tạ đại hiệp.

Trương Vô Kỵ không còn cách nào hơn, đành phải đi đến khách điếm, đến trước phòng của Tạ Tốn, đứng ngoài gõ hai tiếng, gọi:

- Nghĩa phụ!

Miệng thì gọi nhưng chàng liền đứng chắn trước mặt Triệu Mẫn. Chàng gọi hai lần không thấy bên trong có tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ đẩy cửa, thấy cửa vẫn đóng chặt, trong bụng khởi nghi, nghĩ thầm tai nghĩa phụ thính như thế, mình vừa đến đây thì ông có đang ngủ cũng đã thức rồi, nếu đã đi ra ngoài thì cửa phòng sao vẫn còn đóng?

Chàng dùng tay đẩy nhẹ, nghe cách một tiếng, then cửa đã gãy rời, cửa phòng mở tung ra, quả nhiên không có Tạ Tốn ở bên trong. Thế nhưng một cánh cửa sổ hé mở, ắt hẳn ông ta theo đó mà ra. Chàng lại chạy đến phòng Chu Chỉ Nhược, kêu lên hai tiếng:

- Chỉ Nhược.

Cũng không nghe tiếng đáp lại, đẩy cửa vào cũng không thấy nàng đâu, trên giường quần áo vẫn còn xếp ngay ngắn. Trương Vô Kỵ kinh nghi bất định: ?Không lẽ gặp phải địch nhân??. Chàng gọi người hầu phòng đến hỏi, gã đó nói không thấy hai người đi ra, cũng không nghe thấy tiếng cãi cọ đánh nhau. Trương Vô Kỵ cảm thấy yên tâm tự nhủ: ?Chắc hai người nghe thấy tiếng gì lạ nên chạy đuổi theo tung tích kẻ địch?. Lại nghĩ tuy Tạ Tốn mắt mù nhưng võ công cao cường, trên đời ít ai địch lại, huống chi lại có Chu Chỉ Nhược là người tinh tế cẩn thận đi theo, chắc không có chuyện gì. Chàng theo cửa sổ của Tạ Tốn nhảy ra ngoài, xem xét chung quanh, không có gì lạ, lại quay trở về phòng.

Triệu Mẫn nói:

- Anh không kiếm thấy Tạ đại hiệp, sao mặt lại có vẻ như hí hửng lắm là sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Lại nói lăng nói nhăng, tôi hí hửng bao giờ?

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Thế anh tưởng tôi không nhìn thấy mặt anh hay sao? Anh vừa đẩy cửa phòng vào, hơi băn khoăn một tí, rồi lập tức mặt liền dãn ra.

Trương Vô Kỵ không nhìn đến cô ta, ra ngồi tựa vào chiếc giường. Triệu Mẫn mủm mỉm cười ngồi xuống ghế nói:

- Tôi biết anh sợ Tạ đại hiệp giết tôi, may quá ông ta không có nhà, khỏi thêm phiền phức. Tôi biết anh không thể nào bỏ rơi tôi được.

Trương Vô Kỵ lại nổi cọc:

- Không bỏ được cô thì đã sao?

Triệu Mẫn cười nói:

- Thì tôi vui sướng lắm chứ sao.

Trương Vô Kỵ hậm hực nói:

- Thế sao cô năm lần bảy lượt cứ hại tôi mãi? Thế cô có bỏ tôi được không?

Khuôn mặt hoa da phấn của Triệu Mẫn đột nhiên đỏ lên, nói nhỏ:

- Đúng thế, lúc đầu quả tôi có muốn giết anh, nhưng từ hôm gặp nhau ở Lục Liễu Sơn Trang rồi, nếu tôi còn có bụng hại anh thì trời tru đất diệt Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ này, chết đi rơi vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp chẳng được siêu sinh.

Trương Vô Kỵ nghe thấy nàng thề thốt nặng lời như thế liền nói:

- Thế cớ sao chỉ vì một thanh đao, một thanh kiếm mà cô nỡ bỏ tôi lại nơi hoang đảo?

Triệu Mẫn nói:

- Nếu anh đã nghĩ như thế, dù tôi có một trăm cái mồm cũng không thể nào biện giải được, chỉ còn nước đợi Tạ đại hiệp và Chu cô nương về, bốn người mình đối chất cho rõ ràng.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô mồm miệng hoa ngôn xảo ngữ, lừa là lừa được tôi, chứ làm sao lừa nổi nghĩa phụ tôi và Chu cô nương.

Triệu Mẫn cười:

- Thế sao anh lại chịu để cho tôi đánh lừa? Chính vì trong lòng anh cũng thích tôi, có phải thế không?

Trương Vô Kỵ hậm hực:

- Thích thì đã sao?

Triệu Mẫn nói:

- Thì tôi vui sướng chứ sao nữa?

Trương Vô Kỵ thấy nàng cười tươi như bông hoa, khiến ai nhìn thấy cũng phải chạnh lòng, nàng lại vừa mới bị mình tát cho mấy cái mặt sưng lên trông càng đáng thương nên phải quay đầu sang chỗ khác không dám nhìn lâu. Triệu Mẫn nói:

- Mình ở trong cái miếu đó một hồi lâu, bụng đói thật.

Nàng liền gọi điếm tiểu nhị, đưa ra một đĩnh vàng nhỏ, bảo y dọn một mâm cỗ thượng hạng đem lên. Tên bồi bàn luôn mồm vâng dạ, liền mang lên trái cây đồ điểm tâm, rồi một lát sau mang thêm rượu thịt. Trương Vô Kỵ nói:

- Mình đợi nghĩa phụ về rồi ăn luôn thể.

Triệu Mẫn nói:

- Tạ đại hiệp đến đây thì mạng tôi chắc gì còn, chi bằng ăn trước cho no, xuống âm khỏi thành ma đói ma khát.

Trương Vô Kỵ thấy nàng tuy nói thế nhưng thần tình cử chỉ dường như đã có chủ định không tỏ vẻ gì sợ hãi. Triệu Mẫn lại nói:

- Tôi trong túi có tiền đây, để bảo điếm tiểu nhị làm một mâm tiệc rượu.

Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:

- Tôi chẳng dám ăn uống gì với cô nữa đâu, biết lúc nào cô lại bỏ Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào.

Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:

- Anh chẳng ăn thì thôi để khỏi bị tôi bỏ thuốc độc cho chết.

Nói xong nàng ngồi ăn một mình. Trương Vô Kỵ bảo tiểu nhị mang lên mấy chiếc bánh bao, tự mình ngồi riêng một góc ở xa xa trên giường ăn ngốn ngấu. Trên mâm của Triệu Mẫn nào gà quay, dê nướng, cá chiên, rau cỏ thật nhiều món ngon lành, nàng ăn một hồi bỗng nước mắt chảy ròng ròng rơi cả xuống bát đang ăn, gượng ăn mấy miếng rồi quăng đũa bát xuống, gục xuống bàn rấm rứt khóc.

Nàng khóc một hồi lâu, giơ tay gạt lệ, dường như trong lòng nhẹ nhõm đi nhiều, nhìn vọng ra cửa sổ nói:

- Chỉ thêm một giờ nữa là trời tối rồi, không biết gã Hàn Lâm Nhi kia bị đưa đi phương nào, nếu như mất tung tích thì thật khó mà giải cứu.

Trương Vô Kỵ chột dạ, đứng bật dậy nói:

- Đúng vậy, tôi phải đi cứu Hàn Lâm Nhi trước.

Triệu Mẫn nói:

- Rõ không biết xấu, có ai nói chuyện với anh mà cũng tiếp lời.

Trương Vô Kỵ thấy nàng khi giận khi thẹn, khi vui khi buồn, trong lòng chàng không khỏi vừa bực vừa yêu, không biết thế nào cho phải, vội vàng trệu trạo ăn cho xong mấy chiếc bánh bao rồi chạy ra ngoài. Triệu Mẫn nói:

- Để tôi đi với anh.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi không cần cô đi theo tôi.

Triệu Mẫn hỏi:

- Sao vậy?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô giết chết biểu muội tôi, không lẽ tôi lại đi chung với kẻ thù?

Triệu Mẫn nói:

- Được rồi, thì anh đi một mình.

Trương Vô Kỵ chạy ra đến cửa, bỗng quay lại hỏi:

- Cô ở đây làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Tôi chờ nghĩa phụ anh về, nói cho ông ấy biết anh đã đi cứu Hàn Lâm Nhi rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi ghét kẻ ác như quân thù, lẽ nào để cho cô sống sót?

Triệu Mẫn thở dài một tiếng:

- Cái số tôi thế đành chịu, biết làm thế nào?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi nói:

- Cô nên tránh ra chỗ khác đi, đợi tôi quay về rồi hãy hay.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Tôi biết tránh đi đâu bây giờ.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thôi được, cô đi theo tôi cứu Hàn Lâm Nhi, rồi sau sẽ quay về đối chất.

Triệu Mẫn cười:

- Cái đó là anh rủ tôi đi, chứ không phải tôi nèo nẹo đòi đi đâu nhé.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô đúng là ám quẻ tôi, gặp cô thật là xui xẻo không để đâu cho hết.

Triệu Mẫn thản nhiên cười nói:

- Anh đợi tôi một lát.

Nói xong nàng thuận tay đóng cửa phòng lại. Qua một lúc sau, Triệu Mẫn mở cửa phòng ra, nàng đã thay đổi y phục phụ nữ, áo điêu chùm đầu, áo khoác bằng gấm đỏ, ăn mặc cực kỳ sang trọng. Trương Vô Kỵ không ngờ nào lại đem trong bọc những món quần áo sang trọng đến thế, nghĩ thầm: ?Cô gái này thật là mưu mô, hành sự thật không biết đâu mà lường?. Triệu Mẫn nói:

- Sao anh ngơ ngẩn nhìn tôi là sao? Tôi mặc thế này anh thấy có đẹp không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Mặt thì đẹp như hoa, lòng thì như rắn rết.

Triệu Mẫn cười khanh khách nói:

- Đa tạ Trương đại giáo chủ đã ban cho tiện nữ mấy chữ đó. Trương giáo chủ, ngài cũng nên đi thay quần áo khác cho đẹp đi thôi.

Trương Vô Kỵ phật ý nói:

- Tôi từ bé ăn mặc rách rưới đã quen, nếu cô hiềm quần áo tôi lam lũ thì chẳng cần phải đi với tôi làm gì.

Triệu Mẫn đáp:

- Anh đừng có nghĩ quấy, tôi chỉ muốn xem anh mặc quần áo đẹp xem anh ra thế nào thôi. Anh ở đây chờ một lát, tôi chạy đi mua quần áo cho anh. Cũng may là bọn ăn mày kia đi theo đường lớn để vào cửa ải, mình chỉ cần đi nhanh một tí không sợ đuổi theo không kịp.

Nàng không đợi chàng trả lời, đi thẳng ra cửa. Trương Vô Kỵ ngồi trên giường, tự trách mình sao không đủ cứng cỏi, cứ để cho cô gái này vầy vò, rõ ràng nàng là kẻ hại người em họ mình, vậy mà bây giờ cùng cô ta cười cười nói nói. Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, ngươi còn kể là nam tử hán đại trượng phu sao được? Còn mặt mũi nào mà làm giáo chủ Minh giáo, hiệu lệnh quần hùng?

Chàng đợi một lúc lâu không thấy Triệu Mẫn quay về, nhìn ra trời đã sâm sẩm tối, nghĩ thầm: ?Việc gì mình phải đợi cô ta? Cứ một mình đi cứu Hàn Lâm Nhi thì đã sao nào?. Thế nhưng vừa tới đó chàng lại hình dung ngay ra một cảnh tượng nàng đi mua quần áo về gặp phải Tạ Tốn đánh cho một chưởng ngay thiên linh cái, vỡ đầu nát óc chết lăn ra, quần áo tung tóe, liền chột dạ. Chàng đứng lên ngồi xuống, nghĩ ngợi gần xa, mãi đến khi nghe tiếng chân uyển chuyển, hương thơm phà vào mũi, Triệu Mẫn ôm hai bọc quần áo đi vào phòng. Trương Vô Kỵ nói:

- Đợi cô lâu quá, thôi không cần thay quần áo nữa, mau đuổi theo kẻ địch cho rồi.

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Đã đợi được bấy lâu, có gì không thêm được một chút để thay quần áo. Tôi cũng đã mua thêm hai con ngựa, mình sẽ đi suốt đêm đuổi theo.

Nàng nói rồi cởi cái bọc ra, lấy từng món quần áo giày vớ nói:

- Nơi địa phương nhỏ chẳng có gì đáng mua, anh mặc tạm, bao giờ đến Đại Đô sẽ mua thêm chiếc áo cừu khoác ngoài.

Trương Vô Kỵ thảng thốt, nghiêm mặt nói:

- Triệu cô nương, cô đừng bao giờ nghĩ tới chuyện tôi tham đồ phú quí, qui hàng triều đình. Trương Vô Kỵ này đường đường con cháu nhà Đại Hán, dù cho cắt đất phong vương, cũng nhất quyết không đầu hàng Mông Cổ.

Triệu Mẫn thở dài nói:

- Trương đại giáo chủ, ông thử xem đây là quần áo người Mông hay là quần áo người Hán?

Nàng vừa nói vừa đưa ra một chiếc trường bào màu xám. Trương Vô Kỵ thấy những món nàng mua đều là phục sức Hán nhân, liền gật đầu. Triệu Mẫn lại quay người lại nói:

- Anh xem tôi có tí gì giống một quận chúa Mông Cổ chăng? Hay chỉ là một người con gái Hán nhân tầm thường?

Trương Vô Kỵ thấy trong lòng bàng hoàng, trước đây chỉ nghĩ nàng quần áo sang trọng, có nghĩ gì đến Mông ? Hán khác biệt đâu, lúc này nghe nàng nói đến mới nhìn kỹ lại thấy nàng hoàn toàn ăn mặc như một cô gái người Hoa. Chàng thấy nàng hai má ửng hồng, trong ánh mắt long lanh đầy vẻ thiết tha, trong một giây thôi trong đầu chàng bừng lên hiểu ngay dụng ý của nàng, ấp úng nói:

- Cô ... cô ...

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Trong lòng chàng không thể nào quên được em, em sao lại chẳng biết? Chàng là người Hán hay người Nguyên, đối với em thì cũng thế. Chàng là người Hán, em cũng là người Hán, chàng là người Mông, em cũng là người Mông. Trong lòng chàng nghĩ ngợi bao nhiêu điều quân quốc đại sự nên phân biệt kẻ Hoa người Di, canh cánh chuyện quyền thế uy danh, hưng vong được mất. Còn em ư? Vô Kỵ ca ca, trong lòng em chỉ có một điều, đó là chàng mà thôi. Chàng là người tốt hay là người xấu, đối với em thật cũng chẳng khác chút nào.

Trương Vô Kỵ mủi lòng, nghe nàng nói lên tâm sự vô cùng trìu mến đó, không khỏi ý loạn tình mê, lặng đi một lúc sau mới hỏi:

- Cô hại biểu muội phải chăng vì sợ tôi lấy cô ta làm vợ chăng?

Triệu Mẫn lớn tiếng đáp:

- Người hại Ân cô nương không phải là em. Anh tin cũng được, không tin cũng được, em chỉ có một câu đó mà thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

- Triệu cô nương, em đối với tôi một mối chân tình, tôi đâu phải gỗ đá gì mà không cảm kích? Thế nhưng đến ngày hôm nay, sự thế đã vậy rồi, em nỡ nào còn lừa dối tôi?

Triệu Mẫn nói:

- Em từ xưa đến nay vẫn cho rằng mình thông minh trí tuệ, nên chuyện gì cũng chiếm phần hơn, đâu có ngờ nhiều chuyện không tính trước được. Vô Kỵ ca ca, hôm nay mình không đi nữa, anh ở nơi đây đợi Tạ đại hiệp, còn em đến phòng Chu cô nương đợi cô ta.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Để làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh đừng hỏi tại sao. Chuyện Hàn Lâm Nhi anh khỏi phải lo, em đảm bảo sẽ cứu anh ta về là xong.

Nói xong nàng quay lưng đi ra ngoài, sang bên phòng của Chu Chỉ Nhược đóng cửa lại. Trương Vô Kỵ nhất thời chưa biết nàng toan tính chuyện gì, bèn nằm tựa trên giường cố gắng suy nghĩ, đột nhiên nghĩ ra một việc: ?Hay là nàng ta biết được ta với Chỉ Nhược đã có đính ước hôn nhân nên giết một mình biểu muội ta chưa đủ nên toan tính giết luôn cả Chỉ Nhược? Không lẽ Huyền Minh nhị lão rời khỏi miếu Di Lặc liền tới đây ám toán nghĩa phụ ta và Chỉ Nhược rồi?? Chàng nghĩ đến Huyền Minh nhị lão, trong lòng không khỏi kinh hãi, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông hai người võ công quá cao siêu, Tạ Tốn dẫu cho mắt chưa bị mù cũng không chắc địch lại được một trong hai lão già này.

Chàng liền nhỏm dậy, chạy đến ngoài phòng Triệu Mẫn hỏi:

- Triệu cô nương, Huyền Minh nhị lão thủ hạ của cô đi đâu rồi?

Triệu Mẫn từ bên trong nói vọng ra:

- Hai người đó chắc đoán là tôi thoát thân rồi sẽ trở về quan nội nên chạy đuổi theo lối đó.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Cô nói có thật không đó?

Triệu Mẫn cười khẩy đáp:

- Nếu anh không tin lời tôi thì còn hỏi làm gì?

Trương Vô Kỵ không còn biết trả lời sao, đứng ngơ ngẩn ở bên ngoài. Triệu Mẫn nói:

- Ví như tôi nói với anh là tôi đã sai Huyền Minh nhị lão hai người đến khách điếm này giết chết Tạ đại hiệp và người yêu của anh là Chu cô nương thì anh có tin không?

Câu nói đó đúng ngay ý niệm kinh khủng nhất trong lòng Vô Kỵ, chàng liều giơ chân đá tung cánh cửa ra, trên trán gân xanh nổi lên, run run nói:

- Cô ? cô ?

Triệu Mẫn thấy chàng điệu bộ như thế, trong lòng cũng thấy sợ hãi, đâm ra hối hận là đã thốt lên câu đó, vội nói:

- Tôi dọa anh chơi đó, không có chuyện đó đâu, anh đừng coi là thật.

Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn nàng, chậm rãi hỏi lại:

- Cô không sợ đến khách điếm này gặp nghĩa phụ tôi, mồm năm miệng mười đòi đối chất với ông ta, phải chăng cô biết chắc hai người không còn nơi dương thế nữa?

Chàng vừa nói vừa tiến lại gần, đứng cách nàng chừng ba thước, chỉ việc giơ tay lên đánh ra một chưởng là Triệu Mẫn sẽ chết ngay. Triệu Mẫn nhìn thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, nghiêm mặt nói:

- Trương Vô Kỵ, tôi nói với anh, ở trên đời này trừ khi chính mắt trông thấy, chứ đừng có nghe người ngoài nói ra nói vào, cũng đừng có nghĩ ngợi lung tung. Anh muốn giết tôi thì cứ việc ra tay, nhưng khi nghĩa phụ anh về lại đây rồi thì lòng dạ anh lúc ấy sẽ ra thế nào?

Trương Vô Kỵ định thần, trong lòng hơi sượng sùng nói:

- Chỉ cần nghĩa phụ tôi bình an vô sự thì quả thật là may mắn lắm rồi. Chuyện sinh tử an nguy của cha nuôi tôi, cô không được đem ra làm trò đùa.

Triệu Mẫn gật đầu nói:

- Đúng ra tôi không nên nói câu đó, lỗi về phần tôi, mong anh đừng trách.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nhỏ nhẹ nhận sai, lòng thấy dịu lại, mỉm cười đáp:

- Tôi quả cũng có hơi lỗ mãng đắc tội với cô.

Nói xong chàng quay về phòng Tạ Tốn. Hai người đợi cả đêm đến tận sáng hôm sau vẫn không thấy Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược trở lại, Trương Vô Kỵ lại bắt đầu lo, ăn qua quít vài thứ lót dạ rồi bàn với Triệu Mẫn tự hỏi không biết hai người ấy đi đâu. Triệu Mẫn nhíu mày đáp:

- Chuyện này kể cũng khác thường. Chi bằng mình chạy đuổi theo bọn Sử Hỏa Long tìm cách thám thính xem thế nào!

Trương Vô Kỵ gật đầu nói:

- Chỉ còn cách đó thôi.

Sau đó hai người tính toán tiền nong thuê phòng trả cho chưởng quĩ, dặn là nếu như Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược trở lại thì bảo họ chờ nơi khách điếm. Hầu phòng bèn dẫn lại hai con ngựa màu vàng thóc, Trương Vô Kỵ thấy hai con ngựa lông bóng mượt, thân khỏe chân dài, quả thực là lương câu danh quí, không khỏi tấm tắc khen ngợi, chắc hẳn là ngựa nàng dùng để đuổi theo bọn Cái Bang , đêm qua đi ra ngoài mua quần áo liền đến dắt về. Triệu Mẫn mỉm cười, nhảy phắt lên một con. Hai con ngựa song song chạy ra khỏi thị trấn, theo hướng nam thẳng tiến. Người ngoài nhìn thấy hai con tuấn mã rong ruổi như hai con rồng, trên lưng lại là hai người ăn mặc sang cả, tướng mạo tuấn mỹ, đều tưởng là một cặp vợ chồng trẻ con cái nhà quan ra ngoài du ngoạn.

Hai người chạy suốt một ngày đi đến hơn hai trăm dặm, nghỉ lại trên đường một đêm, sáng hôm sau lại đi tiếp.

Hôm đó chạy đến khoảng trưa, thấy gió bấc thổi từ sau lưng, trời âm u, mây đen như muốn ép từ trên đỉnh đầu xuống, cố chạy thêm hai chục dặm nữa thì tuyết lông ngỗng lả tả bay. Trên đường đi Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn thật ít nói chuyện, thấy tuyết đổ mỗi lúc một dày không nói một lời giục ngựa chạy cho nhanh. Hôm đó hai người đi qua một vùng thật hoang vắng, chỉ toàn núi non, tuyết đến gần một thước, hai con ngựa dẫu là thần tuấn cũng không chịu nổi.

Trương Vô Kỵ thấy trời mỗi lúc một tối dần, tung mình nhảy lên đứng trên yên, quan sát bốn bề, chẳng thấy nhà cửa khói lửa gì, trong bụng chần chừ nói:

- Triệu cô nương, cô nghĩ phải làm sao đây? Nếu mình tiếp tục đi e rằng hai con vật chịu không nổi.

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Anh chỉ biết đến con vật chịu không nổi mà có biết con người sống chết ra sao đâu?

Trương Vô Kỵ thấy sượng sùng, nghĩ thầm: ?Ta trong người có Cửu Dương thần công nên không thấy mệt mỏi lạnh lẽo, cứ lo gấp rút chuyện cứu người nên đâu có ngó ngàng gì đến nàng?. Hai người chạy thêm một quãng nữa, bỗng nghe có tiếng sột soạt, một con hoẵng từ bên phía trái chạy vụt qua đường, vọt thẳng vào trong núi. Trương Vô Kỵ nói:

- Để tôi bắt nó về ăn tối.

Chàng vừa nói vừa nhảy ra khỏi yên ngựa, theo vết chân con nai để lại trên tuyết rượt theo. Vòng qua một triền núi, dưới ánh sáng mông lung thấy con nai đó toan chạy vào một cái hang. Chàng không để con vật chui vào liền đề khí, nhào tới như một mũi tên bắn, đã nắm ngay được cổ nó. Con cheo liền quay đầu lại cắn vào tay chàng nhưng Trương Vô Kỵ đã sử kình bóp một cái, nghe lách cách, con vật đã gãy cổ chết ngay. Chàng thấy cái hang đó không lớn lắm nhưng cũng tạm đủ cho hai người dung thân, nên liền xách con hoẵng lên, quay lại bên cạnh Triệu Mẫn nói:

- Bên kia có một cái hang, mình tạm ở đó qua đêm, cô nghĩ sao?

Triệu Mẫn gật đầu, đột nhiên má đỏ bừng, quay đầu qua, giục ngựa đi tới. Trương Vô Kỵ dắt hai con ngựa lên trên sườn núi buộc vào dưới gốc hai cây tùng để tránh tuyết rồi đi kiếm củi khô, đốt một đống lửa ở trong hang. Cái hang đó cũng khô ráo, không có phân thú hay thứ gì dơ dáy, nhìn vào trong thấy tối om om chẳng biết đến tận đâu. Trương Vô Kỵ lột da con hoẵng, cắt ra dùng tuyết lau cho sạch sẽ, nướng trên đống lửa. Triệu Mẫn cũng cởi áo cừu, trải xuống đất. Lửa cháy bừng bừng cái hang ấm áp chẳng khác gì một phòng xuân.

Trương Vô Kỵ ngẫu nhiên quay đầu lại, thấy ánh lửa lúc sáng lúc tối, chiếu lên khuôn mặt nàng càng thêm kiều diễm. Hai người nhìn nhau cười khúc khích, bao nhiêu mệt mỏi đói rét của một ngày theo tiếng cười tiêu tan cả.

Thịt nai chín rồi, hai người mỗi người cầm một đùi ăn. Trương Vô Kỵ cho thêm củi vào đống lửa, ngồi dựa vào vách đá hỏi:

- Đi ngủ chưa?

Triệu Mẫn mỉm cười, ngả lưng vào một bên hang, nhắm mắt lại. Trương Vô Kỵ mũi ngửi thấy mùi thơm từ người nàng tỏa ra, thấy nàng hai má hây hây, thực chỉ muốn ghé miệng hôn một cái nhưng lập tức cố dằn lòng nhắm mắt ngủ.

Hai người ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa vọng lại, Trương Vô Kỵ giật mình choàng dậy, lắng tai nghe, thấy có bốn con ngựa từ hướng nam chạy lên hướng bắc. Chàng thấy bên ngoài tuyết vẫn đang rơi, nghĩ thầm: ?Đêm khuya tuyết đang đổ, xông pha lạnh lẽo mà đi, hẳn những người này có việc gấp gáp lắm?.

Tiếng vó ngựa đến gần bỗng dưng ngừng lại, một lúc sau, tiếng chân ngựa thấy gần hơn đúng là họ đang tiến về phía sơn động. Trương Vô Kỵ chột dạ nghĩ thầm: ?Cái hang này ở phía sau núi, nếu như con hoẵng không chạy vào đây mình cũng không thể nào tìm thấy, sao lại có người biết mà tìm vào??. Thế nhưng chàng hiểu ngay ra: ?Đúng rồi! Mình đi trên tuyết để lại dấu chân, tuy cả đêm qua tuyết đổ xuống nhưng vẫn chưa hết vết tích?.

Lúc này Triệu Mẫn cũng đã tỉnh dậy rồi, nói nhỏ:

- Người đến đây là kẻ địch không chừng, mình nên tránh đi xem họ là ai.

Nàng nói rồi bốc tuyết bên ngoài động dập tắt đống lửa. Lúc này tiếng chân ngựa cũng đã ngừng lại, nghe tiếng bốn người đạp tuyết đi tới, chỉ trong giây lát đã đến chỉ còn cách cái hang chừng mươi trượng. Trương Vô Kỵ nói thầm:

- Bốn người này thân pháp cực nhanh nhẹn, là những cao thủ rất ghê gớm.

Nếu như hai người chạy ra ngoài để ẩn náu thể nào bốn người này cũng phát giác. Còn chưa biết tính sao, Triệu Mẫn đã cầm tay Trương Vô Kỵ dẫn vào trong hang. Sơn động đó càng vào càng nhỏ lại nhưng rất sâu, đi vào chừng hơn một trượng thì tới một khúc rẽ, bỗng nghe người bên ngoài nói:

- Ở đây có một cái hang.

Trương Vô Kỵ nghe tiếng người nói rất quen thuộc, chẳng ai khác mà là tứ sư bá Trương Tùng Khê, vừa mừng vừa sợ, lại nghe một tiếng người khác nói:

- Vết chân ngựa và dấu chân người đi vào trong hang này.

Người nói đó chính là Ân Lê Đình. Trương Vô Kỵ đang định lên tiếng gọi thì Triệu Mẫn đã giơ tay bịt miệng chàng lại, ghé tai nói nhỏ:

- Anh với em hai người ở chung một chỗ nơi đây, để họ thấy được e sẽ nghĩ không tốt về mình.

Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói quả không sai, Triệu Mẫn và mình tuy hai người hoàn toàn trong sạch nhưng một đôi nam nữ ngủ chung trong một sơn động, để cho sư bá sư thúc trông thấy, ai dám tin rằng hai người không có chuyện nọ điều kia? Huống chi Triệu Mẫn là quận chúa nhà Nguyên, đã từng bắt giam bọn Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình nơi chùa Vạn An, có nhiều điều nhục nhã, lúc này thấy mặt kẻ thù, quả thực hết sức bất tiện. Chàng nghĩ thầm: ?Thôi mình đợi cho bọn Trương tứ bá, Ân lục thúc đi khỏi rồi sẽ một mình đi ra gặp họ cho đỡ ngượng?.

Lại nghe tiếng Du Liên Châu nói:

- Ồ, ở đây còn có dấu đốt lửa nữa! Ơ, có thêm cả lông da và vết máu làm thịt hoẵng.

Lại thêm một người nữa nói:

- Sao ta nóng ruột quá, chỉ mong sao thất đệ bình an vô sự là tốt rồi.

Giọng nói chính là tiếng của Tống Viễn Kiều. Trương Vô Kỵ thấy tất cả bốn vị sư thúc sư bá Tống Du Trương Ân đều có mặt để đi tìm Mạc Thanh Cốc, nghe trong câu chuyện họ đang nói, dường như thất sư thúc gặp phải cường địch nên trong bụng chàng cũng băn khoăn. Lại nghe tiếng Trương Tùng Khê cười nói:

- Đại sư ca thương yêu thất sư đệ nên vẫn cứ tưởng như vẫn còn là một tiểu sư đệ năm nào, thực ra những năm gần đây tiếng tăm của Mạc thất hiệp rất là vang dội, đâu có phải như ngày xưa. Dù có gặp phải cường địch chăng nữa, một mình thất sư đệ cũng có thể đối phó được.

Ân Lê Đình nói:

- Tiểu đệ lại không lo cho thất đệ mà lo là lo cho thằng cháu Vô Kỵ không biết giờ này đang ở nơi nào. Nó hiện nay là giáo chủ Minh Giáo, cây cả gió to, không ít người có bụng muốn hại nó. Tuy Vô Kỵ võ công cao cường thật nhưng lại là người quá ư trung hậu, đâu có biết chuyện giang hồ phong ba hiểm ác, chỉ sợ lại rơi vào bẫy của kẻ gian thôi.

Trương Vô Kỵ thấy thật cảm động, nghĩ các vị sư bá sư thúc đãi mình ân tình sâu nặng như thế, lúc nào cũng nghĩ đến mình. Triệu Mẫn ghé miệng vào tai chàng nói nhỏ: ?Em là kẻ gian đó, anh đang rơi vào bẫy của em đây, có biết chưa??.

Lại nghe tiếng của Tống Viễn Kiều:

- Thất đệ đi lên miền bắc kiếm Vô Kỵ, dường như đã tìm ra được chút manh mối, có điều thất đệ để lại tám chữ nơi khách điếm ở Thiên Tân không đoán được ý nghĩa thế nào.

Trương Tùng Khê nói:

- Môn hộ hữu biến, cức tu thanh lý[1]. Không lẽ trong phái Võ Đương chúng ta lại có kẻ nào làm chuyện bại hoại xấu xa? Hay là thằng bé Vô Kỵ nhà ta ?

Ông nói đến đây liền ngừng lại, trong giọng nói đầy vẻ lo lắng. Ân Lê Đình nói:

- Thằng cháu Vô Kỵ quyết không thể nào làm chuyện gì bại hoại môn hộ, tiểu đệ chắc chắn là như thế.

Trương Tùng Khê nói:

- Ta sợ là sợ con yêu nữ Triệu Mẫn quá ư gian trá độc ác, còn Vô Kỵ trẻ tuổi khí huyết phương cương, bị rơi vào vòng mỹ sắc để rồi cũng như cha nó ngày xưa, đi đến thân bại danh liệt ?

Bốn người không nói thêm nữa, tất cả đều chép miệng thở dài. Lại nghe tiếng đánh lửa rồi tiếng củi kêu lách tách, lửa đã nhóm lên rồi. Ánh lửa chiếu vào sau động, tuy đã qua một khúc quanh nhưng Trương Vô Kỵ cũng lờ mờ nhìn thấy khuôn mặt Triệu Mẫn, thấy nàng dường như vừa giận vừa oán, có lẽ nghe Trương Tùng Khê nói nên bực mình. Trương Vô Kỵ trong lòng cũng hoảng hốt nghĩ thầm: ?Trương tứ bá nói điều đó cũng phải. Mẹ ta chẳng làm chi sai quấy mà đã làm cho cha ta phải nông nỗi đó. Còn Triệu cô nương này giết biểu muội ta, làm nhục thái sư phụ và các vị sư bá, sư thúc của ta, làm sao sánh với mẹ ta được??. Chàng nghĩ đến đây, tim đập thình thịch nghĩ tiếp: ?Nếu như để họ tìm thấy mình và Triệu cô nương ở đây, dẫu có tát sạch nước Hoàng Hà cũng không sao rửa sạch được tiếng oan này?.

Bỗng nghe Tống Viễn Kiều run run nói:

- Tứ đệ, trong bụng ta có một mối lo không tiện đề cập đến vì nói ra e có lỗi với ngũ đệ đã qua đời.

Trương Tùng Khê chậm rãi nói:

- Có phải đại ca e ngại rằng thằng cháu Vô Kỵ hạ độc thủ với thất đệ chứ gì?

Tống Viễn Kiều không trả lời, Trương Vô Kỵ tuy không thấy nhưng cũng đoán là ông gật đầu. Lại nghe Trương Tùng Khê nói:

- Thằng bé Vô Kỵ vốn tính tình đôn hậu, cứ lý mà nói quyết không thể nào làm chuyện ấy được. Tiểu đệ có lo là lo thất đệ tính khí quá ư nóng nảy, nếu ép Vô Kỵ quá đáng khiến y không thể vẹn cả đôi bề, lại thêm con yêu nữ Triệu Mẫn sắp đặt gian kế ở bên trong xúc xiểm dèm pha, khiến cho ? khiến cho ? ôi, lòng người biết sao mà lường, ở đời có biết bao nhiêu việc không tính trước được, xưa nay anh hùng khó mà qua được ải mỹ nhân, chỉ mong sao Vô Kỵ sớm biết dừng cương trước vực mà thôi.

Ân Lê Đình nói:

- Đại ca, tứ ca, hai vị có nói cũng chỉ đoán chừng, có khác gì người nước Kỷ lo chuyện trời sập? Thất đệ chắc chẳng gặp chuyện gì hung hiểm đâu.

Tống Viễn Kiều nói:

- Từ khi ta thấy thanh trường kiếm tùy thân của thất đệ, không khỏi thấp thỏm bồn chồn, đứng ngồi không yên.

Du Liên Châu nói:

- Chuyện đó quả thực không thể nào giải thích được. Người luyện võ chúng ta binh khí tùy thân đâu phải bạ đâu vứt đó, huống chi thanh kiếm này lại là do sư phụ ban cho, đúng là kiếm còn người còn, kiếm mất người ?

Ông nói đến chữ ?người? rồi lặng yên, không dám nói tiếp chữ ?mất?. Trương Vô Kỵ nghe nói Mạc Thanh Cốc bỏ lại thanh trường kiếm thầy cho, và các sư bá sư thúc quả có nghi mình dính vào, trong lòng vừa lo lắng, lại vừa đau khổ. Một lúc sau, loáng thoáng ngửi thấy bên trong hang dường như có mùi hôi, xem ra sơn động này sâu lắm có thể dã thú ở trong đó không chừng. Chàng e ngại bọn Tống Viễn Kiều phát giác, không dám thở mạnh, cầm tay Triệu Mẫn rón rén đi vào bên trong, lại e đụng phải đá nhô ra nên đưa một tay về trước dò đường. Chỉ mới đi được mấy bước, lại qua một khúc quẹo nữa, bỗng tay chàng đụng phải một vật gì mềm mềm dường như là một người nào đó.

Trương Vô Kỵ kinh hoảng, trong bụng thoáng ngay một ý nghĩ: ?Không cần biết người này là thù hay là bạn, chỉ cần y lên tiếng thôi là nhóm đại sư bá sẽ biết ngay?. Chàng vung tay ra điểm luôn năm chỗ huyệt đạo nơi ngực và bụng người kia, rồi tiện tay chộp luôn cổ tay kẻ nọ. Tay chàng chạm phải da thịt thấy lạnh ngắt, hóa ra người ấy chết từ bao giờ. Trương Vô Kỵ nhờ chút ánh sánh leo lắt từ bên ngoài chiếu vào, cố gắng nhìn khuôn mặt người đó, trong ánh sáng lờ mờ dường như cái thây ma này là thất sư thúc Mạc Thanh Cốc. Chàng hết sức kinh hoàng, không còn sợ bị nhóm Tống Viễn Kiều nhìn thấy, liền ôm ngay cái xác chạy ra ngoài mấy bước. Ánh sáng chiếu vào rõ hơn, nhìn thấy rõ ràng, chẳng phải Mạc sư thúc thì còn ai vào đây?

Chàng thấy khuôn mặt ông ta hoàn toàn không còn chút máu, hai mắt mở trừng trừng, càng nhìn càng ghê rợn. Chàng vừa kinh hoàng vừa đau thương, chỉ còn biết đứng trân trân.

Chàng đi mấy bước đó, bọn Tống Viễn Kiều đã nghe thấy. Du Liên Châu quát lớn:

- Trong này có người.

Hàn quang lóe lên, cả bốn người trong Võ Đương tứ hiệp đều cùng rút phắt kiếm ra. Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm: ?Ta đang ôm xác của Mạc thất thúc trốn ở trong hang thế này, cái tội giết chú làm cách nào cũng không thể nào chạy cho thoát?. Chàng nhớ lại Mạc Thanh Cốc đối với chàng biết bao nhiêu là ân nghĩa, nay nhìn thấy ông ta chết thảm thế này, trong bụng vạn phần bi phẫn, trong đầu nảy ra biết bao nhiêu ý niệm nhưng không biết rồi khi anh em Tống Viễn Kiều tiến vào thì chàng phải làm cách nào để minh oan.

Thế nhưng đầu óc Triệu Mẫn nhanh hơn chàng nhiều, nhảy vọt tới, múa thanh trường kiếm xông thẳng ra ngoài, chát chát chát chát bốn kiếm liền, đều là chiêu số thí mạng của phái Nga Mi, chia ra đâm vào bốn người trong Võ Đương tứ hiệp. Bốn người giơ kiếm gạt ra thì Triệu Mẫn đã chạy được ra khỏi động, nhảy lên một trong những con ngựa của mấy người này, giơ kiếm đỡ ngược lại mũi kiếm Tống Viễn Kiều đâm tới, đồng thời thúc mạnh vào bụng ngựa. Con ngựa bị đau liền phóng mình lao tới.

Triệu Mẫn tưởng đã chạy thoát, ngờ đâu lưng đau nhói lên, mắt nổ đom đóm, dường như nghẹn thở, thì ra đã bị một phi chưởng của Du Liên Châu đánh trúng. Chỉ thấy Võ Đương tứ hiệp thi triển khinh công, rượt sát theo. Nàng trong bụng chỉ nghĩ: ?Ta càng chạy cho xa thì chàng càng dễ chạy thoát. Nếu không mối oan khiên này làm sao rửa được? Cũng may cả bốn người đều đuổi theo ta, không nghĩ rằng trong động còn có người khác?. Nàng thấy lưng đau đớn không sao chịu nổi, bèn giơ kiếm đâm vào sau mông con ngựa một cái, con ngựa liền hí lên một tiếng dài cắm đầu chạy thật nhanh.

Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn nhảy ra hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay cái kế Điệu Hổ Ly Sơn của nàng để cốt sao cứu được mình thoát thân, liền ôm cái xác Mạc Thanh Cốc chạy ra khỏi động. Chàng nghe thấy Triệu Mẫn và Võ Đương tứ hiệp chạy về hướng đông, bèn theo hướng tây mà trốn. Chạy đến hơn hai dặm chàng bèn đem cái xác dấu sau một tảng đá, quay trở lại bên đường tung mình nhảy lên một cây cao, một lúc lâu sau tim vẫn còn đập thình thịch, nghĩ đến cái chết thảm khốc của Mạc Thanh Cốc, không sao cầm được nước mắt, nghĩ thầm: ?Phái Võ Đương nhà ta không biết sao lại lắm nạn đến thế, không biết ai là kẻ sát hại thất sư thúc? Thất sư thúc sau lưng gân cốt đứt hết, trúng phải chưởng lực nội gia?.

Phải đến gần nửa giờ sau mới nghe tiếng ba con ngựa từ phía đông đi tới, dưới ánh tuyết sáng lóa, thấy Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu mỗi người cưỡi một con ngựa, còn Ân Lê Đình và Du Liên Châu hai người cưỡi chung một con. Bỗng nghe Du Liên Châu nói:

- Con yêu nữ đó lãnh một chưởng của đệ, cả người lẫn ngựa rơi xuống vực sâu, xem ra khó mà sống được.

Trương Tùng Khê nói:

- Hôm nay mình mới báo được mối nhục bị bắt giam ở chùa Vạn An quả cũng thỏa lòng. Có điều sao thị lại trốn ở trong cái hang đó, việc đời lạ kỳ quả thực không sao hiểu được.

Ân Lê Đình nói:

- Tứ ca thử đoán xem cô ta lấp la lấp ló ở trong cái hang đó là để làm gì?

Trương Tùng Khê đáp:

- Cái đó cũng thật là khó biết. Giết được con yêu nữ đó cũng chưa lấy gì làm thích thú, tìm thấy thất đệ mới thật là vui.

Bốn người càng lúc càng xa, những chuyện họ nói về sau không còn nghe thấy nữa. Trương Vô Kỵ đợi bọn Tống Viễn Kiều đi rồi, vội vàng nhảy từ trên cây xuống, theo đấu chân ngựa lưu lại trên mặt tuyết chạy về hướng đông, trong lòng hết sức bồn chồn, nghĩ thầm: ?Nàng tuy giảo trá nhưng lần này đúng là xả mệnh cứu ta. Nếu vì chuyện này mà nàng bỏ mạng, ta ? ta ??. Chàng càng chạy càng nhanh, trong chốc lát đã đi đến bốn năm dặm đến bên một cái mỏm núi. Trên mặt tuyết trắng còn vũng máu, dấu chân loạn xạ, bên cạnh vách núi bị lở sạt cả một khối đá lớn , hiển nhiên con ngựa Triệu Mẫn cưỡi chạy tới nơi đây, không còn đường chạy nên cả người lẫn vật đều rơi xuống vực.

Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Triệu cô nương, Triệu cô nương!

Chàng kêu lên bốn năm lần nhưng không hề nghe tiếng đáp lại, càng thêm lo lắng theo mỏm đá nhìn xuống, chỉ thấy một cái vực thật sâu, trong đêm tối không sao nhìn thấy dưới đáy như thế nào. Vách đá đó thẳng đứng, không có chỗ nào bám chân, Trương Vô Kỵ liền hít một hơi dài, thò hai chân xuống, mặt hướng về phía vách núi, tuột xuống. Chàng tụt được vài ba trượng, thế rơi càng lúc càng nhanh, liền vận kình vào mười ngón tay, chọc vào trong đám băng kết đông cứng trên sườn núi, đợi thân hình đứng hẳn lại cho tụt xuống nữa. Cứ như thế năm sáu lần thì đã đến đáy, thấy dưới chân mềm nhũn, vội nhảy ra ngoài, thì ra chàng đã đạp trúng phải bụng con ngựa. Còn Triệu Mẫn người vẫn chưa rời yên, hai tay vẫn còn ôm chặt cổ con vật.

Trương Vô Kỵ đưa tay thăm mũi nàng, thấy vẫn còn thở nhè nhẹ nhưng người thì đã ngất đi rồi. Chàng cũng hơi yên lòng, dưới đáy vực tối om, tuyết mùa đông đóng thật dày chưa tan, ngập đến tận lưng, xem ra vì Triệu Mẫn chưa rời yên ngựa nên bao nhiêu sức rơi con ngựa chịu hết, con vật bị chấn động chết ngay nhưng nàng chỉ bị hôn mê bất tỉnh. Trương Vô Kỵ vội vàng bắt mạch thấy nàng tuy bị thương không phải là nhẹ nhưng tính mệnh không đến nỗi nào, liền ôm nàng vào lòng, bốn bàn tay áp vào nhau, vận công chữa thương.

Chưởng Triệu Mẫn bị trúng phải vốn là bản môn công phu của phái Võ Đương nên việc chữa trị không mấy khó, chưa tới nửa giờ, nàng đã từ từ tỉnh lại. Trương Vô Kỵ đem Cửu Dương chân khí cuồn cuộn trút vào người nàng, lại thêm hơn nửa giờ nữa, trời đã mờ mờ sáng, Triệu Mẫn òa lên một tiếng, thổ ra một ngụm máu bầm, hỏi nhỏ:

- Họ đã đi chưa? Mấy người đó có thấy chàng không?

Trương Vô Kỵ thấy nàng quan tâm hơn cả là làm sao mình che đậy được không bị tiếng oan, trong lòng hết sức cảm kích nói:

- Họ không thấy tôi, em ? thật tội nghiệp cho em quá!

Chàng tuy nói nhưng Cửu Dương chân khí vẫn tiếp tục truyền vào. Triệu Mẫn khép mắt lại, tuy chân tay không có chút khí lực nào nhưng bụng ngực thấy ấm áp thật dễ chịu. Cửu Dương chân khí chạy luôn mấy vòng trong người nàng rồi, Triệu Mẫn quay lại cười nói:

- Anh nghỉ chút đi, em đỡ nhiều lắm rồi.

Trương Vô Kỵ vòng hai tay ôm lấy eo nàng, lấy má mình áp lên má Triệu Mẫn nói:

- Em cứu được thanh danh cho anh, so với cứu mười lần tính mạng còn nặng hơn nhiều.

Triệu Mẫn cười khúc khích nói:

- Em là con tiểu yêu nữ gian trá ác độc, thanh danh thì lại chẳng coi vào đâu, chỉ có tính mạng mới quan trọng thôi.

Vừa ngay lúc đó, bỗng nghe từ trên đỉnh mỏm núi có tiếng người vọng xuống:

- Con yêu nữ khốn kiếp kia quả nhiên chưa chết, ngươi giết Mạc thất hiệp thế nào, mau nói cho ta nghe.

Giọng nói đó chính là tiếng của Du Liên Châu. Trương Vô Kỵ hết sức kinh hoàng, đâu ngờ bốn vị sư bá sư thúc lại quay trở lại. Triệu Mẫn nói:

- Anh quay đầu đi đừng để họ trông thấy mặt.

Trương Tùng Khê quát lên:

- Tặc yêu nữ, nếu ngươi không trả lời, ta sẽ ném đá xuống bây giờ.

Triệu Mẫn ngửng đầu nhìn lên, quả thấy bọn Tống Viễn Kiều đang vần một khối đá lớn, chỉ cần cùng nhau đẩy một cái, hai người khó mà thoát chết. Nàng bèn ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Chàng xé áo cừu chùm lên mặt trước đã rồi hãy ôm em chạy đi.

Trương Vô Kỵ làm đúng như thế, xé áo ra che mặt buộc ra đằng sau, kéo sụp cái mũ da xuống khỏi trán chỉ hở đôi mắt. Võ Đương tứ hiệp đuổi theo Triệu Mẫn đẩy được cô ta rớt xuống vực rồi, nhưng cả bốn người vốn là tay giang hồ lão luyện, liệu tưởng Triệu Mẫn là thân phận quận chúa tôn quí, lẽ nào chỉ đi một mình không ai hộ vệ. Họ bèn giả vờ cưỡi ngựa bỏ đi nhưng được vài dặm liền buộc ngựa tại cây bên đường, len lén quay lại xem xét. Bốn người quay lại sơn động trước, đốt đuốc lên đi vào bên trong, thấy hai con hoẵng chết đã bị dã thú cắn xé máu me lầy nhầy nhưng vẫn còn hình dạng. Bốn người lại xem xét bên ngoài hang kiếm ra dấu chân Trương Vô Kỵ để lại, theo đó lần theo phát giác xác của Mạc Thanh Cốc, thấy chân tay đã bị thú cắn nát rồi. Bốn người vừa đau lòng, vừa phẫn nộ không sao kể xiết, Ân Lê Đình nằm phục xuống đất khóc òa lên.

Du Liên Châu gạt lệ nói:

- Con yêu nữ Triệu Mẫn tuy võ công không phải kém nhưng nếu chỉ một mình nó, nhất định không thể nào hại thất đệ được. Lục đệ cố nén bi thương, mình phải đi tìm cho ra hung thủ, giết sạch để báo thù cho thất đệ.

Trương Tùng Khê đáp:

- Mình mai phục ở bên cạnh sơn động, đến lúc trời sáng thể nào thủ hạ của yêu nữ cũng sẽ tìm đến.

Ông túc trí đa mưu, trước nay nói gì Tống Viễn Kiều vẫn nghe nấy, nên cả bọn cố dằn cơn đau lòng, ẩn mình sau những tảng đá hai bên cửa động để chờ. Mãi đến khi trời sáng vẫn không thấy thủ hạ Triệu Mẫn đâu, bốn người lại tới chỗ Triệu Mẫn bị rơi để xem, bên dưới loáng thoáng có tiếng người nói chuyện, nhìn xuống thấy một người đàn ông mặc áo gấm đang ôm Triệu Mẫn, thì ra con yêu nữ đó vẫn chưa chết.

Tứ hiệp muốn tra hỏi xem vì sao lại giết Mạc Thanh Cốc nên chưa muốn đẩy đá xuống giết hai người vội. Cái vực tuyết đó hình như một cái giếng lớn, bốn bề chung quanh là vách dựng đứng, chỉ phía bên góc tây bắc có một lối đi thật hẹp. Trương Tùng Khê quát lớn:

- Hai con chó Nguyên kia, mau mau theo đường bên kia đi lên, nếu còn lần khân ta liền đẩy đá tảng xuống bây giờ.

Trương Vô Kỵ thấy tứ sư bá tưởng lầm mình là người Mông Cổ, nghĩ chắc vì mình ăn mặc sang trọng, lại đi theo Triệu Mẫn nhìn quanh không thấy chỗ nào có thể ẩn náu được, nếu như tứ hiệp đẩy đá xuống, mình tuy có thể nhảy nhót né tránh nhưng Triệu Mẫn ắt khó lòng thoát chết, chỉ đành tới đâu tính đó, ôm Triệu Mẫn theo con đường hẹp chầm chậm trèo lên.

Chàng cố tình làm như võ công kém cỏi, đi vài bước lại trượt chân một cái. Con đường hẹp đó vốn dĩ bám víu cực kỳ khó khăn, chàng lại cố ý giả vờ cực kỳ vụng về, vừa đi vừa thở hổn hển nên mất đến hơn nửa giờ, ngã bảy tám cái mới lên đến chỗ mặt bằng.

Chàng định bụng khi vừa lên đến nơi là sẽ ôm Triệu Mẫn tìm đường chạy ngay, cứ với khinh công của chàng, tuy có ôm thêm một người tứ hiệp chưa chắc đã đuổi kịp. Thế nhưng Trương Tùng Khê cực kỳ tinh minh, thấy chàng trèo lên cố ý giả vờ vụng về nên đã ngầm báo cho ba người kia, bốn người chia ra bốn góc, Trương Vô Kỵ vừa bước lên, bốn thanh trường kiếm đã chĩa ngay vào, cách thân chàng chưa đầy nửa thước.

Tống Viễn Kiều hậm hực nói:

- Thằng giặc Thát Đát kia, ngươi lấy tấm da che khuôn mặt quỉ lại, tưởng là chạy thoát hay sao? Mạc thất hiệp phái Võ Đương do ai hạ thủ giết chết, mau mau khai ra. Mày chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đem con chó Thát tử ngươi ra lăng trì tùng xẻo, mổ bụng lóc xương.

Ông bản tính vốn hòa nhã nhỏ nhẹ, nhưng vì thấy đứa em út chết thảm khốc như thế, nhịn không nổi phải buông lời tàn nhẫn, thực là việc chưa hề có trong mấy chục năm qua. Triệu Mẫn thở dài một tiếng, nói:

- Áp Lỗ Bất Hoa tướng quân, chuyện đã đến nước này, ngươi nói cho họ biết đi cũng không sao.

Nói rồi ghé miệng vào tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Dùng võ công thánh hỏa lệnh.

Trương Vô Kỵ vốn không muốn động thủ với các vị sư bá sư thúc nhưng ở vào hoàn cảnh này đành muối mặt ra tay, bèn nghiến răng, giơ Triệu Mẫn lên ném luôn vào Ân Lê Đình, miệng xí xố một hồi, tung người lộn trên không, vươn tay chộp vào người Trương Tùng Khê. Ân Lê Đình thuận tay bắt lấy Triệu Mẫn, tuy ngạc nhiên nhưng lập tức điểm ngay huyệt đạo của nàng, vứt ra ngoài.

Chỉ trong một chớp mắt đó, Trương Vô Kỵ đã sử dụng ngay võ công quái dị ghi trên thánh hỏa lệnh, quyền đánh vào Tống Viễn Kiều, chân đá Du Liên Châu, lấy đầu húc vào Trương Tùng Khê, đồng thời vung ngược tay đoạt luôn thanh kiếm của Ân Lê Đình. Mấy chiêu đó nhanh như cắt, vừa thần tốc vừa kỳ lạ. Võ Đương tứ hiệp võ công cao cường, vốn là cao thủ hạng nhất trong võ lâm nhưng bị chàng dùng bảy tám quái chiên đánh loạn xạ, thành thử chân tay luống cuống, không người nào có thể đỡ được.

Hôm đó trên đảo Linh Xà võ công Trương Vô Kỵ cao cường như thế, vậy mà gặp phải chiêu số quái dị trong thánh hỏa lệnh của Lưu Vân tam sứ cũng không chống nổi, huống chi lúc này chàng đã học hoàn toàn tất cả võ công trên cả sáu thanh lệnh bài, so với ba sứ giả Ba Tư đâu phải chỉ hơn vài lần? Những võ công trên các thanh thánh hỏa lệnh vốn dĩ không phải là võ công thượng thừa, nhưng vì kỳ lạ cổ quái, khiến người ta không biết đâu mà lường, nếu như một người thường sử dụng thì làm sao có thể đối địch với võ công chính tông của nội gia phái Võ Đương. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lấy Cửu Dương thần công làm căn bản, dùng đường lối biến hóa của Càn Khôn Đại Na Di, lại thêm thuần thuộc nhuần nhuyễn võ công phái Võ Đương, nên chiêu thức nào cũng tấn công thẳng vào những điểm sơ hở của tứ hiệp. Đấu đến hơn hai chục chiêu, võ công thánh hỏa lệnh càng lúc càng kỳ lạ không sao lường được. Triệu Mẫn nằm trên bãi tuyết, lớn tiếng nói:

- Áp Lỗ Bất Hoa tướng quân, bọn man tử người Hán vốn tự phụ lắm, hôm nay cho họ nếm mùi môn thần kỹ đánh vật cổ truyền của người Mông Cổ chúng ta.

Trương Tùng Khê kêu lên:

- Dùng thái cực quyền để tự vệ, quyền chiêu của tên thát tử này quái dị lắm.

?Bốn người lập tức biến đổi quyền pháp, sử dụng thái cực quyền thủ vệ môn hộ thật là nghiêm mật. Trương Vô Kỵ bỗng nhiên ngồi phịch xuống đất, hai tay đấm loạn xạ vào ngực mình. Võ Đương tứ hiệp trong đời đã từng gặp không biết bao nhiêu cường địch, hiểu biết các loại chiêu thức quái dị cũng nhiều, môn Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp của Trương Vô Kỵ có thể xem là một công phụ đặc biệt nổi trội hẳn lên trong các võ học công phu, nhưng môn ngồi đấm ngực của tên Mông Cổ thì chưa hề thấy, cũng chẳng từng nghe qua bao giờ.

Tứ hiệp vốn dĩ đã thu trường kiếm về, dùng tay không sử dụng thái cực quyền bảo vệ môn hộ, lúc này ngạc nhiên, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê ba người liền rút kiếm ra chỉ vào Trương Vô Kỵ. Trường kiếm của Ân Lê Đình vốn dĩ đã bị Trương Vô Kỵ giằng lấy vứt đi, nhưng trên người còn đeo thêm thanh kiếm của Mạc Thanh Cốc, lúc này liền rút ra đâm tới.

Trương Vô Kỵ đột nhiên vung chân tạt ngang, cuốn một khối lớn tuyết đóng trên mặt đất, đá tung lên người tứ hiệp phái Võ Đương. Đây cũng là một chiêu quái dị của thánh hỏa lệnh, vốn dĩ là một chiêu của Sơn Trung lão nhân Thôi Sơn dùng để giết người cướp của. Y khi chưa sáng giáo lập phái, thường ở trên sa mạc Ba Tư ăn cướp những lữ hành, mỗi khi thấy những thương đội đi đến, liền ngồi xuống đấm ngực kêu khóc than trời trách đất, những con buôn thể nào cũng đến hỏi thăm.

Y đột nhiên đá cát bay tung lên, làm bọn lái buôn mù mắt, rồi rút đao ra đâm chém, chỉ trong giây lát là đã khiến hàng chục thương nhân máu vãi trên sa mạc, chết nằm lăn quay, là một chiêu số hết sức âm độc. Trương Vô Kỵ lúc này đá tung tuyết trên mặt đất, cũng không khác gì đá cát.

Võ Đương tứ hiệp trong nhất thời chỉ thấy tuyết bay đầy mặt, hai mắt không thấy gì nhưng bốn người ứng biến thật nhanh, lập tức nhảy vọt về sau. Thế nhưng Trương Vô Kỵ ra tay lại còn nhanh hơn, ôm luôn lấy hai chân Du Liên Châu lăn một cái, thuận tay liền điểm luôn ba chỗ huyệt đạo, tiếp theo phóng mình lên lộn một vòng, lúc rơi xuống đầu gối quì luôn vào đỉnh đầu Ân Lê Đình, đụng luôn vào hai huyệt Ngũ Xứ và Thừa Quang trên đỉnh đầu. Ân Lê Đình liền ngất đi, nằm lăn ra mặt tuyết. Tống Viễn Kiều phi thân lại cứu, Trương Vô Kỵ ngồi thụp về sau đúng ngay vào lòng ông ta. Tống Viễn Kiều thu kiếm về không kịp, tay trái bắt kiếm quyết, múa chưởng đánh ra, chưởng lực chưa kịp nhả, ngực đã thấy tê đi, bị chàng dùng hai cùi chỏ thúc luôn vào huyệt đạo.

Trương Tùng Khê hết sức kinh hãi, trong bốn người nay chỉ còn một mình, không thể nào địch lại người này nhưng nghĩa đồng môn thâm trọng, không thể nào bỏ chạy để mong thoát chết, liền vung trường kiếm lên, chát chát chát đâm luôn ba kiếm vào Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ thấy sư bá tuy ở cảnh nguy nan nhưng kiếm pháp vẫn cực kỳ trầm ổn, kiếm chiêu không loạn một chút nào, ba đường kiếm đó thật là ghê gớm nhưng chiêu nào cũng nghiêm thủ gia pháp Võ Đương, trong bụng phải khen thầm: ?Nếu ta không học được môn võ công cổ quái này, để có thể chống trả được bốn vị sư bá sư thúc liên thủ tấn công, thực không phải là chuyện dễ?. Chàng liền lắc lư cái đầu liên tiếp chạy thành một vòng tròn, Trương Tùng Khê vẫn không chuyển động, không thèm để ý đến việc chàng lắc đầu nhún nhẩy, nghe vù một tiếng, thanh trường kiếm đã xé gió đâm thẳng vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ hụp đầu xuống, lao luôn vào mũi kiếm, đột nhiên nằm xoài ra vọt về trước, lập tức bụng dưới và bốn nơi trên hai đùi của tứ hiệp đã bị điểm trúng, ngã lăn ra tuyết.

Bốn nơi Trương Vô Kỵ điểm đó chỉ cốt làm tê dại nửa thân dưới, đang định tới điểm thêm một chỉ vào huyệt Trung Khu nơi sau lưng, bỗng thấy Trương Tùng Khê kêu lên một tiếng thảm thiết, hai mắt trợn ngược, thân trên quằn quại, dãy mấy cái rồi thở hắt ra chết tươi. Trương Vô Kỵ thấy thế sợ hãi không để đâu cho hết, nghĩ thầm mình điểm huyệt đâu có dùng trọng thủ, đến bị thương nhẹ cũng không thể có làm sao có thể chí mệnh được, hay là tứ sư bá có bệnh ngầm, nay vì trúng chỗ nhược nên bệnh chứng phát tác? Chàng toát mồ hôi lạnh, vội vàng đưa tay sờ thử mũi Trương Tùng Khê.

Ngay lúc đó, Trương Tùng Khê tay trái tung ra, giựt ngay mảnh áo che mặt của chàng. Hai người sững sờ nhìn nhau, đều ngẩn người không nói được câu nào. Một lát sau, Trương Tùng Khê mới thở dài:

- Vô Kỵ giỏi nhỉ, hóa ra ? hóa ra ? là ngươi, thật không uổng công chúng ta đối với ngươi như thế.

Giọng ông nói nghe nghẹn ngào, mặt đầy vẻ tức tối, nước mắt ròng ròng chảy xuống, chẳng biết vì đau lòng hay vì giận dữ. Thì ra ông biết là không sao địch lại nhưng nghĩ đến khi chết chẳng biết mặt mũi kẻ địch ra sao, Võ Đương tứ hiệp chết vì tay ai, quả thật không nhắm mắt, nên giả vờ chết để giựt miếng da che mặt kẻ địch ra.

Trương Vô Kỵ bản tính vốn thực thà, hai nữa quá lo lắng cho tứ sư bá nên không kịp đề phòng. Chàng lúc này so với bị lăng nhục còn khổ hơn nhiều, mất cả hồn vía, quýnh quáng không biết làm sao, chỉ ấp úng:

- Tứ sư bá, không phải cháu, không phải cháu ? thất sư thúc không phải cháu ? không phải do cháu giết đâu ?

Trương Tùng Khê cười ha ha một cách đau đớn nói:

- Giỏi lắm, giỏi lắm, mày mau mau hết anh em tao đi. Đại ca, nhị ca, lục đệ, các người nhìn rõ chưa, tên Thát tử chó má này có phải ai đâu, chính là thằng bé Vô Kỵ mà mình hết bụng thương yêu đó.

Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba người không cử động được, chỉ ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thần trí mê loạn, đang định nhặt thanh kiếm dưới đất lên cứa ngang cổ mình, Triệu Mẫn đột nhiên kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, đại trượng phu phải biết gắng chịu oan khuất nhất thời, có gì phải gấp gáp, trên đời này chuyện gì rồi cũng có lúc rõ trắng đen. Chàng phải làm sao kiếm cho ra chân hung thủ giết hại Mạc thất hiệp, báo thù cho ông ta để khỏi phụ lòng chư hiệp phái Võ Đương thương yêu anh như thế.

Trương Vô Kỵ rùng mình, quả thực những lời đó rất hữu lý bèn nói:

- Thế bây giờ mình phải làm sao?

Nói xong chàng đi đến bên cạnh nàng, đưa tay xoa bóp mấy cái nơi lưng và hông giải huyệt cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn nhỏ nhẹ an ủi chàng:

- Chàng đừng quá ư đau lòng. Trong Minh Giáo có biết bao nhiêu cao thủ, dưới tay em cũng không thiếu người tài trí, thể nào mình cũng bắt được kẻ gây ra tội ác.

Trương Tùng Khê kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, nếu ngươi còn một chút lương tâm thì mau mau giết bốn anh em ta đi. Ta không còn chịu nổi hai đứa chúng bay chàng chàng thiếp thiếp, giở xấu ra nữa.

Trương Vô Kỵ mặt mày tím ngắt, không biết phải làm sao. Triệu Mẫn nói:

- Mình việc trước hết là phải cứu Hàn Lâm Nhi rồi đi cứu nghĩa phụ anh, trên đường sẽ thăm dò xem ai là người gia hại Mạc thất hiệp, cùng kẻ làm hại biểu muội anh.

Trương Vô Kỵ sững sờ, lắp bắp:

- Cái ? cái gì?

Triệu Mẫn lạnh lùng nói:

- Mạc thất hiệp có phải do anh giết không? Tại sao bốn vị sư bá sư thúc của anh lại nghĩ như thế? Ân Ly có thực do tôi giết không? Sao anh lại đổ cho tôi? Chẳng lẽ chỉ có anh mới có quyền đổ oan cho người khác, chứ không chịu để cho người khác vu oan cho mình hay sao?

Mấy câu đó thực chẳng khác gì sấm ran chớp giật, xoáy thẳng vào tai Trương Vô Kỵ, cho đến bây giờ chàng mới hay rằng cuộc đời này thật khó mà lường, thấm thía cái nỗi oan tình không sao biện bạch, nghĩ thầm: ?Không lẽ Triệu cô nương nàng cũng ? nàng cũng ? giống như ta, bị người khác đổ tiếng oan cho hay sao??.

Triệu Mẫn hỏi:

- Anh điểm huyệt các vị sư bá sư thúc, liệu họ có thể tự mình giải khai được không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Đây là kỳ môn công phu trên thánh hỏa lệnh, các sư bá sư thúc không tự giải được, nhưng sau mười hai giờ sẽ tự giải huyệt.

Triệu Mẫn nói:

- Ồ, vậy thì mình đem họ bỏ vào trong sơn động rồi ra đi. Trước khi tìm ra chân hung thủ, anh không nên gặp lại họ làm gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế nhưng trong hang có dã thú, nai hoẵng ra vào, thi thể của Mạc thất thúc cũng bị dã thú cắn nát đó.

Triệu Mẫn thở dài:

- Xem chừng trong lòng anh đang rối loạn, chẳng còn nghĩ ra được chuyện gì nữa rồi. Chỉ cần một vị nửa thân người cử động được, trong tay cầm kiếm thì nào có dã thú nào dám đụng chạm đến họ?

Trương Vô Kỵ lật đật nói:

- Đúng rồi, đúng rồi.

Chàng liền vác Võ Đương tứ hiệp lên để vào sau một tảng đá lớn để tránh gió tuyết, nhưng cả bốn người vẫn tiếp tục chửi mắng luôn miệng. Trương Vô Kỵ mắt rưng rưng, không dám trả lời. Triệu Mẫn nói:

- Các vị là cao nhân trong võ lâm, nhưng sao không biết gì cả. Nếu Mạc thất hiệp do Trương Vô Kỵ giết, thì lúc này chỉ mỗi người một kiếm diệt khẩu, có gì khó khăn đâu? Y đã nhẫn tâm giết Mạc thất hiệp được, không lẽ không đủ nhẫn tâm giết bốn vị hay sao? Các vị mà còn mở miệng chửi rủa nữa, Triệu Mẫn này sẽ tặng cho mỗi vị một cái bạt tai. Tôi là yêu nữ gian trá ác độc, đã nói là sẽ làm. Hôm trước ở chùa Vạn An, tôi nể mặt Trương công tử, nên đối với các vị lễ kính hơn những người khác. Cao thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động ai ai cũng bị tôi chặt ngón tay. Vậy mà tôi đối với chư hiệp phái Võ Đương có chút nào không nên không phải chăng?

Bọn Tống Viễn Kiều ai nấy bàng hoàng, tuy vẫn cho rằng Trương Vô Kỵ giết chết Mạc Thanh Cốc nhưng cũng sợ Triệu Mẫn ra tay đánh thật, đại trượng phu có thể bị giết mà không có thể chịu nhục, nếu như bị con yêu nữa này cho mấy cái tát tai thì quả là đại sỉ nhục, thành thử đành ngậm miệng không dám chửi nữa. Triệu Mẫn mỉm cười, quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Anh đi dắt những con ngựa của họ lại đây mình chở họ đến cái hang.

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ đáp:

- -??? Thôi để tôi ôm chư vị này đến đó cũng được.

Triệu Mẫn hiểu ngay tâm ý của chàng, cười khẩy nói:

- Anh võ công cao cường thật, nhưng liệu có ôm cả bốn người một lượt được không? Anh ngại một khi anh đi khỏi rồi, tôi sẽ ra tay giết hại bốn vị sư bá sư thúc, trước sau anh vẫn chưa hoàn toàn tin tôi. Được rồi, để tôi đi dắt ngựa lại, anh ở đây canh chừng.

Trương Vô Kỵ bị nàng nói trúng tim đen, mặt đỏ lên nhưng quả đúng là chàng không dám đem tính mạng bốn vị sư bá sư thúc giao cho cô gái tình tình không dễ đo lường này, liền nói:

- Thôi đành phải phiền cô đi dắt mấy con ngựa lại đây, tôi đứng đây canh chừng cho bốn vị sư bá sư thúc. Thương thế của cô ra sao, đi đường có trở ngại gì không?

Triệu Mẫn cười nhạt:

- Dù anh có ân cần tha thiết tới đâu, người ta cũng chẳng tin anh đâu. Mình có son sắt nhiệt tình người ta cũng chỉ cho rằng lòng lang dạ thú thôi.

Nói xong nàng quay đi dắt ngựa. Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ mấy lời nàng vừa nói, không biết nàng nói đây là nói chàng bị các sư bá sư thúc nghi ngờ, hay nói về nàng bị chính mình nghi oan, đưa mắt nhìn theo lưng nàng đang chậm rãi bước đi, thân hình lảo đảo, quả thực bị thương rồi đi đứng khó khăn, trong bụng vừa thương xót, vừa thấp thỏm.

Triệu Mẫn đi chưa được bao xa, bỗng nghe có tiếng chân ngựa từ trên đường mạn bắc đổ xuống, một con đi trước, hai con đi sau, cả thảy ba người. Triệu Mẫn nghe thấy tiếng chân ngựa, vội vàng chạy trở về nói:

- Có người đến kìa.

Trương Vô Kỵ giơ tay vẫy, Triệu Mẫn vội chạy đến sau tảng đá, nằm nép vào bên cạnh chàng, thấy Du Liên Châu một nửa người còn ở bên ngoài liền kéo ông ta vào.

Du Liên Châu hầm hầm nhìn nàng, quát lên:

- Đừng động vào ta.

Triệu Mẫn cười đáp:

- Tôi cứ kéo ông xem ông làm gì tôi nào?

Trương Vô Kỵ quát lên:

- Triệu cô nương, không được vô lễ với sư bá tôi.

Triệu Mẫn le lưỡi, nhăn mặt trêu Du Liên Châu. Ngay lúc đó, một con ngựa đã chạy tới không còn cách bao xa, còn hai con ngựa ở đằng sau cũng đang đuổi tới, chỉ còn cách nhau chừng hai ba chục trượng. Con ngựa chạy trước tới gần hơn, Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:

- Đó là Tống Thanh Thư Tống đại ca.

Triệu Mẫn nói:

- Mau ngăn y lại.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Sao thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Đừng hỏi nhiều, anh quên những gì đã nghe thấy trong miếu Di Lặc rồi sao?

Trương Vô Kỵ chợt động tâm, nhặt dưới đất một mảnh băng, bắn vụt ra, nghe vèo một tiếng, mảnh băng bay ra trúng ngay đùi trước con ngựa Tống Thanh Thư đang cưỡi. Con ngựa đó đau quá, nằm khuỵu xuống ngay.

Tống Thanh Thư nhỏm dậy, đang toan đỡ con ngựa lên nhưng con ngựa đó bị ngã đã gãy chân trái. Y thấy những kẻ đuổi theo càng lúc càng gần, vội vàng chạy về đằng trước. Trương Vô Kỵ lại cầm một mảnh băng khác bắn ra, trúng ngay huyệt đạo trên đùi y. Còn Triệu Mẫn vung tay ra liên tiếp bốn lần, đã điểm trúng á huyệt của Võ Đương tứ hiệp, kịp thời ngăn chặn Tống Viễn Kiều lên tiếng gọi con. Chỉ thấy Tống Thanh Thư ?A? lên một tiếng, nằm lăn ra đất.

Sau hai lần ngăn trở ấy, hai người cưỡi ngựa phía sau đã đuổi đến nơi, chính là Trần Hữu Lượng và Chưởng Bát long đầu của Cái Bang. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi lạ: ?Ba người này đi đến núi Trường Bạch tìm độc vật để chế thuốc, sao lại một người chạy, hai người đuổi đến nơi này là sao??. Chàng lại nghĩ ngay: ?Đúng rồi, chắc là thiên lương của Tống đại ca nổi lên, không chịu làm hành vi bất hiếu bất nghĩa kia, cũng may là gặp phải tay mình nên có dịp cứu cho?.

Trần Hữu Lượng và Chưởng Bát long đầu nhảy xuống, hai người vẫn tưởng con ngựa Tống Thanh Thư đang cưỡi chạy lâu nên hụt hơi bị trượt chân, hất y ngã xuống. Thế nhưng Tống Thanh Thư võ công cao cường, có ngã cũng chỉ bị thương nhẹ nên họ đến gần lập tức rút binh khí ra chỉ thẳng vào người y.

Trương Vô Kỵ nhặt một miếng băng lên, đang định bắn vào Trần Hữu Lượng, Triệu Mẫn liền nắm tay chàng xua xua tay. Trương Vô Kỵ quay lại nhìn nàng. Triệu Mẫn liều giơ tay khum khum để bên tai, rồi chỉ vào Tống Thanh Thư, ý nói chàng nên lắng tai nghe bọn họ nói gì. Chỉ nghe Chưởng Bát long đầu hung hăng nói:

- Họ Tống kia, ngươi đêm hôm len lén bỏ chạy là cớ làm sao? Có phải định đi thông báo tin tức cho cha ngươi biết phải không?

Tay y múa một thanh tử kim bát quái đao, nhứ như trên đầu Tống Thanh Thư, làm như định chém xuống. Tống Viễn Kiều nghe thấy tiếng thanh bát quái đao vùn vụt, lo lắng cho an nguy của đứa con yêu, càng thêm bồn chồn. Trương Vô Kỵ ngẫu nhiên quay lại, thấy ánh mắt ông từ vẻ lo lắng biến thành khẩn cầu, liền gật đầu, ý muốn nói: ?Sư bá yên tâm, cháu không để cho Tống đại ca bị tổn thương đâu?. Chàng nghĩ thầm: ?Lòng cha mẹ thương con quả thật như trời như bể, đại sư bá đang oán ghét, tức giận không băm vằm được mình ra hàng trăm nghìn mảnh, vậy mà khi thấy Tống sư ca gặp nguy nan, liền quay qua mình nhờ vả ngay. Nếu phải như chính đại sư bá bị nguy khốn, ông là người anh hùng can đảm, nhất định không bao giờ tỏ ra yếu đuối phải cầu đến ai đâu?. Trong một giây ngắn ngủi, chàng mủi lòng nghĩ đến Tống Thanh Thư có người lo lắng, yêu thương, còn mình chỉ là một đứa con côi không cha không mẹ.

Lại nghe Tống Thanh Thư nói:

- Tôi không chạy đi báo cho cha tôi đâu.

Chưởng Bát long đầu nói:

- Bang chủ sai ngươi đi với ta đến núi Trường Bạch hái thuốc, ngươi lại bỗng dưng bỏ đi không cáo biệt là sao?

Tống Thanh Thư nói:

- Ai ai cũng có cha có mẹ, các người lại tàn nhẫn ép tôi phải làm hại cha tôi là sao? Tôi quyết không thể nào làm chuyện tồi tệ của loài cầm thú như vậy được.

Chưởng Bát long đầu gay gắt nói:

- Ngươi quyết tâm chống lại hiệu lệnh của bang chủ chăng? Tội phản bang bị trừng trị thế nào, ngươi có biết không?

Tống Thanh Thư đáp:

- Tôi là kẻ có tội vốn đã không còn muốn sống làm gì. Mấy hôm nay mỗi khi tôi vừa chợp mắt là thấy Mạc thất thúc hiện ra đòi mạng, hồn ma ông ta vất vưởng, lúc nào cũng lẩn quẩn bên tôi. Chưởng Bát long đầu, ông một đao chém tôi chết đi cho xong, tôi xin đa tạ ông đã thành toàn cho.

Chưởng Bát long đầu giơ cao thanh bát quái đao quát lớn:

- Được, để ta thành toàn cho ngươi.

Trần Hữu Lượng liền xen vào:

- Long đầu đại ca, Tống huynh đệ nếu như không bằng lòng, có giết y cũng vô ích, thôi mình để cho y đi.

Chưởng Bát long đầu ngạc nhiên:

- Ngươi bảo tha cho y đi ư?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Đúng vậy. Y chính tay giết chết sư thúc y là Mạc Thanh Cốc, ắt sẽ có người trong môn phái của y thanh toán, việc gì phải để máu của những tên bất nghĩa làm bẩn binh khí của người trong hiệp đạo chúng ta.

Hôm trước nơi miếu Di Lặc Trương Vô Kỵ từng nghe Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư nói đến Mạc Thanh Cốc, cái gì mà ?kẻ dưới phạm người trên?, đã nghi Tống Thanh Thư đắc tội với Mạc sư thúc, nhưng không thể nào ngờ rằng ông ta lại bị y giết chết. Bọn Tống Viễn Kiều bốn người tuy mục quang bị tảng đá che khuất, nhưng những gì Tống Thanh Thư nói đều lọt vào tai khiến cho ai nấy đều chấn động. Chỉ có Triệu Mẫn dường như đã đoán được vài ba phần nên khóe miệng nhếch một nụ cười khinh miệt.

Lại nghe Tống Thanh Thư run run nói:

- Trần đại ca, đại ca từng lập lời thề, quyết không tiết lộ chuyện cơ mật đó ra, nếu như đại ca không nói thì cha tôi làm sao biết được?

Trần Hữu Lượng lạnh lùng cười khẩy, đáp:

- Ngươi chỉ nhớ lời thề của ta, mà lại không nhớ lời thề độc của chính ngươi. Ngươi nói từ nay về sau đều nghe lời ta sai bảo. Cái đó là ngươi hủy lời ước trước, hay là ta không chịu giữ lời?

Tống Thanh Thư trầm ngâm một lát, nói:

- -??? Đại ca bắt tôi phải bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống của thái sư phụ và cha tôi, tôi thà chết cũng không làm, đại ca mau mau đâm tôi một kiếm đi cho xong.

Trần Hữu Lượng nói:

- - Này Tống huynh đệ, người đời thường nói rằng, kẻ hiểu biết thời thế mới là người tuấn kiệt, bọn ta nào có bắt ngươi thí phụ diệt tổ đâu, chẳng qua chỉ bỏ thuốc mê, để họ bị hôn trầm một phen thôi. Ở trong miếu Di Lặc ngươi đã chả bằng lòng là gì?

Tống Thanh Thư nói:

- Không đâu, không đâu! Tôi chỉ bằng lòng bỏ thuốc mê nhưng Chưởng Bát long đầu lại đi bắt những loài rắn hổ mang, rết cực độc là những thứ giết người chứ nào phải những loại thuốc mê tầm thường đâu.

Trần Hữu Lượng thản nhiên chậm rãi rút thanh kiếm về nói:

- Chu cô nương của phái Nga Mi đẹp như tiên giáng trần, trên đời này quả không kiếm ra một người thứ hai được như thế, huynh đệ đành lòng để cô ta rơi vào tay Trương Vô Kỵ, quả thật lạ kỳ. Tống huynh đệ, canh khuya đêm hôm đó, ngươi đi nhìn trộm phòng ngủ của các cô phái Nga Mi để cho thất sư thúc bắt gặp, nên đuổi theo ngươi, để rồi nơi vách đá hai bên tỉ võ, chuyện cháu giết chú mới xẩy ra. Cái đó là bởi đâu mà có? Chẳng phải là vì con người Chu cô nương ôn nhu mỹ mạo hay sao? Việc đã đến nước này, đâm lao phải theo lao, ngựa vào đường hẹp sao quay đầu lại được nữa? Ta xem ngươi trèo cau tới buồng mà nay bỏ trôi theo dòng nước, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?

Tống Thanh Thư loạng choạng đứng lên, giận dữ nói:

- Trần Hữu Lượng, ngươi hoa ngôn xảo ngữ, bức bách ta. Đêm hôm đó ta làm bại hoại môn phong phái Võ Đương, bị Mạc sư thúc đuổi tới, có chết dưới tay sư thúc cũng là đáng lắm, ai bảo ngươi ra tay tương trợ? Ta trúng phải ngụy kế của ngươi, để đến thân bại danh liệt, rơi xuống bùn sâu không sao rút ra được nữa.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Hay nhỉ, hay nhỉ! Sau lưng Mạc Thanh Cốc bị trúng phải Chấn Thiên Thiết Chưởng, là do ngươi đánh, hay là do Trần Hữu Lượng này đánh? Cái đó có phải là võ công của phái Võ Đương không? Sao ta biết được? Đêm đó ta ra tay cứu mạng cho ngươi, lại bảo tồn danh thanh cho ngươi, ngươi lại cho là sai ư? Tống huynh đệ, ta với ngươi giao thiệp bấy lâu, chuyện đã qua thôi khỏi cần nói nữa. Chuyện ngươi giết chú, ta sẽ thủ khẩu như bình, quyết không tiết lộ nửa câu. Núi cao sông rộng, sau này thể nào chẳng có dịp gặp nhau.

Tống Thanh Thư run run hỏi lại:

- Trần ? Trần đại ca, đại ca ? đại ca sẽ làm gì tôi đây?

Trong giọng nói y đầy vẻ băn khoăn. Trần Hữu Lượng cười:

- Sẽ làm gì ngươi ư? Chẳng làm gì cả. Để ta cho ngươi xem một vật coi ngươi biết là gì không?

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn náu mình sau tảng đá đều muốn thò đầu ra xem Trần Hữu Lượng lấy cái gì ra, nhưng đành phải cố nhịn. Chỉ nghe Tống Thanh Thư ?A? lên một tiếng, run run hỏi:

- Cái này ? cái này là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, là vật của Chu cô nương, sao đại ca ? đại ca lại lấy đâu ra?

Trương Vô Kỵ hơi rùng mình, nghĩ thầm: ?Khi ta và Chỉ Nhược chia tay, thấy rõ ràng nàng vẫn còn đeo cái nhẫn chưởng môn, sao bây giờ lại vào tay Trần Hữu Lượng là sao? Chắc là y làm giả để đem ra bịp người?.

Chỉ nghe Trần Hữu Lượng cười khẽ một tiếng nói:

- Ngươi nhìn cho kỹ, cái này đồ thật hay đồ giả đây.

Một lát sau, Tống Thanh Thư mới nói:

- Khi tôi ở Tây Vực có hỏi Diệt Tuyệt sư thái võ công, thấy trên tay bà ta có đeo chiếc nhẫn này, xem ra có lẽ là thật đó.

Chỉ nghe coong một tiếng kim loại chạm nhau, Trần Hữu Lượng nói:

- Nếu như là món đồ giả, nhát kiếm này đã chặt đứt đôi ra rồi. Ngươi xem đây, bên trong chiếc nhẫn có bốn chữ ?Lưu Di Tương Nữ?[2] làm sao có thể giả được? Đây chính là huyền thiết chỉ hoàn, di vật của tổ sư Quách Tương nữ hiệp phái Nga Mi.

Tống Thanh Thư nói:

- Trần đại ca, đại ca lấy đâu ra? Chu cô nương cô ta ? cô ta ra sao?

Trần Hữu Lượng lại cười nói:

- Chưởng Bát long đầu, thôi mình đi, trong Cái Bang từ nay không có gã này nữa.

Chỉ nghe tiếng chân, hai người đã quay mình ra đi. Tống Thanh Thư kêu lên:

- Trần đại ca, mau quay lại. Chu cô nương đã rơi vào tay đại ca rồi chăng? Cô ta bây giờ còn sống hay đã chết?

Trần Hữu Lượng vẫn tiếp tục đi mỉm cười nói:

- Đúng thế, Chu cô nương đang ở trong tay ta, một giai nhân xinh đẹp như thế, ở trên đời này có người đàn ông nào nhìn thấy mà không động tâm đâu? Ta đến nay chưa thành gia thất, nếu như cầu xin bang chủ gả Chu cô nương cho ta làm vợ, ắt là bang chủ sẽ bằng lòng ngay.

Tống Thanh Thư ậm ự mấy tiếng dường như nói không ra lời. Trần Hữu Lượng lại nói tiếp:

- Đúng ra thì người quân tử không cướp đoạt vật sở hữu của người khác, Tống huynh đệ cũng vì Chu cô nương mà gây ra một chuyện tày trời, Trần Hữu Lượng này đâu có thể vì mỹ sắc mà làm tổn thương nghĩa khí anh em? Thế nhưng ngươi nay đã là kẻ phản bang có tội, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt rồi, không còn gì phải nói nữa, có đúng không nào?

Tống Thanh Thư lại ậm ừ mấy tiếng. Trương Vô Kỵ liếc nhìn Tống Viễn Kiều, thấy hai dòng lệ chảy dài trên má ông, hiển nhiên trong lòng cực kỳ đau thương. Bỗng nghe Tống Thanh Thư nói:

- Trần đại ca, long đầu đại ca, quả thực tôi nhất thời hồ đồ, mong hai vị lượng thứ cho, tôi xin lỗi các vị.

Trần Hữu Lượng cười ha hả nói:

- Có thế chứ, có thế mới là anh em chứ. Ta vỗ ngực đảm bảo với huynh đệ rằng, chỉ cẩn ngươi đem mông hãn dược lên núi Võ Đương, len lén bỏ vào nước trà, tính mạng lệnh tôn đại nhân chớ có lo gì cả, còn người đẹp Chu Chỉ Nhược kia sẽ thành người nâng khăn sửa túi cho ngươi. Bọn chúng ta muốn hiếp chế Trương Tam Phong chân nhân và chư hiệp phái Võ Đương cũng chỉ để ép cho Trương Vô Kỵ phải nghe lệnh bọn ta. Nếu như làm hại Trương chân nhân và lệnh tôn, Trương Vô Kỵ thể nào chả kiếm Cái Bang báo thù thì có gì gọi là tốt lành cho bọn ta đâu?

Tống Thanh Thư nói:

- Đại ca nói phải lắm.

Trần Hữu Lượng lại nói:

- Đợi đến khi Cái Bang chế ngự được Minh Giáo rồi, khu trừ Thát tử xong, thu được thiên hạ, bang chủ chúng ta lên ngôi cửu ngũ, bọn chúng ta ai ai cũng là khai quốc công thần. Phong thê ấm tử là chuyện đương nhiên, ngay cả lệnh tôn đại nhân cũng vì huynh đệ mà được nở mày nở mặt.

Tống Thanh Thư cười gượng:

- Cha tôi đạm bạc đã quen, không màng danh lợi, tiểu đệ chỉ mong lão nhân gia tha cho không giết cũng đã thỏa nguyện rồi.

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Trừ phi lệnh tôn là thần tiên biết được quá khứ vị lai, chứ không làm sao rõ chuyện đầu đuôi thế nào? Tống huynh đệ, chân ngươi có bị thương không? Thôi lên đây, hai người mình cưỡi chung một con ngựa, đến thị trấn đằng trước mình sẽ mua ngựa khác.

Tống Thanh Thư nói:

- Tôi chạy vội quá, chân bị va vào băng, không hiểu sao xui quá lại trúng ngay huyệt Trúc Tân. Trên đời kể cũng thật khéo xếp đặt.

Lúc đó y chĩ lo tới chuyện Chưởng Bát long đầu và Trần Hữu Lượng ở đằng sau đuổi tới, đâu có ngờ lại có người nấp sau tảng đá ám toán mình, chỉ cho rằng vì mình vô ý nên va phải cạnh băng nhọn mà thôi. Trần Hữu Lượng cười nói:

- Thế sao gọi là xui xẻo được? Cái đó phải nói là Tống huynh đệ diễm phúc tày trời, cái số có vợ đẹp đấy chứ. Nếu không bị va chân thì bọn ta làm sao đuổi kịp, ngươi vẫn chấp nê chưa tỉnh, chính mình trở thành thân bại danh liệt, lại làm hỏng luôn cả đại sự của bản bang. Thế rồi cô gái sắc nước hương trời Chu Chỉ Nhược kia phải theo Trần Hữu Lượng này một đời, có khác gì phượng hoàng sánh với quạ khoang, bông hoa cắm bãi phân bò?

Tống Thanh Thư hừ một tiếng nói:

- Trần đại ca, không phải là huynh đệ không biết phải quấy, không tin đại ca ?

Trần Hữu Lượng không để y nói hết câu, chen vào:

- Ngươi muốn gặp Chu cô nương, có phải không nào? Chuyện đó cũng dễ lắm. Hiện nay bang chủ và các trưởng lão đều đang ở Lô Long, Chu cô nương cũng đi theo đến đó. Tất cả chúng mình cùng đến Lô Long để gặp họ là xong. Đợi việc lớn ở núi Võ Đương xong rồi, người anh này lập tức giúp ngươi lo việc cưới cheo, cho ngươi xứng tâm thỏa nguyện, lúc ấy sẽ cám ơn Trần đại ca không để đâu cho hết, ha ha, ha ha!

Tống Thanh Thư nói:

- Hay lắm, vậy thì chúng mình đi đến Lô Long. Trần đại ca, Chu cô nương vì sao lại ? lại đi theo bản bang?

Trần Hữu Lượng cười nói:

- Cái đó là công lao của long đầu đại ca. Hôm đó Chưởng Bát long đầu và Chưởng Bổng long đầu uống rượu trên tửu lâu, thấy có ba người giả làm đệ tử bản bang trà trộn vào, sau đó sai người theo dõi mới hay trong đó có một vị thiên kiều bách mị là Chu cô nương. Chưởng Bát long đầu liền sai người đi mời họ đến. Ngươi yên tâm, Chu cô nương bình an đại cát, không bị tổn thương đến một sợi tóc nào đâu.

Trương Vô Kỵ trong bụng kêu khổ thầm: ?Thì ra nơi quán rượu bọn họ đã nhìn ra mình rồi. Nếu như nghĩa phụ mắt còn sáng, lão nhân gia thể nào cũng nhìn ra những điều khác thường. Ôi, ta và Chỉ Nhược không hề hay biết gì cả, không biết nghĩa phụ có được bình an không??.

Thế nhưng Trần Hữu Lượng nói chuyện tuyệt nhiên không nhắc gì đến Tạ Tốn, y nói tiếp:

- Chu cô nương và huynh đệ thành thân rồi, hai phái Nga Mi, Võ Đương đều nghe hiệu lệnh của Cái Bang, lại thêm Minh Giáo, thanh thế sẽ lừng lẫy biết chừng nào? Chỉ cần đánh bại được người Mông Cổ thì giang sơn gấm vóc này, ha ha, sẽ thay thầy đổi chủ ngay.

Y nói mấy câu đó có vẻ đắc ý lắm, cứ làm như Cái Bang đã lấy được thiên hạ rồi, và y Trần Hữu Lượng sắp sửa lên ngôi Hoàng Đế, chễm chệ ngồi trên long đình đến nơi. Chưởng Bát long đầu và Tống Thanh Thư cũng gượng cười ha ha mấy tiếng phụ họa. Trần Hữu Lượng nói:

- Thôi bọn mình đi chứ! Tống huynh đệ, Mạc thất hiệp chết cũng gần đâu đây, cái hang mình dấu xác ông ta cũng không xa là mấy, phải không nhỉ? Ngươi chạy đến đây, bỗng dưng ngựa khụy chân trước, không lẽ là do âm hồn Mạc thất hiệp hiển linh chăng? Ha ha! Ha ha!

Tống Thanh Thư không dám trả lời, ba người đi đến bên ngựa lên yên chạy đi.

Trương Vô Kỵ đợi ba người đi xa rồi mới vội vàng giúp Võ Đương tứ hiệp giải huyệt, lạy phục xuống đất, liên tiếp khấu đầu nói:

- Sư bá, sư thúc, điệt nhi ở vào cảnh hiềm nghi, không sao biện bạch được, xin sư bá sư thúc các vị xử phạt thật nặng.

Tống Viễn Kiều thở dài một tiếng, hai mắt rưng rưng, ngửng đầu nhìn trời không nói nên lời. Du Liên Châu vội vàng đỡ Trương Vô Kỵ dậy nói:

- Lúc trước chúng ta đã trách lầm ngươi, chính là chúng ta không phải. Mình là người nhà, tình như ruột thịt cháu khỏi phải nói nhiều. Nào có ai ngờ được là Thanh Thư ? ôi, nếu như chẳng phải chúng ta chính tai nghe thấy, thì ai mà dám tin?

Tống Viễn Kiều rút phắt trường kiếm nói:

- Thì ra thất đệ bắt gặp thằng súc sinh Thanh Thư ? quân chó má ? dòm trộm phòng ngủ các nữ hiệp phái Nga Mi nên mới đuổi theo thanh lý môn hộ. Ba vị sư đệ, cháu Vô Kỵ, tất cả mình đuổi theo, để cho ta chính tay giết chết tên nghịch đồ đó.

Nói xong ông liền thi triển khinh công, đuổi theo hướng Tống Thanh Thư vừa đi khỏi. Trương Tùng Khê kêu lên:

- Đại ca quay lại đã, để mình bàn thảo cho kỹ càng.

Tống Viễn Kiều không để ý tới, vẫn tiếp tục đề khí chạy thật nhanh. Trương Vô Kỵ liền vọt lên, nhún mình mấy cái đã chặn ngay trước mặt Tống Viễn Kiều, khom lưng nói:

- Đại sư bá, tứ sư bá muốn nói chuyện với sư bá. Tống đại ca bị người ta gài bẫy, về sau ắt sẽ có lúc tỉnh ra, đại sư bá muốn trách phạt gì không phải chỉ một lúc này.

Tống Viễn Kiều nghẹn ngào nói:

- Thất đệ ? thất đệ ? người anh này đối với chú thật chẳng ra gì.

Ông nghĩ tới năm xưa Trương Thúy Sơn vì có lỗi với Du Đại Nham mà vung kiếm tự sát, bây giờ mới thấu rõ cái uẩn tình của người em đồng môn, liền vung trường kiếm đưa lên cứa ngang cổ mình. Trương Vô Kỵ kinh hãi, thi triển Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp, vung tay đoạt thanh kiếm trong tay Tống Viễn Kiều, nhưng mũi kiếm vẫn rạch nơi cổ một đường, thành một vệt máu dài.

Lúc đó bọn Du Liên Châu đã chạy đến nơi, Trương Tùng Khê vội khuyên:

- Đại ca, Thanh Thư làm hành vi đại nghịch bất đạo đó, người phái Võ Đương không thể nào dung tha cho y được. Thế nhưng thanh lý môn hộ là chuyện nhỏ, hưng phục giang sơn là chuyện lớn, chúng ta không nên vì chuyện nhỏ mà bỏ chuyện lớn.

Tống Viễn Kiều trợn trừng đôi mắt, bực tức nói:

- Chú ? chú bảo thanh lý môn hộ là chuyện nhỏ? Ta ? ta sinh ra đứa con ngỗ nghịch ?

Trương Tùng Khê nói:

- Cứ như gã Trần Hữu Lượng kia nói, Cái Bang đang toan mượn tay Thanh Thư mưu hại ân sư của chúng ta để uy hiếp các đại môn phái võ lâm toan tính chuyện lấy giang sơn. An nguy của ân sư là chuyện lớn nhất của bản môn, còn họa phúc của võ lâm và bách tính là chuyện lớn nhất của thiên hạ. Việc Thanh Thư làm chuyện bất nghĩa, sớm muộn gì cũng bị báo ứng, mình bàn tính đại sự mới là cần.

Tống Viễn Kiều nghe thấy sư đệ nói có lý, hậm hực tra kiếm vào bao nói:

- Ta bụng dạ lúc này rối như tơ vò, mọi việc nghe theo tứ đệ vậy.

Ân Lê Đình lấy kim sang, thuốc men giúp ông ta buộc vết thương nơi cổ. Trương Tùng Khê nói:

- Cái Bang mưu tính chuyện bất lợi cho ân sư, lúc này lão nhân gia chưa hề hay biết gì cả, chúng ta phải đi suốt ngày đêm về núi Võ Đương. Gã Trần Hữu Lượng kia tuy nói mượn tay Thanh Thư, nhưng những kẻ gian xảo như y có trăm phương nghìn kế, đã ra ra tay rồi không chừng. Việc lớn trước mắt của anh em ta là làm sao bảo vệ tấm thân vàng ngọc của sư phụ, lão nhân gia tuổi tác đã cao, nếu như lại xảy ra việc một nhà sư Thiếu Lâm giả đến báo tin lần nữa thì bọn đệ tử như chúng mình có chết vạn lần cũng không lấy lại được.

Ông vừa nói vừa trừng mắt nhìn Triệu Mẫn đứng ở xa xa, trong lòng vẫn còn căm hận chuyện nàng cho người đến ám toán Trương Tam Phong. Tống Viễn Kiều toát mồ hôi lạnh, run run nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Ta vội chuyện truy sát nghịch tử, quên hẳn chuyện an nguy của sư phụ, thật là đáng chết. Chuyện nặng nhẹ không biết tính toán, đúng là kẻ hồ đồ.

Ông kêu luôn mồm:

- Thôi đi mau, thôi đi mau.

Trương Tùng Khê quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Vô Kỵ, việc cứu Chu cô nương cháu cố lo. Bao giờ xong việc, nhớ quay về núi Võ Đương.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cháu xin tuân lời dặn bảo của sư bá.

Trương Tùng Khê hạ giọng nói nhỏ:

- Triệu cô nương kia tính tình như lang sói, cháu phải hết sức cẩn thận. Vết xe đổ của Tống Thanh Thư cháu nên ghi nhớ, đại trượng phu nam tử hán, chớ có để vì nữ sắc mà sa chân.

Trương Vô Kỵ đỏ mặt gật đầu. Sau đó Võ Đương tứ hiệp cùng Trương Vô Kỵ đem xác Mạc Thanh Cốc chôn bên cạnh tảng đá, năm người quì xuống vái lạy khóc lóc một hồi rồi bốn người mới từ biệt ra đi.

Triệu Mẫn chậm rãi đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ hỏi:

- Tứ sư bá anh nói anh phải cẩn thận, đừng để con yêu nữ này mê hoặc, Tống Thanh Thư là cái gương trước mắt, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, bẽn lẽn nói:

- Sao em lại biết? Em có thuận phong nhĩ hay sao?

Triệu Mẫn hừ một tiếng nói:

- Em nói trước rồi đây mấy người đó sẽ không trách Tống Thanh Thư là kẻ vô loài, trái lại sẽ đổ cho Chu tỉ tỉ hồng nhan họa thủy, làm tan nát một đời của Võ Đương thiếu hiệp.

Trương Vô Kỵ nghe ra cũng có lý nhưng miệng vẫn gượng cãi:

- Bọn Tống sư bá ai ai cũng là quân tử biết điều, lẽ nào lại trách người một cách bừa bãi như thế được?

Triệu Mẫn cười khẩy:

- Càng cho mình là quân tử, thì càng hay trách người bừa bãi.

Nàng ngừng lại một lát, cười nói:

- Thôi mau đi cứu Chu cô nương của anh đi kẻo rơi vào tay Tống Thanh Thư thì anh thật xôi hỏng bỏng không.

Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên:

- Tôi việc gì mà xôi hỏng bỏng không?

--------------------------------------

[1] Môn hộ có biến cố, cần phải tẩy sạch ngay.

[2] Để lại cho con gái tên Tương

Hồi 33

TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG

Chung Nam núi cũ,

Hậu duệ Dương gia.

Nếu không lặn lội từ xa,

Biết đâu đầu não chính là kẻ gian.

Trương Vô Kỵ đi dắt hai con ngựa lại, cùng Triệu Mẫn chạy vào quan nội. Chàng nghĩ thầm nếu quả thực nghĩa phụ bị Cái Bang bắt giữ thì thể nào họ cũng dùng ông làm con tin để hiếp chế Minh Giáo nên nhất thời chắc chưa dám làm hại ông ta nhưng thể nào cũng bị chúng làm nhục, còn Chu Chỉ Nhược băng thanh ngọc khiết, gặp phải tay Trần Hữu Lượng gian trá hiểm độc, thêm Tống Thanh Thư vô liêm sỉ, nếu bị bức bách chắc chỉ còn đường chết. Chàng nghĩ bụng như thế, hận không có cánh bay nhưng Triệu Mẫn lại đang bị thương nên không thể nào ngày đêm chạy một mạch thẳng đến Lô Long.

Tối hôm đó hai người trú lại một tiểu khách điếm, Trương Vô Kỵ nằm trên giường càng nghĩ càng lo, bèn đi đến bên cửa sổ phòng Triệu Mẫn, thấy nàng thở đều, đang lúc ngủ say. Chàng đến quầy chưởng quĩ lấy bút nghiên, viết một lá thư nói là việc đang khẩn cấp, nhất định phải ngày đêm không nghỉ ra đi, bao giờ xong việc sẽ tìm cách gặp lại nhau, dặn nàng dưỡng thương cho chu đáo, cứ thư thả không việc gì phải vội về nhà. Chàng lấy chiếc nghiên chặn trên lá thư để ngay trên bàn rồi nhảy ra cửa sổ, ra sức chạy về hướng nam.

Sáng hôm sau chàng liền tìm mua ngựa, trên đường đi liên tiếp đổi thay, suốt ngày đêm ở trên đường, chỉ vài ngày đã đến Lô Long. Mặc dầu chàng đuổi nhanh như thế nhưng trên đường lại không gặp Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, có lẽ vì ban đêm chàng chạy trên đường thì Trần Tống hai người lúc đó đang ngủ trong khách điếm thành thử không gặp họ.

Lô Long là một thành phố lớn của tỉnh Hà Bắc, đời Đường là nơi đóng đô của Tiết Độ Sứ, qua đời Tống đời Kim mấy lần chiến tranh bị phá hủy rất nhiều, dân cư đông đúc nhưng nguyên khí đến nay vẫn chưa hồi phục. Trương Vô Kỵ chạy khắp các đường lớn đường bé ở Lô Long, các trà lâu tửu quán nhưng lạ lùng làm sao chẳng gặp một tên ăn mày nào. Chàng lấy làm mừng nghĩ thầm: ?Cả một thành phố lớn như thế này mà trên đường không có một tên ăn xin nào, quả thực chuyện không phải tầm thường. Trần Hữu Lượng nói Cái Bang tụ họp nơi đây quả đúng không sai, có lẽ bọn ăn mày lớn bé đều đi tham kiến bang chủ cả rồi. Chỉ cần tìm được nơi bọn chúng gặp nhau là có thể thám thính được có thực nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị họ bắt giữ hay không??. Chàng tìm kiếm khắp các nơi từ miếu mạo, đền đài, từ đường, quảng trường như không thấy chút đầu mối nào, lại đi khắp các thôn trang gần chúng quanh nhưng cũng không thấy chút tung tích gì.

Đi đến chiều, càng tìm kiếm chàng càng nôn nóng, bỗng chợt nghĩ đến cái thông minh của Triệu Mẫn: ?Giá như có nàng ở bên cạnh thì ta đâu có đến nỗi thúc thủ vô sách như thế này?. Chàng đành đi tìm một khách điếm nghỉ ngơi, ăn cơm chiều xong ngủ một giấc, đến khoảng canh hai thì nhảy lên mái nhà nhìn bốn chung quanh xem tình hình ra sao.

Chàng đưa mắt nhìn bốn bề thấy đâu đâu cũng yên tĩnh, không nơi nào có vẻ như giới giang hồ tụ họp, còn đang lo âu, bỗng thấy một tòa lầu cao nơi góc đông nam còn đèn đuốc sáng trưng, nghĩ thầm: ?Nhà này nếu không phải giới quan quyền thì cũng là kẻ giàu có, ắt không có liên quan gì đến Cái Bang??. Vừa nghĩ tới đây, bỗng chàng trông thấy như có bóng người thoắt một cái, ai đó từ trên lầu đã nhảy xuống nhưng vì khoảng cách quá xa nên không nhìn rõ, nghĩ thầm: ?Không lẽ có lục lâm hào khách nào đến ăn cướp nhà giàu có kia? Mình cũng không có việc gì làm, đi theo xem thử thế nào?.

Chàng bèn thi triển khinh công, chạy đến gần căn nhà lớn đó, phi thân nhảy qua tường, bỗng nghe có tiếng người nói:

- Trần trưởng lão quả thật nhiều chuyện, rõ ràng tất cả đã ước định đến mồng tám tháng giêng sẽ tụ tập ở Lão Hà Khẩu, vậy mà lại cấp tốc báo tin truyền đến bảo bọn mình ở đây chờ. Y đâu phải là bang chủ mà nói gì là ai cũng phải theo, thật vô lý hết sức.

Tiếng nói đó nghe vang vang nhưng giọng điệu có vẻ bực tức chỉ nghe cũng biết là người trong Cái Bang đang bàn chuyện nội bộ. Trương Vô Kỵ vừa nghe xong lấy làm mừng rỡ.

Tiếng nói đó từ đại sảnh truyền ra, chàng mon men đến gần, thấy tiếng bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long nói:

- Trần trưởng lão quả là hết xẩy, cái tên Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn con mẹ kia, hai chục năm qua biết bao nhiêu người trên giang hồ đi kiếm y, đếch có ai thấy được chút lông rụng, ngửi được hơi rắm nào của y vãi ra, vậy mà Trần trưởng lão thò tay là túm được ngay, không nói chi bản bang không ai bằng mà trong võ lâm cũng có đứa nào làm được đâu ?

Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, nghĩ thầm tung tích của nghĩa phụ mình đã biết được rồi, trong Cái Bang không có cao thủ nào thật là ghê gớm, chuyện cứu ông ra không phải là khó khăn nên đến gần ghé mắt nhìn qua khe cửa.

Chỉ thấy Sử Hỏa Long ngồi chễm chệ nơi chính giữa, Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bổng long đầu và ba tên trưởng lão tám túi khác ngồi bên dưới, lại thêm một người trung niên mập mạp ăn mặc sang trọng, trông tướng tá quần áo ra vẻ một người giàu có nhưng trên lưng lại đeo sáu cái bị. Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: ?Đúng rồi, thì ra có một đại tài chủ ở Lô Long là đệ tử Cái Bang. Bọn ăn mày tụ tập ở nhà một tay cự phú thì làm sao có ai nghĩ đến được?.

Lại nghe Sử Hỏa Long tiếp lời:

- Trần trưởng lão đã đưa tin đến nói bọn ta chờ ở Lô Long, hẳn cũng có lý do. Chúng ta mưu toan đại sự, con mẹ nó, cái đó, cái đó, mình phải hết sức cẩn thận mới được.

Chưởng Bổng long đầu nói:

- Bang chủ minh giám, quần hào trên giang hồ tìm kiếm Tạ Tốn cũng chỉ vì muốn chiếm đoạt thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn mà thôi. Bây giờ thanh đao đó không có trong tay Tạ Tốn, mình đã làm đủ cách uy hiếp có, đánh lừa có, nặng có nhẹ có, y vẫn nhất định không thổ lộ nơi dấu thanh đao. Bọn mình thành ra chỉ bắt được một thằng mù, ngoài việc mời y ăn uống nhậu nhẹt, có ích lợi gì đâu? Cứ theo ý huynh đệ, mình cứ tra khảo y một phen cho thật nặng xem y có nói không nào?

Sử Hỏa Long vội vàng xua tay:

- Không được, không được đâu, dùng biện pháp nặng có khi làm hỏng việc lớn, cứ đợi Trần trưởng lão về, lúc đó bàn bạc cho kỹ hãy hay.

Chưởng Bổng long đầu mặt lộ vẻ bất bình, dường như không vui khi thấy chuyện gì bang chủ cũng phải nghe theo lời Trần Hữu Lượng.

Sử Hỏa Long lấy ra một phong thư, đưa cho Chưởng Bổng long đầu nói:

- Phùng huynh đệ, ngươi lập tức đi Hào Châu, đưa phong thư này cho Hàn Sơn Đồng, nói là con trai y đang ở trong tay mình, bình an vô sự, chỉ cần Hàn Sơn Đồng nghe lệnh của bản bang, chúng ta sẽ đối đãi với con y thật tử tế.

?Chưởng Bổng long đầu nói:

- Chuyện đưa thư nhỏ nhặt này, việc gì mà phải đích thân huynh đệ đi mới xong?

Sử Hỏa Long mặt hơi sầm xuống nói sẵng:

- Nửa năm nay bọn Hàn Sơn Đồng thanh thế lớn lắm, nghe nói dưới tay y, con mẹ nó, có những gì Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân là bọn đánh trận ra trò lắm. Lần này ta nói Phùng huynh đệ tự mình ra đi, trước là thuyết phục Hàn Sơn Đồng qui thuận bản bang, sao cho y tâm phục khẩu phục, lại quan sát xem y và các tướng lãnh có đứa nào ra hồn không, kế đến thám thính xem bọn Minh Giáo lực lượng con mẹ nó có cái gì ghê gớm. Công việc Phùng huynh đệ gánh vác nặng nề như thế sao lại bảo là nhỏ nhặt được?

Chưởng Bổng long đầu không dám phản đối gì thêm liền nói:

- Xin tuân lệnh bang chủ sai bảo.

Y nhận lấy phong thư, quay sang Sử Hỏa Long hành lễ rồi ra khỏi sảnh. Trương Vô Kỵ nán lại nghe thêm chỉ thấy bọn họ bàn về việc sau này Minh Giáo, Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi các phái qui thuận rồi Cái Bang sẽ hưng thịnh uy phong ra sao. Xem ra dã tâm của Sử Hỏa Long không to lớn như của Trần Hữu Lượng, chỉ mong Cái Bang độc bá giang hồ, xưng hùng võ lâm cũng đã thỏa nguyện lắm rồi, chứ không nghĩ tới chuyện chiếm được giang sơn lên ngôi hoàng đế, trong lời ăn tiếng nói dùng những chữ thật là nham nhở thô tục. Chàng nghe một hồi cảm thấy chán ghét, nghĩ thầm: ?Chắc là nghĩa phụ và Chỉ Nhược bị giam nơi đây, ta đến cứu họ ra trước đã, rồi sau đó sẽ trừng trị tên ăn mày khoác lác, vô liêm sỉ này một trận?.

Chàng nhún một cái, nhẹ nhàng nhảy lên một cây cao, nhìn chung quanh bốn phía, thấy dưới một cái lầu cao có mươi tên đệ tử Cái Bang tay cầm binh khí, đi qua đi lại tuần phòng, xem ra đó là chỗ giam giữ Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược.

Chàng tuột xuống khỏi cây, đi đến bên cái lầu, náu mình sau một tòa giả sơn, đợi hai tên đệ tử Cái Bang đi tuần qua rồi liền chạy ngay đến nhảy vọt lên. Trên lầu đèn đuốc sáng trưng, chàng bèn hụp xống bên ngoài cửa sổ, lắng tai nghe động tĩnh bên trong. Nghe một hồi thấy bên trong hoàn toàn yên tĩnh, chàng lấy làm lạ: ?Sao bên trong chẳng có một ai là sao? Không lẽ cao thủ nằm phục bên trong có thể nhịn hơi lâu đến thế??. Lại một lúc nữa, vẫn không nghe thấy tiếng hô hấp, Trương Vô Kỵ dưa mắt theo kẽ hở nhìn vào trong, thấy trên bàn một đôi nến lớn cháy đã hơn nửa nhưng phòng hoàn toàn không có bóng người.

Ở trên lầu có cả thảy ba phòng, xem ra phòng phía đông không có ai, chàng liền đến phòng phía tây thăm dò. Trong phòng cũng đầy đèn đuốc, trên bàn còn bát chén ngổn ngang, phải đến bảy tám người ăn, trong chén rượu cặn, đồ ăn thừa vẫn còn, nhưng không có ai, dường như mới ăn uống xong rồi ra khỏi phòng chưa lâu. Phòng ở giữa tối om không đèn đuốc. Chàng nhè nhẹ đẩy cửa nhưng bên trong có cài then, liền thì thầm gọi:

- Nghĩa phụ ở trong này phải không?

Tuy nhiên không có tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Xem chừng nghĩa phụ không có ở đây, nhưng sao người của Cái Bang canh gác nghiêm mật là thế nào? Chẳng lẽ họ cố ý lấy thực làm hư, lấy hư làm thực chăng??.

Chàng bỗng ngửi thấy mùi máu tanh từ trong phòng tỏa ra, trong lòng kinh hãi, tay trái giữ cửa, hơi đẩy nội lực, nghe cách một tiếng nhỏ, chiếc then cửa đã gãy đôi. Chàng lập tức lẻn vào trong phòng, bắt ngay lấy hai miếng then gỗ để khỏi rơi xuống phát xuất ra tiếng động.

Chàng mới bước vào được một bước, chân đã vấp phải vật gì mềm mềm dường như thân người vội cúi xuống mò thử quả nhiên là một cái xác chết. Người đó đã tắt hơi từ lâu nhưng mặt vẫn còn hơi ấm hiển nhiên chết chưa lâu. Chàng mò thử người này thấy đầu nhỏ, mặt thỏn không phải Tạ Tốn nên cũng yên lòng. Chàng tiến thêm một bước nữa lại đụng phải hai cái xác người khác, bèn giơ tay chọc một lỗ nhỏ ở vách phía tây, ánh nến từ bên phòng bên chiếu qua. Chỉ thấy dưới sàn nằm la liệt những xác người toàn là đệ tử Cái Bang, đều bị nội thương rất nặng. Chàng nhắc một cái xác lên xem, cởi áo ra thấy trên ngực vẫn còn dấu quyền đánh vào, gân cốt đứt hết, quyền lực thật là uy mãnh.

Trương Vô Kỵ mừng lắm: ?Thì ra nghĩa phụ đại triển thần uy, đánh chết hết bọn người canh gác rồi bỏ đi?. Chàng xem xét trong phòng, quả nhiên nơi góc ông dùng vật gì nhọn sắc khắc một hình lửa bốc cháy, chính là ký hiệu của Minh Giáo. Chốt cửa sổ cũng gãy lìa, cánh cửa chỉ khép hờ, liền nghĩ ra: ?Đúng rồi, hồi nãy ta có thấy một bóng người chắc là nghĩa phụ thoát thân chạy ra, nhưng không biết vì sao bọn Cái Bang lại bắt được ông? Chắc là bởi vì ông không nhìn thấy nên khó mà đề phòng gian kế của Cái Bang. Nếu chúng không dùng thuốc mê thì cũng dùng những loại dây chăng, câu liêm, lưới cá chi đó để trói ông lại?.

Trương Vô Kỵ mừng không để đâu cho hết, chạy ra ngoài phòng, nép mình vào bên cạnh cánh cửa nhìn xuống phía dưới, thấy bọn đệ tử Cái Bang vẫn qua lại tuần phòng, hoàn toàn không biết tí gì về biến cố ở lầu trên, nghĩ thầm: ?Nghĩa phụ đi khỏi chưa lâu mình phải đuổi theo ông ta rồi hai cha con quay lại đánh chúng một trận long trời lở đất cho bọn ăn mày biết tay Minh Giáo?.

Chàng nghĩ bụng như thế, hào khí nổi lên bừng bừng, nhớ lại hồi nãy thấy bóng đen đó chạy về hướng tây nên nhảy xuống, chân điểm vào một cây cao, vọt ra ngoài tường, đề khí nhắm hướng tây chạy cho nhanh.

Chàng cứ theo đường cái chạy được vài dặm, đến một ngã rẽ, nhìn quanh quất quả thấy đằng sau một tảng đá có vẽ dấu hiệu ngọn lửa chỉ về hướng một đường nhỏ ở phía tây nam. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm hành tung của nghĩa phụ đã rõ ràng chắc chẳng mấy chốc sẽ gặp lại. Những ám hiệu liên lạc của Minh Giáo chàng đã được Dương Tiêu chỉ dẫn tường tận, lại thấy dấu hiệu hình ngọn lửa này tuy chỉ mấy nét nguệch ngoạc, nhưng nét nào nét nấy kình lực mạnh mẽ, già dặn nếu không phải là người văn võ toàn tài như Tạ Tốn, trong Minh Giáo quả không một ai có thể làm được.

Lúc này chàng không còn hoài nghi gì nữa cứ theo con đường nhỏ mà đuổi theo, tới tận Sa Hà Dịch[1] thì trời đã mờ mờ sáng. Chàng bèn ghé quán mua mấy chiếc bánh bao ăn qua quít cho đỡ đói, rồi lại theo hướng tây đuổi tiếp đến Bổng Tử Trấn. Chàng lại thấy ở góc đường dưới chân tường có vẽ một ngọn lửa khác chỉ về một từ đường đổ nát. Chàng mừng thầm, chắc mẩm nghĩa phụ ẩn thân nơi đây nên chạy đến bên cửa, nghe thấy tiếng lao xao, trong sảnh có một đám vô công rồi nghề đang đánh bạc, thì ra đây là một sòng bài.

Tên đầu nậu đám bạc thấy Trương Vô Kỵ ăn mặc sang trọng, tưởng là một đại hào khách tới chơi, vội vàng cười hề hề chạy ra đón vào, hỏi:

- Mời công tử gia lại đổ vài bàn, ngài đang vận may, thể nào cũng vơ sạch cả làng.

Y quay lại nói với đám con bạc:

- Mau nhường công tử làm cái, các ngươi đem tiền ra đặt cho to để công tử ôm về phủ.

Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, thấy đám con bạc không người nào thuộc giới giang hồ, lớn tiếng gọi:

- Nghĩa phụ! nghĩa phụ! Lão nhân gia có ở đây không?

Đợi một lát không nghe tiếng trả lời, chàng lại kêu thêm lần nữa. Một tên vô lại thấy chàng không phải đến để đánh bạc mà chỉ đến kêu réo om xòm làm náo loạn cả lên, liền đáp lời:

- Này con ơi! Bố mày ở đây, mau mau lại đây đổ vài bàn đi nào.

Bọn du thủ du thực liền cười ầm cả lên. Trương Vô Kỵ hỏi tên chủ sòng:

- Ngươi có thấy một đại gia tóc vàng, thân thể cao to, hai mắt mù tới đây không?

Tên chủ sòng thấy chàng không đến để vui cuộc đỏ đen mà chỉ cốt tìm người, trong bụng thất vọng, cười nói:

- Chuyện khéo ngược đời, có ai mắt mù mà lại đến đây đánh bạc bao giờ? Chắc thằng mù đó cũng khùng khùng nữa phải không?

Trương Vô Kỵ đi kiếm nghĩa phụ chẳng thấy đâu, trong bụng đã bực lại nghe tên chủ sòng và tên vô lại ăn nói hỗn hào, làm nhục cả đến nghĩa phụ mình, liền tiến lên vung hai tay ra, chộp cổ cả tên chủ sòng lẫn tên du côn kia, hẩy một cái ném cả hai đứa lên trên mái nhà. Hai gã đó tuy chưa bị thương nhưng sợ đến kêu oai oái như heo bị chọc tiết. Trương Vô Kỵ đẩy dạt bọn đánh bạc ra, cầm lấy hai đĩnh bạc trên bàn nói:

- Công tử gia thu tiền về phủ đây.

Chàng bỏ vào bọc, hung hăng đi ra khỏi từ đường, bọn vô lại sợ đến mất hết hồn vía, chẳng đứa nào dám đuổi theo.

Chàng tiếp tục đi về hướng tây, không lâu lại gặp một dấu hiệu ngọn lửa nữa. Đến chiều hôm đó chàng đến Phong Nhuận, là một thành phố lớn của Ký Bắc, theo ký hiệu đã chỉ tìm đến một khu nhà tường quét vôi, cửa sơn đen. Căn nhà đó chiếc khoen đồng ngoài cửa sáng loáng, bên trong hoa mai sắp nở, chủ nhân hẳn là người u nhã thanh khiết. Chàng cầm chiếc vòng đồng, lắc nhẹ ba tiếng. Chẳng bao lâu có tiếng chân người sột soạt, nghe kẹt một tiếng, mũi ngửi thấy một mùi thơm nồng, một con a hoàn mặc quần áo màu hồng, bên ngoài khoác áo lông ngắn ra mở cửa. Con bé nhoẻn miệng cười nói:

- Gớm sao công tử gia lâu quá không đến chơi, thư thư nhớ công tử quá, xin mời công tử vào uống trà.

Nói xong con a hoàn lại cười mủm mỉm, nháy mắt một cái. Trương Vô Kỵ bàng hoàng, thật không hiểu ra sao, hỏi lại:

- Ngươi biết ta chăng? Tỉ tỉ ngươi là ai mới được chứ?

Đứa tớ gái lại cười:

- Công tử biết thừa rồi còn giả vờ, thôi vào mau đi, để cho thư thư tôi khỏi thêm khắc khoải.

Nói rồi đưa tay nắm tay Vô Kỵ, dẫn vào trong. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ:

- Sao con bé này vừa gặp mình mà làm như quen từ lâu?

Nhưng chàng nghĩ ngay: ?À, đúng rồi, chắc là Chỉ Nhược ở nơi đây, biết mình hôm nay thể nào cũng theo ký hiệu tìm đến nên sai con a hoàn này ngày đêm canh cửa. Ôi, lâu nay không gặp, Chỉ Nhược bụng dạ khắc khoải nhớ mình là phải rồi?.

Chàng trong lòng thấy ấm lại, liền đi theo đứa hầu gái, đi hết một con đường trải đá trứng ngỗng, qua một cái viện tới một sương phòng. Một con anh vũ treo trên hiên quang quác cất tiếng:

- Tình ca ca đến rồi! Tỉ tỉ! Tình ca ca đến rồi!

Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, nghĩ thầm: ?Đến cả con vẹt cũng còn biết mình nữa?.

Trong phòng ghế ngồi đều bọc gấm, trên bàn để một lư hương, lửa cháy bừng bừng, ấm áp chẳng khác gì mùa xuân. Con tiểu hoàn quay mình đi ra, trong chốc lát bưng một mâm để đầy trái cây cùng các món điểm tâm đủ màu, lại thêm một bình trà xanh. Đứa tớ gái nhẹ nhàng rót một ly trà đưa cho Vô Kỵ nhưng lại tiện thể véo ngay cổ tay chàng một cái. Trương Vô Kỵ hơi nhíu mày, nghĩ thầm: ?Sao con tiểu a đầu này lại sỗ sàng đến thế??. Thế nhưng chàng nể mặt Chu Chỉ Nhược nên không tiện trách cứ nó, liền hỏi:

- Tạ lão gia thế nào? Chu cô nương ở đâu?

Con hầu gái cười đỏng đảnh:

- Công tử hỏi Tạ lão gia làm gì? Chẳng lẽ ghen hay sao? Tỉ tỉ tôi đến ngay bây giờ đây, việc gì công tử phải bồn chồn đến thế. Gớm! Công tử thật là bạc bẽo, đến nhà chúng tôi mà trong lòng vẫn còn khắc khoải Chu cô nương, Vương cô nương nào đâu!

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nói:

- Sao ngươi cứ nói lăng nói nhăng, không đâu vào đâu cả?

Con a hoàn bĩu môi cười lại quay ra. Một lúc sau, nghe thấy tiếng vòng đeo leng keng, rèm vén lên, con tớ gái đỡ một cô gái độ chừng hăm mốt, hăm hai, uyển chuyển đi vào. Cô gái mặt mũi trắng trẻo, lông mày cong vút, cũng khá xinh xắn, bên mép phải có điểm thêm một nốt ruồi duyên, mắt lóng lánh đưa tình, chưa nói mà mắt đã hàm một nụ cười[2]. Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương nồng xông lên mũi, trong lòng cảm thấy lâng lâng. Thiếu nữ đó hỏi:

- Tướng công quí tính là gì? Hôm nay có thì giờ rảnh rỗi ghé thăm, tiểu nữ thật là vinh hạnh.

Cô gái vừa nói vừa giơ tay vịn vào vai chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ bừng, vội vàng tránh qua nói:

- Tôi họ Trương. Có một vị Tạ lão gia và một cô nương họ Chu, hiện nay có ở đây không?

Cô gái kia cười:

- Đây là Lê Hương Viện, nếu công tử muốn tìm Chu Tiêm Tiêm[3], xin mời đến Bích Đào Cư. Tướng công bị con bé kia làm cho mê mẩn mất hồn, đến Lê Hương Viện mà lại hỏi Chu Tiêm Tiêm? Hì hì!

Trương Vô Kỵ chợt hiểu ra, thì ra nơi đây chính là một kỹ viện, vội nói:

- Xin lỗi nhé.

Chàng liền quay mình đi ra. Con tiểu hoàn chạy theo, kêu lên:

- Công tử gia, thư thư chúng tôi có gì kém Chu Tiêm Tiêm đâu nào? Sao công tử không nán lại một chút?

Trương Vô Kỵ hấp tấp xua tay, thò tay vào bọc lấy ra một đĩnh bạc mới cướp ở sòng bạc ném xuống đất, phi thân chạy ra khỏi cửa. Qua một lần lôi thôi như thế, tâm thần chàng không bình tĩnh lại được, trời lại sắp tối, ban đêm e sẽ không nhìn ra dấu hiệu ngọn lửa chỉ đường nên Vô Kỵ bèn tìm một khách điếm nghỉ ngơi. Chàng trong bụng hoang mang: ?Nghĩa phụ sao lại đi vào nơi đánh bạc? Rồi lại tới kỹ viện? Hai chuyện đó lão nhân gia có ý muốn nói gì??. Chàng ngủ đến nửa đêm đột nhiên tỉnh đậy: ?Nghĩa phụ hai mắt đã mù sao trên đường lại có thể để nhiều dấu hiệu đến thế? Hay là có Chỉ Nhược ở bên cạnh chỉ dẫn? Hay là kẻ địch cố ý giả mạo ký hiệu của bản giáo để trêu ghẹo mình chăng? Để dẫn mình vào nơi đã mai phục? Hừ, dù cho có đầm rồng hang hổ, tốt xấu thế nào ta cũng xông vào một phen?.

Sáng hôm sau trở dậy, chàng lại tìm ra ký hiệu ngọn lửa ở ngoài thành Phong Nhuận, vẫn chỉ về hướng tây. Quá trưa chàng đến Ngọc Điền, thấy dấu hiệu chỉ vào một nhà giàu có, trước nhà treo đèn kết hoa, trên các đèn lồng có viết ?Chi Tử Vu Qui? bằng mực son, trong nhà trống chiêng rầm rĩ, khách khứa đầy sân, chính là đang lúc làm đám cưới, xem ra con gái nhà ai đi lấy chồng. Trương Vô Kỵ lần này dè dặt hơn, không dám xông vào hỏi Tạ Tốn chỉ lẫn lộn trong đám khách khứa nghe ngóng tình hình, thấy không có gì lạ liền lẻn ra đi tìm ký hiệu, quả nhiên kiếm thấy nơi một gốc cây to.

Dấu hiệu lại dẫn chàng đi từ Ngọc Điền đến Tam Hà, rồi quẹo qua hướng nam đến mãi tận Hương Hà. Đến lúc này chàng đã nghĩ đến việc người của Cái Bang có thể đã biết được tung tích của chàng nên dùng kế Điệu Hổ Ly Sơn dụ cho chàng đi thật xa để ra tay làm trò ma mãnh âm độc. Mặc dù nóng ruột nhưng chàng vẫn không dám bỏ qua không đuổi theo ký hiệu, ngại rằng biết đâu của Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược để lại thật thì sao? ?Nếu quả thực hai người đang bị một kẻ địch thật lợi hại truy kích, trong lúc chạy trốn, cố ý để lại dấu hiệu mong mình đến kịp cứu viện, vậy mà mình tự cho rằng thông minh, quay trở lại Lô Long, nếu như nghĩa phụ và Chỉ Nhược vì thế mà bị nạn, thì biết tính sao? Việc đã đến nước này, chỉ còn việc phải đuổi theo ký hiệu ngọn lửa, đuổi cho tới cùng mới thôi?.

Chàng từ Hương Hà chạy qua Bảo Thành, rồi quay về Đại Bạch Trang thì đã đi về hướng đông nam, đến Ninh Hà thì dấu hiệu ngọn lửa biến mất không còn thấy đâu nữa. Chàng ở Ninh Hà tra xét kỹ càng, không có gì khác lạ, nghĩ thầm: ?Quả nhiên người của Cái Bang cố ý dẫn dụ ta tới đây, khiến cho mình chạy mất mấy ngày công toi?.

Chàng bèn mua một con ngựa cưỡi quay về Lô Long, đến tiệm quần áo mua một chiếc trường bào màu trắng, mượn bút son, vẽ lên một ngọn lửa đang bốc cháy thật lớn, quyết ý đường đường chính chính dùng thân phận giáo chủ Minh Giáo xông vào tổng đàn Cái Bang gây sự.

Chàng thay áo, hùng hùng hổ hổ đi đến trước căn nhà của gã tài chủ, thấy hai cánh cửa sơn đỏ thật lớn đóng kín mít, những chiếc đinh đồng sáng bóng to bằng miệng chén đóng trên cửa. Chàng đẩy tay ra nghe bình một tiếng, hai cánh cửa bay vọt vào trong viện, nghe loảng xoảng loảng xoảng liên tiếp, đã đập vỡ tan hai chiếc bồn nuôi cá vàng.

Mấy hôm nay chàng lo cho nghĩa phụ và Chu Chỉ Nhược, lại bị người ta liên tiếp đùa rỡn, chạy đôn chạy đáo một vòng thật lớn ở Ký Bắc, trong bụng vừa giận dữ, vừa uất ức không có chỗ nào phát tiết, bây giờ trở về tổng đà Cái Bang nhất định phải làm tan hoang một trận. Chàng phá vỡ cái cửa rồi, hung hăng đi vào, sửa giọng quát lớn:

- Người của Cái Bang nghe đây, mau gọi Sử Hỏa Long ra gặp ta.

Trong viện có độ mươi tên đệ tử bốn năm túi, thấy hai chiếc cánh cửa bay tới đã hoảng hồn, lại thấy một thanh niên áo trắng xông vào, lập tức bảy tám đứa liền kêu gào ỏm tỏi, hò hét xông ra chặn lại:

- Ai đó? Muốn gì đây?

Trương Vô Kỵ hai tay vung ra, lập tức có bảy tám tiếng bình bình, những đệ tử Cái Bang đã bị hất văng đi, đụng vào một chiếc cửa vỡ tan tành. Chàng đi qua đại sảnh, đánh ra một chưởng lại vỡ tan cửa chính, thấy trong sảnh bày một bàn tiệc, Sử Hỏa Long ngồi ngay chính giữa. Một bầy thủ lãnh Cái Bang nghe thấy có tiếng huyên náo ở bên ngoài, liền sai người ra xem xét. Thế nhưng Trương Vô Kỵ tiến vào quá nhanh, gã đệ tử bảy túi hấp tấp đi ra, vừa đến giữa đường bị chàng chộp ngay ngực ném ngay về phía Sử Hỏa Long.

Gã chủ nhân hình dáng trông như tài chủ ngồi ở bên dưới, thấy gã đệ tử bảy túi bay tới, liền giơ tay ôm lấy. Y vừa chộp được bỗng thấy một luồng kình lực như bài sơn đảo hải ập vào, vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy, nào ngờ lịch bịch thoái lui đến bảy tám bước, lưng đụng vào một cái cột lúc ấy mới gượng lại được. Y vội buông tên đệ tử bảy túi rơi phịch xuống đất, thở hồng hộc, người mất hết hơi sức xụm luôn xuống chân cột. Người trong Cái Bang nhìn thấy thế ai nấy đều kinh hãi.

Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, vừa mừng vừa ngạc nhiên, thấy ngồi bên trái chiếc bàn là một thiếu nữ, chẳng ai xa lạ chính là Chu Chỉ Nhược, ngồi bên cạnh nàng là Tống Thanh Thư. Chu Chỉ Nhược mừng rỡ kêu lên một tiếng:

- Vô Kỵ ca ca!

Nàng liền đứng dậy nhưng lảo đảo ngã phịch xuống đất. Trương Vô Kỵ kinh hãi, vội tiến lên cúi xuống đỡ nàng lên. Chàng chưa kịp chưa đứng thẳng người đã nghe bốp một cái, lại bịch một tiếng sau lưng, đã bị Tống Thanh Thư đánh trúng một chưởng, thêm một đệ tử Cái Bang đấm cho một cái.

Lúc này Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã vận lên khắp người, một quyền một chưởng đó đánh vào lưng, chưởng lực quyền lực đều bị tiêu tan. Chàng bế Chu Chỉ Nhược lên, nhảy vọt trở lại đằng sau hỏi:

- Nghĩa phụ đâu?

Chu Chỉ Nhược ấp úng:

- Em ... em ...

Trương Vô Kỵ hỏi thêm lần nữa:

- Lão nhân gia có sao không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Em bị bọn chúng điểm trúng huyệt đạo ...

Trương Vô Kỵ chỉ quan tâm đến Tạ Tốn, vẫn hỏi tiếp:

- Nghĩa phụ ra sao?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Cũng không biết nữa, em bị họ bắt tới đây, từ đó đến nay chẳng biết nghĩa phụ ra sao.

Trương Vô Kỵ giơ tay xoa bóp mấy chỗ khớp xương ở chân nàng, rồi để xuống đất. Nào ngờ thủ pháp điểm huyệt trên người Chu Chỉ Nhược thật là lạ lùng, mấy cái xoa bóp của Trương Vô Kỵ không hiệu quả. Hai chân nàng tuy đã đặt trên mặt đất nhưng không sao đứng lên được, đầu gối khuỵu xuống, ngồi bệt xuống đất.

Người trong Cái Bang lục tục đứng lên, chạy ra ngoài bậc thềm. Sử Hỏa Long vòng tay hỏi:

- Các hạ có phải là Trương giáo chủ của Minh Giáo chăng?

Trương Vô Kỵ nghĩ y là thân phận bang chủ một bang, không thể để mất phép tắc, liền ôm quyền đáp lễ nói:

- Không dám, tại hạ mạo muội xông vào tổng đà của quí bang, xin Sử bang chủ tha cho tội vô lễ.

Sử Hỏa Long nói:

- Trương giáo chủ mấy năm nay danh chấn giang hồ, tại hạ như sấm ... cái gì gì vang bên tai, hôm nay được thấy thân thủ của lão huynh, quả nhiên thật là lợi hại, ha ha, bội phục, bội phục.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ đến quả lỗ mãng, chỉ làm trò cười cho Sử bang chủ. Nghĩa phụ tại hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn có ở đây không? Xin đưa lão nhân gia ra cho gặp mặt.

Sử Hỏa Long mặt hơi đỏ lên, nhưng lại lên tiếng cười ha hả ngay được nói:

- Trương giáo chủ tuổi tuy còn trẻ mà sao ăn nói đã ngoa ngoắt đến thế. Chúng tôi có lòng tốt, mời Tạ Sư Vương đến ... đến à à ... uống chén rượu, ngờ đâu Tạ Sư Vương ra đi không một lời từ giã, còn ra tay đánh chết tám tên đệ tử bản bang, con bà nó, cái món nợ đó giờ tính sao đây? Xin Trương giáo chủ thanh toán giùm.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nghĩ thầm: ?Tám tên đệ tử Cái Bang quả nhiên bị nghĩa phụ ta dùng trọng thủ đấm chết. Xem ra lão nhân gia quả không có nơi đây nhưng không biết đi đâu??. Chàng bèn nói:

- Thế còn vị Chu cô nương này thì sao? Sao quí bang lại bắt giữ cô ta ở đây là thế nào?

Sử Hỏa Long ấp úng:

- Cái đó ... cái đó ...

Trần Hữu Lượng liền xen vào:

- Người ta bảo Trương Vô Kỵ của Minh Giáo võ công tuy cao siêu nhưng là một tên tiểu ma đầu ngang ngược chỉ giỏi tài vừa đánh trống vừa ăn cướp ... ha ha ...

Trương Vô Kỵ sầm mặt xuống hỏi:

- Cái gì?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Hôm nay mới gặp, hà hà, quả thật là cây có bóng, người có danh, đúng thật không sai chút nào.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Ta ngang ngược vừa đánh trống vừa ăn cướp ở chỗ nào?

Trần Hữu Lượng nói:

- Vị Chu cô nương này là chưởng môn phái Nga Mi, một nhân vật thủ não của danh môn chính phái, có liên can gì đến bọn bàng môn tả đạo các ngươi đâu? Còn Tống Thanh Thư huynh đệ đây là nhân tài đời sau của phái Võ Đương, cùng Chu cô nương trai tài gái sắc, quả thật môn đương hộ đối, như ngọc có đôi, xứng duyên vừa lứa. Hai người cùng nhau đi qua đây, Cái Bang mời làm khách đến uống chung chén rượu, có gì mà giáo chủ Minh Giáo phải can thiệp vào? Tức cưới ơi là tức cười!

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nếu quả Chu cô nương là khách của các ngươi, sao bọn chúng bay lại phải điểm huyệt cô ta?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Chu cô nương vốn dĩ đang vui vẻ ngồi đây ăn uống, nói chuyện thoải mái, ai bảo là cô ta bị điểm huyệt? Cái Bang và phái Nga Mi uyên nguyên rất sâu xa, đời đời giao hảo. Quách nữ hiệp tổ sư sáng phái của phái Nga Mi chính là con gái của Hoàng bang chủ tệ bang đời trước, Gia Luật bang chủ lại là là anh rể của Quách nữ hiệp. Trong võ lâm trừ bọn trẻ con miệng còn hôi sữa vô tri có ai mà không biết chuyện đó. Làm sao Cái Bang chúng ta lại dám đắc tội với người chưởng môn phái Nga Mi? Trương giáo chủ bạ đâu nói đó chẳng khiến anh hùng thiên hạ chê cười cho sao?

Trương Vô Kỵ cười khẩy đáp:

- Nói như thế chắc là Chu cô nương tự mình điểm huyệt mình phải không?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Cái đó chưa hẳn thế. Ở đây ai ai cũng đều nhìn thấy, Trương giáo chủ nhảy tới, toan giở trò phi lễ ôm luôn Chu cô nương. Chu cô nương dãy dụa không chịu, tôn giá liền thuận tay điểm huyệt cô ta. Trương giáo chủ, vẫn biết là anh hùng khó qua khỏi cửa mỹ nhân, cái tính hiếu sắc ai mà chẳng có, nhưng ngay chốn đại điện đông người, trăm mắt đổ dồn vào, vậy mà Trương giáo chủ có hành vi ghẹo nguyệt trêu hoa như thế, chẳng quá ư mất thân phận hay sao?

Mồm miệng Trương Vô Kỵ vốn không sao bì được với Trần Hữu Lượng, bị y nói ngang nói ngược như thế, tuy tức lắm nhưng không sao giãi bày được, mặt xanh xám, quát lên:

- Nói như thế, chúng bay không chịu cho ta hay nghĩa phụ ta ở đâu, phải không?

Trần Hữu Lượng lớn tiếng đáp:

- Trương giáo chủ, Quang Minh sứ giả Dương Tiêu của quí giáo năm xưa gian sát Kỷ Hiểu Phù nữ hiệp của phái Nga Mi, võ lâm đồng đạo trong thiên hạ không ai là không căn hờn mắng nhiếc. Nếu ngươi tự thị võ công cao cường, lại giở trò đê tiện đó ra thì ắt không thoát khỏi công đạo đâu.

Trương Vô Kỵ quay lại nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chỉ Nhược, em nói lên tại sao bọn họ bắt cóc em tới đây xem nào?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Em ... em ... em ...

Nàng liên tiếp ấp úng ba tiếng ?em? đột nhiên thân hình lảo đảo, hôn mê bất tỉnh. Bọn ăn mày lập tức kêu la rầm rĩ:

- Minh Giáo ma đầu giết người rồi!

- Trương Vô Kỵ bức gian không được, giết chết chưởng môn phái Nga Mi!

- Giết chết dâm tặc Trương Vô Kỵ để trừ hại cho thiên hạ!

Trương Vô Kỵ giận lắm, lập tức xông tới chỗ Sử Hỏa Long, nghĩ thầm: ?Bắt giặc phải bắt đầu đảng trước, chỉ cần bắt được gã họ Sử là mọi việc sẽ xong, ép bọn chúng phải nói cho ra tung tích nghĩa phụ?.

Chưởng Bổng long đầu và Chấp Pháp trưởng lão lập tức tiến ra chặn lại. Chưởng Bổng long đầu múa cây thiết bổng còn Chấp Pháp trưởng lão thì tay phải cầm cương câu, tay trái cầm thiết quài, hai người ba món binh khí, cùng vây đánh. Trương Vô Kỵ hú lên một tiếng thánh thót, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, leng keng hai tiếng, cương câu trong tay Chấp Pháp trưởng lão liền gạt ngay gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu ra, còn đơn quài của y thì đâm luôn vào sườn đồng bọn.

Truyền Công trưởng lão đứng bên cạnh cũng giơ kiếm đâm tới, kêu lên:

- Tên tiểu tử này võ công quái dị lắm, các anh em phải cẩn thận.

Soẹt soẹt soẹt ba kiếm liền, khí thế vùn vụt như cầu vồng, liên tiếp đâm vào bụng và ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy y chiêu số ác hiểm, kêu lên:

- Hảo kiếm pháp!

Chàng nghiêng người né tránh, ngón tay trỏ bên trái điểm vào đùi y. Kiếm của Truyền Công trưởng lão lập tức cuộn về, mũi kiếm chém luôn vào ngón tay Trương Vô Kỵ. Chiêu đó biến đổi thật nhanh, mũi kiếm không sai một ly nào, chỉ một chiêu đó cũng đã ít thấy trong võ lâm. Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: ?Cái Bang danh dương giang hồ hàng trăm năm qua không suy sụp, trong bang ngọa hổ tàng long thật không thiếu nhân tài?.

Hôm trước nơi miếu Di Lặc chàng đã thấy Huyền Minh nhị lão đấu với các cao thủ trong bang, chỉ vì còn đang ẩn mình trên cây không dám ló đầu ra nên chưa nhìn được kỹ càng, lúc này chính chàng giao đấu với họ mới biết Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão quả là cao thủ bậc nhất trên đời. Chưởng Bổng long đầu hỏa hầu có kém hơn nhưng cũng chỉ sút chút đỉnh mà thôi.

Chỉ trong giây lát, Cái Bang tam lão đã trao đổi với Trương Vô Kỵ hơn hai chục chiêu. Trần Hữu Lượng đột nhiên cao giọng nói:

- Bày Sát Cẩu Trận.

Bọn ăn mày liền lớn tiếng reo hò, ánh đao sáng lòa như tuyết, hai mươi mốt cao thủ trong Cái Bang tay cầm loan đao, vây Trương Vô Kỵ vào giữa. Hai mươi mốt người đó kẻ thì hát khúc Liên Hoa Lạc , đứa rên rỉ kêu than, có người lại giơ tay đấm ngực khóc lóc, hoặc cao giọng van xin:

- Lạy ông lạy bà cho con xin chút cơm thừa canh cặn!

Trương Vô Kỵ lúc đầu ngạc nhiên nhưng hiểu ngay, những hành động kêu la quái lạ kia chẳng qua chỉ để ưu loạn tâm thần kẻ địch. Chỉ thấy quần cái tuy cước bộ lung tung hỗn tạp nhưng tiến thoái tránh né đều có phép tắc chặt chẽ.

Truyền Công trưởng lão quát lên:

- Hãy khoan!

Ông ta lùi lại hai bước, kiếm để ngang trên ngực, Chấp Pháp trưởng lão và Chưởng Bổng long đầu cũng nhảy ra ngoài. Thế nhưng những người ăn mày đang dàn thành Sát Cẩu Trận vẫn tiếp tục chạy qua chạy lại không ngừng lại. Truyền Công trưởng lão kêu lên:

- Trương giáo chủ, bọn ta lấy đông đánh ít, quả thực không phải. Thế nhưng trong Cái Bang không ai có thể là địch thủ của các hạ. Trừ gian sát tặc không thể khăng khăng giữ lấy qui củ một đánh một của võ lâm.

Trương Vô Kỵ nhếch một nụ cười khinh thị:

- Nói hay lắm, nói hay lắm!

Truyền Công trưởng lão lại tiếp:

- Bọn ta trong tay ai cũng có binh khí, nếu như Trương giáo chủ chỉ đánh tay không thì quả là Cái Bang có tiện nghi quá nhiều. Trương giáo chủ muốn dùng loại binh khí gì, cứ việc sai bảo, bọn ta ắt sẽ tuân hành đưa lên.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Vị Truyền Công trưởng lão này võ công đã cao, lại có lòng trượng nghĩa, so với tên gian xảo Trần Hữu Lượng kia quả có khác xa?. Chàng bèn đáp:

- Cùng với các vị đùa rỡn chơi, việc gì phải cầm dao cầm gậy? Tại hạ muốn dùng binh khí, không lẽ không biết cách tự kiếm lấy hay sao?

Chàng nói đến đây, thân hình lắc một cái đã nhảy ra ngoài Sát Cẩu Trận, hai tay đánh vào hai gã Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư, khi rút tay đã đoạt được hai thanh trường kiếm, nghiêng người lộn về, lại quay trở lại giữa trận. Chàng nhảy ra nhảy vào, hai mươi mốt người đệ tử Cái Bang đang múa đao chạy vòng quanh không ai đụng được đến vạt áo. Quần cái còn đang ngạc nhiên thì đã nghe chàng cao giọng nói:

- Cái tên Sát Cẩu Trận của quí bang nghe hay lắm, thế nhưng giết chó thì dễ, còn như định hàng long phục hổ thì trận này không làm được trò gì đâu.

Nói xong chàng rung tay một cái, một luồng kình lực truyền vào thân kiếm, chỉ nghe lách cách hai tiếng, song kiếm đều gãy làm đôi. Chưởng Bổng long đầu hô to:

- Tất cả tiến lên!

Thiết bổng của y điểm vào ngực Trương Vô Kỵ. Một câu một quài của Chấp Pháp trưởng lão cũng múa lên thành hai đốm tuyết hoa, cuồn cuộn tiến tới. Trương Vô Kỵ lạng qua bên trái, thân hình lại nghiêng về bên phải, Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp tung ra, chỉ thấy bạch quang thấp thoáng, cách cách cách liên miên bất tuyệt, bao nhiêu loan đao trong tay bọn ăn mày đang bày Sát Cẩu Trận đều bị chàng đoạt mất ném ra, từng thanh từng thanh cắm vào cái xà cái giữa nhà. Hai mươi mốt thanh đao đều chăn chắn xếp thành một hàng, tất cả ngập vào trong gỗ cả thước.

Chỉ nghe Trần Hữu Lượng kêu lên:

- Trương Vô Kỵ, sao ngươi chưa dừng tay?

Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy trong tay Trần Hữu Lượng đã cầm một thanh trường kiếm, mũi kiếm chỉ vào sau lưng Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ cười khẩy:

- Một trăm năm qua trên giang hồ đều truyền tụng ?Minh Giáo, Cái Bang, Thiếu Lâm phái?. Trong giáo phái thì Minh Giáo đứng đầu, còn bang hội đưa Cái Bang lên hạng nhất, các vị làm như thế không sợ làm nhục uy danh của Hồng Thất Công lão hiệp hay sao?

Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:

- Trần trưởng lão, ngươi mau thả Chu cô nương ra, chúng ta quyết tử chiến với Trương giáo chủ. Cái Bang dùng hết sức toàn bang không lẽ không đánh được một mình giáo chủ Minh Giáo? Nếu như giở trò hạ sách thì mình còn mặt mũi nào mà trông thấy ai?

Trần Hữu Lượng cười đáp:

- Đại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức. Trương Vô Kỵ, ngươi chưa chịu xuôi tay chịu trói hay sao?

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Cũng được, để hôm nay Minh Giáo Trương Vô Kỵ được biết uy phong của Cái Bang như thế nào.

Đột nhiên chàng lùi lại hai bước, lộn mình nhảy ngược về sau, từ trên không rơi xuống, hai chân đã cưỡi ngay trên vai bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long. Chưởng phải của chàng liền để ngay trên đỉnh đầu Sử Hỏa Long, còn tay trái nắm ngay kinh mạch đằng sau ót. Chiêu trong thánh hỏa lệnh đó quả thực dễ dàng, ngoài dự liệu của Trương Vô Kỵ. Chàng vốn dĩ muốn sử dụng quái chiêu, xuất kỳ bất ý đến gần Sử Hỏa Long, trong bụng đã hờm sẵn ba chiêu kế tiếp thật lợi hại toan bắt giữ Sử Hỏa Long trong nháy mắt, chỉ ngại Trần Hữu Lượng tâm tính ác độc rất có thể ra tay hạ độc thủ với Chu Chỉ Nhược. Nào ngờ ba chiêu sát thủ đó mới chưa đầy một chiêu đã xong, Sử Hỏa Long chưa kịp đỡ gạt đã bị bắt ngay. Chàng cưỡi trên vai Sử Hỏa Long thật chẳng khác gì trẻ con đùa nghịch với người lớn, tuy trông bất nhã thật nhưng đã chế ngự được đỉnh đầu và yếu huyệt của địch nhân nên không muốn nhảy xuống ngại rằng có thể bị lôi thôi.

Bọn ăn mày thấy bang chủ đã bị bắt cùng kinh hãi la ó rầm rĩ. Tay phải Trương Vô Kỵ nhè nhẹ để lên huyệt Bách Hội trên đầu Sử Hỏa Long, huyệt này là giao điểm của Túc Thái Dương Kinh và Đốc Mạch, là đại huyệt quan trong nhất trên cơ thể con người, chỉ cần đẩy ra, Sử Hỏa Long lập tức chấn đoạn kinh mạch chết ngay không thuốc gì cứu được, thành thử quần cái có ai dám động đậy gì đâu. Cả bọn hò hét một hồi, đại sảnh đột nhiên im lặng, mọi người chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ và Sử Hỏa Long không biết phải tính sao.

Ngay lúc đó, từ trên mái nhà văng vẳng truyền xuống mấy tiếng đàn và tiếng tiêu, xem ra có đến mấy chiếc dao cầm[4], mấy chiếc động tiêu cùng tấu một lượt. Tiếng nhạc dìu dặt uyển chuyển, như có như không nhưng ai ai cũng nghe rõ ràng, có điều khi thì bên đông, lúc lại bên tây không biết từ hướng nào trên mái nhà truyền xuống.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, không biết tiếng đàn tiếng tiêu kia có ý gì. Trần Hữu Lượng lớn tiếng nói:

- Cao nhân ở phương nào giá lâm Cái Bang? Nếu là quần ma của Minh Giáo sao không hiện thân mà lại cố ý ra tay đùa rỡn?

Tiếng dao cầm tưng tưng tưng luôn ba tiếng, bỗng thấy có bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ hai bên đông tay mái hiên nhảy xuống sân, trong tay người nào cũng ôm một cây dao cầm. Những chiếc đàn đó so với thất huyền cầm thông thường chỉ ngắn bằng một nửa, hẹp chỉ bằng một nửa nhưng cũng có đủ bảy dây. Bốn cô gái nhảy xuống rồi liền chia nhau ra đứng ở bốn góc. Ngay sau đó từ cửa đi vào bốn thiếu nữ mặc áo đen, mỗi người trong tay cầm một chiếc trường tiêu màu đen, tiêu này so với tiêu thường dài gấp rưỡi. Bốn thiếu nữ đó cũng chia ra đứng bốn góc, mỗi góc hai người một áo trắng một áo đen xen kẽ nhau.

Tám cô gái đứng ổn định rồi, bốn chiếc dao cầm liền bắt đầu tấu nhạc, kế đó động tiêu cũng hợp tấu, tiếng nhạc cực kỳ nhu hòa u nhã. Trương Vô Kỵ không hiểu âm luật, nhưng thấy tiếng nhạc uyển chuyển dễ nghe, tuy đang trong cục diện cực kỳ khẩn bách nhưng cũng vẫn muốn nghe thêm một chút.

Trong khi tiếng nhạc dặt dìu, một thiếu nữ mặc áo màu vàng nhạt khoan thai bước tới, tay trái dắt một cô bé chừng mười hai mười ba tuổi. Cô gái đó tuổi chừng hăm bảy hăm tám, phong tư tha thướt, dung mạo hết sức xinh đẹp, chỉ có điều mặt trắng bệch không còn chút huyết sắc nào. Còn nữ đồng thì mặt mày xấu xí, hai lỗ mũi huếch lên, cái mồm rộng để lộ hai chiếc răng cửa thô kệch, xem ra có phần hung dữ. Cô bé nắm tay thiếu nữ, tay bên kia cầm một chiếc gậy trúc xanh.

Quần cái thấy thiếu nữ đó tiến vào, cả bọn không hẹn mà cùng chăm chăm nhìn cây gậy trúc. Trương Vô Kỵ thấy có rất đông đàn bà con gái? tự thấy mình cưỡi trên cổ Sử Hỏa Long quả thật quá ư trẻ con, thế nhưng mũi kiếm của Trần Hữu Lượng vẫn còn chỉ vào hậu tâm Chu Chỉ Nhược, chàng không thể nào có thể thả bang chủ Cái Bang một cách dễ dàng. Khi thấy bọn ăn mày hết sức chú ý đến chiếc gậy trúc trong tay cô bé, tưởng như trên đời không gì quan trọng hơn, tất cả những cô áo đen, áo trắng, áo vàng và đứa trẻ xấu xí kia đều coi như không có, chàng trong bụng ngạc nhiên, nhìn kỹ chiếc gậy thấy toàn một màu xanh lục, nhẵn bóng xem ra không biết đã bao nhiêu năm, qua tay bao nhiêu người dùng đến, nhưng ngoài ra không thấy gì khác lạ.

Thiếu nữ áo vàng mắt không chuyển động, khuôn mặt lạnh lùng đi tới giữa đám người, ngừng ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, giọng như băng:

- Trương giáo chủ tuổi cũng đâu còn nhỏ bé gì, chuyện phải làm không làm, lại ở đây đùa nghịch.

Câu nói đó có phần trách móc nhưng từ ngữ xem ra thân thiết, nghe chẳng khác gì chị mắng em. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên vội vàng phân trần:

- Trần trưởng lão của Cái Bang giở trò vô sỉ, chế ngự ... chế ngự đồng bạn của tôi, tôi đành phải bắt giữ bang chủ của họ.

Cô gái xinh đẹp đó mỉm cười, dịu dàng nói:

- Đem bang chủ người ta ra làm ngựa cưỡi chẳng cũng quá đáng sao? Ta từ Trường An đến đây, nghe nói giáo chủ Minh Giáo là một tiểu ma đầu, hôm nay thấy đây, Ôi thôi! Ôi thôi!

Nàng vừa nói vừa lắc đầu, ra dáng không bằng lòng. Sử Hỏa Long đột nhiên kêu lớn:

- Thằng tiểu dâm tặc Trương Vô Kỵ kia, có mau mau xuống không thì bảo?

Y giơ tay toan hất chân chàng nhưng kinh mạch trên cổ đã bị nắm giữ, không sao sử được chút kình lực nào. Trương Vô Kỵ nghe thấy y trước mặt đàn bà con gái lại chửi mình là ?tiểu dâm tặc?, vừa thẹn vừa tức, một luồng lực đạo từ tay trái ấn vào cổ y. Sử Hỏa Long toàn thân tê tái chịu không nổi, phải kêu lên ?Ối chà! Ối chà!? liên tiếp rồi cất tiếng rên hừ hừ. Bọn ăn mày thấy Trương Vô Kỵ vô lễ mà bang chủ bản bang lại yếu đuối như thế ai nấy đều vừa xấu hổ, vừa bực bội. Sử Hỏa Long bị địch nhân chế ngự lại mở miệng rên rỉ, quả thực mất hết bản sắc anh hùng hảo hán, không nói gì y là bang chủ một bang hội đứng đầu trên giang hồ, ngay cả một đệ tử tầm thường của Cái Bang cũng không ai cúi đầu chịu tiếng hèn trước địch thủ.

Trần Hữu Lượng nói:

- Trương Vô Kỵ, ngươi thả Sử bang chủ ra, ta thu kiếm về, được chăng?

Y không đợi Trương Vô Kỵ đáp ứng, liền cho kiếm vào trong bao. Y liệu chừng? giao hẹn như thế ắt sẽ xong ngay, quả nhiên Trương Vô Kỵ nói:

- Được lắm!

Chàng nhún mình một cái đã đứng ngay bên cạnh Chu Chỉ Nhược, thấy nàng đôi lông mày nhíu lại, thần tình uể oải, trông thật đáng thương, liền đỡ nàng đến ngồi tại một cái đôn đá trong sân.

Trần Hữu Lượng quay sang mỹ nữ áo vàng, chắp tay nói:

- Phương giá đến thăm tệ bang không biết có điều chi dạy bảo? Tôn tính đại danh có thể cho biết được chăng?

Y lại quay qua hỏi cô bé con xấu xí:

- Tiểu cô nương, cái gậy trúc đó ngươi lấy ở đâu vậy?

Cô gái áo vàng lạnh lùng đáp:

- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn có ở đây không? Mời y ra đây cho gặp.

Trương Vô Kỵ nghe nói đến Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn trong bụng hết sức ngạc nhiên, thấy Trần Hữu Lượng mặt hơi biến sắc. Thế nhưng y lập tức trấn tĩnh ngay, thản nhiên đáp:

- Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn? Có phải là sư phụ của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn chăng? Cái đó phải hỏi Minh Giáo Trương giáo chủ mới biết được.

Mỹ nữ áo vàng hỏi lại:

- Các hạ là ai?

Trần Hữu Lượng đáp:

- Tại hạ họ Trần, thảo tự Hữu Lượng, là trưởng lão tám túi trong Cái Bang.

Cô gái áo vàng nhếch mép hất về phía Sử Hỏa Long hỏi:

- Còn tên kia là ai? Trông tướng tá thì ra vẻ anh hùng hảo hán, mà sao bị thịt làm vậy? Người ta mới hơi ra tay đã kêu chí chóe chẳng ra sao cả.

Bọn ăn mày ai nấy quả tự thẹn trong lòng không còn mặt mũi nào, có người nhìn Sử Hỏa Long ánh mắt có ba phần khinh miệt, hai phần bực tức. Trần Hữu Lượng đáp:

- Vị này là Sử bang chủ của bản bang. Lão nhân gia gần đây bệnh nặng mới bớt, thân thể chưa được khỏe lắm. Cô là khách nên chúng tôi nhường nhịn ba phần, nếu còn nói năng láo lếu, có đắc tội cũng đừng trách.

Y nói tới hai câu cuối, ngữ khí có phần hằn học. Mỹ nữ áo vàng vẫn thản nhiên, quay sang một cô gái áo đen nói:

- Tiểu Thúy, ngươi đem trả lại phong thư cho y.

Cô gái áo đen lập tức đáp lời:

- Vâng!

Từ trong bọc lấy ra một bao thư cầm trong tay. Trương Vô Kỵ vừa nhìn tới thấy ngoài phong bì viết: ?Kính gửi Hàn Sơn Đồng đại gia của Minh Giáo? bên dưới có một hàng chữ nhỏ: ?Cái Bang Sử gởi?. Chưởng Bổng long đầu vừa nhìn thấy lá thư lập tức mặt đỏ gay, chửi mắng:

- Tiểu tặc tì, thì ra kẻ đùa rỡn lão gia ở trên đường, ăn cắp mất phong thư, chính là con a đầu chết tiệt này.

Y vung cây gậy sắt trên tay, toan xông đến làm dữ. Cô gái áo đen kia cười khúc khích nói:

- Ta là a đầu chứ có chết tiệt bao giờ đâu? Người lớn như thế có một phong thư giữ cũng không xong, không biết xấu hổ hay sao.

Nói xong cô gái vung bàn tay thon một cái, lá thư bình ổn bay tới Chưởng Bổng long đầu, y liền tiện tay bắt lấy. Đêm hôm đó Trương Vô Kỵ từng thấy Sử Hỏa Long sai Chưởng Bổng long đầu đưa thư cho Hàn Sơn Đồng, lấy Hàn Lâm Nhi ra uy hiếp bắt phải đầu hàng Cái Bang, bây giờ nghe đối đáp, xem ra những cô gái áo đen áo trắng này đã đùa rỡn Chưởng Bổng long đầu trên đường, ăn cắp mất phong thư khiến y đành phải quay về Lô Long. Thế nhưng Chưởng Bổng long đầu võ công cao cường như thế, vậy mà nghe y nói thì đến bây giờ y mới biết người trêu ghẹo y là ai, xem ra nếu tám cô gái này không phải cơ trí hơn người thì cũng võ công cực cao, bên trong lại có thiếu nữ áo vàng chủ trì, làm cho một cao thủ của Cái Bang phải tối tăm mặt mũi không biết đâu mà mò. Chàng nghĩ đến đó không khỏi cảm kích thầm cô gái áo vàng.

Cô gái áo vàng nói:

- Hàn Sơn Đồng khởi nghĩa ở Hoài Tứ, đánh đuổi Thát tử, trên đường ta nghe y là người nhân hậu nghĩa khí, không quấy rầy bách tính. Một nhân vật anh hùng như thế, không lẽ vì một đứa con mà phản bội Minh Giáo, đầu hàng Cái Bang hay sao? Các ngươi nếu có đem được lá thư đó tới Hàn Sơn Đồng âu cũng chỉ mang thêm cái nhục mà thôi. Ta xem vị long đầu đại ca hồ đồ này thật là nực cười quá, lại nhân Cái Bang có đại sự phải đích thân tới đây, nên mới chặn lá thư này lại.

Trương Vô Kỵ ôm quyền tạ ơn nói:

- Đa tạ đại tỉ ra tay tương trợ, Trương Vô Kỵ xin vái chào.

Cô gái áo vàng đáp lại một lễ nói:

- Khỏi phải khách khí.

Cô gái áo vàng lại quay sang bọn người Cái Bang nói:

- Các ngươi tưởng rằng bắt được Hàn Lâm Nhi là có thể khiến cho Hàn Sơn Đồng phải đầu hàng ư? Chưởng Bổng long đầu đại ca, hôm đó ngươi ở trên đường liên tiếp bị ngăn chặn nên phải chuyển sang đường nhỏ để mong tránh được hay sao? Ha ha, dẫu có tránh được thì phong thư này đưa tới tay Hàn Sơn Đồng cũng chẳng hay ho gì cho Cái Bang các ngươi đâu.

Trần Hữu Lượng trong lòng chợt động, đưa tay cầm lấy phong thư, thấy ngoài phong bì hoàn toàn không có gì khác lạ, vội mở ra xem, vừa đọc tờ giấy sắc mặt quả nhiên biến hẳn. Thì ra phong thư chiêu hàng Hàn Sơn Đồng lại biến thành Cái Bang xin tình nguyện đầu hàng Minh Giáo, trong văn hèn hạ quị lụy, hết sức khiêm tốn, tự chửi mình là những gì đã làm thật đáng xấu hổ, xin nguyện từ nay sẽ thành tâm sám hối, mong sao Minh Giáo khoan hồng đại lượng không xét đến hiềm xưa, nhận cho Cái Bang làm hạ thuộc, tiên phong trong việc đánh đuổi quân Nguyên.

Cô gái áo vàng cười khẩy:

- Đúng thế, phong thư này ta đã đọc qua rồi, nhưng không phải do ta sửa đổi đâu. Ta xem thư xong biết Chưởng Bổng long đầu đã bị người ngoài trêu ghẹo tính cho một mẻ. Ta niệm tình uyên nguyên của Cái Bang đời trước, cũng không muốn một đại bang số một trong thiên hạ, uy danh hiển hách nay lại lộ cái xấu xa, nên mới ra tay cướp lấy. Các ngươi thử nghĩ xem, lá thư này do Chưởng Bổng long đầu tự tay đem đến Minh Giáo, Cái Bang từ nay có còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa hay không?

Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão, Chưởng Bát long đầu, Chưởng Bổng long đầu trước sau lần lượt đọc lá thư, vừa thoáng qua ai ai cũng đều giận dữ, kinh hoảng trong bụng nghĩ thầm: ?Xấu hổ quá?. Đúng như cô gái áo vàng đã nói, hàng thư giọng điệu hèn hạ, không một chút khí khái này nếu như vào tay Minh Giáo, tiếng xấu của Cái Bang truyền khắp giang hồ, đệ tử Cái Bang thật không còn dám đứng thẳng trước mặt ai nữa. Nếu nói thế, cô gái áo vàng chặn lá thư lại là ban cho Cái Bang một đại ân, thế nhưng kẻ đã đánh tráo lá thư kia là ai vậy?

Cô gái áo đen tên Tiểu Thúy cười nói:

- Có phải các ông định hỏi: Phong thư này ai đã tráo vào, có phải không nào?

Người trong Cái Bang không lên tiếng trả lời nhưng trên mặt ai nấy lộ vẻ nóng lòng muốn biết. Tiểu Thúy đáp:

- Chưởng Bổng long đầu, ông cởi áo ngoài ra thì sẽ biết ngay.

Chưởng Bổng long đầu vốn dĩ đã mặt đỏ gay, gân xanh trên cổ nhô lên nghe nói thế, lập tức hai tay cầm hai bên vạt áo xé mạnh một cái, nghe xoẹt xoẹt mấy tiếng nhỏ đã rách ngay ra làm đôi. Y vung tay về phía sau đã vứt bỏ được chiếc trường bào, quát lớn:

- Thế thì đã sao?

Chỉ nghe những người đệ tử Cái Bang đứng ở đằng sau ?Ồ? lên một tiếng kinh hãi, dường như nhìn thấy chuyện gì quái lạ. Chưởng Bổng long đầu hỏi:

- Gì thế?

Y quay lại thấy bảy tám người chỉ trỏ nơi lưng y. Chưởng Bổng long đầu lại càng gấp rút, hai tay lại xoẹt xoẹt xé liên tiếp rách luôn vạt áo trước, cởi luôn áo trong ra, để lộ thân thể đầy những bắp thịt cuồn cuộn, giơ chiếc áo ra xem thấy bên trên có một con dơi lớn vẽ bằng chàm màu xanh, hai cánh giương ra nhe răng thật ghê rợn, bên miệng còn điểm mấy chấm máu đỏ tươi.

Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão cả bọn cùng kêu lên:

- Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu.

Vi Nhất Tiếu trước kia ít đến Trung Nguyên nên tên tuổi ít người biết đến nhưng mấy năm gần đây trên giang hồ thần xuất quỉ một, ra tay đã nhiều, uy danh càng lúc càng nổi, không kém gì Bạch Mi Ưng Vương. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm: ?Nếu không phải cái tài khinh công lai vô ảnh, khứ vô tung của Vi huynh thì làm sao mà có thể đùa rỡn một người như Chưởng Bổng long đầu hoàn toàn không hay biết gì cả?.

Chưởng Bổng long đầu ngạc nhiên, cầm chiếc áo ném vào Trương Vô Kỵ, chửi:

- Giỏi nhỉ, thì ra bọn ma đầu chúng bay đùa rỡn lão phu.

Trương Vô Kỵ giơ tay phất một cái, một luồng kình phong đẩy tung chiếc áo lên, mắc vào một cây ngân hạnh trong sân, gió thổi tới bay phất phới, con dơi hút máu vẽ trên áo linh động trông như còn sống. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chưởng Bổng long đầu, Vi Bức Vương của tệ giáo ra tay còn nể mặt, không lẽ ông chưa biết hay sao? Nếu như y muốn lấy mạng của ông thì đã ra sao rồi?

Chưởng Bổng long đầu nghĩ lại, không khỏi lạnh mình. Trần Hữu Lượng nghĩ thầm việc này càng nói thêm càng xấu, chỉ còn cách lảng qua chuyện khác là thượng sách nên quay sang hỏi thiếu nữ áo vàng:

- Xin hỏi cao tính của cô nương, không biết có uyên nguyên gì với chúng tôi?

Cô gái cười khẩy đáp:

- Có uyên nguyên gì với các ngươi ư? Ta chỉ có uyên nguyên với chiếc Đả Cẩu Bổng này thôi.

Nói rồi chỉ vào chiếc gậy trúc xanh đang ở trong tay cô gái nhỏ. Quần cái vốn đã nhận ra đây là Đả Cẩu Bổng tín vật của bang chủ, nhưng không hiểu sao lại rơi vào tay người ngoài nên tất cả đều quay qua nhìn Sử Hỏa Long, chỉ thấy y mặt trắng bệch, luống cuống không biết làm sao. Truyền Công trưởng lão hỏi:

- Bang chủ, cây gậy đánh chó trong tay con bé kia là giả phải không?

Sử Hỏa Long đáp:

- Ta ... ta xem ra có lẽ là giả.

Cô gái áo vàng hỏi lại:

- Được, vậy thì ngươi đem cây gậy đánh chó thật ra so sánh xem nào?

Sử Hỏa Long đáp:

- Đả Cẩu Bổng là vật chí bảo của bản bang, đâu có đưa ra cho người ngoài coi được? Ta dại gì mang theo trong người, nếu chẳng may đánh mất có phải khổ không?

Bọn ăn mày nghe thấy nói thế đều thấy chẳng ra đâu vào đâu, ai đời thân là bang chủ Cái Bang mà lại sợ đánh mất Đả Cẩu Bổng. Cô bé con giơ cao cây gậy trúc, lớn tiếng nói:

- Tất cả lại đây coi. Cây gậy đánh chó này là cây gậy bản bang ... bản bang đời đời truyền xuống, làm sao giả được?

Cả bọn nghe cô ta nói ?bản bang?, trong bụng lạ lùng, chạy đến coi kỹ lưỡng, thấy chiếc gậy đó bóng loáng như ngọc, cứng rắn hơn thép, đúng là tín vật Đả Cẩu Bổng của bang chủ Cái Bang. Mọi người ai nấy nhìn nhau thắc mắc, không hiểu sự thể ra thế nào. Cô gái áo vàng nói:

- Ta nghe bang chủ Cái Bang có Hàng Long Thập Bát Chưởng và Đả Cẩu Bổng Pháp hai đại thần công nổi danh thiên hạ. Tiểu Hồng, ngươi ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng công phu của Sử bang chủ trước. Tiểu Linh, ngươi đợi cho Tiểu Hồng tỉ tỉ thắng rồi, lại đến học hỏi Sử bang chủ môn Đả Cẩu Bổng Pháp công phu.

Hai cô gái cầm trường tiêu nghe tiếng đáp lời bước ra, đứng qua hai bên tả hữu. Trần Hữu Lượng giận dữ nói:

- Cô nương không chịu cho biết tên tuổi đã coi Cái Bang không ra gì rồi, lại sai hai đứa tiểu tì khiêu chiến với bang chủ chúng tôi, trên giang hồ nào có cái lý gì như thế? Sử bang chủ, để đệ tử thanh toán hai con a hoàn này rồi sẽ quay sang lãnh giáo cao chiêu của cô nương kia, để xem đây là cao nhân ở phương nào mà dám đến coi thường Cái Bang như thế.

Sử Hỏa Long đáp:

- Con bà nó chứ, được lắm, xin Trần trưởng lão cứ việc hạ trường.

Trần Hữu Lượng rút phắt trường kiếm ra, chậm rãi đi đến giữa sân. Cô gái tên Tiểu Hồng nói:

- Cô nương sai ta ra lãnh giáo Hàng Long Thập Bát Chưởng, ngươi có biết chưởng pháp này không? Sử Hàng Long Thập Bát Chưởng lại dùng kiếm à?

Trần Hữu Lượng quát lớn:

- Sử bang chủ thân phận như thế, không lẽ lại động thủ quá chiêu với một con tiểu a đầu sao? Thần công Hàng Long Thập Bát Chưởng đâu phải để cho một đứa đầy tớ như ngươi được trông thấy?

Nói xong y liền tiến lên một bước. Cô gái áo vàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Trương giáo chủ, tôi nhờ ông một việc.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Xin cô nương cứ nói ra.

Cô gái áo vàng nói:

- Xin ông đánh đuổi gã họ Trần kia đi, rồi lột mặt nạ tên bịp bợm mạo danh Sử bang chủ kia cho mọi người thấy.

Trương Vô Kỵ mới rồi chỉ một chiêu đã bắt ngay được Sử Hỏa Long, cảm thấy võ công y quả thực hết sức kém cỏi, lại nghĩ đến hôm đó Hàn Lâm Nhi nhổ bãi đờm, Sử Hỏa Long cũng không tránh né, trong bụng đã nghi, rồi mọi việc y đều phải nghe lời Trần Hữu Lượng chỉ điểm, còn chính mình không có chút chủ định nào, cứ như võ công đó, kiến thức đó quyết không thể nào làm chủ một bang, bây giờ nghe cô gái áo vàng nói y là tên ?bịp bợm mạo danh Sử bang chủ?, lấy chuyện trước ra ấn chứng cũng hiểu được bảy tám phần, liền gật đầu, đi đến trước mặt Sử Hỏa Long.

Sử Hỏa Long liền sử chiêu ?Xung Thiên Pháo? đánh ra, nghe bình một quyền đã đánh trúng ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:

- Hàng Long Thập Bát Chưởng thần công, không lẽ lại kém cỏi đến thế sao?

Chàng giơ tay ra nắm ngay áo ngực y, đưa lên cao. Trần Hữu Lượng biết mình không phải là địch thủ của Vô Kỵ, không đợi chàng ra tay đã lui ngay về lẫn trong đám người. Cô bé xấu xí kia đột nhiên khóc òa lên, xông ngay tới, nắm lấy Sử Hỏa Long đấm thùm thụp, kêu réo:

- Ngươi giết chết cha ta, ngươi giết chết cha ta, ngươi là tên ác tặc.

Sử Hỏa Long bị Trương Vô Kỵ nắm ngay huyệt đạo sau lưng không sao cử động được. Y thân thể cao to, nắm tay bé nhỏ của cô gái chỉ đấm trúng bụng y mà thôi. Trương Vô Kỵ liền ấn đầu y xuống, cô bé liền nắm tóc y giựt mạnh, tất cả mớ tóc của Sử Hỏa Long liền tuột luôn ra, lộ cái đầu trọc bóng như bôi mỡ. Thì ra y là một người hói đầu, trên đầu đội tóc giả. Cô gái đấm đánh một hồi nắm luôn mũi y giựt ra nhưng không thấy có máu chảy. Mọi người hết sức ngạc nhiên, nhìn kỹ lại hóa ra mũi y tẹt, mũi cao kia chỉ là mũi giả. Quần cái liền bàn tán xôn xao, cùng hỏi:

- Ngươi là ai? Sao dám mạo nhận là Sử bang chủ?

Trương Vô Kỵ nhắc y lên ném mạnh xuống, khiến y bị lăn đi mấy vòng, xụm xuống không nói nên lời. Trương Vô Kỵ mỉm cười, lui sang một bên nghĩ thầm người này giả mạo Sử Hỏa Long, chân tướng nay đã rõ ràng nên để cho người trong Cái Bang tự lo liệu lấy. Chưởng Bổng long đầu tính nóng như lửa liền tiến lên xoạc cẳng giang tay tát bốp bốp bốp bốp bẩy tám cái liền. Tên bang chủ giả kia má sưng vù lên kêu lớn:

- Không phải tôi, không phải tôi, là do Trần ... Trần trưởng lão bảo tôi làm đó.

Chấp Pháp trưởng lão bỗng giật mình hỏi lại:

- Trần Hữu Lượng đâu rồi?

Thế nhưng đã không còn thấy bóng y đâu nữa, có lẽ thấy công việc bại lộ, nên đã cong đuôi chạy mất. Chấp Pháp trưởng lão liền quát:

- Mau đuổi theo y ngay!

Mấy tên đệ tử bảy túi tuân lệnh chạy ra, đuổi theo Trần Hữu Lượng. Chưởng Bổng long đầu chửi:

- Thằng khốn nạn, ngươi là cái thằng nào mà bắt ông phải khấu đầu, gọi ngươi là bang chủ?

Y giơ bàn tay to như cái quạt lên, đang tính đánh vào mặt y. Chấp Pháp trưởng lão vội vàng giơ tay ngăn lại nói:

- Phùng huynh đệ không được lỗ mãng. Ngươi một chưởng đánh chết y thì không còn tra xét được chuyện gì nữa.

Ông quay sang thiếu nữ áo vàng vòng tay hành lễ, cung kính nói:

- Nếu không nhờ có cô nương làm lộ mưu gian thì chúng tôi vẫn còn bị chúng che mắt. Phương danh của cô nương liệu có thể cho chúng tôi biết được không? Tệ bang từ trên xuống dưới cùng cảm tạ cái đại đức này.

Cô gái nhỏ nhẹ cười nói:

- Tiểu nữ sống nơi? thâm sơn cùng cốc, trước nay không giao thiệp với bên ngoài, có nói tên cũng chẳng làm gì. Còn như vị tiểu muội muội này, chẳng lẽ các ông cũng không ai nhận ra sao?

Người trong Cái Bang nhìn chăm chăm cô gái nhỏ nhưng không ai nhận ra được. Truyền Công trưởng lão đột nhiên nghĩ ra một chuyện, tiến lên một bước nói:

- Con bé này ... con bé này ... con bé này mặt mũi có vẻ giống như phu nhân của Sử bang chủ, hay là ... hay là ...

Cô gái áo vàng nói:

- Đúng thế, cô em đây họ Sử tên Hồng Thạch, là con gái duy nhất của Sử bang chủ Sử Hỏa Long. Khi Sử bang chủ lâm nguy đã sai phu nhân ôm con, cầm cây gậy đánh chó đến tìm tiểu nữ nhờ tôi báo thù.

Truyền Công trưởng lão kinh hoảng kêu lên:

- Cô nương nói thế chẳng lẽ Sử bang chủ đã qui thiên rồi ư? Ông ta ... lão nhân gia làm sao mà từ trần?

Các bang chủ đời trước truyền lại Hàng Long Thập Bát Chưởng nhưng đến đời Gia Luật Tề thì học không hết, từ đó về sau các đời bang chủ, tối đa chỉ học được đến mười bốn chưởng là cùng. Sử Hỏa Long học tổng cộng mười hai chưởng nhưng hai mươi năm trước vì khổ luyện môn chưởng pháp này nội lực không đều, nên bị chứng bán thân bất toại, hai cánh tay không cử động được. Ông ta bèn cùng vợ đi vào núi non tìm kiếm linh dược trị bệnh, đem bang vụ giao cho Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu cùng đảm trách.

Thế nhưng các trưởng lão, các long đầu không ai chịu ai, mỗi người một phe, trong bang hai bên áo sạch, áo bẩn lại không hòa thuận đến nỗi một bang lớn như Cái Bang trở nên suy yếu. Gần tây tên giả bang chủ này đột nhiên xuất hiện, những đệ tử tuổi trẻ thì chưa gặp bang chủ bao giờ, còn bọn Truyền Công trưởng lão thì cách biệt Sử Hỏa Long hai mươi năm, thấy tên bang chủ giả này tướng mạo giống hệt nên có ai lại nghĩ là y giả mạo bao giờ?

Cô gái áo vàng thở dài nói:

- Sử bang chủ táng thân dưới tay Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn.

Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, nghĩ thầm khi chàng còn ở Quang Minh Đính từng chính mắt thấy Thành Côn chết nằm trên đất, sao nay lại còn đi giết được Sử Hỏa Long? Chắc có lẽ việc này xảy ra từ trước khi việc trên Quang Minh Đính xảy ra, nên hỏi lại:

- Thỉnh vấn cô nương, Sử bang chủ từ trần đã bao lâu rồi?

Thiếu nữ đáp:

- Mồng sáu tháng mười năm ngoái, đến nay cũng đã hơn hai tháng rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế thì lạ thật. Không biết vì sao mà cô nương lại biết là do lão tặc Thành Côn hạ độc thủ?

Cô gái áo vàng đáp:

- Sử phu nhân nói rằng: Sử bang chủ đấu với một lão già mười hai chưởng liền, lão già kia hộc máu ra bỏ đi, còn Sử bang chủ cũng bị chưởng lực của lão già đó đánh cho bị thương. Sử bang chủ biết rằng vết thương của mình không sao chữa trị được, liệu tưởng lão già đó ba ngày sau nguyên khí phục hồi sẽ quay lại báo thù, nên dặn dò mọi việc cho Sử phu nhân, nói tên của cừu nhân là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Hai cánh tay bị liệt của Sử bang chủ? khi đó đã khỏi đến chín phần, lại được chân truyền mười hai trong Hàng Long Thập Bát Chưởng, võ công phải vào bậc nhất trong giang hồ, thế nhưng đánh hết mười chưởng rồi vẫn không qua khỏi độc thủ của địch.

Cô bé Sử Hồng Thạch nghe nói đến đây liền khóc òa lên. Truyền Công trưởng lão mặt hầm hầm, vừa đau lòng vừa giận dữ, đưa tay áo dơ bẩn của ông ta lên chùi nước mắt cho đứa nhỏ, nói:

- Tiểu thế muội, mối thù của bang chủ tức là mối thù của mấy vạn đệ tử từ trên xuống dưới trong bang, bọn ta nhất quyết bắt cho bằng được Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, băm vằm y ra làm vạn mảnh để rửa hận cho bang chủ. Không biết mẹ em bây giờ đang ở đâu?

Sử Hồng Thạch chỉ vào cô gái áo vàng nói:

- Mẹ cháu đang ở nhà Dương tỉ tỉ dưỡng thương.

Tất cả đến giờ phút này mới biết cô gái áo vàng kia họ Dương, còn như cô ta là hạng người ra sao, vẫn chưa đoán ra được chút đầu mối nào. Cô gái áo vàng thở dài một tiếng nói:

- Sử phu nhân cũng bị Thành Côn đánh trúng một chưởng, thương thế cũng không phải nhẹ, lại thêm đường xa rong ruổi đến được tệ xá, lúc ấy chỉ còn thoi thóp, liệu rồi có thuyên giảm hay không, cái đó ... cái đó cũng chưa nói được.

Chấp Pháp trưởng lão hậm hực nói:

- Gã Thành Côn kia không biết có thù oán gì với bang chủ mà lại hạ độc thủ như vậy?

Cô gái áo vàng nói:

- Cứ như di ngôn của Sử bang chủ mà Sử phu nhân chuyển lại, ông ta và gã Thành Côn kia hai bên không biết nhau, hai chữ thù oán không thể nào có được. Thành ra lão nhân gia đến lúc chết cũng vẫn không hiểu nguyên do vì sao. Cứ như Sử phu nhân suy đoán, có lẽ có người nào đó trong Cái Bang đắc tội với y nên y đi tìm Sử bang chủ để thanh toán.

Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:

- Gã Thành Côn kia vì cố tránh mặt Tạ Tốn, mấy chục năm nay tuyệt tích giang hồ, không ai biết y đi đâu, đệ tử Cái Bang làm gì có chuyện kết thù gây oán với y? Xem ra bên trong có điểm hiểu lầm nào đó ghê gớm lắm.

Chưởng Bát long đầu từ nãy vẫn đứng ngoài nghe không nói một lời, lúc này đột nhiên nhặt một thanh loan đao, nhứ nhứ vào cổ tên? đầu hói giả mạo Sử bang chủ? quát lớn:

- Tên ngươi là gì? Sao dám lớn mật giả mạo Sử bang chủ? Mau mau cung khai, nếu nói láo một câu, hừ, hừ!

Nói đến đo y vung đao chém phập một cái, chặt một cái ghế đứt ra làm đôi, rồi lại để ngay vào cổ tên hói đầu. Tên đó sợ đến hồn bất phụ thể nói:

- Tôi ... tôi ... tiểu nhân tên là Lại Đầu Nguyên Lưu Ngao, vốn là một đầu mục ở sơn trại Loạn Thạch Cương ở Giải Huyện, tỉnh Sơn Tây, hôm đó xuống núi làm nghề không vốn, gặp phải Trần Hữu Lượng Trần trưởng lão, lại có thêm cả sư phụ của y nữa. Trần trưởng lão đá một cái ngã lăn tiểu nhân ra, giơ kiếm định giết, tiểu nhân vội vàng lạy lục xin tha.

Trần trưởng lão ngắm nghía tiểu nhân một hồi, đột nhiên nói: ?Sư phụ, tên tiểu tặc này trông giống người hôm trước mình gặp quá?. Sư phụ y lắc đầu: ?Ha ha, tuổi tác đã khác, mũi lại tẹt, lại thêm hói đầu?. Trần trưởng lão cười nói: ?Đệ tử có cách làm cho y giống được?. Họ bèn bắt tiểu nhân đi theo đến Giải Huyện, ở trong một khách điếm. Trần trưởng lão lấy thạch cao nặn cho mũi tiểu nhân cao lên, lại bắt tôi đeo tóc bạc giả, hóa trang thành như thế này ... các vị lão gia, tiểu nhân dẫu có lớn mật tày trời, cũng chẳng dám đến để đùa rỡn với các vị, chỉ vì Trần trưởng lão bảo làm nên tiểu nhân phải cố mà làm.

Cái mạng chó của tiểu nhân nằm trong tay các vị, thật ... thật chẳng biết nói sao cho phải, trong nhà tiểu nhân còn mẹ già tuổi đã tám mươi, mong các vị đại gia tha cho.

Nói đến đây y quì phục xuống, liên tiếp rập đầu như giã gạo. Chấp Pháp trưởng lão trầm ngâm rồi nói:

- Trần Hữu Lượng xuất thân ở phái Thiếu Lâm, sư phụ y là cao tăng chùa Thiếu Lâm, y ... y còn sư phụ nào nữa?

Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ tỉnh ra, lập tức xen vào:

- Đúng thế, sư phụ của y chính là Thành Côn.

Chàng bèn đem chuyện Thành Côn hóa danh thành Viên Chân, vào chùa Thiếu Lâm bái Không Kiến thần tăng làm sư phụ các chuyện thuật qua một lượt, sau đó lại kể chuyện Viên Chân lén lên Quang Minh Đính làm sao, sau cùng bị Ân Dã Vương đánh chết nhưng thi thể lại đột nhiên biến mất.

Chưởng Bát long đầu và Chấp Pháp trưởng lão cùng nói:

- Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa, trên Quang Minh Đính Thành Côn đã giả chết, trong cơn hỗn loạn y len lén chạy mất.

Truyền Công trưởng lão giận dữ nói:

- Thì ra tội khôi họa thủ là do tên gian tặc Trần Hữu Lượng mà ra. Hai thầy trò y mang dã tâm muốn độc bá thiên hạ, cho nên giết chết Sử bang chủ rồi cho tên giặc cỏ này giả mạo để làm bù nhìn cho chúng giựt giây, rồi tiến thêm một bước hiếp chế Minh Giáo, lung lạc Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi ba đại phái. Gian kế của chúng không phải là không độc địa, dã tâm không phải là không to lớn. Còn Tống Thanh Thư đâu? Tống Thanh Thư chạy đâu rồi?

Mọi người lúc nãy chỉ chú ý đến bang chủ Cái Bang, thiếu nữ áo vàng, Sử Hồng Thạch? mấy người, không ai để ý đến Tống Thanh Thư đã chạy theo Trần Hữu Lượng không biết tự bao giờ.

Nói đến đây, đem mọi việc ra ấn chứng, gian kế của Trần Hữu Lượng đều lộ ra cả. Truyền Công trưởng lão quay sang cô gái áo vàng vái một cái thật sâu, nói:

- Cô nương có đại đức với tệ bang, Cái Bang không biết cách nào báo đáp.

Cô gái áo vàng cười nhạt nói:

- Tiên nhân chúng tôi cùng đời trước của quí bang có uyên nguyên thật sâu đậm, chút công lao nhỏ bé này, có gì đáng nói đâu? Còn tiểu muội muội nhà họ Sử này, nhờ các ông chăm sóc cho chu đáo.

Nàng khom mình hành lễ, bóng vàng thấp thoáng, đã nhảy lên trên mái nhà. Truyền Công trưởng lão gọi vói theo:

- Xin cô nương dừng bước.

Bốn cô gái áo đen, bốn cô gái áo trắng cũng nhảy lên, tiếng đàn tình tang, tiếng tiêu réo rắt, chỉ chốc lát tiếng đàn tiếng sáo đã đi thật xa, khúc chưa xong mà người không còn thấy nữa, phơi phới đến rồi lại phơi phới đi. Mọi người trong lòng ai cũng cảm thấy bồi hồi.

Truyền Công trưởng lão cầm tay Sử Hồng Thạch, quay sang nói? với Trương Vô Kỵ:

- Trương giáo chủ, xin mời vào trong sảnh nói chuyện.

Cả bọn ăn mày cung kính đứng qua một bên, mời Trương Vô Kỵ đi trước. Trương Vô Kỵ vào trong sảnh, cùng bọn Truyền Công trưởng lão chia ngôi chủ khách ngồi xuống, Chu Chỉ Nhược ngồi ở bên cạnh chàng. Trương Vô Kỵ hỏi tên tuổi Truyền Công trưởng lão, Chấp Pháp trưởng lão và mọi người xong liền nói:

- Tào trưởng lão, nghĩa phụ tôi Kim Mao Sư Vương nếu có ở tại quí bang, xin được mời ra tương kiến, nếu không xin cho biết lão nhân gia hiện nay ở nơi đâu.

Truyền Công trưởng lão thở dài một tiếng nói:

- Tên gian tặc Trần Hữu Lượng giở thủ đoạn gian manh khiến cho Cái Bang phải hổ thẹn với anh hùng thiên hạ. Không dám dấu Trương giáo chủ, Tạ đại hiệp và Chu cô nương quả có bị chúng tôi mời đến khi ở quan ngoại, lúc đó Tạ đại hiệp thân bị nhiễm bệnh, hôn mê trên giường. Chúng tôi không cần động thủ quá chiêu cũng mời được ông ta đại giá tới đây. Buổi tối trước đây năm hôm, Tạ đại hiệp đột nhiên đánh chết các đệ tử tệ bang canh giữ ông ta, thoát thân đi mất. Những đệ tử Cái Bang táng mệnh, quan tài còn giữ nơi hậu viện chưa kịp chôn. Trương giáo chủ nếu như không tin, xin quá bộ xuống hậu viện xem thử thì biết.

Trương Vô Kỵ nghe ông ta nói năng thành khẩn, huống chi đêm hôm đó đệ tử Cái Bang chết ngổn ngang, chính mắt chàng đã thấy rõ, liền đáp:

- Tào trưởng lão đã nói thế, lẽ nào tại hạ lại không tin?

Chàng hỏi tiếp:

- Thế từ Lô Long một mạch chạy qua hướng tây, có để lại ký hiệu liên lạc của tệ giáo, tại hạ tra xét biết không phải do anh em trong bản giáo thực hiện, không biết việc này có liên hệ gì với quí bang chăng?

Truyền Công trưởng lão đáp:

- Xem chừng chắc là tên khốn kiếp Trần Hữu Lượng đã giở trò, nói ra thật xấu hổ, huynh đệ hoàn toàn không hay biết gì cả.

Trương Vô Kỵ gật đầu, trầm ngâm giây lát lập tức hiểu ngay: ?Tên Thành Côn kia ra vào Quang Minh Đính như chỗ không người, ký hiệu bản giáo thể nào y chẳng biết? Gã này nếu như chưa chết, cái trò bùa phép này thể nào chẳng có liên quan đến y. Nếu như nghĩa phụ ta lọt vào tay Thành Côn ...? Chàng nghĩ đến đây, trên trán đổ mồ hôi, cố gắng định thần hỏi Sử Hồng Thạch:

- Tiểu muội muội, vị Dương tỉ tỉ kia sống ở nơi đâu? Trước kia em có biết cô ta không?

Sử Hồng Thạch lắc đầu:

- Trước kia em chưa hề biết chị ấy, sau khi gia gia chết rồi, má má cùng với em đem theo cây gậy trúc của gia gia lên xe đi mấy ngày liền, rồi lại đi xe đi lên núi. Má má không đi được, nghỉ một hồi, đi bộ một quãng rồi đến ngoài một khu rừng, má má gọi mấy tiếng. Sau đó có một tiểu tỉ tỉ mặc áo đen đi ra, rồi tới Dương tỉ tỉ đi ra, hỏi chuyện má má một lúc rồi cầm cây gậy đem đi một hồi lâu. Sau đó má má bất tỉnh, Dương tỉ tỉ dẫn em cùng với tám chị mặc áo trắng, mặc áo đen đi xe đến đây.

Con bé tuổi nhỏ, nói không ra đầu đuôi, hỏi đến địa danh ngày tháng nó đều chẳng biết gì cả, nên chẳng ai tìm hiểu thêm được chuyện gì. Truyền Công trưởng lão nói:

- Công tử của Hàn Sơn Đồng đại gia bên quí giáo cũng ở tại tệ bang.

Ông ta quay lại nhắn bảo vài lời, một tên đệ tử Cái Bang hấp tấp chạy đi. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng Hàn Lâm Nhi oang oang chửi bới từ hậu đường truyền ra:

- Bọn chết đường chết chợ ăn mày ăn nhặt chúng bay đừng có giở trò lường gạt ông nữa! Trương giáo chủ chúng ta thân phận cao quí là dường nào, ai thèm đến đến cái hang chuột của lũ ăn xin. Chúng bay có giỏi thì mau mau đưa ta về tây thiên đi thôi, đừng có thậm thà thậm thụt giở trò ma mãnh, không ăn thua gì đâu.

Quần cái ai nấy đều nghe, người nào mặt cũng lộ vẻ sượng sùng. Trương Vô Kỵ kính trọng Hàn Lâm Nhi là người khí khái, vội đứng lên đi lên mấy bước, thấy y mặt hầm hầm hung hăng đi từ hậu đường ra, liền nói:

- Hàn đại ca, tôi ở đây này, mấy hôm nay để cho đại ca phải khó chịu.

Hàn Lâm Nhi ngạc nhiên, mừng quá đỗi, vội vàng quì xuống vái lạy nói:

- Trương giáo chủ, quả nhiên lão nhân gia đã đến thật, tiểu nhân thật không thể nào tưởng nổi. Giáo chủ mau mau truyền hiệu lệnh, giết sạch bọn ăn mày thối tha đi thôi.

Trương Vô Kỵ cố nhịn cười đỡ y dậy nói:

- Hàn đại ca, các vị trưởng lão Cái Bang vị trúng phải gian kế của người ngoài nên mới hiểu lầm nhau. Bây giờ hai bên đã phân giải rõ ràng, tất cả nay đều là chỗ bạn bè cả. Hàn đại ca nể mặt huynh đệ một chút, xin bỏ qua cho.

Hàn Lâm Nhi đứng lên, vẫn hậm hực nhìn bọn Truyền Công trưởng lão, toan chửi thêm vài câu cho đỡ tức nhưng giáo chủ đã dặn như thế đành phải lặng thinh.

Chấp Pháp trưởng lão nói:

- Hôm nay Trương giáo chủ quang lâm, thật là vinh dự lớn cho tệ bang. Mau mau chuẩn bị đại tiệc, tất cả anh em ta thứ nhất là để khoản đãi Trương giáo chủ, thứ hai là để xin lỗi chưởng môn phái Nga Mi, thứ ba là để tạ tội cùng Hàn đại ca.

Lập tức các đệ tử Cái Bang cùng lên tiếng đáp ứng. Trương Vô Kỵ trong bụng lo lắng cho an nguy của nghĩa phụ, lại còn nhiều chuyện phải hỏi với Chu Chỉ Nhược không có bụng dạ nào để ăn uống vội vàng vòng tay nói:

- Mỹ ý của chư vị, bản nhân hết sức cảm tạ. Chỉ vì tại hạ vội đi kiếm nghĩa phụ, thể nào ngày sau cũng có lúc quay lại làm phiền chư vị, xin quí vị tha lỗi cho.

Truyền Công trưởng lão chèo kéo thêm mấy lần? nữa, Trương Vô Kỵ thấy nếu mình khăng khăng ra đi không khỏi thất lễ với Cái Bang, đánh phải ở lại dự tiệc. Trên bàn ăn, các cao thủ Cái Bang ai nấy trịnh trọng lên tiếng xin lỗi, đều nói đã sai các đệ tử Cái Bang khắp nơi truy tìm tung tích Tạ Tốn, một khi biết tin, lập tức phi báo cho Minh Giáo ngay. Trương Vô Kỵ cảm ơn, cùng các trưởng lão, long đầu đính ước, sau đó hai bên say sưa túy lúy một phen. Các cao thủ Cái Bang thấy chàng tuổi trẻ, võ công cao cường nhưng tuyệt nhiên không có vẻ gì kiêu ngạo, bụng dạ lại rộng rãi khoáng đạt nên tất cả cùng nắm tay thề chung sức kháng quân Nguyên. Đến khi đưa tiễn ai nấy đều bồi hồi, ra khỏi thành Lô Long đến mười dặm mới chia tay.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tại tỉnh Trực Lệ, cách Lô Long bốn mươi sáu dặm, là nơi phu đưa thư nghỉ tạm trên đường

[2] dục ngữ tiên tiếu là từ ngữ trong tướng học, để chỉ người phụ nữ có tính lẳng lơ chưa mở miệng mà ánh mắt đã ngầm quyến rũ đàn ông

[3] tiêm tiêm nguyên nghĩa là nhỏ nhắn, xinh xắn

[4] đàn khảm ngọc

Hồi 34

TIÊU TRƯỜNG CẦM ĐOẢN Y LƯU HOÀNG

Hai cô tranh lấy một chàng,

Chữ tình chữ hiếu biết đàng nào hơn?

Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người cưỡi ba con ngựa do đại tài chủ tặng, thẳng đường rong ruổi về phía nam. Hàn Lâm Nhi đối với giáo chủ hết sức cung kính theo sau một quãng xa, không dám đi song song, trên đường đi múc nước, pha trà chẳng khác gì một người đầy tới phục vụ Trương Chu hai người.

Trương Vô Kỵ thấy vậy không đành lòng bèn nói:

- Hàn đại ca, anh tuy là huynh đệ trong bản giáo thật nhưng tiểu đệ rất kính trọng đại ca, ở việc công thì đại ca phải nghe hiệu lệnh của đệ nhưng ngày thường đối xử với nhau thì cứ coi như ngang vai, xem nhau như anh em bằng hữu vậy thôi.

Hàn Lâm Nhi hoảng hốt nói:

- Thuộc hạ đối với giáo chủ hết sức kính ngưỡng, coi nhau ngang hàng sao được? Bình thời không có duyên được gần giáo chủ, hôm nay tiểu nhân được tận tâm phục thị quả là sinh bình đại hạnh của thuộc hạ.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:

- Thế tôi có phải là giáo chủ của anh đâu, anh chẳng cần đối với tôi cung kính như thế nữa.

Hàn Lâm Nhi nói:

- Chu cô nương chẳng khác gì tiên trên trời, tiểu nhân được nói chuyện với cô vài câu, cũng là nhờ phúc tu các kiếp trước. Tiểu nhân ngôn ngữ thô lỗ xin cô nương miễn chấp cho.

Chu Chỉ Nhược thấy y ăn nói thành khẩn như thế, trong ánh mắt lộ vẻ sùng kính, coi mình thực chẳng khác gì thiên thần. Nàng tự biết dung mạo xinh đẹp, thanh niên con trai ai gặp nàng cũng đều động lòng nhưng người sùng bái hết cỡ như Hàn Lâm Nhi thì chưa hề có, làm thân con gái ai mà chẳng thích.

Trương Vô Kỵ hỏi lại hôm trước tại sao nàng lại bị Cái Bang bắt giữ thì Chu Chỉ Nhược kể lại hôm đó chàng vừa đi khỏi khách điếm chưa lâu, Tạ Tốn đột nhiên toàn thân run rẩy, nói mê nói sảng. Nàng sợ hãi hết sức khuyên nhủ nhưng Tạ Tốn dường như không nhận ra nàng nữa, ở trong phòng lăn lộn một hồi rồi nằm lăn ra đất, không còn biết gì nữa. Ngay khi đó sáu bảy cao thủ của Cái Bang xông vào phòng, nàng chưa kịp rút kiếm ra chống cự thì đã bị kiềm chế ngay, cả nàng lẫn Tạ Tốn đều bị đưa về Lô Long.

Trương Vô Kỵ khi còn nhỏ đã biết nghĩa phụ mình vì luyện Thất Thương Quyền nên bị thương ở tâm mạch, lại thêm toàn gia bị Thành Côn giết hại nên thỉnh thoảng nổi cơn điên, có điều không ngờ lại phát tác ngay hôm đó, khiến cho không sao đề phòng được bọn Cái Bang đến tập kích không khỏi tiếc thầm. Hai người bàn đến chuyện không biết Tạ Tốn bây giờ ở đâu, cả hai đều không có được chút manh mối nào.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kinh sư là nơi các lộ anh hùng hội tụ, mình xuôi nam cũng qua đó vậy đến Đại Đô dò thám tin tức xem sao. Anh nghĩ rằng thể nào Thanh Dực Bức Vương Vi huynh cũng biết phần nào đầu dây mối nhợ.

Chu Chỉ Nhược bĩu môi cười nói:

- Anh đến Đại Đô có thực là đi kiếm Vi Nhất Tiếu không?

Trương Vô Kỵ hiểu ngay nàng muốn bóng gió nói gì, mặt đỏ lên nói:

- Cũng chưa chắc gì kiếm được Vi huynh. Nếu mình gặp được Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng thì cũng giúp mình được phần nào.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:

- Có một vị thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, anh đến Đại Đô đi kiếm cho được thì thể nào cũng giúp được rất nhiều. Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng làm sao thông minh bằng cô này được?

Trương Vô Kỵ từ đó đến nay đâu dám nói chuyện gặp Triệu Mẫn, lúc này nghe nàng đề cập đến, thần sắc không khỏi sượng sùng, nói:

- Em trong bụng không quên được Triệu cô nương thành ra cao hứng lại châm chọc anh vài câu.

Chu Chỉ Nhược cười:

- Em không quên hay là người khác không quên? Trong bụng anh toan tính gì bộ tưởng em không biết hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ mình và Chu Chỉ Nhược đã ước định sẽ chung sống đến lúc răng long đầu bạc, từ nay sống chết có nhau, không thể nào lại hai lòng, chuyện gì cũng chẳng nên dấu nàng bèn nói:

- Chỉ Nhược, có một chuyện anh phải nói với em, em đừng giận nhé!

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chuyện gì đáng giận thì cứ giận, còn không đáng giận thì không giận.

Trương Vô Kỵ thấy sựng lại, nghĩ thầm mình từng thề độc với nàng, nhất định sẽ giết Triệu Mẫn để báo thù cho biểu muội Ân Ly, nhưng khi gặp lại nàng rồi không những đã không giết nàng, lại còn cùng nàng qua đêm nơi hoang sơn, cùng cưỡi chung một con ngựa, những chuyện đó quả thực khó ăn khó nói làm sao. Chàng không quen giả dối nên tự thấy ngượng ngập, mặt mày không được tự nhiên.

Chàng còn đang trầm ngâm ba con ngựa đã chạy đến gần một thị trấn nhỏ, thấy trời cũng đã xế chiều bèn đi kiếm một khách điếm tá túc qua đêm. Ăn cơm tối xong, chàng lại xoa nắn các huyệt đạo ở lưng Chu Chỉ Nhược, tuy phương pháp giải huyệt không thích hợp nhưng nàng bị điểm cũng đã lâu, thành ra khi máu huyết lưu thông, các huyệt bị đóng cũng tự động mở ra. Chàng nghĩ thầm: ?Các trưởng lão Cái Bang tuy võ công không phải là cực cao nhưng phép điểm huyệt của họ thật thần diệu. Chỉ Nhược tâm tính cao ngạo, trên bàn tiệc không chịu mở miệng nhờ họ giải huyệt, người điểm huyệt cũng làm như không nhớ ra. Ha ha, mấy ông ăn mày đó cũng giữ thể diện thật, đã thua xiểng niểng rồi, vậy mà điểm huyệt trội một tí cũng vẫn còn cố hơn cho bằng được?.

Chu Chỉ Nhược hiềm khách điếm có mùi hôi hám nên nói:

- Thôi mình đi ra ngoài dạo chơi một chốc cho dãn gân dãn cốt.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm.

Chàng liền nắm tay nàng cùng đi ra khỏi thị trấn. Lúc đó mặt trời đã xuống trên đầu non, phía tây cả một bầu trời ráng chiều đỏ như máu, hai người đi bộ một hồi đến ngồi dưới một gốc cây nhìn vầng thái dương đang từ từ khuất sau rặng núi xa xa, trời sâm sẩm tối dần. Trương Vô Kỵ thu hết can đảm, đem chuyện làm sao gặp lại Triệu Mẫn nơi miếu Di Lặc, rồi đến việc phát hiện cái xác Mạc Thanh Cốc như thế nào, gặp lại bọn Tống Viễn Kiều ra sao, rồi đi theo các dấu hiệu của Minh Giáo chạy một vòng lớn ở Ký Bắc tất cả thuật lại một lượt, sau cùng chàng đưa hai tay nắm tay Chu Chỉ Nhược nói:

- Chỉ Nhược, em là vợ chưa cưới của anh, phu thê nhất thể, chuyện gì anh cũng không muốn dấu em làm gì. Triệu cô nương nhất định đòi gặp nghĩa phụ anh cho bằng được, có mấy câu rất quan trọng phải hỏi ông cho ra. Anh lúc đó cũng khởi nghi, bây giờ nghĩ lại, càng thấy đáng sợ hơn.

Chàng nói tới mấy câu sau cùng, giọng hơi run run. Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng sợ cái gì?

Trương Vô Kỵ thấy hai bàn tay thon nhỏ của nàng trong tay chàng lạnh như băng, cũng hơi rung động, liền nói:

- Anh nghĩ đến nghĩa phụ có bệnh mất trí nổi cơn điên mỗi khi phát tác thì không còn biết gì nữa. Năm xưa bệnh điên của ông nổi lên, đã định giết chết mẹ anh, chính vì thế mà mẹ anh phải lấy kim châm bắn ông mù mắt. Hôm sinh ra anh, nghĩa phụ cũng toan giết cả cha lẫn mẹ anh, may là nghe thấy tiếng khóc của anh nên thần trí mới tỉnh táo trở lại. Anh sợ ... anh quả thực sợ rằng ...

Chu Chỉ Nhược hỏi:

- Chàng sợ cái gì?

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng nói:

- Đúng ra anh không nên nói ra nhưng quả thật anh rất ngại rằng biểu muội của anh bị ... bị ... nghĩa phụ giết chết.

Chu Chỉ Nhược nhảy dựng lên, run run nói:

- Tạ đại hiệp nhân hiệp trượng nghĩa, đối với bọn hậu bối chúng ta thương yêu biết bao, sao lại có chuyện giết Ân cô nương được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh cũng chỉ áng chừng vậy thôi, không có gì làm chuẩn xác. Nếu quả thật biểu muội anh do nghĩa phụ giết chết thì cũng chỉ vì bệnh cũ của ông đột nhiên phát tác, chẳng khác gì người nằm mơ chứ đâu phải bản ý của lão nhân gia. Ôi, nếu quả như thế thì cũng chỉ vì lão tặc Thành Côn mà ra cả.

Chu Chỉ Nhược trầm tư một hồi, lắc đầu nói:

- Không phải, không phải! Không lẽ cả bọn mình đều trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, cũng bởi nghĩa phụ lão nhân gia hay sao? Ông ta lấy đâu ra độc dược? Một người có thể đột nhiên tâm trí mê muội giết người thì cũng không lấy gì làm lạ, nhưng đâu có thể rành rọt xét nét đến nỗi có thể bỏ chất độc và đồ ăn thức uống bao giờ?

Trương Vô Kỵ thấy trước mắt như có mây mù che phủ, không nhìn ra được chút manh mối nào. Lại nghe Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói tiếp:

- Vô Kỵ ca ca, chàng dùng đủ trăm phương ngàn kế, tìm cách chạy tội cho Triệu cô nương.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu quả thực Triệu cô nương chính là hung thủ thì cô ta chạy trốn nghĩa phụ còn chưa đủ, sao lại khăng khăng đòi gặp có vài câu rất quan trọng muốn hỏi ông ta là sao?

Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:

- Vị cô nương đó cơ biến không ai bằng, nếu nàng ta muốn chối phăng tội lỗi, không lẽ không nghĩ ra được cách nào xảo diệu hay sao?

Giọng nàng đột nhiên trở nên ôn nhu, dựa đầu vào chàng nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng là người trung hậu thực thà nhất trên đời này, nói đến thông minh cơ trí, làm sao có thể là đối thủ của Triệu cô nương cho được?

Trương Vô Kỵ thở dài nghĩ lại thấy quả thực hữu lý, giơ tay ôm thân thể mềm mại của nàng vào lòng, dịu giọng nói:

- Chỉ Nhược, sao anh thấy thế sự phiền nhiễu chẳng cùng, đến thân thiết như nghĩa phụ mà cũng khiến anh phải nghi ngờ. Anh chỉ mong sau khi đuổi được Thát tử rồi, hai đứa mình ẩn cư nơi thâm sơn, chung hưởng thanh nhàn, không lý gì đến việc đời nữa.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng là giáo chủ Minh Giáo, nếu trời cho được như ý nguyện, đuổi được quân Hồ Lỗ thì thiên hạ đại sự lúc đó đều do Minh Giáo lo liệu cả, làm sao chàng có thể hưởng thanh nhàn được?

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh chẳng có tài cán gì mà làm giáo chủ, mà cũng chẳng muốn làm giáo chủ nữa. Nếu như Minh Giáo quả phải đảm nhiệm trọng quyền, cái chức vụ làm chủ một giáo phái này phải do một vị anh hùng sáng suốt đảm trách.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng tuổi còn trẻ, bây giờ tài cán chưa đủ nhưng đâu phải là không thể học được? Hơn nữa, em là chưởng môn của phái Nga Mi, gánh vác trên vai cũng rất nặng nề. Khi sư phụ em giao cho em cái Thiết Chỉ Hoàn này dặn em phải làm sao quang đại môn phái, e rằng không có cái diễm phúc được ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm đâu.

Trương Vô Kỵ vuốt ve chiếc nhẫn trên tay nàng nói:

- Hôm đó anh thấy chiếc nhẫn sắt này rơi vào tay Trần Hữu Lượng, trong lòng bồn chồn lo lắng biết bao, chỉ sợ em bị gian nhân làm nhục, hận không có cánh để bay đến bên em. Chỉ Nhược, anh không cứu em thoát hiểm được sớm hơn khiến những ngày đó em phải chịu biết bao nhiêu chèn ép. Thiết Chỉ Hoàn này làm sao em lấy lại được thế?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Đó là thiếu hiệp Tống Thanh Thư của phái Võ Đương đem trả lại cho em đó.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nhắc đến tên Tống Thanh Thư, đột nhiên nghĩ đến nàng cùng Tống Thanh Thư sánh vai ngồi bên nhau nơi bàn tiệc nơi đại sảnh của Cái Bang nên hỏi:

- Tống Thanh Thư đối với em tốt lắm, phải không?

Chu Chỉ Nhược nghe thấy Vô Kỵ hỏi với vẻ khác thường nên hỏi lại:

- Chàng nói ?đối với em tốt lắm? là ý thế nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chẳng có ý gì hết. Anh chỉ thuận mồm hỏi đấy thôi. Tống sư ca đối với em một mối thâm tình, chẳng kể gì đến phản bội môn phái, đối nghịch phụ thân, thí diệt sư thúc, mưu hại sư tổ, chỉ có tốt với một mình em thôi.

Chu Chỉ Nhược ngửng đầu nhìn vầng trăng mới nhô lên ở phương đông, buồn bã nói:

- Nếu như chàng đối với em chỉ được bằng một nửa của y thì em cũng đã thỏa nguyện lắm rồi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh chẳng thể nào si tình được như Tống sư ca, nếu bảo vì em mà bắt anh làm những chuyện bất hiếu bất nghĩa thì quyết không thể nào được.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vì em thì chàng không làm được nhưng nếu vì Triệu cô nương thì chàng làm được. Ở trên hòn đảo chàng đã lập trọng thệ nhất quyết sẽ giết con yêu nữ để báo thù cho Ân cô nương. Thế nhưng khi chàng gặp mặt cô ta rồi thì lời thề quên sạch, chẳng còn nhớ một tí gì.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, một khi anh đã tra xét rõ ràng quả thực đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên là do Triệu cô nương ăn trộm, biểu muội anh đúng là cô ta giết thì lúc đó anh sẽ không tha cho cô ta đâu. Thế nhưng nếu cô ta vô tội, anh làm sao giết cô ta vô duyên vô cớ được? Có lẽ ở nơi tiểu đảo anh lập lời thề đó là sai lầm.

Chu Chỉ Nhược lặng yên không nói, Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Anh nói có gì sai lầm không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không đâu, em đang nghĩ đến khi ở nơi tháp cao chùa Vạn An, em cũng đã từng lập trọng thệ trước mặt sư phụ em. Chỉ tiếc rằng khi em trao thân gửi phận cho chàng, em đã không kể cho chàng nghe.

Trương Vô Kỵ kinh hãi hỏi:

- Em ... em đã lập lời thề gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Khi đó em thề với sư phụ rằng nếu như ngày sau lấy anh làm chồng, cha mẹ em ở dưới suối vàng cũng không yên, sư phụ em sẽ thành ma thành quỉ, ngày đêm theo đuổi quấy phá em, nếu em có con cái với chàng, trai thì đời đời làm đầy tớ, gái thì đời đời làm xướng kỹ.

Trương Vô Kỵ nghe thấy những lời thề độc địa ấy, không khỏi lạnh người, một lúc lâu sau mới nói:

- Chỉ Nhược, chuyện đó không tính được, không thể nào tính được. Sư phụ em vẫn tưởng Minh Giáo là một tôn giáo tà ma chuyên làm điều ác độc xấu xa, còn anh là một dâm tặc gian tà vô sỉ nên mới ép em phải lập lời thề đó. Lão nhân gia một khi đã biết rõ sự thực, thì sẽ không còn bắt em phải giữ lời thề đó nữa đâu.

Chu Chỉ Nhược nước mắt đầm đìa, thổn thức nói:

- Thế nhưng ... thế nhưng lão nhân gia đâu có biết được.

Nói xong nàng phục vào lòng chàng khóc rấm rứt. Trương Vô Kỵ vuốt mái tóc mềm mại của nàng, an ủi:

- Sư phụ em ở dưới âm sẽ biết mà không thể nào trách em đã phản bội lời thề. Chẳng lẽ anh lại là kẻ dâm tặc gian tà vô sỉ hay sao?

Chu Chỉ Nhược ôm lấy lưng chàng nói:

- Bây giờ chàng chưa phải nhưng mai sau bị Triệu Mẫn dụ dỗ, không chừng ... không chừng sẽ thành gian tà vô sỉ.

Trương Vô Kỵ giơ ngón tay búng nhẹ vào má nàng cười nói:

- Sao em lại coi thường anh thế, chồng em không lẽ lại là hạng người như thế hay sao?

Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên, trên má nàng những giọt lệ lóng lánh như những viên ngọc, đôi mắt ánh lên một nụ cười nũng nịu nói:

- Rõ không biết xấu, chàng đâu đã là chồng em? Chàng vẫn lập lờ qua lại với con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn, thiếp không cần chàng nữa. Biết đâu một ngày kia chàng cũng như gã Tống Thanh Thư, chỉ vì một người con gái mà làm biết bao việc xấu xa đê tiện.

Trương Vô Kỵ cúi đầu xuống hôn nhẹ lên má nàng cười:

- Ai bảo em đẹp như tiên giáng trần, những người phàm phu tục tử như anh làm sao cầm lòng cho nổi? Cái đó là cha mẹ em có lỗi, sinh ra em quá xinh đẹp, làm đàn ông con trai phải mê mệt đấy thôi.

Đột nhiên từ đằng sau một cái cây to ở cách xa chừng hai trượng có hai tiếng cười khẩy vọng đến. Trương Vô Kỵ vẫn ôm Chu Chỉ Nhược trong tay, còn đang ngạc nhiên, đã thấy một bóng người thấp thoáng vụt đi xa tít. Chu Chỉ Nhược mặt trắng bệch, nhảy phắt lên, run run nói:

- Triệu Mẫn đó, con yêu nữ đó cứ theo đuổi chúng mình hoài.

Trương Vô Kỵ nghe hai tiếng cười khẩy quả đúng là giọng đàn bà, nhưng không dám chắc là Triệu Mẫn, trời tối đen không thể nào nhìn được bóng dáng phía sau, hơi ngần ngừ hỏi lại:

- Có thật là cô ta không? Cô ta theo đuổi mình làm gì?

Chu Chỉ Nhược bực tức nói:

- -??? Thì cô ả đó mê anh, anh còn cứ giả vờ làm như không biết. Hay là hai người hẹn với nhau, làm trò ma mãnh để trêu ghẹo tôi đây.

Trương Vô Kỵ vội luôn mồm kêu oan. Chu Chỉ Nhược đứng ngơ ngẩn trong gió lạnh, nghĩ ngợi trước sau, tự nhiên nước mắt chảy ròng ròng. Trương Vô Kỵ tay trái ôm vai nàng, giơ tay áo lên lau mặt cho Chu Chỉ Nhược, ôn tồn nói:

- Sao tự nhiên em lại khóc? Nếu mà anh có hẹn Triệu cô nương đến đây thì trời tru đất diệt. Em thử nghĩ coi, nếu anh có tình ý gì với nàng ta, vậy mà biết cô ta đang ở đâu đây lẽ nào lại thân mật truyện trò, điên điên khùng khùng âu yếm em là sao? Như thế chẳng phải cố ý ruồng rẫy cô ta, khiến cho cô ta phải đau lòng hay chăng?

Chu Chỉ Nhược thở dài:

- Anh nói cũng đúng. Vô Kỵ ca ca, lòng em không thể nào bình tĩnh được.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sao thế?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Sao em vẫn không sao quên được lời thề với sư phụ, lại thêm Triệu Mẫn nhất định không buông tha em, mà về võ công, mưu trí so với yêu nữ đó em thật kém xa.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh sẽ tận tâm kiệt lực, bảo hộ cho em chu toàn. Anh lẽ nào lại để cô ta đụng đến một sợi tóc người vợ yêu của anh được?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu như em chết vì tay cô ta thì cũng xong, chẳng qua cái số em không ra gì. Có sợ là sợ anh bị cô ta mê hoặc, dùng lời lẽ ngon ngọt, rơi vào cái bẫy của cô ta rồi ra tay giết em, lúc đó em chết thật không nhắm mắt được.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Em đúng là người nước Kỷ lo trời sập. Trên đời này biết bao nhiêu người toan tính hại anh, bao nhiêu người đắc tội với anh anh còn chưa giết, sao lại giết em là thế nào?

Chàng cởi áo ngoài để lộ vết sẹo trên ngực, cười nói:

- Đây là vết kiếm em đâm, em đâm càng sâu, anh càng yêu em hơn.

Chu Chỉ Nhược giơ bàn tay nhỏ nhắn vuốt ve vết thương trên ngực chàng, trong lòng biết bao hoài cảm, đột nhiên mặt tái đi nói:

- Ác giả ác báo, mai mốt chàng đâm một kiếm giết em, em cũng không có gì hối tiếc cả.

Trương Vô Kỵ giơ tay ôm nàng vào lòng, nhỏ nhẹ nói:

- Để khi mình tìm thấy nghĩa phụ rồi sẽ nhờ lão nhân gia đứng chủ hôn, từ nay về sau hai đứa mình không rời xa nhau một bước, sống với nhau đến lúc bạc đầu. Nếu em thích thì cứ đâm anh thêm vài nhát nữa, anh sẽ không nói lại nửa câu. Như thế em đã bằng lòng chưa?

Chu Chỉ Nhược tựa má vào bộ ngực ấm áp của chàng, nói khẽ:

- Chỉ mong chàng là kẻ đại trượng phu, chẳng quên những gì đã nói với thiếp hôm nay.

Hai người rủ rỉ hồi lâu, mãi đến khuya khi sương lạnh xuống nhiều mới chịu về khách điếm ai về phòng nấy ngủ.

*

*?? *

Sáng hôm sau ba người tiếp tục đi về phương nam, trên đường không thấy tung tích Triệu Mẫn đâu, chẳng mấy chốc đã đến Đại Đô. Khi vào thành trời đã về chiều, chỉ thấy trong thành ai nấy tưới nước quét dọn, các đường phố hẻm lớn hẻm nhỏ đều sạch sẽ, nhà nào đằng trước cũng bầy hương án.

Bọn Trương Vô Kỵ vào khách điếm rồi, hỏi chủ quán trong thành có chuyện gì. Điếm tiểu nhị đáp:

- Khách quan ở xa đến không biết, nhưng cũng thật là may, ngày mai là ngày đại du hoàng thành đó.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Đại du hoàng thành là cái gì?

Điếm tiểu nhị đáp:

- Ngày mai là ngày mỗi năm một lần hoàng thượng đại du hoàng thành. Hoàng thượng định đến chùa Khánh Thọ dâng hương, có đến mấy vạn nam thanh nữ tú ăn mặc đẹp đẽ du hành, từ đầu đến cuối phải đến ba bốn chục dặm, thế có thích không cơ chứ? Khách quan đêm nay cố ngủ cho ngon, sáng mai dậy sớm, đến ngoài cửa điện Ngọc Đức chiếm chỗ ngồi cho tốt, nếu mắt tinh thì sẽ được thấy hoàng thượng, hoàng hậu, quí phi, thái tử, công chúa tất cả đủ hết. Ngài thử nghĩ xem, mình là dân đen, nếu không ở tại kinh sư, làm gì có phúc được thấy hoàng thượng bao giờ?

Hàn Lâm Nhi nghe thế giận quá nhịn không nổi quát lên:

- Nhận giặc làm cha, thật là đồ Hán gian vô liêm sỉ. Hoàng đế Thát tử có cái đếch gì mà phải xem?

Điếm tiểu nhị mắt mở trừng trừng, chỉ vào y nói:

- Ngươi ... ngươi ... nói như thế chẳng phải là tạo phản sao? Ngươi không sợ mất đầu ư?

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Ngươi là người Hán, Thát tử giết hại biết bao nhiêu người chúng ta, ngươi còn hoàng thượng này, hoàng thượng nọ, thật không còn chút khí khái nào nữa hay sao?

Gã điếm tiểu nhị thấy y hùng hùng hổ hổ, quay mình toan chạy ra ngoài. Chu Chỉ Nhược giơ tay điểm một cái trúng ngay huyệt đạo trên lưng y nói:

- Gã này chạy ra thể nào cũng lắm chuyện, e rằng không bao lâu sẽ có quan binh đến vây bắt chúng mình mất.

Nói xong nàng giơ chân đá y vào trong gậm giường, cười nói:

- Cho y đói vài hôm, bao giờ mình đi hãy thả y ra.

Chẳng bao lâu nghe thấy tiếng chưởng quĩ ở bên ngoài kêu réo:

- A Phúc, A Phúc, mày làm những chuyện tào lao gì ở đâu rồi. Mao đem nước rửa mặt cho vị khách ở phòng số ba.

Hàn Lâm Nhi nghe thấy thế tức cười, vỗ bàn quát:

- Mau đem cơm rượu lên đây, đại gia đói lắm rồi.

Một lát sau có một tên điếm tiểu nhị khác đưa thức ăn lên, lẩm bẩm nói một mình:

- Cái thằng A Phúc chắc lại đi ra hoàng thành xem đốt pháo bông rồi. Việc nhà không lo, chỉ ham chơi.

Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ chưa ra khỏi giường đã nghe bên ngoài có tiếng người huyên náo. Chàng đi ra cửa thấy trên đường vô số nam nữ, ai nấy quần áo sặc sỡ, rảo bước đi về hướng bắc, người nào cũng cười đùa, xem ra còn vui hơn cả ngày Tết. Chung quanh bốn bề tiếng pháo đì đùng không ngớt. Chu Chỉ Nhược cũng đã ra đến cửa nói:

- Mình cũng đi xem coi sao.

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh đã từng động thủ với võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương, không thể để cho họ nhận ra được, nếu có đi xem cũng phải ăn mặc cho khác đi mới được.

Ba người liền ăn mặc giả làm nhà quê, lấy đất bùn xoa lên mặt mũi chân tay rồi đi theo đoàn người về hướng hoàng thành.

Lúc đó vào khoảng cuối giờ Mão, đầu giờ Thìn, trong ngoài hoàng thành người chật như nêm không còn chỗ nào có thể chen vào được. Trương Vô Kỵ hai tay đưa ra trước đẩy nhẹ người đứng dạt ra, tiến vào dưới một hàng hiên bậc thềm cao đến mấy thước của một nhà giàu bên ngoài cửa Đình Xuân, đứng xem thật tiện lợi. Ba người đứng chưa bao lâu đã nghe tiếng thanh la loảng xoảng từ đằng xa vọng tới. Mọi người kêu lên:

- Đến rồi! Đến rồi!

Ai nấy đều ngóng cổ ra xem. Tiếng não bạt càng lúc càng vang dội, đến gần hơn thấy một trăm linh tám đại hán lực lưỡng tất cả đều mặc áo xanh, tay trái cầm một chiếc phèng la phải to đến ba thước, tay phải cầm dùi đánh thật đều nhịp. Tiếng một trăm linh tám cái thanh la cùng đánh nghe điếc cả tai. Đội não bạt qua rồi đến đội trống gồm ba trăm sáu mươi người, kế đó là đội người Hán tấu nhạc thổi tiêu, đội đàn tì bà người Tây Vực, đội tù và người Mông Cổ mỗi đội ít cũng trên trăm người, nhiều thì phải đến bốn năm trăm. Nhạc đội xong rồi thì tới hai chiếc cờ bằng gấm màu đỏ giương cao đi tới. Một lá cờ trên thêu ?An Bang Hộ Quốc?, một lá cờ thêu ?Trấn Tà Phục Ma?, bên cạnh đầy những chữ Phạn bằng vàng lấp lánh. Hai lá cờ trước sau đều có hai trăm tinh binh Mông Cổ đi theo hộ vệ, đao dài sáng loáng như tuyết, thương tua tủa như mây, cả bốn trăm người đều cưỡi ngựa một màu trắng. Dân chúng nhìn thấy khí tượng uy võ đó đều lớn tiếng hoan hô.

Trương Vô Kỵ trong lòng than thầm: ?Dân chúng bên ngoài ai nấy đều thù hận người Mông Cổ tận xương tủy, riêng người ở kinh sư thì không biết cái nhục vong quốc, có lẽ vì mấy chục năm qua trông thấy uy phong của triều đình Mông Cổ, nên quên đi mình là kẻ mất nước rồi?.

Hai chiếc cờ lớn đi qua xong, đột nhiên từ phía tây có ánh sáng lấp loáng, hai hàng phi đao phóng ra trúng ngay vào cán hai lá cờ. Mỗi hàng phi đao đều bảy chiếc, cả bảy thanh đao ngay ngắn cắm thẳng vào cán cờ. Cán cờ tuy to nhưng bị cả bảy thanh đao chặt vào, lắc lư mấy cái rồi gãy gục, nghe lụp bụp mấy tiếng từ trên không đổ ập xuống. Chỉ nghe thấy tiếng người thảm thiết kêu la, có đến hơn chục người bị lá cờ đè ngã. Dân chúng kêu la om sòm, vội vàng dạt qua lập tức đoàn người loạn cả lên.

Biến cố đó xảy ra thật nhanh quả thật ra ngoài dự tưởng của bọn Trương Vô Kỵ. Hàn Lâm Nhi vui mừng quá đỗi, đang toan lên tiếng hoan hô, thì một bàn tay mềm mại đã thò qua bịt miệng y lại, chính là Chu Chỉ Nhược kịp thời ngăn chặn y lên tiếng reo hò.

Lập tức bốn trăm tên quân Mông Cổ tay cầm binh khí liền xông vào đám người chung quanh tra xét. Trương Vô Kỵ thấy người ném mười bốn thanh phi đao đó thủ pháp thật là lợi hại, đúng là hảo thủ võ lâm nhưng vì bị người chung quanh che khuất nên không biết ai đã ra tay. Chàng đã không nhìn được thì bọn quan binh Mông Cổ cũng chỉ nhắm mắt làm bừa làm sao xét cho ra. Một lát sau, có bảy tám người trong đám đông bị lôi ra, người nào cũng kêu la: ?Oan uổng ...? nhưng giáo của bọn Mông Cổ đều đâm tới giết ngay tại chỗ.

Hàn Lâm Nhi cực kỳ giận dữ nói:

- Người phóng phi đao đã chạy mất từ đời nào, bọn bị thịt kia làm sao bắt cho nổi? Bọn chúng chỉ giết bừa lương dân cho đỡ tức đấy thôi.

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:

- Hàn đại ca đừng nói nữa, bọn mình đi xem đại du hoàng thành chứ có phải đi đại náo hoàng thành đâu.

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Vâng!

Y không dám nói thêm câu nào nữa. Loạn lên một hồi xong, đằng sau tiếng nhạc lại trổi lên một đội làm trò ảo thuật người Tây Vực kẻ nuốt đao, kẻ phun lửa tiến đến khiến quần chúng hoan hô không ngớt, dường như quên hẳn cái thảm kịch máu me vung vãi trên đường mới xảy ra. Rồi một đoàn múa rối biểu diễn những hình nhân trong chậu đủ trò, kế tiếp là những xe hoa do tuấn mã kéo, trên mỗi chiếc xe có những đồng nam đồng nữ xinh đẹp diễn những tích ?Đường Tam Tạng thỉnh kinh?, ?Đường Minh Hoàng du nguyệt điện?, ?Lý Tồn Hiếu đả hổ?, ?Lưu Quan Trương tam chiến Lữ Bố?, ?Trương Sinh nguyệt hạ hội Oanh Oanh? ... diễn xuất khéo léo cực kỳ cuốn hút. Ba người Trương Vô Kỵ vốn sinh sống nơi nước mặn đồng chua, chưa bao giờ được xem những cảnh phồn hoa như thế quả thực một phen mở mắt.

Trên mỗi xe hoa đều có cắm cờ thêu, chỗ thì ?Thần Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng mỗ mỗ cống phụng?, chỗ thì ?Thần Giang Chiết hành tỉnh hữu thừa tướng mỗ mỗ cống phụng? các loại. Càng về sau, các quan tước những người tiến cống càng lớn, xe hoa càng thêm rực rỡ, những diễn viên trên xe ăn mặc càng thêm nhiều ngọc ngà châu báu, trên đầu trên cổ vòng vàng trâm ngọc càng thêm quí giá. Các vương công đại thần Mông Cổ trước là muốn đẹp lòng hoàng đế, sau là muốn khoe khoang giàu sang nên ai cũng ra sức tô điểm cho xe hoa của mình thêm hào nhoáng.

Trong tiếng nhạc dặt dìu, một chiếc xe đóng tuồng ?Lưu Trí Viễn bạch thố ký? vừa qua khỏi, bỗng dưng tiếng nhạc đổi thay, âm điệu lạ lùng, trên xe căng một tấm vải trắng trên đề ?Chu Công lưu phóng Quản Sái?. Trong xe một hán tử trung niên tay cầm hốt, đóng vai Chu Công, bên cạnh là một cậu bé con ăn mặc giả làm thiên tử đóng vai Thành Vương. Quản Thúc, Sái Thúc hai người chụm đầu vào nhau chỉ trỏ vào Chu Công. Kế đó là một cỗ xe hoa khác, trên lá cờ đề ?Vương Mãng giả nhân giả nghĩa?, trên xe người đóng vai Vương Mãng mặt bôi phấn trắng, hai tay cầm đầy vàng bạc, đang phân phát cho một bầy học trò nghèo khổ. Ở đằng sau là bốn lá cờ vải trên viết bốn câu thơ như sau:

Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật,

Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.

Nhược thử đương thời tiện thân tử,

Thiên cổ trung nịnh hữu thùy tri.

(Chu Công uy hiếp triều đình,

Cầu hiền Vương Mãng hạ mình khiêm cung.

Nếu như đến thế là xong,

Đời sau ai biết nịnh trung thế nào?)

Trương Vô Kỵ trong lòng chợt tự hỏi: ?Trên đời này trắng đen, phải trái không phải dễ biết. Chu Công là bậc đại thánh nhân, khi ông trục xuất Quản Thúc, Sái Thúc ai ai cũng bảo là ông có bụng soán ngôi. Còn Vương Mãng là đại gian thần nhưng lúc đầu mua chuộc lòng người, trên đời ai ai cũng ca tụng công đức. Thế nhưng đường dài mới biết sức ngựa, ở lâu mới biết lòng người, việc đúng sai trên đời này, không phải sớm tối mà biết được?. Hai câu chuyện này, năm xưa trên Băng Hỏa đảo nghĩa phụ chàng đã từng kể cho nghe. Chàng lại nghĩ thầm: ?Hai chiếc xe hoa này khác hẳn những chiếc khác, bên trong hẳn có thâm ý gì đây, người nào bày ra, xem ra cũng có chút học thức?. Chàng liền thuận miệng đọc lại bốn câu thơ đó hai lần.

Bỗng nghe mấy tiếng thanh la vang động, một chiếc xe do bốn con ngựa còm cõi kéo tới. Chiếc xe này không kết hoa, mọi người chăm chú nhìn ai nấy đều bật cười nói:

- Sao cái thứ sập xệ như thế này mà cũng du hoàng thành, chẳng khiến cho người ta cười đến trẹo cả quai hàm hay sao?

Chiếc xe đến gần, Trương Vô Kỵ nhìn thấy rõ ràng, bỗng nhiên giật mình kinh hãi, thấy trên xe là một đại hán tóc vàng phủ đến vai, hai mắt nhắm nghiền, ngồi xếp bằng trên giường, chẳng phải giả làm Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn thì còn ai? Bên cạnh là một cô gái xinh xắn mặc áo xanh, tay bưng chén trà, ân cần phục thị, tuy mặt mũi không thanh tú đẹp đẽ như Chu Chỉ Nhược, nhưng quần áo hình dáng giống y hệt như khi nàng còn ở chùa Vạn An.

Hàn Lâm Nhi kêu lên thất thanh:

- Chu cô nương, người đó ăn mặc giống hệt như cô.

Chu Chỉ Nhược chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại, thấy nàng mặt tái mét, ngực phập phồng, biết Chu Chỉ Nhược rất là tức tối, nên chàng đưa tay ra nắm lấy tay nàng, nhất thời chẳng biết những cỗ xe kia có ý gì.

Chiếc xe đó đi qua, lại có một chiếc xe khác giống hệt trên cũng một nam một nữ giả làm Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược. Người con gái cười hì hì đi ra sau lưng người đàn ông, giơ hai ngón tay đột nhiên đâm vào lưng người giả làm Tạ Tốn. Người giả Tạ Tốn ?A? lên một tiếng, ngã gục xuống giường, người giả Chu Chỉ Nhược giơ chân chặn lên, giơ kiếm định giết. Những người đứng xem cùng kêu la:

- Giỏi quá, giỏi quá! Giết nó đi.

Chiếc xe thứ ba cũng có hai người giả Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược, nhưng có thêm bảy tám tên bang chúng Cái Bang vây bắt hai người. Trương Vô Kỵ lúc này không còn hoài nghi gì nữa, biết rằng ba chiếc xe này do Triệu Mẫn bày ra cho người diễn kịch, đoán chừng chàng và Chu Chỉ Nhược sẽ đến Đại Đô nên bày trò làm nhục nàng một phen. Chàng cúi xuống nhặt mấy viên sỏi dưới chân, ngón tay búng ra, nghe vèo vèo hai tiếng, bắn mù mắt hai con ngựa gầy còn kéo chiếc xe thứ ba. Hòn sỏi xuyên thẳng vào óc, hai con ngựa chỉ hí lên một tiếng rồi nằm lăn ra chết. Chiếc xe hoa đổ lăn chiêng, những người đóng kịch trên xe ai nấy ngã nhào xuống đất, đường phố lại một phen náo loạn cả lên.

Chu Chỉ Nhược bậm môi nói nhỏ:

- Con yêu nữ đó làm nhục em đến thế, em ... em ...

Nàng nói tới đây, âm thanh trở nên nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ thấy bàn tay thon nhỏ của nàng lạnh ngắt, thân hình run rẩy vội vàng an ủi:

- Chỉ Nhược, con nhãi này cái trò láo lếu gì cũng nghĩ ra được, em đừng để ý làm gì. Chỉ cần anh đối với em một lòng một dạ, dù người ngoài có đâm bị thóc chọc bị gạo, anh lẽ nào lại tin?

Chu Chỉ Nhược suy nghĩ một lát bỗng nói:

- A, em nghĩ ra rồi. Hôm đó nghĩa phụ vốn đang khỏe mạnh bình thường, đột nhiên thân hình lảo đảo, ngã lăn ra đất, rồi sau đó nói mê nói sảng điên điên khùng khùng. Không lẽ ... không lẽ con yêu nữ ẩn tại một nơi nào trong khách điếm bắn ám khí vào lưng nghĩa phụ chăng?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm đáp:

- Nếu như cô ta có ra tay rồi chạy đến miếu Di Lặc thì cũng có thể kịp đấy nhưng với võ công của nàng e rằng không ám toán nổi nghĩa phụ đâu, không chừng là do Huyền Minh nhị lão tập kích cũng nên.

Trong khi hai người nói chuyện, quan binh Mông Cổ đã dẹp được dân chúng ra một bên, thu dọn hai con ngựa chết, những chiếc xe hoa từ sau vẫn tiếp tục đi tới. Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược chỉ nghĩ ngợi tới tình cảnh vừa rồi chẳng ai còn thiết gì xem xe hoa diễn trò nữa. Xe hoa đi hết rồi thì nghe đọc kinh tiếng Phạn ê a, một đội phiên tăng mặc đại hồng cà sa đi bộ tới. Sau đội phiên tăng là đội thiết giáp, hai nghìn tên lính ngự lâm mặc áo sắt, tay cầm trường mâu xếp hàng đi qua, kế đến là ba nghìn tên lính cung nỏ. Đoàn cung tiễn thủ đi qua xong thì thấy khói hương mù mịt, từng pho thần tượng được những phu kiệu mặc áo gấm rước qua. Nào là thổ địa, thành hoàng, vi đà, tài thần, đông nhạc ... tất cả ba trăm sáu mươi cái kiệu, sau cùng là Quan Thánh Đế Quân. Dân chúng lẩm bẩm tụng kinh, có kẻ nằm phục xuống vái lạy.

Thần tượng đi qua xong thì tới đội nghi trượng tay cầm kim qua, kim chùy, quạt lông lọng vàng từng đôi từng đôi. Dân chúng liền reo lên:

- Hoàng thượng đến rồi! Hoàng thượng đến rồi!

Từ đằng xa ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng một chiếc kiệu lớn bọc gấm sơn son thiếp vàng đi tới. Trương Vô Kỵ nheo mắt nhìn gã hoàng đế Mông Cổ, thấy y mặt mày tiều tụy, dáng lờ đờ, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay tửu sắc quá độ. Hoàng thái tử cưỡi ngựa đi kèm một bên lưng đeo cung bịt vàng nạm ngọc, trông cũng còn có chút anh khí nhưng cũng vẫn không thoát khỏi bản sắc trai Mông Cổ.

Hàn Lâm Nhi ghé vào tai Trương Vô Kỵ nói thầm:

- Giáo chủ cho phép thuộc hạ xông ra chém tên hoàng đế Mông Cổ một đao, trừ mối hại cho bách tính, được chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không được, ngươi làm không xong đâu, chung quanh hoàng đế Thát tử ắt có cao thủ hộ vệ, phải để ta mới được.

Một người đứng ngay bên trái Trương Vô Kỵ liền nói:

- Không ổn, không ổn. Lấy bạo thay bạo, không phải là hay.

Trương Vô Kỵ, Hàn Lâm Nhi và Chu Chỉ Nhược ba người giật mình, liếc qua nhìn người kia, thấy đó là một thầy lang vườn bán thuốc dạo, trên lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm một bàn chân hổ. Người đó dựng hai ngón tay cái để lên ngực, làm như hình thế ngọn lửa bốc cháy của Minh Giáo nói nhỏ:

- Bành Oánh Ngọc tham kiến giáo chủ. Giáo chủ quí thể bình an quả thực vui mừng biết mấy.

Trương Vô Kỵ mừng lắm hỏi:

- Ồ, thì ra đây là Bành ...

Thì ra người đó chính là Bành Oánh Ngọc, y hóa trang thật khéo, đứng ngay bên cạnh đã lâu vậy mà ba người Trương Vô Kỵ không hề hay biết. Bành Oánh Ngọc hạ giọng nói:

- Nơi đây không phải là chỗ truyện trò, hoàng đế Thát tử không nên trừ khử.

Trương Vô Kỵ biết y là người kiến thức rất rộng rãi, bèn gật đầu không nói thêm nữa giơ tay nắm lấy tay y nhè nhẹ lắc mấy cái. Hoàng đế và hoàng thái tử đi qua xong, lại thêm ba nghìn tên thiết giáp ngự lâm quân nữa, sau đó là hàng nghìn hàng vạn dân chúng lũ lượt đi theo xem hội. Người đứng hai bên đường ai cũng nói:

- Đi xem hoàng hậu nương nương, công chúa nương nương.

Mọi người ùn ùn đi về hướng tây. Chu Chỉ Nhược nói:

- Mình cũng đi xem nhé!

Bốn người liền chen vào đám đông đi theo họ đến bên ngoài điện Ngọc Đức thấy bẩy tòa lầu kết hoa sặc sỡ dựng ở đó, bên ngoài có lính ngự lâm tay cầm dây thừng ngăn những người chen tới. Tuy dân chúng đông thật nhưng bọn Trương Vô Kỵ chen được lên trên cũng không khó khăn gì nên chẳng mấy chốc đã đến ngay trước các tòa lầu hoa. Tòa ở giữa cao hơn cả, có hoàng đế ngồi chễm chệ ngay giữa, hai bên là hai hoàng hậu, đều thân hình mập mạp tuổi khoảng trung niên, người đeo đầy vàng bạc ngọc ngà rực rỡ, trên đầu đội một chiếc mũ cao ngất ngưởng trông thật lạ lùng. Hoàng thái tử ngồi phía bên trái bên dưới, còn bên phải thì là một cô gái tuổi chừng đôi mươi, mình mặc cẩm bào, hẳn là công chúa.

Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn qua tòa lầu phía bên trái thấy một thiếu nữ mặc áo điêu cừu, cổ đeo một vòng ngọc trai, cười nói nhí nhảnh, ánh thu ba lóng lánh chính là Triệu Mẫn. Ngay giữa tòa lầu hoa đó là một vương gia râu dài, tướng mạo uy nghiêm, là phụ thân nàng Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ. Anh trai của Triệu Mẫn là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ ở trên lầu đi qua đi lại, dáng đi như hổ, mắt sắc như ưng trông thật là hung tợn.

Đang lúc đó các phiên tăng diễn ?Thiên Ma đại trận? ngay trước các lầu hoa, năm trăm người múa may các loại pháp khí, khi qua trái, lúc qua phải, khi chồm lên, lúc hụp xuống, trận pháp biến đổi cực kỳ huyễn ảo. Dân chúng ai nấy hết sức thán phục hoan hô từng chập như sấm dậy.

Chu Chỉ Nhược nhìn Triệu Mẫn một hồi, thở dài nói:

- Thôi đi về.

Bốn người chen ra khỏi đám đông trở về khách điếm. Bành Oánh Ngọc quay sang làm lễ tham kiến Trương Vô Kỵ, kể lại mọi chuyện. Trương Vô Kỵ hỏi thăm tin tức Tạ Tốn nhưng Bành Oánh Ngọc vừa mới từ miền Hoài Tứ đến Đại Đô, chưa biết việc Kim Mao Sư Vương đã về đến trung nguyên. Y kể lại việc Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân các người đánh thành chiếm đất lập được nhiều chiến công, uy danh Minh Giáo đang lên rất cao.

Hàn Lâm Nhi nói:

- Bành đại sư, hồi nãy nếu như mình xông lên lầu hoa, một đao chém chết tên hoàng đế Thát tử có phải chỉ mất công một chút mà xong việc về lâu về dài hay sao?

Bành Oánh Ngọc lắc đầu:

- Gã hoàng đế đó ngu tối tầm thường, chính là kẻ giúp đỡ chúng ta rất nhiều, sao lại giết y làm gì?

Hàn Lâm Nhi lạ lùng hỏi lại:

- Hoàng đế Thát tử hôn dung vô đạo, làm khổ bách tính sao lại là kẻ giúp đỡ mình rất nhiều là thế nào?

Bành Oánh Ngọc đáp:

- Hàn huynh đệ có điều chưa hiểu. Hoàng đế Thát tử tin dùng phiên tăng, triều chính rối loạn, lại sai Giả Lỗ vét sông Hoàng Hà, hao tốn tiền của làm khổ nhân dân khiến cho người oán trời căm. Mấy năm nay mình đánh cho chúng tan tác đâu phải vì đám quân ô hợp của mình hơn được tinh binh tung hoành thiên hạ của người Mông Cổ mà vì gã hoàng đế hồ đồ kia không biết dùng người có tài. Nhữ Dương Vương giỏi dùng binh nhưng hoàng đế Thát tử lại có bụng nghi ngờ, đưa ra kế sách gì cũng bác bỏ sợ y lập công quá lớn sẽ cướp mất ngôi vua cho nên liên tiếp cắt giảm binh quyền sai bọn giá áo túi cơm chuyên nghề nịnh bợ ra cầm quân, thành ra bao nhiêu quân giỏi đều bị chết hết. Hoàng đế Thát tử chẳng phải giúp ta là gì?

Câu nói đó khiến Trương Vô Kỵ liên tiếp gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói tiếp:

- Nếu như chúng ta giết gã hoàng đế Thát tử đi, hoàng thái tử nối ngôi, cứ xem dáng dấp tên này, có vẻ là tay ghê gớm, mà dẫu có là một hôn quân thì cũng vẫn còn hơn cha y nhiều. Nếu như y lại dùng một tay danh tướng tài ba đưa quân đánh chúng ta thì thật hỏng bét.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cũng may có đại sư kịp thời nhắc cho, nếu không hôm nay chúng tôi lỗ mãng, e rằng đã làm hỏng đại sự rồi.

Hàn Lâm Nhi liên tiếp vả vào mặt mình, mắng chửi:

- Đáng chết lắm, đáng chết lắm. Để xem mày từ rày về sau có còn nói láo nói lếu, đưa ra những ý kiến hồ đồ nữa hay chăng?

Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược, Bành Oánh Ngọc ba người bật cười. Bành Oánh Ngọc lại tiếp:

- Tấm thân giáo chủ đáng nghìn vàng, trên vai gánh vác trọng nhiệm khu trừ Hồ Lỗ, không nên dấn thân vào nguy hiểm để xông ra tấn công y làm gì. Thuộc hạ nhìn thấy chung quanh hộ vệ hoàng đế cao thủ không phải là ít. Tuy giáo chủ thần dũng tuyệt luân thật nhưng cũng phải đề phòng mãnh hổ nan địch quần hồ, một mình không chống được số đông. Nếu như xẩy tay thì biết làm thế nào?

Trương Vô Kỵ vòng tay đáp:

- Kính xin lãnh giáo lời vàng ngọc của đại sư.

Chu Chỉ Nhược thở dài:

- Bành đại sư nói không sai chút nào, chàng sao lại coi nhẹ mà mạo hiểm? Phải biết rằng một khi đại sự của chúng ta thành rồi thì người ngồi trên long ỷ ở lầu hoa kia phải là Trương giáo chủ chứ còn ai.

Hàn Lâm Nhi vỗ tay reo:

- Khi đó giáo chủ thì làm hoàng đế, còn Chu cô nương thì là hoàng hậu nương nương, Dương tả sứ và Bành đại sư thì là tả hữu thừa tướng, thế mới thật là hay.

Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, thẹn thùng cúi đầu nhưng đôi mắt long lanh không dấu được vẻ sung sướng. Trương Vô Kỵ xua tay liên tiếp nói:

- Hàn huynh đệ, những lời đó không được nói tới nữa. Bản giáo chỉ mong cứu được trăm họ ra khỏi nơi dầu sôi lửa bỏng, công thành rồi thân sẽ thoái, không tham phú quí có thế mới là đại trượng phu quang minh lỗi lạc.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Bụng dạ giáo chủ dĩ nhiên không phải như người thường, nhưng có điều đến lúc đó, hoàng bào khoác lên người, giáo chủ có muốn từ chối cũng không được. Năm xưa binh biến ở Trần Kiều, Triệu Khuông Dận có bao giờ nghĩ mình sẽ thành hoàng đế đâu?

Trương Vô Kỵ vẫn nói:

- Không được, không được. Nếu như ta có lòng tưởng đến chuyện ấy thì trời tru đất diệt, chết không yên lành.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng cương quyết cự tuyệt, mặt hơi biến sắc, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ không nói một lời nào. Bốn người nói chuyện thêm một lúc nữa, ăn uống xong xuôi, Trương Vô Kỵ mới bảo:

- Để tôi và Bành đại sư đi ra ngoài một chút, nghe ngóng tin tức nghĩa phụ xem sao.

Chàng lại nghĩ đến Hàn Lâm Nhi tính tình thẳng thắn, thấy việc bất bình lập tức giơ quyền đánh nhau ngay, có thể gây họa nên nói:

- Hàn huynh đệ, ngươi và Chỉ Nhược hôm nay đừng ra ngoài, ở lại khách điếm nghỉ ngơi.

Hàn Lâm Nhi đáp:

- Vâng, xin giáo chủ cẩn thận giữ gìn.

Sau đó Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ước định một người đi về hướng đông, một người đi về hướng tây, trước canh hai thì quay về khách điếm gặp lại.

*

*?? *

Trương Vô Kỵ đi ra khỏi quán trọ liền về hướng tây, trên đường nghe thấy dân chúng nói chuyện xôn xao, toàn là về những trò vui của cuộc ?du hoàng thành? hôm nay. Có người nói:

- Phương nam Minh Giáo nổi loạn, hôm nay Quan Đế bồ tát lúc du hành mắt đầy sát khí, phản tặc thể nào cũng bị tiêu diệt.

Người kia đáp:

- Minh Giáo có Di Lặc bồ tát phù hộ, xem ra giữa Quan Thánh đế quân với Phật Di Lặc hai bên thể nào cũng đánh nhau to.

Lại một người khác nói:

- Giả Lỗ đại nhân đưa phu đi khơi Hoàng Hà, đào được một tượng đá người một mắt, sau lưng có khắc hai hàng chữ:

Mạc đạo thạch nhân nhất chích nhãn,

Thiêu động Hoàng Hà thiên hạ phản.

(Tượng đá một mắt đừng chê,

Đào sông thiên hạ tứ bề nổi lên.)

Như thế thì là số trời đã định rồi, không thể nào chống lại được.

Trương Vô Kỵ chẳng muốn nghe thêm những lời của đám dân ngu ấy làm gì nên rảo bước đi cho nhanh, càng lúc càng thêm vắng vẻ, quay đầu nhìn lên, thấy đến đúng ngay cái tiểu điếm hôm nào chàng cùng Triệu Mẫn ngồi uống rượu với nhau. Chàng trong bụng kinh hãi: ?Sao mình vô ý lại đi đến nơi đây? Không lẽ lòng ta đối với Triệu cô nương vẫn còn lưu luyến day không đứt, rứt không ra hay sao??.

Chỉ thấy cửa quán mở he hé, xem ra không có người khách nào. Chàng ngần ngừ một hồi rồi đẩy cửa bước vào, thấy bên cạnh quầy có một tên hầu bàn ngồi ngủ gục. Chàng đi vào phòng trong, chỉ có một chiếc bàn vuông trên để một ngọn nến lúc mờ lúc tỏ, một người ngồi quay mặt vào trong. Chiếc bàn đó chính là nơi chàng và Triệu Mẫn hai người ngồi uống rượu với nhau nhưng ngoài người khách đó ra, không còn một ai khác.

Người kia nghe thấy tiếng bước chân liền nhỏm dậy, ánh nến lung linh chiếu lên mặt, chính là Triệu Mẫn. Cả nàng lẫn Trương Vô Kỵ không ngờ hai người lại gặp nhau nơi đây, không hẹn mà cùng ?A? lên một tiếng. Triệu Mẫn thảng thốt:

- Chàng ... chàng sao lại đến đây?

Âm thanh run run hiển nhiên trong lòng cực kỳ xúc động. Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi đi dạo qua đây, nhân tiện bước vào thử xem, đâu ngờ ...

Chàng đi đến bên chiếc bàn, thấy ở đối diện với nàng có một chén rượu cùng đũa bát liền hỏi:

- Còn có ai sắp đến chăng?

Triệu Mẫn mặt đỏ lên nói:

- Chẳng có ai cả. Hai lần trước thiếp uống rượu với công tử ở đây, chàng ngồi trước mặt, thành thử ... thành thử thiếp cũng bảo tiểu nhị mang thêm một bộ chén đũa.

Trương Vô Kỵ trong lòng cảm kích, thấy trên bàn bày bốn món ăn, đúng những thức mà nàng đã gọi hôm đầu tiên hai người ngồi ở đây. Chàng hiểu ngay cái thâm ý và nhu tình của nàng, không dằn được đưa tay nắm lấy tay Triệu Mẫn, run run nói:

- Triệu cô nương.

Triệu Mẫn buồn rầu nói:

- Chỉ hận rằng ... hận rằng em sinh ra trong một gia đình Mông Cổ quyền quí, phải làm kẻ đối đầu với chàng ...

Ngay lúc đó, từ ngoài song cửa vọng vào hai tiếng cười khẩy, một vật gì đó ném tới, nghe cạch một tiếng, đánh tắt ngọn nến, căn phòng lập tức tối đen như mực. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe tiếng cười nhạt đó, biết ngay là Chu Chỉ Nhược, nhất thời bàng hoàng hoảng hốt. Chỉ nghe tiếng chân nhè nhẹ trên mái nhà, Chu Chỉ Nhược như một ngọn gió đã đi mất.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Chàng và cô ta đã có ước hẹn bạc đầu, phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế, tôi cũng chẳng dấu cô làm gì.

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước ở sau gốc cây, nghe chàng nói với cô ta những lời đường mật, em thật chỉ mong chết cho xong, chỉ mong đừng sinh ra trên cõi đời này. Hôm đó em cười khẩy hai tiếng, nay cô ta cũng trả lại hai tiếng cười. Chỉ có điều ... có điều ... chàng chưa từng nói với em một câu nào để em được vui.

Trương Vô Kỵ trong lòng xót xa:

- Triệu cô nương, đúng ra tôi chẳng nên đến đây, cũng không nên gặp lại cô làm gì. Lòng tôi đã thuộc về người khác, chẳng nên làm cho cô thêm buồn phiền. Cô là thân cành vàng lá ngọc, từ nay quên cái kẻ dân dã sơn thôn này đi cho xong.

Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ lên, vuốt ve vết sẹo trên lưng bàn tay chàng, nhỏ nhẹ nói:

- Chỗ em cắn chàng đây, dù chàng võ công cao đến đâu, y đạo giỏi đến đâu, cũng không thể nào làm mất được vết sẹo này. Cái sẹo trên tay chàng chàng không trừ được, làm sao xóa được vết thương trong tim em?

Nói tới đây nàng vòng tay lên vít cổ Trương Vô Kỵ xuống, để một nụ hôn thật nồng thắm trên môi chàng. Trương Vô Kỵ chỉ thấy làn môi mềm mại của nàng quyện với hương thơm xông lên mũi, trong lòng đê mê. Đột nhiên Triệu Mẫn cắn mạnh vào môi chàng một cái bật máu ra rồi đưa tay xô mạnh vào vai Trương Vô Kỵ, xoay mình nhảy ra khỏi cửa sổ, kêu lên:

- Chàng là tiểu dâm tặc, em ghét chàng, em hận chàng.

*

*?? *

Sau khi Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ra khỏi khách điếm rồi, Hàn Lâm Nhi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương vào nghỉ sớm đi thôi.

Y không dám nói thêm câu nào vội vàng đứng lên ra khỏi phòng. Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

- Hàn đại ca, anh sợ tôi lắm hay sao? Đến ở nán lại một tí nữa với tôi cũng không được.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ bừng, vội lắp bắp:

- Không đâu, không đâu!

Tuy y nói thế nhưng chân càng đi nhanh hơn nữa, một mạch về phòng mình, đóng chặt cửa lại, cài then kỹ càng, tim đập thình thình, cố gắng định thần lên giường nằm, nhớ đến khuôn mặt kiều diễm thanh tú cùng giọng nói ôn hòa dịu dàng của Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: ?Chu cô nương mai này thành giáo chủ phu nhân, ta được hầu bên giáo chủ chăm chỉ gắng sức, cố lập chút công lao. Chu cô nương lúc ấy vui lòng sẽ khen: ?Hàn đại ca phen này thực là nhọc nhằn quá?. Đến lúc đó thì Hàn Lâm Nhi này thật không uổng một đời?.

Y tơ tơ tưởng tưởng, mỉm cười rồi mơ màng đi vào giấc ngủ. Đến nửa đêm, bỗng nghe có mấy tiếng gõ cửa, Hàn Lâm Nhi vội vàng chồm dậy hỏi:

- Ai đó?

Có tiếng Chu Chỉ Nhược ở bên ngoài trả lời:

- Tôi đây, anh mở cửa, tôi có chuyện muốn nói với anh.

Hàn Lâm Nhi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Y không kịp xỏ dép đi chân không chạy ra, rút then cửa rồi trở vào thắp nến lên. Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt sưng đỏ, thần sắc hết sức lạ lùng. Hàn Lâm Nhi kinh hoảng giật nảy mình hỏi:

- Chu cô nương, cô ... cô ...

Y ấp úng không nói nên lời, động nhiên nhớ ra chạy ra khỏi phòng nói:

- Để thuộc hạ chạy đi lấy nước cho cô rửa mặt.

Một lát sau, y lại hai chân không bưng một chậu nước rửa mặt đi vào. Chu Chỉ Nhược cười buồn, tay chống lên cằm, đăm đăm nhìn ngọn lửa. Hàn Lâm Nhi nói:

- Cô ... cô rửa mặt đi.

Chu Chỉ Nhược không nói một lời, nhè nhẹ lắc đầu, đột nhiên sụt sùi rơi lệ. Hàn Lâm Nhi sợ đến ngẩn người, thõng tay đứng hầu, không biết vì sao nàng lại buồn rầu đau khổ, cũng không biết nàng định nói gì với mình.

Cứ như thế một lúc lâu, đột nhiên nghe tách một tiếng, bông lửa từ ngọn nến tóe lên. Chu Chỉ Nhược đang trầm tư giật mình tỉnh lại, kêu lên ?Ôi? một tiếng nhỏ rồi đứng lên. Hàn Lâm Nhi lớn tiếng nói:

- Chu cô nương, ai là kẻ dám hỗn với cô, họ Hàn này sẽ đi kiếm rút dao thí mạng đâm cho nó mấy nhát. Cô cứ nói ra.

Chu Chỉ Nhược buồn bã lắc đầu, đi ra. Nàng vào phòng ngồi một lát, tưởng như muốn trút hết tâm sự nhưng ngờ đâu không thể nói lên được một lời nào, khiến cho anh chàng Hàn Lâm Nhi lộp chộp kia chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, giơ tay vò đầu bứt tai.

Y suy nghĩ mãi không ra chuyện gì, bỗng nghe từ xa vọng về keng keng keng ba tiếng báo hiệu đã đến canh ba, tự hỏi: ?Sao đến giờ này mà giáo chủ và Bành đại sư chưa về??. Y bèn lên giường ngủ lại. Còn đang mơ màng toan chợp mắt bỗng nghe có tiếng lịch bịch, phía đông dường như có tiếng bàn ghế đổ, chính từ phòng Chu Chỉ Nhược đang ở. Hàn Lâm Nhi vội nhảy ra khỏi giường, dưới ánh trăng thấp thoáng, ở phòng phía đông có bóng người treo lơ lửng còn đang dãy dụa.

Y giật mình kinh hãi kêu lên:

- Chu cô nương, Chu cô nương!

Hàn Lâm Nhi đưa tay đẩy cửa, cửa phòng vẫn đóng. Y lấy vai huých mạnh một cái cho gãy then cửa chạy vội vào phòng, đánh lửa lên châm vào ngọn nến, thấy Chu Chỉ Nhược hai chân buông thõng lơ lửng trên không, cổ treo bằng sợi dây thừng buộc vào xà nhà. Y kinh hãi mất cả hồn vía vội nhảy lên dùng sức bứt đứt dây thừng, để Chu Chỉ Nhược nằm trên giường, giơ tay thăm mũi cũng may chưa tắt thở. Y kêu toáng lên:

- Chu cô nương, Chu cô nương! Cô ... cô có chuyện gì mà đến nỗi ... đến nỗi ...

Bỗng nghe từ cửa có tiếng người hỏi:

- Hàn đại ca, cái gì thế?

Một người bước vào, chính là Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, chẳng khác gì sét đánh ngang tai, vội đưa tay cởi sợi dây nơi cổ Chu Chỉ Nhược, sờ vào ngực nàng, thấy trái tim vẫn còn thoi thóp đập, mừng nói:

- Không sao, cứu được.

Chàng đưa tay nắn bóp sau lưng và bụng dưới nàng mấy cái, một luồng Cửu Dương chân khí từ bàn tay truyền vào, vận chuyển mấy lần, Chu Chỉ Nhược bỗng ?Oa? một tiếng khóc òa lên.

Hàn Lâm Nhi mừng quá kêu lớn:

- Hay lắm, hay lắm, Chu cô nương sống lại rồi.

Chu Chỉ Nhược mở mắt ra thấy Trương Vô Kỵ, khóc nói:

- Anh việc gì phải lo cho tôi? Để tôi chết cho xong.

Bỗng nàng nhìn thấy vết thương trên môi Trương Vô Kỵ còn lấm chấm mấy ngấn răng, cơn giận bùng lên, giơ tay tát chàng luôn mấy cái. Hàn Lâm Nhi kinh hãi, thấy giáo chủ bị đánh làm sao chịu nổi? Có điều người ra tay lại chính là Chu Chỉ Nhược người mà y sùng bái như thiên thần, nên nhất thời ngơ ngơ ngẩn ngẩn không biết làm sao cho phải. Đột nhiên có người giơ tay vỗ lên vai y mấy cái, Hàn Lâm Nhi quay lại thấy chính là Bành Oánh Ngọc vội nói:

- Bành đại sư, ông về rồi đấy ư? Mau mau lại đây khuyên giải Chu cô nương!

Bành Oánh Ngọc cười hỏi:

- Khuyên cái gì?

Y nói với Trương Vô Kỵ:

- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ không nghe tin tức gì liên quan đến Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn cả.

Trương Vô Kỵ ?Ồ? lên một tiếng, thần sắc thật là sượng sùng. Bành Oánh Ngọc nói với Hàn Lâm Nhi:

- Hàn huynh đệ, hai người mình đi ra ngoài dạo chơi một chút.

Hàn Lâm Nhi hấp tấp nói:

- Không xong, không xong đâu, hai người đang đánh nhau, Chu cô nương làm sao có thể là địch thủ của giáo chủ được.

Bành Oánh Ngọc cười ha hả nói:

- Thật đúng là anh chàng hồ đồ, không lẽ bọn mình lại giúp Chu cô nương để cho cô ấy thắng giáo chủ chăng? Ta bảo cho mà biết, giáo chủ đánh không lại Chu cô nương đâu.

Nói xong đưa mắt nháy y, cầm tay Hàn Lâm Nhi kéo ra khỏi phòng. Hàn Lâm Nhi vẫn không ngớt quay đầu lại, mặt mày đầy vẻ lo lắng. Chu Chỉ Nhược nhịn không nổi cười khúc khích, nhưng lại phục xuống giường rấm rứt khóc tiếp. Trương Vô Kỵ ngồi bên cạnh giường, giơ tay vỗ nhè nhẹ lên vai nàng, ôn tồn nói:

- Chỉ Nhược, anh quả không có hẹn hò gì với cô ta, chẳng qua bất ngờ gặp nhau đấy thôi.

Chỉ Nhược đạp đạp hai chân, khóc nói:

- Tôi không tin, tôi không tin. Dù anh có nói gì chăng nữa, từ nay đừng có bao giờ mong tôi tin được anh.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Chu Công khủng cụ lưu ngôn nhật, Vương Mãng khiêm cung hạ sĩ thì.[1]Việc trên đời này thật dễ làm cho người khác phải hiểu lầm ...

Chu Chỉ Nhược ngồi nhỏm dậy nói:

- Cô quận chúa nương nương đó dùng thơ nhiếc móc tôi, chắc anh vẫn thường ngâm nga hay sao mà nhớ kỹ thế. Anh thử nhìn môi anh xem coi có ra cái giống gì không, sao không biết xấu hổ?

Nàng nói đến đây mặt hầm hầm. Trương Vô Kỵ nghĩ chuyện hôm nay dù có nói cách nào thì cũng khó lòng biện bạch, mà mình với Chu Chỉ Nhược thì đã quyết ý thành vợ thành chồng, sống đến răng long đầu bạc, chỉ còn cách gợi lòng thương để nàng dần dần nguôi ngoai đi thôi. Dưới ánh nến thấy mặt nàng đỏ bừng, trên cổ còn hằn vết dây hai bên sưng tấy lên, nếu như Hàn Lâm Nhi không phát giác kịp, đợi đến khi mình về thì e rằng đã hoa tàn ngọc nát, không thể nào cứu vãn được để thành mối hận muôn đời. Chàng không khỏi hổ thẹn lại thêm thương cảm, bèn giơ tay ôm nàng vào lòng, ghé lên môi hôn một cái. Chu Chỉ Nhược lách đầu qua, giận dỗi nói:

- Anh vừa tằng tịu với người ta rồi lại về đây ỉ ôi, sao coi thường tôi quá vậy?

Trương Vô Kỵ càng ôm chặt hơn, không cho nàng động đậy, sau cùng cũng hôn được một cái thật sâu. Chu Chỉ Nhược vùng vẫy không nổi, nỗi bực dọc cũng dần dần lắng xuống.

Trương Vô Kỵ nghĩ bụng mình với nàng tuy danh phận đã định, hai người là vợ chồng chưa cưới, nhưng canh khuya ở chung một phòng, khác gì xỏ giày nơi vườn dưa, sửa mũ dưới cây mận[2], người ngoài không khỏi hiềm nghi, để Bành Oánh Ngọc, Hàn Lâm Nhi trông vào khó coi nên đành bỏ Chu Chỉ Nhược ra nói:

- Chỉ Nhược, em đi nghỉ đi, có gì ngày mai nói chuyện. Nếu anh còn dối em đi gặp Triệu cô nương thì để cho em lăng trì tùng xẻo, chết không nửa lời oán trách.

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, ngực phập phồng, hơi thở dồn dập nói:

- Chỉ nói nhăng nói cuội! Anh biết em đời nào lại đâm chém anh bao giờ?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Vậy thì em chặt hai chân của anh nhé?

Chu Chỉ Nhược cúi đầu, những giọt nước mắt như những viên ngọc trai lại ròng ròng nhỏ xuống. Trương Vô Kỵ không đành đi ra lại ngồi xuống bên cạnh, giữ hai vai nàng ôn tồn nói:

- Có gì mà em lại đau lòng rồi?

Chu Chỉ Nhược vẫn nức nở khóc không nói gì. Trương Vô Kỵ gặng hỏi mấy lần, ngờ đâu càng hỏi tới, nàng càng khóc già. Trương Vô Kỵ bèn thề sống thề chết, hứa với nàng sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ. Chu Chỉ Nhược hai tay ôm mặt nói:

- Em chỉ tủi cho cái số em phải khổ chứ đâu có trách gì anh.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chúng mình ai ai mà chẳng khổ. Quân Thát tử tác oai tác quái ở Trung Quốc, ai chẳng lắm khổ nhiều đau, sau này mình thành vợ chồng rồi, đuổi được người Mông Cổ đi, từ đó thì chỉ có vui mừng, không còn đau lòng nữa.

Chu Chỉ Nhược ngửng đầu lên nói:

- Vô Kỵ ca ca, em biết chàng đối vời em một lòng một dạ, chỉ có điều con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn kia cứ quyến rũ chàng, không phải vì chàng có bụng nọ ý kia. Có điều ... có điều cô ta thông minh trí tuệ, võ công lại cao cường, dung mạo quyền thế, cái gì cũng hơn em cả chục lần. Em làm sao có thể giành được với cô ta, sống một đời đau khổ làm gì chi bằng chết quách cho xong. Ngờ đâu cái anh chàng ngốc nghếch Hàn Lâm Nhi lại cứu em sống lại. Em đã chết hụt một lần, đâu còn can đảm mà chết lần thứ hai. Em ... em muốn đi theo sư phụ, cắt tóc làm ni cô. Ôi, thế là chưởng môn phái Nga Mi từ xưa đến nay cũng chẳng một ai đi lấy chồng.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế ra em vẫn chưa yên tâm. Thôi thì thế này, ngày mai chúng mình lập tức đi về Hoài Tứ, anh sẽ cùng em thành hôn.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Nghĩa phụ chưa kiếm thấy, hơn nữa, chàng đã từng nói Hung Nô chưa diệt thì chưa thành gia thất cơ mà. Xem ra ... xem ra không xong.

Nói xong nàng lại nước mắt đầm đìa. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ thì đương nhiên là phải ráo riết đi tìm rồi. Chúng mình gặp lại các anh em việc kiếm ông chắc dễ hơn nhiều. Còn việc đuổi quân Thát tử bao giờ mới thành, thật chẳng một ai liệu trước được. Không lẽ đợi tới khi hai đứa mình thành ông già bà cả, lúc đó mới lụm cụm bái đường thành thân hay sao? Ông già bà cả lễ trời lễ đất thì đã đành, nhưng lúc đó làm sao sinh con đẻ cái, chẳng lẽ nhà họ Trương đành đoạn tử tuyệt tôn.

Chu Chỉ Nhược mặt đỏ lên cười khúc khích nói:

- Gớm chàng xưa nay vốn là người thực thà nay không biết học được ở đâu cái mồm miệng trơn như mỡ thế?

Bao nhiêu u ám buồn phiền theo tiếng cười của hai người mà tiêu tan ra mây khói.

Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ dặn Bành Oánh Ngọc ở lại Đại Đô thêm ba ngày nữa nghe ngóng tin tức Tạ Tốn, còn mình cùng với Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi xuôi nam đi xuống khu vực Hoài Tứ. Ba người vừa đến Sơn Đông đã thấy binh mã của Mông Cổ thua chạy, mũ giáp tơi tả, chạy như đàn ong. Bọn Trương Vô Kỵ thấy tình thế đo vội tránh qua đường khác mà đi. Về sau chàng bắt gặp một tên quân đi lẻ, liền bắt lại tra vấn, mới hay Chu Nguyên Chương ở Hoài Bắc đánh bại quân Nguyên mấy trận lớn, khiến đại đội binh mã của địch phải tan vỡ. Ba người nghe vậy mừng không để đâu cho xiết, càng cố đi nhanh hơn, đến biên giới Lỗ Hoãn[3] thì đất đai đã hoàn toàn thuộc về nghĩa quân của Minh Giáo rồi. Trong đám quân lính có người nhận ra Hàn Lâm Nhi, vội chạy về báo cho phủ nguyên soái.

Ba người đến gần Hào Châu, Hàn Sơn Đồng đã cùng với các đại tướng Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Đặng Dũ, Thang Hòa ... ra ngoài ba mươi dặm để nghênh tiếp. Mọi người xa cách lâu ngày nay gặp lại, ai nấy đều thật là vui mừng. Hàn Sơn Đồng nghe con trai nói bị Cái Bang bắt giữ toàn do giáo chủ cứu ra lại lên cảm tạ thêm lần nữa. Trong tiếng chiêng trống rầm trời, binh giáp lòa mắt tất cả nghĩa quân đón giáo chủ vào thành Hào Châu.

Chu Chỉ Nhược cưỡi ngựa đi đằng sau Trương Vô Kỵ, nhìn trái liếc phải, thấy khung cảnh uy phong tuy chưa hoa lệ huy hoàng bằng hoàng đế, hoàng hậu ?du hoàng thành? ở Đại Đô nhưng cũng phần nào thỏa nguyện bình sinh.

Trương Vô Kỵ ở lại trong thành nghỉ ngơi ít ngày thì bọn Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên, các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ nghe được tin tức lục tục từ các nơi kéo đến.

Trương Vô Kỵ kể lại việc Tạ Tốn trở về Trung Nguyên, bị Cái Bang bắt rồi lại mất tích lần nữa cho tất cả mọi người nghe. Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính các người bàn qua tính lại đều không ai tìm ra manh mối nào. Phạm Dao nói:

- Không biết cô gái áo vàng kia lai lịch ra sao? Không chừng hành tung của Tạ huynh có thể hỏi ở cô ta mà ra.

Quần hào chưa ai nghe nói đến trong võ lâm có một cô gái áo vàng bao giờ, chỉ đành khuyên Trương Vô Kỵ cứ khoan tâm:

- Cứ như ngôn ngữ hành vi của cô gái áo vàng đó với giáo chủ xem ra không có ác ý. Nếu như Kim Mao Sư Vương vào tay cô ta thì chắc cũng không sao. Nếu cứ như thế có lẽ cô ta cũng chỉ muốn dò hỏi việc bảo đao Đồ Long mà thôi.

Trương Vô Kỵ vẫn lo canh cánh nhưng không biết làm sao hơn, chỉ đành sai các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đi các nơi thám thính. Qua ngày hôm sau, Bành Oánh Ngọc từ Đại Đô trở về cho biết cũng không thăm dò thêm được chút tung tích nào của Tạ Tốn.

Nghĩa quân Minh Giáo đánh mấy trận lớn, tuy đều thắng cả nhưng tổn thất cũng thật nặng nề cho nên trong vòng vài ba tháng sắp tới, tình hình quân lữ cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại, chiêu mộ thêm tân binh, không thể nào tung ra đánh với quân Nguyên. Bành Oánh Ngọc đêm đó thấy Chu Chỉ Nhược tự tận, tuy không rõ đầu đuôi nhưng cũng đoán ra được rằng giữa hai người nếu chẳng phải ghen tuông thì cũng có chuyện cãi vã. Phạm Dao cũng biết liên hệ giữa Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng không phải bình thường, nếu như giáo chủ Minh Giáo lấy quận chúa Mông Cổ làm vợ thì công cuộc kháng Nguyên phục quốc sẽ bị ảnh hưởng rất lớn, thấy trước mắt không có chuyện gì quan trọng nên cũng khuyên Trương Vô Kỵ mau mau thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Còn Trương Vô Kỵ thì đã có hẹn thề đính ước với Chu Chỉ Nhược nên cũng bằng lòng ngay. Dương Tiêu chọn ngày rằm tháng ba là ngày hoàng đạo, toàn thể Minh Giáo từ trên xuống dưới ai cũng vui mừng, lập tức chuẩn bị đám cưới cho giáo chủ.

Lúc này thanh thế Minh Giáo chấn động thiên hạ, quân đông lộ của Hàn Sơn Đồng đã kiểm soát các thành thị lớn cả một vùng Hoài Tứ, còn tây lộ của Từ Thọ Huy thì khắp Ngạc Bắc, Dự Nam cũng liên tiếp đánh bại quân Nguyên. Tin mừng về hôn lễ của giáo chủ truyền ra, đồ mừng của nhân sĩ võ lâm ùn ùn đem tới như sóng bể. Các phái Côn Lôn, Không Động trước nay vốn có thù oán với Minh Giáo nhưng khi ở chùa Vạn An đã được Trương Vô Kỵ ra tay cứu thoát nên đã có ơn với họ, thứ nữa Chu Chỉ Nhược là chưởng môn phái Nga Mi nên các phái ai ai cũng đem lễ vật chúc mừng, riêng Không Động ngũ lão thì thật là hậu hĩ.

Trương Tam Phong viết bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ[4]? vào một bức trục cùng một bộ Thái Cực Quyền Kinh do chính ông chép tay, sai Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba người đệ tử mang đến. Lúc này Dương Bất Hối đã lấy Ân Lê Đình, cũng cùng đi với chồng đến Hào Châu, Trương Vô Kỵ mỉm cười đi ra đón, lớn tiếng chào:

- Lục sư thẩm.

Dương Bất Hối mặt đỏ lên, nắm lấy hai tay chàng nhớ lại chuyện xưa, vừa vui mừng vừa thương cảm. Trương Vô Kỵ e ngại Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư chưa bỏ ý gian, thừa cơ làm hại liền kín đáo kể lại việc Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc, lại toan mưu đầu độc Trương Tam Phong kể lại cho Vi Nhất Tiếu nghe, rồi sai y lấy danh sứ giả tạ ơn, lên thẳng núi Võ Đương, sau khi bái kiến Trương Tam Phong hãy cùng với Du Đại Nham, Trương Tùng Khê hợp lực, phòng bị bọn Trần Hữu Lượng đợi đến khi nào anh em Tống Viễn Kiều quay trở về núi thì hãy cáo biệt.

Vi Nhất Tiếu hậm hực nói:

- Từ khi tuân hành huấn dụ của giáo chủ, Vi Nhất Tiếu không dám hút máu người nữa nhưng kỳ này nếu gặp hai tên gian tặc này, thể nào cũng hút cạn máu hai đứa mới xong.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Gã Trần Hữu Lượng kia thì Vi huynh cứ tiện tay trừ đi không sao, còn Tống Thanh Thư là con một của đại sư bá tôi, là người chưởng môn tương lai của phái Võ Đương, nên để phái Võ Đương tự thanh lý môn hộ, khỏi làm sứt mẻ tình cảm với đại sư bá.

Vi Nhất Tiếu vâng lệnh, bái biệt ra đi. Đến ngày mồng mười tháng ba, các nữ hiệp phái Nga Mi mang lễ vật đến Hào Châu, chỉ riêng Đinh Mẫn Quân nhờ người khác thay mặt còn mình không đến.

*

*?? *

Đến ngày rằm tháng ba, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai ai cũng thay quần áo mới. Lễ bái thiên địa được sắp xếp ở một sảnh đường của một đại phú gia tại Hào Châu, treo đèn kết hoa, trang trí thật là rực rỡ. Bức thiếp trên có bốn chữ ?Giai Nhi Giai Phụ? của Trương Tam Phong được treo ngay chính giữa. Ân Thiên Chính làm chủ hôn đằng trai, Thường Ngộ Xuân làm chủ hôn đằng gái. Thiết Quan đạo nhân làm tổng tuần hành của Hào Châu, thống lãnh bộ hạ trong Minh Giáo đi vòng quanh để phòng kẻ địch có thể lẻn vào quấy phá. Thang Hòa đốc suất tinh binh nghĩa quân trấn đóng ngoài thành để ngự địch.

Sáng hôm đó các phái Hoa Sơn, Thiếu Lâm đều có cử người đem lễ vật đến mừng. Đến giờ thân là giờ tốt, pháo hiệu nổ đì đùng khắp nơi. Tất cả các quan khách đều đến đại sảnh, theo tiếng xướng của người lễ sinh, Tống Viễn Kiều và Ân Dã Vương đưa Trương Vô Kỵ bước ra. Tiếng đàn tiếng sáo trổi lên, mọi người thấy hoa cả mắt, tám thiếu nữ trẻ tuổi phái Nga Mi theo hầu Chu Chỉ Nhược yểu điệu đi ra ngoài đại sảnh. Chu Chỉ Nhược thân mặc đại hồng cẩm bào, đầu đội phượng quan, áo khoác màu cánh sen, mặt che khăn đỏ. Nam tả nữ hữu, tân lang và tân nương đứng sánh vai. Người lễ sinh cao giọng xướng:

- Bái thiên!

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược vừa toan quì xuống chiếu để lễ, bỗng từ ngoài cửa có tiếng người thánh thót kêu lên:

- Khoan đã!

Một bóng xanh thấp thoáng, một thiếu nữ cười hì hì đã đứng ngay giữa sân, chính là Triệu Mẫn. Quần hào vừa thấy nàng ta, lập tức có tiếng xì xào la lối nổi lên. Trong Minh Giáo cũng như các môn phái không ít người bị nàng làm khó, không ngờ lại dám một mình vào nơi hiểm địa. Những người nóng tính đã toan tiến lên động thủ.

Dương Tiêu giơ ngang hai tay, cũng quát lên:

- Hãy khoan!

Y quay qua nói với mọi người:

- Hôm nay là ngày vui của giáo chủ tệ giáo và chưởng môn phái Nga Mi, Triệu cô nương quang lâm chúc mừng tức là khách của tệ giáo. Xin các vị nể mặt phái Nga Mi và tệ giáo, để những chuyện đã qua sang một bên, đừng vô lễ với Triệu cô nương.

Nói xong Dương Tiêu đưa mắt cho Bành Oánh Ngọc và Thuyết Bất Đắc, hai người hiểu ý liền quay vào hậu đường, đi ra tra xét xem Triệu Mẫn đem bao nhiêu cao thủ theo. Dương Tiêu nói với Triệu Mẫn:

- Xin Triệu cô nương qua bên này ngồi xem lễ, xong rồi tại hạ sẽ mời cô nương ba chén rượu nhạt.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Tôi có vài câu muốn nói với Trương giáo chủ, nói xong là đi ngay, ngày khác hãy xin làm phiền quí vị.

Dương Tiêu nói:

- Triệu cô nương có chuyện gì đợi hành lễ xong nói cũng không muộn.

Triệu Mẫn nói:

- Hành lễ xong rồi thì đã trễ.

Dương Tiêu và Phạm Dao hai người nhìn nhau, biết rằng Triệu Mẫn có ý muốn đến phá đám, bằng cách nào cũng phải ngăn nàng lại, để khỏi làm ngày vui hóa ra bẽ bàng, mọi người phải khó chịu. Dương Tiêu liền tiến lên hai bước nói:

- Chúng tôi hôm nay đã hết sức dùng lễ chủ khách, xin Triệu cô nương nên tự trọng.

Y đã định bụng nếu như Triệu Mẫn cố tình quấy hôi bôi nhọ, sẽ lập tức ra tay điểm huyệt nàng để chế ngự rồi tính sau. Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:

- Khổ đại sư, người ta muốn ra tay với tôi, ông có giúp tôi không?

Phạm Dao nhíu mày nói:

- Quận chúa, trên đời này mười điều có đến tám chín không vừa ý, đã đến nước này, cũng đành phải chịu vậy thôi.

Triệu Mẫn nói:

- Tôi không chịu thì sao?

Nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Trương Vô Kỵ, anh là giáo chủ Minh Giáo, nam tử hán đại trượng phu, nói ra có giữ lời không?

Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn tới, tim đập thình thình, chỉ mong Dương Tiêu có thể vãn hồi thế cuộc, dịu ngọt khuyên nàng bỏ đi, bỗng nghe nàng hỏi đến mình chỉ đành trả lời:

- Tôi đã nói ra hẳn là sẽ giữ lời.

Triệu Mẫn nói:

- Hôm trước tôi cứu mạng cho Du tam bá và Ân lục thúc của anh, anh bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, quyết không bội ước, có đúng không nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế. Cô bảo tôi đi mượn thanh đao Đồ Long cho xem, cô không những đã xem, mà còn trộm luôn cả bảo đao nữa.

Mấy chục năm qua, trên giang hồ đều quan tâm đến thanh đao Đồ Long ?võ lâm chí tôn? kia ở đâu, nay nghe nó đã vào tay Triệu Mẫn ai nấy đều rúng động. Triệu Mẫn nói:

- Thanh đao Đồ Long ở trong tay ai thì chỉ có Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp biết thôi, anh đến hỏi thẳng ông ta thì rõ.

Việc Tạ Tốn đã về đến Trung Nguyên trên võ lâm ít ai biết được, nay nghe nàng đề cập đến Kim Mao Sư Vương, tiếng ồn ào trong sảnh đều im bặt. Trương Vô Kỵ nói:

- Nghĩa phụ tôi hiện nay đang ở nơi đâu, Trương mỗ ngày đêm khắc khoải, mong được cô nương chỉ điểm cho.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- -??? Tôi ước hẹn anh làm ba việc cho tôi, chỉ cần không đi ngược với đạo hiệp nghĩa trong võ lâm thì anh ắt sẽ làm ngay. Việc mượn thanh đao Đồ Long để xem, tuy chưa phải là xong hẳn nhưng con đao đó tôi cũng đã nhìn thấy rồi, về sau bị ăn trộm mất, cũng không thể nào trách anh được. Thôi thì cứ coi như việc thứ nhất đã hoàn tất. Bây giờ tôi có chuyện thứ hai bảo anh làm. Trương Vô Kỵ, trước mặt anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, anh không thể nói rồi nuốt lời.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô muốn tôi làm chuyện gì?

Dương Tiêu liền xen vào:

- Triệu cô nương, cô có chuyện gì nhờ đến giáo chủ chúng tôi làm cũng phải ước định trước, chỉ cần không đi ngược lại với đạo hiệp nghĩa của võ lâm, chẳng nói gì Trương giáo chủ sẽ bằng lòng mà tệ giáo từ trên xuống dưới, cũng phải tận tâm kiệt lực. Lúc này là ngày lành tháng tốt của Trương giáo chủ và tân phu nhân tham bái trời đất, việc khác xin để qua một bên, xin đừng nhiều lời cản trở nữa.

Y nói đến mấy lời sau cùng, giọng điệu hơi có vẻ gay gắt. Triệu Mẫn thần sắc vẫn như thường, coi vị Quang Minh tả sứ của Minh Giáo danh chấn giang hồ này không vào đâu nhơn nhơn nói:

- Việc của tôi đây lại còn khẩn cấp hơn, chỉ trì hoãn thêm một khắc cũng không được.

Nàng đột nhiên tiến lên mấy bước, đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kiễng chân lên nói thầm vào tai chàng:

- Việc thứ hai là bảo anh hôm nay không được cùng Chu cô nương bái đường thành thân.

Trương Vô Kỵ sững sờ hỏi lại:

- Cái gì?

Triệu Mẫn nói:

- Đó là việc thứ hai. Còn việc thứ ba bao giờ tôi nghĩ ra tôi sẽ nói cho anh hay.

Những câu nàng nói tuy rất nhỏ nhưng Chu Chỉ Nhược và những người đứng gần như Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình và cả tám thiếu nữ phái Nga Mi đi theo tân nương cũng đều nghe thấy, ai nấy không khỏi biến sắc. Tám thiếu nữ phái Nga Mi quyền trong tay áo đã nắm lại, nếu như Triệu Mẫn còn nói thêm một lời vô lễ làm nhục chưởng môn thì họ sẽ cho nàng biết tay.

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Việc này xin thứ lỗi không thể tuân lệnh được.

Triệu Mẫn nói:

- Thế anh nói ra không giữ lời hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chúng ta đã nói với nhau từ trước, không được vi phạm đạo hiệp nghĩa. Tôi và Chu cô nương có ước định thành vợ thành chồng, nếu theo lời cô thì đã vi phạm chữ ?nghĩa? rồi.

Triệu Mẫn cười nhạt:

- Nếu như anh thành hôn với cô ta thì mới là bất hiếu bất nghĩa. Hôm du hoàng thành ở Đại Đô, không lẽ anh không thấy nghĩa phụ bị ai ám toán hay sao?

Trương Vô Kỵ lửa giận bừng bừng, lớn tiếng nói:

- Triệu cô nương, hôm nay tôi trọng cô là khách nên nhịn cô ba phần. Nếu còn nói nhăng nói cuội, có đắc tội cũng đừng trách.

Triệu Mẫn nói:

- Thế việc thứ hai này, anh không chịu nghe lời tôi hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ tới nàng là thân phận quận chúa cao quí, nhưng phải xuất đầu lộ diện, trước mặt quần hào bảo mình đừng làm lễ thành hôn, chẳng qua cũng vì si mê nên không khỏi chạnh lòng ôn tồn nói:

- Triệu cô nương, việc đã đến nước này, sao cô vẫn còn ... vẫn còn chưa hiểu hay sao? Trương Vô Kỵ này là một kẻ thất phu nơi thôn dã, không xứng ... không xứng ...

Triệu Mẫn nói:

- Được, vậy anh xem đây là cái gì?

Nàng mở bàn tay phải ra, đưa vào trước mặt chàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, kinh hoảng run bần bật, lật đật hỏi:

- Đây là ... đây là ...

Triệu Mẫn lập tức nắm tay lại, bỏ vật đó vào trong túi nói:

- Việc thứ hai của tôi, anh theo hay không theo đều do anh cả.

Nói xong nàng xoay mình chạy ra ngoài cửa chính. Trong tay nàng cầm cái gì khiến cho Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy đã kinh hoàng thất tán thật chẳng một ai trông rõ. Chu Chỉ Nhược hai mắt bị tấm khăn đỏ che, chỉ nghe tiếng Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đối đáp nhưng hoàn toàn không nhìn thấy gì. Trương Vô Kỵ hấp tấp kêu lên:

- Triệu ... Triệu cô nương, xin đứng lại đã.

Triệu Mẫn đáp:

- Anh muốn theo tôi thì theo, còn không thì ở lại bái đường thành thân với tân nương tử. Là kẻ nam nhi mà hồ nghi bất quyết, há không phải để hận đến mãn đời hay sao?

Nàng miệng thì lớn tiếng nói mấy câu đó nhưng chân vẫn không ngừng lại chút nào, tiếp tục chạy băng băng ra khỏi cửa. Trương Vô Kỵ vội kêu lên:

- Triệu cô nương dừng bước chút đã! Để bàn tính lại xem sao!

Chàng lại chỉ thấy nàng càng chạy nhanh hơn vội vọt lên chặn trước mặt nói lớn:

- Được rồi, tôi theo lời cô, hôm nay không thành hôn nữa.

Triệu Mẫn đứng lại nói:

- Vậy thì anh đi theo tôi.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng chết sững thấy hết sức băn khoăn, muốn giải thích cùng nàng mấy câu nhưng Triệu Mẫn vẫn băng băng bỏ chạy, công việc gấp gáp bội phần chỉ đành bắt buộc phải chọn một đường nên nghiến răng đuổi theo Triệu Mẫn.

Trương Vô Kỵ vừa đuổi đến ngoài cửa, đột nhiên một bóng hồng thấp thoáng, một người đã đến sát bên Triệu Mẫn, tay áo đỏ vươn ra một bàn tay thuôn thuôn búp măng, năm ngón tay chộp vào đỉnh đầu. Biến cố đó như chim cắt bắt mồi nhanh không thể tả, người ra tay chính là tân nương Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ giật mình nghĩ thầm: ?Chiêu này lợi hại quá! Chỉ Nhược học ở đâu ra võ công tinh diệu thế này??. Chàng thấy tay nàng sắp sửa nắm được đỉnh đầu Triệu Mẫn, nếu năm ngón tay chộp xuống thể nào sọ cũng vỡ tan, không kịp suy nghĩ thêm, liền vọt lên bắt lấy mạch môn Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược thúc cùi chỏ bên trái về sau, nghe bịch một tiếng đã trúng ngay ngực chàng. Cửu Dương chân khí trong cơ thể Trương Vô Kỵ lập tức phát động, hóa giải kình lực của khủy tay nhưng cũng thấy trong bụng khí huyết trộn trạo, chân hơi lảo đảo.

Phạm Dao thấy tình thế nguy cấp động lòng cứu chủ cũ, vội giơ chưởng đẩy vào vai Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược tay trái hơi vung lên, nhẹ nhàng phất một cái, Phạm Dao cổ tay tê đi, chưởng đó không sao đánh ra nổi.

Tuy nhiên trở ngại đó đã giúp cho Triệu Mẫn vọt lên thêm được nửa bước, tránh được chỗ yếu hại nơi sau gáy nhưng đầu vai đau nhói, năm ngón tay phải của Chu Chỉ Nhược đã chộp trúng ngay vai gần sát cổ. Trương Vô Kỵ ?A? lên một tiếng, giơ tay đẩy Chu Chỉ Nhược ra. Chu Chỉ Nhược trên mặt vẫn còn chiếc khăn che chưa cởi được, nghe hơi gió liền hất tay trái về sau, chém ngay vào cổ tay chàng.

Trương Vô Kỵ nào có ý muốn cùng nàng động thủ, chỉ vì thấy nàng chiêu số thực là tàn độc, chỉ một chiêu đã toan lấy mạng Triệu Mẫn, không còn cách nào hơn nên phải gạt ra. Chu Chỉ Nhược thân trên không động đậy mà cũng không di chuyển ra khỏi chỗ, liên tiếp tung ra tám chiêu hiểm ác liền, Trương Vô Kỵ vội vàng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp mới đỡ được. Tám chiêu tấn công, tám chiêu thủ vệ chỉ trong nháy mắt đã xong, trong đại sảnh quần hào đều nín thở, ai nấy kinh hãi đến thất thần.

Triệu Mẫn đầu vai bị trọng thương, ngã khuỵu xuống đất, năm cái lỗ trên vai máu phun ra như suối, chỉ giây lát đã nhuộm đỏ cả nửa thên trên. Chu Chỉ Nhược dậm chân không tấn công nữa nói:

- Trương Vô Kỵ, anh bị con yêu nữ đó mê hoặc, tính bỏ tôi mà đi hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chỉ Nhược, xin em thông cảm cho cái khổ tâm của anh. Ước định hôn nhân của hai đứa mình, Trương Vô Kỵ này không bao giờ hối hận, chỉ phải hoãn lại vài hôm thôi ...

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

- Anh đi thì đừng bao giờ quay lại, mong anh sau này đừng hối tiếc.

Triệu Mẫn nghiến răng đứng lên, không nói một lời lảo đảo chạy ra, máu trên vai chảy đầy mặt đất. Quần hào tuy đã từng chứng kiến biết bao nhiêu việc lạ trên giang hồ, nhưng hôm nay mới thấy cái cảnh ?hai nàng tranh một chàng?, máu vãi phòng hoa, cô dâu mặt còn che khăn nhưng đã dùng võ công thần kỳ đả thương tình địch, ai nấy hoảng loạn kinh hoàng, không nói được lời nào.

Trương Vô Kỵ dậm chân một cái nói:

- Nghĩa phụ đối với anh ơn nặng tày non, Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, mong em tha thứ cho ta.

Nói xong chàng liền đuổi theo Triệu Mẫn. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Trương Vô Kỵ, Ân Lê Đình tất cả chẳng một ai biết rõ sự tình ra sao nên chẳng một ai ngăn trở. Chu Chỉ Nhược giơ tay giựt phắt chiếc khăn điều che mặt, lớn tiếng nói:

- Các vị chính mắt thấy đó, chính y phụ tôi chứ không phải tôi phụ y. Từ nay về sau, Chu Chỉ Nhược này với họ Trương kia ân đoạn nghĩa tuyệt.

Nói tới đây nàng giở chiếc phượng quan trên đầu xuống, giơ tay giựt những viên ngọc trai rồi vứt chiếc mũ đi, hai tay bóp lại, tất cả những viên trân châu nát ra như cám rơi lả tả nói:

- Chu Chỉ Nhược này nếu không rửa được cái hận hôm nay thì cũng như những viên ngọc trai này.

Ân Thiên Chính, Tống Viễn Kiều, Dương Tiêu cả bọn muốn lên tiếng khuyên lơn nàng hãy đợi Trương Vô Kỵ quay về, hỏi cho rõ ràng nhưng Chu Chỉ Nhược hai tay xé một cái, nghe soẹt một tiếng, chiếc đại hồng trường bào trên thêu đầy hoa vàng đã rách thành hai mảnh ném xuống đất rồi phi thân nhảy vọt đi, ở trên không xoay người một cái đã lên đến mái nhà.

Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn vội đuổi theo, chỉ thấy nàng phất phới như một cụm mây đỏ bay vụt về hướng đông. Khinh công đẹp như thế xem ra không kém gì Vi Nhất Tiếu. Bọn Dương Tiêu xem chừng đuổi theo không kịp, ngẩn ngơ một hồi rồi quay trở vào đại sảnh.

Đám cưới đang vui vẻ như thế bị Triệu Mẫn đến làm rối loạn, chỉ giây lát gió thổi tuyết tan, người trong Minh Giáo từ trên xuống dưới ai nấy mặt mày ủ rũ, khách khứa đến mừng cũng chẳng một ai vui. Mọi người xôn xao bàn tán nhưng không một ai biết được Triệu Mẫn cầm trong tay cái gì đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi để đến nỗi chàng phải hốt hoảng bỏ đi, nghe chàng nói thì dường như việc này có liên quan thật trọng đại đến Tạ Tốn nhưng sự thực thế nào thì không một ai hay biết.

Những cô của phái Nga Mi bàn nhỏ với nhau mấy câu rồi cũng hầm hầm cáo từ. Ân Thiên Chính luôn mồm xin lỗi, hứa thể nào cũng dẫn Trương Vô Kỵ lên trên đỉnh Kim Đính núi Nga Mi tạ tội rồi sẽ sắp xếp việc cưới hỏi sau, đừng vì thế mà làm mất hòa khí hai nhà. Người phái Nga Mi cũng chẳng đáp lời chỉ chia nhau đi tìm Chu Chỉ Nhược, cả bọn hậm hực rủa xả đàn ông con trai vô lương tâm, có mới nới cũ.

*

*?? *

Thì ra trong tay Triệu Mẫn đưa ra cho Trương Vô Kỵ coi là một nắm tóc màu vàng. Trương Vô Kỵ vừa nhìn qua biết ngay là tóc của Tạ Tốn. Nội công của Tạ Tốn luyện đã khác người lại thêm bẩm sinh cũng lạ nên từ trung niên trở đi cả mái tóc dài biến thành vàng nhạt, nhưng không phải giống như đầu tóc của người sắc mục miền Tây Vực. Trương Vô Kỵ tưởng rằng mái tóc của Tạ Tốn đã bị Triệu Mẫn cắt đi một mảng, ắt là đã lọt vào tay nàng, nếu như mình bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược, nàng giận dữ quay về sẽ ra tay giết Tạ Tốn, nếu không cũng làm điều bất lợi cho ông ta thành thử không kịp giải thích cho Chu Chỉ Nhược nghe nỗi khổ tâm của mình trước mặt quần hào.

Những khách khứa ngày hôm nay, ngoài người của Minh Giáo và phái Võ Đương hầu như ai ai cũng muốn bắt được Tạ Tốn, trước là báo thù năm xưa ông ta giết người, sau là đoạt lấy bảo đao Đồ Long. Thành thử chàng thấy Triệu Mẫn chạy đi, biết rằng như thế thật không phải chút nào với Chu Chỉ Nhược nhưng suy đi tính lại mạng của nghĩa phụ là trọng nên đành phải đuổi theo.

Chàng ra khỏi đại môn rồi, chỉ thấy Triệu Mẫn đang hết sức chạy, máu tươi trên vai vẫn tiếp tục nhỏ xuống trên đường. Chàng hít một hơi vọt lên mấy trượng, chặn ngay trước mặt nàng nói:

- Triệu cô nương, cô đừng ép tôi phải thành một kẻ bất nghĩa, để cho anh hùng thiên hạ chê cười.

Triệu Mẫn trên vai bị thương khá nặng, lúc đầu chỉ nhờ chân khí mà gắng gượng chạy được một quãng, đến khi nghe chàng nói mấy câu đó liền đáp:

- Chàng ... chàng ...

Chân khí tiết ra, lập tức ngã xuống. Trương Vô Kỵ đỡ nàng lên nói:

- Cô nói cho tôi biết đi, nghĩa phụ của tôi giờ này nơi đâu?

Triệu Mẫn nói:

- Anh mang tôi đi cứu ông ta, tôi sẽ ... tôi sẽ ... chỉ đường cho.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tính mạng lão nhân gia không sao chứ?

Triệu Mẫn tuy khí còn nhưng hơi sức đã hết nói:

- Nghĩa phụ anh ... nghĩa phụ anh bị Thành Côn bắt được rồi.

Trương Vô Kỵ nghe thấy hai chữ ?Thành Côn? thì sợ đến chân tay rụng rời, người này võ công đã cao cường, kế mưu lại ghê gớm, Tạ Tốn và ông ta thù sâu tựa bể, nếu rơi vào tay y thì hung hiểm biết sao mà nói cho hết được. Triệu Mẫn nói:

- Một mình anh không xong đâu, đi gọi ... gọi bọn Dương Tiêu cùng đi mới được...

Nói rồi giơ tay chỉ về hướng tây, đột nhiên đầu lật về sau, mê man bất tỉnh. Trương Vô Kỵ nghĩ đến nghĩa phụ giờ này khổ sơ nguy nan, ruột gan nóng như lửa đốt, lập tức bế nàng lên, vội vàng xé rách quần áo, buộc vết thương cho nàng, giơ tay vẫy một giáo đồ Minh Giáo đứng bên đường dặn dò:

- Ngươi mau báo cho Dương tả sứ bảo ông ta dẫn mọi người, chạy theo hướng tây, nói là ta có chuyện gấp cần sai bảo.

Tên giáo đồ tuân lệnh, vội chạy đi bẩm báo. Trương Vô Kỵ nghĩ mình đến sớm chút nào hay chút nấy, việc không biết thế nào mà lường, không chừng chỉ chậm nửa khắc là đã không cứu được mạng nghĩa phụ nữa rồi bèn ôm Triệu Mẫn lên chạy ra phía cửa thành, sai sĩ tốt thử ngự lấy cho một con tuấn mã, phi thân nhảy lên, chạy vọt về hướng tây.

Chạy được mấy dặm, cảm thấy thân thể Triệu Mẫn trong lòng lạnh dần, giơ tay thăm mạch, chỉ thấy mạch nhảy rất yếu, chàng kinh hoảng vội cởi vết thương ra xem, thấy năm cái lỗ ngón tay sâu đến tận xương, da thịt chung quanh tím ngắt, hiển nhiên đã trúng chất kịch độc. Chàng hết sức nghi ngờ: ?Chỉ Nhược là đệ tử phái Nga Mi, sao lại biết sử dụng loại võ công âm độc thế này? Nàng ra chiêu thật là độc địa xem ra còn hơn Diệt Tuyệt sư thái nhiều là cớ làm sao??.

Trước mắt thấy nếu không cứu chữa ngay, Triệu Mẫn sẽ bị chất độc phát tác chết liền nhưng chàng đang mặc y phục tân lang lấy đâu ra thuốc men trong người? Chàng hơi trầm ngâm rồi lập tức nhảy ra khỏi lưng ngựa, ôm nàng chạy theo phía trái lên trên núi, nhìn quanh bốn bề tìm các loại dược thảo trừ độc nhưng trong nhất thời ngay cả loại thuốc men tầm thường nhất cũng không kiếm đâu ra.

Chàng tim đập thịnh thịch, đi qua mấy triền núi, miệng lẩm bẩm vái van. Bỗng dưng trước mắt thấy sáng lòa, bên cạnh một ngọn thác ở đằng trước bên phải có bốn năm đóa hoa nhỏ màu đỏ, chính là hoa có tên là ?Phật Tòa Tiểu Hồng Liên?, cũng có chút tính khử độc. Tuy lúc này đang là giữa mùa xuân, trăm hoa nở rộ nhưng loại hoa này tìm thấy nơi đây thì kể cũng là trời cho. Chàng mừng lắm, ôm Triệu Mẫn nhảy qua hai khe suối, hái mấy đóa hoa bỏ vào mồm nhai, một nửa mớm vào mồm cho Triệu Mẫn, một nửa đắp lên vai nàng, rồi lại ôm cô ta lên tiếp tục chạy về hướng tây.

Chạy được khoảng ba chục dặm, Triệu Mẫn rên lên một tiếng, tỉnh lại, nói nhỏ:

- Em ... em có còn sống hay chăng?

Trương Vô Kỵ thấy Phật Tòa Tiểu Hồng Liên kiến hiệu, mừng rỡ cười hỏi:

- Cô thấy trong người ra sao?

Triệu Mẫn nói:

Trên vai ngứa lắm. Ôi, công phu của Chu cô nương thật là ghê gớm.

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng để nàng xuống, xem lại vết thương trên vai thấy vết bầm đen chưa bớt chút nào nhưng mạch lúc này không còn yếu như trước nữa. Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm biết rằng Phật Tòa Tiểu Hồng Liên dược tính quá chậm, không đủ sức trừ độc, nên cúi xuống ghé mồm vào vai nàng, hút máu độc từng ngụm từng ngụm ra nhổ xuống đất, mùi tanh hôi xông lên mũi khiến chàng muốn mửa.

Triệu Mẫn giương mắt nhìn, giơ tay vuốt ve tóc chàng, thở dài nói:

- Vô Kỵ ca ca, cái nguyên ủy bên trong, chàng đã nghĩ ra được chưa?

Trương Vô Kỵ hút hết độc huyết ra rồi, đi tìm suối súc miệng, quay về ngồi bên cạnh Triệu Mẫn hỏi lại:

- Cái nguyên ủy gì?

Triệu Mẫn nói:

- Chu cô nương là đệ tử danh môn chính phái, sao lại biết những võ công tà môn âm độc như thế này?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi cũng thấy lạ lùng, không biết ai đã dạy cho nàng ta vậy.

Triệu Mẫn lặng lẽ mỉm cười nói:

- Chắc là tiểu tặc của ma giáo tà phái dạy cho cô ta đó.

Trương Vô Kỵ cũng cười:

- Trong ma giao tuy nhiều ma đầu nhưng chẳng ai biết môn võ công này, chỉ có Thanh Dực Bức Vương hút máu cổ người ta và Trương Vô Kỵ hút máu vai người ta là hơi giống nhau thôi.

Chàng lại thuận miệng hỏi thêm:

- Nghĩa phụ tôi rơi vào tay Thành Côn ư? Bây giờ đang ở nơi nào?

Triệu Mẫn nói:

- Để em đưa chàng đi tìm cách cứu ông ta ra. Còn ở nơi nào thì bây giờ em cũng là "Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc" vì em mà nói ra thì chàng sẽ quăng bỏ em nơi đây không còn lo gì cho em nữa.

Trương Vô Kỵ thở dài:

- Lẽ nào tôi lại vô tình vô nghĩa đến thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Vì cha nuôi mà anh bỏ rơi cô vợ mới cưới đẹp như hoa như ngọc, huống gì là em?

Nói rồi nàng dựa vào người chàng hỏi:

- Hôm nay em làm lỡ dịp động phòng hoa chúc của chàng, chàng có giận em không?

Không hiểu vì sao, trong lúc này lòng Trương Vô Kỵ thật là vui sướng, ngoài việc lo lắng cho an nguy của Tạ Tốn ra, so với khi đang bái đường thành thân cùng Chu Chỉ Nhược lại thoải mái bội phần, thực ở nguyên do nào chàng cũng không sao nói được. Thế nhưng nếu thừa nhận rằng mình thích bị Triệu Mẫn phá hỏng cái đám cưới thì cũng không dám mở miệng nói ra nên chỉ đành nói:

- Lẽ dĩ nhiên là tôi giận cô. Mai này khi cô đang bái đường thành thân cùng một chàng quận mã gia anh hùng tiêu sái thì tôi cũng sẽ đến đại náo một trận, không để cho cô yên lành làm cô dâu mới đâu.

Nét mặt xanh mét của Triệu Mẫn bỗng hồng lên cười nói:

- Chàng mà đến phá đám, em sẽ một kiếm giết chàng ngay.

Trương Vô Kỵ bỗng dưng thở dài, buồn bã không nói gì. Triệu Mẫn hỏi:

- Sao chàng lại thở dài?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không biết cái vị quận mã gia kia kiếp trước làm điều thiện gì mà may mắn đến thế?

Triệu Mẫn cười:

- Thì bây giờ chàng tu tỉnh cũng còn kịp mà.

Trương Vô Kỵ trong lòng rung động hỏi lại:

- Cái gì?

Triệu Mẫn mặt đỏ lên nhưng không trả lời. Đến đây hai người ai ai cũng biết không thể nói chuyện xa hơn, nên ngồi nghỉ một lát, Trương Vô Kỵ lại đắp thuốc cho nàng rồi ôm Triệu Mẫn chạy về hướng tây. Triệu Mẫn tựa vào vai chàng, má kề má Trương Vô Kỵ ngửi thấy mùi hương xông lên, trong tay thân hình mềm mại khiến không khỏi nghĩ ngợi vẩn vơ, thần hồn phiêu đãng. Giá như không phải lo đi cứu nghĩa phụ gấp, chàng chỉ muốn đi chậm lại, ở nơi hoang sơn dã lãnh này đi lang thang quanh quẩn một hồi.

Hôm đó hai người phải ở lại vùng núi hoang phía tây thành Hào Châu ngủ qua đêm, sáng hôm sau đến một tiểu thị trấn mua hai con ngựa. Chất độc trong người Triệu Mẫn thật khó mà trừ cho hết, thân thể yếu ớt không đủ sức cưỡi ngựa một mình đành phải hai người cưỡi chung một con, nằm gục vào lòng Vô Kỵ. Cứ như thế đi liên tiếp năm ngày thì đến được địa phận Hà Nam.

Hôm đó hai người đang đi bỗng thấy phía trước bụi bay mù mịt, có khoảng hơn trăm người giục ngựa chạy tới, tiếng giáp sắt chạm vào nhau loảng xoảng chính là kỵ binh Mông Cổ. Trương Vô Kỵ đứng tránh qua một bên nhường đường cho bọn chúng.

Đội binh Mông Cổ qua rồi, vài chục trượng ở phía sau lại có một đội cưỡi ngựa khác, nhưng đám người này không hàng lối, kẻ trước người sau, mỗi người một chỗ. Trương Vô Kỵ vừa thoạt nhìn thấy trong đám người có cả "Thần Tiễn Bát Hùng" ở trong đó kêu thầm: "Hỏng bét!" rồi quay đầu ra chỗ khác.

Hơn hai chục người đó thấy chàng ăn mặc sang trọng, trong tay lại ôm một thiếu nữ thanh xuân, cả hai đều quay mặt đi nên cũng chẳng thèm để ý nên trong đám Thần Tiễn Bát Hùng không ai biết cả. Đợi bọn người đó đi qua, Trương Vô Kỵ mới quay đầu ngựa lại đang định chạy tới, bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn ràng, ba kỵ sĩ chạy tới như bay. Người ở giữa cưỡi một con bạch mã, thân mặc cẩm bào, đầu đội kim quan, hai bên đi kèm là hai con ngựa màu vàng thóc, trên yên chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông.

Trương Vô Kỵ vừa toan quay đi thì Lộc Trượng Khách đã trông thấy hai người kêu lên:

- Quận chúa nương nương không việc gì phải sợ, có chúng tôi cứu giá tới đây.

Hạc Bút Ông lập tức hú lên một tiếng dài, bọn Thần Tiễn Bát Hùng nghe thấy tiếng gọi liền quay đầu, vây chặt hai người lại. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên đưa mắt nhìn Triệu Mẫn ở trong lòng dường như muốn hỏi: "Phải chăng cô sắp xếp phục binh định tập kích tôi chăng?". Thế nhưng chàng thấy nàng thần sắc bồn chồn biết ngay là trách nhầm, trong bụng cũng thấy yên tâm. Triệu Mẫn lên tiếng:

- Ca ca, không ngờ lại gặp anh ở đây, gia gia mạnh khỏe chứ?

Trương Vô Kỵ nghe nàng gọi "ca ca" vội nhìn lại thanh niên mặc áo gấm trên lưng con ngựa trắng, nhận ra là anh trai của Triệu Mẫn Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, kẻ có Hán danh là Vương Bảo Bảo. Trương Vô Kỵ đã từng gặp y hai lần ở Đại Đô, nhưng vì đang chăm chú đề phòng Huyền Minh nhị lão nên không để ý đến người khác.

Vương Bảo Bảo vừa thấy đứa em yêu, không khỏi vừa mừng vừa sợ, y lại không nhận ra Trương Vô Kỵ nên nhíu mày nói:

- Muội tử, cô ... cô ...

Triệu Mẫn đáp:

- Ca ca, em bị trúng ám toán của kẻ địch, đang bị trúng độc thật nặng, may sao được vị Trương công tử đây cứu giúp, nếu không chắc hôm nay chẳng còn dịp nhìn lại ca ca nữa đâu.

Lộc Trượng Khách ghé tai Vương Bảo Bảo nói nhỏ:

- Tiểu vương gia, gã này là giáo chủ ma giáo Trương Vô Kỵ.

Vương Bảo Bảo đã từng nghe tiếng Trương Vô Kỵ từ lâu lại tưởng Triệu Mẫn đã bị chàng kiềm chế, uy hiếp bắt nói như vậy nên phất tay một cái, Huyền Minh nhị lão liền nhảy tới chia ra hai bên cách Trương Vô Kỵ chừng năm thước. Bốn người trong Thần Tiễn Bát Hùng cũng lắp tên giương cung nhắm vào lưng chàng.

Vương Bảo Bảo nói:

- Trương giáo chủ, các hạ là chủ của một giáo phái, là một hào kiệt thành danh trong võ lâm vậy mà lại hiếp đáp một cô gái yếu đuối như xá muội, chẳng khỏi để cho người đời chê cười hay sao? Mau mau thả em tôi ra, hôm nay tha cho ngươi khỏi chết.

Triệu Mẫn nói:

- Ca ca, sao anh lại nói thế? Trương công tử quả có ơn với tiểu muội, đừng nói rằng anh ấy "hiếp đáp" em.

Vương Bảo Bảo cho rằng em mình đúng là đang bị kẻ địch dọa dẫm nên đành phải nói thế nên lớn tiếng nói:

- Trương giáo chủ, tuy ngươi võ công cao cường thật nhưng song quyền làm sao địch lại bốn tay, mau mau bỏ em gái tôi xuống, hôm nay hai bên không bên nào phạm bên nào, Vương Bảo Bảo này nói sao là đúng thế đừng có nghi ngại.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Triệu cô nương trúng độc rất nặng, nếu theo mình bôn ba nghìn dặm khó mà thuyên giảm được, nay gặp lại huynh trưởng chi bằng để cô ta đi theo anh nàng để cho danh y trong vương phủ trị liệu có ích cho nàng hơn". Chàng bèn nói:

- Triệu cô nương, lệnh huynh muốn đón cô về, vậy thì mình từ biệt nhau nơi đây, chỉ mong cô cho biết chỗ của nghĩa phụ tôi, tôi sẽ đến tìm cách cứu ông ta ra. Còn hai đứa mình có ngày gặp lại sau.

Nói đến đây chàng không khỏi đau lòng, biết rằng kẻ Hán người Mông, quan dân cách biệt, hai bên thù oán thực sâu, nhưng khi chia tay cũng không khỏi quyến luyến. Ngờ đâu Triệu Mẫn nói:

- Tôi ngay từ đầu vốn không nói cho công tử hay nơi Tạ đại hiệp đang ở cũng là có thâm ý nên chỉ bằng lòng dẫn anh đi kiếm ông ta nhưng không cho anh biết ông ta đang ở đâu.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Cô đang bị thương nặng chưa khỏi, nếu theo tôi đi đường xá xa xôi thật không có lợi chút nào, thôi nên đi theo lệnh huynh về nhà là hơn.

Triệu Mẫn vẻ mặt đầy quả quyết nói:

- Nếu anh bỏ tôi ra thì sẽ không bao giờ biết nơi chốn của Tạ đại hiệp đâu. Tôi càng ngày càng đỡ, đi lại trên đường càng chóng khỏi, quay về vương phủ buồn muốn chết đi được.

Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vương Bảo Bảo:

- Tiểu vương gia, nhờ ông khuyên lệnh muội giùm.

Vương Bảo Bảo lấy làm lạ, nhưng hiểu ngay, cười khẩy nói:

- Ha ha, ngươi đừng có vờ vịt, làm trò ma trò quỉ gì thế? Tay ngươi để vào tử huyệt trên người em gái ta nên nó đành phải nghe lời ngươi, nói năng lăng nhăng cho qua chuyện.

Trương Vô Kỵ nhảy vọt lên rơi trở xuống đứng trên mặt đất. Hai người trong Thần Tiễn Bát Hùng lại tưởng chàng ra tay tập kích Vương Bảo Bảo, tách tách hai mũi tên bắn ngay vào chàng, kình phong thật mạnh. Trương Vô Kỵ tay trái vừa đẩy vừa kéo, sử dụng thần công Càn Khôn Đại Na Di hất hai mũi lang nha tiễn quay đầu lại, kình phong càng ghê gớm hơn, lách cách hai tiếng, bắn gãy luôn hai cái cung của hai người vừa bắn ra. Nếu hai người đó không né tránh thật nhanh thì thân cũng bị trọng thương rồi. Hai mũi tên dư thế còn mạnh, cắm thẳng xuống đất, đuôi tên còn rung động không ngừng. Mọi người ai nấy đều kinh hãi.

Trương Vô Kỵ rời xa Triệu Mẫn rồi nói:

- Triệu cô nương, cô về vương phủ dưỡng thương cho khỏi đã rồi mình tìm cách gặp lại sau.

Triệu Mẫn lắc đầu:

- Trong vương phủ đâu có ai y đạo cao minh như công tử? Chàng làm ơn thì làm ơn cho trót, tiễn Phật thì tiễn tới tận Tây thiên.

Vương Bảo Bảo thấy Trương Vô Kỵ đã rời xa em gái mình rồi nhưng Triệu Mẫn vẫn nằng nặc đòi đi theo khiến y không khỏi kinh ngạc, lại thêm bực tức, quay sang Huyền Minh nhị lão nói:

- Phiền hai vị bảo hộ xá muội, thôi mình đi.

Huyền Minh nhị lão đáp lời nói:

- Tuân lệnh.

Liền đi tới bên ngựa của Triệu Mẫn. Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

- Lộc Hạc hai vị tiên sinh, tôi có việc cần phải đi theo Trương giáo chủ để làm cho xong, đang hiềm thế cô sức yếu, hai vị đi theo chúng tôi nhé.

Huyền Minh nhị lão quay sang nhìn Vương Bảo Bảo, Lộc Trượng Khách đáp:

- Đại ma đầu của ma giáo hành sự tà bí, quận chúa không nên cùng y lai vãng thêm làm gì, hãy theo tiểu vương gia quay về phủ là hơn.

Đôi lông mày thanh tú của Triệu Mẫn hơi nhướng lên nói:

- Hai vị bây giờ chỉ nghe lời ca ca ta, không nghe lời ta nữa phải không nào?

Lộc Trượng Khách cười nịnh đáp:

- Tiểu vương gia chỉ vì thương yêu quận chúa đấy thôi.

Triệu Mẫn hừ một tiếng, quay sang Vương Bảo Bảo:

- Ca ca, em hành tẩu giang hồ vốn đã được gia gia đồng ý, anh chẳng cần phải lo, tiểu muội tự mình đảm đương được. Khi nào anh gặp gia gia thay mặt em hỏi thăm cha một câu.

Vương Bảo Bảo biết cha mình xưa nay cưng chiều cô em gái hết mực nên cũng chẳng dám bức bách nhiều hơn nhưng nếu để cho nàng ta một thân một mình đi theo giáo chủ ma giáo thì không sao yên tâm, thấy nàng yếu ớt dường như không còn chút hơi sức nào, nằm gục trên yên nhưng đang toan giục ngựa chạy về hướng tây, lập tức giơ hai tay ra cản lại nói:

- Hảo muội tử, gia gia ở phía sau đến ngay bây giờ, em chịu khó chờ một chút, bẩm rõ cho cha xong rồi đi cũng không muộn.

Triệu Mẫn cười nói:

- Gia gia đến đây thì em còn làm sao đi được nữa. Ca ca, tiểu muội không xen vào việc của ông anh thì ông anh cũng đừng xen vào việc của cô em chứ?

Vương Bảo Bảo quay sang nhìn kỹ Trương Vô Kỵ đánh giá một lần nữa, thấy chàng cao to uy vũ, diện mục anh tuấn, nghe giọng điệu của em gái mình, rõ là thương yêu y tha thiết, nghĩ thầm Minh Giáo nổi lên làm loạn, là quân phản nghịch không thể tha thứ được của triều đình, nay em mình lại phải lòng tên ma đầu này thật là họa không phải nhỏ, bèn phất tay một cái quát lớn:

- Bắt lấy tên ma đầu kia trước đã.

Lộc Trượng Khách múa cây gậy sừng hươu, Hạc Bút Ông vung song bút mỏ hạc thành một vòng hoàng quang, hai vòng hắc khí, cùng tấn công vào Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn biết Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, Trương Vô Kỵ võ công tuy cao cường nhưng lấy một đánh hai, trong tay lại không có binh khí nên e sợ chàng bị thương kêu lên:

- Huyền Minh nhị lão, nếu các ngươi làm Trương giáo chủ bị thương, ta sẽ nói với gia gia, không tha cho đâu.

Vương Bảo Bảo giận dữ nói:

- Loạn thần tặc tử, ai ai cũng có quyền tru diệt. Huyền Minh nhị lão, các ngươi giết được tiểu ma đầu này, phụ vương và ta ắt đều trọng thưởng.

Y ngừng lại một lát, nói tiếp:

- Lộc tiên sinh, tiểu vương gia tặng bốn mỹ nữ, nhất định sẽ khiến ngươi thật vừa lòng.

Hai anh em, người thì bảo giết, người thì bảo không được làm tổn thương, không khỏi khiến cho Huyền Minh nhị lão khó nghĩ. Lộc Trượng Khách quay sang đưa mắt cho sư đệ, nói nhỏ:

- Bắt sống nó.

Trương Vô Kỵ đột nhiên đem công phu thánh hỏa lệnh ra sử dụng, thân trên hơi nghiêng, tay phải vòng qua, chuyển phương vị một cách hết sức kỳ diệu, nghe bạch một cái, tát cho Lộc Trượng Khách một cái thật đau, quát lên:

- Ngươi thử bắt ta xem nào.

Lộc Trượng Khách đột nhiên bị trúng một đòn nặng, vừa giận vừa sợ nhưng y vốn là cao thủ hạng nhất, tâm thần không loạn, múa thanh trượng sừng hươu khiến cho mưa không lọt, gió không vào. Trương Vô Kỵ định đánh lén thêm một lần nữa, nhưng nhất thời chưa biết cách nào.

Triệu Mẫn liền giục cương cho ngựa chạy vọt lên. Vương Bảo Bảo múa roi quất đánh vút một cái, trúng ngay vào mắt con ngựa nàng đang cưỡi. Con vật đau quá, hí lên một tiếng dài, hai chân trước chồm lên. Triệu Mẫn bị thương người yếu đuối, suýt nữa thì bị hất từ trên yên rơi xuống đất, tức giận nói:

- Ca ca, anh nhất định ngăn tiểu muội phải không?

Vương Bảo Bảo đáp:

- Hảo muội tử nghe anh đi rồi về nhà ông anh này sẽ tạ tội cùng cô em.

Triệu Mẫn đáp:

- Ca ca, nếu như anh nhất định ngăn trở em thì hẳn sẽ có một mạng người chết ngay tại đây. Trương giáo chủ từ nay hận em thấu xương, đứa em anh ... đứa em anh cũng không còn sống nổi nữa.

Vương Bảo Bảo nói:

- Muội tử nói thế là sao? Trong phủ Nhữ Dương Vương cao thủ nhiều vô số kể sẽ bảo vệ em được chu toàn. Tên tiểu ma đầu này đừng nói đến chuyện ra tay làm hại em, dẫu có muốn gặp em một lần cũng chưa chắc đã được.

Triệu Mẫn thở dài:

- Chính vì em sợ không còn gặp lại được y, chính thế mà ... mà em không muốn sống nữa.

Hai anh em xưa nay rất mực thương yêu nhau, chẳng chuyện gì không bàn thảo, Triệu Mẫn trong cơn gấp gáp nên không còn dấu diếm chút nào, nói hết mối tâm tình yêu thương Trương Vô Kỵ cho anh nghe.

Vương Bảo Bảo giận dữ nói:

- Muội tử quả thật hồ đồ, ngươi là vương tộc Mông Cổ, đường đường cành vàng lá ngọc, làm sao lại sánh đôi với giống cẩu man tử kia được? Nếu để gia gia biết đến, cha không khỏi giận đến chết người hay sao?

Y tay trái vẫy một cái, lại có thêm ba tên hảo thủ tiến lên giáp công. Trương Vô Kỵ và Huyền Minh nhị lão lúc này đang vận thần công, nội kình tỏa ra chung quanh mấy trượng thế sắc như dao, ba tên hảo thủ kia nào có cách gì xông vào? Triệu Mẫn kêu lên:

- Trương công tử, nếu chàng muốn cứu nghĩa phụ thì phải cứu em trước.

Vương Bảo Bảo thấy em gái ý không thể lay chuyển, nóng ruột bèn thò tay ra ôm lấy nàng, để lên trên yên ngựa, hai chân kẹp một cái, toan giục ngựa chạy đi. Võ công Triệu Mẫn vốn cao siêu hơn huynh trưởng, nhưng sau khi bị thương rồi khí lực mất hết nên chỉ há miệng kêu lên:

- Trương công tử cứu em, Trương công tử cứu em!

Trương Vô Kỵ vù vù đánh ra hai chưởng, sử dụng hết mười thành công lực, ép cho Huyền Minh nhị lão phải thoái lui ba bước rồi thi triển khinh công, đuổi theo ngựa của Vương Bảo Bảo. Huyền Minh nhị lão và ba tên hảo thủ kia kinh hãi, lập tức đuổi theo. Trương Vô Kỵ đợi năm người kia đến gần liền đánh ngược về sau mấy chưởng, uy lực Cửu Dương thần công thật kinh người, mỗi chưởng đánh ra, Huyền Minh nhị lão đều phải né tránh, không dám đối địch. Cứ như thế ngăn chặn ba lần, Trương Vô Kỵ đã đuổi kịp con ngựa, tung mình nhảy lên, chộp lấy gáy Vương Bảo Bảo. Trảo đó bên trong có ngầm vận điểm huyệt thủ pháp, thân trên Vương Bảo Bảo liền tê đi, hai tay phải buông Triệu Mẫn ra, thân hình cũng bị Trương Vô Kỵ nhấc bổng, ném luôn vào Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vội vàng giơ hai tay ra đón lấy, Trương Vô Kỵ đã ôm được Triệu Mẫn nhảy ra khỏi lưng ngựa chạy về hướng triền núi phía bên trái.

Hạc Bút Ông và những tên hảo thủ còn lại cùng lớn tiếng kêu la đuổi theo phía sau. Thế nhưng ngọn núi này cao đến mấy trăm trượng, đuổi chạy trên núi là một cách thi tài khinh công, Huyền Minh nhị lão nội lực tuy cao cường, khinh công lại không phải hạng nhất, thành ra bốn năm người kia lại còn chạy trước Hạc Bút Ông. Trương Vô Kỵ nhặt dăm hòn đá liên châu ném xuống, lập tức có người trúng phải, gãy xương lăn lịch bịch xuống sườn núi. Những người khác ai nấy sợ hãi, tuy nhiên vì có tiểu vương gia giám thị nên không dám dừng chân nhưng cũng đã chậm lại.

Trước mắt thấy Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn chạy càng lúc càng cao, không còn cách gì đuổi kịp. Vương Bảo Bảo ngoạc mồm chửi bới, liên tiếp kêu lên:

- Bắn tên, bắn tên!

Chính y cũng giương cung lắp tên, vút một mũi nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ bắn tới. Cung lực của y thật mạnh nhưng vì khoảng cách quá xa, mũi tên còn cách Trương Vô Kỵ cả trượng thì đã cắm xuống đất.

Triệu Mẫn ôm lấy cổ Trương Vô Kỵ, biết bọn kia không sao đuổi kịp cũng thấy yên lòng, thở dài nói:

- Cũng may thiếp có tiên kiến, không nói cho chàng biết nơi chốn của Tạ đại hiệp, bằng không tên tiểu ma đầu vô lương tâm này đời nào hết sức cứu em.

Trương Vô Kỵ đi vòng qua một khúc quanh nhưng chân không chậm lại chút nào nói:

- Cô nghe lời ca ca về phủ dưỡng thương có phải hai bên đều xong việc hay sao? Cớ gì phải đắc tội với huynh trưởng, lại phải đi theo tôi cho khổ sở làm gì?

Triệu Mẫn nói:

- Em đã quyết ý đi theo chàng để chịu khổ, còn anh trai em thì sớm muộn gì rồi cũng phải đắc tội với anh ấy thôi. Em chỉ sợ chàng không cho em đi theo, còn chuyện gì em cũng không màng đến.

Trương Vô Kỵ tuy biết nàng đối với mình rất yêu thương nhưng cũng có lúc nghĩ đến chẳng qua chỉ là tình yêu con gái mới lớn, nhất thời ý động, đâu ngờ nàng bỏ hết vinh hoa phú quí coi như đất bùn, một mối thâm tình như vậy khiến chàng phải cúi đầu nhìn xuống. Chỉ thấy trên khuôn mặt tiều tụy xanh xao tình ý triền miên, ánh mắt long lanh, thật không gì kiều mị hơn, Trương Vô Kỵ nhịn không nổi phải hôn lên đôi môi đang mấp máy của nàng một cái.

Chàng hôn xong, đôi má Triệu Mẫn đỏ lên, trong cơn khích động lại ngất đi. Trương Vô Kỵ hiểu rõ y lý, biết rằng không đến nỗi nào, trong bụng càng thêm cảm kích, đột nhiên nghĩ ra: "Chỉ Nhược đối với ta làm sao tốt được như thế này".

Triệu Mẫn ngất đi một hồi liền tỉnh lại thấy Trương Vô Kỵ đang suy nghĩ bèn hỏi:

- Chàng nghĩ gì thế? Chắc là nghĩ đến Chu cô nương phải không?

Trương Vô Kỵ không dấu diếm, gật đầu nói:

- Tôi nghĩ đến quả thật tôi có thật nhiều điều không phải với cô ta.

Triệu Mẫn nói:

- Vậy chàng có hối hận không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Khi trước tôi muốn bái đường thành thân với cô ta, nghĩ đến em thì thật đau lòng; lúc này nghĩ đến cô ta thì lại thấy nàng thật tội nghiệp.

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Như thế có nghĩa là chàng yêu em nhiều hơn phải không nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Nói thực với em, tôi với em thì vừa yêu vừa hận, còn với Chỉ Nhược thì vừa kính vừa sợ.

Triệu Mẫn cười nói:

- Ha ha, em chỉ muốn chàng đối với em vừa yêu vừa sợ, còn đối với cô ta thì vừa kính vừa hận thôi.

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Hiện nay thì chưa phải thế, tôi đối với em thì vừa hận vừa sợ, hận vì em phá đám làm hỏng cái nhân duyên tốt đẹp của tôi, sợ vì ngại em không chịu đền bù cho tôi.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Bắt đền cái gì?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Hôm nay em phải đem thân trả nợ, đền cho tôi đêm động phòng hoa chúc.

Triệu Mẫn mặt đỏ bừng, vội nói:

- Không, không được đâu. Phải để nói lại với cha em ... để em nói rõ sự tình cho anh em, rồi hãy ... rồi hãy ...

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế như cha em nhất định không chịu thì sao?

Triệu Mẫn thở dài:

- Lúc đó thì đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma ... thì đành theo tên tiểu ma đầu để thành một tiểu ma bà chứ biết sao bây giờ?

Trương Vô Kỵ làm nghiêm quát lớn:

- Yêu nữ thật lớn mật, dám theo tên Trương Vô Kỵ tạo phản tác loạn, cái đó tội gì?

Triệu Mẫn cũng nghiêm nghị nói:

- Phạt hai người khi còn ở trên thế gian này thì làm vợ làm chồng cho sung sướng đến lúc bạc đầu, lúc chết đi rơi vào mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không được siêu sinh.

Hai người nói đến đây cùng phá lên cười ha hả.

Đột nhiên từ phía trước có tiếng người dõng dạc nói:

- Quận chúa nương nương, tiểu tăng cung kính đứng chờ nơi đây đã lâu.

Chỉ thấy từ sau núi bước ra hơn hai chục phiên tăng, ai nấy đều mặc áo bào màu đỏ. Trương Vô Kỵ nhìn quần áo nhận ra những phiên tăng này chính là bọn đã ngăn chặn chàng hôm trước ở dưới chân tháp nơi chùa Vạn An, võ công rất cao cường, may nhờ có Vi Nhất Tiếu đi đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa nên mới dụ được họ ra nếu không việc cứu quần hào sáu đại môn phái thực không phải dễ.

Phiên tăng đi đầu chắp hai tay hành lễ, khom lưng nói:

- Tiểu tăng phụng lệnh vương gia đến nghênh tiếp quận chúa về phủ.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Các ngươi ở đây làm gì?

Gã phiên tăng đáp:

- Quận chúa đang bị thương vương gia hết sức lo lắng nên sai tiểu tăng đến nghênh tiếp phương giá của quận chúa.

Nói xong y giơ con chim bồ câu trắng đang cầm trong tay. Triệu Mẫn biết rằng huynh trưởng đã dùng chim truyền tin, thông tri cho phụ thân nên sai bọn phiên tăng này chặn đường liền hỏi:

- Cha ta đang ở đâu?

Gã phiên tăng đáp:

- Vương gia đang ở dưới chân núi đón chờ để xem quận chúa bị thương nặng nhẹ ra sao.

Trương Vô Kỵ biết nói thêm cũng chỉ vô ích, lập tức hùng dũng tiến tới quát lên:

- Muốn sống thì mau mau tránh đường, nếu không đừng trách ta ra tay không nể nang.

Hai tên phiên tăng song song tiến lên, mỗi người đều giơ chưởng phải lên ngực đẩy ra. Trương Vô Kỵ tay trái đánh ra, vừa kéo vừa đẩy, đưa chưởng lực của hai gã phiên tăng quay ngược trở lại. Hai gã đó cùng kêu lên:

- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!

Nghe như niệm chú, lại giống như chửi mắng. Triệu Mẫn cũng không chịu kém kêu lên:

- Ngươi mới là a mễ a mễ hống.

Hai tên phiên tăng lịch kịch lùi luôn ba bước, hai tên khác ở đằng sau liền tung chưởng phải, đỡ vào lưng hai gã kia, đẩy họ ngược trở lại. Hai tên phiên tăng vẫn không đổi chiêu, tiếp tục dùng "Bài Sơn Chưởng" đánh ra. Trương Vô Kỵ không muốn dùng ngạnh công chống với họ để phải hao phí chân lực nên dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực của nhị tăng, ngờ đâu ngón tay chàng vừa chạm vào thì như sắt gặp phải nam châm, liền dính chặt vào tay của họ. Hai tên phiên tăng lại kêu:

- A mễ a mễ hống, a mễ a mễ hống!

Trương Vô Kỵ giựt tay ra hai lần nhưng không thoát, đành vận Cửu Dương thần công lên phản kích lại. Thế nhưng lần này chàng không đẩy được hai gã phiên tăng ra mà hai mươi hai tên phiên tăng khác đằng sau xếp thành hai nhóm, mỗi người đều giơ chưởng phải, để vào lưng người đằng trước, hai mươi bốn phiên tăng làm thành hai hàng. Trương Vô Kỵ đột nhiên nghĩ ra: "Từng nghe thái sư phụ nói rằng, ở Thiên Trúc có môn võ gọi là phép Tính Thể Liên Công. Hai mươi bốn gã phiên tăng này hợp lực đối chưởng với ta, ta nội lực có mạnh nhưng cũng không thể nào chống lại được hai mươi bốn người hợp lại".

Chàng lại sợ có truy binh đuổi theo, hú lên một tiếng, tay thêm ba thành kình lực, đột nhiên chuyển lệch sang một bên, thân hình né qua bên trái khiến cho lực đạo của hai mươi bốn phiên tăng không còn làm thành một sợi thẳng, sáu tên đứng đầu không kịp giữ lại liền nhào tới trước. Trương Vô Kỵ hai tay liên tiếp đánh ra, chát chát chát chát chát chát sáu cái liền, cả sáu tên đều ngã xuống đất, mồm hộc máu tươi. Thế nhưng hai tên phiên tăng thứ bảy thứ tám liền xông lên múa chưởng đánh ngay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Bộ chúng bay muốn chết hay sao?". Hữu chưởng của chàng liền đánh ra, đỡ luôn cả hai chưởng của nhị tăng, hơi dồn sức một chút, đang định vận kình chuyển lệch sang một bên, bỗng nghe đằng sau có tiếng chân người nhè nhẹ bước tới, một người đã múa chưởng đánh rồi. Tay trái của chàng liền đánh ngược về sau, đang định hóa giải chưởng lực của địch, thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp toàn nhờ có Cửu Dương thần công làm gốc, lúc này bao nhiêu hơi sức đều dồn về trước chống đỡ mười tám tên phiên tăng hợp lực nên chưởng đánh về sau chỉ chừng hai thành lúc bình thường. Chỉ thấy một luồng khí âm hàn truyền theo tay chạy thẳng lên, lập tức toàn thân run rẩy, người lảo đảo, ngã lăn ra. Thì ra chính là Lộc Trượng Khách dùng Huyền Minh thần chưởng đánh lén.

Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:

- Lộc tiên sinh, ngừng tay!

Nàng xông lên lấy thân mình che cho Trương Vô Kỵ, quát lớn:

- Còn ai dám động thủ nữa chăng?

Lộc Trượng Khách đang định đánh thêm một chưởng để kết thúc tính mạng kẻ kình địch bậc nhất trong đời, nhưng thấy quận chúa đỡ đòn như thế, đành phải lui ra. Y hú lên một tiếng dài, ý muốn cho người khác biết rằng y đã thắng thế để gọi đồng bọn tới rồi nói:

- Quận chúa nương nương, vương gia chỉ mong quận chúa về phủ chứ không có ý gì khác. Gã này là quân phản nghịch cực kỳ ghê gớm, sao quận chúa lại phải khổ như vậy?

Triệu Mẫn lòng đau như cắt, đang định mắng chửi một phen nhưng suy nghĩ lại, không nên làm cho y tức giận khiến y có thể giết Trương Vô Kỵ nên đành cố nhịn đưa tay đỡ ý trung nhân lên. Chẳng mấy chốc tiếng nhạc đã tới gần, ba người cưỡi ngựa từ trong sơn đạo chạy tới, một người là Hạc Bút Ông, một người là Vương Bảo Bảo còn người sau cùng chính là Nhữ Dương Vương đích thân tới xem xét. Ba người nhảy xuống ngựa, Nhữ Dương Vương nhíu mày nói:

- Mẫn Mẫn, con sao thế? Cớ gì không nghe lời anh con, ở nơi đây quấy rối là thế nào?

Triệu Mẫn rưng rưng nước mắt kêu lên:

- Cha, sao cha để người ta hiếp đáp con như thế?

Nhữ Dương Vương tiến lên mấy bước giơ tay ra toan cầm tay nàng. Triệu Mẫn lật tay một cái, loáng một cái đã rút trong người ra một thanh chủy thủ, để vào ngực kêu lên:

- Gia gia, nếu cha không đáp lời con thì hôm nay con đành chết trước mặt cha.

Nhữ Dương Vương kinh hoảng lật đật lùi lại hai bước, run run hỏi:

- Có gì cứ nói chứ đừng làm thế! Con ... con muốn gì?

Triệu Mẫn giở áo kéo băng vải ở trên vai chỉ cho cha xem năm lỗ ngón tay, lúc này chất độc đã hết nhưng vết thương chưa lành, máu me đầm đìa thật là ghê rợn. Nhữ Dương Vương thấy nàng bị thương nặng như thế, xót xa thương con luôn mồm kêu:

- Sao thế? Sao thế? Sao con bị thương vậy?

Triệu Mẫn chỉ vào Lộc Trượng Khách nói:

- Gã đó có bụng bất lương, định gian dâm nữ nhi, con thà chết không chịu, y ... y ... liền chộp vào con đến như thế đó. Xin cha ... xin cha phân xử cho.

Lộc Trượng Khách sợ đến mất cả hồn vía, vội nói:

- Tiểu nhân có gan bằng trời cũng không dám thế, làm ... làm gì có chuyện đó được?

Nhữ Dương Vương trừng mắt nhìn y, hừ một tiếng nói:

- Mi lớn mật nhỉ? Việc Hàn Cơ ta đã rộng lòng không tra cứu, bây giờ lại dám mạo phạm đến cả con ta. Bắt lấy nó!

Lúc này những võ sĩ hộ vệ cho ông ta đã đến đông đủ, nghe vương gia ra lệnh bắt người, tuy biết Lộc Trượng Khách võ công ghê gớm nhưng cũng có bốn tên xông lên. Lộc Trượng Khách vừa hoảng vừa tức, nghĩ thầm người ta cha con cốt nhục tình thâm, quận chúa giận mình đả thương tình lang của cô ta, nên vu vạ cho y. Người ta vẫn thường bảo "người ngoài không thể ly gián được người thân", quận chúa lại ngụy kế đa đoan, làm sao mình cãi cho được? Y liền tung ra một chưởng đẩy lùi bốn tên võ sĩ, thở dài:

- Sư đệ! Thôi mình đi!

Hạc Bút Ông còn đang chần chừ, Triệu Mẫn kêu lên:

- Hạc tiên sinh, ngươi là người tốt, không hiếu sắc như sư huynh, mau bắt sư huynh ngươi lại, cha ta sẽ thăng ngươi lên làm quan lớn, trọng thưởng thật hậu.

Huyền Minh nhị lão võ công trác tuyệt, chỉ vì tham luyến lợi lộc công danh, đem cái thân cao thủ hạng nhất của mình vào trong vương phủ để người ta sai khiến. Hạc Bút Ông vốn biết sư huynh tham dâm hiếu sắc, nghe Triệu Mẫn nói cũng tin được bảy tám phần, việc thăng thưởng cũng khiến y phải động tâm. Có điều y và Lộc Trượng Khách anh em đồng môn thân thiết, không nỡ ra tay nên nhất thời do dự không quyết định được.

Lộc Trượng Khách mặt buồn rười rượi, thảng thốt nói:

- Sư đệ, nếu ngươi muốn thăng quan phát tài thì cứ đến bắt ta đi.

Hạc Bút Ông thở dài:

- Sư ca, thôi mình đi vậy.

Y liền cùng Lộc Trượng Khách hai người sánh vai ra đi. Huyền Minh nhị lão uy chấn kinh sư, các võ sĩ trong Nhữ Dương Vương phủ kính trọng họ chẳng khác người nhà trời, có ai dám đứng ra ngăn chặn? Nhữ Dương Vương liên tiếp quát tháo nhưng các võ sĩ chỉ hư trương thanh thế, giả vờ hùng hổ đứng trông Huyền Minh nhị lão lững thững đi xuống núi. Nhữ Dương Vương nói:

- Mẫn Mẫn, con đã bị thương, mau theo ta về nhà điều trị.

Triệu Mẫn chỉ vào Trương Vô Kỵ nói:

- Vị công tử này thấy Lộc Trượng Khách hiếp đáp con, nổi dạ bất bình, ra tay tương trợ, ca ca không rõ nguồn cơn, lại bảo y là phản tặc. Gia gia, con có một việc quan trọng phải đi theo Trương công tử để làm, bao giờ xong sẽ cùng y quay về khấu đầu bái kiến gia gia.

Nhữ Dương Vương nghe giọng điệu nàng nói, dường như muốn sánh duyên với gã này, nghe con trai nói thì y là giáo chủ Minh Giáo. Kỳ này ông ta rời kinh đô xuống phương nam cũng chỉ để điều binh khiển tướng đối phó với đám phản tặc Minh Giáo ở một giải Hoài Tứ, Dự Ngạc, lẽ nào lại để con gái cùng đi với người này? Ông liền hỏi:

- Anh con nói rằng, người này là giáo chủ của ma giáo, không lẽ lại sai sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Anh con chỉ thích nói đùa. Gia gia, cha xem anh ta được bao nhiêu tuổi mà có thể làm thủ não của bọn phản loạn?

Nhữ Dương Vương đánh giá Trương Vô Kỵ, thấy chàng chỉ độ hăm mốt hăm hai, bị thương rồi diện mạo tiều tụy, đâu còn gì là anh tuấn siêu quần, không giống một người thống lãnh mấy chục vạn quân. Thế nhưng ông biết con gái mình giảo hoạt, túc trí đa mưu, lại thêm Minh Giáo là họa của quốc gia, nếu như y không phải là giáo chủ, thì chắc cũng là một nhân vật quan trọng trong ma giáo, không thể nào thả y cho được, liền nói:

- Cứ đem y vào thành đã rồi sẽ tra xét sau. Nếu như không phải người trong ma giáo, ta sẽ thăng thưởng cho y.

Ông nói như thế cũng là nể mặt con gái lắm rồi cốt để nàng không thể làm reo làm nũng trước mặt đông người. Bốn tên võ sĩ tuân lệnh liền đi tới gần, Triệu Mẫn khóc nói:

- Gia gia, cha định bức tử con hay sao?

Con dao găm trong tay đâm luôn vào ngực nửa tấc, máu liền thấm đỏ cả một mảng áo. Nhữ Dương Vương kinh hoảng nói:

- Mẫn Mẫn, con không được làm càn.

Triệu Mẫn lại khóc nói tiếp:

- Cha ơi, đứa con gái bất hiếu đã lén cùng Trương công tử thành vợ thành chồng. Cha cứ coi như không có đứa con này, tha cho nữ nhi đi. Nếu không con xin chết ngay trước mặt cha cho xong.

Nhữ Dương Vương tay trái không ngớt vò hàm râu, trên trán mồ hôi nhỏ giọt. Ông điều binh khiển tướng, giao phong phá địch chỉ một lời là quyết định, hôm nay gặp phải đứa con gái làm chuyện xấu xa nhưng đành thúc thủ không tìm ra cách nào giải quyết.

Vương Bảo Bảo nói:

- Muội tử, em và Trương công tử cả hai đều bị thương, cứ tạm theo gia gia về phủ, gọi danh y điều trị, sau đó cha sẽ chủ trì hôn phối cho. Cha được một người con rể tài ba, ta cũng có một đứa em rể anh hùng, thật còn gì tốt bằng?

Y nói ra thật dễ nghe, nhưng Triệu Mẫn biết rằng đó chỉ là kế hoãn binh, Trương Vô Kỵ rơi vào tay y rồi còn làm sao mà sống nổi, chỉ trong khoảnh khắc sẽ đem xử tử ngay. Nàng bèn nói:

- Gia gia, việc đã đến nước này, thuyền theo lái, gái theo chồng, dù sống dù chết, con cũng chỉ theo Trương công tử. Cha và anh con có mưu kế gì con cũng biết hết, nói ra cũng uổng phí tâm cơ thôi. Trước mắt chỉ còn hai đường, nếu cha tha mạng cho con thì con được nhờ, còn như cha muốn con chết thì thật dễ, chẳng phải tốn chút hơi sức nào.

Nhữ Dương Vương giận dữ nói:

- Mẫn Mẫn, ngươi suy nghĩ cho kỹ đi. Nếu ngươi theo tên phản tặc này thì từ nay không còn là con ta nữa.

Triệu Mẫn lòng quặn lại, thực không thể nào bỏ anh bỏ cha, nghĩ đến bình thời hai người nuông chiều thương yêu mình biết chừng nào, lòng thật tưởng như dao cắt, thế nhưng nếu mình chỉ chần chừ thì cái mạng Trương Vô Kỵ sẽ không còn, trước mắt đành cứu tình lang trước, sau này xin cha xin anh tha thứ cho mình sau nên nói:

- Gia gia, ca ca, tất cả cũng chỉ vì Mẫn Mẫn chẳng ra gì, cha ... cha tha tội cho con.

Nhữ Dương Vương thấy con gái không đổi ý, hối hận bình nhật nuông chiều quá đỗi, để cho nàng hành tẩu giang hồ nên mới xảy ra cớ sự. Ông cũng biết nàng tính tình bướng bỉnh nếu như uy hiếp, nàng sẽ đâm vào ngực mà chết, chỉ còn nước thở dài, nước mắt lã chã rơi xuống, nghẹn ngào nói:

- Mẫn Mẫn, con cố gắng bảo trọng. Cha đi đây ... con ... con nên giữ gìn.

Triệu Mẫn gật đầu, không dám nhìn cha thêm một lần nữa. Nhữ Dương Vương quay đầu chầm chậm đi xuống núi, tả hữu dắt ngựa tới, ông làm như không nghe không thấy, không lên ngựa, đi đến hơn chục trượng rồi đột nhiên quay lại nói:

- Mẫn Mẫn, vết thương của con không sao chứ? Trên người có mang tiền không?

Triệu Mẫn nuốt lệ gật đầu. Nhữ Dương Vương nói với người chung quanh:

- Đem hai con ngựa của ta cho quận chúa.

Vệ sĩ đáp ứng, dắt ngựa lại bên cạnh Triệu Mẫn rồi theo Nhữ Dương Vương hạ sơn. Sáu tên phiên tăng nằm lăn quay dưới đất, không sao đứng lên được, những phiên tăng còn lại cứ hai người đỡ một người, dìu nhau đi sau.

Một lúc sau mọi người đã đi hết cả, chỉ còn lại Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn mà thôi.

[1] Chu Công uy hiếp triều đình, Cầu hiền Vương Mãng hạ mình khiêm cung.

[2] Qua điền lý hạ trích từ câu qua điền bất nạp lý, lý hạ bất chỉnh quan (đi ngang ruộng dưa chớ nên xỏ giày, đi dưới cây mận đừng nên sửa lại mũ) e người khác nhìn thấy tưởng mình có ý gian tham.

[3] Tức Sơn Đông -An Huy

[4] vợ chồng tốt đôi

Hồi 35

ĐỒ SƯ HỮU HỘI THỤC VI ƯƠNG

Chẳng qua một chút danh hờ,

Ngoài thì báo oán trong chờ lên ngôi.

Máu đào thấm đất bao người,

Thiếu Lâm trường hận một đời bỏ đi.

Chưởng của Lộc Trượng Khách đánh lén Trương Vô Kỵ đúng ngay lúc chàng phải dùng toàn lực chống đỡ nội kình của mười tám tên phiên tăng liên thủ ở đằng trước, thành thử phía sau không có hộ thể thần công che chở. Huyền Minh hàn độc xâm nhập vào thân bị thương rất nặng, chàng bèn ngồi xếp bằng vận chuyển Cửu Dương chân khí quanh người ba lần rồi thổ ra hai ngụm máu bầm mới thấy đỡ tức ngực, mở mắt ra thấy Triệu Mẫn nhìn mình vẻ mặt hết sức lo lắng.

Trương Vô Kỵ ôn tồn nói:

- Triệu cô nương, phen này khiến cô thật khổ sở.

Triệu Mẫn đáp:

- Đến giờ này chàng vẫn còn gọi em là ?Triệu cô nương? ư? Em chẳng còn là người của triều đình, cũng không còn là quận chúa, trong lòng chàng ... chàng vẫn coi em là một tiểu yêu nữ hay sao?

Trương Vô Kỵ từ từ đứng lên nói:

- Tôi hỏi cô một câu, cô nói thực cho tôi biết, vết kiếm trên mặt biểu muội Ân Ly của tôi, có phải do cô rạch hay không?

Triệu Mẫn đáp:

- Không phải.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Thế thì ai đã hạ thủ?

Triệu Mẫn đáp:

- Em không thể nói cho chàng hay được. Đến khi nào chàng gặp Tạ đại hiệp, ông ta sẽ nói cho chàng nghe môi việc.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Nghĩa phụ của tôi biết rõ ư?

Triệu Mẫn nói:

- Nội thương của chàng chưa khỏi, càng hỏi nhiều càng thêm rắc rối. Em chỉ nói với chàng một điều, nếu như chàng tra rõ ngọn ngành, Ân cô nương nếu thực là do em hại, chẳng cần chàng ra tay, em lập tức tự vẫn tạ tội ngay trước mặt chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nói như chém đinh chặt sắt không thể không tin, trầm ngâm một hồi rồi nói:

- Chắc có lẽ trên chiếc thuyền của Minh Giáo Ba Tư có cao thủ mai phục, nửa đêm thi triển tà pháp xông thuốc cho mình mê đi rồi hại biểu muội của tôi, sau đó ăn trộm đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Cứu được nghĩa phụ ra xong, chắc phải đi Ba Tư một chuyến, hỏi Tiểu Siêu cho rõ ràng.

Triệu Mẫn dẩu môi cười nói:

- Chắc chàng nhớ Tiểu Siêu nên tìm cớ để đi gặp chứ gì? Em khuyên chàng dưỡng thương là hơn, không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, việc đi lên chùa Thiếu Lâm mới là chuyện chính.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Đi lên chùa Thiếu Lâm làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

- Thì để cứu Tạ đại hiệp.

Trương Vô Kỵ lại càng ngạc nhiên hỏi thêm:

- Nghĩa phụ của tôi đang ở trên chùa Thiếu Lâm ư? Sao lại ở chùa Thiếu Lâm nhỉ?

Triệu Mẫn đáp:

- Đầu dây mối nhợ bên trong em cũng không biết rõ nhưng Tạ đại hiệp đang ở trong chùa Thiếu Lâm thì nhất định là đúng. Để em nói cho chàng hay, dưới tay em có một thủ hạ xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm, chính y đã hi sinh mạng sống để mang tin đó đến cho em.

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Tại sao phải hi sinh mạng sống?

Triệu Mẫn đáp:

- Người bộ thuộc đó muốn chứng minh cho em nên tìm cách cắt một nắm tóc của Tạ đại hiệp. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm canh gác Tạ đại hiệp cực kỳ nghiêm mật, người thủ hạ đó lấy được nắm tóc rồi chạy ra khỏi chùa nhưng vẫn bị phát giác, thân trúng hai chưởng, gắng gượng đem được đến cho em chẳng bao lâu thì chết.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ôi, ghê gớm thật.

Ba chữ ?ghê gớm thật? không biết là chàng khen thủ đoạn của Triệu Mẫn hay là nói về thế cục nguy hiểm. Chàng trong lòng buồn bực làm xáo trộn nội tức nhịn không nổi lại hộc máu ra. Triệu Mẫn vội nói:

- Nếu biết thương thế của chàng nặng nề, lại dễ khích động như thế, em chẳng nên nói cho chàng nghe làm chi.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống đất, tựa lưng vào một tảng đá cố gắng giữ lòng cho bình tĩnh để điều tức nhưng trước sau vẫn rối như mớ bòng bong không sao trấn định được bèn nói:

- Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm bị nghĩa phụ anh dùng Thất Thương Quyền đánh chết. Tăng cũng như tục của chùa Thiếu Lâm hai mươi năm qua thề sẽ báo mối thù này, huống chi Thành Côn lại xuất gia nơi chùa Thiếu Lâm. Nghĩa phụ anh rơi vào tay họ làm sao còn sống cho nổi?

Triệu Mẫn nói:

- Chàng không phải nóng ruột quá, có một vật có thể cứu được tính mạng Tạ đại hiệp.

Trương Vô Kỵ vội hỏi:

- Vật gì vậy?

Triệu Mẫn đáp:

- Bảo đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ suy nghĩ lại liền rõ ngay. Thanh đao Đồ Long được thiên hạ gọi là ?Võ Lâm Chí Tôn?, phái Thiếu Lâm mấy trăm năm qua đứng đầu võ lâm, nên phải chiếm được thanh đao đó mới cam lòng. Chính vì họ muốn có thanh đao này nên không giết Tạ Tốn ngay nhưng việc hành hạ chiết nhục chắc không tránh khỏi.

Triệu Mẫn nói tiếp:

- Em nghĩ rằng việc cứu Tạ đại hiệp chỉ nên hai đứa mình bí mật ra tay thì hơn. Anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tuy đông thật nhưng nếu tất cả xông lên chùa Thiếu Lâm, hai bên tổn thất chắc sẽ nhiều. Phái Thiếu Lâm nếu thấy không đương cự nổi với Minh Giáo, không giữ nổi Tạ đại hiệp không chừng sẽ giết ông ta cũng nên.

Trương Vô Kỵ thấy nàng tính toán chu đáo, trong lòng cảm kích nói:

- Mẫn muội, em nói đúng lắm.

Triệu Mẫn lần đầu tiên được chàng gọi bằng ?Mẫn muội?, lòng thấy hết sức ếm đềm hoan hỉ nhưng nghĩ lại ơn sinh thành dưỡng dục, tình nghĩa anh em từ nay trôi theo dòng nước không khỏi ngậm ngùi.

Trương Vô Kỵ cũng đoán được tâm sự nàng nhưng không biết khuyên nhủ cách nào chỉ nghĩ: ?Nàng từ nay đem thân phó thác cho mình, biết làm thế nào để báo đáp cái thâm tình hậu ý ấy? Chỉ Nhược có ước định hôn nhân với ta, làm sao ta phụ nàng được? Ôi, chuyện trước mắt là làm sao tìm cách cứu nghĩa phụ là quan trọng, còn tình cảm gái trai kia hãy để qua một bên?.

Chàng cố gượng đứng lên nói:

- Thôi mình đi.

Triệu Mẫn thấy chàng mặt mày nhợt nhạt, biết rằng bị thương rất nặng đôi lông mày nhíu lại trầm ngâm nói:

- Cha em thương em chiều em, không có gì phải ngại chỉ sợ ca ca không bỏ qua đâu. Chỉ trong vòng hai giờ nữa, thể nào anh em cũng tìm cách rời phụ thân, phái người đi bắt chúng mình về.

Trương Vô Kỵ gật đầu, thấy Vương Bảo Bảo hành sự quả quyết, là một nhân vật cực kỳ lợi hại, xem ra không thể dễ dàng xuôi tay, hiện giờ hai người đều bị thương nặng nếu như đi về hướng tây đến chùa Thiếu Lâm, ắt là đường sá gian nan thành ra chưa biết tính toán thế nào. Triệu Mẫn nói:

- Chúng mình mau mau rời khỏi chốn nguy hiểm này, đến chân núi rồi hãy tính đường đi.

Trương Vô Kỵ gật đầu, chệnh choạng dắt con ngựa lại, đang định trèo lên chỉ thấy ngực đau nhói, không sao lên yên được. Triệu Mẫn tay phải dùng sức, nghiến răng đẩy một cái tống được chàng lên lưng ngựa, nhưng vì dùng sức quá nhiều vết thương trên ngực do dao găm đâm vào hồi nãy máu lại chảy ra. Nàng gắng gượng trèo được lên ngựa ngồi phía sau, trước đây vốn là chàng đỡ nàng bây giờ lại hóa ra nàng phải giơ tay đỡ Trương Vô Kỵ. Hai người thở hổn hển một hồi lâu mới dám giục ngựa chạy, còn con kia dẫn theo đằng sau lưng.

Hai người cưỡi chung xuống tới chân núi rồi tính việc đi ra đường lớn, sau đó sẽ ngoặt qua hướng đông để khỏi phải đụng đầu Vương Bảo Bảo. Đi được một lát thì đến một con đường nhỏ, lúc đó hai người mới thấy an tâm nghĩ thầm nếu như Vương Bảo Bảo sai người truy nã, ắt chẳng đời nào lại theo đường nhỏ mà kiếm, chỉ cần đi đến khi trời tối vào trong núi sâu thì có thể coi như thoát nạn.

Hai người đang đi bỗng nghe đằng sau có tiếng vó ngựa vang lên, hai con ngựa ở đâu chạy đến. Triệu Mẫn thất sắc, ôm chặt lấy lưng Trương Vô Kỵ nói:

- Ca ca em đến nhanh thật, thôi mình coi như xong đời, không thể nào thoát độc thủ của anh ta. Vô Kỵ ca ca, thôi cứ để em theo ca ca về phủ, tìm cách cầu xin gia gia mai này mình còn có dịp gặp lại. Trời dài đất rộng, nguyện đôi ta mãi mãi sẽ không bao giờ phụ nhau.

Trương Vô Kỵ cười gượng nói:

- Lệnh huynh chắc gì đã chịu thả cho anh đi.

Mới nói tới đó, hai con ngựa ở phía sau chỉ còn cách vài chục trượng. Triệu Mẫn giục ngựa tránh qua một bên, rút dao găm ra, trong bụng đã quyết, nếu như còn cách nào khác thì sẽ tìm đường thoát thân, còn như anh mình nhất định giết Trương Vô Kỵ cho bằng được thì hai người sẽ chết chung một chỗ. Hai kẻ cưỡi ngựa kia đến gần không ngừng bước, trên lưng ngựa là hai tên lính Mông Cổ, đi ngang hai người, chỉ liếc qua một cái rồi giục ngựa chạy luôn. Triệu Mẫn thở phào nghĩ thầm: ?Tạ trời tạ đất, hóa ra chỉ là tên lính tầm thường, không phải người đi truy nã mình?. Thế nhưng hai tên lính gò cương chậm lại, nói với nhau mấy câu rồi bất thần quay đầu ngựa chạy đến bên cạnh hai người. Một tên quân Nguyên mặt mũi râu ria quát lớn:

- Hai đứa man tử khốn kiếp kia, chúng bay ăn cắp đâu hai con ngựa tốt thế này?

Triệu Mẫn nghe giọng điệu y, biết rằng chúng trông thấy hai con tuấn mã phụ thân tặng cho có ý tham lam. Hai con ngựa của Nhữ Dương Vương là loại ngựa tốt, lại thêm yên vàng cương bạc, quả thật quí giá vô cùng. Người Mông Cổ thích ngựa như tính mạng, trông thấy thế ai chẳng động tâm? Triệu Mẫn nghĩ thầm: ?Hai con ngựa tuy là của gia gia cho thật nhưng nếu như hai tên này cậy mạnh cướp lấy thì cũng đành phải cho chúng chứ làm sao được?. Nàng liền nói bằng tiếng Mông Cổ:

- Các ngươi là thuộc hạ của tướng quân nào thế? Sao dám vô lễ với ta như vậy?

Tên quân Mông Cổ ngạc nhiên hỏi lại:

- Tiểu thư là ai?

Y thấy hai người ăn mặc sang trọng, lại thêm hai con ngựa thật đẹp, nghe nói tiếng Mông Cổ lưu loát nên không còn dám coi thường nữa. Triệu Mẫn đáp:

- Ta là con gái của tướng quân Hoa Nhi Bất Xích, đây là anh trai ta, hai người chúng ta trên đường đi bị cướp nên bị thương.

Hai tên lính đưa mắt nhìn nhau, đột nhiên ngửa miệng cười sằng sặc. Tên râu rậm lớn tiếng nói:

- Đâm lao thì theo lao, giết nốt hai đứa nhãi này rồi tính sau.

Y liền rút yêu đao ra, giục ngựa chạy đến. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:

- Các ngươi làm gì thế? Ta cho tướng quân hay hai đứa bay sẽ bị bốn ngựa phanh thây đó.

?Tứ mã phân thi? là trọng hình trong quân đội Mông Cổ, kẻ phạm pháp bốn tay chân bị buộc vào bốn con ngựa, sau một tiếng lệnh người ta sẽ đánh ngựa cho cùng chạy, phạm nhân sẽ bị xé ra thành bốn mảnh là hình phạt khốc liệt nhất trong các hình phạt.

Gã lính Nguyên râu xồm kia vẫn cười đáp:

- Hoa Nhi Bất Xích đánh không lại quân phản tặc Minh Giáo, chém giết bộ thuộc bừa bãi để cho hả tức. Hôm qua đại quân nổi dậy, băm vằm cha ngươi nát nhừ ra rồi. Ở đây lại gặp hai con chó con này thì thật tốt quá.

Nói xong y giơ đao lên chém xuống đầu hai người. Triệu Mẫn vội giật dây cương cho ngựa nhảy qua tránh được. Gã Nguyên binh toan đuổi theo thì tên kia kêu lên:

- Đừng giết con bé xinh đẹp kia, bọn mình hãy phong lưu khoái hoạt một trận trước đã.

Tên râu rậm liền đáp:

- Đúng lắm, đúng lắm.

Triệu Mẫn chợt nghĩ ra một cách liền nhảy xuống ngựa chạy qua một bên đường. Hai tên lính Mông Cổ cùng xuống ngựa đuổi theo. Triệu Mẫn kêu lên ?Ối chao? rồi ngã lăn ra. Gã rậm râu liền nhảy tới ôm lưng nàng, cùi chỏ Triệu Mẫn liền thúc ra sau trúng ngay huyệt đạo trên ngực y, tên râu xồm không kịp hự lên một tiếng đã ngã lăn sang một bên. Tên còn lại đâu biết bạn mình đã bị ám toán, cũng nhảy tới, Triệu Mẫn cũng cùng một cách lại đánh trúng yếu huyệt. Hai lần đả huyệt như thế, lúc bình thời thật chẳng mất chút hơi sức nào nhưng lúc này phải thở hổn hển, mồ hôi lạnh ướt đầm đầu tóc, toàn thân dường như không còn lực khí.

Nàng gắng gượng đứng lên, đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, rút chủy thủ ra cầm trên tay quát lớn:

- Hai tên cẩu tặc phạm thượng làm loạn kia, có muốn sống không thì bảo?

Hai tên lính Mông Cổ huyệt đạo bị đánh trúng, nửa thân trên hoàn toàn tê dại, hai tay không cử động được tuy nửa thân dưới vẫn còn tri giác nhưng cũng đau đớn khó chịu. Chúng tưởng Triệu Mẫn thể nào cũng giết cả đôi, nào ngờ nghe nàng nói xem ra còn có chút hi vọng sống sót, vội nói:

- Cô nương tha mạng cho, Hoa Nhi Bất Xích tướng quân không phải chúng tôi giết hại.

Triệu Mẫn nói:

- Được, nếu các ngươi làm theo lời ta thì ta tha cho hai cái mạng chó của chúng bay khỏi chết.

Hai tên lính Mông Cổ chẳng biết nàng bắt chúng làm chuyện khó khăn gì nhưng cũng đáp liều:

- Làm ngay, làm ngay.

Triệu Mẫn chỉ vào hai con ngựa của mình nói:

- Hai chúng bay cưỡi hai con ngựa này chạy về hướng đông, trong vòng một ngày một đêm, phải chạy sao cho đủ ba trăm dặm, càng nhanh càng tốt, không được sai sẩy.

Hai gã mặt ngơ ngác, có nằm mơ cũng không ngờ được nàng lại chỉ bắt chúng làm một việc dễ đến thế, nghĩ chắc nàng muốn nói ngược để đùa chúng chăng. Gã râu xồm nói:

- Cô nương, tiểu nhân dẫu có lớn mật mấy cũng chẳng dám tơ tưởng đến con ngựa của cô nương ...

Triệu Mẫn ngắt lời y nói:

- Việc đang khẩn bách, mau mau lên ngựa. Trên đường đi nếu có ai hỏi đến, ngươi phải nói là hai con ngựa này mua ngoài chợ, tuyệt đối không được đề cập đến hình dáng bọn ta, biết chưa?

Hai tên lính Mông Cổ bán tín bán nghi nhưng Triệu Mẫn luôn mồm giục giã, nghĩ bụng nếu dẫu có gì lừa dối thì cũng còn hơn là bị nàng đâm chết ngay tại chỗ nên vội xin lỗi, từng bước từng bước lết đến trèo lên yên. Người Mông Cổ từ nhỏ lớn lên trên lưng ngựa, cưỡi ngựa còn dễ hơn đi trên đường, tuy tay chân cứng đơ nhưng cũng điều khiển được con ngựa chạy. Hai đứa sợ rằng Triệu Mẫn chỉ vì hồ đồ nhất thời rồi sẽ hối hận nên chạy được vài trượng liền kẹp hai chân, thúc ngựa chạy cho nhanh.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chủ ý của em cao minh thật. Nếu như thủ hạ của ca ca em có thấy hai con tuấn mã này, cũng tưởng hai đứa mình đi về hướng đông. Thế bây giờ chúng mình đi về hướng nào đây?

Triệu Mẫn nói:

- Mình sẽ đi về hướng tây nam.

Hai người trèo lên hai con ngựa của hai tên Mông Cổ để lại, không theo đường mà đi băng qua những vùng hoang dã đi về hướng tây nam.

Đoạn đường này toàn những loạn thạch hiểm trở, gai góc rất nhiều đâm vào chân ngựa khiến máu chảy ròng ròng, đi khập khiễng mỗi giờ chỉ được chừng hai chục dặm. Trời sắp tối bỗng thấy dưới thung lũng một luồng khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trương Vô Kỵ mừng nói:

- Trước mặt có người ở, thôi mình tới đó xin tá túc.

Đi đến gần thấy lấp ló sau những tàn cây một góc tường màu vàng, thì ra là một cái miếu. Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ xuống ngựa, để hai con ngựa quay đầu về hướng tây, nhặt dưới đất một cành gai, quất luôn mấy cái vào mông hai con ngựa. Hai con ngựa hí lên một tiếng dài, chạy vọt đi. Nàng tới đâu cũng bày nghi trận, chỉ mong truy binh của Vương Bảo Bảo bị lạc đường, cả đến không còn ngựa cưỡi đi lại rất gian nan nàng cũng đành chịu, chỉ cốt sao được lúc nào hay lúc ấy.

Hai người dìu lẫn nhau, từng bước từng bước đến trước miếu, thấy trên biển ngay cửa chính đề ?Trung Nhạc Thần Miếu?. Triệu Mẫn cầm chiếc vòng cửa gõ ba cái, đợi một hồi không thấy ai trả lời lại gõ thêm ba cái nữa.

Bỗng nghe bên trong cửa có tiếng người lạnh lùng hỏi:

- Người hay quỉ đó? Muốn chết hay sao?

Nghe lạch cạch mấy tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, đằng sau có một bóng người. Khi đó trời đã sâm sẩm tối, người kia lại quay lưng ra ánh sáng nên không nhìn rõ mặt, nhưng thấy y đầu trọc mặc áo nhà tu hóa là một hòa thượng. Trương Vô Kỵ nói:

- Hai anh em chúng tôi đi đường gặp cướp, thân bị trọng thương, xin nhà chùa cho tá túc một đêm. Mong đại sư mở lòng từ bi.

Người kia hừ một tiếng, cười khẩy nói:

- Người xuất gia xưa nay có giúp đỡ ai bao giờ, các ngươi đi chỗ khác.

Y vừa toan đóng cửa, Triệu Mẫn vội nói:

- Giúp người người giúp lại, biết đâu chẳng có chỗ lợi cho mình.

Gã hòa thượng kia liền hỏi:

- Lợi chỗ nào?

Triệu Mẫn giơ tay tháo chiếc vòng đeo tai có đính hạt châu đeo đưa cho y. Gã hòa thượng thấy hạt ngọc trai trên chiếc vòng to bằng ngón tay út bèn nhìn kỹ lại hai người đánh giá thêm một lần nữa rồi nói:

- Được rồi, giúp người người giúp mình.

Y né qua một bên nhường Triệu Mẫn đỡ Trương Vô Kỵ đi vào. Nhà sư đó đưa hai người đi qua một đại điện và một gian phòng, đến bên cái chái phía đông nói:

- Hai người ở đây nhé.

Trong phòng chẳng đèn chẳng nến gì, tối om om, Triệu Mẫn đưa tay sờ thử trên giường chỉ độc một cái chiếu ngoài ra không có gì khác. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng người nói oang oang:

- Hác tứ đệ, ngươi đưa ai vào đó?

Nhà sư kia đáp:

- Hai người khách đến ngủ nhờ.

?Nói xong y liền hấp tấp đi ra cửa. Triệu Mẫn nói:

- Sư phó, xin ông bố thí cho hai bát cơm với một ít rau dưa.

Hòa thượng kia đáp:

- Người xuất gia ăn của bá tánh chứ không bố thí.

Y nói rồi lầm lũi đi thẳng. Triệu Mẫn hậm hực nói:

- Gã hòa thượng này thật khả ố. Vô Kỵ ca ca, chàng đói lắm phải không? Mình phải tìm xem có cách nào kiếm gì ăn mới được.

Đột nhiên trong sân có tiếng chân người, có đến bảy tám người đi vào, ánh lửa lấp loáng, cửa phòng mở ra, hai nhà sư giơ cao ngọn đuốc chiếu vào hai người. Trương Vô Kỵ còn đang kinh hoảng, nhìn ra thấy có cả thảy tám tăng nhân, kẻ cao người thấp kẻ thì mày rậm mắt trố, kẻ thì mặt bành bạnh đầy hoành nhục[1], không một người nào ra vẻ lương thiện. Một nhà sư già mặt mũi nhăn nheo nói:

- Các ngươi trên người còn bao nhiêu vàng bạc châu báu, mau đưa hết ra đây.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Để làm gì?

Nhà sư già cười nói:

- Hai vị thí chủ có duyên đến chốn này, đúng ngay lúc tiểu miếu sắp làm một đàn tràng lớn, lại cần tô tượng đúc chuông, trùng tu sơn môn. Hai vị trong người có vàng bạc châu báu thì đem ra bố thí. Nếu như không khứng đưa cho chúng tôi, đắc tội với bồ tát thì phiền lắm đấy nhé.

Triệu Mẫn giận dữ nói:

- Làm thế có khác gì ăn cướp hay sao?

Nhà sư già đáp:

- Không dám, không dám! Tám anh em chúng tốt giết người đốt nhà, vốn dĩ là cường đạo, gần đây bỏ dao đồ tể xuống là thành Phật ngay, chẳng biết làm gì bèn làm sư sãi. Hai vị thí chủ có duyên làm thân dê béo đến tận miệng chúng tôi, ôi, thật khiến cho người xuất gia chúng tôi lục căn[2] không sao còn thanh tĩnh cho nổi.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn kinh hãi không để đâu cho hết, đâu ngờ tám nhà sư này lại là giặc cướp giả trang, gã hòa thượng già này nói không cần giữ ý ắt là định giết hai người, sau khi thổ lộ thân thế sẽ ra tay không tha.

Một nhà sư khác cười nham hiểm:

- Nữ thí chủ không phải sợ, tám hòa thượng cường đạo chúng tôi đang cần một áp miếu phu nhân, cô xinh đẹp như thế, thật chẳng khác gì Quan Thế Âm bồ tát hạ phàm, Phật Như Lai nhìn thấy cũng còn động tâm. Hay quá, hay quá!

Triệu Mẫn lấy trong bọc ra bảy tám đỉnh vàng, một vòng hạt châu để lên trên bàn nói:

- Tài vật châu báu có tất cả bây nhiêu thôi. Anh em chúng tôi cũng là người trong võ lâm, mong các vị giữ nghĩa khí giang hồ.

Nhà sư già cười hỏi:

- Hai vị là người trong võ lâm, vậy thì quả là tốt lắm, không biết là môn hạ phái nào đó?

Triệu Mẫn đáp:

- Chúng tôi là đệ tử phái Thiếu Lâm.

Phái Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất trong võ lâm, nàng đoán chừng nếu tám người này nếu không xuất thân từ một bàng chi của Thiếu Lâm thì thân hữu cũng có người liên hệ với phái này. Nhà sư kia ngạc nhiên nhưng lập tức mắt lộ hung quang nói:

- Là đệ tử của Thiếu Lâm à? Thế thì thật là khéo, hai đứa trẻ ranh chúng bay chỉ nên trách mình đầu nhập lầm môn phái thôi.

Y giơ tay toan chộp vào cổ tay nàng. Triệu Mẫn vội rụt tay lại, gã sư già liền bắt hụt. Trương Vô Kỵ thấy tình thế trước mắt thật là nguy ngập, cả mình lẫn Triệu Mẫn hai người đều bị trọng thương, không cách nào chống cự, mấy năm qua chàng đã giao đấu với không biết bao nhiêu cao thủ thành danh trong võ lâm, chẳng lẽ hôm nay lại chết về tay tám tên cường đạo hạng ba hạng tư trên giang hồ? Dầu sao chăng nữa, không thể nào giương mắt nhìn Triệu Mẫn bị nhục liền nói:

- Mẫn muội, em trốn vào sau lưng anh, để anh thanh toán tám tên giặc cỏ này.

Triệu Mẫn là người bụng đầy mưu mẹo, lúc này cũng đành bó tay liền hỏi:

- Các ngươi là hạng người nào?

Lão già kia liền đáp:

- Bọn ta là bạn đồ của phái Thiếu Lâm bị đuổi ra khỏi chùa, gặp người của môn phái khác còn ra tay nể nang một chút, còn như gặp phải đệ tử Thiếu Lâm thì không thể tha được. Tiểu cô nương, vị huynh đệ này vốn dĩ muốn giữ cô làm áp miếu phu nhân, bây giờ biết cô là đệ tử Thiếu Lâm, bọn ta đành phải tiên gian hậu sát, không để ai sống sót cả.

Trương Vô Kỵ trầm giọng nói:

- Giỏi thật! Các ngươi là môn hạ của Viên Chân, phải không nào?

Nhà sư già kia ?Ồ? lên một tiếng nói:

- Thế thì lạ thật, làm sao ngươi biết?

Triệu Mẫn liền tiếp lời:

- Bọn ta đang lên chùa Thiếu Lâm đây để gặp Trần Hữu Lượng đại ca suy cử Viên Chân đại sư lên làm phương trượng.

Lão tăng kia liền nói:

- Thiện tai, thiện tai! Ngã Phật Như Lai, phổ độ chúng sinh.

Triệu Mẫn đáp:

- Đúng thế! Chúng mình phải đồng tâm hiệp lực để cùng làm cho xong việc thiện này.

Nàng vừa nói câu đó, cả tám nhà sư cùng cười ha hả. Thì ra tám tên hòa thượng đó vốn cùng một đảng với Viên Chân và Trần Hữu Lượng, do Trần Hữu Lượng dẫn nhập, xin làm môn hạ của Viên Chân. Mấy năm nay lòng mong muốn làm phương trượng của Viên Chân càng gấp gáp nên thu nhận nhân tài khắp nơi. Tuy nhiên chùa Thiếu Lâm giới luật nghiêm nhặt, mỗi khi thu nhận một người nào đều phải do người chấp chưởng giới luật giám tự tra xét kỹ càng xuất thân lai lịch chứ không phải Viên Chân muốn thu ai cũng được.

Do đó Trần Hữu Lượng mới hiến kế rằng mời gọi các hào kiệt giang hồ, cướp sông cướp biển bái sư ở bên ngoài chùa, tuy cũng là đệ tử của Viên Chân nhưng không vào ở trong chùa Thiếu Lâm, đợi khi thời cơ đến cùng đứng lên làm đại sự. Võ công của Viên Chân cao siêu biết chừng nào, chỉ cần ra tay đều khiến cho quần hào giang hồ kính phục. Những người đó vốn dĩ ngưỡng mộ uy vọng danh môn chính phái của phái Thiếu Lâm, lại trông thấy thần công tuyệt kỹ của Viên Chân nên ai nấy đều bằng lòng bái sư.

Một số nhỏ không chịu phản bội môn hộ liền bị Viên Chân ra tay trừ ngay, thành ra gian mưu của y tuy tính toán đã lâu nhưng không bị bại lộ. Nhà sư già kia nói ?Ngã Phật Như Lai, Phổ Độ Chúng Sinh? chính là ám hiệu khi gặp để nhận nhau, nếu người cùng trong đảng sẽ đáp là ?Hoa Khai Kiến Phật, Tâm Tức Linh Sơn? là biết liền. Triệu Mẫn vừa nghe nhà sư già kia mở miệng nhận là đệ tử của Viên Chân, liền suy ra Viên Chân chắc có âm mưu lên làm phương trượng thế nhưng cái ám hiệu của họ định với nhau thì làm sao biết được?

Một nhà sư lùn mập liền hỏi:

- Phú đại ca, con nhãi này nói đến chuyện suy cử sư phụ chúng ta lên làm phương trượng chùa Thiếu Lâm, không biết cái tin tức đó từ đâu ra? Sự việc trọng đại như thế không thể không tra hỏi cho rõ ràng.

Tám gã này tuy đã cạo đầu làm sư nhưng vẫn gọi nhau bằng đại ca, nhị ca chưa bỏ thói quen từ thuở còn là lục lâm. Trương Vô Kỵ vừa nghe thấy tiếng cười của bọn chúng biết là không xong, có điều mới bị trong thương chân khí không sao ngưng tụ, chỉ đành cố gắng thu nhiếp tâm thần, thấy hơi nóng bốc lên bừng bừng bên đông một mảng, bên tây một khối nhưng không sao vận chuyển vào kinh mạch được.

Nhà sư già kia giơ năm ngón tay như vuốt chim vồ tới Triệu Mẫn, nàng không có cách nào chống đỡ, chỉ đành co người xuống gầm giường còn Trương Vô Kỵ nóng ruột nhưng không cách nào khác hơn là ngồi xếp bằng vận công, chỉ mong khôi phục được hai, ba thành công lực đủ đế đánh bại tám tên ác tặc này.

Gã sư lùn mập thấy chàng còn ra bộ ra tịch ngồi hành công đả tọa, giận dữ quát lớn:

- Thằng khốn này không biết sống chết là gì, để ông cho mày về chầu tây phương trước đã, đỡ vướng chân vướng tay.

Nói xong tay phải vung lên, xương cốt kêu lốp cốp, nghe vù một tiếng đánh luôn một quyền ngay ngực Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn thấy tình hình nguy cấp, hoảng hốt kêu lên. Chỉ thấy tăng nhân đó đấm ra xong, tay phải mềm nhũn thõng xuống, hai mắt trừng trừng, đứng như trời trồng. Nhà sư già kinh hãi giơ tay đẩy vào y, gã sư lùn mập lập tức ngã xuống, thì ra y đã chết rồi. Tất cả các nhà sư khác vừa sợ, vừa tức, nhao nhao hò hét:

- Thằng nhãi này có yêu pháp, có tà thuật.

Thì ra gã sư mập vận kình vào cánh tay, đấm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ, trúng ngay huyệt Đàn Trung. Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ dùng để đánh người thì chưa đủ nhưng hộ thể thì lại có thừa, không những trả ngược lại quyền kình của đối phương mà còn nhân cú đánh của địch, dẫn động Cửu Dương chân khí trong người, tăng thêm một luồng kình lực nữa nên gã sư mập kia lập tức chết ngay.

Gã sư già đoán rằng trên ngực Trương Vô Kỵ có dấu mũi tên hay món gì nhọn sắc tẩm độc khiến cho gã kia bị trúng phải nên lập tức xuất chưởng đánh vào tay phải lộ ra ngoài áo của chàng, định rằng đánh gãy hai cánh tay trước rồi sẽ từ từ thanh toán sau. Chưởng lực cương mãnh đó trúng tay Trương Vô Kỵ, khích động Cửu Dương chân khí trong người phản kích ra, gã sư già bị bắn văng trở lại, thế mạnh như tên bắn, nghe loảng xoảng một tiếng lớn đã vỡ tung cửa sổ ra ngoài, đụng phải một cây hòe lớn ngoài sân đầu vỡ nát chết tươi.

Bọn sư còn lại kêu réo om sòm, một tên nhắm ngay huyệt Thái Dương đấm một quyền, còn một tên khác dùng thế Song Long Sang Châu giơ hai ngón tay móc mắt, một tên nữa giơ chân đá luôn vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cúi đầu tránh đôi mắt, để cho y đâm vào trán, chỉ nghe bình bình, ối ối, hự hự mấy tiếng lớn, ba nhà sư trước sau bị chấn động chết cả. Gã thứ ba giơ chân đá, lực đạo hết sức mãnh liệt, chân y cũng bị gãy rời. Nơi đan điền Trương Vô Kỵ bị trúng cú đá, chân khí bùng lên, cả một nửa bên phải mạch lạc đều quán thông, trong bụng mừng thầm: ?Tiếc thay tên ác tăng này chết sớm quá, giá như y đá thêm vào bụng mình mấy cái nữa, giúp mình khôi phục công lực mau hơn. Xem ra ta bị thương tuy có nặng thật nhưng việc khôi phục không lấy gì làm khó, chỉ cần nghỉ ngơi mười ngày nửa tháng là sẽ trở lại như xưa?.

Tám nhà sư đã chết năm, ba tên còn lại sợ đến hồn vía lên mây, vội vàng chen nhau chạy ra cửa. Chạy ra đến ngoài không thấy Trương Vô Kỵ đuổi theo chúng mới đứng lại bàn tán. Một gã nói:

- Gã tiểu tử này chắc có tà pháp.

Một gã khác nói:

- Ta xem không phải tà pháp đâu mà là nội công y ghê gớm lắm, phản kích lại giết người.

Tên thứ ba nói:

- Đúng thế, bọn mình phải tìm cách báo thủ cho các anh em kia.

Ba tên bàn bạc một hồi, một tên bỗng nói:

- Thằng nhãi đó chắc là bị thương nặng lắm, chứ sao không đuổi theo tụi mình ra ngoài đây?

Một tên bèn vui mừng nói:

- Đúng lắm, chắc nó không đi lại được, năm anh em kia dùng quyền đánh y, y mới dùng nội lực phản kích được, bọn mình dùng binh khí chém y đâm y, chẳng lẽ nó có mình đồng da sắt hay sao?

Ba tăng nhân tính toán xong, một tên cầm ngọn giáo, một têm cầm đao, tên kia cầm kiếm đi vào trong nhà. Chỉ thấy căn phòng phía đông lặng như tờ không một tiếng động. Ba gã sư tới đập gãy một cánh cửa sổ nhìn vào thấy thanh niên nọ vẫn ngồi xếp bằng tĩnh tọa, trông ra vẻ thật là mỏi mệt, thân hình lắc lư dường như có thể ngã gục xuống bất cứ lúc nào. Thiếu nữ thì cầm một chiếc khăn tay, chấm những giọt mồ hôi trên trán người con trai. Ba người đưa mắt cho nhau nhưng không ai dám xông vào. Một nhà sư quát lên:

- Thằng nhãi thối tha kia, có giỏi thì ra đây đấu với lão gia ba trăm hiệp xem nào.

Một người khác lại chửi:

- Tiểu tử này có tài cán gì đâu, chỉ có tài dùng yêu pháp hại người. Cái trò đó là trò hạ lưu vô sỉ hạng ba hạng tư, thật là đê tiện.

Ba tên sư không thấy Trương Vô Kỵ trả lời, cũng chẳng xuống giường, nên mỗi lúc một thêm can đảm hơn, lời lẽ chửi bới càng lúc càng dơ bẩn, trong đám đệ tử Phật môn chắc chẳng một ai hơn được ba vị đại hòa thượng này.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe ba gã kia mồm năm miệng mười nhưng không thấy gì tức giận, vì hai người không sợ họ quay lại báo thù, mà lại sợ họ bỏ đi mất. Nơi này không xa chùa Thiếu Lâm là bao nhiêu, nếu như tam tăng đi báo cho Thành Côn hay thì mọi việc kể như xong. Vết thương của Trương Vô Kỵ phải hơn mười ngày nữa mới khỏi, không cần phải đích thân Thành Côn đến nơi mà chỉ cần một hai cao thủ hạng nhì, chẳng hạn như Trần Hữu Lượng thì cũng đã không cách gì đối phó nổi. Thành thử họ thấy ba gã ác tăng kia quay lại, trong lòng lại mừng thầm. Trương Vô Kỵ bị liên tiếp năm nhà sư tập kích, Cửu Dương chân khí trong cơ thể đã có chỗ bắt đầu ngưng tụ, tuy chưa có thể phát kình đả thương địch thủ, nhưng trong bụng cũng không còn kinh hoảng như trước nữa.

Đột nhiên nghe bình một tiếng, một nhà sư đã giơ chân đá tung cửa phòng, xông vào, ánh sáng xanh lấp loáng, chiếc tua đỏ rung động, trong tay y cầm một cái giáo dài. Triệu Mẫn kêu lên:

- Chao ôi!

Nàng vội vàng đưa chiếc dao găm cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ lắc đầu không cầm, trong bụng kêu khổ thầm: ?Tay ta không còn một chút kình lực nào, dẫu có binh khí, làm sao chiến đấu được? Cái thân thể máu thịt của ta, làm sao có thể chịu được với binh khí đây??. Chưa kịp suy nghĩ, địch nhân đã xoáy đầu thương, chiếc ngù tung bay, mũi giáo đâm thẳng vào ngực chàng. Mũi thương đó đến thật nhanh nhưng ý nghĩ của Triệu Mẫn còn nhanh hơn, nàng vội vàng thò tay vào bọc Trương Vô Kỵ lấy ra một chiếc thánh hỏa lệnh, nhắm đúng ngay chỗ mâu đâm tới, chặn ngay trên ngực Trương Vô Kỵ, nghe keng một tiếng, mũi giáo trúng ngay vào lệnh bài. Ỷ Thiên kiếm sắc bén là thế mà cũng còn không chặt đứt được thánh hỏa lệnh nên chiếc giáo đâm thì có ăn thua gì. Cái đâm đó khích động Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ, bật ngược trở lại, chỉ nghe ?A? một tiếng thảm thiết, cán thương đã đâm vào ngực gã tăng nhân.

Nhà sư đó chưa ngã xuống thì gã thứ hai đã múa đơn đao chém xuống đầu Trương Vô Kỵ. Triệu Mẫn sợ một miếng lệnh bài không đủ sức chặn sự sắc bén của đơn đao, hai tay mỗi tay cầm một chiếc thánh hỏa lệnh, đỡ ngay trên đầu Trương Vô Kỵ. Cái đỡ đó quả thật chỉ trong đường tơ kẽ tóc, lại nghe keng một tiếng nữa, đơn đao bật trở về, sống đao đập vỡ trán nhà sư nhưng ngón tay út bên trái của Triệu Mẫn cũng bị đao cắt mất một mẩu, trong cơn nguy cấp nên chưa cảm thấy đau.

Tăng nhân thứ ba cầm kiếm xông vào đến cửa, thấy hai tên đồng bọn đã chết tươi, y hoảng hốt kêu toáng lên xoay mình chạy ra ngoài. Triệu Mẫn kêu lên:

- Đừng để y chạy thoát.

Nàng cầm một chiếc thánh hỏa lệnh theo cửa sổ ném theo, tuy rất chính xác nhưng không có lực nên chưa đến được gã kia thì đã rơi bịch xuống đất. Trương Vô Kỵ ôm lấy nàng kêu lên:

- Ném nữa đi.

Chàng đem hết chân khí ngưng tụ được trên ngực truyền vào sau lưng nàng, chiếc thánh hỏa lệnh bên tay trái của Triệu Mẫn lại nhắm nhà sư ném theo, gã kia chỉ chạy cần chạy thêm hai bước nữa là có thể ẩn sau bức tường nhưng chiếc lệnh bài bay tới thật nhanh, trúng giữa lưng y, máu mồm phun ra gục xuống chết ngay.

Thánh hỏa lệnh vừa rời khỏi tay, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cũng hôn mê bất tỉnh, ôm nhau ngã gục xuống khỏi giường. Lúc này trong phòng có sáu người chết, ngoài sân lại thêm hai tử thi, Trương Triệu hai người nằm gục trong vũng máu. Hoang sơn tiểu miếu, lãnh nguyệt thanh phong, chỉ giây lát im lìm không một tiếng động.

Qua một lúc lâu, Triệu Mẫn tỉnh dậy trước, mơ mơ màng màng giơ tay sờ mũi Trương Vô Kỵ, thấy chàng hô hấp tuy yếu nhưng dài và bình ổn. Nàng gắng gượng đứng lên nhưng không có sức đỡ chàng lên giường, đành cố nâng đầu tình lang gác lên một cái xác chết. Nàng ngồi trong đám người chết thở hổn hển. Lại thêm một hồi nữa, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, gọi khẽ:

- Mẫn muội, em ... em ở đâu?

Triệu Mẫn nở một nụ cười, ánh trăng lạnh chiếu qua khung cửa sổ, hai người nhìn thấy nhau mặt ai cũng đầy vết máu, trông thật ghê rợn, thế nhưng vì chết đi sống lại nên cảm thấy hết sức êm ái ngọt ngào, giang hai tay ôm chặt lấy nhau.

Trong cơn kịch chiến đó, giết được bảy nhà sư đầu tiên Trương Vô Kỵ không tốn chút hơi sức nào, chỉ mượn sức đánh sức, đã không hao hụt mà ngược lại còn có ích, thế nhưng lần cuối cùng dùng sức ném thánh hỏa lệnh giết tên ác tăng, nguyên khí hai người bị mất hết. Lúc này họ không còn sức để cử động, chỉ đành nằm giữa đống người chết chờ cho khí lực phục hồi. Triệu Mẫn băng ngón tay trái bị thương, mơ mơ màng màng cũng ngủ thiếp đi.

Mãi đến giữa trưa hôm sau hai người mới trước sau tỉnh dậy. Trương Vô Kỵ đả tọa vận khí, điều tức đến hơn nửa giờ, tinh thần phần chấn, cố gắng đứng lên thấy bụng đói đến sôi lên lục cục, mò xuống dưới bếp, thấy một nồi cơm đến quá nửa đã thành than, còn một nửa thì khê nồng cháy khét, liền xới lấy một bát lớn đem lên phòng. Triệu Mẫn cười nói:

- Hai đứa mình hôm nay ăn uống càn bậy thế này, chỉ nên trời biết, đất biết, chàng biết thiếp biết, chớ nên để người khác biết nhé.

Hai người nhìn nhau cười, thò tay bốc cơm cháy ăn, thấy mùi vị sao thật ngon lành, xem chừng còn hơn các món sơn hào hải vị. Bát cơm chưa ăn xong, bỗng nghe từ xa có tiếng chân ngựa đạp trên đá núi vọng tới.

Choang một tiếng, chiếc bát cơm cháy rơi xuống đất vỡ tan. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người bàng hoàng nhìn nhau, tim đập thình thình, nghe tiếng thấy cả thảy hai con ngựa, đến trước miếu liền ngừng lại. Kế đó có bốn tiếng vòng kêu, người nào đó đã gõ cửa, ngừng lại một lát, rồi lại gõ thêm bốn tiếng. Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

- Làm sao bây giờ?

Chỉ thấy bên ngoài có tiếng người kêu réo:

- Thượng Quan tam ca, ta là Tần lão ngũ đây!

Triệu Mẫn đáp:

- Bọn họ thể nào cũng phá cửa vào, mình giả vờ chết rồi tùy cơ ứng biến.

Hai người nằm phục trên đám người chết, úp mặt xuống. Vừa mới nằm xong, bỗng nghe bình một tiếng lớn, cửa miếu đã bị phá tung ra, cứ theo thế huých vào cửa thì sức cánh tay của người vừa đến không phải là yếu. Triệu Mẫn bỗng nghĩ ra một kế nói:

- Chàng phục tại bên cửa, chặn đường đi của hai gã này.

Trương Vô Kỵ gật đầu, đến nằm bên ngạch cửa. Bỗng nghe thấy mấy tiếng kêu kinh hoảng, xoẹt xoẹt hai tiếng, hai kẻ tiến vào miếu đã rút binh khí cầm tay, hẳn là họ đã thấy mấy cái xác nơi sân. Một người nói khẽ:

- Cẩn thận, phòng bị địch nhân ám toán.

Lại nghe tiếng một người khác kêu lên:

- Này các bạn, thập thò ẩn náu đâu có phải là kẻ anh hùng. Nếu có giỏi thì ra đây cùng lão tử một trận tử chiến.

Người đó âm thanh oang oang, trung khí sung túc, chắc là đại lực sĩ vừa phá cửa hồi nãy. Y liên tiếp kêu mấy lần, chung quanh không thấy có tiếng trả lời bèn nói:

- Bọn giặc chắc đi xa rồi.

Lại nghe tiếng một người lập cập nói:

- Mình xem xét bốn bề cho kỹ, đừng để trúng ngụy kế của địch nhân.

Gã Tần lão ngũ kia nói:

- Thọ lão đệ, ngươi tra xét bên phía đông, ta tra xét bên phía tây.

Gã họ Thọ kia dường như trong bụng sợ hãi nói:

- Chỉ sợ bên địch đông người, mình nên ở chung một chỗ cho khỏi lẻ loi.

Tần lão ngũ chưa kịp quyết định, gã họ Thọ đột nhiêu ?Ồ? lên một tiếng, chỉ vào căn phòng phía đông nói:

- Trong kia ... trong kia có người chết kìa.

Hai người chạy đến bên cửa, chỉ thấy trong căn phòng nhỏ, bảy tám người nằm chết ngang dọc. Tần lão ngũ nói:

- Tất cả ... tất cả tám anh em trong miếu này sao chết cả. Không biết ai là người hạ độc thủ?

Tên họ Thọ nói:

- Tần ngũ ca, mình nên cấp tốc trở về chùa, bẩm ... bẩm ... lại cho sư phụ hay.

Tần lão ngũ trầm ngâm rồi nói:

- Sư phụ dặn dò chúng ta, phải mau mau đưa thiếp đi mời để kịp mở Đồ Sư Anh Hùng Hội vào dịp Tết Đoan Ngọ, nếu như làm lỡ việc thì tội không phải là nhỏ.

Trương Vô Kỵ nghe thấy mấy tiếng Đồ Sư Anh Hùng Hội, hơi suy nghĩ, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa mừng rỡ, lại băn khoăn, giận dữ, trăm mối trong lòng nghĩ thầm: ?Sư phụ y sai gửi thiếp mời, mở cái gì Đồ Sư Anh Hùng Hội là để chiêu tập anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người giết nghĩa phụ ta. Xem ra như thế, trước kỳ Tết Đoan Ngọ này, tính mạng nghĩa phụ không sao cả. Ta không bảo vệ cho nghĩa phụ được chu toàn, để lão nhân gia rơi vào tay kẻ gian để chịu chiết nhục, thật còn gì bất hiếu bất nghĩa cho bằng?.

Chàng càng nghĩ càng tức, hận không thể lập tức giết chết hai kẻ gian này, nhưng lại sợ bọn chúng bỏ chạy, mà mình thì không có sức đuổi theo, đành phải đợi cho chúng tiến vào phòng, chặn lối đi, cứ y như cũ dùng Cửu Dương chân khí phản kích giết kẻ địch. Ngờ đâu hai người nọ thấy trong phòng đầy xác chết, không muốn bước vào, chỉ đứng ngoài xa bàn bạc.

Gã họ Thọ nói:

- Chuyện lớn như thế này phải sớm bẩm lại với sư phụ là hơn.

Tần lão ngũ đáp:

- Thế cũng được, hai đứa mình chia ra làm, ta đi gửi thiếp, ngươi về chùa bẩm lại cho sư phụ.

Gã họ Thọ lại sợ đi đường gặp cường địch, trù trừ chưa trả lời. Tần lão ngũ bực mình nói:

- Thế thì để cho ngươi chọn, nếu ngươi thích đi đưa thiếp thì cứ việc đi.

Gã họ Thọ lại trầm ngâm, sau nghĩ lại thấy về chùa xem chừng an toàn hơn nên nói:

- Thôi cứ như Tần ngũ ca sắp đặt, để đệ về chùa bẩm báo cũng được.

Hai người lập tức quay ra. Triệu Mẫn liền cử động, rên lên mấy tiếng. Tần Thọ hai người kinh hãi, quay đầu lại, thấy Triệu Mẫn đang nhúc nhích, nhìn kỹ lại hóa ra là một cô gái. Tần lão ngũ lạ lùng hỏi:

- Cô gái này là ai thế nhỉ?

Y đi vào phòng. Gã họ Thọ tuy nhát gan nhưng thấy đó chỉ là một cô gái, lại đang bị thương nặng sắp chết nên không sợ hãi, cũng theo sau. Tần lão ngũ giơ tay nắm lấy vai Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ liền ho lên một tiếng, ngồi dậy xếp bằng vận khí, mắt nửa thức nửa ngủ. Tần, Thọ thấy chàng đột nhiên ngồi dậy, trên mặt đầy vết máu, trông thật ghê rợn nên hai đứa cùng kinh hoảng. Gã họ Thọ kêu lên:

- Hỏng rồi, đây là quỉ nhập tràng. Con quỉ ... quỉ ... này âm hồn không tan, Tần ngũ ca nên ... nên cẩn thận.

Nói rồi y vội vàng nhảy lên giường. Tần lão ngũ quát lên:

- Quỉ nhập tràng tác quái à! Họ Tần này đâu có sợ ngươi.

Y vung đao chém thẳng xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ trong tay đã cầm sẵn hai miếng thánh hỏa lệnh, lập tức giơ lên đỡ trên đầu, nghe keng một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng thánh hỏa lệnh, bật ngược trở lại, trúng đầu Tần lão ngũ vỡ nát, chết ngay lập tức.

Tên họ Thọ tay cầm một thanh quỉ đầu đao, run bần bật, cũng muốn chém vào mình Trương Vô Kỵ nhưng nào có dám? Trương Vô Kỵ chỉ chờ y chém xuống là sẽ dùng Cửu Dương chân khí phản kích lại. Triệu Mẫn thấy người này hồi lâu không động đậy, nóng ruột: ?Tên quỉ nhát gan này hồn vía lên mây, không dám động thủ, nếu như y quẳng đao bỏ chạy thì mình đâu có làm gì được y?. Chỉ thấy hai hàm răng y đánh vào nhau lốp cốp, đột nhiên nghe xoảng một tiếng, thanh quỉ đầu đao đã rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ nói:

- Ngươi có giỏi thì chém ta một đao, đấm ta một đấm xem nào.

Người kia đáp:

- Tiểu ... tiểu nhân không phải ... không dám cùng lão gia động thủ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Thế thì ngươi đá ta một cái xem nào.

Người kia nói:

- Cái đó ... cái đó tiểu ... tiểu nhân lại càng không dám.

Trương Vô Kỵ giận nói:

- Nếu như ngươi bị thịt như thế thì chết càng thảm thiết hơn, mau chém ta mấy đao đi nào. Nếu ta thấy thủ kình ngươi không đến nỗi tệ, không chừng tha mạng cho ngươi đó.

Người kia vội đáp:

- Dạ, dạ.

Y cúi xuống nhặt thanh đao lên nhưng liếc mắt thấy Tần lão ngũ đầu nát ngướu, nghĩ thầm con quỉ nhập tràng này pháp lực cao cường, chi bằng cố sức van xin may ra y tha mạng cho, vội vàng quì xuống, khấu đầu nói:

- Lão gia tha mạng cho! Người chết oan, không ... không liên quan gì đến tiểu nhân, người đừng bắt ... tiểu nhân ... đòi mạng.

Triệu Mẫn thấy y tưởng Trương Vô Kỵ đã chết rồi, trong bụng tức lắm, hừ một tiếng nói:

- Trong võ lâm sao lại có hạng người chó chết vô tích sự đến như ngươi là sao?

Người kia đáp:

- Vâng, vâng! Tiểu nhân vô tích sự, vô tích sự, quả đúng là đồ chó chết, đồ chó chết.

Y không dám ra tay, Trương Vô Kỵ cũng đành chịu không thể làm gì được, đột nhiên nghĩ ra một cách quát lên:

- Lại đây.

Gã kia vội đáp:

- Vâng.

Y tiến lên mấy bước, rồi lại quì xuống. Trương Vô Kỵ giơ hai tay ra, giơ hai ngón tay cái ấn vào hai mắt y, thét lớn:

- Ta móc hai mắt ngươi trước đã.

Người kia sợ hãi quá, không nghĩ ngợi gì thêm, vội vàng giơ lên gạt tay Trương Vô Kỵ ra. Trương Vô Kỵ chỉ đợi y đẩy tay mình, lập tức mượn ngay sức của y, vòng xuống điểm luôn vào hai huyệt Thần Phong và Bộ Lang dưới vú y.

Người kia toàn thân tê tái, ngã lăn quay ra, lớn tiếng van xin:

- Lão gia tha mạng cho, lão gia tha mạng cho. Thì ra lão gia không phải quỉ nhập tràng, thế thì hay quá, càng ... càng nên tha mạng cho tiểu nhân.

Lúc này y nằm gục ngay trước Trương Vô Kỵ nên nhìn rõ đối phương là người còn sống. Triệu Mẫn biết rằng Trương Vô Kỵ vừa mới mượn sức điểm huyệt, nhưng lực mượn được rất là yếu, chỉ khiến cho y tạm thời bị tê chân tay nhưng vẫn còn hành động được, chưa đến nửa giờ sau, các huyệt đạo bị phong sẽ được giải khai, khi đó sẽ lại càng phiền nhiễu. Nàng còn nhiều điều muốn tra vấn y cho minh bạch nên không muốn giết y ngay nên nói:

- Ngươi đã bị vị gia đài này điểm trúng tử huyệt, ngươi thử hít một hơi xem xương sườn bên trái có ngâm ngẩm đau không?

Người y làm theo hít một cái, quả nhiên thấy mấy rẻ xương sườn bên trái hơi đau, thực ra đó chỉ là hiện tượng khí huyết bị bế tắc mà sinh ra nhưng y đâu có biết nên vội hốt hoảng van xin. Triệu Mẫn nói:

- Muốn tha mạng cho ngươi ư? Thế thì phải dùng kim châm giải các tử huyệt mới được. Quả thật là mất công quá đỗi.

Gã kia lập tức rập đầu nói:

- Dù sao chăng nữa thì cô nương cũng xin ra tay giúp cho một phen. Cô nương cứu mạng cho tiểu nhân, dù có phải làm trâu làm ngựa, cô nương sai bảo gì cũng được.

Triệu Mẫn cười thầm trong bụng nói:

- Nhân vật giang hồ như ngươi, thật ta mới thấy lần đầu. Thôi được rồi, ngươi đi kiếm một cục gạch đem về đây cho ta.

Người kia vội vàng đáp:

- Vâng, vâng.

Y tập tễnh đi ra ngoài kiếm một cục gạch. Trương Vô Kỵ hỏi nhỏ:

- Em lấy cục gạch làm gì thế?

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Cứ chờ xem sẽ thấy nàng tiên này làm phép lạ.

Gã kia kiếm được một cục gạch cung kính đem vào phòng. Triệu Mẫn rút trên đầu ra một cành kim thoa, để mũi châm đúng ngay huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai y rồi bảo:

- Ta dùng kim châm giải khai kinh mạch nửa người trên cho ngươi trước cho khí của tử huyệt khỏi bốc lên óc thì hết cách chữa. Nhưng không biết vị gia đài kia có bằng lòng tha chết cho ngươi không?

Gã đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ đầy vẻ van lơn cầu khẩn. Trương Vô Kỵ liền gật đầu. Gã kia mừng quá nói:

- Vị đại gia kia bằng lòng rồi, xin cô nương mau mau ra tay giúp cho.

Triệu Mẫn nói:

- Ồ, ngươi có sợ đau không?

Người kia nói:

- Tiểu nhân chỉ sợ chết chứ đâu có sợ đau.

Triệu Mẫn nói:

- Thế thì được! Ngươi cầm hòn gạch đập vào đuôi kim thoa.

Người kia nghĩ kim thoa đâm vào vai cũng chỉ là bị thương ngoài thịt da, nên không nhăn nhó gì, cầm viên gạch lên đập xuống. Viên gạch đập xuống, chiếc trâm liền cắm vào huyệt Khuyết Bồn, y không cảm thấy đau mà lại thấy khoan khoái, đối với Triệu Mẫn càng thêm tin tưởng, luôn mồm cảm ơn rối rít. Triệu Mẫn lại bảo y rút kim ra, để vào các huyện Hồn Môn, Phách Hộ, Thiên Trụ, Khố Phòng ... bảy nơi huyệt đạo châm vào. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Được rồi! Được rồi!

Chàng đứng lên, nghĩ thầm người này nếu những huyệt đạo này đã bị châm vào, nếu như đào tẩu khỏi miếu, cố sức chạy cho nhanh, những huyệt bị điểm sẽ lập tức phát tác khiến y lăn ra chết ngay.

Triệu Mẫn nói:

- Ngươi đi kiếm hai chậu nước cho chúng ta rửa mặt rồi đi nấu cơm. Nếu ngươi muốn thì cứ việc bỏ thuốc độc vào cơm canh, thế là cả ba người mình cùng chết.

Người kia vội nói:

- Tiểu nhân đâu dám, tiểu nhân đâu dám.

Thế là tự nhiên Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn có được một người đầy tớ chăm lo săn sóc cho mình. Triệu Mẫn hỏi tên họ mới hay y họ Thọ, tên Nam Sơn, lại có cái ngoại hiệu Vạn Thọ Vô Cương, là cái tên bạn bè giang hồ chế riễu đặt cho chỉ vì y đụng chuyện là rụt đầu rụt cổ nên sẽ không bao giờ bị người ta giết cả. Y theo một đám lục lâm hảo hán xin làm môn hạ Viên Chân, nhưng Viên Chân thấy tư chất y kém cỏi quá, tính tình lại nhút nhát, chỉ sai y làm những việc vặt chưa từng truyền thụ y chút võ công nào. Thọ Nam Sơn bị điểm tám nơi huyệt đạo nhưng sức lực không mất, bị Triệu Mẫn sai hết việc nọ đến việc kia, thực là chăm chỉ ngoan ngoãn. Y đem chín cái xác ra vườn sau đào huyệt chôn cất, xách nước rửa sạch các vết máu trong miếu. Khéo làm sao Thọ Nam Sơn tuy võ công chẳng đâu vào đâu nhưng tài nấu nướng thì thuộc loại hạng nhất, nấu mấy món ăn, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ăn khen lấy khen để.

Sau khi mọi việc đã đâu vào đấy, Trương Triệu hai người mới tra hỏi tình hình Đồ Sư Anh Hùng Hội ra thế nào. Thọ Nam Sơn không dám dấu diếm, nhưng vì mọi người coi y chẳng vào đâu nên nhiều việc không cho y hay. Y chỉ biết Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm ủy thác cho Viên Chân chủ trì đại hội, Không Văn và Không Trí đứng tên gửi thiếp mời anh hùng hảo hán các môn phái, các bang hội đến Tết Đoan Ngọ tới chùa Thiếu Lâm có việc quan trọng cần thương lượng.

Trương Vô Kỵ cầm các anh hùng thiếp lên coi, thấy người được mời là Phù Trần Tử, Cổ Tùng Tử, Qui Tạng Tử ... các kiếm khách phái Điểm Thương thành danh đã lâu nhưng ẩn cư nơi Điền Nam[3], xưa nay không lai vãng với nhân sĩ võ lâm Trung Nguyên. Đến nay ngay cả phái Điểm Thương mà chùa Thiếu Lâm cũng mời đủ biết kỳ đại hội này khách khứa rất đông, cực kỳ qui mô. Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm, lại chính Không Văn, Không Trí ra mặt đứng tên mời, hẳn người nhận được thiếp dù có việc gì quan trọng đến đâu cũng phải gác qua một bên để đi phó hội.

Trương Vô Kỵ thấy trên tấm thiệp mời chỉ có vài chữ viết là: ?Kính mời đến tiết Đoan Dương tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, để cùng anh hùng thiên hạ uống chén rượu mừng? nhưng không thấy hai chữ ?Đồ Sư? liền hỏi:

- Sao Tần lão ngũ lại gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội là sao?

Thọ Nam Sơn mặt dương dương nói:

- Trương gia không biết chứ sư phụ chúng tôi bắt được một nhân vật danh tiếng lừng lẫy, tên là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Phái Thiếu Lâm muốn lần này được nở mày nở mặt với tất cả anh hùng thiên hạ, trước mặt mọi người đem Kim Mao Sư Vương ra giết nên mới mở đại hội này, thành thử mới gọi là Đồ Sư Anh Hùng Hội.

Trương Vô Kỵ cố nén giận hỏi thêm:

- Thế Kim Mao Sư Vương là người thế nào, ngươi đã gặp bao giờ chưa? Sư phụ ngươi là thế nào mà bắt được? Người đó hiện nay nhốt ở đâu?

Thọ Nam Sơn đáp:

- Gã Kim Mao Sư Vương ấy ư, hà hà, quả thật ghê gớm hết chỗ nói, cao phải đến gấp đôi tiểu nhân, bắp tay xem ra còn to hơn đùi tiểu nhân nữa, chẳng nói gì khác, đôi mắt sáng quắc nhìn vào ai là cũng đủ hồn vía lên mây, y chẳng phải ra tay, cũng đã lạy lục xin tha rồi ...

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đưa mắt nhìn nhau, gã vẫn tiếp tục:

- Sư phụ tôi đấu với y bảy ngày bảy đêm liền, không phân thắng bại, sau cùng thầy tôi giận quá, sử dụng môn võ uy chấn thiên hạ là Cầm Long Phục Hổ Công mới thu phục được y. Hiện nay Kim Mao Sư Vương bị nhốt trong một cái lồng sắt thật lớn tại Đại Hùng Bảo Điện trong chùa, người y bị xích bằng bảy tám sợi dây xích đúc bằng thép ròng...

Trương Vô Kỵ càng nghe càng bực, quát lên:

- Ta hỏi gì cứ thực mà nói, nếu còn nói năng lếu láo thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đó. Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hai mắt đã mù rồi, làm gì có chuyện đôi mắt sáng quắc?

Thọ Nam Sơn nói phét bị bắt quả tang vội nói:

- Vâng, vâng! Chắc có lẽ tiểu nhân nhìn lầm người.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Thế ngươi có thực đã trông thấy lão nhân gia hay không? Tướng mạo Tạ đại hiệp thế nào ngươi nói cho ta biết.

Thọ Nam Sơn quả thực chưa từng thấy Tạ Tốn bao giờ, biết rằng nếu nói láo nữa, không khỏi nguy đến tính mạng vội đáp:

- Tiểu nhân không dám dấu, kỳ thực chỉ mới nghe các vị sư huynh nói lại thôi.

Trương Vô Kỵ muốn tra hỏi cho rõ nơi Tạ Tốn bị nhốt, nhưng gặng qua gặng lại, Thọ Nam Sơn quả thực không biết, có lẽ việc này cơ mật đại sự, những kẻ tép riu như y không thể nào được can dự vào nên chàng cũng đành chịu. Cũng may là Tết Đoan Dương còn đến hơn hai tháng nữa, thời giờ còn dài, đợi cho thương thế khỏi hẳn rồi tìm cách cứu sau, không có gì phải vội vã.

Ba người ở tại Trung Nhạc Thần Miếu mấy ngày, không có chuyện gì xảy ra, chùa Thiếu Lâm cũng không phái ai đến liên lạc. Đến ngày thứ tám, vết thương của Triệu Mẫn cũng đã đỡ đến bảy tám phần, còn Trương Vô Kỵ thì chân khí trong người càng lúc càng thông, chân tay dần dần đã có sức, nếu như địch nhân có kéo đến, muốn đào tẩu cũng không phải khó khăn gì.

Thọ Nam Sơn tận tâm kiệt lực phục thị hai người, không dám có ý gì khác. Triệu Mẫn cười nói:

- Vạn Thọ Vô Cương, ngươi học võ thì chẳng bằng ai nhưng làm quản gia thì thật là nhân tài hạng nhất.

Thọ Nam Sơn cười gượng đáp:

- Cô nương nói phải lắm.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn ngày ngày được ăn những món Thọ Nam Sơn hết tâm hết sức nấu cho ăn, Trung Nhạc Thần Miếu lúc nào cũng mùi thơm nức mũi. Lại thêm mươi ngày nữa, hai người thể lực hoàn toàn hồi phục, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn liền bàn tính làm sao cứu được Tạ Tốn.

Triệu Mẫn nói:

- Đúng ra cách hay nhất là điểm vào tử huyệt của Vạn Thọ Vô Cương, sai y quay về chùa Thiếu Lâm thăm dò tình hình. Thế nhưng gã này lại quá ư là vô tích sự, xem ra dễ bị lộ lắm, đâm ra hỏng cả đại sự. Chi bằng chúng mình đi tới chân núi Thiếu Thất rồi tùy cơ mà hành sự. Có điều mình phải giả trang mới được.

Trương Vô Kỵ nói:

- Giả làm gì bây giờ? Cạo trọc đầu làm hòa thượng, ni cô chăng?

Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, sẵng giọng:

- Gớm, chàng thật khéo tính toán. Một tiểu hòa thượng dẫn một tiểu ni cô, ban ngày ban mặt đi dung dăng dung dẻ thì còn ra trò trống gì?

Trương Vô Kỵ cười:

- Thế thì mình giả làm hai vợ chồng nhà quê, đến chân núi Thiếu Thất cày ruộng, đốn củi.

Triệu Mẫn lại cười:

- Anh em không được hay sao? Giả làm vợ chồng nếu như Chu cô nương trông thấy, vai bên trái của em lại có thêm năm cái lỗ nữa.

Trương Vô Kỵ chỉ cười trừ không dám nói thêm, quay sang hỏi Thọ Nam Sơn kỹ càng các nơi phòng ốc trong chùa Thiếu Lâm rồi nói:

- Trên người ngươi các tử huyệt bị điểm đã giải hết cả rồi, thôi đi đâu thì đi.

Triệu Mẫn nghiêm nét mặt nói:

- Thế nhưng ngươi một đời phải sống ở phương Nam, chứ nếu thấy băng tuyết là lăn ra chết ngay. Ngươi mau mau về hướng nam, sống ở nơi nào càng nóng càng tốt, chứ nếu gặp phải phong hàn, bị trúng gió ho hen là nguy lắm đấy.

Thọ Nam Sơn tưởng thật, bái biệt hai người, ra khỏi miếu là đi về phương nam. Một đời y quả nhiên chỉ sống ở Lĩnh Nam, giữ gìn cẩn thận, không dám để cho gió máy, đến triều vua Vĩnh Lạc nhà Minh mới chết, tuy chẳng phải là Vạn Thọ Vô Cương, nhưng cũng sống dai lắm rồi.

Trương Triệu hai người đợi y đi xa, cố gắng dọn sạch các dấu vết còn lại trong miếu, đi ra khỏi chừng hai chục dặm, kiếm nhà nông mua quần áo nam nữ, vào chỗ hoang sơn thay ra, còn quần áo đang mặc đem chôn dưới đất rồi thủng thẳng đến chân núi Thiếu Thất. Đến cách núi Thiếu Thất chừng bảy tám dặm, trên đường cũng ba lần gặp các nhà sư trong chùa. Triệu Mẫn nói:

- Mình không nên tới gần hơn nữa.

Nàng thấy ở bên đường đi có hai gian nhà tranh, đằng trước có một mảnh vườn, một ông già nhà quê đang tưới rau liền nói:

- Mình xin ông ta cho ở nhờ.

Trương Vô Kỵ tiến đến gần, vái chào rồi nói:

- Xin lỗi lão trượng, anh em chúng tôi đi đường mỏi mệt, xin cho một bát nước uống.

Ông lão nhà quê làm như không nghe, chẳng nói chẳng rằng cứ hùng hục gánh thùng nước phân đi tưới rau. Trương Vô Kỵ nói lại một lần nữa, ông lão vẫn không đáp lời. Bỗng kẹt một tiếng, cửa mở ra, một bà lão tóc trắng như bông bước ra cười nói:

- Nhà tôi vừa điếc vừa câm, khách quan có việc gì thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Em gái cháu đi không nổi, muốn xin một bát nước uống.

Bà lão nói:

- Mời hai người vào trong này.

Hai người theo vào trong nhà, thấy phòng ốc sắp đặt thật gọn ghẽ, tuy bàn ghế chỉ bằng gỗ mộc mạc nhưng lau chùi sạch sẽ, ngay cả quần áo của bà lão tuy bằng vải thô nhưng cũng giặt gỵa tươm tất. Triệu Mẫn trong bụng vui mừng, uống bát nước rồi, lấy ra một đĩnh bạc, cười nói:

- Bà cụ ơi, anh cháu dẫn cháu đi thăm bà ngoại, chẳng may đi đường bị trẹo chân, không đi lại được, hôm nay xin bà bà cho nghỉ nhờ một đêm, đợi sáng mai lại lên đường.

Bà lão nói:

- Nghỉ một đêm thì có gì đâu mà phải đưa tiền đưa bạc. Có điều chúng tôi nhà chỉ một gian, một cái giường, vợ chồng tôi nhường cho cô cậu nhưng anh em làm sao ngủ chung một giường được? Hà hà, tiểu cô nương, cô nói thật cho già này nghe đi, có phải cùng nhân tình trốn cha mẹ bỏ nhà ra đi không nào?

Triệu Mẫn nghe bà lão nói đúng tim đen, mặt đỏ nhừ, nghĩ thầm bà lão này thật tinh đời, nghe giọng điệu xem ra không phải chỉ là một bà nhà quê tầm thường, bèn đưa mắt nhìn kỹ thêm một lượt. Chỉ thấy tuy bà ta lưng còng tóc bạc nhưng hai mắt lấp lánh có thần, xem ra không chừng còn biết võ nghệ. Triệu Mẫn biết Trương Vô Kỵ trông còn ra dáng nhà nông chứ như mình dung mạo cử chỉ, ăn nói điệu bộ, thật không giống gái quê chút nào bèn bẽn lẽn nói:

- Bà bà đã đoán ra, cháu cũng chẳng dám dấu. Tăng ca ca đây là bạn cháu từ tấm bé, bố cháu thấy nhà anh ấy bần hàn nên không chịu gả. Mẹ cháu thấy cháu toan quyên sinh, nên đứng ra giúp cháu cùng với anh ấy ... anh ấy bỏ nhà đi. Mẹ cháu dặn rằng, qua hai ba năm, chúng cháu có ... có con có cái, lúc ấy hãy về, lúc ấy bố cháu có không chịu cũng không xong.

Nàng nói mà mặt đỏ bừng, thỉnh thoảng lại liếc Trương Vô Kỵ một cái, vẻ đầy yêu thương, nói tiếp:

- Nhà cháu ở Đại Đô cũng có chút tiếng tăm, cha cháu lại làm quan. Chúng cháu mà bị bắt lại, A Ngưu ca ca thể nào cũng bị cha cháu đánh chết. Bà bà ơi, cháu nói gì bà bà đừng nói lại với ai nhé.

Bà lão cười ha hả, liên tiếp gật đầu:

- Hồi ta còn trẻ cũng có tính phong lưu. Cháu yên tâm, để ta nhường phòng cho đôi vợ chồng son. Nơi đây vắng vẻ xa xôi, người nhà cháu không thể nào tìm thấy đâu, mà dẫu có ai làm khó cô cậu thì bà bà cũng đâu có tụ thủ bàng quan.

Bà lão thấy Triệu Mẫn ôn nhu mỹ miều, vừa gặp đã đem chuyện hai người tư bôn nói cho bà ta nghe, trong lòng liền có cảm tình nên đã nhất định ra tay tương trợ, tác thành cho hai người nên duyên.

Triệu Mẫn nghe bà ta nói như thế, biết ngay cũng là nhân vật trong võ lâm, nơi đây thật gần chùa Thiếu Lâm, không biết bà ta và Thành Côn là bạn hay thù, thành ra chuyện gì cũng phải dè dặt, không để lộ chút sơ hở nào, bèn sụp xuống lạy nói:

- Bà bà đứng ra lo liệu cho hai đứa cháu, chúng cháu xin đa tạ. A Ngưu ca ca, mau lại tạ ơn bà bà đi.

Trương Vô Kỵ theo lời chắp tay cám ơn. Bà lão cười hì hì gật đầu, lập tức nhường phòng của mình, ra ngoài lấy ván xếp thành một cái giường, trải cỏ lên làm thành một chiếc nệm để nằm. Hai người vào phòng rồi, Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:

- Ông cụ tưới rau bản lãnh còn ghê gớm hơn, em có thấy không?

Triệu Mẫn nói:

- Ồ, em không nhìn ra.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ông ta gánh nước phân, đi rất chậm vậy mà hai chiếc thùng không sóng sánh chút nào, nội lực phải cao cường lắm.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Thế so với chàng thì sao?

Trương Vô Kỵ cười:

- Để anh thử xem, không biết có được không.

Nói xong liền bồng Triệu Mẫn lên, để ngang trên vai làm như đang gánh nước. Triệu Mẫn cười khúc khích:

- Chao ôi, chàng coi thiếp như gánh phân hay sao?

Bà lão ở bên ngoài nghe tiếng hai người đùa cợt, những gì còn nghi ngại trước đây đều tiêu tan cả. Tối hôm đó hai người ngồi ăn chung với hai ông bà nhà quê, thức ăn cũng có thịt gà thịt heo. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cố tình làm như một cặp tình nhân thắm thiết trốn nhà ra đi, thỉnh thoảng len lén nắm tay nhau, keo sơn không rời được một phút. Lúc đầu hai người chỉ làm bộ, đến sau thì thành như thật, bà lão nhìn thấy chỉ mỉm cười, còn ông già thì dường như không để ý, chỉ cắm cúi ăn.

Ăn cơm xong Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn vào phòng, cài then lại. Hai người trong bữa ăn đùa cợt giả giả thật thật, ngờ đâu cả hai đều động tình. Triệu Mẫn má đỏ hây hây, nói nhỏ:

- Chúng mình chỉ đóng kịch chứ không phải thật đâu nhé.

Trương Vô Kỵ ôm nàng vào lòng hôn hít, hạ giọng:

- Nếu như giả vờ, đôi ba năm nữa lấy gì có con để bồng về khoe với gia gia?

Triệu Mẫn thẹn thùng hứ một tiếng nói:

- Thì ra chàng nấp ở đằng sau, nghe lén thiếp nói chuyện.

Trương Vô Kỵ tuy nói đùa nàng như thế, nhưng nghĩ lại mình với Chu Chỉ Nhược có ước định hôn nhân, tuy rằng mai sau lấy được cả hai thì càng tốt nhưng cũng phải kết hôn với Chu Chỉ Nhược rồi mới tính tới chuyện cùng Triệu Mẫn nên duyên. Thành thử trong lúc này tuy người ngọc đang ở trong tay, tình ý triền miên nhưng cũng cố gắng nén lòng, chỉ hôn lên môi lên má rồi đỡ nàng lên giường, còn mình nằm ở cái chõng đằng trước, điều tức vận công, đưa Cửu Dương chân khí vòng quanh đủ mười hai lần, rồi lăn ra ngủ.

Còn Triệu Mẫn thì mặt nóng bừng, lòng xao động, trăn trở mãi không sao ngủ được, mãi đến thật khuya, đang mơ mơ màng màng, bỗng nghe tiếng chân từ xa đi lại thật nhanh, có ai đó đã đến ngay trước cửa. Nàng vội lay Trương Vô Kỵ, ngờ đâu chàng cũng đã tỉnh giấc, nắm lấy tay nàng, hai người siết chặt tay nhau.

Chỉ nghe ở bên ngoài có tiếng người vang lên:

- Xin chào hiền kháng lệ nhà họ Đỗ, cố nhân đêm khuya đến thăm, liệu có vô lễ hay không?

Một lúc sau có tiếng bà lão ở trong nhà nói vọng ra:

- Có phải Thanh Hải tam kiếm đó chăng? Vợ chồng ta từ Xuyên Tây đi trốn tận đây cũng vì sợ Ngọc Chân Quan các ông. Bọn ta chỉ vì một chuyện nhỏ mà sinh chuyện với các người, nhưng cũng chẳng có gì thâm cừu đại oán. Việc đã bao nhiêu năm rồi, Ngọc Chân Quan cớ gì vẫn còn nhất định ép cho bằng được là sao? Người đời thường nói: ?Con giun xéo lắm cũng quằn, dồn chó vào chân tường chó cũng cắn lại?.

Người bên ngoài nghe thế cười sằng sặc, nói:

- Nếu quả thực hai vị sợ thì quì lạy bọn ta ba cái, bao nhiêu chuyện cũ Ngọc Chân Quan sẽ bỏ qua cho không truy cứu nữa.

Chỉ nghe kẹt một tiếng cửa đã mở ra, bà già nói:

- Các ngươi tin tức quả thực nhanh nhẹn, quả nhiên đã đuổi đến tận nơi đây.

Khi đó mặt trăng mới hơi khuyết, ánh sáng bạc chiếu trên mặt đất, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người nhìn theo khe cửa ra, thấy bên ngoài có ba đạo sĩ đội mũ màu vàng. Người ở giữa râu xồm đâm tua tủa, vừa mập vừa lùn, nói:

- Hiền kháng lệ muốn khấu đầu tạ tội hay muốn dùng song câu và liên tử thương một phen sống mái?

Bà lão chưa kịp trả lời, ông già câm điếc đã hung hăng bước ra, đứng ngay trước cửa, tay chống nạnh, khinh khỉnh nhìn ba gã đạo nhân. Bà già cũng đi theo đứng ngay bên cạnh chồng.

Đạo nhân râu xồm hỏi:

- Đỗ lão tiên sinh sao không thấy mở lời? Hay là không thèm nói chuyện với Thanh Hải tam kiếm?

Bà già đáp:

- Chuyết phu tai đã điếc rồi, không nghe ba vị nói gì đâu.

Gã đạo nhân râu xồm ?Ồ? lên một tiếng nói:

- Cái tài thính phong biện khí của Đỗ lão tiên sinh vốn là tuyệt nghệ trong võ lâm, làm sao tai lại bị điếc? Tiếc thay, tiếc thay!

Gã đạo sĩ cũng mập đứng bên cạnh rút soẹt kiếm ra nói:

- Đỗ Bách Đương, Dịch Tam Nương hai người sao không dùng binh khí?

Bà già Dịch Tam Nương đáp:

- Mã đạo trưởng, tính tình ông vẫn còn nóng nảy. Còn Thiệu đạo trưởng, mấy năm không gặp, đầu tóc nay cũng đã hoa râm rồi. Ha ha! Chuyện nhỏ như thế mà nhìn cũng không ra, sao mà khổ đến thế?

Hai tay bà ta đột nhiên vung lên, ánh sáng lấp lánh, mỗi tay cầm ba con dao dài chưa đầy nửa thước, tất cả sáu thanh. Ông già câm điếc Đỗ Bách Đương cũng vung tay, trong hai tay cũng đã cầm sẵn sáu thanh đoản đao từ bao giờ. Chỉ thấy ông ta tung dao từ tay phải lăn qua tay trái, tay trái lăn qua tay phải, chẳng khác gì hai bàn tay đan vào nhau, thật là thuần thục.

Ba đạo nhân ngạc nhiên, trong võ lâm chưa từng thấy loại binh khí như thế này bao giờ, là phi đao chăng nhưng phi đao cũng đâu có thủ pháp như vậy. Đỗ Bách Đương vốn nổi tiếng Xuyên Tây về môn song câu, còn vợ ông ta Dịch Tam Nương quen dùng liên tử thương, bây giờ hai vợ chồng lại bỏ môn binh khí đã từng sử dụng mấy chục năm qua, như thế mười hai con dao này hẳn chiêu số phải rất lợi hại, rất quái dị.

Gã đạo sĩ mập Mã Pháp Thông vung trường kiếm một cái, cất tiếng ngâm một câu thơ:

- Tam Tài kiếm trận Thiên Địa Nhân.

Gã đạo sĩ râu ngắn Thiệu Hạc liền đọc tiếp:

- Điện trục tinh trì xuất Ngọc Chân.

Ba đạo sĩ liền bước giãn ra, lập tức vây Đỗ thị nhị lão vào giữa. Trương Vô Kỵ thấy ba đạo nhân lúc qua trái lúc qua phải, chạy ngang chạy dọc, tưởng như tam tài mà không phải tam tài, ba thanh trường kiếm dệt thành một cái lưới hào quang, nhưng chưa ra chiêu tấn công đối phương. Mãi đến khi ba đạo sĩ chạy được bảy tám bước rồi, Trương Vô Kỵ mới nhìn ra đạo lý bên trong, nghĩ thầm: ?Ba tên đạo sĩ này thực là giảo hoạt, mồm thì nói là Tam Tài kiếm trận, kỳ thực ngầm sử dụng chính phản ngũ hành. Nếu như kẻ địch tưởng thật, cứ theo phương vị thiên địa nhân của tam tài mà phá giải thì sẽ bị rơi vào trận ngũ hành, khó mà thoát chết.

Ba người này bày Ngũ Hành kiếm trận, mỗi người đảm trách sinh khắc biến hóa một hoặc hơn một hành, kết hợp cả khinh công lẫm kiếm pháp, quả thực uy lực không phải tầm thường.

Còn vợ chồng họ Đỗ hai người dựa lưng vào nhau, bốn cánh tay lấp loáng, mười hai thanh đoản đao đổi qua đổi lại múa may, hai người không phải chỉ tay nọ đổi cho tay kia, mà đao của Đỗ Bách Đương cũng đổi qua tay của Dịch Tam Nương, đao của Dịch Tam Nương cũng đổi qua tay của Đỗ Bách Đương nhưng không thanh đao nào tuột tay ra ngoài, như hư như thực chạy qua chạy lại.

Triệu Mẫn nhìn xem thấy lạ lùng, hỏi nhỏ:

- Bọn họ đang làm trò gì thế?

Trương Vô Kỵ nhíu mày không trả lời, xem thêm một hồi nữa bỗng nói:

- À, anh nghĩ ra rồi, bọn họ sợ môn Sư Tử Hống của nghĩa phụ anh.

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Sư Tử Hống là cái gì?

Trương Vô Kỵ gật gù liên tiếp, bỗng cười nhạt nói:

- Hừ, tài nghệ chỉ có thế này, vậy mà cũng đòi đồ sư phục hổ ư?

Triệu Mẫn không hiểu chàng định nói gì, gặng hỏi thêm:

- Chàng nói cái gì mà như câu đố thế? Cứ lẩm bẩm một mình khiến em nghe chẳng hiểu mô tê gì cả?

Trương Vô Kỵ hạ giọng nói thầm:

- Cả năm người này đều là kẻ thù của nghĩa phụ anh. Ông già kia sợ thần công Sư Tử Hống nên tự mình đâm cho điếc tai ...

Chỉ thấy leng keng leng keng ròn như tiếng liên châu, năm người đã ra tay đấu với nhau. Thanh Hải tam kiếm liên tiếp tấn công năm thức nhưng đều bị vợ chồng họ Đỗ gạt ra cả. Mười hai thanh đoản đao trong tay họ đổi qua đổi lại, dưới ánh trăng tạo thành ba vòng hào quang, quấn chung quanh người, thủ hộ cực kỳ nghiêm mật. Thanh Hải tam kiếm tấn công lâu không ăn thua gì liền đổi qua thủ ngự, Đỗ Bách Đương thấy thế liền tiến lên, đoản đao đâm luôn vào bụng dưới gã đạo sĩ nhỏ bé Thiệu Hạc.

Trong võ học có nguyên tắc là ?Dài một tấc, mạnh một tấc, ngắn một tấc, hiểm một tấc?. Đoản đao dài bất quá năm tấc thành ra nguy hiểm vô cùng, y soẹt soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, toàn là đòn sát thủ tấn công, không phòng bị thân mình chút nào. Trường kiếm của Mã Pháp Thông và Thiệu Hạc liền đâm ra nhưng đều bị Dịch Tam Nương dùng đoản đao gạt ra được, mới hay hai vợ chồng ông ta luyện đao pháp này, một công một thủ, phối hợp rất chặt chẽ cẩn mật, người tấn công cứ việc tấn công, người phòng thủ cứ việc phòng thủ, không phải đảm trách cả hai bề. Thiệu Hạc bị đâm luôn ba lần, chân tay luống cuống, phải lùi liên tiếp. Đỗ Bách Đương vẫn tiếp tục tấn công vào người y, mũi đao nào cũng nhắm toàn chỗ yếu hại, càng lúc càng thêm nguy hiểm.

Thiệu Hạc hú lên một tiếng dài, kiếm chiêu liền biến đổi, cùng với kiếm của Mã Pháp Thông hai bên tấn công vào, kết với nhau thành một cái lưới, chặn Đỗ Bách Đương ở ngoài xa ba thước. Ba thanh kiếm phòng bị chặt chẽ, tưởng chừng có tạt nước cũng không vào nổi.

Trương Vô Kỵ lại cười khẩy một tiếng, ghé tai Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Cả đao pháp lẫn kiếm pháp này đều tập luyện chỉ để đối phó với nghĩa phụ anh đó. Em coi họ đều thủ nhiều công ít, thủ mạnh hơn công thì có đánh nhau đến một ngày một đêm cũng chẳng ai thắng được ai.

Quả nhiên Đỗ Bách Đương công mấy lần không vào được, lại từ bỏ để quay về thủ ngự. Triệu Mẫn nói:

- Kim Mao Sư Vương võ công trác tuyệt, năm gã này chỉ thủ thì làm sao mà thắng cho được?

Năm người đao qua kiếm lại, biến đổi bảy tám loại chiêu số nhưng vẫn không mèo nào cắn mỉu nào. Mã Pháp Thông đột nhiên quát lớn:

- Ngừng tay!

Y nhún chân nhảy ra khỏi vòng, Đỗ Bách Đương cũng nhảy lùi về sau, chòm râu bạc phất phới, xem ra có uy thế lắm. Mã Pháp Thông nói:

- Pho đao pháp này của hiền kháng lệ, có phải tập luyện cốt để giết sư tử đấy chăng?

Dịch Tam Nương hừ một tiếng nói:

- Nhãn quang nhà ngươi quả là lợi hại.

Mã Pháp Thông nói:

- Hiền kháng lệ với Tạ Tốn có mối thù giết con, đại cừu đó không thể nào không báo. Thế sao đã thám thính được kẻ đối đầu nay đang ở trong chùa Thiếu Lâm, cớ sao không cứu y ra để thanh toán?

Dịch Tam Nương liếc y dò hỏi rồi nói:

- Đó là chuyện riêng của vợ chồng ta, đâu dám để đạo trưởng phải nhọc lòng nghĩ ngợi.

Mã Pháp Thông nói:

- Chuyện qua lại giữa Ngọc Chân Quan và hiền phu phụ, đúng như Dịch Tam Nương mới nói, chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ không đáng gì, lẽ nào phải thí mạng với nhau? Chúng mình chi bằng đổi thù thành bạn, sát vai nhau cùng đi kiếm Tạ Tốn có hơn chăng?

Dịch Tam Nương nói:

- Ngọc Chân Quan có dây dưa gì với Tạ Tốn thế?

Mã Pháp Thông nói:

- Dây dưa thì chẳng dây dưa gì cả, hà hà!

Dịch Tam Nương hỏi:

- Nếu như không có thù oán gì với Tạ Tốn, sao lại khổ tâm ra sức luyện môn kiếm pháp đó làm chi? Chúng ta hai bên chiêu số vốn cùng một gốc, đều chỉ dùng để khắc chế Thất Thương Quyền mà thôi.

Mã Pháp Thông đáp:

- Nhãn lực của Dịch Tam Nương thật ghê gớm. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, Ngọc Chân Quan chỉ muốn mượn thanh đao Đồ Long xem chơi một chút thôi.

Dịch Tam Nương gật đầu, đưa ngón tay viết lên lòng bàn tay Đỗ Bách Đương mấy chữ. Đỗ Bách Đương cũng đưa tay viết lại mấy chữ lên tay bà ta. Hai vợ chồng dùng tay thay lưỡi, đàm thoại một hồi. Dịch Tam Nương nói:

- Vợ chồng tôi chỉ mong báo thù, dẫu có phải bỏ mạng cũng cam lòng, thanh đao Đồ Long không có ý tơ hào.

Mã Pháp Thông mừng nói:

- Thế thì hay lắm. Năm người chúng ta liên thủ tiến vào chùa Thiếu Lâm, hiền phu phụ giết người báo cừu, còn Ngọc Chân Quan lấy thanh đao. Tề tâm hiệp lực thì đại công dễ thành, hai bên bên nào cũng toại ý, không tổn thương hòa khí.

Sau đó năm người đập tay ước định, cùng cất tiếng thề nguyền. Vợ chồng họ Đỗ mời ba đạo sĩ vào nhà để bàn thảo kế sách báo thù đoạt đao. Thanh Hải tam kiếm tiến vào ngồi xuống rồi, thấy phòng bên trong đóng chặt cửa, không thể không đòi vào xem cho kỹ. Dịch Tam Nương cười nói:

- Ba vị không có gì phải nghi ngại, đây là một đôi vợ chồng son từ Đại Đô xuống, trốn nhà ra đi, đứa con gái đẹp như ngọc nữ, còn đứa con trai thì hình dáng thô lỗ, cả hai không ai biết tí võ công nào.

Mã Pháp Thông nói:

- Tam nương đừng trách, chẳng phải chúng tôi không tin ở hai ông bà, có điều chúng ta tính toán một chuyệt thật là trọng đại, có điều xung khắc với hào kiệt võ lâm, nếu như để tin tức lộ ra, e rằng ...

Dịch Tam Nương cười nói:

- Bọn mình đánh nhau cả nửa ngày trời mà hai đứa chúng nó vẫn ngủ như khúc gỗ. Thế nhưng Mã đạo trưởng muốn cẩn thận cho chắc, muốn chính mắt xem lại cũng không sao.

Nói xong tiến lại đẩy cửa nhưng cửa đó có cài then bên trong. Trương Vô Kỵ muốn từ năm ngưới này dò la mối manh để cứu Tạ Tốn nên lúc này không muốn ra tay, lập tức lật đật tháo giày, lấy chăn đắp lên người giả vờ ôm Triệu Mẫn ngủ trên giường. Chỉ nghe cạch một tiếng nhỏ, then cửa đã bị Thiệu Hạc sử kình chấn gãy. Dịch Tam Nương tay cầm chân nến, tiến vào phòng, Thanh Hải tam kiếm liền bước theo sau.

Trương Vô Kỵ thấy có ánh lửa, mắt nhắm mắt mở choàng dậy ngơ ngác nhìn Dịch Tam Nương ra chiều hoảng hốt. Mã Pháp Thông giơ kiếm lên đâm ngay vào yết hầu chàng, ra chiêu vừa nhanh vừa hiểm độc. Trương Vô Kỵ ?A? lên một tiếng kinh hoàng, thân trên nhào về trước, hóa ra đưa cổ vào mũi kiếm. Mã Pháp Thông rụt tay thu kiếm về, nghĩ thầm người này quả không biết chút võ công nào hết, nếu như người biết võ dù mật lớn đến đâu cũng không ai không tránh thế kiếm đó.

Triệu Mẫn ậm ự mấy tiếng, chưa tỉnh giấc hẳn, đôi má hồng hồng, ánh nến chiếu vào xinh đẹp quả khiến xiêu lòng người. Thiệu Hạc nói:

- Dịch Tam Nương nói không sai, thôi mình đi ra.

Năm người liền khép cửa lại đi ra phòng ngoài. Trương Vô Kỵ liền nhảy xuống, xỏ giày vào. Chỉ nghe Mã Pháp Thông nói:

- Không biết hiền kháng lệ biết có chính xác là Tạ Tốn đúng là đang ở trong chùa Thiếu Lâm chăng?

Dịch Tam Nương đáp:

- Cái đó thì chắc chắn là đúng. Chùa Thiếu Lâm đã gửi anh hùng thiếp đi, đến tết Doan Dương này sẽ mở đại hội Đồ Sư, nếu như họ chưa bắt được Tạ Tốn thì còn mặt mũi nào với anh hùng thiên hạ?

Mã Pháp Thông ?Ừ? một tiếng nói:

- Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm chết về tay Tạ Tốn, đệ tử Thiếu Lâm dù tăng dù tục, không thể không báo thù. Hiền kháng lệ chỉ cần đợi đến tết Đoan Dương vào trong chùa, giương mắt lên xem kẻ thù giơ cổ chịu chém, chẳng tốn chút hơi sức nào cũng đã trả được mối huyết thù đó rồi. Đỗ lão tiên sinh việc gì phải hủy đôi tai, lại cam đắc tội với chùa Thiếu Lâm để làm gì?

Dịch Tam Nương cười khẩy đáp:

- Chuyết phu chọc thủng hai tai là từ năm năm trước rồi. Hơn nữa, đứa con duy nhất của vợ chồng tôi có tội tình gì đâu mà bị ác tặc Tạ Tốn giết hại, hai người chúng ta đối với y thù sâu như biển, báo phục mối thù to như thế đâu lẽ nào lại phải mượn tay người khác hay sao? Một khi bọn ta mà gặp được tên ác tặc Tạ Tốn rồi, việc đầu tiên của lão bà này là chọc thủng hai tai mình. Vợ chồng ta chỉ mong được cùng y đồng qui ư tận, ha ha, từ khi đứa con ta chết đi rồi, hai người chúng tôi đâu còn ham gì sống nữa. Đắc tội với Thiếu Lâm cũng thế, đắc tội với Võ Đương cũng vậy, dẫu có băm vằm trăm nghìn vết đao thì cũng đâu có gì đáng nói đâu?

Trương Vô Kỵ ở phòng trong nghe bà ta nói thấy giọng đầy căm thù khiến người ta phải kinh hồn táng đảm, nghĩ thầm: ?Năm xưa nghĩa phụ bị Thành Côn làm hại, bao nhiêu oán hờn trút lên những người vô tội. Hai vợ chồng họ Đỗ này xem ra không phải là người xấu, chỉ vì lòng thương đứa con yêu chết thảm, cho nên rắp tâm giết nghĩa phụ để báo cừu. Mối thù này nếu bảo cố gắng hòa giải thì thật không thể nào được. Ta chỉ còn cách cứu nghĩa phụ ra trốn đi một nơi thật xa để khỏi phải tăng thêm tội nghiệt?.

Lúc này bỗng thấy năm người ở phòng bên không có một chút tiếng động nào, chàng nhìn qua khe vách, thấy vợ chồng họ Đỗ và bọn Mã Pháp Thông ba người chấm tay vào nước trà, viết chữ lên trên bàn, nghĩ thầm: ?Năm người này quả thực cẩn thận, tuy đã tin rằng ta và Mẫn muội không phải người trong giới giang hồ nhưng vẫn sợ tiết lộ cơ mật. Than ôi! Nghĩa phụ ta kẻ thù trên giang hồ thật vô kể, kẻ dòm dỏ thanh đao Đồ Long cũng thật là nhiều, từ nay cho đến tiết Đoan Dương không biết bao nhiêu người muốn ra tay trước. Mấy người này không những khổ tâm tính toán mà tài nghệ cũng cao cường, ra tay ác độc, chùa Thiếu Lâm chỉ cần sơ sẩy một chút là nghĩa phụ ta đã lâm vào đại họa ngay, mình phải tìm cách cứu ông ra mới được?.

Năm người kia vẫn dùng tay viết chữ, bàn thảo một cách kín đáo không ngừng. Trương Vô Kỵ bèn quay trở vào tấm phản nằm ngủ không thèm để ý đến bọn họ nữa.

Sáng hôm sau khi trở dậy thì Thanh Hải tam kiếm không còn ở đây, Trương Vô Kỵ nói với Dịch Tam Nương:

- Bà bà, tối hôm qua ba vị đạo gia tay cầm dao sáng quắc, ở đâu đến vậy? Mới đầu chúng cháu tưởng họ đến tróc nã mình, sợ quá mất thôi, sau mới biết là không phải.

Dịch Tam Nương thấy chàng nhìn trường kiếm thành ra con dao, trong bụng cười thầm, thản nhiên nói:

- Bọn họ lạc đường, chỉ uống xong chén trà là đi mất. Tăng tiểu ca, ăn cơm trưa xong, vợ chồng ta muốn đem ba gánh củi lên chùa bán, cậu gánh giúp chúng tôi một gánh được không? Nếu các hòa thượng hỏi đến tôi sẽ bảo cậu là con tôi. Không phải là tôi muốn lợi dụng cậu đâu nhưng để cho những nhà sư trong chùa khỏi nghi. Vợ cậu xinh đẹp như thế, chớ có nên đi theo ra ngoài.

Tuy bà ta bàn với Trương Vô Kỵ như thế nhưng thật chẳng khác gì ra lệnh nào có để cho chàng từ chối. Trương Vô Kỵ nghe xong hiểu ngay ý tứ: ?Bà ta lại tưởng mình là một anh nhà quê thực, nên bảo mình đi theo vào chùa Thiếu Lâm xem xét động tĩnh, thực là hay quá?. Chàng liền nói:

- Bà bà bảo sao thì tiểu tử làm vậy, miễn sao bà cho hai đứa cháu ở nhờ. Chúng cháu chạy đôn chạy đáo, lúc nào cũng nơm nớp chẳng ngày nào được bình yên.

Đến xế trưa, Trương Vô Kỵ đi theo vợ chồng họ Đỗ, mỗi người gánh một gánh củi, đi về hướng chùa Thiếu Lâm. Chàng đầu đội nón mê, lưng cài búa ngắn, hai chân xỏ dép gai, trong ba người thì gánh củi của chàng to nhất. Triệu Mẫn đứng ở thềm nhà, mỉm cười đưa mắt tiễn chàng đến tận xa.

Vợ chồng họ Đỗ cố đi thật chậm, thở hồng hộc, đến sơn đình ngoài chùa Thiếu Lâm, liền bỏ quang gánh xuống ngồi nghỉ. Trong sơn đình có hai nhà sư đang ngồi tán gẫu, thấy ba người cũng chẳng thèm để ý.

Dịch Tam Nương lấy chiếc khăn thô quấn trên đầu xuống lau mồ hôi, lại đưa qua lau mồ hôi cho Trương Vô Kỵ hỏi:

- Có mệt lắm không con?

Trương Vô Kỵ lúc đầu không thích bà ta, nay nghe lời nói đầy vẻ thân tình, không phải giả vờ nên đưa mắt nhìn thấy bà lão nước mắt long lanh, biết bà ta nhớ đến đứa con bị Tạ Tốn sát hại, lại thấy bà ta nhìn mình đầy vẻ trìu mến, dường như muốn mình lên tiếng trả lời, trong lòng không khỏi bất nhẫn, liền đáp:

- Thưa mẹ, con không mệt, còn mẹ có mệt không?

Chàng lên tiếng gọi mẹ, nghĩ đến mẹ ruột mình, không khỏi thương cảm. Dịch Tam Nương thấy chàng gọi mình là mẹ, nước mắt rơi lã chã, liền giả vờ lấy khăn lau mồ hôi nhưng thực ra là để chùi nước mắt.

Đỗ Bách Đương đứng lên, cất gánh củi lên vai, tay trái vẫy một cái liền đi ra khỏi sơn đình. Tuy ông ta không nghe thấy hai người nói gì, nhưng cũng biết bà vợ già nhân cảnh mà động lòng, nhớ đến con, sợ không chừng lộ chuyện, để cho hai nhà sư kia nhìn ra chân tướng.

Trương Vô Kỵ chạy lại lấy hai bó củi trong gánh của Dịch Tam Nương bỏ lên gánh của mình nói:

- Thôi mình đi mẹ ạ!

Dịch Tam Nương thấy chàng có ý tứ thế nghĩ thầm: ?Nếu con ta có còn sống đến nay thì đã lớn tuổi hơn thanh niên này nhiều, chắc mình cũng đã có mấy đứa cháu nội rồi?. Bà ta tần ngần không muốn bước đi, thấy Trương Vô Kỵ gánh củi chạy ra khỏi sơn đình mới đuổi theo, trong lòng khích động khiến chân bước cũng loạng choạng. Trương Vô Kỵ liền quay lại giơ tay ra đỡ, nghĩ thầm: ?Nếu như mẹ ta ngày nay còn sống mà ta được đưa tay đỡ mẹ thế này ...?

Một nhà sư thấy thế nói:

- Chàng thanh niên này thật là hiếu thuận, quả trên đời hiếm có.

Nhà sư kia nói tiếp:

- Bà lão ơi, gánh củi có phải bà định gánh lên chùa bán đấy chăng? Mấy hôm nay phương trượng hạ pháp chỉ, không cho người ngoài vào trong chùa, thôi bà đừng lên nữa.

Dịch Tam Nương thất vọng, nghĩ thầm: ?Chùa Thiếu Lâm quả nhiên phòng bị thật nghiêm mật, muốn lẻn vào không phải dễ dàng?. Đỗ Bách Đương đã chạy được mấy trượng rồi thấy hai người không đi theo liền ngừng lại đứng đợi.

Một nhà sư nói:

- Gia đình nhà quê này mẹ hiền con thảo, thôi mình cứ đễ dãi cho họ một tí. Sư đệ, chú đưa họ vào cửa sau đến hương tích trù, nếu như giám thủ biết thì cứ nói là những người này vẫn thường đến bán củi, chắc không đến nỗi nào.

Nhà sư kia đáp lời:

- Vâng! Giám thủ không cho người ngoài vào chùa, là để đề phòng những kẻ vô công rồi nghề. Còn những người này là nhà quê trung hậu thật thà, có gì đâu mà phải cấm đoán họ làm ăn?

Nói xong y liền dẫn đường cho vợ chồng họ Đỗ và Trương Vô Kỵ, đi vòng ra sau núi vào chùa, đem ba gánh củi xếp vào trong kho, sau đó nhà sư trông coi hương tích trù tính toán tiền nong ra trả. Dịch Tam Nương nói:

- Chúng tôi có cải bẹ trắng thật ngon, ngày mai sai A Ngưu đem đến vài cân để cho các sư phó nếm thử, chỗ này không tính tiền.

Nhà sư đưa họ đến bèn cười:

- Từ mai trở đi, các người không được đến nữa. Giám thủ mà biết được, trách phạt chúng tôi thì chết.

Nhà sư coi sóc hương tích trù nhìn Trương Vô Kỵ đánh giá, bỗng nói:

- Vào độ trước sau tiết Đoan Dương, nhà chùa có khoảng hơn ngàn vị khách, gánh nước bổ củi xem chừng không xuể. Huynh đệ này tướng tá khỏe mạnh, lại đây giúp việc vài tháng, mỗi tháng trả cho năm tiền có chịu không?

Dịch Tam Nương mừng lắm, vội nói:

- Thế thì tốt quá rồi, A Ngưu ở nhà cũng không có việc gì quan trọng, đến chùa đây cho các sư phó sai phái các chuyện vặt, lại có thêm mấy lượng bạc để dành thì còn gì bằng.

Trương Vô Kỵ nghĩ ra không ổn: ?Chùa Thiếu Lâm có nhiều người biết mặt ta, lỡ bất ngờ đến trù phòng thì hỏng cả, ở trong chùa hai ba tháng thể nào cũng có người nhận ra?. Chàng bèn nói:

- Mẹ ơi, còn nhà con ...

Dịch Tam Nương nghĩ đây đúng là chuyện nghìn năm một thuở, chỉ có thể may mà gặp chứ không thể cầu mà tới vội vàng nói:

- Thì vợ con cứ ở nhà, hay mày sợ mẹ mày hành hạ nó? Con cứ ở đây, nghe lời sai bảo của các sư phó, không được lười biếng, cứ vài ngày mẹ sẽ lại cùng với vợ con đến thăm một lần. Con nhà lớn đầu như thế mà xa mẹ một buổi cũng không xong, hay mày còn mong mẹ mày cho bú, xi đái mới chịu hay sao?

Bà ta vừa nói vừa giơ tay vò đầu Trương Vô Kỵ, hai mắt đầy vẻ thiết tha lưu luyến. Nhà sư trông coi nhà bếp lâu nay lo lắng, nghĩ đến chuyện trước sau đại hội Đoan Dương, thiên hạ anh hùng tụ hội, chuyện cơm ăn nước uống không phải dễ dàng. Giám thủ tuy cũng đã tăng viện thêm nhiều người đến giúp việc nhưng những hòa thượng đó nếu không chăm chỉ tham thiền thanh tu thì cũng nghiên cứu võ nghệ, những chuyện tạp nhạp nhà bếp có ai chịu làm.

Những người bị giám thủ sai đến chẳng qua chuyện chẳng đặng đừng, thành ra xuống đến hương tích trù ai cũng ra vẻ ta đây, đứng coi thì nhiều, thò tay vào làm thì ít, lúc này thì cũng chẳng sao nhưng khi khách khứa kéo đến thể nào cũng rắc rối to. Nay vừa thấy Trương Vô Kỵ có vẻ chất phác chăm chỉ, nhà sư trông coi nhà bếp liền có ý muốn giữ chàng lại nên vội vàng lên tiếng khuyên lơn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ban ngày mì chỉ quanh quẩn trong bếp, chắc chẳng gặp cao thủ trong chùa đâu, đến đêm mình sẽ tìm cách thám thính xem nghĩa phụ ở chỗ nào, xem ra cũng tiện?. Thế nhưng chàng vẫn cố ý ra vẻ trù trừ, đợi cho đến khi nhà sư dẫn chàng vào chùa đứng bên cạnh cũng lên tiếng nói đốc vào, chàng mới miễn cưỡng nhận lời, nói:

- Sư phụ, tốt hơn hết là mỗi tháng sư phụ trả cho tôi sáu tiền, năm tiền tôi đưa cho mẹ tôi, còn một tiền tôi cho vợ tôi mua vải hoa ...

Nhà sư trông coi nhà bếp nghe thế liền cười ha hả nói:

- Được rồi, thế là hai bên ba mặt một lời, mỗi tháng sáu tiền cũng được.

Dịch Tam Nương lại dặn dò mấy câu rồi mới cùng Đỗ Bách Đương chậm rãi đi xuống núi. Trương Vô Kỵ đuổi theo gọi vói theo:

- Mẹ ơi, mẹ chăm sóc vợ con nhé!

Dịch Tam Nương đáp:

- Mẹ biết rồi, con cứ yên tâm.

Trương Vô Kỵ ở trong nhà bếp bổ củi xúc tro, nhóm lửa xách nước, toàn những việc không lấy gì làm thích thú. Khi xúc tro chàng cố ý để cho mặt mày lem luốc, đầu tóc bù xù, nhìn vào trong chum nước thấy bóng mình thật không ai còn có thể nhận ra. Đến đêm chàng cùng các hỏa công khác ngủ tại một phòng nhỏ ngay trong hương tích trù. Chàng biết chùa Thiếu Lâm là nơi ngọa hổ tàng long, rất có thể ngay trong đám đầu bếp cũng có người thân mang tuyệt kỹ thành thử việc gì cũng hết sức cẩn thận, cả đến nói chuyện cũng chẳng dám rỉ răng quá một lời.

Cứ như thế được bảy tám ngày, Dịch Tam Nương đưa Triệu Mẫn đến thăm chàng hai lần. Chàng chăm chỉ, từ sáng đến tối, việc gì xốc vác mấy cũng làm thành ra nhà sư trông coi hương tích trù hết sức hài lòng, đối với các đầu bếp khác cũng thật là hòa mục. Chàng không dám dò hỏi, chỉ lắng tai nghe những người khác nói chuyện may ra biết được chút tin tức nào chăng, trong bụng nghĩ thầm thể nào chẳng có người đưa cơm cho nghĩa phụ, nếu như gặp được người đó thì có thể hỏi được nơi giam giữ Tạ Tốn. Thế nhưng chàng cố gắng chờ đợi bao nhiêu ngày nhưng vẫn chẳng nghe được manh mối gì cả.

Đến chiều tối ngày thứ chín, chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe từ xa khoảng nửa dặm văng vẳng vọng tới tiếng người hò hét, bèn len lén trở dậy, bốn bề không ai hay biết liền thi triển khinh công, theo âm thanh mà lần tới, thấy tiếng từ khu rừng phía bên trái chùa nên tung mình nhảy lên một cây to, xem xét kỹ sau cây không có ai mai phục mới từ đó nhảy qua cây khác, dần dần tiến tới.

Khi đó trong rừng tiếng binh khí chạm nhau, dường như có mấy người đánh nhau ở một chỗ. Chàng náu mình sau tàn cây chỉ thấy đao quang tung hoành, kiếm ảnh thấp thoáng, tất cả sáu người chia thành hai bên đang đánh nhau. Ba người sử dụng kiếm chính là Thanh Hải tam kiếm, sắp xếp Chính Phản Ngũ Hành giả làm Tam Tài Trận, thủ thế thật là nghiêm mật. Phe tấn công là ba nhà sư, tất cả đều sử dụng giới đao, xông thẳng vào phá trận. Hai bên đánh được hai ba chục chiêu, nghe soẹt một tiếng, một người trong Thanh Hải tam kiếm bị trúng đao ngã lăn ra. Giả Tam Tài Trận bị vỡ một mặt, hai người kia không còn cách gì chống đỡ, chỉ thêm vài chiêu, một người khác "Ối" lên một tiếng thảm thiết, bị chém chết ngay, nghe giọng thì là gã lùn mập Mã Pháp Thông. Người còn lại tay phải cũng bị thương nhưng vẫn nhất quyết tử chiến. Một nhà sư quát khẽ:

- Ngừng tay!

Ba thanh giới đao vây y lại nhưng không tiếp tục tấn công. Một giọng già nua gay gắt hỏi:

- Các ngươi Thanh Hải Ngọc Chân Quan và chùa Thiếu Lâm chúng ta không thù không oán, sao nửa đêm đến đây xâm phạm là sao?

Người còn lại trong ba người của phái Thanh Hải là Thiệu Hạc, buồn bã nói:

- Ba sư huynh đệ bọn ta đã thua rồi, chỉ oán mình học nghệ chưa tinh, còn hỏi han làm gì?

Người giọng già nua kia cười khẩy:

- Các ngươi vì Tạ Tốn mà đến đây, chắc muốn lấy thanh đao Đồ Long chứ gì? Ha ha, ta chưa từng nghe Tạ Tốn giết ai trong Ngọc Chân Quan, thì hẳn là vì bảo đao mà đến. Với tài nghệ như trẻ con thế mà cũng xông vào chùa Thiếu Lâm ư? Phái Thiếu Lâm là lãnh tụ võ lâm đã hơn nghìn năm nay, không ngờ lại bị người ta coi thường đến thế.

Thiệu Hạc lợi dụng khi y đang cao hứng liền đâm vụt ra một kiếm. Nhà sư kia vội vàng tránh qua nhưng vẫn chậm mất một chút, kiếm đâm ngay vào vai bên trái. Hai tăng nhân ở hai bên liền vung đao chém xuống, Thiệu Hạc liền lập tức đầu một nơi mình một nẻo.

Ba nhà sư không nói nửa lời, nhặt mấy cái xác lên, vội vàng đi về phía chùa. Trương Vô Kỵ toan đuổi theo xem ra thế nào, bỗng nghe trong đám cỏ cao ở phía bên phải đằng trước có tiếng thở nhè nhẹ, nghĩ thầm: ?Nguy hiểm thực, hóa ra có người ẩn núp nơi đây?. Chàng liền nằm yên không động đậy, qua khoảng nửa giờ sau, mới nghe trong bụi cỏ có hai tiếng vỗ tay, đằng xa cũng có người vỗ tay đáp lại, trước sau trên dưới có sáu nhà sư trồi lên, kẻ cầm thiền trượng, người mang đao kiếm, chia ra thành hình nan quạt quay trở về chùa.

Trương Vô Kỵ đợi cho sáu tăng nhân đó đi xa rồi mới quay về nhà bếp, những người ngủ chung vẫn đang ngon giấc chưa ai thức dậy. Chàng trong bụng than thầm: ?Nếu như không phải chính mắt ta trông thấy thì có ai ngờ đâu chỉ trong giây lát, ba hảo hán kia đã bị giết chết không kịp trối trăn?. Từ đó trở đi, chàng biết rằng chùa Thiếu Lâm phòng bị rất là nghiêm nhặt không phải bình thường nên lại càng cẩn thận hơn nữa.

Lại thêm vài ngày nữa đã đến trung tuần tháng tư, thời tiết ấm dần, mỗi ngày lại gần tiết Đoan Dương thêm một chút. Chàng tự nhủ: ?Ta ở trong hương tích trù làm những việc cực nhọc này, vậy mà cũng không sao dò hỏi được nghĩa phụ đang ở nơi đâu, tối nay phải mạo hiểm đi các nơi tra xét mới được?.

Đêm hôm đó chàng ngủ đến canh ba liền len lén trở dậy, tung mình nhảy lên mái nhà, nấp sau nóc chùa, đợi tới khi vừa yên ổn đã thấy hai bóng người nhẹ nhàng lướt từ phía nam chạy về hướng bắc, tăng bào phần phật, giới đao sáng loáng chính là những nhà sư trong chùa đi tuần ngang qua.

Đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi rồi, chàng tiến lên vài trượng lại nghe trên mái ngói có tiếng chân người, hai tăng nhân khác nhảy qua, người này vừa qua thì người khác tới, đan chéo vào nhau tuần tra thật là sít sao, e rằng đến hoàng cung nội điện cũng chưa bằng được.

Chàng thấy tình hình như thế, liệu rằng nếu tiếp tục tiến lên thể nào cũng bị phát giác, đành phải bỏ cuộc quay về.

Lại thêm ba ngày nữa, tối hôm đó sấm chớp ầm ầm, trời đổ một trận mưa rào. Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm: ?Thật là trời gúp ta?. Mưa mỗi lúc một to, bốn bề tối đen như mực, chàng liền lẻn ra chạy về phía tiền điện, trong bụng nghĩ: ?La Hán Đường, Đạt Ma Đường, Bát Nhã Viện, Phương Trượng tinh xá bốn nơi là yếu địa của chùa Thiếu Lâm, mình phải đến đó thám thính mới được?. Thế nhưng chùa Thiếu Lâm phòng ốc san sát, thật không sao biết được đâu là La Hán Đường, đâu là Bát Nhã Viện. Chàng lấp ló từ từ tiến lên, đến một khu rừng tre, thấy đằng trước có một căn nhà nhỏ, song cửa chiếu ra ánh đèn. Khi đó người Trương Vô Kỵ đã ướt đẫm, những hạt mưa to bằng hạt đậu rơi đập lên người lên mặt, từng giọt từng giọt văng trở lại. Chàng rón rén đến gần căn nhà kia, nghe thấy trong nhà có người nói chuyện, chính là tiếng của Không Văn đại sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.

Ông ta nói:

- Vì cái gã Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn kia mà trong tháng vừa qua phái Thiếu Lâm đã giết chết hai mươi ba người, tạo nhiều sát nghiệp, thực trái với đức từ bi của nhà Phật. Quang Minh tả sứ của Minh Giáo là Dương Tiêu, hữu sứ là Phạm Dao, Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu, trước sau đều sai người đến chùa Thiếu Lâm xin chúng ta thả Tạ Tốn ra ...

Trương Vô Kỵ nghe nói thế, trong dạ vui mừng: ?Thì ra ông ngoại ta cùng bọn Dương tả sứ cũng đã hay được tin tức và cũng đã cử người đến rồi?. Lại nghe Không Văn nói tiếp:

- Bản tự tuy đã thoái thác nhưng Minh Giáo lẽ nào lại chịu bỏ qua? Trương giáo chủ võ công xuất thần nhập hóa, tới nay vẫn chưa thấy ra mặt, e rẳng có tính toán âm mưu gì bên trong. Ta và Không Trí sư đệ được y ra tay cứu cho, còn nợ người ta một món ân tình, nếu như đích thân đến đây xin thì chúng ta biết ăn nói ra làm sao? Chuyện này quả thật là khó. Sư đệ, sư điệt, hai vị có cao kiến gì không?

Một giọng già nua lạnh lùng khẽ đằng hắng một tiếng, Trương Vô Kỵ nghe thấy giật bắn người, biết ngay đó là giọng của Thành Côn, kẻ cải danh Viên Chân. Người đó Trương Vô Kỵ chưa từng đối diện nói chuyện nhưng khi trước trên Quang Minh Đính nằm ở trong cái túi nghe y kể lại chuyện cũ, rồi lại nghe y quát tháo ở sau tảng đá nên khẩu âm nghe đã quen thuộc. Trong chớp mắt chàng chợt nhớ đến khi còn ở chung một chỗ với Tiểu Siêu, trong lòng cảm thấy bùi ngùi, vừa êm đềm, vừa chua xót.

Chàng nghe Viên Chân nói:

- Tạ Tốn có ba vị thái sư thúc canh gác, ắt không thể nào sơ sẩy điều gì được. Cái Anh Hùng đại hội kỳ này có quan hệ đến uy danh, hưng suy vinh nhục của phái Thiếu Lâm chúng ta trong hàng nghìn, hàng trăm năm nay, cái ơn nhỏ của ma giáo kia, phương trượng sư thúc chẳng cần phải khắc khoải làm chi. Huống chi việc xảy ra tại chùa Vạn An chính là do ma giáo ngầm cấu kết với triều đình để gây khó khăn cho sáu đại môn phái, chẳng lẽ phương trượng sư thúc lại không hay biết gì sao?

Không Văn ngạc nhiên hỏi:

- Minh Giáo cấu kết với triều đình là thế nào?

Viên Chân nói:

- Trương giáo chủ của Minh Giáo vốn dĩ kết thân với Chu cô nương chưởng môn phái Nga Mi, ngay ngày làm lễ cưới, quận chúa nương nương của Nhữ Dương Vương bỗng dưng dắt tay tên tiểu tử họ Trương hai người bỏ trốn, chuyện này dấy động giang hồ, phương trượng sư thúc chắc cũng đã nghe tới rồi.

Không Văn đáp:

- Quả đúng thế, ta có nghe chuyện đó rồi.

Viên Chân nói:

- Trong đám thủ hạ của quận chúa nương nương kia có một tên bộ thuộc đắc lực, tên gọi khổ đầu đà, hai vị sư thúc ở chùa Vạn An ắt hẳn cũng đã gặp qua y chứ?

Không Trí tại cao tháp chùa Vạn An bị Triệu Mẫn ép buộc phải biểu lộ võ công, đã từng bị khổ đầu đà hành hạ nhiều lần, nhưng khi đó nội lực mất hết không có cách gì kháng cự, lúc này cũng vẫn còn phẫn nộ chưa thôi liền nói:

- Hừ, chuyện này xong rồi, ta thể nào cũng trở lại Đại Đô gặp tên khổ đầu đà đó một lần mới thỏa dạ.

Viên Chân nói:

- Thế hai vị sư thúc có biết gã khổ đầu đà đó là ai không?

Không Trí nói:

- Gã khổ đầu đà đó kiến thức thật rộng rãi, dường như võ công các nhà các phái nào y cũng thông thạo, nhưng không sao có thể biết được môn phái của y.

Viên Chân nói:

- Khổ đầu đà chính là Phạm Dao, Quang Minh hữu sứ của ma giáo.[4]

Không Văn và Không Trí cùng hỏi dồn:

- Có thực thế không?

Giọng hai người thực vô cùng kinh ngạc. Viên Chân nói:

- Viên Chân lẽ nào dám nói láo hai vị sư thúc? Nếu Tết Đoan Dương này y dám đến bản tự, hai vị sư thúc gặp sẽ biết ngay.

Không Trí trầm ngâm rồi nói:

- Nếu quả là như thế, Trương Vô Kỵ và quận chúa kia quả có ngầm cấu kết với nhau, đưa cô ta ra bắt giữ các thủ lãnh của sáu đại môn phái rồi do Trương Vô Kỵ giả vờ cứu để lấy lòng.

Viên Chân nói:

- Chuyện đó mười phần thì đến tám chín là như thế.

Không Văn nói:

- Ta xem Trương giáo chủ trung hậu hiệp nghĩa, dường như không phải là hạng người làm vậy, mình không nên trách lầm người tốt.

Viên Chân nói:

- Phương trượng sư thúc minh giám, người đời có nói rằng: ?Biết người biết mặt chứ sao biết được lòng?. Gã Tạ Tốn kia là nghĩa phụ của Trương Vô Kỵ, lại là một trong tứ đại hộ giáo pháp vương của ma giáo, ma giáo thể nào cũng hết sức cứu y cho bằng được, đến kỳ đại hội Đồ Sư này mọi chuyện sẽ rõ ràng.

Sau đó ba người bàn tính sẽ tiếp đãi khách khứa thế nào, làm sao chống giữ kẻ địch đến cướp Tạ Tốn, rồi xem các môn phái có những ai là cao thủ. Viên Chân thì muốn khích cho các phái đánh lẫn nhau, đợi đến khi tất cả mọi bên đều bại cả, lúc đó phái Thiếu Lâm sẽ ra mặt thu lợi, trấn áp thu phục các môn phái, chưởng quản thanh đao Đồ Long một cách danh chính ngôn thuận rồi giết Tạ Tốn tế Không Kiến thần tăng.

Không Văn vẫn hết sức e dè, không muốn làm tổn thương thêm nhân mạng để đắc tội với đồng đạo võ lâm, lại dường như có phần không muốn làm mất lòng Minh Giáo.

Còn Không Trí thì nước đôi, nói:

- Nói đi nói lại, chuyện quan trọng hơn hết là làm sao ép cho Tạ Tốn nói ra thanh đao Đồ Long nay đang ở đâu, nếu không chuyến này đại hội Đồ Sư xôi hỏng bỏng không, ngược lại hóa ra làm tổn thương uy vọng của bản phái.

Không Văn nói:

- Sư đệ nói phải lắm. Chúng ta phải làm sao trong đại hội này dương đao lập uy, nói cho mọi người biết thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn kia đã thuộc về bản phái chưởng quản, khi đó bản phái hiệu lệnh thiên hạ thì còn ai là kẻ không tuân theo.

Không Trí nói:

- Hay lắm, cứ thế mà làm. Viên Chân, ngươi tìm cách nào nói chuyện với Tạ Tốn thêm một lần nữa, bảo y giao bảo đao ra, chúng ta sẽ tha mạng cho y.

Viên Chân đáp:

- Vâng! Cẩn tuân lời sai bảo của hai vị sư thúc.

Có tiếng chân người nhẹ nhàng, Viên Chân đã đi ra. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm, biết ba nhà sư Thiếu Lâm này võ công cực kỳ cao cường, chỉ cần hơi có tiếng động, lập tức sẽ bị phát giác ngay, nếu như cả ba cùng ra tay một lượt, một mình e rằng khó mà thủ thắng, giỏi lắm thì chỉ thoát thân được thôi, còn việc cứu nghĩa phụ thì quả là khó khăn vô cùng. Nghĩ thế chàng bèn nín thở bất động.

Chỉ thấy thân hình gầy cao của Viên Chân đi về hướng bắc, tay cầm một cái dù phất bằng giấy dầu, mưa nặng hột đập lên chiếc ô kêu lộp bộp. Trương Vô Kỵ đợi y đi ra khoảng chừng hơn chục trượng rồi lúc ấy mới nhẹ nhàng cất bước, đi theo sau.

[1]Sách tướng viết là người nào thịt đâm ngang, mặt bành bạnh là người hung ác (diện nhục hoành sinh tính tất hung)

[2] Chỉ sáu giác quan nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý

[3]tức Vân Nam

[4] Việc này sau khi cứu xong sáu đại môn phái tất cả chạy ra ngoài thành thì ai cũng biết rồi vì lúc đó Phạm Dao cũng đi theo cùng sao ở đây Không Văn, Không Trí lại chưa biết ?

Hồi 36

YÊU KIỀU TAM TÙNG UẤT THANH THƯƠNG

Bao giờ ma chướng lặng,

Tâm thanh tĩnh vô duyên.

Một niệm oan nghiệt trổi,

Vòng Kim Cương triền miên.

Dưới cơn mưa như trút, số người canh gác trên mái nhà và các nơi đều giảm đi nhiều. Trương Vô Kỵ men theo các góc tường, nhờ có các gốc cây che khuất thẳng đường đuổi theo. Chàng thấy Viên Chân nhảy ra khỏi tường vây quanh đằng sau chùa, nghĩ thầm: ?Thì ra nghĩa phụ bị nhốt ở bên ngoài, hèn gì trong chùa không thấy một chút hình tích nào hết?.

Chàng không dám công nhiên nhảy qua tường đuổi theo nên đành phải đứng ở chân tường từ từ trèo lên. Đến trên bờ tường đợi cho các tăng nhân tuần tra đi qua rồi lúc ấy mới dám nhảy xuống.

Trong cơn mưa chàng thấy chiếc dù của Viên Chân ở phía bắc, cách khoảng chừng một trăm trượng quay ngoặt qua bên trái, rồi đi thẳng lên đỉnh một ngọn núi nhỏ. Viên Chân lúc này tuổi tác cũng phải bảy mươi vậy mà thân thủ vẫn nhanh nhẹn dị thường, chiếc dù không rung động một chút nào, chẳng khác gì có người buộc dây kéo y tà tà bay lên.

Trương Vô Kỵ vội vàng đi tới chân núi, đang định trèo lên, bỗng thấy bên cạnh sơn đạo ánh sáng lấp loáng, có người cầm binh khí mai phục nơi đó. Chàng vội vàng dừng bước, chỉ trong giây lát thấy trong đám cây nhảy ra bốn người, ba người đi trước, một người đi sau, cùng chạy lên trên đỉnh núi. Nhìn lên trên chỉ thấy trên tột cùng có vài cây tùng xanh rì, chẳng thấy nhà cửa gì cả, không hiểu Tạ Tốn bị nhốt ở nơi nào nên chàng cũng theo lên trên ngọn núi.

Bốn người kia khinh công hết sức cao siêu, chàng gia tăng cước bộ, đuổi theo chỉ cách họ chừng hai chục trượng. Trong bóng đêm chàng thấy thấp thoáng một người đàn bà, ba người đàn ông ăn mặc theo lối tục gia, nghĩ thầm: ?Bốn người này phần lớn là đến để gây chuyện với nghĩa phụ, vậy cứ để cho họ đấu với Viên Chân đến khi một sống một chết, ta không việc gì phải vội ra tay?.

Đến gần đỉnh núi, bốn người kia càng chạy nhanh hơn. Chàng đột nhiên nhận ra hai người trong đó: ?Ồ, hóa ra là hai vợ chồng Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn?.

Chỉ nghe Viên Chân hú lên một tiếng dài, đột nhiên quay phắt lại, chạy vụt trở xuống. Trương Vô Kỵ vội vàng ẩn vào trong đám cỏ ở bên đường, nằm mọp xuống mà di hành, vừa qua bên trái mấy trượng, đã nghe binh khí chạm nhau chát chúa, thì ra Viên Chân đã động thủ với những người đi tới.

Cứ như tiếng binh khí đụng chạm nhau thì hai người đang đấu với một mình Viên Chân chàng chợt động tâm: ?Nếu hai người còn lại không tiến lên tấn công ắt là họ đang lên đỉnh núi để tìm nghĩa phụ ta rồi?. Chàng bèn vội theo đám cỏ cao trèo lên.

Đến đỉnh núi rồi thấy đó là một khoảng đất trống phẳng lì, chẳng có nhà cửa phòng ốc gì hết, chỉ có ba cây tùng cao ngất mọc thành hình chữ phẩm, cành lá vươn lên không uốn khúc như ba con rồng, chàng thầm ngạc nhiên: ?Chẳng lẽ nghĩa phụ không phải bị giam nơi đây??.

Bỗng thấy trong bụi cỏ phía bên phải có tiếng loạt soạt, ai đó đang cử động, rồi nghe tiếng Ban Thục Nhàn nói:

- Mau mau động thủ, hai vị sư đệ chưa chắc đã cầm cự được với nhà sư Thiếu Lâm đâu.

Hà Thái Xung nói:

- Đúng thế!

Hai người liền chui ra, xông vào trong giữa ba cây tùng. Trương Vô Kỵ ngại rằng Tạ Tốn cũng ở gần đâu đây, không dám sơ suất chút nào, cũng vội từ trong đám cỏ trườn lên. Đột nhiên nghe thấy Hà Thái Xung kêu hự lên một tiếng, dường như đã bị thương. Chàng thò đầu ra xem, thấy Hà Thái Xung đang ở khoảng giữa ba cây thông, trường kiếm múa lên, dường như đang cùng ai giao đấu, nhưng không thấy đối phương đâu, chỉ thỉnh thoảng vọng tới những tiếng bộp bộp bộp, nghe như trường kiếm đang đụng phải một thứ binh khí gì quái lạ. Chàng trong bụng lạ lùng, vội bò lên thêm vài trượng nữa, chăm chú nhìn xem không khỏi giật mình kinh hãi.

Thì ra hai cái gốc cây đối diện với chàng đều có hõm vào một cái hốc đủ để chứa một người, trong mỗi gốc cây có một lão tăng, tay múa một sợi dây dài màu đen, đánh vào vợ chồng Hà Thái Xung. Một cây tùng thì lưng quay về phía Trương Vô Kỵ, từ phía trước cũng có một sợi dây đánh ra, ắt hẳn cũng có một nhà sư ngồi trong đó. Trong đêm tối, ba sợi đây đen sì, khi múa lên không thấy một chút hình bóng nào. Vợ chồng Hà Thái Xung múa trường kiếm thủ hộ thật nghiêm mật, nhưng vì không nhìn thấy đường đi của binh khí đối phương nên không có cách gì tấn công trả lại được. Ba sợi dây trông thì có vẻ chậm nhưng thực ra rất nhanh, lại không có chút hơi gió nào, dưới cơn mưa như trút nước, nơi đỉnh núi âm u, thật chẳng khác nào ma quỉ, ngụy bí vô cùng.

Hai vợ chồng họ Hà luôn mồm kêu la chỉ điểm lẫn nhau, cố hết sức để thoát khỏi vòng vây hình chữ phẩm này nhưng mỗi lần xông ra đều bị ba sợi dây dồn trở vào. Trương Vô Kỵ kinh ngạc thầm, thấy ba sợi dây múa lên không một tiếng động, nội lực của người sử dụng đã đến mức phản chiếu không minh[1], công lực tinh thuần, không còn lộ ra chút vấp váp nào, chính mình cũng không bì kịp trong bụng sợ hãi: ?Viên Chân có nói rằng nghĩa phụ ta do ba vị thái sư thúc canh gác, chắc là ba vị lão tăng này, công lực quả thực thâm hậu kể sao cho xiết?.

Chỉ nghe một tiếng ?A? thật thảm thiết, lưng Hà Thái Xung đã bị đánh trúng một roi, từ trong vòng văng ra, xem chừng không thể nào sống được nữa. Ban Thục Nhàn vừa đau xót vừa hoảng hốt, sơ ý một chút, ba sợi dây cùng đánh vào lập tức đầu nát tan, chân tay gãy vụn, không còn ra hình dáng gì. Tiếp theo một sợi dây rung mạnh, cuộn cái xác bà ta vứt ra ngoài.

Viên Chân vừa đánh vừa chạy, lùi lên trên đỉnh núi, mồm kêu:

- Gớm nhỉ, có giỏi thì lên đây chịu chết.

Hai người đối địch với y đều là cao thủ phái Côn Lôn, cứ tính võ công thì Viên Chân không kém gì họ nhưng không phải cứ cất tay là giết được ngay, giỏi lắm cũng chỉ giết được một, người kia ắt sẽ nhanh chân chạy mất nên dụ cho họ đến dưới chỗ ba cây tùng.

Hai người còn cách chỗ cây tùng chừng vài trượng thấy xác Hà Thái Xung nằm đó nên cùng dừng lại, không đề phòng hai sợi dây từ đằng sau lẳng lặng bay tới cuốn chặt lưng hai người, cùng rung một cái, ném từ trên đỉnh núi cao hàng trăm trượng xuống dưới vực. Hai người rơi xuống đụng đá chết ngay nhưng tiếng kêu thảm thiết của họ khi còn lơ lửng trên không, vang qua dội lại những vách núi khác vang vang mãi hồi lâu mới dứt.

Trương Vô Kỵ thấy ba vị lão tăng trong giây lát đã thanh toán xong bốn đại cao thủ phái Côn Lôn, ra tay nặng mà xem thật nhẹ nhàng như trò đùa, võ công cao siêu như thế trên đời này thật khó thấy, so với Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông còn có vẻ cao hơn, tuy chưa bì được với thái sư phụ Trương Tam Phong ?thâm bất khả trắc? nhưng cũng đạt tới mức thần kỳ. Phái Thiếu Lâm nếu như còn những bậc nguyên lão thế này, xem ra ngay cả thái sư phụ và Dương Tiêu cũng không biết, tim chàng đập thình thình, nằm mọp trong đám cỏ cao không dám thở mạnh.

Chỉ thấy Viên Chân giơ chân đá luôn hai cái xác Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn bay xuống sơn cốc. Hai tử thi rơi một hồi lâu mới nghe truyền lên mấy tiếc lục cục, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Vợ chồng Hà Thái Xung đối với ta lấy oán báo đức, hôm nay lại toan đến hại nghĩa phụ ta để cướp bảo đao, nhân phẩm tuy thấp kém nhưng võ công cao siêu, quả là bậc tông sư của một môn phái, ngờ đâu lại ra nông nỗi?. Chàng nghe Viên Chân cung kính nói:

- Ba vị thái sư thúc thần công cái thế, vừa cất tay đã tiêu diệt được bốn đại cao thủ của phái Côn Lôn, Viên Chân này khâm phục vô cùng, không biết nói sao cho vừa.

Một lão tăng hừ một tiếng, không trả lời. Viên Chân nói tiếp:

- Viên Chân phụng lệnh phương trượng sư thúc, kính cẩn đến thăm hỏi ba vị thái sư thúc, xin được nói chuyện với tù đồ vài câu.

Tiếng một người khô khan nói:

- Không Kiến sư điệt tài cao đức trọng, ba chúng ta yêu quí vô cùng, vẫn mong y phát huy được võ học phái Thiếu Lâm, lại chẳng may chết về tay kẻ gian. Ba người bọn ta tọa quan đã mấy chục năm, vốn không màng đến việc đời nữa, nay cũng vì Không Kiến sư điệt mà phải đến ngọn núi này. Gian nhân kia có chết cũng đáng, một đao chém y cho xong, việc gì còn phải lằng nhằng cho thêm phiền việc thanh tu của ba chúng ta?

Viên Chân khom lưng đáp:

- Thái sư thúc dạy chí phải. Thế nhưng phương trượng sư thúc có nói rằng: Ân sư của đệ tử tuy bị gian nhân hãm hại nhưng công phu của ân sư cao siêu biết là chừng nào, làm sao một mình kẻ gian kia lại giết chết được? Cho nên đem y giam ở đây, phiền ba vị thái sư thúc công lao tọa thủ, một là để dẫn dụ đồng đảng của kẻ gian tới cứu, thế là có dịp trừ sạch những kẻ năm sư giết hại ân sư đệ tử, không để cho ai thoát, thứ nữa ép y giao lại thanh đao Đồ Long, để thanh đao này khỏi rơi vào tay phái khác, soán đoạt cái tên võ lâm chí tôn, làm tổn đến uy vọng trăm nghìn năm qua của bản phái.

Trương Vô Kỵ nghe y nói thế, không khỏi ngầm nghiến răng, nghĩ thầm: ?Gã ác tặc Viên Chân này dẫu lăng trì tùng xẻo cũng chưa hết tội, y mồm mép bẻo lẻo mời được ba vị cao tăng không lý việc đời mấy chục năm qua ra, mượn tay ba người giết các cao thủ võ lâm?. Chàng nghe một vị lão tăng hừ một tiếng đáp:

- Vậy thì ngươi nói chuyện với y đi.

Khi đó mưa vẫn chưa tạnh, tiếng sấm chớp vẫn ỳ ầm không dứt. Viên Chân đi đến giữa ba cây tùng, quì xuống, nói xuống mặt đất:

- Tạ Tốn, ngươi đã nghĩ kỹ chưa? Chỉ cần ngươi nói ra nơi cất dấu thanh đao Đồ Long, ta lập tức thả cho ngươi đi.

Trương Vô Kỵ thấy thật lạ lùng: ?Y nói vọng xuống mặt đất, không lẽ nơi đây có một địa lao, nghĩa phụ ta bị nhốt trong đó hay sao??.

Chỉ nghe một âm thanh trong trẻo hơn của một lão tăng bực bội nói:

- Viên Chân, người xuất gia không được vọng ngữ, sao ngươi lại đánh lừa y là sao? Nếu y nói ra nơi cất giữ bảo đao, không lẽ ngươi thả y ra thật ư?

Viên Chân đáp:

- Xin thái sư thúc minh giám cho, đệ tử thiển nghĩ, mối thù của ân sư tuy sâu thật nhưng để lên bàn cân thì uy vọng của bản phái còn nặng hơn. Chỉ cần y nói lên nơi cất giữ thanh đao, bản phái có được bảo đao rồi thì sẽ thả cho y đi. Ba năm sau, đệ tử sẽ đi kiếm y để báo thù cho ân sư cũng được.

Lão tăng đó nói:

- Như thế cũng phải. Trong võ lâm tín nghĩa làm đầu, một lời nói ra như tên rời khỏi nỏ, dù là kẻ đại gian đại ác thì đệ tử Thiếu Lâm cũng không thể thất tín được.

Viên Chân nói:

- Xin kính cẩn tuân theo lời giáo huấn của thái sư thúc.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ba nhà sư Thiếu Lâm này không những võ công trác tuyệt, mà còn là những cao tăng đức độ, có điều rơi vào gian kế của Viên Chân mà không hay biết đấy thôi?. Lại nghe Viên Chân quát xuống dưới đất:

- Tạ Tốn, lời của thái sư thúc ta, ngươi nghe thấy chưa? Ba vị lão nhân gia bằng lòng để ngươi đào tẩu đó.

Bỗng dưới đất truyền lên tiếng người nói:

- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?

Trương Vô Kỵ nghe thấy giọng nói vừa hùng hồn vừa lạnh lẽo, chính là tiếng của nghĩa phụ, trong lòng cực kỳ xúc động, hận không thể lập tức xông lên, đánh chết Thành Côn, cứu Tạ Tốn ra. Thế nhưng nếu chàng xuất hiện, ba sợi dây đen của các cao tăng Thiếu Lâm sẽ đánh tới liền, chẳng cần Thành Côn ra tay, riêng ba người liên thủ chàng cũng không thể nào địch được, thành thử cố gắng nén lòng, nghĩ thầm: ?Đợi cho tên ác tăng Viên Chân này đi khỏi rồi, ta sẽ tiến lên bái kiến ba vị cao tăng, nói rõ nguyên ủy đầu dây mối nhợ. Ba vị Phật pháp tinh thâm, không lẽ không biết thế nào là phải thế nào là trái?.

Lại nghe Viên Chân thở dài nói:

- Tạ Tốn, tuổi ngươi nay cũng đã cao rồi, những việc năm xửa năm xưa, việc gì mà cứ phải u uất chất chứa mãi trong tim? Cùng lắm chỉ hai mươi năm nữa thì ta cũng như ngươi đều về lòng đất. Những gì trước đây ta đối với ngươi không phải cũng như những gì tốt đẹp giữa hai chúng ta, thôi thì xóa sạch là xong.

Tạ Tốn nghe y kể lể, không thèm trả lời, đến khi y nói xong mới đáp:

- Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?

Viên Chân cứ nói qua nói lại một hồi lâu, Tạ Tốn cũng chỉ có một câu: ?Thành Côn, ngươi còn mặt mũi nào nói chuyện với ta nữa?? Viên Chân bèn khinh khỉnh nói:

- Ta để cho ngươi suy nghĩ ba ngày. Ba ngày sau, nếu như vẫn không chịu nói ra thanh đao Đồ Long ở đâu, ngươi chắc cũng đoán biết ta sẽ đối xử với ngươi thế nào rồi.

Nói xong y liền đứng lên chắp tay bái biệt ba nhà sư rồi đi xuống núi.

Trương Vô Kỵ đợi y đi xa, đang định tiến ra tố cáo mọi chuyện cho ba nhà sư rõ, đột nhiên bên người dường như có điều gì khác lạ, bị tập kích mà không thấy có một dấu hiệu gì trước, chàng kinh hoàng, lập tức lăn ra xa, thấy có hai vật dài lướt qua mặt, chỉ cách người chừng nửa thước, thế đi thật nhanh nhưng lại không có chút kình phong nào, chính là hai sợi dây đen.

Chàng vừa lăn ra khỏi một trượng, lại thấy một sợi dây đen khác điểm luôn vào ngực, biến thành một loại binh khí thẳng băng, chẳng khác gì trường mâu, đầu gậy đâm vào, trong khi hai sợi dây kia cũng từ hai bên cuộn lại.

Chàng đã thấy bốn cao thủ của phái Côn Lôn trong chớp mắt đã bị táng mạng dưới ba sợi dây này, biết rằng đây là một loại binh khí cực kỳ lợi hại, lúc này phải đối phó với nó lại càng kinh hãi hơn. Chàng vung tay trái xoay một cái, bắt ngay được sợi dây đang điểm thẳng vào ngực, đang định đẩy sang một bên, bỗng thấy sợi dây rung lên một cái, một luồng kình lực như bài sơn đảo hải tống vào, luồng kình lực đó nếu trúng phải lập tức sẽ gân cốt đứt lìa, ngũ tạng tan nát ngay. Ngay trong một sát na nhanh như ánh chớp ấy, tay phải chàng vung tay ngược về hất dạt hai sợi dây tấn công từ sau lưng ra, tay trái dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp phối hợp với Cửu Dương thần công, vừa nâng lên vừa tống ra, thân theo kình mà vọt thẳng lên trời.

Ngay khi đó, trên trời liên tiếp ánh chớp lằng ngoằng mấy cái sáng lòa lên, chỉ thấy hai nhà sư cùng kêu lên ?Ồ? một tiếng, dường như ngạc nhiên về võ công của chàng. Mấy ánh chớp đó chiếu rõ thân hình chàng, ba vị cao tăng cùng ngửng đầu lên xem, thấy kẻ mang thần công tuyệt đỉnh trong người đó chỉ là một thanh niên nhà quê mặt mày lem luốc, lại càng kinh hãi. Ba sợi dây đen liền giống như ba con rồng giơ nanh múa vuốt, chạy đuổi theo lên, chia ra làm ba mặt tiến tới. Trương Vô Kỵ nhờ có ánh chớp cũng nhìn rõ mặt mày của ba nhà sư. Người ngồi ở phía đông bắc mặt mũi đen xám như chì, người phía tây bắc thì mặt vàng như gỗ, còn người ở phía nam thì mặt trắng bệch như tờ giấy. Ba nhà sư mặt mũi đều hóp vào, người gầy tưởng như chỉ còn da với xương, nhà sư mặt vàng lại chột một mắt. Năm con mắt của ba nhà sư phản chiếu ánh chớp đều lấp lánh có thần.

Trương Vô Kỵ thấy ba sợi dây đang cuốn vào thân mình, chàng liền tay trái gạt ra tay phải kéo lại, một tay cuộn một tay xoay, mượn luôn kình lực của ba người, kéo luôn cả ba sợi dây lại một chỗ, chiêu này chính là Thái Cực tâm pháp do Trương Tam Phong truyền thụ, kình thành một vòng tròn, kình lực truyền trên ba sợi dây lập tức bị cuộn lại với nhau. Bỗng nghe ầm ầm mấy tiếng sét vang trời, tiếng vọng uy chấn thật là kinh tâm động phách. Trương Vô Kỵ ở trên không lượn một nửa vòng, chân trái móc luôn vào một cành tùng, thân hình đã đứng vững, trong tiếng sấm ầm ầm dõng dạc nói:

- Hậu học vãn bối, Minh Giáo giáo chủ Trương Vô Kỵ, tham kiến ba vị cao tăng.

Nói xong chân trái đứng trên cành cây, chân phải đưa ra ngoài, khom lưng hành lễ. Cành tùng theo thế chàng vái chào nhô lên hụp xuống như sóng biển nhưng Trương Vô Kỵ vẫn bình ổn đứng yên, thân hình phiêu dật. Chàng tuy khom mình hành lễ, nhưng ở trên cao vái xuống, không bị kém vế chút nào.

Bà nhà sư thấy nội kình trên sợi dây đen bị chàng gom lại một chỗ, rung tay một cái, ba sợi dây liền tách ra.

Trong ba chiêu chín thức vừa rồi của ba nhà sư, mỗi thức đều ẩn tàng mười chiêu biến hóa, trong đó có vài chục sát thủ, nào ngờ đối phương từng chiêu từng thức đều hóa giải hết, mà mỗi lần hóa giải đều nguy hiểm cùng cực, chỉ cần sai một ly là đã gân cốt nát nhừ, chết ngay tại chỗ, vậy mà vẫn nhẹ nhàng tiêu sái, coi hung hiểm như chẳng có gì. Tam tăng trong đời chưa từng gặp một địch thủ nào cao cường đến thế, không thể không ngạc nhiên. Họ có biết đâu khi Trương Vô Kỵ hóa giải ba chiêu chín thức vừa rồi, là đã giở hết sức bình sinh, chính nhờ cành cây trồi lên hụp xuống, ngầm điều vận chân khí đang loạn lên trong đan điền.

Võ công Trương Vô Kỵ vừa sử dụng bao gồm cả Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, Thái Cực Quyền ba môn đại thần công, còn khi lượn một nửa vòng trên không lúc sau cùng thì chính là tâm pháp khắc trên thánh hỏa lệnh. Ba vị cao tăng của phái Thiếu Lâm tuy mang tuyệt kỹ trong người, nhưng tọa quan đã mấy chục năm, không nghe chuyện đời, trong bốn môn thần công kia chưa từng thấy môn nào bao giờ, chỉ mang máng cảm thấy nội kình của chàng có gì tương đồng với Cửu Dương công của phái Thiếu Lâm nhưng so với thần công của bản phái thì hùng hồn tinh vi hơn nhiều. Đến khi nghe chàng thông báo tính danh, tấm lòng cảm phục và ngạc nhiên của ba nhà sư lập tức biến ra phẫn nộ.

Nhà sư mặt trắng bệch hậm hực nói:

- Lão nạp đang tự hỏi cao nhân phương nào giáng lâm, đâu có biết là đại ma đầu của ma giáo đến rồi. Ba anh em lão nạp tọa quan đã mấy chục năm, không lý gì đến tục vụ, ngay chuyện đại sự của bản tự cũng không nghe không hỏi. Đâu ngờ ngày hôm nay lại có dịp gặp giáo chủ của ma giáo, thực đúng là nghìn năm một thuở.

Trương Vô Kỵ nghe ông ta mở miệng nói ra là ?ma đầu?, khép miệng lại là ?ma giáo? biết rằng ác cảm với bản giáo thật sâu, thành thử hơi trù trừ, không biết làm thế nào để mở mồm thuật chuyện. Chỉ nghe nhà sư mặt vàng chột mắt hỏi:

- Ma giáo giáo chủ là Dương Đính Thiên kia mà? Tại sao lại là các hạ?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Dương giáo chủ đã từ trần hơn ba mươi năm rồi.

Nhà sư mặt vàng liền ?A? lên một tiếng, không nói thêm lời nào nhưng trong tiếng kêu dường như ẩn tàng biết bao thương tâm thất vọng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ông ta nghe tin Dương giáo chủ qua đời xem ra rất lấy làm đau khổ, có lẽ năm xưa giao tình với Dương giáo chủ rất sâu. Nghĩa phụ là bộ thuộc cũ của Dương giáo chủ, ta thử gợi lại cái tình cố nhân, nói rõ việc Dương giáo chủ bị Viên Chân chọc tức mà chết để xem ra thế nào?? Chàng liền nói:

- Có lẽ đại sư cũng biết Dương giáo chủ?

Lão tăng mặt vàng đáp:

- Dĩ nhiên là biết. Lão nạp nếu như không biết đến đại anh hùng Dương Đính Thiên thì đâu đến nỗi thành người một mắt? Ba sư huynh đệ ta việc gì phải ngồi khô thiền[2] hơn ba chục năm qua?

Mấy câu nói đó nghe ra có vẻ bình thường, nhưng bên trong ngầm chứa nỗi đau thương oán hờn vừa sâu xa vừa lớn lao. Trương Vô Kỵ thầm kêu: ?Khổ rồi, khổ rồi!?. Cứ theo như giọng nói của ông ta, một mắt của lão tăng này bị Dương Đính Thiên làm hại, và ba sư huynh đệ tu tập khô thiền hơn ba mươi năm khổ công đau đớn cũng là để báo được mối thù này. Giờ đây họ nghe tin kẻ đại cừu đã chết nên sinh ra lòng thất vọng.

Nhà sư mặt vàng đột nhiên hú lên một tiếng thanh thoát nói:

- Trương giáo chủ, lão nạp pháp danh Độ Ách, còn vị sư đệ mặt trắng đây pháp danh Độ Kiếp, vị sư đệ mặt đen kia pháp danh Độ Nạn. Dương Đính Thiên đã chết rồi, cái thâm cừu đại oán của ba người chúng ta, đành phải đòi nơi giáo chủ đương nhiệm. Sư điệt Không Kiến, Không Tính của anh em ta đều chết vì tay thủ hạ quí giáo, nay giáo chủ đã đến đây, ắt cũng hợm mình nên không có gì sợ hãi cả. Tất cả ân oán mấy chục năm qua, chúng ta dùng võ công mà kết liễu cho xong.

Trương Vô Kỵ nói:

- Vãn bối cùng quí phái vốn không có liên quan gì, đến đây chỉ cốt cứu nghĩa phụ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn mà thôi. Không Kiến thần tăng tuy là do nghĩa phụ tôi lỡ tay đánh chết, nhưng bên trong còn nhiều uẩn khúc. Còn như cái chết của Không Tính thần tăng thì không liên quan gì đến tệ giáo cả. Ba vị xin đừng nghe lời của một bên, xin hãy nói rõ ràng trắng đen phải trái đã.

Nhà sư mặt trắng Độ Kiếp hỏi:

- Cứ như ngươi biết, Không Tính bị ai giết hại?

Trương Vô Kỵ nhíu mày đáp:

- Cứ như vãn bối biết, Không Tính thần tăng chết vì tay võ sĩ của triều đình thuộc Nhữ Dương Vương phủ.

Độ Kiếp hỏi tiếp:

- Thế các võ sĩ của phủ Nhữ Dương Vương thì ai thống lãnh?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Do con gái của Nhữ Dương Vương, Hán danh Triệu Mẫn.

Độ Kiếp nói:

- Ta nghe Viên Chân nói rằng, cô gái đó liên kết với quí giáo cùng chung một đường, nàng ta phản chúa phản cha, đầu nhập Minh Giáo, lời đó có thật hay không?

Y nói năng đanh thép lời lời mỗi lúc một thêm ép chặt, Trương Vô Kỵ chỉ còn nước ấp úng:

- Đúng thế, nàng ... nàng ... hiện nay ... hiện nay đã bỏ chỗ tối tìm đường sáng.

Độ Kiếp lớn tiếng nói:

- Giết Không Kiến là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn của ma giáo; giết Không Tính thì là Triệu Mẫn của ma giáo. Triệu Mẫn lại còn công phá chùa Thiếu Lâm, đem bao nhiêu đệ tử trong chùa bắt cả, nhưng chuyện không thể tha thứ cho được là khắc lời lẽ nhục mạ lên trên mười sáu vị La Hán. Ngoài ra còn một con mắt của sư huynh ta đến nỗi anh em ta phải chịu đựng một trăm năm khô thiền. Trương giáo chủ, món nợ này không tìm giáo chủ để thanh toán thì còn tìm ai?

?Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, nghĩ thầm nếu mình đã thừa nhận là thu dung Triệu Mẫn, những chuyện ác cũ nàng đã làm, cũng đành phải gánh vác hết. Chỉ trong chớp mắt chàng hiểu ngay được tâm sự của cha mình vì việc sai quấy ái thê đã làm mà phải vung kiếm tự vẫn, còn oán thù năm xưa Dương giáo chủ và Tạ Tốn đã kết, đến ngày hôm nay, lời Độ Kiếp nói quả không sai; nếu mình không gánh chịu thì ai vào đây?

Chàng đứng thẳng người lên, kình lực chạy thẳng xuống đầu ngón chân, cành cây đang nhô lên hụp xuống lập tức đứng dừng ngay lại không còn động đậy chút nào, lớn tiếng nói:

- Ba vị lão thiền sư nếu đã nói thế, vãn bối không thể nào trốn được món nợ này, bao nhiêu tội nghiệt một mình vãn bối chịu hết. Thế nhưng nghĩa phụ vãn bối đả thương Không Kiến thần tăng, bên trong có rất nhiều điều đau lòng, mong được ba vị lão thiền sư tha thứ? cho.

Độ Ách nói:

- Ngươi cậy vào cái gì mà dám đến đây chạy tội cho Tạ Tốn? Không lẽ ba sư huynh đệ ta không giết nổi ngươi hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm việc đến nước này, chỉ còn cách hết sức ra tay một phen, bèn nói:

- Vãn bối lấy một địch ba quyết không thể nào là đối thủ của các vị. Vậy không biết vị lão thiền sư nào đứng ra dậy bảo?

Độ Kiếp nói:

- Nếu bọn ta đơn đả độc đấu chắc không thắng được ngươi đâu. Món huyết hải thâm cừu này, không thể theo qui củ giang hồ cho được. Tên ma đầu kia, mau xuống đây chịu chết. A Di Đà Phật!

Ông ta vừa niệm Phật xong, Độ Ách, Độ Nạn hai người liền tiếp theo:

- Ngã Phật Từ Bi!

Ba sợi dây đen liền cùng vung lên, xông vào cuốn người chàng lại. Trương Vô Kỵ hơi hạ mình xuống, theo chỗ trống của ba sợi dây nhảy xuống, hai chân chưa chấm đất, còn trên không trung thân hình đã biến đổi, xông về phía Độ Nạn. Độ Nạn dựng tả chưởng lên đánh mạnh ra, một luồng kình phong tống thẳng vào bụng dưới chàng. Trương Vô Kỵ xoay người chống đỡ, dùng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp hóa giải kình lực. Ngay lúc đó, hai sợi dây đen của Độ Ách và Độ Kiếp cùng cuốn tới. Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng xoay một nửa vòng, tả chưởng của Độ Kiếp tung ra, đánh tới không một tiềng động. Trương Vô Kỵ ở trong giữa ba cây tùng tùy theo chiêu mà chống trả, bất thình lình đánh ra một chưởng, chưởng lực mang theo cả mấy trăm giọt mưa to bằng hạt đậu theo kình phong bắn về phía Độ Ách. Độ Ách nghiêng qua né tránh nhưng mặt cũng bị trúng phải vài mươi hạt, cảm thấy hơi đau, nhà sư liền quát lên một tiếng:

- Tiểu tử giỏi nhỉ!

Chiếc giây đen trong tay vung ra, xoay thành hai vòng tròn, từ trên không chụp xuống đầu Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ thân hình chẳng khác gì một mũi tên tránh được cái vòng, tấn công thẳng vào Độ Kiếp. Chàng càng đấu cành kinh hãi, thấy không khí chung quanh thân mình bị rơi vào giữa ba sợi dây đen và ba luồng chưởng lực, mỗi lúc một ngưng đọng thành một khối. Từ khi chàng tập thành võ công đến nay chưa bao giờ gặp phải đối thủ cao cường như thế. Ba nhà sư không những chiêu số tinh xảo, nội kình cũng hùng hồn không ai sánh kịp. Lúc ban đầu, Trương Vô Kỵ dùng bảy thành để thủ ngự, dùng ba thành còn lại tấn công, đấu đến hơn hai trăm chiêu, dần dần cảm thấy chân khí trong người không còn tinh thuần, thành ra chỉ còn thủ mà không có thể công, chỉ mong tự bảo vệ được mình thôi.

Cửu Dương thần công của chàng vốn dĩ dùng không bao giờ hết, càng sử dụng càng mạnh mẽ, nhưng lúc này mỗi chiêu đều hao phí nội lực rất nhiều, cảm thấy như kình lực? ở sau không nối liền được với kình lực đi trước, tình trạng này từ khi luyện thành thần công chàng chưa từng bị bao giờ. Đến khi trao đổi thêm mấy chục chiêu nữa, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Mình có đấu thêm thì chỉ có nước chịu chết, hôm nay tìm cách thoát thân, sau này sẽ cùng với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ, Vi Bức Vương, năm người hợp lực thì ắt có thể thắng được tam tăng, lúc đó hãy tính tới việc cứu nghĩa phụ?.

Chàng nghĩ thế nên liên tiếp tấn công vào Độ Ách ba chiêu liền, đang toan thoát ra, ngờ đâu ba sợi dây kết lại thành một cái vòng vững chãi như thành đồng vách sắt, mấy lần chàng xông lên đều bị dội lại, không có cách nào thoát thân được.

Chàng trong bụng kinh hoảng: ?Thì ra tam tăng liên thủ kết chặt lại thành một, công phu tâm ý tương thông này, không lẽ trên đời này có người luyện được hay sao??. Trương Vô Kỵ có biết đâu Độ Ách, Độ Kiếp, Độ Nạn? đã tọa khô thiền trên ba mươi năm, bao nhiêu công phu đều dùng vào việc luyện môn ?tâm ý tương thông?, một người có ý niệm gì nảy ra, lập tức hai người kia biết liền, tâm linh cảm ứng đó thực là huyền diệu. Thế nhưng ba người ở chung một nơi luyện hơn ba mươi năm chuyên tâm vào việc luyện cảm ứng, tâm ý chỉ còn là một thì cũng không phải là chuyện lạ. Chàng lại nghĩ: ?Cứ điệu này ta dẫu có ước hẹn thêm được những cao thủ như ông ngoại đến chăng nữa, cũng chưa chắc phá vỡ được bức tường kiên cố tâm ý tương thông của ba người này kết thành. Không lẽ nghĩa phụ ta đã cứu không được, lại bỏ mạng nơi đây hay sao??.

Chàng nóng ruột, tinh thần hơi tán loạn, đầu vai liền bị năm ngón tay của Độ Kiếp quét qua, đau thấu xương tủy, nghĩ thầm: ?Ta có chết cũng không đáng gì, thế nhưng nỗi oan của nghĩa phụ không sao rửa được. Nghĩa phụ một đời cao ngạo, dẫu có rơi vào tay người, cũng nhất định không biện giải đến nửa lời đâu?. Nghĩ thế chàng bèn dõng dạc nói:

- Ba vị lão thiền sư, vãn bối hôm nay bị nguy khốn, tính mệnh khó mà bảo tồn, đại trượng phu có chết cũng đành, có gì đáng nói đâu? Thế nhưng có một việc phải nói cho rõ ...

Nghe vù vù hai tiếng, hai sợi dây đen chia ra từ hai bên đánh tới, Trương Vô Kỵ tay trái gạt, tay phải kéo, hóa giải hai luồng kình lực, tiếp tục:

- Gã Viên Chân kia tục danh là Thành Côn, ngoại hiệu Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ, chẳng phải ai xa chính là nghiệp sư của nghĩa phụ vãn bối Tạ Tốn ...

Ba nhà sư chùa Thiếu Lâm thấy chàng tay vẫn ra chiêu hóa kình, miệng vẫn mở lời nói chuyện, nội công đến thế họ chưa thể nào đạt tới được, trong lòng càng thêm e ngại. Tam tăng cho rằng Minh Giáo là một tà giáo không việc ác nào không làm, giáo chủ của họ võ công càng cao, làm hại cho thế gian càng lớn, nay thấy chàng thân hãm trùng vi, không thể nào thoát ra được, đúng là cơ hội tốt để trừ khử, thật không công đức nào tày, thành thử không nói một lời, sợi dây đen và chưởng lực càng thêm mạnh mẽ.

Trương Vô Kỵ tiếp tục nói:

- Ba vị lão thiền sư cũng nên hiểu cho rằng, sư muội của Thành Côn chính là phu nhân của giáo chủ Minh Giáo Dương Đính Thiên. Thành Côn vốn si tình sư muội, vì tình sinh ra ghen tức, thành ra kết thâm cừu đại oán với Minh Giáo ...

Chàng tay thì hóa giải chiêu số của ba nhà sư, miệng thao thao tường thuật Thành Côn mưu tính? phá hủy Minh Giáo như thế nào, rồi tư thông lén lút gặp gỡ Dương phu nhân để đến nỗi Dương Đính Thiên tức quá mà chết ra sao, rồi sau giả say toan cưỡng gian vợ Tạ Tốn, giết sạch toàn gia, rồi khích cho Tạ Tốn loạn sát nhân sĩ võ lâm, bái Không Kiến thần tăng làm thầy, dụ cho Tạ Tốn đánh Không Kiến mười ba quyền, rồi sau thất tín không ra khiến cho Không Kiến phải ngậm hờn mà chết.

Ba người Độ Ách càng nghe càng hoảng hồn, bao nhiêu chuyện đó không sao có thể tưởng nổi, nhưng mọi chuyện hợp tình hợp lý, chi tiết phù hợp với nhau. Ngọn roi đen trên tay Độ Ách chậm lại trước nhất.

Trương Vô Kỵ nói tiếp:

- Vãn bối không biết Dương giáo chủ gây thù chuốc oán với Độ Ách đại sư ra sao, chỉ sợ bên trong có kẻ gian xui nguyên giục bị, người đó hẳn là Viên Chân. Độ Ách đại sư thử nghĩ lại chuyện cũ, xem lời của vãn bối có điều gì sai quấy hay chăng?

Độ Ách hừ một tiếng, ngừng roi không đánh nữa, cúi đầu trầm ngâm rồi nói:

- Chuyện đó xem ra cũng có lý. Lão nạp kết cừu với Dương Đính Thiên, tên Thành Côn đó giốc hết toàn lực ra giúp, sau lại muốn bái lão nạp làm thầy, nhưng từ trước tới nay ta không thu đệ tử, nên mới dẫn tiến cho làm môn hạ Không Kiến sư điệt. Cứ xét như thế, không lẽ y cố ý sắp xếp hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chắc là như thế, hiện nay y đang dòm dỏ chức vị chưởng môn phương trượng phái Thiếu Lâm, gây bè kết đảng, âm mưu mật kế toan? gia hại Không Văn thần tăng ...

Câu nói chưa dứt, đột nhiên có tiếng ầm ầm, từ bên sườn núi bên trái một khối đá tròn lớn lục cục lăn xuống giữa ba cây thông. Độ Ách quát lớn:

- Ai đó?

Sợi giây múa lên, bộp bộp hai tiếng đánh luôn lên tảng đá, mảnh vụn bay tung. Từ sau tảng đá một người xông ra, nhanh nhẹn phi thường xông đến bên Trương Vô Kỵ, ánh sáng lấp lánh, một thanh đoản đao đã đâm ngay cổ họng chàng.

Biến cố đó xảy ra thật nhanh, Trương Vô Kỵ đang hết sức chống đỡ sợi dây và chưởng lực của hai nhà sư Độ Kiếp, Độ Nạn, đâu có ngờ rằng có người tấn công lén, trong đêm tối chỉ thấy tiếng gió thốc tới, đoản đao đã đâm ngay tới yết hầu rồi, trong cơn nguy vội nhảy vụt qua một bên, nghe soạt một tiếng, mũi dao đã rạch một đường ngay trên áo chàng, chỉ chậm một giây là đã bị cái họa mổ ngực phanh thây rồi. Người đó tấn công không trúng, nhờ có tảng đá che chở đã lăn ra khỏi vòng dây của ba nhà sư.

Trương Vô Kỵ kêu thầm: ?Nguy hiểm thật!?. Chàng lập tức quát lên:

- Ác tặc Thành Côn! Có giỏi thì cùng ta đối chất, định giết người bịt miệng hay sao?

Khi đoản đao đâm tới, tuy chàng không nhìn rõ mặt người nhưng đối phương thân pháp nhanh nhẹn, thủ pháp độc địa, nội kình mạnh mẽ, võ công gia số cùng một đường không khác gì Tạ Tốn, ngoài Thành Côn ra còn ai nữa. Ba sợi dây của các nhà sư Thiếu Lâm chẳng khác gì ba cánh tay vươn ra cuốn lấy tảng đá, lẳng một cái, đã xách tảng đá nặng hàng nghìn cân kia lên, quăng ra ngoài, còn Thành Côn chạy thẳng xuống núi. Độ Ách nói:

- Có phải đúng là Viên Chân không?

Độ Nạn đáp:

- Quả đúng là y rồi.

Độ Ách nói:

- Nếu chẳng phải có tật giật mình thì việc gì ...

Ngay lúc đó bốn bề tiếng rú tiếng kêu liên tiếp, nhô ra bảy tám bóng người, người đi đầu quát lớn:

- Hòa thượng Thiếu Lâm thật không đáng gọi là đệ tử nhà Phật, giết hại biết bao nhiêu người, không sợ gây tội nghiệt hay sao? Tất cả cùng xông lên.

Tám người đó ai cũng cầm binh khí, tấn công thẳng vào ba nhà sư ở trong ba cây tùng. Trương Vô Kỵ đang ở giữa vòng của ba nhà sư, thấy trong số tám người thì có ba người cầm trường kiếm, năm người còn lại thì kẻ cầm đao, người cầm tiên, người nào cũng võ học tinh cường đấu luôn với ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng.

Chàng quan sát một hồi thấy ba người sử dụng kiếm cùng một lộ với Thanh Hải tam kiếm chết dưới tay các nhà sư chùa Thiếu Lâm mấy hôm trước nhưng biến hóa tinh vi hơn, kình lực hùng hồn, cao siêu hơn nhiều, hẳn là trưởng bối của những người đó. Ba người cầm kiếm tấn xông một mình Độ Ách. Lại ba người khác hợp công Độ Nạn, còn hai người liên thủ đối phó Độ Kiếp. Đối thủ của Độ Kiếp tuy chỉ có hai người, nhưng hai người đó so với những người khác lại cao hơn một bậc. Đấu một hồi, Trương Vô Kỵ thấy Độ Kiếp dần dần núng thế, còn Độ Ách thì lại có phần hơn, một địch ba nhưng xem ra vẫn còn thừa sức.

Lao trao đổi thêm độ mươi chiêu nữa, Độ Ách thấy Độ Kiếp có vẻ khó khăn liền rung sợi dây đen một cái, từ trên không đâm bổ xuống hai người đang tấn công Độ Kiếp. Hai người đó đều cao to, râu đen phất phới, thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, một người dùng một đôi phán quan bút, còn người kia thì dùng đả huyệt quyết. Độ Ách và Độ Nạn ở bên ngoài xa mấy trượng mà cũng vẫn cảm thấy kình lực từ binh khí của hai người dồn tới, tưởng như ngay ở bên cạnh mình, sử dụng binh khí ngắn mà trải rộng đến thế ắt hẳn lợi hại ghê gớm lắm. Ba người của phái Thanh Hải thấy áp lực hơi lỏng đi,? nên dần dần lấy lại phong độ tấn công. Thành thử đến lúc này Độ Nạn một mình địch ba, Độ Ách, Độ Kiếp hai người đấu với năm đối thủ, nhất thời không bên nào thắng thế.

Trương Vô Kỵ trong lòng thầm lấy làm lạ: ?Tám người này võ công quả thực đáng kể, không kém vợ chồng Hà Thái Xung chút nào. Ngoài ba người thuộc phái Thanh Hải ra, năm người kia môn phái lai lịch không sao hiểu được. Thế mới biết thiên hạ bao la, trong chốn hoang vu kia có biết bao ngọa hổ tàng long, anh hùng hảo hán vô danh ẩn phục không ai hay biết?.

Mười một người trao đổi đến hơn một trăm chiêu, ba sợi dây của Thiếu Lâm tam tăng dần dần thu nhỏ lại. Sợi dây thu nhỏ rồi, múa may tốn ít hơi sức hơn, nhưng việc tấn công địch thì cũng bớt linh động đi vài phần. Lại thêm vài chục chiêu nữa, ba sợi dây của các nhà sư thu nhỏ nay chỉ còn chừng sáu bảy thước. Hai ông già râu đen càng đấu càng tiến đến gần hơn, binh khí của họ uy lực cũng tăng nhiều, tìm những chỗ sơ hở mà tấn công, từng bước từng bước tiến tới, cố hết sức tới sát người ba lão tăng. Thế nhưng ba sợi dây của họ càng thu nhỏ thì thủ ngự càng nghiêm mật, cái vòng mà ba sợi dây đen kết lại uy lực vô cùng, hai ông già râu đen liên tiếp biến đổi chiêu thế tấn công nhưng đều bị vòng dây đẩy bật ra. Lúc này ba nhà sư đã kết liền một khối, thành thế? ba người chống lại tám địch thủ.

Thiếu Lâm tam tăng hết sức chống đỡ, trong bụng không khỏi liên tiếp kêu khổ thầm, đấu với tám người này dù có lâu cũng không đền nỗi thua, chỉ cần vòng dây thu ngắn tám thước, thì đã kết lại thành Kim Cương Phục Ma Khuyên, không nói gì tám địch thủ mà dẫu có mười sáu người, ba mươi hai người thì cũng không thể tấn công vào được. Thế nhưng bên trong cái vòng đó lại có ẩn phục một cường địch trong gan trong ruột, Trương Vô Kỵ nếu ra tay, nội ngoại giáp công, lập tức ba nhà sư Thiếu Lâm sẽ mất mạng ngay. Tam tăng thấy chàng ngồi yên không cử động, hiển nhiên đang chờ cơ hội, hẳn là chờ cho đến khi mình và các kẻ ngoại địch đều chân chồn gối mỏi, lúc ấy mới làm kẻ ngư ông ở giữa thu lợi. Lúc này nội công của ba nhà sư đã thi triển đến mức tận cùng, dẫu có muốn hú lên một tiếng để cầu cứu với chùa Thiếu Lâm ở dưới kia, thì cũng không thể mở mồm, dẫu chỉ há miệng nói một tiếng thôi, lập tức khí huyết trào lên, nếu không chết ngay lập tức, thì cũng bị nội thương, thành người tàn phế. Tam tăng bấy giờ mới tự trách mình quá ỷ y, ngay khi cường địch vừa mới tới tấn công, không lên tiếng thông tri cho tăng chúng bản tự ở dưới, nếu không chỉ cần vài tay hảo thủ của Đạt Ma Đường hay La Hán Đường lên tiếp viện, là sẽ khắc chế được địch thủ thắng ngay.

Tình thế đó Trương Vô Kỵ đã sớm nhìn thấy rồi, lúc này nếu muốn giết ba nhà sư thì chàng chỉ cất tay là xong, nhưng nghĩ đại trượng phu lẽ nào lại nhân lúc người ta bị nguy ngập mà lợi dụng, huống chi tam tăng chỉ vì bị Viên Chân lừa dối mà ra, không đáng phải chết. Huống chi thanh toán được ba nhà sư rồi một mình ứng phó với tám người kia, cuộc thế cũng gian nan không kém. Trước mắt thấy hai bên thắng bại nhất thời chưa rõ ràng, chàng cúi đầu nhìn xuống, thấy có một khối nham thạch lấp chặt miệng địa lao, chỉ để hở ra một cái khe, chắc là để cho Tạ Tốn có chỗ thở và là nơi đưa đồ ăn xuống. Chàng nghĩ thầm thời cơ này trong chốc lát sẽ không còn nữa, đợi đến khi hai bên thắng bại đã rõ rồi, hoặc người trong chùa Thiếu Lâm chạy lên cứu viện thì sẽ không cứu được nghĩa phụ nữa nên quì ngay xuống, vận dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, kình lực tuôn ra hai tay đẩy tảng đá từ từ di động.

Khối cự thạch di chuyển được chừng một thước, đột nhiên từ sau lưng một luồng kình phong thổi tới, Độ Nạn đã múa chưởng đánh vào hậu tâm chàng. Trương Vô Kỵ vừa chế ngự kình lực, vừa mượn sức, nghe bộp một tiếng, áo sau lưng rách một mảng lớn, trong cơn gió táp mưa sa những mảnh vụn bay tung như bươm bướm. Thế nhưng chưởng lực của Độ Nạn đã được chàng truyền vào tảng đá, nghe ầm một tiếng khối cự thạch đã nhích ra hơn một thước. Chưởng lực tuy đã chế ngự được rồi, không bị nội thương nhưng vì chàng bao nhiêu sức lực đã dồn về phía trước để đẩy tảng đá, sau lưng vẫn bị chạm phải đau đớn khó mà chịu nổi.

Độ Nạn đánh ra một chưởng, vòng dây đen liền lộ sơ hở, một lão già râu đen liền xông ngay vào bên trong, gậy điểm huyệt trong tay liền đâm luôn vào dưới vú trái của nhà sư. Sợi dây mềm của Thiếu Lâm tam tăng chỉ giỏi về tấn công xa, không có lợi cho chiến đấu gần, Độ Nạn liền giơ tay trái, vận kình đánh bật điểm huyệt quyết của đối phương ra. Ông già râu đen nhân cơ hội đó đâm ngón tay trỏ nhắm ngay huyệt Đàn Trung của Độ Nạn mà điểm tới. Độ Nạn kêu thầm: ?Không xong?, có ngờ đâu Nhất Chỉ Thiền của đối phương so với công phu điểm huyệt bằng đả huyệt quyết còn lợi hại hơn, trong cơn nguy cấp đành vứt sợi dây xuống, hai tay giơ lên đỡ, bảo vệ lấy ngực mình, tiếp theo ngón tay cái, ngón tay trỏ, ngón tay giữa vươn ra, phản công trở lại. Ông ta tuy đã chế ngự được địch nhân, nhưng sợi dây đã rời khỏi tay rồi, ông già sử dụng phán quan bút lập tức xông vào ngay. Ba sợi dây của ba nhà sư nay đã mất một, Kim Cương Phục Ma Khuyên đã bị phá vỡ rồi.

Bất thình lình chiếc dây đen đang nằm dưới đất bỗng dựng đầu dậy, chẳng khác gì một con rắn độc giả chết nay vùng dậy cắn người, nghe vút một tiếng nhắm ngay người đang sử dụng phán quan bút điểm tới, đầu dây chưa đến mà kình phong đã ào ạt khiến đối phương phải lạnh người. Ông già đó vội vàng giơ bút lên gạt ra, đụng phải sợi dây, rung động một cái hai vai tê tái, cây bút bên tay trái suýt nữa thì văng đi mất, còn cây bút bên tay phải bị đẩy lạc hướng đâm ngay vào một tảng đá, mảnh vụn tứ tung, lửa xẹt bốn bề. Chiếc dây đen tiếp tục vung lên,? đẩy lùi ba người của phái Thanh Hải ra ngoài xa hơn một trượng, Kim Cương Phục Ma Khuyên lại trở lại như lúc đầu, uy lực xem ra còn mạnh hơn trước.

Thiếu Lâm tam tăng vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, thấy đầu kia chiếc dây đó đang nằm trong tay Trương Vô Kỵ. Chàng tuy chưa từng luyện qua công phu Kim Cương Phục Ma Khuyên, nếu nói về tâm ý tương thông, người khác nghĩ gì mình biết liền thì không thể nào bằng được Độ Nạn, thế nhưng nếu nói về nội lực cương mãnh thì nhà sư Thiếu Lâm lại không thể nào bằng, kình lực trên sợi dây đen chẳng khác gì bài sơn đảo hải, bao trùm cả một khoảng rộng chung quanh. Hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp ở hai bên tương trợ, lập tức đẩy cả bảy người kia phải lùi ra.

Lúc này Độ Nạn toàn tâm toàn lực đối phó với ông già râu đen, nói về võ công nội lực đều thắng đối thủ, ông ta ngồi trong cái hốc cây tùng, không cần đứng lên nhưng mười ngón tay vỗ, đâm, búng, móc, điểm, phất, chộp, nắm chỉ trong vài chiêu đã đưa ông già kia vào chỗ nguy hiểm. Người đó thấy bảy đồng bọn đều lâm vào cảnh bất lợi liền giận dữ rống lên một tiếng, từ trong vòng nhảy trở ra.

Trương Vô Kỵ liền đưa sợi dây đen trở lại tay Độ Nạn rồi cúi xuống vận Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, đẩy khối đá đậy địa lao nhích thêm hơn một thước nữa, nói vọng vào trong miệng hầm:

- Nghĩa phụ, hài nhi Vô Kỵ đếu cứu viện chậm trễ, cha có ra được không?

Tạ Tốn đáp:

- Ta không ra đâu. Con yêu quí, mau mau rời khỏi nơi đây.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

- Nghĩa phụ, cha bị người ta điểm huyệt, hay là bị xích chặt?

Chàng không đợi Tạ Tốn trả lời, tung mình nhảy xuống hầm tối, nghe tõm một tiếng, nước văng tung tóe. Thì ra sau cơn mưa như trút kia, trong địa lao nước đã ngập đến ngang lưng, một nửa người Tạ Tốn ngập trong nước.

Trương Vô Kỵ trong lòng đau khổ, giơ tay ôm Tạ Tốn, mò chung quanh tay chân ông ta, không thấy có xiềng khóa gì cả, lại nắn bóp mấy nơi huyệt đạo chủ yếu, thấy dường như không bị ai kiềm chế gì, lập tức ôm ông ta tung mình nhảy lên, ngồi trên tảng đá nói:

- Lúc này thoát thân là tiện nhất. Nghĩa phụ, thôi cha con mình đi!

Chàng vừa nói vừa cầm tay Tạ Tốn toan cất bước. Tạ Tốn vẫn ngồi yên không động đậy, hai tay ôm gối nói:

- Con ơi, tội nghiệt lớn nhất trong đời ta là đã giết hại Không Kiến đại sư. Nghĩa phụ con nếu như rơi vào tay kẻ khác thì ắt đã hết sức chống cự, nhưng nay lại bị nhốt nơi chủa Thiếu Lâm, ta đành cam tâm chịu chết để đền tội cho Không Kiến đại sư.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Cha lỡ tay đả thương Không Kiến đại sư cũng chỉ vì tên ác tặc Thành Côn sắp đặt mưu gian, huồng chi cái huyết cừu toàn gia của cha chưa báo được, không lẽ chịu chết dưới tay Thành Côn sao?

Tạ Tốn thở dài nói:

- Trong hơn một tháng qua, ta ngày ngày ngồi dưới hầm này nghe ba vị cao tăng tụng kinh niệm Phật, nghe từ dưới chùa vọng lên chuông sớm trống chiều, nghĩ lại chuyện đã qua, thấy tay cha nuôi con nhuộm không biết bao nhiêu máu tươi của người vô tội, dẫu chết trăm lần cũng chưa hết. Than ôi! Bao nhiêu ác nhân tội nghiệt kia, so với Thành Côn xem ra còn nặng hơn nhiều. Hảo hài tử, con đừng nghĩ tới cha làm gì, một mình mau xuống núi đi thôi.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng nóng ruột, lớn tiếng nói:

- Nghĩa phụ,? nếu cha không chịu đi, con đành phải ép cha đấy.

Nói xong chàng tiến tới nắm lấy hai tay Tạ Tốn toan cõng lên trên lưng mình. Bỗng nghe dưới sơn đạo tiếng người lao xao, có ai đó lớn tiếng nói:

- Kẻ nào dám tới chùa Thiếu Lâm gây rối thế?

Có tiếng chân bì bõm đạp nước, hơn một chục người từ dưới chạy lên. Trương Vô Kỵ nắm lấy hai đùi Tạ Tốn, đang toan cất bước bỗng thấy huyệt Đại Trùy sau lưng tê tái, thì ra đã bị Tạ Tốn nắm lấy rồi, hai tay không còn chút hơi sức nào, đành phải buông ông ta ra, trong lòng bồn chồn muốn khóc òa lên, kêu lớn:

- Nghĩa phụ, cha ... sao cha phải khổ thế?

Tạ Tốn đáp:

- Con ngoan, nỗi oan khuất của cha con đã nói hết cho ba vị cao tăng nghe cả rồi. Còn tội nghiệt cha làm, cũng phải để một thân cha chịu báo ứng. Nếu con còn không chịu đi thì ai là người thay cha mà báo thù đây?

Trương Vô Kỵ trong bụng run lên, thấy hơn một chục nhà sư chùa Thiếu Lâm, kẻ cầm thiền trượng, người cầm giới đao, xông lên tấn công tám người kia. Leng keng leng keng hai bên giao thủ mấy hợp, ông già râu đen cầm phán quan bút thấy tình thế có đấu thêm nữa cũng không đi đến đâu, không chừng còn lâm vào cảnh nguy khốn, chỉ tức là việc đã sắp thành lại bị một thanh niên phá bĩnh quả thực tức không để đâu cho hết. Y lớn tiếng quát hỏi:

- Xin hỏi cao tính đại danh thanh niên ngồi dưới cây tùng kia, Hác Mật, Bốc Thái của Hà Gian[3] muốn biết xem cao nhân nào đã can thiệp vào thế?

Độ Ách vung sợi dây lên, nói:

- Minh Giáo Trương giáo chủ là đệ nhất cao thủ đời nay, không lẽ Hà Gian Song Sát lại không biết đến?

Ông già cầm phán quan bút ?Ồ? lên một tiếng, giơ hai món binh khí lên, nhảy ra khỏi vòng, bảy người còn lại cũng nhảy ra theo. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm muốn đuổi theo ngăn trở nhưng tám người đó võ công thật cao siêu, chỉ nhún vai một cái đều đã xuống núi.

Những gì Trương Vô Kỵ đối đáp với Tạ Tốn ba người Độ Ách đều nghe rõ mồn một, lại nghĩ đến mới rồi chàng không nhân lúc người khác nguy nan mà ra tay, chỉ tụ thủ bàng quan, không giúp bên nào, đến khi Bốc Thái phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên tấn công đến tận nơi, cứ như Hà Gian Song Sát ra tay độc địa như thế thì giờ này tính mệnh tam tăng chắc không còn. Ba nhà sư liền bỏ sợi dây xuống, đứng thẳng dậy, chắp tay hướng về Trương Vô Kỵ, cùng nói:

- Đa tạ đại đức của Trương giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ nói:

- Chuyện phải làm thì làm, có gì đáng nói đâu.

Độ Ách nói:

- Việc ngày hôm nay, đáng ra lão nạp phải để cho Tạ Tốn đi theo Trương giáo chủ, vừa rồi nếu Trương giáo chủ? quả thực muốn cứu người, lão nạp không cách gì ngăn trở được. Có điều ba sư huynh đệ chúng tôi tuân theo pháp chỉ của phương trượng canh giữ Tạ Tốn, đã từng lập trọng thệ trước chư Phật, nếu ba anh em còn sống quyết không để Tạ Tốn thoát khỏi nơi đây. Chuyện này liên quan đến vinh nhục hàng nghìn, hàng trăm năm nay của bản phái, xin Trương giáo chủ tha thứ cho.

Trương Vô Kỵ chỉ hừ một tiếng, không trả lời. Độ Ách nói tiếp:

- Cái mối thù bị hỏng mắt của lão nạp, hôm nay coi như đã xong. Trương giáo chủ muốn cứu Tạ Tốn, xin muốn đến lúc nào cũng được, chỉ cần phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba anh em chúng tôi, lập tức có thể dắt Sư Vương đi khỏi nơi đây. Trương giáo chủ muốn ước định thêm người tiếp tay, xa luân chiến cũng được, cùng một lượt xông lên cũng được, chúng tôi chỉ có ba sư huynh đệ ứng chiến mà thôi. Trước khi Trương giáo chủ giá lâm, ba anh em chúng tôi nhất định sẽ bảo vệ cho Tạ Tốn được chu toàn, quyết không để cho Viên Chân làm nhục ông ta một câu nửa chữ, đụng đến một sợi lông.

Trương Vô Kỵ nhìn về Tạ Tốn, trong đêm tối chỉ thấy lờ mờ thân hình cao to của ông ta, mái tóc dài phủ xuống vai, đứng cúi đầu, dường như trong lòng hết sức hối hận về những tội khiên đã làm, mất hết cái uy phong lẫm lẫm thuở xưa. Nước mắt Trương Vô Kỵ như muốn trào ra, nghĩ thầm: ?Hôm nay mình không thể nào đánh bại họ nữa rồi, nghĩa phụ lại không chịu đi, chỉ còn nước hẹn với ông ngoại, Dương tả sứ, Phạm hữu sứ cùng lên tái đấu. Bao sợi dây này kết thành một vòng chẳng khác gì tường đồng vách sắt, nếu lúc nãy không vì Độ Nạn đại sư đánh vào lưng ta một chưởng thì Bốc Thái không thể nào có thể xông vào được. Kỳ tới có thêm ông ngoại và tả hữu Quang Minh sứ giả tiếp tay, phá được hay không cũng chưa biết. Ôi, việc trước mắt chỉ đành đến đâu hay đó thôi?.

Nghĩ như thế chàng liền nói:

- Nếu đã như vậy, nhất định sẽ quay trở lại lãnh giáo cao chiêu của ba vị đại sư.

Chàng đi đến ôm lưng Tạ Tốn nói:

- Nghĩa phụ, con đi đây.

Tạ Tốn gật đầu, giơ tay vuốt ve đầu tóc của chàng nói:

- Con chẳng cần phải trở lại cứu cha làm chi, cha nhất định không đi đâu. Con ngoan, mong con mọi việc ở hiền gặp lành, không phụ lòng kỳ vọng của ta và cha mẹ con. Con nên học cha con, đừng học nghĩa phụ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Cha con và nghĩa phụ đều là anh hùng hảo hán, là đại trượng phu quang minh lỗi lạc, đều đáng cho con noi theo.

Nói xong chàng khom mình bái biệt, thân hình lắc một cái đã vọt ra ngoài vòng ba cây tùng, hướng về ba nhà sư Thiếu Lâm giơ tay chào, thi triển khinh công thoắt một cái đã không còn thấy đâu nữa nhưng tiếng hú trong trẻo của chàng chỉ nháy mắt đã cách xa hàng dặm.

Những nhà sư Thiếu Lâm ở trên ngọn núi nhìn nhau kinh hãi, từng nghe tiếng Trương giáo chủ của Minh Giáo võ công trác tuyệt nhưng đâu có ngờ thần diệu tới thế.

Trương Vô Kỵ thấy hình tích mình đã bại lộ nên định tâm biểu hiện một môn công phu, cốt để tăng chúng chùa Thiếu Lâm sinh lòng e ngại ngõ hầu đối đãi với Tạ Tốn cho tử tế. Tiếng hú của chàng vận dụng trung khí, miên miên bất tuyệt, theo tiếng gió mưa sấm chớp mà vang vang truyền đi, thật chẳng khác gì nương theo một con rồng đang bay múa. Chân chàng thi triển toàn lực khinh công, mỗi lúc một nhanh, tiếng hú cũng càng lúc càng vang động. Hơn một nghìn nhà sư trong chùa Thiếu Lâm đang ngủ giật mình choàng tỉnh dậy, cho đến khi tiếng hú mỗi lúc một xa mới bàn tán xôn xao. Không Văn, Không Trí thấy Trương Vô Kỵ đã đến, lại càng lo lắng ưu phiền.

Trương Vô Kỵ chạy được mấy dặm đột nhiên bên đường từ sau một cây liễu to có tiếng người gọi:

- Này!

Một người vụt bước ra, chính là Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ ngừng hú đứng lại, giơ tay nắm lấy tay nàng, thấy tình nương ướt đẫm nước mưa, trên đầu trên tóc từng giọt ròng ròng chảy xuống. Triệu Mẫn hỏi:

- Đã cùng với mấy tên trọc chùa Thiếu Lâm động thủ chưa?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Rồi.

Triệu Mẫn hỏi thêm:

- Tạ đại hiệp ra sao? Đã gặp ông ta chưa?

Trương Vô Kỵ bá vai nàng, cùng sóng bước dưới mưa, đem mọi việc kể sơ qua lại một lượt. Triệu Mẫn trầm ngâm rồi hỏi:

- Chàng có hỏi ông ta vì sao lại sểnh tay để đến nỗi bị bắt chưa?

Trương Vô Kỵ nói:

- Anh chỉ chăm chăm lo việc làm sao cứu ông ta thoát hiểm, không có lúc nào rỗi hơi để hỏi những chuyện đó cả.

Triệu Mẫn thở dài một tiếng, không lên tiếng nữa. Trương Vô Kỵ gặng hỏi:

- Em khó chịu hay sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Đối với chàng thì là chuyện nhàn rỗi, còn với thiếp thì là chuyện thật quan trọng. Thôi được, đợi cứu Tạ đại hiệp ra rồi hỏi ông ta cũng chưa muộn. Thiếp chỉ sợ ...

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Sợ cái gì? Em sợ mình không cứu được nghĩa phụ hay sao?

Triệu Mẫn đáp:

- Minh Giáo so với các phái khác trong võ lâm thì mạnh hơn nhiều, nếu muốn thì thể nào chẳng tìm được cách cứu Tạ đại hiệp ra. Thiếp chỉ sợ Tạ đại hiệp đã nhất tâm lấy cái chết để trả nợ cho Không Kiến thần tăng thôi.

Trương Vô Kỵ cũng lo chuyện đó, hỏi lại:

- Em xem có thể như thế chăng?

Triệu Mẫn đáp:

- Chỉ mong đừng xảy ra như vậy.

Hai người vừa đi vừa truyện trò đã đến trước nhà vợ chồng họ Đỗ. Triệu Mẫn cười nói:

- Hành tích của chàng đã bại lộ rồi, không nên dấu diếm họ nữa làm gì.

Trương Vô Kỵ thấy cánh cửa chiếc nhà tranh chỉ khép hờ, liền giơ tay đẩy ra, lắc người mấy cái cho ráo những giọt nước mưa rồi mạnh mẽ tiến vào, đột nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Chàng trong lòng kinh hãi, tay trái vội thò ra sau lưng đẩy Triệu Mẫn ra ngoài cửa, trong đêm tối có người vươn tay chộp vào chàng. Trảo đó im lìm không một tiếng động, nhanh nhẹn tuyệt luân, đến khi chàng nhận ra được, những ngón tay đã chạm vào mặt. Trương Vô Kỵ lúc này không còn kịp né tránh, chân trái liền phóng ra, đá thẳng vào ngực người kia. Người nọ vội lật ngược tay móc một cái, cùi chỏ đánh xuống huyệt Hoàn Khiêu trên đùi chàng, chiêu số thật là độc địa. Nếu như Trương Vô Kỵ rút chân về để tránh, bàn tay trái của kẻ địch ắt sẽ vươn ra móc đôi mắt chàng, cho nên năm ngón tay chàng liền chộp hờ ra. Quả nhiên không sai, bàn tay Trương Vô Kỵ bắt ngay được chưởng của địch nhân, nhưng ngay lúc đó huyệt Hoàn Khiêu trên đùi cũng tê tái, đứng không vững chân phải liền khuỵu ngay xuống.

Chàng đang định thừa thế bẻ gãy cổ tay kẻ địch, nhưng thấy bàn tay nắm được nhẵn nhụi mềm mại, chính là tay một người đàn bà, trong lòng chợt động nên không nặng tay nữa, nhắc luôn người đó lên ném ra, nghe kịch một cái, vai đã trúng phải một dao đau nhói. Người kia nhảy một cái đã vọt ra khỏi cửa, múa chưởng đánh thẳng vào mặt Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ biết Triệu Mẫn không sao chống đỡ nổi, thể nào cũng chết tươi ngay tại chỗ, cố nhịn đau tung mình nhảy lên tung chưởng ra đỡ, hai chưởng đụng nhau. Người kia thân hình lảo đảo, chân loạng choạng liền mượn ngay chưởng lực của đối phương, nhảy ra ngoài xa mấy trượng, trong đêm tối biến mất không còn thấy đâu nữa.

Triệu Mẫn sợ hãi hỏi:

- Ai thế?

Trương Vô Kỵ ?Hừ? một tiếng, hỏa triệp[4] trong người đã bị nước mưa làm ướt cả, đánh không ra lửa, sợ rằng đoản đao của kẻ địch đâm vào vai? có tẩm độc, không dám rút ra nói:

- Em đốt đèn lên.

Triệu Mẫn mò xuống bếp kiếm hỏa đao hỏa thạch, thắp một ngọn đèn dầu, thấy con dao cắm trên vai chàng giật mình kinh hãi. Trương Vô Kỵ thấy mũi dao không có thuốc độc, cười nói:

- Chỉ là ngoại thương, không sao cả.

Chàng liền rút dao ra, quay dầu lại thấy Đỗ Bách Đương và Dịch Tam Nương nằm chúi tại một góc nhà, không kịp rịt vết thương còn đang chảy máu, chạy lại xem, thấy hai người chết tự bao giờ. Triệu Mẫn kinh hoảng nói:

- Lúc em đi ra, hai người này vẫn còn khỏe mạnh bình thường mà.

Trương Vô Kỵ gật đầu, đợi Triệu Mẫn buộc vết thương cho chàng xong, cầm đoản đao lên xem, chính là binh khí của vợ chồng họ Đỗ vẫn thường dùng, nhìn quanh trên nóc nhà, các cột kèo, trên bàn, dưới đất cắm đầy đao, hiển nhiên kẻ địch giao đấu kịch liệt với hai ông bà, từng chiếc từng chiếc đánh rơi hết, sau cùng mới ra tay giết hại. Triệu Mẫn sợ hãi nói:

- Người này võ công lợi hại thật.

Khi nãy trong đêm tối hai người đấu mò với nhau, nếu như Trương Vô Kỵ không ứng biến thật nhanh, đoán được người kia sẽ ra tay móc hai mắt mình, thì giờ này chàng nếu không thành một kẻ đui mù, thì cũng đã cùng Triệu Mẫn chết nằm sóng soài trên mặt đất. Chàng lại coi hai cái xác vợ chồng họ Đỗ, thấy trên ngực mấy rẻ xương sườn gãy thành từng đoạn, ngay cả gân cốt sau lưng cũng nát bấy, quả đã bị chết vì một loại chưởng lực cực kỳ âm độc, cực kỳ ghê gớm. Chàng mấy lần gặp đại địch, vào ra hung hiểm nhiều lần, thế nhưng nghĩ lại chỉ mấy chiêu qua lại nhanh như cắt bắt mồi trong đêm tối vừa qua, không khỏi càng nghĩ càng ghê rợn. Tối hôm nay hai trận ác đấu, trận đầu một địch ba, tuy có giằng dai nhưng không kinh tâm động phách như trận thứ hai chỉ qua vài chiêu ngắn ngủi.

Triệu Mẫn lại hỏi:

- Ai thế?

Trương Vô Kỵ lắc đầu không trả lời. Triệu Mẫn đột nhiên hiểu ra, trên ánh mắt lộ vẻ kinh hoàng, đứng thừ người một hồi rồi sà vào lòng Vô Kỵ, sợ đến khóc nức nở.

Hai người đều biết rằng, nếu Triệu Mẫn không nghe tiếng hú của Trương Vô Kỵ, trời mưa trời gió cũng lặn lội đi đón thì không sao qua khỏi kiếp nạn, lúc này nơi góc nhà nằm chết không phải hai người mà là ba. Trương Vô Kỵ vỗ nhè nhẹ lên lưng nàng, dịu dàng an ủi. Triệu Mẫn nói:

- Người đó muốn giết em nên ra tay giết vợ chồng họ Đỗ trước, núp ở đây ám toán, nhất định không phải định giết chàng đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Kể từ giờ, em nhất quyết đừng rời xa anh lấy một bước.

Chàng trầm ngâm rồi tiếp:

- Chưa đầy một năm, sao nội lực võ công lại tiến triển nhanh đến thế nhỉ? Trên đời này ngoài anh ra, e rằng chẳng còn ai có thể bảo vệ chu toàn được cho em.

Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ lấy mai thuổng của Đỗ Bách Đương đào một cái huyệt sâu đem chôn hai vợ chồng họ Đỗ, cùng Triệu Mẫn hai người quì xuống lạy mấy cái, nghĩ đến Dịch Tam Nương đối với hai người hết lòng nhân hậu yêu thương, không khỏi thương cảm. Bỗng nghe từ phía chùa Thiếu Lâm tiếng chuông boong boong không dứt, văng vẳng truyền đến, nghe thật khẩn cấp, sau đó phương đông một chiếc pháo bông màu xanh bắn thẳng lên trời, phương nam màu đỏ, phương tây mà trắng, phương bắc màu đen, còn từ xa xa mấy dặm là một chùm pháo bông màu vàng. Năm đạo pháo bông vây chùa Thiếu Lâm vào giữa. Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Tất cả Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo đã đến, chính thức gây chuyện với chùa Thiếu Lâm rồi đó, mình tới mau.

Chàng lật đật cùng Triệu Mẫn thay đổi y phục, rửa sạch các vết bẩn trên mặt mũi tay chân, rồi hối hả đi về phía chùa Thiếu Lâm. Chỉ mới vài dặm, đã thấy một đoàn giáo chúng Minh Giáo tay cầm cờ nhỏ màu vàng, đang đi lên trên núi. Trương Vô Kỵ kêu lớn:

- Nhan kỳ sứ có ở đó không?

Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên nghe tiếng gọi mình, quay lại thấy giáo chủ, mừng quá vội vàng tiến lên hành lễ tham kiến. Các giáo chúng trong kỳ hoan hô vang động, cùng phục xuống vái lạy.

Nhan Viên bẩm báo: Quần hào Minh Giáo? nghe được tin tức về nơi chốn của Tạ Tốn rồi, sau khi bàn bạc, đều thấy rằng nếu đợi đến tiết Đoan Dương cùng tất cả anh hùng tập trung tại chùa Thiếu Lâm để đòi người, thì như thế sẽ đối địch với tất cả các môn phái, trước mắt không cách nào có thể bẩm cho giáo chủ được, đành phải quyền nghi, Dương Tiêu, Phạm Dao tất lãnh các cao thủ trong Minh Giáo trước tiết Đoan Dương mười ngày cùng đến chùa Thiếu Lâm để yêu cầu thả Tạ Tốn ra. Vẫn biết rằng đại động can qua là chuyện khó có thể tránh được nhưng vì tìm khắp nơi không thấy giáo chủ đâu nên thật chẳng khác gì quần long vô thủ.

Các giáo chúng liền thổi tù và, báo cho mọi người biết giáo chủ đã ra mặt. Chẳng bao lâu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương, Chu Điên, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Thiết Quan đạo nhân các người trước sau lục tục kéo đến. Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa bốn kỳ kia vẫn tiếp tục từ bốn phía vây chùa Thiếu Lâm. Mọi người gặp nhau ai nấy đều thật vui mừng. Dương Tiêu và Phạm Dao thì tiến lên tạ tội mình đã tự ý chuyên quyền. Trương Vô Kỵ đáp:

- Các vị cũng đừng khiêm tốn quá, tất cả anh em chúng ta đều đồng tâm hiệp lực cứu Tạ Pháp Vương, chính là vì nghĩa khí huynh đệ trong bản giáo. Bản nhân trong lòng thật là cảm kích, lẽ nào lại còn trách cứ?

Sau đó chàng kể lại mình trà trộn vào trong chùa Thiếu Lâm, đêm hôm qua đã cùng bọn ba nhà sư Độ Ách động thủ kể qua lại một lượt. Mọi người nghe thấy tất cả đều do gian mưu của Thành Côn, ai ai cũng đều phẫn nộ. Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân thì ngoạc mồm chửi rủa. Trương Vô Kỵ nói:

- Hôm nay bản giáo đường đường xuất quân đến phương trượng chùa Thiếu Lâm đòi người, tốt nhất là làm sao đừng tổn thương hòa khí. Vạn bất đắc dĩ nếu phải ra tay, chúng ta thứ nhất là để cứu Tạ Pháp Vương, thứ hai là để bắt Thành Côn, ngoài ra không được sát hại người vô tội.

Mọi người ai nấy đều lên tiếng đáp lời. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Triệu Mẫn:

- Mẫn muội, tốt hơn hết em nên cải trang đi, đừng để cho tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm nhìn ra chân tướng, khỏi thêm phiền nhiễu.

Hôm trước nàng đã lùa bắt giữ hết các nhà sư chùa Thiếu Lâm đem về Đại Đô, cùng với phái Thiếu Lâm gây thù chuốc oán thật sâu. Triệu Mẫn cười nói:

- Nhan đại ca, để tôi giả làm một huynh đệ dưới cờ của đại ca nhé?

Nhan Viên liền sai một anh em dưới cờ cởi áo ngoài để cho Triệu Mẫn khoác lên. Triệu Mẫn chạy vào trong rừng phía sau núi, lật đật cải trang, bôi đen mặt mũi, đến khi ra khỏi rừng đã thành một hán tử gầy gò mặt mũi đen đúa.

Tiếng tù và lại nổi lên, quần hào Minh Giáo xếp thành đội đi lên núi. Chùa Thiếu Lâm đã nhận được thiếp bái sơn của Minh Giáo từ trước, Không Trí thiền sư liền tất lãnh tăng chúng ở sơn đình đón chờ. Không Trí nghe lời của Viên Chân, tin chắc những nhà sư chùa Thiếu Lâm bị Triệu Mẫn bắt nhốt ở Đại Đô, chặt đứt ngón tay, ép phải truyền thụ võ công, là gian kế Minh Giáo ngầm cấu kết sắp đặt với phủ Nhữ Dương Vương, về sau Trương Vô Kỵ ra tay cứu trợ, chỉ là giả vờ để lấy lòng toan tính mưu đồ khác. Vì thế khi gặp nhau, mặt mày ông ta hầm hầm, chắp tay hành lễ không nói một câu.

Trương Vô Kỵ vòng tay ôm quyền nói:

- Tệ giáo có việc phải thành khẩn cầu đến quí phái nên lên núi để bái kiến phương trượng thần tăng.

Không Trí gật đầu, nói:

- Xin mời!

Ông ta dẫn quần hào Minh Giáo đi về phía sơn môn. Không Văn phương trượng liền dẫn Đạt Ma Đường, La Hán Đường, Bát Nhã Đường, Giới Luật Viện các thủ tọa cao tăng, ở ngoài sơn môn nghinh tiếp, mời quần hào đến Đại Hùng Bảo Điện chia ra chủ khách hai bên ngồi xuống, các chú tiểu liền đem trà xanh lên.

Không Văn liền cùng Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Ân Thiên Chính các người hàn huyên mấy câu, sau đó lặng yên. Trương Vô Kỵ nói:

- Phương trượng thần tăng, chúng tôi thật không có chuyện gì thì đâu có đến ôm chân Phật, đến đây xin phương trượng nể mặt đồng đạo võ lâm, phóng thích Tạ Pháp Vương của tệ giáo, đại ân đại đức đó sau này thể nào cũng tìm dịp báo đáp.

Không Văn đáp:

- A Di Đà Phật, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, giới sân giới sát, thực không muốn làm khó Tạ thí chủ làm gì. Thế nhưng tệ sư huynh Không Kiến lại chết dưới tay Sư Vương, Trương giáo chủ đứng đầu một tông giáo, chắc cũng hiểu qui củ của võ lâm thế nào rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

- Chuyện này bên trong cũng có nguyên do, không thể chỉ trách Tạ Pháp Vương được.

Chàng liền đem chuyện Không Kiến cam tâm chịu mười ba quyền để hóa giải một đại oan nghiệt cho võ lâm kể lại. Bọn Không Văn chỉ mới nghe một nửa, tất cả đã cùng niệm Phật hiệu, cung kính đứng lên. Không Văn nước mắt rưng rưng, run run nói:

- Thiện tai, thiện tai! Không Kiến sư huynh lấy đại nguyện lực để hoàn thành việc đại thiện này, công đức thật không phải ít.

Quần tăng cúi đầu đọc kinh, đối với cử chỉ nhân hiệp cao nghĩa của Không Kiến ai ai cũng bội phục. Quần hào Minh Giáo tất cả cũng đứng lên để tỏ lộ lòng kính ngưỡng.

Trương Vô Kỵ kể hết đầu đuôi câu chuyện ngày hôm đó, rồi nói:

- Tạ Pháp Vương lỡ tay đánh chết Không Kiến thần tăng, hối hận vô cùng, thế nhưng nghĩ cho cùng, việc này tội khôi họa thủ[5] chính là Viên Chân đại sư của quí tự.

Chàng thấy không có Viên Chân trong điện nên nói tiếp:

- Xin mời Viên Chân đại sư ra đây, trước mặt đối chất để phân biện cho rõ ai phải ai trái.

Chu Điên chen vào:

- Đúng thế, trên Quang Minh Đính con lừa trọc đó giả vờ chết, vậy mà lại sống nhăn, thập thập thò thò, có tốt lành chó gì đâu? Mau gọi y ra đây coi nào.

Từ hôm bị Viên Chân cho một vố đau trên đỉnh Quang Minh đến nay, trong lòng Chu Điên? lúc nào cũng hậm hực. Trương Vô Kỵ vội nói:

- Chu tiên sinh không được vô lễ trước mặt phương trượng đại sư.

Chu Điên nói:

- Tôi chửi là chửi con lừa trọc Viên Chân, chứ đâu có dám chửi phương trượng là trọc ...

Chữ trọc vừa ra khỏi miệng, y biết ngay là không ổn, vội vàng giơ tay bịt miệng lại.

Không Trí thấy Chu Điên mở lời vô lễ, lại càng tức giận, nói:

- Thế còn cái chết của sư đệ Không Tính, Trương giáo chủ giải thích ra làm sao đây?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không Tính thần tăng hiệp nghĩa hào sảng, tại hạ năm xưa có duyên bái hội trên đỉnh Quang Minh trong lòng hết sức khâm phục. Không Tính đại sư cũng đã từng ước hẹn với tại hạ, ngày sau có dịp sẽ trao đổi để trau giồi thêm với nhau về võ học. Ngờ đâu bất hạnh gặp phải đại nạn, tại hạ thật là thương tiếc. Việc đó do gian nhân ám toán, thực không can hệ gì đến tệ giáo cả.

Không Trí lạnh lùng nói:

- Trương giáo chủ việc gì cũng chối sạch, chắc chuyện bắt tay với quận chúa của phủ Nhữ Dương Vương chắc cũng không có thật hay sao?

Trương Vô Kỵ đỏ mặt nói:

- Quận chúa không hợp ý với cha anh nên đầu nhập tệ giáo. Những gì ngày xưa quận chúa bất kính đối với quí tự, tại hạ sẽ bảo cô ta lên chùa lễ Phật, trịnh trọng tạ tội.

Không Trí quát lên:

- Trương giáo chủ nói trây nói trớ như thế thì liệu có ích gì? Ngươi thân làm chủ một giáo phái, vậy mà lại ăn càn nói bậy, không khỏi để anh hùng thiên hạ cười chê hay sao?

Trương Vô Kỵ nghĩ việc giết Không Tính, bắt giữ quần tăng quả thật là tội tầy trời của Triệu Mẫn, tuy không liên quan gì đến Minh Giáo nhưng lúc này nàng đã trao thân gửi phận cho mình, không thể nào gạt qua một bên không lý tới, trong lúc còn đang khó nghĩ thì Thiết Quan đạo nhân đã gay gắt nói:

- Không Trí đại sư, giáo chủ ta kính trọng ông là tiền bối cao tăng nên nể nang đấy thôi, ông cũng phải biết tự trọng. Giáo chủ ta thủ tín trọng nghĩa, không lẽ lại nói láo hay sao? Ngươi làm nhục giáo chủ ta, khác nào làm nhục hàng trăm vạn giáo chúng. Dẫu giáo chủ ta có khoan hồng đại lượng, chuyện không thèm chấp, nhưng bọn bộ thuộc chúng ta cũng không phải vì thế mà bỏ qua đâu.

Không Trí cười khẩy:

- Bách vạn chi chúng thì đã sao? Không lẽ đạp được chùa Thiếu Lâm thành bình địa ư? Ma giáo làm nhục chùa Thiếu Lâm ta, không phải chỉ mới hôm nay. Bọn ta sểnh tay bị bắt nhốt nơi chùa Vạn An, chỉ trách mình sơ sẩy vô tâm, chứ xưa nay chính tà không thể đứng chung cái đó cũng có gì lạ đâu. Các ngươi đến chùa Thiếu Lâm khắc ở sau lưng tượng La Hán mười sáu chữ, hừ hừ, ?Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương[6]?, uy phong quá, dữ tợn quá!

Hồi trước các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn sau khi bắt các nhà sư Thiếu Lâm đi rồi, dùng đao khắc mười sáu chữ đó vào sau lưng mười sáu pho tượng La Hán. Phạm Dao đợi cho mọi người đi khỏi, lập tức quay lại La Hán Đường, di chuyển mười sáu? pho tượng đó cho lưng xoay vào trong tường để âm mưu giá họa cho Minh Giáo của Triệu Mẫn không thành. Về sau bọn Dương Tiêu phát giác, coi xong liền xoay các pho tượng La Hán lại cho ngay ngắn, có ngờ đâu các nhà sư chùa Thiếu Lâm vẫn tìm ra. Trương Vô Kỵ mồm miệng không nhanh nhảu, nghĩ đến quả thực chuyện đó do Triệu Mẫn gây rối, trong lòng sượng sùng, không biết nói sao cho phải.

Dương Tiêu liền đáp:

- Lời của Không Trí đại sư khiến chúng tôi thật chẳng hiểu ra sao cả. Giáo chủ tệ giáo Trương giáo chủ chính là công tử của Trương ngũ hiệp phái Võ Đương, trên giang hồ còn ai không biết. Chúng tôi dẫu có cuồng vọng đến thế nào chăng nữa cũng chẳng dám nhục mạ đến thân sinh của giáo chủ. Còn bản thân Trương giáo chủ ư, không lẽ lại khắc ?tái hủy Võ Đương? những chữ ấy hay sao? Phương trượng đại sư và Không Trí đại sư đều là những bậc cao tăng đức độ, chuyện nhỏ nhặt như thế sao lại không nghĩ đến? Tại hạ nhất quyết không thể nào tin được chuyện này.

Mấy câu đó lời lời đanh thép, chặn ngay Không Trí không còn nói gì thêm được nữa. Phương trượng Không Văn tu hành đã lâu, tâm tính từ hòa, dẫu sao cũng coi đại cuộc là trọng, trong bụng cũng biết Minh Giáo thế mạnh, nếu như hai bên quả đi đến chỗ động thủ, chỉ e rằng ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính đã nghìn năm nay đến tay mình sẽ bị hủy mất. Ông liền nói:

- Các vị chỉ tranh luận bằng lời không thôi, cũng bằng vô ích, xin theo lão nạp đến La Hán Đường, chiêm ngưỡng pháp tượng, ai phải ai trái sẽ thấy ngay.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Một khi đến La Hán Đường thì mọi việc đổ bể hết?. Chàng còn trù trừ chưa dám trả lời, Dương Tiêu liền nói:

- Thế thì hay lắm.

Trương Vô Kỵ không hiểu ý ông ta ra sao nhưng thấy Triệu Mẫn trà trộn vào trong Hậu Thổ Kỳ chưa bước chân vào chùa, chắc là tăng chúng trong chùa Thiếu Lâm chưa phát giác được, cho nên cũng không lo lắm.

Kế đó tri khách tăng đi trước dẫn đoàn người đi về hướng La Hán Đường. Không Văn quì xuống lạy các pho tượng La Hán rồi khấn:

- Đệ tử kinh động các pháp tượng, xin chư vị La Hán tha thứ cho.

Sau khi hành lễ xong, nhà sư sai sáu đệ tử cung kính di chuyển các pháp thân. Những đệ tử đó tuân lệnh trèo lên, chắp tay khấn vái mấy câu, sau đó ba người một bên, chia ra hai phía, xoay pho tượng La Hán thứ nhất lại.

Chỉ thấy pho tượng đó sau lưng đẽo phẳng lì, thếp vàng, trước đây vốn có một chữ ?tiên? thật lớn nay không còn chút dấu tích nào nữa. Việc như thế, chẳng những Không Văn, Không Trí cả bọn lạ lùng, ngay cả Trương Vô Kỵ cũng thật ngoài dự liệu.

Quần đệ tử Thiếu Lâm lập tức cùng trèo lên, xoay tất cả các pho tượng La Hán còn lại ra ngoài, nhưng sau lưng có còn nét bút hay một chữ nào đâu? Các nhà sư mặt mày ngơ ngẩn, không ai nói ra được câu nào. Chính bọn họ đã thấy rõ ràng mỗi pho tượng La Hán đằng sau đều có khắc một chữ lớn, xếp lại thành bốn câu: ?Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đương, Duy ngã Minh Giáo, Võ lâm xưng vương? tổng cộng gồm mười sáu chữ, sao bây giờ lại không thấy đâu cả? Sau lưng các pho tượng La Hán vết thếp vàng thật mới, rõ ràng ai đó mới tô lên, thế nhưng chùa Thiếu Lâm mấy tháng nay canh giữ cực kỳ nghiêm mật, muốn xóa hết các vết tích chữ kia rồi sơn lại một lớp sơn mới, thực không phải dễ dàng, sao tăng chúng trong chùa chẳng một ai hay biết?

Trương Vô Kỵ quay lại thấy Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu hai người nháy nhau cười, liền hiểu ngay là anh em trong bản giáo đã ra tay, nghĩ thầm: ?Làm được việc này quả là thần thông quảng đại, thật là ghê gớm?.

Dương Tiêu thấy các nhà sư kinh ngạc lạ thường liền nói ngay:

- Quí tự phúc trạch thâm hậu, công đức vô lượng, kim thân của mười sáu pho tượng hoàn hảo không suy suyển chút nào. Chắc có lẽ đúng như Không Trí đại sư đã nói, mười sáu vị La Hán trước đây đã bị kẻ gian hủy hoại nhưng Phật pháp vô biên đã hiển linh tự sửa chữa lại, thực là đáng mừng.

Nói xong y liền hướng về các pho tượng La Hán quì xuống khấu đầu, Trương Vô Kỵ và tất cả những người khác cũng quì theo vái lạy.

Không Văn, Không Trí cả bọn tuy chẳng ai tin rằng những lời nói khéo La Hán hiển linh, Phật pháp vô biên là sự thật, nhưng cũng đoán chừng Minh Giáo ngầm ra tay, dẫu sao chăng nữa cũng đã cố công chuộc tội với bản tự rồi, những bực tức trong lòng tiêu giảm ít nhiều, lại thấy các ma đầu của ma giáo thần xuất quỉ một như vậy cũng đâm ba phần? úy kị, ba phần bội phục. Không Văn nói:

- Các pho tượng La Hán nay đã hoàn hảo như xưa, chuyện này không còn gì phải nói nữa.

Ông vẫy tay cho các đệ tử xoay các vị La Hán lại rồi nói:

- Đêm hôm qua Trương giáo chủ giáng lâm, đã gặp qua ba vị sư thúc của lão nạp rồi. Nghe nói Độ Ách sư thúc và Trương giáo chủ đã từng đính ước, chỉ cần giáo chủ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba vị sư thúc chúng tôi thì cứ việc đem Tạ thí chủ đi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế, Độ Ách đại sư quả có nói thế. Thế nhưng tại hạ hết sức khâm phục võ công của ba vị cao tăng, tự biết mình không phải là địch thủ, đêm hôm qua đã thua ba vị cao tăng rồi, kẻ bại trận đâu có còn dám huênh hoang gì nữa?

Không Văn nói:

- A Di Đà Phật, Trương giáo chủ nói quá đấy thôi. Đêm hôm qua thắng bại chưa rõ rệt, lại vì giáo chủ bụng dạ nhân hiệp, ra tay tương trợ, ba vị sư thúc thật cảm kích sâu xa cao nghĩa của giáo chủ.

Bọn Dương Tiêu, Phạm Dao nghe Trương Vô Kỵ nói ba vị cao tăng võ công tinh diệu ai cũng muốn được biết qua. Ân Thiên Chính liền nói:

- Nếu quả như các vị cao tăng nhất định lấy việc cao thấp trong võ học để giải quyết, thưa giáo chủ, chúng ta không lượng sức mình, cũng đành lãnh giáo tuyệt học của phái Thiếu Lâm thôi. Chúng ta có đến đây cũng vì việc cứu Tạ huynh đệ, đến nước cùng này thì cũng không còn đường nào khác, chứ nào dám đến gây chuyện với chốn lãnh tụ võ lâm là chùa Thiếu Lâm.

Trương Vô Kỵ xưa nay vốn kính trọng lời nói của ông ngoại mình, lại nghĩ ngoài cách đó ra không còn cách nào hay hơn nữa liền nói:

- Các anh em nghe tại hạ ca tụng cái thế thần công của ba vị cao tăng, đều nói ba vị tọa quan đã mấy chục năm, trong võ lâm không một ai hay biết, nay chúng tôi có dịp bái kiến, thực là đại hạnh bình sinh.

Không Trí giơ tay nói:

- Xin mời!

Ông ta liền dẫn đường cho quần hào đi về phía đỉnh núi sau chùa.

Các giáo chúng thuộc Hồng Thủy Kỳ của Minh Giáo do lệnh của chưởng kỳ sứ Đường Dương bày trận tại chân ngọn núi này, thanh thế thật là hùng hậu. Cả bọn Không Văn nhìn qua mà làm như không thấy, cứ đi thẳng lên núi. Không Văn, Không Trí chắp tay hướng về phía ba cây tùng bẩm báo. Độ Ách nói:

- Cừu oán với Dương Đính Thiên tối hôm qua đã hóa giải rồi, tượng La Hán ngày hôm nay cũng đã xong, thật hay biết mấy, hay biết mấy. Trương giáo chủ, bên quí vị mấy người tiến lên động thủ đây?

Bọn Dương Tiêu thấy ba nhà sư thân hình bé nhỏ, gầy gò, ngồi lọt thỏm vào trong ba hốc cây tùng thật chẳng khác gì ba cái xác khô, thế nhưng mấy câu đó vang vọng sơn cốc, quả thực nội lực thâm hậu, ai nấy đều kinh hoàng. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Hôm qua có một mình ta, đấu không lại ba nhà sư này. Hôm nay tuy mình đông thật nhưng nếu tất cả ùa lên, một là bó chân bó cẳng, hai là ỷ đông để thắng làm giảm uy phong của bản giáo. Nhiều cũng không xong, ít cũng không xong, mình cứ ba người chống ba người là công bình hơn cả?. Chàng liền đáp:

- Đêm hôm qua tại hạ đã được biết đến thần công của ba vị cao tăng, trong lòng thật là bội phục, đúng ra chẳng nên lộ cái xấu trước mặt ba vị một lần nữa. Thế nhưng Tạ Pháp Vương đối với tại hạ có cái tình cha con, với các anh em khác có cái nghĩa bằng hữu, cho nên chúng tôi chẳng thể nào không cứu ông ta ra. Tại hạ có ý mời thêm hai anh em khác trong bản giáo ra giúp đỡ một tay, lấy ba địch ba để hai bên ngang tay lãnh giáo.

Độ Ách thản nhiên nói:

- Trương giáo chủ chẳng phải khiêm tốn như thế. Nếu trong quí giáo có được một người nào tài ba ngang ngửa với giáo chủ, thì chỉ cần hai vị liên thủ cũng đã đủ sức giết ba anh em chúng tôi rồi. Thế nhưng nếu lão nạp không lầm, người có thân thủ như giáo chủ trên đời này chắc chẳng có ai đâu, cho nên dẫu bao nhiêu người tất cả xông lên thì cũng thế.

Bọn Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân người nọ nhìn người kia, đều nghĩ lão lừa trọc này quả thật huênh hoang quá, chẳng coi anh hùng thiên hạ vào đâu, nhưng trong giọng điệu vẫn thừa nhận không bằng được giáo chủ của mình, nói trên đời không ai ngang tay được với Trương Vô Kỵ, kể cũng là nể nang lắm. Chu Điên vừa toan đáp lời, Thuyết Bất Đắc nhanh tay bịt ngay mồm y lại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Tệ giáo tuy là bàng môn tả đạo, không thể nào sánh được với danh môn như quí phái, nhưng cơ nghiệp đã mấy trăm năm, cũng có đôi chút nhân tài. Tại hạ vì gặp được nhân duyên, tạm thời đảm đương trách nhiệm giáo chủ, thực ra nói về tài đức võ công, những người hơn hẳn tại hạ trong tệ giáo thật đâu có phải là ít? Vi Bức Vương, nhờ ông đem danh thiếp trình lên ba vị cao tăng.

Nói xong chàng lấy ra tờ giấy trên đề từ Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu mọi người trở xuống, ghi chép hết tên quần hào kỳ này cùng đến bái sơn.

Vi Nhất Tiếu biết giáo chủ muốn mình hiển thị khinh công có một không hai trên đời để cho quần tăng chùa Thiếu Lâm không dám coi thường nhân vật của Minh Giáo, liền khom lưng tuân lệnh, cầm lấy danh sách, thân hình chưa đứng thẳng người cũng chẳng xoay lại, búng ngược trở ra, như một làn khói mỏng vụt xa ngoài mươi trượng, lờ lững bay vào giữa ba cây tùng, song chưởng lật một cái đã nâng tờ danh thiếp giao cho Độ Ách.

Ba nhà sư thấy y thấp thoáng đã đến ngay trước mặt mình, khinh công đẹp như thế quả chưa từng thấy bao giờ, huống chi y lại bật ngược về sau, không ai tưởng nổi nên tấm tắc khen:

- Khinh công giỏi thật!

Tăng chúng phái Thiếu Lâm đều là những người hiểu biết, lập tức hoan hô vang dội. Quần hào Minh Giáo tuy ai cũng biết Vi Nhất Tiếu khinh công tuyệt luân, nhưng lối bật ngược về sau như thế này cũng chỉ mới thấy lần đầu, tuy trong lòng cũng bội phục nhưng không tiện ?mèo khen mèo dài đuôi? nên đành yên lặng, chỉ có một mình Chu Điên là vỗ tay tán thưởng thôi.

Độ Ách hơi nghiêng người, thò tay cầm danh thiếp, năm ngón tay phải của ông ta vừa đụng vào, Vi Nhất Tiếu toàn thân tê dại, cổ tay như bị sét đánh trúng, ngực nóng ran, thân mình cảm thấy như muốn quị xuống. Y hết sức kinh hãi, vội vàng vận công chống lại. Độ Ách vừa cầm tờ giấy lên, luồng nội lực hùng hồn truyền qua lập tức biến mất. Vi Nhất Tiếu mặt hơi biến sắc, nghĩ thầm nhà sư chột mắt này nội kình đúng là ?không sao lường nổi?, đâu dám ở lại thêm giây phút nào, nghiêng người một cái là là lướt trên đám cỏ cao trở về đứng bên cạnh Trương Vô Kỵ. Môn khinh công Thảo Thượng Phi đó tuy không lạ lùng gì nhưng luyện tới mức phất phới như bay quả cũng là một thần kỹ.

Không Văn, Không Trí mọi người đều nghĩ: ?Người này công phu khinh công đạt tới mức này, dĩ nhiên phải được cao nhân truyền thụ nhưng cũng còn do trời sinh, xem ra y vốn khác thường, người ngoài dù có khổ luyện tới đâu cũng không sao được như thế?.

Độ Ách nói:

- Trương giáo chủ nói quí giáo sẽ có ba người hạ trường, trừ giáo chủ và vị Vi Bức Vương kia, còn thêm ai đứng ra chỉ giáo?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vi Bức Vương đã lãnh giáo nội kình thần công của đại sư rồi, tại hạ định mời tả hữu Quang Minh sứ giả trong Minh Giáo ra giúp đỡ.

Độ Ách hơi chột dạ: ?Gã thanh niên này mắt tinh thật, ta vừa rồi cách thiếp truyền kình chỉ trong chớp mắt vậy mà y đã thấy rồi. Tả hữu Quang Minh sứ giả là ai, không lẽ võ công còn cao hơn gã họ Vi hay sao??. Ông ta tọa quan đã lâu, tên tuổi Dương Tiêu chưa từng nghe nói tới, còn Phạm Dao thì bao nhiêu năm qua ẩn tính mai danh, người ngoài vốn chẳng ai hay biết.

Dương Phạm hai người nghe tới giáo chủ đề cập đến mình, lập tức hiên ngang tiến ra, khom lưng nói:

- Cẩn tuân mệnh lệnh của giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ba vị cao tăng sử dụng binh khí mềm, mình dùng binh khí gì cho phải?

Trương, Dương, Phạm ba người bình thời khi lâm trận chỉ dùng tay không, hôm nay gặp phải kình địch, không dám cao ngạo không dùng binh khí, ba người nhất pháp thông, vạn pháp thông, binh khí nào dùng cũng có thể sử dụng được, Trương Vô Kỵ nói thế chính là để cho hai người được quyền chọn lựa. Dương Tiêu đáp:

- Xin để tùy giáo chủ sai bảo.

Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm, nghĩ thầm: ?Hôm qua Hà Gian Song Sát dùng đoản chống trường, xem ra có vẻ lợi thế?. Chàng bèn lấy từ trong bọc ra sáu chiếc thánh hỏa lệnh, đem bốn chiếc chia cho Dương Phạm nói:

- Chúng ta lên chùa Thiếu Lâm bái sơn, không dám đem theo binh khí, đây là bảo vật trấn giáo của Minh Giáo, mình cầm sử dụng vậy.

Dương Phạm khom lưng nhận lấy rồi hỏi xem phương lược thế nào. Không Trí đột nhiên lớn tiếng nói:

- Khổ đầu đà, chúng ta nơi chùa Vạn An có chuyện với nhau, sao không nhân dịp này thanh toán cho xong? Lại đây, lại đây, để lão nạp lãnh giáo cao chiêu của ngươi trước đã. Lão nạp hôm nay không uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán để xem ai hơn ai nào.

Y bị tù nơi chùa Vạn An vẫn còn uất ức chưa có dịp nào phát tiết, hôm nay gặp lại Phạm Dao vẫn cố hết sức nén lòng lúc này không còn nhịn thêm được nữa. Phạm Dao cười nhạt nói:

- Tại hạ phụng lệnh giáo chủ, ra lãnh giáo ba vị cao tăng, đại sư nếu muốn báo thù cũ, để việc này xong sẽ phụng bồi sau.

Không Trí cầm lấy trường kiếm từ tay một đệ tử đứng bên quát lớn:

- Ngươi không lượng sức mình, dám động thủ với ba vị sư thúc của ta, không chết thì cũng bị thương nặng. Thù của ta như thế làm sao báo được đây?

Phạm Dao cười nói:

- Ta chết dưới tay lệnh sư thúc thì cũng thế thôi.

Không Trí cười khẩy:

- Trong Minh Giáo ngoài các hạ ra không còn cao thủ nào khác hay sao, thôi thế cũng được.

Câu nói của y là kế khích tướng, quần hào trong Minh Giáo ai mà không biết? Thế nhưng nếu làm ngơ không nói gì, chẳng hóa ra để ông ta coi thường Minh Giáo lắm ư? Cứ theo thứ bậc mà luận, dưới Phạm Dao mới tới Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Trương Vô Kỵ thấy ông ngoại tuổi đã cao, không tiện mời ra, nên định gọi cậu là Ân Dã Vương xuất mã. Ân Thiên Chính tiến lên một bước nói:

- Giáo chủ, thuộc hạ Ân Thiên Chính xin ra ứng chiến.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ông ngoại tuổi cao, xin để mời cậu ...

Ân Thiên Chính nói:

- Ta tuổi có cao cũng chưa hơn được ba vị cao tăng. Phái Thiếu Lâm có thạc đức kỳ túc[7] Minh Giáo ta lại không có lão tướng hay sao?

Trương Vô Kỵ biết ông ngoại mình võ công cao cường, không kém gì Dương Tiêu, Phạm Dao, so với cậu còn giỏi hơn nhiều, nếu như để ông xuất chiến, xem ra phần thắng nhiều hơn bèn nói:

- Thôi được, Phạm hữu sứ để dành sức lãnh giáo Không Trí thần tăng, xin ngoại công ra giúp hài nhi vậy.

Ân Thiên Chính đáp:

- Tuân lệnh.

Ông giơ tay nhận lấy hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay Phạm Dao. Không Văn phương trượng dõng dạc nói:

- Ba vị sư thúc, vị Ân lão anh hùng đây người đời gọi là Bạch Mi Ưng Vương, năm xưa tự sáng lập ra Thiên Ưng giáo, một mình chống lại sáu đại môn phái, quả là một anh hùng hảo hán. Còn vị Dương tiên sinh này, nội ngoại công đã đến mức tuyệt luân, là hảo thủ số một của Minh Giáo, rất nhiều cao thủ các phái Côn Lôn, Nga Mi? đã từng bị bại dưới tay y.

Độ Kiếp cười khô khan mấy tiếng nói:

- Thật may mắn quá, may mắn được gặp, để xem hôm nay môn hạ đệ tử Thiếu Lâm tài nghệ đi đến đâu?

Tam tăng vung tay một cái, ba sợi dây chẳng khác gì ba con rồng đen quây thành ba tầng vòng tròn. Trương Vô Kỵ tối hôm qua cùng ba nhà sư động thủ giơ tay không nhìn thấy rõ năm ngón, chỉ do kình khí của sợi dây mà biện nhận phương hướng, lúc này trời mới sắp trưa, ánh nắng ngay trên đỉnh đầu, cả đến những nếp nhăn trên mặt ba nhà sư cũng nhìn rõ từng nét. Chàng xoay ngược thánh hỏa lệnh, ôm quyền cúi mình chào nói:

- Xin lỗi!

Nói rồi liền nghiêng mình xông lên ngay. Dương Tiêu phi thân qua bên trái, còn Ân Thiên Chính quát lên một tiếng, tay phải cầm thánh hỏa lệnh đập vào dây của Độ Nạn. Hai thứ binh khí kỳ lạ này đụng nhau phát ra âm thanh nghe coong cong hết sức quái dị, cả hai tay đều ê ẩm, nghĩ thầm: ?Lợi hại thật? biết rằng mình đã gặp một kình địch khó kiếm trên đời.

Trương Vô Kỵ suy tính: ?Sợi dây của ba nhà sư kết thành một vòng tròn, chiêu số nghiêm mật, tuy bên mình ba người liên thủ, nhưng trong vòng vài ba trăm chiêu không thể nào phá vỡ được, vậy làm sao hao phí nội kình của tam tăng rồi từ từ tìm chỗ sơ hở?. Chàng thấy sợi dây cuốn tới, liền dùng thánh hỏa lệnh lấy cứng chọi cứng đối công.

Hai bên đấu chừng ăn xong một bữa cơm, ba người phe Trương Vô Kỵ đã dồn cho vòng dây thu nhỏ lại chỉ còn chừng hơn một trượng. Thế nhưng vòng càng thu nhỏ, kháng lực của ba nhà sư càng mạnh thêm, ba người mỗi khi tiến lên được thêm một bước, sức lực hao phí so với lúc trước tăng thêm gấp mấy lần. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính càng đấu càng kinh hãi, lúc đầu cục diện là ba đánh ba, sau nửa giờ rồi, Dương Ân hai người gần như không còn chịu nổi, thành ra hai người hợp công Độ Nạn, còn Trương Vô Kỵ một mình chống đỡ Độ Ách, Độ Kiếp nhị tăng.

Ân Thiên Chính đánh ra toàn một lối cương mãnh, còn Dương Tiêu thì lúc cứng lúc mềm, biến hóa khôn cùng. Trong sáu người, chỉ có võ công Dương Tiêu trông đẹp mắt nhất, hai thanh thánh hỏa lệnh trong tay y xoay múa tít lên, lúc thì thành kiếm, lúc thì thành đao, lúc thì như đoản thương chọc, đánh, cuốn, đập, lúc lại giống như phán quan bút điểm, đâm, đè, nhử khi thì tay trái như chủy thủ[8], tay phải như thủy thích[9] rồi thoắt một cái tay phải biến thành cương tiên, tay trái biến thành thiết xích[10], thỉnh thoảng lại dùng hai lệnh bài gõ vào nhau, phát xuất âm thanh u u nhiễu loạn tâm thần đối phương. Đấu chưa đầy bốn trăm chiêu, y đã biến đổi luôn hai mươi hai loại binh khí, mỗi loại binh khí chỉ sử dụng hai pho, tổng cộng bốn mươi bốn pho chiêu thức.

Không Trí đã luyện thành mười một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Phạm Dao vẫn tự hào võ công thiên hạ không đâu không biết qua, lúc này nhìn thấy thần kỹ của Dương Tiêu, trong lòng không khỏi ngầm thán phục. Chu Điên với Dương Tiêu vốn có hiềm khích, hai bên đã mấy lần gây sự với nhau, lúc này càng xem càng hổ thẹn: ?Thì ra gã con rùa Dương Tiêu vốn nhường nhịn mình. Lúc trước vẫn tưởng võ công gã chỉ hơn mình chút đỉnh, mỗi lần động thủ có thắng cũng chỉ nhờ may mới hơn mình được nửa chiêu một thức. Có ngờ đâu gã con rùa ấy so với Chu Điên này thật một trời một vực?.

Thế nhưng dù cho Dương Tiêu biến chiêu thế nào chăng nữa, sợi dây đen của Độ Nạn vẫn chia ra chống đỡ cả hai người, không một chút gì núng thế. Mọi người thấy Ân Thiên Chính trên đầu sương trắng bốc lên, biết là nội lực đã phát huy đến tận cùng, chiếc trường bào màu trắng bên trong cũng đầy hơi dần dần căng phồng. Mỗi bước chân của ông ta đều để lại một dấu chân, đấu đến khoảng gần một giờ, trong giữa ba cây tùng vết chân ông ta đã thành một cái vũng.

Đến lúc đó, Ân Thiên Chính đưa thanh lệnh bài từ tay phải sang bên tay trái, đè luôn vào sợi dây của Độ Nạn, tay phải dùng một chiêu Phách Không Chưởng đánh tới. Độ Nạn giơ tay trái lên, năm ngón tay chụp hờ ra, biến thành không quyền cũng trả lại một chưởng.

Không Văn, Không Trí cả bọn cùng ?Ồ? lên một tiếng, thanh âm đầy vẻ kinh ngạc cùng bội phục. Thì ra chưởng Độ Nạn vừa đánh trả, là một trong bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm gọi là Tu Di Sơn Chưởng. Môn chưởng lực này hết sức khó luyện là chuyện đương nhiên, nhưng dẫu đã luyện thành, mỗi lần xuất chưởng đều phải xuống tấn vận khí, ngưng thần một lúc lâu, cốt để ngưng tụ nội kình nơi Đan Điền. Ngờ đâu Độ Nạn muốn đánh là đánh ngay, chỉ cần nghĩ tới là đã có thể tung Tu Di Sơn Chưởng ra, tiếp theo sợi dây đen lại rung một cái nhắm đánh vào Dương Tiêu.

Thế nhưng Độ Nạn đã dùng Tu Di Sơn Chưởng đối chưởng? với Ân Thiên Chính, kình lực trên sợi dây đã giảm đi quá nửa. Ông ta liền dùng khéo léo để bù vào chỗ yếu của mình, múa sợi dây vùn vụt chẳng khác gì một con linh xà cuồn cuộn, còn hai thanh thánh hỏa lệnh của Dương Tiêu cũng biến hóa vô cùng khiến người đứng coi phần lớn đổ dồn vào xem hai người đấu với nhau.

Ân Thiên Chính ngưng thần đề khí, từng chưởng từng chưởng đánh ra, lúc thì tiến lên hai bước, lúc thì lùi lại hai bước. Ở bên kia Trương Vô Kỵ một mình đấu với hai, ba người chiêu thức có vẻ bình thường không có gì kỳ lạ, nhưng tất cả đều là thi triển nội kình. Lối đấu đó so với cách đấu lực của Ân Thiên Chính và đấu xảo của Dương Tiêu thì không bằng nhưng thực ra hung hiểm hơn nhiều, chỉ cần nội kình bị đối phương đánh ép trở về, nếu không khí tuyệt thân vong, thì cũng lập tức tẩu hỏa nhập ma, điên cuồng tàn phế. Thế nhưng lối đấu đó chỉ có người trong cuộc là hiểu được thôi, người đứng ngoài dù võ công cao siêu bực nào cũng không thể nào theo chiêu số mà biết được.

Ánh mặt trời từ đông nay đã lên đỉnh đầu, rồi lại từ từ ngả về phương tây. Không Văn, Không Trí, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu lúc này đã nhìn thấy hai bên thắng bại thế nào. Chỉ thấy Ân Thiên Chính trên đầu hơi trắng bốc lên mỗi lúc một? đậm, còn kim châm trên cành cây tùng mà Độ Kiếp ngồi cũng rung động không ngớt, đủ biết Độ Ách và Độ Kiếp hai nhà sư công lực có kẻ thấp người cao. Đến lúc này, Độ Kiếp phải dựa lưng vào, mượn sức cây đang ngồi đỡ cho mới kháng cự nổi với Cửu Dương thần công của Vô Kỵ. Nếu như Ân Thiên Chính chịu không nổi thì Minh Giáo thua, còn nếu Độ Kiếp chống đỡ không nổi thì phái Thiếu Lâm kể như bại trận.

Sáu người đang đấu lại càng hiểu điều đó hơn ai hết. Ân Thiên Chính tỉ đấu chưởng lực với Độ Nạn đến hơn ba mươi chưởng thì biết mình không phải là địch thủ của ông ta, nghĩ thầm: ?Việc của bọn ta hôm nay, cốt sao cứu được Tạ huynh đệ là quan trọng. Vinh nhục thắng bại của một cá nhân ta có đáng gì đâu? Huống chi thua về tay một tiền bối cao nhân trong phái Thiếu Lâm thì cũng chẳng có gì thương tổn uy danh của Bạch Mi Ưng Vương này?.

Thế rồi mỗi lần đánh ra một chưởng, ông ta lại lùi ra nửa bước, đến lúc hơn mười chưởng rồi đã lùi ra xa hơn một trượng. Nào ngờ Tu Di Sơn Chưởng là một trong bảy mươi hai tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, Độ Nạn đã tập luyện pho chưởng này mấy chục năm rồi, uy lực quả thật là ghê gớm. Ân Thiên Chính lùi lại một bước, chưởng lực của Độ Nạn lại đuổi theo một bước, kình lực không vì lộ trình dài ngắn mà suy suyển chút nào.

Dương Tiêu nghĩ thầm: ?Nhà sư Thiếu Lâm này quả thật lợi hại, chiêu số trên thánh hỏa lệnh của ta dẫu có biến hóa thêm nữa, cũng chẳng làm gì được ông ta. Ân Bạch Mi một mình chịu đựng nội kình, e rằng lâu nữa sẽ chịu không nổi?. Y chập hai thanh thánh hỏa lệnh làm một, toan kẹp lấy sợi dây đen, lấy cứng chọi cứng hai bên đấu lực, để giảm bớt gánh nặng cho Ân Thiên Chính. Ngờ đâu thánh hỏa lệnh vừa định kẹp vào sợi dây thì Độ Nạn rung tay một cái, đầu dây liền thẳng băng ra đâm luôn vào mặt Dương Tiêu. Dương Tiêu nhanh như chớp nhằm ngay ngực Độ Nạn ném luôn thánh hỏa lệnh ra, hai tay vung lên, chộp ngay được đầu dây, dùng chiêu Đảo Duệ Cửu Ngưu Vĩ, lập tức kéo chạy ra ngoài.

Độ Nạn thấy binh khí của đối phương rời khỏi tay chẳng khác gì ám khí bắn tới, kình đạo mãnh liệt, cùi chỏ trái liền hạ xuống, chặn thanh thánh hỏa lệnh đang bay tới ngực, nhưng thấy một thanh đang đi giữa đường đột nhiên chuyển hướng, nghe vù một tiếng, nhắm ngay Độ Kiếp phóng tới. Thì ra trong sáu người chỉ có Dương Tiêu là đa mưu hơn cả, hai thanh thánh hỏa lệnh tấn công Độ Nạn chẳng qua chỉ là hư chiêu, kình lực trên lệnh bài đánh vào Độ Kiếp mới sử dụng toàn thể nội kình.

Độ Kiếp đang dùng hết sức kháng cự với Trương Vô Kỵ, thấy Độ Nạn đấu với Dương Ân hai người xem ra vẫn chiếm thượng phong, đâu có ngờ Dương Tiêu đột nhiên sử dụng kỳ chiêu, dùng thủ pháp quái lạ tấn công lén mình, còn đang kinh hoàng, thánh hỏa lệnh đã đến ngay trước mặt. Độ Kiếp tâm thần hơi loạn, nhẹ nhàng giơ hai ngón tay, kẹp lấy thanh thánh hỏa lệnh nọ. Thế nhưng lúc đó ông ta đang toàn tâm toàn lực tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, tâm thần vừa phân ra, lập tức cây tùng đang ngồi rung lên bần bật, kim châm trên cành rơi lả tả xuống, chẳng khác gì một trận mưa rào. Trương Vô Kỵ thấy đối phương sơ hở, Càn Khôn Đại Na Di của chàng tối thiện dụng là tìm chỗ thất thố của đối phương tấn công vào, dẫu cho phòng vệ trăm bề chặt chẽ cũng còn chưa ổn, huống chi lại đang yếu thế? Năm luồng kình lực trên năm ngón tay chàng? lập tức tấn công thẳng tới kêu lên sì sì. Chỉ nghe lốp bốp liên tiếp, từng cành từng cành tùng từ trên cây của Độ Kiếp liên tiếp rơi xuống.

Độ Ách thấy thế nguy, vội đứng nhỏm dậy, liệng một cái đã đến bên cạnh Độ Kiếp, giơ tay trái ra, vịn vào vai sư đệ. Độ Kiếp được sư huynh tương trợ mới ổn định trở lại. Phía bên kia Độ Nạn và Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cũng đã đến lúc đấu với nhau bằng chân lực, việc sinh tử chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc. Dương Tiêu cầm sợi dây kéo mạnh ra ngoài, còn Ân Thiên Chính cứ tiếp tục sử dụng chưởng lực với sức mạnh vỡ núi tan bia liên tiếp nhắm Độ Nạn đánh tới. Hai đại cao thủ một kéo một đẩy, hai luồng kình lực tương phản, Độ Nạn ở ngay chính giữa, tuy gặp phải khó khăn vạn phần nhưng chưa có vẻ gì kém thế.

Quần hào Minh Giáo và tăng chúng Thiếu Lâm đứng bên ngoài thấy tình hình như thế biết rằng nếu tiếp tục đấu đến khi phân thắng bại, trong sáu cao thủ e rằng ít ra một nửa phải táng mạng tại chỗ. Trên một đỉnh núi rộng như thế, nhất thời không nghe một tiếng động, quần hào mồ hôi lạnh ướt đầm lưng, không ai là không thấp thỏm lo cho phe mình.

Ngay trong lúc tĩnh mịch như thế, bỗng từ dưới hầm sâu giữa ba cây tùng có tiếng trầm trầm vọng lên:

- Dương tả sứ, Ân đại ca, Vô Kỵ hài nhi, Tạ Tốn tôi hai tay dính đầy vết máu, đáng lẽ phải chết từ lâu rồi mới phải. Hôm nay các người vì muốn cứu tôi mà đến đây, đấu với ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm, nếu như hai bên có tổn thương, Tạ Tốn này tội lỗi càng thêm chồng chất. Vô Kỵ hài nhi, con mau mau dẫn huynh đệ bản giáo, rời khỏi chùa Thiếu Lâm ngay. Nếu không ta sẽ lập tức tự tuyệt kinh mạch, để khỏi tăng thêm tội nghiệt.

Đó chính là Tạ Tốn dùng thần công Sư Tử Hống từ trong địa lao nói ra. Năm xưa ông ta ở trên đảo Vương Bàn Sơn dùng Sư Tử Hống làm cho bao nhiêu hào sĩ các môn phái hôn mê hoặc chết, lúc này thần công đó không làm hại ai, nhưng mọi người ai cũng tai lùng bùng, mặt mày thất sắc.

Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ mình lời nói ra nặng như núi, nhất định không vì mình được thoát thân mà phải để cho người khác thương tổn, tình thế trước mắt, nếu đánh cho đến lúc tàn cuộc, tuy mình có thể không sao nhưng ông ngoại, Dương Tiêu, Độ Kiếp, Độ Nạn bốn người ắt khó thoát. Chàng còn đang trù trừ, lại nghe Tạ Tốn quát lên:

- Vô Kỵ, con còn chưa đi hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng! Kính cẩn tuân lời dạy bảo của nghĩa phụ.

Chàng lùi lại một bước, lớn tiếng nói:

- Ba vị cao tăng võ công quả nhiên thật là thần diệu, hôm nay Minh Giáo không cách nào phá nổi, ngày khác sẽ quay lại lãnh giáo. Ông ngoại, Dương tả sứ, thôi mình thu tay lại!

Nói xong kình khí rút về, bật văng kình lực của Độ Ách, Độ Kiếp trên hai sợi dây ngược trở lại. Dương Tiêu và Ân Thiên Chính nghe chàng ra lệnh như thế nhưng khổ nỗi hai người đang cùng Độ Nạn giở toàn lực ra đấu, không có cách gì rút tay về, nếu như thu hồi nội kình thì sẽ bị kình khí của Độ Nạn làm cho bị thương ngay, còn Độ Nạn lúc này muốn ngừng lại cũng không được. Trương Vô Kỵ chạy đến trước mặt Ân Thiên Chính, song chưởng tung ra, tách Độ Nạn và Ân Thiên Chính thành hai bên, tiếp theo giơ thánh hỏa lệnh đè lên ngay giữa sợi dây của Độ Nạn. Sợi dây vốn đang bị Dương Tiêu và Độ Nạn kéo căng như dây cung, thánh hỏa lệnh của Trương Vô Kỵ vừa ấn xuống, Càn Khôn Đại Na Di thần công liền hóa giải ngay hai luồng lực đạo mãnh liệt từ hai đầu dây truyền vào, sợi dây mềm nhũn rơi ngay xuống đất, Dương Tiêu nhanh tay liền nhặt lên.

Độ Nạn mặt biến sắc, đang định lên tiếng, Dương Tiêu hai tay cầm sợi dây đen, tiến lên mấy bước nói:

- Phụng hoàn binh khí của đại sư.

Độ Kiếp hiểu ngay tâm ý của ông ta, cũng cầm hai thanh thánh hỏa lệnh ở bên cạnh lên, giao trả lại.

Sau trận chiến này, ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm không còn dám cuồng ngạo như trước, biết rằng nếu có tiếp tục cũng chỉ đến nước lưỡng bại câu thương, ba người bên mình không thể nào chiếm thượng phong được. Độ Ách nói:

- Lão nạp bế quan mấy chục năm, trở lại được gặp hiền hào đời nay, thật là may mắn. Trương giáo chủ, quí giáo anh tài đầy rẫy, các hạ lại càng trội hẳn mọi người, mong rằng đem cái tài ba đó tạo phúc cho thương sinh, đừng làm những chuyện thương thiên hại lý.

Trương Vô Kỵ khom mình đáp:

- Đa tạ đại sư chỉ giáo, tệ giáo không dám làm chuyện sai quấy đâu.

Độ Ách nói tiếp:

- Ba anh em chúng tôi tại nơi này cung kính chờ đợi đại giá của Trương giáo chủ đến lần thứ ba.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không dám, thể nào chúng tôi cũng đến lãnh giáo lần nữa. Tạ pháp vương là nghĩa phụ của tại hạ, ơn sâu chẳng khác gì cha đẻ.

Độ Ách thở dài một tiếng,nhắm mắt lại không trả lời.

Trương Vô Kỵ cùng tất cả mọi người, chắp tay chào từ biệt Không Văn, Không Trí rồi xuống núi. Bành Oánh Ngọc truyền tín hiệu ra, triệt hồi giáo chúng thuộc Ngũ Hành Kỳ. Giáo chúng Cự Mộc Kỳ và Hậu Thổ Kỳ lùi ra cách chùa năm dặm, dựa vào núi dựng hơn chục chiếc nhà gỗ để cho mọi người nghỉ ngơi.

Trương Vô Kỵ lòng u uất không vui, nghĩ thầm trong bản giáo, không còn ai võ công có thể cao hơn ông ngoại và Dương Tiêu, dẫu có thay bằng Phạm Dao và Vi Nhất Tiếu, thì cũng chỉ đến như cục diện hôm nay thôi, trong đời này kiếm đâu ra hai người hơn được những cao thủ này để cùng chàng phá Kim Cương Phục Ma Khuyên? Bành Oánh Ngọc đoán được tâm sự chàng nói:

- Giáo chủ quên Trương chân nhân rồi sao?

Trương Vô Kỵ chần chừ đáp:

- Nếu như thái sư phụ tôi có hạ sơn giúp đỡ, cùng tôi hai người liên thủ, hẳn sẽ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên. Thế nhưng sẽ làm sứt mẻ hòa khí hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương, chưa chắc thái sư phụ tôi đã bằng lòng. Hơn nữa thái sư phụ tôi tuổi đã trên trăm, công phu võ học đã đến mức lô hỏa thuần thanh rồi, nhưng dù sao thì tuổi cao suy nhược, nếu có sơ sẩy chuyện gì thì biết làm sao?

Đột nhiên Ân Thiên Chính đứng dậy cười ha hả nói:

- Nếu Trương chân nhân bằng lòng xuống núi, thể nào cũng mã đáo thành công, hay lắm, hay lắm.

Ông cười khan mấy tiếng, mồm há hốc, thanh âm đột nhiên ngừng hẳn. Quần hào thấy ông ta mặt tươi rói, đứng sừng sững giữa trời, đều không khỏi ngạc nhiên. Dương Tiêu nói:

- Ân huynh có nghĩ là Trương chân nhân sẽ hạ sơn xuất mã chăng?

Y hỏi luôn mấy lần, Ân Thiên Chính vẫn đứng yên không trả lời, thân thể tuyệt nhiên không động đậy. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, giơ tay thăm mạch ngờ đâu tâm mạch đã ngừng, hơi đã tắt chết từ bao giờ. Thì ra năm xưa trên Quang Minh Đính ông một mình đối phó sáu đại môn phái, hết sức chống đỡ, chân nguyên đã bị tổn hại rất lớn, bây giờ lại khổ chiến với Độ Nạn, hao kiệt toàn bộ lực khí, hơn nữa tuổi đã cao, chẳng khác gì đèn khô dầu kiệt.

Trương Vô Kỵ ôm lấy xác ông ngoại khóc òa, còn Ân Dã Vương cũng vội chen vào rống lên kêu trời gọi đất. Quần hào nghĩ đến nghĩa khí đồng giáo, ai nấy nước mắt sụt sùi. Tin tức truyền ra, trong Minh Giáo có rất nhiều người nguyên ở dưới cờ Thiên Ưng giáo, lập tức tiếng khóc vang cả sơn cốc.

Mấy ngày hôm sau, quần hào bận bịu việc tang ma cho Ân Thiên Chính. Các môn phái, các bang hội cùng các nhân vật võ lâm cũng lục tục lên núi. Những người đó ngưỡng mộ uy danh Ân Thiên Chính, đều đến trước linh sàng nơi căn nhà gỗ để điếu tang. Không Văn, Không Trí cũng đích thân đến viếng, lại phái ba mươi sáu nhà sư, làm lễ cầu siêu cho Ân Thiên Chính. Thế nhưng ba mươi sáu nhà sư đó chỉ mới tụng được vài câu kinh, thì Ân Dã Vương đã cầm gậy tre chạy ra đánh đuổi. Chu Điên đứng ở một bên cũng chửi toáng lên:

- Bọn lừa trọc Thiếu Lâm chỉ giỏi vờ vịt, giả nhân giả nghĩa.

Trương Vô Kỵ trong bụng buồn bã, cùng Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Triệu Mẫn thương nghị mấy lần nhưng không tìm ra thiện sách. Triệu Mẫn đã nghĩ tới việc dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bỏ vào đồ ăn thức uống của ba nhà sư, lại nói tới việc đi gọi Lộc Trượng Khách, Hạc Bút Ông hai người đến liên thủ với Trương Vô Kỵ, thế nhưng Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu đều thấy không ổn chút nào.

[1] Cao đến mức không còn thấy gì nữa

[2] tức một môn tu tập chỉ ngồi mà không nằm còn gọi là khô mộc thiền hay khô kháo thiền tọa, chủ trương buông xả hết mọi việc

[3] phủ Hà Gian, nay thuộc Tân Đạo, tỉnh Trực Lệ.

[4] Đồ đánh lửa

[5] kẻ đứng đầu nguyên nhân gây ra tội lỗi

[6]Diệt phái Thiếu Lâm trước, Rồi diệt Võ Đương sau. Chỉ còn mình Minh giáo Trong võ lâm đứng đầu.

[7] Người già cả tiếng tăm

[8] dao ngắn

[9] đòng đâm cá

[10] tay thước, một loại vũ khí giống như một thanh gỗ ngắn

Hồi 37

THIÊN HẠ ANH HÙNG MẠC NĂNG ĐƯƠNG

Ra tay nhiếp phục quần hùng,

Khách mày râu há sánh cùng nữ nhi.

Bấm đốt ngón tay thoáng đã đến ngày tết Đoan Dương, Trương Vô Kỵ tất lãnh quần hào Minh Giáo đến chùa Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm tiền điện hậu điện, cánh trái cánh phải chỗ nào cũng đầy anh hùng hảo hán các môn phái. Trong số nhân vật võ lâm, kẻ thì có thù oán với Tạ Tốn, chăm chăm muốn giết ông ta để rửa hờn; có kẻ lại nhòm ngó thanh đao Đồ Long, si tâm vọng tưởng đoạt được thanh đao để thành võ lâm chí tôn; cũng có kẻ có ân oán với nhau nhân dịp này muốn thanh toán cho xong nhưng đa số thì chỉ muốn đến để cầu vui, xem chuyện gì sẽ xảy ra. Chùa Thiếu Lâm cử ra hơm một trăm tri khách tăng tiếp đãi, đưa người đến các nơi trong chùa nghỉ ngơi.

Phái Võ Đương chỉ có Du Liên Châu và Ân Lê Đình hai người đến dự. Trương Vô Kỵ tiến lên bái kiến, hỏi thăm sức khỏe Trương Tam Phong. Du Liên Châu khẽ giọng hỏi:

- Cháu có nghe tin tức gì của Thanh Thư và Trần Hữu Lượng không?

Trương Vô Kỵ đem tất cả mọi việc kể qua một lượt, biết Trần Tống chưa lên núi Võ Đương quấy rối thành thử Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê sở dĩ không đi, cũng vì phải ở lại núi để bảo hộ sư phụ và môn phái, đề phòng gian mưu. Du Liên Châu cũng kể thêm Tống Viễn Kiều từ khi chính tai nghe thấy đứa con yêu duy nhất của mình nói ra những lời phản nghịch, đau lòng sầu khổ, chẳng thiết gì ăn uống, người gầy xọp hẳn đi, thân thể nay chỉ còn một nửa lúc trước, nhưng vẫn dấu Trương Tam Phong, không dám nói rõ sự tình, ngại sư phụ buồn lo. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ mong Tống sư ca sai đường biết quay đầu lại, tức tốc hối cải để cùng Tống đại sư bá cha con đoàn viên.

Du Liên Châu đáp:

- Nói thế chứ tên nghịch tặc đó giết hại thất sư đệ, không thể nào tha y được.

Ông nói mà mặt mày hầm hầm không thôi. Trong một giờ sau, các lộ anh hùng mỗi lúc một đông, trong đó có cả Hà Gian Song Sát, cùng những người của phái Thanh Hải hôm trước phá Kim Cương Phục Ma Khuyên. Phái Hoa Sơn, Không Động, Côn Lôn phái nào cũng có cao thủ phó hội, riêng phái Nga Mi không thấy ai lên núi.

Trương Vô Kỵ chỉ mong gặp lại Chu Chỉ Nhược để giãi bầy tình cảnh bất đắc dĩ của mình ngày hôm ấy, mỗi khi nghĩ đến khuôn mặt ánh mắt của nàng, trong lòng bồn chồn cảm thấy thật là ray rứt. Quần hào Minh Giáo tập trung tại một cái chái bên cánh tây, không giao thiệp tiếp xúc với ai vì Minh Giáo kẻ thù người oán quá nhiều, cừu nhân gặp mặt e rằng đại hội chưa bắt đầu thì đã đánh nhau một trận nghiêng trời lệch đất.

Gần tới trưa, tri khách tăng mời tất cả quần hùng tới một khoảng đất rộng trên núi. Chỗ này vốn dĩ là nơi các nhà sư trồng rau, rộng đến vài trăm mẫu, bây giờ san bằng, dựng lên vài chục ngôi nhà gỗ. Quần hào được các tri khách tăng dẫn vào từng nơi, những môn phái bang hội nào đông người thì chiếm nguyên một căn, còn nếu ít người thì hai ba phái chung một lều.

Bành Oánh Ngọc đem hết lai lịch các nhân vật kiệt xuất bẩm cáo cho Trương Vô Kỵ hay. Quả đúng là một đại hội lớn, nhiều nhân vật vốn dĩ ẩn cư nơi rừng sâu núi thẳm ít hành tẩu giang hồ nay cũng thấy có mặt. Bành Oánh Ngọc sau khi đếm kỹ, không kể Minh Giáo, trong khu đất phải có đến hơn bốn nghìn sáu trăm người. Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu thấy trong đám người này, thù nhiều bạn ít, đều không khỏi buồn phiền.

Các tân khách sau khi đã ổn định rồi, quần tăng chùa Thiếu Lâm mới thứ tự đi ra, cứ theo vai vế Viên, Tuệ, Pháp, Tướng, Trang các hàng, chào hỏi quần hùng, sau cùng là Không Trí thần tăng, có chín lão tăng thuộc Đạt Ma Đường hộ tống.

Không Trí đi đến chính giữa quảng trường, chắp tay hành lễ, miệng niệm Phật hiệu, nói:

- Hôm nay được chư vị anh hùng thiên hạ nể mặt giáng lâm, phái Thiếu Lâm quả thật là vinh hạnh. Có điều phương trượng sư huynh chúng tôi đột nhiên ngọa bệnh nặng, không có duyên được gặp các bậc hiền tài, nên sai lão nạp ra khẩn khoản xin lỗi quí vị.

Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên: ?Mới rồi Không Văn đại sư đến viếng linh sàng ông ngoại ta, tinh thần sảng lãng, mặt mũi không có vẻ gì là bệnh hoạn cả, người nội công thâm hậu như ông ta, lẽ nào đột nhiên ngã bệnh? Không lẽ bị thương hay sao??.

Chàng đưa mắt bốn bề quan sát, không thấy Viên Chân và Trần Hữu Lượng nghĩ thầm: ?Đêm hôm đó ta nói rõ với ba vị cao tăng Độ Ách về gian mưu của Viên Chân, không biết trong chùa đã xử trí cách nào? Không Văn đại sư đột nhiên cáo bệnh, có liên quan gì đến chuyện đó hay chăng??.

Cuối thời Nam Tống, vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung đã hai lần tại Đại Thắng quan và thành Tương Dương triệu tập hào kiệt thiên hạ, cùng nhau thương lượng kế sách kháng quân Mông Cổ xâm nhập, đến nay gần một trăm năm mới lại có một anh hùng đại hội nữa, quả là một chuyện lớn trên giang hồ, vậy mà người chủ trì đột nhiên ngã bệnh khiến ai nấy đều mất hết hứng thú.

Lại nghe Không Trí nói tiếp:

- Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn là mối họa cho võ lâm, tội nghiệt thâm trọng, tệ tự may mà bắt được. Phái Thiếu Lâm không dám tự chuyên, cung kính mời các vị nhân sĩ vọng trọng võ lâm, để cùng nhau thương lượng việc xử trí thế nào cho phải.

Ông ta vốn dĩ mặt mày sầu khổ, lúc này nói năng lại giọng điệu buồn thiu, vừa dứt lời đã chắp tay lui xuống. Góc đông nam có một người thân hình cao to đứng lên, bộ râu đốm bạc gió thổi phất phơ, nhìn quanh khắp mọi người, hai mắt lấp lánh có thần, hình tướng thật là uy nghiêm. Bành Oánh Ngọc liền cáo tri Trương Vô Kỵ, người này là lão quyền sư đất Sơn Đông tên Hạ Trụ. Tiếng y vang vang như chuông nói:

- Tên Tạ Tốn kia tác ác đa đoan, quí phái nếu như bắt được, quả là tạo phúc cho võ lâm không phải nhỏ. Hai vị thần tăng Không Văn, Không Trí quá ư khiêm tốn, một tên ác ôn như thế, cứ một đao giết đi là xong, việc gì phải hỏi người ngoài làm gì? Hôm nay nhân dịp thiên hạ anh hùng tụ tập nơi đây, thì cứ gọi ngay là Đồ Sư đại hội, đem tên Tạ Tốn lăng trì xử tử, mỗi người ăn một miếng thịt, uống một ngụm máu, trả thù cho những bằng hữu vô tội chết vì tay y, chẳng phải thống khoái lắm ru?

Anh y bị Tạ Tốn giết chết, mấy chục năm nay chăm chăm tìm Tạ Tốn báo thù. Lời y vừa nói ra, bốn bề liền có mấy trăm người lên tiếng phụ họa, ai cũng nói giết quách Tạ Tốn cho xong.

Trong tiếng âm thanh hỗn loạn, bỗng có tiếng người eo éo nói:

- Tạ Tốn là hộ giáo pháp vương của Minh Giáo, nếu phái Thiếu Lâm không sợ đắc tội với Minh Giáo thì đã một đao giết y rồi, việc gì phải mời mọi người tới đây để chia xẻ trách nhiệm? Nói cho Hạ đại ca hay, đại ca quả là hồ đồ, người anh em này khuyên đại ca nên minh triết bảo thân là hơn.

Giọng người đó thật quái dị, đàn ông chẳng ra đàn ông, đàn bà chẳng ra đàn bà, thế nhưng lọt vào tai mọi người nghe vẫn rõ ràng. Mọi người quay đầu về nơi âm thanh phát ra, nhưng không biết đó là ai, hiển nhiên người đó thân thể thấp bé, lúc nói lại không đứng lên, ngồi giữa rừng người nên chẳng biết y là ai.

Hạ Trụ lớn tiếng đáp:

- Có phải Túy Bất Tử Tư Đồ huynh đệ đấy chăng? Tạ Tốn kia với ?qua?[1] có cái thù giết anh, đại trượng phu dám làm dám chịu, xin phái Thiếu Lâm đưa y ra đây, lão phu một đao giết y lập tức. Các ma đầu ma giáo cứ việc đến Sơn Đông kiếm Hạ mỗ này mà thanh toán.

Người có giọng eo éo ở trong đám đông cười khẩy nói:

- Hạ đại ca, trên giang hồ có ai mà chẳng biết, thanh đao Đồ Long võ lâm chí tôn kia ở trong tay Tạ Tốn. Phái Thiếu Lâm bắt được Tạ Tốn, không lẽ lại không lấy được bảo đao? Việc giết Tạ Tốn chẳng qua là chuyện phụ, dương đao lập uy mới thực là chuyện lớn. Này ta bảo Không Trí đại sư ơi, thôi đừng có giả đò làm bộ, đem thanh bảo đao ra cho tất cả coi xem nào. Phái Thiếu Lâm các ông hàng trăm hàng nghìn năm nay vốn đã đứng đầu võ lâm, có thêm thanh đao cũng chẳng phải là nhiều, không có thanh đao thì cũng chẳng phải là ít, đằng nào mà chẳng là võ lâm chí tôn.

Bành Oánh Ngọc nói nhỏ với Trương Vô Kỵ:

- Người nói đó là Túy Bất Tử Tư Đồ Thiên Chung. Người này ngang ngược lắm chẳng coi ai ra gì, nghe nói không bái sư, cũng chẳng thu đồ đệ, không thuộc bang hội môn phái nào hết, trong đời ít khi động thủ với ai nên chẳng biết y võ công đến bực nào, ăn nói chỉ một điều móc họng người ta, nhưng câu nào cũng trúng tim đen kẻ khác.

Trong sân liền có bảy tám người hùa theo:

- Nói nghe có lý lắm. Xin phái Thiếu Lâm đem thanh đao Đồ Long ra, cho tất cả mọi người cùng xem một tí.

Không Trí chậm rãi nói:

- Đồ Long đao không có ở trong tệ tự, lão nạp trong đời chưa từng thấy bao giờ, không biết trên đời có thanh đao ấy thật hay không nữa.

Quần hùng nghe thế, lập tức bàn tán xôn xao, trên sân ồn ào như chợ vỡ, đa số mọi người đều cho rằng đại hội này có liên quan mật thiết đến thanh đao Đồ Long, ngờ đâu Không Trí phủ nhận tất cả, khiến cho ngoài dự liệu của mọi người.

Đằng sau Không Trí có chín lão tăng, người nào cũng khoác đại hồng cà sa. Đợi cho tiếng xôn xao của quần hùng tạm lắng xuống, một nhà sư trong chín người đó tiến ra hai bước, dõng dạc nói:

- Đao Đồ Long vốn dĩ trong tay Tạ Tốn, thế nhưng khi tệ phái bắt được y, thanh đao đó lại không có ở trên người. Phương trượng bản tự thấy đây là một đại sự của võ lâm, nên hết sức tra vấn kỹ càng. Tạ Tốn ương ngạnh ngược ngạo, nhất định không nói. Thành ra hôm nay chúng tôi mời đủ mặt các vị anh hùng, một là bàn tính với nhau xem nên xử Tạ Tốn thế nào, hai nữa hỏi thăm các vị xem có ai biết thanh đao Đồ Long đang ở đâu không. Nếu có vị nào biết được tin đó xin nói cho mọi người cùng biết.

Quần hào ai nấy ngơ ngác không người nào dám tiếp lời. Túy Bất Tử Tư Đồ Thiên Chung lại mở cái giọng eo éo nói:

- Trong võ lâm một trăm năm qua có câu rằng ?Võ lâm chí tôn, Bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, Mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, Thùy dữ tranh phong??. Ngoài thanh đao Đồ Long còn thanh kiếm Ỷ Thiên nữa. Thanh Ỷ Thiên bảo kiếm này, vốn nghe ở trong tay phái Nga Mi, thế nhưng sau trận chiến nơi Quang Minh Đính thì không biết đi về đâu? Hôm nay tuy gọi là Anh Hùng Đại Hội, nhưng chẳng lẽ những bậc anh thư của phái Nga Mi không được quyền đến hay sao?

Mọi người nghe y nói câu sau cùng đều cười ồ lên. Trong tiếng cười vang dội, một nhà sư tiếp khách lớn tiếng báo:

- Cái Bang Sử bang chủ tất lãnh Cái Bang chư trưởng lão, chư đệ tử đến.

Trương Vô Kỵ nghe thấy ba tiếng ?Sử bang chủ?, trong bụng lạ lùng: ?Cái Bang bang chủ Sử Hỏa Long vốn đã chết về tay Viên Chân, sao lại còn một vị Sử bang chủ nào nữa??.

Không Trí liền đáp:

- Mời vào!

Cái Bang là bang hội lớn nhất trên giang hồ, ông ta liền đích thân ra ngoài nghênh đón. Chỉ thấy một đoàn khoảng chừng một trăm năm chục người, ai nấy áo quần lam lũ nhanh nhảu đi vào trong sân. Cái Bang những năm gần đây tuy thanh thế không được như xưa, nhưng dẫu sao vẫn nhiều dây mơ rễ má, tiềm lực trên giang hồ vẫn còn mạnh, quần hùng không ai dám khinh thị nên quá nửa đứng lên chào.

Đi đầu là hai người ăn mày già, Trương Vô Kỵ nhận ra là Truyền Công trưởng lão và Chấp Pháp trưởng lão. Đi phía sau hai lão là một cô gái xấu xí chừng mười hai, mười ba, mũi huếch, mồm rộng để lộ hai chiếc răng cửa to, chính là con gái Sử Hỏa Long Sử Hồng Thạch, tay cầm cây gậy đánh chó là tín vật của bang chủ Cái Bang.

Đằng sau cô gái là Chưởng Bát long đầu và Chưởng Bổng long đầu tiếp nữa đệ tử Cái Bang theo thứ tự đệ tử tám túi, bảy túi, sáu túi. Người trong Cái Bang đến kỳ này, thấp nhất cũng là đệ tử sáu túi.

Không Trí thấy người cầm Đả Cẩu Bổng là một cô bé con, trong bụng ngần ngừ, không biết ai là bang chủ để chào thế nào cho phải nên chỉ chắp tay, nói bâng quơ:

- Thiếu Lâm tăng chúng cung nghinh đại giá quần hùng Cái Bang.

Cả bọn ăn mày đều vòng tay ôm quyền đáp lễ. Truyền Công trưởng lão nói:

- Bang chủ tệ bang Sử bang chủ bất hạnh chầu trời, tất cả các trưởng lão cùng đồng ý lập con gái Sử bang chủ là Sử Hồng Thạch cô nương lên làm bang chủ, vị này là tân bang chủ của bản bang.

Nói xong giơ tay chỉ vào Sử Hồng Thạch. Không Trí và quần hùng ai nấy kinh ngạc, nghĩ thầm trên giang hồ xưa nay vẫn có câu: ?Minh Giáo, Cái Bang, Thiếu Lâm phái?, ý nói các giáo môn thì Minh Giáo đứng đầu, các bang hội thì Cái Bang hơn cả, còn võ học môn phái thì Thiếu Lâm là số một. Minh Giáo lập một thanh niên mới ngoài hai mươi là Trương Vô Kỵ làm giáo chủ đã khiến người ta chặc lưỡi lạ lùng, ngờ đâu Cái Bang lại đưa một cô bé con lên làm bang chủ, nếu chẳng phái chính miệng một trưởng lão Cái Bang nói ra thì thật chẳng ai dám tin. Năm xưa Hoàng Dung là một cô gái lên làm bang chủ Cái Bang tuy cũng đã là một tiền lệ thật nhưng khi đó dẫu sao Hoàng Dung cũng còn lớn tuổi hơn cô bé này nhiều.

Không Trí tuy ngạc nhiên thật nhưng vẫn không thiếu lễ độ, chắp tay nói:

- Thiếu Lâm môn hạ Không Trí, tham kiến Sử bang chủ.

Sử Hồng Thạch vội vàng đáp lễ, mồm ấp úng không nói nên lời. Truyền Công trưởng lão nói:

- Tệ bang bang chủ tuổi còn nhỏ, mọi việc trong bang tạm do chúng tôi và Chấp Pháp trưởng lão hai người đứng ra thay mặt giải quyết. Không Trí thần tăng là tiền bối đại đức, đa lễ quả không dám nhận.

Hai người khiêm tốn qua lại mấy câu, tri khách tăng liền dẫn quần cái vào trong nhà gỗ ngồi xuống. Cái Bang đông người, quá nửa không có chỗ ngồi. Trương Vô Kỵ thấy người trong Cái Bang ai ai cũng chít khăn tang, mặt lộ vẻ buồn rầu phẫn nộ, có người trong bị đeo sau lưng còn có vật gì ngọ nguậy, hiển nhiên đến đây đã có mưu tính, trong lòng thầm mừng rỡ, quay sang nói với Dương Tiêu:

- Bọn mình có một nhóm đông tiếp tay rồi.

Lại thấy Truyền Công, Chấp Pháp hai trưởng lão dẫn Sử Hồng Thạch qua bên lều của Minh Giáo. Truyền Công trưởng lão ôm quyền hành lễ nói:

- Trương giáo chủ, tệ bang có quan hệ rất lớn đến việc Kim Mao Sư Vương bị bắt, chúng tôi hôm nay dẫu có chết cũng không đủ chuộc tội, lại muốn rửa thù cho Sử bang chủ của chúng tôi. Cái Bang từ trên xuống dưới, xin nghe theo hiệu lệnh của Trương giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội vàng hoàn lễ đáp:

- Không dám.

Truyền Công trưởng lão nói câu đó trung khí đầy đủ, tiếng vang oang oang, rõ ràng cố ý để cho tất cả mọi người nghe thấy. Ông ta nói xong, tất cả các đệ tử Cái Bang đều đứng phắt dậy, lớn tiếng:

- Cẩn phụng hiệu lệnh của Trương giáo chủ Minh Giáo, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa cháy cũng không từ nan.

Quần hùng ai nấy kinh ngạc: ?Cái Bang cấu kết với Minh Giáo thành một phe từ bao giờ thế nhỉ??. Trừ rất ít người sống ẩn dật không đi lại trên giang hồ, ai ai cũng biết Cái Bang đã mấy lần giao thủ với Minh Giáo, năm trước tham gia tấn công Quang Minh Đính, một phen huyết chiến, hai bên đều chết nhiều, lần sau cùng tấn công lên bang chúng Cái Bang chết gần hết[2]. Lúc này Truyền Công trưởng lão công khai nói trắng ra là toàn bang sẽ theo lệnh Trương Vô Kỵ, lại nói gì vì Sử bang chủ báo thù rửa hận khiến chẳng ai hiểu đầu đuôi ra sao.

Truyền Công trưởng lão quay đầu lại, dõng dạc nói:

- Cái Bang chúng tôi với chùa Thiếu Lâm xưa nay không thù không oán, tệ bang vẫn tôn trọng Thiếu Lâm là đệ nhất đại môn phái trên giang hồ, nếu có chuyện hiềm khích cỏn con, chúng tôi bao giờ cũng cố nén lòng nhường nhịn, chưa từng đắc tội. Từ Sử Hỏa Long Sử bang chủ trở xuống, lúc nào cũng kính ngưỡng tứ đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, coi như mẫu mực cho người học võ. Sử tiền bang chủ qui ẩn đã lâu, tĩnh cư dưỡng bệnh, mấy chục năm qua không lai vãng với ai, chẳng hiểu vì cớ gì, lại bị cao tăng chùa Thiếu Lâm ra tay hạ thủ ...

Ông ta mới nói đến đây, trên quảng trường ai nấy đều kinh hoảng kêu lên ?Ồ? một tiếng, ngay cả Không Trí cũng ngoài dự liệu. Lại nghe Truyền Công trưởng lão tiếp tục:

- Chúng tôi hôm nay tới đây cốt là để trước mặt anh hùng thiên hạ, nhờ Không Văn phương trượng chỉ điểm bến mê, Sử tiền bang chủ chúng tôi đắc tội với chùa Thiếu Lâm ở chỗ nào mà đến nỗi sau khi giết Sử bang chủ rồi, vợ góa con côi cũng còn đuổi tận giết tuyệt, khiến cả Sử phu nhân cũng không bảo toàn tính mạng?

Không Trí chắp tay nói:

- A Di Đà Phật, Sử bang chủ bất hạnh tiên du, đây là lần đầu lão nạp mới nghe nói tới. Trưởng lão khăng khăng nói là do đệ tử tệ phái gây ra, e rằng bên trong có chỗ hiểu lầm, xin trưởng lão nói rõ tình hình lúc đó thế nào?

Truyền Công trưởng lão nói:

- Phái Thiếu Lâm hàng nghìn năm qua vẫn được xưng là Thái Sơn, Bắc Đẩu của võ lâm, chúng tôi lẽ nào lại dám vu oan giá họa? Xin mời một cao tăng và một đệ tử tục gia trong quí tự ra đây đối chất.

Không Trí nói:

- Trưởng lão sai bảo điều gì, dĩ nhiên chúng tôi cẩn tuân tôn lệnh. Không hiểu trưởng lão muốn gọi hai người nào thế?

Truyền Công trưởng lão nói:

- Đó là ...

Ông ta vừa mới nói tới đây, đột nhiên há hốc mồm, mắt trợn trừng không nói tiếp được nữa. Không Trí giật mình kinh hãi, vội vàng xông ra, nắm lấy cổ tay thì thấy mạch đã ngừng rồi. Không Trí càng hoảng hốt gọi giật lên:

- Trưởng lão, trưởng lão!

Nhìn lại sắc diện ông ta, thấy ngay giữa hai lông mày có một cái chấm đen to bằng đầu nén hương, chính là đã trúng phải ám khí ngay chỗ yếu hại. Không Trí lớn tiếng nói:

- Các vị anh hùng chứng giám cho, vị trưởng lão Cái Bang này không may trúng phải ám khí tuyệt độc đã từ trần. Phái Thiếu Lâm chúng tôi nhất định không bao giờ lại dùng loại ám khí ghê gớm như thế.

Bang chúng Cái Bang liền nhốn nháo kêu la, mấy chục người chạy ùa lên vây quanh xác của Truyền Công trưởng lão. Chưởng Bát long đầu lấy trong bọc ra một khối từ thiết, để vào mi tâm của Truyền Công trưởng lão, hút ra một chiếc kim dài chừng một tấc, nhỏ như lông bò. Các trưởng lão Cái Bang biết lời nói của Không Trí không phải giả dối, loại ám khí âm độc thế này, một danh môn chính phái như Thiếu Lâm không bao giờ sử dụng cả. Thế nhưng ngay giữa thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu con mắt đổ dồn vào, vậy mà có người lén ném ám khí không ai phát giác, việc kỳ lạ như thế quả thực không sao hiểu được.

Cả bọn Chấp Pháp trưởng lão đều nghĩ, Truyền Công trưởng lão quay về hướng nam, ám khí ắt phải từ phương nam bắn ra, nhưng lúc này ở phía đó ánh mặt trời sáng lóa, Truyền Công trưởng lão lại đang cực kỳ phẫn khích nên đâu có đề phòng đến những loại ám khí bé nhỏ như thế.

Các trưởng lão hầm hầm nhìn về phía sau lưng Không Trí, chỉ thấy chín vị lão tăng người khoác đại hồng cà sa, mắt lim dim, rủ lông mày đứng đó. Sau chín nhà sư đó là một hàng tăng nhân áo vàng, áo xám, chẳng thể nào biết được ai là người phóng ám khí cả, nhưng hung thủ nhất định là người trong phái Thiếu Lâm không còn ai nghi ngờ gì nữa.

Chấp Pháp trưởng lão cười một tràng dài nhưng nước mắt ròng ròng chảy xuống nói:

- Không Trí đại sư có còn bảo chúng tôi vu oan cho phái Thiếu Lâm nữa chăng, việc ngay trước mắt, còn nói gì bây giờ?

Chưởng Bổng long đầu tính tình nóng nảy, giơ chiếc gậy sắt trong tay lên, quát lớn:

- Hôm nay nhất quyết sống mái với phái Thiếu Lâm.

Chỉ nghe loảng xoảng binh khí vang lên, các đệ tử Cái Bang đều rút đao kiếm ra, xông lên ngay giữa khu đất. Không Trí mặt mày thê thảm, quay lại nhìn quần tăng phái Thiếu Lâm, chậm rãi nói:

- Bản tự từ khi Đạt Ma lão tổ ở phương tây đến đây, kiến lập cơ nghiệp, hàng nghìn năm nay đời đời tăng lữ chăm chỉ tu học Phật pháp, giữ gìn giới luật, tuy có học võ phòng thân, qua lại với anh hào trên giang hồ nhưng chưa bao giờ làm chuyện thương thiên hại lý. Phương trượng sư huynh và ta vốn đã xa lánh thế tình, đâu có còn mê luyến gì hồng trần nữa ...

Ông nhìn thẳng vào những nhà sư nói:

- Cái kim độc đó kẻ nào đã bắn ra? Đại trượng phu dám làm dám chịu, đứng ra cho ta xem nào.

Mấy trăm tăng nhân không ai đáp lời, có người niệm:

- A Di Đà Phật, tội thay, tội thay!

Trương Vô Kỵ trong lòng chợt động, nhớ đến một chuyện cũ: năm xưa mẹ chàng Ân Tố Tố giả làm cha chàng Trương Thúy Sơn, dùng độc châm giết những nhà sư Thiếu Lâm, khiến cha chàng bị oan mà không sao biện bạch được. Thế nhưng ngân châm của Thiên Ưng giáo hoàn toàn khác hẳn với loại cương châm này, chất độc trên mũi kim cũng khác hẳn, cứ nhìn vào xác Truyền Công trưởng lão, chất độc trên cương châm dường như lấy từ độc trùng Tâm Nhất Khiêu ở Tây Vực. Sở dĩ gọi là Tâm Nhất Khiêu vì chất độc trên người con vật này vừa thấm vào máu, người trúng độc tim chỉ còn đập được một cái là ngừng ngay. Thế nhưng chàng đã biết Sử Hỏa Long bị Viên Chân giết hại, lại biết rằng trong đám sư sãi kia có đồng đảng của y ẩn náu, sở dĩ bắn kim độc giết Truyền Công trưởng lão chính vì không muốn ông ta nói tên y ra. Cũng vì lúc đó ai ai cũng nhìn vào Truyền Công trưởng lão thành ra chẳng ai biết được người nào đã ném độc châm.

?Chưởng Bổng long đầu lớn tiếng nói:

- Giết hại Sử bang chủ là ai, mấy vạn đệ tử Cái Bang ai cũng biết cả. Các ngươi tưởng giết người bịt miệng được hay sao? Hừ hừ! Trừ khi đem bao nhiêu đệ tử Cái Bang trong thiên hạ giết sạch, chứ hòa thượng giết người đó tên là Viên Chân ...

Chưởng Bát long đầu bỗng dưng vọt mình lên trước, giơ chiếc bát sắt ra, nghe keng một tiếng nhỏ, đón được ngay một chiếc cương châm. Chiếc kim đó không biết ở đâu bắn tới, thế nhưng chỉ chậm nửa bước thì Chưởng Bổng long đầu cũng đã chết ngay tại chỗ rồi.

Không Trí bỗng lạng một cái đã luồn trở xuống phía sau chín vị lão tăng trong Đạt Ma Đường, bình một tiếng đá văng người đứng hàng thứ tư tính từ bên trái ra ngoài, tiếp theo giơ tay chộp ngay sau gáy y nhấc bổng lên nói:

- Không Như, thì ra là ngươi, ngươi cũng cùng một bọn với Viên Chân đấy ư?

Ông ta thò tay nắm tăng bào trước ngực y xé mạnh một cái, nghe soẹt một tiếng, áo rách ra để lộ một chiếc ống sắt, đầu ống có một lỗ nhỏ. Ai nấy đều kinh ngạc, bên trong ống hẳn có dấu lò so cực mạnh, chỉ cần giơ tay nhấn vào cơ quan dấu trong người, từ lỗ đó sẽ bắn ra một cương châm tẩm độc, người phát ám khí chẳng cần phải cất nhắc chân tay, dẫu có đứng ngay trước mặt cách nhau vài thước cũng không sao nhìn thấy được đối phương hạ thủ.

Chưởng Bổng long đầu vừa cáu giận vừa bực tức, giơ luôn thiết bổng quật ngang qua, đánh Không Như nát đầu chết ngay tại chỗ. Gã Không Như đó cùng vai vế với tứ đại thần tăng, bối phận võ công đều cao chỉ vì Không Trí nắm ngay yếu huyệt từ đằng sau nên không vùng vẫy được nên gậy của Chưởng Bổng long đầu đánh tới y không sao tránh khỏi. Quần hùng tất cả đều kinh hãi kêu la.

Không Trí sững sờ, trừng trừng nhìn Chưởng Bổng long đầu, nghĩ thầm: ?Gã này thật là lỗ mãng, chẳng chịu hỏi han cho ra ngô ra khoai gì cả?. Trong cơn hỗn loạn, bên ngoài quảng trường bỗng có bốn ni cô áo đen tiến đến, tay cầm phất trần, dõng dạc nói:

- Chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược, tất lãnh môn hạ đệ tử, bái kiến phương trượng Không Văn chùa Thiếu Lâm.

Không Trí vội để xác Không Như xuống nói:

- Xin mời vào!

Ông thản nhiên tiến ra ngoài đón khách. Tám vị lão tăng của Đạt Ma Đường tiến bước theo sau, thảm kịch vừa xảy ra làm như không thấy, cũng chẳng coi vào đâu. Bốn ni cô hành lễ rồi lùi bước, xoay người bước ra, nhẹ nhàng đến nhẹ nhàng đi, khó làm sao là cả bốn người cùng tiến lên lùi xuống một lượt chẳng khác gì chỉ một người, bước chân vẫn phiêu lãng nhàn nhã, chẳng khác gì nước chảy mây trôi, nhịp nhàng như nương theo sóng biển.

Trương Vô Kỵ nghe tin Chu Chỉ Nhược đã đến, mặt đỏ lên, đưa mắt nhìn trộm Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cũng đang nhìn chàng, hai người ánh mắt chạm nhau, thấy nàng dường như mỉm cười, mép hơi nhếch lên, có vẻ khinh miệt, không biết cười Trương Vô Kỵ của đến tận nơi còn để mất, hay coi thường phái Nga Mi huê dạng màu mè.

Các nữ hiệp phái Nga Mi không giống như người của Cái Bang tự mình vào trong sân mà đợi cho Không Trí và quần tăng ra tận ngoài đón lúc ấy mới dàn thành đội tiến lên, tất cả tám chín chục nữ đệ tử người nào cũng mặc áo đen, trong đó quá nửa xuống tóc là ni cô, còn lại thì người đã lớn tuổi có, trung niên có, mà con gái còn trẻ cũng có. Các nữ đệ tử vào hết rồi, cách xa khoảng hơn một trượng là một thiếu nữ áo xanh tú lệ tuyệt trần chậm rãi đi lên, chính là chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược.

Trương Vô Kỵ thấy nàng da dẻ xanh xao, dung nhan có chiều tiều tụy, trong bụng vừa tội nghiệp lại vừa hổ thẹn. Sau Chu Chỉ Nhược mấy trượng là khoảng hơn hai chục nam đệ tử mặc trường bào màu đen, phần lớn thanh tú nho nhã, không như các môn phái khác vạm vỡ tráng kiện. Mỗi nam đệ tử trong tay đều cầm một cái hộp gỗ, kẻ dài người ngắn. Hơn trăm người thuộc phái Nga Mi trong tay không ai cầm binh khí, hẳn là họ để trong hộp này. Quần hùng trong bụng khen thầm: ?Phái Nga Mi quả là biết lễ, binh khí không để lộ ra, đó là có ý kính trọng phái Thiếu Lâm?.

Trương Vô Kỵ đợi cho người của phái Nga Mi ngồi xuống cả rồi mới đi đến trước lều của họ, chắp tay vái Chu Chỉ Nhược một cái thật sâu, ra dáng sượng sùng nói:

- Chu tỉ muội, Trương Vô Kỵ đến để chịu tội đây.

Phái Nga Mi lập tức có độ mươi nữ đệ tử đứng phắt lên, dựng ngược mày ngài mặt đầy vẻ tức tối. Chu Chỉ Nhược cũng chắp tay đáp lễ nói:

- Không dám, Trương giáo chủ hà tất phải đa lễ? Từ khi xa nhau vẫn mạnh khỏe chứ?

Vẻ mặt nàng bình thản, không biết là vui hay buồn. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang bất định, nói:

- Chỉ Nhược, hôm đó tôi vì phải cứu nghĩa phụ thật gấp nên làm hỏng cả đại lễ, trong bụng vẫn còn áy náy chưa yên.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nghe nói Tạ lão gia tử bị bắt nơi chùa Thiếu Lâm, Trương giáo chủ anh hùng cái thế, chắc đã cứu ra được rồi.

Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên nói:

- Các cao tăng chùa Thiếu Lâm võ công trác tuyệt, Minh Giáo đã thua một trận, ông ngoại tôi vì thế bất hạnh qui tiên.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Ân lão gia tử một đời anh hùng, thật đáng tiếc, đáng tiếc thay!

Trương Vô Kỵ thấy nàng chẳng chút nào lộ vẻ hỉ nộ ra ngoài, không biết bụng dạ ra sao, câu nào của chàng nàng cũng đáp lại với vẻ lạnh nhạt khiến chàng đâm ra cụt hứng. Thế nhưng nghĩ lại, ngày đang cùng nàng làm lễ thành hôn, mình trước mặt bao nhiêu tân khách chạy theo Triệu Mẫn, cái tâm sự đau đớn của nàng lúc đó còn gấp trăm gấp ngàn lần cái ngượng ngập của mình lúc này, nên cố nhịn nói tiếp:

- Về việc cứu nghĩa phụ, mong em nghĩ đến tình xưa, giúp cho một tay.

Chàng nói đến đây trong bụng chợt nổi một ý niệm: ?Chỉ mới nửa năm nay công lực của nàng tiến bộ thật nhanh, hôm đó ở chốn hỉ đường, cả đến người võ công cao cường như Phạm Dao, cũng chỉ một chiêu đã bị đẩy lùi. Mẫn muội học đủ sở trường các phái, vậy mà suýt bị nàng giết chết ngay tại chỗ. Đến như hôm vợ chồng Đỗ Bách Đương, Dịch Tam Nương bị sát hại, dường như ... dường như ... sau khi tiếp nhiệm chức vị chưởng môn phái Nga Mi, nàng còn được mật truyền võ công bí cập gì nữa. Nàng ngộ tính cao hơn Diệt Tuyệt sư thái cho nên trong màu xanh mới nảy ra màu lam, trò giỏi hơn thầy. Nếu như nàng cùng ta liên thủ, rất có thể sẽ phá được Kim Cương Phục Ma Khuyên?.

Chàng nghĩ đến đây, không khỏi vui mừng ra mặt nói:

- Chỉ Nhược, tôi có một việc muốn nhờ em.

Chu Chỉ Nhược mặt bỗng đanh lại nói:

- Trương giáo chủ, xin ông tự trọng, đến lúc này đâu còn có thể xưng hô như ngày xưa nữa.

Nàng giơ tay ra phía sau vẫy một cái, nói:

- Thanh Thư, chàng lại đây đem chuyện của chúng ta nói cho Trương giáo chủ biết đi nào.

Một hán tử mặt đầy râu ria tiến lên, ôm quyền nói:

- Trương giáo chủ khỏe chứ?

Trương Vô Kỵ nghe giọng thì đúng là Tống Thanh Thư vội nheo mắt nhìn kỹ quả nhiên đúng là y, có điều đã hóa trang thành một ông già xấu xí để che dấu bộ mặt thật, bèn đáp lễ nói:

- Thì ra là Tống sư ca, sư ca vẫn mạnh khỏe chứ?

Tống Thanh Thư mỉm cười nói:

- Nói đúng ra phải đa tạ Trương giáo chủ mới đúng. Hôm đó giáo chủ đang cùng nội tử thành hôn, nửa chừng lại đổi ý ...

Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, run run hỏi lại:

- Cái gì?

Tống Thanh Thư đáp:

- Chén rượu cưới của chúng tôi cũng là do Trương giáo chủ tác thành đó.

Chỉ trong chớp mắt, Trương Vô Kỵ thấy như sét đánh ngang tai, đứng chết sững, mắt tối sầm tai nghe chỉ thấy những âm thanh cuồng loạn, không biết chung quanh ai nói những gì. Một lúc lâu sau thấy có người vịn vai mình nói:

- Giáo chủ, xin trở về chỗ.

Trương Vô Kỵ cố định thần, liếc thấy người đỡ vai mình chính là Hàn Lâm Nhi. Hàn Lâm Nhi mặt đầy vẻ sầu khổ bi phẫn nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chu cô nương, giáo chủ chúng tôi là anh hùng đại nhân đại nghĩa, hôm đó chỉ có sơ xuất một chuyện nhỏ, cô đã bỏ đi lấy cái ... cái tên ... hừ hừ!

Y toan chửi cho Tống Thanh Thư một trận nhưng khi nhìn vào mặt Chu Chỉ Nhược, lời đã đến cửa miệng lại cố nhịn không nói ra.

Trương Vô Kỵ tuy đối với Triệu Mẫn tình ý mặn nồng nhưng dẫu sao mình với Chu Chỉ Nhược đã có ước định hôn nhân, hôm trước chỉ vì nóng lòng muốn cứu nghĩa phụ, bất đắc dĩ phải đi theo Triệu Mẫn. Chàng vẫn tưởng nàng vốn là người ôn nhu hòa thuận, chỉ cần nói thật cho nàng nghe mọi chuyện, rồi xin lỗi thật thành khẩn thể nào nàng cũng lượng thứ cho. Ngờ đâu chỉ một cơn giận, nàng đã gá nghĩa cùng Tống Thanh Thư khiến chàng trong lòng đau đớn, so với năm xưa trên Quang Minh Đính bị nàng đâm một kiếm còn thống khổ hơn nhiều.

Chàng quay đầu lại, thấy Chu Chỉ Nhược giơ bàn tay thon thon trắng muốt như bạch ngọc vẫy Tống Thanh Thư. Tống Thanh Thư mặt mày dương dương đắc ý đi đến ngồi xuống bên cạnh nàng, miệng như nhếch mép cười nói với Trương Vô Kỵ:

- Khi chúng tôi thành thân không gửi thiếp mời nhiều làm rộn người ngoài. Chén rượu mừng thể nào ngày sau cũng phải mời uống đền lại cho các hạ.

Trương Vô Kỵ muốn mở miệng đáp lại một câu: ?Cám ơn? nhưng cổ dường như nghẹn lại không thể nào thốt nên lời. Hàn Lâm Nhi cầm lấy tay chàng nói:

- Giáo chủ, hạng người như thế chấp y làm gì.

Tống Thanh Thư cười ha hả nói:

- Hàn đại ca, chén rượu mừng đó, hôm đó thể nào cũng mời cả đại ca.

Hàn Lâm Nhi nhổ toẹt xuống đất một bãi nước bọt, hậm hực nói:

- Thà ta uống ba vại nước đái ngựa còn hơn uống thứ rượu chết tiệt của nhà ngươi.

Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, buồn bã dắt tay Hàn Lâm Nhi trở về.

Khi đó Chưởng Bổng long đầu của Cái Bang đang hùng hùng hổ hổ, tranh cãi kịch liệt với một nhà sư Thiếu Lâm thành ra Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược, Hàn Lâm Nhi, Tống Thanh Thư nói gì ở tại chiếc nhà gỗ phía tây bắc không ai chú ý cả. Quần hùng ai nấy đều đổ dồn vào nghe hai bên Cái Bang và Thiếu Lâm lời qua tiếng lại với nhau.

Trương Vô Kỵ về đến chiếc lều của Minh Giáo ngồi xuống nhưng hồn vía đâu đâu, chỉ loáng thoáng nghe nhà sư mặt đại hồng cà sa kia nói:

- Ta nói Viên Chân sư huynh và Trần Hữu Lượng đâu có ở trong chùa, quí bang nhất định không tin. Truyền Công trưởng lão của quí bang bất hạnh bỏ mình thì Không Như sư thúc của tệ phái cũng đã đền mạng, còn có gì để nói nữa?

Chưởng Bổng long đầu nói:

- Ngươi bảo Viên Chân và Trần Hữu Lượng không có nơi đây thì ai mà tin cho nổi? Trừ phi để cho bọn ta khám xét một lượt mới xong.

Nhà sư Thiếu Lâm kia cười khẩy đáp:

- Các hạ muốn tra xét chùa Thiếu Lâm chẳng là cuồng vọng thái quá hay sao? Chỉ bằng một bang hội như Cái Bang làm gì có đủ sức làm chuyện đó.

Chưởng Bổng long đầu giận dữ nói:

- Ngươi coi Cái Bang không vào đâu, giỏi lắm, để ta lãnh giáo ngươi trước.

Nhà sư đáp:

- Hàng nghìn năm nay, không biết bao nhiêu hào kiệt đã đến chùa Thiếu Lâm nhưng cũng nhờ lão tổ từ bi nên chùa chưa bị ai đốt cả.

Hai người càng lúc càng găng, xem ra đánh nhau tới nơi. Không Trí ngồi ở một bên nhưng vẫn thản nhiên không can thiệp.

Bỗng lại nghe cái giọng eo éo của Tư Đồ Thiên Chung:

- Hôm nay anh hùng thiên hạ tụ tập tại chùa Thiếu Lâm, có người từ xa nghìn dặm đến đây, nào có phải để xem Cái Bang báo thù đâu?

Hạ Trụ đáp:

- Đúng thế. Chuyện qua lại giữa Cái Bang và Thiếu Lâm xin hãy gác qua một bên, thủng thẳng rồi tính cũng chẳng muộn, mình lo chuyện tên ác tặc Tạ Tốn trước.

Chưởng Bổng long đầu nổi cáu:

- Ngươi ăn nói thì nên giữ mồm giữ miệng, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp là một trong tứ đại pháp vương của Minh Giáo, sao lại gian tặc với không gian tặc là thế nào?

Hạ Trụ tiếng vẫn oang oang như chuông đồng:

- Ngươi sợ Minh Giáo, ?qua? đâu có sợ Minh Giáo. Thứ người lòng lang dạ thú như Tạ Tốn không lẽ lại tôn lên làm anh hùng hiệp sĩ hay sao?

Dương Tiêu đi ra giữa sân, vòng tay chào một cái thật trịnh trọng nói:

- Tại hạ Minh Giáo Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, có một lời muốn phân giải cùng anh hùng thiên hạ. Tạ Pháp Vương của tệ giáo năm xưa giết người bừa bãi, quả thực có điều không phải ...

Hạ Trụ nói:

- Hừ, người đã bị y giết rồi, đâu có phải chỉ bằng vài lời nói qua quít của nhà ngươi mà làm cho người chết sống lại được đâu?

Dương Tiêu ngang nhiên đáp:

- Chúng ta hành tẩu giang hồ, ngày ngày va chạm đầu đao mũi kiếm, còn sống được đến hôm nay, có ai tay không giết vài mạng người? Kẻ võ công cao thì giết được thêm vài người, còn học nghệ chưa tinh thì bỏ mạng về tay người khác. Nếu cứ giết ai cũng phải đền mạng, ha ha, e rằng trong số mấy nghìn vị anh hùng hảo hán trên bãi đất này, chắc chẳng còn được bao lăm. Hạ lão anh hùng, trong đời ông chưa từng giết ai chăng?

Khi đó thời thế đại loạn, bốn bề nhiễu nhương, võ lâm nhân sĩ đi lại trên chốn giang hồ nếu chẳng giết người ắt sẽ bị người ta giết thật khó ai có thể độc thiện kỳ thân[3], những kẻ tay không nhuốm máu, trừ những nhà sư chùa Thiếu Lâm hay ni cô phái Nga Mi đã gác bỏ chuyện đời, thực quả là hiếm hoi. Đại hào Sơn Đông Hạ Trụ tính tình nóng nảy, giết không biết bao nhiêu người, câu hỏi của Dương Tiêu khiến y ú ớ không thể nào trả lời được. Y đứng lặng người một hồi mới nói:

- Kẻ xấu thì đáng giết, người tốt thì không nên giết. Tên Tạ Tốn kia và các ma đầu của Minh Giáo cá mè một lứa, chỉ toàn làm chuyện thương thiên hại lý, ?qua? hận không được băm vằm y ra, lột da uống máu. Hừ hừ, họ Dương kia, "qua" chắc ngươi cũng chẳng "ngon lành" gì đâu.

Y thừa biết trong Minh Giáo lắm kẻ tài ba, thế nhưng hôm nay muốn giết Tạ Tốn để báo thù cho anh, không thể nào không cùng Minh Giáo một trận huyết chiến. Thành thử y nói ra chẳng còn giữ gìn chút nào.

Từ trong căn lều gỗ của Minh Giáo có tiếng người the thé nói:

- Hạ Trụ, ngươi xem ?qua? có phải là người ?ngon lành? không?

Hạ Trụ nhìn về phía người vừa nói, thấy y má hóp mồm vều, mặt xanh mét không còn chút máu, chẳng biết y là loại người gì, bèn quát lớn:

- ?Qua? không biết ngươi là ai thế nhưng đã là ma đầu của ma giáo, thì ắt là cũng chẳng ?ngon lành? gì.

Tư Đồ Thiên Chung chen vào:

- Hạ huynh, vị này mà ngươi cũng không biết hay sao? Đây là một trong tứ đại pháp vương của Minh Giáo Thanh Dực Bức Vương đó.

Hạ Trụ nói:

- Ối, ối chao, con ma hút máu.

Đột nhiên mọi người mắt hoa lên đã thấy Vi Nhất Tiếu vọt tới trước mặt Hạ Trụ. Hai người vốn cách xa nhau đến hơn mười trượng, không biết y làm cách nào mà thoắt một cái đã đến nơi. Vi Nhất Tiếu vươn tay ra, chỉ nghe bốp bốp đã giáng cho Hạ Trụ bốn cái tát liền, tiếp theo cùi chỏ thúc vào đã trúng ngay huyệt đạo ở bụng dưới. Hạ Trụ võ công vốn cũng không phải tầm thường, nếu như Vi Nhất Tiếu dùng tài nghệ chân thực đấu với y, ít ra cũng phải năm mươi chiêu mới thắng nổi. Thế nhưng khinh công của Vi Nhất Tiếu quá cao siêu, chẳng khác gì quỉ mị xẹt đến khiến y trở tay không kịp, vừa toan chống đỡ thì không còn kịp nữa rồi.

Quần hùng kinh hoảng hò la, từ trong lều của Minh Giáo một bóng trắng vụt ra, thân pháp tuy không nhanh như Vi Nhất Tiếu, nhưng cũng chẳng khác gì bóng câu. Cái bóng trắng đó đến trước mặt Hạ Trụ tung ra một cái túi vải, chụp từ trên đầu xuống, bỏ gọn y vào trong, vắt ngay lên vai. Mọi người bấy giờ mới nhìn rõ, đó là một nhà sư miệng cười toe toét, chính là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc.

Thuyết Bất Đắc cười nói:

- Này gã ?ngon lành? ơi, ngươi là hạng ?ngon lành? thì để bần tăng đem về xẻ ra nấu ăn dần.

Y vác cái túi trong có Hạ Trụ, nhẹ nhàng trở về lều của Minh Giáo.

Hai người ra vào thực nhanh, chung quanh không ai kịp ra cứu viện. Đến khi Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc đã về ngồi trong lều rồi, lúc ấy mới có khoảng chục người rút binh khí ra, chạy đến chỗ Minh Giáo, nhao nhao chửi bới đòi thả Hạ Trụ. Thuyết Bất Đắc vạch miệng túi ra, cười nói:

- Chúng bay mau cút về ở đâu yên đó, đại hội xong ta sẽ thả y ra. Nếu không nghe lời ta, hòa thượng này sẽ cho một bãi nước tiểu, một bãi phân vào trong bị, còn nếu nể nang lắm thì cũng cho ngửi vài hơi rắm. Chúng bay có tin không nào?

Y vừa nói vừa làm như toan vạch quần ra. Những người kia tức đến mặt xám xịt nhưng nghĩ Minh Giáo là bọn không chừa chuyện gì, nói đâu làm đấy, dùng võ công đoạt lại e rằng không xong, nếu quả tên trọc này đái lên đầu Hạ Trụ, Hạ lão anh hùng chỉ còn nước tự sát thôi.

Cả bọn người nọ nhìn người kia, chỉ đành ủ rũ quay về. Người chung quanh thấy thế vừa lạ lùng, vừa tức cười. Từ lúc lên núi, ai nấy đều hào hứng muốn xem Tạ Tốn sẽ bị hành quyết như thế nào, lúc này thấy tài nghệ của hai cao thủ Minh Giáo nên người nào cũng biết rằng hôm nay đại hội sẽ rất nhiều hung hiểm, có giết được Tạ Tốn thì trên quảng trường này cũng sẽ thây phơi đầy đất nên không khỏi cảm thấy ơn ớn lo cho mình.

Lại thấy Tư Đồ Thiên Chung tay trái cầm một chén rượu, tay phải cầm hồ lô, chếnh choáng đi ra giữa sân lè nhè nói:

- Hôm nay quả vui quá là vui, kẻ thì đòi giết Tạ Tốn, người thì đòi thả Tạ Tốn. Thế nhưng nói qua nói lại, gã Tạ Tốn kia có thực ở trong chùa Thiếu Lâm không, cũng còn là một câu hỏi. Ta hỏi Không Trí đại sư này, sao ông không đem Tạ Tốn ra đây cho mọi người xem y một tí đã. Sau đó ai muốn giết, ai muốn cứu thì cứ lấy bản lãnh chân thực đánh nhau một trận cho ra trò, có phải thú không?

Y nói câu đó ra, trong đám người có đến quá nửa hò reo khen phải. Dương Tiêu nghĩ thầm: ?Tạ Sư Vương có quá nhiều kẻ thù. Minh Giáo dẫu có liên thủ với Cái Bang cũng không kháng cự nổi với tất cả anh hùng thiên hạ, chi bằng đem thanh đao Đồ Long ra nhử để biến thành cục diện tranh đoạt lẫn nhau?. Nghĩ thế y bèn dõng dạc nói:

- Các vị anh hùng hôm nay tụ tập ở Thiếu Lâm, một là có ân oán với Tạ Sư Vương phải thanh toán, hai là, hà hà, e rằng cũng muốn xem thanh đao Đồ Long như thế nào. Nếu cứ như Tư Đồ tiên sinh nói, tất cả hỗn chiến một phen, thế thanh đao Đồ Long kia thì ai làm chủ?

Trong mấy nghìn người có mặt hôm nay, kẻ có huyết hải thâm cừu với Tạ Tốn bất quá chỉ độ một trăm, còn lại ai ai cũng mơ đến bốn chữ ?võ lâm chí tôn? thành thử người nào nghe nói thế đều thấy có lý trong dạ không khỏi nao nao.

Một ông già râu đen đứng lên nói:

- Thanh đao Đồ Long đó bây giờ ở trong tay ai, xin Dương tả sứ cho biết.

Dương Tiêu đáp:

- Việc đó tại hạ không rõ, chính đang muốn thỉnh giáo Không Trí đại sư.

Không Trí lắc đầu, lặng yên không trả lời. Quần hùng đều cảm thấy ngầm bất mãn: ?Phái Thiếu Lâm là chủ nhân của đại hội, thế mà phương trượng Không Văn đến việc thì cáo bệnh không ra, còn vị Không Trí này thì thần tình sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết, không biết tính giở trò gì đây?.

Một người trung niên mặc trường bào bằng vải gai xanh đứng lên nói:

- Không Trí thiền sư nói là không biết, thế nhưng Tạ Sư Vương hẳn phải biết chứ? Chúng mình mời ông ta ra, hỏi thăm xem thế nào? Sau đó mới đem chút tài mọn ra so sánh, ai là người võ công thiên hạ đệ nhất, danh phó kỳ thực, người đó sẽ là võ lâm chí tôn, dù thanh đao đó ở trong tay ai thì cũng giao cho người mang danh võ lâm chí tôn đó. Theo tôi thì tất cả chúng ta phải bàn về chuyện đó trước, để khỏi gây ra tranh chấp sau này, nếu như có ai không phục thì tất cả anh hùng thiên hạ sẽ cùng xông vào tấn công, chẳng hay các nghĩ sao?

Trương Vô Kỵ nhận ra người đang nói đây chính là một trong ba cao thủ của phái Thanh Hải vây công Kim Cương Phục Ma Khuyên đêm hôm đó. Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Thế thì có khác gì đả lôi đài? Ta xem có điều thật là không ổn.

Hán tử áo xanh lạnh lùng đáp:

- Có gì không ổn? Cứ theo ý các hạ, đừng tỉ võ mà là thi uống rượu, có phải không? Người nào nghìn chén không say, hay người nào say mà không chết thì thành võ lâm chí tôn chăng?

Mọi người phá ra cười vang dậy, có kẻ lại lên giọng nhạo báng:

- Thế thì còn việc gì phải thi nữa? Võ lâm chí tôn nhất định là Túy Bất Tử Tư Đồ tiên sinh rồi.

Tư Đồ Thiên Chung nghiêng bầu rót ra một chén ngửa cổ uống cạn, nghiêm giọng đáp:

- Không dám, không dám. Nếu nói đến Tửu Lâm Chí Tôn, thì Túy Bất Tử này còn có ba phần hi vọng, còn Võ Lâm Chí Tôn ư? Hà hà, không dám nhận, không dám nhận.

Y quay sang nói với người áo xanh:

- Nếu các hạ đề nghị như thế, hẳn là võ học đã đến mức siêu phàm nhập thánh rồi. Tại hạ mắt kém, không biết tôn tính đại danh là gì thế?

Hán tử kia lạnh lùng nói:

- Tại hạ là Diệp Trường Thanh của phái Thanh Hải, tài uống rượu với làm trò hề không thể nào bì kịp các hạ được.

Y nói thế có khác gì tự cho là nói về phương diện võ công, thì so với các hạ tôi hơn xa. Tư Đồ Thiên Chung nghiêng đầu suy nghĩ một lát, nói:

- Thanh Hải phái, không nghe nói đến. Diệp Trường Thanh, ừ ừ, cũng chẳng nghe qua.

Mọi người ai nấy nghĩ thầm: ?Lão Tư Đồ này quả là lớn mật, y khinh miệt một mình Diệp Trường Thanh thì chẳng nói làm gì, dám hối nhục cả môn phái Thanh Hải, không lẽ có chỗ dựa nào ghê gớm lắm hay sao? Hay là y có mối thù ghê gớm lắm với phái Thanh Hải? Chỉ bằng hai câu nói đó, phái Thanh Hải chắc sẽ ra tay động thủ ngay?.

Chỉ có những người biết rõ Tư Đồ Thiên Chung mới biết y chỉ có một thân một mình, không ai dựa dẫm, cũng chẳng có thù oán gì với phái Thanh Hải, chỉ là kẻ tính tình cuồng vọng, thích châm chọc người ta, tuy một đời vì cái vạ miệng mà chịu bao nhiêu đau khổ nhưng không làm sao có thể thay đổi tính tình được.

Diệp Trường Thanh trong bụng đã có ý muốn giết y nhưng trên mặt không lộ vẻ gì ra ngoài nói:

- Phái Thanh Hải và Diệp Trường Thanh vốn dĩ kém cỏi vô danh thảo nào các hạ không biết đến. Các hạ nói rằng tỉ võ không ổn, vậy thì thi húp cháo chăng? Các hạ là kẻ ?uống khắp thiên hạ không địch thủ?, vậy thì biết làm sao đây, xin được thỉnh giáo.

Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Nếu nói đến ?uống khắp thiên hạ không địch thủ? thật đâu có phải dễ dàng? Nghĩ lại năm xưa ta ở phủ Tế Nam ...

Y đang toan lải nhải nói tiếp, trong đám người có kẻ quát lên:

- Túy Bất Tử, đừng có ở đây mà lè nhè, chẳng ai thừa hơi nghe ngươi nói năng láo lếu.

Lại một người khác nói:

- Chuyện Tạ Tốn bây giờ đi đến đâu? Đao Đồ Long giờ đây thế nào?

Người khác nói:

- Không Trí thiền sư, hôm nay ông là chủ anh hùng đại hội, mời chúng tôi bôn ba đến đây, thế là để làm gì?

Mỗi người một câu, tất cả đều gạt Tư Đồ Thiên Chung không cho y nói lằng nhằng nữa, muốn Không Trí đưa ra một chủ ý xem thế nào. Trong khi tiếng người ồn ào, xa có gần có, bốn phương tám hướng nhao nhao lên Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Sử lão đại của Hắc Phong Trại phủ Giang Lăng kia, ngươi không phải hối hả, Hắc Sa Chưởng của ngươi lợi hại thật nhưng chắc gì đã ?đánh khắp thiên hạ không địch thủ?? Thủy Để Kim Ngao Hầu huynh đệ của hồ Phiên Dương, Tạ Sư Vương võ công thủy bộ đều ghê gớm, ngươi đừng khinh y không biết đánh nhau dưới nước, huống chi người ta còn một vị Tử Sam Long Vương chưa xuất hiện, ha ha, ba ba sao sánh được với rồng? Còn Ngô Tam Lang của Thanh Dương Sơn? Ngươi dùng kiếm dù có đoạt được đao Đồ Long ngươi cũng đâu có biết sử dụng? Sử kình bậy bạ ...

Người này tuy khùng khùng điên điên, nhưng có cái tài hơn người, hiểu biết rất rộng, tai nghe thật thính, trong bao nhiêu người ồn ào như chợ vỡ vậy mà từng người nói ra tên tuổi, không sai một ai. Quần hùng thấy y lộ chút công phu ra, nhịn không nổi hò reo vang dội.

Một lão tăng ở phía sau Không Trí đứng lên nói:

- Phái Thiếu Lâm là chủ chẳng may phương trượng lâm trọng bệnh bất ngờ khiến cho thịnh hội không ai chủ trì để cho quí vị phải cười chê. Tạ Tốn và đao Đồ Long hai việc, kỳ thực một mà là hai, hai mà là một có thể gộp chung lại giải quyết luôn thể. Cứ như ý kiến của lão nạp, vị Diệp thí chủ của phái Thanh Hải vừa rồi nói ra thật là hữu lý. Trong quần hùng nơi đây anh tài đầy rẫy, chỉ cần các vị lộ chút tài ba, sau cùng người nào nghệ áp đương trường thì Tạ Tốn sẽ do người đó xử trí, thanh đao Đồ Long cũng do người đó chấp chưởng, ai ai đều thỏa mãn chẳng phải hay lắm sao?

Trương Vô Kỵ hỏi xem nhà sư đó là ai, Bành Oánh Ngọc lắc đầu nói:

- Thuộc hạ không biết. Nhà sư này không tham dự chiến dịch vây công Quang Minh Đính, cũng chẳng bị quận chúa nương nương bắt giam nơi chùa Vạn An nhưng y dám tiến lên nói chặn trước Không Trí đại sư, dường như trong chùa địa vị cũng không phải thấp.

Triệu Mẫn hạ giọng nói:

- Người này mười phần đến chín là tòng đảng của Viên Chân. Tôi đoán là Không Văn phương trượng chắc rơi vào tay Viên Chân rồi, Không Trí bị đám phản đồ này hiếp chế, chỉ đành chịu vậy mà thôi.

Trương Vô Kỵ hơi lo sợ hỏi lại:

- Ý kiến Bành đại sư ra sao?

Bành Oánh Ngọc đáp:

- Suy đoán của quận chúa xem ra cũng có lý. Có điều trong chùa Thiếu Lâm cao thủ nhiều biết chừng nào, nếu như Viên Chân dám công nhiên phạm thượng tác loạn thì y quả là lớn mật.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Viên Chân bố trí đã lâu. Việc đầu tiên là toan tiêu diệt bản giáo, đến nữa là có ý đồ khống chế Cái Bang, cả hai lần gian mưu đều không thành. Lần này xem chừng y muốn làm chưởng môn phương trượng chùa Thiếu Lâm.

Triệu Mẫn nói:

- Nếu chỉ là chức chưởng môn phương trượng không thôi, e rằng chưa đủ đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Phái Thiếu Lâm là đệ nhất môn phái trong võ lâm, làm phương trượng chưởng môn đã là lên đến tuyệt đỉnh, làm sao còn gì hơn được nữa.

Triệu Mẫn đáp:

- Thế võ lâm chí tôn thì sao? Không cao hơn phương trượng chùa Thiếu Lâm à?

Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ nói:

- Y muốn làm võ lâm chí tôn sao?

Triệu Mẫn nói:

- Vô Kỵ ca ca, Chu tỉ tỉ đi lấy người khác, chàng hồn vía lên mây, không còn nghĩ ra được chuyện gì nữa.

Trương Vô Kỵ bị nàng nói đúng tim đen, mặt đỏ lên, nghĩ thầm: ?Trương Vô Kỵ ơi, ngươi đâu có thể chỉ tơ tưởng đến những chuyện tình cảm gái trai mà để chuyện cứu nghĩa phụ qua một bên?. Chàng định thần, nghĩ Viên Chân thâm mưu viễn lự, anh hùng đại hội hôm nay chính là do tay y một mình sắp xếp, bên trong thể nào chẳng có gian mưu, liền nói:

- Mẫn muội, em thử đoán xem mưu kế của Viên Chân thế nào?

Triệu Mẫn nói:

- Viên Chân là kẻ lắm mưu nhiều kế, chuyến này bỏ biết bao nhiêu tâm huyết cốt là ...

Chu Điên đứng bên cạnh nghe hai người nói nhỏ với nhau, nhịn không nổi xen vào:

- Quận chúa nương nương, cô cũng thật là lắm mưu nhiều kế, ta xem có kém gì Viên Chân đâu.

Triệu Mẫn cười nói:

- Khen nịnh rồi đó.

Chu Điên đáp:

- Không phải nịnh đâu ...

Bành Oánh Ngọc nói:

- Điên huynh, đừng ngắt lời quận chúa.

Chu Điên giận dữ đáp:

- Ngươi đừng ngắt lời ta trước ...

Bành Oánh Ngọc cười khì, không nói nữa, biết là nếu cãi lẫy với y thì có đến một giờ cũng không đi đến đâu, chi bằng nhịn trước là hơn. Chu Điên nói:

- Sao ngươi không nói nữa?

Bành Oánh Ngọc đáp:

- Ngươi bảo ta đừng ngắt lời ngươi, thì ta không ngắt lời ngươi chứ sao.

Chu Điên nói:

- Thế nhưng ngươi đã ngắt lời ta rồi.

Bành Oánh Ngọc nói:

- Thế thì ngươi cứ nói tiếp đi xem nào.

Chu Điên nói:

- Ta quên rồi, không nói tiếp được nữa.

Triệu Mẫn cười nói:

- Ta nghĩ nếu như Viên Chân chỉ mơ tưởng chức phương trượng chùa Thiếu Lâm thì việc gì phải mời anh hùng thiên hạ đến làm gì. Tạ đại hiệp đã lọt vào tay y rồi, việc gì còn phải gọi quần hùng tỉ võ tranh đoạt? Vô Kỵ ca ca, nếu nói riêng về võ công, e rằng trên đời này không ai có thể bằng được chàng, việc đó Viên Chân lẽ nào lại không biết. Y chẳng thể tốt bụng đến mức sắp đặt đại hội anh hùng, để chàng thắng tất cả thành võ lâm chí tôn, sau đó đem Tạ đại hiệp và đao Đồ Long dâng lên.

Trương Vô Kỵ, Bành Oánh Ngọc, Chu Điên ba người đều gật gù, hỏi lại:

- Thế quận chúa đoán bên trong có ngụy kế gì?

Lúc này Dương Tiêu cũng đã đến bên cạnh Trương Vô Kỵ liền chen vào:

- Tôi vẫn nghĩ rằng, gian mưu của Viên Chân nhất định không phải nhỏ ...

Chu Điên nhịn không nổi liền cướp lời:

- Viên Chân là đại đối đầu của bản giáo, quận chúa nương nương trước đây cũng là đại đối đầu. Viên Chân lắm mưu nhiều kế, quận chúa nương nương thì cũng lắm kế nhiều mưu, hai người cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.

Dương Tiêu quát lớn:

- Lại nói điên điên rồ rồ chuyện nhăng cuội nữa rồi!

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Chu tiên sinh nói cũng có điểm hữu lý, nếu như tôi là Viên Chân thì sẽ mưu đồ những gì? Ồ, thứ nhất tôi sẽ khuyên Không Văn phương trượng gửi anh hùng thiếp, mới anh hùng thiên hạ đến chùa Thiếu Lâm. Vị Không Văn phương trượng thâm hiểu Phật pháp vốn dĩ từ bi hòa bình, không thích đa sự nhưng tôi chỉ cần nhắc lại mối thù Không Kiến, Không Tính hai vị thần tăng, Không Văn phương trượng vì tình huynh đệ thể nào cũng bằng lòng. Kế đến, chùa Thiếu Lâm nếu như giết Tạ đại hiệp thì sẽ cùng Minh Giáo thù sâu như biển, với lực lượng một môn phái, thật cũng khó mà chống nổi với Minh Giáo toàn lực tấn công, còn như đổ lên đầu anh hùng tứ xứ, Minh Giáo không thể nào giết sạch được tất cả mấy nghìn anh hùng hào kiệt.

Mọi người đều gật gù khen phải. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Anh hùng đại hội mở ra rồi, tôi sẽ không ra mặt chỉ sai người đem Tạ đại hiệp và đao Đồ Long ra làm mồi nhử, xúi bẩy cho quần hào tàn sát lẫn nhau. Minh Giáo sẽ thành kẻ địch của quần hùng, đấu đến sau cùng, dù ai thắng ai bại, cao thủ của Minh Giáo ít ra cũng chết một nửa, nguyên khí thương tổn rất nhiều.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế. Điểm đó anh cũng đã nghĩ đến rồi, thế nhưng nghĩa phụ đối với anh ơn nặng như non, với các anh em khác có giao tình mấy mươi năm, bọn mình lẽ nào ngồi yên không cứu? Ôi, mình lên núi chưa được mấy ngày, ông ngoại đã qua đời, Viên Chân hẳn là ở trong bóng tối vỗ tay cười rồi đó.

Triệu Mẫn nói tiếp:

- Đấu đến cuối, cái danh võ công đệ nhất có lẽ sẽ vào tay Trương giáo chủ, lúc đó quần tăng Thiếu Lâm sẽ nói: ?Trương giáo chủ kỹ áp quần hùng, thực là đáng kính đáng mừng, bản tự kính cẩn giao Tạ đại hiệp lại cho giáo chủ, xin giáo chủ lên ngọn núi sau chùa đích thân nghênh đón?. Thế là tất cả mọi người đi lên đỉnh núi, Trương giáo chủ sẽ một mình phá trận Kim Cương Phục Ma Khuyên. Nếu có người khác tiến ra tương trợ, đồng đảng của Viên Chân sẽ nói: ?Kỹ áp quần hùng là Minh Giáo Trương giáo chủ, với người khác không liên quan gì, các hạ xin đứng một bên thì hơn?. Trương giáo chủ được cái danh thiên hạ đệ nhất võ công, dẫu trên mình không bị thương gì, nhưng cũng hao phí bao nhiêu nội lực thần công, làm sao địch nổi ba vị lão tăng? Kết quả Tạ đại hiệp cứu không xong, chính bản thân mình bỏ mạng giữa ba cội thương tùng. Chỉ còn lãnh nguyệt thê phong làm bạn với cái xác một đời đại hiệp Trương Vô Kỵ, chẳng cũng khéo lắm sao?

Quần hào nghe tới đây, mặt ai nấy đều biến sắc, thấy đó không phải là chuyện bịa đặt, Trương Vô Kỵ máu nóng hơn người dù có nguy hiểm gian nan thế nào không thể không cứu Tạ Tốn, nếu phải bỏ mình cũng không hối hận. Kế của Viên Chân tính đúng con người Trương Vô Kỵ, biết chàng dẫu có núi đao vạc dầu cũng nhất định nhảy vào cho bằng được.

Triệu Mẫn thở dài một tiếng, nói tiếp:

- Như thế, Minh Giáo sẽ bị hủy rồi, Viên Chân sẽ sử dụng gian kế, đánh thuốc độc giết Không Văn, đem tội vạ đổ lên đầu Không Trí, chuyện đó an bài thật dễ quá, chỉ cần ngụy tạo vài chứng cớ, không thể không khiến cho tăng chúng Thiếu Lâm tin theo. Lại thêm đồng đảng nhất định suy cử, lão nhân gia sẽ thuận lý thành chương lên chức phương trượng ngay. Ngài sẽ ra lệnh cho quần hùng tấn công Minh Giáo, lấy nhiều thắng ít, gom lại giết sạch. Khi đó danh hiệu võ công đệ nhất, ngoại trừ lão nhân gia ra thì người ngoài ai dám tranh. Đao Đồ Long không xuất hiện thì không sao, nhưng nếu có tung tích trên giang hồ, anh hùng thiên hạ đều biết, chủ nhân đích thực của thanh đao đó là Viên Chân thần tăng, phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nếu đao vào tay ai mà không dâng lên ngài e rằng có điều không hay.

Nàng nói thanh âm thật nhỏ, chỉ mấy người ở một góc lều nghe được. Nghe xong, Chu Điên giơ tay vỗ đùi một cái bốp, kêu lên:

- Đúng thế, đúng thế! Thật là gian mưu to lớn quá!

Câu nói của y oang oang, trong quảng trường có đến một nửa nghe thấy, mọi người đều quay sang nhìn vào lều của Minh Giáo.

Tư Đồ Thiên Chung hỏi:

- Gian mưu gì vậy? Nói cho lão phu nghe có được không nào?

Chu Điên đáp:

- Cái này nói ra không được. Lão tử nhất tâm khiêu khích ly gián để cho anh hùng thiên hạ tàn sát lẫn nhau, thành thế một mất một còn, nếu như ta nói ra, thì đâu có còn linh nữa?

Tư Đồ Thiên Chung cười nói:

- Hay thật, hay thật! Thế nhưng làm thế nào mà khích bác ly gián được, nói rõ cho nghe nào!

Chu Điên lớn tiếng nói:

- Thì ta trong trụng có độc kế âm mưu nhưng giả vờ nói: Đồ Long đao đang ở trong tay ta đây, người nào võ công cao cường nhất, ta sẽ giao đao Đồ Long cho...

Tư Đồ Thiên Chung kêu lên:

- Kế hay thật, mưu sâu quá! Thế rồi ra sao?

Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, cùng nghĩ thầm: ?Con sâu rượu này với mình vô thân vô cố, nhưng giúp mình thật nhiều?.

Chu Điên lớn tiếng nói:

- Ngươi thử nghĩ xem vì thanh đao Đồ Long mà người đời gọi là ?võ lâm chí tôn? kia, có ai không trổ hết toàn lực để tranh đoạt? Thế là thằng điên bị thằng say giết, thằng say lại bị nhà sư giết, nhà sư bị đạo sĩ giết, đạo sĩ bị cô nương giết ... ôi thôi giết đến nỗi chết nằm ngổn ngang, máu chảy thành sông, ô hô ai tai, bất diệc lạc hồ!

Quần hùng nghe nói thế, ai nấy trong bụng bủn rủn, nghĩ thầm gã này tuy điên điên khùng khùng, nhưng lời nói quả thực hữu lý. Lão nhị của phái Không Động Tông Duy Hiệp nói:

- Vị Chu tiên sinh kia nói ra thật có lý. Chúng ta bụng dạ ngay thẳng không phải nói quanh co, mọi nhà mọi phái ai chẳng thèm thanh đao Đồ Long, thế nhưng vì thanh đao đó mà để đến thân bại danh liệt, thậm chí toàn phái tiêu ma, xem ra có điều quá đáng. Ta nghĩ tất cả phải tính sao cho phải, lấy võ kết bạn, hễ đến là ngừng, tuy phân thắng bại nhưng đừng để tổn thương hòa khí. Các vị nghĩ sao?

Trong chuyến lên đánh Quang Minh Đính, Trương Vô Kỵ lấy đức báo oán, đã giúp y chữa nội thương súc tích bởi luyện Thất Thương Quyền mà ra, sau lại cứu y ra khỏi chùa Vạn An, thành ra kỳ này phái Không Động lên chùa Thiếu Lâm vốn đã có ý giúp đỡ Minh Giáo. Tư Đồ Thiên Chung cười nói:

- Ta xem ngươi hình dáng cao to vậy mà lại sợ chết. Nếu không chảy máu, cũng chẳng chết người thế thì tỉ võ còn có gì đáng kể đâu.

Lão tứ của phái Không Động Thường Kính Chi nổi cáu nói:

- Muốn giết một con sâu rượu như ngươi cần gì phải chảy máu.

Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Ta bất quá nói chơi cho vui, Thường tứ tiên sinh làm gì nóng nảy thế? Ai chẳng biết Thất Thương Quyền của phái Không Động giết người không thấy máu. Không Kiến thần tăng của phái Thiếu Lâm đã chẳng chết vì Thất Thương Quyền đấy ư? Tên tửu quỉ Tư Đồ này có được bao lăm mà dám sánh với Không Kiến thần tăng?

Quần hùng ai nấy đều nghĩ: ?Con sâu rượu này mở mồm là châm chọc người khác, đã đắc tội với phái Không Động lại còn nói chạm đến cả phái Thiếu Lâm. Y lăn lộn trên giang hồ, vậy mà đến tuổi này còn chưa chết, kể cũng là chuyện lạ?.

Tông Duy Hiệp không thèm để ý đến y, dõng dạc nói:

- Cứ như ý tại hạ, mỗi một môn phái, mỗi một bang hội, giáo môn đều cử ra hai cao thủ, chia ra tỉ thí võ nghệ. Phái nào còn lại sau cùng võ công cao hơn cả thì Tạ đại hiệp và đao Đồ Long sẽ do phái đó xử trí.

Quần hùng vỗ tay vang dậy, đều khen biện pháp đó hay hơn cả. Trương Vô Kỵ để ý các nhà sư Thiếu Lâm đứng sau lưng Không Trí, đa số đều nhíu mày, xem chừng không lấy gì làm vui, biết rằng Triệu Mẫn đã đoán trúng gian mưu của Viên Chân, phá cái kế khiêu khích quần hùng tự tàn sát lẫn nhau của y. Một gã trung niên mặt trắng có bộ râu thưa tay phe phẩy quạt xếp cán vàng, thần tình thật là tiêu sái, đứng lên nói:

- Tại hạ biết rằng lời nghị luận của Tông nhị hiệp thật là xác đáng. Có điều chúng ta trong khi tỉ thí, vẫn biết rằng tới hơn thua là ngừng, thế nhưng binh khí quyền cước không có mắt, nếu như lỡ tay thì cũng đành coi là tại số trời. Những người đồng môn đồng phái, bạn bè không được đi ra khiêu chiến báo thù, nếu không sẽ cứ dây dưa mãi, thế sẽ không bao giờ dứt.

Mọi người ai nấy đều nói:

- Đúng lắm, phải thế mới được.

Tư Đồ Thiên Chung lại cất tiếng eo éo nói:

- Vị huynh đài kia bề ngoài thật là tốt mã, ăn nói lại rào trước đón sau, hẳn phải là Âu Dương huynh ở đất Tương Nam, phủ Hoành Dương đấy chăng?

Người kia cầm quạt phe phẩy mấy cái, cười nói:

- Không dám, chính mỗ đây, ngươi khen ta một câu lại mắng ta một câu, thế kể như hòa.

Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Âu Dương huynh cũng như ta hai đứa lang thang như ma đói ma khát, chẳng thuộc môn phái bang hội nào. Ta thích rượu, ngươi hiếu sắc, chi bằng mình lập nên một ?Tửu Sắc Phái?, hai đại cao thủ của Tửu Sắc phái cùng sóng vai nhau, tranh với các cao thủ anh hùng thiên hạ được chăng?

Mọi người ai nấy cười ha hả, thấy gã Tư Đồ Thiên Chung này liên tiếp chế riễu người này người khác, thật là vui tính, khiến cho trên quảng trường tiếng cười không dứt, bớt hẳn sự căng thẳng và gay gắt.

Bành Oánh Ngọc nói với Trương Vô Kỵ, người mặt trắng này tên là Âu Dương Mục Chi, lấy cả thảy mười hai người cơ thiếp, võ công tuy cao cường nhưng rất ít xông pha giang hồ, cả ngày chỉ vui vầy loan phượng, hưởng cái thú ôn nhu.

Âu Dương Mục Chi cười nói:

- Nếu cùng ngươi liên thủ sáng lập môn phái, gia tài của ta e không đủ cho ngươi uống rượu. Các vị, nói đến tỉ võ so tài, chúng ta phải cử ra vài vị tiền bối tuổi cao đức trọng, ai nấy đều kính ngưỡng làm công chứng để khỏi ngươi nói ngươi thắng, ta bảo ta ăn, tranh chấp lẫn nhau.

Tư Đồ Thiên Chung cười:

- Được thua không lẽ chính mình lại còn không biết? Đâu có ai cãi chầy cãi cối như nhà ngươi bao giờ?

Tông Duy Hiệp nói:

- Nếu cử ra vài vị làm chứng cũng hay, phái Thiếu Lâm là chủ, Không Trí đại sư là một người.

Tư Đồ Thiên Chung chỉ vào chiếc túi của Thuyết Bất Đắc:

- Ta đề cử Sơn Đông đại hiệp Hạ Trụ Hạ lão anh hùng.

Thuyết Bất Đắc nhắc chiếc túi lên ném về phía Tư Đồ Thiên Chung, cười nói:

- Trả người làm chứng cho ngươi đây!

Tư Đồ Thiên Chung vứt chiếc hồ lô rượu xuống, ôm lấy chiếc túi rồi cởi dây buộc ra, ngờ đâu Thuyết Bất Đắc thắt nút rất khó gỡ, dây thắt miệng túi là tơ pha với dây câu bện thành, Tư Đồ Thiên Chung dùng đủ mọi cách vẫn không thể nào cởi ra được. Thuyết Bất Đắc cười khà khà, tung mình nhảy tới, tay trái nắm lấy cái túi đưa ra sau lưng, tay phải chộp lấy, mười ngón tay vặn qua vặn lại mấy cái, nhắc trở về đằng trước, rồi quay qua quay lại trước sau vài lượt, nút thắt trên miệng túi liền bung ra. Y nghiêng túi qua một bên, Hạ Trụ liền rơi ra ngoài, Tư Đồ Thiên Chung lập tức giải huyệt cho y.

Hạ Trụ nằm trong cái túi tối om ngộp thở một hồi lâu, đột nhiên ánh sáng chói lòa, trên sân hàng ngàn cặp mắt đang chăm chú nhìn mình, hổ thẹn quá đỗi, vùng lên rút đoản kiếm đeo bên mình, đâm luôn vào ngực. Tư Đồ Thiên Chung giơ tay đoạt lấy, cười nói:

- Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, Hạ đại ca việc gì mà phải vụng tính thế?

Từ trong rừng người, một gã lùn lùn mập mập lớn tiếng nói:

- Vị đại hiệp nằm trong túi kia e rằng không đủ tư cách làm công chứng, ta đề nghị Tôn lão gia tử của Trường Bạch Sơn.

Lại một người đàn bà trung niên nói:

- Hai anh em Chiết Đông song nghĩa uy chấn Giang Nam, chính trực vô tư, làm công chứng nhân là đúng hơn cả.

Quần hùng người này một câu, người kia một lời, chỉ trong chốc lát đã đề nghị đến hơn chục người, đều là những hào kiệt tương đối có tiếng tăm trên giang hồ.

Đột nhiên một lão ni cô của phái Nga Mi lạnh lùng nói:

- Suy cử công chứng nhân để làm gì? Có cũng bằng thừa thôi.

Bà ta nói không lớn tiếng lắm nhưng rõ ràng từng chữ lọt vào tai mọi người, hiển nhiên nội lực tu tập cũng đã vào bậc khá. Tư Đồ Thiên Chung cười hỏi lại:

- Thỉnh giáo sư thái, sao lại không cần người làm chứng là sao?

Ni cô kia đáp:

- Hai người đánh nhau, ai được thì sống, ai thua thì chết, có Diêm Vương làm chứng cho rồi.

Mọi người nghe mấy câu lạnh lẽo ấy không khỏi rợn người. Tư Đồ Thiên Chung nói:

- Chúng ta lấy võ để kết bạn, không có thâm cừu đại oán, việc gì ra tay phải nhất định sống chết mới thôi? Người xuất gia lấy từ bi làm đầu, lời của vị sư thái kia không sợ Phật tổ trách phạt hay sao?

Người ni cô vẫn lạnh lùng tiếp:

- Ngươi nói với người khác lăng nhăng láo lếu thì được, chứ trước mặt đệ tử phái Nga Mi thì phải cho có qui củ.

Tư Đồ Thiên Chung cầm hồ rượu lên, rót đầy một chén cười nói:

- Chặc chặc chặc, phái Nga Mi ghê gớm quá. Người đời vẫn bảo:

Khôn ngoan chớ ghẹo đàn bà,

Rượu vào tối kỵ ấy là ni cô.

Y vừa nói vừa giơ chén rượu để lên môi. Đột nhiên có hai tiếng vụt vụt rít lên trong không, hai hạt niệm châu bắn tới, một viên trúng ngay chén rượu, một viên trúng hồ lô, tiếp theo một viên khác nữa trúng ngay ngực y. Chỉ nghe bùng bùng bùng ba viên niệm châu nổ tung, hồ lô chén rượu lập tức vỡ tan, còn ngực Tư Đồ Thiên Chung bị khoét thành một cái lỗ lớn. Y bị sức nổ bắn văng ra sau mấy trượng, thân hình quần áo lập tức bốc lửa. Hạ Trụ vội chạy lên dập tắt nhưng Tư Đồ Thiên Chung đã chết, trên mặt vẫn còn như mỉm cười. Ba viên đạn đó bắn tới thật là thần tốc, Tư Đồ Thiên Chung đến lúc bỏ mạng cũng đâu ngờ rằng đại họa lâm đầu.

Biến cố đó xảy ra thật bất ngờ chẳng khác nào giữa trời nắng có tiếng sét, quần hùng không thiếu người kiến đa thức quảng nhưng chẳng một ai nhìn thấy loại ám khí ghê gớm ấy là cái gì. Chu Điên kêu lên:

- Ối chao ôi là chao ôi! Ám khí gì thế nhỉ?

Dương Tiêu nói nhỏ:

- Nghe nói nước Đại Thực bên Tây Vực có người học được cách chế hỏa dược của Trung Quốc, làm ra một loại ám khí tên là Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn[4], bên trong chứa thuốc nổ, dùng lò so mạnh bắn ra. Chắc là lão ni cô này sử dụng thứ đó.

Hạ Trụ ôm cái xác cháy đen của Tư Đồ Thiên Chung, dõng dạc nói:

- Vị Tư đồ huynh đệ đây tuy miệng có hay xỏ xiên khắc bạc, chẳng qua chỉ vì trời sinh tính hoạt kê, chứ tâm địa thực là nhân hậu, cả đời chưa từng làm chuyện gì thương thiên hại lý. Hôm nay các vị anh hùng tụ tập nơi đây, liệu có ai kể ra được một hành vi ác độc nào của y chăng?

Quần hùng ai nấy lặng thinh. Hạ Trụ chỉ vào ni cô, hậm hực nói:

- Phái Nga Mi vẫn xưng là danh môn chính phái theo con đường hiệp nghĩa, sao lại sử dụng loại ám khí độc ác đến vậy? Trong võ lâm vẫn biết ai mạnh thì được, nhưng cũng không thể bỏ qua chữ ?lý?. Xin được hỏi vị sư thái kia xưng hô thế nào?

Lão ni cô đáp:

- Ta tên Tĩnh Già. Vị đại hiệp trong túi chui ra kia khoa chân múa tay để làm gì thế?

Hạ Trụ buồn bã nói:

- Họ Hạ này học nghệ chưa tinh nên để cho các ma đầu của Minh Giáo lăng nhục. Đó chẳng qua chỉ vì mình bản lĩnh chẳng bằng ai, nhưng cũng không làm tổn cái danh một đời hiệp nghĩa. Tĩnh Già sư thái, bà độc ác như thế, chẳng có lỗi với tổ sư quí phái Quách Tương Quách nữ hiệp hay sao?

Quần đệ tử phái Nga Mi nghe thấy nói đến tên húy sáng phái tổ sư đều cùng đứng phắt dậy. Đôi lông mày dài của Tĩnh Già nhướng lên, quát lớn:

- Danh húy tổ sư bản phái, đâu phải để cho ngươi bạ đâu nói đó được?

Hạ Trụ đáp:

- Đệ tử Nga Mi các ngươi hành sự bất nghĩa làm điếm nhục tên tuổi của tổ sư. Không nói gì Quách nữ hiệp, ngay cả Diệt Tuyệt sư thái lúc sinh tiền, dẫu có ra tay tàn ác nhưng cũng chưa dùng kiếm giết người vô tội. Những kẻ lạm sát như các ngươi mà người chưởng môn để yên không ước thúc, hừ hừ, phái Nga Mi liệu từ nay có còn chỗ đứng trên giang hồ nữa hay chăng?

Tĩnh Già đáp:

- Ngươi còn nói láo nửa câu nữa thì cũng sẽ không khác gì tên tửu quỉ kia đâu?

Hạ Trụ nét mặt đằng đằng chính khí, oai vệ bước lên ba bước dõng dạc nói:

- Người chưởng môn phái Nga Mi nếu không thanh lý môn hộ, anh hùng thiên hạ từ nay chẳng coi phái Nga Mi ra gì.

Mấy nghìn con mắt của mọi người cùng đệ tử phái Nga Mi đều quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, chỉ thấy nàng nhìn Tĩnh Già chầm chậm gật đầu. Đùng đùng hai tiếng thật lớn, Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn trong tay Tĩnh Già bắn ra, trên ngực và dưới bụng Hạ Trụ liền thủng hai cái lỗ lớn, áo quần bén lửa ngay. Thế nhưng y cực kỳ bất khuất, tuy đã chết rồi mà vẫn đứng sừng sững, trong tay còn ôm cái xác của Tư Đồ Thiên Chung.

Quần hùng ai nấy bàng hoàng, kinh hãi đến sững sờ. Một lúc sau, mấy trăm người mới nhao nhao la ó, cùng trách mắng phái Nga Mi không ra gì. Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc hai người nhìn nhau, cùng gật đầu, rồi chạy ra trước thi thể Hạ Trụ, quì xuống vái lạy. Thuyết Bất Đắc nói:

- Hạ lão anh hùng, chúng tôi không biết ông anh hùng nhân nghĩa nên đã đắc tội, khiến anh em tôi thật là hổ thẹn.

Hai người giơ tay lên, bốp bốp bốp bốp mấy tiếng liền, mỗi người tự vả cho mình mấy cái, hai bên má liền sưng tấy lên. Hai người dập tắt lửa trên hai cái xác, ôm về lều của Minh Giáo.

Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược đột nhiên biến thành tàn nhẫn như thế, trong lòng không khỏi hoang mang.

Trong tiếng hò la của mọi người, Chu Chỉ Nhược ghé tai nói nhỏ với Tống Thanh Thư mấy câu. Tống Thanh Thư gật đầu, chậm rãi bước ra giữa khu đất, dõng dạc nói:

- Hôm nay quần hùng tụ tập nơi đây, chẳng phải là đến để ngâm thơ uống rượu, gẩy đàn dạo nhạc, bình luận văn chương câu đối. Nếu đã sử dụng binh khí quyền cước, không thể nào không có kẻ chết người bị thương. Vị Hạ lão anh hùng kia mới nói, Tư Đồ tiên sinh trước nay không làm điều gì xấu, oán trách Tĩnh Già sư thái của bản phái lạm sát người vô tội. Các vị anh hùng nghe thế đều nhao nhao phụ họa, dường như có chiều không bằng lòng. Vậy kẻ này thử hỏi một câu: chúng ta hôm nay tỉ võ tranh tài, liệu có cần phải tra xét trước xem kẻ đó hành vi phẩm đức ra sao không? Nếu là kẻ đại thánh đại hiền thì tuyệt nhiên không thể giết hại, còn kẻ cùng hung cực ác thì lúc ấy cứ thẳng tay chăng?

Quần hùng ai nấy bị chặn họng, đều cảm thấy y nói không phải là không có lý. Tống Thanh Thư lại tiếp:

- Nếu nói thanh đao Đồ Long kia phải là người có đức mới được giữ, chúng mình việc gì phải tỉ võ so tài làm gì nữa? Chi bằng tất cả cùng đi Sơn Đông, đến Khúc Phụ thăm văn miếu bậc Đại Thành Tiên Thánh Khổng Phu Tử, cung thỉnh con cháu bậc thánh nhân ra nhận cho xong. Còn như nói đến chữ ?võ? thì khi so tài chỉ nói đến chết sống thắng bại, chứ nói gì đến đối phương ?vô tội? hay ?hữu tội??

Trong đám người lập tức có kẻ tiếp lời:

- Đúng thế! Đao thương không có mắt, chúng ta đã nói trước là không được đi tìm nhau để trả thù.

Du Liên Châu và Ân Lê Đình nghe giọng Tống Thanh Thư càng lúc càng giống, có điều y mặt đầy râu ria, lại mở miệng ra là ?bản phái, bản phái?, hiển nhiên là nam đệ tử của phái Nga Mi, trong bụng không khỏi thắc mắc. Du Liên Châu đứng lên hỏi:

- Thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ là gì?

Tống Thanh Thư thấy nhị sư thúc, xưa nay vốn sợ ông ta nên trong lòng không khỏi hoảng hốt, chết điếng một hồi mới ấp úng:

- Kẻ hậu bối vô danh, chẳng dám phiền Du nhị hiệp hỏi đến.

Du Liên Châu gay gắt nói:

- Các hạ luôn luôn nói đến ?tỉ võ so tài?, hẳn là võ nghệ phải có tài ba hơn người. Sư phụ ta lúc trẻ đã chịu đại ân từ Quách nữ hiệp của quí phái cho nên nghiêm huấn rằng đệ tử Võ Đương không được động thủ với đệ tử phái Nga Mi. Tại hạ muốn hỏi cho rõ ràng, các hạ có thực là đệ tử phái Nga Mi chăng, họ gì tên gì? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, có điều gì mà phải dấu diếm?

Chu Chỉ Nhược phẩy nhẹ chiếc phất trần nói:

- Du nhị hiệp, bản tọa[5] cũng chẳng cần phải dấu ông làm gì. Người này là phu quân của bản tọa, họ Tống tên Thanh Thư, vốn gốc từ phái Võ Đương, nay đã chuyển sang gia nhập môn hạ phái Nga Mi. Du nhị hiệp muốn gì thì cứ việc nói chuyện với ta là xong.

Nàng nói mấy câu đó giọng trong trẻo lạnh lùng, nghe như tiếng băng chạm nhau, gió thổi khánh ngọc, lại thêm dung mạo xinh đẹp, tay cầm phất trần phe phẩy như một nàng tiên, mấy nghìn hào kiệt trên quảng trường không ai nói một lời, lặng yên chú tâm lắng nghe.

Tống Thanh Thư giơ tay xoa mặt một cái, bóc hết các chất hóa trang và râu ria đi, sửa lại áo quần, lập tức thành ra một thanh niên anh tuấn mặt như quan ngọc ngay. Quần hùng vừa nhìn thấy thế, ai nấy khen thầm: ?Quả là một đôi đẹp như thần tiên?.

Du Liên Châu nghĩ đến tội y giết Mạc Thanh Cốc, lửa giận bốc lên bừng bừng, thế nhưng ông tính vốn thâm trầm, gần đây tuổi đã lớn, trình độ tu tập càng cao, tuy trong lòng cuồng nộ nhưng trên mặt vẫn bình thản đưa đôi mắt sáng như điện lướt qua mặt đứa phản đồ. Tống Thanh Thư trong lòng hổ thẹn, vội vàng cúi đầu nhìn xuống.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ngoại tử thoát ly phái Võ Đương, gia nhập phái Nga Mi, hôm nay chính thức công bố trước mặt chư vị anh hùng. Du nhị hiệp, Trương chân nhân nghĩ đến tình xưa nghĩa cũ, không cho đệ tử đối địch với bản phái, đó là nghĩa khí của lão nhân gia, nhưng cũng là chỗ sáng suốt của người muốn bảo toàn uy danh cho phái Võ Đương đó.

Ân Lê Đình nghe thế không còn nhịn nổi, nhảy vọt ra, chỉ mặt Chu Chỉ Nhược nói:

- Chu cô nương, cô lúc nhỏ gặp nguy nan được sư phụ ta ra tay cứu giúp, tiến dẫn vào làm môn hạ phái Nga Mi. Dẫu rằng sư phụ ta làm ơn chẳng mong ai phải báo đáp, nhưng cô nương trong lời ăn tiếng nói hôm nay có ý ám chỉ phái Võ Đương chỉ có hư danh, kém xa các vị nữ hiệp phái Nga Mi, thế đó ...cô ... cô chẳng phải là bạc bẽo với sư phụ ta ư?

Chu Chỉ Nhược cười nhạt, nói:

- Võ Đương chư hiệp uy chấn giang hồ, người nào chả có chân tài thực học. Tống đại hiệp lại là bố chồng tôi, bản tọa lẽ nào lại dám bảo các vị chỉ có hư danh? Còn như Võ Đương, Nga Mi hai phái phái nào cũng có sở truyền, sở học, khó mà nói bên nào cao, bên nào thấp được. Năm xưa Quách tổ sư bản phái có ơn với Trương chân nhân, Trương chân nhân sau này lại có ơn với bản tọa, hai bên qua lại, chúng ta chẳng bên nào nợ bên nào một món ân tình. Du nhị hiệp, Ân lục hiệp, cái qui củ đệ tử Võ Đương không được động thủ với đệ tử Nga Mi, chúng ta từ nay bỏ đi là xong.

Trong những căn lều nơi quảng trường, quần hùng nghe thấy thế đều xôn xao bàn tán, đều nói:

- Vị chưởng môn trẻ tuổi này xem ra bạo mồm bạo miệng quá, nghe cô ta nói thì ý dường như cho rằng phái Nga Mi thể nào cũng hơn phái Võ Đương. Du nhị hiệp nội ngoại công đều đã đạt đến mức thượng thừa, trên đời hiện nay rất ít ai có thể là địch thủ của ông ta. Chẳng lẽ phái Nga Mi chỉ ỷ vào một món ám khí độc địa mà đã mong độc bá giang hồ hay sao?

Ân Lê Đình tâm thần khích động, nghĩ đến cái chết thê thảm của thất sư đệ Mạc Thanh Cốc, nhịn không nổi nước mắt ứa ra, kêu lên:

- Thanh Thư ... Thanh Thư! Ngươi ... ngươi sao lại giết chết ... thất thúc ...

Hai tiếng ?thất thúc? vừa ra khỏi miệng đột nhiên ông khóc òa lên. Quần hùng ai nấy ngơ ngác, thấy thật lạ lùng: ?Ân lục hiệp của phái Võ Đương thanh danh lớn lao đến thế, sao lại khóc rống lên trước mặt mọi người là thế nào??. Du Liên Châu tiến lên nắm cánh tay sư đệ, lớn tiếng nói:

- Tất cả anh hùng thiên hạ nghe đây, phái Võ Đương chẳng may có một đứa đệ tử phản nghịch Tống Thanh Thư. Thất sư đệ của tại hạ Mạc Thanh Cốc, đã bị tên nghịch đồ ...

Đột nhiên có hai tiếng vút vút rít lên trong không khí, hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn nhắm ngay ngực Du Liên Châu bắn tới. Trương Vô Kỵ kêu lên ?Ối chà?, đang toan vọt lên cứu viện nhưng viên đạn đó bay nhanh quá, vừa bắn ra đã tới ngay, chàng vốn không nghĩ rằng phái Nga Mi lại dám tấn công trộm như thế, thân pháp tuy nhanh, nhưng cũng không kịp nữa rồi.

Việc đó xảy ra ngoài dự liệu của Du Liên Châu, nếu như ông nghiêng mình tránh né, hai viên lôi hỏa đạn ắt trúng các đệ tử Cái Bang. Ông nghĩ hai viên đạn này dùng để đối phó với mình, cốt giết người bịt miệng, để ông khỏi công khai nói cho mọi người nghe cái tội giết chú phản cha của Tống Thanh Thư, nên không muốn hại người vô tội. Ý nghĩ vừa nảy ra thì hai viên đạn trước sau đã đến trước mặt, song chưởng của Du Liên Châu liền lật lên, sử dụng chiêu Vân Thủ trong thái cực quyền, hai bàn tay mềm mại đến cực điểm tưởng như không còn gì nữa nhẹ nhàng hóa giải kình lực của hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn. Chỉ thấy song chưởng của ông ngửa lên trời, giữ ngay trước ngực, hai viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn vẫn quay tít ở trong lòng bàn tay.

Tất cả mọi người đứng vụt dậy, mấy nghìn đôi mắt đổ dồn vào hai tay ông ta, trái tim ai cũng như ngừng đập, chỉ sợ hai viên đạn này nổ tung lúc nào không biết.

Nhu kình của thái cực quyền là công phu chí nhu trong võ học, đúng như là ?một chiếc lông cũng không thêm vào được, một con ruồi cũng không đậu lên được[6], tưởng như dính chặt[7] mà rỗng không, vừa cuộn vào lại duỗi ra ngay, hình mạo như người già mà thắng được người trẻ, đạt tới chỗ không ai hơn được mình?[8].

Du Liên Châu những năm gần đây cần tu khổ luyện, đã thâm đắc chân truyền của Trương Tam Phong, vừa rồi thấy Tư Đồ Thiên Chung và Hạ Trụ chết vì lôi hỏa đạn, biết rằng loại ám khí này đụng vào đâu là nổ liền, thật là lợi hại, không còn cách nào khác hơn đành phải giở bình sinh tuyệt học ra đỡ, quả nhiên nhu có thể khắc cương, hai viên đạn bị nhu kình nơi lòng bàn tay ông ta giữ lại, chẳng khác gì bị rơi vào một khối dẻo, chỉ còn nước quay tít nhưng không nổ được.

Lại nghe tách tách hai tiếng nữa, phái Nga Mi lại bắn ra thêm hai viên lôi hỏa đạn nữa. Ân Lê Đình đứng bên cạnh sư huynh, lập tức giơ song chưởng ra, đón lấy hai viên đạn, đợi đến khi lòng bàn tay sắp sửa bắt được ám khí mới sử dụng thức Lãm Tước Vĩ (nắm đuôi chim sẻ), ghì lấy hai viên đạn, sử dụng thế Kim Kê Độc Lập, chân trái dưới đất, chân phải co lên, toàn thân xoay tít chẳng khác gì một con quay.

Ông tinh thông kiếm thuật, công phu thái cực quyền so với sư huynh thì không thâm hậu bằng, thấy Du Liên Châu đón hai viên lôi hỏa đạn rất tốn hơi sức, chưởng lực chỉ hơi lệch một tí là loại ám khí độc địa kia nổ tung ngay. Ông toàn thân quay tít, hai tay giữ hờ hai viên đạn, trong không trung xoay mấy vòng đã hóa giải được kình lực bắn tới. Du Liên Châu dùng chưởng tâm hóa giải kình, Ân Lê Đình ở trên không hóa giải kình, tuy về phương diện võ công thì kém một mức nhưng nhìn từ ngoài vào, thân pháp của ông trông đẹp mắt hơn. Ông xoay đến hơn ba mươi vòng thì chung quanh bốn phương tám hướng tiếng khen vang dậy, sức của lôi hỏa đạn cũng hết rồi.

Ngờ đâu nghe tách tách mấy tiếng nữa, lại thêm tám viên lôi hỏa đạn bắn tới. Du Liên Châu và Ân Lê Đình cùng quát lên một tiếng, ném luôn mấy viên ám khí đang giữ trong tay ra. Đệ tử phái Võ Đương luyện một môn tuyệt kỹ gọi là tiếp khí đả khí, đón lấy ám khí của địch thủ rồi ném trả lại, có thể dùng một đỡ hai hay dùng hai chống ba. Hai người ném trả lại bốn viên Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, viên nọ đụng viên kia, trúng cả tám viên ám khí của địch bắn tới. Trên khu đất tiếng bùng bùng điếc cả tai, khói đen mù mịt, ai nấy mũi ngửi thấy mùi diêm sinh thuốc pháo.

Du Ân hai người ném lôi hỏa đạn ra rồi, lập tức tung mình nhảy vọt về sau, lùi xa hơn mươi trượng đề phòng phái Nga Mi bắn liên châu tiếp theo khiến hai người khó có thể chống đỡ.

Quần hùng thấy lôi hỏa đạn lợi hại như thế đều thất sắc, nghĩ thầm trên đời ngoài hai cao thủ phái Võ Đương ra, ít người có thể đón được, tuy người có khinh công thật giỏi có thể né tránh nhưng nếu người ném ra dùng thủ pháp ?Mãn Thiên Hoa Vũ?, dùng viên nọ bắn vào viên kia cho phát nổ thì dù thân pháp có nhanh đến thế nào cũng không sao tránh được.

Trong căn lều của phái Hoa Sơn một người cao to đứng lên, dõng dạc nói:

- Phái Nga Mi muốn tỉ võ với người khác lại lấy cái trò ỷ nhiều thắng ít hay sao?

Người này chính là một trong hai ông già của phái Hoa Sơn năm xưa trên đỉnh Quang Minh đã liên thủ với vợ chồng Hà Thái Xung để đấu với Trương Vô Kỵ.

Tĩnh Già của phái Nga Mi liền nói:

- Đạo võ công thiên biến vạn hóa, ai mạnh thì thắng ai yếu thì thua. Chúng ta có phải bọn hủ nho đâu mà việc gì cũng phải giở qui củ đạo lý ra, trên đời này làm gì có lắm lề luật đến thế?

Mọi người thấy phái Nga Mi tuy phần lớn là đàn bà, nhưng bất chấp lý lẽ so ra còn ngang ngược hơn cả đàn ông. Ông già cao của phái Hoa Sơn cãi nhau với họ nhưng không dám đến gần, chỉ đứng trong lều của mình, ở xa xa nói chõ ra, sợ họ sử dụng môn ám khí độc địa Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn bắn tới.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Chỉ Nhược lấy Tống sư ca không phải thực tâm muốn thế, nhớ đến hôm nào mình cùng nàng lưu lạc nơi biển khơi, sống chung trên hoang đảo thân ái biết là chừng nào? Hai người đã thề non hẹn biển, không bao giờ phụ phàng nhau, lời còn văng vẳng bên tai, lẽ nào lại một buổi mà dứt tuyệt? Chẳng qua cũng vì mình đối với nàng chẳng ra gì. Ai đời ngay giữa ngày hai bên làm lễ tơ hồng, nhà đầy tân khách, nắm tay Mẫn muội bỏ đi. Chỉ Nhược là chưởng môn của một phái, cái thân thiên kim, ta lại làm nhục coi thường nàng đến thế, làm gì nàng chẳng oán hận? Hôm nay phái Nga Mi làm điều ngang ngược trái lẽ, cũng là từ chính ta mà ra?.

Chàng trong lòng càng lúc càng thấy bất an nên từ trong lều đi ra, đến trước phái Nga Mi nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chỉ Nhược, mọi việc đều do tôi đối với em không ra gì. Còn việc Tống sư ca giết chết Mạc sư thúc thể nào cũng phải giải quyết cho xong. Tôi mong Tống sư ca hãy theo Du nhị bá, Ân lục thúc quay về núi Võ Đương chịu tội với Tống sư bá là hơn cả.

Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:

- Trương giáo chủ, trước đây ta vẫn tưởng giáo chủ là người đàng hoàng, chỉ vì hành sự hồ đồ mà thôi, không ngờ lại là kẻ tiểu nhân hèn hạ. Đại trượng phu đã làm thì phải chịu, giáo chủ giết hại Mạc thất hiệp, tại sao lại đổ tội lên đầu ngoại tử là sao?

Trương Vô Kỵ choáng váng nói:

- Em ... em bảo tôi giết Mạc thất thúc ư? ... Làm gì ... làm gì có chuyện ấy được?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Việc giết Mạc thất hiệp tất cả đều do phủ Nhữ Dương Vương của triều đình sắp đặt, sao giáo chủ không gọi cô ta ra cùng tất cả anh hùng thiên hạ đối chất?

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Mẫn muội đắc tội với sáu đại môn phái, trên khu đất này kẻ thù e rằng so với nghĩa phụ ta còn đông hơn, làm sao có thể để nàng xuất hiện được? Chỉ Nhược bắt được cái thóp đó, nên giở giọng vu hãm ta và Mẫn muội. Ôi, trăm điều nghìn chuyện cũng chỉ vì hôm làm lễ cưới ta bỏ nàng mà đi?.

Chàng bậm môi nghiến răng, quay mình trở về. Bỗng nghe từ phái Nga Mi có tiếng người nói lớn:

- Có ngờ đâu Trương giáo chủ của Minh Giáo lại hèn hạ nhút nhát đến thế, thấy Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn lợi hại liền cụp đuôi bỏ chạy ngay.

Trương Vô Kỵ dừng bước nhưng không quay đầu lại, nghĩ thầm: ?Ta cũng chẳng cần xem ai là người nói câu đó, phái Nga Mi dẫu có làm nhục ta cách nào, cũng chẳng qua để trả đũa đấy thôi?.

Chỉ nghe đằng sau tiếng cười càng lúc càng vang lên, Trương Vô Kỵ làm như không nghe thấy, lầm lũi đi về lều của mình.

Dương Tiêu cười khẩy nói:

- Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn chẳng qua chỉ là trò lặt vặt, có đáng gì? Nhị hiệp phái Võ Đương đã không coi vào đâu thì làm được gì với người đích truyền của môn phái là Trương giáo chủ? Phái Nga Mi các người có thứ khí giới đó đã hùm hùm hổ hổ, vậy cho các ngươi xem khí giới của Minh Giáo chúng ta.

Y giơ tay phất một cái, một tiểu đồng mặc áo trắng hai tay bưng lên một cái giá gỗ, trên đó cắm đến trên một chục lá cờ nhỏ đủ màu. Dương Tiêu rút một lá cờ trắng, vung tay một cái, lá cờ đã bay ra giữa quảng trường, cắm ngay xuống đất.

Quần hùng thấy lá cờ đó cả cán cũng chỉ dài chưa đầy hai thước, trên thêu một ngọn lửa dấu hiệu của Minh Giáo, không biết y định làm gì. Ngay lúc đó, đằng sau Dương Tiêu một người ném lên trên trời một mũi tên lửa, mũi tên lên đến lưng chừng nổ tung ra thành một đám khói trắng.

Chỉ thấy tiếng chân rầm rập, một đội giáo chúng Minh Giáo, đầu chít khăn trắng, chạy vào trong sân, tất cả năm trăm người, người nào cũng tay cầm cung tên lắp sẵn, nghe tiếng vút vút, năm trăm mũi tên bắn vào thành một vòng tròn bao quanh lá cờ trắng, chính là đội Nhuệ Kim Kỳ do Ngô Kình Thảo chỉ huy.

Mọi người chưa kịp reo hò, giáo chúng Nhuệ Kim Kỳ đã rút phắt tiêu thương đeo sau lưng, tiến lên chừng mươi bước, vung tay ném vào, năm trăm chiếc lao cắm thành một vòng bên trong các mũi tên. Những người đó lại tiến lên mươi bước nữa, rút đoản phủ đeo ở hông, chỉ thấy ánh chớp lấp loáng, năm trăm chiếc búa ngắn phóng vụt ra, cắm xuống đất, xếp thành một vòng nữa.

Đoản phủ, tiêu thương, trường tiễn làm thành ba vòng tròn, không hỗn loạn chút nào. Dẫu cho người võ công cao siêu đến đâu mà bị một ngàn năm trăm món binh khí này giáp công thỉ chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát.

Thì ra năm xưa Nhuệ Kim Kỳ ác chiến với phái Nga Mi ở Tây Vực tổn thất rất nặng, chính chưởng kỳ sứ Trang Tranh cũng chết vì Ỷ Thiên kiếm của Diệt Tuyệt sư thái. Về sau họ từ cái kinh nghiệm đau đớn ấy nghĩ ra một trận thế cực kỳ kiên cố. Mấy năm nay thế của Minh Giáo càng ngày càng thịnh, Ngũ Hành Kỳ vì thế càng ngày càng đông, riêng Nhuệ Kim Kỳ có đến trên hai vạn người. Năm trăm người vừa phóng lao, ném búa, bắn tên kia là những người tinh nhuệ nhất tuyển trong hai vạn người đó, võ công vốn đã có căn bản, lại được huấn luyện kỹ càng trong hơn một năm qua, thành một đội ra trận chiến đấu chung cũng được mà hoạt động một mình cũng được.

Quần hùng nhìn nhau thất sắc, ai nấy nghĩ thầm: ?Lá cờ trắng của Dương tả sứ Minh Giáo ném vào đâu thì một ngàn năm trăm móm binh khí cũng đi theo tới đó. Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn của phái Nga Mi tuy có ghê gớm thật nhưng giết người cũng có hạn, bắn ra mười viên, dẫu viên nào cũng trúng thì cũng chỉ giết được mười người, làm sao sánh được với Nhuệ Kim Kỳ của Minh Giáo??.

Có người lại nghĩ thêm: ?Nếu như Minh Giáo đột nhiên trở mặt, gom tất cả chúng ta lại tiêu diệt thì làm sao đây? Hôm nay những người phó hội tuy võ công đều cao cường, nhưng cũng chỉ là một bọn ô hợp, không làm sao đối phó được với các đội quân tinh nhuệ của Minh Giáo huấn luyện đã lâu, chỉ huy nói đâu làm đó?. Quần hùng trong bụng nơm nớp không yên, thành thử không ai lên tiếng hoan hô tài nghệ tinh diệu của Nhuệ Kim Kỳ.

Dương Tiêu lại cầm một lá cờ trắng lên vẫy vẫy về phía sau mấy cái. Năm trăm giáo chúng Nhuệ Kim Kỳ liền nhổ các vũ tiễn, thương, phủ lên, chạy đến trước lều của Minh Giáo, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi quay ra đi khỏi quảng trường.

Dương Tiêu lại ném một lá cờ xanh ra, cắm xuống bên cạnh lá cờ trắng. Lần này chung quanh quảng trường tiếng chân nặng nề, năm trăm giáo chúng Cự Mộc Kỳ đầu chít khăn xanh, mười người khiêng một cây gỗ lớn, nhanh nhẹn chạy lên. Mỗi khúc gỗ nặng phải đến trên một nghìn cân, trên có gắn móc sắt, để cho từng người cầm vào, bước chân đi thật đều. Đột nhiên tất cả quát lên một tiếng, năm mươi khúc gỗ cùng tung ra một lượt, có cây cao, có cây thấp, có cây bên trái, có cây bên phải, nhưng khúc nào ném ra thì cũng đụng vào một khúc khác từ phía bên kia ném qua, cả năm chục khúc gỗ không khúc nào rơi vào khoảng không cả.

Chỉ nghe tiếng bình bình bình bình ỳ ầm không dứt, năm mươi khúc gỗ chia thành hai mươi nhăm đôi, đụng lẫn nhau. Mỗi khúc gỗ nặng đến trên một nghìn cân, đụng lẫn nhau rồi thế thật kinh người, ai đứng gần bên lá cờ xanh, dẫu có nhảy lên hụp xuống, né trái tránh phải cũng không thể nào thoát khỏi những khúc gỗ đó. Trận pháp này của Cự Mộc Kỳ là từ cách công thành biến ra, muốn phá thành phải dùng cự mộc lao vào cửa thành, dẫu cửa thành có kiên cố đến đâu cũng phải vỡ. Cái thân máu thịt của con người bị những cây gỗ đó đánh trúng lẽ nào chẳng nát bấy như tương?

Các giáo chúng Cự Mộc Kỳ đợi cho những khúc gỗ ấy rơi xuống đất rồi mới tiến lên cầm những móc sắt, quay mình chạy ra ngoài cách chừng mươi trượng đứng chờ, chỉ đợi lá cờ xanh ném tới đâu là lại tung những khúc gỗ tới đó. Dương Tiêu vẫy lá cờ xanh ra lệnh cho Cự Mộc Kỳ lùi về, tay phải vung một cái, ném một lá cờ đỏ vào quảng trường.

Những giáo chúng chít khăn xanh vừa chạy ra, lập tức có năm trăm người chít khăn đỏ trong Liệt Hỏa Kỳ chạy vào. Những người đó cầm ống thụt, phun ra đầy dầu sánh đặc, đen ngòm trên mặt đất. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ vung tay ném một viên lưu hoàng hỏa đạn, dầu lập tức bén lửa cháy bùng lên. Những vùng chung quanh tổng đàn của Minh Giáo ở đỉnh Quang Minh có rất nhiều dầu thô, từ trong khe đá ngày đêm rỉ ra, gặp lửa liền cháy. Những người trong Liệt Hỏa Kỳ lưng đều đeo thùng sắt trong chứa đầy dầu, nếu phun trúng ai cháy lên khó ai mà chống lại được.

Liệt Hỏa Kỳ lui ra khỏi khu đất rồi, lá cờ đen của Dương Tiêu ném tới, năm trăm giáo chúng đầu chít khăn đen của Hồng Thủy Kỳ chạy vào quảng trường. Đội Hồng Thủy Kỳ mang theo gồm có hai mươi bộ vòi rồng có cả ống xịt, thùng chứa nước còn mười người đi trước đẩy mười cái xe. Chưởng kỳ sứ Đường Dương ra lệnh một tiếng, những chiếc xe liền mở cửa, hai chục con chó sói đói vọt ra, nhe răng múa vuốt, gầm gừ giữa bãi đất dường như muốn xông lên cắn người. Quần hùng lạ lùng, không hiểu những con ?ác lang? này có dính dấp gì đến hai chữ Hồng Thủy? Lại nghe Đường Dương quát lên:

- Phun nước!

Một trăm giáo chúng tay cầm vòi phun bằng sứ phun ra, một trăm luồng nước bắn vào những con chó sói. Mọi người ngửi thấy một mùi khét lẹt, những con dã thú bị trúng nước lập tức ngã lăn ra, rú lên những tiếng thảm thiết, chỉ khoảnh khắc nứt da nát thịt nhũn ra thành một bãi bầy nhầy. Thì ra nước của Hồng Thủy Kỳ là loại thuốc làm cho rã thịt cực mạnh, gồm có lưu hoàng, tiêu thạch các loại chế thành.

Quần hùng thấy cảnh kinh tâm động phách đó ai nấy đều nổi gai ốc, nghĩ thầm: ?Độc thủy này nếu không bắn vào bầy chó sói mà lại bắn vào người mình thì sẽ ra sao đây??. Các giáo chúng của Hồng Thủy Kỳ nhắc hai chục chiếc vòi rồng lên giả vờ làm như nhắm vào bầy chó sói, hiển nhiên cho mọi người biết trong những chiếc vòi rồng này cũng chứa đầy nước độc, bắn ra không những mạnh hơn, lại cũng xa hơn. Dương Tiêu vẫy lá cờ đen thu binh lại, các giáo chúng Hồng Thủy Kỳ liền thu dọn ra khỏi quảng trường. Trong khi những chiếc vòi rồng xoay trở đi ra, vòi hướng về phương nào, hào kiệt phía ấy không khỏi mặt mày biến sắc.

Lại thấy Dương Tiêu ném ra một lá cờ nhỏ màu vàng, một đoàn giáo chúng đầu chít khăn vàng chạy vào. Mỗi người tay cầm xẻng sắt, đẩy theo một xe chứa đầy vôi bột trộn cát, nhân số so với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa bốn kỳ kia ít hơn nhiều, chỉ độ một trăm người. Một trăm người đó vây lại thành một vòng tròn giơ xẻng lên đập mạnh xuống đất, đột nhiên nghe ùm một tiếng lớn, cát bụi bay mù mịt, trung tâm quảng trường sụp xuống, để lộ ra một cái hố to chừng ba bốn trượng. Tiếp theo bốn bề chiếc hố lục tục những giáo chúng đầu đội nón sắt, tay cầm xẻng nhảy ra. Bốn trăm người đó từ dưới đất chui lên khiến ai nấy đều kêu lên kinh hoảng.

Thì ra bốn trăm người đó đã từ xa đào một đường hầm tiến vào, đến trung tâm quảng trường thì đào thành một cái hố lớn, lấy gỗ chống lên, ẩn mình dưới đó. Khi chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên ra lệnh, bốn trăm người đó liền rút các cây chống, đất liền sụp xuống thành một cái hố ngay, các giáo chúng ẩn bên dưới lập tức chui lên. Bao nhiêu xác chó sói, dầu thô, đất cháy xém đều tụt cả vào trong hố. Một trăm giáo chúng lập tức giơ xẻng lên đánh nhứ vào cái hố ba lần. Nếu như có ai rơi vào trong đó muốn nhảy ra chạy thoát, ắt sẽ bị một trăm cái mai đó đánh xuống. Tiếp theo từng xe vôi bột, cát đá đổ vào trong hố, chỉ trong chốc lát đã san bằng mặt đất. Năm trăm chiếc xẻng lên lên xuống xuống trông thật đẹp mắt. Chưởng kỳ sứ lại ra lệnh, năm trăm giáo chúng cùng quay sang Trương Vô Kỵ hành lễ, chỗ giữa quảng trường đổ vôi cát sắt bây giờ phẳng lỳ như gương, so với lúc trước còn rắn chắc hơn nhiều. Mọi người ai nấy đều rõ: ?Nếu như chúng ta đứng ở giữa sân mở lời làm nhục Minh Giáo, lúc này hẳn đã bị chôn sống rồi?.

Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo đại hiển thần uy thao diễn, người chung quanh đứng xem ai nấy đều kinh hoàng thất sắc, biết rằng mấy năm nay Minh Giáo tại các nơi Hoài Tứ Dự Ngạc nổi lên, công thành chiếm đất liên tiếp đánh bại quân Nguyên, nay đem binh pháp chiến trận dùng ở nơi quần hào tụ hội, nhân số đã đông, ước thúc chặt chẽ, tập luyện lớp lang đâu ra đấy, các môn phái giang hồ không thể nào bì được.

Dương Tiêu thu binh rồi, đưa trả lại chiếc giá gỗ cắm các lá cờ cho đồng tử đứng sau lưng, lạnh lùng nhìn Chu Chỉ Nhược, chẳng nói một lời nhưng câu hỏi đã mười phần rõ ràng: ?Chỉ với hơn trăm nam nữ đệ tử của phái Nga Mi, liệu có địch lại mấy nghìn giáo chúng của ta chăng??.

Trên bãi đất dường như ai cũng đoán được tâm sự của người khác, nhất thời không một tiếng động. Một lúc sau, một nhà sư già đứng sau lưng Không Trí mới đứng dậy nói:

- Mới rồi Minh Giáo thao diễn trận pháp hành quân giao chiến trông thì đẹp mắt thật đấy, nhưng không biết có dùng được vào việc gì, thắng được địch hay không, chúng ta không phải tướng quân, nguyên soái từng học qua Tôn Ngô binh pháp, e rằng cũng khó mà nói ...

Mọi người ai nấy đều biết ông ta nói mấy câu đó chẳng qua chỉ để bài bây, cốt để làm giảm uy phong của Minh Giáo, một câu gạt đi công trình của Ngũ Hành Kỳ.

Chu Điên kêu lên:

- Muốn biết có dùng được việc gì hay không thì thật dễ quá, chỉ cần các hòa thượng phái Thiếu Lâm đứng ra thử một chuyến là thấy ngay.

Lão tăng kia cứ lờ đi tiếp tục nói:

- Chúng ta hôm nay là ngày hội của anh hùng thiên hạ, các môn phái đều chỉ mong có dịp thi thố tài năng võ học, vậy cứ theo lời mấy vị thí chủ trước đây đã nêu ra, mọi người tỉ thí xem ai tài nghệ cao thì người ấy thắng. Chúng ta cứ theo cách một chọi một, chứ còn lấy đông thắng ít thì võ lâm không có qui củ nào như thế cả.

Âu Dương Mục Chi nói:

- Ỷ đa vi thắng, quả đúng là trong võ lâm không có qui củ nào như thế, thế còn Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, nước độc, lửa độc có được dùng chăng?

Vị lão tăng kia hơi trầm ngâm rồi nói:

- Người hạ trường tỉ thí nếu có ám khí thì dùng được. Vị bằng hữu nào trên ám khí lại tẩm thêm độc dược, độc thủy thì cũng không thể làm cách nào cấm đoán. Thế nhưng nếu ai đứng bên đánh lén làm hỏng qui củ của đại hội, tất cả chúng ta sẽ cùng xông lên thanh toán ngay. Các vị ý kiến thế nào?

Trong đám đông có đến quá nửa hoan hô khen phải, đều bằng lòng cứ như thế mà theo. Đường Văn Lượng của phái Không Động nói:

- Tại hạ có thêm một lời, bất luận ai đã thắng liên tiếp hai trận đều được lui về nghỉ ngơi để có thể khôi phục nguyên khí nội lực. Nếu không trở thành xa luân chiến, dẫu có tài thông thiên triệt địa, không ai có thể chỉ một hơi đánh thắng từ đầu chí cuối. Hơn nữa, trong các môn phái bang hội, nếu đã có hai người thua trận rồi thì không được cử thêm ai ra nữa. Nếu không trong chúng ta có đến mấy nghìn người, người nào cũng ra đấu một chuyến thì có đến ba tháng cũng không xong. Chùa Thiếu Lâm tuy lương thảo nhiều thật nhưng chắc cũng hết sạch, một trăm năm cũng chưa hồi phục.

Mọi người trong tiếng cười vang đều nhận thấy qui củ này thật là hữu lý. Quần hào Minh Giáo biết rằng Đường Văn Lượng cảm cái ơn Trương Vô Kỵ tiếp xương cho y ở trên Quang Minh Đính, lại cứu mạng nơi chùa Vạn An, trong bụng mong chàng đắc thắng, độc quán quần hùng cho nên mới đưa ra cái qui củ này, nhằm để cho chàng tiết kiệm được khí lực. Bành Oánh Ngọc cười nói:

- Đường lão tam quả là biết đại thể, xem ra phái Không Động hôm nay đã quyết ý giúp chúng ta rồi đó. Bên chúng ta ngoài giáo chủ ra sẽ có vị nào xuất trận?

Các cao thủ Minh Giáo tuy ai cũng nhấp nhổm muốn ra tay tỉ thí, nhưng đều biết rằng việc ngày hôm nay cực kỳ trọng đại, ắt phải hết tâm hết sức, trước phải đánh thắng được quá nửa anh hùng để cho giáo chủ càng ít địch thủ càng tốt, có thế Trương Vô Kỵ mới giữ được nội lực để đi đến thành công. Còn nếu như chỉ thắng được vài người rồi bị người ta đánh bại, để lại gánh nặng cho mình giáo chủ đảm đương, uy danh mình có mất cũng là chuyện nhỏ, làm liên lụy tới bản giáo, Tạ Tốn, và giáo chủ ấy mới là chuyện lớn. Hơn nữa nếu như tự mình nhảy ra xin ứng chiến, có khác nào nói rằng ngoài giáo chủ ra thì mình võ công cao hơn cả, không khỏi thương tổn nghĩa khí anh em thành thử ai cũng lặng yên không người nào lên tiếng.

Chu Điên nói:

- Giáo chủ, Chu Điên tôi chẳng phải sợ chết, có điều võ công thật chẳng tới mức thượng thừa, có ra cũng chỉ thêm xấu mà thôi.

Trương Vô Kỵ nhìn từng người, nghĩ thầm: ? Dương tả sứ, Phạm hữu sứ, Vi Bức Vương, Bố Đại sư phụ, Thiết Quan đạo trưởng ai ai cũng thân mang tuyệt nghệ đều có thể ra được cả. Trong số này thì Phạm hữu sứ võ công hiểu biết rộng rãi hơn hết, dù đối thủ có gia số thế nào, y đều có cách để thủ thắng, vậy mình mời Phạm Dao ra là hơn cả?. Nghĩ thế chàng bèn nói:

- Thật ra các anh em ai ra thì cũng thế thôi, thế nhưng Dương tả sứ đã cùng tôi đánh phá Kim Cương Phục Ma Khuyên rồi, Vi Bức Vương và Bố Đại đại sư bắt sống Hạ Trụ, đều đã trổ tài cả. Lần này bản tọa xin mời Phạm hữu sứ ra tay.

Phạm Dao mừng lắm, khom mình nói:

- Tuân mệnh! Đa tạ giáo chủ đã coi trọng.

Quần hào Minh Giáo ai nấy biết rằng Phạm Dao võ công cao cường, không ai nói ra nói vào gì. Triệu Mẫn bỗng nói:

- Phạm đại sư, tôi cầu ông một việc, liệu có bằng lòng không?

Phạm Dao nói:

- Quận chúa có sai bảo gì, ắt sẽ tuân theo.

Triệu Mẫn đáp:

- Chuyện rắc rối giữa ông với Không Trí đại sư của phái Thiếu Lâm chưa giải quyết xong, nếu như ông đấu với y trước, thắng bại ra sao cũng chưa ai đoán trước được, thế nhưng dù có thắng được ông ta thì cũng hết hơi hết sức rồi.

Phạm Dao gật đầu, biết rằng Không Trí thần tăng thành danh đã mấy chục năm, mặt mày nhăn nhăn nhó nhó, tướng như chết yểu thực ra nội ngoại công đã đến mức thượng thừa. Triệu Mẫn nói tiếp:

- Chi bằng ông lên ước định với ông ta, nói rõ ngày sau sẽ lên Đại Đô tới chùa Vạn An hai người một chọi một, quyết định hơn thua.

Dương Tiêu và Phạm Dao cùng kêu lên:

- Diệu kế! Diệu kế!

Họ đều biết rằng nếu Không Trí đã đính ước với Phạm Dao rồi, hôm nay sẽ không thể nào động thủ được, kế đó của Triệu Mẫn khiến Minh Giáo có thể loại trừ được một cường địch.

Lúc này trong các lều chung quanh, các anh hùng các môn phái, bang hội đang chụm đầu bàn tính, cử người trong bản phái ra chiến đấu. Có mấy chỗ nghe tiếng người cãi vã, đủ rõ ý kiến không phải ai cũng giống ai.

Phạm Dao đi đến trước lều chủ của phái Thiếu Lâm, ôm quyền nói với Không Trí:

- Không Trí đại sư, ông có gan lên lại chùa Vạn An ở Đại Đô một lần nữa chăng?

Không Trí nghe nói đến chùa Vạn An, là nơi trong đời ông ta hết sức nhục nhã, những nếp nhăn trên mặt dúm lại, đôi mắt nhỏ bé chiếu ra lấp lánh, nói:

- Để làm gì?

Phạm Dao đáp:

- Tôi và ông hai người gây thù chuốc oán nơi chùa Vạn An, thì cũng sẽ ở chùa Vạn An kết thúc. Ông Không Trí đại sư đức cao vọng trọng, còn tại hạ chẳng qua chỉ có hư danh, hôm nay mình đấu với nhau, nếu như ông thắng được tôi, trên giang hồ sẽ bảo rồng thiêng ăn hiếp con rắn đất, đại sư vì ở đất nhà mà lợi thế. Nếu như tại hạ may mắn hơn được nửa chiêu một thức, bọn vô tri lại thêm mắm thêm muối, bảo là khổ đầu đà lên Thiếu Lâm đánh bại đệ nhất cao thủ của nhà chùa. Nếu đại sư không ngại tức cảnh sinh tình, năm nay rằm tháng tám, tết Trung Thu, tại hạ sẽ đến chùa Vạn An thỉnh giáo vài chiêu tuyệt học.

Không Trí đối với võ công của Phạm Dao vốn cũng có mấy phần e dè, huống chi trong chùa đang có đại biến, thực chẳng bụng dạ nào cùng y động thủ, lại thêm bị khích như thế, lập tức gật đầu nói:

- Được, tháng tám Trung Thu năm nay, mình sẽ gặp nhau ở chùa Vạn An, không gặp thì không về.

Phạm Dao lại vòng tay thi lễ rồi lùi về. Y đi được bảy tám bước, bỗng nghe Không Trí từ tốn nói:

- Phạm thí chủ, hôm nay ngươi nhất định cứu cho bằng được Kim Mao Sư Vương nên không muốn động thủ với ta, có phải vậy chăng?

Phạm Dao giật mình, đứng lại nghĩ thầm: ?Thì ra lão hòa thượng này nhìn thấu tim đen ta?. Y quay đầu lại cười hô hố, nói:

- Tại hạ không chắc có thể thắng được đại sư.

Không Trí mỉm cười nói:

- Lão nạp cũng không chắc thắng được thí chủ.

Hai người nhìn nhau gật đầu, đột nhiên trong lòng nảy ra một mối cảm tình anh hùng trọng anh hùng, hảo hán nể hảo hán.

[1] Nguyên văn Kim Dung dùng chữ ?yêm? là đại danh từ ngôi thứ nhất, tiếng địa phương vùng Sơn Đông để tự xưng cũng tương tự như tiếng ?qua? của miền Nam hay ?tui? của miền Trung. Các độc giả có ý kiến gì xin cho biết?

[2] Bản mới Cái Bang không giao chiến với Minh Giáo trong trận cuối cùng. Kim Dung tiên sinh quên không sửa đoạn này???

[3] Tự mình thiện lấy mình

[4] đạn nổ như sấm sét

[5] tiếng tự xưng

[6] nhất vũ bất năng gia, dăng trùng bất năng lạc

[7] nguyên là chữ niêm (adherence) không phải hiểu theo nghĩa đen mà là ta thuận chiều, người nghịch chiều (ngã thuận nhân bối vị chi niêm) ? When I follow the opponent, and he becomes backed up, it is called ?nien?

[8] do niêm nhi hư, tùy khúc tựu thân, mạo điệt ngự chúng chi hình, anh hùng sở hướng vô địch. Đây nguyên là những câu trích trong Thái Cực Quyền Luận của Vương Tông Nhạc (Wang Tsung-yueh) Benjamin Pang Jeng Lo trong The Essence of T?ai Chi Ch?uan (North Atlantic Books, Richmond, Calif. 1979) dịch như sau: (So light an object as) a feather cannot be placed, and (so small an insect as) a fly cannot alight on any part of the body... To become a peerless boxer results from this... The spectacle of an old person defeating a group of young people, how can it be due to swiftness? (pp 35-37)

Hồi 38

QUÂN TỬ KHẢ KHI CHI DĨ PHƯƠNG

Dao đồ tể bỏ xuống,

Vạn ác đều tiêu tan.

Bờ mê và bến giác,

Cách nhau chỉ một gang.

Trên quảng trường tiếng người im lặng dần, lão tăng trong Đạt Ma Đường đứng sau lưng Không Trí lại dõng dạc nói:

- Chúng ta cứ theo đúng qui củ các vị anh hùng đã định ra, bắt đầu tỉ võ. Đao thương quyền cước không có mắt, nếu có chết ai cũng là do số trời. Môn phái bang hội nào võ công cao cường nhất còn lại sau cùng thì đao Đồ Long và Tạ Tốn sẽ thuộc về người đó.

Trương Vô Kỵ lông mày hơi nhíu lại, nghĩ thầm: ?Lão hòa thượng này sợ người ta ra tay không đủ mạnh, oán cừu các phái kết không sâu, bụng dạ đâu có từ bi như Không Kiến, Không Văn các vị thần tăng??.

Vì đã qui định mỗi người đấu xong hai trận thì được nghỉ ngơi nên đánh trước đánh sau không mấy khác biệt, lập tức có người đứng ra giữ trận, lại có người tiến lên khiêu chiến, chỉ một thoáng đã có sáu người chia thành ba cặp đấu với nhau. Triệu Mẫn từ khi ở chùa Vạn An tập luyện tuyệt nghệ của sáu đại môn phái đến nay, tuy chưa đến đâu nhưng kiến thực quả rộng rãi hơn người, đứng giữa Trương Vô Kỵ và Phạm Dao, nghị luận nho nhỏ về võ công của sáu người này, đoán ai thắng ai bại, nói năng rất mạch lạc đầu đuôi. Chỉ chừng thời gian uống một chén trà, trong ba đôi đã có hai đôi phân thắng bại, chỉ còn một cặp vẫn dây dưa, rồi lại có người khiêu chiến với những kẻ thắng, trở thành sáu người ba đôi nữa đấu tiếp. Hai đôi mới đấu dùng binh khí, kẻ lên người xuống, mười phần thì đến tám chín có máu chảy mới phân được thua.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Nếu cứ đấu như thế này, các bang hội môn phái thể nào cũng tổn thương hòa khí rất nặng, dẫu không ai bỏ mạng nhưng phái nào thua rồi cũng sẽ tìm cách báo thù hóa ra thành một tai họa tự tàn sát lẫn nhau thật ghê gớm??.

Trên đấu trường, Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang đánh ông già lùn của phái Hoa Sơn một chưởng hộc máu tươi, ông già cao liền ngoạc mồm chửi:

- Đồ ăn mày thối tha, đồ ăn mày bẩn thỉu!

Y tung mình nhảy ra toan khiêu chiến với Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang. Ông già lùn nắm tay sư đệ kéo lại nói nhỏ:

- Sư đệ, ngươi đánh không lại y đâu, chi bằng mình cố nhịn một phen.

Ông già cao bực bội nói:

- Đánh không lại cũng cứ đánh.

Tuy miệng nói thế, kỳ thực y biết rằng sư huynh võ nghệ chiêu số cũng như mình nhưng tu tập cao siêu hơn nhiều, sư huynh đã bại trận, thì y không thể nào thắng được, bị ông già lùn giữ lại bèn luôn mồm chửi bới quay trở về lều.

Kế đó Chấp Pháp trưởng lão lại thắng luôn chưởng môn phái Mai Hoa Đao, thắng luôn hai trận, trong tiếng hoan hô như sấm động của đệ tử Cái Bang, đắc ý dương dương quay về chỗ.

Cứ như thế ta đi ngươi tới, trên quảng trường đấu luôn hai giờ, mặt trời đã ngả về tây, người xuất chiến càng lúc võ công càng thêm mạnh. Bao nhiêu người vốn hùng tâm bừng bừng, nhất định phen này tại anh hùng đại hội nở mày nở mặt, tỏ lộ uy phong thế nhưng thấy võ công của người khác mới biết mình đúng là ếch ngồi đáy giếng, có lên Thái Sơn mới biết trời cao đất rộng, thành ra không dám xuất trường nữa.

Đến khoảng giờ thân, Chưởng Bát long đầu của Cái Bang ra khiêu chiến, đánh cho Bành Tứ Nương của Bài Giáo ở Tương Tây một trận tơi bời. Lưng Bành Tứ Nương bị rách một mảng lớn, xấu hổ quá vội đi xuống. Chưởng Bát long đầu nhìn phái Nga Mi, cười khẩy nói:

- Đàn bà con gái có gì là chân thực bản lãnh đâu? Chẳng ỷ vào đao kiếm sắc bén, thì cũng nhờ ám khí quái lạ, vị Bành Tứ Nương này luyện đến mức đó kể cũng không phải dễ.

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ với Tống Thanh Thư mấy câu, Tống Thanh Thư gật đầu, chậm rãi bước ra, chắp tay chào Chưởng Bát long đầu nói:

- Long đầu đại ca, để tôi lãnh giáo cao chiêu của đại ca.

Chưởng Bát long đầu vừa thấy Tống Thanh Thư, đã giận đến xanh cả mặt, lớn tiếng nói:

- Họ Tống kia, ngươi là đưa gian tặc nhận lệnh của Trần Hữu Lượng trà trộn vào trong Cái Bang. Việc giết chết Sử bang chủ, ngươi chắc cũng có dự phần, hôm nay ngươi còn dám vác mặt ra gặp ta ư?

Tống Thanh Thư lạnh lùng đáp:

- Trên giang hồ việc trà trộn vào hang ổ địch thám thính cơ mật cũng là chuyện thường, ai bảo bọn ăn mày chúng bay có mắt như mù, không biết rõ bản lai diện mục của Tống đại gia?

Chưởng Bát long đầu chửi toáng lên:

- Đến như phái Võ Đương là bố đẻ ra ngươi, ngươi còn phản bội thì có việc gì ngươi không làm? Ngươi với cha thì bất hiếu, tương lai với vợ rồi cũng bất nghĩa. Phái Nga Mi thể nào rồi cũng tan tành vì ngươi thôi.

Tống Thanh Thư tức đến mặt đanh lại không còn chút máu nói:

- Ngươi giở rắm giở thối ra đã xong chưa nào?

Chưởng Bát long đầu không thèm nói nữa, vù một tiếng đánh ngay ra một chưởng. Tống Thanh Thư lùi lại tránh được, giơ tay phất một cái dùng Kim Đính Miên Chưởng của phái Nga Mi chống đỡ. Chưởng Bát long đầu giận y trà trộn vào Cái Bang nên chiêu nào cũng dùng sát thủ, đánh thí mạng ác độc dị thường không phải chỉ là tỉ võ so tài như những người khác.

Chưởng Bát long đầu trong Cái Bang địa vị chỉ dưới bang chủ và hai Truyền Công, Chấp Pháp trưởng lão tài nghệ quả thực không phải bình thường. Tống Thanh Thư tuy là một nhân vật lỗi lạc trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đương nhưng vì mới tập luyện Kim Đính Miên Chưởng nên chưa thuần thục thành thử những chỗ tinh vi ảo diệu trong pho chưởng pháp này không thi thố được. Đấu đến bốn năm chục hiệp tới lúc gặp hiểm nguy y đành sử dụng Miên Chưởng của phái Võ Đương ra sách giải. Đó là võ công y học từ khi còn nhỏ đã từng luyện tập hơn hai chục năm, đầu nghĩ sao tay làm vậy cho nên uy lực rất lớn, tuy bề ngoài trông cũng hao hao như Kim Đính Miên Chưởng của phái Nga Mi nhưng phép vận kình sách chiêu hoàn toàn khác hẳn.

Người đứng xem không ai rõ chỗ đó lại tưởng y dần dần lấy lại uy thế nhưng Ân Lê Đình càng coi càng giận, kêu lên:

- Thằng nhãi Tống Thanh Thư kia, ngươi quả thật mặt dầy. Đã phản bội phái Võ Đương sao lại còn dùng công phu của Võ Đương để cứu mạng? Ngươi không cần cha ngươi nữa sao vẫn còn dùng công phu võ học cha ngươi truyền cho ngươi?

Tống Thanh Thư mặt đỏ bừng quát lên:

- Công phu của Võ Đương có gì ghê gớm đâu? Coi cho kỹ này!

Tay trái y đột nhiên chộp vào mặt Chưởng Bát long đầu, xoay qua trái rồi đảo ngược qua phải, biến hóa liên tiếp bảy tám chiêu hoa dạng, bất thần tay phải vươn ra, nghe bộp một tiếng, năm ngón tay cắm luôn vào sọ Chưởng Bát long đầu. Người bên ngoài còn đang ngạc nhiên, thấy năm ngón tay y máu me đầm đìa, còn Chưởng Bát long đầu ngã lăn ra, chết ngay lập tức. Tống Thanh Thư cười nhạt nói:

- Phái Võ Đương có công phu đó chăng?

Trong khi mọi người còn la ó kinh hãi, tám người trong Cái Bang đã nhảy ra, hai người đỡ thi thể Chưởng Bát long đầu, còn sáu người kia xông vào tấn công Tống Thanh Thư. Sáu người đó đều là hảo thủ của Cái Bang, trong đó bốn người tay cầm binh khí, khiến cho Tống Thanh Thư lâm vào thế cực kỳ nguy cấp.

Một hòa thượng to béo đứng sau lưng Không Trí đại sư liền quát lên:

- Các vị trong Cái Bang đông người đánh một, chẳng làm hỏng qui củ anh hùng đại hội hôm nay hay sao?

Chấp Pháp trưởng lão liền kêu lên:

- Các ngươi lui xuống, để bản tọa báo thù cho Chưởng Bát long đầu.

Các đệ tử Cái Bang liền nhảy lùi về phía sau, khiêng xác Chưởng Bát long đầu về lều của mình, ai nấy phẫn nộ, hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư. Quần hùng ai nấy nghĩ thầm: ?Tuy nói rằng hai bên tỉ thí chết ai nấy chịu nhưng tên họ Tống này ra tay quả là tàn độc quá?.

Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm lỗ hổng trên vai Triệu Mẫn cùng cái chết thảm khốc của vợ chồng Đỗ Bách Đương đêm hôm nọ nơi căn nhà tranh, run run hỏi:

- Dương tả sứ, sao phái Nga Mi lại có môn võ công tà độc như thế nhỉ?

Dương Tiêu lắc đầu nói:

- Thuộc hạ chưa thấy loại công phu này bao giờ. Thế nhưng sáng phái tổ sư của phái Nga Mi có ngoại hiệu Tiểu Đông Tà, võ công nếu như có ba phần tà khí cũng không lấy gì làm lạ.

Hai người còn đang nói chuyện thì Tống Thanh Thư và Chấp Pháp trưởng lão đã xông vào đánh nhau. Chấp Pháp trưởng lão thân hình bé nhỏ nhưng hành động cực kỳ nhanh nhẹn, mười ngón tay như móc như chùy, dùng Ưng Trảo Công đối phó với Tống Thanh Thư, xem ra sử dụng chỉ công cốt để chộp năm ngón tay vào thiên linh cái Tống Thanh Thư báo thù cho Chưởng Bát long đầu. Ban đầu Tống Thanh Thư cũng sử dụng Kim Đính Miên Chưởng để đấu với ông ta, đến lúc kịch liệt, Chấp Pháp trưởng lão quát lên một tiếng:

- Tiểu cẩu tặc!

Năm ngón tay trái chộp vào đầu Tống Thanh Thư, đang toan sử kình ấn vào thì Tống Thanh Thư đã vươn tay trái ra, nghe cách một tiếng, năm ngón tay y đã cấu vào yết hầu Chấp Pháp trưởng lão.

Chấp Pháp trưởng lão ngã nhào về trước, kình lực tay trái chưa giảm, cắm sâu vào mặt đất, máu me vung vãi đầy mặt đất lập tức chết liền. Chu Chỉ Nhược giơ tay ra hiệu, tám nữ đệ tử phái Nga Mi cầm trường kiếm nhảy ra, từng đôi dựa lưng vào nhau đứng chắn bốn góc, vây Tống Thanh Thư vào giữa, Cái Bang đệ tử nếu như xông lên tấn công thì sẽ thành thế hỗn chiến ngay.

Một lão tăng thuộc Đạt Ma Đường liền sang sảng nói:

- Ba mươi sáu đệ tử của La Hán Đường đợi lệnh.

Ông ta vỗ tay ba cái, ba mươi sáu nhà sư Thiếu Lâm mặc áo vàng liền nhảy ra, mười tám người cầm thiền trượng, mười tám người cầm giới đao, kẻ trước người sau, chia ra khắp nơi, trông tưởng như trận pháp mà lại không phải trận pháp, trấn giữ các nơi hiểm yếu.

Nhà sư đó lại tiếp:

- Tuân theo pháp chỉ của Không Trí sư thúc, ba mươi sáu đệ tử La Hán Đường giám quản qui củ anh hùng đại hội. Hôm nay đại hội thi tài tỉ võ, nếu có ai ỷ đông hiếp ít thì là kẻ địch chung của thiên hạ võ lâm. Phái Thiếu Lâm chúng tôi là vai chủ, bắt buộc phải duy trì công đạo. Ba mươi sáu đệ tử sẽ giám sát chặt chẽ, bất luận ai phạm phải qui củ đều sẽ giết ngay tại chỗ, quyết không dung tình.

Ba mươi sáu đệ tử Thiếu Lâm lớn tiếng đáp ứng, mắt đăm đăm nhìn vào giữa quảng trường. Kể từ lúc đó, phái Nga Mi đã phòng bị trước lại thêm phái Thiếu Lâm giám thị ở bên cạnh, các đệ tử Cái Bang tuy ai nấy đều vừa buồn vừa giận nhưng không còn dám xông lên động thủ, chỉ còn nước hung hăng chửi bới, rồi lên khiêng thi thể Chấp Pháp trưởng lão về.

Triệu Mẫn quay sang nói với Phạm Dao:

- Khổ đại sư, không ngờ phái Nga Mi lại có tuyệt chiêu như vậy, hôm trước ở chùa Vạn An, Diệt Tuyệt sư thái thà chết không chịu ra khỏi tháp tỉ võ có lẽ là vì thế đó.

Phạm Dao lắc đầu, trong lòng cố suy nghĩ làm sao sách giải được chiêu này. Y thẫn thờ một hồi, đột nhiên quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ, thuộc hạ thỉnh giáo một lộ võ công.

Y để hai tay lên bàn, ngón tay trỏ và ngón tay cái bên trái, một trước một sau, cực kỳ linh hoạt lên lên xuống xuống, nói nhỏ:

- Hai tay tôi liên tiếp tấn công giữ riệt lấy tay tiểu tử đó, vận nội lực chấn gãy khớp xương tay, chỉ lực của y tuy lợi hại thật nhưng không thể thi triển kỹ thuật đó được nữa.

Trương Vô Kỵ cũng đưa hai ngón tay trỏ, bên trái móc lại, bên phải nâng lên, nói:

- Cẩn thận đừng để y dùng chỉ đâm vào cánh tay.

Phạm Dao gật đầu đồng ý nói:

- Thuộc hạ sẽ dùng cầm nã thủ bắt lấy cổ tay y, dùng mười tám thế Uyên Ương liên hoàn đá vào hạ bàn.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tấn công mạnh mười tám chiêu liền khiến y không kịp thở.

Hai người bốn ngón tay lên xuống, nhanh nhẹn tuyệt luân kẻ đánh người đỡ. Phạm Dao đột nhiên mỉm cười:

- Mấy chiêu đó của giáo chủ quá ư thần diệu, tiểu tử đó trừ chỉ lực ra, võ công dẫu sao cũng chỉ có hạn, mấy chiêu đó khiến y không cách nào thi triển được.

Trương Vô Kỵ mỉm cười:

- Y không thi triển được ba chiêu đó thì Phạm hữu sứ dĩ nhiên thắng rồi.

Ngón tay trỏ bên trái của chàng liền đảo một vòng, ngón tay trỏ bên phải đột nhiên đâm luôn vào giữa móc lấy ngón tay Phạm Dao, mỉm cười yên lặng. Phạm Dao ngạc nhiên, chợt vui mừng:

- Đa tạ giáo chủ chỉ điểm, thuộc hạ thật là bội phục. Bốn chiêu đó thật ngoài sức tưởng tượng, mở mắt cho thuộc hạ, tiếc thay tôi không được bái giáo chủ làm thầy.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đây là Loạn Hoàn Quyết trong thái cực quyền pháp do thái sư phụ tôi truyền cho, yếu chỉ nằm ở tay trái đảo mấy vòng. Gã họ Tống kia tuy xuất thân từ Võ Đương nhưng chắc y chưa hiểu được chỗ tinh vi đó đâu.

Phạm Dao đã sẵn có chủ định biết đường chế ngự được Tống Thanh Thư, tuy nhiên Tống Thanh Thư mới thắng luôn hai trận, theo qui củ có thể lui xuống nghỉ ngơi, phải đợi y xuất trường lần tới mới tiến lên khiêu chiến được.

Triệu Mẫn mỉm cười, vẻ thật nhí nhảnh đi qua phía bên kia. Trương Vô Kỵ chạy theo hạ giọng hỏi:

- Mẫn muội có chuyện gì mà vui thế?

Đôi má trắng như ngọc của Triệu Mẫn ửng hồng, cúi đầu nói:

- Chàng truyền cho Phạm hữu sứ mấy chiêu võ công, chỉ giúp chấn gãy cánh tay Tống Thanh Thư, sao chàng không dạy giết y luôn thể?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tống Thanh Thư tuy làm nhiều chuyện bất nghĩa nhưng dẫu sao cũng là đứa con duy nhất của Tống đại sư bá, nên để chính đại sư bá phân xử thì hơn. Nếu anh bảo Phạm hữu sứ lấy mạng y e rằng không phải với đại sư bá.

Triệu Mẫn cười nói:

- Chàng giết y, Chu gia tỉ tỉ sẽ thành quả phụ, gá lại duyên xưa chẳng hay hơn ư?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Thế em có để cho anh lấy không?

Triệu Mẫn mỉm cười nói:

- Thiếp chỉ mong có bấy nhiêu để đến khi chàng thay lòng đổi dạ, cô nàng sẽ khoét năm cái lỗ trên ngực kẻ bạc tình.

Trong khi Trương Vô Kỵ trao đổi chiêu thức với Phạm Dao thì Tống Thanh Thư đã được tám nữ đệ tử phái Nga Mi hộ vệ quay trở về lều. Mọi người thấy y dùng năm ngón tay giết hai người thật là kinh tâm động phách, ai nấy nổi da gà, không người nào nghĩ đến chuyện đứng ra mạo hiểm. Một lúc sau, Tống Thanh Thư lại nhẹ nhàng tiến ra giữa sân, ôm quyền nói:

- Tại hạ nghỉ ngơi đã xong, không biết có vị anh hùng nào lên dạy bảo chăng?

Phạm Dao đáp lời:

- Để ta lên lãnh giáo tuyệt học của phái Nga Mi.

Y vừa toan nhảy ra, đột nhiên có một bóng màu tro thấp thoáng, một người đã đứng ngay trước mặt Tống Thanh Thư, quay sang nói với Phạm Dao:

- Phạm đại sư, xin ông nhường tôi một chuyến.

Người đó khí độ ngưng trọng, hai chân không phải chữ đinh cũng không phải chữ bát, tay ôm theo hình thái cực chính là Võ Đương nhị hiệp Du Liên Châu.

Phạm Dao thấy người hớt tay trên mình lại chính là sư bá của giáo chủ nên không tiện tranh giành chỉ nói:

- Phạm mỗ hôm nay may mắn được xem thần kỹ của Du nhị hiệp phái Võ Đương.

Tống Thanh Thư từ bé vẫn sợ vị sư thúc này thấy ông ta nín hơi vận khí, nghiêm trang thủ thế biết việc hôm nay chẳng phải là chuyện tập luyện giao đấu như hồi còn trên núi Võ Đương mà là chuyện một sống một chết, tuy y đã học được một loại võ công lạ lùng nhưng vẫn không khỏi khiếp đảm.

Du Liên Châu vòng tay nói:

- Mời Tống thiếu hiệp.

Ông hành lễ mà miệng xưng hô như thế rõ ràng cho đối phương biết ông không dám coi thường Tống Thanh Thư nhưng cũng không còn chút tình hương lửa gì nữa. Tống Thanh Thư không nói một lời, khom lưng chào. Vù một cái Du Liên Châu đã đánh ra một chưởng.

Du Liên Châu thành danh đã trên ba mươi năm thế nhưng chính mắt thấy ông ta hiển lộ thân thủ thì trong võ lâm chẳng có mấy người, mãi đến hôm nay mới thấy ông dùng nhu kình trên hai bàn tay hóa giải thế mãnh liệt Tích Lịch Lôi Hỏa Đạn, công lực tinh thuần như vậy ai nấy đều tự biết mình không sao bằng được. Trên giang hồ ai cũng biết yếu chỉ võ công của phái Võ Đương là dùng nhu khắc cương, chiêu số tuy chậm rãi nhưng biến hóa thật tinh vi ngờ đâu Du Liên Châu hai chưởng đánh như gió cuốn thực là nhanh nhẹn, chỉ trong nháy mắt Tống Thanh Thư đã bị trúng một đá một chưởng tại hông và đùi.

Tống Thanh Thư hết sức kinh hãi: ?Thái sư phụ và gia gia đều muốn ta lên làm chưởng môn đời thứ ba của phái Võ Đương, không có võ công gì mà lại giữ kín không truyền thụ. Pho quyền cước nhanh như thế này của Du nhị thúc, chiêu thức ta đều đã học cả rồi nhưng xuất chiêu sao lại nhanh đến thế, chẳng phải là đại kỵ của bản môn hay sao? Đây ngờ lại ghê gớm đến như thế?. Y muốn dùng công phu chỉ lực Chu Chỉ Nhược dạy cho nhưng bị Du Liên Châu ép cho đến không kịp thở thành thử chỉ liên tiếp lùi bước, hết sức bảo vệ môn hộ.

Mọi người chăm chú nhìn hai người đấu với nhau, tuy thấy Du Liên Châu chiếm được thượng phong nhưng khi nãy Tống Thanh Thư giết chết Cái Bang nhị lão, cũng đều là phản bại vi thắng, đang yếu thế đột nhiên tung sát thủ, việc đó không phải là không có thể xảy ra lần nữa. Du Liên Châu càng đánh càng nhanh nhưng mỗi chiêu mỗi thức đều thật rõ ràng, chẳng khác gì một ca sĩ đại tài, hát đến chỗ thật nhanh nhưng mỗi tiếng mỗi nốt đều vẫn đâu ra đấy, không một chút mơ hồ lẫn lộn.

Quần hùng lục tục đứng lên, những người đứng sau trèo cả lên bàn lên ghế, ai nấy tấm tắc:

- Võ Đương Du nhị hiệp danh bất hư truyền, tấn công nhanh đến không kịp thở mà chiêu thức không trùng nhau lần nào.

Thế nhưng Tống Thanh Thư là đệ tử đích truyền của phái Võ Đương, bao nhiêu tinh vi biến hóa trong quyền cước của Du Liên Châu y đã từng học qua, thế nhưng đánh nhanh như thế thì bây giờ mới gặp lần đầu. Trên quảng trường bụi vàng bay tung, thành một đám mây mù, bao phủ cả Du Tống hai người.

Bông nghe một tiếng bộp thật kêu, hai chưởng đụng nhau, cả Du Liên Châu lẫn Tống Thanh Thư đều bật ngược về sau, đám bụi cũng chia thành hai. Du Liên Châu chân chưa vững đã lại tung mình nhảy tới.

Ân Lê Đình lo lắng cho an nguy của sư huynh, nhích dần đến bên đấu trường, tay cầm cán kiếm, mắt chăm chăm nhìn vào hai người đánh nhau. Lúc này Tống Thanh Thư sống chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc nên hết sức chống đỡ, không còn nghĩ gì tới chuyện hai môn phái khác biệt, sử dụng toàn là công phu Võ Đương luyện từ tấm bé. Hai người quyền cước chiêu thức, Ân Lê Đình đều thuộc nằm lòng, biết là chiêu nào cũng đều là sát thủ trí mạng, trong bụng so với người ngoài còn bồn chồn hơn nhiều. Thế nhưng thấy Du Liên Châu mỗi lúc một thắng thế, nếu không vì phải đề phòng Tống Thanh Thư đột nhiên giở đòn sát thủ đưa năm ngón tay chộp thành năm cái lỗ nên phải hết sức dè dặt thì đã lấy mạng y rồi.

Trương Vô Kỵ cũng lo lắng, trong tay cầm sẵn hai thanh thánh hỏa lệnh, nếu Du Liên Châu bị nguy hiểm đến tính mạng thì chàng sẽ không còn kể gì đến qui củ đại hội đành phải ném ra cứu sư bá.

Chỉ thấy bụi bay mù mỗi lúc một cao, Tống Thanh Thư đột nhiên năm ngón tay trái tung ra, chộp vào đầu vai phải của Du Liên Châu. Du Liên Châu trong hơn một trăm chiêu vừa qua vẫn đợi y thi triển ngón này, khi Tống Thanh Thư ra tay giết hại hai trưởng lão Cái Bang, ông đã nhìn rõ, nếu như không vì thấy trước lần đầu tiên gặp y dùng sát thủ thì dẫu không chết cũng bị thương nặng. Thế nhưng ông sớm biết trước nên trong bụng đã có phương pháp ứng phó rồi.

Tống Thanh Thư luyện môn trảo pháp này chưa bao lâu, biến hóa không được nhiều, lúc này lại giở ra, so với hai lần trước cũng chỉ đại đồng tiểu dị. Du Liên Châu vai phải nghiêng qua, tay trái vung lên xoay một vòng.

Triệu Mẫn và Phạm Dao hai người nhịn không nổi cùng kinh ngạc kêu lên ?Ồ? một tiếng, hai vòng Du Liên Châu vừa hoa lên chính là chiêu Loạn Hoàn Quyết trong thái cực quyền mà Vô Kỵ vừa chỉ điểm cho Phạm Dao. Triệu Mẫn và Phạm Dao vừa thấy thế biết ngay Tống Thanh Thư đã lọt vào bẫy rồi, quả nhiên tiếng ?Ồ? chưa dứt, năm ngón tay bàn tay phải của Tống Thanh Thư đã đâm vào yết hầu Du Liên Châu. Trương Vô Kỵ giận quá, chửi thầm: ?Đáng chết lắm, đáng chết lắm!?. Chấp Pháp trưởng lão của Cái Bang chết vì trảo này của y, Tống Thanh Thư cũng giở độc thủ ra để đối phó với sư thúc.

Thế nhưng hai cánh tay của Du Liên Châu vẫn một xoay thành vòng tròn, một kéo lại, sử dụng Toàn Phiên, Loa Toàn[1] hai kình lực trong Lục Hợp Kình, cuốn chặt lấy hai cánh tay Tống Thanh Thư, cách cách hai tiếng, khớp xương tay của y đã bị bẻ gãy từng tấc rồi. Du Liên Châu quát lên:

- Hôm nay ta báo thù cho thất đệ.

Hai cánh tay ông chập vào, dùng chiêu Song Phong Quán Nhĩ, bàn tay sử dụng miên kình vỗ vào hai bên mang tai Tống Thanh Thư, đầu y vỡ ngay lập tức.

Thân hình y chưa kịp ngã xuống, Du Liên Châu đang toan đá thêm một cước lấy mạng y ngay tại trận, bỗng một bóng xanh thấp thoáng, một sợi trường tiên[2] đánh luôn vào mặt. Du Liên Châu vội vàng nhảy vọt về sau tránh được, sợi dây đó nhanh nhẹn tuyệt luân liên tiếp ra chiêu, chính là chưởng môn phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược đứng ra báo thù cho chồng.

Du Liên Châu vội vàng lùi lại ba bước, tiên pháp của Chu Chỉ Nhược vô cùng biến ảo chỉ ba chiêu đã vây ông ta vào giữa, đột nhiên rung một cái, thu roi lại, tay trái chộp lấy ngọn tiên, lạnh lùng nói:

- Lúc này ta lấy mạng ông e rằng không phục. Mau lấy binh khí ra!

Soạt một tiếng Ân Lê Đình đã rút kiếm ra, xông lên nói:

- Để ta lên tiếp cao chiêu của Chu cô nương.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng lườm ông ta, quay sang coi thương thế Tống Thanh Thư, thấy y hai mắt đã lồi ra, thất khiếu[3] ứa máu, nằm rũ dưới đất, xem chừng khó sống được. Ba nam đệ tử phái Nga Mi liền tiến lên khiêng y về.

Chu Chỉ Nhược quay lại chỉ vào Du Liên Châu nói:

- Ta giết ông trước rồi giết họ Ân kia cũng không muộn.

Du Liên Châu vừa rồi trổ hết toàn lực vậy mà không làm sao thoát ra được vòng vây của nhuyễn tiên, trong lòng thật là hoảng sợ. Ông lo cho sư đệ, nghĩ thầm: ?Để ta đấu với cô ta một phen, dẫu có chết vì cây roi này thì lục đệ cũng nhìn ra được mối manh của tiên pháp. Khi đó còn may ra trong cái chết tìm ra đường sống?. Ông vói ta lại nhận lấy thanh kiếm trong tay Ân Lê Đình. Ân Lê Đình cũng thấy cục thế thật là nguy hiểm, đến như sư huynh võ công đứng hàng thứ nhì trong phái Võ Đương cũng còn thấy khó tránh được ngọn roi của nàng ta. Hai sư huynh đệ cùng một ý nghĩ, dẫu cho thân mình chết dưới tay địch cũng chỉ mong người kia nhìn ra được yếu chỉ của phép đánh roi, thành thử trù trừ không muốn giao kiếm lại, nói:

- Sư ca, để tiểu đệ hạ trường cho.

Du Liên Châu quay nhìn sư đệ, mấy chục năm qua cùng nhau học nghệ, tình thân khác gì tay chân, trong đầu nảy ra một ý nghĩ nhanh như ánh chớp, nhớ tới Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn tự sát, Mạc Thanh Cốc thảm tử, Võ Đương thất hiệp nay còn có bốn, hôm nay xem ra hai trong bốn người sẽ bỏ mạng nơi đây. Ân lục đệ võ công cao siêu thật nhưng tính tình lại thật yếu mềm, nếu như mình chết trước, tâm thần y sẽ đại loạn, chưa chắc đã trổ được tài có bỏ mạng cũng không ích lợi gì. Còn nếu như lục đệ chết trước, ta nhìn ra được chỗ tinh nghĩa trong tiên pháp của cô gái này, may ra còn có thể cùng nàng ta đồng qui ư tận?. Nghĩ thế ông gật đầu:

- Lục đệ, cố giữ thêm được lúc nào hay lúc ấy.

Ân Lê Đình nghĩ đến vợ là Dương Bất Hối đang mang thai, đưa mắt nhìn Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ nhưng lại gạt ngay đi: ?Ta chết đi rồi, Bất Hối và con ta sẽ có người lo lắng, việc vì phải dặn dò tỉ tê như đàn bà thế làm gì?. Nghĩ vậy ông giơ kiếm lên, mắt nhìn vào mũi kiếm, tâm thần tập trung, tiếp đến ngực thu vào, lưng nhô ra, vai chìm xuống, khuỷu tay lơi[4], nói:

- Xin chưởng môn nhân ra chiêu.

Tuy tuổi tác Ân Lê Đình lớn hơn Chu Chỉ Nhược nhiều nhưng lúc này nàng là chưởng môn phái Nga Mi nên ông không để mất lễ số. Du Liên Châu thấy sư đệ dùng thức mở đầu trong thái cực kiếm để nghinh địch biết Ân Lê Đình dùng tuyệt học của sư môn để chống với cường địch, nên chậm rãi lui về phía sau.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Xem chiêu đây.

Ân Lê Đình biết đối phương ra chiêu nhanh như chớp, nếu bị nàng chiếm được tiên cơ sẽ khó mà lật ngược thế cờ, cho nên chân trái tiến lên, kiếm đưa sang bên trái, dùng chiêu Tam Hoàn Sáo Nguyệt, chiêu đầu hư hư thực thực, dùng tay trái cầm kiếm tấn công địch, mũi kiếm lấp lánh, phát xuất tiếng gió vù vù. Người đứng ngoài nhịn không nổi cất tiếng hoan hô vang đội.

Chu Chỉ Nhược nghiêng người tránh qua một bên, Ân Lê Đình liền dùng thế Đại Khôi Tinh và Yến Tử Sao Thủy, trường kiếm ở trên không vung lên thành một vòng tròn, tay phải đâm kiếm quyết ra, cũng phát ra tiếng vụt vụt. Chu Chỉ Nhược uốn chiếc eo thon, tránh được cả hai thế nói:

- Ân lục hiệp, ta nhường ông ba chiêu để trả lại ân tình năm xưa trên núi Võ Đương.

Nàng vừa dứt câu, nhuyễn tiên chẳng khác gì một con linh xà vùng vẫy, nhắm thẳng ngực Ân Lê Đình phóng vào. Ân Lê Đình tránh qua bên trái, chiếc roi đang ở trên không nửa chừng cũng chuyển hướng đuổi theo.

Ân Lê Đình liền dùng chiêu Phong Bãi Hà Diệp, trường kiếm hớt qua, roi kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng nhỏ, Ân Lê Đình thấy hổ khẩu rát lên, suýt nữa thì trường kiếm văng đi mất, trong bụng hết sức kinh hoảng: ?Ta vẫn tưởng nàng ta chiêu số quái dị mà thôi còn nội lực không thể nào bằng ta được, ngờ đâu nội kình y thị cũng kỳ dị không sao tưởng nổi?.

Nghĩ thế ông ngưng thần tập trung ý chí, sử dụng pho thái cực kiếm pháp xoay vòng, bảo vệ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Chiếc nhuyễn tiên trong tay Chu Chỉ Nhược chẳng khác gì một giải lụa tưởng chừng không có một chút trọng lượng nào, thân hình khi đông khi tây, lúc lên lúc xuống, tưởng như bay lượn chung quanh Ân Lê Đình.

Trương Vô Kỵ càng coi càng lấy làm lạ, nghĩ thầm: ?Nàng sử dụng nhuyễn tiên so với ba vị cao tăng Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp hoàn toàn khác hẳn?. Ban đầu chàng tưởng phái Nga Mi có võ công tà môn, lúc này thấy thân thủ nàng biến ảo như quỉ mị, so với Diệt Tuyệt sư thái hoàn toàn không giống chút nào, trong lòng không khỏi e ngại. Phạm Dao bỗng nói:

- Nàng ta giống như quỉ chứ không phải người nữa rồi.

Câu đó đúng ngay tâm sự Trương Vô Kỵ khiến chàng giật mình, nếu trên bãi đất không có ánh sáng chói lòa, cung quanh người đứng đông nghẹt thì chàng đã nghi Chu Chỉ Nhược chết rồi, hồn ma đang cùng Ân Lê Đình giao đấu. Trong đời chàng đã từng chừng kiến không biết bao nhiêu võ công quái lạ thế nhưng tiên pháp thân pháp của Chu Chỉ Nhược chẳng khác gì gió thổi phất phơ cành liễu, nước trôi dập dềnh cánh bèo, không phải khí tượng con người, trong nhất thời tưởng mình đang trong giấc mơ, lòng thấy lạnh lẽo: ?Chẳng lẽ nàng có yêu pháp hay sao? Hay là có quỉ nhập vào người??

Thân pháp Chu Chỉ Nhược kỳ lạ nhưng thái cực kiếm là môn kiếm pháp Trương Tam Phong sáng chế ra trong tuổi lúc xế chiều sau thái cực quyền, là môn kiếm thuật không đâu hơn được, Ân Lê Đình sử dụng ra rồi miên miên bất tuyệt, tuy không đả thương được đối thủ chỉ cầu tự bảo vệ lấy mình nhưng quả thực không một chút sơ hở nào.

Bỗng nghe tiếng một người lè nhè quái dị kêu lên:

- Chao ôi! Tống Thanh Thư sắp tắt hơi rồi, Chu đại chưởng môn ơi, sao không lo tiễn chồng về nơi chín suối, tới khi góa bụa rồi biết sao cho phải.

Mọi người theo hướng âm thanh nhìn theo, chính là Chu Điên. Y biết phái Võ Đương bình sinh tối chú trọng đến dưỡng khí điều tức, lúc giao phong đều cốt sao giữ được ?hươu nai chạy bên cạnh cũng không nháy mắt, non Thái sụp trước mặt cũng chẳng kinh hoàng[5]? cho nên có ý nhiễu loạn tâm thần Chu Chỉ Nhược để tương trợ Ân Lê Đình. Y lại lải nhải tiếp:

- Này này! Chu Chỉ Nhược cô nương của phái Nga Mi ơi, ông chồng cô thở hắt ra rồi kìa, có mấy câu muốn trối trăn, nói là y còn ba bảy hai mươi mốt, bốn bảy hai mươi tám đứa con hoang. Y chết rồi nhờ cô nuôi chúng thành người, có thế y chết mới nhắm mắt được. Liệu cô có bằng lòng hay không nào?

Quần hùng nghe y nói nhăng nói cuội, có người nhịn không nổi cười lên hô hố, nhưng Chu Chỉ Nhược làm như không nghe thấy. Chu Điên lại kêu:

- Ối chao ôi! Không xong rồi! Chào Diệt Tuyệt sư thái, hồi này bà vẫn khỏe chứ? Lâu ngày không gặp, trông bà càng ngày càng rắn rỏi. Âm hồn bà nhập vào Chu Chỉ Nhược cô nương, thảo nào ngọn roi múa trông thật đẹp mắt.

Đột nhiên thân hình Chu Chỉ Nhược hụp xuống nhô lên một cái đã nhảy lùi mấy trượng, trường tiên quật vụt qua vai ngược về sau, đầu roi nhắm thẳng vào mặt Chu Điên. Nàng vốn dĩ cách lều của Minh Giáo đến hơn mười trượng, nhưng nhuyễn tiên múa lên là tới ngay, chẳng khác gì rồng bay trên trời, tên rời khỏi nỏ. Chu Điên đang cao hứng nói sùi cả bọt mép, có ngờ đâu Chu Chỉ Nhược đang ác đấu đột nhiên vung roi tập kích, y còn đang sững sờ, trường tiên đã đến mặt rồi. Chu Chỉ Nhược không quay người lại nhưng cây roi làm như có mắt, đầu roi nhắm ngay mũi y bay tới.

Chu Chỉ Nhược vung roi đánh về sau rồi, nhưng ngón tay trỏ và ngón tay giữa bàn tay trái lại liên tiếp đâm vào Ân Lê Đình, cả thảy bảy chỉ liền, toàn là nhằm vào những điểm trọng yếu trên mặt và ngực.

Ân Lê Đình không kịp công địch, cũng không cách nào vòng ngược kiếm về chặt tay nàng, đành sử dụng chiêu Phượng Điểm Đầu hạ mình xuống tránh né. Khi đó nơi lều của Minh Giáo nghe bốp một tiếng, tiếp theo là tiếng loảng xoảng liên hồi. Thì ra Dương Tiêu đứng ngay bên cạnh Chu Điên, mắt tinh tay lẹ, múa chưởng đánh bật chiếc bàn trước mặt, chặn roi của Chu Chỉ Nhược. Trường tiên đánh trúng chiếc bàn lập tức gỗ bay tung tóe, bình trà, chén trà trên mặt bàn cũng tung tóe khắp nơi, mọi người ai cũng bị mảnh sứ, nước trà văng trúng.

Chu Chỉ Nhược đánh ra không trúng, không để ý đến Chu Điên nữa, nhuyễn tiên quay trở lại tấn công Ân Lê Đình như gió táp mưa sa. Du Liên Châu đứng bên cạnh quan sát một hồi lâu nhưng vẫn chưa nhìn ra chỗ tinh yếu trong tiên pháp của nàng, nghĩ thầm: ?Ta có ra tay lần nữa, pho thái cực kiếm không thể nào sử dụng hay hơn lục đệ. Thế nhưng nếu đấu lâu, cô ta là đàn bà nội lực không đủ, bên mình có thể lấy dẻo dai bền sức mà thủ thắng?.

Ông thấy Ân Lê Đình kiếm pháp vào ra khép mở, âm dương động tĩnh, đã đạt tới mức tuyệt diệu những gì Trương Tam Phong truyền thụ cho, nghĩ thầm trong đời sư đệ chưa từng thi thố kiếm thuật cao minh như thế bao giờ, hôm nay lâm vào sinh tử quan đầu, nêu đem hết những tinh yếu phát huy. Võ công phái Võ Đương càng đánh càng mạnh, thời khắc càng lâu càng đi vào chỗ không thể bại được.

Chu Chỉ Nhược đột nhiên rung động trường tiên, xoay thành những vòng lớn vòng nhỏ, bay vây chung quanh Ân Lê Đình. Thái cực kiếm và thái cực quyền đều dùng trong phép vận kình thành vòng tròn, trường tiên của Chu Chỉ Nhược rung động thành vòng, vòng của roi và vòng của kiếm hai bên trùng nhau nhưng có điều trường tiên nhanh gấp mấy lần. Kình lực trên kiếm của Ân Lê Đình bị kéo đi, lập tức thân không đứng vững, xoay mình mấy lần, ánh sáng xanh lóe lên một cái, trường kiếm văng lên trên không. Trường tiên của Chu Chỉ Nhược quay vòng trở lại, đầu roi nhắm ngay đỉnh đầu Ân Lê Đình mổ tới.

Du Liên Châu tung mình nhảy tới, tay phải chộp lấy đầu sợi roi. Chu Chỉ Nhược liền tung một ngọn cước trúng ngay hông Du Liên Châu. Du Liên Châu chưa tìm ra được chỗ tinh yếu và quái dị trong tiên pháp của Chu Chỉ Nhược, đến khi thấy nàng quay tiên thành vòng tròn đoạt được trường kiếm của Ân Lê Đình, lúc ấy bỗng rõ ngay: ?Hóa ra y thị công lực chỉ xoàng xoàng vậy thôi, việc rung tiên thành vòng tròn so với thái cực quyền công phu của bản môn còn kém xa?. Ông chộp được đầu roi rồi, chịu để cho hông bị nàng ta đá một cước, tay trái thò ra, chính là một chiêu trong Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ, đâm thẳng vào bụng dưới Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược không cách nào chống đỡ được, trong đầu một ý nghĩ nhanh như chớp thoáng qua: ?Thôi hôm nay ta chết dưới tay Du nhị thúc rồi?. Tay phải nàng liền buông rơi nhuyễn tiên, năm ngón tay chộp xuống đỉnh đầu Du Liên Châu, cốt để hai người đồng qui ư tận.

Du Liên Châu nghiêng đầu toan tránh, ngờ đâu bên hông trúng cước rồi huyệt đạo bị đóng, đầu cổ cứng đơ, không sao chuyển động được nhưng tay trái vẫn vận kình chộp tới.

Ngay trong giờ phút nghìn cân treo trên sợi tóc ấy, một bóng người từ bên cạnh vụt tới, tay phải gạt Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ của Du Liên Châu ra, tay trái đỡ bật năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đang cắm xuống đầu Du Liên Châu, chính là Trương Vô Kỵ ra tay cứu cả hai người.

Chu Chỉ Nhược song chưởng liền nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ đánh tới. Nếu chàng né tránh chưởng lực của Chu Chỉ Nhược sẽ trúng ngay mặt Du Liên Châu, thành thử chàng liền dùng tay trái gạt ra.

Hai người ba bàn tay đụng nhau, Trương Vô Kỵ thấy song chưởng của Chu Chỉ Nhược hoàn toàn không có một chút kình lực nào, trong lòng hãi sợ: ?Chao ôi! Không xong! Nàng khổ đấu với lục thúc hơn hai trăm hiệp, đã đến mức đèn khô dầu kiệt. Luồng kình lực của ta nếu tống ra ắt sẽ đánh nàng chết ngay tại chỗ?. Chàng lập tức giữa đường thu thủ kình lại.

Ban đầu tả chưởng của chàng đánh ra, những tưởng Chu Chỉ Nhược là một đại cường địch võ công so với mình không hơn kém bao nhiêu, huống chi lấy một tay chống lại hai tay nên không dám coi thường chút nào, chưởng đó chàng sử dụng đủ mười thành lực. Kình lực vừa tung ra rồi, chàng mới phát giác đối phương không còn chút hơi sức nào cả, vội gượng thu về dẫu biết đây là đại kỵ trong võ học, có khác gì dùng đủ mười thành lực tự đánh vào mình, huống chi trong một trời gian sợi tóc không lọt đó đột nhiên thu về, dụng lực ắt phải cực kỳ mãnh liệt. Thế nhưng chàng đã đến mức nội kình thu phát do tâm, luồng kình lực đó có đánh trúng, cùng lắm cũng chỉ ngộp thở chứ không đến nỗi nào. Ngờ đâu chàng vừa thu kình về, bỗng thấy chưởng lực đối phương chẳng khác nào hồng thủy tràn ra khỏi bờ, thế mãnh liệt không cách gì đương cự nổi.

Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu kể xiết, biết là mình đã bị ám toán, trên ngực nghe bình một tiếng, đã bị song chưởng của Chu Chỉ Nhược đánh trúng rồi. Đó là chính chưởng lực của chàng cộng thêm song chưởng của địch thủ, khác nào hai đại cao thủ cùng hợp kích, hộ thể Cửu Dương thần công tuy hồn hậu thật nhưng cũng chịu không nổi. Huống chi chưởng lực của Chu Chỉ Nhược lại luồn theo kẽ hở mà vào, chính lúc chàng đang dùng hết sức cũ rồi mà lực mới chưa sinh ra. Công phu đó là đích truyền của phái Nga Mi, năm xưa Diệt Tuyệt sư thái đã dùng đánh chàng hộc máu ngã lăn ra. Có điều năm xưa chàng hoàn toàn không biết cách đề ngự, lúc này thì chỉ vì thương người nên bị lừa mà trúng kế. Chàng không còn tự chủ nổi ngã vật về sau, mắt tối sầm, hộc ra một ngụm máu tươi.

Chu Chỉ Nhược đánh lén thành công, tay trái liền vươn ra, năm ngón tay chộp vào ngực chàng. Trương Vô Kỵ bị trọng thương nhưng tâm thần chưa loạn, thấy trảo đó chộp tới ngực ắt vỡ tung, vội cố gượng lùi về sau mấy tấc, nghe xoẹt một tiếng, năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đã xé rách áo chàng, để lộ da thịt trên ngực.

Lúc này Du Liên Châu bị nàng đá trúng ngay huyệt đạo ngã ra, không cử động được, Ân Lê Đình vội xông lên cứu viện nhưng không kịp nữa rồi, thấy Trương Vô Kỵ ắt không sao qua khỏi kiếp nạn. Chu Chỉ Nhược vừa toan phóng tiếp năm ngón tay phải, trong một chớp mắt, bỗng nhìn thấy trên ngực chàng một vết sẹo dài, chính là vết sẹo mình dùng kiếm Ỷ Thiên đâm chàng trên Quang Minh Đính. Năm ngón tay nàng chỉ còn cách ngực Trương Vô Kỵ chưa đầy nửa thước, nhu tình trong lòng chợt dấy lên, mắt nhòa lệ, không sao chộp xuống được nữa.

Nàng còn đang bàng hoàng thì Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Ân Lê Đình, Phạm Dao bốn người đã cùng xông tới. Vi Nhất Tiếu phi thân chặn ngay trước mặt giáo chủ, Dương Phạm hai người chia ra đánh vào hai bên tả hữu Chu Chỉ Nhược, còn Ân Lê Đình ôm Trương Vô Kỵ chạy ra.

Việc xảy ra khiến đấu trường trở thành đại loạn, quần đệ tử phái Nga Mi và sư sãi chùa Thiếu Lâm quát tháo rầm rĩ, tay cầm binh khí xông vào. Dương Phạm cùng Chu Chỉ Nhược trao đổi mấy chiêu rồi ngừng tay không dám đánh lâu còn Vi Nhất Tiếu đỡ Du Liên Châu dậy cùng đi về lều. Phái Nga Mi và Thiếu Lâm thấy hai bên đã thôi, cũng lui xuống.

Triệu Mẫn vốn cũng xông lên cứu viện nhưng thân pháp không nhanh bằng Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu đến nửa chừng thấy Trương Vô Kỵ mồm đầy máu, sợ đến mặt trắng bệch như tờ giấy. Trương Vô Kỵ gượng cười:

- Không sao đâu, chỉ vận khí một hồi là khỏe ngay.

Mọi người đỡ chàng ngồi xuống đất nơi lều tranh, Trương Vô Kỵ liền chầm chậm vận chuyển Cửu Dương thần công để điều trị nội thương. Chu Chỉ Nhược nói:

- Còn vị anh hùng nào muốn lên chỉ giáo nữa chăng?

Phạm Dao xốc lại thắt lưng, hùng dũng tiến ra. Trương Vô Kỵ vội gọi:

- Phạm hữu sứ, ta hạ lệnh không được xuất chiến. Chúng ta ... chúng ta chịu thua ...

Nói chưa hết câu đã hộc máu ra hai lần nữa. Lệnh của giáo chủ Phạm Dao không thể không tuân theo, nếu cứ nhất định ra đấu sẽ khiến cho vết thương của Trương Vô Kỵ càng thêm nguy kịch, huống chi xuất chiến dẫu tận tâm kiệt lực chết chỉ uổng mạng, không được việc gì cho bản giáo.

Chu Chỉ Nhược đứng giữa quảng trường gọi thêm hai lần nữa. Vừa rồi Trương Vô Kỵ thu lực lại tự mình đánh vào mình, chỉ có chàng và Chu Chỉ Nhược hai người là biết chuyện đó mà thôi, người ngoài lại tưởng chưởng lực của nàng quái dị nên Trương Vô Kỵ không địch nổi, còn Chu Chỉ Nhược ngừng tay tha mạng cho chàng thì ai ai cũng thấy rõ ràng. Nàng chỉ là một thiếu nữ trẻ tuổi, liên tiếp đánh bại Ân Lê Đình, Du Liên Châu, Trương Vô Kỵ ba cao thủ hạng nhất, võ công kỳ lạ thực không ai tin nổi. Trong đại hội hôm nay tuy không hiếm người thân mang tuyệt học, nhưng cũng biết tài mình không thể bằng được Ân, Du, Trương ba người nên chẳng ai dại gì lên nạp mạng.

Chu Chỉ Nhược đợi thêm một lát vẫn không thấy ai tiến lên, vị lão tăng Đạt Ma Đường liền bước ra, chắp tay nói:

- Tống phu nhân chưởng môn phái Nga Mi kỹ quán quần hùng, võ công đứng đầu thiên hạ. Có vị anh hùng nào không phục chăng?

Chu Điên kêu lên:

- Ta Chu Điên không phục.

Vị lão tăng liền nói:

- Vậy xin mời Chu anh hùng hạ trường so tài.

Chu Điên đáp:

- Ta đánh không lại cô ta thì so tài cái gì?

Nhà sư bèn nói:

- Nếu Chu anh hùng tự biết mình không địch lại, thì là phục rồi còn gì?

Chu Điên đáp:

- Ta tự biết không địch lại nhưng vẫn không phục thì đã sao?

Nhà sư già không muốn cùng y dây dưa thêm nữa hỏi tiếp:

- Trừ vị Chu anh hùng này ra, có vị nào không phục nữa?

Ông ta hỏi liên tiếp ba lần, Chu Điên hừ ba tiếng nhưng không còn ai trả lời không phục. Vị lão tăng bèn nói:

- Nếu không còn ai hạ trường tỉ thí, chúng ta cứ theo đúng như đã bàn định, Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân xử trí. Đồ Long đao nay ở trong tay ai thì cũng xin người đó giao lại cho Tống phu nhân giữ. Đó là quyết định chung của mọi người, không ai được dị nghị.

Trương Vô Kỵ lúc ấy đang điều quân nội tức, vận dụng Cửu Dương chân khí trị liệu vết thương, dần dần đi vào cảng giới phản hư minh không, bỗng nghe nhà sư kia nói ?Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn giao cho chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân xử trí?, trong lòng chấn động, lại hộc ra thêm một ngụm máu nữa.

Triệu Mẫn ngồi ở bên cạnh, hết tâm hết sức săn sóc, thấy chàng đột nhiên run rẩy, mặt mày biến sắc, biết ngay tâm sự chàng, nhỏ nhẹ nói:

- Vô Kỵ ca ca, nghĩa phụ do Chu tỉ tỉ xử trí thì hay lắm rồi. Lúc nãy chị ấy không nỡ ra tay hại chàng, đủ biết tình ý vẫn còn sâu đậm, quyết không hại nghĩa phụ đâu, chàng cứ yên tâm mà dưỡng thương.

Trương Vô Kỵ nghĩ quả như vậy, thấy an tâm hơn.

Lúc này mặt trời đang xuống sau núi, bãi đất tối dần. Vị lão tăng kia nói tiếp:

- Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn bị giam ở một nơi đằng sau núi. Hôm nay trời đã tối rồi, các vị chắc cũng đã đói. Ngày mai đúng ngọ, chúng ta lại tụ tập nơi đây, lão nạp sẽ dẫnTống phu nhân đến nơi mở cửa thả tù ra. Lúc đó chúng ta sẽ lại được chiêm ngưỡng võ công vô địch của Tống phu nhân một lần nữa.

Dương Tiêu, Phạm Dao đưa mắt nhìn Triệu Mẫn, trong bụng đều nghĩ: ?Quả nhiên cô ta liệu sự không sai. Phái Thiếu Lâm quả có âm mưu, Chu Chỉ Nhược võ công dẫu cao cường, cũng không thể nào đánh bại được nhóm ba lão tăng Độ Ách, e rằng nàng sẽ bỏ mạng nơi đỉnh núi kia để rồi phái Thiếu Lâm vẫn xưng hùng xưng bá.

Lúc đó Chu Chỉ Nhược cũng đã quay về lều cỏ, hôm nay phái Nga Mi uy nhiếp quần hùng. Các đệ tử thấy chưởng môn nhân trở về, không ai không cảm thấy kính phục. Quần hùng tuy thấy Chu Chỉ Nhược đã đoạt được cái danh hiệu ?võ công đệ nhất thiên hạ? nhưng việc chưa kết liễu, trong bụng ai cũng có tính toán riêng nên chưa ai chịu xuống núi. Vị lão tăng lại nói:

- Các vị anh hùng đến thăm bản tự, đều là khách quí của chùa Thiếu Lâm, nếu ai có ân oán dây dưa, cũng xin nể mặt bản tự, tạm thời nhịn một chút, đừng giải quyết ngay tại núi Thiếu Thất này, nếu không là coi thường phái Thiếu Lâm lắm vậy. Các vị dùng bữa tối xong, các nơi mặt trước núi cứ việc du lãm tùy ý, sau núi là nơi tệ phái giữ kinh và dạy dỗ môn đệ, xin các vị tự trọng giữ bước cho.

Phạm Dao sau đó bế Trương Vô Kỵ đem về nơi những lều cỏ do chính người trong Minh Giáo dựng nên. Trương Vô Kỵ tuy bị thương nặng, nhưng sau khi uống chính viên linh đan chàng đã chế từ trước, dùng Cửu Dương chân khí thúc đẩy dược lực, đến đêm khuya lúc canh hai, thổ ra ba ngụm máu bầm, nội thương hoàn toàn khỏi hẳn.

Dương Tiêu, Phạm Dao, Du Liên Châu, Ân Lê Đình các người vừa mừng vừa sợ, tấm tắc khen công phu nội lực của chàng thật khó ai sánh kịp, người thường bị thương như thế, dẫu có cao nhân điều trị, ít ra cũng phải dưỡng thương một hai tháng mới hết ứ trệ chân khí lưu chuyển bình thường, chàng chỉ mất có vài giờ đồng hồ đã khỏi nếu không chính mắt trông thấy thì chẳng ai dám tin.

Trương Vô Kỵ ăn hai bát cơm, nghỉ ngơi một lát rồi đứng lên nói:

- Ta đi ra ngoài một lát.

Chàng là giáo chủ nên dẫu không nói đi đâu, đi lo chuyện gì cũng không ai dám hỏi thêm. Ân Lê Đình nói:

- Cháu trọng thương mới khỏi, nên hết sức cẩn thận.

Trương Vô Kỵ đáp lời:

- Vâng

Thấy Triệu Mẫn vẻ mặt hết sức lo lắng nên mỉm cười với nàng ý muốn nói: ?Em cứ yên tâm!?.

Chàng ra khỏi lều cỏ, ngửng đầu lên thấy trăng sáng vằng vặc, thêm mấy chòm sao, hít một hơi dài, chân khí trong người lưu chuyển, tinh thần phấn chấn đi đến ngoài chùa Thiếu Lâm, nói với tri khách tăng:

- Tại hạ có việc muốn gặp người chưởng môn phái Nga Mi, làm ơn dẫn đường cho.

Nhà sư kia thấy đó là giáo chủ Minh Giáo, trong bụng sợ hãi lắm vội vàng cung kính nói:

- Vâng, vâng! Tiểu tăng xin dẫn đường, mời Trương giáo chủ đi qua bên này.

Ông ta bèn dẫn chàng qua phía tây, đi độ chừng một dặm đến mấy gian nhà nhỏ. Vị tri khách tăng nói:

- Phái Nga Mi đều ở tại nơi đó, tăng ni phân biệt, đêm khuya tiểu tăng không tiện đến gần.

Y sợ Trương Vô Kỵ lại đến giao đấu với Chu Chỉ Nhược, nếu hai cao thủ đương thế ra tay, mình vô duyên vô cố có khi bị vạ lây. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Nếu sư phụ đi về nói chuyện này ra e rằng kinh động đến người khác, chi bằng tôi điểm huyệt đại sư để ngồi đây chờ, nên chăng?

Vị tri khách tăng vội nói:

- Tiểu tăng quyết không dám nói, giáo chủ cứ yên tâm.

Y vội vàng lật đật quay mình tháo lui. Trương Vô Kỵ chậm rãi đi đến trước căn nhà nhỏ, còn cách chừng mươi trượng đã thấy hai ni cô phi thân nhảy ra, giơ kiếm chặn lại, quát hỏi:

- Ai đó?

Trương Vô Kỵ vòng tay nói:

- Minh Giáo Trương Vô Kỵ cầu kiến chưởng môn Tống phu nhân của quí phái.

Hai nữ ni kinh hoàng thất sắc, một người tuổi trung niên ấp úng:

- Trương ... Trương giáo chủ ... xin ngài đợi, tôi ... để tôi vào bẩm báo.

Bà ta tuy cố gắng trấn tĩnh nhưng tiếng nói run run, quay mình đi chưa được mấy bước đã lấy còi tre ra thổi báo động.

Phái Nga Mi hôm nay nở mày nở mặt trước mặt anh hùng thiên hạ, người chưởng môn đánh bại liên tiếp ba cao thủ khiến cho tất cả bọn mày râu không còn ai dám đứng ra khiêu chiến, từ khi khai mở môn phái đến nay quả thực chưa bao giờ vinh dự đến thế. Thế nhưng phái Nga Mi hôm nay giết hai trưởng lão Cái Bang, đánh bại Võ Đương nhị hiệp, đả thương giáo chủ Minh Giáo, gây chuyện với người khác không phải ít. Huống chi Chu Chỉ Nhược được cái danh võ công đệ nhất thiên hạ, không biết có bao nhiêu người ghen tị bực tức, thân nơi hiểm địa sợ cường địch đêm nay tới quấy rối thành thử phòng bị cực kỳ nghiêm mật. Ni cô đó thổi mấy tiếng còi, chung quanh liền chạy ra đến hai chục người, kiếm quang lấp loáng, chia ra trấn giữ các nơi. Trương Vô Kỵ làm như không thấy, hai tay chắp sau lưng, bình tĩnh đứng chờ.

Nữ ni tiến vào trong căn nhà nhỏ bẩm báo, một lát sau quay ra nói:

- Chưởng môn tệ phái nói rằng: Nam nữ hữu biệt, buổi tối không tiện tiếp khách. Xin mời Trương giáo chủ lui bước.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tại hạ hơi biết y lý, muốn được trị thương cho Tống Thanh Thư thiếu hiệp chứ không có ý gì khác.

Ni cô kia ngạc nhiên, lại tiến vào bẩm lại lần nữa, qua một hồi lâu mới quay trở ra nói:

- Chưởng môn nhân xin mời vào.

Trương Vô Kỵ xốc xốc lưng áo chứng tỏ mình không đem binh khí theo, rồi theo ni cô nọ vào trong nhà. Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược ngồi ở một bên, tay chống cằm, ngơ ngẩn xuất thần, nghe tiếng chàng đi vào cũng không quay lại. Nữ ni kia rót một chén trà để lên bàn rồi lui ra ngoài, nhẹ nhàng đóng cửa lại, trong phòng không còn ai khác. Một cây nến trắng khi tỏ khi mờ, chiếu lên trên bộ quần áo xanh nhạt của Chu Chỉ Nhược, tình cảnh thật là thê lương.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, hỏi nhỏ:

- Thương thế Tống sư ca ra sao, để tôi xem một chút được không?

Chu Chỉ Nhược không quay đầu lại, lạnh lùng nói:

- Xương đầu của y bị chấn vỡ, thương thế cực kỳ trầm trọng, khó mà sống nổi. Không biết có qua khỏi đêm nay hay không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Cô biết tôi y thuật không phải kém, mong tận lực chữa trị một phen.

Chu Chỉ Nhược hỏi lại:

- Sao anh lại muốn cứu y?

Trương Vô Kỵ sững sờ, nói:

- Tôi lầm lỗi đối với cô, trong lòng thật là hổ thẹn, huống chi hôm nay cô lại nương tay tha mạng cho tôi. Tống sư ca thụ thương tôi thể nào cũng hết sức.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Anh nương tay cho tôi trước, không lẽ tôi không biết hay sao? Nếu anh cứu được Tống đại ca thì muốn tôi báo đáp cái gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Một mạng đổi một mạng, mong cô nới tay cho nghĩa phụ tôi.

Chu Chỉ Nhược chỉ vào nội đường, thản nhiên nói:

- Y ở trong đó.

Trương Vô Kỵ đi tới cửa phòng, thấy bên trong tối đen như mực, không đèn lửa gì vội cầm cây nến đi vào bên trong. Chu Chỉ Nhược vẫn chống tay lên má ngồi ở cạnh bàn không đi theo. Trương Vô Kỵ vén chiếc màn lên, thấy Tống Thanh Thư hơi thở yếu ớt, hai mắt lồi ra, ngũ quan méo mó, mặt mũi thật là ghê rợn, đã sớm hôn mê không biết gì. Chàng cầm cổ tay y thấy mạch chạy hỗn loạn, lúc nhanh lúc chậm, da dẻ lạnh ngắt, không cứu chữa ngay thì quả khó mà qua khỏi đêm nay.

Chàng lại mò xương đầu của y, thấy trước trán và sau ót có bốn chỗ bị vỡ, nghĩ thầm song quyền của Du nhị bá lợi hại biết là chừng nào, chiêu Song Phong Quán Nhĩ này sử dụng đủ mười thành nội kình, nếu Tống Thanh Thư nội công không có căn cơ thì đã chết ngay tại đương trường rồi.

Chàng thả màn xuống, để chân nến lên trên bàn, ngồi trên chiếc ghế tre trầm tư tìm cách cứu chữa. Tống Thanh Thư bị trọng thương trí mạng, cứu được hay không thật chỉ có ba phần hi vọng.

Chàng ngồi khoảng chừng thời gian một bữa ăn, rồi đi ra ngoài nói:

- Tống phu nhân, có cứu được mạng Tống sư ca hay không, tôi thực không dám chắc, cô có để cho tôi thử một phen chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Nếu anh không cứu được mạng y thì trên đời này không có người thứ hai nào làm được.

Trương Vô Kỵ nói:

- Dẫu có cứu được mạng y, dung mạo võ công khó mà được như cũ, đầu óc cũng bị chấn động hỏng rồi, chỉ sợ ... chỉ sợ ... nói năng không được xuông xẻ nữa.

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Anh cũng đâu phải là thần tiên. Tôi biết anh sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình.

Trương Vô Kỵ trong lòng bàng hoàng nhưng việc này thật khó mà biện bạch, thành thử chỉ lẳng lặng quay trở vào phòng, giở chiếc chăn mỏng đắp trên người Tống Thanh Thư, điểm tám nơi huyệt đạo trên người y, mười ngón tay nhẹ nhàng dùng sức như có như không nắn các chỗ xương vỡ trên đầu lại. Xong rồi chàng lấy trong bọc ra một chiếc hộp vàng, lấy ngón tay út quệt một chút cao đen, trộn cho thật đều rồi nhẹ nhàng bôi lên những chỗ xương gãy. Cao đó chính là thánh dược nối xương tiếp gân của Thiếu Lâm Tây Vực Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao năm xưa chàng được Triệu Mẫn tặng cho để tiếp xương cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình còn dư chưa dùng hết. Cửu Dương chân khí trong lòng bàn tay chàng cuồn cuộn tuôn ra dẫn thuốc vào các nơi xương bị đứt.

Ước chừng tàn một nén hương, Trương Vô Kỵ đã đưa hết thuốc đi các nơi, thấy mặt Tống Thanh Thư không có gì thay đổi, trong bụng mừng rỡ, biết việc cứu sống được y có thêm vài phần hi vọng. Chàng bị trọng thương mới khỏi, bây giờ phải vận nội kình không khỏi tim hồi hộp, thở giốc, phải đứng ở bên giường Tống Thanh Thư điều quân nội tức một hồi lâu xong mới đi ra khỏi phòng, để cây nến lên trên bàn.

Dưới ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn, chàng thấy khuôn mặt Chu Chỉ Nhược trắng bệch một cách khác thường. Ở bên ngoài đâu đó có tiếng chân người nhẹ nhàng qua lại, biết là phái Nga Mi đang đi tuần tra canh gác liền nói:

- Tính mạng Tống sư ca có cơ cứu được, cô cứ yên tâm.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Đến như anh còn không tin tưởng rằng có thể cứu được y thì sao tôi dám tin rằng sẽ cứu được Tạ đại hiệp.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Ngày mai nếu nàng lên phá trận Kim Cương Phục Ma Khuyên, dẫu phái Nga Mi có một hai cao thủ tiếp tay, mười phần đến chín là thất bại, không chừng còn bỏ mạng nữa là khác?. Chàng bèn nói:

- Cô có biết tình hình nơi giam nghĩa phụ thế nào không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không biết. Phái Thiếu Lâm có mai phục ghê gớm lắm hay sao?

Trương Vô Kỵ kể lại chuyện Tạ Tốn bị giam nơi địa lao trên đỉnh núi thế nào, ba vị lão tăng giám thủ ra sao, chính mình hai lần tấn công bị thất bại, rồi Ân Thiên Chính vì thế mà từ trần đầu đuôi thuật sơ qua một lượt.

Chu Chỉ Nhược lặng yên nghe xong nói:

- Nếu như thế, anh phá còn không nổi thì tôi lại càng không đi đến đâu.

Trương Vô Kỵ đột nhiên động tâm, mừng rỡ nói:

- Chỉ Nhược, nếu hai đứa mình liên thủ thì có thể thành công được. Tôi lấy lực đạo thuần dương chí cương, cuốn lấy ba sợi trường tiên của ba lão tăng. Cô dùng kình lực âm nhu thừa cơ mà tấn công vào, một khi vào trong Phục Ma Khuyên rồi, nội ngoại giáp công thì có thể thủ thắng.

Chu Chỉ Nhược cười khẩy nói:

- Tôi với anh trước đây đã có ước định hôn nhân, chồng tôi lúc này sống chết không biết thế nào, hôm nay tôi lại không giết anh, người ngoài thể nào chẳng bảo tôi vẫn còn chút tình xưa nghĩa cũ. Nếu bây giờ lại bảo anh ra tương trợ, anh hùng thiên hạ sẽ bảo tôi là kẻ vô liêm sỉ, tính nết trăng hoa.

Trương Vô Kỵ vội nói:

- Mình chỉ cốt sao không thấy hổ thẹn với lương tâm, người khác nói ra nói vào việc gì phải để ý đến?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Thế nhưng nếu tôi tự hỏi lòng thấy hổ thẹn thì sao?

Trương Vô Kỵ ngơ ngẩn, không sao trả lời được, đành ấp úng:

- Cô ... cô ...

Chu Chỉ Nhược nói:

- Trương giáo chủ, chúng mình cô nam quả nữ, đêm khuya ở chung một chỗ không khỏi người ta dị nghị, thôi anh đi về đi.

Trương Vô Kỵ đứng lên vái một vái thật sâu nói:

- Tống phu nhân, cô từ khi còn nhỏ đối với tôi thật hết lòng, mong cô gia ân thêm một lần nữa. Trương Vô Kỵ này còn sống ngày nào, không bao giờ dám quên cao nghĩa.

Chu Chỉ Nhược lặng thinh không đáp, chẳng nhận lời cũng chẳng cự tuyệt. Nàng từ đầu đến cuối không quay đầu lại nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy mặt nàng ra sao, đang định xuống giọng khẩn cầu, Chu Chỉ Nhược bỗng cao giọng nói:

- Tĩnh Tuệ sư tỉ, tiễn khách.

Kẹt một tiếng cửa mở ra, Tĩnh Tuệ đã đứng bên ngoài, tay cầm trường kiếm, mặt hầm hầm nhìn chàng. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện sống chết của nghĩa phụ chỉ ở một phút này, nếu mình có phải mất mặt chịu nhục cũng có đáng gì đâu, đột nhiên quì phục xuống đất, rập đầu lạy Chu Chỉ Nhược bốn cái nói:

- Tống phu nhân, xin cô thương tình.

Chu Chỉ Nhược vẫn trơ trơ như tượng đá. Tĩnh Tuệ quát lên:

- Trương Vô Kỵ, chưởng môn nhân bảo ngươi đi ra, sao còn lải nhải gì nữa? Quả thật đúng là hạng người vô liêm sỉ, là quân bại họa của võ lâm.

Bà ta lại tưởng Trương Vô Kỵ nhân dịp Tống Thanh Thư sắp chết, đến van lơn xin nối lại duyên xưa. Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, đứng dậy đi ra.

Chàng về đến lều tranh của Minh Giáo, Triệu Mẫn đã ra ngoài đón hỏi:

- Vết thương của Tống Thanh Thư có thể cứu được, phải không? Chàng lại dùng Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao của thiếp đi lấy lòng người ta chứ gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ôi, em đúng là liệu sự như thần. Thương thế của y có cứu được hay không, lúc này chưa thể nói được.

Triệu Mẫn thở dài một tiếng nói:

- Chàng tưởng cứu mạng cho Tống Thanh Thư có thể đổi được Tạ đại hiệp ư? Vô Kỵ ca ca, chàng càng làm càng hỏng chuyện, không biết tâm sự người khác chút nào.

Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:

- Sao thế? Anh chẳng hiểu tí gì cả.

Triệu Mẫn nói:

- Chàng hết tâm hết sức cứu Tống Thanh Thư thì có khác nào nói với Chu tỉ tỉ là chàng chẳng còn chút quyến luyến nào nữa, chàng thử nghĩ xem chị ấy có giận hay không nào?

Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ không nói nên lời, tự hỏi không lẽ Chu Chỉ Nhược chẳng muốn chàng trị thương cho chồng nàng, nhưng quả nàng quả thực đã nói: ?Tôi biết anh sẽ tận tâm tận lực cứu y để trong lòng khỏi áy náy, yên tâm đi làm quận mã triều đình?. Câu nói đó đúng là có ý oán trách, huống chi nàng lại còn thêm: ?Thế nhưng nếu tôi tự hỏi lòng cảm thấy hổ thẹn thì sao??.

Triệu Mẫn nói:

- Chàng cứu mạng cho Tống Thanh Thư, bây giờ lại hối hận, có phải không?

Nàng không đợi Trương Vô Kỵ trả lời, mỉm cười điềm nhiên đi vào trong nhà. Trương Vô Kỵ ngồi xuống tảng đá, nhìn vào vầng trăng lạnh, ngơ ngẩn xuất thần, nghĩ lại mọi việc từ khi quen biết Chu Chỉ Nhược tới nay, tới thần thái ngôn ngữ lần sau cùng này, càng thấy hoang mang khó hiểu.

*

*??????? *

Sáng sớm ngày mồng sáu tháng năm, tiếng chuông chùa Thiếu Lâm boong boong vang động, quần hùng lại tụ tập nơi quảng trường. Nhà sư già của Đạt Ma Đường kỳ này không còn nhận lệnh của Không Trí nữa, tự động đứng lên sang sảng nói:

- Thưa với tất cả các vị anh hùng, hôm qua tỉ võ so tài, chưởng môn phái Nga Mi Tống phu nhân nghệ quán quần hùng, xin mời Tống phu nhân ra sau núi phá cửa quan để nhận Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, lão tăng xin dẫn đường.

Nói xong ông ta liền đi trước, tám ni cô đại đệ tử của phái Nga Mi liền đi theo, kế đó là Chu Chỉ Nhược và những đồng môn khác rồi sau cùng là những anh hùng tất cả một đoàn về phía hậu sơn.

Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược quần áo vẫn giống hôm qua không mặc đồ tang, biết Tống Thanh Thư còn sống, nghĩ thầm: ?Nếu y qua được một đêm thì có hi vọng không chết?. Mọi người lên đến đỉnh núi, đã thấy ba vị lão tăng ngồi xếp bằng nơi gốc ba cây tùng. Vị lão tăng Đạt Ma Đường liền nói:

- Kim Mao Sư Vương bị giam nơi địa lao giữa ba gốc thương tùng, khán thủ tù phạm là ba vị trưởng lão của tệ phái. Tống phu nhân võ công thiên hạ vô song, chỉ cần thắng được ba vị trưởng lão là có thể mở nhà tù đem người đi. Tất cả chúng tôi xin được chiêm ngưỡng thân thủ của Tống phu nhân.

Dương Tiêu thấy sắc mặt Trương Vô Kỵ bất định, liền ghé tai chàng nói nhỏ:

- Giáo chủ khoan tâm. Vi Bức Vương, Thuyết Bất Đắc hai người đã tất lãnh Ngũ Hành Kỳ mai phục dưới chân núi. Nếu phái Nga Mi không chịu giao Tạ Sư Vương lại cho chúng ta, mình đành phải dùng võ lực.

Trương Vô Kỵ nhíu mày nói:

- Như thế chẳng làm hỏng qui củ đại hội, mất hết tín nghĩa còn gì.

Dương Tiêu đáp:

- Thuộc hạ chỉ sợ Tống phu nhân cầm đao cầm kiếm kề vào cổ Tạ Sư Vương, mình ném chuột sợ vỡ đồ, còn việc tín nghĩa không quan trọng lắm.

Triệu Mẫn cũng nói khẽ:

- Tạ Sư Vương kẻ thù thật là đông, mình phải đề phòng trong đám người có kẻ phát ám khí đánh lén.

Dương Tiêu nói:

- Phạm hữu sứ, Thiết Quan đạo trưởng, Chu huynh, Bành đại sư bốn người đã phân chia bốn góc đề phòng rồi.

Triệu Mẫn nói:

- Tốt hơn hết là có người nào phóng ám khí, mình thừa cơ sang đoạt Tạ Pháp Vương, như thế anh hùng thiên hạ không trách mình thiếu tín nghĩa. Nếu như sóng lặng gió êm ... cái đó quả ... Ôi, Dương tả sứ, nếu ông không quản ngại thì hãy phái người giả trang tấn công lén Tạ Sư Vương, trong khi hỗn loạn, mình sẽ cháy nhà hôi của, xông ra cướp người.

Dương Tiêu cười nói:

- Kế đó hay lắm.

Nói xong y bèn đi sắp đặt người lo liệu. Trương Vô Kỵ biết làm như thế thật không quang minh lỗi lạc chút nào, nhưng vì muốn cứu nghĩa phụ, không còn cố kỵ gì nữa, trong lòng thật là cảm kích Triệu Mẫn, nghĩ thầm: ?Mẫn muội và Dương tả sứ đều có tài quyết đoán lúc lâm nguy, thảo nào hai người bàn bàn tính tính thật là hợp ý nhau, ta thật không có cái khả năng đó?.

Bỗng nghe Chu Chỉ Nhược nói:

- Ba vị cao tăng là trưởng lão của phái Thiếu Lâm, hẳn võ học thâm hậu lắm. Nếu như bản tọa lấy một địch ba thì thật không công bình chút nào, lại thêm bất kính.

Vị lão tăng Đạt Ma Đường nói:

- Nếu Tống phu nhân muốn có thêm một hai người tiếp tay cũng được không sao cả.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Bản tọa may mắn đạt được cái danh vị đứng đầu cũng do anh hùng thiên hạ nhường nhịn, nhờ vào võ công do tiên sư Diệt Tuyệt sư thái bí truyền. Nếu lấy ba địch ba, dẫu có đắc thắng cũng không tỏ lộ được cái khổ tâm của tiên sư năm xưa dày công giáo huấn; còn như lấy một địch ba thì hóa ra bất kính với chủ nhân. Thôi thế thì để gọi một tiểu tử ra liên thủ, người đó hôm qua bị thương dưới tay bản tọa, thương thế chưa khỏi hẳn. Tiểu tử này trước kia đã bị tiên sư đánh ba chưởng thổ huyết, thiên hạ ai ai cũng biết, có thế mới khỏi thương tổn đến uy danh của tiên sư.

Trương Vô Kỵ nghe đến đó trong lòng mừng rỡ: ?Tạ trời tạ đất, nàng quả nhiên nhận lời yêu cầu của ta?. Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược gọi:

- Trương Vô Kỵ, ngươi mau ra đây.

Quần hào Minh Giáo trừ bọn Dương Tiêu ra không ai hiểu rõ nguyên do, thấy Chu Chỉ Nhược gọi giáo chủ bản giáo tiểu tử này tiểu tử nọ, không ai không khỏi bất bình. Thế nhưng lại thấy Trương Vô Kỵ mặt mày tươi tỉnh, bước ra, vái một cái thật sâu, nói:

- Đa tạ Tống phu nhân hôm qua nương tay, tha mạng cho tiểu tử.

Trong bụng chàng đã có chủ định rồi: ?Nàng trước mặt đông người nhục mạ ta, chẳng qua cũng chỉ để cho phái Nga Mi được nở mày nở mặt, để trả thù hôm trước trong ngày hôn lễ chú rể bỏ đi. Vì nghĩa phụ, ta phải chịu nhịn nhục cho xong việc?.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ngươi hôm qua trọng thương thổ huyết, bây giờ ta cũng không cần phải nhờ đến ngươi làm gì, chỉ cần ra cho có vẻ vậy thôi.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vâng, mọi việc xin nghe lệnh mà làm, không dám vi phạm.

Chu Chỉ Nhược lấy nhuyễn tiên ra, tay phải rung một cái cây roi đã vòng thành hơn chục vòng lớn có nhỏ có, trông thật đẹp mắt, tay trái vung ra, ánh sáng xanh lấp lánh lộ ra một thanh đoản đao. Quần hùng hôm qua đã thấy uy lực của nhuyễn tiên, ngờ đâu tay trái lại còn có thể dùng đao, vũ khí một bên dài một bên ngắn, một bên cứng một bên mềm, quả thực hai bên hoàn toàn ngược lại với nhau. Quần hùng vừa kinh ngạc vừa bội phục, người nào cũng thấy hào hứng.

Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra hai thanh thánh hỏa lệnh tiến tới hai bước, đột nhiên chân bước lảo đảo, cố ý húng hắng ho mấy tiếng, làm như bị thương chưa khỏi, xem ra tự lo cho mình còn chưa xong, nếu như thắng được tam tăng thì cũng toàn là do công lao của Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược đi đến gần bên chàng, hạ giọng hỏi nhỏ:

- Anh từng lập lời thề báo thù cho biểu muội, nếu như hung thủ hại cô ấy lại là nghĩa phụ anh thì anh có còn cứu ông ấy nữa hay thôi?

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên nói:

- Nghĩa phụ có khi tâm trí thất thường, nếu thế không tính.

Độ Ách nói:

- Trương giáo chủ hôm nay lại lên tứ giáo nữa đấy ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cũng mong ba vị đại sư lượng thứ cho.

Độ Ách nói:

- Khéo nói lắm! Nghe nói vị chưởng môn phái Nga Mi này hôm qua tài nghệ thắng tất cả mọi người, không lẽ cô ta võ công còn cao hơn Trương giáo chủ hay sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Đúng thế! Vãn bối hôm qua bị Chu chưởng môn đánh cho trọng thương thổ huyết.

Độ Nạn nói:

- Nếu thế thì quả là lạ thật!

Trường tiên của ba vị lão tăng chậm rãi vung ra.

Ngay lúc đó từ phía lưng chừng núi văng vẳng mấy tiếng đàn, tiếng sáo hợp tấu vọng lên. Trương Vô Kỵ trong bụng mừng thầm, chỉ thấy mấy tiếng dao cầm tính tang tính tang, bốn cô gái mặc áo trắng đi lên, trong tay mỗi người cầm một cây đoản cầm, kế đó tiếng tiêu dìu dặt, bốn thiếu nữ áo đen tay cầm trường tiêu cũng tới. Đen trắng xen kẽ nhau, tám cô gái chia nhau đứng tám phương vị, cùng dạo đàn thổi tiêu, âm vận thật là tao nhã. Một thiếu nữ mặc áo lụa mỏng màu vàng trong tiếng nhạc khoan thai bước lên, chính là cô gái Trương Vô Kỵ từng gặp ở Lô Long trong lần hội ngộ với quần hào Cái Bang.

Cô bé con Sử Hồng Thạch, bang chủ Cái Bang vừa trông thấy liền chạy ra đón, sà vào lòng nàng, kêu lên:

- Dương tỉ tỉ, Dương tỉ tỉ, các trưởng lão và long đầu của chúng tôi bị người ta giết cả rồi.

Cô gái vừa nói vừa chỉ Chu Chỉ Nhược:

- Chính phái Nga Mi và phái Thiếu Lâm hạ độc thủ đó.

Cô gái áo vàng gật đầu nói:

- Ta biết cả rồi. Hừ, Cửu Âm Bạch Cốt Trảo chưa chắc đã vô địch thiên hạ đâu!

Nàng ta lên núi tiền hô hậu ủng, hình dáng lại thật xinh đẹp tiêu sái, mọi người ai nấy đều chăm chăm nhìn, hai câu đó lại từng chữ rõ ràng truyền vào tai mọi người. Quần hùng kinh ngạc, một số người tương đối có tuổi nghĩ thầm: ? Pho trảo pháp của phái Nga Mi kia, không lẽ là môn võ công nổi danh tàn độc hơn một trăm năm trước Cửu Âm Bạch Cốt Trảo đấy chăng??. Tuy đã từng nghe đến Cửu Âm Bạch Cốt Trảo rồi, nhưng chỉ biết là âm độc ghê gớm nhưng thất truyền đã lâu chưa ai nhìn thấy bao giờ.

Thiếu nữ cầm tay Sử Hồng Thạch đi lẫn vào trong đám người của Cái Bang ngồi xuống một tảng đá. Chu Chỉ Nhược mặt hơi biến sắc, hỏi nhỏ:

- Cô ta là ai thế?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi cũng chỉ gặp có một lần, chẳng biết tên cô ta là gì, chỉ biết có liên hệ sâu xa với Cái Bang.

Chu Chỉ Nhược hứ một tiếng nói:

- Ra tay đi thôi!

Trường tiên của nàng rung một cái vung ra, cuốn lấy sợi dây của Độ Nạn, mượn sức nhảy luôn vào giữa ba cây tùng xanh ngắt. Ngay chiêu đầu tiên nàng đã tấn công thẳng vào trung cung của địch, vừa nhanh nhẹn vừa ác liệt, lại thật gan dạ, quả thật dẫu cao thủ hạng nhất trên giang hồ xem ra cũng chưa sánh kịp. Quần hùng thấy nàng ở trên không, chẳng khác nào một con hạc xanh đáp xuống, thân pháp nhẹ nhàng vô tỉ, nhuyễn tiên bên tay phải quện lấy sợi dây của Độ Nạn, vừa mượn sức đối phương lại nhất thời khiến cho ông ta không sử dụng được binh khí. Độ Ách và Độ Kiếp hai sợi dây cùng vung lên, chia hai bên đánh vào.

Trương Vô Kỵ liền xông thẳng lên, chân vừa nhấp một cái, đột nhiên lảo đảo. Mọi người kêu ối lên một tiếng, ai cũng tưởng chàng bị thương xong đứng không vững, có biết đâu đó là một chiêu trong võ Ba Tư ghi trên thánh hỏa lệnh, thân pháp quái dị, muốn đạt cực điểm phải làm như ngã nhào về trước, hai thanh thánh hỏa lệnh đã đánh ngay vào ngực Độ Nạn. Khi đó sợi dây của Độ Nạn còn đang bị nhuyễn tiên của Chu Chỉ Nhược cuốn chặt nên không thể thu về đỡ kịp, Độ Ách, Độ Kiếp hai người thấy thế nguy vội vàng bỏ Chu Chỉ Nhược, song tiên cùng đánh vào Trương Vô Kỵ. Hai sợi dây linh động uy mãnh đánh, tấn công vào chàng chẳng khác gì hai con rồng đen, ai nấy đều nghĩ Trương Vô Kỵ thật khó mà chống đỡ, ngờ đâu chàng lăn ngay xuống đất, nguy hiểm vạn phần tiến luôn vào bên cạnh Độ Ách. Tay trái của Độ Ách liền nhằm vai chàng chém xuống, Trương Vô Kỵ dùng Càn Khôn Đại Na Di hóa giải, đột nhiên nhổm dậy, đầu vai lại xông lên huých vào Độ Kiếp.

Hôm nay chàng muốn nhường cho Chu Chỉ Nhược được nổi danh, để tiếng đánh bại Thiếu Lâm tam tăng đều do chưởng môn phái Nga Mi còn mình chỉ cốt sao cứu được nghĩa phụ nên toàn sử dụng võ công Ba Tư, lăn qua đông một cái, nhào qua tây một cái, đã khó coi lại càng thêm bệ rạc nhưng nếu muốn độc địa thì cũng thật độc địa.

Những người đứng coi tuy không ít người đã từng được coi những chiêu thức trác tuyệt thế nhưng lộ võ công này quá cổ quái, người Trung Thổ lại chưa ai sử dụng bao giờ, huống chi hôm qua Trương Vô Kỵ bị thương ai cũng chứng kiến nên lúc đầu không ai thấy được sự thực. Những kẻ thù với Minh Giáo thì mừng thầm, còn phe bạn của Minh Giáo thì ai cũng ưu tư e ngại chàng hôm nay sẽ bỏ mạng nơi đây.

Hai bên trao đổi đến vài chục chiêu rồi, Chu Chỉ Nhược thân hình khi lên cao khi xuống thấp, phiêu hốt hết sức còn Trương Vô Kỵ càng lúc càng thêm tơi tả, chân tay luống cuống, vụng về xem ra chưa bằng một kẻ mới học võ, thế nhưng tình thế dù hung hiểm cách nào chàng cũng thoát khỏi sát thủ của đối phương trong đường tơ kẽ tóc.

Những người tâm cơ khôn ngoan liền hiểu ngay bên trong có điều gì bất thường, đoán chừng võ công chàng sử dụng cũng một kiểu như Túy Bát Tiên, trông thì loạng choạng chẳng đâu vào đâu nhưng thực ra bên trong có những biến hóa kỳ lạ, loại võ công này so với chính lộ còn khó học hơn nhiều.

Lộ võ công Ba Tư cổ này cực kỳ ghê gớm nếu như lấy một chọi một, đấu với bất cứ người nào trong ba vị lão tăng ắt cũng khiến cho đối phương chân tay loạc choạc chẳng khác nào lần đầu tiên Trương Vô Kỵ gặp Phong Vân ba sứ giả. Thế nhưng ba vị cao tăng tu tập khô thiền đã mấy chục năm, tâm ý tương thông, một trong ba người có sơ hở thì hai người kia lập tức trám vào ngay. Thân pháp chiêu số quái dị của Trương Vô Kỵ đúng ra chỉ một đòn đã làm cho địch nhân hoa cả mắt, tưởng bên trái mà hóa ra bên phải, tưởng phía trước mà lại ở sau lưng, không sao nhận thức được, thế nhưng ba nhà sư tâm động đâu roi theo đó, những biến hóa của chàng nhìn mà không thấy, coi như không. Quái chiêu của Trương Vô Kỵ tưởng như không bao giờ hết nhưng đến bảy tám mươi chiêu vẫn không làm tổn hại đến một cái lông của ba lão tăng. Đấu đến trăm chiêu, chàng thấy uy lực của ba sợi dây càng lúc càng mạnh, còn thân pháp của mình thì dần dần trì trệ, không còn linh động biến ảo như lúc đầu.

Chàng có biết đâu võ công mình đang sử dụng gần một nửa là ma đạo, mà Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba nhà sư chính là đại pháp tinh diệu nhất của nhà Phật để hàng phục tà ma. Người ngoài đứng xem thấy chàng càng đấu càng lên tinh thần, thực ra trong lòng chàng ma đầu mỗi lúc một bành trướng, chỉ cần thêm một trăm chiêu nữa, sẽ bị võ công Phật môn thượng thừa của tam tăng khống chế, lúc đó sẽ nhảy múa lung tung không tự chủ được nữa, ba cao tăng chẳng cần ra tay, chỉ cần để chàng tự mình kết liễu đời mình cũng xong. Minh Giáo bị người đời gọi là ma giáo, vốn cũng không phải là không nguyên do, nhưng lộ võ công này khởi thủy do Sơn Trung Lão nhân, là một ác nhân giết người không chớp mắt sáng chế. Trương Vô Kỵ chẳng biết chuyện đó nhưng bây giờ gặp phải cường địch mới phát huy đến chỗ tinh vi áo diệu của pho võ công này, tâm linh càng lúc càng cảm ứng, đột nhiên ngửa cổ cười ha hả ba tiếng, trong âm thanh đầy gian trá tà ma.

Ba tiếng cười của chàng vừa dứt, bỗng nghe giữa ba cây tùng có tiếng người từ nơi địa lao truyền lên, chính là nghĩa phụ Tạ Tốn đang tụng kinh. Chỉ nghe giọng nói già nua của ông đọc kinh Kim Cương:

- Khi đó Tu Bồ Đề nghe giảng kinh, hiểu rõ nghĩa lý, nước mắt ràn rụa, bạch Phật rằng: ?Kính lạy Thế Tôn, Phật giảng kinh điển thâm sâu dường ấy. Tôi từ khi có được tuệ nhãn đến nay chưa từng được nghe kinh này. Bạch Thế Tôn, nếu ai nghe kinh này mà có lòng tin thanh tịnh, ắt sẽ sinh ra thực tướng ...?

Trương Vô Kỵ vừa đấu vừa nghe, từ khi Tạ Tốn tụng kinh uy lực của trường tiên trên tay ba nhà sư Thiếu Lâm lập tức giảm đi, nghe Tạ Tốn vẫn niệm tiếp:

- ... Bạch Thế Tôn, hôm nay tôi được nghe kinh điển, tin tưởng chăm theo không còn gì khó nữa. Nếu đến đời sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh được nghe kinh này, tin tưởng chăm theo, quả là hiếm có lắm thay. Vì sao thế? Người đó không có ngã tướng, không có nhân tướng, không có chúng sinh tướng, không có thọ giả tướng ...

Trương Vô Kỵ nghe tới đây, trong lòng dạt dào như sóng biển, biết rằng nghĩa phụ từ khi bị giam nơi địa lao trên đỉnh núi này, ngày ngày nghe ba vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm tụng kinh, lần trước rõ ràng có thể thoát thân được nhưng tự biết mình tội nghiệt nặng nề, nhất định không chịu rời nơi đây, chẳng lẽ sau mấy tháng nghe kinh Phật đã đại triệt đại ngộ hay sao? Trong kinh có viết :? Nếu đến đời sau, năm trăm năm nữa, chúng sinh được nghe kinh này, tin tưởng chăm theo ...?. Trong lòng nghĩa phụ ta lúc này, cái kẻ năm trăm năm sau đó chẳng lẽ lại là Trương Vô Kỵ này chăng? Chỉ vì kinh nghĩa thâm trầm vi diệu, chàng đang kịch đấu không thể suy nghĩ cho sâu xa. Chàng có biết đâu Tu Bồ Đề trong kinh là một trưởng lão ở nước Xá Vệ bên Tây Trúc nghe Thích Già Mâu Ni giảng kinh Kim Cương, thành ra khi nghe Tạ Tốn tụng kinh văn chàng chỉ hiểu lờ mờ.

Lại nghe Tạ Tốn tiếp tục tụng niệm:

- Phật bảo Tu Bồ Đề: ?Chính thế đó! Chính thế đó! Nếu có ai nghe được kinh này, không kinh, không khiếp, không sợ, quả thực thật hiếm có trên thế gian ... Ta trước đây vì vua Ca Lợi mà cắt thân thể, nay ta cũng vì ngươi, vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Vì sao thế? Ta đã từng bị chặt đứt ra thánh từng khúc từng khúc, nếu như có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, ắt sẽ nổi lòng giận dữ thù hận ... Hỡi Bồ Đề ngươi nên rời xa những tướng đó?.

Đoạn kinh văn đó nghĩa lý thật rõ ràng, hiển nhiên định nói rằng, mọi việc trên thế gian này đều là huyễn ảo, ngay cả đối với thân thể mình, tính mệnh mình, trong lòng không còn một chút ý niệm dẫu cho người khác có đâm chém thân thể mình, cắt ra thành từng khúc, nếu không còn nghĩ đó là thân thể mình thì không còn chút gì phiền não. Nghĩa phụ đang ở trong địa lao mà lòng bình thản như thế, không lẽ ông đã đạt tới cảnh giới bất kinh, bất bố, bất úy rồi hay sao?

Chàng trong lòng lại chợt nổi lên một ý niệm: ?Hay là nghĩa phụ nhắn với ta rằng đừng phải lo nghĩ cho ông ta làm chi, không cần phải ra sức cứu ông ta thoát hiểm nữa??.

Thì ra trong mấy tháng qua Tạ Tốn bị giam tại chùa Thiếu Lâm, ngày đêm nghe ba nhà sư tụng kinh Kim Cương, nghĩa lý trong kinh cũng hiểu biết ít nhiều, lúc này nghe thấy tiếng cười của Trương Vô Kỵ quái dị, dường như ma tâm đang nổi lên dần dần đi vào chỗ nguy hiểm, liền lên tiếng tụng kinh Kim Cương để giúp chàng thoát ra khỏi những ma chướng đang uất kết trong lòng.

Trương Vô Kỵ một mặt nghe Tạ Tốn tụng niệm Phật kinh, chiêu số trên tay vẫn không ngừng lại, trong đầu nghĩ đến nghĩa lý lồng trong kinh văn, ma lực trong tâm từ từ tiêu giảm, pho võ công Ba Tư cổ quái kia không còn liền lạc với nhau, nghe vút một tiếng, sợi dây của Độ Kiếp đã nhằm đánh vào vai bên trái. Trương Vô Kỵ hạ vai xuống tránh, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, phối hợp với Cửu Dương thần công lập tức chế ngự ngay được kình lực đánh tới, trong lòng hơi động: ?Ta sử dụng pho võ công Ba Tư cổ quái kia khó mà thắng được?. Chàng liếc sang Chu Chỉ Nhược, thấy nàng lạng trái lách phải xem ra sắp sửa thua đến nơi, nghĩ thầm: ?Thế ngày hôm nay không thể nào vẹn cả đôi bề. Nếu ta không trổ hết toàn lực, nếu Chỉ Nhược thua rồi thì không còn làm sao cứu nghĩa phụ được nữa?.

Chàng liền hú lên một tiếng dài, cầm hai thanh thánh hỏa lệnh lập tức chuyển sang thế công. Trong khi tiếng tụng kinh của Tạ Tốn vẫn tiếp tục, Trương Vô Kỵ ngưng thần sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, thành thử ông ta đọc chàng tuy có nghe nhưng không biết gì cả cố gắng làm sao bắt được ba sợi dây của những nhà sư ngõ hầu Chu Chỉ Nhược có cơ hội đột phá vòng vây chen vào trong giữa ba cây tùng.

Một khi chàng đem toàn lực ra thi triển, tam tăng thấy áp lực đè lên những sợi dây càng lúc càng nặng khiến ai nấy phải vận nội lực để chống lại. Kim Cương Phục Ma Khuyên của ba nhà sư lấy tinh nghĩa yếu chỉ từ kinh Kim Cương, điểm tối hậu mong đạt đến là ?vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng?, khiến cho không còn phân biệt ta với người, sống với chết, mọi sự đều là không huyễn cả. Thế nhưng tuy tam tăng tu luyện đã cao nhưng khi ra tay vẫn còn ý niệm khắc địch chế thắng, tuy đã bỏ cái sống chết của bản thân mình ra ngoài nhưng cái phân biệt ta với người vẫn còn chưa sao diệt được, cho nên uy lực của Kim Cương Phục Ma Khuyên chưa lên đến cực điểm.

Trong ba nhà sư thì Độ Nạn tu tập cao nhất, biết được mình phải làm sao trừ được ?bốn tướng ta với người? nhưng cái tâm tranh thắng Độ Nạn, Độ Kiếp hai người còn thịnh, thâm nhiễm tạp niệm còn sâu, chấp vào hình tướng của thế gian thành thử tiên pháp của Độ Ách không thể không chiều theo phối hợp với hai sư đệ.

Người ngoài đứng xem thấy Trương Vô Kỵ biến cải chiêu số võ công, cuộc diện tỉ đấu giữa ba cây tùng càng lúc càng kịch liệt, trên đầu ba nhà sư lờ mờ thấy hiện lên một làn hơi, biết là trên trán và đỉnh đầu mồ hôi bị nội lực hâm nóng thành hơi bốc lên, đủ biết năm người đã đến cảnh giới đấu bằng nội lực. Trên đầu Trương Vô Kỵ cũng có thủy khí hiện ra, nhưng thẳng tắp một sợi như cây bút, vừa nhỏ vừa dài tụ mà không tán, rõ ràng nội lực của chàng cao siêu hơn cả ba nhà sư. Hôm qua quần hùng ai cũng thấy chàng bị trọng thương nào ngờ chỉ mới qua một đêm đã hoàn toàn bình phục, nội lực thâm hậu đến thế khiến ai nấy phải kinh hãi.

Còn Chu Chỉ Nhược thì không chính diện giao phong với ba nhà sư, chỉ ở ngoài vòng chạy qua chạy lại đánh cầm chừng, cứ thấy vòng Kim Cương Phục Ma chỗ nào sơ hở thì lại phóng tới, trường tiên đâm vào rồi lại nhảy ra ngoài như gà thấy cáo. Đến lúc này Trương Vô Kỵ và nàng võ học ai cao ai thấp mọi người đã rõ, trong đám người đứng ngoài có mấy người thì thầm bàn tán với nhau:

- Trong những năm gần đây người ta đồn rằng Minh Giáo Trương giáo chủ võ công cao cường đời nay không ai sánh kịp, quả nhiên danh bất hư truyền. Hôm qua y cố ý nhường vị Tống phu nhân này đấy thôi, đúng là đàn ông con trai ai lại hơn thua với đàn bà bao giờ.

- Ai bảo là đàn ông con trai ai lại hơn thua với đàn bà? Tống phu nhân vốn là vợ của Trương giáo chủ, bộ ngươi không biết hay sao? Cái đó gọi là ?tình xưa nghĩa cũ?.

- Hừ, ?tình oan nghĩa trái? thì có chứ ?tình xưa nghĩa cũ? cái gì?

- Thế nhưng sau đó Tống phu nhân lại tha chết cho Trương giáo chủ, thế chẳng phải ?tình chàng nghĩa thiếp? hay sao?

Chiêu số của Thiếu Lâm tam tăng và Trương Vô Kỵ càng lúc càng chậm lại nhưng biến hóa thì càng lúc càng tinh vi. Võ công của Chu Chỉ Nhược vốn chỉ lấy biến hóa kỳ ảo là chính, thắng được Võ Đương nhị hiệp là tuyệt đỉnh rồi, nói đến công phu nội lực, so với Du Liên Châu, Ân Lê Đình thật còn kém xa. Lúc này Trương Vô Kỵ và ba nhà sư lấy bản lãnh chân thực đấu với nhau không có cách nào lấy khéo léo mà che đậy được, nàng không cách gì chen tay vào, có lúc cố vung roi xông lên nhưng đụng phải nội kình của bốn người lập tức bị dội ngược trở ra.

Lại đấu thêm nửa giờ nữa, Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ cuồn cuộn lưu chuyển, thánh hỏa lệnh phát ra tiếng gió vù vù. Ba nhà sư mặt mũi vốn khác nhau lúc này ai nấy đều đỏ bừng như máu, tăng bào căng lên chẳng khác gì gió thổi vào. Thế nhưng áo quần Trương Vô Kỵ không thấy gì khác, cao thấp xem ra đã rõ ràng, nếu như chàng lấy một địch một, hay cả đến một địch hai thì đã thắng rồi. Cửu Dương chân khí của chàng nguyên hồn hậu không đâu sánh được, lại thêm Trương Tam Phong chỉ điểm cho phép luyện khí trong thái cực quyền, cho nên càng đấu càng thịnh, có thể kéo dài đến một hai giờ cho đến khi đối phương kiệt lực. Ba nhà sư lúc này biết rằng càng lâu càng bất lợi, đột nhiên cùng cất tiếng quát lên, ba sợi dây cùng chuyển động, bóng dây ngang dọc, lúc có lúc không. Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn thế roi của địch, đến đâu sách giải đến đó, trong bụng hơi bồn chồn: ?Võ công Chu Chỉ Nhược tuy lạ lùng thật nhưng học cũng chưa bao lâu, thành ra uy lực không bằng Dương tả sứ và ông ngoại liên thủ. Ta một mình không thể nào làm được chuyện gì, xem ra hôm nay mình lại thua mất. Lần này không cứu được nghĩa phụ thì biết làm sao đây??.

Chàng trong bụng hoang mang, nội lực liền sút giảm bị tam tăng thừa cơ tấn kích khiến cho đã gian nan lại càng thêm nguy hiểm. Chỉ trong một chớp mắt, trong đầu Trương Vô Kỵ hiện ra biết bao yêu thương Tạ Tốn dành cho khi còn ở trên Băng Hỏa Đảo, lại nghĩ đến Tạ Tốn mắt đã mù nhưng chấp nhận mạo hiểm quay trở lại giang hồ cũng chỉ vì mình, hôm nay nếu không cứu nổi ông ta thật chàng cũng không mong sống nữa làm gì. Bỗng thấy trường tiên của Độ Nạn từ phía sau cuốn tới, chàng không còn nghĩ gì tới sinh tử an nguy của bản thân, tay trái vươn ra để cho cây roi quất vào cánh tay, dùng phương pháp Na Di Càn Khôn đề ngự sức đánh vào, tay phải dùng thánh hỏa lệnh đỡ hai sợi dây của Độ Ách, Độ Kiếp đang tấn công tới, thân hình chẳng khác gì một con chim đại bàng bay giạt qua bên trái, giữa không trung xoay một vòng đã quấn luôn trường tiên của Độ Nạn vào cây thông ông ta ngồi.

Chiêu đó quả không ai ngờ nổi, Trương Vô Kỵ lấy tay đẩy một cái tung ngược người về sau định xiết cho sợi dây cho lún sâu vào cây thông, Độ Nạn kinh hãi hết sức giựt lại, Trương Vô Kỵ biến chiêu thật nhanh, theo đà giựt kéo luôn về phía ông ta. Thân cây tùng tuy to thật nhưng dưới gốc đã bị khoét mất một nửa để làm chỗ tránh gió tránh mưa cho ba nhà sư, lúc này bị sợi trường tiên dẻo dai cuốn lấy, do hai luồng lực đạo của Độ Nạn và Trương Vô Kỵ cùng kéo, nghe lách cách mấy tiếng, cây tùng gãy ra làm đôi, từ trên không đổ ụp xuống.

Nhân lúc Độ Ách, Độ Kiếp nhị tăng còn đang kinh ngạc chưa kịp trở tay, song chưởng của Trương Vô Kỵ liền tung ra, quát lên một tiếng đánh thẳng vào cây tùng của Độ Ách. Chưởng lực đó là công lực của cả một đời chàng, cây tùng kia chịu không nổi, lập tức gãy ngay. Hai cây tùng gãy, cành lẫn lá nặng phải đến mấy nghìn cân đổ ập vào cây tùng của Độ Kiếp. Trương Vô Kỵ phi thân nhảy lên, hai chân đạp luôn vào cây tùng thứ ba, cây đó cũng gãy nốt, rung chuyển rồi từ từ ngã xuống.

Trong tiếng cây đổ, tiếng người hò reo ầm ầm huyên náo, Trương Vô Kỵ liền ném hai thanh thánh hỏa lệnh trên tay về phía Độ Ách, Độ Kiếp. Nhân lúc hai nhà sư cuống quít một mặt tránh cây thông, một mặt đối phó với hai thanh thánh hỏa lệnh Trương Vô Kỵ hụp xuống, lăn tròn giữa khe hở cây thông đang đổ xuống, vào được vòng Kim Cương Phục Ma, sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa đẩy vừa lay, lập tức xê dịch được tảng đá đóng nắp hầm, kêu to:

- Nghĩa phụ, may chạy ra!

Chàng e ngại Tạ Tốn không chịu ra, không đợi trả lời, thò tay xuống, nắm lấy lưng ông ta kéo lên.

Ngay lúc đó hai sợi dây của Độ Ách và Độ Kiếp đã đánh tới. Trương Vô Kỵ đành phải bỏ Tạ Tốn xuống, thò tay móc hai chiếc thánh hỏa lệnh trong túi ném về phía hai nhà sư, hai bàn tay nhanh như điện, chộp luôn hai đầu dây. Độ Ách, Độ Kiếp đang toan vận nội lực đoạt về thì hai thanh thánh hỏa lệnh đã bay tới trước mặt, không còn kịp suy nghĩ gì khác, chỉ còn nước vứt bỏ sợi dây, nhảy vọt về phía sau mới tránh được tập kích. Ngay khi đó tả chưởng của Độ Nạn đã đánh tới trước ngực, Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Chỉ Nhược, mau chặn lại!

Chàng nghiêng người né qua, ôm Tạ Tốn, chỉ mong cứu ông ta ra khỏi ba cây tùng, phái Thiếu Lâm sẽ không còn nói gì được nữa. Chu Chỉ Nhược hừ một tiếng, hơi chần chừ, hữu chưởng của Độ Nạn đã đánh tiếp theo. Trương Vô Kỵ thân hình lệch qua cốt tránh những yếu huyệt sau lưng, để cho chưởng đó đánh vào đầu vai.

Chàng ôm Tạ Tốn, đang định nhảy ra khỏi ba cây thông gãy, Tạ Tốn nói:

- Vô Kỵ hài nhi, ta một đời tội nghiệt thâm trọng, ở nơi đây nghe kinh sám hối nên tâm mới an, thông hiểu lý lẽ. Con cứu ta ra làm gì?

Ông nói xong dẫy dụa toan đứng xuống. Trương Vô Kỵ biết nghĩa phụ võ công thật cao cường, nếu như kiên quyết không chịu đi thì thật khó mà đối phó bèn nói:

- Nghĩa phụ, con đành đắc tội vậy!

Năm ngón tay phải chàng vận kình điểm luôn mấy nơi huyệt đạo trên đùi, ngực và bụng để nhất thời ông ta không cử động được. Thế nhưng vì trở ngại đó, chưởng của ba nhà sư Thiếu Lâm cùng đánh ra, quát lên:

- Để người lại!

Trương Vô Kỵ thấy chưởng lực của tam tăng bao phủ bốn bề tám hướng, thủ chưởng chưa đến, kình phong đã ép vào, đành phải bỏ Tạ Tốn xuống đất, giơ chưởng ra chống đỡ, kêu lên:

- Chỉ Nhược, mau ôm nghĩa phụ ra ngoài!

Song chưởng của chàng vung lên thành từng vòng, vận toàn lực đối phó với ba nhà sư để không người nào rảnh tay ngăn trở Chu Chỉ Nhược. Đó là một trong những công phu tối cao trong Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, chưởng lực xoay tròn hư hư thực thực, dính chặt lấy chưởng của cả ba nhà sư.

Chu Chỉ Nhược nhảy vào trong vòng, đi đến bên cạnh Tạ Tốn. Tạ Tốn quát lên:

- Hừ, con tiện nhân ...

Chu Chỉ Nhược liền giơ tay điểm á huyệt của ông ta, mắng lại:

- Họ Tạ kia, ta có hảo ý cứu ngươi, sao lại mở mồm chửi người là sao? Ngươi tội ác ngập đầu, tính mạng ở trong tay ta, tưởng ta không giết ngươi được hay sao?

Nói xong giơ tay phải lên, năm ngón tay thành trảo, vồ xuống đỉnh đầu Tạ Tốn. Trương Vô Kỵ trông thấy hoảng hốt, vội kêu:

- Chỉ Nhược, không được thế!

Lúc này chàng đang giở hết công lực bình sinh đấu với ba nhà sư, tuy tam tăng không có ý giết Trương Vô Kỵ, nhưng vào lúc mà sinh tử chỉ quyết định trong nháy mắt, không muốn đả thương người thì chính mình sẽ chết không cách nào có thể dung tha cho nhau được. Trương Vô Kỵ vừa mở mồm, chân khí tiết lậu, chưởng lực của ba nhà sư lập tức như bài sơn đảo hải ụp tới, chỉ đành hết sức gượng lại. Hai bên đều vận yếu quyết chữ ?niêm?, nếu chưa thắng bại thì không thể làm cách nào rời ra được.

Chu Chỉ Nhược bàn tay để trên không nhưng chưa vồ xuống, liếc Trương Vô Kỵ cười nhạt nói:

- Trương Vô Kỵ, hôm trước ở trong thành Hào Châu, đang khi làm lễ cưới ngươi bỏ ta mà đi, đâu có ngờ đến ngày hôm nay?

Trương Vô Kỵ tâm chí chia làm ba, vừa lo cho tính mạng của Tạ Tốn, lại căm giận nàng nhân lúc khẩn cấp đem chuyện cũ ra báo thù, huống chi tam tăng chưởng lực vẫn cuồn cuộn đổ tới, dẫu như chuyên tâm ngưng thần đối phó rồi về sau cũng thua, huống chi tâm hồn hỗn loạn thật đúng là đại họa lâm đầu.

Trên trán chàng mồ hôi từng giọt đổ xuống, chỉ giây lát trước mặt sau lưng, quần áo chỗ nào cũng ướt đẫm. Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc, Du Liên Châu, Ân Lê Đình cả bọn thấy tình hình như thế, ai nấy đều kinh hãi thất sắc. Ai nấy đều cùng mang một ý niệm, chỉ mong cứu được Trương Vô Kỵ, còn mình dẫu phải bỏ mạng cũng không hối hận, nhưng người nào cũng biết mình công lực không đủ, không nói gì đứng giữa can hai bên ra, mà nếu có tiến lên tấn công ba nhà sư, tam tăng sẽ nhẹ nhàng đưa ngoại lực dồn vào Trương Vô Kỵ khiến chàng càng phải chịu đựng nhiều hơn, cứu không xong lại càng thêm hại.

Không Trí cao giọng kêu lên:

- Ba vị sư thúc, Trương giáo chủ mấy lần gia ân cho bản phái, xin nhẹ tay cho.

Thế nhưng bốn người đã đến lúc không còn có thể phân ra được nữa, Trương Vô Kỵ vốn không có bụng đả thương ba lão tăng, những nhà sư cũng nhớ đến cái ơn giải vây hôm trước đang tìm cách ngừng tay có điều hai bên đều lâm vào thế cưỡi trên lưng hổ không sao xuống được. Tam tăng đã đến lúc không còn chú ý gì đến bên ngoài thành thử mấy lời của Không Trí không ai nghe thấy, mà dù có nghe thì cũng đành chịu.

Vi Nhất Tiếu lạng người một cái như một làn khói mỏng bay vào trong ba cây tùng gãy toan đánh vào Chu Chỉ Nhược, thế nhưng thấy nàng ta giơ tay để trên lưng chừng, nếu như xông lên, thủ trảo ắt chộp ngay xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn chết đi, Trương Vô Kỵ đau lòng lập tức táng mạng dưới chưởng của ba vị trưởng lão Thiếu Lâm. Vi Nhất Tiếu bất quá chỉ cách Chu Chỉ Nhược chừng một trượng, nhưng đành ngẩn ngơ đứng nhìn, không dám tiến lên. Trong giây lát trên đỉnh núi ai nấy đứng trơ trơ như tượng đá, không ai cử động, cũng không ai nói một lời nào.

Đột nhiên Chu Điên cười khà khà hùng dũng tiến lên. Dương Tiêu giật mình kinh hãi quát lớn:

- Điên huynh, không được lỗ mãng.

Chu Điên không để ý đến, đi đến trước mặt ba nhà sư Thiếu Lâm mặt mày tươi tỉnh hỏi:

- Ba vị đại hòa thượng, có ăn thịt chó không nào?

Y thò tay vào bọc lấy ra một đùi chó đã nấu chín, nhứ nhứ trước mặt Độ Ách. Mấy hôm nay chùa Thiếu Lâm đãi ăn chỉ toàn món chay, Chu Điên hay rượu thích thịt, hai ngày liền hôm nào cũng rau dưa đậu phụ làm sao chịu nổi? Tối hôm qua y bắt trộm được một con chó, xẻ ra ăn no, nhưng còn giữ lại một đùi, bây giờ tình hình cấp bách nên đem ra quấy nhiễu tinh thần ba nhà sư. Bọn Dương Tiêu thấy thế ai nấy mừng rỡ, nghĩ thầm: ?Chu Điên bình thời hành sự khùng khùng điên điên, nhưng bây giờ quả là kế hay lắm?. Mọi người biết rằng một khi sử dụng nội lực toàn do tập trung tinh thần chí khí, Chu Điên nếu phá rối như thế, chỉ cần một nhà sư nổi sân niệm, tâm thần hơi phân tán là Trương Vô Kỵ có thể thắng được ngay.

Ba nhà sư nhìn mà không thấy, không ai để ý gì đến y. Chu Điên giơ đùi thịt chó lên nhai nhồm nhoàm, tấm tắc:

- Thơm quá! Ngon quá! Ba vị đại hòa thượng ăn thử một miếng xem nào!

Y thấy tam tăng vẫn thản nhiên như không, liền giơ đùi chó toan nhét vào mồm Độ Ách. Những nhà sư Thiếu Lâm đứng quanh cùng quát lên:

- Thằng điên kia, mau ra ngay.

Chu Điên đẩy chiếc đùi chó vào môi nhà sư, đột nhiên cánh tay giật mạnh, nửa người tê đi, nghe bạch một tiếng chiếc đùi chó đã rơi xuống đất. Thì ra lúc này nội kình Độ Ách đã tỏa ra khắp thân thể đến mức ?ruồi nhặng không đậu được?, bất cứ nơi nào khi gặp phải ngoại lực lập tức đẩy văng đi.

Chu Điên kêu lên:

- Ối chao! Ối chao! Thật tệ quá, thật tệ quá! Ông không ăn thịt chó thì cũng chẳng sao, cớ gì lại hất đùi chó ngon lành của tôi xuống đất, làm bẩn hết thế này? Ông phải đền cho tôi, ông phải đền cho tôi!

Y hoa chân múa tay kêu la rầm rĩ. Ngờ đâu ba nhà sư tu tập công phu, không bị các ma chướng bên ngoài quấy rối. Chu Điên tay phải lật một cái đã rút trong người ra một con dao, kêu lên:

- Nếu ông không chịu ăn thịt chó, lão tử hôm nay sẽ thí mạng cho mà xem.

Y giơ dao lên vạch vào mặt một cái, lập tức máu chảy ròng ròng. Quần hùng kinh hoảng kêu lên, Chu Điên lại giơ dao cắt thêm một đường nữa, lập tức mặt mũi đầy máu me, trông thật quái đản ghê rợn. Hình ảnh đó dẫu ai trông thấy cũng gớm ghiếc, nhưng Thiếu Lâm tam tăng vẫn chuyên chú, mắt tai mũi lưỡi không còn sử dụng, nên nào có thấy cái cảnh tự hủy hoại của Chu Điên đến như y đến trước mặt cũng không hay biết. Chu Điên lại kêu toáng lên:

- Hòa thượng giỏi nhỉ, nếu ông không đền đùi thịt chó cho tôi, tôi chết ngay tại đây cho mà xem.

Y giơ đoản đao lên toan đâm luôn vào tim mình. Y thấy giáo chủ tình hình nguy khốn, quyết ý xả mệnh tự sát để quấy nhiễu tinh thần ba nhà sư. Đột nhiên một bóng vàng thấp thoáng, một người đã phi thân tới, vươn tay cướp luôn con dao trong tay y, tiếp theo nghiêng người lướt tới, năm ngón tay thò ra, chộp xuống đỉnh đầu Chu Chỉ Nhược, thủ pháp sử dụng giống hệt cách Tống Thanh Thư dùng để giết các trưởng lão Cái Bang.

Năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược tuy chỉ cách đỉnh đầu Tạ Tốn chưa đầy một thước, nhưng kẻ địch thân pháp nhanh quá, đành phải rút tay về đỡ, gạt chiêu đó ra ngoài.

Trương Vô Kỵ nội kình mạnh không kém gì ba nhà sư liên thủ, nhưng công phu khô thiền ?ta vật đều quên? thì kém xa, chưa đến mức vào mắt mà không thấy, vào tai mà không nghe nên khi thấy Chu Chỉ Nhược ra tay uy hiếp Tạ Tốn, tâm thần chàng liền xao động ngay. Chu Điên đi lên phá rối, đến lúc cầm dao tự tận chàng đều nhìn rõ, trong bụng lại càng hoảng hốt. Lúc đó nội tức trong người chàng dâng lên như sóng biển, chỉ chớp mắt là hộc máu chết ngay tại chỗ, bỗng thấy cô gái áo vàng nhảy vào đoạt đoản đao trong tay Chu Điên, xuất chiêu tấn công Chu Chỉ Nhược giải thoát Tạ Tốn khỏi nguy nan.

Trương Vô Kỵ trong lòng mừng rỡ, nội kình lập tức trổi lên, kình lực của ba nhà sư liền hóa giải, chỉ giây lát đã thành thế thăng bằng. Bọn Độ Ách tuy không nhìn, không nghe thấy cảnh giới bên ngoài nhưng nội kình hai bên lên xuống vẫn cảm thấy rất tinh tế, thấy đối phương nội kình bỗng tăng lên thật nhanh nhưng không chuyển từ thế thủ sang thế công chính là cơ hội tối hảo để tiêu trừ nguy nan. Ba nhà sư tâm ý tương thông, lập tức liền từ từ thu kình lại, Trương Vô Kỵ cũng thu bớt một phần, tam tăng lại thu một phần. Cứ như thế bên này thu một ít bên kia thu một ít chỉ khoảnh khắc hai bên đều thu về cả. Tất cả bốn người cùng cười ha hả đứng lên. Trương Vô Kỵ vái một cái thật sâu, Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp ba nhà sư cũng chắp tay đáp lễ, cùng cất tiếng:

- Bội phục, bội phục!

Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại thấy cô gái áo vàng đang cùng Chu Chỉ Nhược giao đấu thật kịch liệt. Cô gái tay không còn Chu Chỉ Nhược một tay roi, một tay đoản đao nhưng xem ra vẫn núng thế. Võ công cô gái áo vàng xem ra cùng đường với Chu Chỉ Nhược, phiêu hốt linh động, huyễn ảo vô cùng nhưng giơ tay cất chân đều chính chứ không phải tà, nếu nói Chu Chỉ Nhược dáng như quỉ mị thì cô gái áo vàng thật chẳng khác gì thần tiên.

Trương Vô Kỵ chỉ mới coi sơ qua cũng biết cô gái kia chỉ thắng chứ không thua, nghĩa phụ không có gì nguy hiểm, nhưng xem ra nàng ta ra chiêu như muốn dò đường để xem võ công Chu Chỉ Nhược đến đâu, còn như quả như muốn thắng thì đã đánh ngã Chu Chỉ Nhược từ lâu rồi.

Độ Ách nói:

- Thiện tai! Thiện tai! Trương giáo chủ, tuy các hạ không thắng được ba anh em chúng tôi, chúng tôi cũng không thắng được các hạ. Tạ cư sĩ, xin ông cứ tự nhiên.

Nói xong ông ta tiến lên giải các huyệt đạo cho Tạ Tốn nói:

- Tạ cư sĩ, phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật. Cửa Phật lúc nào cũng mở rộng, thế gian này không ai là không độ được. Ta với ngươi ở trên đỉnh núi này cũng đã lâu ngày, cái đó cũng là có duyên với nhau.

Tạ Tốn đứng thẳng dậy nói:

- Ngã Phật từ bi, may được ba vị đại sư chỉ cho con đường sáng, Tạ Tốn này cảm kích khôn cùng.

Chỉ nghe thiếu nữ áo vàng quát lên một tiếng, tay trái vươn ra đã đoạt được trường tiên trong tay Chu Chỉ Nhược, tiếp theo thúc cùi chỏ vào huyệt đạo trên ngực nàng, năm ngón tay phải vươn ra để hờ trên đầu nói:

- Ngươi có muốn nếm mùi ?Cửu Âm Bạch Cốt Trảo? hay chăng?

Chu Chỉ Nhược không cử động được, nhắm mắt chờ chết. Tạ Tốn tuy hai mắt không nhìn thấy gì nhưng tình cảnh chung quanh vẫn hiểu rõ, tiến lên vái một cái nói:

- Cô nương cứu mạng cho hai cha con tôi, đại đức đó thật là sâu nặng. Vị Chu cô nương này nếu không biết hối cải, vẫn tiếp tục làm điều bất nghĩa, thể nào rồi cũng có ngày bị quả báo. Khẩn cầu cô nương hôm nay tha cô ta một chuyến.

Cô gái áo vàng nói:

- Kim Mao Sư Vương hối cải nhanh quá đi thôi.

Thân hình nàng lắc một cái đã lùi ra ngoài.

[1] Kình lực xoáy vào như hình trôn ốc, hình mũi khoan

[2] Trung Hoa chính yếu có hai loại tiên, một loại gọi là cương tiên, hình dáng giống như một cây gậy có cán, đúc bằng kim loại (hơi giống cây giản), một loại là nhuyễn tiên là một thứ roi mềm (dài hơn). Việt Nam ta có cây roi (ở vùng Bình Định rất nổi tiếng) còn gọi là trung bình tiên giống cây côn một đầu chuốt hơi nhỏ hơn, chiều dài bằng người đứng thẳng giơ tay lên, phương pháp sử dụng giống như đánh thương, chủ yếu dùng để đâm. Ngoài ra ta còn một loại roi khác gọi là roi lâm, ngắn hơn trung bình tiên, phép đánh nửa roi, nửa côn.

[3] Gồm hai mắt, hai lỗ mũi, hai lỗ tai và miệng

[4] tâm vô bàng vụ, hàm hung bạt bối, trầm kiên trụy trửu là yếu quyết của người tập luyện thái cực quyền hay kiếm pháp ý nói người luyện phải buông lỏng ra để khí lực lưu chuyển cho thông sướng.

[5] Thái Sơn băng ư tiền nhi sắc bất biến, Mị lộc hưng ư tả nhi mục bất thuấn

Hồi 39

BÍ CẬP BINH THƯ THỬ TRUNG TÀNG

Ai ngờ tay áo nuôi ong,

Biết người biết mặt biết lòng được sao?

Sông sâu còn có kẻ đào,

Lòng người thay đổi dây nào buộc đây?

rương Vô Kỵ cầm tay Tạ Tốn, đang tính sánh vai bước ra, Tạ Tốn bỗng nói:

- Khoan đã!

Ông ta chỉ vào một lão tăng trong đám sư chùa Thiếu Lâm kêu lên:

- Thành Côn! Ngươi mau ra đây, trước mặt anh hùng thiên hạ, nói tất cả tiền nhân hậu quả cho mọi người nghe xem nào.

Mọi người ai nấy kinh ngạc, thấy nhà sư đó lưng còng yếu đuối, hình dung ti tiện, tướng mạo khác hẳn Thành Côn. Trương Vô Kỵ đang định nói: ?Ông ta không phải Thành Côn đâu!? thì lại nghe Tạ Tốn nói tiếp:

- Thành Côn, ngươi có thể thay đổi tướng mạo, nhưng không thể thay đổi thanh âm. Ngươi chỉ cần tằng hắng một tiếng, ta đã biết ngay ai rồi.

Lão tăng kia cười nham hiểm nói:

- Ai mà nghe lời một thằng mù nói láo nói lếu bao giờ.

Ông ta vừa mở mồm, Trương Vô Kỵ lập tức nhận ra ngay. Hôm đó chàng ở trên Quang Minh Đính nằm trong cái túi vải đã từng nghe Thành Côn trường thiên đại luận nên thanh âm của y chàng nhớ rất rõ, tuy lúc này Thành Côn cố ý chẹt họng lại, thân hình tướng mạo cũng cải trang rất khéo léo nhưng giọng nói vẫn không che dấu được. Trương Vô Kỵ liền nhảy ra chặn đường y nói:

- Viên Chân đại sư, Thành Côn tiền bối, đại trượng phu quanh minh lỗi lạc sao không đưa bộ mặt thật của mình ra cho người ta xem?

Thành Côn cải trang ẩn mình trong tăng chúng Thiếu Lâm từ đầu đến cuối không lộ chút sơ hở nào, mãi đến khi thiếu nữ áo vàng chế phục được Chu Chỉ Nhược quả thực ngoài tính toán của y, nhịn không nổi nên mới ho khẽ một tiếng, Tạ Tốn sau khi mắt mù tai trở thành rất thính, tiếng tằng hắng kia thật chẳng khác gì một tiếng sét giữa ban ngày nên nhận ra ngay ra kẻ thù mà ông vẫn hằng ghi sâu trong xương tủy.

Thành Côn thấy việc đã đổ bể liền tiến ra quát lớn:

- Thiếu Lâm tăng chúng nghe đây, ma giáo lên đây quấy nhiễu đất Phật, coi rẻ bản phái, tất cả cùng ra tay giết sạch chúng không còn phải nói năng gì nữa.

Bọn đồng đảng thủ hạ của y liền nhao nhao đáp lời, rút binh khí tiến lên toan động thủ. Không Trí chỉ vì sư huynh Không Văn bị bọn phản đồ hiếp chế, nín nhịn đã lâu, lúc này nghe Viên Chân ra lệnh cho đồng đảng đánh với Minh Giáo, nếu hai bên hỗn chiến, không biết chùa Thiếu Lâm sẽ có bao nhiêu người bỏ mạng, tính toán nặng nhẹ thiệt hơn thì chuyện sống chết của cả chùa Thiếu Lâm là chuyện lớn, nên liền quát lên:

- Không Văn phương trượng đã rơi vào tay tên phản đồ Viên Chân này rồi, các đệ tử bắt lấy y trước rồi cứu phương trượng sau.

Chỉ giây lát trên đỉnh núi nhốn nháo cả lên. Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược nằm gục dưới đất, nét mặt đầy vẻ ủ rũ, trong lòng không nỡ nên tiến lên giải huyệt cho nàng, đỡ dậy. Chu Chỉ Nhược hất tay chàng ra, cố gượng đi về với đám đệ tử phái Nga Mi. Bỗng nghe Tạ Tốn sang sảng nói:

- Việc ngày hôm nay hoàn toàn do Thành Côn và tôi gây nên mọi chuyện, bao nhiêu ân oán dây dưa, hãy để cho hai người chúng tôi giải quyết. Sư phụ, bao nhiêu tài nghệ của tôi cũng do thầy chỉ dạy; Thành Côn, cả nhà ta bị chính ngươi giết sạch. Đại ân cũng như đại cừu, hôm nay tôi và ông phải thanh toán cho xong.

Thành Côn thấy Không Trí không còn úy kỵ gì nữa mở lời ra lệnh, dẫu gì trong số nhà sư phe chính cũng vẫn đông hơn, đồng đảng của mình chỉ là một phần nhỏ, cái mộng lên làm phương trượng của mình đã tan ra mây khói, nghĩ thầm: ?Tạ Tốn gây ra biết bao nhiêu điều ác, nếu ta chế ngự được y thì mọi chuyện xấu xa sẽ đổ riệt lên đầu y được. Võ công y đều do ta truyền thụ, hai mắt lại mù, không lẽ mình không đối phó nổi hay sao??. Y bèn nói:

- Tạ Tốn, trên giang hồ biết bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng dưới tay ngươi, hôm nay lại kêu gọi các ma đầu của ma giáo đến quấy nhiễu phúc địa Phật môn, là kẻ thù chung của thiên hạ. Ta thật tiếc đã truyền thụ võ công cho ngươi, lúc này không thể không quét sạch cửa ngõ, trừng trị tên nghịch đồ khi sư diệt tổ.

Nói xong y hung hăng tiến ra trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn cao giọng nói:

- Quí vị anh hùng bốn phương nghe đây: Võ công của Tạ Tốn này, nguyên là do vị Thành Côn sư phụ đây dạy cho, thế nhưng y bức gian vợ tôi không được, giết cha mẹ vợ con tôi. Thầy trò tuy thân, nhưng cũng không thân bằng cha sinh mẹ đẻ ra mình. Tôi tìm y để báo thù, liệu có đáng hay không?

Bốn bề quần hùng cất tiếng hò reo vang động:

- Đáng báo thù! Đáng báo thù!

Thành Côn không nói một lời, nghe vù một tiếng đánh ra một chưởng vào đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn nghiêng qua, tránh chỗ yếu hại trên đỉnh đầu, nghe bốp một tiếng chưởng đó trúng ngay vai ông ta. Tạ Tốn hừ một tiếng không trả đòn nói:

- Thành Côn, năm xưa ngươi truyền cho ta chiêu Trường Hồng Kinh Thiên[1] có nói là nếu đánh trúng địch thủ rồi, thì phải sử dụng Hỗn Nguyên Nhất Khí Công để đả thương địch, hà cớ gì ngươi lại không vận công? Hay là vì tuổi đã cao, không còn vận công được nữa?

Thì ra chiêu đầu tiên Thành Côn sử dụng chỉ là hư chiêu, có ngờ đâu đối phương lại không tránh né, đánh là trúng ngay. Thế nhưng chiêu này y hoàn toàn không sử dụng kình lực cho nên Tạ Tốn không bị thương.

Thành Côn tay trái đánh nhứ ra, tay phải lại tung ra một chưởng nữa. Tạ Tốn nghiêng người tránh qua, cũng không trả đòn. Thành Côn hai chân liên hoàn cước đá tới, bộp bộp hai tiếng, hông Tạ Tốn trúng luôn hai cái. Hai cú đá đó kình lực thật là ghê gớm, mặc dầu Tạ Tốn thân thể cao to nhưng cũng chịu không nổi, oa lên một tiếng, hộc ra một ngụm máu tươi.

Trương Vô Kỵ vội kêu lên:

- Nghĩa phụ, trả đòn đi. Sao cha lại chỉ chịu đựng mà không đánh trả?

Tạ Tốn thân hình lảo đảo, gượng cười nói:

- Y là sư phụ ta, có chịu hai cú đá và một chưởng thì cũng đáng.

Nói xong ông hú lên một tiếng, múa chưởng đánh ra. Thành Côn trong bụng kêu thầm: ?Tiếc quá, tiếc quá! Ta vẫn tưởng y với mình thù sâu tựa biển, vừa gặp là đánh chí mạng ngay, nếu biết y nhường mình ba chiêu thì ngay từ đầu lập tức hạ sát thủ đâu để mất cái dịp may này!?. Y thấy thế chưởng của Tạ Tốn thật là lợi hại, lập tức tay trái đưa xéo ra, gạt chưởng lực của đối phương thân hình xoay nửa vòng đã lướt ra sau lưng, khinh thường Tạ Tốn mắt không nhìn thấy, một chưởng nhẹ nhàng đánh vào. Thế nhưng Tạ Tốn tưởng như có mắt, đá ngược về sau. Thành Côn nhảy vọt lên, từ trên không như chim ưng chụp xuống. Y đã vào tuổi ?cổ lai hi? nhưng thân pháp vẫn nhanh nhẹn như người còn trẻ. Tạ Tốn hai tay đỡ lên, thế đánh của Thành Côn từ trên xuống bị chặn lại, bật trở lên, trên lưng chừng lại xoay một cái đánh xuống lần nữa.

Hai người vừa ra tay, lấy nhanh chống nhanh thoáng một cái đã trao đổi luôn bẩy tám chục chiêu. Tạ Tốn tuy hai mắt không nhìn thấy gì thế nhưng võ công của ông ta toàn do Thành Côn truyền dạy, quyền cước của học trò mình Thành Côn dĩ nhiên biết rành, mà chiêu số của Thành Côn thì Tạ Tốn cũng thuộc nằm lòng. Sau mấy chục năm công phu tu tập nội công của hai người ai cũng tiến triển nhưng quyền cước chiêu thuật thì vẫn là của bản môn cho nên Tạ Tốn dẫu không sáng mắt vẫn biết được mình ra chiêu, đối phương sẽ sách giải như thế nào cho nên mỗi chiêu tung ra đều ngầm hờm sẵn vài cách biến hóa. Hơn nữa ông ta kém Thành Côn mười mấy tuổi, khí huyết còn tráng kiện hơn, khí hậu trên Băng Hỏa đảo lại lạnh buốt rất lợi cho việc tu luyện nội công, thành thử đã trên trăm chiêu mà vẫn không lép vế chút nào.

Tạ Tốn thù Thành Côn sâu như bể, canh cánh chờ đợi mấy chục năm qua bây giờ mới có dịp giao đấu, Trương Vô Kỵ vẫn tưởng ông ta sẽ đánh thí mạng ngay để mong cả hai cùng chết, nào ngờ mỗi chiêu mỗi thức đều trầm ổn lạ thường, bảo vệ môn hộ thật là nghiêm nhặt. Lúc đầu chàng hơi lấy làm lạ nhưng sau khi xem mấy chục chiêu rồi mới hiểu ra, võ công Thành Côn xem ra không kém Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp ba nhà sư, nếu Tạ Tốn ngay từ đầu nóng máu hung hăng, chỉ e không chịu nổi ba trăm chiêu. Rõ ràng trong lòng Tạ Tốn mối thù càng sâu thì ra tay lại càng dè dặt, chỉ e nếu mình bị bại dưới tay Thành Côn thì mối thù cha mẹ vợ con đành đổ xuống sông xuống biển.

Thấm thoát hai bên đã trao đổi trên hai trăm chiêu, Tạ Tốn quát lên một tiếng, đánh vù ra một quyền. Quan Năng của phái Không Động liền kêu lên:

- Thất Thương Quyền!

Chỉ thấy Tạ Tốn trái phải liên tiếp tung ra, thật là uy mãnh, chư lão của phái Không Động ai nấy kinh hãi, ai cũng thẹn là mình không sao kịp được. Thành Côn liên tiếp né tránh được ba quyền, đợi quyền của Tạ Tốn vừa đánh tới, chưởng tay phải liền đẩy ra, nghe bộp một tiếng, quyền chưởng đụng nhau, Tạ Tốn râu tóc dựng đứng, uy phong lẫm liệt đứng yên không động đậy trong khi Thành Côn phải lùi lại ba bước.

Trong đám người đứng xem không ít kẻ lớn tiếng reo hò. Cừu oán và nguyên nhân Tạ Tốn với Thành Côn như thế nào, lúc đó trên giang hồ đã truyền khắp nơi. Mọi người tuy giận Tạ Tốn ra tay độc ác, giết hại người ngay nhưng cũng hiểu được cảnh bi thảm mà ông ta phải chịu, Thành Côn quá ư gian hiểm, trừ những người có thân nhân bị Tạ Tốn giết hại, quá nửa còn lại ai cũng mong ông ta đắc thắng.

Tạ Tốn tiến lên ba bước, vù vù đánh ra hai quyền nữa, Thành Côn trả lại hai chưởng, lại phải lùi ba bước. Trương Vô Kỵ kêu thầm: ?Hỏng rồi! Thành Côn sử dụng Thiếu Lâm Cửu Dương Công, là công phu học được sau khi bái Không Kiến thần tăng làm thầy, nghĩa phụ chưa được truyền thụ?.

Tạ Tốn khi luyện pho Thất Thương Quyền chỉ cần mau thành công, năm xưa đã bị nội thương, trong quyền vốn có khuyết điểm, Thành Côn biết rõ điều đó cố ý làm như yếu thế, đem Thiếu Lâm Cửu Dương Công ra sử dụng. Mỗi quyền Tạ Tốn đánh ra, Thành Côn chỉ chịu có bảy phần, dùng Cửu Dương Công hóa giải, còn ba phần phản kích trở về. Tạ Tốn vù vù liên tiếp đánh mười hai quyền, Thành Côn liên tiếp lùi mấy chục bước, thoạt trông thì tưởng Tạ Tốn thành công lớn, nhưng thực ra nội thương càng lúc càng nặng.

Trương Vô Kỵ hết sức bồn chồn, đây là cơ hội phục thù nghĩa phụ ngày đêm mơ tưởng, chàng cách nào cũng không thể ra tay giúp đỡ, nhưng nếu tiếp tục đấu thêm vài mươi chiêu nữa, Tạ Tốn ắt sẽ hộc máu chết liền. Không Trí đột nhiên lạnh lùng nói:

- Viên Chân, sư huynh ta năm xưa truyền thụ Thiếu Lâm Cửu Dương Công cho ngươi để ngươi đem ra hại người hay sao?

Thành Côn cười khẩy đáp:

- Ân sư ta chết vì Thất Thương Quyền, hôm nay ta nhất quyết báo thù cho lão nhân gia.

Triệu Mẫn đột nhiên kêu lên:

- Cửu Dương Công của Không Kiến thần tăng cao siêu hơn ngươi nhiều sao ông ta lại không chống đỡ nổi Thất Thương Quyền? Không Kiến thần tăng bị hại vì tay tên gian tặc là ngươi. Ngươi đánh lừa lão nhân gia đứng ra hóa giải oan nghiệt, để cho ông chịu đòn mà không đánh trả. Ha ha, ngươi thử xem, thử xem sau lưng ngươi ai đang đứng đó? Mặt đầy máu, hầm hầm nhìn vào lưng ngươi kia kìa, chẳng phải Không Kiến thần tăng thì là ai?

Thành Côn biết chắc chỉ là dọa xuông nhưng sau khi phạm tội ác đó rồi trong tâm không khỏi áy náy cho nên cũng thấy rợn người. Ngay lúc đó, Tạ Tốn lại đánh một quyền ra, Thành Côn giơ chưởng đỡ, thân hình hơi lảo đảo nhưng không lui về sau vì đã phân tâm nên chân khí hơi tán loạn. Y bị trúng quyền ngay ngực, khí huyết trộn trạo, vội vàng thi triển khinh công chạy quanh Tạ Tốn một hồi mới lấy lại được quân bình.

Triệu Mẫn lại kêu lên:

- Không Kiến thần tăng, ngài cứ theo sát y, đúng rồi, cứ như thế, hà hơi lạnh vào cổ y. Ngài chết vì tay học trò, y cũng sẽ chết về tay học trò, cái đó mới là ông trời có mắt làm ác gặp ác, báo ứng nhãn tiền.

Thành Côn bị nàng dọa đến nổi da gà, thần hồn nát thần tính, thấy quả sau lưng có gió lạnh thổi tới mình, trong cơn hoảng loạn quên mất rằng trên đỉnh núi gió núi thổi ngày đêm không ngừng, huống chi hai người nhảy nhót giao đấu, sau lưng có gió là chuyện đương nhiên.

Triệu Mẫn thấy y hơi phân vân, lại nói:

- Ối chao! Thành Côn, ngươi thử ngoái đầu lại xem ai ở sau lưng? Ngươi không dám quay lại à? Vậy xem dưới đất hai người giao đấu, sao lại có đến ba cái bóng?

Thành Côn không suy nghĩ quay nhìn xuống đất, quả nhiên giữa hai bóng người có một khoảng thẫm hơn, trong bụng hơi hoảng, Tạ Tốn đã đánh ngay một quyền. Thành Côn không kịp sách giải, cũng tống một quyền ra chọi lại, nghe bình một tiếng, hai người sử dụng chân lực đấu với nhau nên đều lảo đảo lùi về sau một bước.

Thành Côn bấy giờ mới nhìn kỹ thấy cái bóng đó chẳng qua chỉ là bóng cây tùng bị gãy mà thôi. Y giao đấu đã lâu mà chưa thắng được, trong bụng cũng hơi nóng ruột nghĩ thầm: ?Y là học trò của ta, hai mắt lại mù, sao ta lại trị y không nổi, những kẻ tâm phúc đứng ngoài xem làm sao còn coi ta ra gì? Huyễn Âm Chỉ thần công của ta hôm trước bị tên tiểu tặc ác ôn Trương Vô Kỵ dùng nội lực thuần dương phá mất rồi chứ không thì hôm nay đâu có phải dây dưa mãi với Tạ Tốn thế này? Tình hình trước mắt xem ra nguy hiểm quá, phải làm cách nào chế ngự ngay tên nghịch đồ mới mong uy hiếp được Minh Giáo, sau đó mới khiêu khích kẻ thù của y cùng xông lên. Có như thế mình mới mong thoát thân được?.

Y nghĩ như thế lập tức liền len lén di chuyển về phía cây thông gãy hai bước. Tạ Tốn liên tiếp đánh ra ba quyền, tiến lên hai bước, Thành Côn lại lùi thêm hai bước nữa, toan dụ cho Kim Mao Sư Vương tiến về phía cây tùng. Tạ Tốn đang toan đuổi theo tấn công, Trương Vô Kỵ kêu lên:

- Nghĩa phụ, coi chừng dưới chân!

Tạ Tốn giật mình, nhảy lách qua một bên nhưng đã hơi chậm lại, Thành Côn liền lợi dụng sơ hở, đánh ra một chưởng lặng như tờ, vừa trúng ngay giữa ngực Tạ Tốn liền nhả nội lực đẩy Tạ Tốn ngã ngửa về sau. Thành Côn lập tức giơ chân đạp xuống đầu đối phương, Tạ Tốn vội lăn ra xa đứng bật dậy, trên miệng máu chảy ròng ròng. Thành Côn đứng yên không cử động, tay phải lại chầm chậm đánh ra. Tạ Tốn đấu với y toàn là nhờ chiêu số quen thuộc lại thêm nghe tiếng gió mà nhận định tình hình, bây giờ Thành Côn ra chiêu không theo chưởng pháp chỉ nhẹ nhàng đưa tới trước mặt rồi bất ngờ đánh ra trúng ngay vai địch thủ. Tạ Tốn thân hình loạng choạng, cố gượng đứng lại.

Người chung quanh đa số không phục, nhao nhao la ó:

- Mắt sáng đánh với mắt mù mà lại dùng thủ đoạn hèn hạ thế sao?

Thành Côn chẳng thèm để ý, lại chầm chậm đánh ra một chưởng. Tạ Tốn tập trung tinh thần lắng nghe, vừa thấy chưởng của địch ùa tới liền giơ tay gạt ra. Trương Vô Kỵ thấy mớ tóc vàng của ông ta bù xù, khóe miệng đầy máu, trong lòng vừa phẩn nộ vừa bối rối, biết rằng nếu còn đấu tiếp, cha nuôi mình thể nào cũng chết dưới tay Thành Côn, nhưng nếu như mình ra tay tương trợ đẫu có giết được Thành Côn, nghĩa phụ cũng vẫn ôm mối hận cả đời. Chàng nắm lấy tay Triệu Mẫn hỏi dồn:

- Em nghĩ xem có kế gì không?

Triệu Mẫn đáp:

- Chàng len lén ném ám khí, bắn mù hai mắt y được không?

Trương Vô Kỵ lắc đầu:

- Nghĩa phụ thà chết chứ không để anh làm thế đâu?

Lại thấy Thành Côn chầm chậm đánh ra một chưởng nữa, Triệu Mẫn kêu lên:

- Trên ngực.

Tạ Tốn liền giơ quyền đánh thẳng vào ngực, chưởng của Thành Côn chưa xong hẳn vội vàng rút về. Y liên tiếp chầm chậm đánh ra mấy chiêu đều bị Triệu Mẫn báo động kịp nên liền tương kế tựu kế nhè nhẹ đánh ra một chưởng vào đầu vai bên phải của Tạ Tốn. Triệu Mẫn kêu lên:

- Vai phải!

Vai trái của Thành Côn hơi rung động, Trương Vô Kỵ hiểu ngay vội kêu:

- Sau lưng!

Tạ Tốn nghe Triệu Mẫn nhắc rồi liền giơ tay phải lên chống đỡ đầu vai, ngờ đâu chưởng của Thành Côn chỉ là hư chiêu đợi Tạ Tốn vừa giơ tay ra, tay trái thừa cơ đánh vào nghe bộp một tiếng trúng ngay lưng một đòn thật nặng. Trương Vô Kỵ tuy đã kịp thời cảnh cáo nhưng chiêu đó của Thành Côn thật nhanh, Tạ Tốn khi nghe Trương Vô Kỵ gọi thì không còn kịp biến chiêu nữa rồi.

Mọi người hốt hoảng kêu la, Tạ Tốn đã phun ra một ngụm máu trúng thẳng vào mặt Thành Côn. Thành Côn ?A? lên một tiếng, giơ tay lên chùi, còn Tạ Tốn ngã lăn dưới đất. Bông nghe cả hai người cùng kêu thét lên rồi trước mắt không còn thấy ai đâu nữa.

Thì ra Tạ Tốn bị ngã rồi, lập tức ôm chặt lấy hai chân Thành Côn, hết sức vật y xuống, hai người cùng rơi tõm vào trong địa lao. Trong hầm nước ngập đến cổ, tối om om, Thành Côn tự nhiên chẳng khác gì người mù. Y vội nhảy về sau cốt sao càng xa địch thủ càng tốt. Thế nhưng hầm đá đó rất hẹp, y nhảy là đụng ngay vào vách, vừa phóng lên thì bụng đã trúng phải một đòn Thất Thương Quyền, đau thấu tâm can. Thành Côn biết mình trúng phải quyền đó bị thương rất nặng, nếu tiếp tục nhảy lên thì sẽ tiếp tục bị đòn, vội vàng biến chiêu dùng Tiểu Cầm Nã Thủ đối phó. Tiểu Cầm Nã Thủ vốn dùng chiến đấu trong khi trời tối nên phải ứng biến thật nhanh, mắt không nhìn thấy nhưng ngón tay, bàn tay, cánh tay, khuỷu tay dù nơi nào đụng phải địch, lập tức bắt nắm cào cấu đấm móc bẻ vặn ngay. Tạ Tốn quát lên một tiếng cũng dùng Tiểu Cầm Nã Thủ để chống lại.

Mọi người chỉ nghe thấy trong hầm sâu tiếng hò hét liên miên, xen lẫn tiếng quyền cước đụng phải da thịt nghe ròn như đậu rang, từng chập từng chập nước văng lên ào ào, hẳn là hai người đang hết sức tấn công nhau. Trương Vô Kỵ tim đập thình thịch, thầm nghĩ nếu như nghĩa phụ gặp hung hiểm thì chàng cũng đành chịu không sao ra tay cứu được, cũng không cách nào nhảy vào trong hầm thành thử sau lưng mồ hôi lạnh toát ra ướt đẫm.

Tạ Tốn hai mắt đã mù trên hai chục năm, công phu nghe tiếng gió biện luận đã rất thuần thục, lấy tai thay mắt quen lắm rồi. Còn Thành Côn ở trong hầm nước chỉ đánh đấm loạn xạ cầu may, hai bên kẻ yếu người mạnh lập tức xoay chiều. Thành Côn trong lòng kinh hãi không biết tính sao, chỉ còn cách hai tay sử dụng Tiểu Cầm Nã Thủ thật nhanh như gó táp mưa sa, thi triển hết độc chiêu này đến độc chiêu khác, nghĩ thầm: ?Không thể để cho y đánh trúng thêm một chưởng nào nữa, phải làm đủ mọi cách ra khỏi hầm đấu tiếp?.

Quần hùng ai nấy nhích lại miệng hầm, lòng bàn tay người nào cũng đổ mồ hôi, chỉ nghe tiếng hò hét của Thành Côn và Tạ Tốn vọng lên không dứt, xem ra chưa phân thắng bại. Bỗng nghe Thành Côn kêu lên một tiếng thảm thiết, kế đó hai bóng người từ dưới địa lao cùng bay vọt lên.

Dưới ánh mặt trời, cả Thành Côn lẫn Tạ Tốn hai mắt đều ứa máu, sừng sững nhìn nhau không ai cử động. Thì ra trong khi kịch đấu, Tạ Tốn hai tay gạt ra tấn công vào hai bên hông Thành Côn. Thành Côn mừng rỡ kêu lên:

- Trúng!

Bàn tay phải ngón tay giữa và ngón tay trỏ lập tức đâm vào hai mắt Tạ Tốn. Đó là chiêu Song Long Sang Châu[2], một chiêu vốn dĩ thật tầm thường nhưng xen vào dùng trong Tiểu Cầm Nã Thủ lại có uy lực rất lớn, đối phương thể nào cũng phải lách đầu qua tránh, bàn tay trái lập tức quét qua thể nào cũng trúng huyệt Thái Dương của địch. Ngờ đâu Tạ Tốn không tránh cũng không né, cũng lại kêu lên:

- Trúng!

Ông ta cũng tung ra đúng ngay chiêu Song Long Sang Châu, ngón trỏ ngón giữa đâm luôn vào hai mắt Thành Côn. Thành Côn hai ngón tay đâm trúng mắt Tạ Tốn, trong đầu lập tức nhanh như ánh chớp nghĩ ra: ?Chết rồi!? thì mắt đã đau nhói, hai ngón tay Tạ Tốn đã đâm vào. Hai người bị thương y hệt nhau, nhưng Tạ Tốn mù sẵn có bị song chỉ của Thành Côn đâm thêm cũng chỉ là tổn thương da thịt, còn Thành Côn nay biến thành người mù.

Tạ Tốn cười khẩy nói:

- Làm người mù có thích hay không?

Vù một tiếng quyền đã đánh ra, Thành Côn mắt không nhìn thấy không cách nào tránh được, chiêu Thất Thương Quyền đó trúng ngay giữa ngực. Tay trái Tạ Tốn lại đánh ra, Thành Côn lảo đảo lùi lại ngã gục trên cây tùng bị gãy, máu miệng trào ra như suối. Đột nhiên Độ Ách cất tiếng nói:

- Nhân quả báo ứng! Thiện tai! Thiện tai!

Tạ Tốn sững sờ, quyền thứ ba vừa đánh ra giữa chừng ngừng lại không phát nữa, nói:

- Ta vốn dĩ định đánh ngươi đủ mười ba đòn Thất Thương Quyền. Thế nhưng ngươi võ công mất hết, hai mắt lại mù, từ nay trở thành tàn phế, không còn làm chuyện ác trên đời được nữa rồi. Mười một quyền còn lại không cần đánh tiếp.

Bọn Trương Vô Kỵ thấy ông ta toàn thắng, ai nấy reo hò vang dậy. Tạ Tốn đột nhiên ngồi phịch xuống đất, xương cốt toàn thân lốp cốp kêu ran. Trương Vô Kỵ kinh hãi, biết ông vận ngược nội tức để hóa tán hết võ công, vội kêu lên:

- Nghĩa phụ, đừng làm thế!

Chàng vọt lên đang toan giơ tay đè vào lưng ông ta, dùng Cửu Dương thần công ngăn chặn lại.

Tạ Tốn bỗng từ dưới đất nhảy vọt lên, tay đấm mạnh vào ngực mình một cái, trong miệng máu chảy vọt ra. Trương Vô Kỵ vội đỡ ông ta, thấy bàn tay yếu ớt vô cùng, quả nhiên võ công mất hết cả rồi, không còn có thể khôi phục được nữa.

Tạ Tốn giơ tay chỉ Thành Côn nói:

- Thành Côn, ngươi giết cả nhà ta, ta hôm nay cũng hủy đôi mắt, phế bỏ võ công ngươi để trả thù. Sư phụ, một thân võ công của đệ tử do thầy truyền thụ, bây giờ cũng hủy bỏ hết, trả lại cho người. Từ giờ trở đi, tôi với ông không ơn không oán, ông không còn bao giờ thấy mặt tôi, tôi cũng không bao giờ thấy ông nữa.

Thành Côn hai tay ôm mắt, hừ một tiếng, không trả lời. Quần hùng ai nấy thẫn thờ, không ngờ cái oan nghiệt thầy trò tương tranh lại ra nông nỗi này.

*

*??????? *

Tạ Tốn cao giọng hiên ngang nói:

- Tạ Tốn này tác ác đa đoan, vốn không mong sống được đến hôm nay. Trong chư vị anh hùng thiên hạ, có vị nào thân nhân, bạn bè bị Tạ mỗ giết hại, xin mời ra lấy mạng Tạ mỗ cho xong. Vô Kỵ, con không được ngăn trở, cũng không được sau này báo thù, để khỏi tăng thêm tội nghiệp cho nghĩa phụ.

Trương Vô Kỵ ngậm nước mắt vâng lời. Trong đám người chung quanh không ít kẻ đối với ông ta cừu oán thực sâu, thế nhưng thấy Tạ Tốn trả mối thù toàn gia bị giết cũng chỉ phế hết võ công Thành Côn, rồi võ công chính mình cũng hủy, nếu tiến lên đâm một kiếm, đánh một quyền thì quả không anh hùng chút nào.

Bỗng từ đám đông một hán tử bước ra nói:

- Tạ Tốn, cha ta Nhạn Linh Phi Thiên Đao Khưu lão anh hùng chết dưới tay ngươi, ta ra đây báo thù cho tiên phụ.

Nói xong đi đến trước mặt Tạ Tốn. Tạ Tốn thản nhiên nói:

- Đúng thế, lệnh tôn quả thực bị tại hạ sát hại, xin mời Khưu huynh ra tay.

Gã họ Khưu rút đao ra cầm tay, tiến lên hai bước. Trương Vô Kỵ trong lòng hỗn loạn, nếu như không ra tay ngăn trở, nghĩa phụ sẽ chết dưới đao người này, còn nếu đánh đuổi y đi, e rằng nghĩa phụ sống ngày nào phiền não ngày nấy, huống chi ông hai mắt đã mù, võ công phế hết, có sống cũng chẳng còn gì vui thú, quả thực không biết tính sao cho phải. Chàng thân hình run rẩy, không tự chủ nổi tiến lên hai bước.

Tạ Tốn quát lớn:

- Vô Kỵ, nếu con ngăn không cho người ta báo thù thế là đối với cha đại đại bất hiếu đó. Sau khi ta chết đi, con hãy xuống dưới địa lao coi cho kỹ sẽ biết mọi việc.

Gã họ Khưu cầm đao giơ lên ngực, đột nhiên nước mắt chảy ròng ròng, nhổ toẹt một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn, nghẹn ngào nói:

- Tiên phụ một đời anh hùng, nếu cha tôi ở trên trời linh thiêng, thấy tôi cầm đao giết một người mù không còn chút võ công nào, thể nào cũng giận tôi chẳng ra gì ...

Nghe keng một tiếng, y đã vứt đao xuống đất ôm mặt chạy trở vào đám đông. Kế đó một người đàn bà trung niên bước ra, nói:

- Tạ Tốn, ta ra đây báo thù cho chồng ta là Âm Dương Phán Quan Tần Đại Bằng.

Bà ta cũng đến nhổ một bãi nước bọt vào mặt Tạ Tốn rồi khóc òa lên bỏ đi. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ liên tiếp chịu nhục nhưng vẫn đứng yên không nói năng gì, trong lòng đau như dao cắt. Hào sĩ trong võ lâm coi cái chết nhẹ tựa lông hồng nhưng quyết không chịu bị nhục cho nên mới có câu ?sĩ khả sát nhi bất khả nhục[3]?. Hai người này nhổ nước bọt vào mặt ông quả là đại nhục nhưng Tạ Tốn vẫn thản nhiên chịu đựng, đủ biết ông đã cực kỳ hối hận về những tội lỗi đã làm trong quá khứ. Trong đám người từng kẻ từng kẻ bước ra, có người tát Tạ Tốn hai cái, có kẻ đá ông một cái, cũng có người cất tiếng chửi bới nhưng trước sau ông chỉ cúi đầu chịu đựng, không tránh né cũng không nói lại nửa câu.

Cứ như thế đến hơn ba chục người, ai cũng làm nhục Tạ Tốn một chuyến. Sau cùng là một đạo nhân râu dài bước ra, cúi đầu nói:

- Bần đạo Thái Hư Tử, có hai vị sư huynh bị chết dưới tay Tạ đại hiệp. Hôm nay bần đạo được nhìn thấy phong phạm của Tạ đại hiệp trong lòng thực là hổ thẹn, dưới kiếm của bần đạo cũng đã từng giết vô số hào kiệt hắc đạo bạch đạo. Nếu như tôi đi kiếm Tạ đại hiệp báo thù thì người khác cũng kiếm tôi báo thù.

Nói xong rút phắt trường kiếm, tay trái giơ ra búng một cái, nghe keng một tiếng thanh kiếm đã gãy làm hai. Y cầm thanh kiếm gãy ném xuống đất, quay sang hành lễ với Tạ Tốn rồi lui về.

Quần hùng xôn xao bàn tán, gã Thái Hư Tử này trên giang hồ tiếng tăm không mấy nổi, võ công cao siêu như thế đã khó, nhưng khó hơn cả là có được tâm địa rộng rãi dám tự trách mình, xem ra chẳng còn ai đứng ra làm khó Tạ Tốn thêm nữa.

Ngờ đâu quần hùng còn đang huyên náo, một nữ ni trung niên từ phái Nga Mi bước ra, đến trước mặt Tạ Tốn nói:

- Cái thù giết chồng ta, ta cũng nhổ một bãi nước bọt để kết thúc.

Nói xong há mồm nhổ toẹt một bãi vào trán Tạ Tốn. Bãi nước miếng đó kình phong rất mạnh, bên trong lại có một chiếc cương đinh hình hạt táo. Tạ Tốn nghe thấy tiếng gió có điều khác lạ, gượng cười nhưng không tránh né, nghĩ thầm: ?Bây giờ ta mới chết cũng đã muộn lắm rồi?.

Bỗng thấy một bóng vàng thấp thoáng, cô gái áo vàng đã nhảy tới trước mặt, phất một cái cuộn luôn chiếc cương đinh vào trong tay áo, quát hỏi:

- Vị sư thái này pháp danh xưng hô thế nào?

Nữ ni kia đột kích không trúng, trên mặt lộ vẻ kinh hoàng, nói:

- Ta là Tĩnh Chiếu.

Cô gái nói:

- Hừ, Tĩnh Chiếu, Tĩnh Chiếu à? Trước khi xuất gia, chồng bà tên gì? Vì sao bị Tạ đại hiệp giết chết?

Tĩnh Chiếu giận dữ đáp:

- Cái đó có liên quan gì đến cô? Việc gì mà cô phải xen vào?

Cô gái áo vàng nói:

- Tạ đại hiệp sám hối tội lỗi khi xưa, nếu ai muốn báo thù cho cha anh thầy bạn, dẫu có đem băm vằm ông ta ra, Tạ đại hiệp cũng cam chịu, người ngoài không ai được can thiệp vào. Thế nhưng nếu như có ai bụng dạ bất lương, muốn nhân cơ hội đục nước béo cò, giết người bịt miệng, thì người khác có quyền can thiệp vào.

Tĩnh Chiếu nói:

- Ta với Tạ Tốn không thù không oán, việc gì phải giết người bịt ...

Chữ ?miệng? chưa kịp nói ra, bà ta biết mình lỡ lời, vội nín bặt, mặt trắng bệch, sợ hãi liếc Chu Chỉ Nhược một cái. Cô gái áo vàng nói:

- Đúng thế! Sư thái với Tạ đại hiệp không thù không oán, việc gì phải giết người bịt miệng? Hừ, phái Nga Mi hàng chữ Tĩnh trong số mười hai người, Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư, Tĩnh Không, Tĩnh Tuệ, Tĩnh Già, Tĩnh Chiếu đều là khuê nữ xuất gia, chồng ở đâu ra?

Tĩnh Chiếu không nói nửa lời quay mình định bỏ chạy. Cô gái áo vàng quát lớn:

- Đâu có bỏ chạy dễ dàng đến thế!

Nàng ta tiến lên hai bước, giơ chưởng chộp vào đầu vai ni cô, Tĩnh Chiếu nghiêng người tránh được trảo đó. Cô gái áo vàng liền giơ ngón tay trỏ đâm vào hông, kế đó đá lên trúng ngay huyệt Hoàn Khiêu trên đùi. Tĩnh Chiếu ối lên một tiếng ngã lăn ra đất. Cô gái cười khẩy nói:

- Chu cô nương, cái kế sát nhân diệt khẩu của cô độc địa thật.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng đáp:

- Tĩnh Chiếu sư tỉ muốn báo thù Tạ Tốn, có cái gì là sát nhân diệt khẩu?

Tay trái phất một cái nói:

- Ở đây vô số đệ tử danh môn chính phái vậy mà chẳng phân biệt được đâu tà đâu chính, bằng lòng nhập bọn với bàng môn yêu ma. Phái Nga Mi không thể cá mè một lứa, thôi mình đi.

Người của phái Nga Mi cùng đáp ứng đứng cả dậy. Hai người nữ đệ tử đến dìu Tĩnh Chiếu lên, cô gái áo vàng không ngăn trở gì nữa. Chu Chỉ Nhược tất lãnh đồng môn xuống núi.

Trương Vô Kỵ đi đến trước cô gái áo vàng, vái một cái nói:

- May được tỉ tỉ mấy phen giúp đỡ, đại ân đại đức không chỉ lấy lời mà tạ được. Chỉ mong được biết phương danh để Trương Vô Kỵ này ngày đêm ghi nhớ trong lòng.

Cô gái mỉm cười nói:

Mộ người sống mà như đã chết,

Núi Chung Nam qui ẩn từ lâu.

Thần điêu hiệp lữ danh đầu,

Hồng trần xa lánh biết đâu mà tìm.

(Chung Nam sơn hậu,

Hoạt tử nhân mộ.

Thần điêu hiệp lữ,

Tuyệt tích giang hồ)

Nói xong kéo vạt áo lên thi lễ, vẫy tay một cái dẫn tám thiếu nữ áo trắng áo khoan thai đi khỏi. Trương Vô Kỵ đuổi theo nói:

- Xin tỉ tỉ dừng bước đã.

Cô gái áo vàng không đáp lời vẫn tiếp tục xuống núi. Cô bé bang chủ Cái Bang Sử Hồng Thạch kêu lên:

- Dương tỉ tỉ, Dương tỉ tỉ!

Chỉ nghe từ lưng chừng núi vọng lên tiếng cô gái:

- Những việc lớn của Cái Bang, xin Trương giáo chủ hết sức giúp đỡ cho.

Trương Vô Kỵ cũng lớn tiếng đáp lại:

- Vô Kỵ tuân mệnh.

Cô gái đáp:

- Xin đa tạ.

Mấy tiếng ?đa tạ? kia văng vẳng truyền đến hai bên đã cách nhau thật xa nhưng vẫn rõ lạ thường, Trương Vô Kỵ trong dạ không khỏi bồi hồi.

*

*??????? *

Không Trí đi đến trước mặt Thành Côn quát hỏi:

- Viên Chân, mau ra lệnh thả phương trượng ngay. Lão phương trượng nếu có chuyện gì, tội nghiệp của ngươi càng to lớn.

Thành Côn gượng cười:

- Việc đã đến nước này thì tất cả cùng chết hết. Lúc này dẫu ta có muốn thả hòa thượng Không Văn ra thì cũng không kịp nữa rồi. Mắt ngươi không mù mà cũng chẳng thấy lửa bốc lên hay sao?

Không Trí hoảng hốt, quay đầu nhìn xuống chân núi, quả nhiên thấy dưới chùa khói đen bốc lên lửa đang lem lém cháy, kêu lên:

- Đạt Ma Đường cháy rồi! Mau! Mau xuống cứu hỏa.

Quần tăng đại loạn, chạy tứ tán xuống dưới núi. Bỗng thấy chung quanh Đạt Ma Đường những vòi nước phun vào chẳng khác gì những con bạch long, chẳng mấy chốc những ngọn lửa đều tắt ngúm. Không Trí chắp tay niệm Phật nói:

- A Di Đà Phật, chùa Thiếu Lâm may thoát được một tai kiếp.

Chẳng mấy chốc hai tăng nhân chạy lên núi bẩm báo:

- Khải bẩm sư thúc tổ, bọn phản nghịch thủ hạ của Viên Chân phóng hỏa đốt Đạt Ma Đường, may nhờ có các anh hùng trong Hồng Thủy Kỳ của Minh Giáo trượng nghĩa ra tay dập được lửa rồi.

Không Trí đến trước mặt Trương Vô Kỵ, chắp tay vái chào nói:

- Ngôi chùa Thiếu Lâm cổ kính đã nghìn năm nay qua được một cơn hỏa kiếp toàn là nhờ đại ân đại đức của Trương giáo chủ, toàn thể tăng chúng trong chùa dẫu có nát thân cũng không báo đáp được.

Trương Vô Kỵ khiêm tốn hoàn lễ nói:

- Chuyện đó đương nhiên phải làm, đại sư việc gì phải đa lễ.

Không Trí nói:

- Không Văn phương trượng bị bọn phản đồ bắt giữ trong Đạt Ma Viện, lửa dập được rồi nhưng không biết tệ sư huynh an nguy ra sao. Trương giáo chủ và chư vị anh hùng xin đợi cho một chút, lão nạp đi xem ra thế nào.

Thành Côn cười ha hả nói:

- Trên người Không Văn tẩm đầy dầu mỡ, lửa vừa cháy lên thì y cháy trước. Hồng Thủy Kỳ có cứu là cứu Đạt Ma Viện chứ làm sao cứu nổi lão phương trượng.

Bỗng từ lưng chừng núi có tiếng người vọng lên:

- Hồng Thủy Kỳ không cứu nổi nhưng còn Hậu Thổ Kỳ.

Tiếng nói đó chính là tiếng của Phạm Dao. Y vừa nói xong đã thấy cùng với chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên chạy lên núi, hai người dìu một lão tăng, chính là phương trượng Không Văn chùa Thiếu Lâm, cả ba người quần áo tả tơi, râu tóc cháy xém trông rất thê thảm. Không Trí tiến lên ôm lấy Không Văn, kêu lên:

- Sư huynh có sao không? Sư đệ vô năng tội thật đáng chết.

Không Văn mỉm cười nói:

- Cũng nhờ có hai vị Phạm thí chủ và Nhan thí chủ từ dưới đất chui lên cứu, nếu không ta với sư đệ chắc chẳng còn dịp gặp lại nhau.

Không Trí kinh hãi nói:

- Tài chui dưới đất lên của Hậu Thổ Kỳ Minh Giáo thần diệu thật.

Ông ta quay sang nói vái Phạm Dao, Nhan Viên tạ ơn, rồi tiếp:

- Phạm thí chủ, lão tăng trước đây vô lễ mạo phạm, xin thứ tội cho. Cái ước hẹn nơi chùa Vạn An, Đại Đô lão tăng không dám đến nữa.

Võ lâm nhân sĩ đã đính ước tỉ thí nếu như nuốt lời không đến so với muối mặt chịu thua còn đáng hổ thẹn hơn nhiều. Không Trí cảm kích Phạm Dao mạo hiểm cứu sư huynh mình, nên đã tự nguyện hủy bỏ ước hẹn. Hai người vốn dĩ đã phục nhau, chuyện này rồi càng thêm hết lòng hết dạ, từ đó thành đôi bạn tâm giao.

Thì ra Thành Côn đã sắp xếp thật chu đáo, đêm hôm trước ngày Anh Hùng Đại Hội xuất kỳ bất ý ra tay điểm huyệt Không Văn, bắt giữ ông ta tại Đạt Ma Viện, trong viện chất đầy các loại lưu hoàng thuốc nổ, cỏ củi dễ cháy, sai người tâm phúc canh giữ, ép Không Trí mọi việc phải nghe theo mình, nếu không sẽ phóng hỏa đốt chết Không Văn. Ngờ đâu mọi việc không phải như y đã tính, đến khi tan tành ra mây khói rồi liền truyền hiệu lệnh, cho người đốt lửa, là nước cờ sau cùng phá phủ trầm chu[4]. Y tính rằng quần hùng và tăng chúng hốt hoảng lo cứu hỏa, những kẻ tâm phúc sẽ nhân cơ hội đó cứu y xuống núi. Ngờ đâu đại đội của Dương Tiêu kéo đến núi Thiếu Thất từ mấy ngày trước, đã sai Hậu Thổ Kỳ đào một đường hầm thông vào trong chùa Thiếu Lâm, vốn tính chuyện cứu Tạ Tốn, biết đâu Tạ Tốn lại không nhốt ở trong chùa. Người của Hậu Thổ Kỳ tìm mãi không ra, nhân cơ hội đó mài mười sáu chữ sau lưng những pho tượng La Hán đi.

Về sau Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược liên thủ phá Kim Cương Phục Ma Khuyên, đến lúc Thành Côn lộ mặt ra rồi, làm bẽ mặt Không Trí trước công chúng, Triệu Mẫn và Dương Tiêu liền hiểu ngay được mối manh. Hai người bàn tính xong xuôi, nhờ Phạm Dao tất lãnh Hồng Thủy, Hậu Thổ hai kỳ, chui vào trong chùa cứu Không Văn. Có điều Thành Côn bố trí thật là cơ mật, độc địa, chung quanh trong ngoài Đạt Ma Viện chất đầy lưu hoàng, dầu củi, chỉ mồi là lửa bừng lên ngay, khiến cho năm giáo đồ trong Hậu Thổ Kỳ bị chết cháy. Phạm Dao và Nhan Viên hai người cố xông vào đám khói cứu được Không Văn ra, nhưng cả ba cũng bị xém hết cả râu tóc, nếu không nhờ thoát hiểm bằng đường hầm, thì ắt đã vùi thân nơi đống tro rồi. Đạt Ma Viện và mấy căn tăng xá chung quanh cũng bị cháy nhưng may chưa lan sang Đại Hùng Bảo Điện, Tàng Kinh Các, La Hán Đường những nơi quan trọng khác.

Không Văn và Không Trí bàn tán mấy câu, truyền pháp chỉ xuống bắt tất cả các đồng đảng của Thành Côn đem giam nơi hậu điện chờ phân xử sau. Thành Côn ở chùa Thiếu Lâm đã lâu, kết nạp đồ đảng quả không phải ít, nhưng kẻ đứng đầu đã bị bắt rồi, phương trượng thoát hiểm, bọn đồng đảng thấy đại thế đã hỏng, nên chẳng một ai dám kháng cự. Thủ tọa La Hán Đường chỉ huy tăng chúng áp giải bọn chúng, đứa nào đứa nấy cúi gầm mặt xuống, lủi thủi xuống núi.

Trương Vô Kỵ đi đến bên cạnh Tạ Tốn, chỉ kêu lên được một tiếng: ?Nghĩa phụ? rồi nước mắt như mưa. Tạ Tốn cười nói:

- Thằng con ngốc nghếch của ta ơi, nghĩa phụ may được ba vị cao tăng điểm hóa, đại triệt đại ngộ, bao nhiêu tội lỗi một đời hóa giải hết sạch, con phải mừng cho ta chứ, sao lại khổ sở làm vậy? Ta phế bỏ võ công có gì đáng tiếc đâu, không lẽ mai này còn dùng để làm điều sằng bậy nữa hay sao?

Trương Vô Kỵ không biết trả lời sao nhưng trong lòng vẫn còn đau đớn, lại kêu một câu:

- Nghĩa phụ!

Tạ Tốn đi đến trước mặt Không Văn, quì xuống nói:

- Đệ tử tội nghiệt thâm trọng, mong phương trượng cho ở lại, xuống tóc tu hành.

Không Văn chưa kịp trả lời, Độ Ách nói:

- Ngươi lại đây, lão tăng thu ngươi làm đồ đệ.

Tạ Tốn đáp:

- Đệ tử không dám mong được phúc duyên như thế.

Ông ta bái Không Văn làm thầy là đệ tử hàng chữ Viên, còn như bái Độ Ách làm thầy là ở vào hàng chữ Không, cùng Không Văn, Không Trí xưng hô huynh đệ. Độ Ách quát lên:

- Hừ,

Không đã đành là không,

Viên cũng lại là không,

Ngã tướng với nhân tướng,

?Nào có chi bất đồng.

(Không cố thị không,

Viên diệc thị không.

Ngã tướng nhân tướng,

Hảo bất mông đồng)

Tạ Tốn ngạc nhiên nhưng lập tức hiểu ngay, sư phụ đệ tử, hàng trên hàng dưới, pháp danh thứ tự đối với nhà Phật cũng đều là huyễn ảo nên liền đọc ngay:

Sư phụ vốn là không,

Đệ tử cũng không nốt.

Không tội, nghiệp sao còn,

Công đức đâu mà kết.

(Sư phụ thị không,

Đệ tử thị không.

Vô tội vô nghiệp,

Vô đức vô công)

Độ Ách nghe thế cười ha hả:

- Thiện tai! Thiện tai! Ngươi vào làm môn hạ của ta, tên ngươi vẫn là Tạ Tốn, ngươi có hiểu chăng?

Tạ Tốn đáp:

- Đệ tử hiểu rồi!

Tạ Tốn hay cục phân,

Cũng đều là hư ảnh.

Đến thân còn chẳng chấp,

Lẽ nào vướng vào danh?

(Ngưu xí Tạ Tốn,

Giai thị hư ảnh.

Thân tức vô vật,

Hà huống ư danh?)

Tạ Tốn văn võ toàn tài, chư tử bách gia đâu đâu cũng thông suốt, nay được Độ Ách điểm hóa, lập tức hiểu ngay tinh nghĩa nhà Phật, từ đó đi vào cửa không về sau trở nên một cao tăng đức độ.

Độ Ách nói:

- Thôi đi! Thôi đi! Đã ngộ được đạo đừng trở vào ma chướng nữa.

Ông nắm tay Tạ Tốn cùng Độ Kiếp, Độ Nạn thủng thẳng xuống núi. Không Văn, Không Trí, Trương Vô Kỵ cùng mọi người đứng lên khom lưng tiễn biệt. Ba mươi năm trước Kim Mao Sư Vương danh chấn giang hồ, từng làm biết bao nhiêu chuyện kinh tâm động phách, hôm nay thân nếm mùi thiền, ai nấy đều cảm thán. Trương Vô Kỵ lòng vừa vui mừng lại vừa bi thương.

Không Văn nói:

- Các vị anh hùng quang lâm tệ tự, nói ra hổ thẹn, trong chùa bỗng sinh nội biến, thật đáng trách, việc tiếp đãi thật chẳng chu đáo chút nào. Các vị ở khắp bốn phương hôm nay tụ hội nơi đây, không biết bao giờ mới có dịp gặp lại, xin mời vào chùa ngồi nghỉ.

Quần hùng liền xuống núi quay trở vào chùa, tăng lữ liền dọn tiệc chay thết đãi, rồi lập đàn tràng tụng kinh siêu độ cho những người bỏ mạng trong kỳ đại hội này, ai nấy phúng điếu rất bi ai.

Mọi sự xong xuôi, Trương Vô Kỵ trong lòng vẫn còn nhiều điều chưa minh bạch, Tạ Tốn đi vội quá nhiều chuyện chưa hỏi được cho tường tận nhưng cũng đoán rằng những việc đó ắt có liên quan đến Chu Chỉ Nhược. Chàng nghĩ đến nghĩa xưa, liệu chẳng nên tìm hiểu khúc nhôi làm gì để khỏi tổn hại đến thanh danh người tình cũ. Ăn uống xong xuôi, chàng liền cùng Sử Hồng Thạch và các trưởng lão Cái Bang tại sương phòng phía tây bàn thảo những chuyện lớn của Cái Bang bỗng có giáo đồ Minh Giáo đến báo:

- Thưa giáo chủ, Trương tứ hiệp của phái Võ Đương đã đến có chuyện gấp muốn thương nghị.

Trương Vô Kỵ hoảng hốt nghĩ thầm: ?Không lẽ có chuyện gì không hay xảy ra cho thái sư phụ chăng??. Chàng vội vào rảo bước đi ra, đến đại điện vái lạy Trương Tùng Khê thấy ông thần sắc không có gì khác thường mới thấy yên tâm bèn hỏi:

- Sư bá, thái sư phụ vẫn mạnh khỏe?

Trương Tùng Khê đáp:

- Sư phụ lão nhân gia vẫn bình thường. Ta ở núi Võ Đương nghe được tin hai vạn quân thiết kỵ Nguyên binh, đang tiến về phía chùa Thiếu Lâm, xem tình hình có vẻ sắp gây bất lợi cho đại hội anh hùng, cho nên ngày đêm chạy đến báo tin.

Trương Vô Kỵ nói:

- Vậy mình nên cho phương trượng biết ngay.

Hai người vội quay về hậu viện, bẩm cho Không Văn hay, Không Văn trầm ngâm rồi nói:

- Việc này có liên hệ rất lớn, nên cùng quần hùng bàn thảo xem sao.

Ông bèn truyền cho các nhà sư thỉnh chuông tụ tập tất cả mọi người lên Đại Hùng Bảo Điện. Quần hùng nghe tin ai nấy xôn xao bàn tán, những người tính nóng liền nói:

- Nhân cơ hội các anh hùng thiên hạ có mặt nơi đây, tất cả chúng ta kéo xuống dưới núi đánh cho chúng trở tay không kịp.

Người lão thành dè dặt hơn nói:

- Quân Nguyên qua lại điều động binh mã là chuyện thường tình, chưa chắc đã tới đây tấn công chúng ta đâu.

Trương Tùng Khê nói:

- Tại hạ biết tiếng Mông Cổ, chính tai nghe quan quân Thát tử ra lệnh, đúng là đưa quân đến vây chùa Thiếu Lâm.

Khi đó người Mông Cổ đã cai trị trung nguyên gần một trăm năm, những người Hán biết tiếng Mông Cổ không phải là ít. Trương Tùng Khê thông minh đa trí, thông thạo nhiều thổ ngữ địa phương, tiếng Mông Cổ cũng rất lưu loát. Không Văn nói:

- Các vị anh hùng, xem ra triều đình nghe tin chúng ta tụ tập nơi đây, đoán chừng làm điều bất lợi nên sai binh lính đến trấn áp. Chúng ta ai ai cũng biết võ công, không sợ gì Thát tử, binh đến thì đưa tướng ra ngăn, nước dâng lên thì đắp đất chặn lại, có gì sợ đâu ...

Ông nói chưa dứt câu trong đám đông đã có nhiều người hoan hô rầm rĩ. Không Văn nói tiếp:

- Có điều chúng ta là hào sĩ giang hồ, quen với đơn đả độc đấu, tỉ thí không phải chỉ binh khí quyền cước mà cả nội công ám khí, việc lên ngựa chiến đấu bằng trường thương đại kích không phải là sở trường. Cứ như ý lão nạp, các vị anh hùng lập tức giải tán ra đi, quí vị nghĩ sao?

Mọi người ai nấy ngơ ngác, không ai lên tiếng trả lời. Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu như chúng ta phân tán ra, một là Thát tử sẽ tưởng chúng ta sợ chúng không khỏi làm cho chúng càng thêm lên tinh thần, hai nữa các vị sư phụ chùa Thiếu Lâm rồi sẽ ra sao?

Không Văn mỉm cười đáp:

- Quân Nguyên đến chùa thấy toàn là sư sãi không thấy giang hồ hào sĩ nào chắc không sao đâu. Cái đó gọi là đến thì hăm hăm hở hở, đi thì như mèo cắt tai.

Quần hùng biết Không Văn nói thế cũng chỉ vì lòng tốt với mọi người, kỳ này đại hội do chùa Thiếu Lâm mời đến nên không muốn vì thế mà mang họa, để quần hùng phải đổ máu nơi núi Thiếu Thất. Thế nhưng ai nấy đều là người đầy nhiệt huyết, gặp địch lẽ nào thoái lui, nhất định không thể được. Huống chi triều đình đã đem đại quân đi hẳn chẳng chỉ thấy không có ai mà yên ổn rút về, thể nào cũng quấy nhiễu Thiếu Lâm tự, không chừng có thể giết hết bắt hết tăng lữ, cho một mồi lửa đốt chùa thành tro. Quân Mông Cổ xưa nay vốn bạo ngược, giết người đốt nhà đã thành thói quen. Dương Tiêu nói:

- Quân Mông Cổ tàn ác chúng ta ai đã là người Hán ắt có trách nhiệm kháng địch, cứ như ý kiến của tại hạ, chúng ta nên tìm cách dụ cho Thát tử đi đường khác, tìm chỗ nào đánh cho chúng một trận, để ngôi chùa cổ kính nghìn năm này không rơi vào tai ương binh lửa.

Mọi người nhao nhao tán thành nói:

- Đúng là phải như thế!

Còn đang nghị luận, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng vó câu dồn dập, hai người cưỡi ngựa chạy đến. Tiếng chân ngựa ngừng ngay trước cửa chùa, sau đó hai hán tử được tri khách tăng hối hả đưa vào trong điện. Quần hùng vừa nhìn quần áo họ mặc biết ngay là giáo chúng Minh Giáo. Hai người đến trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ, một người báo:

- Khải bẩm giáo chủ: Quân tiên phong của Thát tử năm nghìn người đã đánh tới chùa Thiếu Lâm, nói là các vị sư phụ trong chùa tụ tập làm phản nên muốn đạp bằng chùa Thiếu Lâm. Hễ ai trọc ... trọc ...

Không Văn mỉm cười tiếp lời:

- Ngươi muốn nói là sư sãi trọc đầu, có phải không nào? Không cần phải kiêng cữ làm gì, cứ việc nói ra.

Người kia tiếp:

- Trên đường rất nhiều vị hòa thượng bị chúng giết. Thát tử nói rằng: ?Những người đầu trọc đều xấu xa, người có tóc cũng chẳng tốt lành, ai dem binh khí trong người đều giết sạch?.

Mọi người nhao nhao lên như chợ vỡ, đều nói:

- Nếu không một phen sống mái với Thát tử thì không đáng gọi là con cháu Hoàng Đế.

Thời đó nhà Tống đã bị mất ngôi gần một trăm năm nhưng những anh hào thảo mãng vẫn coi người Mông Cổ là di địch, không chịu để bị họ quản thúc. Bây giờ nghe tin quân Mông Cổ kéo đến ai nấy nhiệt huyết bừng bừng đều muốn đứng lên giết giặc. Trương Vô Kỵ sang sảng nói:

- Quí vị anh hùng, hôm nay chính là lúc sát địch báo quốc của người trai đất Hán, có thế anh hùng đại hội của chùa Thiếu Lâm mới để tiếng lại nghìn thu.

Trong đại điện tiếng hoan hô vang dậy, chấn động một hồi lâu. Trương Vô Kỵ lại tiếp:

- Chúng ta dẫu có muốn được rút lui cho yên lành cũng không được nữa rồi, vậy xin Không Văn đại sư đứng ra chỉ huy, Minh Giáo chúng tôi trên dưới xin để dưới quyền sai sử.

Không Văn nói:

- Trương giáo chủ nói thế là thế nào? Tuy tăng chúng trong tệ phái có học qua quyền cước nhưng hành quân chiến đấu lại chẳng tinh thông. Mấy năm gần đây Minh Giáo làm nên biết bao việc lẫy lừng, thiên hạ anh hùng còn ai không biết? Chỉ có nhân chúng trong Minh Giáo mới có thể kháng cự lại được với quân Thát tử. Chúng tôi xin mời Trương giáo chủ ra lệnh cho toàn thể anh hùng để một phen sống mái với quân Nguyên.

Trương Vô Kỵ đang định từ chối thì quần hào đã hò reo phụ họa. Trương Vô Kỵ tuy tuổi trẻ không đủ để người ta phục nhưng võ công cao cường, mới rồi đấu với Thiếu Lâm tam tăng ai ai cũng đã thấy, lại thêm trong Minh Giáo các đạo quân của những người như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, Chu Nguyên Chương tại Hoài Tứ, Dự Ngạc nơi nơi nổi lên, công thành chiếm đất, thanh thế lên rất lớn. Hôm trước Ngũ Hành Kỳ ở nơi quảng trường tỏ lộ tài nghệ xem ra không môn phái nào có thể sánh được với khả năng chiến đấu đông người của họ. Các môn phái bang hội đều thấy rằng ngoài Minh Giáo ra không một ai có đủ khả năng đảm nhiệm công việc trong đại này.

Trương Vô Kỵ nói:

- Việc dụng binh quả không phải là sở trường của tại hạ, xin các vị suy cử người hiền năng khác thì hơn.

Chàng còn đang khiêm tốn nhường người khác, bỗng từ chân núi tiếng người kêu la, hai nhà sư Thiếu Lâm chạy vào đại điện báo cáo:

- Khải bẩm phương trượng, quân Mông Cổ đang đánh lên.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nhuệ Kim, Hồng Thủy hai kỳ ra trước chặn địch. Chu Điên tiên sinh, Thiết Quan đạo trưởng mỗi vị giúp cho một kỳ.

Chu Điên và Thiết Quan đạo nhân đều đáp lời đứng ra hành sự. Lúc này cục thế khẩn cấp, Trương Vô Kỵ không còn thì giờ suy từ chỉ còn nước ra lệnh tiếp:

- Thuyết Bất Đắc sư phụ, nhờ ông đem thánh hỏa lệnh của ta đi điều động quân của bản giáo lên núi cứu viện.

Thuyết Bất Đắc nhận lệnh ra đi. Các anh hùng trong đại điện nghe tin quân Nguyên đang đánh lên, ai nấy rút binh khí hùng hổ ùa ra. Dương Tiêu hạ giọng nói:

- Giáo chủ, nếu giáo chủ không ra lệnh mọi người sẽ loạn cả lên, thể nào cũng bị bại trận.

Trương Vô Kỵ gật đầu, đi ra khỏi điện, đến sơn đình ở lưng chừng núi quan sát thấy hơn một nghìn quân tiên phong của Mông Cổ đang tiến lên bị người của Nhuệ Kim Kỳ dùng nỏ cứng thương dài đánh bật trở lại. Chàng đưa mắt nhìn về phía xa xa, từng đội từng đội quân Nguyên đang bò lần lên, thật là đông đảo. Khi đó cái thời Thành Cát Tư Hãn và Bạt Đô uy chấn thiên hạ đã xa rồi nhưng quân thiết kỵ Mông Cổ vẫn tập luyện đúng phép, là tinh binh có một không hai trên thế giới.

Bỗng nghe ở phía bên trái tiếng kêu la rầm rĩ, một số đông ni cô và đàn ông đàn bà chạy ngược lên núi, chính là người của phái Nga Mi, có lẽ khi đi xuống gặp phải quân Mông Cổ đánh đuổi nên phải quay lại. Có khoảng mươi người đàn ông khiêng cái gì trông như cái cáng, bị quân Mông Cổ bao vây vào giữa, Chu Chỉ Nhược tất lãnh bọn Tĩnh Huyền, Tĩnh Chiếu đánh xông vào, tuy giết được vài chục tên quân Mông Cổ nhưng vẫn không sao cứu được đồng môn đang nguy ngập.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Hỏng rồi! Người nằm trên cáng hẳn là Tống sư ca?. Chàng liền kêu lên:

- Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ bảo vệ cho ta! Dương Phạm nhị sứ, Vi huynh theo ta cứu người.

Rồi tung mình phóng lên trước. Hai tên quân Mông Cổ cầm mâu xông vào đâm, Trương Vô Kỵ giơ tay chụp một thanh mâu, vận kình hất một cái, hai tên lính lăn xuống sườn núi. Chàng quay đầu mâu, hai chiếc giáo chẳng khác gì rồng ra biển, múa lên vù vù tiến vào trong đám người. Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc chạy theo sau, lính Mông Cổ liền chạy tứ tán bỏ bọn Chu Chỉ Nhược lại phía sau. Phạm Dao đấm ra một quyền, đánh nát mặt một tên thập phu trưởng, cướp lấy người bị thương nằm trên cáng, quay đầu chạy lên.

Trương Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược người đầy máu me, lại xông vào đoàn quân Nguyên, kêu lên:

- Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, Tống đại ca đã cứu được rồi.

Chu Chỉ Nhược làm như không nghe, vẫn múa trường tiên đánh về phía trước, tuy nhiên sơn đạo nhỏ hẹp đứng chật những người thành thử chưa thể vượt qua được. Trương Vô Kỵ thấy hai đệ tử Nga Mi khiêng một cái cáng khác vẫn còn bị bao vây đang vung đao đánh thí mạng với quân Nguyên, nghĩ thầm: ?Xem ra trên cái cáng đó mới thực là Tống sư ca?. Chàng nhún mình nhảy tới, hai thanh trường mâu chống lên trên vách núi lấy tay làm chân, như đi cà khêu tiến tới. Còn cách chừng khoảng hơn một trượng, bỗng thấy hai đệ tử Nga Mi kẻ trúng đao người trúng tên, lăn long lóc xuống sườn núi.

Trương Vô Kỵ phi thân nhảy tới, tay trái giơ trường mâu ra đỡ cho cái cáng khỏi lăn theo, thấy người trên cáng quấn đầy vải trắng, chỉ lộ khuôn mặt, chính là Tống Thanh Thư. Trương Vô Kỵ vứt trường mâu xuống, ôm y trên tay, thấy thân thể y nặng lạ thường, trong vải cứng ngắc xem ra còn vật gì khác, không kịp xem kỹ sợ làm động đến những xương gãy, vội lách phải né trái, tránh đao thương quân Nguyên tấn công, chân vẫn bình ổn chạy lên.

Ngay khi đó, Đường Văn Lượng và Tông Duy Hiệp của phái Không Động cũng song song xông tới, cầm kiếm hộ vệ hai bên, hai thanh kiếm thu vào đâm ra, quân Nguyên liên tiếp trúng kiếm, Trương Vô Kỵ bình an bế Tống Thanh Thư chạy lên núi. Có vài trăm quân Nguyên dàn thành đội hình tấn công lên, Bành Oánh Ngọc liền kêu:

- Liệt Hỏa Kỳ ra tay.

Các giáo chúng trong Liệt Hỏa Kỳ liền phun dầu thô trong ống thụt ra rồi bắn hỏa tiễn tới, lửa liền bốc lên bừng bừng, hơn hai trăm quân Mông Cổ đi trước bị cháy thành những trái cầu lửa lăn xuống núi. Ở bên kia Hồng Thủy Kỳ cũng phun nước độc ra, có mấy trăm quân bị trúng, chết thật thảm khốc. Tên vạn phu trưởng quân Nguyên liền ra lệnh đánh chiêng thu binh, quân Nguyên tiền đội biến thành hậu đội giơ cung bắn chặn từ từ xuống núi. Bành Oánh Ngọc than:

- Quân Thát tử tuy thua mà không loạn, quả là tinh binh trong thiên hạ.

Chỉ thấy quân Nguyên lui đến chân núi rồi, tỏa ra như hình nan quạt, xem ra chưa có ý tấn công trở lên ngay. Trương Vô Kỵ hạ lệnh:

- Nhuệ Kim, Hồng Thủy, Liệt Hỏa ba kỳ trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cự Mộc, Hậu Thổ hai kỳ mau chặt gỗ xúc đất xây hàng rào cản đề phòng quân địch đánh lên.

Các chưởng kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ liền tuân lệnh, chia ra chỉ huy hạ thuộc bố phòng. Quần hùng trước đây vẫn nghĩ rằng nếu không giết hết được quân Nguyên thì mình cũng tự lo cho mình được không đến nỗi nào. Thế nhưng sau một trận giao phong mới thấy uy lực của quân Nguyên, biết rằng bày binh bố trận khác hẳn đơn đả độc đấu, tỉ thí võ nghệ. Hàng nghìn hàng vạn người ùa lên tấn công, thế như nước vỡ bờ dẫu võ công cao cường như Chu Chỉ Nhược, trong đám đông người cũng không thể nào thi triển tài nghệ. Bốn bề tám hướng nơi nào cũng đầy đao thương kiếm kích, đâm chém loạn xạ, bình thời dù học bao nhiêu phép đón đỡ, sách giải chiêu số, nội kình ngoại công đều không thể nào dùng được. Nếu không phải Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo lấy trận pháp ngăn chặn trận pháp, lúc này núi Thiếu Thất chắc thê thảm không biết đến đâu, chùa Thiếu Lâm chắc cũng đã bị mồi lửa biến thành một đống gạch vụn rồi.

Mặc dầu tăng chúng chùa Thiếu Lâm có kỷ luật, từng đội sư sãi thanh niên cầm giới đao thiền trượng, dưới quyền chỉ huy của các tăng nhân có tuổi trấn giữ các nơi hiểm yếu nhưng ít không chống lại được số đông, khó mà có thể chống đỡ với hai vạn tinh binh Mông Cổ tấn công vào. Đến khi quân Nguyên thoái lui rồi, quần hùng mới xôn xao bàn tán hiểu được tại sao tiền triều không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, võ công cao cường nhưng vẫn để giang sơn gấm vóc này rơi vào tay Thát tử.

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng để Tống Thanh Thư xuống đất, thăm mũi thấy vẫn còn thở nhè nhẹ, quay lại định gọi Chu Chỉ Nhược nhưng không thấy, bèn hỏi:

- Tống phu nhân đâu rồi?

Mọi người mới rồi lo chống trả quân Nguyên không ai để ý xem Chu Chỉ Nhược ở nơi đâu. Phái Nga Mi lúc này đối với Minh Giáo cũng bớt được mấy phần căm ghét, đều nói không thấy chưởng môn. Trương Vô Kỵ sợ Tống Thanh Thư trong cơn hỗn loạn có thể bị thương nên cởi các băng vải trên người y ra xem thế nào.

Trên người y quấn ba lớp vải trắng, đến khi lớp thứ ba cởi ra, nghe thấy loảng xoảng loảng xoảng, rơi ra bốn mảnh binh khí gãy. Trương Vô Kỵ giật mình, kêu lên:

- Đồ Long đao! Ỷ Thiên kiếm!

Mọi người lập tức ùa tới, thấy hai món binh khí sắc bén kia đều đã gãy đôi. Trương Vô Kỵ cầm một nửa thanh đao Đồ Long lên xem, thấy nặng nề, trong lòng hiện ra trăm mối cảm hoài, cha mẹ mình cũng vì thanh đao này mà bỏ mạng, trong hơn hai mươi năm qua trên chốn giang hồ sóng gió liên miên đều cũng vì nó cả. Quần hùng hôm nay tụ tập nơi chùa Thiếu Lâm, chủ yếu cũng vì hai chữ Đồ Long. Đến bây giờ bảo đao xuất hiện thì đã gãy rồi, không còn dùng được nữa, có điều nơi chỗ gãy có một lỗ hổng xem ra có thể dấu được vật gì, thanh kiếm Ỷ Thiên cũng như thế. Cả đao lẫn kiếm đều rỗng ruột, nếu quả có gì trong đó thì cũng đã bị người ta lấy đi mất rồi.

Dương Tiêu thở dài:

- Võ công kinh người của Chu cô nương thì ra từ ở trong đao kiếm này mà có.

Trương Vô Kỵ thấy đao kiếm gãy như thế lập tức hiểu ngay: trên hòn đảo nhỏ đêm hôm đó đao kiếm mất cả chính là do Chu Chỉ Nhược lấy cắp. Không biết nàng dùng thủ đoạn gì mà đuổi được Triệu Mẫn đi, giết hại Ân Ly rồi dùng đao kiếm chặt vào nhau khiến cho hai món binh khí sắc bén nhất thiên hạ này đều bị hủy để lấy được võ công bí cập dấu trong đao kiếm bí mật tu tập.

Chàng càng nghĩ càng hiểu rõ: ?Đúng rồi, khi đó trên tiểu đảo ta dùng Cửu Dương thần công giúp nàng trừ chất độc, trong cơ thể nàng quả có một luồng nội lực quái dị ngầm chống lại với ta, càng về sau càng mạnh hiển nhiên nàng tu tập có tiến bộ. Ôi! Nàng muốn luyện gấp cho mau xong nên không chịu theo đuổi nội công căn cơ mà chỉ toàn là những môn võ công âm độc tốc thành nên không thể nào đạt được mức thượng thừa tuyệt đỉnh. Tuy nàng đánh bại được Du nhị bá và Ân lục thúc thật nhưng cũng chỉ nhờ vào võ công chiêu số quái dị mà ra nên xuất kỳ bất ý thắng thế, chẳng khác gì ta bị Phong Vâm tam sứ giả của tổng giáo đánh bại hôm nào. Võ công chân chính của Chỉ Nhược so ra với Du Ân hai vị thật còn kém xa, sau này nếu có giao đấu thể nào cũng chết dưới tay Võ Đương nhị hiệp ...?.

Chàng còn đang trầm ngâm, Chưởng Kỳ Sứ của Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo tiến lên nói:

- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ vốn xuất thân thợ rèn, đã từng học qua phép đánh đao đánh kiếm, để thuộc hạ làm thử, biết đâu không nối lại được bảo đao, bảo kiếm như cũ.

Dương Tiêu vui mừng đáp lời:

- Thuật rèn kiếm của Ngô kỳ sứ thiên hạ vô song, xin giáo chủ để y thử xem sao.

Trương Vô Kỵ gật đầu:

- Hai loại lợi khí này bị gãy quả thực đáng tiếc. Ngô kỳ sứ nếu nối lại được thì còn gì bằng.

Ngô Kình Thảo quay sang nói với Liệt Hỏa Kỳ Sứ Tân Nhiên:

- Rèn đao rèn kiếm, cốt nhất là ở sức lửa, nhờ Tân huynh giúp cho một tay. Xem tình cảnh này, quân Thát Đát nhất thời chưa đánh lên núi, hai anh em ta làm ngay được chăng?

Tân Nhiên cười đáp:

- Cái gì chứ nhóm củi, đốt lửa thì vốn là nghề của huynh đệ.

Lập tức hai người chỉ huy thuộc hạ, đắp ngay một cái lò lớn, miệng lò rộng không đầy một thước. Ngô Kình Thảo lấy mảnh mũi đao Đồ Long xếp vào, chỗ gẫy ngay tại miệng lò. Nhiên liệu của Liệt Hỏa Kỳ đã sẵn sàng, chẳng mấy chốc lửa đã bừng bừng bốc lên. Ngô Kình Thảo tay phải đã đứt, chỉ còn lại một cánh tay trái. Bên cạnh y để hơn một chục loại binh khí khác nhau, mắt chăm chăm, mỗi khi thấy lửa biến màu, lại đem một món binh khí ném vào để xem sức nóng. Đợi đến khi lửa từ xanh biến thành trắng, tay trái mới cầm kìm, kẹp mảnh thanh đao Đồ Long còn lại chắp vào đầu bên kia để nung. Nửa thân trên y để trần, đốm lửa bắn tung tóe lên người nhưng dường như không cảm giác, vẫn hết tâm để vào việc. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: ?Rèn đao kiếm tuy là việc nhỏ, nhưng cũng phải học tập nhiều, bản lãnh lắm mới làm được. Nếu như loại thợ rèn tầm thường, chỉ chịu nóng không cũng không nổi?.

Bỗng nhiên lịch kịnh mấy tiếng, hai tên giáo chúng kéo bễ ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ Chưởng Kỳ Phó Sứ lập tức xông lên, gạt hai tên đó sang một bên, tự tay kéo bễ thổi lửa. Hai người nội lực không phải là yếu nên vừa sử kình quạt lò, lửa đã bốc lên, ngọn cao cả trượng, cảnh tượng thật là đẹp mắt.

Độ tàn nửa nén hương, Ngô Kình Thảo bỗng kêu lên: ?Ối chà?, tung mình nhảy vọt về phía sau, mặt đầy vẻ thất vọng. Mọi người ai nấy kinh hãi, nhìn lại trong tay y, thấy cái kềm đã bị nóng chảy, méo mó không còn hình thù gì, còn thanh đao Đồ Long vẫn không suy suyển. Ngô Kình Thảo lắc đầu:

- Thuộc hạ vô năng, thanh đao Đồ Long này quả thực danh bất hư truyền!

Tân Nhiên và Chưởng Kỳ Phó Sứ tạm ngưng thổi bễ, đứng lui sang một bên. Hai người áo quần ướt đẫm mồ hôi, tưởng như vừa ở dưới nước trèo lên. Triệu Mẫn bỗng nói:

- Vô kỵ ca ca, có phải Thánh Hỏa Lệnh đao Đồ Long chặt không đứt phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Ừ, đúng vậy!

Trong sáu thanh Thánh Hỏa Lệnh, một thanh đã giao cho Thuyết Bất Đắc cầm xuống núi để điều binh, nay chỉ còn năm. Chàng lấy trong bọc ra, giao cho Ngô Kình Thảo:

- Đao kiếm không hàn lại được, cũng chẳng quan hệ gì. Thánh Hỏa Lệnh là vật chí bảo của bản giáo, không thể để cho hư hỏng.

Ngô Kình Thảo cúi mình tiếp lấy, đáp: ?Xin vâng lệnh!?. Y thấy năm thanh Thánh Hỏa Lệnh không phải sắt, cũng chẳng phải vàng, cứng rắn vô cùng, nặng trình trịch, nên cúi đầu suy nghĩ.

Trương Vô Kỵ nói:

- Nếu thấy không ổn thì cũng đừng mạo hiểm làm gì.

Ngô Kình Thảo không trả lời, một hồi sau mới tỉnh giấc trầm tư, đáp:

- Thuộc hạ quả là không phải, xin giáo chủ thứ tội. Thánh Hỏa Lệnh này vốn là bạch kim trộn với huyền thiết và cát kim cương đúc thành, lửa nóng không làm chảy nổi. Thuộc hạ quả thật hồ nghi, không biết khi xưa làm sao đúc được, cho nên suy nghĩ nhất thời như mất cả hồn vía.

Triệu Mẫn liếc Trương vô Kỵ một cái, nhoẻn miệng cười:

- Sau này giáo chủ sẽ có dịp sang Ba Tư để gặp một nhân vật thật là quan trọng, lúc đó Ngô huynh có thể đi theo, hỏi các thợ đúc cao thủ của họ xem làm cách nào.

Trương vô Kỵ ngượng nghịu nói:

- Ta sang Ba Tư để làm gì?

Triệu Mẫn mỉm cười:

- Chuyện đó không nói ra được.

Lại quay sang Ngô Kình Thảo:

- Ngươi xem, trên Thánh Hỏa Lệnh còn có khắc hoa văn và chữ. Dù có sắc bén như đao Đồ Long hay kiếm Ỷ Thiên cũng không làm suy suyển được, thì những đường nét, văn tự ấy làm sao đục thành?

Ngô Kình Thảo đáp:

- Muốn khắc hoa văn, văn tự không có gì khó. Chỉ cần dùng sáp trắng phủ lên trên Thánh Hỏa Lệnh, trên sáp khắc hình vẽ chữ, sau đó đem ngâm trong cường toan, chỉ vài tháng sau sẽ ăn mòn. Sau đó đem ra cạo hết sáp đi, các hình và chữ sẽ hiện ra. Điều tiểu nhân không hiểu là làm sao nung cho chảy được.

Tân Nhiên kêu lên:

- Thế thì có định làm không đây?

Ngô Kình Thảo hướng về phía Trương Vô Kỵ:

- Giáo chủ đừng ngại. Liệt hỏa của Tân huynh đệ tuy ghê gớm thật, nhưng không tổn hại được Thánh Hỏa Lệnh đâu.

Tân Nhiên trong lòng hơi sợ, vội nói:

- Tôi chỉ hết sức thổi lửa, nếu như làm hỏng Thánh vật của bản giáo, thì không chịu tội đâu nhé.

Ngô Kình Thảo mỉm cười:

- Chỉ sợ ngươi không đủ nhẫn nại, có gì ta chịu hết.

Nói rồi lấy hai miếng Thánh Hỏa Lệnh kẹp một nửa thanh đao, sau đó dùng một chiếc kìm mới kẹp lấy Thánh Hỏa Lệnh đưa bảo đao vào trong lò nung lần nữa. Lửa mỗi lúc một bốc lên cao, nung đến hơn nửa giờ, chỉ thấy Ngô Kình Thảo, Tân Nhiên, Liệt Hỏa Kỳ phó sứ ba người thấp thoáng trong ánh lửa, mỗi lúc một thêm uể oải, xem chừng không còn chịu nổi.

Thiết Quan đạo nhân Trương Trung liếc mắt ra hiệu cho Chu Điên, phất tay một cái, hai người cùng xông lên nhảy vào thay cho Tân Nhiên và Liệt Hỏa Kỳ phó sứ, ra sức kéo bễ. Trương Chu hai người nội lực so với những người kia cao hơn nhiều, lửa trong lò bốc vút lên thẳng một làn trắng xóa.

Ngô Kình Thảo bỗng dưng quát lớn:

- Cố huynh đệ, ra tay đi.

Chưởng kỳ phó sứ Nhuệ Kim Kỳ tay cầm dao nhọn, chạy tới bên lò, chỉ thấy lấp lánh, đã giơ dao đâm thẳng vào ngực Ngô Kình Thảo. Quần hùng đứng chung quanh không khỏi thất sắc, đều lớn tiếng kêu la. Máu từ trên bộ ngực trần của Ngô Kình Thảo phun ra tung tóe trên thanh đao Đồ Long, gặp nóng lập tức bốc lên một làn khói xanh khét lẹt. Ngô Kình Thảo la lớn:

- Thành rồi.

Y lui lại mấy bước, ngồi phịch xuống đất, tay cầm một thanh đao đen sì. Quả thực hai mảnh của đao Đồ Long đã liền lại thành một. Mọi người bấy giờ mới biết, mỗi khi những người thợ đúc đao rèn kiếm không thành, phải nhỏ máu vào. Thời xưa, vợ chồng Can Tương, Mạc Tà thậm chí phải nhảy vào lò, mới đúc thành vô thượng lợi kiếm. Việc Ngô Kình Thảo làm chính là theo phong cách của những người xưa truyền lại.

Trương Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo lên, xem xét vết thương, thấy dao đâm không sâu, chẳng có gì đáng lo ngại. Chàng lấy kim sang rắc vào, dùng vải buộc lại, nói:

- Ngô huynh việc gì phải làm như thế. Đao này nối lại được hay không, không phải là quan trọng, đâu đáng để Ngô huynh phải chịu khổ đến vậy.

Ngô Kình Thảo đáp:

- Vết thương nhỏ ngoài da thịt, có đáng gì để giáo chủ phải lo lắng.

Y đứng dậy, cầm thanh đao Đồ Long lên xem, thấy liền lạc không dấu vết, chỉ lờ mờ một lằn máu nhỏ, không khỏi mười phần đắc ý. Trương Vô Kỵ xem lại hai thanh Thánh Hỏa Lệnh mới nung trong lò thấy không suy tổn mảy may, yên chí tiếp lấy thanh đao Đồ Long, chém xuống hai lưỡi mâu chàng vừa cướp được của lính Mông Cổ[5], chỉ nghe một tiếng soẹt nhỏ, hai món võ khí đứt ra làm đôi, đúng là chặt sắt như bùn.

Mọi người ai nấy reo lên:

- Đao tốt quá! Đao tốt quá!

Ngô Kình Thảo cầm hai mảnh kiếm Ỷ Thiên lên, nghĩ đến chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh cùng mấy chục anh em chết vì kiếm này, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng nói:

- Thưa giáo chủ, thanh kiếm này đã giết chết Trang đại ca, giết thêm bao nhiêu là anh em bằng hữu của bản giáo, Ngô Kình Thảo này hận nó tận xương tủy, không muốn nối lại làm gì, xin giáo chủ trách phạt cho!

Nói xong rồi khóc òa lên. Trương Vô Kỵ nói:

- Đó chẳng qua là nghĩa khí của Ngô đại ca, đâu có tội vạ gì?

Chàng cầm lấy hai mảnh thanh kiếm gãy, đến trước mặt Tĩnh Huyền của phái Nga Mi nói:

- Kiếm này nguyên là của quí phái, xin sư thái giữ giùm, chuyển lại cho Chu ... cho Tống phu nhân.

Tĩnh Huyền không nói một lời, cầm lấy hai mảnh kiếm gãy. Trương Vô Kỵ cầm thanh đao Đồ Long, suy nghĩ rồi quay sang nói với Không Văn:

- Phương trượng, thanh đao này do nghĩa phụ tôi mà có, hiện nay ông ta đã qui y tam bảo, thuộc về phái Thiếu Lâm, thanh đao này vậy do phái Thiếu Lâm chấp chưởng.

Không Văn xua tay rối rít nói:

- Thanh đao này đổi chủ mấy lần, sau cùng chính Trương giáo chủ cướp được trong đám thiên quân vạn mã, ai ai cũng chính mắt trông thấy, lại do Ngô đại ca của quí giáo nối lại. Huống chi hôm nay anh hùng thiên hạ đều suy cử Trương giáo chủ lên làm võ lâm chí tôn, luận tài luận đức, luận cả nguồn gốc, danh vị, đao này phải do Trương giáo chủ chưởng quản mới phải, có thế mới đúng là danh chính ngôn thuận.

Quần hùng cùng lên tiếng phụ họa, nói:

- Mọi người đều mong mỏi như vậy, Trương giáo chủ xin đừng thoái thác nữa.

Trương Vô Kỵ đành cầm lấy, nghĩ thầm: ?Nếu như nhờ có thanh bảo đao này mà hiệu lệnh được anh hùng hào kiệt thiên hạ, cùng chung sức đuổi quân Hồ Lỗ thì đúng là việc mình phải làm?. Lại nghe mọi người lao xao nói:

- Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng.

Hai câu tiếp ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong ?? không ai đề cập đến vì thấy thanh kiếm nay đã gãy liệu rằng không nối lại được nữa. Người trong Nhuệ Kim Kỳ của Minh Giáo hận thanh kiếm Ỷ Thiên này biết bao nhiêu, nay thấy thanh đao Đồ Long trở lại nguyên vẹn như cũ, còn Ỷ Thiên kiêm chỉ là hai mảnh kiếm gãy, ai nấy đều hả dạ.

Mọi người bận rộn cả nửa ngày nay ai cũng thấy đói. Ngũ Hành Kỳ của Minh Giáo cùng một nửa tăng lữ trong chùa Thiếu Lâm chia nhau ra trấn giữ những nơi hiểm yếu, số còn lại quay vào chùa ăn cơm chay. Đến khi trời đã sắp tối, Trương Vô Kỵ nhảy lên trên một cây cao, nhìn xuống chân núi, thấy quân Nguyên đông một tụm, tây một nhóm, khói lửa bốc lên, cũng đang bắc chảo nấu cơm. Chàng nhảy xuống đất, nói với Vi Nhất Tiếu:

- Vi huynh, đợi đến khi trời tối, nhờ Vi huynh đi dò thám tình hình quân địch, xem thử chúng có tính đêm nay đột kích hay không.

Vi Nhất Tiếu tiếp lệnh vâng lời ra đi. Dương Tiêu nói:

- Giáo chủ, tôi xem chừng quân Thát tử ở mặt trước đã bị thua một trận, hôm nay chắc chưa tấn công lần nữa đâu, có phòng bị là phòng mặt sau chúng đánh lén.

Trương Vô Kỵ nói:

- Đúng thế, nhờ Dương tả sứ và Phạm hữu sứ ở đây trấn thủ, tôi sang ngọn núi bên kia coi thế nào.

Triệu Mẫn nói:

- Để thiếp đi với.

Hai người lên đến ngọn núi nơi từng nhốt Tạ Tốn trông ra phía sau núi không thấy động tĩnh gì. Trương Vô Kỵ vỗ vỗ ba cây tùng gãy, nhìn xuống địa lao đen ngòm, nhớ lại trận đấu kịch liệt sáng nay, thật là hung hiểm đột nhiên nghĩ ra một chuyện: ?Nghĩa phụ bảo ta coi các bức vách dưới địa lao, suýt nữa thì quên? bèn nói:

- Mẫn muội, em ở trên này canh chừng, anh xuống xem ra thế nào.

Chàng nhảy xuống dưới thạch thất, lấy đồ đánh lửa đốt lên, bấy giờ nước tích trong hầm đã rút nhưng mặt đất vẫn còn ướt đẫm. Cả bốn bên vách đều có khắc một tấm hình, dùng đá nhọn vạch thành, nét bút thật giản dị nhưng thần thái cũng khá sinh động. Bên phía đông bức vẽ đầu tiên vẽ ba thiếu nữ, một cô nằm dưới đất, một người quì đang săn sóc, còn cô thứ ba thò tay vào trong bọc của người đang quì, bên cạnh đề hai chữ ?Lấy thuốc?.

Bức tường phía nam vẽ một chiếc thuyền, một cô gái cầm một cô khác ném lên, viết hai chữ "Đuổi đi". Trương Vô Kỵ mồ hôi trán nhỏ ròng ròng, nghĩ thầm: ?Hóa ra đúng là thế thật. Chỉ Nhược nhân lúc Mẫn muội đang chăm sóc cho biểu muội, ăn cắp Thập Hương Nhuyễn Cân Tán trong bọc của nàng, bỏ vào đồ ăn thức uống, sau đó ném Mẫn muội lên hải thuyền Ba Tư, ép họ phải ra đi. Sao nàng lại không giết Mẫn muội nhỉ? Ồ, nếu như để lại cái xác của Mẫn muội không hủy được hình tích thì ta sẽ không bao giờ chịu lấy nàng. Nếu đúng như thế biểu muội cũng chính nàng ta hạ thủ?.

Ở bên góc phía dưới bức hình còn có vẽ thêm hai người đàn ông, một người đang ngủ say, còn một người tóc dài, nghiêng tai nghe ngóng. Trương Vô Kỵ lòng hơi hoảng sợ: ?Hóa ra Chỉ Nhược làm những chuyện thương thiên hại lý đó nghĩa phụ đều nghe biết cả. Lão nhân gia quả thật công phu hàm dưỡng cao siêu, trên đảo không lộ ra một tí gì. Đúng rồi, khi đó ta và nghĩa phụ uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán công lực đều mất hết, tính mạng nằm trong tay Chỉ Nhược. Thảo nào khi đó nghĩa phụ nhất nhất đổ riệt cho Mẫn muội, thật là phẫn nộ. Ông biết ta ngờ nghệch thực thà, nếu nói cho ta hay, trong ngôn ngữ cử chỉ thể nào cũng làm lộ chuyện?. Trên bức hình máu me vương vãi, chính là ban ngày Tạ Tốn và Thành Côn hai bên giao đấu huyết tích văng vào, càng làm cho tình cảnh thêm ghê rợn.

Đến khi xem đến đồ họa thứ ba nơi bức tường phía tây thì cây đuốc trên tay đã hết, tắt ngúm đi. Chàng kêu lên:

- Mẫn muội xuống đây, đem cho anh một cây đuốc.

Triệu Mẫn châm một ngọn đuốc, nhảy xuống địa lao, vừa nhìn thấy mấy hình vẽ lập tức hiểu ngay. Bức họa thứ tư vẽ mấy hán tử bắt Tạ Tốn dẫn đi, đằng xa có một thiếu nữ nấp sau một gốc cây dò thám. Cả bốn bức hình đó bút pháp thật tuyệt nhưng ngoài Tạ Tốn ra những người khác mặt mũi đều thẩy mơ hồ, thành thử không biết được người nào với người nào. Trương Vô Kỵ hơi trầm ngâm hiểu ngay: ?Khi nghĩa phụ bị hỏng mắt đến như ta cũng chưa ra đời, ông nhận được ra Mẫn muội, Chỉ Nhược, biểu muội toàn bằng tiếng nói nhưng có biết diện mạo ra sao đâu nên không thể vẽ được?. Chàng chỉ vào thiếu nữ đó hỏi:

- Có phải em đây không? Hay là Chu cô nương?

Triệu Mẫn đáp:

- Là em. Khi Thành Côn đến tổng đàn Cái Bang cướp Tạ đại hiệp ra, sai người đưa về nhốt tại chùa Thiếu Lâm, chính y vẽ các ký hiệu của Minh Giáo trên đường dẫn chàng chạy một vòng, em mấy lần tính ra tay đoạt lại Tạ đại hiệp nhưng không thành công, để đến nỗi anh hụt làm chú rể, thật hết sức ăn năn.

Trương Vô Kỵ trong lòng cũng thật áy náy, xót xa nhìn Triệu Mẫn thấy nàng dung nhan tiều tụy, hai má hóp vào đủ biết mấy tháng qua phải chịu biết bao nhiêu đọa đày, quả thật đáng thương nên vòng tay ôm vào lòng, bồi hồi nói:

- Mẫn muội! Anh ... anh ... thật có lỗi với em.

Ngọn đuốc không có người cầm rơi xuống tắt ngúm, trong hầm tối đen như mực. Chàng lại tiếp:

- Nếu chẳng vì em thông minh linh lợi, cái gã Trương Vô Kỵ hồ đồ ngờ nghệch này đã giết em rồi, nếu thế thật không biết sẽ ra sao?

Triệu Mẫn cười nói:

- Liệu chàng có nỡ giết em chăng? Khi đó chàng nghĩ em là hung thủ, sao gặp em chàng lại không ra tay?

Trương Vô Kỵ ngẩn người, thở dài:

- Mẫn muội, anh thật trong lòng chỉ yêu một mình em thôi, hơn cả thân mình. Nếu quả thực biểu muội bị em giết hại, anh thật cũng không biết làm sao nữa. Đến bây giờ mọi việc đã sáng tỏ, tuy anh có oán hận Chỉ Nhược thật nhưng phải nói trong bụng cũng mừng thầm.

Triệu Mẫn nghe người tình thành khẩn như thế, gục đầu vào lòng chàng. Một hồi thật lâu hai người không ai nói câu nào, ngẩng đầu nhìn lên, một vầng trăng non treo lơ lửng ở phương đông, bốn bề thật là tĩnh mịch.

Triệu Mẫn nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca, lần đầu tiên em gặp chàng ở Lục Liễu Trang, về sau hai đứa rơi vào trong hầm tối, hôm đó với hôm nay cũng chẳng khác gì bao nhiêu, phải không?

Trương Vô Kỵ bật cười, giơ tay nắm lấy bàn chân trái của nàng, lột chiếc giày ra. Triệu Mẫn cười khúc khích:

- Thân con trai mà sao lại ăn hiếp con gái chân yếu tay mềm?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười người đàn ông.

Triệu Mẫn cười:

- Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.

Hai người nói đến đây cùng cười ha hả. Mấy câu đối đáp đó chính là những câu hai người nói với nhau khi ở dưới hầm tối Lục Liễu Trang, có điều năm xưa khi nói những câu đó hai bên đang thù ghét nhau, còn hôm nay thì lại tình ý hết sức dạt dào. Trương Vô Kỵ cười nói:

- Em có sợ anh cù gan ban chân em nữa hay không?

Triệu Mẫn cũng cười:

- Không sợ!

Trương Vô Kỵ nắm chặt chân nàng bỗng nghe từ phía tây bắc văng vẳng tiếng hò hét truyền tới vội lắng tai nghe, xa xa có kình phong phần phật, quả ai đó đang đánh nhau liền nói:

- Mình đi xem coi sao!

Chàng liền nắm tay Triệu Mẫn, nhảy ra khỏi hầm đá theo tiếng mà lần đến, thấy ba bóng người chạy về phía tây, thân pháp nhanh nhẹn dị thường đều là cao thủ hạng nhất.

Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ ngang lưng Triệu Mẫn, thi triển khinh công đuổi theo, xa xa vẫn thấy một người chạy trước, đằng sau hai người đuổi theo. Cước bộ của chàng mỗi lúc một nhanh, đuổi khoảng một dặm, dưới ánh trăng thấy hai ông già phía sau chính là Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông. Chỉ thấy Hạc Bút Ông giơ tay trái ra, ném luôn một chiếc bút mỏ hạc vào người chạy trước. Người kia vung kiếm lại gạt đi, nghe keng một tiếng, gạt chiếc bút mỏ hạc văng lên không trung. Chính vì thế nên chậm lại một bước, Lộc Trượng Khách đã nhảy đến ngang người kia, đâm trượng sừng hươu ra.

Người kia nghiêng qua tránh được đánh ra một chưởng, ánh trăng chiếu lên thấy mặt trắng bệch, tóc dài xõa ra, chính là Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi vội ôm Triệu Mẫn náu sau một gốc cây. Hạc Bút Ông đón lấy cây bút mỏ hạc từ trên không rơi xuống, quấn lấy phía bên trái Chu Chỉ Nhược, cùng với Lộc Trượng Khách thành thế tả hữu giáp công. Chu Chỉ Nhược nghiến răng nói:

- Hai tên lão quỉ kia nhất định đuổi theo ta là cớ gì?

Lộc Trượng Khách đáp:

- Hôm nay Minh Giáo Trương Vô Kỵ đoạt được đao Đồ Long, kiếm Ỷ Thiên, chính mắt bọn ta trông thấy, võ công bí cập dấu trong đao kiếm không còn nữa, ắt là ở trong người Tống phu nhân.

Trương Vô Kỵ giật mình: ?Khi ta đoạt đao cứu người thì ra hai tên giặc này nấp ở một bên vậy mà mình không biết gì cả?. Chu Chỉ Nhược nói:

- Võ công bí cập thì có thật nhưng ta luyện xong đã hủy đi rồi.

Lộc Trượng Khách cười khẩy:

- ?Luyện xong? hai tiếng đó sao nghe dễ thế? Thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên được gọi là võ lâm chí tôn, bí cập dấu trong đó không lẽ tầm thường hay sao? Tống phu nhân võ công tuy hơn người thật nhưng đâu đã đến mức tuyệt đỉnh, nếu không thì chỉ cần giơ tay là giết được hai anh em lão phu rồi, đâu đến nỗi phải bỏ chạy?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ta nói hủy rồi là hủy rồi, ai hơi sức đâu mà lằng nhằng với các ngươi. Thôi xin kiếu nhé.

Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông cùng quát lên:

- Khoan đã!

Lộc trượng và hạc bút cùng vung ra, đánh vào hai bên hông Chu Chỉ Nhược. Chu Chỉ Nhược múa kiếm vù vù, dưới ánh trăng lấp loáng như một con rắn bạc. Huyền Minh nhị lão một trượng, hai bút liên thủ tấn công.

Trước đây Trương Vô Kỵ chỉ mới thấy Chu Chỉ Nhược sử dụng trường tiên, bây giờ lại thấy nàng kiếm chiêu tung hoành đấu với hai đại cao thủ mà lúc thủ lúc công, khi hư khi thực biến ảo lạ thường, càng lúc càng nhiều chiêu số xảo diệu.

Đấu thêm vài chục hiệp nữa, kiếm chiêu của Chu Chỉ Nhược càng lúc càng kỳ lạ, trong mười chiêu thì đến bảy chiêu là thế công thật độc địa. Trương Vô Kỵ biết nàng muốn thoát thân cho nhanh, thế nhưng phép đánh này càng gấp gáp thì nội lực vận lên càng nhiều, chỉ sơ ý một chút là sẽ gặp hung hiểm ngay. Chàng trong bụng quan hoài, rón rén từ sau gốc cây đi ra đi đến gần thêm mấy bước.

Chu Chỉ Nhược bỗng hét lên một tiếng, đâm luôn ba kiến liền về phía Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghiêng người né tránh, ngay lúc đó hai chiếc bút của Hạc Bút Ông nhắm ngay sau lưng nàng ném tới, giữa đường chạm nhau nghe keng một tiếng, chia ra tấn công vào những nơi yếu hại sau ót và lưng. Chu Chỉ Nhược nghe thấy phía sau có binh khí ném tới, hụp người xuống tránh nhưng không ngờ rằng binh khí giữa lưng chừng lại đụng nhau đổi hướng, nên tránh được cây bút đánh vào sau ót nhưng không thoát được cây bút đánh vào lưng.

Trương Vô Kỵ tung mình nhảy tới, giơ tay chộp cây bút mỏ hạc, múa chưởng đỡ ngay đòn của Hạc Bút Ông đánh tới. Chu Chỉ Nhược còn đang kinh hoàng thất tán, Lộc Trượng Khách đã nhẹ nhàng vung chưởng đánh ra, trúng ngay bụng dưới của nàng. Đó chính là Huyền Minh thần chưởng hết sức kinh hồn, Chu Chỉ Nhược lập tức ngộp thở, hôn mê bất tỉnh.

Trương Vô Kỵ hoảng hốt vứt cây bút mỏ hạc trong tay xuống đất, đưa tay ra ôm lấy Chu Chỉ Nhược, nhảy xéo qua một bên, quát lớn:

- Huyền Minh nhị lão, sao làm trò vô liêm sỉ như thế?

Lộc Trượng Khách cười ha hả nói:

- Ta tưởng ai lớn mật dám nhúng tay vào, hóa ra là Trương đại giáo chủ. Quận chúa nương nương của chúng ta đâu rồi? Ngươi bắt cóc quận chúa dấu nơi đâu?

Triệu Mẫn từ sau gốc cây bước ra, đỡ lấy Chu Chỉ Nhược, cười hì hì nói:

- Lộc tiên sinh, chắc lâu nay ông hồn vía điên đảo nhớ nhung tôi, không sợ cha tôi nổi giận hay sao?

Lộc Trượng Khách bực dọc đáp:

- Ngươi là con tiểu yêu nữ, muốn ly gián khiêu khích hai sư huynh đệ ta. Anh em ta với cha ngươi đã ân đoạn nghĩa tuyệt, Nhữ Dương Vương giận hay không có liên quan gì đến ta đâu?

Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách hạ độc thủ đánh Chu Chỉ Nhược, lại vô lễ với Triệu Mẫn, nhớ lại khi còn nhỏ trúng phải Huyền Minh thần chưởng của hai gã này, chịu không biết bao nhiêu khổ sở, hận cũ thù mới bừng bừng bốc lên, bèn nói:

- Mẫn muội, em lui ra ngoài, hai tên giặc già này ta vừa gặp đã lộn ruột, hôm nay phải cho chúng nó một mẻ mới xong.

Nhị lão thấy chàng tay không nên cũng bỏ binh khí xuống, chăm chăm đứng đợi. Trương Vô Kỵ quát lớn:

- Xem chiêu đây!

Chàn dùng chiêu Lãm Tước Vĩ song chưởng đánh ra. Chiêu này nằm trong Thái cực quyền, đánh ra thật chậm nhưng bên trong chưởng lực có ngầm vận Cửu Dương thần công. Thái cực quyền đối với đời sau coi là tầm thường nhưng lúc đó Trương Tam Phong mới sáng tạo chưa bao lâu, trong võ lâm rất ít người biết đến. Lộc Trượng Khách chưa từng thấy loại chưởng pháp mềm mại như không có sức này bao giờ, không biết bên trong có ngụy kế gì, y đối với Trương Vô Kỵ vốn rất úy kỵ nên không đám đỡ, vội lách qua tránh. Trương Vô Kỵ chuyển mình dùng chiêu Bạch Xà Thổ Tín, tay trái đánh vào Hạc Bút Ông, tay phải hơi rung động, vươn ra thu vào không nhất định. Hạc Bút Ông điểm hờ ngón tay trỏ bên trái vào lòng bàn tay chàng, chưởng phải đánh nghiêng xuống vào bụng Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ đã mấy lần giao đấu với Huyền Minh nhị lão, biết hai gã này không phải là đối thủ của mình, mới đây chàng lại cùng nhóm Độ Ách tam tăng kịch chiến ba lần, võ công cao thêm một bậc, muốn đánh bại hai người thì thừa sức. Có điều hai người này tài nghệ thật là ghê gớm nên không dám coi thường liền sử dụng Thái cực quyền pháp, tạo thành vòng lớn vòng nhỏ, Cửu Dương thần công theo những vòng đó lúc thẳng lúc xéo cuồn cuộn tung ra.

Huyền Minh nhị lão thấy dương khí mỗi lúc một thịnh, khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng mỗi lúc càng thêm bị đối phương đẩy ngược trở lại.

Đấu đến hơn một trăm hiệp rồi, Trương Vô Kỵ bất ngờ xoay người, thấy dưới đất có hai bóng người hơi run rẩy, chính là bóng trăng chiếu vào Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược, trong lòng hơi hoảng, nghiêng người quan sát, thấy Triệu Mẫn không ngừng lảo đảo, xem ra không ôm nổi Chu Chỉ Nhược nữa rồi, nghĩ thầm: ?Hỏng mất, Chỉ Nhược trúng phải một chưởng Huyền Minh của lão họ Lộc, xem ra không chịu được. Nàng vốn đã luyện công phu âm hàn lại thêm lãnh khí ghê gớm nhất thiên hạ của Huyền Minh thần chưởng, lạnh càng thêm lạnh, xem ra cả Mẫn muội cũng chịu không nổi?. Chàng bèn gia tăng kình lực đánh ép tới Lộc Trượng Khách.

Lộc Trượng Khách thấy chàng biến đổi quyền pháp đoán ngay được tâm lý Trương Vô Kỵ, nghiêng người tránh qua, kêu lên:

- Sư đệ, cố đấu cầm chừng. Hàn độc trên người con bé họ Chu đang phát tác, đừng để y rảnh tay giải cứu.

Hạc Bút Ông nói:

- Chính thế!

Y nhảy ra khỏi vòng nhặt hai cây bút mỏ hạc, dùng phép Thông Thiên Triệt Địa đánh cả trên lẫn dưới hai phía. Trương Vô Kỵ khinh khỉnh nói:

- Có hay không có binh khí thì cũng thế mà thôi.

Vù một chưởng đánh ra, kình phong ép tới khiến Hạc Bút Ông ngộp thở. Lộc Trượng Khách cũng ngoặt tay rút trượng đầu hươu ra, tấn công vào bên hông Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ biến đổi luôn mấy pho quyền pháp khác nhau, sử dụng những chiêu trong ba mươi sáu thức Long Trảo Cầm Nã Thủ học lóm của Không Tính thần tăng phái Thiếu Lâm là Phủ Cầm Thức, Cổ Sắt Thức, Bổ Phong Thức, Bão Tàn Thức thế công thật là ghê gớm. Lộc Trượng Khách kêu lên:

- Long Trảo Công nhà ngươi luyện giỏi nhỉ, để rồi đây đào hố thì tiện quá.

Hạc Bút Ông hỏi lại:

- Sư ca, đào hố dưới đất làm gì thế?

Lộc Trượng Khách cười nói:

- Chu cô nương chết rồi, đào hố chôn chứ còn gì nữa.

Y mở mồm nói tâm thần hơi phân tán, Trương Vô Kỵ đá ra một cước trúng ngay trên đùi trái của y. Lộc Trượng Khách trúng đòn lảo đảo nhưng gượng đứng lại được ngay, vội múa cây trượng sừng hươu vù vù khiến gió mưa không lọt.

Trương Vô Kỵ quay đầu nhìn lại Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thấy hai nàng đang run lập cập, hỏi:

- Mẫn muội, ra sao rồi?

Triệu Mẫn đáp:

- Ôi chao, lạnh quá sức.

Trương Vô Kỵ kinh hãi, hơi suy nghĩ hiểu ngay, Chu Chỉ Nhược trúng phải Huyền Minh thần chưởng âm hàn lợi hại đã đành, nhưng chỉ một mình nàng bị mà thôi, lúc này cả Triệu Mẫn cũng lạnh nữa, hẳn là vì Triệu Mẫn có lòng tốt, giơ chưởng giúp Chu Chỉ Nhược vận công đề kháng. Hai người công lực cách nhau xa, nội công của Chu Chỉ Nhược lại mười phần quái dị thành thử Triệu Mẫn cứu người không xong đâm hại vào thân. Trương Vô Kỵ song chưởng bung ra thu vào, chỉ mong sớm đánh bại nhị lão. Thế nhưng hai người lại cứ tránh xa xa, lúc trước lúc sau, cố gắng diên trì không chịu mặt đối mặt đánh với chàng.

Trương Vô Kỵ nóng ruột, kêu lên:

- Mẫn muội bỏ Chu cô nương xuống đất, đừng ôm nàng ta nữa.

Triệu Mẫn đáp:

- Em ... em không bỏ xuống được.

Trương Vô Kỵ lạ lùng:

- Sao thế?

Triệu Mẫn đáp:

- Lưng ... lưng cô ta ... không hiểu sao dính chặt vào tay em.

Nàng vừa nói hai hàm răng đánh vào nhau kêu lốp cốp, thân hình lẩy bẩy muốn ngã, Trương Vô Kỵ hết sức kinh hãi. Lại nghe Lộc Trượng Khách nói:

- Trương giáo chủ, Chu cô nương kia lòng dạ thật độc địa, nàng ta đang đẩy hàn độc qua người quận chúa nương nương, chẳng mấy chốc quận chúa sẽ chết. Vậy mình giao hẹn với nhau có được không?

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

- Giao hẹn cái gì?

Lộc Trượng Khách nói:

- Bọn mình hai bên ngừng đấu, bọn ta lấy hai quyển sách trên người Chu cô nương, ngươi cứu quận chúa.

Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nghĩ thầm: ?Huyền Minh nhị lão này võ công vốn đã thật ghê gớm, nếu như luyện thêm võ công âm độc của Chu Chỉ Nhược, sau này làm ác còn ai chế phục được chúng nữa?. Chàng hoang mang nhìn lại thấy khuôn mặt trắng trẻo như ngọc của Triệu Mẫn nay thành xanh lè, đầy vẻ đau khổ dường như chịu không nổi. Trương Vô Kỵ lùi lại hai bước, tay trái nắm lấy tay phải nàng, chân khí Cửu Dương trong người theo lòng bàn tay cuồn cuộn tuôn ra. Lộc Trượng Khách kêu lên:

- Tiến lên tấn công gấp.

Huyền Minh nhị lão liền một trượng hai bút múa lên như gió táp mưa sa xông vào. Trương Vô Kỵ dùng đến quá nửa chân lực để cứu hai nàng Triệu Chu, thân hình lại không thể di động, chỉ còn có một chưởng ngự địch nên trong giây lát đã vạn phần nguy hiểm. Soẹt một tiếng, ống quần chân trái đã bị bút của Hạc Bút Ông xé rách một đường dài, trên đùi máu chảy dầm dề. Triệu Mẫn vốn dĩ bị khí âm hàn trong người Chu Chỉ Nhược truyền vào, tưởng chừng huyết dịch trong người sắp đóng thành băng nhưng một khi Cửu Dương chân khí tuôn vào liền thấy ấm áp trở lại. Thế nhưng Trương Vô Kỵ đơn chưởng chống đỡ với Huyền Minh nhị lão gạt trái quét phải thành thử chân khí truyền vào Triệu Mẫn yếu dần khiến hai hàm răng nàng lại đánh lập cập.

Lộc Trượng Khách đánh vù vù vù ba trượng, chiếc sừng hươu trên đầu gậy đâm vào mắt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giơ chưởng vận lực gạt ra dồn Lộc Trượng Khách trở lại. Thế nhưng Hạc Bút Ông đã xông được vào bút bên trái dùng chiêu Tòng Tâm Sở Dục, điểm vào hông chàng. Trương Vô Kỵ không cách nào tránh né, chỉ còn cách thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp để đẩy bút của y chệch ra, thế nhưng bút lực của Hạc Bút Ông hết sức mạnh mẽ, không biết có đẩy ra nổi không. Bỗng nghe keng một tiếng, bên hông dội lại nhưng không cảm thấy đau, thì ra bút của Hạc Bút Ông đã điểm trúng thanh đao Đồ Long đeo ngang lưng.

Trương Vô Kỵ bình thời giao đấu không dùng binh khí, khi đấu với ba nhà sư Độ Ách cũng chỉ dùng thánh hỏa lệnh coi như tay thước, chứ chưa hề sử dụng đao kiếm, thành thử đao Đồ Long đeo ngay bên người mà vẫn không nhớ tới rút ra ngự địch.

Bút đó của Hạc Bút Ông điểm trúng khiến chàng tỉnh ngộ, liền quát lên một tiếng, chân trái đá ra, đẩy lùi Hạc Bút Ông ba bước, thò tay rút đao ra, vừa ngay lúc Lộc Trượng Khách đâm gậy tới. Đao Đồ Long trong tay Trương Vô Kỵ vung lên, nghe soẹt một tiếng khẽ chiếc đầu hươu trên gậy của y bị gãy rơi xuống liền. Lộc Trượng Khách kinh hãi kêu lên:

- Chao ôi!

Song bút của Hạc Bút Ông liền cuốn tới, bảo đao của Trương Vô Kỵ thuận đà, soẹt soẹt hai tiếng, đôi bút mỏ hạc đã gãy thành bốn khúc. Thanh bảo đao liền múa lên thành một luồng ánh sáng trắng, Huyền Minh nhị lão không dám đến gần, Cửu Dương chân khí trong người Trương Vô Kỵ lại tuôn vào thân thể Triệu Mẫn, lần này toàn lực phát huy nên hàn độc trong người Chu Chỉ Nhược liền bị đẩy ra hết sạch. Thế nhưng âm dương nhị khí trong cơ thể con người giao cảm, bên này mạnh ắt bên kia yếu, bên kia yếu ắt bên này mạnh, Huyền Minh hàn độc hết rồi, Cửu Dương chân khí liền tiếp tục tiêu giải Cửu Âm nội lực của nàng đang luyện.

Chu Chỉ Nhược lấy được pho Cửu Âm chân kinh dấu trong kiếm Ỷ Thiên, sợ Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ biết được nên chỉ đến tối mới len lén luyện tập, nhưng thời gian gấp rút nên không cách nào đi từ căn bản tuần tự tiệm tiến thành thử nội lực không lấy gì làm thâm hậu, chỉ tập toàn những công phu hạ thừa trong quyển kinh này mà thôi. Nàng trúng phải Huyền Minh thần chưởng rồi định đem khí âm hàn đẩy qua thân thể Triệu Mẫn, đến khi Trương Vô Kỵ đưa tay giúp đỡ, thấy toàn thân ấm áp thật là khoan khoái, thấy khí lực tăng dần định rời khỏi bàn tay Triệu Mẫn, vừa gắng sức lại thấy bị một sức thật mạnh hút chặt vào, giằng không ra, mới hay lúc nãy bàn tay Triệu Mẫn bị lưng nàng hút chặt, bây giờ thì chính nàng lại bị Triệu Mẫn hút ngược lại cũng chỉ vỉ nội lực hai bên mạnh yếu khác nhau nên không khỏi kinh hoảng.

Trương Vô Kỵ khu trừ hàn độc bỗng thấy Cửu Dương chân khí của mình tống ra, bàn tay Triệu Mẫn lại truyền một luồng hàn khí chống lại, lại tưởng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng chưa trừ hết, lại càng cố sức tuôn vào nhiều hơn có biết đâu chàng mỗi lần đưa Cửu Dương chân khí vào thì Cửu Âm chân khí của Chu Chỉ Nhược khổ công tu luyện lại bớt đi một chút. Chu Chỉ Nhược trong bụng kêu khổ thầm nhưng không nói ra được tự biết mình chỉ mở mồm lập tức hộc máu, chân khí ra hết chết ngay.

Triệu Mẫn thấy chân khí trong thân thể dung hòa, cười nói:

- Vô Kỵ ca ca, em khỏe rồi, anh chuyên tâm đối phó Huyền Minh nhị lão.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm!

Lập tức thu nội lực về. Chu Chỉ Nhược thoát nạn, không còn bị hút nữa, biết âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong mình đã hết nhưng Cửu Âm nội lực cũng bị tổn hao rất lớn, thấy Trương Vô Kỵ múa thanh đao Đồ Long chuyên tâm nghênh địch, liền giơ năm ngón tay ra chộp lên đầu Triệu Mẫn.

Triệu Mẫn kêu lên một tiếng:

- Ối chao!

Thấy đỉnh đầu đau nhói, những tưởng phen này không còn đường sống sót, ngờ đâu nghe mấy tiếng lách cách, Chu Chỉ Nhược kêu oái lên một tiếng vội vã chạy mất. Trương Vô Kỵ kinh hoảng vội quay lại hỏi:

- Chuyện gì thế?

Triệu Mẫn giơ tay sờ đầu sợ đến mất hết hồn vía, không nói nên lời. Trương Vô Kỵ tưởng nàng bị thương vì Cửu Âm Bạch Cốt Trảo nên cũng hoảng hốt tay múa đao chặn nhị lão, tay kia thò vào thăm thử đầu nàng ra sao, thấy trên đầu ướt nhèm nhẹp, tuy có chảy máu nhưng không bị vỡ đầu thủng lỗ, lòng như trút được gánh nặng, an ủi nàng:

- Chỉ bị thương ngoài da thịt thôi, không đến nỗi nào.

Trong bụng nghĩ thầm: ?Lạ thật, lạ thật? Chàng có biết đâu khi Chu Chỉ Nhược ra tay tập kích, Cửu Dương chân khí trong người Triệu Mẫn chưa ra hết, còn Chu Chỉ Nhược chân khí thì lại hao tổn nặng, lấy yếu công mạnh, không đả thương được đối phương mà chính mình lại bị tổn hại, bị chấn động đến gãy ngón tay.

Trương Vô Kỵ vừa phân tâm Huyền Minh nhị lão lập tức tấn công tới. Lúc này trong tay chàng đã có một món binh khí sắc bén nhất thiên hạ rồi, tự cảm thấy chỉ dựa vào binh khí mà thắng người khác thì không oai hùng chút nào, nên lật đao lại giao cho Triệu Mẫn, nội tức lưu chuyển một vòng thật nhanh, ngưng thần chuyên tâm, tay trái đưa ra sử dụng Càn Khôn Đại Na Di chuyển hướng kình lực của chưởng Hạc Bút Ông vừa đánh tới. Hành động vừa kéo vừa đẩy này bên trong có Cửu Dương thần công dùng lẫn với công phu tối cao cấp thứ bảy trong Càn Khôn Đại Na Di. Sử dụng công phu này thật hao tổn nội lực, không thể sơ xẩy chút nào vì chỉ vận dụng hơi chệch một tí thì chính mình sẽ bị tẩu hỏa nhập ma ngay thành thử khi chàng phân tâm giúp cho hai nàng Triệu Chu khu trừ hàn độc mặc dù tình thế cấp bách chàng vẫn không dám đem ra sử dụng.

Huyền Minh nhị lão là hạng cao thủ số một, nếu chỉ dùng công phu cấp năm, cấp sáu đối phó với họ ắt không thể nào làm gì được hai người. Chàng gạt ra vừa lúc chưởng của Hạc Bút Ông đánh tới nghe bộp một tiếng trúng ngay đầu vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách kinh hãi giận dữ nói:

- Sư đệ, ngươi làm trò gì thế?

Hạc Bút Ông võ công thật tinh xảo nhưng đầu óc lại hơi chậm chạp, việc gì cũng phải suy nghĩ rất lâu mới hiểu được lý lẽ, ngay lúc này vẫn ngơ ngẩn chưa biết tại sao, ấp úng không trả lời được chỉ biết là do Trương Vô Kỵ làm trò quái quỉ nên đành tấn công tới tấp để tạ lỗi với sư huynh. Y vận kình lên chân phải đá ra, Trương Vô Kỵ phẩy tay một cái, vừa bắt vừa kéo, cước đó liền chuyển hướng nhắm ngay đan điền Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vừa sợ hãi, vừa bực tức, nghiêng người qua tránh quát lên:

- Ngươi có điên hay không?

Triệu Mẫn kêu lên:

- Đúng thế, Hạc tiên sinh mau bắt tên sư huynh phạm thượng tác loạn, hiếu sắc tham dâm kia, cha tôi sẽ trọng thưởng.

Trương Vô Kỵ trong bụng cười thầm: ?Kế khích bác, ly gián đó quả thật hữu hiệu?. Chàng vốn dĩ muốn sử dụng Càn Khôn Đại Na Di khiến cho Hạc Bút Ông sẽ đánh vào Lộc Trượng Khách, sau đó lại dẫn Lộc Trượng Khách đánh vào Hạc Bút Ông bây giờ nghe Triệu Mẫn nói thế, nên chỉ vận động thúc đẩy quyền cước của Hạc Bút Ông còn đối phó với Lộc Trượng Khách thì dùng chiêu số trong thái cực quyền. Trương Vô Kỵ gọi lớn:

- Hạc tiên sinh, chớ có lo, tôi với ông hai người hợp lực thể nào cũng hạ được con hươu dâm. Nhữ Dương Vương đã phong cho ông làm ... phong ông làm ...

Chàng nhất thời chưa nghĩ ra quan chức gì cho thích hợp. Triệu Mẫn vội nói:

- Hạc tiên sinh, tờ cáo thư phong quan cho ông có sẵn đây.

Nói xong lấy trong bọc ra một tờ giấy mở ra, đọc:

- Ồ, là Đại Nguyên Hộ Quốc Dương Oai Đại Tướng Quân, thôi cố gắng thêm chút nữa.

Trương Vô Kỵ tả chưởng đánh ra, ép cho Lộc Trượng Khách phải dạt sang bên trái, còn tả chưởng của Hạc Bút Ông bị chàng lái qua đánh từ trái sang phải, thành thế tả hữu giáp công.

Lộc Trượng Khách với Hạc Bút Ông mấy chục năm nay tình thân còn hơn anh em ruột, vốn dĩ không thể nào tin y lại bán rẻ tình đồng môn nhưng lúc này thấy Hạc Bút Ông năm chiêu liền toàn là tấn công vào chỗ yếu hại, trong đường quyền ngọn cước xem ra đều dồn hết sức, dường như muốn lấy mạng mình thì còn ngờ thế nào được? Y phẫn uất dị thường, quát lớn:

- Ngươi tham đồ phú quí, không còn biết đến nghĩa khí nữa chăng?

Hạc Bút Ông vội nói:

- Tôi ... tôi chẳng ...

Triệu Mẫn vội tiếp lời:

- Đúng thế, chẳng qua bất đắc dĩ vì chức Hộ Quốc Dương Oai Đại Tướng Quân nên phải đắc tội với sư huynh chứ có còn gì để nói nữa đâu.

Trương Vô Kỵ tay phải tăng thêm mười thành công lực, chăm chú dẫn qua, chưởng của Hạc Bút Ông vừa đánh tới nghe bình một tiếng trúng thật mạnh ngay vai Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giận không để đâu cho hết, đánh ngược lại một chưởng, gãy luôn mấy cái răng hàm bên trái của Hạc Bút Ông. Hạc Bút Ông tuổi đã cao trong mồm chỉ cón có mấy cái răng đó để nhai nên quí lắm, bị như thế không khỏi nổi giận, quát lên:

- Sư ca chẳng biết trái phải là gì, đâu phải tiểu đệ cố ý đánh đâu.

Lộc Trượng Khách cũng bực tức quát lại:

- Thế ai đánh trước?

Y kiến văn rộng rãi thật nhưng đâu có ngờ rằng thế gian này lại có Càn Khôn Đại Na Di thần công cấp thứ bảy uy lực dường ấy, kẻ võ công cao siêu như Hạc Bút Ông, Trương Vô Kỵ có thể đánh y giết y chứ lẽ nào lại có thể mượn sức đánh sức để chuyển hướng chưởng lực sang đánh mình, thành thử không chút nghi ngờ Trương Vô Kỵ ra tay.

Hạc Bút Ông cố gắng biểu lộ tấm lòng mình, liền chửi:

- Thằng giặc con làm trò quỉ.

Triệu Mẫn kêu lên:

- Đúng đó, đừng gọi y là sư ca nữa, chửi y ?thằng giặc con? là đúng rồi.

Trương Vô Kỵ dùng chưởng bên trái ép chưởng lực của Lộc Trượng Khách, tay phải kéo chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay má y, lập tức sưng phù lên ngay. Trương Vô Kỵ thấy Lộc Trượng Khách phẫn nộ muốn điên lên được, mắt đỏ ngầu, chưởng lực cuồn cuộn thúc ra, biết kế ly gián đã thành, quát lên:

- Hạc tiên sinh, con hươu dâm này ta giao cho ngươi đó.

Chân trái điểm một cái, nhảy vọt ra ngoài, nắm tay Triệu Mẫn đi khỏi. Chỉ thấy Huyền Minh nhị lão kẻ một quyền, người một cước càng đấu càng thêm kịch liệt. Triệu Mẫn nói:

- Hạc tiên sinh, ngươi bắt được sư ca rồi, võ công bí cập trong đao Đồ Long sẽ cho ngươi mượn xem một tháng. Mau lập đại công, đừng để mất dịp may này.

Lộc Trượng Khách nổi giận đùng đùng, hạ thủ không một chút nương tay. Hai người cùng một môn phái, võ công tám lượng nửa cân, trận ác đấu này không biết đến bao giờ mới dứt.

Hai người về đến chùa Thiếu Lâm, Trương Vô Kỵ xem lại vết thương trên đầu Triệu Mẫn thấy không có gì đáng ngại, bỗng nhớ đến một chuyện nói:

- Mẫn muội, em may sao lại mang theo tờ giấy khiến cho Lộc Trượng Khách không thể không tin.

Triệu Mẫn tủm tỉm thò tay trong túi lấy ra một tờ giấy mỏng, giơ ra trước mặt cho chàng coi, cười nói:

- Chàng đoán thử xem cái gì đây?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

- Em bảo đoán thử cái gì, làm sao anh đoán được, nghĩ ngợi làm gì cho phí công.

Triệu Mẫn để hai cuộn giấy vào tay chàng, Trương Vô Kỵ đưa ra trước đèn xem thử thấy đó không phải là giấy mà là một mảnh lụa mỏng như cánh ve sầu, viết đầy những chữ khải nhỏ bằng đầu ruồi. Cuộn giấy thứ nhất đầu đề viết bốn chữ Vũ Mục[6] Di Thư, bên trong viết toàn tinh nghĩa yếu quyết hành quân giao chiến, bố trận dùng binh. Xem đến cuộn giấy thứ hai, bốn chữ tựa đề Cửu Âm Chân Kinh bên trong ghi toàn những võ công thần kỳ quái dị, giở đến cuối cùng Cửu Âm Bạch Cốt Trảo và Tồi Tâm Chưởng cũng có trong đó. Chàng giật mình hỏi:

- Em ... em lấy ở trong người Chu cô nương đấy ư?

Triệu Mẫn cười:

- Trong lúc cô ta không cử động được, lẽ nào em lại không tiện tay dắt dê[7]? Công phu âm độc này thiếp chẳng muốn học đâu nhưng lấy để hủy đi hơn là ở tay cô ta để hại người.

Trương Vô Kỵ thuận tay giở coi Cửu Âm Chân Kinh, đọc vài chương thấy văn nghĩa thâm áo nhất thời chưa hiểu được kỹ càng nhưng quyết không phải là loại võ học âm độc hạ lưu bèn nói:

- Võ công trong cuốn kinh này thật là sâu xa, cứ theo đó mà tu luyện, một hai chục năm sau thành tựu thật là ghê gớm còn như chỉ mong tốc thành học được một chút vỏ bên ngoài thì hại người mà hại luôn cả mình nữa.

Chàng ngừng lại một lát nói tiếp:

- Chẳng hạn như vị tỉ tỉ áo vàng kia, võ công với Chu cô nương cũng một đường nhưng chiêu số chính đại quang minh thật là thẳng thắn dường như cũng từ cuốn Cửu Âm Chân Kinh này mà ra.

Triệu Mẫn đáp:

- Cô ta nói ?Sau núi Chung Nam, Mộ người Hoạt Tử, Thần điêu hiệp lữ, Tuyệt tích giang hồ?, bốn câu đó có ý nghĩa gì?

Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:

- Sau này mình gặp lại thái sư phụ sẽ thỉnh giáo lão nhân gia có khi hiểu được nguyên do bên trong không chừng.

Hai người chuyện trò thêm mấy câu, thấy dưới núi không nghe động tĩnh gì nên chia tay về ngủ.

[1] Cầu vồng bắc ngang trời

[2] hai con rồng tranh nhau hạt ngọc

[3] kẻ sĩ có thể giết nhưng không thể làm nhục

[4] đập bỏ nồi, đục chìm thuyền để cả hai bên cùng chết

[5] trước đây Trương Vô Kỵ đã vứt bỏ hai cây mâu để ôm Tống Thanh Thư, sao nay lại ở đâu ra?

[6] Tức Nhạc Phi (1103-1142) tự Bằng Cử người Tương Châu danh tướng kháng Kim đời Nam Tống, sau gian thần dèm pha nên bị giết.

[7] Thuận thủ khiên dương là một trong ba mươi sáu kế

Hồi 40

BẤT THỨC TRƯƠNG LANG THỊ TRƯƠNG LANG

Trương lang nào phải Trương lang,

Người xưa em nhớ chẳng màng người nay.

Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không.[1]

Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ tỉnh dậy nhảy lên trên cây cao nhìn ra thấy dưới chân núi quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, trong quân tiếng tù và nổi lên đây đó, quả đang điều binh khiển tướng rất là gấp rút. Chàng liền gọi:

- Mẫn muội!

Triệu Mẫn đáp lời:

- Em đây, chuyện gì thế?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

- Không có chuyện gì, anh chỉ thuận miệng gọi em đấy thôi.

Chàng vốn dĩ muốn bàn với Triệu Mẫn cách thức đánh bại quân Nguyên vì nàng túc trí đa mưu hẳn sẽ có kế sách hay nhưng nghĩ lại: ?Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, lại bảo nàng tính kế giết chính người Mông Cổ chẳng ép uổng nàng quá lắm hay sao?. Thành thử lời đã đến cửa miệng lại cố nhịn không nói ra. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng hiểu ngay tâm sự, thở dài một tiếng nói:

- Vô Kỵ ca ca, mong chàng hiểu được nỗi khổ tâm của em, thiếp chẳng cần nói ra làm gì.

Trương Vô Kỵ quay trở vào phòng, bàng hoàng không biết tính sao, tiện tay lấy ra hai xấp giấy Triệu Mẫn lấy được tối hôm qua, đọc vài chương Cửu Âm Chân Kinh rồi lại quay sang đọc Vũ Mục Di Thư, lướt qua vài đoạn vô tình đọc đến lúc ?Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn? trong lòng chợt động, đọc kỹ lại thấy đó Nhạc Phi thuật lại chuyện năm xưa bị quân Kim bao vây thế nào rồi thoát được nguy khốn ra sao, làm thế nào đột xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công đi đến toàn thắng, các phương lược đều nói rõ.

Trương Vô Kỵ vỗ bàn kêu lên:

- Đúng là trời giúp mình!

Chàng gập sách lại ngồi suy tính, tình thế trên ngọn Thiếu Thất ngày hôm nay tuy khác hẳn việc Nhạc Phi bị vây tại núi Ngưu Đầu, nhưng cái ý người xưa truyền lại trong phép dụng binh là làm sao xuất kỳ bất ý đánh thắng địch quân. Chàng càng nghĩ càng thêm khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là thiên tài, trong khi nguy nan nào có ai nghĩ ra được, lại xem ra dụng binh và võ công cũng cùng một đường, nếu như chưa được cao nhân chỉ điểm, cao thấp khéo vụng thì thật khó mà có thể nghĩ ra được kế này.

Chàng nhúng ngón tay vào nước trà, vẽ lên bàn các địa hình, tuy thấy là làm như thế thật nguy hiểm, không khỏi cầu may nhưng nghĩ bụng lấy ít chống nhiều không thể đường đường chính chính đánh một trận mà thắng được. Tính toán xong xuôi chàng bèn đi qua Đại Hùng Bảo Điện nhờ Không Văn phương trượng chiêu tập quần hùng.

Chỉ giây lát mọi người đã tề tựu đến đầy đủ, Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:

- Hiện nay binh mã Thát tử đã tập trung dưới chân núi, ắt là chẳng bao lâu sẽ tấn công lên. Chúng ta hôm qua tuy thắng được một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên nhưng nếu chúng bất kể sống chết đánh ùa lên thì thật khó mà chống đỡ. Tại hạ bất tài được chúng vị anh hùng cử ra tạm giữ công việc chủ soái. Hôm nay cùng chung kẻ địch mong các vị nghe lệnh tại hạ.

Mọi người cùng hô to:

- Nếu có lệnh gì nhất nhất tuân theo không dám vi phạm.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Hay lắm, Ngô kỳ sứ nghe đây!

Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, khom lưng nói:

- Thuộc hạ nghe lệnh.

Y trong bụng nghĩ thầm: ?Giáo chủ ra lệnh, người đầu tiên sai ngay đến ta, thực là vinh dự biết mấy. Bất kể bảo ta làm gì nguy nan đến đâu, ta nhất quyết xả mệnh thi hành?.

Trương Vô Kỵ nói tiếp:

- Ngô huynh tất lãnh các anh em trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị nào không tuân theo hiệu lệnh, trường thương đoản phủ trong kỳ sẽ nhắm ngay người đó mà phóng tới. Dẫu người đó là bậc kỳ túc trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm cũng không ngoại lệ.

Ngô Kình Thảo dõng dạc đáp:

- Đắc lệnh!

Y móc trong bọc ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trên tay. Võ công tiếng tăm Ngô Kình Thảo vốn dĩ không phải là loại hạng nhất trên giang hồ, người ngoài không coi y vào đâu. Thế nhưng từ hôm Ngũ Hành Kỳ đại hiển thần uy trên bãi đất, mọi người ai ai cũng biết rằng lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu lập tức nơi đó sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cái búa ngắn đồng loạt tấn công tới, dẫu có bản lãnh thông thiên thì chỉ chớp mắt cũng thành một đống thịt nát thành thử trông thấy lá cờ đó phất phới ai cũng rùng mình.

Thì ra Trương Vô Kỵ đọc trong Vũ Mục Di Thư thấy điều đầu tiên có chép: ?Đạo trị quân, trước hết là lệnh lạc phải nghiêm?. Chàng biết giới giang hồ hào sĩ vốn dĩ tự phụ, muốn làm gì là làm tuy ai ai cũng võ công cao cường nhưng tụ lại cũng chỉ là một bầy ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc để mọi người tuân theo thì không cách nào kháng cự được với quân Mông Cổ thành thử việc đầu tiên phải làm là sai Nhuệ Kim Kỳ giám lệnh chấp pháp.

Trương Vô Kỵ chỉ vào một bức tường ngang ngay trước điện, nói:

- Các vị anh hùng, những ai khinh công cao cường nhảy một cái lên được trên tường kia thì xin biểu diễn.

Trong số quần hùng không ít người lộ vẻ bất mãn, nghĩ thầm: ?Không biết làm trò gì mà lại bảo mình ra nhảy lên hụp xuống, việc chẳng hề liên can đến khẩn cấp cả?? Một số tiền bối cao thủ thì lại nghĩ chàng coi thường mọi người nên không khỏi bực mình.

Trương Tùng Khê vượt mọi người bước ra, nói:

- Tôi có thể nhảy được.

Ông nhảy lên trên tường rồi nhẹ nhàng nhảy qua phía bên kia. Công phu Thê Vân Túng của phái Võ Đương nổi danh thiên hạ, với tài nghệ của Trương Tùng Khê thì nhảy qua bức tường ngang kia thật dễ như thổi tro trong bếp thế nhưng ông không khoe khoang chỉ theo đúng lệnh nhảy qua một cách thật tầm thường.

Kế đó Du Liên Châu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương các cao thủ cũng tuân lệnh thi hành. Chỉ thấy quần hùng như bướm vờn hoa, hết người này đến người khác nhảy qua tường, có người thi triển khinh công trên lưng chừng còn biểu diễn những thức ngoạn mục. Sau khi hơn bốn trăm người nhảy rồi những người còn lại không ai ra thử nữa.

Bức tường chắn đó không phải thấp, nếu như khinh công không cao cường không phải dễ dàng nhảy lên được. Trong số người ở đây mỗi người tập luyện một cách, có người chuyên luyện binh khí quyền cước, khinh công chỉ bình bình. Những nhân vật thành danh ai cũng biết người biết ta, không dại gì lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.

Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người đó, tăng chúng Thiếu Lâm chiếm đến tám chín phần mười, nghĩ thầm: ?Thiếu Lâm là đệ nhất đại môn phái trong võ lâm, quả thực danh bất hư truyền. Chỉ cần luận riêng khinh công thôi hảo thủ đã đông hơn các môn phái khác?. Chàng bèn truyền lệnh:

- Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc xin ba vị dẫn các vị khinh công khá trên đây, hư trương thanh thế, giả vờ làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho chúng đuổi theo, qua đến hậu sơn rồi cứ như thế như thế.

Du Trương Ân tam hiệp của phái Võ Đương cùng lên tiếng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai đoạn hậu, ai tấn công, ai đánh vào ngang hông sắp xếp thật rõ ràng.

Bọn Dương Tiêu thấy chàng bày kế thật khôn khéo, lại dàn binh ngự địch xem ra có phép tắc đâu ra đấy những ai mưu lược đều không khỏi cảm phục, có biết đâu chàng bắt chước theo Vũ Mục Di Thư chỉ nhân địa hình khác biệt, bộ thuộc không giống nên hơi cải biến chút đỉnh cho thích hợp.

Trương Vô Kỵ điều động xong rồi, sau cùng mới nói:

- Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng hai vị xin cùng các vị trong phái Nga Mi, cứu chữa săn sóc cho những người bị thương.

Chu Chỉ Nhược không có mặt trên núi, phái Nga Mi không người dẫn đầu, Trương Vô Kỵ biết mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi không tiện chỉ huy nên nhờ hai vị thần tăng đức cao vọng trọng tất lãnh, chắc hẳn các đệ tử phái Nga Mi không dám phản đối. Lệnh đưa ra quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành không nói nửa câu.

Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:

- Hôm nay các chí sĩ trung nguyên đồng tâm hiệp lực nhất quyết một phen sống mái với quân Thát tử. Các vị sư phụ của phái Thiếu Lâm lo việc chiêng trống, xin đánh trống gióng chuông cho.

Quần hùng nghe thế đều hoan hô vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng. Liệt Hỏa Kỳ đem củi cỏ tích chứa ra xếp thành đống trước cửa chùa, châm lửa đốt lên, chả mấy chốc khói bốc lên thấu trời xanh. Còn Hậu Thổ Kỳ thì đem bùn đất trét lên các nóc chùa sau đó Liệt Hỏa Kỳ mới xếp củi, lấy dầu đổ lên trên mặt bùn, châm lửa lên tuy không cháy các điện nhưng ở dưới chân núi và các nơi xa xa nhìn vào, thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa bốc lên ngùn ngụt.

Quân Nguyên dưới chân núi mới đầu thấy chiêng trống vang lừng đã chuẩn bị canh phòng, đến khi lửa bốc lên đều bàn nhau:

- Không xong, bọn man tử nổi lửa đốt chùa, chắc toan đào tẩu.

Du Liên Châu dẫn trên một trăm năm mươi người khinh công trác tuyệt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy đến lưng chừng núi thì đã nghe quân Nguyên quát tháo reo hò, dàn thành trận đuổi theo. Mọi người chạy tứ tán thành thử quân Nguyên không sao có thể tập trung cung tên mà bắn được. Nhóm thứ hai do Trương Tùng Khê dẫn đầu, nhóm thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào trên lưng cũng mang một cái bọc to, bên trong nếu không là thanh gỗ thì cũng là quần áo. Quân Nguyên trông thấy lại tưởng bọn họ bỏ chùa chạy thục mạng, tên bắn trúng những bao đó không xuyên qua được. Trong khói lửa mịt mù quân Mông Cổ không biết rõ có bao nhiêu người nên chia ra một vạn quân đuổi theo còn hơn một vạn nữa vẫn đóng tại chỗ đề phòng biến cố.

Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:

- Dương tả sứ, tướng chỉ huy Thát tử điều binh khá giỏi, không dùng toàn quân truy kích, thế mới thật phiền.

Dương Tiêu đáp:

- Đúng thế, quả là đáng lo.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai nghìn quân Nguyên hai bên sườn núi đánh lên, đường núi gập ghềnh hiểm trở vậy mà những con ngựa nhỏ bé của người Mông Cổ vẫn chạy như bay, trường mâu thiết giáp, thế quân thật uy mãnh. Đợi cho quân tiên phong Mông Cổ tới sát bên sơn đình ở ngang núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người trong Liệt Hỏa Kỳ hai bên liền xông ra, nằm phục dưới đám cỏ. Đến khi quân Nguyên tiến thêm chừng hơn trăm trượng nữa, Tân Nhiên huýt một tiếng còi, dầu thô trong các ống phun liền phụt ra, lửa bùng lên, cháy lem lém ngay vào những con ngựa. Đoàn ngựa đau quá kinh hãi hí vang lên, hơn một nửa lăn xuống dưới núi, lập tức trận thế loạn cả lên.

Quân Nguyên kỷ luật nghiêm minh, tiền đội tuy thua nhưng hậu đội không vì thế mà tan vỡ, lại ra lệnh hơn ba nghìn binh sĩ bỏ ngựa chạy bộ tấn công lên. Liệt Hỏa Kỳ lại phun lửa ra lại đốt cháy mấy trăm người, những người còn lại vẫn tiếp tục ùa tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương vẫy chiếc cờ đen, nước độc phun ra, kế đó Hậu Thổ Kỳ ném độc sa xuống đánh cho quân Nguyên tan tác. Tuy cũng có mấy trăm tên quân Mông Cổ lên được trên núi nhưng đều bị Nhuệ Kim, Cự Mộc Kỳ tiêu diệt.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống đánh thật gấp gáp, năm nghìn người giương lá chắn lên, dàn hàng ngang như một bức tường sắt từ từ tiến lên. Việc như thế khiến cho lửa nóng, nước độc, cát độc không làm gì được nên Cự Mộc Kỳ vội tiến lên giao chiến, xem ra chỉ phá vỡ được vài lỗ thủng không ăn thua gì.

Không Văn phương trượng thấy sự tình khẩn cấp nói:

- Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo tồn nguyên khí võ lâm Trung Nguyên. Hôm nay có thua thì mai sau còn có cơ phản công trở lại.

Trong cơn hoảng hốt, bỗng nghe dưới chân núi tiếng chiêng vang dội, một hỏa tiễn bắn vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết bốn bề nổi lên. Dương Tiêu mừng lắm, nói:

- Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi.

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống không thấy rõ tình hình bên dưới nhưng thấy khói bụi mù mịt, quân reo ngựa hí, hiển nhiên quân cứu viện tới rất đông. Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:

- Quân cứu viện đến rồi, tất cả cùng xông ra.

Quần hùng trên núi ai nấy rút binh khí ra, xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại kêu lên:

- Các vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau.

Tất cả mọi người cùng reo lên:

- Giết quan trước, giết lính sau.

Quân Mông Cổ cứ mười người làm thành một đội, do một thập trưởng cai quản, lên trên có đội trăm người, đội nghìn người, đội vạn người, cứ từng lớp từng lớp, khi ra trận trên truyền xuống dưới chẳng khác thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay. Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết các quan trưởng Mông Cổ, nếu như hai bên đối trận thì phép này khó mà thi hành nhưng hiện nay quân Mông Cổ đang dàn rộng trên sườn núi, quân địch tuy tinh nhuệ thật nhưng quan trưởng võ công làm sao bì được với những nhân vật võ lâm Trung Nguyên, nên chỉ chốc lát mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng đã bị giết chết. Một nhánh quân Mông Cổ lập tức loạn cả lên.

Bọn Trương Vô Kỵ xông tới lưng chừng núi, thấy dưới núi cờ xí bay tung, lá cờ phía nam trên có một chữ ?Từ?, lá cờ phía bắc có một chữ ?Thường? biết ngay là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ Thường hai người vốn ở đất Hoài Tứ, lúc đó may sao lại đang ở Dự Nam vừa nghe Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất liền đem hết bộ thuộc, ngày đêm chạy tới cứu. Khi đó một dải từ Dự Nam cho chí Ngạc Bắc, quân Minh Giáo và quân Nguyên hỗn chiến đã nhiều năm, đất đai hai bên tranh nhau thành thế cài răng lược nên muốn đến là đến được ngay, thật là gần gũi nên chưa đầy hai ngày đã tới rồi. Quân sĩ theo Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều là những người chinh chiến lâu năm nhiều kinh nghiệm, lại đông hơn nhiều nên liền ép quân Nguyên phải lùi về hướng tây.

Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả vờ bỏ chùa mà chạy mãi đến tận sơn cốc. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình dẫn theo mấy trăm hảo hán khinh công trác tuyệt, vừa đánh vừa chạy vào trong thung lũng. Tên vạn phu trưởng quân Mông Cổ thấy trong sơn cốc ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm nhưng thấy bên địch nhân số chẳng bao nhiêu, dẫu bên trong thung lũng có mai phục chăng nữa thì cũng thừa sức đối phó nên liền xua quân đuổi cho nhanh.

Bọn Du Liên Châu chạy đến dưới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống từ bao giờ mọi người vội vàng trèo lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế vội ra lệnh lùi lại, ngờ đâu ngoài cửa thung lũng đã bị liệt hỏa, độc sa, vũ tiễn, độc thủy bắn tới như mưa, Cự Mộc Kỳ lại từng súc, từng súc gỗ đẩy lăn xuống, chặn mất đường đi rồi.

Ngay khi đó, lộ quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới nơi thấy đường đi đằng trước đã bị chặn mất rồi liền tứ tán trèo lên các triền núi chung quanh đào tẩu. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt trước sau tới nơi đều kêu lên:

- Tiếc quá!

Nếu như đã liên lạc được với nhau từ trước thì cứ để đạo quân thứ hai của Mông Cổ xua luôn vào trong thung lũng thì chỉ một chuyến là xong. Trương Vô Kỵ cũng không ngờ quân Nguyên chỉ chia ra một nửa đuổi theo, cũng không ngờ quân tiếp viện đến nhanh như thế. Dẫu sao thì chỉ huy quân chiến đấu không phải là sở trường của chàng, chiến pháp trong Vũ Mục Di Thư tuy hay thật nhưng vừa học đem ra ứng dụng ngay dù sao cũng còn nhiều chỗ chưa hiểu rõ, nếu như Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân không kịp thời tới nơi thì kiếp số chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi, còn một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được lộ quân kia cứu thoát.

Từ Đạt liền sai quân vần đá chặn thêm ở cửa thung lũng, các đội cung tiễn trèo lên những mỏm đá, từ cao bắn xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không có cách gì chống trả chỉ còn nước trốn sau những tảng đá. Chẳng mấy chốc Thường Ngộ Xuân cũng đem binh tới nơi, hội kiến với Trương Vô Kỵ, lâu ngày xa nhau nay gặp lại hai người hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân oang oang nói:

- Mau giỡ đá ra, mình xông vào giết sạch bọn Thát tử.

Từ Đạt cười:

- Trong sơn cốc không gạo không nước, chỉ bảy tám ngày, Thát tử cũng chết khát, chết đói việc gì phải để các cách em mất công ra tay?

Thường Ngộ Xuân cũng cười:

- Thế nhưng tự tay mình giết vẫn thích hơn.

Y tuổi tác tuy hơi lớn hơn Từ Đạt nhưng bình thời vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ phụ họa với Từ Đạt nên không bàn thêm gì nữa.

Từ Thường hai người chinh chiến lâu năm nên lệnh lạc gì cũng đều chu đáo đâu ra đấy. Trương Vô Kỵ biết mình kém xa nên mời Từ Thường hai người chỉ huy, tìm kiếm giết sạch những quân Nguyên bỏ chạy.

Đêm hôm đó tiếng reo hò vang động chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh Giáo cùng anh hùng tứ xứ ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy hôm liền ở trong chùa Thiếu Lâm ăn toàn đồ chay, mồm miệng thấy nhạt thếch, nay được rượu thịt no nê, ai nấy ăn đến căng cả bụng.

Trong tiệc Trương Vô Kỵ hỏi lại Thường Ngộ Xuân thân thể độ này thế nào, có theo những toa thuốc chàng cắt mà chữa trị không. Thường Ngộ Xuân cười ha hả nói:

- Giáo chủ chớ có lo lắng, lão Thường này khỏe như trâu, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm, đi đánh trận ba ngày ba đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.

Nói như thế ý bảo chẳng cần phải thuốc thang cho thêm phiền. Trương Vô Kỵ nghĩ đến lời Hồ Thanh Ngưu năm xưa nói, khẩn khoản khuyên ông ta nên uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân chỉ ậm ừ vâng dạ nhưng trong bụng chẳng coi vào đâu.

Từ Đạt rót đầy một chén rượu bưng đến trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

- Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén rượu này.

Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn, Từ Đạt nói tiếp:

- Thuộc hạ vẫn thường khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân ngờ đâu dùng binh lại thần diệu đến thế, thực là phúc của bản giáo, là cái may của dân đen.

Trương Vô Kỵ cười ha hả nói:

- Từ đại ca, đại ca chẳng nên khen ngợi tôi làm gì. Chiến thắng hôm nay, trước là Từ Thường hai vị đại ca đến thật thần tốc, thứ đến nhờ lời dậy bảo để lại của Nhạc Vũ Mục, tiểu đệ hoàn toàn chẳng có chút công lao nào.

Từ Đạt ngạc nhiên hỏi:

- Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao? Xin giáo chủ giảng rõ cho.

Trương Vô Kỵ móc trong túi ra một cuộn giấy mỏng màu vàng, chính là Vũ Mục Di Thư dấu trong thanh đao Đồ Long, lật đến tiết Binh Khốn Ngưu Đầu Sơn[2] đưa cho Từ Đạt coi. Từ Đạt hai tay cầm lấy, đọc kỹ một lượt, không khỏi vừa kinh hoàng, vừa bội phục, thở dài nói:

- Vũ Mục dụng binh như thần, người đời sau thật không sao theo kịp. Nếu như Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, tất lãnh hào kiệt trung nguyên, lo gì không đuổi được quân Thát tử trở về sa mạc phía bắc.

Nói xong cung kính giao lại di thư. Trương Vô Kỵ không cầm nói:

- Võ lâm chí tôn, Bảo đao Đồ Long, Hiệu lệnh thiên hạ, Mạc cảm bất tòng. Nghĩa thực sự của mười sáu chữ đó đến nay ta mới hiểu. Gọi là ?võ lâm chí tôn? không phải là bản thân thanh đao mà là ở di thư dấu trong thanh đao này. Nếu dùng binh pháp này đối phó với địch đánh thể nào cũng đánh đâu được đó nên mới gọi là ?hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng?. Còn như chỉ riêng một thanh đao mà thôi thì làm thế nào mà hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, đường mây thẳng tiến, thu phục giang sơn.

Từ Đạt giật mình kinh hãi, vội nói:

- Thuộc hạ có tài đức gì mà dám nhận món quà hậu hĩ như thế của giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

- Từ đại ca chớ có từ chối. Ta vì trăm họ mà giao binh thư này lại cho đại ca.

Từ Đạt tay run run cầm lấy binh thư. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

- Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu nữa: ?Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong??. Nay kiếm Ỷ Thiên gãy làm hai rồi nhưng về sau thể nào cũng nối lại được. Bên trong kiếm có dấu một bộ võ công bí cập thật là ghê gớm, ta cũng hiểu được chân ý của hai câu này là binh thư để đuổi quân Thát tử thế nhưng nếu có người nào sau này chấp chưởng đại quyền nhưng rồi tác oai tác phúc, lấy bạo ngược thay bạo ngược, bách tính lại chịu lầm than thì thể nào cũng có một vị anh hùng tay cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu bạo chúa. Kẻ thống lãnh bách vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ nhưng chưa chắc đã chống đỡ nổi một cái đánh của kiếm Ỷ Thiên, câu đó mong đại ca ghi nhớ.

Từ Đạt mồ hôi lạnh chảy ròng ròng trên lưng không dám từ chối nữa nói:

- Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.

Y cầm Vũ Mục Di Thư để trên bàn, cung kính lạy bốn lạy rồi bái tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng cho quyển sách. Quả nhiên từ đó Từ Đạt dụng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, sau cùng thống lãnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi được người Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng mạc bắc lập nên công nghiệp hiển hách một thời.

Từ đó anh hùng Trung Nguyên đều nức lòng qui phục Minh Giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ đến đâu không ai không theo. Mấy trăm năm qua Minh Giáo bị người đời chê trách, coi như yêu ma dâm tà, kể từ đại biến long trời lở đất này trở nên thủ lãnh quần hùng, trung hưng được cơ nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thi hành gian mưu lên ngôi hoàng đế nhưng những người phò tá y đều là người trong Minh Giáo cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều từ Hồng Võ nguyên niên Mậu Thân cho tới Sùng Trinh năm thứ mười tám Giáp Thân[3], tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm cũng nhờ Minh Giáo mà có.

*

*??????? *

Quần hùng vui say đến tận sáng, ai nấy túy lúy mới thôi. Đến quá trưa, mọi người lục tục cáo từ hai vị thần tăng Không Văn, Không Trí. Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi tan tác, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết ra sao, đến gần nói với Tĩnh Tuệ:

- Để tôi xem thương thế Tống đại ca thế nào!

Tĩnh Tuệ lạnh lùng đáp:

- Rõ khéo mèo khóc chuột, đừng có giả nhân giả nghĩa.

Chu Điên đứng gần ngay đó, nhịn không nổi chửi lại ngay:

- Giáo chủ ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn các ngươi cho nên mới trị thương cho họ Tống kia, chứ cái thứ khi sư phản phụ này, ai cũng chỉ muốn đem giết quách cho xong. Con mụ ác ni cô kia còn lèm bèm cái gì?

Tĩnh Tuệ muốn cãi lại vài câu nhưng thấy Chu Điên mặt mày hung ác, thần sắc bặm trợn, chỉ sợ y không biết phải quấy ra tay đánh mình thì thiệt vào thân, nên cố nén lòng, cười khẩy nói:

- Phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác, chưởng môn nhân đều là phận nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ giữ mình như ngọc thì làm chưởng môn bản phái làm sao được? Hừ, Tống Thanh Thư tên gian tặc đó ở trong bản phái chỉ làm ô danh cho Chu chưởng môn. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem gã này trả lại cho phái Võ Đương.

Hai tên đệ tử Nga Mi liền đáp lời, khiêng cái cáng đến trước mặt Du Liên Châu, bỏ đó rồi đi về.

Ai nấy ngạc nhiên khôn xiết, Du Liên Châu nói:

- Cái ... cái gì? Y không phải là trượng phu của chưởng môn các ngươi sao?

Tĩnh Tuệ hậm hực đáp:

- Hừ, chưởng môn chúng ta có coi cái gã này vào đâu? Chưởng môn bực mình chuyện Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, đang hôn lễ bỏ đi làm nhục bản phái trước mặt anh hùng thiên hạ nên giả vờ gọi tên tiểu tử này là chồng. Nếu biết ... nếu biết ... hừ hừ, nếu sớm biết thế, chưởng môn chúng ta việc gì phải chịu cái tiếng xấu làm chi? Xem ra ... xem ra ...

Trương Vô Kỵ đứng bên nghe mà sững sờ, nhịn không nổi tiến lên hỏi:

- Sư thái nói Tống phu nhân ... nàng ... nàng thực ra không phải Tống phu nhân sao?

Tĩnh Tuệ quay đầu sang chỗ khác, hậm hực nói:

- Ta không thèm nói chuyện với ngươi.

Ngay lúc đó, Tống Thanh Thư nằm trên cáng khẽ động đậy, rên lên mấy tiếng:

- Giết ... giết được Trương Vô Kỵ chưa?

Tĩnh Tuệ cười nhạt:

- Thôi đừng mơ ngủ. Chết đến nơi rồi còn ham chuyện viển vông.

Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ giận bừng bừng, nói năng không rõ ràng nên hỏi nhỏ một nữ đệ tử của phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:

- Bối sư muội, đầu đuôi ra thế nào?

Bối Cẩm Nghi năm xưa giao tình rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe ông ta hỏi, trầm ngâm giây lát rồi nói:

- Tĩnh Tuệ sư tỉ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, tiểu muội nói cho ông ta nghe có được không?

Tĩnh Tuệ đáp:

- Cái gì mà người ngoài với chẳng người trong? Không phải người ngoài cũng nói, người ngoài lại càng nên nói. Chu chưởng môn của chúng ta thanh bạch, không có liên hệ gì đến tên gian đồ họ Tống kia. Các ngươi thấy rõ thủ cung sa[4] trên cánh tay chưởng môn rồi, chuyện này cần phải cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ biết, để khỏi làm tổn hại đến qui củ của phái Nga Mi chúng ta hơn trăm năm nay ...

Ân Lê Đình nghĩ thầm: ?Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được minh bạch cho lắm, nói năng chẳng có đầu có đuôi gì cả?. Ông quay sang nói với Bối Cẩm Nghi:

- Bối sư muội, nếu đã như thế vậy nói cho rõ ràng. Tống sư điệt của ta vì sao lại gia nhập quí phái, có can hệ thế nào với quí chưởng môn để cho tiểu huynh mai này bẩm lại với sư phụ. Việc này có quan hệ hai phái Nga Mi và Võ Đương, nếu không tổn thương hòa khí hai phái thì thật hay.

Bối Cẩm Nghi thở dài nói:

- Cứ như võ công, nhân phẩm của vị Tống thiếu hiệp này, trong võ lâm quả thật hiếm có, nhưng cũng chỉ vì si tình mà rơi vào nghiệp chướng. Dường như chưởng môn nhân có hẹn, đợi đến khi giết được Trương Vô Kỵ rồi, rửa được cái nhục bỏ ngày cưới mà đi thì sẽ thành hôn với y. Vì thế y cam tâm đầu nhập bản phái, để được chưởng môn dạy cho võ công kỳ diệu. Hôm trước ngay giữa anh hùng đại hội, chưởng môn đột nhiên tự xưng mình Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, mọi người trong bản phái đều thật ngạc nhiên. Hôm đó chưởng môn uy chấn quần hùng, nhiếp phục các môn phái ...

Chu Điên liền chen vào:

- Đó là giáo chủ chúng ta cố ý nhường đấy thôi có gì mà khoe khoang.

Bối Cẩm Nghi không thèm để ý đến y, nói tiếp:

- Tuy đệ tử bản phái ai nấy hết sức cao hứng nhưng đến tối hôm đó, mọi người mới hỏi ba chữ Tống phu nhân đó là như thế nào mà ra. Chưởng môn nhân mới lộ cánh tay trái ra, thản nhiên nói: ?Mọi người hãy nhìn đây?. Chúng tôi ai ai cũng thấy rõ, trên cánh tay điểm thủ cung sa vẫn đỏ chon chót như xưa, quả nhiên vẫn là một xử nữ giữ mình trong trắng. Chưởng môn nhân nói rằng: ?Ta tự xưng Tống phu nhân, chẳng qua chỉ là cái kế quyền nghi nhất thời, cốt để chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỉ võ mới thừa cơ mà thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác tuyệt, ta xem ra không sao bằng y được. Nếu so với anh danh của bản phái thì cái tiếng của ta nào có sá gì??.

Mấy câu đó nàng ta nói oang oang, cố ý để mọi người chung quanh ai cũng nghe rõ, rồi tiếp:

- Nam nữ đệ tử bản phái, nếu không xuất gia tu đạo, vốn không cấm lấy vợ lấy chồng, có điều từ sáng phái Quách tổ sư cho tới nay, những võ công tối cao thâm thì chỉ truyền cho con gái đồng trinh giữ mình như ngọc. Mỗi nữ đệ tử khi bái sư, sư phụ đều điểm một chấm thủ cung sa trên cánh tay. Hàng năm vào ngày giỗ Quách tổ sư, tiên sư đều kiểm soát, năm đó Kỷ sư tỉ ... vì chuyện đó ...

Nàng ta nói tới đây ậm ậm ừ ừ không nói tiếp nữa. Bọn Ân Lê Đình ai cũng hiểu rằng Bối Cẩm Nghi muốn nói tới việc Kỷ Hiểu Phù bị thất thân với Dương Tiêu nên thủ cung sa biến mất mới bị Diệt Tuyệt sư thái phát giác. Ân Lê Đình cùng Dương Bất Hối thành hôn rồi, vợ chồng ái tình nồng thắm nhưng lúc này nghĩ đến chuyện Kỷ Hiểu Phù trong lòng không khỏi bồi hồi, nhịn không nổi đưa mắt liếc Dương Tiêu một cái, thấy ông ta mắt rưng rưng quay đầu sang chỗ khác.

Bối Cẩm Nghi nói tiếp:

- Ân lục hiệp, chưởng môn chúng tôi có ý muốn chọc tức Minh Giáo Trương giáo chủ, khéo thay vị Tống thiếu hiệp kia lại si mê chưởng môn theo đuổi không rời khiến xẩy ra bao nhiêu chuyện. Đợi đến khi nào Tống thiếu hiệp khỏi bệnh, xin Ân lục hiệp lựa lời bẩm lại với Trương chân nhân và Tống đại hiệp vài câu để cho quí phái và chúng tôi khỏi gây hiềm khích.

Ân Lê Đình gật đầu nói:

- Hẳn là như thế. Gã sư điệt của tôi phạm thượng phản nghịch, có chết cũng đáng, quả là một điều xấu hổ cho tệ phái, tôi chỉ mong nó chết cho xong.

Ông vốn yếu lòng, nghĩ đến Tống Thanh Thư giết chết Mạc Thanh Cốc trong bụng càng thêm thống hận. Còn đang nói chuyện, bỗng nghe từ xa vẳng tới một tiếng thét lanh lảnh, dường như giọng Chu Chỉ Nhược sợ hãi xem ra đang gặp chuyện gì hết sức nguy hiểm. Mọi người nghe thấy thế không khỏi nổi gai ốc, đang lúc trời trong mây tạnh, trước mặt sau lưng đầy người nhưng nghe tiếng kêu đó tưởng chừng ác quỉ xuất hiện không bằng. Mọi người không hẹn mà cùng quay sang nhìn về phía có tiếng kêu. Trương Vô Kỵ, Tĩnh Tuệ, Bối Cẩm Nghi cả bọn vội chạy về hướng đó.

Trương Vô Kỵ sợ Chu Chỉ Nhược gặp phải địch nhân nào ghê gớm nên ra sức thật nhanh, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã vượt qua được rừng cây, thấy một bóng xanh đang ra chạy chính là Chu Chỉ Nhược. Chàng vội vàng chặn nàng lại hỏi:

- Chỉ Nhược, chuyện gì thế?

Chu Chỉ Nhược mặt hết sức kinh khiếp, kêu lên:

- Ma, ma, có ma đuổi em!

Nàng nhảy vào ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ nhưng người vẫn còn run bần bật. Trương Vô Kỵ thấy nàng sợ đến mất hết hồn vía, nhẹ nhàng vỗ vỗ lên vai, an ủi:

- Đừng sợ! Đừng sợ! Làm gì có ma. Em nhìn thấy gì thế?

Chàng thấy áo nàng bị gai cứa rách tả tơi, trên mặt cũng có mấy đường xước rướm máu, một nửa tay áo bên trái bị rách, để hở cánh tay trắng như ngọc, trên da có một điểm đỏ chót như san hô, bóng như hồng ngọc, chính là dấu thủ cung sa của người xử nữ.

Trương Vô Kỵ tinh thông y dược biết rằng con gái điểm thủ cung sa rồi, nếu chưa thất thân hay lập gia thất thì sẽ suốt đời không phai. Lúc nãy chàng nghe Tĩnh Tuệ và Bối Cẩm Nghi nói vẫn còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt trông thấy nên không còn ngờ gì nữa, nhất thời trong đầu qua lại bao nhiêu ý nghĩ: ?Nàng bảo nàng lấy Tống Thanh Thư gì gì đó chỉ toàn là chuyện giả, thế nhưng tại sao nàng lại muốn đánh lừa ta? Sao nàng lại muốn chọc cho ta bực tức? Chẳng lẽ nàng tham cái danh vị ?đương thế võ công đệ nhất? thực hay sao? Hay là muốn thử xem mình đối với nàng như thế nào??. Chàng lại nghĩ thêm: ?Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, Chu cô nương là người đã giết biểu muội của ngươi, nàng còn là con gái cũng thế, mà nàng có đi lấy người khác thì cũng thế, có còn liên hệ gì đến ngươi nữa đâu??. Thế nhưng chàng thấy Chu Chỉ Nhược sợ đến khiếp vía, không nỡ đẩy nàng ra.

Chu Chỉ Nhược nằm gục trong lòng Trương Vô Kỵ, cảm thấy bộ ngực ấm áp rắn chắc của chàng, mũi ngửi thấy mùi đàn ông nồng nàn dần dần trấn tĩnh lại hỏi:

- Vô Kỵ ca ca, có phải chàng đấy chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Chính anh đây. Em cảm thấy thế nào? Có gì mà sợ đến như thế?

Chu Chỉ Nhược lại đột nhiên kinh hoảng, òa lên một tiếng, nước mắt trào ra, gục vào vai chàng khóc thút thít không ngừng. Lúc đó Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Tĩnh Tuệ, Ân Lê Đình tất cả đã chạy đến, thấy cảnh tượng đó, người nọ đưa mắt nhìn người kia, ai nấy rón rén quay trở lại. Mọi người vẫn chưa quên được mối thù ngày nào với Triệu Mẫn, lại nghĩ thầm dẫu sao Triệu Mẫn cũng là con nhà quyền quí người Mông Cổ, nếu như Trương Vô Kỵ lấy nàng làm vợ e rằng sẽ trở ngại cho công cuộc phục hưng đại nghiệp.

Chu Chỉ Nhược khóc một hồi đột nhiên nói:

- Vô Kỵ ca ca, có ai đuổi theo không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Không có ai cả! Thế ai đuổi em vậy? Có phải Huyền Minh nhị lão chăng?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không, không phải đâu! Anh có nhìn rõ chưa, không có ai thật ... không, không phải người ... không có gì đuổi theo chứ?

Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:

- Giữa thanh thiên bạch nhật không lẽ lại còn nhìn không rõ.

Giọng chàng trở nên dịu dàng:

- Chỉ Nhược, chắc mấy ngày liền em sử lực quá độ nên mệt mỏi thành ra váng đầu hoa mắt nhìn lầm chứ gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không phải đâu, nhất định không phải. Em thấy nó ba lần, liên tiếp ba lần mà!

Giọng nàng run run dường như cơn khiếp sợ vẫn chưa hết hẳn. Trương Vô Kỵ hỏi:

- Em ba lần thấy cái gì?

Chu Chỉ Nhược vịn vào vai chàng, lẩy bẩy đứng lên, quay lại nhìn khắp lượt. Nàng xem ra phải thu hết can đảm nhìn xong vội quay lại ngay, nhìn Trương Vô Kỵ thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan hoài trìu mến, trong lòng chua xót, bao nhiêu sức lực trong người mất hết, lại khuỵu xuống nói:

- Vô Kỵ ca ca, em ... mọi việc ... em đều lừa dối chàng. Kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long chính em lấy cắp ... Ân ... Ân ... cô nương cũng do tay em giết ..., Tạ đại hiệp chính tay em điểm huyệt, em ... em cũng chẳng lấy Tống Thanh Thư. Trong tim em chỉ ... trước sau lúc nào cũng chỉ có một hình bóng chàng thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

- Những việc đó anh đều biết cả rồi. Có điều ... có điều sao em lại làm khổ em như thế?

Chu Chỉ Nhược khóc nói:

- Chàng chưa biết sư phụ em ở trên tháp chùa Vạn An đã nói với em những gì. Sư phụ nói cho em nghe bí mật trong đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, bắt em phải thề lấy được đao kiếm này làm rạng rỡ cho phái Nga Mi. Sư phụ bắt em phải thề độc giả vờ yêu anh nhưng không được thực lòng ...

Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng vuốt ve cánh tay nàng, nghĩ đến năm xưa chính mắt trông thấy Diệt Tuyệt sư thái đánh chết Kỷ Hiểu Phù, rồi nghe bà ta trên sa mạc thề quyết tiêu diệt Minh Giáo, tay cầm kiếm Ỷ Thiên loạn sát giáo chúng trong Nhuệ Kim Kỳ, sau này nơi tháp chùa Vạn An thà chịu chết chứ không nhờ mình giúp đỡ mới thấy bà ta oán hận Minh Giáo biết chừng nào. Chu Chỉ Nhược kế thừa y bát, nhận di mệnh của sư phụ nên bao nhiêu hành vi tàn ác độc địa kia cũng đều do Diệt Tuyệt sư thái trối trăn cả. Chàng vốn tính tình dễ tha thứ người khác, xưa nay không ghi nhớ hận thù, nghĩ lại năm xưa trên dòng Hán Thủy nàng đút cơm cho mình ăn, trên Quang Minh Đính ác đấu với vợ chồng Hà Thái Xung và Hoa Sơn nhị lão, nếu không có nàng đứng bên chỉ điểm không chừng mình đã chết tại đương trường; nghĩ cho sâu xa, những hành vi giảo trá tàn ác của nàng cũng chỉ vì mối thâm tình với mình, lúc này nàng thật yếu đuối đáng thương, nằm gục trong lòng không khỏi ngậm ngùi, bèn dịu dàng nói:

- Chỉ Nhược, em thấy cái gì mà lại sợ hãi đến vậy?

Chu Chỉ Nhược đứng bật dậy nói:

- Em không nói. Cái hồn ma đó quấn quít em, bản thân em làm nhiều điều tàn ác cho nên nó mới báo oán. Em nói thật cho chàng hay ... chắc em ... chắc em không sống được bao lâu nữa đâu ...

Nói xong nàng ôm mặt chạy vụt về phía núi. Trương Vô Kỵ chẳng hiểu đầu đuôi, nghĩ thầm: ?Cái gì mà lại hồn ma báo oán, theo đuổi quấn quít nàng? Không lẽ bang chúng Cái Bang trả thù, làm ma làm quỉ dọa nàng hay sao??. Chàng lững thững đi theo thấy nàng chạy vào trong đám đệ tử phái Nga Mi, Bối Cẩm Nghi đem một chiếc áo khoác đắp lên cho nàng. Chu Chỉ Nhược nói nhỏ mấy câu gì đó, mọi người khom lưng nghe lệnh.

Khi đó trên núi Thiếu Thất quần hùng một số đông đang chuẩn bị về, Không Văn, Không Trí hai người đang chào từ giã. Dương Tiêu, Phạm Dao cả bọn cũng đến tụ tập chung quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

- Thôi mình cũng sắp sửa về đi thôi.

Chàng thấy Chu Chỉ Nhược đến trước mặt Không Văn nói nhỏ mấy câu gì đó, sắc mặt nhà sư đại biến, sững sờ một hồi, rồi cương quyết lắc đầu dường như không tin. Chu Chỉ Nhược lại nói mấy câu, đột nhiên quì xuống, chắp hai tay, lẩm bẩm nói gì đó. Không Văn thần sắc trang nghiêm, miệng tụng nam mô. Chu Điên nói:

- Giáo chủ, giáo chủ phải ngăn lại ngay mới được, không thì không xong.

Trương Vô Kỵ nói:

- Ngăn cái gì?

Chu Điên nói:

- Chu cô nương định xuất gia làm hòa thượng, cô ta ... cô ta vào cửa không rồi thì thật hỏng hết.

Dương Tiêu cười khẩy nói:

- Nếu Chu cô nương muốn xuất gia thì chỉ có thể làm ni cô chứ sao lại làm hòa thượng được? Có lẽ nào lại bái nhà sư chùa Thiếu Lâm làm thầy?

Chu Điên lấy tay cốc lên đầu mìn một cái nói:

- Đúng lắm, đúng lắm! Ta quả là hồ đồ. Thế Chu cô nương cầu khẩn Không Văn đại sư cái gì thế này? Một người là chưởng môn phái Thiếu Lâm, một người là chưởng môn phái Nga Mi, việc gì phải quì?

Lại thấy Chu Chỉ Nhược đứng thẳng lên, trên mặt tỏ ra thoải mái hơn. Trương Vô Kỵ thở dài:

- Thôi chuyện của người khác, mình chẳng nên xen vào làm gì.

Chàng quay lại nói:

- Mẫn muội, thôi mình cũng đi cho xong.

Ngờ đâu chàng nhìn quanh không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu cả. Trong mấy hôm nay, Triệu Mẫn lúc nào cũng ở bên cạnh chàng như hình với bóng, Trương Vô Kỵ chột dạ, hỏi:

- Triệu cô nương đâu?

Trong bụng kêu thầm: ?Hỏng rồi, chắc là lúc Chỉ Nhược nằm trong lòng ta, Mẫn muội trông thấy, tưởng mình chưa quên tình xưa nghĩa cũ nên bỏ ta mà đi chăng??. Chàng vội vàng chen vào đám đông tìm kiếm. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ Tân Nhiên nói:

- Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ trông thấy Triệu cô nương xuống núi rồi.

Trương Vô Kỵ lòng đau như cắt: ?Mẫn muội bỏ hết mọi thứ để theo ta, cùng nhau trải qua bao nhiêu hoạn nạn, tạ phụ nàng sao đành??. Chàng bèn quay sang nói với Dương Tiêu:

- Dương huynh, việc ở đây nhờ ông thay mặt giải quyết, tôi phải đi trước một chút.

Chàng quay sang Không Văn, Không Trí cáo từ, rồi chào Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình mọi người, sau cùng nói với Chu Chỉ Nhược:

- Chỉ Nhược, em cố bảo trọng, mình sẽ gặp lại sau.

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, chỉ nhè nhẹ gật đầu, từ khóe mắt mấy giọt lệ long lanh rơi xuống.

*

*??????? *

Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy như bay xuống chân núi. Suốt mấy dặm đâu đâu cũng thấy anh hùng hào khách từ chùa Thiếu Lâm trên đường về, chàng không muốn chào hỏi ai, nên lẻn theo ngang hông họ mà chạy nhưng trước sau vẫn không thấy bòng dáng Triệu Mẫn đâu. Chàng chạy một mạch đến ba chục dặm, trời đã về chiều, người đi trên đường mỗi lúc một vắng, bỗng nghĩ ra: ?Mẫn muội mưu kế sâu xa, nếu quả như nàng muốn tránh mặt ta hẳn không theo đường lớn mà đi. Nếu không cước trình ta nhanh như vậy hẳn đã phải gặp rồi. Không lẽ nàng trốn trong núi Thiếu Thất, đợi ta đi qua rồi mới đi ngược trở lại?? Chàng bụng nóng như lửa đốt, chẳng quản đói khát, lại chạy trở vào trong các ngọn núi, thỉnh thoảng lại nhảy lên ngọn cây hay gò đống, nhìn dáo dác chung quanh. Trong núi tịch mịch chỉ thấy những đàn quạ bay về tổ.

Chàng vòng trở lại núi Thiếu Thất rồi vẫn không thấy bóng dáng Triệu Mẫn đâu bụng nhủ thầm: ?Dù gì chăng nữa, ta đối với em cũng chẳng thay lòng đổi dạ, dẫu phải đến chân trời góc biển cũng phải tìm cho ra được nàng mới thôi?. Bụng đã quyết như thế, lòng cũng thấy bình tĩnh lại, thấy nơi thung lũng phía đông bắc có hai cây hòe lớn đứng song song bèn nhảy lên ngọn cây, kiếm một cành đâm ngang, nằm xuống. Chàng qua một ngày trải bao nhiêu chuyện, người mỏi mệt nên đặt mình chẳng mấy chốc đã thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng bước chân ai đó ở cách chừng vài mươi trượng nên lập tức tỉnh dậy. Khi đó vầng trăng đã ngả về hướng tây, dưới ánh sáng thấy một bóng người đang di hành trên sườn núi cực nhanh nhẹn chạy về hướng nam. Người đó dáng thon thả, thắt đáy lưng ong là một thiếu nữ thân hình mảnh dẻ. Chàng mừng rỡ, đang toan mở miệng kêu lên ?Mẫn muội? nhưng lập tức biết là mình nhìn lầm, người con gái đó so với Triệu Mẫn hơi cao hơn một tí, thân pháp khinh công lại khác hẳn, bước chân nhẹ nhàng hơn Triệu Mẫn nhưng dáng phiêu hốt xem chừng chưa bằng Chu Chỉ Nhược.

Lòng hiếu kỳ của chàng nổi lên: ?Cô gái này canh khuya dặm trường, không hiểu có chuyện gì thế??. Chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến chàng, cũng chẳng muốn đi rình mò chuyện con gái nhà người ta nhưng bỗng nghĩ đến: ?Biết đâu từ cô gái này mình kiếm được Mẫn muội không chừng. Nếu như nàng ta không liên quan gì đến Mẫn muội thì ta cứ len lén bỏ đi là xong, cũng chẳng có gì đáng ngại. Mình không nên bỏ lỡ bất cứ dịp nào?. Chàng tính thế bèn đánh đu vào cành cây nhẹ nhàng nhảy xuống.

Trương Vô Kỵ sợ bị thiếu nữ kia phát giác nên không dám đến gần, nghĩ thầm canh khuya mình lẻn đi theo một người con gái không quen biết, chẳng khỏi bị nghi là có tính khinh bạc, thấy cô ta mặc một bộ đồ đen, chính là đang đi đến phía chùa Thiếu Lâm. Chàng tự hỏi: ?Nếu như nàng ta không có liên quan gì đến Mẫn muội thì cũng có chuyện gì với phái Thiếu Lâm. Nếu như cô ta có ý không tốt với nhà chùa thì việc này ta phải ra tay mới được?. Chàng dừng bước lắng nghe, bốn bề không thấy có ai, biết cô gái này không có ai tương trợ.

Đi được chừng thời gian ăn một bữa cơm, người con gái không hề ngoái cổ lại. Trương Vô Kỵ thấy sau lưng nàng có chiều quen thuộc, dường như trước đây đã từng nhìn qua nghĩ thầm: ?Là Võ Thanh Anh cô nương chăng? Hay là một nữ đệ tử nào của phái Nga Mi??. Đi thêm mấy dặm nữa, chùa Thiếu Lâm đã ở ngay trước mặt, thiếu nữ kia chuyển qua sườn núi đến bên hông chùa. Nàng đi chậm lại, lấp ló trốn sau những tàn cây, khe đá, hiển nhiên sợ người ta nhìn thấy tung tích.

Bỗng nghe từ đại điện trong chùa truyền ra mấy tiếng khánh, kế đến là tiếng tụng kinh bằng tiếng phạn của khoảng mấy trăm nhà sư. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: ?Sao nửa đêm khuya khoắt các nhà sư lại tụng kinh, mà sao đông người đến thế, không lẽ có một đàn tràng nào thật lớn chăng??.

Thiếu nữ kia càng di chuyển kỹ lưỡng hơn, tiến lên vài chục trượng đã đến bên đại điện. Bỗng nghe có bước chân nhẹ nhàng, thiếu nữ vội nằm phục xuống đám cỏ, kế đến có bốn nhà sư Thiếu Lâm tay cầm giới đao thiền trượng đi tuần đến. Cô gái đợi cho những nhà sư đi qua mới nhỏm dậy, nhảy một cái đã đến bên cửa sổ của đại điện. Cái nhảy đó thân hình nhẹ nhàng như bay, quả là khinh công của một cao thủ bậc nhất trong võ lâm.

Trương Vô Kỵ thấy cô ta không mang binh khí, chỉ có một thân một mình, xem ra không phải là người đến sinh sự, muốn xem cho kỹ là người nào, mình có từng quen biết hay không nên khom người xuống rón rén đi qua phía sau lưng tới góc tây bắc của đại điện. Chàng tự biết lúc này hết sức khó ăn khó nói, ví thử những nhà sư Thiếu Lâm phát giác được, với địa vị thân phận như mình, đêm hôm đến chùa dòm dỏ nếu như không thông cảm thì thật là mất mặt cho nên càng thêm cẩn thận, từng bước đi từng hành động nhẹ nhàng như mèo vờn chuột.

Lúc đó trong đại điện tiếng tụng kinh lại nổi lên, chàng ghé mắt qua khe cửa nhìn vào, thấy trong đó có tới mấy trăm tăng nhân, từng hàng từng hàng ngồi trên bồ đoàn, ai nấy khoác hoàng bào, bên ngoài lại thêm đại hồng kim tuyến cà sa, có người tay cầm pháp khí, có người chắp tay cúi đầu tụng niệm, chính là một buổi lễ cầu cho vong hồn được siêu thăng tịnh độ. Chàng lúc ấy hiểu ra: ?Kỳ anh hùng đại hội này có biết bao nhiêu người chết, khi quân Nguyên đánh lên, hai bên tử thương lại càng nhiều. Tăng lữ trong chùa ngày đêm cầu siêu cho người tử nạn, nguyện cho những người đó vãng sinh cực lạc?. Chàng thấy Không Văn đại sư đứng ngay trước nơi bàn thờ đích thân chủ tế, nhưng đứng phía bên phải lại là một thiếu nữ.

Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy, hơi lạ lùng. Người con gái đó chính là Chu Chỉ Nhược, tuy chỉ nhìn ngang nhưng thấy rõ thần sắc nàng bất định, đôi lông mày hơi nhíu lại, dường như có chiều lo lắng, nghĩ thầm: ?Đúng rồi, ban ngày Chỉ Nhược quì trước mặt Không Văn đại sư, chính là cầu xin ông lập đàn tràng, có lẽ nàng sám hối những gì đã làm, dưới tay giết chết nhiều người vô tội?. Chàng nhìn kỹ trên bàn thấy ngay chính giữa là một bài vị trên viết bảy chữ ?Nữ hiệp Ân Ly chi linh vị?.

Trương Vô Kỵ đau lòng, nghĩ đến biểu muội cuộc đời khổ sở, đối với mình thật một mối thâm tình, không khỏi bùi ngùi chảy nước mắt. Trong tiếng chuông tiếng mõ, Chu Chỉ Nhược sì sụp lạy, miệng mấp máy, cúi đầu khấn nguyện. Trương Vô Kỵ vận thần công tập trung tinh thần nghe ngóng dường như:

- Ân cô nương ... ở trên trời linh thiêng, xin được an nghỉ ... đừng hiện về phá tôi...

Chàng vịn vào tường trong đầu rộn lên bao ý nghĩ: ?Biểu muội chết vì tay nàng, cố nhiên tội nghiệp thật, thế nhưng trong lòng Chỉ Nhược nỗi ray rứt chắc gì đã ít hơn cô em họ của mình?. Trong đầu chàng bỗng nhớ lại năm xưa trên Quang Minh Đính nghe giáo chúng Minh Giáo hát mấy câu:

Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy.

Chu Chỉ Nhược từ từ đứng lên, hơi nghiêng người, quay đầu sang phía đông, đột nhiên mặt hoảng hốt:

- Ngươi ... ngươi ... ngươi ... lại đến kìa.

Giọng nàng rú lên át hẳn tiếng chuông tiếng khánh trong điện. Trương Vô Kỵ theo hướng mắt nàng nhìn theo, thấy khung giấy dán trên cửa đã bị rách từ bao giờ, nơi vết thủng hiện lên một khuôn mặt con gái, mặt đầy vết sẹo ngang dọc khiến chàng run bần bật, nhịn không nổi phải kêu lên một tiếng.

Thiếu nữ đó trên mặt loang lổ, tuy không còn nổi u từng cục như xưa nhưng rõ ràng chính là người đã chết Ân Ly. Chàng toan tiến lên gọi nhưng chân như dính xuống đất, người chết sững không cách nào cử động được. Chỉ thấy khuôn mặt đó biến ngay mất, trong điện nghe bình một tiếng, Chu Chỉ Nhược đã ngã lăn ra.

Trương Vô Kỵ lúc đó không muốn để cho phái Thiếu Lâm hiềm nghi, lớn tiếng kêu lên:

- Châu Nhi! Châu Nhi! Em đấy ư?

Thế nhưng không nghe tiếng trả lời. Chàng hơi định thần, phi thân theo đường cũ đuổi theo, chỉ thấy trăng lạnh treo lơ lửng, những cây là cây, người con gái áo đen kia không biết đi nơi nào. Chàng vốn không tin ma quỉ nhưng gặp phải cảnh thế này không khỏi toát mồ hôi lạnh, người nổi da gà, đứng lại lẩm bẩm:

- Đúng nàng rồi! Đúng nàng rồi! Thảo nào sau lưng thấy quen quá, hóa ra là Châu Nhi. Chắc hồn nàng biết được cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh siêu độ cho mình nên mới đến nghe kinh chăng? Hay là nàng chết oan chết uổng nên hồn không tan đi được?

Những nhà sư Thiếu Lâm nghe tiếng động đã có mấy người chạy ra xem chuyện gì, thấy Trương Vô Kỵ không khỏi ngạc nhiên. Một tăng nhân lớn tuổi tiến lên hành lễ nói:

- Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giáng lâm nên chưa kịp ra đón, xin thứ tội cho.

Trương Vô Kỵ cũng chắp tay chào nói:

- Không dám.

Chàng tiến vào trong điện, thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền, mặt xanh mét không còn chút máu vẫn chưa tỉnh lại. Chàng lại gần, dùng sức day nhân trung nàng mấy cái lại xoa bóp ở sau lưng.

Chu Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, vừa trông thấy Trương Vô Kỵ liền sà ngay vào lòng ôm chặt lấy chàng, kêu lên:

- Có ma! Có ma!

Trương Vô Kỵ đáp:

- Việc này quả cũng lạ thật, cô đừng sợ. Chung quanh đây có rất nhiều cao tăng, thể nào cũng giải được mối oan nghiệt này.

Chu Chỉ Nhược trước nay đoan trang ổn trọng, lúc này vì quá sợ nên trước mặt mọi người mà vẫn cứ níu chặt lấy chàng, nghe nói thế mặt đỏ lên vội vàng buông Trương Vô Kỵ ra, đứng lên nhưng người vẫn còn run rẩy không thôi, nắm chặt tay chàng không chịu rời.

Trương Vô Kỵ tiến lại chào Không Văn, kể lại chuyện có kẻ ở bên ngoài coi trộm. Không Văn và quần tăng tuy không ai thấy nhưng vết rách trên giấy dán cửa sổ vẫn còn đó. Chu Chỉ Nhược nói:

- Vô Kỵ ca ... Trương giáo chủ, tôi thấy rồi, đúng là cô ta.

Trương Vô Kỵ gật đầu, Chu Chỉ Nhược run rẩy hỏi:

- Thế anh ... anh ... thấy ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Thấy Ân cô nương, cô em họ tôi Ân Ly.

Chu Chỉ Nhược kêu khẽ lên một tiếng, lại ngất đi. Lần này Trương Vô Kỵ đang nắm tay nàng nên Chu Chỉ Nhược không ngã, thành thử vừa xỉu là tỉnh lại ngay. Trương Vô Kỵ nói:

- Tôi trông thấy biểu muội, nhưng cô ta là ... người chứ không phải là ma.

Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

- Cô ta không phải ma sao?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Tôi theo cô ta tới chùa Thiếu Lâm, thấy cô ta đi đứng bình thường, nhất định không thể là ma được.

Mấy câu đó chẳng qua chỉ để an ủi Chu Chỉ Nhược chứ trong bụng chàng, Trương Vô Kỵ cũng không dám chắc. Chu Chỉ Nhược hỏi thêm:

- Có thực anh thấy cô ta đi đứng bình thường, không phải là ma chứ?

Trương Vô Kỵ nhớ lại quãng đường đuổi theo thiếu nữ áo đen kia đến đây, lại thấy nàng náu mình sau cửa sổ nhìn vào, nhất cử nhất động đều đúng là một cô nương biết võ công, không có gì khác lạ bèn quay sang hỏi Không Văn đại sư:

- Phương trượng, tại hạ có một điều không rõ, mong được thỉnh giáo. Người chết đi rồi, có thật còn hồn ma hay chăng?

Không Văn trầm ngâm một hồi nói:

- Chuyện cõi u minh, quả thực khó nói.

Trương Vô Kỵ hỏi tiếp:

- Thế thì vì cớ gì phương trượng lại thành kính tụng niệm để siêu độ cho các u hồn?

Không Văn nói:

- Thiện tai! Thiện tai! U hồn không thể siêu độ được, người chết đi rồi nhưng nghiệp vẫn còn, thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Nhà Phật lập đàn tràng tụng niệm là để cho người sống được an tâm, siêu độ là để người còn sống được siêu độ.

Trương Vô Kỵ bấy giờ mới hiểu, chắp tay nói:

- Đa tạ phương trượng chỉ điểm. Tại hạ canh khuya đến làm rộn, quả thật không an, mong đại sư thứ tội cho.

Không Văn mỉm cười:

- Giáo chủ là đại ân nhân của tệ phái, mấy lần ra tay cứu giúp phái Thiếu Lâm khỏi tai nạn, sao còn khách sáo thế.

Trương Vô Kỵ liền cùng các nhà sư cáo từ rồi quay sang nói với Chu Chỉ Nhược:

- Thôi mình đi chứ.

Chu Chỉ Nhược hơi có vẻ ngần ngừ không dám ra khỏi Phật điện. Trương Vô Kỵ không tiện ép uổng, chắp tay nói:

- Nếu như thế thì mình từ biệt nơi đây.

Nói xong chàng xoay mình đi ra cửa điện. Chu Chỉ Nhược nhìn sau lưng chàng, đột nhiên gọi:

- Vô Kỵ ca ca, anh có còn gặp em nữa không? Để em ... em đi với anh vậy.

Nàng chạy đến bên chàng, hai người sánh vai đi ra khỏi chùa Thiếu Lâm một quãng xa, Chu Chỉ Nhược liền nép mình vào Trương Vô Kỵ cầm tay chàng. Trương Vô Kỵ biết nàng vẫn còn sợ, cũng nắm chặt bàn tay mềm mại, ngửi thấy bên mình mùi thơm ngây ngất, trong lòng bỗng thấy phiêu phiêu.

Hai người yên lặng một lúc lâu, bỗng nhiên Chu Chỉ Nhược thở dài một tiếng nói:

- Vô Kỵ ca ca, ngày nào hai đứa mình lần đầu gặp nhau nơi sông Hán Thủy, em được Trương chân nhân cứu thoát, nếu biết sau này phải chịu biết bao nhiêu khổ sở thì giá như chết ngay lúc đó, có phải thoải mái hơn không.

Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ đến câu hát của giáo đồ Minh Giáo, buột miệng ngâm nga:

Sinh diệc hà hoan?

Tử diệc hà khổ?

Lân ngã thế nhân,

Ưu hoạn thực đa.

(Khi sống có gì vui,

Thì chết có gì khổ?

Thương thay cho con người,

Lo buồn sao lắm vậy)

Chu Chỉ Nhược nghe khúc ca chàng đọc, bàn tay nắm lấy chàng hơi run run. Nàng hạ giọng nói nhỏ:

- Trương chân nhân đưa em lên núi Nga Mi là để cho em được sung sướng, thế nhưng nếu như lão nhân gia giữ em ở lại núi Võ Đương, cho em gia nhập môn hạ phái Võ Đương thì mọi sự hôm nay đã khác hẳn. Ôi! Ân sư đối với em có gì không tốt đâu? Có điều ... có điều sư phụ bắt em phải lập độc thệ, ép em phải hận thù Minh Giáo, ép em phải hận chàng, hại chàng, nhưng trong lòng em ... quả thực ...

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói thật chân thành, lòng hơi cảm động, biết nàng có nhiều điều khó khăn, bao nhiêu những chuyện tàn độc đều do tuân hành di mệnh Diệt Tuyệt sư thái mà làm, nay thấy nàng sợ hãi đến độ lại càng thương xót hơn.

Trên con đường gió núi vù vù, từng chập thổi tới hương thơm các loài hoa cỏ, lúc này đang đầu mùa hạ, đêm thanh vắng sương mát mẻ, tai nghe một thiếu nữ xinh tươi thổ lộ tâm tình, Trương Vô Kỵ không khỏi bồi hồi man mác. Huống chi ở nơi hoang đảo khi chàng giúp nàng đẩy chất độc ra ngoài, hai người đã từng đụng chạm xác thịt, trước kia nàng lại có ơn với mình, cùng nàng ước định hôn nhân làm sao chàng không khỏi đê mê.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vô Kỵ ca ca, hôm đó ở Hào Châu chàng đang cùng em bái đường thành thân, sao Triệu cô nương vừa tới gọi, chàng đã chạy theo cô ta là sao? Trong lòng chàng yêu cô ta đến thế ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh đang muốn giãi bày chuyện đó với em đây, mình ngồi xuống nói chuyện nhé.

Nói rồi chàng chỉ một tảng đá lớn bên vệ đường. Chu Chỉ Nhược đáp:

- Không đâu, trong lúc này lòng em đang rối như tơ vò, không nghe vào tai được, đi thêm một lát cho lòng em lắng xuống rồi hãy nói.

Trương Vô Kỵ gật đầu, đưa tay nắm tay nàng, thủng thẳng bước đi. Chu Chỉ Nhược cầm tay chàng vào một con đường mòn, đi đến bốn năm dặm rồi mới nói:

- Được rồi, chàng nói cho em nghe đi.

Nàng đi đến một khối sơn thạch, trước một bụi cây rậm rạp hai người sánh vai ngồi xuống. Trương Vô Kỵ mới đem việc Triệu Mẫn nắm trong tay một nắm tóc vàng của Tạ Tốn khiến chàng không thể nào không chạy theo kể lại đầu đuôi. Chu Chỉ Nhược nghe xong ngồi thừ ra hồi lâu không nói năng gì. Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, em có trách anh không?

Chu Chỉ Nhược nghẹn ngào đáp:

- Em làm biết bao nhiêu chuyện sai lầm, chỉ trách mình thôi, lẽ nào lại trách chàng?

Trương Vô Kỵ vỗ nhè nhẹ lên vai nàng, dịu dàng nói:

- Trên đời này mọi chuyện đưa đẩy tới làm sao liệu trước được, em cũng đừng quá đau lòng.

Chu Chỉ Nhược ngẩng mặt lên nói:

- Vô Kỵ ca ca, thiếp có một câu hỏi, chàng phải thật lòng trả lời, không được che đậy chút nào.

Trương Vô Kỵ nói:

- Được, anh sẽ không dấu gì em.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Thiếp biết được trên đời này có bốn người con gái thực lòng yêu chàng. Một người là Tiểu Siêu nay đã đi qua Ba Tư, một người là Triệu cô nương, còn một người là ... là ... cô ta ...

Nàng định nói Ân cô nương nhưng không dám nói ra lời, ngừng lại một chút rồi tiếp:

- Nếu như cả bốn người con gái, tất cả đều còn sống lại ở ngay bên cạnh chàng, thì trong lòng chàng thực sự yêu thương là ai?

Trương Vô Kỵ trong lòng mê loạn, ấp úng:

- Cái đó ... ồ ... cái đó ...

Hôm xưa, Trương Vô Kỵ cùng Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly, Tiểu Siêu bốn người cùng trên một con thuyền lênh đênh trên biển chàng đã từng nghĩ ngợi nhiều lần: ?Cả bốn nàng này ai đối với ta cũng tình sâu nghĩa nặng, ta phải đối xử thế nào cho phải đây? Dù ta thành hôn với bất cứ người nào thì cũng làm cho ba người còn lại hết sức đau thương. Ở sâu thẳm trong lòng ta, người nào là người ta yêu nhất??.

Chàng cho đến nay vẫn bàng hoàng không sao quyết định được thành thử cố tránh né không nghĩ tới, khi thì nghĩ rằng: ?Thát tử chưa đuổi được, giang sơn chưa khôi phục, Hung Nô chưa diệt thì đâu màng tới chuyện gia đình. Làm trai lẽ nào chỉ vấn vương những chuyện thường tình nhi nữ?.

Cũng có khi chàng nghĩ: ?Ta thân làm giáo chủ Minh Giáo, một lời nói một cử động đều có quan hệ đến hưng suy của bản giáo và đồng đạo võ lâm. Ta tự nhủ sẽ không làm điều gì sằng bậy hại đến phẩm giá, lẽ nào rơi vào vòng nữ sắc để anh hùng thiên hạ sỉ tiếu, làm hại thanh danh của bản giáo hay sao??.

Có lúc thì chàng lại nghĩ: ?Mẹ ta lúc lâm chung đã từng căn dặn ta rằng, con gái xinh đẹp rất giỏi lừa dối người, bảo ta trên đời phải hết sức đề phòng, di ngôn của má má lẽ nào lại bỏ ngoài tai??.

Thực ra chàng đã nhiều lần biện giải, chẳng qua là để tự dối mình đấy thôi, chứ nếu quả thực chuyên tâm yêu một người con gái thì có gì là hại đến việc quang phục đại nghiệp, cũng có gì mà hại đến thanh danh Minh Giáo. Nói đúng ra chàng thấy cô này cũng tốt, cô kia cũng tốt, thành ra không dám nghĩ ngợi nhiều. Vô Kỵ võ công cao siêu thật nhưng tính tình có chiều hơi nhu nhược, thiếu quyết đoán, việc gì đến cũng để thuận theo tự nhiên, nếu như không được thì cũng không dám làm nghịch ý người khác, thà chịu bỏ mình mà theo người. Tập Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp cũng là do Tiểu Siêu yêu cầu; làm giáo chủ Minh Giáo cũng do tình thế bức bách, rồi cũng do Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương khơi dậy cảm tình, đính hôn với Chu Chỉ Nhược là do lệnh của Tạ Tốn; còn không bái đường thành thân với Chu Chỉ Nhược thì lại do Triệu Mẫn ép buộc.

Năm xưa giá như Kim Hoa bà bà và Ân Ly không hiếp đáp, dùng võ lực cưỡng bách, chỉ dịu ngọt bảo chàng theo ra đảo Linh Xà, chắc hẳn cũng đi theo.

Cũng có khi sâu kín trong nội tâm chàng cũng nghĩ đến: ?Giá như ta được cùng với cả bốn nàng sống chung, tất cả hòa thuận thì thật sung sướng biết là bao??. Thời đó là cuối đời Nguyên, dẫu nho sĩ, thương gia hay giang hồ hào khách, việc năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình, người một vợ một chồng mới là khó kiếm. Có điều Minh Giáo phát xuất từ Ba Tư, giáo chúng xưa nay tiết kiệm khắc khổ, ngoài vợ chính ra ít ai có nàng hầu vợ lẽ.

Trương Vô Kỵ tính tình vốn khiêm hòa, biết rằng trong bốn người lấy được ai thì cũng đã là có phúc lắm rồi, nếu như còn thêm cơ thiếp thì quả là không phải nên cái ý nghĩ lấy được cả bốn cô chỉ thoảng qua rồi biến đi, chưa bao giờ dám nghĩ ngợi lâu, nếu có đôi khi chợt đến liền tự trách mình: ?Làm người phải biết thế nào là đủ, nếu như ta còn cái ý đó chẳng hóa ra hèn hạ thấp kém lắm hay sao??.

Đến sau Tiểu Siêu đi Ba Tư, Ân Ly từ trần, lại nghĩ biểu muội do Triệu Mẫn giết hại, bốn người không còn ai khác ngoài Chu Chỉ Nhược. Ngờ đâu việc lại không đúng như thế, sinh ra việc nọ chuyện kia, dần dà chân tướng lộ ra, hai nàng Triệu Chu ai thiện ai ác lúc thế này lúc thế khác, lại thấy cũng may mình chưa thành hôn với Chu Chỉ Nhược để thành lầm lỡ, còn Triệu Mẫn công nhiên chống lại cha anh, chẳng còn gì phải khó nghĩ nữa. Ngờ đâu Triệu Mẫn không từ biệt mà ra đi, nay Chu Chỉ Nhược lại đặt câu hỏi như thế này.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng trầm ngâm không đáp, nói:

- Thiếp hỏi chàng chẳng qua chỉ là câu chuyện mộng huyễn. Tiểu Siêu nay đã là xử nữ giáo chủ của Minh Giáo Ba Tư, còn thiếp ... thiếp lại sát hại Ân cô nương. Trong bốn người nay chỉ còn một mình cô nương họ Triệu. Thiếp hỏi chàng nếu như cả bốn người đều bình yên vô sự ở bên cạnh thì chàng tính sao?

Trương Vô Kỵ nói:

- Chỉ Nhược, việc này anh đã nghĩ ngợi nhiều lắm rồi, dường như không thể nào quyết định được, nhưng đến hôm nay thì anh biết người ai thực lòng yêu hơn cả là ai rồi.

Chu Chỉ Nhược hỏi dồn:

- Ai thế? Có ... có phải là Triệu cô nương không?

Trương Vô Kỵ đáp:

- Quả là như thế. Hôm nay anh tìm nàng không ra, thật chỉ mong chết quách cho xong. Nếu như từ nay không còn gặp lại nàng thì chắc anh cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tiểu Siêu xa anh mà đi, lòng anh biết bao đau khổ. Biểu muội từ trần anh cũng thật xót xa, em ... em rồi ra như thế, anh lòng càng chua chát lại thêm tiếc nuối dày vò. Thế nhưng, Chỉ Nhược, anh cũng chẳng dối em làm gì, nếu đời này anh không còn gặp lại Triệu cô nương, thì thà anh chết còn hơn. Cái tâm ý đó trước nay anh chưa từng có với ai bao giờ.

Chàng đối với Ân Ly, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu, Triệu Mẫn bốn người vẫn tưởng không ai hơn kém, nhưng hôm nay khi Triệu Mẫn bỏ đi chàng mới hiểu được rằng, chính nàng là người trong lòng chàng coi nặng hơn cả, so với ba nàng kia có khác hơn.

Chu Chỉ Nhược nghe chàng nói như thế, u uất nói:

- Hôm đó ở Đại Đô, em thấy chàng đến quán rượu gặp cô ta đã biết ngay trong tim chàng ai là người sâu nặng hơn cả. Có điều em vẫn si tâm vọng tưởng, nếu như cùng chàng ... nếu như cùng chàng thành thân rồi, sẽ ... sẽ khiến chàng hồi tâm chuyển ý, ai ngờ ... ai ngờ ... lại cũng chẳng đến đâu.

Trương Vô Kỵ buồn rầu:

- Chỉ Nhược, anh đối với em trước sau một niềm kính trọng, đối với biểu muội Ân gia thật là cảm kích sâu xa, đối với Tiểu Siêu tội nghiệp thương xót, còn như với Triệu cô nương thì ... thì trong lòng ... trong lòng quả là ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương.

Chu Chỉ Nhược lẩm bẩm nhắc lại:

- Ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương, ghi xương tạc dạ hết bụng yêu thương.

Nàng ngừng lại một hồi rồi nói nhỏ:

- Vô Kỵ ca ca ... thiếp đối với chàng cũng hết bụng thương yêu ghi xương tạc dạ, chàng có biết nỗi niềm đó hay chăng?

Trương Vô Kỵ hết sức cảm động, nắm chặt tay nàng dịu dàng nói:

- Chỉ Nhược, sao anh lại không biết? Tấm lòng của em đối với anh, đời này kiếp này anh chẳng biết làm sao báo đáp. Anh ... anh thật có lỗi với em.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng chẳng có lỗi gì với em cả, chàng lúc nào cũng thật tốt đối với em, chẳng lẽ em không biết hay sao? Em hỏi chàng: Nếu như Triệu cô nương phen này không từ biệt ra đi chàng vĩnh viễn không bao giờ gặp lại, ví như nàng bị kẻ gian giết chết rồi, ví như nàng thay lòng đổi dạ, chàng ... chàng sẽ ra sao?

Trương Vô Kỵ trong lòng đau khổ đã lâu nay nghe nói như thế, không còn nhịn nổi nước mắt ứa ra, nghẹn ngào nói:

- Anh ... anh cũng không biết nữa. Nói cho cùng, trên trời dưới đất, anh thể nào cũng phải tìm nàng cho bằng được mới thôi.

Chu Chỉ Nhược thở dài nói:

- Nàng ta chẳng thay lòng đổi dạ đâu, chàng muốn kiếm Triệu cô nương cũng chẳng khó gì.

Trương Vô Kỵ vừa kinh hoàng vừa sung sướng, đứng phắt dậy hỏi:

- Nàng đang ở đâu? Chỉ Nhược, mau nói cho anh nghe.

Đôi mắt trong sáng của Chu Chỉ Nhược nhìn thẳng vào mặt Trương Vô Kỵ, thấy chàng vui mừng như muốn phát điên, thủng thẳng nói:

- Chàng đối với thiếp chưa từng bao giờ quan tâm đến thế. Nếu chàng muốn biết Triệu cô nương nay ở đâu thì phải bằng lòng làm cho em một điều, nếu không mãi mãi chàng sẽ không gặp lại cô ta đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

- Em muốn anh làm cho em điều gì?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Việc đó bây giờ thiếp chưa nghĩ ra, mai sau bao giờ nghĩ được thì sẽ nói cho chàng hay. Nói chung việc đó không vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng không ngăn trở đại nghiệp quang phục đất nước, cũng không làm tổn thương đến thanh danh Minh Giáo hay bản thân chàng nhưng ắt là không phải dễ dàng đâu.

Trương Vô Kỵ ngẩn ngơ, nghĩ thầm: ?Trước đây Mẫn muội bảo ta làm ba việc, cũng nói là không vi phạm đạo hiệp nghĩa, tính cho đến nay nàng chỉ mới nói ta làm hai điều. Hai việc đó quả thật không phải dễ, sao bây giờ Chỉ Nhược cũng lại học cái mửng đó với ta??.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Chàng bằng lòng hay không cũng ở mình. Có điều đại trượng phu nói ra phải giữ lời, đã bằng lòng rồi thì khi việc đến không thể lần khân được đâu.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:

- Em nói việc đó không vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng không ngăn trở việc quang phục, không tổn thương thanh danh Minh Giáo và bản thân anh, phải không?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Đúng thế.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Vậy thì được, nếu quả không vi phạm đạo hiệp nghĩa, không làm hỏng đại nghiệp quang phục, anh bằng lòng làm cho em.

Chu Chỉ Nhược nói:

- Vậy thì mình vỗ tay lập lời thề.

Nàng đưa tay ra cho chàng đập vào. Trương Vô Kỵ biết rằng một khi mình đã đập tay xuống lập lời thề rồi thì trên vai mình lại mang thêm một cái gông hết sức nặng nề, nàng con gái họ Chu này bề ngoài hiền thục nho nhã nhưng bụng dạ mưu mô, hành sự sắc sảo thật chẳng kém gì Triệu Mẫn, nên đưa tay lên mà vẫn lừng chừng không dám đánh xuống.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:

- Chàng chỉ nhận lời em làm một chuyện là trong khoảnh khắc sẽ gặp lại người trong mộng ngay.

Trương Vô Kỵ lòng rộn ràng, không còn nghĩ ngợi gì thêm nữa, giơ tay đánh xuống ba lần. Chu Chỉ Nhược mủm mỉm:

- Chàng xem ai đây?

Nàng đưa tay vạch bụi cây phía sau, thấy đằng sau đám lá một người ngồi đó, mặt như cười mà không ra cười, chẳng là Triệu Mẫn thì còn ai?

Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ kêu lên:

- Mẫn muội!

Đột nhiên từ mấy trượng ở đằng xa, có tiếng con gái ?Ồ? lên một tiếng, dường như đột nhiên thấy Triệu Mẫn xuất hiện không khỏi ngạc nhiên kêu thất thanh. Tiếng kêu đó tuy thật nhỏ nhưng Trương Vô Kỵ đã nghe thấy rõ ràng.

Chàng còn đang sững sờ, trong đầu xoay chuyển biết bao nhiêu ý nghĩ, chầm chậm đưa tay ra nắm lấy tay Triệu Mẫn, hai bàn tay chạm nhau thấy tay nàng dường như cứng đơ lập tức hiểu ra, hẳn là sáng này không từ biệt mà bỏ đi chạy kiếm đâu cũng không thấy, hóa ra đã bị Chu Chỉ Nhược bắt giữ rồi, điểm huyệt nàng dấu ở nơi đây. Chu Chỉ Nhược cố ý đưa chàng đến tận đây mới ngồi nói chuyện, cốt để Triệu Mẫn nghe rõ từng câu. Nếu như chàng vì không muốn Chu Chỉ Nhược phải đau lòng nên xuôi theo cho nàng vui, nói rằng đối với nàng tình ý nồng thắm, hay cùng nàng ôm ấp một phen thì đã rơi vào kế của cô ta, khiến cho Triệu Mẫn không thể không bỏ đi. Chàng nghĩ ra chuyện ấy trong lòng không khỏi kêu thầm: ?Thật hú vía?, mồ hôi lạnh trên lưng chảy ra đầm đìa, tiện tay bắt mạch cho Triệu Mẫn thấy khí huyết vận hành như thường, không có triệu chứng gì là bị thương.

Dưới ánh trăng suông thấy nàng đầu mày cuối mắt tràn đầy vẻ tươi cười, quả thật kiều mị khả ái không để đâu cho xiết, hẳn là những gì chàng đối đáp với Chu Chỉ Nhược nàng đều nghe cả. Nàng tuy không cử động được, miệng không nói được nhưng nghe chàng thổ lộ tâm sự ở sau lưng mình, đối với nàng một lòng ghi xương tạc dạ thương yêu, tình ý nồng nàn trong lòng không khỏi bừng lên rạng rỡ.

Chu Chỉ Nhược cúi xuống ghé tai nói nhỏ mấy câu với Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ cũng thì thầm đáp lại mấy câu. Chu Chỉ Nhược nổi giận quát lớn:

- Trương Vô Kỵ, ngươi không coi ta vào đâu, thử xem lại coi nào? Triệu cô nương trúng độc như thế này liệu có sống nổi hay không?

Trương Vô Kỵ kinh hoảng lắp bắp:

- Nàng ... nàng trúng độc sao? Cô hạ độc đấy ư?

Chành cúi xuống xem xét, vạch mắt bên trái Triệu Mẫn ra coi bỗng thấy sau lưng tê đi, đã bị điểm trúng huyệt đạo. Trương Vô Kỵ kêu lên ?Ối chao? một tiếng, thân hình lảo đảo. Chu Chỉ Nhược ra tay nhanh như gió, ngón tay thon vận kình điểm luôn trên vai, bên hông, sau lưng năm nơi đại huyệt.

Trương Vô Kỵ ngã ngửa, chỉ thấy ánh sáng xanh lóe lên, Chu Chỉ Nhược đã rút phắt trường kiếm đưa vào ngực chàng, quát lên:

- Đã làm thì làm cho trót, hôm nay lấy mạng ngươi cho xong. Nếu không hồn ma Ân Ly cứ quấn quí theo ta, xem ra ta cũng không còn sống được nữa, tất cả cùng chết với nhau một lượt.

Nàng nói xong giơ kiếm lên toan đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.

Bỗng nghe từ đằng sau có tiếng một thiếu nữ kêu lên:

- Khoan đã! Chu Chỉ Nhược, Ân Ly đã chết đâu.

Chu Chỉ Nhược quay đầu lại thấy một thiếu nữ áo đen từ trong đám cỏ chạy vụt ra, vung tay điểm tới. Chu Chỉ Nhược nghiêng qua tránh được, người con gái đó quay đầu lại, dưới ánh trăng xiên xiên, thấy nàng mặt mày hết sức xinh xắn mặc dầu có mờ mờ mấy vết sẹo dài. Trương Vô Kỵ nhìn rõ, người đó chính là biểu muội Ân Ly, những cục sưng trên mặt đã mất hết, tuy những vạch ngang vạch dọc vẫn còn nhưng không dấu được vẻ xinh tươi, chẳng khác gì cô bé con tú lệ đi theo Kim Hoa bà bà đến Hồ Điệp Cốc ngày nào.

Chu Chỉ Nhược lùi lại hai bước, tay trái che lên ngực, mũi kiếm trong tay vẫn chỉ vào Trương Vô Kỵ, quát lên:

- Ngươi còn tiến lên một bước nữa, ta sẽ một kiếm đâm y chết trước.

Ân Ly không dám cử động vội nói:

- Ngươi ... ngươi làm bấy nhiêu chuyện ác chưa đủ hay sao?

Chu Chỉ Nhược hỏi lại:

- Thế ngươi là người hay là ma?

Ân Ly đáp:

- Dĩ nhiên ta là người.

Trương Vô Kỵ đột nhiên kêu lên:

- Châu Nhi!

Chàng nhảy vọt lên, ôm chặt lấy Ân Ly, lắp bắp:

- Châu Nhi, em ... em ... nhớ anh lắm phải không?

Biến cố đó xuất kỳ bất ý khiến Ân Ly sợ hãi đến kêu thét lên, bị Trương Vô Kỵ ôm chặt trong vòng tay không sao cử động được. Chu Chỉ Nhược cười hì hì nói:

- Nếu không làm thế, cô đâu có chịu chui ra.

Nàng quay lại giải khai huyệt đạo cho Triệu Mẫn, giúp nàng xoa bóp gân cốt cho máu chảy đều. Triệu Mẫn bị nàng bỏ nơi đây đã hơn nửa ngày, trong lòng hết sức tức giận, nhưng cũng may được nghe Trương Vô Kỵ thổ lộ tâm tình nên đổi giận làm vui. Có điều đột nhiên có thêm một nàng Ân Ly nên lại cũng thêm biết bao nhiêu mối khúc mắc, hận cũ chưa qua, sầu mới đã tới.

Ân Ly hậm hực nói:

- Anh làm gì mà ôm chặt lấy tôi? Triệu cô nương, Chu cô nương có ở đây còn ra thể thống gì nữa?

Triệu Mẫn nói:

- Thế nếu như tôi và Chu cô nương không có ở đây thì thành thể thống hay sao?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Anh thấy em chết rồi sống lại, quá đỗi vui mừng. Biểu muội, em ... em mọi sự đầu đuôi thế nào?

Ân Ly nắm lấy cánh tay chàng, xoay mặt chàng ra phía có ánh trăng, chăm chú nhìn một hồi, đột nhiên nắm tai Trương Vô Kỵ, nghiến răng véo một cái. Trương Vô Kỵ đau quá kêu lên:

- Ối ối! Em làm gì thế?

Ân Ly đáp:

- Ngươi đúng là một tên xú bát quái đáng phải lăng trì tùng xẻo. Ngươi ... ngươi sao lại đem chôn sống ta, khiến ta chịu biết bao nhiêu đắng cay khổ sở.

Nói xong đấm luôn vào ngực chàng ba cái, nghe kêu bình bịch. Trương Vô Kỵ không dám vận Cửu Dương thần công lên chống lại, cố chịu đựng ba quyền của nàng, cười nói:

- Châu Nhi! Anh quả là tưởng em ... tưởng em chết rồi, khiến anh đau lòng khóc lóc một phen. Em còn sống thật hay biết bao nhiêu, quả đúng là trời xanh có mắt.

Ân Ly giận dữ nói:

- Trời xanh có mắt, còn tên xú bát quái là ngươi quả là mù, đến người chết hay sống cũng không biết. Ta không tin ngươi được, chắc ngươi hiềm ta mặt mũi sưng húp xấu xí, chẳng thèm chờ cho tắt hơi đã đem chôn ngay xuống đất. Ngươi là đứa vô lương tâm, là tên chết tiệt lang tâm đoản mệnh.

Trương Vô Kỵ chỉ cười hì hì đứng nghe, gãi đầu nói:

- Em cứ chửi đi, càng nhiều càng tốt. Lúc đó anh quả là hồ đồ, thấy em mặt mũi đầu máu me, không còn thở gì cả, tim cũng ngừng đập, lại tưởng rằng không còn đường cứu ...

Ân Ly nhảy tới, giơ tay kéo tai chàng. Trương Vô Kỵ cười hềnh hệch tránh qua một bên, chắp tay nói:

- Hảo Châu Nhi, tha cho anh!

Ân Ly nói:

- Ta không tha cho ngươi. Hôm đó chẳng hiểu sao ta tỉnh lại, thấy bốn bề chung quanh toàn là đá lạnh như băng. Ngươi định chôn sống ta sao lại chất lên người ta nào cành cây, nào đá cục? Sao không dùng đất mà vùi, ta không thở được có phải chết luôn rồi không?

Trương Vô Kỵ nói:

- Tạ trời tạ đất, may quá anh chỉ đắp lên người cô bằng cành cây và đá cục.

Chàng nhịn không nổi liếc qua Chu Chỉ Nhược một cái. Ân Ly hậm hực nói:

- Người đó xấu xa lắm, tôi không muốn anh nhìn cô ta.

Trương Vô Kỵ nói:

- Sao lại thế?

Ân Ly đáp:

- Cô ta là hung thủ giết tôi, sao anh còn ngó ngàng đến cô ta làm gì?

Triệu Mẫn chen vào:

- Thế nhưng cô có chết đâu, cô ấy đâu có còn là hung thủ giết cô được.

Ân Ly nói:

- Nhưng tôi đã chết một lần, cô ta đã là hung thủ một lần rồi.

Trương Vô Kỵ khuyên nhủ:

- Hảo Châu Nhi, em thoát hiểm trở về, bọn ta ai cũng mừng hết sức. Em cứ thủng thẳng ngồi xuống đây, kể lại cho tất cả nghe em đã chết đi sống lại như thế nào.

Ân Ly đáp:

- Cái gì mà bọn ta hay không bọn ta. Tôi hỏi anh, anh nói bọn ta là gồm những ai?

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Ở đây chỉ có bốn người, lẽ dĩ nhiên là gồm anh, Chu cô nương và Triệu cô nương.

Ân Ly cười khẩy nói:

- Hứ, tôi không chết chắc anh còn có đôi phần hoan hỉ, chứ còn Chu cô nương và Triệu cô nương ư? Liệu họ có hoan hỉ hay không?

Chu Chỉ Nhược nói:

- Ân cô nương, hôm đó tôi nổi lòng xấu xa, làm hại đến cô, việc đó sau này thật hết sức ăn năn, ngay trong giấc ngủ cũng không yên ổn, nếu không hôm nay đột nhiên gặp lại cô trong rừng đâu có sợ hãi đến mức đó. Bây giờ thấy cô bình an không sao, miễn tội nghiệt cho tôi, có trời trên cao làm chứng lòng tôi cực kỳ sung sướng.

Ân Ly nghiêng đầu ngẫm nghĩ một hồi, gật đầu nói:

- Cái đó cũng có lý vài phần. Ta vốn định tìm cô hỏi tội nếu đã như thế thì thôi vậy.

Chu Chỉ Nhược quì phục xuống, nghẹn ngào nói:

- Tôi ... tôi quả thực đối với cô chẳng ra gì.

Ân Ly trước nay tính tình hay chấp nê nhưng nay thấy Chu Chỉ Nhược chịu lép vế, trong lòng cũng thấy an ủi vội đỡ cô ta dậy nói:

- Chu tỉ tỉ, chuyện đã qua không ai nên để trong lòng, dẫu sao thì tôi cũng chưa chết.

Nàng cầm tay Chu Chỉ Nhược, hai người cùng ngồi xuống. Ân Ly vuốt lại mái tóc kể tiếp:

- Cô lấy kiếm vạch trên mặt tôi mấy nhát cũng không phải là không tốt. Mặt tôi vốn sưng vù, trúng kiếm rồi bao nhiêu máu độc chảy ra hết, vết sưng trên mặt dần dần xẹp đi.

Chu Chỉ Nhược thấy thế lòng thật vui mừng không biết nói sao cho phải. Trương Vô Kỵ đáp:

- Anh và nghĩa phụ, Chỉ Nhược còn ở lại trên đảo rất lâu. Châu Nhi, em ở trong mộ chui ra, sao không tìm đến bọn ta?

Ân Ly giận dữ đáp:

- Tôi không muốn gặp anh. Anh và Chu cô nương lúc ấy chàng chàng thiếp thiếp, nghe mà muốn lộn ruột. Hừ,

?Từ nay trở đi anh chỉ có yêu em hơn, chiều em hơn thôi. Hai đứa mình vợ chồng là một, lẽ nào anh lại còn chọc giận em?.

Nàng bắt chước giọng Trương Vô Kỵ nói mấy câu đó, rồi lại bắt chước Chu Chỉ Nhược trả lời:

- ?Nếu như em có làm điều gì sai lầm, đắc tội với anh, anh có đánh em, mắng em, giết em không? Em từ nhỏ không được cha mẹ dạy dỗ, không khỏi có lúc hồ đồ?.

Ân Ly tằng hắng một tiếng, lại bắt chước giọng nam ồm ồm nói:

- ?Chỉ Nhược, em là vợ yêu quí của anh dẫu có sai sót điều gì anh cũng không nói nặng em nửa câu đâu.?

Nàng chỉ tay lên vầng trăng đang ở phía tây nói:

- ?Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta?.

Thì ra đêm hôm đó Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược sau khi đã đính ước rồi nói với nhau những gì, Ân Ly đều nghe thấy hết, lúc này kể lại một lượt khiến cho Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, Trương Vô Kỵ cũng sượng sùng ngượng nghịu. Chàng lén liếc Triệu Mẫn một cái, thấy nàng giận đến mặt trắng bệch nên đưa tay sang nắm cổ tay nàng. Triệu Mẫn lật tay một cái, hai móng tay dài cấu vào lưng bàn tay chàng. Trương Vô Kỵ đau điếng nhưng không dám kêu lên thành tiếng, cũng không dám động đậy.

Ân Ly đưa tay vào bọc, lấy ra một thanh gỗ, vứt vào trước mặt Trương Vô Kỵ nói:

- Anh nhìn cho rõ xem đây là cái gì?

Trương Vô Kỵ vừa thoạt nhìn, thấy có khắc một hàng chữ: ?Ái thê Châu Nhi Ân Ly chi mộ. Trương Vô Kỵ cẩn lập? chính là tấm bia gỗ chàng đã dựng nơi mộ của Ân Ly. Ân Ly hậm hực nói:

- Tôi từ trong một bò ra, thấy thanh gỗ này chẳng hiểu ra sao? Tên lang tâm đoản mệnh Trương Vô Kỵ nào đây? Tôi suy nghĩ mãi không hiểu được, mãi sau nghe lén hai người này nói chuyện ?Vô Kỵ ca ca? này, ?Vô Kỵ ca ca? nọ mới chợt hiểu ra. Thì ra Trương Vô Kỵ chính là Tăng A Ngưu, Tăng A Ngưu chính là Trương Vô Kỵ. Ngươi là tên vô lương tâm lừa dối ta đến nỗi này!

Nói xong giơ thanh gỗ lên đánh mạnh xuống đầu Trương Vô Kỵ, nghe cạch một tiếng gãy ra làm mấy mảnh văng tung tóe. Triệu Mẫn giận dữ nói:

- Cái gì mà cứ động một tí là đánh người ta?

Ân Ly cười khanh khách nói:

- Tôi đánh y thì đã sao nào? Cô đau lòng lắm phải không?

Triệu Mẫn mặt đỏ lên nói:

- Đó là anh ấy nhường nhịn cô, cô đừng có lấn lướt.

Ân Ly cười nói:

- Cái gì mà lấn lướt? Cô cứ yên tâm, tôi không có tranh giành cái tên xú bát quái này với cô đâu, tôi chỉ một lòng một dạ thương yêu một người, là thằng bé Trương Vô Kỵ đã cắn chảy máu tay tôi nơi Hồ Điệp Cốc. Còn tên quái trước mặt tôi đây, gọi y là Tăng A Ngưu cũng thế, gọi y là Trương Vô Kỵ cũng thế, tôi chẳng yêu thương một tí nào.

Nàng quay đầu qua nhỏ nhẹ nói với Trương Vô Kỵ:

- A Ngưu ca ca, anh trước sau đối với em thật tốt, em thật là cảm kích. Thế nhưng lòng em đã sớm trao cho tên lang tâm hung ác tiểu Trương Vô Kỵ kia rồi. Anh không phải là y, không, không phải là y ...

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ lùng nói:

- Chính anh là Trương Vô Kỵ, sao lại ... sao lại ...

Ân Ly dịu dàng nhìn chàng, ngơ ngẩn một hồi, ánh mắt thần tình biến đổi sau cùng lắc đầu nói:

- A Ngưu ca ca, anh không hiểu gì cả. Nơi sa mạc bên Tây Vực, em với anh đồng sinh cộng tử, ở nơi hòn đảo trên biển cả, anh đối với em hết lòng hết dạ. Anh là người tốt bụng nhưng em đã nói với anh rồi, lòng em sớm trao cho tên Trương Vô Kỵ. Em sẽ đi tìm y, nếu em tìm được anh thử nghĩ xem y có đánh em, chửi em, cắn em không?

Nàng nói xong không đợi cho Trương Vô Kỵ trả lời, quay mình lặng lẽ đi thẳng. Trương Vô Kỵ bấy giờ mới biết, người mà nàng thực bụng yêu thương là một tên Trương Vô Kỵ tưởng tượng trong tim, là tên Trương Vô Kỵ nàng nhớ trong đầu từng gặp nơi Hồ Điệp Cốc, đã từng đánh nàng cắn nàng, một tên Trương Vô Kỵ ngang bướng hung hăng, chứ không phải Trương Vô Kỵ đàng hoàng chân chính, nhân hậu khoan thứ nay đã trưởng thành ngay trước mặt nàng.

Trong lòng chàng ba phần thương xót, ba phần lưu luyến, lại thêm ba phần an ủi, nhìn theo bóng lưng nàng khuất dần trong bóng đêm. Chàng biết Ân Ly chỉ nhớ tới đứa trẻ bạo tợn trong Hồ Điệp Cốc lúc nào cũng chỉ muốn đi tìm y. Lẽ dĩ nhiên nàng làm sao tìm thấy được nhưng cũng có thể nói, nàng đã tìm ra rồi vì thiếu niên đó đã mãi mãi nằm sâu trong đáy lòng. Người thực việc thực làm sao có thể bằng được bóng hình đang ở trong tim?

Chu Chỉ Nhược thở dài một tiếng nói:

- Cũng chẳng qua lỗi tại em, làm cho nàng bây giờ thành khùng khùng điên điên như vậy.

Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại nghĩ: ?Quả nàng có phần hơi dở hơi thật nhưng đó chính là lỗi ở ta. Thế nhưng so với con người đầu óc tỉnh táo, chắc gì đã sướng hơn nàng??.

Triệu Mẫn trong đầu lại nghĩ đến một chuyện khác. Ân Ly đến rồi lại đi, còn Chu Chỉ Nhược thì sao? Nếu Ân Ly không chết, Tạ Tốn cũng bình an vô sự, võ công trong kiếm Ỷ Thiên, binh thư trong đao Đồ Long luôn cả thanh đao nữa nay cũng đã thuộc về Trương Vô Kỵ rồi, những tội lỗi mà Chu Chỉ Nhược phạm phải nay xem ra cũng chẳng có gì ghê gớm nữa. Dĩ nhiên Tống Thanh Thư vì nàng mà giết chết Mạc Thanh Cốc nhưng đó là tội của riêng Tống Thanh Thư, việc đó Chu Chỉ Nhược không dính líu tới, cũng chẳng xúi bẩy gì. Trương Vô Kỵ đã từng có ước định hôn nhân với cô ta, mà chàng nào có phải là người không giữ lời, tuyệt tình tuyệt nghĩa được.

Chu Chỉ Nhược đứng lên nói:

- Thôi mình đi chứ?

Triệu Mẫn hỏi lại:

- Đi đâu?

Chu Chỉ Nhược đáp:

- Lúc tôi ở trong chùa Thiếu Lâm có thấy Bành Oánh Ngọc hòa thượng lật đật đi kiếm anh, dường như có chuyện gì khẩn cấp trong Minh Giáo.

Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm: ?Ta không thể vì chuyện nhi nữ thường tình làm hỏng đại sự của Minh Giáo?. Chàng vội nói:

- Vậy mình mau đến coi.

Ba người liền rảo bước ra đi, chẳng mấy chốc đã đến nơi doanh trướng đóng quân của Minh Giáo. Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Oánh Ngọc đang nóng ruột sai người đi khắp nơi kiếm giáo chủ, thấy chàng trở về, ai nấy vui mừng, nhưng lại thấy thêm Triệu Chu hai nàng cùng đi không khỏi ngạc nhiên.

Trương Vô Kỵ thấy mọi người mặt mày ủ rũ, xem chừng có chuyện không hay, vội hỏi:

- Bành đại sư, ông có chuyện kiếm tôi chăng?

Bành Oánh Ngọc chưa kịp trả lời, Chu Chỉ Nhược đã nắm tay Triệu Mẫn nói:

- Thôi mình ra bên kia ngồi chơi.

Triệu Mẫn biết nàng tránh không muốn nghe chuyện bí mật của Minh Giáo nên hai người cùng sóng bước đi ra. Dương Tiêu, Phạm Dao cả bọn thấy vậy cũng thật kỳ lạ, nghĩ thầm: ?Hôm làm lễ cưới ở Hào Châu, hai vị cô nương này đánh nhau một trận thật là long trời lở đất, lúc này sao lại thân mật như chị với em, không biết giáo chủ làm cách nào mà giảng hòa cho hai người được, đúng là có tài thì làm gì cũng khéo, môn Càn Khôn Đại Na Di công phu này thật đáng nể quá?.

Bành Oánh Ngọc đợi cho Triệu Chu hai nàng đi rồi mới nói:

- Khải bẩm giáo chủ, bên mình thua một trận lớn ở Hào Châu, Hàn Sơn Đồng Hàn huynh tuẫn nạn rồi.

Trương Vô Kỵ đau đớn kêu lên:

- Ối trời!

Bành Oánh Ngọc nói tiếp:

- Hiện nay quân vụ nơi Hoài Tứ, do Chu Nguyên Chương huynh đệ chỉ huy. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai huynh đệ nghe được tin đó, đã dẫn binh đến ứng viện, cả Hàn Lâm Nhi cũng đi theo. Việc khẩn cấp quá nên không kịp đợi lệnh của giáo chủ.

Trương Vô Kỵ đáp:

- Như thế là phải.

Đang lúc nghị luận tình hình, Ân Dã Vương hấp tấp chạy vào nói:

- Khải bẩm giáo chủ, Cái Bang có người đến báo tin đã tìm ra được tung tích của Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

- Ở đâu thế?

Ân Dã Vương đáp:

- Tên khốn kiếp đó trà trộn vào làm bộ hạ của Từ Thọ Huy huynh đệ trong bản giáo, nghe nói Từ huynh đệ tin dùng y lắm.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm nói:

- Nếu quả như thế mình không nên hành sự một cách vội vã. Thưa cậu, phiền cậu sai người thông tri cho Từ huynh, tên Trần Hữu Lượng đó thâm độc giảo quyệt lắm, để y ở gần sẽ gây ra hậu hoạn, nhất quyết không nên thân cận làm gì.

Ân Dã Vương tuân lời nhưng lại nói thêm:

- Sao không một đao giết y đi cho xong, cứ để ta lo liệu.

Trương Vô Kỵ còn đang suy nghĩ bỗng có giáo chúng đưa đến một lá thư khẩn cấp của Từ Thọ Huy. Dương Tiêu nhíu màu nói:

- Hỏng rồi! Hỏng rồi! Lại để y đi trước một bước.

Trương Vô Kỵ mở thư ra coi qua, thì ra là tờ bẩm báo của Từ Thọ Huy nói rằng Trần Hữu Lượng trước kia có tội với giáo chủ, biết là lầm lỗi nên rất hối hận, hiện nay thành tâm gia nhập bản giáo, quyết ý đoái công chuộc tội xin giáo chủ cho y một đường sống. Trương Vô Kỵ liền đưa cho Dương Tiêu, Ân Dã Vương cả bọn cùng coi.

Ân Dã Vương nói:

- Từ huynh đệ bị gã này lừa rồi thể nào về sau cũng có chuyện.

Dương Tiêu thở dài:

- Trần Hữu Lượng thật là âm hiểm nhưng nếu đem y giết đi thì người ta sẽ bảo mình hẹp hòi, trong bụng vẫn nhớ oán thù cũ, không có lượng bao dung khiến cho anh hùng thiên hạ e ngại.

Trương Vô Kỵ nói:

- Lời Dương tả sứ chí phải. Bành đại sư, ông cùng Từ huynh chơi thân với nhau, nhờ ông đến khuyên nhủ, cẩn thận đề phòng, đừng giao binh mã đại quyền cho y.

Bành Oánh Ngọc vâng lời. Ngờ đâu Từ Thọ Huy không nghe lời khuyên, cực kỳ tín nhiệm Trần Hữu Lượng, sau chết vì tay y. Trần Hữu Lượng thống suất bốn lộ nghĩa quân của Minh Giáo, tự xưng là Hán Vương, tranh đoạt thiên hạ với nghĩa quân Đông lộ, cho tới trận đại chiến nơi hồ Bà Dương[5] mới thua trận chết. Trong mấy năm liền y gây ra biết bao nhiêu tội lỗi khiến cho anh hùng hào kiệt trong Minh Giáo tử thương rất nhiều.

Đêm hôm đó Trương Vô Kỵ cùng bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc bàn luận, phân phối binh lính đi các nơi tiếp ứng. Đến khi hội nghị đã xong thì đã khuya. Sáng hôm sau Triệu Mẫn nói:

- Chu tỉ tỉ đêm hôm qua đã ra đi, không kịp từ biệt chàng.

Trương Vô Kỵ bồi hồi, nghĩ lại đã lâu không về thăm Trương Tam Phong, bây giờ nhớ nhung nên cùng Triệu Mẫn, Tống Thanh Thư, Du Liên Châu cùng về núi Võ Đương.

Núi Thiếu Thất không xa núi Võ Đương bao nhiêu, chỉ vài ngày đã đến. Trương Vô Kỵ theo Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình vào bái kiến Trương Tam Phong, rồi qua thăm Tống Viễn Kiều và Du Đại Nham.

Tống Viễn Kiều nghe nói con mình đang ở bên ngoài, mặt tím lại, tay cầm trường kiếm chạy vụt ra. Trương Vô Kỵ cả bọn biết có khuyên giải cũng không xong, không khuyên cũng không được nên cùng theo ra ngoài đại sảnh. Trương Tam Phong cũng ra theo.

Tống Viễn Kiều quát lớn:

- Tên súc sinh bất hiếu khốn kiếp đâu rồi?

Ông trông thấy Tống Thanh Thư nằm trên cáng, đầu quấn đầy băng vải trắng, đến mắt cũng che kín mít liền nhắm ngay người y đâm thẳng trường kiếm ra, nhưng nửa chừng tay chùn lại không đâm nổi. Trong một thoáng, ông nghĩ đến tình cha con, nghĩa đồng môn, trong lòng ngổn ngang trăm mối, xoay kiếm lại đâm thẳng vào bụng mình.

Trương Vô Kỵ vội vàng giơ tay ra đoạt thanh kiếm trong tay Tống Viễn Kiều, khuyên:

- Đại sư bá, chớ có như thế. Việc này giải quyết ra sao, để xin thái sư phụ dạy bảo.

Trương Tam Phong thở dài:

- Phái Võ Đương chúng ta có một đứa đệ tử chẳng ra gì, Viễn Kiều, chẳng phải mình con bất hạnh. Cái thứ nghịch tử này, có cũng như không!

Ông đẩy chưởng phải ra, nghe bộp một tiếng đánh ngay vào ngực Tống Thanh Thư khiến cho tạng phủ vỡ nát chết ngay. Tống Viễn Kiều quì xuống khóc nói:

- Sư phụ, đệ tử không biết dạy con, để lụy thất đệ phải chết dưới tay y. Đệ tử đối với lão nhân gia và thất đệ biết thế nào cho phải đây?

Trương Tam Phong giơ tay đỡ học trò dậy nói:

- Việc này con quả có sai lầm, chức vị chưởng môn bản phái, từ hôm nay do Du Liên Châu tiếp nhiệm. Con chuyên tâm nghiên cứu cho tinh vi thái cực quyền pháp, còn tục vụ chưởng môn không cần phải lo tới làm gì.

Tống Viễn Kiều bái tạ phụng mệnh. Du Liên Châu từ chối không nhận song Trương Tam Phong cương quyết giao cho nên đành bái lãnh.

Mọi người thấy Trương Tam Phong đánh chết Tống Thanh Thư, cách chức Tống Viễn Kiều, qui môn nghiêm nhặt như thế trong lòng ai nấy kinh hãi. Trương Tam Phong lại hỏi tình hình anh hùng đại hội ra sao, nghĩa quân kháng Nguyên thế nào, đối với Trương Vô Kỵ càng thêm ân cần.

Triệu Mẫn đi tới khấu đầu trước Trương Tam Phong, tạ tội năm xưa vô lễ. Trương Tam Phong cười khà khà, tuyệt nhiên không để bụng. Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn bỏ mình cũng toàn do những thủ hạ cũ của cô ta như A Đại, A Nhị mà ra, nhưng khi đó Triệu Mẫn chưa ra đời, không thể nào trách nàng được. Trương Tam Phong biết được nàng cam tâm chống lại cha anh để đi theo Trương Vô Kỵ bèn cười:

- Hay lắm, hay lắm! Thật khó lắm thay, thật khó lắm thay.

Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương cùng Trương Tam Phong tụ hội mấy ngày rồi cùng Triệu Mẫn trở về Hào Châu. Trên đường đi chỗ nào cũng nghe tin quân bản giáo thắng trận, lại nghe đâu đâu cũng đang nổi lên, Cô Tô có Trương Sĩ Thành, Đài Châu có Phương Quốc Trân, tuy không thuộc Minh Giáo nhưng cũng đều là các lực lượng kháng Nguyên, Trương Vô Kỵ trong lòng rất đỗi vui mừng, cùng Triệu Mẫn ngày đêm chạy về hướng đông, trước mắt sơn hà chẳng mấy chốc khôi phục được, mong sao thiên hạ thái bình, trăm họ an cư lạc nghiệp, không uổng mấy năm nay vào sinh ra tử, lo lắng ngược xuôi.

Chành không muốn kinh động anh em nên trên đường không gặp gỡ các tướng lãnh nghĩa quân, chỉ ngầm dò hỏi thấy nghĩa quân kỷ luật nghiêm minh, không quấy nhiễu bách tính đâu đâu cũng ca tụng nguyên soái Chu Nguyên Chương và đại tướng quân Từ Đạt.

Hôm đó chàng đến bên ngoài thành Hào Châu, Chu Nguyên Chương được tin liền sai Thang Hòa, Đặng Dũ hai tướng đem quân ra nghênh đón, mời vào tân quán. Thanh Hòa bẩm:

- Chu nguyên soái và Từ đại tướng quân, Thường tướng quân đang lúc thương nghị quân tình khẩn cấp, nghe tin giáo chủ đến nơi, thật mừng quá đỗi. Có điều quân vụ cần kíp, không tự mình ra đón được, xin giáo chủ tha cho cái tội không cung kính.

Trương Vô Kỵ cười nói:

- Chúng ta anh em cả, sao còn hiềm chuyện hư văn đón đưa? Việc quân mới là quan trọng.

Tối hôm đó ở tân quán bày đại tiệc, hai tướng Thang Hòa, Đặng Dũ ngồi tiếp. Rượu được ba tuần, Chu Nguyên Chương cùng đại tướng Hoa Vân lật đật chạy đến, trước bàn quì phục xuống. Trương Vô Kỵ vội đỡ lên, Chu Nguyên Chương tự mình rót rượu, cung kính mời Trương Vô Kỵ uống đủ ba chén, chàng liền đưa lên uống cạn.

Chu Nguyên Chương lại mời Triệu Mẫn, Triệu Mẫn cũng uống ngay. Trên bàn rượu nói chuyện quân tình các nơi, Chu Nguyên Chương bẩm lại việc đánh thành chiếm đất các chiến tích thế nào, ngôn ngữ có phần đắc ý, Trương Vô Kỵ hết sức khen ngợi.

Còn đang truyện trò, đại tướng Liêu Vĩnh Trung hùng hổ tiến vào trong phòng, bái kiến giáo chủ xong ghé tai nói nhỏ với Chu Nguyên Chương:

- Bắt được rồi!

Chu Nguyên Chương đáp:

- Hay lắm!

Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người kêu lên:

- Oan ta quá! Oan ta quá!

Trương Vô Kỵ nghe tiếng người kêu oan chính là Hàn Lâm Nhi, lạ lùng hỏi:

- Có phải Hàn huynh đệ đó chăng? Chuyện gì thế?

Chu Nguyên Chương đáp:

- Khải bẩm giáo chủ, tên Hàn Lâm Nhi cấu kết với Thát tử, toan tính chuyện nội ứng ngoại hợp, phản lại bản giáo.

Trương Vô Kỵ kinh hãi nói:

- Hàn huynh đệ trung thành nhân nghĩa, làm sao có chuyện đó được? Mau đem y vào đây, để chính ta hỏi y xem nào ...

Nói chưa dứt lời, bỗng thấy đầu váng mắt hoa, trời đất như đổ sụp xuống, hôn mê không còn biết gì nữa. Tới khi tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thấy chân tay mình đã bị trói chặt bằng dây thừng, nhìn ra chỉ thấy tối đen, chàng kinh hãi không để đâu cho hết. Cũng may chàng còn thấy một thân hình mềm mại tựa vào ngực mình, thì ra Triệu Mẫn và chàng bị trói chung một chỗ, nhưng nàng vẫn còn chưa tỉnh.

Chàng suy nghĩ biết ngay Chu Nguyên Chương có gian ý, hẳn là y nghĩ Minh Giáo mai sau thành công, Trương Vô Kỵ đương nhiên sẽ trở thành hoàng đế thành thử bỏ thuốc mê cực mạnh vào trong rượu tìm cách ám hại chàng. Trương Vô Kỵ thử vận khí thấy trong người không có gì khác lạ, công lực không mất, trong bụng cười thầm: ?Mấy sợi dây này tưởng trói nổi ta sao, đâu có dễ thế ! Lúc này Mẫn muội chưa tỉnh, chưa cần đi vội. Đợi đến khi trời sáng, trước mặt các giáo chúng ta sẽ nói huỵch toẹt gian mưu của y cho mọi người hay?. Nghĩ như thế chàng lặng lẽ dưỡng thần.

Khoảng hơn một giờ sau, bỗng nghe tiếng mấy người đi đến phòng bên cạnh, bắt đầu nói chuyện, nghe thanh âm thì là Chu Nguyên Chương, Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân ba người.

Chàng nghe Chu Nguyên Chương nói:

- Người này bội phản bản giáo, đầu hàng Nguyên triều, chứng cứ đã rành rành không còn nghi ngờ gì nữa khiến ai nấy đều căm hận. Hai vị huynh đệ nghĩ xem mình phải làm thế nào?

Y không đợi Từ Thường hai người trả lời lại nói liền:

- Người đó tai mắt nhiều lắm, trong quân chỗ nào cũng có kẻ tâm phúc của y, mình chẳng nên nói đến tên y làm gì.

Lại nghe Từ Đạt nói:

- Chu đại ca, muốn thành đại sự không nên nề tiểu tiết, đã nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ để khỏi sinh ra hậu hoạn.

Chu Nguyên Chương đáp:

- Thế nhưng tên tiểu tặc này là thủ lãnh bọn ta, chúng ta chớ có vong ân phụ nghĩa. Cơ nghiệp này nói đúng ra chính là của y.

Thường Ngộ Xuân đáp:

- Nếu đại ca sợ giết y trong quân sẽ sinh biến thì mình cứ lẳng lặng ra tay, khỏi phải mang tiếng cho đại ca.

Chu Nguyên Chương trầm ngâm một lát rồi nói:

- Từ Thường hai huynh đệ đã nói thế thì cứ thế mà làm. Có điều tiểu tặc này bình thời cũng có đôi chút ân đức với anh em trong bản giáo, hai vị huynh đệ lại vốn thân thiết cùng y, việc này chớ để tiết lộ ra ngoài. Ôi, hôm nay anh em mình định giết y, trong lòng thật là đau đớn.

Từ Thường hai người cùng nói:

- Vì phục quốc đại nghiệp, chuyện giao thiệp bằng hữu riêng tư không thể chu toàn được.

Ba người nói chuyện xong cùng ra khỏi phòng. Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận thần công lên bứt đứt giây trói, ôm Triệu Mẫn lặng lẽ vượt tường mà ra. Chàng đứng trên bờ thành trong lòng không khỏi mang mang: ?Gã Chu Nguyên Chương kia vong ân phụ nghĩa thì đã đành. Từ Thường hai vị đại ca tình nghĩa với mình như thế, cũng chỉ vì mưu đồ phú quí mà cũng phản ta. Ba người đó đang nắm giữ nhiệm vụ quan trọng trong nghĩa quân, nếu ta đánh cho mỗi người một chưởng giết họ, e rằng nghĩa quân sẽ tan vỡ. Trương Vô Kỵ này vốn dĩ chẳng ham danh vị, Từ đại ca, Thường đại ca, hai người coi ta nhẹ quá?.

Chàng trầm ngâm một hồi ôm Triệu Mẫn lặng lẽ bỏ đi. Ra khỏi thành rồi, chàng viết một phong thư, nhường chức vị giáo chủ Minh Giáo cho Dương Tiêu nhưng không đề cập chút nào chuyện trong thành Hào Châu.

Trương Vô Kỵ nào có biết đâu, tên tiểu tặc mà Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đề cập đến là để chỉ Hàn Lâm Nhi, việc Trương Vô Kỵ đến Hào Châu hai người tuyệt nhiên không hay biết gì cả, mọi việc đều do Chu Nguyên Chương ngầm sắp đặt, cốt để khích cho Trương Vô Kỵ chán chường, thất vọng. Chu Nguyên Chương vốn dĩ e ngại thần dũng của Trương Vô Kỵ, lại thêm chàng là giáo chủ bản giáo, ai nấy đều kính phục, muốn giết chàng thì không dám, thành sự thì không nói gì, lỡ chuyện lộ ra hậu quả không biết thế nào. Y biết Trương Vô Kỵ chỉ coi việc phục quốc đại sự là trọng, đối với Từ Thường hai người thật chẳng khác gì anh em, chỉ cần để cho chàng nghe được câu chuyện ắt sẽ bỏ đi.

Quả nhiên mọi sự hoàn toàn như y tính toán, Trương Vô Kỵ võ công tuy vô địch nhưng mưu trí thì kém Chu Nguyên Chương xa nên bị rơi vào gian mưu của kẻ kiêu hùng. Mặc dù chàng chưa từng mơ tưởng được lên làm hoàng đế nhưng mỗi lần nghĩ đến Từ Thường hai người coi ân nghĩa nhẹ như thế trong lòng không khỏi uất ức khôn nguôi.

Còn như chuyện Hàn Lâm Nhi cấu kết với người Mông Cổ, đồ mưu phản bội vân vân cũng đều do y vu hãm. Sau khi Hàn Sơn Đồng chết đi, trong quân tôn Hàn Lâm Nhi lên làm chủ, Chu, Từ, Thường mọi người đều trở thành bộ thuộc của y. Chu Nguyên Chương giả một lá thư do chính Hàn Lâm Nhi viết thông đồng với địch, rồi đem tiền bạc đút lót cho người thân tín của y cáo mật cho Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Từ Thường hai người tin tưởng ngay nhất định đòi giết cho bằng được. Chu Nguyên Chương lại còn giả nhân giả nghĩa nhất định không chịu mãi đến khi Từ Thường hai người nói đi nói lại mãi mới đành bằng lòng.

Y đem Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn giam ngay ở phòng bên cạnh, liệu chừng võ công như chàng muốn bứt đứt giây trói thật dễ như trở bàn tay, lại sợ chàng thoát thân rồi sẽ tìm cách trả thù nên sau khi nói chuyện với Từ Thường hai người xong liền trốn biệt. Trương Vô Kỵ đi rồi, Chu Nguyên Chương liền sai Liêu Vĩnh Trung đem Hàn Lâm Nhi ra sông trấn nước chết, cái kế một mũi tên bắn hai con chim đó không lộ chút sơ hở nào.

Về sau Dương Tiêu tuy kế nhiệm chức vụ giáo chủ Minh Giáo nhưng Chu Nguyên Chương đã đủ lông đủ cánh, dưới tay có cả trăm vạn hùng binh, Dương Tiêu tuổi già kém đức làm sao có thể tranh ngôi hoàng đế với y được. Chu Nguyên Chương lên ngôi xong, lại giở thủ đoạn nghiêm cấm Minh Giáo, đem tất cả những anh em trong Minh Giáo từng lập đại công giết cho kỳ hết. Thường Ngộ Xuân bị bệnh chết sớm, còn Từ Đạt cũng không qua khỏi kiếp nạn.

*

*??????? *

Triệu Mẫn thấy Trương Vô Kỵ viết thư cho Dương Tiêu xong, tay còn cầm cây bút lông chưa để xuống, vẻ mặt không vui liền nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng đáp lời làm cho em ba việc, việc thứ nhất là đi mượn thanh đao Đồ Long, việc thứ hai là hôm đó ở Hào Châu không được thành hôn với Chu tỉ tỉ, hai việc coi như đã xong rồi. Còn việc thứ ba, hừ, chàng không được nói rồi nuốt lời đấy nhé.

Trương Vô Kỵ hoảng hốt lắp bắp hỏi lại:

- Em ... em ... em lại có trò tinh quái gì bắt anh làm đây ...

Triệu Mẫn cười tủm tỉm, nói:

- Lông mày em nhạt quá, chàng vẽ lại cho em đi. Chuyện này có gì vi phạm đạo hiệp nghĩa trong võ lâm chăng?

Trương Vô Kỵ cầm bút lên, cười nói:

- Từ nay trở đi, anh sẽ ngày ngày vẽ lông mày cho em.

Bỗng từ ngoài cửa sổ có tiếng ai đó cười khúc khích, nói:

- Vô Kỵ ca ca, chàng cũng đã bằng lòng làm cho em một chuyện nữa đó.

Chính là tiếng của Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ chăm chú viết thư, đâu có biết nàng đã ở ngoài song cửa từ bao giờ. Cánh cửa từ từ mở ra, khuôn mặt xinh tươi cười nửa miệng của Chu Chỉ Nhược thấp thoáng dưới ánh đèn, Trương Vô Kỵ giật mình:

- Em ... em ... cũng lại đòi anh cái gì nữa đây?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

- Lúc này thiếp chưa nghĩ ra, biết đâu hôm chàng bái đường thành thân với Triệu gia muội tử thiếp lại nghĩ ra không chừng.

Trương Vô Kỵ quay đầu lại nhìn Triệu Mẫn, lại quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, trong đầu ngổn ngang trăm mối chẳng biết nên mừng hay lo, buông cây bút rơi cạch xuống bàn.

HẾT

[1] Hai câu này lấy từ kệ của Đạo Hạnh thiền sư (đời Lý): Tác hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không.

[2] Quân bị vây khốn nơi núi Ngưu Đầu

[3] (tức 1368 ? 1644TL). Có thể việc này Kim Dung tiểu thuyết hóa dựa trên một nghiên cứu của Wu Han trong một bài viết nhan đề Minh giáo dữ Đại Minh đế quốc ? Manicheism and the Ming empire trong Tu-shih cha-chi, Peking 1961, tr 267 (trích lại theo John W. Dardess trong bài The Transformations of Messianic Revolt and the Founding of the Ming Dynasty, Journal of Asian Studies, V. 29, N. 3, tháng 5, 1970).

Hai nghi vấn:

- Nhà Minh có phải do Minh giáo mà ra không?

- Trần Hữu Lượng có phải hậu duệ của Trần Ích Tắc từ Việt Nam sang hàng Nguyên không?

Sẽ được trình bày trong Phụ Lục Cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên của Nguyễn Duy Chính.

[4] Sách vở chép thủ cung là một giống thạch sùng (còn có tên là yển đình, tích dịch) được nuôi bằng chu sa thân thể trở nên đỏ rực. Bao giờ ăn đủ bảy cân thì đem ra giã nát, đủ một vạn chày thành son đem chấm vào chi thể con gái nếu chưa thất thân thì sẽ suốt đời không phai. Vì thế nên gọi là thủ cung (giữ trinh tiết). Cái chấm đó gọi là thủ cung sa (Từ Nguyên ? Vương Vân Ngũ, Đài Loan thương vụ 1978, quyển thượng, trang 606) Người dịch chỉ tra trong sách vở, không khẳng định là có thật hay không, xin độc giả miễn chất vấn.

[5] Thuộc Giang Tây (xem thêm phụ lục về Cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro