fanficshare

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chỗ chỉ có một người

Everyone must love someone...

I.

Giữa tháng tư, Kame gọi điện cho tôi, thông báo rằng cậu ấy vừa dọn đến căn hộ mới gần ga tàu hoả Ashiya.

Trước đó, cậu ta sống ở khu chung cư nằm ở một quận trung tâm Tokyo, ra khỏi nhà đi năm phút sẽ tới rạp chiếu phim gần nhất, băng qua đường thì đến ngay một dãy cửa hàng tiện lợi mở cửa suốt 24 giờ trong ngày. Nếu muốn khuây khoả chút ít thì đã có quán bar ở ngay đại lộ bên cạnh. Thậm chí, từ cửa sổ phòng riêng ở tầng mười một nhìn ra còn thấy ngay con sông Sumiya trông như dải lụa màu xanh lam luôn luôn uốn lượn. 

Nếu bạn coi thường chi tiết về sông ngòi này, bạn sẽ phải hối hận. Cái quang cảnh ấy đáng giá một trăm năm mươi ngàn yên tiền thuê nhà mỗi tháng. Và nếu may mắn hơn nữa, chỉ cần hớ ra cho một tay khảo sát thị trường nào đó, cái bọn vẫn luôn nhan nhản trên đường phố Tokyo bất kể ngày đêm, rằng bạn đang sống ở một cái chung cư trung tâm có cửa sổ nhìn ra sông, trong vòng năm giây, bạn sẽ nghiễm nhiên thấy mình trở thành kẻ hạnh phúc nhất trên đời. Ảnh cận mặt bạn trong nụ cười toe toét ngớ ngẩn nào đó sẽ được trưng lên, cùng một bài phỏng vấn không dưới hai mươi dòng trong chuyên mục “đời sống quanh ta” ngay lập tức. Thế đấy! Khủng long đã tuyệt chủng có sống lại tôi cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên bằng việc tự nhiên Kame lại nghĩ đến việc chuyển nhà. Một tên con trai 23 tuổi đời có cuộc sống độc thân sung túc khiến bao người ghen tỵ như thế thì còn có thể không hài lòng ở điều gì nhỉ? 

Tuy thế, tháng tư năm đó, Kame thật sự đã dọn đi. Tôi là kẻ may mắn duy nhất được cậu ta báo tin cho biết. Ha, nếu cuộc gọi thật sự chỉ có như thế thì đời này quả thật quá lành. 

“Jin, chủ nhật tuần sau nếu rảnh rang thì mong anh vui lòng hạ cố đến giúp tôi một tay thu dọn đồ đạc.” Tiếng Kame vang lồng lộng trong ống nghe, tạo cảm giác cậu ta đang trong giai đoạn hoặc hứng khởi nhất hoặc lêu lổng nhất của cuộc đời mình. Cậu ta sử dụng kiểu nói kính ngữ nhà quê đặc trưng của người Tokyo với tôi. Thế nên, liệu tôi có quyền nghi ngờ rằng cậu ta đã nhớ tôi đến độ dù có phải chọc giận tôi cũng mong tôi đến gặp?

“Lý do cậu gọi cho tôi đấy hả?” Tôi hỏi lại, cố tình ngáp lớn thành tiếng trong ống nghe.

“Suỵt, bí mật nhé. Đừng nói cho ai biết đấy, đặc biệt là Maru-san.” 

”Vì sao nào?”

“Thì vì anh ấy sẽ đòi tôi tổ chức tiệc tân gia hay cái gì đấy đại loại thế để cả bọn được phen nhậu nhẹt bét nhè một trận ở nơi đó chứ còn gì nữa.” Tôi đoan chắc Kame đang vừa nhún vai vừa nói câu này. Mắt cậu ta sẽ liếc nhìn đi đâu đó nơi cùi chỏ bên tay trái, còn tay phải thì kéo quấy quá mấy nếp gấp trên áo như thể nó đang bám bụi tới nơi. Tôi chẳng lạ gì với cái kiểu lâu lâu lại cư xử như một thằng em út đầy nhạy cảm của cậu ta nữa.

“Tôi hiểu rồi, ra cậu là cái đồ keo kiệt. Cậu tiếc với anh em một bữa tiệc tân gia chứ gì?”

“Nhớ đến nhé Jin. Không cần mang ô tô đâu. Tất cả đồ đạc cồng kềnh đã có công ty vận chuyển lo rồi. Chỉ còn lại mấy thứ lặt vặt dành phần cho anh mà thôi.” Cậu ta nói, rồi cười một cách rất đắc ý trước khi gác máy. Tôi nghĩ không chừng mình nên cảm thấy hân hạnh vì đã được Kamenashi Kazuya ưu ái nhớ đến mà dành cho phần nhiệm vụ của một chân sai vặt trong công cuộc dọn nhà của cậu ta.

Ga Ashiya dường như nằm ở phía Đông Tokyo, là nơi xuất phát của những chuyến tàu xuôi về miền Nam. Trên bản đồ thành phố, nó là một điểm son đỏ chói bị bao vây bởi những dấu hiệu hình hộp đặc trưng của siêu thị, chung cư cho thuê và hàng hàng đường thẳng nhấp nhô chạy dài tượng trưng cho đồi núi hoặc những khu dân cư sinh sống. 

Các trang rao vặt trên báo không mấy mặn mà với khu vực này. Ấy thế mà giá cả cho thuê vẫn đắt một cách đáng ngạc nhiên. Hơn ba trăm ngàn yên tiền cọc cho ba tháng thuê và giá thuê hàng tháng không dưới một trăm năm mươi ngàn. Tôi không biết Kame hứng thú với ga Ashiya ở điểm nào. Những chuyến tàu luôn đến và rời đi trong mớ âm thanh va nhau rầm rập giữa đường ray và bánh xe sắt. Chưa kể, sống gần một nơi mà sự ra đi luôn cận kề bên cạnh như vậy, bạn sẽ rất dễ mất phương hướng và không hiểu rõ bản thân đang tìm kiếm điều gì. Một kẻ nhạy cảm như Kame lẽ ra càng nên hiểu rõ đó không phải là nơi dành cho cậu ta.

Năm phút sau khi gác máy, tôi thôi suy nghĩ, bỏ một đĩa nhạc vào máy rồi đi vào bếp, tự tay chế biến một món sinh tố trái cây tươi cho mình. Ánh thép từ lưỡi dao toả ra trắng lạnh, khi chạm vào mặt thớt lại phát ra âm thanh cạch cạch rất giống tiếng đặt quân bài mạt chược. Ngậm một cái thìa inox đậm mùi dưa hấu trong miệng, tôi ngó lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Mây trắng xếp thành những lớp dày, nằm yên lặng bên nhau trên bầu trời của thành phố. Dãy toà cao ốc xa xa trông như những mô hình xếp tay bằng giấy, nhô gương mặt buồn thảm của chúng về phía tôi. Máy xay vẫn chuyển động trong im lặng, từ tốn nghiền nát từng mẩu nhỏ nguyên liệu lúc đầu. 

Ở Shinjuku, hình như có chỗ bán máy ảnh chỉ với giá 500 yên.

~*~

Tôi nhớ rõ những căn hộ của Kamenashi. Cậu ta từ sau khi ra ở riêng, thoát khỏi sự ràng buộc và gò bó của gia đình, đã chuyển qua tất cả ba căn hộ.

Căn đầu tiên là do Ueda giới thiệu. Chủ nhà là bạn học thời cao trung của Tatchan. Vì nể tình bạn cũ mà lấy giá rẻ như bèo, chỉ ba mươi lăm ngàn yên một tháng, còn khuyến mãi cho một bộ bàn ghế ăn cơm làm bằng gỗ. Trên mặt bàn đầy những vết cứa của dao rọc giấy, tạo thành hình những cánh buồm, mái nhà, diều gió, cả tháp Tokyo với tỉ lệ bé teo. 

Căn hộ chỉ có một phòng ngủ với chiếc giường đôi có ga trải màu trắng lác đác những cánh hoa sakura. Hình ảnh nữ tính đó có căn nguyên từ cô em họ của chủ nhà, lúc trước từng sống qua ở nơi đây, sau đã chuyển đi Osaka vì một chàng trai nào đó. Bộ nhún lò xo của chiếc giường không tốt lắm. Chỉ một mình Kame và những cử động nhẹ nhàng của cậu ta thì chẳng việc gì. Nhưng thêm tôi vào, và những cuồng nhiệt không tên gọi xuất phát từ cả hai phía thì e rằng nó khó lòng trụ nổi. Tôi biết bạn hiểu tôi đang nói gì. Những kẻ yêu nhau trên Trái Đất này nhiều vô số. Chúng tôi chỉ là hai trong số đó. Và như mọi kẻ yêu nhau khác, chúng tôi không dừng lại ở những nụ hôn thông thường. Trong mắt chúng tôi, cơ thể đối phương chính là bí ẩn lớn nhất của tạo hoá. Phải tìm đường đập tan cái bí ẩn đó, lôi mọi thứ ra ngoài ánh sáng. Nói thế hình như hơi to tát, thôi thì, bạn hiểu đấy. Mọi việc ngoài thế ra còn có gì khó hiểu hơn nữa đâu.

Ở một khu phố yên tĩnh và văn minh khác, điểm cộng lớn nhất chính là những người láng giềng cực kỳ lịch sự và biết điều, cũng như ban công ở tầng hai nhìn thẳng về hướng Mặt Trời mọc, và sàn nhà lát bằng loại gỗ có khả năng điều chỉnh nhiệt độ theo mùa - nhả nhiệt trong mùa hè và toả ấm trong mùa đông. Nhờ thế mà những chiếc giường bốn chân cầu kỳ với bộ ra gối chăn hoàn chỉnh đều có thể vứt xó không cần dùng đến, chúng ta trở về với độ phẳng và mỏng tuyệt đối của chiếu tatami. 

Đó còn là một cảm giác bâng khuâng khó nói khi lưng ta cọ xát với sàn trong từng centimet, và trong mắt ta không gì khác hơn độ cao vừa phải của trần nhà ẩn hiện trong ánh sáng đùng đục của những buổi chiều áp thấp đe doạ bầu trời thành phố. Cũng như một kẻ khác đang ở trên tôi, mải mê tìm kiếm môi tôi. Một khoảnh khắc nào đó, vào lúc chân cậu ta miết một đường dài vô tình mà hữu ý từ những ngón chân lên tận khoảng giữa đùi tôi, mặt trời cuối ngày sẽ đột nhiên toả sáng huy hoàng. Khoảnh khắc ấy gợi nhớ nhiều đến lần đầu tiên tôi đi đến một lễ hội pháo hoa và ngẩn ngơ trước sự diệu kỳ của ánh sáng. 

Trong lúc đó, sự chuyển động liên tục nhưng chậm rãi và nhịp nhàng của những ngón tay, của mái tóc xoã, của khuôn ngực mà sự săn chắc và mềm mại bằng cách nào đó tồn tại song song và hoà quyện với nhau một cách tuyệt đối, vẫn diễn ra liên tục trên một bề mặt không phẳng là cơ thể tôi. Mắt tôi vẫn mở to, nhìn thấy một hoàng hôn đang xuống qua cửa sổ quên không khép, nơi chiếc chuông gió hoặc treo yên lặng hoặc loảng xoảng ngân nga trong sự vuốt ve của gió. Và rồi căn phòng dần dần tối đi. Chúng tôi ở bên trong nhau thời khắc đó. Kame luôn thở dốc, và cắn chặt môi dưới một cách đầy tội lỗi mỗi khi điều đó xảy ra. Đó là cách cậu ấy tỏ ra sự bất lực của bản thân mình. Nó cũng tựa như chúng ta cứ không ngừng làm dấu thánh giá và nguyện xin ơn Chúa tha thứ trước khi bắt đầu làm một điều gì đó phạm vào mười điều răn hoặc bảy sự cấm. 

Khi Kame dọn về căn hộ chung cư cao cấp ở khu trung tâm đó, trong một mùa hạ nhiều mưa và buồn chán nào đấy, cũng là lúc thời gian của chúng tôi không còn nhiều. Cách nói như thế sẽ gây ra những nhầm lẫn hết sức nghiêm trọng về khái niệm thời gian đối với một số người nhạy cảm và hay lo âu vớ vẩn. Cứ như một trong hai chúng tôi đã đến khám bác sĩ tuần trước và phát hiện ra mình mắc phải một căn bệnh mãn tính quái ác nào đó. Và rằng thì là không còn sống được bao lâu nữa, phải kiêng cữ những việc nặng, phải học cách trấn tĩnh tinh thần, nên hoà mình vào thiên nhiên. Tóm lại một tiếng, nếu có núi hãy lên núi tu thân, nếu có thiền hãy chuyên tâm dưỡng tính. Bắt đầu từ một căn bệnh nan nguy, khi kết thúc lại trở thành một đạo nhân miễn nhiễm hỉ nộ ái ố ở đời. 

Không phải như vậy. Chỉ đơn thuần trực cảm cho tôi biết, thời gian chúng tôi dành cho nhau đã quá nhiều. Đã vét sạch khoản thời gian dự trữ của mình để cho nhau, hòng mong tìm thấy một điều gì đó bền vững và trấn an được chính mình. Chúng ta cứ không ngừng tìm kiếm một ai đó thật sự dành cho mình. Tìm kiếm trên những con đường, tìm kiếm trong những cuộc hẹn, trong những chuyến tàu điện ngầm ngược xuôi trong thành phố. Tìm kiếm cả bằng thân thể của mình và bên trong cơ thể của nhau. Nếu điều vững bền đó không xuất hiện trước khi cả hai chúng tôi bắt đầu cảm thấy kiệt sức và rã rời đi, thì sẽ có thể rời khỏi nhau rất dễ dàng. Từ lúc bắt đầu, luật của cuộc chơi đã là như thế. 

Vì thế, ga Ashiya, nơi những chuyến tàu xuôi về Nam, nơi những ý muốn thật tâm đan nhau lẫn lộn, nơi có sẵn mọi điều kiện để một kẻ nào đó ra đi và biến mất, có lẽ mọi thứ cũng không khác gì.

~*~

“Đây. Nhờ anh hết đấy”. 

Sau khi tắt hết đèn, bóng tối lập tức tràn vào. Căn phòng trống toác bỗng nhiên biến thành một tiêu bản khó coi của hình ảnh con cá mập đang há to mồm chờ ngoạm lấy những con mồi xấu số dưới đáy sâu đại dương. 

Tôi ôm cái thùng catton quấn chằng chịt băng dán trên tay, bước vào thang máy phía sau Kame. Bên trong buồng thang máy, cậu ta đứng cách tôi một khoảng độ chiều dài một cánh tay, mặc một chiếc áo khoác màu vàng đất nhàn nhạt, bên trong là áo sơ mi cổ cao cùng một chiếc quần bò đơn giản bụi bặm. Một tay cậu ta đút sâu vào trong túi áo. Một tay đưa lên bảng điều khiển,ngón tay giữa đeo một chiếc nhẫn mặt trơn ấn vào nút thang máy. Tôi để ý thấy chiếc móng của ngón tay đó có màu hồng và thoang thoảng mùi mát lạnh đặc trưng của nước tẩy. Khi thang máy bắt đầu đi xuống, Kame quay sang tôi, mỉm cười. 

Dĩ nhiên là tôi có thể nhìn thấy Tokyo ở bên dưới. Thành phố sáng rực trong ánh đèn và nhộn nhịp bởi vô số hình khối cao thấp khác nhau của các toà kiến trúc cũng như công trình giao thông công cộng. Khi tôi đến nơi này, đã gần 12h đêm. Tôi nhớ đến cuộc hẹn trước đó ba mươi phút. Khi Pi đột nhiên quàng lấy vai tôi, trong cái vị say ngần ngật của bia Larger mà hỏi tôi rằng, “Shuuji-kun dạo này thế nào? Akira nhớ cậu ấy.”

“Cậu ta đang chuyển nhà…” Tôi thuận miệng đáp, đẩy đầu thằng bạn ra. Đầu lưỡi của cậu ta gần như chạm vào mặt tôi và cái cách những tia sáng trong mắt xoáy vào tôi một cách đầy khoái trá khiến tôi không ưa cho lắm.

“Ô ô, chuyển nhà à?”. Pi đập đập hai tay lên quầy bar, lè nhè lặp lại, như thể Shuuji-kun của cậu ta sắp đi lên cung trăng không bằng. “Ở đâu thế?”

“Tokyo.” Tôi đáp, phá ra cười.

“Ở đâu thế, ở đâu thế, Jin-kun?”. Giọng Pi dài ra. Tôi nhìn cậu ta trong năm giây, quyết định chốc nữa sẽ đẩy từ phía sau cho cậu ta té cầu thang rồi hô hoán lên rằng đó là một tai nạn do say xỉn.

“Câm đi, Yama P, không được gọi tôi như thế!”.

“Haha, Shuuji-kun chuyển nhà, chuyển nhà, chuyển nhà đến Tokyo, haha”. 

Khi cậu ta lải nhải câu đó đến lần thứ ba thì tôi mới nhớ ra rằng, mình đã có một cuộc hẹn với Kame. 

“Tôi đã uống bia, dĩ nhiên rồi, vì đi bar mà, nhưng không nhiều lắm”. Tôi quay sang Kame, vẫn ôm cái thùng ngu ngốc trước mặt, nói một cách nghiêm túc nhất tôi có thể. Sau vài giây yên lặng, chân mày Kame nhướn nhẹ, khoé miệng từ từ giãn ra một nụ cười, kiểu như, “tuyệt đấy Jin, cứ uống bia và quên phứt thằng này đi.”

“Không phải thế, tôi không quên phứt cậu, tôi vẫn nhớ rõ cậu đang chuyển nhà, bằng chứng là khi Pi hỏi tôi đã trả lời ngay mà không cần phải suy nghĩ giây nào”. Tôi vẫn ôn tồn nói.

Giờ thì Kame hơi nghiêng đầu tuy vẫn chưa quay mặt hẳn về phía tôi. Tay cậu ấy thọc sâu hơn vào túi áo. Mi mắt khẽ động đậy, và bặm chặt môi dưới như thể đang suy nghĩ điều gì lung lắm. Tôi đọc được ý nghĩa của toàn bộ những hành động đó. “Akanishi Jin quả nhiên là con người của đám đông và tiệc tùng?”

Có một cái dấu chấm hỏi to tướng đầy ý khẳng định nằm ở cuối dòng suy nghĩ của cậu ta.

“Không phải thế, chỉ vì Akanishi Jin là kẻ không chịu nổi buồn chán và cô đơn mà thôi. Cậu ta thích cái cảm giác ở giữa đám đông, núp giữa sự vui vẻ của họ, xem sự huyên náo đó cũng như của chính mình. Không phải ai cũng hiểu được điều này đâu. Đó giống như cậu là fan của đội Chicago Bulls nhưng do tình cờ hoặc nhầm lẫm, lại ngồi lẫn trong khán đài của fan đội Orlando Magic trong trận đấu quan trọng giữa hai bên. Khi đội Orlando Magic ghi điểm, cả đám người xung quanh cậu ồ ạt reo hò và sướng ngất ngây. Ống kính màn hình thấy nơi đó xôm tụ quá, liền lia vào, thế là khán giả xem qua màn ảnh sẽ vừa trầm trồ vừa chia vui với những con người đó. Và dù cho cậu có buồn bã cách mấy, nhưng vì ngồi đấy nên người ta vẫn sẽ nghĩ cậu đang sung sướng ngất ngây. Cậu được mặc nhiên gán cho trạng thái của bọn fan đội Orlando Magic. Cậu được mặc nhiên công nhận là một con người sung sướng. Vậy đó, Kame. Chỉ khác ở chỗ, tôi ngồi trong quán bar chứ không phải sân vận động.”

Thang máy vẫn đang trôi xuống. Tôi cũng đã khá say, nên tự dưng sinh ra cảm tưởng thang máy ở toà nhà này có khả năng lắc lư. Mặt sàn hơi chao đảo một chút nhưng lớp kính vẫn sáng bóng lên qua mỗi giây một, như mũi một chiếc giày Tây vừa đánh xong loại xi cao cấp nhất, bởi bàn tay tài ba nhất. Giải bóng rổ NBA tôi xem trên ti vi hôm tuần trước quả là một trận đấu loại trực tiếp giữa Chicago Bulls và Orlando Magic. Đến giờ ấn tượng về nó vẫn còn đọng lại trong đầu tôi. Những pha tung người bắt bóng bật bảng trên không, những cú lật tay trong tích tắc đưa bóng vào rổ, những cú ném xa ăn ba điểm cực gọn, rồi còn cả màn nhồi bóng sấm sét của những gã khổng lổ ngoại hạng làm bảng rổ thiếu điều muốn đổ sập. Mọi chi tiết đều hoàn hảo, chỉ duy nhất một điểm, Kamenashi, cậu ta là một fan cứng cựa của bóng chày!

Sau tất cả những gì tôi vừa nói, Kame không phản ứng gì. Cậu ta vờ như không nghe thấy, vẫn chỉ chăm chú nhìn lên bảng số chỉ tầng của thang máy.

“Kame, Kame, Kame-chan~” Đời nào tôi lại chịu bị lờ đi như thế.

“Ôi không…”. Cậu ta hơi nhăn mặt, rồi cứ lẩm bẩm cái gì đó trong miệng mình.

“Kazu-channnnnnn…”. Tôi học theo cái giọng điệu ngân nga của YamaP “Cậu bỏ mặc tôi!”

Im lặng một lúc, rồi Kame bật ra tiếng cười nho nhỏ, kiểu cười người ta chỉ tỏ ra khi buộc phải chịu thua một gã gàn dở ương bướng khó chìu nào đó. Hai tay vẫn đút sâu vào túi áo khoác, cậu ấy chậm rãi bước lại trước mặt tôi. Cách tôi một bước chân, cậu ấy ngừng lại. Mắt cậu ấy nhìn qua phải, rồi rất nhanh lại nhìn qua trái. Ngón tay cậu ấy động đậy khe khẽ trong túi áo. Tôi phát hiện ra sơ mi trắng không cài đến hai nút ở ngực. Màn hình đã hiện lên con số 5, thang máy sắp chạm đất, thời gian của cậu ta sắp hết rồi. 

“Này, hmm…”. Tôi gọi Kame, tựa mặt trên cái thùng catton nhìn chăm chăm vào cậu ấy. Phải làm cái gì đó đi chứ nhỉ, đúng không? Nhanh nhanh lên nào.

“…!”. 

Kame vẫn chỉ nhìn tôi. Bộ dạng sao mà nghiêm túc quá đi mất. Không lẽ đêm nay cả hai chúng tôi sẽ đứng trong cái thang máy này, hết đi lên lại đi xuống, chỉ để nhìn nhau như thế hay sao? Nhưng hai tay cậu ta đã rất nhanh rút ra khỏi túi áo. Và chiếc thùng catton trên tay tôi hạ cánh theo một phương xiên 45 độ xuống sàn, tiếp đất trong tư thế lăn lốc cùng một tràng âm thanh lạch cạch như thể một mê cung Domino vừa bị đổ sập. Mùi mát lạnh của nước tẩy lập tức áp sát tôi, tấn công trực tiếp khu vực khứu giác nhạy cảm, cực kỳ nhạy cảm của tôi. Tôi đảo mắt nhìn xuống để thấy gương mặt kề sát của Kame. Mũi chúng tôi chỉ cách nhau duy nhất hai centimet. Trong một tình cảnh như thế, con người đó vẫn biết cách chứng tỏ sự cầu toàn khó ưa của mình. Nhất định chỉ chịu hôn tôi sau khi đã cười xong cái điệu khiêu khích quen thuộc của mình.

Tiếng rên rỉ đầu tiên thoát ra khỏi cổ họng tôi, thoạt tiên là vì đôi chút sợ hãi, nhưng rồi ngay sau đó chính là vì chiếc lưỡi mềm mại và khéo léo của Kame. Sự tích cực của cậu ấy luôn gây cho bạn cảm giác được coi trọng, rằng nụ hôn với bạn là niềm mong muốn của cậu ấy. Và khi cậu ấy gia tăng sức ép cho khoang miệng của bạn bằng răng và lưỡi của mình, bạn sẽ nghĩ điều đó thật tự nhiên. Bạn sẽ nghĩ như thế mà không phát hiện ra rằng có một luồng hơi nóng đang dần được sinh ra và luân chuyển tự nhiên trong cơ thể bạn. Mọi tế bào bên trong bạn bắt đầu được đánh thức và chúng, với vẻ ngây thơ chân thành nhất, đòi hỏi được chạm vào và được ve vuốt bởi cậu ấy. Trong khi đó thì bạn vẫn đang hôn cậu ấy, mê say như vậy, đắm đuối đáng ngờ như vậy, hoặc là, tôi nên nói, bạn bị đặt vào trong trạng thái chủ động một cách bị động. Kết thúc sau cùng chỉ có một, bạn muốn cậu ấy, vì mọi thứ chẳng bao giờ chịu dừng lại ở một nụ hôn.

Tokyo bay lên rồi.

“Tôi cũng dọn đến ga Ashiya nhé.” Tôi mê mẩn nhìn gương mặt của cậu ấy sau khi hôn, thì thầm một cách dịu dàng.

“Tại sao?”. Kame ngẩng lên ngạc nhiên. Tay cậu ấy vẫn vờn vã cổ tôi.

“Tôi có tiền này, cả con dấu inkan cũng mang theo đây, tôi đi thuê nhà được mà.” Tôi cứ nói.

“Hết nhà trống rồi.” Kame đáp rất nhanh.

“Ai mà thèm quan tâm đến nhà trống chứ? Tôi ở cùng cậu.”

“Jin, không được.” 

Tôi ghét như thế. Câu trả lời bật ra nhanh như thể Kame chẳng phải tốn dù chỉ một giây để nghĩ về nó. Và cái cách cậu ấy để cho tên tôi thoát ra qua môi dưới của mình, dù chỉ trong một khoảnh khắc lơ đãng sau nụ hôn, vẫn chính xác là một tiếng thì thầm với cái kiểu cách của một kẻ quá nhạy cảm khiến tôi luôn luôn phải im bặt.

“Anh đang say đấy, nhớ không?” Sau câu nói đó, chúng tôi chính thức buông nhau ra. Kame đứng thần người một lúc, rồi cúi xuống nhặt chiếc thùng catton, lắc lắc nó mấy lượt trước khi nhét nó lại vào tay tôi. Cậu ấy không nhìn tôi, chỉ chùi mạnh môi mình trước khi quay mặt đi.

Sau đó, cửa thang máy mở, chúng tôi ra khỏi nó, băng qua đại lộ vắng tanh phía trước chung cư, xuống ga tàu điện, bắt chuyến cuối cùng trong ngày về ga Ashiya.

Khoang tàu chỉ có năm người khách tất cả, nhưng cả hai chúng tôi đều không ngồi. Tôi đứng đó, ôm chiếc thùng catton của Kame trước ngực, còn cậu ấy thì đứng tựa lưng vào tôi. Sức nặng của tấm lưng đó, khiến tôi trong cơn say mà nghĩ đến hình ảnh cuối cùng của bức tường Berlin trước khi sụp đổ.

II.

Đôi khi, tôi cảm thấy không thích Ueda Tatsuya. Dù anh ta có tình cờ là anh trai của Kame trong Touch đi nữa thì vẫn có những lúc tôi không thích con người này.

Không thích cái cách anh ta nhìn chúng tôi chăm chăm trong vài giây rồi trên môi nở ra một nụ cười trịch thượng của kẻ biết tỏng về mọi thứ. Không thích cái cách anh ta nhận ra sự mỏi mệt của Kame rồi để cho cậu ấy thoải mái tựa vai mình ngủ ngon lành trong suốt giờ giải lao giữa những buổi tập. Càng không thích cách Ueda thỉnh thoảng lại bỗng nhiên nói về trà đạo, kịch Noh, các phòng VIP trong những khu nhà nghỉ suối nước nóng ở Izu chỉ dành cho các đôi tình nhân có giấy chứng nhận đã yêu nhau từ năm năm trở lên (ở đâu ra cơ chứ?!!), hoặc là kinh nghiệm du lịch nước Anh, bí quyết để ăn được cà chua suốt bảy ngày trong tuần và luôn luôn ngủ đủ giấc tám tiếng một ngày.

Hay như lúc này đây.

“Kame lại chuyển nhà ha?”. Ueda nói, ngay cả nhìn tôi cũng không. Anh ta vừa chúi đầu vào tờ tạp chí Asahi Buổi Chiều vừa đi từng hai bậc một lên cầu thang.

Đó là một tờ tạp chí dành cho dân trí thức chán ngắt, đa phần giới thiệu những quyển sách nội văn hay, tuyên dương những gương mặt xuất sắc điển hình trong các lĩnh vực nghệ thuật. Trong số phát hành gần dịp lễ quốc khánh, nó còn có hẳn một loạt bài kêu gọi bảo tồn và phát triển những loại hình văn hoá lâu đời của Nhật Bản. Những trang quảng cáo thì đa phần đều đã đầy lịch từ trước nửa năm, thường thấy nhất vẫn là các mẩu quảng cáo đầy kính cẩn của các thương hiệu danh tiếng lâu đời. Đôi khi, cũng có những bài tản mạn về đề tài đời sống đô thị hay giới thiệu những quán bar, quán ăn thú vị ở Tokyo.

Tôi ậm ừ trong cổ họng, liếc xéo từ cái bìa giấy bóng sử dụng tông màu xanh nước biển chói mắt của tờ Asahi Buổi Chiều cho đến cái đuôi tóc đỏ quạch vừa mới nhuộm tuần trước của Ueda. Anh ta lại vừa đổi khuyên tai nữa. Một loại có đuôi dài, mảnh, làm bằng thứ bạc cao cấp luôn sáng loé lên mỗi khi đung đưa qua lại.

“Ở đâu thế?” Lại một câu hỏi không đầu không đuôi từ phía Ueda. Và tôi vẫn cứ tiếp tục ậm à ậm ừ.

Gần đến nơi thì anh ta đột nhiên gấp quyển tạp chí lại, dùng nó vỗ đánh bộp lên đầu tôi – con người tội nghiệp không kịp tránh vì ở dưới anh ta hai bậc thang.

“Akanishi Jin, chẳng phải tôi đã nói cậu đừng đề cập đến chuyện dọn đến sống chung với Kame trong lúc này rồi sao?”. Giọng nói thờ ơ của Ueda vang cao hơn thường ngày, có một sự phật ý rõ rệt trong đó.

“Lúc đó em hơi say một tẹo, và Kame thiệt trông quá sức yếu đuối khi đứng một mình trong thang máy lúc 12h đêm. Nếu không có em bên cạnh thì cậu ta đã là một đứa trẻ đáng thương phải chạy loanh quanh giữa những căn hộ với hàng tá thùng catton và đủ thứ tiền thuê ứng đau đầu rồi, anh biết đấy…”. Tôi tuôn ra một tràng dài, cố biện minh cho mình, liếc nhanh xuống chân. 

“Từ bao giờ chàng trai sexy nhất và baka nhất của chúng ta trở nên uỷ mị như thế này vậy trời?”

Sau khi buông ra một câu hỏi đầy tính tu từ học thuật, Tatsuya quay người bỏ đi một nước. Anh ta đẩy cửa phòng tập, chào buổi sáng với đám người bên trong, chấp nhận lời khen tặng của Junno cho bộ trang phục tông xuyệt tông hôm nay của mình một cách thản nhiên nhất. Koki đang bặm môi thủ thế đứng tấn ở giữa phòng, trong khi Maru ở bên cạnh thì dán chặt mắt vào cái đồng hồ bấm giờ, không ngớt lời cổ vũ rằng kỷ lục thế giới về thời gian đứng tấn đã sắp sửa bị phá bởi Tanaka Koki – thành viên nhóm KAT-TUN. 

Tầm nhìn của tôi mở rộng ra đến góc phòng cạnh cửa sổ, với hình ảnh ‘cậu bé đáng thương’ Kamenashi Kazuya ngồi bắt chéo chân trên ghế, chăm chú xem xét kịch bản cho chương trình radio Kase by Kase vào ngày mai của mình.

~*~

“Này này, vẫn còn sớm, cả lũ đi ăn với nhau cái nhỉ?” Koki vỗ hai tay vào nhau, nói rõ to, thu hút tất cả sự chú ý của những người còn lại. “Có một quán này khá hay ở Higashi-Nagano. Bà chủ ở đó thời trẻ từng là một geisha đó nhé. Thực đơn của quán còn có cả món ăn thời Edo nữa kia”. Chuông reo kết thúc chương trình của ngày hôm nay vừa mới vang lên cách đây năm phút. Các nhân viên hậu đài và bên bộ phận nhạc vẫn đang lục đục thu dọn và kéo nhau rời khỏi phòng quay ở phía cửa lớn.

Tôi ném chiếc khăn đẫm mồ hôi bay đánh vù qua mặt Ueda, lọt ngay thùng giấy đựng đủ thứ dụng cụ lặt vặt gần đấy. Ngay lập tức, nhận được một cái lườm bén ngót từ phía anh ta. Maru cười toe toét đi lại gần rồi khoác vai Ueda thì thầm gì đó. Junno cười hiền lành, quay lại với chai nước suối đang uống dở dang của mình. Tôi liếc quanh phòng, còn đang định la lên báo động cậu út của nhóm đã mất tích thì từ phòng vệ sinh Kame lững thững đi ra. Chân trần, tóc ướt, gương mặt mộc sau khi đã tẩy trang gọn ghẽ. Tự nhiên không khí trong phòng im phăng phắc. Và ai nấy đều tỏ ra khá bối rối mà không hiểu vì sao.

Kame nhìn khắp một lượt với vẻ không hiểu. Tôi muốn phá ra cười nhưng e rằng làm thế sẽ không được lễ độ cho lắm. Và rồi, ho sặc sụa ngay sau đó bởi cứ cố bắt ép bản thân phải chịu đựng cơn đau ngang sườn. Junno tốt bụng ngay lập tức nhường chai nước suối của cậu ta cho tôi.

Khi đi ngang qua tôi để lấy túi đồ của mình, Kame chau mày. Anh lại cư xử một cách baka gì thế hả. Cậu ta hỏi, giọng điệu đầy vẻ khiêu khích. Tôi chỉ bĩu môi đáp lại. Đừng tỏ ra quá hấp dẫn như thế chứ, cậu bé 23 tuổi đáng thương của tôi. 

“Haha, Koki, geisha hử? Thiệt không đó? Bà chủ quán ăn đó đấy. Nếu thật thế thì tớ sẽ đi. Trước giờ tớ chẳng bao giờ nhìn thấy qua geisha cả”. Lẳng balô ra sau vai, tôi đi về phía Koki, vừa cười hahaha một cách có phần hơi vô duyên vừa nói.

“À… ừm, đương nhiên. Chính bà ấy bảo tớ thế mà”. Sau vài giây, Koki sực nhớ lại tiết mục tiếp theo của buổi tối hôm nay. Cậu ta mơ màng nhớ lại. “Hai mươi năm trước bà ấy, tên là gì nhỉ, à, Masa-san, Masa-san từng làm geisha ở Gion, sau khi lấy một ông chồng làm nghề kinh doanh quán ăn thì giải nghệ. Ông chồng mất từ ba năm trước rồi nên giờ bà ấy thay chồng quản lý tiệm ăn”. Ngừng lại một lúc như thể để hồi tưởng, cậu ta nói tiếp. “Bước vào quán ấy ấy, cứ như đang ở thời Edo vậy, chỉ mỗi tội quán ngoài cựu geisha ấy ra thì chỉ có một em phục vụ khác. Quen rồi cũng hơi chán, nhỉ?”

“Tôi cũng đi. Đói meo rồi.” Ueda tuyên bố ngắn gọn, vớ lấy cái áo khoác dài màu gỗ gụ trên ghế cạnh đó mặc vào.

Junno cũng bước về phía Koki nhập bọn. 

“Hả? Đi đâu cơ? Mọi người đang có kế hoạch gì à?”. Lẽ dĩ nhiên là chẳng ai thèm trả lời câu hỏi của Kame. Rồi thì trong lúc cả bọn lũ lượt kéo nhau ra khỏi cửa cả, cậu ta vẫn cứ đứng đó, hết nhặt lên lại để xuống túi đồ của mình, vẻ như chẳng biết mình phải làm gì mới đúng, ở lại hay đi theo. Maru sau một lúc trố mắt ra nhìn thì hấp háy mắt về phía tôi. Gì chứ? Tôi chau mày, quay đi một nước theo sau Junno. Maru chậc lưỡi rõ to, không biết làm gì khác, chạy lại nắm tay Kame kéo đi. 

Xuống đến đường, cả bọn chờ hơn mười phút với vẫy được hai chiếc taxi trống chỗ. Xô đẩy, chen lấn thế nào đấy mà bốn tên kia chất cả lên một chiếc. Khi xe chạy đi còn thấy tên Koki mặt mày nhăn nhở thò ra khỏi ô thông gió vẫy tay chúc may mắn.

“Thế nào?” Tôi chỉ chiếc taxi còn lại, hỏi trổng không. 

Kame đi ngang qua tôi, chẳng nói một lời, tự động ngồi vào băng ghế sau. Cậu ta cố tình va vào vai tôi một cú đau điếng. Tay tài xế lại nhằm ngay lúc đó nhấn còi inh ỏi thúc giục. Chắc hẳn tay này sợ mất dấu chiếc taxi trước. Lúc nãy Koki đã bảo bọn tôi là cùng một nhóm. 

Thở hắt ra, tôi chui tọt vào chỗ trống bên cạnh Kame. Chưa đến ba giây, chiếc taxi phóng vụt đi, biến thành một điểm sáng vàng nhạt lẩn khuất vào màn đêm đang buông phía trên Tokyo. 

Thoạt đầu hai đứa ngồi cách nhau cả một khoảng trống đủ nhét ba chiếc balo to cỡ cái tôi đang dùng. Nhưng khi xe phanh lại chờ đèn ở ngã ba lối vào khu Hanishi-Nagano, đầu cậu ấy đã tựa trên vai tôi và mùi tóc ướt cứ thế xộc vào mũi tôi không thương tiếc. 

Để tránh cái nhìn tọc mạch của tay tài xế, tôi vờ ngủ thiếp đi, nhưng cứ năm giây, ở một vị trí khuất hẳn kính hậu và ánh sáng bên trong xe, lại cù nhẹ tay mình vào lòng bàn tay cậu ấy. 

Đến lần thứ ba như thế, bàn tay cậu ấy nhẹ nhàng nắm lại, giam kín những ngón tay nghịch ngợm của tôi ở bên trong.

~*~

Đó là một quán nằm sau khu Higashi-Nagano, sâu bên trong một con ngõ nhỏ. Một nhóm những cô gái bán hoa ăn mặc diêm dúa và trên dưới một chục anh chàng đồng tính phấn son đủ kiểu tụ tập ở khoảng đất trống ngay bên dưới tấm bảng đen neon to tướng của nhà nghỉ Sagetsu. Mắt họ liếc chừng về phía con lộ, dõi theo mọi chiếc ô tô có thể ngừng lại ở nơi đây và tư thế không ngừng xoay trở trong những bộ dạng chào đón nhất. Ngay khi sáu chúng tôi vừa xuống khỏi taxi, Koki đã ngay lập tức tóm lấy tay Junno và kéo cậu ta sát vào mình. Maru và Ueda cũng đã biết trước điều gì đó. Hai người họ khoác tay nhau một cách thân mật, tay phải của Maru quàng hẳn qua eo Tatchan và anh ta thậm chí còn đáp lại bằng một ánh mắt vô cùng tình tứ. Cứ thế, bốn người họ thong thả tiến vào trong.

Trước đó, Koki đã ngoái lại, giơ lên cao hai lòng bàn tay áp sát vào nhau, ra dấu cho tôi biết nên phải làm thế nào.

“Xem nào.” Tôi quay sang bảo Kame. “Hình như cái quán ăn này chỉ dành cho mấy đôi tình nhân đồng tính hay sao ấy? Cậu xem.” Rồi tôi chỉ bọn bốn người Koki đang từng đôi từng cặp rất thong thả tiến bước.

Kame nhìn theo bốn người họ, mày hơi chau lại, chỉ trong một thoáng đã hiểu ngay ra mọi chuyện. 

“Anh có muốn đứng đây đợi họ ăn xong trở ra rồi cả hai chúng ta bụng đói cùng họ trở về không?” Kame kéo áo tôi, giọng điệu bỗng nhiên trở nên dễ thương không chịu nổi.

“Một lời đề nghị quá tồi đấy cậu em! Ta tưởng cậu phải có gì hay ho hơn cơ chứ? Hơn nữa hôm nay chẳng phải chúng ta được người ta mời đến đây sao? Không say không về mới phải đạo chứ?”. Tôi đáp lại, điệu bộ nghênh ngang không thể tả. 

“Thế anh còn chờ gì? Anh còn định đứng đó giận dỗi đến bao giờ? Anh chẳng phải đã nói nếu tôi…”. Kame bước lại gần hơn, chợt đổi giọng thành một tiếng thì thầm. “Anh chưa nghe đến bọn người đồng tính ở khu này bao giờ sao? Đừng bao giờ lảng vảng đến đây nếu chỉ có một mình, anh sẽ chết chắc”.

Nói rồi, cậu ta chủ động khoác lấy tay tôi. Tôi e hèm vài tiếng, vờ vĩnh đôi chút rồi cũng để cho cậu ta khoác lấy. Chúng tôi bước nhanh qua mặt bọn người đó, cố theo kịp bốn người phía trước. Những ánh mắt dò xét dán chằm chặp vào chúng tôi. Còn kịp nghe cả một tiếng huýt sáo đuổi theo của một gã trai trong bọn. 

Sau con hẻm dài độ hai trăm mét, quán ăn hiện ra, đơn giản đến mức nghèo nàn. Không bảng hiệu, không đèn neon. Bên trong, ngoài quầy bar ra thì chỉ có một phòng nhỏ tám chiếu. Ba chiếc bàn bốn chỗ ngồi với hai đã đầy khách. Sự xuất hiện của nhóm chúng tôi dường như nhất thời khiến cho chủ quán lúng túng. Những người khách quanh đấy cũng ngoái lại nhìn, họ đều mặc comple và xách theo cặp táp, giữa bàn thức ăn đủ vị là những chai cognac hảo hạng đang uống dở. 

Cuối cùng, cả bọn sáu tên xếp hàng lần lượt đi vào phía bên trong quầy. Đúng sáu ghế, thật vừa vặn. Một cô gái trẻ mặc yukuta mùa hè xuất hiện từ sau cửa buồng, giúp chúng tôi cất đồ đạc và treo áo khoác. Chỉ mỗi Ueda là nhã nhặn nhưng kiên quyết từ chối lời đề nghị duyên dáng của cô. Anh ta mím môi dưới, lắc lắc mái tóc và đút sâu tay vào túi áo khoác trong khi dò xét quán nhỏ bằng ánh mắt. Không hỏi qua chúng tôi, Koki đã gọi ngay những món có tiếng của chỗ này. Những cái tên kỳ lạ, mà trong âm đọc có một cái gì đó khiến người ta nhớ đến sự trầm lắng của Edo xưa kia. Và khi mọi huyên náo đã lắng xuống, chúng tôi mỗi người đều tự mình đánh giá quán theo cách riêng của mình thì cảm giác chung về những người phụ nữ nơi đây lại thống nhất với nhau một cách lạ lùng. 

Chủ quán là người phụ nữ đã trên 40 tuổi, thần thái rất điềm tĩnh, mặc bộ kimono có hoa văn màu nhạt, tóc bới cao, đôi chân trần lộ ra bên dưới tấm áo đóng kín là một điểm nhấn hoàn hảo. Gợi cảm tới mức khó hiểu. 

Cô phục vụ thì lại mang đến ấn tượng trẻ trung và thư thái hơn. Khi cô đứng trong quầy bar, dù phải luôn tay chế biến món ăn song vẫn cười rõ tươi mỗi khi đáp chuyện với chúng tôi.

Trong tư thế vai kề vai, suốt buổi ăn nếu muốn bạn hoàn toàn có thể không cần nhìn vào người bên cạnh. Từ vị trí trung tâm, Koki tuyên truyền rộng rãi cho chúng tôi những hiểu biết cơ bản của cậu ta về món ăn thời Edo. Nào là món ueki phổ biến hơn kaiseki do cách chế biến đã được lược đi một số bước nhưng vẫn giữ được chất vị ngon ngọt như thường. Hay như azuke-bachi thật ra chỉ gồm có cá chình nướng và củ từ hấp mà thôi. Còn shiizakana lại là một cách gọi cầu kỳ khác của món nấm shimeji trộn tiêu. Maru và Junno là hai gương mặt hăng hái nhất trong việc đặt câu hỏi và thắc mắc này nọ với chuyên gia Tanaka. Khi bị dồn vào ngõ cụt, rocker của nhóm lại gãi đầu cười hì hì và cầu cứu cô phục vụ phía trong.

Trong thời gian đó, bà chủ quán ngồi tiếp chuyện với những vị khách đạo mạo kia. Họ nói toàn những chuyện của dân có tiền. Cổ phiếu, chứng khoán, golf, du lịch nghỉ dưỡng và các thú chơi nhà giàu khác. Thỉnh thoảng, ánh mắt trầm tĩnh ấy hướng nhanh về phía chúng tôi. Và tôi bỗng nhiên cảm thấy gai người, như thể trên da mình vừa mọc ra những chiếc gai nhỏ.

Rồi đột nhiên, Ueda kể về một lần anh ta ngắm bình minh trên tháp Kyoto năm đầu cao trung. Câu chuyện chỉ vừa mới bắt đầu, Maru đã giương mắt kêu lên, “Không thể nào! Đời nào bọn bảo vệ lại cho cậu vào đó lúc sáng sớm như thế!”

“Tôi ngủ quên từ chiều hôm qua cho đến sáng hôm sau đó chứ”. Ueda trả lời tỉnh bơ. Rồi phớt lờ Maru mắt chữ A mồm chữ O, lại tiếp tục thuật lại trải nghiệm hiếm hoi của mình.

“Tôi nhớ khoảnh khắc Tokyo hiện ra trong ánh sáng đầu tiên của ngày. Có một cái gì đó vừa tươi mới vừa hùng vĩ nhưng lại đầy choáng ngợp ngay khi đó. Có lẽ là do sự giao nhau giữa bóng tối và ánh sáng, cái giao thời ấy sinh ra một sức mạnh có sức trấn áp tựa như sức ép của một vụ nổ vậy. Ờ, đại khái là tôi vừa thấy sợ hãi vừa thấy sung sướng. Cái kiểu xúc động của một tay vừa thoát chết và đang hồi tưởng lại khoảnh khắc ấy. Người cứ mềm nhũn cả ra, thế rồi, tôi khóc.”

Khi Ueda vừa kết thúc, bà chủ quán cũng vừa mang lại cho chúng tôi sáu phần cocktail. Anh ta với lấy một ly, gật đầu cám ơn rồi đưa lên môi nhấp một ngụm nhỏ. 

Chủ quán mỉm cười. Tất cả bọn tôi, bị cuốn vào cái kỷ niệm ngủ quên trên tháp Tokyo một lúc lâu. Chỉ im lặng ôm ly cocktail uống chầm chậm và nghiền ngẫm lại từng lời Ueda vừa nói, mong sao có thể tái hiện một cách chính xác nhất quang cảnh khi ấy. Quả nhiên trên đời vẫn có những cảnh tượng xuyên qua những giác quan của con người, có đủ sức mạnh biến sự tồn tại của chính nó thành một cái gì đó giống như nỗi ám ảnh hoặc nhức nhối ở mãi trong tim những kẻ may mắn được chứng kiến qua.

“Hnm, có ai biết cái món nước uống này làm từ gì không? Nó…bắt miệng quá đi mất!”. Một giọng trầm trầm bỗng vang lên bên tai tôi. 

Tôi quay lại nhìn. Ly cocktail trong tay Kame đã hết nhẵn và cậu đang nhìn chăm chăm vào cái ly rỗng như không sao tin được rằng nó có thể hết nhanh đến thế. Bắt gặp ánh mắt của tôi, cậu nhún vai rất nhanh trước khi quay đi. Nhưng ngay sau đó lại là một cú đánh mắt đầy nuối tiếc vào ly nước hầu như chưa vơi đi tí nào trước mắt tôi. Thật là… Tôi có nên giả tảng như không hiểu gì và phớt lờ cậu ta đi luôn không nhỉ? 

Rốt cuộc, chẳng hiểu sao, tôi vẫn đẩy ly cocktail của mình về phía cậu ta. 

Kame đón lấy nó, khuấy đều và săm soi các thứ ở bên trong.

“Ngon thật đấy chứ?”. Cậu ta nói, nhìn tôi chăm chú, kiên quyết đòi hỏi ở tôi một sự đồng tình hơn chỉ là một sự sẻ chia thông thường. Tôi nhìn ly nước, nó có màu vàng hổ phách và vẫn còn sóng sánh đôi chút sau cái màn khuấy lia khuấy lịa khi nãy của Kame. Tôi còn chưa biết vị của nó như thế nào. Nhưng ngẫm nghĩ một lúc rồi tôi cũng gật đầu. Kame ngay tức khắc mỉm cười, và phút sau đó đã nhanh nhẹn múc ngay một thìa to trái thanh yên cho vào miệng. 

~*~

“Tôi không thích Ginza. Tôi sẽ đi tàu điện ngầm về nhà”. Kame nói. Sau khi rời khỏi quán ăn đó, cả bọn đi bộ ra phía khu Ginza và bàn tính xem có ai muốn ghé bar uống thêm cái gì đó trước khi về nhà hay không. Dù thức ăn ngon thật nhưng không khí quán đó có hơi trầm lắng và yên ả, không hợp lắm với khẩu vị bọn tôi. Trước khi bất kỳ ai hỏi đến ý kiến của mình, Kame đã lên tiếng trước. Cậu ấy nói như thế rồi băng qua đường, vẫy cái găng tay màu xanh lá cây chào chúng tôi trước khi xuôi xuống đường Hana. Có một ga tàu điện nằm ở cuối đường ấy. 

“Jin, cậu thì sao nào?”. Koki thúc cùi chỏ vào hông tôi. Junno cũng về nhà, Maru thì đang ê ẩm mình mẩy với bài nhảy mới tập ngày hôm nay. Hai người đó ngay sau khi Kame đi khỏi cũng đã tản ra đi tìm taxi. Ueda bỏ phiếu trắng. Và Koki quyết định sẽ phải kéo tôi theo cho bằng được bằng mọi giá.

“Okay, uống một cái gì đó cho ấm người lên nào”. Tôi nói, nhướn người nhìn theo phía bên kia đường. Kame đã khuất sau góc rẽ các bậc thang dẫn xuống ga ngầm. Ga Ashiya cách đây phải hơn bảy trạm. Nếu cậu ta không để ý mà ngủ gục thì rất có thể sẽ lỡ trạm cũng nên.

“Đi thôi, khó coi quá đi mất.” Giọng Ueda vang lên. Koki đã hăm hở đi trước dẫn đường một đoạn khá xa. Vẫn trong bộ dạng của một kẻ sắp chết cóng quấn trên người chiếc áo khoác dày sụ, Ueda đi lướt qua tôi và hờ hững buông ra lời cảnh báo. 

Được rồi, tôi đáp thầm trong miệng, chỉnh lại vạt áo trước trước khi bước theo hai người đó.

“Jin này, tháng này cậu đã ngủ với cô gái nào chưa?”. Bằng cái vẻ thản nhiên như đang hỏi về việc đi công viên picnic, Ueda hỏi tôi như thế. Chúng tôi ba thằng sau khi rời khỏi quán ăn của nàng geisha xa xưa lại tiếp tục đến ngồi kề vai sát cánh ở một bar tầm trung ở Ginza. Tay bồi vừa đặt xuống trước mặt ba thằng ba ly bia Ấn Độ loại làm từ lúa mạch nguyên chất trăm phần trăm. Bị kẹp ở giữa bởi hai người họ, đêm nay có vẻ như tôi sẽ khó mà toàn mạng trở về nhà. 

Koki hơi ngẩng lên lúc Ueda hỏi, nhưng chỉ cười nhếch môi một chút rồi lại tiếp tục uống ly bia của mình.

“Đã.” Tôi đáp ngắn gọn, viên đá ngậm trong miệng tan dần ra do nhiệt độ và sự ma xát với lưỡi. Trong một thoáng đó, tôi nghĩ đến Kame. “Một cô hồi đầu tháng ở khách sạn Akasaka. Và mới tuần rồi ở khu Roppongi. Cả hai lần tôi đều đi một mình.”

Ueda ném cho tôi ánh nhìn không phải ngạc nhiên cũng chẳng phải thất vọng. Chỉ đơn giản là anh ta chấp nhận câu trả lời đó, vì nó là bằng chứng cho biết Akanishi Jin vẫn ổn. Koki cười ruồi, quàng tay qua vai tôi vỗ về.

“Thế còn Kame?” Ueda vẫn tiếp tục kiểu tra vấn lãnh đạm của mình.

Tôi im lặng. 

“Lần gần đây nhất giữa hai người là khi nào?”

Tôi nốc một ngụm bia lớn, xoay xoay cái chai rỗng và nheo mắt nhìn nhãn hiệu ba con hồng hạc trên thân chai trong ánh sáng chập chờn của nơi đây. Nhạc jazz phương Tây vang lên lạnh lẽo từ dàn máy hát trên sân khấu. Những khu vực khách quen lùi sâu bên trong quầy bar, ngăn cách từng ô một bằng những lớp kính mờ có khắc hình hoa văn tinh xảo. 

“Cách đây hai tháng. Trong ô tô và cả hai đứa đều say.”

“Tôi sẽ nghĩ đó là một sự cố ngoài ý muốn và do hoàn cảnh mà ra đấy.” Ánh mắt của Ueda sắc lạnh. Chiếc khuyên bạc hắt thứ ánh sáng ma mị lên đuôi mắt phải anh ta. 

“Có lẽ thế thật. Lúc đó chúng tôi chỉ dự định hôn nhau thôi. Cơ thể Kame quá suy nhược, tôi thật không muốn khiến cậu ấy mệt mỏi thêm, cũng chẳng ưa gì cái kiểu vờn vã nhau cho có. Nhưng rồi…” Tôi ngừng lại, cố tìm đúng từ diễn tả ý của mình. “Tôi không thể khống chế được bản thân mình khi nhìn gương mặt cậu ấy sau khi đã hôn cậu ấy. Kể cả khi cậu ấy không nhìn tôi, kể cả khi trên người cậu ấy là bộ lễ phục đứng đắn nhất, trang nghiêm nhất… Có những lúc, Tatchan, chỉ nhìn cậu ấy thôi, tôi đã muốn cậu ấy rồi”.

Koki vẫn im lặng. Ueda đặt chiếc ly rỗng xuống bàn, gõ lơ đãng vài tiếng vào thành quầy bar. Chỉ một phút sau, suất bia mới đã được mang ra. Vừa rót bia vào ly anh vừa ra hiệu cho tôi tiếp tục.

“Tôi không biết, Tatchan. Nhưng cậu ấy không phản đối. Và tôi mặc nhiên coi sự im lặng đó là dấu hiệu chấp thuận của cậu ấy. Chúng tôi quan hệ trong suốt ba giờ. Giờ nghĩ lại, trong hoàn cảnh đó, làm sao mà Kame có thể phản đối tôi?”

“Nói đúng hơn, cậu ấy sẽ không bao giờ từ chối cậu.” Im lặng phút chốc, rồi Ueda chỉ sửa lời tôi một cách nhẹ nhàng như vậy.

Tôi không quen với việc đến quán bar để tâm sự. Lịch sử và quá khứ đi bar của tôi chỉ là để uống và hò hét theo đám đông xung quanh và bất cứ thứ âm nhạc kích động nào tình cờ đập vào tai. Quan niệm của tôi với việc đi bar rất rõ ràng. Nó là từ bỏ và rũ nhẹ bản thân, không phải nơi chốn thích hợp để ôn lại chuyện cũ, kể lể này kia. Nói về đời sống tình dục của mình với bạn bè mình ở bar cũng là chuyện tôi chưa từng nghĩ đến. Nhưng buổi tối hôm đó, giữa ánh sáng hư ảo của dàn đèn trên cao, thứ âm nhạc dát bạc trắng lạnh vào không gian, tiếng rì rầm trò chuyện của đám khách từ khu vực VIP sang trọng riêng tư, nói về Kame khiến bụng dưới tôi quặn lên một cơn đau rất sâu. Nó, râm ran ở vùng thắt lưng rồi trở nên mãnh liệt hơn khi xuống dần thân dưới của tôi. Một người đàn ông có đời sống sinh lý bình thường và mạnh khoẻ như tôi lẽ ra chỉ nên cảm thấy có ham muốn khi nhìn thấy một thể hình lý tưởng của phái nữ.

Nhưng, cửa mình của Kame giống như một đứa trẻ, chân thành và nhạy cảm, ngay từ lần gặp đầu tiên, không vì bất cứ điều gì đã tin tưởng chắc chắn rằng tôi là người bạn nó vẫn tìm kiếm lâu nay. Là phần đã thất lạc hay đánh mất, có thế nào cũng không quan trọng, mọi chuyện chính là như vậy đấy. 

Thế nên, khi ở bên trong cậu ấy, ngoài việc những khoái cảm được thoả mãn, đỉnh đến của nhục thể được tìm thấy, tôi còn cảm thấy mình được yêu thương.

Rất nhiều.

Dường như buổi tối ngày hôm đó đã kết thúc như thế, ở câu nói khẳng định của Ueda Tatsuya về việc Kame sẽ không bao giờ từ chối tôi. 

Tôi chẳng nhớ rõ nữa. Có thể vì thứ jazz đậm đặc và phiêu du ngay sau đó đã được thay thế bởi những màn độc tấu nhạc cụ ấm áp và tự tình hơn. Chúng tôi uống hết suất bia thứ hai, sau đó còn gọi thêm vài lần nữa. Một lúc cao hứng nọ, Koki vừa cười rũ ra vừa thì thào cho chúng tôi biết lần đầu tiên đến quán ăn Edo đó, cậu ta đã suýt nữa bị một anh chàng đồng tính đi vớ hồng kim tuyến lấp lánh quyến dụ. “Eo ơi, cậu ta cứ xán lại gần tớ và bảo, ‘anh à, đi với em nhé, hôm nay là ngày Thừa Khuyết ấy, con người ta không nên ở một mình, mà em lại trông anh cô đơn đến thế’. Ngày Thừa Khuyết??? Có điên lên không cơ chứ, rồi lại còn sao mà trông anh cô đơn đến thế. Tớ ước gì khi đó có thể dịu dàng đáp lại cậu ta rằng, ‘không, cưng ơi, mắt em tối nay có vấn đề rồi hay sao ấy, anh đang trong tình trạng sức tàn lực kiệt, bụng đói mắt hoa tay chân bủn rủn, đâu ra cái kiểu cô đơn đến chết đó được!!!’. Ấy thế mà tất cả những gì tớ làm chỉ là cố gắng lảng xa cái đám đó rồi cắm đầu chạy thục mạng cho đến tận cửa quán Edo. Thật là mất mặt nhà Tanaka mà!”

Một chiếc ly rơi xuống đất và vỡ tan ngay sau đó khi tôi cố với tay lấy cho bằng được cái gạt tàn hình cầu màu xanh mắt mèo trong suốt. Một ngón tay cũng đã bị mảnh vỡ cứa phải khi tôi cúi xuống thu dọn. Trong lúc tay bồi tìm cho tôi miếng băng dán cá nhân, tôi bóp mạnh chỗ bị đứt, ép rơi ba giọt máu đỏ tươi, nhờ nhệt vào cái gạt tàn xanh mắt mèo ấy. Chúng đọng ở đó, không bị vỡ ra mà chao đi chao lại bên trong mỗi khi tôi nghiêng gạt tàn. Tựa như những giọt thuỷ ngân đã được nhuộm màu. 

Ueda thanh toán bằng thẻ. Và bọn tôi ra khỏi đó khi ngày mới đã bước qua. 1 giờ 20 phút. Xe hơi vẫn qua lại trên đại lộ Sumine. Những toà nhà cao tầng của ngân hàng quốc gia in cái bóng thẫm màu trên nền trời màu xám đen. Sông Sumiya giúp vui bằng những đợt gió cứ cách đôi mươi phút lại thổi và chúng buốt lạnh đến độ không phải không khí mà chính những hạt nước nhỏ li ti mới chính là cái đã cấu tạo nên chúng. 

“Hey, chúng ta sẽ phải lết bộ về thôi. Chẳng trông thấy một chiếc taxi nào hết. Nè, các bác tài, lẽ ra các người phải để ý chăm sóc cho Ginza thân yêu của chúng ta hơn chứ!”. Koki bắt đầu gào lên. Cậu ta đã uống đến năm chai bia trong tối nay và giờ thì đang quay sang hạch hỏi một cái cột đèn bên đường.

Ueda nhìn chăm chăm vào phía trước vỉa hè như thể đang chờ đợi một điều gì đó. Tôi đi nhấp nha ở phía sau hai người họ. Ba thằng làm thành một nhóm quái đản chưa từng có. Chẳng hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu một tay phóng viên tự do nào đó có thú lang thang săn ảnh ban đêm và tình cờ chộp được khoảnh khắc vàng. Ba chàng trai hào hùng tài hoa của KAT-TUN ra khỏi bar ở Ginza lúc một giờ sáng và say xỉn đến mức gây rối trật tự trị an nơi công cộng.

Thực ra thì, vấn đề đã được giải quyết rất nhanh và êm thắm. Mười phút sau cuộc gọi điện chớp nhoáng của Ueda, một chiếc taxi thình lình xuất hiện từ phía ngã ba giao nhau giữa đại lộ Sumine và đường Hanku. Đèn pha của nó chiếu ra một luồng ánh sáng chói mắt, xé toạc sự mơ màng của màn đêm bằng ánh sáng vàng gắt của mình.

Lộ trình được vạch ra rất rõ ràng. Tay tài xế sẽ đánh một vòng tròn qua ba quận nằm rải khắp ba khu của Tokyo. Koki là kẻ xuống trước nhất, rồi đến tôi và sau cùng là Ueda.

Đúng lúc xe vừa lăn bánh, màn hình di động trong túi tôi nháy sáng đèn. 

“Jin? Xin lỗi vì đã gọi vào lúc muộn như thế này nhưng có thể đến chỗ tôi ngay bây giờ không? Tôi có chuyện cần anh”.

Không một sắc thái khẩn trương hay hoảng loạn nào trong giọng nói của Kame. Giọng nói tỉnh táo như thể chủ nhân nó đã không hề chợp mắt trước đó, bằng cách nào đó giữ cho bản thân mình sáng suốt đến tận giờ phút này, chỉ để gọi điện cho tôi.

Tắt máy, tôi quay qua Ueda. Mắt chúng tôi giao nhau trong một thoáng. Rồi anh nói một cách ngắn gọn.

“Xem ra lộ trình phải thay đổi thôi.”

Tôi nhỏm người dậy, nói thầm vào tai người tài xế cái tên ga Ashiya. Trong bóng tối, nó vang lên những âm thanh như lời cầu cứu khe khẽ, xối buốt tim tôi.

III. 5 A.M Eternal

Trên sàn phòng khách, bên cạnh chiếc gối ôm lăn lóc và vỏ đậu phộng luộc xả tràn ra khỏi chiếc gạt tàn đầy ắp, tôi trông thấy Kame. Cậu ấy ngồi tựa vào ghế sofa, mặc một bộ pyjama màu xanh đậm. Một chân cậu co lại để có thể tựa mặt vào đầu gối, chân kia tuỳ tiện xoãi thẳng trên nền sàn. Ti vi phía đối diện vẫn đang bật một chương trình đêm khuya của TV Shogi. Hai lon bia rỗng rơi bên cạnh chân Kame, vài vệt bia còn sót lại chảy loang ra tấm thảm màu trắng, gây ra những vết ố màu nâu nhạt sau khi khô lại. Mái tóc cậu ấy hơi rũ xuống, mãi một lúc lâu cả cơ thể cũng không chút động tĩnh nào. Nom cậu ấy giống như đang ngủ, chỉ là tư thế có chút khó khăn và khổ sở khiến người ta nhìn vào không thể cho rằng cậu đang có một giấc ngủ ngon.

Tôi đến nơi lúc 2h sáng. Từ cửa hàng tiện lợi, tôi băng qua đường, đi xuống các bậc cầu thang, lang thang một lúc trong khoảng không trắng toát ánh đèn và vắng lặng đến mức mênh mông vô tận của sân ga để đi lên mặt đất từ cửa xuống bên kia. Trong bóng tối của một ngày mới, tôi lại đi dần lên một con dốc nhỏ, tìm kiếm bằng niềm tin và bằng cả đôi mắt mệt mỏi của mình con số 76. Như một mũi tên chỉ đường đầy ẩn nhẫn, nó nằm im lặng trên tấm bảng kim loại ở tầng trệt một khu nhà nằm phơi mình trong ánh trăng màu nhạt của một đêm cuối tháng.

Tôi leo cầu thang lên tầng hai, vừa đi vừa nhớ đến lần đầu tiên tôi đến đây cùng với Kame, đi sau lưng của cậu ấy, cứ mỗi một bậc thang lại cảm thấy cơ thể mình bị đẩy lên cao từng chút một. Và đôi khi, khoảng cách do dăm bảy bậc thang gây ra lại có thể khiến người ta buồn đến thế, dù rằng khi đó Kame vẫn ở trong tầm mắt tôi.

Cửa không khoá bên trong. Tiếng nhạc nho nhỏ thoát ra khỏi khe hở của cửa, lọt vào tai tôi. Ánh sáng trong phòng không đủ nhiều để hắt ra hành lang, điều này khiến tôi nghĩ mình nên lo lắng. Thôi suy nghĩ nữa, tôi đẩy cửa bước vào, và cái cảnh tượng đó hiện ra trước mắt tôi, chầm chậm và trong im lặng, như thể hàng thế kỷ đã trôi qua ở nơi này và làm mọi thứ trở nên như thế, trước khi tôi kịp đến.

Tôi đi tìm thiết bị điều khiển, chỉnh tắt ti vi. Ánh sáng từ màn hình vừa tắt phụt đi, căn phòng đã rơi vào một sự đen đặc hoàn hảo. Bên ngoài cửa sổ là hình bóng diễm lệ của tháp Tokyo xa xa, nơi Tatchan đã khóc chỉ vì ánh sáng xuất hiện đã xé dần bóng tối và sau cùng là nuốt chửng nó. Tôi đứng bên cửa sổ hút hết ba điếu thuốc còn lại trong bao và cứ thế ngắm tháp Tokyo một mình.

Cũng hơi khó khăn một chút khi trong căn phòng tối om như thế mà tìm ra Kame, quẳng lon bia rỗng và xua đi những vụn vỏ đậu phộng vương vãi trên người cậu ấy, rồi lại phải tránh đủ thứ chướng ngại vật trong căn phòng bừa bãi để bế cậu ấy đi về phòng riêng của mình. Thật lạ lùng khi nghĩ rằng 59 kilogam, vì một sự biến đổi kỳ diệu chỉ ông trời mới biết và qua ngần ấy thời gian chỉ thượng đế mới rõ, đã trở thành một cơ thể sống, ấm, nóng trên tay tôi. Vải áo pyjama của Kame cạ vào ngực tôi khi cậu trở mình. Căn phòng riêng nằm sâu bên trong căn hộ, được che phủ bởi một hành lang hai mươi bước chân. Tôi đặt cậu ấy nằm xuống giường, sau khi cởi áo khoác treo trên giá thì leo lên nằm bên cạnh, quàng tay qua hông ôm cậu ấy vào lòng.

Bạn có thể tin rằng căn phòng riêng tư đó đã trôi dạt đi đâu đó, hoặc là những góc không gian của nó mở rộng ra, một vài thứ đã biến mất để cho một vài thứ khác được sinh ra.

Cũng có thể như lời Ueda đã nói, từ lúc nào mà tôi, một tên baka như thế đã trở nên uỷ mị đi mất rồi.

Khi ánh sáng đầu tiên xé toạc màn đêm ở đường chân trời, vạch vào nơi xa xôi tận cùng ấy một vết hằn như thể tờ giấy nguyên sau một lượt gấp vào mở ra, Kame mở mắt, nói thành lời cái ý nghĩ đang treo lơ lửng bên trong đầu tôi.

“Bọn mình đi đến tháp Tokyo đi. Không thể để cho Tatchan phải khóc một mình khi bình minh lên như thế.”

Giọng cậu ấy hệt như trong cuộc gọi lúc 1h sáng, sáng rõ và đã đến lúc rồi.

Tận sâu trong lòng, dựa vào cái gì không rõ, tất cả chúng tôi kể từ giờ phút nghe kể về trải nghiệm đó của Ueda, đã tin rằng buổi bình minh trên tháp Tokyo ngày cao trung năm ấy không bao giờ có thể kết thúc. Nó đã không còn là một thực thể tuân theo quy luật xuất hiện và tan biến. Cũng không thể kết thúc hoàn toàn hay bị triệt tiêu một cách triệt để. Nó hẳn phải trở đi trở lại trong giấc mơ của người thanh niên Ueda Tatsuya, khiến anh ta nhiều lần mỉm cười và rơi nước mắt, cùng lúc. Và chúng tôi phải xuất hiện, phải bằng sự xuất hiện của mình mà đánh tan cái rối bời trong lòng anh, đánh tan cái rối bời đang bắt đầu tìm đến chúng tôi.

Đó chỉ là một cái cớ.

Thật không may, giữa muôn vàn điểm bất đồng, tôi và Kame lại đều thuộc dạng người xem nhẹ ý muốn của bản thân. Chúng tôi phớt lờ chúng, hoặc là, bọc chúng lại trong một ý nghĩa khác, tuy rằng không xấu xa nhưng lại vĩnh viễn đánh mất đi sự chân thành và tha thiết của con tim mình.

“Suy nghĩ nhiều mà làm gì, Jin? Chỉ là đi đến tháp Tokyo thôi mà.”

Khởi đầu của chuyến đi ấy, Kame trườn người dậy, nhấn chìm bản thân cùng tất cả mê muội bên trong cậu vào môi tôi.

Nụ hôn sâu đến mức làm tôi nghẹt thở và khoảnh khắc ấy lâu đến mức tưởng chừng như mãi mãi.

Căn phòng hẹp không đến 20 mét vuông và luồng sáng trắng từ ngọn đèn đường bên ngoài hắt vào, khiến mọi thứ trông giống như có một màn sương mỏng đang bảng lảng bao phủ từng góc nhỏ. Nó có màu bàng bạc giống như ánh sáng trong các cửa hàng tiện lợi lúc đêm khuya.

Cơ thể của Kame nóng hổi. Môi cậu ấy sau khi trượt xuống từ nụ hôn ở miệng, cứ quấn lấy cổ và khuôn ngực tôi một lúc lâu. Ngón tay cậu bấm sâu vào vai tôi sau khi đã cởi bỏ lớp vải cotton của chiếc áo pull trước đó. Cử động của cậu liên tiếp nhưng chậm rãi và chính xác khi dần lần sâu xuống phần thân dưới của tôi. Nhưng cũng có lúc cậu cố tình ngừng lại để nghe thấy một tiếng rên dài của tôi trước khi để cho mọi thứ tiếp tục nhịp chuyển động cũ.

Tôi quan sát Kame một cách chăm chú khi cậu ngồi nhổm dậy trên bụng tôi, môi đỏ ửng, mái tóc rối bời che phủ một bên mặt và bàn tay trắng run run khi tự cởi bỏ bộ pyjama trên người mình. Đây không phải lần đầu cậu chủ động trong những lần chúng tôi quan hệ với nhau. Tuy thế, chiêm ngưỡng ở khoảng cách gần việc cơ thể cậu dần dần được bóc tách ra khỏi lớp vải vóc chỉ có tác dụng che đậy vẫn khơi gợi lên trong tôi những cảm xúc khó tả. Nó giống như ngồi trên một ban công không có tay chắn và thả mình tự do mạo hiểm với những cảm xúc do hiểm nguy rình rập bên cạnh mang lại.

Cơ thể trần của Kame nóng hổi. Bằng một cử động nhẹ nhàng và thành thục, cậu trườn lên người tôi. Thoạt tiên, cậu hôn khắp khuôn mặt tôi, không quá mặn mà cũng không quá hờ hững với bất cứ nơi nào. Trong lúc đó, tay cậu không ngừng miết trên cổ và ngực tôi. Rồi đến một lúc không chịu đựng được, tôi đuổi theo nụ hôn của cậu và bắt kịp chúng ở môi. Lưỡi chúng tôi nhanh chóng nhận ra nhau và chúng tôi hôn nhau cuồng nhiệt. Những chiếc hôn dâng lên từ hai cơ thể đang chạm vào nhau một cách trần trụi nhất. Răng và lưỡi chúng tôi chạm vào nhau, liên tục khiêu khích nhau. Vòm miệng quá chật hẹp khiến cho trò chơi đuổi bắt của chúng không bao giờ có thể kéo dài được lâu. Đê mê cuốn lấy chúng tôi. Khi rời ra, đôi mắt Kame đờ đẫn và ngây ra một lúc, trước khi cậu trườn xuống bên dưới tôi, biến mất vào lớp chăn màu trắng đục.

Tôi ngửa mặt nhìn trần nhà, đọc được trên đó tất cả sơ đồ dịch chuyển của môi và lưỡi cậu thanh niên đó trên cơ thể mình. Cơn đau khủng khiếp ở vùng bụng dưới lại bắt đầu xuất hiện. Tay Kame đang giữ chặt lấy hông tôi. Môi cậu lướt những đường ngắn đứt quãng, cợt nhả mà âu yếm với dương vật đang cương cứng của tôi. Dường như cậu đang nhìn nó, hoặc là mỉm cười với nó, trong nụ cười có cái thấu hiểu về trạng thái khó khăn nó đang lâm vào. Rồi cậu cúi xuống, xem nó như một đứa trẻ, hôn lên trán động viên đó. Nhưng, hơi thở cậu quá nhột nhạt để có thể trấn an đứa bé của tôi. Cậu.. chỉ khiến nó càng thêm nổi loạn. Mồ hôi chảy ra trên trán tôi. Những khoái cảm cứ không ngừng sinh ra từ nơi sâu kín nhất của cơ thể, đòi hỏi một sự đáp trả cũng nồng nàn không kém.

Môi tôi bật ra một tiếng rên khẽ. Dù thế, tôi vẫn cương quyết không gọi tên cậu. Kame quay trở lại, hôn vào môi tôi. Sau một nụ cười có vẻ buồn phiền của cậu, một sự ấm nóng bao bọc lấy toàn thân tôi. Cùng với nó, là những va chạm chậm rãi nhưng chính xác nhất và đúng cách nhất mà tôi có thể mong đợi.

Tôi không biết tinh dịch của mình có mùi vị gì. Nó đắng? Nhàn nhạt không mùi vị nhưng lại đơn thuần gợi nên một thứ cảm xúc khiến người ta nửa khinh bỉ nửa thèm muốn khi nói đến? Dù thế, chẳng khi nào Kame lộ ra bất kỳ vẻ khác lạ nào sau khi tôi đã đến ngay trong miệng cậu ấy.

“Jin”.

Tiếng gọi ấy đánh thức tôi. Gương mặt Kame đang nhìn tôi hơi xanh xao. Tôi hôn lên môi cậu, khéo léo hoán đổi vị trí của hai chúng tôi. Môi cậu hơi run khi tôi bắt đầu chạm tay mình vào cơ thể trần của cậu. Tôi trấn an cậu bằng một nụ hôn nhẹ nhàng ở trán. Tay tôi di chuyển khắp vùng ngực trần của cậu. Rất nhanh, sự mơn trớn trôi xuống nơi bụng dưới. Kame có vẻ bất ngờ trước động tác đột ngột đó của tôi. Bụng cậu thót lại trong một thoáng giật mình. Và đùi cậu nhanh chóng khép kín, im lìm trong tư thế tự bảo vệ mình. Tôi không trông rõ mọi thứ trong một điều kiện ánh sáng tệ hại như thế. Nhưng tôi cố làm cậu thả lỏng hơn bằng những mơn trớn ở lưng và lườn cậu. Xô một đầu gối vào giữa hai chân cậu, tôi khiến chúng dần dần mở ra. Làn da trắng xanh run lên dữ dội khi cảm giác thấy sự hiện diện của tay tôi. Cậu thở dốc, hẳn đang phải cắn chặt môi để kiềm lại những tiếng rên. Tôi mỉm cười, hài lòng cúi xuống, ôm lấy người bạn nhỏ đã chia cách suốt chín mươi ngày qua bằng tất cả sự mê say tha thiết của mình.

Một thứ chất lỏng sền sệt đọng lại trên đầu lưỡi tôi, trong khi phần lớn trong số chúng đã biến mất sau cổ họng. Tôi biết đó là gì. Và điều đó khiến tôi thấy nhẹ nhõm. Mọi ý nghĩa khác vì thế cũng không cần phải xét đến. Tinh dịch của Kame, ở bên trong tôi. Cũng như điều ngược lại đã xảy ra. Sau tất cả những việc đó, tôi lại đối diện với gương mặt cậu ấy. Và chúng tôi lại hôn nhau trong một sự đồng thuận không cần thiết phải nói rõ thành lời.

Sau ba tháng không quan hệ với nhau, cửa mình của Kame dường như đã quên mất tôi. Cậu ấy quá đau trong lần đầu tiên tôi thử vào. Mồ hôi vã ra từ chân tóc và chảy dài hai bên thái dương cậu. Tôi ngừng lại ngay lúc đó, nín thở quan sát gương mặt nhắm nghiền của Kame. Một cái gì đó âm ỉ bên trong tôi. Trạng thái vừa nôn nao vừa tinh lặng, giống hệt một gã thợ lặn sau bao năm rèn luyện ở những bể bơi nông choèn, cuối cùng, cũng đã lần đầu tiên biết đến sự thẳm sâu của biển. Sự đợi chờ dài như một thế kỷ. Một nụ cười yếu ớt dần xuất hiện trên gương mặt Kame. Tôi chậm rãi tiến vào từng chút một. Lối vào dần rộng hơn. Một cái gì đó từ tốn mở ra, tựa như một đường hầm chứa đầy thứ bóng tối êm dịu có khả năng khiến con người ta chìm đắm. Mi mắt tôi nặng nề khép lại, hơi thở tôi biến thành những tiếng thở dài khoan khoái trước cả khi tôi kịp nhận ra. Chẳng có gì trong tâm trí tôi lúc đó, ngoài cái suy nghĩ duy nhất, thế giới này đang tan chảy. Sau khi tan chảy đến thành phố cuối cùng, đến mảnh đất cuối cùng, đến bộ lạc cuối cùng, đến khoảnh khắc cuối cùng, tất cả mọi thứ sẽ rất nhanh thuộc về luồng bóng tối êm dịu đó. Như bản thân tôi ngay lúc này.

“Jin?”. Giọng nói của Kame nghe xa xôi như thể cậu đang đứng phía bên kia lối ra mà gọi tên tôi. Có một chút ngạc nhiên trong tiếng gọi đó. Tôi hiểu sự ngạc nhiên đó.

Tôi mở mắt ra, nhưng không đáp lại tiếng gọi của cậu. Tôi vẫn ngắm gương mặt cậu, nghe thấy cả tiếng cậu nuốt khan và dõi theo từng giây một cách lưỡi cậu liếm vòng quanh đôi môi ướt của cậu trước khi thả ra một tiếng rên đầy khoái cảm từ tận sâu bên trong cơ thể. Tôi hôn lên ngực cậu, cắn nhè nhẹ vào khoảng da thịt trắng mờ ở nơi đó. Tôi gọi thầm tên cậu trong đầu mình, cùng lúc di chuyển nhanh dần và mạnh dần hơn bên trong cậu. Mắt cậu chết sững trong một thoáng. Và tên tôi bật ra từ môi cậu. Đó giống như một hiệu lệnh bằng lời cậu dành cho riêng tôi. Mọi thứ đã sẵn sàng và cuộc tìm kiếm của tôi bắt đầu ngay sau đó. Đó là chuyến đi dài nhất tôi từng có. Hình ảnh sân ga trắng toát khi nãy đột ngột trở lại trong tâm trí tôi, hiển hiện rõ ràng từng nét một. Tiếng thở ra nặng nhọc của Kame quấn lấy tai tôi. Tôi vùi mặt vào gáy cậu, vòng tay siết chặt cơ thể cậu. Tôi cảm thấy thân thể mình đang dần mềm nhũn đi, như thể dòng máu nóng đang chảy trong huyết quản đã biến thành mật ong, biến tôi thành một gã trai yếu đuối đến tận cùng. Sau khi những khoái cảm và ham muốn chìm xuống, tôi thấy nghạt thở với cách người thanh niên này bao bọc lấy tôi. Sự ấm nóng và chân thành của cậu khiến tôi bật khóc. Ở một mặt nào đó, khi tôi tìm thấy điểm tận cùng của chuyến đi này, cũng là lúc tôi cảm thấy buồn nhất.

Kame buột ra một tiếng rên lớn. Cậu không thể kiềm chế hơn được nữa. Hông cậu tự động rướn cao nhằm đạt lấy một sự tiếp xúc tuyệt đối. Những ngón tay cậu bấu chặt lấy ga giường, có thể sẽ bứt tung nó lên chỉ trong phút chốc nữa. Tôi vỡ oà theo cậu chỉ sau đó ít phút. Mọi thứ thoát ra trong khoảnh khắc đó rồi tắt lịm trong sự im lặng của căn phòng. Tôi nằm xuống trên người cậu, vẫn giữ mình bên trong cậu thêm một lúc nữa. Sự rã rời từ đâu xuất hiện chiếm lấy toàn bộ cơ thể tôi. Tâm trí tôi nhẹ hẫng, lờ mờ một lớp trắng xoá như sương mù đang giăng phủ. Thân nhiệt và tiếng tim đập bên trong lồng ngực Kame là tất cả những gì tôi còn có thể cảm thấy. Một sự vuốt ve trìu mến khác, đang hiện diện trên tóc và gương mặt tôi. Nụ cười mệt mỏi hiện ra trên mặt Kame. Tôi nhìn theo cử động của những ngón tay cậu khi chúng sượt ngang mắt tôi trước khi ngừng lại để mân mê nhẹ nhàng nơi gò má tôi. Từ chúng phát ra một thứ ánh sáng làm tôi nhức mắt. Tôi cảm thấy tốt hơn hết là tôi có thể khóc được một chút vào lúc này. Nước mắt sẽ làm dịu nỗi nhức nhối trong trái tim tôi.

Chuyển động chậm chạp của kim đồng hồ không mảy may vang lên một tiếng động. Căn phòng vẫn đang trong cuộc hành trình trôi dạt của nó. Chúng tôi là những kẻ sống sót. Chúng tôi biết cách giữ im lặng và trong sự im lặng đó cảm nhận nhau bằng tất cả những giác quan của mình. Ở giờ phút này, xung quanh nơi đây, chỉ một sự im lặng thần thánh đang im lìm ngự trị.

Bằng một cách nào đó, chúng tôi đã vừa cùng nhau đi đến tháp Tokyo.

Màu sắc của bầu trời nơi phương xa ấy, sau ô cửa mở rộng, qua những thoáng ẩn hiện bởi cao ốc và cây cối, đang biến chuyển trong sự im lặng không lời. Có lúc, nó yên lặng và trắng nhợt như một con thuyền đương trôi giữa biển trắng. Có lúc, những dải mây đủ màu cồn lên và va nhau mãnh liệt trong một cuộc tranh chấp không khoan nhượng. Rồi cũng bầu trời đó, trong buổi sáng ngày hôm đó, có lúc bỗng chỉ là một màu xanh nhạt cứ không ngừng mở ra, từng chút từng chút một.

Tháp Tokyo hiện ra trong màu xanh ấy, là một mỏm núi cô đơn kiêu hãnh với sắc màu của lửa đỏ và đỉnh tháp sắc nhọn cao vút của mình. Sự hiện diện của nó đánh tan ý niệm tôi đang ở trong một giấc mơ hoang đường nào đó.

Một hồi lâu, Kame lách ra khỏi người tôi, ngồi dậy. Cậu với tìm gì đó trong túi áo khoác treo trên thành ghế gần đó. Khi nhoài người ngang qua tôi, lưng cậu hiện ra hoàn toàn trong tầm mắt tôi. Trần trụi và trắng nhợt, nó khiến tôi vô cớ cảm thấy đau lòng.

Khói trắng phả ra từ đầu thuốc của cậu ta ngay sau đó càng khiến căn phòng chìm sâu trong mộng mị. Tôi ý thức ra được tình cảnh hiện tại của mình. Cơn lạnh lúc ban mai đang bắt đầu tấn công làn da trần của tôi. Náu mình bên dưới chiếc chăn dày nhưng cơ thể tôi vẫn run lên từng chặp một. Kame vẫn yên lặng nhả khói, mắt nhìn về phía cuối phòng. Tôi quấn chân mình vào chân cậu. Tôi lấp đầy vòng tay mình bằng cơ thể cậu. Và, tạm yên lòng với cảm giác da thịt chúng tôi tiếp xúc với nhau.

“Tôi muốn đến Hokkaido.” Kame bỗng nói. Cậu nói mà không nhìn tôi, mắt vẫn lơ đãng thả trôi đâu đó trong những góc tối của căn phòng. Tôi cựa người khe khẽ, từ vị trí đang nằm chỉ có thể nhìn thấy một góc nghiêng gương mặt của Kame. Cũng trong lúc đó, trí nhớ tôi tự động quay ngược về những sự kiện đã từng diễn ra ở cái tên địa danh Kame vừa nói đến.

Hokkaido à? Cartoon KAT-TUN đã từng nói về nó. Nakanishi, tôi và Yoichi, một cặp đôi AD lý tưởng chứ chẳng chơi. Boro, boro? Nghe cứ như tên gọi tắt của một loại bóng rổ nào ấy ha? Không phải đâu. Chỉ là một tên gọi khác của chất bài tiết do bọn ngựa khó thương ở hòn đảo phương Bắc ấy thải ra thôi mà. Hokkaido, tôi đã từng có một hình ảnh rất oai vệ ở Hokkaido. Trong một trang trại ở nơi đó, tôi đã bổ được một khúc gỗ lớn hơn cả người mình thành hơn mươi mẩu nhỏ. Để rồi đêm đầu tiên về lại Tokyo sau đó, tôi đã nằm mơ thấy kiếp trước của mình - một chủ trại oai phong lực lưỡng quản lý cả một đồn điền to!

Ngay tức khắc, tôi ra lệnh cho bộ não chấm dứt ngay cái công việc hồi tưởng ngu ngốc mà nó đang làm.

Kame vẫn đang nói tiếp một điều gì đó.

“…Tôi muốn nhìn thấy những cánh đồng ở Hokkaido, thị trấn nhỏ của nó, những hồ nước và cả những rừng thông luôn luôn xanh lá. Tôi đã luôn muốn đến nơi đó, một chuyến đi chỉ cho ý muốn của cá nhân tôi, không liên quan đến công việc hay vì bất cứ lý do nào khác. Jin, anh có hiểu như thế nghĩa là gì không? Ồ không, không phải như thế đâu. Tôi biết anh và Maru đã từng đến Hokkaido một lần nhưng giờ thì hãy tạm quên nó đi. Hãy nghe tôi nói, Jin. Anh có hiểu như thế nghĩa là gì không? Nó giống như là một ngày đẹp trời nào đó, anh thức dậy, trong đầu chẳng có suy nghĩ gì khác ngoài việc ‘mình phải đến Hokkaido’. Thế là anh lập tức bắt tay vào thu xếp đồ đạc, đi thẳng đến sân bay, mua ngay một chiếc vé mà không cần phải qua bất cứ khâu đặt trước nào. Rồi anh vào phòng chờ, vài phút sau đã ở giữa bầu trời. Vài tiếng sau nữa thì anh đặt chân đến Hokkaido.

Đến Hokkaido rồi, thì sao? Sau đó sẽ thế nào? Anh vừa lo sợ vừa phấn khích, vì anh chẳng có bất cứ kế hoạch nào trong đầu cả. Anh giống như một người vừa đi vừa dọ dẫm tìm đường. Đầu tiên, phải có chỗ ăn và chỗ ngủ. Thế là anh tìm đến một khách sạn nào đó, không cần phải quá cao cấp hay xa xỉ, chỉ cần phòng có ban công nhìn ra hồ và trong nhà hàng có phục vụ tiệc nướng sushi vào buổi tối. Ban ngày anh sẽ đi dạo ngắm cảnh, chụp ảnh cho đến khi thẻ nhớ hết chỗ trống, lần lượt đi thăm hết các cửa hiệu bán quà lưu niệm địa phương. Ban đêm, thay vì dán mắt vào truyền hình, anh sẽ ra hàng hiên phía trước ngồi uống sake hâm nóng và tán đủ mọi thứ chuyện với những gia đình du khách khác. Đúng, chính là như thế. Cuộc sống như thế sẽ diễn ra trong khoảng năm hoặc bảy ngày. Quãng thời gian ngắn ngủi đó, anh chớ coi thường nó, nó sẽ quấn lấy anh, chui vào não, lọt vào tim và ở mãi trong lòng…

Nhưng rồi một buổi sáng nọ, sau khi thức dậy, anh bỗng nhận ra đã đến lúc phải quay trở về rồi. Thế rồi mọi việc sẽ diễn ra y hệt như trước, chỉ là theo chiều ngược lại mà thôi. Anh sẽ đi khỏi Hokkaido. Anh sẽ trở về Tokyo, thành phố ồn ào này sẽ lại có được anh. Sẽ lại làm việc, chạy show, phim ảnh, quan hệ này nọ, hẹn hò này kia, bar và pub, nhưng thỉnh thoảng nếu rảnh rỗi anh sẽ có thể ngồi một mình, ngắm ánh nắng trên đường phố mà nhớ về Hokkaido đôi chút. Kỷ niệm cũ sẽ làm cho lòng chúng ta cảm thấy ấm áp hơn, đúng không?

Jin này, tuần sau là tuần lễ vàng rồi, chúng ta sẽ được rảnh rang đôi chút. Hokkaido. Anh có muốn cùng đi đến đó với tôi không?”

Trong suốt lúc Kame nói, không hiểu sao tôi lại lơ mơ nghĩ đến một chiếc khinh khí cầu. Sự trống rỗng bên trong nó và trạng thái chuyển động bất định nó luôn luôn bị đặt vào. Tôi muốn nói một cái gì đó mang tính động viên với Kame. Giống như là, ‘ồ, kế hoạch du lịch ngắn ngày tuyệt quá, cậu nhất định phải đi đến đó nhé, Kamenashi. Rồi mua thật nhiều món đặc sản và quà lưu niệm về cho bọn tôi’. Câu nói mà bất kỳ một người quen sơ giao nào cũng có thể dễ dàng nói ra.

Nhưng, khác với âm trầm thường thấy, vào lúc đó, một cảm giác mơ hồ và mỏng tang bao bọc lấy câu nói của cậu, đến mức tôi có cảm giác nó là thứ bột mịn nào đó đã được tán nhuyễn ra trước khi rải xuống tôi từ một bàn tay ai đó ở trên cao.

Tôi không tìm đâu ra sức lực để trả lời câu hỏi của Kame. Tôi im lặng như một con baba già đang lúc nhớ nhung ngôi nhà biển cả của mình, xúc động đến mức không nói nổi nên lời. Rồi chuyện xảy ra tiếp theo thiệt tệ, con baba già cả bắt đầu khóc, làm cho mắt tôi cũng nhanh chóng ướt mèm theo. May mắn là Kame không phát hiện ra việc này. Lâu thật lâu không thấy tôi nói gì, cậu ấy chỉ cúi xuống, trong hơi thở có mùi khói và những ngón tay ra sức tìm kiếm gương mặt tôi.

“Jin, anh nói xem, anh có muốn đi cùng tôi không?”. Câu hỏi được nhắc lại thêm một lần nữa. Cánh cửa lại được mở ra thêm một lần nữa. Cánh cửa dẫn đến một phần thẳm sâu luôn giấu kín của Kamenashi, luôn cho phép và chờ đợi tôi bước vào.

Nhưng tôi vẫn chỉ im lặng.

Trong khoảnh khắc đó, khi cậu ấy lặp lại tên tôi nhiều lần, giọng vang cao đầy bất an như thể lo sợ rằng mình đang yêu cầu một điều gì đó không được phép, tôi bỗng nhiên nhớ đến lời Ueda nói trong quán bar ở Ginza lúc tối.

Kame không bao giờ từ chối tôi ư?

Sai rồi.

Là tôi không thể nào từ chối cậu ấy thì đúng hơn.

IV.

Mưa lớn. Những vệt mây màu xám đục như dán chặt vào bầu trời. Với sự giúp sức của những cần gạt nước đang làm việc hết công suất, đám ô tô bốn bánh xếp thành một hàng dài, kiên nhẫn đứng chờ đèn đỏ ở ngã tư phía trước khu Oto. Vài cửa hàng đã treo biển Closed kể từ lúc có tin cơn giông đột ngột kéo về thành phố từ bán đảo Enoshima phía Nam. Ngang qua các cửa tiệm lớn, cách mỗi giờ, bản tin về thời tiết lại đều đều vọng ra bằng giọng nói vô cảm của người biên tập viên.

Tôi đi nhanh trên vỉa hè, che một chiếc ô màu nâu sẫm, cố hết sức tránh sát vào trong mỗi khi một chiếc ô tô nào đó từ xa lao tới, đèn pha sáng choang nhưng vẫn không xuyên thủng qua được màn mưa dày đặc. Ở phía trước, cách tôi mười hai bước chân và một vị khách bộ hành đang hối hả đi về hướng ngược lại, là Kame. Chiếc ô màu xanh rêu của cậu ấy di chuyển nhanh và đều về phía trước. Những bước chân siêng năng và cần mẫn, tựa như chủ nhân của nó không hề mảy may quan tâm đến bất cứ việc gì khác. Như thể việc quan trọng nhất của cậu ta trong ngày mưa hôm nay chỉ là đi dọc theo vỉa hè mà thôi.

Chúng tôi đang đi đến khu Shinjuku. Là tôi suy đoán thế. Kame vẫn chưa một lần đả động đến địa điểm nào kể từ lúc chuyến đi bắt đầu.

Buổi tập chiều hôm nay đã được hoãn lại vì chuyên gia vũ đạo, vốn là một người Mỹ gốc Nhật chỉ vừa đến Nhật ba ngày trước theo lời mời của Jimusho, đã không cách nào tìm được đường đến công ty trong một thời tiết tồi tệ như thế này. Bị kẹt ở một trục đường nào đó ở khu Saeki, nhưng anh ta vẫn cố tìm ra một buồng điện thoại, gọi đến công ty, giải thích và xin lỗi bằng thứ tiếng Nhật chập chững của mình. Và thế là chúng tôi bỗng dưng có được một buổi chiều rảnh rỗi. Như mọi khi, Junno ngay lập tức ôm cái máy game của mình chạy biến. Ueda lôi ra từ mọi ngóc nghách của công ty hàng tá tạp chí và đắm mình vào đấy. Koki sau khi rap chán chê đã đời trong phòng kín, cũng phải đầu hàng thứ âm thanh dai dẳng của trời mưa, trở ra sofa đánh một giấc. Maru lại cho rằng đây là một tiết trời đầy thi vị để khởi nghiệp với thơ ca, thế nên, khi lẳng lặng rời khỏi phòng cùng với Kame, tôi đã nhìn thấy anh ta ngồi suy tư bên cạnh cửa sổ cùng giấy bút trong tay.

Trước đó, Kame vẫn rất ngoan ngoãn ngồi đọc thư của fans ở ghế sofa. Nhưng rồi, như thể một sự kiện quái quỷ gì đó đã xảy ra, cậu ta đột nhiên đến gần, không nói lời nào, chỉ kéo nhẹ lưng áo tôi và sau đó biến mất ở phía cửa.

Năm phút sau đó, khi xuống tầng trệt, tôi nhìn thấy Kame đang đứng chờ sẵn ở một góc khuất gần lối ra vào. Nữ nhân viên trực ở quầy tiếp tân còn mải chú mục vào một chương trình gameshow trên internet. Kame đưa cho tôi một trong hai chiếc ô cậu chuẩn bị sẵn. Vẫn không nói thêm lời nào, hệt như một kẻ bí ấn thứ thiệt đã qua chương trình đào tạo bài bản, cậu kéo cao cổ áo khoác, bật ô, rồi lao mình vào màn mưa.

Thế đấy. Tôi chẳng có lấy một cơ hội hay chút ít thời gian để mà kịp phàn nàn lấy một tiếng.

Mùa hạ thường mang lại một sự buồn chán khó nói cho Tokyo. Bằng một cách nào đó, mỗi khi mưa xuống, thành phố lại bị quây tròn trong một sự chậm chạp rất có tác dụng ru ngủ. Tựa như vào những lúc đó, chỉ có cơn mưa là thực thể duy nhất sống động ở nơi đây. Mọi thứ khác, nhà cửa, xe cộ, con người, tiếng nói, âm thanh, chuyển động, những diễn biến cảm xúc… đều chỉ còn lờ mờ ẩn hiện trong một trạng thái chậm chạp, trì trệ.

Đi được hơn hai mươi phút, khi tôi bắt đầu nhận ra sự quen thuộc của những ngả đường và nghĩ rằng mình có thể đoán ra được đích đến của chuyến đi này, thì Kame lại đột nhiên rẽ quặt vào một con phố nhỏ. Một con phố đi bộ với cái tên khá lạ, San Gatsu, Tháng Ba. Ngay lập tức, tôi rơi vào một suy đoán mới về mục đích thật sự của cậu.

Những cửa hiệu nhỏ nằm san sát cạnh nhau dọc theo hai bên lối đi. Phần lớn trong số đó đều đã buông kín mành. Dăm bảy hiệu sách gia đình, hàng cá kiểng dành cho dân chơi nghiệp dư, trà quán lâu năm với dư vị tinh nồng đặc trưng không lẫn đi đâu được ngay cả trong một cơn mưa, cửa hàng vải danh tiếng Phồn Thịnh, cả cửa hàng bán văn phòng phẩm. Trên đường không có nhiều người qua lại cho lắm. Chúng tôi vẫn cách nhau một quãng dăm bảy bước chân. Bị bóng ô che khuất, tôi chỉ có thể trông thấy thân người của Kame. Cậu mặc một chiếc áo choàng dài, vải dạ, che kín hoàn toàn bộ trang phục thường ngày bên trong. Theo thói quen, tay trái cậu thọc sâu vào túi áo choàng. Từ lúc chúng tôi rời khỏi công ty cho đến giờ, cậu chưa một lần ngoái lại tìm kiếm tôi. Tôi vừa thấy chán ghét thái độ này của cậu vừa bị nó làm cho thoả lòng. Là một sự tin tưởng rất mực hoặc một sự lạnh nhạt hoàn toàn, tôi cứ mâu thuẫn trong hai sự lý giải khác nhau như thế.

Cuối con phố có một ngã ba khác. Kame đột ngột dừng lại khi gần đến nơi đó. Cậu ngước lên nhìn một cửa hàng bên tay phải của mình, sau đó chỉ đứng yên dưới mưa. Khi tôi đến gần hơn, cậu quay mặt lại, nói khẽ khàng từng tiếng một.

“Đến nơi rồi.”

Tôi quay qua nhìn, tìm kiếm tên quán. Chẳng có gì cả ngoài một chiếc thìa gỗ to, cao cỡ ngang vai một người lớn treo phía trước lối vào, trong lòng thìa là một hàng chữ dài những chữ Kanji viết theo chiều thẳng đứng. Ngày thứ hai tốt lành. Hmm? Một cái tên như thế có phải là quá dài dòng và quá không liên can gì đến một cửa hàng ăn uống không? Nó nghe giống như một lời chúc, tuy rằng hơi kém nhiệt tình một chút nhưng lại có thể dành cho bất cứ ai. Giống như là, sự quan tâm của người chủ cửa hàng san ra thành những phần đều nhau và dành cho tất cả mọi người. Mỗi đợt gió thổi qua, chiếc thìa lại đung đưa chậm chạp. Bộ dạng của nó gợi lên một sự chậm rãi và lười biếng hệt như cơn mưa ngoài kia.

“Hay thật đấy, chúng ta lội bộ trong mưa chỉ để đến đây ăn mì hả?” Tôi nói, giọng hạ xuống thành một tiếng thì thầm đầy ý châm chọc. Thực ra thì tôi đang khá bực.

Nhìn tôi trong một lúc, Kame đáp chậm rãi. “…Vì tôi đói.” Cậu chẳng cười. Rồi sau đó cũng không giải thích gì thêm.

“Cậu sẽ mời tôi chầu này phải không?” Tôi hỏi lớn. Nhưng trước khi người đối diện kịp trả lời, tôi đã bước qua mặt cậu tiến vào bên trong.

Tấm mành gỗ vừa được kéo qua, một bầu không khí ấm sực lập tức thổi vào người tôi. Một lò sưởi to đang tí tách cháy ngay bên dưới quầy bếp của cửa hàng. Trong khi xung quanh đó, trên bốn mặt tường của quán, là những tấm ảnh màu khổ lớn về những tô mì trông ngon lành hết sức. Chủ quán là một người trung niên chừng năm mươi tuổi, tỏ ra khá bất ngờ khi trông thấy chúng tôi. Hẳn là ông ta đã chẳng trông mong gì cửa hàng sẽ có khách trong một thời tiết như thế này. Ông ta sẽ xúc động vì sự xuất hiện không thể ngờ đến của hai vị khách tận tâm đã đến với ông ta trong mưa gió, và sẽ chiếu cố đặc biệt cho hai suất mì của chúng tôi chăng? Có thể lắm.

Sau khi gấp lại ô và đặt nó ở khu vực dành riêng cho khách, Kame chọn một bàn gần lò sưởi rồi cả hai bắt đầu xem qua thực đơn. Trong thời gian đó, sau vài câu chào mừng hồ hởi, chủ quán lại trở về với quầy bếp của mình. Dường như ông ta đang dở tay một công đoạn quan trọng nào đó. Nhưng chỉ sau chừng vài phút, Kame đã có vẻ chán. Thay vào đó, cậu ta quay sang cởi áo khoác và rũ nước ra khỏi tóc mình. Tôi để ý thấy gương mặt cậu giờ đây đã rạng rỡ hơn lúc đầu ngày rất nhiều. Cử chỉ linh hoạt khi cậu lấy đũa và tách chúng ra cho cả hai. Thực đơn trong quán không quá phong phú và hầu hết đều chỉ liên quan đến mì. Có vẻ như đây là một cửa hàng với những bí quyết về mì được gia truyền từ đời này sang đời kia.

“Thế nào?” Kame hỏi. Tôi ậm ừ trong cổ họng, thi thoảng lại ngước mắt nhìn quanh những tấm ảnh màu treo phía bên trên. Tuy rằng đã nghiền ngẫm cái thực đơn hơn mười phút nhưng tôi vẫn chưa chọn được món nào. Cơ bản là vì tôi không thật sự đói cho lắm.

Kame im lặng nhìn tôi trong vài phút. Và bỗng dưng tôi có cảm giác kỳ lạ rằng cậu đang muốn nói một điều gì đó chẳng hề liên quan gì đến mấy món mì này. Thế rồi, cậu ấy chỉ đơn giản là hướng về phía quầy, gọi to.

“Ông chủ, cho chúng tôi một suất mì hải sản.”

“Hửm? Chỉ một suất thôi à?” Người trung niên ngẩng khỏi mặt thớt, hỏi bằng giọng điệu đầy vẻ ngạc nhiên. Thắc mắc của ông ta hệt như của tôi.

“Vâng, một suất lớn…” Kame chỉ cười, rồi cậu nói thêm, hơi nhỏ giọng. “Chúng tôi đã lỡ chi quá tay ở cửa hàng bách hoá lúc nãy. Và chúng tôi cũng không quá đói.”

Người chủ quán gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Ông hỏi thêm vài điều về các yêu cầu đối với gia vị rồi quay đi với công việc của mình. Riêng tôi vẫn chỉ nhìn cậu ấy chăm chăm. Nói dối. Kamenashi Kazuya vừa nói dối. Tuy rằng chưa lần nào đến đây, không biết chính xác được giá cả của cửa hàng này như thế nào nhưng tôi tin rằng số tiền mang theo trong người mình lúc này hoàn toàn có thể chi trả được cho hai phần mì hải sản. Kame cũng chẳng phải dạng người có thể ra đường mà trong người có ít hơn mười ngàn yên phòng thân. Hmm, cậu ấy thật ra là đang có ý đồ gì đây nhỉ?

“Jin, đừng nhìn tôi như thế nữa, được không?” Cuối cùng thì cậu ta cũng phải ngẩng lên, nhìn tôi một cách van nài.

“Hử? À, tôi chỉ thấy hôm nay cậu khó hiểu quá đi mất.” Tôi trả lời.

“…” Giờ thì Kame lại nhặt cái thực đơn lên và tỏ ra bận rộn với việc xem xét nó.

“Lại còn có vẻ dễ thương hơn mọi ngày nữa đấy”. Tôi vẫn tiếp tục nhận xét một cách rất chi là thành thật, nhấn mạnh chữ ‘dễ thương’ một cách nghiêm túc hết sức có thể.

“Đã bao lâu rồi anh không đi đến mấy quán như thế này?” Câu hỏi khá đột ngột. “Không tính những lần nhóm mình đi chung nhé”.

Tôi nhẩm tính trong đầu trước khi trả lời. “Khoảng hơn một tháng. Với bọn Ryo và YamaP, bọn này vẫn thường hay---”

“Thôi được rồi Jin. Thế là quá đủ để hiểu rồi”. Câu trả lời của tôi bị cắt ngang một cách đầy lịch sự theo kiểuKamenashi. Cái gì chứ? Tôi đã nói quá nhiều sao? Khỉ thật, tôi cảm thấy sốc một chút vì bị đối xử chẳng chút nể nang nào như thế, thật sự đấy. Trong lúc đó Kame đã nói tiếp chẳng chút do dự. “Còn tôi là một năm hai tháng.”

“Cậu tính kỹ từng ngày thế à?” Tôi ngạc nhiên, rồi nói thêm, một cách kẻ cả và châm chọc đầy cố ý. “Như thế cũng chứng tỏ quan hệ xã hội của cậu quá kém, cần phải cải thiện lại. Bạn bè rất thường rủ nhau đi ăn quán vào cuối tuần như thế này. Nhậu nhẹt, tán dóc, thông báo tình hình các thứ cho nhau biết, đại loại thế, cậu biết đấy?”

“Nói cũng phải.”

Sự đồng ý chóng vánh của Kame khiến tôi tự nhiên chẳng biết nên nói gì nữa. Có vẻ gì đó như là nhẫn nhịn và cam chịu trong cách cậu nói khiến tôi cảm thấy nói thêm bất cứ điều gì liên quan đến việc này nữa cũng là một tội ác. Tôi im bặt đi và vờ ngó vu vơ xung quanh quán để khỏi phải nhìn về phía Kame. Vừa lúc đó, may thay, chủ quán xuất hiện trở lại cùng một chiếc xoong to. Suất mì hải sản đặc biệt dành cho hai người của chúng tôi. Từ phía xa, trông nó thật hấp dẫn với những lọn khói mỏng không ngừng bốc lên và màu vàng óng của những vắt mì nằm gọn gàng trong lòng chiếc xoong trắng bạc.

“Itadakimasu!”

Chúng tôi cùng lúc cúi đầu và đồng thanh nói.

Tôi chưa vội đụng đũa ngay. Mì tuy đựng trong chiếc xoong lớn nhưng nếu xoay sở không khéo thế nào cũng xảy ra va chạm trong lúc cả hai cùng nhau ăn. Thế nên, cũng như lúc đi trong mưa để đến đây, chúng tôi lại kẻ trước người sau tuần tự thay phiên nhau ăn cho đến hết khi hết nhẵn mì trong xoong.

Kame là người ăn đầu tiên. Cậu ấy nhích người về phía trước, dùng đũa khéo léo quấn gọn một vòng mì và cho vào miệng. Đó quả là một bát mì ngon. Nước dùng màu vàng nhạt, lăn tăn những gợn mỡ màu vàng trong, sợi mì dài, mập tròn, màu sắc tươi tắn, nặng trĩu trong lòng thìa. Hải sản trắng phau được thái thành những khối hình vuông vức. Vài khoanh ớt đỏ điểm xuyết xung quanh đó và những lát hành xanh tạo nên một mùi thơm đặc trưng cho món mì Trung Hoa. Chưa kể đến làn khói trắng mỏng tang cứ lừng lững bốc lên trước mặt chúng tôi, càng tạo thêm một cảm giác huyễn hoặc quá mức cho việc thưởng thức một bát mì.

Có một vài cảm giác lạ lùng sẽ dần dần sinh ra trong quá trình thưởng thức một bát mì Trung Hoa? Bỗng dưng, mùi vị đối với tôi không còn là mối quan tâm hàng đầu nữa. Khoảng cách quá gần, không gian quán quá nhỏ, sự im lặng đến mức nghe rõ tiếng củi reo trong lò sưởi, khí lạnh ẩm ướt của một ngày mưa, tất cả những điều đó giống như một phông nền mờ tối, làm nổi bật gương mặt người thanh niên ở phía đối diện. Trong những đường nét quen thuộc thường ngày bỗng toát ra sự linh hoạt lạ lẫm khó diễn tả. Mồ hôi li ti rịn ra trên trán, trên chóp mũi và cả xung quanh khoé miệng Kame vì hơi nóng bốc lên. Tiếng động nho nhỏ phát ra khi cậu ấy nhai mì, đặc biệt là những miếng hải sản quá dày. 

Sau hết, đúng kiểu cách của một kẻ ăn mì Trung Hoa tôi thường thấy trên ti vi, cậu ấy bưng chiếc xoong lên và húp một ngụm lớn nước dùng. Sự thoả mãn về vị giác hiện ra ngay sau đó, qua cách chuyển động nhịp nhàng của yết hầu nơi cổ cậu và khi đặt xoong mì xuống, ánh mắt cậu nhìn tôi trong một thoáng ngây đi. Ánh mắt chỉ có khi người ta cảm thấy quá mãn nguyện về một điều gì đó…

Tôi cắn đầu đũa giữa răng, băn khoăn quan sát hết thảy những biểu cảm trên gương mặt cậu. Tôi cảm thấy mình nên tin rằng Kame thực sự đã rất đói trước khi đến đây, vì sự thoải mái có phần tuỳ tiện ngay lúc này của cậu hoàn toàn trái ngược lại con người luôn kính cẩn cầu toàn trong mọi việc mà tôi từng biết. Thậm chí, khi được tôi nhắc nhở về vệt nước vô ý dây ra bên khoé miệng, cậu cũng chỉ cười phá lên rồi điềm nhiên giật một miếng khăn giấy lớn lau đi mà chẳng tỏ ra chút ngượng ngùng nào. Chỉ có hai khả năng đối với con người này. Một là cậu ta có khả năng nhiệt tình trong bất cứ chuyện gì cậu ta tham dự vào. Hai là khoảng thời gian một năm hai tháng kia đã khiến cho ăn mì trở thành việc hạnh phúc nhất đối với cậu.

“Không ngon à?”

“Huh?” Tôi hơi giật mình vì câu hỏi đột ngột.

“Anh hầu như chẳng ăn gì cả” Kame chỉ vào đôi đũa trên tay tôi, ngờ vực.

“À, tôi không đói cho lắm” Tôi cười trừ.

“Thật chứ?” Cậu ta vẫn không chịu tin.

“Thật. Vì lúc nãy tôi đã lén ăn cái bánh sandwich của Junno rồi. Haha, cậu biết đấy, cậu ta giấu nó sau chồng đĩa demo, nhưng mũi tôi rất thính. Thế là tôi chén sạch ngay khi phát hiện ra. Chắc giờ cậu ta đang khóc lóc ở Ji---“

“Tôi cũng không phải là quá đói như tôi nói lúc nãy đâu.” Kame điềm nhiên cắt ngang tràng huyên thuyên của tôi.

“Hả?”

“Tôi đã nói dối một chút.” Cậu ta ngẩng lên, nói chậm từng tiếng.

“Vì tôi là một thằng mà mọi người xung quanh luôn có thể cho vào tròng một cách dễ dàng chứ gì?” Tôi không thể kiềm được, cũng không kịp xem xét xem câu mình vừa nói ra có mang thái độ gây hấn quá hay không.

“Không quá rắc rối như vậy đâu Jin.” Kame lắc đầu, ngập ngừng một chút trước khi nói tiếp. ”Chỉ vì tôi muốn chúng ta có thể ăn mì cùng với nhau.”

Tôi thở mạnh ra hơn, bắt đầu cảm thấy mình đúng là một tên ngốc chân chính. Xem xem cậu ấy đang muốn nói đến cái gì kia kìa?

“Cùng ăn với nhau một xoong mì. Chính xác hơn thì là vậy. Vì tôi cho rằng việc này cũng hay, nó thể hiện cho việc chia sẻ và gắn kết ở một mặt nào đó. Bữa ăn là biểu tượng của gia đình và hơi ấm, có phải không?”

Lời bày tỏ đột ngột khiến tôi lặng người đi. Kame vẫn tiếp tục nói.

“Lần sau tôi sẽ hỏi ý anh trước, hoặc là nói rõ ràng hơn về những gì tôi nghĩ, vì tôi hay suy nghĩ linh tinh lắm, haha, trước khi quyết định làm một cái gì đó. Như thế thì sẽ tốt hơn, nhỉ?” Kết thúc câu nói, môi dưới hơi mím lại, cậu nhìn thẳng vào tôi.

Tôi lắc đầu ngay lập tức. Và thiệt tình cảm thấy 'lắc đầu' đúng là cái việc vô tích sự nhất trên đời mà tôi có thể làm. Suốt thời gian còn lại, một lời tôi cũng không nói được. Tôi chỉ có thể ngăn lại việc thu dọn sau đó của người chủ quán. Xoong mì chẳng còn lại gì nhiều cả. Nhưng khi hớp vào miệng ngụm nước dùng đã nguội đi của nó, tôi như nhìn thấy biểu tượng mà Kame nói. Với tôi, nó tượng trưng cho sự yên bình đơn giản, là sự im lặng thấu hiểu và nét cười nhẹ nhõm trong ánh mắt sau đó cậu ấy dành cho tôi.

~*~

Bên khu Shinjuku, tấm màn mưa mỏng hơn. Có lẽ đến tối nó sẽ dứt hẳn. Tuy thế, những con phố sầm uất ngày thường của khu thương mại nổi tiếng cũng không còn sinh động như mọi khi. Khách hàng thưa thớt và những bảng đèn neong đủ màu bị màn mưa pha nhạt, trở nên ảm đạm hơn hẳn. Lúc đi ngang qua công viên quốc gia, chúng tôi trông thấy một nhóm học sinh cao trung túa ra từ lối lên xuống của ga xe điện ngầm, có vẻ như vừa đi du lịch xa trở về, điệu bộ mệt mỏi, kéo lê những valise và túi lớn trên hè phố. Vài cửa hiệu café đầy ắp khách. Cảm giác ấm áp từ những không gian khép kín sáng ánh đèn chật kín người đó thấm qua lớp kính mỏng, lan ra cơn mưa lạnh lẽo bên ngoài, đến cuối cùng chỉ còn là những ấn tượng lờ mờ đọng lại bên trên những đại lộ sũng nước.

“Tại sao lại là Shinjuku?” Kame lên tiếng hỏi khi những toà nhà cao tầng ngày càng hiện ra gần hơn trong tầm mắt. Chúng tôi không che ô nữa, chỉ sóng bước đi cạnh nhau.

“Vì tôi muốn đi tìm mua một cái máy ảnh Polaroid. Nó có thể tráng phim ngay sau khi chụp, rất tiện…” Tôi ngừng một chút rồi mới nói tiếp. “…khi đi du lịch”

“Này Akanishi Jin!” Rất nhanh, Kame gọi giật cả họ và tên tôi. Thêm một lần nữa cậu ấy phá ra cười không lý do. Tôi không thèm hỏi nguyên do vì sao cậu cười. Tôi thành công tuyệt đối trong việc vờ như chăm chú nhìn xuống lối đi bên dưới, trong khi thật ra tôi muốn biết cậu ấy đang nghĩ gì trong đầu chết đi được. Đừng nói là cậu ấy đã quên mất rồi. Chỉ mới năm ngày trước đó, chính Kame là người đã khơi ra chuyến du lịch ngắn ngày đến Hokkaido. Và giờ thì là lúc tôi trả lời. Chỉ là tôi quá ngượng để có thể nói ra một cách rõ ràng toàn bộ câu trả lời của mình mà thôi.

“Hokkaido, Kame, Hokkaido ấy!” Năm phút ngắn ngủi và dài vô tận. Rồi tôi nghe thấy giọng nói quen thuộc của chính mình vang lên. Trời ơi, nó nghe mới tuyệt vọng làm sao.

“Tôi biết.” Cậu ấy nhìn nhanh sang tôi, dáng vẻ điên rồ vừa nãy đã hoàn toàn biến mất, chỉ đáp lại một câu hoàn toàn đơn giản như thế. Cùng một nụ cười rạng rỡ trên môi.

“Cậu biết gì?” Tôi ngừng hẳn lại giữa lối đi.

“Anoo, Hokkaido, chúng ta…” Hừm, tôi hoàn toàn có thể nhận ra Kame đã cố tình bỏ lửng câu nói trong vài giây. “…sẽ đi cùng nhau đến đó, trong tuần lễ vàng của năm nay, có đúng không?”

Để trả đũa lại, tôi giả tảng như chẳng nghe thấy gì và tiếp tục bước đi ngay sau đó. Cậu ấy ngay lập tức kêu lên.

“Ồ Jin, thái độ tệ quá, anh giận dỗi vì tôi thông minh đoán ra được ý anh đó à?”

“Không phải.” Tôi đứng lại, kéo quấy quá hai vạt áo khoác của mình, rồi quay mặt về phía Kame, nói một cách nghiêm nghị. “Vì bị cậu đoán đúng nên tôi thấy mắc cỡ một chút thôi. Tôi biết cậu là một cậu bé thông minh lanh lợi, Kamenashi-kun, nhưng chưa ai nói với cậu là cần phải tỏ ra ngốc nghếch trong một số trường hợp đặc biệt hay sao?”

Mưa trở nặng hạt ngay sau câu nói của tôi. Đám người đi đường chạy nhốn nháo về phía quầy che phía trước các cửa hiệu để tránh mưa. Kame bật ngay chiếc ô cầm ở tay, bước lại gần tôi. Trước khi kéo tôi đi về phía dãy cửa hiệu chuyên bán các hàng điện máy gần đó, cậu nói rõ ràng từng tiếng một.

“Tôi đã hiểu rồi. Đi du lịch cùng nhau là một trong những trường hợp đặc biệt đó, có đúng không?”

Đời nào tôi chịu thừa nhận cậu đúng trong trường hợp này kia chứ, baka Kamenashi.

---

Mặt tiền bên ngoài tương đối bình thường nhưng không gian phía bên trong Cửa tiệm 100 yên số 2 lại dài và sâu, giống hệt bên trong lòng một chiếc xe buýt. Ánh sáng màu trắng nền nã phủ lên nơi này. Ngồi bên cạnh một bể cá kiểng nhỏ, chủ tiệm phe phẩy chiếc quạt giấy vẽ chi chít chữ Kanji trên tay, không buồn đứng dậy chào khách, chỉ ném về phía chúng tôi một cái nhìn tò mò hồ hởi.

“Chúng tôi muốn tìm mua một chiếc máy ảnh Polaroid.” Kame nói.

Mày ông ta nhíu lại trong một thoáng rồi nhanh chóng giãn ra bằng câu trả lời ngắn gọn. “Chỗ chúng tôi không có.”

“Eh??? Một người bạn bảo với tôi rằng có thể tìm thấy nó dễ dàng ở Shinjuku---“

“Nhưng không phải ở một Cửa tiệm 100 yên, thưa quý khách!” Câu nói của tôi bị cắt ngang. Hẳn nhiên là tôi đã bịa ra “người bạn” đó. Mưa đã phủ thành một tấm màn dày bên ngoài cửa tiệm. Và tôi chỉ cố tìm một cái cớ đôi co với ông ta, hòng kéo dài thêm thời gian hợp lý ở lại nơi này.

“Anoo, chúng tôi có thể xem qua các mặt hàng ở nơi đây không ạ?” Giọng Kame lại vang lên. Rõ ràng là cậu có cùng cách nghĩ như tôi.

“Dĩ nhiên, các cậu cứ tự nhiên.” Ông ta dùng quạt chỉ một vòng qua loa khắp không gian bé tẹo của nơi đó.

Chúng tôi chia nhau ra tham quan cửa tiệm. Không có nhiều hàng hoá cho lắm. Và cái tên gọi “Cửa tiệm 100 yên” cũng đã phần nào nói lên tình trạng chất lượng của hàng hoá ở nơi này. Ở một góc nọ, tôi nhìn thấy một ấm nước cũ với lớp keo dán hoa văn bên ngoài gần như bong ra. Ngay bên cạnh đấy là máy xay sinh tố màu xanh mất đế. Một nồi cơm điện đã mất xoong hấp và chốt cắm gần như rơi ra xếp hàng ngay cạnh đó. Rất nhiều điện thoại bàn cũ đủ các nhãn hiệu xếp thành một khu riêng trên tầng cao. Máy Ipod có kiểu dáng sặc sỡ giống như hàng Trung Quốc thường thấy bày bán ở các khu chợ trời. Lại còn có cả một chiếc tủ lạnh chỉ cao đến đầu gối người ta nhét trong một góc, bên cạnh hằng hà sa số các lại chén bát làm bằng sứ bụi bám dày.

Quả nhiên không thể nào tìm thấy một chiếc máy ảnh Polaroid ở nơi như thế này được.

Khi rời mắt khỏi đống hàng hoá, tôi đảo mắt tìm Kame. Phát hiện ra cách tôi không xa cho lắm, cậu đang đứng áp mặt vào cửa kính, nhìn say mê một vật nào đó được trưng bày bên trong.

Rất lâu, cậu ấy mới quay lại nhìn tôi. “Jin, tôi có thể mua nó không nhỉ?”

Tôi bước lại bên cạnh cậu. Phía bên trong, trên nền vải nhung màu đỏ sẫm, chỉ có duy nhất một chiếc ống nhòm hiệu Nikon. Cũ kỹ và ế ẩm là ấn tượng duy nhất nó mang lại cho tôi. Ngoài ra, chẳng có điểm thu hút đặc biệt nào khác ngoại trừ những chi tiết làm bằng bạc phát ra tia sáng mờ ảo giữa không gian tối mờ ở nơi đây.

“Chúng ta có thể dùng nó làm gì chứ?” Tôi hỏi bâng quơ, không cảm thấy hứng thú với món đồ này cho lắm.

“Tôi không biết, nhưng biết đâu khi có nó rồi lại chẳng sinh ra những chuyện cần đến” Kame nhún vai đáp.

“Thôi nào, tóm lại là cậu muốn mua nó đúng không?” Tôi đầu hàng. “Muốn, chứ không phải ‘có thể mua’, khác nhau nhiều lắm đấy.”

Kame gật đầu, không buồn đáp lại câu nào. Cậu quay lại phía mặt kính, tiếp tục ngắm chiếc ống nhòm ở bên trong. Tôi không giải thích được sự say mê kỳ lạ này của cậu, nó bắt đầu từ đâu, từ lúc nào và có một ý nghĩa ra sao? Hết thảy những điều đó tôi đều không rõ. Linh cảm cho tôi biết, đó là món đồ không tốt lành, chỉ thế mà thôi. Không nói gì thêm, tôi im lặng đứng nhìn Kame. Nước mưa vương lại trên tóc cậu trông như bụi nước, chợt sáng lấp loé rồi chợt vụt biến mất. Và tôi cảm thấy buồn một chút, vì cái nhìn chăm chú mê say và nỗi mong muốn sở hữu gần như cố chấp cậu dành cho món đồ vô tri bên trong lớp kính kia. 

Ngoài trời, mưa đã ngớt hạt. Âm thanh chỉ còn là tiếng rì rầm khe khẽ. Dù thế, những giọt mưa vẫn nặng nề rơi xuống bên ngoài mặt đường và hơi lạnh vẫn đủ sức len qua những khe hẹp, lần vào bên trong không gian yên ắng của cửa hiệu cũ. Rồi Kame kéo chốt khoá, lấy chiếc ống nhòm ra và chúng tôi cùng nhau đi về phía người chủ tiệm.

“100 dollars.” Chỉ nhìn qua một cái duy nhất, ông ta nói một cách bình thản.

“Đây là Cửa hiệu 100 yên, có phải không thưa ông?” Tôi nói, cố tình nhắc lại câu chế giễu khi nãy của ông ta.

“100 dollars. Đây là một ngoại lệ, thưa cậu. Nó không giống tất cả những gì còn lại trong cửa hàng này.” Giọng ông ta không một chút lay chuyển, nhuốm đầy màu sắc huyền bí khi giải thích thêm về cái giá cắt cổ do mình đưa ra . Ồ, theo như ông ta nói thì có khi chiếc ống nhòm này có khả năng đã bị yểm bùa hay bị trấn một lời nguyền nào đó cũng nên?

“Dĩ nhiên, quý khách có quyền không chọn mua nó. Tôi sẽ chẳng phiền lòng gì cả vì món hàng này vốn không cần thiết phải bán.” Ông ta nói thêm một cách bình thản khi quan sát vẻ mặt của hai chúng tôi. Sự bình thản đến mức gần như bất cần.

“Tôi có thể trả bằng yên Nhật không? Tôi không có dollars trong người ngay lúc này.” Kame chợt hỏi. Cậu ta vẫn chưa chịu từ bỏ cái ống nhòm cũ kỹ đó.

“Riêng món hàng này tôi chỉ nhận tiền mặt bằng dollars, thưa cậu”.

“Ưm, dù điều kiện của ông có hơi kỳ quặc một chút nhưng tôi vẫn sẽ quay lại sau, ông có thể hứa là ông sẽ giữ vật này lại cho tôi không?”. Một sự kiên trì khó hiểu hiện ra trong thái độ của Kame. Tôi đã bước lùi về sau, tự bảo mình không nên tham gia thêm nữa vào cuộc mua bán điên rồ này.

“Tôi hứa là tôi sẽ làm thế. Mong gặp lại quý khách lần sau”. Lần đầu tiên ông ta mỉm cười, nhưng trong giọng nói vẫn không lộ ra một chút cảm xúc thực sự nào.

Sau khi trả chiếc ống nhòm về vị trí cũ, chúng tôi nhanh chóng rời khỏi nơi đó, rời khỏi Shinjuku. Lúc này, mưa chỉ còn lất phất những sợi mỏng. Mặt trời mệt mỏi hiện ra sau những đám mây, toả ánh sáng yếu ớt xuống khuôn mặt thành phố. Nước vẫn còn rơi xuống từ những tàng cây hai bên đường. Nhân lúc trời lặng gió, một đàn chim bay đi vội vã từ tầng thượng một toà cao ốc.

Chúng tôi xuống tàu điện ngầm. Một thế giới huyên náo lập tức cuốn lấy, đẩy chúng tôi lao theo nhịp chuyển động hối hả của nó.

Hai chỗ ngồi khuất trong một góc toa. Tàu nhanh chóng rời trạm, lao đi êm ái trên đường ray trải thẳng. Bóng tối trong đường hầm nở rộng rồi chiếm lấy mọi đường nét xung quanh. Một lúc, con tàu trồi lên mặt đất. Ánh mặt trời nhợt nhạt chụp lấy chúng tôi. Quang cảnh quen thuộc của Tokyo hiện ra, áp sát tôi, phình to hơn, trống rỗng và dị dạng. Những hình ảnh giống nhau lặp đi lặp đi, những sắc xám mơ hồ và buồn bã có ở khắp nơi, những hình khối cao ốc thô ráp và trơ trọi. Trong khoảnh khắc chỉ 10 giây ngắn ngủi, chúng biến thành nỗi khiếp sợ, choán đầy trong tôi.

Một lúc nào đó, Kame nhìn qua.

Không nói bất cứ lời nào, chỉ trong im lặng, cậu siết chặt tay tôi.

V. 

Sân bay về đêm giống như một bãi đất trống bị bao bọc bởi những sợi tơ ánh sáng. Chúng nhuyễn mịn và mỏng tang, đan phủ vào nhau, biến những kẻ qua lại bên trong thành những chấm nhỏ bất lực, cứ không ngừng di chuyển và kiếm tìm. 

Cách quãng tiếng loa thông báo trên trần cao lại đều đặn vang lên, thông báo về những chuyến bay sắp hạ cánh, cũng như hối thúc những vị khách trễ nãi nhanh chóng đi vào khu vực lên máy bay. 

Mưa xuống đúng lúc chúng tôi đến được sân bay. Thời tiết một lần nữa lại bất thường vô lối. Đài dự đoán rằng ảnh hưởng từ cơn giông tuần trước vẫn chưa hoàn toàn hết hẳn. Và trong những ngày vừa qua, thi thoảng Tokyo vẫn phải hứng chịu những trận mưa bất thường dai dẳng. 

Trước đó bốn mươi phút, chúng tôi vẫn còn ở hậu trường của sân khấu Arimasu. Tiết mục của nhóm xếp thứ bảy trên mười ba, sau khi kết thúc, chỉ còn vừa vặn đúng mười lăm phút để đi từ trung tâm thành phố đến sân bay Narita. Và vào lúc 11 giờ 5 phút của đêm nay, chuyến bay cuối cùng trong ngày đến Đức sẽ cất cánh. Một chuyến chụp hình ngoại cảnh cho số ra kỷ niệm mười lăm năm thành lập của J-Wave, một trong những tạp chí hàng đầu trong giới showbiz Nhật, đồng thời kết hợp quay CF quảng cáo cho dòng xe mới nhất của một hãng ô tô nội địa đang có kế hoạch tấn công vào thị trường Châu Âu. Đó là kế hoạch cho tuần lễ vàng năm nay của chúng tôi. Và cả nhóm chỉ được biết về nó khi đã bước qua ngày đầu tiên của kỳ nghỉ. 

Một chút bất mãn nhen lên trong ánh mắt của vài người, vài cái thở ra mệt mỏi được kín đáo che giấu, và vài cái vỗ vai động viên lẫn nhau. Nhưng tất cả cũng chỉ có thế. Sau đó thì mọi sự chuẩn bị đều được tập trung cho chuyến bay vào ngày hai tháng năm. Và giờ thì chúng tôi có mặt ở đây, lang thang quanh quẩn ở sảnh chờ sân bay Narita để chờ đến lượt chuyến bay của mình cất cánh. 

Sau khi ký gửi mọi hành lý và các dụng cụ máy móc cần thiết ở quầy ký gửi, người quản lý quay lại chỗ chúng tôi. Anh ta nhìn nhanh qua cả bọn, hài lòng với sự im lặng ngoan ngoãn hiếm thấy của cả nhóm, rồi đi về phía khu vực nhà vệ sinh gần đó. 

Koki ngáp một cái rõ to, dựa đầu vào vai Junno ở bên cạnh và nhắm mắt lại. Maru và Ueda đang xem một tờ báo vừa mới ra lò vào đầu buổi tối, với bản tin nổi bật về dự đoán trong vòng ba mươi năm nữa núi Fuji có thể sẽ lại phun trào. 

Tôi ngồi xuống bên cạnh Kame. Cậu đang hướng cái nhìn ra bên ngoài. Những tấm kính sáng bóng phản chiếu gương mặt đôi chút bất an của cậu. Ở phương trời đằng xa rực lên đám mây màu xám bạc. Mưa rơi xiên dữ dội ở khu vực đường băng, xô nghiêng những cụm nhà ở phía xa và xoá nhoà những ánh đèn màu nhấp nháy. 

“Sao không ký gửi cả cái này?” Dưới gầm băng ghế, một chiếc valise nhỏ màu đen đặt ngay ngắn bên chân Kame. Nghe tiếng tôi, cậu hơi giật mình, quay lại. Khi hiểu ra tôi đang muốn nói đến điều gì, cậu so nhẹ vai, đáp khẽ. “Sách, máy ảnh, ống nhòm, cả laptop, tôi không muốn có chuyện xảy ra với chúng. Đôi lúc không thể tin được hệ thống vận chuyển hành lý ở các sân bay.” 

Có một chút ngạc nhiên khi tôi nghe đến cái ống nhòm màu bạc 100 dollars của cậu. Tôi không có thiện cảm với nó. Ngay từ lần đầu tiên trông thấy, thậm chí là cả khi Kame đã một mình quay trở lại Cửa hàng 100 yên đó và mang nó về chỉ ba ngày sau đấy. Ra khỏi chiếc tủ kính với lớp vải bọc nhung sang trọng, nó chỉ còn là một chiếc ống nhòm đời cũ dành cho dân nghiệp dư. Chức năng chụp ảnh tuy được thiết kế kèm theo nhưng chất lượng hình sau đó lại tệ đến mức nếu rửa ra chỉ phí phim và thuốc tráng. 

Chỉ duy nhất một điều lạ lùng. Sau ngần ấy thời gian nằm trong góc khuất của tiệm đồ cũ, những mối nối ghép giữa các chi tiết trên thân nó vẫn hoạt động một cách trơn tru và hoàn hảo. 

Những giờ nghỉ giải lao, Kame thường dùng nó để quan sát đường phố bên dưới từ cửa sổ của phòng tập. Cũng có khi cậu hướng cái nhìn về phía đám đông tụ tập trong công viên ngắm hoa, những tốp viên chức âu phục chỉnh chu, bước đi nhanh như thể rượt đuổi nhau trong giờ cao điểm, hoặc chiếc thang máy hình trụ lắp kính trong suốt của toà nhà thương mại hai mươi tầng phía đối diện. Chẳng rõ hình ảnh hiện ra trong hai chiếc thấu kính ánh tím ấy là gì. Nhưng đôi lúc chúng khiến cho thái độ của người chủ mới thay đổi. Trầm tư hơn và tỏ ra nghĩ suy còn nhiều hơn cả những lúc bình thường. 

Một lần tôi thử hỏi, thay cho câu trả lời, Kame đặt chiếc ống nhòm vào tay tôi rồi bước ra khỏi bệ cửa. Tôi đi đến gần, đặt chiếc máy lên ngang tầm mắt. Khoảng cách được thu hẹp đột ngột cùng sự nảy nở về kích thước của những khối nhà khiến tôi trong một thoáng giật nảy. Từ việc chỉ là những dấu chấm nhỏ mơ hồ không ngừng di chuyển bên trong khối hình trụ trống rỗng, gương mặt những con người xa lạ tiến đến gần, phơi ra mọi trạng thái tình cảm có trên đời. Có khi là một nhóm đông người chen chúc nhau trong khoảng không gian chật hẹp. Một đôi tình nhân hoặc lớn tiếng cãi vã hoặc ôm hôn nhau say đắm. Lúc khác, là một kẻ đơn độc trôi nổi ngồi trên chiếc valise to của chính mình. 

Thậm chí, xuyên sâu qua những vách chắn thuỷ tinh trong suốt, kết cấu vô cảm của toà nhà thương mại cũng hiện ra. Sự tinh tế và ráp nối phù hợp trong từng chi tiết làm nên vẻ đẹp được chiêm ngưỡng nhưng cũng khô cứng và lạnh lẽo hơn bao giờ hết. Nó toát ra một sức mạnh có tính áp đảo và ngự trị trên bề mặt cảm xúc của chúng ta. Chiếc ống nhòm giống như một mũi dao sắc nhọn, rạch tung mảnh da mỏng vẫn bao phủ mọi thứ trong ngày thường, để lộ ra một đời sống khác, không thật sự yên ổn và an toàn như chúng ta vẫn tưởng. 

Đó là thế giới chúng tôi đang thuộc về. Kết luận ấy lờ mờ hiện ra, sau dần rõ ràng hơn, giống như một bức chân dung từ trường phái siêu thực biến chuyển sang hiện thực, giống như một cú đấm, thẳng và mạnh, vào chính diện gương mặt chúng ta. Cảm giác lạnh ngắt từ những chi tiết kim loại trên thân chiếc máy lan dần khắp cơ thể tôi. Tất cả những điều này có ý nghĩa là gì? Chẳng gì cả, đúng không? Tôi vững tin mình có thể làm chủ mọi thứ: cuộc sống, tình cảm, sự nghiệp, gia đình…Nhưng một khe nứt đã xuất hiện ở đâu đó, dấu hiệu báo trước của một hố sâu rỗng toác. Chẳng cách nào để mà tìm ra. Kame bước lại gần, chạm nhẹ vào khuỷu tay tôi. Buổi sáng ngày hôm đó, ánh mắt cậu tĩnh lặng. Hơi thở cậu thoát ra như một làn khói xanh, nó lẩn khuất và một lúc nào đó chui tọt vào trong não tôi. 

Chúng tôi ôm lấy nhau. 

Suốt lúc đó, chiếc ống nhòm nằm im lặng trên bệ cửa, giữa một vũng nắng đầu ngày, phát ra ánh sáng trắng lạnh hệt như cái nhìn xoáy thẳng chế nhạo. 

...

Đến 11 giờ, giữa tiếng mưa ồn ã, tiếng loa thông báo hành khách đáp chuyến đi Đức vào cửa lên máy bay vang lên. Chúng tôi đứng dậy, theo chân người quản lý di chuyển nhanh trong dòng người. Kéo chiếc valise nhỏ của mình, Kame bình thản bước đi. Cậu không ngoảnh nhìn xung quanh hay tìm kiếm bất cứ điều gì khác ở nơi đây. Chỉ một lúc đứng hẳn lại chờ tôi giữa lối đi. Tôi bước vội đến, kéo nhẹ tay áo cậu, rồi cả hai cùng đi. 

Máy bay chạy đà rồi cất cánh. Hơi lạnh bay là là ở giữa lối đi bên trong cỗ máy màu trắng biếc. Tôi cất chiếc valise của Kame vào ngăn đựng đồ phía trên, nhường cho cậu chỗ ngồi cạnh cửa sổ. Phía bên kia, những người còn lại cũng vừa sắp xếp xong chỗ ngồi và đã bắt đầu bật mở màn hình LCD trước mặt để xem những bộ phim tự chọn có sẵn trong danh sách. 

Sau lời nhắc nhở về việc thắt dây an toàn bằng giọng Đức khá nặng của một nữ tiếp viên giấu mặt, khoang máy rơi vào một sự im lặng dễ chịu. Suốt thời gian đó, những tiếng rì rầm trò chuyện của hai nhân vật trong bộ phim 3D trên màn hình loáng thoáng vang lên bên tai tôi. Chỉnh hạ lưng ghế, tôi thả lỏng người hơn. Ở bên cạnh, Kame xem một tờ tạp chí giới thiệu về các thắng cảnh nổi tiếng của Đức nhưng không thật sự chú tâm. Cứ cách phút, cậu lại xoay người trong ghế, chăm chú nhìn mãi một cái gì đó bên ngoài cửa sổ. 

Trời vẫn cứ mưa, những tia chớp thi thoảng loé lên ở phía cuối trời, rạch bóng tối làm đôi và sau đó mọi thứ lại trở nên sâu thẳm đến mức ngọn đèn rực rỡ trên đỉnh tháp Tokyo chỉ còn là một ngọn hải đăng cô độc trong đêm. Chỉ một chút nữa thôi, sẽ chẳng còn nhận ra đâu là Tokyo nữa. Những hành khách xung quanh vặn nhỏ đèn, đắp chăn, chìm dần vào giấc ngủ. 

“Cậu nên ngủ một chút đi.” Tôi quay sang Kame, trong lúc thì thầm đã cố ý chạm môi mình vào tai cậu. 

“Có cái gì đó ở ngoài kia, Jin.” Giọng cậu nhuốm chút căng thẳng. Những ánh sét thi thoảng vẫn loé sáng sau những bóng mây dày đặc. 

“Chẳng có gì cả. Ở đây không thể trông thấy gì đâu.” 

“Tôi thấy bất an.” Giọng cậu trầm hẳn đi. 

“Bởi vậy mới nói, cậu nên ngủ một chút đi, Kazu-chan.” Tôi nói, đổi chỗ ngồi cho cậu. Lợi dụng bóng tối, tôi cắn nhẹ vào những ngón tay của cậu. Đáp lại, Kame chỉ nhìn tôi chăm chú. Trong ánh sáng vàng nhạt của khoang máy, cái nhìn của cậu mãnh liệt, rát bỏng và nhiều ý nghĩa đến mức tôi phải quay mặt đi, đắp kín chăn, và vờ như mình sắp ngủ. Sau đó ít phút, tôi nghe thấy tiếng cậu chỉnh hạ ghế, tiếng lật giấy sột soạt ngừng lại, tiếng cậu thở ra một hơi dài. Sau cùng, chỉ còn một âm thanh rì rầm của động cơ vẫn kiên nhẫn truyền đến từ thân máy bay. 

Khoảng giữa đêm, máy bay bỗng rung lắc mạnh. Nhiều hành khách choàng tỉnh từ giấc ngủ lơ mơ, ồn ào hỏi nhau bằng đủ thứ ngôn ngữ khác biệt. Đèn bật sáng đột ngột, cùng lúc các nữ tiếp viên túa ra từ buồng lái. Họ tản ra và liên tục nhắc nhở hành khách giữ bình tĩnh. Nhưng, tô đậm thêm cảm giác hoảng loạn, đúng lúc đó, đèn trong khoang bắt đầu chớp nháy liên tục. Tiếng ồn vỡ ra từ khắp nơi. 

Tôi chặn đường một nữ tiếp viên. “Có chuyện gì thế?” Cô ta lắc đầu, cố mỉm cười khi trả lời “Không có gì nghiêm trọng đâu thưa quý khách. Xin hãy thắt chặt dây an toàn và ở yên ở chỗ ngồi. Chỉ là máy bay vừa rơi vào một luồng khí bất ổn mà thôi.” Tôi muốn lờ đi xem như không nghe thấy, nhưng khi phát âm từ turbulence, giọng cô ta đã nghẹn lại. Khoé mắt cô ướt nước nhưng ngay sau đó lại làm như không có chuyện gì, hối hả chạy đến ngăn cản một hành khách ở phía trên, kẻ đang cố đứng lên để tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. 

“Jin.” Kame gọi tôi, cậu nhìn chăm chăm vào tôi. Sự bình thản trong ánh mắt thoáng chốc lay động khi cậu nói, “chúng ta có thể sẽ rơi xuống, phải không?” 

“Mọi thứ sẽ nhanh chóng qua thôi. Chỉ là một cơn giông nhỏ.” Tôi trấn an, bóp nhẹ tay cậu. 

“Nếu rơi xuống ngay trên Hokkaido thì hay biết mấy.” Một nụ cười chợt nở rộng trên gương mặt cậu. Tôi thở nhẹ ra. Như một thoả thuận ngầm không cần thiết phải nói ra, Hokkaido đã không được nhắc đến kể từ khi người quản lý thông báo cho cả nhóm về chuyến bay năm ngày sang Đức. Nhưng không nhắc đến không có nghĩa là đã quên lãng. Cả hai chúng tôi đều hiểu rất rõ điều này.

Im lặng một lúc rồi tôi cười theo cậu. “Baka. Chúng ta sẽ lội qua biển để đến Hokka---“ 

Đèn tắt phụt khi câu nói của tôi còn chưa kết thúc. Tiếng kêu hoảng loạn nổi lên khắp máy bay. Lại thêm một đợt rung lắc mạnh khác, và có lúc tôi cảm giác được máy bay nghiêng hẳn một bên cánh, chúc ngang giữa lưng trời. Tôi bám chặt vào tay ghế, cố nhìn xem chuyện gì đang xảy ra trong khoang máy bay. Có tiếng khóc, tiếng người ngã trong bóng tối, tiếng rên xiết, tiếng cầu nguyện… Tôi cố nhìn xung quanh. Gương mặt của Kame hiện ra bất chợt trong ánh sáng của một tia chớp rồi vụt biến mất. Còn chưa kịp nói gì với cậu, tai tôi thốt nhiên ù đi. Một luồng âm thanh như tiếng gió thổi xoáy thẳng vào bên trong màng nhĩ, thốn sâu vào tận bên trong đầu. Lồng ngực tôi bị ép chặt. Cảm giác nặng nề đột ngột xuất hiện và nhanh chóng gia tăng. Giống như một kẻ nào đó đang liên tục chất từng tảng đá nặng lên ngực, thít chặt đường trao đổi khí của tôi. Không khí trong khoang máy bay đang từ từ biến mất. Mặt nạ dưỡng khí tự động bung xuống. Nhưng một ngón tay tôi cũng không thể nhúc nhích. Tôi không thể thở được. 

Cảm giác khủng khiếp duy nhất không biến mất hay thay đổi gì chính là tổ hợp âm thanh bên tai tôi. Sự hoảng loạn bao phủ lên mọi ngôn từ. Tiếng khóc đã vượt mặt tiếng Anh để trở thành thứ ngôn ngữ có ý nghĩa nhất trong những lúc tính mạng con người cận kề bên bờ hiểm nguy. Có bao nhiêu người đang khóc, có bao nhiêu người đang gọi tên Chúa, có bao nhiêu người đang an ủi lẫn nhau, đang cố gắng trấn an lẫn nhau bằng niềm tin tuyệt vọng của mình? Tôi không biết. Tôi chỉ ước gì họ có thể im lặng đi, cho tôi vài giây yên tĩnh ngắn ngủi. Tôi muốn được nghe câu nói cuối cùng Kame sẽ nói với tôi, tôi biết, cậu ấy chắc chắn sẽ nói một điều gì đó, nếu như chiếc máy bay này quả thật từ chối không trung và một lòng đắm đuối yêu đương mặt đất bên dưới. 

Có ai đó đang gọi tên tôi. Họ nói gì thế? Là giọng của ai thế? Từ đâu mà gọi tôi thế? Tôi vẫn bị ù tai. Cái quái gì đang xảy ra thế này! Ngay cả khi sắp ngạt thở mà chết thì tôi vẫn đang bị ù tai. Ánh chớp liên tục nhá lên rồi vụt tắt trước mắt tôi. Bầu trời như đống hỗn độn đang trong quá trình tái tạo lại, một đám đất sét bị bọn trẻ con chơi chán rồi vứt đó mà bỏ đi. Nhưng ánh sáng hiếm hoi từ ánh chớp quả thật là quà tặng quý giá trong thời điểm này. Mỗi một lần như thế tôi lại mở căng hai mắt cố tìm kiếm cậu thanh niên ngồi bên cạnh mình. Nhưng ngay cả một tiếng thở khẽ nhất của Kame, tôi cũng không thể nghe thấy. 

Rồi đèn bỗng bật sáng. Trạng thái cân bằng dần trở lại. Không khí trong phổi sau khi tắt ngấm bỗng nhiên bùng lên như ngọn lửa từ đống tro tàn, tươi mới và đầy sinh khí, chảy tràn qua những huyết quản bên trong cơ thể tôi. Tạ ơn Chúa, một ai đó khóc oà lên vui sướng. Từ giữa những lối đi, đội ngũ tiếp viên nhanh chóng ngồi thẳng dậy, nét hoan hỉ hiện rõ trong nụ cười, xăng xái tản đi kiểm tra tình trạng của tất cả hành khách trên máy bay. 

“Hey! Hey! Các cậu ổn chứ?”. Từ dãy ghế bên kia, Koki bắt tay làm loa hỏi vọng sang. Không khí vui tươi thoáng chốc lại đổ đầy các dãy ghế. Tôi gật đầu trả lời cậu ta, rồi nhanh chóng quay sang phía Kame. 

Một tiếng rắc nhẹ vang lên vừa lúc mắt chúng tôi chạm nhau. Chốt khoá ngăn đựng hành lý gãy lìa và nắp khoá chiếc valise đen loé lên ánh sáng lạnh khi nó rơi thẳng xuống, phía bên trên đỉnh đầu Kame. Điều duy nhất tôi còn nhớ khi đó là một sự ngạc nhiên dâng lên trong mắt cậu, trước khi thân người quen thuộc đó lịm dần đi trong tay tôi. 

...

Máy bay quá cảnh ở Singapore. Năm người chúng tôi và một nhân viên sân bay đưa Kame đến thẳng bệnh viện. Trong thời gian đó, người quản lý thực hiện cuộc gọi đường dài sang Đức, thông báo vắn tắt lý do chậm trễ của chuyến bay cho kẻ đại diện bên phía đối tác. 

Tám tiếng đồng hồ sau đó, Kame đã tỉnh dậy. Ngoại trừ nét mặt hơi xanh xao, không một dấu hiệu gì khác cho thấy cậu đang là một người bệnh. Việc đầu tiên cậu làm sau đó là muốn uống nước và thậm chí còn hỏi cô y tá trong phòng xem hôm nay đã là thứ mấy trong tuần, cậu đã thiếp đi trong bao lâu, và liệu nơi cậu đang nằm có phải là một bệnh viện ở Hokkaido hay không. 

Sau cùng, với một thái độ ngạc nhiên và không thể kiên nhẫn hơn được nữa, Kame yêu cầu được gỡ giùm dải băng quấn quanh mắt cậu. 

Vấn đề ở đây chỉ là, không có dải băng nào cả.

VI.

“Tuy chỉ là chuẩn đoán ban đầu sau khi đã chụp X-quang từ mọi góc độ nhưng 90% là vụ chấn thương đã khiến một lượng máu bầm tập trung ở trên dây thần kinh thị giác của cậu ấy. Chúng tôi không đủ tự tin để tiến hành phẫu thuật vì vị trí đó rất nguy hiểm, chỉ một sơ suất nhỏ nhất cũng khiến tình hình càng thêm tệ đi. Tuy nhiên, đa phần loại máu bầm tụ não này sẽ tự động tan đi sau một thời gian. Bao lâu thì chúng tôi không thể chắc chắn được. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào cơ may và thể trạng của bệnh nhân.

Nhưng trong tình huống xấu nhất, cũng mong mọi người hãy giúp cậu ấy chuẩn bị trước tinh thần.”

~*~

Về sau này, tôi vẫn thường hay tự hỏi, ngay thời khắc đó, cảm giác thật sự của Kame là gì?

Rất nhanh, cậu hiểu ra tình thế khó khăn mình đang lâm vào. Không những chấp nhận nó một cách nhanh chóng, cậu còn có thể mỉm cười. Ở những phút đầu tiên, nụ cười đó có một chút mỉa mai và giễu cợt. Nhưng sau đó, nó biến thành một cử động bản năng của cơ thể, một dấu hiệu cậu dùng để tỏ ra rằng Kamenashi Kazuya vẫn ổn. Dù rằng giờ đây trước mắt cậu mọi thứ chỉ còn là một màn đen.

Tôi vẫn nhớ cảnh tượng lúc đó, cậu ngồi tựa vào thành giường với một chiếc gối lèn sau lưng. Ánh mắt cậu hơi xao động khi cửa phòng bệnh mở ra và tất cả chúng tôi bước vào. Mọi thứ trong lúc đó thật khó khăn. Từ ngữ không thể nào diễn đạt hết và đúng ý nghĩ trong đầu mọi người chúng tôi. Hơn năm phút trôi qua và căn phòng vẫn lặng yên như thế. Cuối cùng, người đầu tiên lên tiếng lại là Kame.

Cậu nói. “Sao im lặng thế?”

Cậu nói. “Có tất cả bao nhiêu người vừa vào thế này?”

Cậu nói. “Tatchan? Maru? Koki-kun? Junno? Ai đó nói gì đi chứ?”

Cậu nói. “Tôi sẽ chóng khoẻ lại thôi, nhưng nếu có ai muốn đến thăm thì có thể mang theo vài quả dưa mật đấy. Chúng có nhiều Vitamin A, rất tốt cho mắt, ne?”

Nói xong câu đó, Kame nghiêng đầu cười, tự chỉ tay vào mắt mình.

Tiếng cười của cậu vang lên thành tiếng, lặng ngắt giữa sự yên tĩnh của căn phòng.

Sau cùng cậu nói. “KAT-TUN.” Nghe cứ như một lời xác nhận lại chính mình.

Nhưng sau cùng của sau cùng, năm chúng tôi từng người một đã trước sau lặp lại câu nói của cậu. Theo đúng thứ tự của chữ cái tên mình xếp trong cái tên chung của nhóm.

Mà điều đó, ngoài việc gây đau lòng ra thì còn có một ý nghĩa nào khác?

---

Trong chuyến bay trở về Nhật, Kame hầu như luôn giữ im lặng. Nếu tôi gợi chuyện và đưa ra một câu hỏi nào đó, cậu sẽ trả lời, nhưng không hề quay mặt về phía tôi. Ngoài ra, không một cảm xúc riêng tư nào hơn được nói đến. Trên taxi trở về nhà, cậu ngủ li bì. Chỉ khi vào đến phòng riêng, cậu mới choàng tỉnh, gọi tôi đến gần và hỏi.

“Jin này, thế là từ nay tôi thật sự sẽ chẳng nhìn thấy được gì nữa, đúng không?”

Tôi im lặng, nhìn trừng trừng những ngón tay trắng của cậu.

“Xin hãy giúp đỡ cho tôi.” Kame nói rồi cúi đầu thật thấp. Cậu đang cố bông đùa. Cậu đang cố tỏ ra cái vẻ lịch sự thường thấy của người Nhật trong một tình huống giao tiếp trang trọng nào đấy. Nhưng giọng cậu vỡ ra ở cuối câu nói, một sự thất vọng và đau buồn dành cho không ai khác hơn là chính cậu.

Tôi cứ ngồi bên cạnh cậu như thế, nhìn trừng trừng vào những ngón tay cậu như thế. Tokyo lên đèn. Sao hôm hiện ra, lấp lánh sáng rồi tàn đi trong trời đêm đen thẫm. Sao mai hiện ra, lấp lánh sáng rồi cũng mờ dần trong ánh bình minh biếc xanh. Thời gian trôi qua bao lâu tôi không biết. Nhưng khi tiếng thở sâu trong giấc ngủ muộn của Kame vang lên, giọt nước nóng hổi trên má tôi cũng đã lạnh giá đi mất rồi.

~*~

Việc Kame mù loà sau vụ tai nạn được giấu kín hết sức có thể. Chỉ nội bộ sáu người chúng tôi, người quản lý, Johnny-san và một vài người thật sự thân thiết khác trong JE là được biết.

Phía báo giới chỉ nhận định được đó là một vụ tai nạn hy hữu và may mắn nhất đã không có tổn thương nghiêm trọng nào xảy ra. Ngoài mặt, JE mở cuộc họp báo công bố về việc sau vài ngày tịnh dưỡng, Kame sẽ tham gia một khoá thanh nhạc ngắn hạn trong sáu tháng ở Na-uy. Lý do thì có vô vàn. Âm nhạc của KAT-TUN cần có một bước đột phá mới, chúng tôi đang nhắm đến mục tiêu album tiếp theo của nhóm sẽ gồm toàn các bài hát do các thành viên tự sáng tác và thể hiện. Đây là một cơ hội tốt để Kamenashi-san nghỉ ngơi cũng như thử sức với khả năng sáng tác của bản thân mình.

Trong cuộc họp báo đó, Kame bắt buộc phải xuất hiện. Nhưng với lý do tình trạng sức khoẻ cần phải được theo dõi thêm, JE từ chối mọi cuộc phỏng vấn riêng sau đó. Và tấm ảnh duy nhất giới phóng viên có thể chụp được là khi Kame ký tên vào tờ đơn xin ghi danh khoá học. Người đại diện theo sát bên cạnh cậu ấy, và việc tập dượt chăm chỉ hàng ngàn lần trước đó cái công việc nhỏ nhặt và đơn giản đó đã mang lại một kết quả tốt đẹp. Không một ai nghi ngờ, chỉ trừ vài thái độ bất mãn ra mặt của phóng viên vài tờ tạp chí lớn trước sự cứng rắn bất thường của JE.

Trong một cuộc họp kín ngay sau đó, Johnny-san ra quyết định đơn giản. Kame được nghỉ hưởng lương trong nửa năm. Cậu có sáu tháng để toàn quyền làm gì đó cho bản thân mình. Suy nghĩ, chạy chữa, từ bỏ,… Những việc đại loại thế. Và thêm một yêu cầu khác, không xuất hiện và không làm điều gì đánh động đến giới truyền thông. Cũng như tự giữ kín bí mật về tình trạng sức khoẻ của bản thân mình.

Ngoài những lời đầy tính công việc và nghiêm túc như thế, chẳng ai có thể nói thêm điều gì khác. Tôi biết từng người một trong nhóm đã khóc, đã đau lòng, thậm chí còn lao vào nện nhau chỉ vì không sao trả lời được cái câu hỏi “Chuyện quái quỷ gì đã xảy ra thế này? Tại sao lại là xảy ra với Kamenashi? Tại sao lại là xảy ra với một trong sáu người chúng ta?”. Rồi sau hết, lại buông nhau ra, im lặng, gục đầu, nhẫn nhịn, cam chịu. Và sau nữa, vẫn tỏ ra tươi tỉnh như thường khi cả đám cùng nhau kéo đến thăm cậu ấy.

Koki cầm lấy tay Kame, áp chặt vào trán cậu ta, liên tục nài nỉ bằng điệu bộ của đứa con nít lên năm. “Kazu-chan, nói là cậu ban phước lành cho tớ đi. Nói đi nào!”

Junno lăn ra cười như điên, sau đó thì vờ đạo mạo thay giọng Chúa Trời trả lời, “Koki-kun, đừng lo lắng nhiều, trong lịch hẹn trước của ta, chúng ta chắc chắn sẽ gặp nhau ở dưới luyện ngục cơ!”

Maru trợn mắt, kêu lên, “Ơ hay, nhìn tớ chẳng phải là có dáng làm linh mục hơn Kame hay sao?”

Ueda là kẻ thực tế nhất. Anh ta im lặng suốt thời gian ấy, chỉ đến trước lúc ra về mới nói khẽ. “Chỉ là tạm thời không thể nhìn thấy bằng mắt nữa thôi, Kame.”

Rồi sau cuối, tất cả sáu người chúng tôi đơn giản chỉ là vẫy tay chào tạm biệt nhau.

~*~

Là vậy đấy.

Cho nên, mùa thu năm đó, ngoài mớ công việc bề bộn xếp dày trong lịch cá nhân, mối quan tâm hàng đầu khác của tôi là tìm một căn hộ mới cho Kame. Cậu ấy sẽ lại chuyển nhà. Căn hộ ở tầng hai gần ga Ashiya quá không thuận tiện cho một người vừa mất đi thị giác. Tôi sẽ phát điên lên mất, thậm chí còn đam ra tương tư mấy cái cầu thang mất nếu cứ hình dung ra và tự hỏi Kamenashi sẽ làm gì hay là xoay sở như thế nào với chúng?

Trước và sau khi mọi thứ diễn ra, cậu ấy vẫn nhất định không chịu dọn về nhà. Và để trấn an sự lo lắng của gia đình, cậu cho họ hay rằng mình vẫn ở trong một khu chăm sóc đặc biệt của bệnh viện trong thời gian này. Ở đó, hộ tá và trợ lý đều có mặt ở khắp nơi. Một nơi an toàn cho người bệnh và an tâm cho người nhà. Trên thực tế, ngay từ lúc phát hiện ra mình chẳng bị gì nghiêm trọng cả ngoại trừ đôi mắt, Kame đã xin được ra viện ngay lập tức.

Cậu ấy còn định khiến tôi nổi giận bằng cách định im lặng đi taxi về một mình.

“Giờ thì ai mới là người quên phứt ai đây?” Tôi giằng lấy túi đồ cùng một bọc lớn quà tặng từ tay Kame, thật sự là cáu điên lên được. “Cậu là cái thằng vô lý nhất thế giới, Kame. Cậu định biến tôi thành một kẻ vô tình vô nghĩa đến như thế nào thì mới vừa lòng đây?”

“Jin à?” Căn cứ vào hướng giọng nói phát ra, Kame có thể đoán ra được vị trí tôi đang đứng. Cậu quay mặt về phía tôi, dáng vẻ không tự tin cho lắm. Cứ liên tục xoay trở như một kẻ đang lạc đường và bốn bề đều là một vùng hoang mạc như nhau.

Tôi nhìn Kame trong lúc đó. Tôi cố thu xếp lại mớ tay cầm của mớ bọc giấy để kiếm ra một cánh tay hoàn toàn tự do dành cho Kame. Cậu chạm vào những ngón tay của tôi nhưng rồi buông ra ngay sau đó. Rồi sau một lúc cân nhắc, cậu lần theo chúng tìm đến cánh tay tôi. Cậu nắm lấy áo tôi, mỉm cười và nói đơn giản. “Có thể đi được rồi.”

Tôi chỉ đi chậm. Thật ra là tôi cố ý đi rất chậm. Sự e ngại trong mỗi lần dấn bước về phía trước của Kame khiến cho tôi phải nín thở dõi theo. Rõ ràng là mặt đất ngày thường đấy thôi, nhưng tôi không biết trong trái tim cậu ấy nó đã trở thành nỗi sợ hãi lớn như thế nào.

Từ gian tiếp tân của bệnh viện đi về phía cửa xoay cách đó năm mươi mét, phải hơn mười lăm phút chúng tôi mới đi xong quãng đường ngắn ngủi đó.

~*~

Phía Tây Tokyo có một vùng ngoại ô tên gọi Kukamura. Những quả đồi ở nơi ấy đã già cỗi lắm rồi, nhưng mỗi mùa trong năm đều thay một sắc áo. Khi chiều xuống không nơi đâu lý tưởng để ngắm hoàng hôn bằng những lối mòn ở nơi đó. Phần lớn nhà cửa của các khu dân cư sinh sống đều quay mặt ra con đường sắt của ga Yokohama, có thể nhìn ngắm chúng mà không cần phải leo lên leo xuống bất cứ bậc thang nào.

Tôi theo người nhân viên của văn phòng địa ốc đi xem nhà vào một ngày cuối tuần. Kame ở nhà đợi tôi. Trước đó, tôi đã buộc được cậu ấy chịu nghe theo mọi quyết định của mình trong lần dọn nhà này.

“Nếu cậu còn ở lại đây, tôi sẽ lo đến chết mất. Tôi sẽ không thể làm được gì hết. Hát hò đã không, nhảy nhót cũng không nốt, còn đóng phim hả? Tốt nhất là có cái kịch bản nào mà vai chính nói về một thằng 26 tuổi bị chứng ám ảnh kinh niên về những bậc cầu thang ấy, tôi chắc chắn sẽ diễn xuất sắc.”

Cái viễn cảnh tương lai tươi sáng của Akanishi Jin sẽ bị huỷ hoại vì các bậc cầu thang có lẽ đã khiến cho Kame chạnh lòng. Cậu ấy chịu nhượng bộ. Sau khi nghe thêm về những quả đồi già và tuyến đường sắt của ga Yokohama, cậu rốt cuộc cũng trở nên có hứng thú và đầy trông đợi vào căn hộ mới này.

“Ít ra thì tôi có thể được yên tĩnh sống một mình. Nhưng anh thật lòng không có gì tiếc nuối sao? Vì sẽ có kẻ thôi lấy mấy bậc thang ra làm cớ để ngày nào cũng chạy sang chỗ tôi, nhỉ?”

Tôi ghét một Kamenashi-biết-tỏng. Một Ueda-biết-tuốt là quá đủ rồi. Hơn nữa, Ueda cũng khác Kamenashi. Ít ra thì tôi chưa lần nào phải đỏ mặt trước những lời bóng gió của anh ta. Còn con người này…

“Kame này,” Tôi đi lại gần, ngồi xuống trước mặt cậu ấy. Cầm lấy hai tay cậu ấy, tôi áp chặt chúng vào mặt mình. Như thế này, cậu ấy có thể hoàn toàn yên tâm khi nói chuyện với tôi.

“Tôi đang nghe đây.” Cái nhìn của Kame hiện lên một vẻ chăm chú thường thấy mỗi khi cậu quá tập trung vào việc gì đó.

“Anoo…tôi vẫn luôn nghĩ về chuyện đó”. Tôi mở lời một cách cẩn thận.”Cậu biết rồi đấy, tôi vẫn luôn muốn dọn đến sống cùng với cậu. Trước đây thì cậu luôn luôn từ chối, bằng những lý do mà có sống thêm một trăm năm nữa tôi cũng chẳng cách nào phản bác nổi. Nhưng giờ thì---“

“Jin, khoan đã nào, tôi---“

“Cậu đang nghe kia mà, Kame? Không phải thế sao?”. Tôi gắt lên. “Cậu làm ơn đừng học theo tính baka của tôi, cho rằng vì vụ tai nạn lần này mà tôi muốn làm thế. Ừ thì cũng một phần vì nó đấy, nhưng, không hoàn toàn như thế. Cậu có hiểu không, Kame? Nếu như lúc trước cậu không kiên quyết từ chối đến thế thì bây giờ…Arggggg, tôi điên lên mất. Nhưng dẹp quách vụ tai nạn này đi, có nó hay không thì tôi vẫn muốn dọn đến sống chung với cậu. Tôi… muốn được chăm sóc cho cậu.” Giọng tôi nhỏ dần đi. Câu nói cuối cùng chỉ còn là một tiếng thì thầm. Chỉ một mình Kame nghe thấy nó. Thật tốt.

Im lặng một lúc rồi Kame mỉm cười. Lúc đó, ngoài trời nổi lên cơn gió đầu tiên của buổi chiều. Gió thổi qua tấm rèm cửa sổ, vang lên những tiếng loạt soạt như tiếng vải áo kimono quấn vào chân người phụ nữ đi trên hành lang vắng.

“Có vẻ như tôi luôn làm cho anh phải khó xử nhỉ? Có vẻ như phải đến lúc có chuyện gì đó xảy ra người ta mới chịu chấp nhận cho người khác đến gần và đối tốt với mình. Rồi thì sau đó lại cho rằng thái độ đó chỉ là lòng thương hại mà thôi. Ý nghĩa ban đầu của tình cảm đã bị hiểu nhầm đi mất rồi.”

“Cậu đồng ý rồi phải không?”

“Như thế, lại giống như tôi đang quá dựa dẫm vào anh rồi, Jin.” Những ngón tay cậu ấy chậm rãi chạm vào tóc tôi. Nụ cười trên môi Kame nghiêng hẳn đi, đổ bóng thành một vệt buồn phiền trên gương mặt cậu ấy. “Tôi không muốn như thế. Dẹp quách vụ tai nạn này đi, có phải anh đã nói thế không? Cho nên, tôi cũng sẽ không để nó ảnh hưởng đến quyết định của mình. Có nó hay không thì vẫn không được, Jin ạ.”

Tôi sốc vì câu trả lời của Kame đến mức một lúc sau mới có thể lên tiếng.

“…Dựa dẫm? Cái từ dở hơi thế mà cậu cũng có thể nghĩ ra à? Cậu đang cố nói đến việc gì thế? Cậu thật ra đang nghĩ gì trong đầu mình thế hả Kame!”. Tôi gắt lên. Nếu được, tôi còn muốn bổ đôi cậu ra như bổ một quả cam để xem thử bên trong cậu chứa những gì. Sự cố chấp quá đáng của cậu đôi lúc khiến tôi cảm thấy sự bất lực của bản thân mình. Và tôi luôn sẵn sàng để tức giận, để điên lên, để hành động chỉ theo cách tôi muốn và tôi thích vì điều đó.

“Xem nào, đừng có quá khẩn trương lên như thế. Thỉnh thoảng Jin-kun vẫn có thể đến đây thăm tôi kia mà. Chúng ta có thể cùng uống trà và ăn món Okonomiyaki của tiệm Aminoya ở Shikihara. Dĩ nhiên, người mua sẽ là Jin-kun, khi cậu ấy trên đường đến đây. Như thế có gì là không tốt?”

Tôi không trả lời, cũng không nhìn cậu nữa. Thái độ dịu dàng như là đang dỗ dành của cậu khiến tôi cảm thấy rất ấm ức. Tôi không sai. Chỉ do Kame quá cố chấp. Việc duy nhất cậu ấy nên làm lẽ ra chỉ là để yên cho tôi chăm sóc cậu và thôi ngay cái việc chuyên lo lắng nghĩ ngợi linh tinh của mình. Tôi sẽ không nghe theo cậu điều gì nữa, bất cứ điều gì.

“Jin, làm ơn nghe tôi nói đi, chỉ một chút thôi.” Kame hạ giọng. Cậu ấy vẫn cứ là một kẻ nhạy cảm như thế đấy, nhận ra ngay sự khác lạ trong thái độ của người đối diện mình ngay cả khi không thể nhìn thấy biểu cảm trên gương mặt họ.

Tôi khịt mũi một tiếng lớn. Khi quay lại nhìn Kame, không biết tại làm sao mắt tôi bỗng nhiên rất cay. Gì thế này? Akanishi Jin sắp khóc tu tu như một thằng nhóc tiểu học đáng xấu hổ chỉ vì lời yêu cầu của mình bị từ chối hay sao? Tôi ngửa mặt nhìn lên trần nhà một lúc nhưng nó vẫn cứ cay như thế. Tôi bèn chùi mặt vào tay áo bên phải của mình, sau đó lại quay sang nhìn xung quanh một lần nữa. Phản ứng tự nhiên, trong suốt lúc đó tôi mím môi và cố thả lỏng cơ thể nhiều lần mà không thể tự mình nhận ra. Sau cùng, tôi vỗ hai tay vào má, thật mạnh và liên tục, trước khi ngẩng lên nhìn thẳng vào cậu ấy.

“Được rồi, Kame. Giờ thì tôi nghe cậu đây.”

Im lặng một lúc. Tôi không thể không nhận ra trông Kame rất buồn khi cậu ấy lại bắt đầu tiếp tục nói.

“Sự thật là tôi muốn được yên tĩnh trong thời gian này, Jin. Và công việc của anh cũng đang ở trong giai đoạn căng thẳng nhất, có phải không? Theo như những gì tôi đã biết trước đó. Tôi không muốn vì tôi, hay vì vụ tai nạn này mà công việc của anh bị ảnh hưởng. Chỉ mỗi KAT-TUN thôi cũng đủ khiến tôi đau lòng rồi…”

“…”

“Tôi không biết phải nói thế nào về cảm giác lúc này của mình, nhưng bình thản như thế này thật là một điều lạ lẫm đối với tôi. Tôi không rõ mình đã hoàn toàn chấp nhận được việc xảy ra trong những ngày ngắn ngủi vừa qua hay chưa. Có thể tôi sẽ phát điên lên bất cứ lúc nào. Nhưng tạm thời thì mắt tôi yêu thích bóng tối, dù hơi bất an nhưng nó cũng rất yên tĩnh…”

“Kame---“

“Xin đừng luôn luôn quá lo lắng về tôi như thế. Làm ơn, Jin.”

Những ngón tay của Kame luồn sâu hơn vào trong tóc tôi. Cậu vươn người về phía trước, đưa mặt sát gần bên tôi. Trong một cố gắng vụng về nhất, tôi hiểu ra rằng cậu đang muốn hôn lên trán tôi. Mắt cậu vẫn mở cùng với một nụ cười ngượng ngùng trên môi sau khi phát hiện ra cậu đã hôn nhầm vào nơi chóp mũi.

Tôi yên lặng nhìn cậu. Đột nhiên tôi không còn cảm thấy muốn tranh cãi thêm bất cứ điều gì với con người này. Mọi lời nói đều vô nghĩa. Tôi chỉ biết là tôi đau lòng. Tôi nghĩ là tôi đang đau lòng đến độ chỉ sự tồn tại của cậu ngay lúc này thôi đã đủ khiến tôi cảm thấy quá hạnh phúc rồi. Là quá đủ cho tôi rồi. Những việc khác, có thế nào, có ra sao, thay đổi hay trường tồn, biến chuyển hay vĩnh cửu, tôi đều mặc. Tôi không quan tâm nữa.

“Kazu.” Tôi giữ lấy gương mặt Kame, vuốt ve những ngón tay trên má cậu. Trước khi hôn cậu ở môi, tôi kéo cậu gần hơn về phía mình. Rất gần. Đến mức ngực chúng tôi gần như chạm vào nhau và tôi có thể nghe thấy hơi thở của cậu trên mặt tôi, dần gấp hơn. Những ngón tay cậu vẫn ở sâu trong tóc tôi. Đôi môi nóng của cậu ở trên môi tôi. Đến một lúc nào đó của nụ hôn, mắt cậu dần nhắm lại…

Ở bên ngoài, hàng hiên lát gỗ màu nâu sậm tạo thành một vòng cung bao bọc lấy ngôi nhà. Một một bộ bàn ghế thưởng trà kiểu cổ đã kê sẵn ở hướng Đông Nam. Tầm nhìn của nó hướng thẳng về phía những quả đồi xanh lấm tấm những chấm đỏ của cây phong tuế. Tuyến đường sắt xuôi về Kyoto chạy nép mình bên dưới, trông cô đơn như con đường độc đạo ngày thường không mấy khách vãng lai. Có những đoạn nó biến mất hẳn trong bóng râm của những quả đồi, tạo nên những đường thẳng đứt đoạn mấp mô trong bóng nắng màu vàng sẫm.

VII.

Trời mưa lất phất khi tôi rời khỏi hậu trường của Fuji TV. Ngang qua gian tiền sảnh sáng rực ánh đèn, âm thanh trò chuyện huyên náo vang lên từ các băng ghế chờ đầy ắp những cô gái trẻ. Ngay sau mười phút giải lao này sẽ là ba tiết mục liên tiếp của Arashi.

Kéo cao mũ trùm đầu của chiếc áo khoác, tôi kiên nhẫn chờ bắt một chiếc taxi trở về JE. Kể từ lúc tin tức về chuyến du học nửa năm của cậu được đăng tải trên báo chí, phòng nghỉ của KAT-TUN ở JE trở thành một trung tâm nho nhỏ đón nhận tất cả thư từ và quà tặng do fan của cậu ấy gửi đến. Nếu là trước đây, những món tặng phẩm đó sẽ được chuyển về căn hộ riêng của cậu. Nhưng giờ thì tôi cho phép mình cái quyền nhận lấy nhiệm vụ đó. Hơn nữa, tôi thích việc đọc thư và những lời chúc trong thiệp cho Kame nghe. Như thế, đôi lúc tôi có thể thay đổi tên người gửi đi, sau một lá thư ấm áp đầy tình cảm nào đó, lại bảo rằng từ Akanishi Jin.

Hai tháng đã qua kể từ lúc vụ tai nạn xảy ra. Mọi tin tức trên báo chí cũng đã phần nào lắng xuống. Nhưng trong những cuộc phỏng vấn nhóm hay các buổi talk show trên ti vi, cái tên Kamenashi Kazuya vẫn thỉnh thoảng được nhắc đến. Phần lớn các câu hỏi đều nhằm vào tình hình học tập ở Nauy và thời điểm Kame quay lại. Một trong những luận bàn nhận được nhiều sự hưởng ứng của người xem là việc nhắc lại quãng thời gian năm 2007 tôi rời Nhật đi LA và so sánh nó với chuyến đi xa lần này của Kame. 

Có một chút khó khăn khi bị buộc phải vừa nhìn thẳng vào ống kính vừa trả lời những câu hỏi như thế. Vì chúng sẽ khiến bạn hồi tưởng lại những khoảng thời gian đã trôi qua cùng những sự kiện đã rất xa trong ký ức, và khi đối chiếu với thực tại chúng sẽ gây ra một cảm giác chán chường rất khó lý giải. Cảm giác khi mà bạn được hỏi về Kamenashi, và bạn buộc phải trả lời bằng những tính từ tốt đẹp trong khi thực ra bạn rất rõ tình trạng thật sự cậu ta đang lâm vào. Trong đám đông mấy ngàn người có mặt ở cái trường quay đầy ắp ánh sáng và âm thanh ấy, ai cũng nhìn thấy những cảnh tượng tươi đẹp, chỉ mình bạn biết sự thật ẩn sau chúng là gì. Nhưng bạn lại không thể nói ra. Bạn chỉ có thể cười và trả lời mọi thứ cho qua chuyện. Bạn sẽ cảm thấy kẻ dối trá duy nhất là chính mình.

Cảm giác đó chẳng dễ chịu một chút nào, nếu không muốn nói là rất ngộp thở. Vì thế, mỗi khi những talk show sắp đi sâu vào đề tài về chữ K của nhóm, Ueda luôn khéo léo kết thúc bằng những câu trả lời trong chừng mực. Nếu như Ueda thật sự muốn, anh ấy có thể thuyết phục người khác dễ dàng bằng dáng vẻ nghiêm túc của mình, khiến họ tin vào những gì anh nói và không còn muốn đào sâu thêm vào thắc mắc của mình.

Trong một buổi tối cuối tháng bảy, tôi tình cờ nghe được thông tin Kase by Kase chính thức ngừng phát sóng từ đầu tháng sau.

Giọng nói trên sóng là của Kame. Bình thản và gây cảm giác giá lạnh như một dòng sông dài mùa đông. Tôi trở người ngồi dậy trên chiếc giường của mình ở giữa căn hộ riêng, cố gắng nhớ lại hôm cuối tuần trước đã lái xe chở cậu ấy đi từ Kukamura đến phòng thu của đài Nippon Cultural Broadcasting trong một buổi chiều mưa như thế nào. Trong suốt hai mươi phút thu âm chương trình cuối cùng, tôi ngồi đợi bên ngoài, nhìn vào phòng thu qua lớp kính thuỷ tinh trong suốt. Căn phòng đợi rộng rãi và vắng khách. Sự im lặng phủ lên nó cũng như màn mưa xám nhạt phủ lên Tokyo. Trong phòng thu, ngoài Kame, chỉ duy nhất người tổng biên tập có mặt. Cũng anh ta là người duy nhất biết được lý do vì sao Kase by Kase tạm ngưng.

Chỉ trước đó ba ngày, anh ta là vị khách đầu tiên đến thăm căn hộ mới của Kame ở Kukamura. Địa chỉ hẳn là do Kame nói cho biết. Họ đã có một cuộc nói chuyện khá riêng tư và kín đáo với nhau, ở ngoài nơi hàng hiên hình vòng cung nhìn ra những quả đồi già của vùng ngoại ô nọ. Sau tất cả, Kame bảo tôi rằng cậu đã thấy dễ chịu và cảm thấy được một điều gì đó tốt lành ngay từ đầu, khi người biên tập viên đeo kính cận cao gầy ấy cứ nhất định đòi ra ngồi ở phía trước hàng hiên.

“Bình thường, nếu tiếp đón khách ở một nơi như thế này chắc chắn sẽ bị cho là thất lễ. Nhưng trong trường hợp này, tôi lại chính là vị khách dở hơi một mực đòi phải được ngồi ở đây, nên mong Kamenashi-san đừng chê cười.” Anh ta đã vừa cười vừa mở màn cuộc nói chuyện như thế.

“Radio, là thế giới của âm thanh và cảm xúc. Âm thanh tạo ra cảm xúc, cảm xúc quyện vào âm thanh. Vì thế, xin đừng quá quan tâm đến những việc không cần thiết khác. Kamenashi-san có thể cười tôi, nhưng cậu có tin vào việc yêu một người chỉ vì giọng nói của họ hay không? Cậu có nghĩ rằng việc cứ nghe mãi giọng nói của một ai đó trong thời gian dài sẽ khiến chúng ta dần dần phải lòng và nhớ nhung con người đó? Thoạt nghe qua thì có vẻ vô lý quá phải không? Nhưng phần lớn những bạn bè trong nghề của tôi đều là những kẻ như vậy cả. Âm thanh trở thành điểm nhạy cảm, điểm dễ chạm vào nhất của họ. Một phần là do bệnh nghề nghiệp, phần khác là do từ lâu nay âm thanh đã trở thành cách chính yếu để họ tiếp xúc với cuộc sống này. Vậy nên có bảo rằng radio là một thế giới dành cho những kẻ quá yêu cuộc sống, yêu đến mức sẵn sàng lùi mình lại, đứng sâu trong bóng tối chỉ để mang đến cho nhiều người khác niềm tin yêu như chính bản thân họ thì cũng không hẳn là sai…”

Một cuộc nói chuyện như thế, với một người khách đến thăm như thế, quả nhiên chỉ có thể diễn ra ở một nơi như là hàng hiên này. Những căn phòng khách bày trí đẹp đẽ và gọn gàng sẽ trói buộc sự phóng khoáng trong tâm hồn con người. Mỗi lời, mỗi lời chúng ta thốt ra đều phải làm sao cho phù hợp với khung cảnh trang trọng đó. Tình cảm của bản thân phải được điều chỉnh đi, ở một mức trung hoà vừa đủ, khiến cho đẹp lòng cả hai bên. Đôi khi tôi vẫn cảm thấy, nội tâm của người Nhật cũng giống như tấm áo kimono quốc phục. Bạn sẽ rất thích nếu được chiêm ngưỡng từ xa, còn đến gần hơn, hay thậm chí là ở trong vị trí đó, không sớm thì muộn bạn cũng sẽ vì khó thở mà chết đi.

Kame đã rất kiên nhẫn lắng nghe mọi điều vị khách nói. Nhưng sau cùng, cậu vẫn kiên quyết từ chối lời thuyết phục nhã nhặn của người biên tập viên. Câu trả lời của cậu đơn giản. “Có một số thứ nên tự biết thời điểm để dừng lại.”Kase by Kase đã đi qua một khoảng thời gian dài và thậm chí có hẳn một đời sống riêng của nó. Cậu hoàn toàn không có ý luyến tiếc và muốn níu kéo thêm điều gì.

Buổi trưa ngày hôm đó, gió thổi qua những bãi cỏ phía bên ngoài. Những quả đồi xanh bóng lên trong màu của nắng. Chuyến tàu khởi hành lúc 12h 13 phút chạy ngang chỗ chúng tôi, lượn tròn qua một khúc ôm rồi mất hút sau lưng những quả đồi. Màu trắng nổi bật trên cái nền xanh của cây cối và nắng vàng. Nhưng đó cũng là lần đầu tiên sau vụ tai nạn, tôi trông thấy cậu ấy cười nhiều đến thế...

---

Cuối cùng tôi cũng đón được xe taxi sau hơn 20 phút đứng ở một trạm chờ xe buýt bên vệ đường. Thời gian này, tôi phát hiện ra bản thân mình rất dễ rơi vào trạng thái trầm tư. Từ một suy nghĩ vụn vặt ban đầu, toàn bộ câu chuyện sau đó sẽ rất nhanh hiện ra, chiếm trọn tâm tư tôi, như thể một bộ phim đang trình chiếu những thước phim sinh động trong tâm trí, ngay trước mắt tôi.

Xe chạy theo hướng đường cao tốc HanKyu Line, sẽ vào đường hầm Tokyo trong ít phút nữa, rồi từ đó bỏ xa trung tâm thành phố, kiên nhẫn men theo những trục đường đầy gió và bóng tối mà toả ra khu ngoại thành.

Tôi ôm một chiếc balô lớn trong lòng, và có một chiếc thùng catton dán kín trên chỗ ngồi bên cạnh. Trên mặt thùng, ngoài những thông tin về logo bưu cục tuyến đầu, trọng lượng hàng hoá, giá cước chuyển phát nhanh, là cái tên Kamenashi Kazuya và địa chỉ ở Tokyo của JE được viết bằng nét chữ cầu kỳ đầy nữ tính của một cô gái nào đó. Suốt chặng đường xe chạy, tôi không quan tâm đến cảnh vật bên ngoài, cũng không tò mò với tay tài xế cứ đang cố vặn tìm một chương trình nào đó trên sóng FM. Tôi chỉ nhìn chiếc thùng catton, cố đoán thử xem bên trong nó có thể chứa những gì. 

Không cần phải là một kẻ giỏi liên tưởng, chiếc thùng dán kín ấy vẫn khiến tôi nhanh chóng nhớ lại buổi tối phụ giúp Kame chuyển nhà trong một tháng tư chỉ vừa mới đây thôi mà tưởng như đã xa xôi từ lâu lắm rồi. Khi những hình ảnh chỉ vừa hiện ra, mùi vị và âm thanh đã ngay lập tức theo đó nhảy xộc vào tai vào mắt vào các giác quan của tôi. Buồng thang máy hẹp và sáng trắng lúc giữa đêm, mùi thuốc khử sơn mát lạnh từ những đầu ngón tay của Kame, cái dáng cậu vừa cười vừa nhìn về phía tôi trong chiếc áo khoác màu vàng đất, ý nghĩa rõ ràng của ánh mắt cậu, cái hôn trong dự đoán và nỗi mê say không thể nào ngừng lại cậu thanh niên đó gây ra cho tôi,…

Lúc gần 11 giờ, có tiếng chuông điện thoại mơ hồ vang lên. Phải mất một lúc để tôi có thể trấn tĩnh lại và nghe máy. Trên màn hình hiện ra cái tên quen thuộc của Tomohisa. Dễ có đến hơn hai tháng rồi chúng tôi không liên lạc với nhau. Kể từ sau sự cố đó, mọi quan hệ và khái niệm về thời gian của tôi dường như đều đã được định nghĩa lại.

“Pi?” Tôi gọi thẳng tên cậu bạn thân thiết mà không cần đến bất cứ lời mào đầu khách sáo nào.

“Jin?” Khó tin là Tomohisa cũng lên tiếng gần như cùng lúc.

“Ừm, đang ở bar?” Tôi phỏng đoán. Tiếng nhạc cùng không khí huyên náo của một đám đông đang nói cười vọng lại rõ ràng từ bên kia máy.

“Vẫn là chỗ cũ đấy. Có muốn đến cùng không?” Có một sự điềm tĩnh khó hiểu trong giọng nói của Tomohisa, khác hẳn ấn tượng náo nhiệt mọi ngày cậu ta vẫn thường gây ra. “Jin này, đêm nay không hiểu sao tôi đặc biệt thấy buồn. Đám Ryo cũng vừa mới đến.”

“Rất muốn nhưng tôi lại đang có chuyện gấp phải làm rồi”. Tôi nói, cố giấu đi sự run rẩy trong giọng nói của mình. Cái cách Tomohisa nói về nỗi buồn của cậu ta đơn giản và thành thật đến mức khiến tôi phát run lên được.

“Ừm. Tôi hiểu.”

“Thật sự là tôi rất muốn, Pi.” Trước khi cậu ta cúp máy, tôi nói thêm một lần nữa. Đầu dây bên kia vẳng lại một tiếng cười khẽ, dường như có ý bảo tôi không cần phải nói gì thêm.

Sau cuộc gọi ngắn, màn hình điện thoại nhá sáng lần cuối rồi vụt chìm vào bóng tối trong xe. Bóng những toà nhà cao tầng vụt lướt qua trên cửa kính ô tô, trong những sợi mưa rơi nghiêng, trông chúng xiêu vẹo hẳn đi, duy những cửa sổ tối om là vẫn ảm đạm và thờ ơ như thế.

Tôi mở cửa kính xe, để cho gió đêm lùa vào. Con đường cao tốc cứ mải miết trôi về phía trước. Vượt lên thứ ánh sáng buồn tẻ của những cột đèn đường, bầu trời trên cao chìm trong thinh lặng. Tôi nhìn lại một lần nữa chiếc thùng catton bên cạnh mình, tưởng tượng ra có một hơi ấm nào đó đang trú ngụ trong cái tên Kamenashi Kazuya trên bề mặt lớp giấy. Hơi ấm ấy, dù chỉ bé bằng một ngón tay hay mỏng hơn cả tiếng gió lùa, vẫn sẽ ôm lấy tôi và quyến luyến không rời.

Nhưng chỉ có gió đêm vùng ngoại ô, hoang dại và trơ lạnh, đang rải đều lên những khoảng da trần của tôi.

Ở đâu đó trong vùng bóng tối chiếc xe vẫn đang cần mẫn lao về phía trước, là con người đang cất giữ nguồn hơi ấm bé nhỏ của tôi.

Ý nghĩ đó khiến tôi không thể chịu đựng nổi. Nó giống như tôi cứ cố chạy đến còn thế giới trước mặt thì càng lúc càng chạy lùi ra xa tôi. Nhắm lại đau mắt đau rát của mình, tôi cúi xuống áp mặt vào lớp vải jeans thô ráp của chiếc balo. Tôi siết chặt nó trong vòng tay của mình, cố tạo ra một hơi ấm khả dĩ có thể thay thế thân nhiệt của một con người.

Tôi muốn ngăn cho bản thân mình không khóc.

~*~

Khi tôi đến nơi, Kame vẫn còn thức. Cậu ấy ngồi một mình ngoài phòng khách, trong tư thế co cả hai chân lên trước ngực, đầu gối chạm hẳn vào cằm dưới và vẽ những hình thù gì đấy trên lớp thảm trải sàn bên dưới.

Tôi mở cửa bằng chìa khóa riêng, ôm hộp catton đi vào.

Cậu hơi ngoảnh lại khi nghe thấy tiếng động. Tôi cười, bảo, “Akanishi Jin lại đến làm phiền đây.”

Đặt chiếc hộp xuống sàn, tôi đi tìm romote tắt ti vi. Đó là một chương trình phim truyện của NHK. Hai nhân vật một nam một nữ đang quát vào mặt nhau trước một cửa hàng bán thức ăn nhanh của KFC.

“Cậu mà cũng xem thứ phim chán ngắt này sao?” Tôi hỏi.

“Không có.” Kame thôi nghịch thảm, lần hai tay ra sau, rướn người đứng dậy rồi ngồi vào ghế sofa. Thêm vài phút nữa để tôi nghe được câu trả lời hoàn chỉnh của cậu. “Nơi này quá yên lặng, yên lặng đến mức chẳng cảm thấy được cái gì cả, thế nên tôi nghĩ cần có chút âm thanh nào đó.”

“Cậu đang buồn chán hả?”

“Tôi là một kẻ rất giỏi việc suy nghĩ lung tung.” Câu trả lời của cậu chẳng ăn nhập gì đến câu hỏi của tôi.

“Thế nào là việc lung tung?” Tôi cũng không rõ mình đang muốn đưa câu chuyện đi đến đâu.

“Nhật thực nguyệt thực lần tiếp theo sẽ diễn ra khi nào? Bao giờ thì người dân Nhật Bản thôi đi công viên ngắm hoa anh đào? Quốc điểu của nước chúng ta là loại chim gì?”

“Chờ đã, tôi có thể trả lời cái cuối cùng đấy. Thật đấy!” Tôi kêu lên.

“Ồ…” Kame biểu hiện sự ngạc nhiên của cậu bằng một tiếng kêu duy nhất. Thế nhưng cậu không hỏi thêm về đáp án. Tôi cho rằng cậu không tin việc tôi có thể trả lời được câu hỏi đó.

“Tôi lại cứ mong trong những mớ chuyện lung tung cậu nghĩ, có chút nào đó liên quan đến tôi.” Tôi bắt đầu bày ra bàn mớ thức ăn khô, đồ uống có gas, và vài chiếc CD từ trong balo.

“Như thế nào?”

“Ưm, chẳng hạn như là, Jin hôm nay mặc áo màu gì? Jin hôm nay buổi sáng có cạo râu hay không? Jin hôm nay bước chân trái hay là chân phải khi ra khỏi nhà? Jin---”

“Jin không phải là chuyện lung tung.”

“Gì kia?” Tôi đi đến gần cậu hơn.

“Jin không phải là chuyện lung tung”. Kame lặp lại câu trả lời, quay mặt về phía mà cậu cho rằng tôi đang ở đó.

“Phải thế mới đúng. Chuyện về Jin chỉ có thể là chuyện rất trọng đại, ne?” Tôi không thể nén được nụ cười của mình, giọng hết sức tự mãn.

“Chuyện đau đầu nên không muốn nghĩ tới.” Nói xong câu này, Kame bỏ tôi lại, đứng lên dò dẫm đi về phía cửa phòng bếp. Cậu đã nỗ lực rất nhiều trong việc làm quen với ngôi nhà và giờ đây cậu gần như có thể đi lại dễ dàng trong nó nhờ căn cứ vào một số đồ vật như là mốc xác định.

“Ô.” Mặt tôi ngẩn ra, và tôi chỉ có thể thốt ra một tiếng duy nhất như thế.

“Nhưng trung bình một ngày tôi nhớ đến anh ba lần. Lúc mới ngủ dậy, lúc đang ngồi ăn sáng và nghe tiếng máy hút bụi kêu ro ro khi Miki-san đến dọn phòng, và cả lúc Miki-san nói cho tôi biết tàu Yokohama đang chạy qua”. Giọng cậu ấy đều đều, như thể đang nói về nỗi nhớ nhung của một ai khác chứ chẳng phải của bản thân mình. Sau đó bỗng nhiên đổi hướng lần đi về phía phòng tắm.

“Neh! Kamenashi!” Tôi gọi giật.

Nhưng cậu hoàn toàn lờ tịt tôi đi, vì cho rằng như mọi khi đó có thể lại là một trò trêu chọc nào đó.

‘Lúc nãy tôi đã suýt khóc trên xe taxi vì nhớ cậu’. Đó là điều tôi định sẽ nói nếu như Kame chịu ngoái lại và dành ra ba giây để nghe. Thay vào đó, tôi mở nắp một lon bia, vừa nhấp từng ngụm lớn vừa ngẩng mặt nhìn lên chùm đèn treo giữa trần nhà. Ánh sáng vàng của nó gieo vào lòng tôi một sự ấm áp dễ chịu. Cả sự yên lặng của căn phòng khách với những bức tường trắng và cánh cửa giấy trang nhã dẫn ra phía ban công.

Từ trong phòng tắm vẳng ra tiếng xả nước vào bồn. Tiếng nước trầm đục và đều đặn, ngay tức khắc gợi cho người ta nhớ đến một cảm giác thân thuộc chỉ có thể tìm thấy ở ngôi nhà của chính mình. Tôi thậm chí còn có thể hình dung ra từng luồng hơi nóng đang bốc lên bên trên một chiếc bồn đầy nước.

Tiếng Kame bỗng vang lên, từ đâu đó hoặc là từ mọi ngóc nghách trong căn hộ.

“Tôi muốn đi tắm trước khi lên giường. Nước xả có lẽ cũng được hơn nửa bồn rồi. Anh có muốn vào cùng không?”

“…”

“Jin, anh có muốn vào cùng không?”

“Ha--ả?” Tôi gần như giật thót cả người khi hiểu ra cậu ấy đang nói về việc gì.

“Tốt, tôi sẽ xem như đó là một sự đồng ý. Vào đây nào, nhanh lên.”

Khi tôi vào trong, Kame đã ngâm mình trong bồn. Cậu ngồi ở đầu bồn tắm, xoay lưng về phía vòi sen, co cả hai gối lên trước ngực và tự dùng tay ôm lấy mình. Tóc cậu ướt đẫm, ép sát vào mái đầu và hai bên mặt cậu. Nước còn đọng lại cả trên mi mắt cậu. Tất cả những điều đó khiến cậu trông giống một thằng con trai mới lớn có tính khí lầm lì khó chịu.

“Kame, tôi không nghĩ là---“

“Nhanh lên, vào đây.” Kame cắt ngang lời tôi.

Cậu hoàn toàn không để ý đến sự ngượng ngùng trong giọng nói của tôi. Cậu, thật lâu sau đó, lại thì thầm bằng cái giọng khàn khàn của mình, nửa như van nài, nửa như ban ra một mệnh lệnh cho tôi.

“Jin, vào đây nhanh đi.”

Tư thế ngồi của cậu vẫn như thế. Giữa sự gợn sóng của nước trong bồn, tôi nhìn thấy khoảng đùi trắng co lên cao của cậu. Cũng như nửa thân trên của cậu.

Tôi mở nút áo bằng những ngón tay lóng ngóng. Khi tiếng động do dây kéo của quần jeans vang lên, tôi chỉ cầu mong sao cậu có thể không nghe thấy. Việc này thật quá sức lạ lùng. Cả hai chúng tôi đều khoả thể trước mặt nhau nhưng chỉ tôi trông thấy cậu.

Nước gợn mạnh hơn khi tôi bước vào bên trong bồn. Xoay sở một cách cẩn thận, tôi ngồi xuống phía sau lưng Kame.

“Có thể chà lưng cho tôi không?” Cậu hỏi, rất tự nhiên.

Tôi với lấy bông tắm cạnh đó, vò nó nhẹ nhàng trong nước trước khi bắt đầu làm như cậu nói. Những bức tường của căn phòng ốp bằng một loại gạch men sáng loá. Ánh đèn phản chiếu trên chúng, đập lại vào mắt tôi. Cơ thể đầy đặn của Kame cách tôi chỉ một cánh tay. Cậu quay lưng về phía tôi, luôn luôn quay lưng về phía tôi, dường như không còn quan tâm đến sự trần trụi của bản thân mình nữa. Hoặc là, đã phó mặc sự trần trụi đó cho tôi.

Hơi men vừa nãy vẫn còn đọng lại trong cổ tôi. Đầu tôi hơi váng vất. Nước nóng vừa phải gây ra cảm giác lâng lâng rất dễ chịu. Tôi vừa chà lưng cho Kame vừa để cho đầu óc mình tự do trôi dạt. Tôi nghĩ về đám tuyết đang rơi trên một miền đất nào đó ở phía Bắc Nhật Bản; trang web có đăng tải mọi tin tức cơ bản cần thiết cho những ai muốn tìm hiểu về đất nước hoa anh đào, nhờ nó mà tôi biết được nhờ màu xanh lục hiếm có mà loài chim trĩ được coi như là quốc điểu của quốc gia mình; cả tin tức dự báo hoa anh đào năm nay sẽ nở sớm vì sự ấm áp đến sớm của mùa xuân; cả việc tin tức về một ngôi mộ của hoàng gia xưa kia vừa được chính phủ cho phép khai quật để nghiên cứu thêm.

Khi sực tỉnh lại, tôi nhận ra đầu Kame đã gục xuống giữa hai gối. Tóc và trán cậu chìm vào nước, môi cứ mấp máy không ngừng một câu gì đó.

“Kame, Kame.” Tôi lay cậu dậy, bế cậu ra khỏi bồn sau khi đã dùng khăn tắm quấn quanh nửa thân dưới. Nhận ra việc tôi đang làm, cậu bắt đầu cựa quậy, cố thoát khỏi tay tôi. “Yên nào, tôi đưa cậu về phòng, không thể ngủ gục trong khi tắm như thế. Cậu muốn bị ốm hay sao?”

Kame không đáp, chỉ giãy dữ dội hơn. Tôi ôm chặt lấy cậu, đi nhanh trên hành lang.

“Có việc gì với cậu thế hả? Không thể nói với cả tôi hay sao?” Khi đã đặt cậu xuống giường, tôi hỏi.

“Jin.” Cậu gọi tên tôi, đôi mắt nhìn lên trần nhà trống rỗng.

“Gì nào?”

“Jin.” Cậu cứ gọi như thế, năm lần hoặc là nhiều hơn thế. Chỉ gọi tên tôi, ngoài ra không chịu nói gì khác.

Tôi đỡ cậu ngồi dậy, dùng khăn lau khô tóc cậu, rồi lại giúp cậu nằm xuống, kéo chăn đắp cho cậu, sau đó trở ra tắt đèn ở phòng khách. Trở vào, tôi chỉnh lớn nhiệt độ của máy sưởi, lên giường nằm cạnh cậu.

“Khi nãy tôi ngủ quên mất hay sao?” Một lúc lâu sau, cậu bỗng trở người, quay sang đối diện với tôi. Cách cư xử hoàn toàn bình thường như thể vừa rồi đã chẳng có chuyện gì xảy ra.

“Ừ, cậu ngủ quên trong khi tắm. Là tôi đã bế cậu vào phòng đấy.” Tôi cẩn thận trả lời câu hỏi của cậu. “Cậu cứ gọi tên tôi nhưng sau đó thì chẳng chịu nói gì cả.”

Kame cười khi nghe tôi nói thế. Tôi không hiểu cái cười đó cho lắm. Khoảng cách giữa chúng tôi hiện giờ là rất gần. Từng đường nét trên gương mặt cậu đều hiện ra rõ ràng trước mắt tôi. Điều này khiến tôi nhớ đến tuổi niên thiếu đã trôi qua nhiều năm về trước. Khoảng thời gian mười năm, không quá dài cũng không quá ngắn, có lẽ là bằng một tuyến đường cao tốc nối liền Tokyo và Osaka. Trên tuyến đường đó có mười chặng nghỉ. Bất cứ khi nào tôi dừng lại, cũng có Kame ở bên cạnh. Thời gian đã trôi qua nhiều như thế đó.

“Tôi nhớ Jin”. Kame bỗng nói.

Trong một thoáng, tôi chưa hiểu ra ngay ý cậu là gì.

Cũng như lúc gọi tên tôi, cậu lại bắt đầu lặp đi lặp lại câu nói đó.

“Tôi nhớ Jin. Tôi nhớ Jin. Tôi nhớ Jin…”

“Đừng như thế.” Tôi nói nhanh, chạm tay vào vai cậu. Một sự im lặng khủng khiếp bỗng dưng hiện diện. Rồi ánh mắt đang nhìn xuống của Kame từ từ hướng lên, nhìn về phía tôi. Sau đó, mọi thứ trở nên bất động. Tôi vô thức bóp mạnh vai cậu mà không nhận ra. Không có ánh sáng phản chiếu trong đôi mắt đang nhìn tôi. Nó trống rỗng, giá lạnh và hút mọi ánh sáng vào mình mà không hề có sự phản chiếu lại. Một ánh mắt không có ánh nhìn, vô cảm với mọi biểu hiện cảm xúc, chẳng là gì khác ngoài một bộ phận lấp đầy gương mặt. Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn, quay mặt đi nơi khác.

Ngay khi đó, một bàn tay lần đến, sờ khẽ vào mặt tôi.

“Nhìn tôi này, Jin. Nhìn thẳng vào tôi này.”

“Kame…?” Tôi cố giữ cho giọng mình vẻ tự nhiên.

“Anh sợ, đúng không?”

“Chỉ một chút thôi.” Tôi nắm lấy tay cậu, áp nó chặt hơn vào mặt mình.

“Bây giờ trông tôi như thế nào?” Cậu dùng tay còn lại tự vỗ nhẹ vào má.

“Cậu có thể huỷ diệt cả thế giới.” Tôi trả lời không cần suy nghĩ.

“Tôi đâu phải dị nhân hay X-men gì gì đó Jin!”

“Tôi nói được là được. Cậu có thể huỷ diệt cả một thế giới nếu như cậu muốn Kame… Thế giới của tôi”. Dù đã rất cố gắng, giọng tôi vẫn run lên ở những tiếng cuối cùng.

Kame chợt hiểu ra. Cậu im lặng một lúc trước khi mỉm cười thật buồn.

“Tôi sẽ không làm điều đó. Tôi có một chỗ trong thế giới đó, chẳng việc gì tôi phải huỷ diệt nó cả.”

“Vậy thì đừng làm những việc khiến tôi đau lòng nữa.”

“Tôi đã làm gì?”

“Cậu bảo rằng nhớ tôi.”

“Thật kỳ quặc, tôi bảo mình nhớ anh, việc đó mà lại khiến cho anh đau lòng sao?” Cậu hỏi lại một cách ngờ vực.

Tôi không đáp. Tôi biết mình vô lý. Nhưng đau lòng là cảm giác có thật. Vì khi nghe Kame nói thế, tôi bỗng nhiên nghĩ rằng đó giống như một lời giã biệt cậu dành cho tôi.

“Nhưng đúng thật là vậy.” Kame trở người lại, nhìn thẳng lên trần phòng. Vài đốm sáng hình thù kỳ lạ đang loang loáng ở nơi đó. Tôi đoán chúng là do đèn đường rọi bóng xuống một vũng nước đọng nào đó mà thành.

“Tôi nhớ Jin. Tôi nhớ Jin khủng khiếp. Nỗi nhớ giống như từ trong xương trong tuỷ mà nhớ ra. Tôi không biết vì sao lại thế. Nhưng dạo này không hiểu sao tôi cứ hay nghĩ đến gương mặt của anh. Có vẻ như tôi sắp không nhớ nổi nó nữa rồi. Mắt anh thế nào, chân mày anh thế nào, mũi anh ra sao, quầng thâm dưới mắt anh, môi anh,… Mọi thứ hiện lên trong tâm trí tôi cứ ngày càng mờ dần đi. Cứ thế này thì đáng buồn thật đấy, vì sẽ có một lúc tôi không vẽ nổi gương mặt của Jin trong trí nhớ của mình nữa.”

“Kazuya-chan, cậu nhóc siêu ngốc nghếch của nhà Kamenashi, cậu đang làm xấu mặt gia đình vĩ đại của cậu đấy. Cậu muốn nói rằng cậu đang cảm thấy nhớ một người ở ngay bên cạnh cậu đấy à? Chẳng phải tôi vẫn ở ngay đây sao?”. Tôi cũng trở tư thế nằm, úp ngược thân mình xuống nệm, vùi mặt vào chiếc gối nằm có mùi của Kame. Tiếng nói của tôi phát ra từ trong cổ họng, khàn đục như một bệnh nhân trong cơn cảm cúm nặng. Tiếng nói của tôi phát ra chậm rãi, từng chữ một, vì không cách nào khiến chúng đi nhanh hơn được. Tôi cần phải chắc chắn nhớ được và nhớ rõ mọi câu nói trong cuộc đối thoại lần này giữa hai chúng tôi. Bỗng dưng tôi nghĩ rằng chúng rất quan trọng. Tôi cần phải ghi nhớ chúng, một cách chính xác và rõ ràng.

“Chúng ta đang nói về thời gian.” Một cái cười thoảng qua trong giọng nói của Kame. Chúng trầm và giá lạnh, chúng giống hệt một con sông bị mùa đông vây hãm, con sông kiêu hãnh đến mức từ chối ánh mặt trời. “Một năm nữa, Jin sẽ như thế nào? Năm năm nữa, Jin sẽ như thế nào? Mười năm nữa, hai mươi năm nữa, năm mươi năm nữa, Jin sẽ như thế nào? Tôi muốn nhìn thấy tóc Jin dần dần bạc đi, tôi muốn nhìn thấy vết nhăn trên mặt Jin, tôi muốn nhìn thấy những nốt đồi mồi trên da Jin. Ngay cả khi Jin lấy một cô gái nào đó và cùng cô ta sinh ra những đứa con đáng yêu, tôi vẫn muốn được chứng kiến lễ cưới và tham dự sinh nhật một tuổi của đứa bé. Thật đáng sợ khi Jin ở ngay bên cạnh tôi, ngày qua ngày cứ thay đổi đi từng chút một mà tôi không hề hay biết.”

Từ giữa những câu nói, tôi vùng ra khỏi chiếc gối có khả năng mê hoặc kẻ khác, tôi nhổm người dậy một cách cẩn thận không cho cậu hay biết. Khuỷu tay phải của tôi tì lên gối, giúp nâng đỡ đầu tôi ở bên trên. Bằng cách đó, tôi dõi theo Kame. Trong một dáng vẻ bình thản nhất, người thanh niên tôi yêu đang nói ra những lời khiến cậu đau lòng. Cũng là những lời khiến tôi không thể không đau lòng. Trong căn phòng rộng không đến sáu chiếu tatami, lại có đến hai sự đau lòng cùng lúc hiện diện. Tôi phải làm gì để giải quyết chúng đây?

“Nghe này, Kazu. Bakanishi của cậu vừa mọc thêm hai nốt trứng cá trên trán, mắt đang thâm quầng lên vì đêm qua thức tới khuya lơ khuya lắc. Ngoài việc đó ra thì anh ta chẳng có gì khác cả, vẫn cứ handsome và sexy như thường. Cậu phải tin tôi.”

Tôi nói, nghe rõ sự kiên quyết trong giọng nói của chính mình. Tôi cảm thấy mình có thể chống lại cả thế giới trong giờ phút này. Giờ phút này, trán tôi áp chặt vào trán Kame, bàn tay tôi siết chặt vai cậu, tiếng tim đập bên trong lồng ngực cậu vang lên rõ ràng bên tai tôi, và rồi, hơn cả một nụ hôn, môi tôi điên cuồng với việc nhấn chìm mọi âm thanh trước khi chúng kịp thốt ra từ môi cậu, gây ra thêm nguồn cơn của bất cứ sự đau lòng nào khác.

Tôi thật sự cảm thấy mình có thể chống lại cả thế giới trong giờ phút đó.

VIII.

Vào cái hôm tỉnh dậy lúc 4 giờ sáng, vì tiếng chuông điện thoại đột ngột vang lên, tôi đã mơ thấy mình đang chìm dần vào biển cả. Hay nói chính xác hơn là, một nỗi đam mê sâu kín như biển cả. Tôi không biết điều đó có nghĩa là gì. Tôi không thể nhớ được bất cứ chi tiết nào của giấc mơ ngoại trừ việc mình đang chìm dần đi. Cả việc tôi đã cảm thấy rất hài lòng về điều đó. Nỗi đam mê sâu kín và không rõ tên đó úp chụp lên cơ thể tôi, kéo tôi về phía nó, rồi chậm rãi chiếm lấy tôi bằng sự tĩnh lặng mênh mông của mình. Chính vì thế, tôi nghĩ rằng nó tựa như biển cả, dịu dàng ngay với kẻ sẽ chết trong tay mình chỉ ít phút nữa thôi.

Rất dễ dàng để đoán ra chủ nhân của cuộc gọi phá bĩnh đó là ai. Người quản lý của chúng tôi, kẻ hầu như đã thức trắng đêm vì những kế hoạch trong bảy ngày sắp tới ở Weimar, rồi sau đó lại cần mẫn gọi điện đánh thức từng người một trong nhóm. Chỉ để nhắc lại giờ ra sân bay và những quần áo cần thiết mang theo để chống lại thời tiết nắng nóng hiện nay ở Đức.

Đức. Chỉ trong vòng không đến ba tháng, cái tên của đất nước xa lạ này đã hai lần đến với chúng tôi. Dẫu rằng bản thân nó gợi nhớ nhiều đến một sự kiện bất hạnh thì sức hút từ nó toả ra vẫn khiến những kẻ yêu cái đẹp không thể cầm lòng. Chúng tôi từ Đông đi sang Tây, thứ duy nhất mang theo chỉ là sự hiện diện của bản thân mình, mọi thứ còn lại đều phó mặc cho thiên nhiên, cảnh vật, con người ở nơi đó. Weimar là thành phố có nét đẹp vĩnh cữu. Điều đó hiện ra phần nào ở những khu vườn của nó, với những công trình cây cối được chăm sóc và cắt tỉa gọn gàng, những toà bảo tàng lưu giữ những tác phẩm nghệ thuật thể hiện niềm tự hào qua bao thế hệ, cả những toà nhà nghìn năm tuổi chứa đựng một bề dày lịch sử khó mà tả hết chỉ trong vài lời.

“Chúng ta sẽ đến đấy và ở lại cái thành phố kiều diễm này trong bảy ngày cơ à?” Koki chỉ tay lên màn hình laptop, hỏi với một điệu bộ khá là ngơ ngẩn. Rõ ràng cậu ta đã xem Weimar giống như một cô gái, sử dụng cả tính từ “kiều diễm” khi miêu tả về nhan sắc của nàng. Khi đó, chúng tôi đang xem một bức ảnh chụp toàn cảnh Weimar từ trên không. Những block nhà hình vuông với mái ngói đỏ trầm và tường sơn trắng nằm cách nhau đều đặn, ngăn cách bởi những con đường sạch sẽ và những hàng rào chạy dài phủ đầy màu xanh của dây leo. Dễ hiểu làm sao khi Koki lại tỏ ra ngây ngất đến vậy.

“Nè nè, chúng ta đến đó vì công việc chứ không phải đi du lịch gì đâu nhé!” Maru ngay lập tức lên tiếng nhắc nhở.

“Chẳng thể nào trong bảy ngày đó chúng ta cứ è cổ ra làm việc mà chẳng được hưởng thụ chút xíu nào. Ít nhất cũng phải là làm vài vòng phố xá về đêm mới phải!”

“Bia rượu do Đức sản xuất nghe nói rất tuyệt!” Junno bất thình lình lên tiếng, xong lại quay qua nhìn mọi người với vẻ chả chắc chắn một chút nào về thông tin mình vừa đưa ra. “Có phải thật thế không ta?” Cậu ta liên tục hỏi đi hỏi lại câu đó, giọng điệu ra chiều bất an ghê gớm. Không hề gì cả. Vì ngay sau đó Junno vẫn cứ nhận được một ánh mắt đắm say từ Koki, kẻ mới phút trước đã bày tỏ cực kỳ huỵch toẹt ý định muốn chơi đêm ở Weimar như thế nào. “Junno-kun, chúng ta hãy cùng nhau khám phá Weimar nhé, nhé” Vừa nói, Koki vừa xán lại gần, bá vai ôm cổ Junno cực kỳ thân thiết.

“Tào lao quá, mọi người vẫn còn đang ở Nhật Bản đấy nhé, chưa có chân nào đặt lên đất Weimar đâu. Sao trước hết không quan tâm tới việc vì sao giờ này quản lý vẫn chưa đến? Chỉ còn 30 phút nữa là đến giờ lên máy bay” Là Ueda, như mọi khi.

“Quản lý có công việc đột xuất. Anh ta bao giờ mà chẳng có chuyện cần làm kia chứ?” Koki nhún vai, ngụ ý Ueda đã lo lắng một việc quá sức hiển nhiên.

“Có thể là anh ấy để quên cái gì đó nên phải vòng về lấy. Sáng nay anh chẳng gọi cho chúng ta lúc rất sớm còn gì.” Junno nói tiếp ngay sau đó.

“Còn là ngay vào lúc tôi đang ngủ ngon nhất ấy~” Maru làu bàu nhớ lại, vẫn còn tiếc nuối giấc ngủ dở dang của mình.

Tôi lách ra khỏi bốn người họ, kiếm một chỗ trống trên dãy ghế gần đó. Mặt trời giữa trưa treo lừng lững trên bầu trời Tokyo. Ánh nắng của nó vẫn chói chang như thế, khiến cho đám mưa liên tục của hơn tháng trước giờ nghĩ lại chỉ như một lời nói dối đại tài. Sân bay Narita vẫn đông đúc ngay vào thời điểm vắng chuyến bay nhất trong ngày. Vài du khách quá cảnh đang lang thang qua lại, đi từ nơi này đến nơi khác, nhìn ngắm quang cảnh bên ngoài qua những lớp kính trong suốt một cách thích thú. Tôi tự hỏi nếu như thời gian quá cảnh lâu như thế, sao họ không đi mua một chiếc vé, bỏ ra ít tiền để được tự do đi khỏi cái nhà tù đẹp đẽ khổng lồ này?

Ở trước mặt tôi, bốn người vẫn đang tranh cãi. Sự chậm trễ của người quản lý đã bị bỏ quên. Họ lại tiếp tục nói về Weimar và những dự định dành cho thành phố đó. Đó đều là những thanh niên đã hơn 25 tuổi đầu, hơn mười năm sống trong giới showbiz, số lần đi tour đến những thành phố lạ không thể đếm xuể. Ấy vậy mà giờ đây giống như những đứa trẻ lên năm, háo hức không kể xiết vì một đất nước nằm ở phía Tây trên bản đồ thế giới.

Tôi trầm ngâm ngắm quang cảnh sân bay, nghĩ về chiếc điện thoại đang nằm trong túi quần sau của mình. Có một cuộc gọi cần phải được thực hiện. Hoặc bây giờ hoặc không bao giờ. Số liên lạc tôi thuộc nằm lòng. Tiền dư trong tài khoản cũng đủ kéo dài cuộc điện đến hơn 60 phút. Chỉ là một cái gì đó vẫn còn thiếu, như là dũng khí bấm lệnh gọi từ danh bạ, hoặc can đảm để mở lời nói về chuyến đi xa của mình.

Tôi nghĩ mình đang lo sợ một điều vô căn cứ. Kame thừa hiểu và chấp nhận việc chúng tôi phải đi xa vì công việc. Tuy nhiên, khi nơi đến là Đức, tôi bỗng nhiên không muốn nói cho cậu ấy biết. Tôi không thích làm ra vẻ như không có chuyện gì rồi hồ hởi kể cho Kame nghe về Weimar. Người ta không thể ngang nhiên mà đi từ một nơi này đến một nơi khác. Sẽ phải dùng đến phương tiện. Sẽ không cần nhắc cũng tự nhiên nghĩ đến máy bay và bầu trời. Như thế, sau cùng vẫn sẽ khiến cậu ấy vô tình nhớ lại những chuyện cũ không vui.

Tôi thật ra cũng chẳng phải kẻ nhạy cảm gì. Tôi có thừa thờ ơ và sự lơ đãng đối với thế giới này. Nhưng, như bạn biết đấy, Kamenashi lại thuộc về một trường hợp ngoại lệ rất khó nói.

Trước giờ lên máy bay mười phút, người quản lý vừa chạy hộc tốc từ ngoài cửa vào vừa hối hả giải thích vì sao anh đến muộn. Chẳng có lý do nào bọn họ đưa ra là chính xác cả. Chỉ đơn giản vì sau khi thức quá sớm để gọi điện nhắc nhở chúng tôi lúc sớm, anh đã lăn ra ngủ say sưa và lờ luôn chuông báo thức của đồng hồ hai tiếng sau đó.

Tôi vẫn ngồi lại trên ghế, thôi nghĩ nữa mà lôi hẳn cái di động ra khỏi túi quần của mình. Màn hình vừa mở khoá, một ngọn núi hoang vu ngay lập tức hiện ra. Tôi vừa đổi hình nền điện thoại lúc sáng. Sau giấc mơ bị chết chìm trong biển, tôi đã nghĩ tốt nhất là nên đặt niềm tin của mình vào những vùng cao. Việc tiếp theo phải làm chỉ là mở danh bạ, lần tìm tên liên lạc bắt đầu bằng chữ K. Tôi biết. Nhưng thay vào đó, tôi lại đi tìm chữ T, Tomohisa. YamaP, bạn thân mến, kẻ thỉnh thoảng vì lý do không đâu vào đâu cả lại nói ra những câu khiến cho tim tôi run rẩy.

“Thế này nhé Jin. Im lặng mà nghe tôi nói, tuyệt đối không được xen vào giữa chừng. Okay? Rồi nhé. Tôi nói đây. Cậu, hmm, cậu sắp đi xa. Cậu sẽ rời khỏi Tokyo trong bảy ngày. Và cậu không yên tâm về Kame vì cậu ta đang sống chỉ có một mình ở một nơi buồn tẻ nào đó của Kukamura. Vì thế mà cậu muốn nhờ tôi thỉnh thoảng đến thăm, nói chuyện để cho cậu ấy đỡ buồn. Thế nhưng lại không được lộ ra việc cậu đã đi sang Đức. Tất cả mọi chuyện cậu cố gắng nói với tôi nãy giờ có phải là thế không Jin?”

Pi quả thật là một kẻ phiền toái. Sao cậu ta có thể lắm lời đến thế vào ngay trước lúc bạn mình chỉ còn ít phút để lên máy bay kia chứ?

“Nói. Trả lời tôi. Cuộc gọi này của cậu là nhằm vào mục đích tôi vừa kể ra phải không Akanishi?!”

“Được rồi, được rồi! Cậu đúng, Pi. Cậu đúng tuyệt đối, đúng trăm phần trăm. Tôi gọi cho cậu chả phải vì thăm hỏi hay rủ rê gì gì cả. Chỉ là muốn nhờ cậu bạn thân mến còn hơn anh em ruột của tôi đây một việc như thế mà thôi”. Tôi ngừng lại, nghe thấy một tiếng khụt khịt tinh quái của Pi phía bên kia đầu dây. Tôi biết cậu ta đang chờ tôi nói ra câu quan trọng nhất. “Thôi nào Pi”. Tôi thở mạnh. ”Nhờ cậu chăm sóc hộ cho Kame trong lúc tôi đi vắng. Cậu cũng biết vì sao tôi không yên tâm rồi kia mà.”

“Bạn thân mến, cậu không biết là tôi đang nhớ Shuuji-kun của tôi đến mức nào đâu. Tôi muốn đến thăm cậu ấy chết đi được, và nếu như không có một kẻ độc tài gia trưởng đáng ghét khó ưa nào đấy luôn để mắt tới cậu ấy không lúc nào rời thì tôi đã làm thế từ lâu rồi!”

“Hay nhỉ ông mãnh? Anh em lâu lâu có chuyện nhờ vả thì cậu lại móc họng xỏ xiên nhau thế đấy?” Tôi nhấn mạnh từng tiếng trong câu nói của mình.

Đầu dây bên kia bật ra tiếng cười khoái trá của Tomohisa. Rồi giọng cậu ta nghiêm túc trở lại.

“Được rồi, Jin. Cứ đến Đức và làm tốt công việc của cậu, khiến những cô gái điên lên và chường mặt ra khắp các tờ tạp chí nổi tiếng, tôi sẽ ở nhà và chăm sóc chu đáo cho Kame-chan của cậu.”

“Trừ khi tôi học được phép tàng hình trong khi hát hoặc làm hoá đá bất cứ ai lỡ ngắm ảnh hay nhìn vào mắt tôi trên ti vi, sân khấu, ha?”

“Có một cách đơn giản hơn rất nhiều. Một cách hoàn toàn nằm trong khả năng của cậu.” Pi ra chiều bí mật.

“Là?”

“Ôm hôn như phát điên bất cứ cô gái nào trong tầm mắt của cậu và không ngừng thì thầm dịu dàng bên tai họ, ‘Aishiteru, aishiteru!”. Cậu ta phá ra cười ngay lúc đang nói. “Cậu biết không Jin? Cậu sẽ nhấn chìm họ đấy, cậu sẽ nhấn chìm họ chỉ bằng một câu nói như thế đấy.”

Hai chữ “nhấn chìm” trong một thoáng nhắc tôi nhớ đến giấc mơ khi sáng.

“Tuyên bố với báo giới là chúng ta sẽ kết hôn chẳng phải một cách hay ho và đơn giản hơn rất nhiều sao?” Tôi cười, trầm giọng nói.

Ở bên kia đầu dây, Pi á khẩu trong vài giây trước khi kịp lấy lại sự tinh ranh ngày thường của mình.

“Cậu không phải mẫu cô dâu lý tưởng của tôi, Jin. Thế nên phiền cậu biến đi khỏi mắt tôi giùm, nhanh, baka~”

Nói xong câu đó, cậu ta vội vàng cúp máy.

Như thế, người chiến thắng trong cuộc gọi vừa rồi không ai khác chính là tôi. Hương vị của chiến thắng thật ngọt ngào. Tôi tự thưởng cho mình một nụ cười. Vừa lúc ngẩng lên, thấy ngay trước mặt mình là người quản lý cùng bốn người Ueda, Koki, Maru, Junno. Họ đang nhìn chăm chăm vào điện thoại trên tay tôi, vẻ mặt đã hoàn toàn mất hết mọi kiên nhẫn.

May thay, vừa lúc đó, tiếng loa thông báo trên trần cao về chuyến bay lúc 1 giờ 3 phút trưa từ Tokyo đến Đức cũng kịp lúc vang lên.

---

Từ sân bay Frankfrut của Đức, chúng tôi lên xe của bên phía đối tác, di chuyển xuống phía Weimar trong ánh sáng rực rỡ của mặt trời tháng bảy. Bên ngoài cửa sổ xe, những cánh rừng im lặng lướt qua. Sau những tàng cây, những ngôi nhà xây bằng gạch đỏ thi thoảng lại hiện ra. Cùng với chúng là những dãy dây phơi phất phơ quần áo đủ màu và âm thanh dễ nhận ra của đài radio. Có lẽ vì thấy mà không khí nơi đây gây ra cảm giác đặc biệt yên tĩnh. Mỗi gia đình làm thành một cuộc sống riêng tư hoàn hảo. Họ như núp trong một không gian riêng thuộc về mình, không xâm phạm và cũng không tò mò về cuộc sống của kẻ khác.

Ở Tokyo không có nhiều rừng rậm, thế nên mọi người trong nhóm chúng tôi đều ngơ ngẩn ra mà nhìn hàng hàng những cánh rừng lướt qua trên đường đi. Thật khó diễn tả quang cảnh này. Xe tốc hành chở bạn lao đi trên con đường vắng. Tay phải bạn là rừng già lộng gió. Tay trái bạn là cuộc sống yên vui của biết bao gia đình. Bạn băng qua giữa hai điều đó, cùng lúc trải nghiệm hai cảm giác hoàn toàn khác nhau. Một hoang dã và thô mộc. Một ràng buộc và có hơi ấm của tình thân.

Sau vài tiếng trầm trồ ban đầu, không khí trên xe cũng dần lặng đi. Vì Weimar cách Frankfrut khá xa nên xe chúng tôi chạy đường dài. Từ lúc lên xe, mọi người đã được điểm tâm bằng nước suối và một món bánh mì ngọt to bằng hai bàn tay người lớn. Món bánh nguội ngắt, có vẻ như đã được mua từ khá sớm. Có vị ngon và ngọt gắt dù dễ gây ngán. Junno là người duy nhất trong bọn có thể thanh toán hết phần bánh của mình chỉ trong một lần ăn. Ueda ăn như mèo, và quắc mắt cũng hệt như mèo nốt khi Koki trong một lúc dại dột đã lỡ miệng trêu anh ta là “nữ thực như miêu”. 

Tôi gặm được một phần ba cái bánh thì đã cảm thấy bao tử đầy ngấy. Sau khi uống nước vào thì tôi chẳng kiếm đâu ra được lý do để tiếp tục ăn cái bánh ấy. Tôi không cần phải tăng cân thêm nữa. Thứ bánh nhiều tinh bột này ngoài việc cung cấp năng lượng ra thì chẳng được tích sự gì khác.

Hai tiếng đồng hồ sau đó, vài người lăn ra ngủ gà gật trên ghế, số khác lơ mơ nhìn như mê sảng ra cảnh vật bên ngoài. Tôi đẩy Maru sang bên, lấy chỗ trống để có thể nằm xuống. Tôi không thích rừng nữa. Rừng rậm gây cho tôi ảo giác về sự mất phương hướng. Tôi không còn nhìn thấy gì khác ngoài rừng và con đường nhựa trước mặt. Nhưng bên tai tôi lại nghe thấy tiếng bấm máy của Kame, tiếng phim chạy sau khi một bức ảnh được lưu lại, cả giọng nói vừa ngần ngại vừa phấn khởi của cậu ấy khi nói cho ai đó nghe về sở thích chụp ảnh của mình. Tôi không dám mở mắt ra. Tôi sợ rằng nếu làm thế, tôi sẽ nhìn thấy một Kamenashi đang ngồi ngay bên cạnh, dán mắt vào cửa sổ và bấm máy liên tục khung cảnh bên ngoài. Rồi một lúc nào đó, cậu ấy sẽ lay tôi dậy và bảo, đừng ngủ nữa, để tôi chụp cho Jin một tấm hình.

Này Kame, trên tạp chí đã có quá nhiều ảnh của chúng ta rồi, cậu không cần phải chụp ảnh tôi nữa đâu. Và tôi cũng ở ngay đây, luôn luôn ở ngay đây. Cậu không cần phải lưu giữ tôi bằng ống kính của mình nữa đâu.

Chiều hôm đó, khi đến nơi, người quản lý bảo rằng tôi đã nói mê một điều gì đó trong khi ngủ. Tuy rằng nghe không rõ cho lắm, có điều, anh ta bảo, thật khó mà tưởng tượng Akanishi lại nói mê, còn là trong một dáng vẻ đau lòng nhiều như thế.

Tôi chỉ cười, nghĩ đến nát óc cũng chẳng biết mình đã mơ thấy gì.

~*~

Khách sạn chúng tôi lưu lại nằm giữa khuôn viên một khu vườn lớn. Và cách bày trí của nơi đây giống một cách kỳ lạ với những bức ảnh chúng tôi tìm thấy trên mạng về Weimar một ngày trước đó. Khách sạn cao mười bảy tầng, nằm trên khu đất đẹp nhất của khu vườn, có một đài phun nước lớn trong sân trước, ngay trước tiền sảnh khách sạn. Từ cửa sổ ở phòng riêng nhìn ra, khu vườn giống như mảnh lụa màu xanh khổng lồ, trên có điểm những điểm nhấn trắng là các bức tượng tạc hình những nhân vật nổi tiếng có nhiều cống hiến trong thời kỳ trường phái nghệ thuật cổ điển Weimar còn thịnh hành. Xa hơn chút nữa, vùng lân cận hiện ra với hình dạng những quả đồi trải dài thoai thoải, màu xanh nối tiếp màu xanh, rừng nối tiếp rừng, chừng như bất tận.

Buổi sáng ngày hôm sau, shot ảnh đầu tiên được thực hiện. Cấu trúc của khu vườn dường như đã gây một ấn tượng mạnh cho ekip thực hiện. Họ di chuyển khắp nơi, tận dụng ánh nắng, tham lam chiếm mọi cảnh trí. Chỉ trong một buổi sáng, số lượng hình chụp đã lên đến con số hàng trăm. Shot ảnh đầu tiên hoàn thành trước dự kiến. Chúng tôi có được một buổi tối nghỉ ngơi dễ dàng hơn chúng tôi tưởng.

Như kế hoạch từ trước, sau bữa tối, Koki và Junno lập tức biến mất. Theo như tin tình báo của Maru, họ đã nhờ nhân viên của khách sạn tìm giúp một xe taxi địa phương để đi thưởng ngoạn cảnh vật thành phố về đêm. Nói là thế, nhưng Maru cũng đoan chắc rằng, cùng lắm là sau hai vòng lượn phố, hai gã trai ấy sẽ tấp ngay vào một quán bar nào đấy cho xem.

Tôi cười trừ trước mẩu tin nóng bỏng của Maru. Ueda chỉ nhún vai và thêm đá liên tục vào ly nước của mình trong khi nghe. Đến 7h, chúng tôi phát hiện ra phòng thư giãn chung của khách sạn. Ueda là một tay có thần kinh vận động khá tốt. Không những xử lý gọn gàng những bao cát cứng đầu của môn boxing, trái bóng bé tí của môn bóng bàn cũng chẳng làm khó được anh. Chúng tôi chơi hết thảy năm ván. Sau hai ván đầu bị ăn trắng, tôi gỡ gạc lại được chút ít ở ván thứ ba, trước khi đầu hàng và nhường chỗ lại cho Maru ở hai ván cuối.

Trở lại quầy bar, tình cờ thợ ảnh chính của êkíp cũng xuống làm vài ly để thư giãn đầu óc. Chúng tôi trò chuyện vài ba câu, nội dung chủ yếu xoay quanh công việc lúc sáng. Anh khen ngợi biểu cảm trong ánh mắt của chúng tôi, nhưng đồng thời cũng bộc lộ một nỗi băn khoăn kỳ lạ khi chụp cho KAT-TUN những bức ảnh chỉ có năm người. 

“Cái gì nhỉ?” Anh nói, bằng một vẻ mơ màng thật lạ chỉ có ở những kẻ ăn nằm với nghệ thuật lâu năm. “Có một cái gì đó khác đi trong bố cục của những bức ảnh. Tôi đã quá quen với gương mặt của sáu người các cậu rồi. Nghĩa là, khi tôi ngắm ống kính, trong bức ảnh của tôi quen với việc nhắm sẵn sáu vị trí lý tưởng dành cho gương mặt của các cậu. Nó giống như cái khung cơ bản để từ đó tôi phát triển và xây dựng thêm các ý tưởng cũng như bố cục mới cho bức ảnh của mình. Bây giờ, phải điều chỉnh lại một chút, phải tìm cách dàn trải ra hơn để mà lấp đi chỗ trống của Kamenashi.”

“Anh nhiều chuyện thật đấy! Chụp ảnh thì cứ chụp ảnh thôi. Chỉ việc chụp cho thật đẹp vào là được thôi ấy mà, gì mà cảm giác này nọ kia chứ?” Tôi vỗ vai anh, gọi thêm bia cho anh, ngăn không cho anh nói thêm về cái đề tài nhiếp ảnh điên khùng đó nữa. Để thay vào đó, tôi hỏi anh có biết về những mặt hàng nước giải khát mới ra gần đây. Có một loại nước dành cho bọn trẻ, gọi là “Haya, haya, quân đoàn bọ xít vô địch”, vì thế mà bao bì bên ngoài in đầy những cô cậu mặc quần áo siêu nhân vỗ cánh bay phần phật.

Nhưng anh ta chẳng chút hứng thú nào với đám siêu nhân nhóc tì của tôi, chỉ tỏ ra nôn nóng và liên tục hỏi tôi có muốn xem qua trước một số ảnh chụp lúc sáng hay không. Dĩ nhiên là tôi từ chối. Viện ra lý do mình quá lười để leo những mười hai tầng cầu thang bộ lên đến phòng anh, tôi từ chối nhiệt tình đến mức sau cùng đã khiến cho anh thất vọng mà bỏ đi. Còn lại một mình, tôi gọi thêm một loại rượu địa phương khác và chậm chạp thưởng thức vị đắng chát của nó trong tiếng kèn sacxophone xa vắng của một vị du khách người Ý.

Lẽ ra tôi có thể thẳng thắn mà nói với người thợ nhiếp ảnh đó lý do thật sự tôi từ chối xem những bức ảnh. Có một sự liên hệ lạ lùng đến Kame mỗi khi năm người chúng tôi ở cùng với nhau trong một nơi và nhìn khắp những người còn lại xung quanh mình. Có một cái gì đó không đúng khi chỉ năm chúng tôi ở nơi đây. Có một cái gì đó rất đau lòng khi những người làm chương trình thỉnh thoảng lại đãng trí quên đi sự thiếu hụt của chúng tôi mà hỏi về Kame. Và sự ồ ra vỡ lẽ sau đó của họ, có một cái gì đó quá hiển nhiên khiến chúng tôi chán ghét.

Vô hình trung, nhìn vào những bức ảnh chụp KAT-TUN năm người, tôi luôn cảm thấy rằng đó là một sự thất bại to lớn nhất.

Ueda đã từng bảo rằng, đó là dấu hiệu cho thấy sự uỷ mị bên trong Akanishi chỉ tăng lên chứ không giảm đi. Tôi cũng không còn sức để mà có thể không thích Ueda hơn nữa. Trong bảy ngày ở Đức, mỗi đêm tôi luôn xuống uống ở quầy bar trong nhà hàng khách sạn. Ngoài công việc, chỉ có giấc ngủ và cái không khí xa lạ của quán xá ở đất nước này khiến tôi được an ủi. Tôi cũng không muốn nỗi nhớ nhung bên trong mình ngày qua ngày lại đầy hơn như thế. Tôi thôi nghĩ ngợi. Kiên quyết trong việc đẩy lùi Tokyo cùng tất cả con người và sự kiện liên quan đến nó ra khỏi tâm trí.

Chỉ đôi khi, vào những lúc rất khuya một mình đi thang máy trở về phòng, tôi mới cho phép mình nghĩ đến vài điều vụn vặt liên quan đến cậu ấy. Tôi nghĩ đến những căn hộ Kame từng ở qua. Tôi nghĩ đến buổi chiều tôi đi ngang khu Shibuya sầm uất và trông thấy trong một cửa hàng bán ti vi nọ, hình ảnh Kame cười rạng rỡ trên bục ném, nắm trong tay quả bóng sẽ mở màn cho trận đầu tiên của giải chuyên năm đó. Tôi còn nghĩ đến một vài buổi sáng tôi thức dậy, cơn đau đầu vì trận say bí tỉ đêm qua vừa nhen lên đã hoàn toàn tan biến khi nhìn thấy cậu ấy ngồi ở cuối giường, trong ánh sáng của nắng, mặc trên người chiếc áo ám đầy hơi rượu của tôi. Sau cuối, hình ảnh cậu ấy ngồi một mình uống trà và ăn món okonomiyaki ở hàng hiên hình vòng cung luôn hiện lên trong mắt tôi, giữa bóng đêm mênh mang của thành Weimar trầm mặc.

---

Một buổi tối muộn, khi tôi vừa gọi đến suất bia thứ ba, người phục vụ sau khi đem bia đến bỗng nhiên không đi ngay. Người đàn ông trạc tuổi sáu mươi đó nhìn tôi chăm chú qua đôi kính trễ xuống sóng mũi của mình. Quầy bar khi đó cũng tương đối vắng khách. Ngoài tôi ra, chỉ còn một nhóm đàn ông bàn chuyện tin tức ở góc bàn trong góc. Cái nhìn chăm chú của người phục vụ không khiến tôi bối rối. Thản nhiên nâng ly bia, tôi uống cạn nó chỉ trong một hơi. Sau đó, quay sang ông ta, tôi lịch sự hỏi.

“Xin lỗi, tôi không biết mình có thể giúp được gì cho ông đây?”

Ông ta dùng tay đẩy gọng kính nằm lại ngay ngắn, cúi xuống gần tôi rồi trả lời bằng một giọng khào khào rất lạ.

“Cậu có muốn chơi một ván cờ không? Tôi có.”

Tôi lấy làm lạ là ông đã hỏi “muốn chơi” chứ không phải là “biết chơi”. Hai câu hỏi này có ý nghĩa rất khác nhau.

Trước khi tôi kịp trả lời, ông ta đã lôi từ ngăn kệ bên trong quầy ra một bộ cờ tướng đã mòn vẹt, chỉnh sáng ngọn đèn phía bên trên và nhanh nhảu bày các quân cờ thành hai thế cờ cân bằng nhau.

Sức cờ của tôi không đến mức quá tệ, nhưng người đàn ông này xem ra cũng chẳng phải một tay cao cờ. Ván đầu tiên diễn ra rất nhanh. Chúng tôi rượt đuổi quân của nhau theo kiểu “ăn miếng trả miếng”. Sang ván thứ hai, nhịp điệu trở nên chậm rãi hơn. Những quân cờ đi loanh quanh trong khoảnh đất của mình, thi thoảng tập kích bất ngờ sang phần biên giới để cướp về vài quân chốt bé tí teo. Thi thoảng, chụp đèn chao nghiêng do một luồng gió bất chợt thổi đến từ bên ngoài khu vườn. Ánh sáng cũng theo đó chênh chao, và bỗng nhiên tôi nhận ra một nỗi buồn bã của kẻ đã lạc mất quê hương trên gương mặt vô cảm của những quân cờ mình ăn được.

Người phục vụ chẳng nói thêm tiếng nào từ khi bắt đầu chơi cờ. Cũng không có thái độ gì tỏ ra e ngại sẽ bị cấp trên bắt gặp mình đang ăn cắp thời gian làm việc cho một trò giải trí cá nhân như thế. Ông ta chăm chú và say mê vào ván cờ, tạo cảm giác như sự có mặt thật sự của ông ở quầy bar này chính là vì nó.

Ở nước đi thứ bao nhiêu không còn nhớ rõ, người đàn ông đốn ngã một quân mã của tôi, từ đó tiến sâu hơn vào lãnh thổ của quân đỏ, ngày càng gần ngôi vị của Tướng quân. Sau mỗi lần đặt quân, ông lại gõ nhè nhẹ ngón tay út của mình lên mặt quầy, tỏ rõ một sự thích thú lẫn mong ngóng nào đó đối với động thái của đội quân màu đỏ.

Tôi cho rằng ván cờ này có thể kết thúc chỉ sau khoảng 4, 5 nước đi nữa. Tôi cảm thấy mệt. Đồng hồ lớn ở đại sảnh khách sạn cũng đã gần chỉ đến con số mười hai. Thế nhưng vị bia đêm nay dường như quá nhẹ, tôi không cảm thấy say. Chỉ đơn giản là mệt và cô đơn một chút.

“Chiếu tướng. Không còn đường mà chạy nhé!”. Người phục vụ cười, di chuyển quân pháo của mình về phía trái, tạo nên một gọng kìm hoàn hảo trong việc bắt sống một tay chỉ huy.

Tôi không nói gì, chỉ đặt tiền nước lên quầy rồi chuẩn bị rời khỏi bar. Cũng ngay lúc đó, gương mặt đầy vết nhăn của ông ta một lần nữa chợt áp sát lại tôi. Dưới gọng kính trắng, đôi mắt ông toát ra một cái nhìn ma mãnh kỳ lạ.

“Đêm nay cậu có muốn một ai ngủ cùng không?”.

Tôi lùi về sau một chút, nhìn đăm đăm người đối diện. Nhưng ngay sau khi thốt ra câu đề nghị kỳ quái đó, ông ta đã lui về vị trí quen thuộc, bắt lấy một chiếc khăn và chí thú với việc lau chùi ly tách của mình.

Tôi thở ra một hơi mạnh, cùng lúc nghe thấy một đợt gió mới vừa từ khu vườn tràn đến. Chụp đèn lại đong đưa dữ dội. Ánh sáng chấp chênh lướt từ chỗ này sang chỗ kia trên mặt quầy gỗ tối. Và rồi, giống như bị mê hoặc bởi những đốm sáng biết nhảy múa đó, tôi gật đầu, nói khẽ số phòng của mình trước khi rời đi.

---

Có lẽ là lúc nửa đêm, hoặc đã qua ngày mới một chút, cô gái ấy đến.

Cửa mở ra làm vang lên một tiếng động nhỏ, ngay sau đó là một bóng người khéo léo lách vào. Trong vài giây ngắn ngủi, tia sáng từ ngoài hành lang cũng theo vào, hắt thành một vệt dài màu vàng trên lớp thảm.

Khoảng cách từ cửa đến giường là mười bước chân. Bằng một cách nào đó, trên quãng đường đi ngắn ngủi đó, cô ta tự biến cơ thể mình trở nên trần trụi trước khi vào đến giường của tôi.

Dù bóng tối lấp đầy căn phòng, tôi vẫn có thể cảm nhận rõ ràng cơ thể của cô gái. Những đường nét đầy đặn và đặc trưng của cơ thể phụ nữ, ngay cả khi không cần phải làm gì, bạn cũng có thể nhận ra ngay lập tức. Chúng quá mềm mại, đầy e dè, vừa ngượng ngùng vừa thích được ngắm nhìn, quen với việc khiêu khích người khác ngay cả khi không tự mình ý thức về điều đó. Tất cả những đặc tính đó đã tạo nên sự nhạy cảm đầy quyến luyến của phái nữ, chỉ cần tiếp xúc qua một lần, bạn đã có thể nhận ra và nhớ mãi điều đó. Cảm giác quen thuộc và có chút nhàn nhã khi tôi để yên cho cô gái lạ hôn khắp khuôn mặt mình. Nước hoa cô dùng có mùi khá nồng. Nó gợi nhớ đến một ngày hè đầy nắng hay một loài hoa ngát hương nào đó, những thứ luôn luôn quá đầy tràn và viên mãn.

Khi tôi tìm ra miền ẩm ướt của cô và bắt đầu đi vào bên trong nó, cô run lên như một chiếc lá trước khi dần lả đi vì nỗi khoái cảm đang lan dần khắp châu thân mình.

Âm thanh thoả mãn duy nhất của cô cũng thoát ra vào lúc đó. Đó dường như là một cái tên Đức. Tên một người thanh niên. Cô hẳn đã gọi tên người tình của mình.

Gần sáng, cô xuống giường, mặc lại quần áo, đến bên bàn nhón lấy những tờ dollars tôi để sẵn từ tối hôm trước.

Trước khi ra khỏi cửa, cô ngoảnh lại, đôi mắt dán chặt vào tôi những tia nhìn sắc sảo.

“Tối nay, ông có muốn tôi quay lại không?”

Vẫn ngồi nhìn về phía cửa sổ, tôi gắn lên môi mình một điếu thuốc và châm lửa cho nó. Sau cùng, khi nhả ra đợt khói đầu tiên, tôi trả lời câu hỏi của cô bằng một cái gật đầu.

---

Vẫn là lúc nửa đêm hoặc muộn hơn một chút, cô gái quay trở lại vào đêm hôm sau.

Tôi ngồi tựa lưng vào thành giường, đốt một điếu thuốc trong lúc quan sát thân hình cô dần trở nên khoả thể trước mặt tôi. Cô có một thân hình đầy đặn, bộ hông tuyệt đẹp kết hợp một cách hài hoà với đôi chân dài, cũng như mái tóc màu hung buông dài phía sau tấm lưng thon. Cổ cô thanh mảnh nhưng ngực cô hơi nhỏ, nó gây một cảm giác buồn bã đáng thương hơn là có tác dụng khuấy động niềm ham muốn ở kẻ khác.

Cũng như lần đầu, cô hành động rất nhanh, phút chốc đã ở trên giường của tôi, tỏ ý muốn vuốt ve gương mặt tôi.

Tôi để yên cho cô làm thế, nhưng khi cô rướn người lên để có thể hôn được vào môi thì tôi ngăn cô lại.

“Xin lỗi, nhưng đêm nay chúng ta có thể ngủ thôi không?” Tôi xoa nhẹ ngón tay lên tóc cô, nói chậm từng tiếng một.

Cô gái xa lạ mở to mắt nhìn tôi, như thể cô vừa được nghe thấy lời đề nghị điên rồ nhất trong cuộc đời của mình. Nhưng bóng tối trong căn phòng rất dày, nó giúp bảo vệ tôi trước ánh nhìn của cô. Ngoài ra còn giúp duy trì một sự im lặng rất dễ chịu.

Sau cùng, cô nằm xuống, thiếp dần vào giấc ngủ sau khi đã nhìn chăm chăm lên trần nhà một lúc rất lâu.

Còn tôi vẫn ngồi trong tư thế đó, tự châm cho mình điếu thuốc mới, nhìn một đêm dài chậm chạp trôi qua.

Bình minh ngày hôm đó có màu xanh của biển, cần mẫn như một con ốc sên, bò dần lên từng chút một trên bầu trời của Weimar.

Cô gái lạ thức dậy trên chiếc giường của tôi, không nói một lời nào, vẫn chỉ ra đi sau khi đã nhón lấy của tôi một tờ dollars.

Tôi không hỏi vì biết, tối hôm sau cô sẽ quay trở lại.

---

Bằng cách đó tôi sống qua bảy ngày yên ổn ở Weimar. Hàng đêm ngủ bên cạnh một cô gái lạ mặt, không rõ tên tuổi, quá khứ hay thân phận. Tôi cũng không quá quan tâm đến những điều đó. Thứ duy nhất tôi muốn ở cô ta là hơi ấm. Thứ duy nhất cô ta cần ở tôi là những đồng dollars. Một cuộc trao đổi sòng phẳng và khiến cả hai bên đều yên lòng.

Ngoài ra chẳng ai trong hai chúng tôi nói thêm với nhau một điều gì khác.

Dấu hiệu của sự bất ổn chỉ xảy đến vào ngày cuối cùng chúng tôi lưu lại Đức. Nhân viên ở quầy tiếp tân gọi lên phòng, báo cho tôi hay có một cuộc gọi đường dài từ Nhật. Người gọi chỉ đích danh tên họ tôi là kẻ nghe máy, bảo rằng có chuyện gấp, không thể chờ đợi lâu hơn.

Chính vì thế mà họ đành phải làm phiền đến tôi vào lúc 5 giờ sáng như thế.

Nhưng Yamashita Tomohisa thì chẳng có được đến một phần mười sự lễ độ như thế, cậu ta ngay khi nghe thấy tiếng tôi, chỉ quăng lại một câu ngắn gọn rồi cúp máy ngay lập tức.

Từ giữa tuần trước Kame đã đi khỏi Tokyo rồi.

Cuộc gọi không đến hai mươi giây. Chỉ để thông báo về việc một người đã đi khỏi Tokyo,Tomohisa đôi khi thật là một kẻ rảnh rỗi quá.

Nhưng như đã nói, thỉnh thoảng, rất vô cớ, cậu ta lại khiến tôi phát run lên vì những câu nói của mình.

IX.

Tháng tám năm đó trở nên dài hơn bao giờ hết.

Khi tôi quay về từ Đức, mùa thu đã phủ một diện mạo mới lên Tokyo. Bầu trời thành phố đọng lại trong một sắc cam rực rỡ. Những cô gái trẻ trên đường phố quấn mình trong những bộ váy áo theo kiểu thời trang thu đông tươi vui. Và khi đi bách bộ ở những quả đồi trong khu Kukamura vào những buổi hoàng hôn, tôi thường nhìn thấy một sắc màu đỏ cam rực lên từ đằng Đông, trông giống như có một đám cháy to đang bốc lên ở nơi đó.

Căn hộ lạnh toát khi tôi dọn đến. Sự trống trải bao phủ lên các bức tường và mọi không gian ở nơi đây. Chẳng còn lại bất cứ dấu vết nào của người chủ cũ. Ngay cả chiếc ghế sofa Kame hay ngồi cũng chẳng lưu lại bất cứ hình ảnh thân quen nào. Tôi đi một vòng khắp ngôi nhà, cuối cùng ra phía trước hàng hiên. Những quả đồi thấp ngập trong màu đỏ của cánh rừng cạnh đó. Nắng vàng óng. Trời bên trên cao và xanh thăm thẳm. Con tàu trắng xuất phát từ ga Tokyo, bình thản lướt trên đường ray như một thực thể có suy nghĩ và cuộc sống của riêng mình.

Ngoài việc Kame đi khỏi nơi đây từ giữa tuần trước, Tomohisa không thể nói thêm cho tôi biết bất cứ tin tức gì. Trong cuộc gặp một ngày sau khi tôi trở về ở chính căn hộ ở Kukamura, cậu bạn kể lại mọi việc với vẻ khá nhẹ nhàng.

“Theo như lời cậu dặn, cứ cách ngày tôi lại đến nói chuyện với Kame. Cũng chẳng phải việc dễ dàng gì đâu. Mỗi lần lại phải nghĩ ra một lý do khác nhau. Chuyện để nói cũng đâu phải lần nào cũng có. Đa phần chúng tôi chỉ nói về thời gian quay phim Nobuta wo Produce. À, có lúc cũng nhắc đến hồi chúng ta còn nhỏ. Cả bọn mình luôn ấy mà. Tôi cảm thấy Kame thích việc đó. Cậu ấy nói nhiều hơn và cũng cười nhiều hơn. Còn bảo, rất nhớ quãng thời gian đó. Cậu ấy từ đầu đến cuối chẳng khi nào hỏi gì về cậu cả. Nhưng tôi cũng vờ như tình cờ mà bảo rằng dạo này lịch đi show của cậu rất dày, đã thế còn là những nơi cách xa Tokyo thôi. Thật ra thì, mỗi lần tôi tự động nói về cậu trước mặt Kame, tôi đều có cảm giác rất kỳ quặc, Jin. Giống như thể tôi đang nói về một chuyện ngay trước mặt người hiểu rõ câu chuyện đó hơn ai hết. Thế đấy. Thế rồi hôm thứ tư tuần rồi, tôi đến thì cậu ấy đã đi mất rồi. Chẳng có một dấu hiệu hay lời báo trước nào cả. Thoạt đầu tôi cho là cậu ấy về nhà cha mẹ mình. Nhưng cho đến đầu tuần rồi, khi tôi gọi đến đó hỏi thăm thì mới hay chuyện không phải như vậy. Ngay cả cha mẹ Kame cũng chỉ liên lạc qua điện thoại với cậu ấy trong mấy tháng qua. Rồi thì tôi gọi sang Đức báo tin cho cậu hay…”

“Một vụ mất tích hả?”. Tôi cười, hỏi lại ngay khi Pi kết thúc câu chuyện của mình.

“Không. Vì sau đó hai ngày, Kame có gọi điện cho tôi.” Cậu ta nói mà không nhìn tôi.

“Ừ?” Tôi không chắc mình có thật sự muốn biết nội dung của cuộc điện đó hay không.

“Cậu ấy bảo, tạm thời muốn đi khỏi Tokyo một thời gian. Cậu ấy sẽ ổn, đừng quá lo lắng mà làm gì.”

“Sẽ ổn cơ à?” Tôi ngả hẳn người vào lưng ghế sofa, nhận ra một vẻ mỉa mai không che giấu trong giọng nói của chính mình.

Pi nhăn mặt, ném cho tôi cái nhìn đầy trách móc.

“Thôi nào Jin! Cậu phải biết là Kame có cách nghĩ riêng của mình. Đi khỏi Tokyo là chọn lựa của cậu ấy. Tạm thời rời xa cậu cũng là chọn lựa của cậu ấy. Cậu ấy đã hai mươi ba tuổi rồi, không còn là một Kamenashi lúc nào cũng theo sau lưng cậu như ngày xưa nữa.”

“Thế đấy!” Tôi nhếch môi cười, ngay vào lúc cảm thấy mình đang bình thản nhất thì một cơn giận dữ bỗng nhiên nổ bùng trong giọng nói. Tôi không thể kiềm nó hơn được nữa. “Nhưng ít ra cũng phải chính miệng cậu ta nói với tôi điều này! Cậu không hiểu sao Pi? Chẳng bao giờ tôi tự tin rằng mình hiểu được trong đầu Kame đang suy nghĩ cái gì cả. Cậu ấy tỏ ra như thế này, nhưng thực tế lại cư xử theo một cách hoàn toàn ngược lại. Chúng tôi cứ giống như đang rượt đuổi nhau vậy, trên một cái vòng tròn bất tận!”

Người đối diện nhìn chằm chằm vào tôi rồi lắc đầu, trả lời một cách khó khăn.

“Tôi không biết, Jin. Nhưng Kame có để lại cái này, nhờ tôi chuyển giùm cho cậu.”

Vừa nói cậu ta vừa lấy từ túi áo ra một phong thư dán kín, đưa cho tôi.

“Tôi có việc phải đi rồi. Cậu cứ bình tĩnh mà suy nghĩ lại mọi chuyện thêm đi.”

Sau khi Tomohisa đi khỏi, căn phòng khách trở nên im lặng khủng khiếp. Tôi ngồi một mình trên ghế sofa, cái ghế đã bao lần trước đây Kame luôn ngồi, quen với việc một mình lắng nghe những mẩu đối thoại phát ra từ chương trình trên ti vi để chống lại sự buồn tẻ ở nơi đây. Nắng tràn vào phòng từ phía hàng hiên, nhuộm vàng một phần chiếu tatami ngay bên dưới chân tôi. Dùng dao rọc giấy mở phong thư, tôi bắt đầu đọc. Loại giấy khắc nổi gây ra cảm giác ram ráp khi tôi chạm tay vào. Lá thư không dài, chỉ trên dưới khoảng mươi dòng, nét chữ cứng và cẩn thận. Ý nghĩ rằng đó là tất cả những gì cậu để lại cho tôi khiến tôi không sao chịu đựng nổi.

“Tôi sẽ ổn, Jin. Cho nên đừng lo lắng gì cả. Tôi đã từng suy nghĩ về việc này, rời xa anh, đi khỏi Tokyo, sống cuộc sống bình thường ở một nơi nào đó. Những lúc chán nản, tôi vẫn có thói quen nhớ đến Okinawa, dùng những kỷ niệm cũ ở nơi đó như một cách động viên chính mình. Nhưng có những lúc, ngay cả Okinawa cũng không thể giúp được gì cho tôi, thế là như một lẽ tự nhiên nhất, tôi lại nghĩ đến việc đi xa. Đó giống như một điều không tưởng trước vụ tai nạn. Nhưng giờ đây, tôi bỗng nhận ra mình có đủ điều kiện để thực hiện mơ ước đó. Dám thay đổi là dấu hiệu của sự can đảm, có phải không? Nếu đúng là như vậy, lần này tôi đã can đảm rất nhiều, anh nghĩ có đúng không?

Tôi sẽ sống tốt. Nếu anh cũng sống tốt như thế, giữ được bản thân mình không chết đi trước đi trước tôi thì một ngày nào đó chúng ta vẫn sẽ gặp lại nhau. Nhật Bản không phải Mỹ, Canada hay Trung Quốc. Nó rất nhỏ. Chúng ta rồi sẽ gặp lại nhau mà thôi…”

Tôi mở mắt ra, nhìn đăm đăm xuống những ngón chân đi trần trên sàn nhà của mình. Vũng nắng đã bò vào đến tận giữa phòng. Những ngón chân của tôi ngập trong nắng. Cảm giác ấm áp hiện diện trên làn da và đang lan dần khắp cơ thể. Tiếng máy xén cỏ từ đâu đó bỗng rì rầm vang lên. Tôi chú tâm lắng nghe âm thanh ấy. Giữa sự vắng lặng của vùng ngoại ô lúc 10 giờ sáng, nó đều đặn vang lên, không khác gì một lời kêu cứu tuyệt vọng.Tôi tuột khỏi ghế sofa, ngồi hẳn xuống sàn, để cho cả cơ thể mình ngập trong nắng.

~*~

Tôi không nói cho một ai khác biết về sự biến mất của Kame, nhưng bằng một cách nào đó, những kẻ cần biết đều đã biết. Thật may, chẳng ai xúm vào an ủi hay nói những lời vỗ về với tôi. Chỉ luân phiên năm gã trai kéo nhau đi khắp các bar đứng ở Tokyo, uống bia và chuyện gẫu lung tung về những đề tài bất tận của cuộc sống đô thị.

Trong thời gian đó, có một vài sự việc đáng chú ý diễn ra như sau.

Thoạt tiên là chuyện tình cảm của Koki. Cậu ta từ hồi tháng ba đã bắt đầu hẹn hò qua lại với một cô nhân viên bán hàng ở siêu thị. Người phụ nữ độc thân một mình lo cho đứa con gái sáu tuổi, bận rộn đến mức chẳng bao giờ màng đến những chương trình ti vi hay sân khấu ca nhạc, thế cũng có nghĩa là cô ta hoàn toàn mù tịt với việc Koki-kun của chúng ta đây là nhân vật nổi tiếng như thế nào. Sau hơn bốn tháng quen biết, mối quan hệ vẫn đang tiến triển vô cùng tốt đẹp. Koki vẫn thường đến nhà cô ấy vào lúc cuối tuần, cùng cô đi siêu thị mua thức ăn rồi về làm cơm trong bếp. “Có lẽ tiếp xúc nhiều với mấy cô trong showbiz, tớ đâm ra cảm thấy an toàn khi ở bên cạnh một cô gái bình thường, nhỉ?” Tự khổ chủ đã lý giải về chuyện tình cảm của cậu ta như thế.

Việc thứ hai là trong một buổi phát sóng trực tiếp chương trình trên radio, Junno yêu dấu đã lỡ miệng hỏi Ueda rằng, “anh có muốn chúng ta cùng nhau có một cuộc hẹn hò không?” Hậu quả đầu tiên là Ueda sặc nước và ho sặc sụa trong phòng thu. Hậu quả kéo theo là phần sau của chương trình ngày hôm ấy, các fan của Tatchan chẳng được nghe anh nói gì khác ngoài một tràng ho sặc sụa, đầy biểu cảm và bức xúc như thế.

Việc thứ ba là tôi có cơ hội quay trở lại Okinawa một lần nữa. Một chương trình đặc biệt mừng kỳ phát sóng thứ 200 của Cartoon KAT-TUN. Chuyến đi khởi hành trong đêm tối và chúng tôi đến nơi vừa kịp lúc để đón bình minh lên. Quang cảnh yên tĩnh của bãi biển buổi sớm khiến vài người trong đoàn lặng người đi. Những đợt sóng bạc đầu đuổi nhau chạy từ khơi xa vào đất liền, vỗ nhẹ nhàng vào bờ cát trước khi nhẹ nhàng tan biến. Bầu trời như phủ một tấm vải màu xanh lam mềm mại, dần dần bị bóc tách ra từng chút một bởi sắc cam khi mặt trời lên. Ở nơi cuối trời, nơi ranh giới giữa biển và trời gần như xoá nhoà, hai sắc xanh hoà lẫn vào nhau làm thành một thực thể duy nhất, tôi lại trông thấy một màu tím biếc. 

Hình ảnh hiện ra trên võng mạc của mắt chân thật và rõ ràng. Nhưng tôi tự biết rằng đó không khác gì hơn một ảo giác của bản thân. Cái khoảng trời tím biếc ấy, đã vĩnh viễn nằm lại, đã vĩnh viễn thuộc về cái tuổi niên thiếu cách đây rất xa. Đó là con đường chúng tôi đã đi qua, mãi mãi không có cách nào quay trở lại.

Đôi lúc, đứng trước biển, tôi lại có cảm giác rõ rệt về sự tan biến. Âm thanh của ngàn khơi, vẻ đẹp hùng vĩ lớn lao của đại dương, thế giới luôn luôn biến động và tuân theo quy luật của kẻ mạnh ẩn bên dưới những tầng nước, cả sự tĩnh lặng vô biên khi đứng một mình lắng nghe tiếng sóng.

Tôi vẫn chưa thể hiểu được lý do vì sao Kame muốn rời xa tôi. Cậu ấy sợ hãi Tokyo, muốn đi đến một nơi nào đó hiền lành và ôn hoà hơn là điều tôi có thể hiểu được. Nhưng vì sao ngay cả tôi cậu cũng có thể để lại phía sau?

Tình cảm hoá ra lại là thứ khiến người ta nặng lòng đến thế. Mang theo tất cả tình cảm của tôi, cậu thanh niên đó vẫn tin rằng mình có thể sống tốt khi chỉ có một mình hay sao?

Tôi đã từng nghĩ qua việc một lúc nào đó chúng tôi sẽ chia tay nhau. Trong hình dung đó, tôi và cậu có một cuộc hẹn sau cùng. Chúng tôi cùng đi đến rạp chiếu phim, xếp hàng hồi lâu để mua được vé của một bộ phim ăn khách ngay trong suất chiếu đầu tiên. Trong rạp đông đúc và ngột nghạt. Cậu uống một lon Cola to và liên tục nhai món popcorn của mình. Bộ phim gay cấn và gây ra những nỗi xúc động lớn lao. Các khán giả nữ rất nhanh chóng chấm khăn tay lau đi nước mắt, những chàng trai bên cạnh thì luôn ra sức dỗ dành. Còn tất cả những gì chúng tôi làm vẫn chỉ là uống Cola và ăn popcorn. Đến cuối phim, mọi âm thanh và tiếng động đều biến mất. Màn hình cũng tối đen, chỉ hiện lên vài dòng chữ trắng. Kame quay nhanh về phía tôi khi đó, tận dụng khoảnh khắc cuối cùng trước khi rạp sáng đèn để hôn vội lên môi tôi. Nụ hôn có vị Cola và mùi bơ sữa ngọt ngào của popcorn. Nụ hôn của cuộc hẹn cuối cùng trước lúc chia tay. Nụ hôn có dùng cả đời mình tôi cũng không sao quên được.

Tôi là một kẻ tham lam từ trong bản chất. Tôi muốn cả ngọt ngào và xót xa cùng lúc. Muốn cả hạnh phúc và khổ đau. Muốn người tôi yêu cũng phải yêu tôi nhiều như thế. Muốn dù cho có chống lại hết thảy nhân loại, vẫn sẽ trở thành một kẻ hạnh phúc nhiều đến mức vừa được ngưỡng mộ vừa bị hiềm ghen.

---

Một buổi sáng thứ bảy, tôi đến JE sớm. Lúc đi thang máy lên phòng tập, tình cờ nhìn thấy Ueda. Thật ra, ngẫm kỹ lại thì đó không giống một sự tình cờ cho lắm. Anh ta ngồi xếp bằng trên băng ghế dành cho khách ở khu vực tiếp tân, tư thế giống như một bài tập yoga nào đó. Khi trông thấy tôi thì lặng lẽ tuột xuống, theo sau tôi vào trong thang máy. Suốt thời gian hai mươi mấy giây cỗ máy hình hộp trượt theo những sợi cáp lên đến những tầng cao, Ueda không nói lời nào. Tôi quan sát anh qua hình ảnh phản chiếu lờ mờ trên mặt kiếng bên trong thang máy, thấy anh có vẻ như đang đắn đo và suy xét một việc gì đó.

Cuối cùng, phải đến khi vào đến phòng tập, anh mới có thể dứt khoát xong mớ suy nghĩ của mình.

“Jin, tối qua Kame đã gọi điện chúc mừng sinh nhật tôi. Cậu ấy dùng máy bàn. Nhờ thế mà tôi nhận ra được mã vùng. Tôi nghĩ đây là chuyện cậu nên biết.”

Tôi chầm chậm quay người lại đối diện với anh. Người thanh niên 27 tuổi đứng trước mặt, là kẻ biết rất rõ khi nào nên và khi nào không nên nói chuyện đùa. Vào buổi sáng một ngày cuối tuần đẹp như thế này đây, anh quyết định nói cho tôi nghe một bí mật của riêng mình. Bí mật đó hoặc khiến tôi hạnh phúc hoặc khiến tôi đau lòng đến mức chết đi. Nhưng có thế nào cũng phải thử qua mới biết được.

“Mọi việc còn lại tuỳ vào cậu cả đấy. Tôi chỉ có thể giúp được đến thế này thôi”. Ueda bước lại gần, dúi vào tay tôi mảnh giấy nhỏ. Rồi anh bỏ đi mà không cần biết tôi có đồng ý cầm lấy nó hay không. Mảnh giấy rơi xuống sàn, bên trong hiện ra một dãy số dài. Những con số vô cảm, nhưng trong khoảnh khắc đó thốt nhiên toả ra một hơi ấm giống như ánh nắng. Ánh nắng đầu ngày, rạng rỡ như nụ cười hôm nào của cậu. Tươi đẹp đến mức ngỡ như một ảo ảnh.

Ngón tay tôi chạm vào nắng.

Ngón tay tê dại.

---

Sau buổi sáng hôm đó, tôi nhiều lần nằm mơ thấy cậu ấy.

Trong mơ thấy cậu ấy nhờ người đến, gọi tôi đi gặp cậu ấy. Chẳng rõ địa điểm hẹn gặp là đâu, nhưng tôi ngay lập tức đi theo kẻ dẫn đường mà chẳng chút hoài nghi nào. Đường thật xa. Chúng tôi cứ đi mãi đi mãi, mặt trời lên rồi xuống, xuống rồi lên. Thời gian trong giấc mơ trôi qua vùn vụt. Đến khi ngừng lại, ngẩng nhìn lên, người dẫn đường đã biến mất tự khi nào. Và tôi bị bỏ lại một mình ở nơi đó với một sự bồn chồn mà không hiểu vì sao.

Lần khác, mơ thấy cậu ấy đến thăm tôi vào một ngày nắng đẹp. Trời sáng tinh mơ. Tôi ngậm bàn chải đánh răng trong miệng, tóc tai rối bời, mắt nhắm mắt mở đi chân trần ra mở cửa cho cậu ấy. Ngay khi cửa vừa mở ra, ánh nắng tràn vào, rực rỡ đến mức tôi phải nhắm mắt lại. Cũng trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, Kame biến mất.

Hay như giấc mơ gần đây nhất, chúng tôi hoá thành hai kẻ xa lạ, hoàn toàn xa lạ với nhau. Gặp nhau trong một quán bar tối mờ, trong vòng chưa đến hai tiếng đồng hồ, chúng tôi đã ra đi cùng nhau. Tôi phải lòng con người xa lạ là Kame ngay từ ánh mắt đầu tiên. Chúng tôi hôn nhau trong góc khuất, chơi đùa với khuôn mặt và làn da của nhau, sau cùng quyết tâm cùng nhau bỏ trốn. Bỏ lại Tokyo, bỏ lại gia đình, bạn bè, người quen, kẻ không quen. Bỏ lại cả ánh nắng và bóng tối, thời gian lẫn không gian. Chúng tôi lên đường, đi về phía phát ra tiếng gọi đang hối hả thúc giục chúng tôi.

Trong giấc mơ đó, những ngón tay đan vào nhau rất chặt. Những bàn tay nắm chặt không rời, ngay cả khi phía trước mặt hiện lên dấu hiệu của một cơn bão dữ dội.

Lúc tỉnh giấc, tôi nhìn thấy một bầu trời xanh bên ngoài cửa sổ. Tôi cứ nằm như thế, nhìn mảnh trời xanh và nhớ về giấc mơ trong cùng một lúc. Cuối cùng, mọi thứ bỗng nhiên trở nên rất nhập nhoạng, nhưng dư vị của nụ hôn trong mơ ngày càng hiện ra rõ ràng hơn trên bờ môi tôi.

Tôi xuống giường, đến đứng bên cửa sổ. Nắng của một ngày mới đang lên trên Tokyo. Nhưng mọi thứ trước mặt tôi bỗng nhiên trở nên rất nhập nhoạng. Không phải mưa. Chỉ vì trong mắt tôi có nước.

~*~

Sân ga lúc 9h sáng một ngày giữa tháng Mười Hai vừa yên tĩnh vừa xô bồ. Gian phòng chờ rất đông hành khách, nhưng hầu hết đều có một vẻ mệt mỏi và trầm tư. Tôi không đặt vé trước, mà đến thẳng sân ga lấy vé trước giờ tàu xuất phát. Tuyến đi Kyoto có vẻ vắng lặng hơn những tuyến đi các địa phương khác. Chuyến tàu đầu tiên trong ngày xuất phát vào lúc 9h 3 phút, tôi đến ga lúc 9h kém hai mươi. Còn lại hơn hai mươi phút cho việc chờ đợi, tôi đi mua một lon nước ở máy bán tự động, trong thời gian đó cố gắng không suy nghĩ về bất cứ điều gì.

Mảnh giấy của Ueda đang nằm trong túi áo khoác ngoài của tôi. Dãy số mà chỉ cần một lần nhìn qua tôi đã có thể nhớ ngay rõ ràng từng số một. Kyoto. Và giờ thì nhập vào đám hành khách trong tâm trạng mong ngóng, tôi cũng trở thành một kẻ sắp xuôi về cố đô, chỉ vì một người.

Kết quả của chuyến đi này, có thể sẽ tìm được Kame, cùng nhau có một cuộc nói chuyện rõ ràng ngay thẳng, dứt khoát về tình cảm, hoặc là sau khi lang thang như một gã ngốc ở vùng đất đầy sự trầm lắng đó, tôi sẽ lại đáp tàu quay về, bắt đầu một cuộc sống mới bằng sự trống rỗng trong tim.

Trước giờ tàu chạy chừng năm phút, Ueda gọi đến. Chúng tôi nói bâng quơ vài chuyện linh tinh. Khi tiếng loa thông báo tàu sắp rời ga vang lên, bên kia đầu dây mới vang lên một câu nói khẽ. “Mang Kame trở về nhé Jin. Không chỉ mình cậu đâu, cả tôi và bọn Maru cũng nhớ cậu ấy lắm rồi”

“Ước gì cậu ấy đủ ngoan ngoãn để tôi có thể giấu cậu ấy vào túi áo mình và mang đi bất cứ nơi đâu tôi thích, Tatchan!” Tôi trả lời, cố mỉm cười.

Sự im lặng thấu hiểu hiện ra trong phút chốc ở đầu dây bên kia. Sau đó, anh chúc tôi may mắn rồi dập máy.

Tôi lên tàu, tìm một băng ghế trống ở khoảng giữa. Khi tàu chạy qua vùng ngoại ô Kukamura, tôi nhìn ra cửa sổ, cố tìm ra mảnh đất nơi căn hộ của Kame toạ lạc. Nhưng lối kiến trúc giống nhau của nhà cửa ở nơi đây khiến tôi thất vọng. Tôi quay mặt về phía những quả đồi, ngắm vẻ cô đơn của chúng trong nắng.

Sau một giấc ngủ lơ mơ, tôi tỉnh dậy ở giữa cuộc hành trình. Khách trong toa đã tản đi đâu cả. Tôi cũng theo họ đi về phía toa vãn cảnh. Sau khúc quanh này, tàu sẽ đi ngang qua núi Fuji. Rất nhiều hành khách đã chọn xong vị trí thuận lợi bên cửa sổ. Hai người khách nước ngoài đã bắt đầu bấm máy lia lịa từ lúc mới thấp thoáng nhìn thấy ngọn núi từ phía xa. Nhiều tiếng trầm trồ khen ngợi vang lên khi con tàu đối mặt trực diện với ngọn núi nổi tiếng. In bóng trên nền trời màu xanh nhạt, núi Fuji tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ về sự vững chãi và cân bằng. Nó khiến người ta cảm thấy yên ổn khi chiêm ngưỡng dáng vẻ của mình. Một thứ sức mạnh nào đó thuộc về tâm linh.

Cuộc thưởng ngoạn chỉ diễn ra trong vài phút ngắn ngủi. Xong việc, đám khách lại tản ra, người lên toa nhà hàng, kẻ về lại toa cũ để xem lại những bức ảnh mình vừa chụp được. Dãy rừng thông hiện ra và kéo dài ngay sau đó hai bên đường chẳng được mất người chú ý đến.

Tôi ngồi xuống một bàn ăn không có khách gần đó, gọi một khẩu phần ăn đơn giản. Trong lúc chờ đợi, tôi lấy điện thoại, ấn nhanh dãy số có mã vùng của Kyoto. Trong vài giây, tiếng đổ chuông vang lên. Tôi bấu chặt những ngón tay vào cạnh bàn, trong sự im lặng khủng khiếp chờ nghe tiếng người vang lên bên kia đầu dây.

“Moshi moshi?” Một giọng trầm trầm vang lên.

Đó cũng là tất cả những gì tôi có thể nghe thấy. Tàu chạy vào đường hầm ngay lúc đó. Mất sóng. Mọi thứ chỉ còn là một tràng những tiếng tít tít dài lạnh lẽo.

---

Đến Kyoto, tôi lấy một phòng ở nhà nghỉ Momiji. Tầng hai vắng khách, ngoài tôi ra chỉ có một gia đình dẫn nhau đi du lịch vào dịp cuối năm. Tôi dự định sau khi đến nơi, tắm táp qua loa sẽ ngủ một giấc dài. Chuyến đi chỉ hai tiếng và hoàn toàn yên ổn nhưng không hiểu vì sao lại khiến tôi kiệt sức mau chóng. Cơ thể tôi rã rời, không có nhu cầu ăn uống hay trò chuyện với bất cứ ai. Giọng nói trầm khàn trong cuộc gọi khi nãy cứ quấn lấy tai tôi. Chỉ từ giọng nói đó, tôi có thể hình dung ra mọi điều. Gương mặt của cậu, ánh mắt của cậu, cả dáng vẻ và mái tóc, cả sự ngạc nhiên khi nhận được một cuộc gọi mà chỉ sau dăm ba giây đã không còn dấu vết.

Khi còn ở Tokyo, tôi nghĩ về Kyoto chỉ đơn thuần như một nơi chốn. Nhưng giờ đây, cố đô có hơi thở và nhịp sống của riêng nó, khiến cho tôi bỗng nhiên nhận thức rõ ràng vai trò không gì khác hơn chỉ là một người khách lạ của mình. Ueda bảo tôi mang Kame trở về, nhưng anh ấy không biết rằng trong lòng tôi chẳng có chút tự tin nào. Tôi không thể tự tin. Cậu ấy chỉ mới rời khỏi tôi bốn tháng nhưng cứ ngỡ như đã lâu lắm rồi.

Tôi ngủ triền miên từ chiều đến tối khuya ngày hôm đó. Trong giấc ngủ lơ mơ nghe thấy rất nhiều tiếng nhạc và âm thanh ồn ã vẳng lên bên ngoài con phố. Nhưng khi tôi tỉnh dậy, gian nhà nghỉ vẫn yên tĩnh như thế. Bên ngoài cửa sổ, một ánh trăng mờ nhạt treo giữa bầu trời. Từ đâu đó ngoài dãy hành lang chốc chốc vọng lại tiếng trẻ con quấy khóc. Tôi nhìn đồng hồ để bàn, đã quá nửa đêm một khắc.

Thời điểm đã quá muộn để có thể nghĩ đến một điều gì đó. Thế nhưng tôi vẫn đi đến bên giường, nhấc ống nghe của chiếc điện thoại bàn lên và bấm số.

Tiếng đổ chuông lại đều đặn vang lên. Tôi kiên nhẫn chờ. Bóng của những chiếc lá in lên cánh cửa giấy, làm thành những hoạ tiết hình chiếc lá cứ chốc chốc lại lung lay.

Lâu thật lâu, vào lúc tôi nghĩ rằng cuộc gọi của mình chỉ là một nỗ lực kết nối vô ích, đầu dây bên kia bỗng có tín hiệu trả lời.

“Moshi moshi?” Vẫn cái giọng trầm trầm lúc trưa, nhưng giờ đây có một vẻ hơi ngái ngủ phủ lên nó.

Tôi im lặng, dùng cả hai tay nắm chặt ống nghe.

“Xin lỗi, ai ở đầu dây?”

Dù muốn đến thế nào đi nữa tôi cũng không thể mở được lời. Một cái gì đó chắn ngang ngực tôi, chỉ thở thôi đã là khó khăn lắm rồi. Tôi nghĩ, chỉ cần cậu ấy nói thêm một điều gì nữa thôi thì tôi có thể sẽ khóc mất.

“Ừm…Bây giờ cũng đã khuya lắm rồi, nếu như có việc cần và nếu không phiền xin hãy gọi lại vào sáng mai---”

“Kame, là tôi.”

Khoảnh khắc im lặng đến nghẹt thở khi tôi thu hết can đảm lên tiếng. Đầu dây bên kia chìm vào im lặng. Chỉ có dấu hiệu xao động duy nhất trong tiếng thở là rõ ràng.

“Jin?”

“Ừ.”

“Anh---“

“Cậu…đang ở đâu vậy hả?” Tôi thốt ra câu hỏi một cách khó khăn, nhanh chóng cắt ngang lời cậu.

“Kyoto.” Kame chỉ cười.

“Chúng ta gặp nhau đi. Tôi nhớ cậu nhiều lắm…”

“Anh có phải đến đây là để mang tôi về không?”. Tôi không hiểu câu hỏi này của Kame. Âm giọng của cậu bình thản nhưng có một cái gì trong cách cậu nói khiến tôi cảm thấy đau xót. Tất cả những câu nói này đều có một sự gợi nhớ vô tình đến quá khứ. Nhưng giờ đây, tôi còn có thể bảo rằng mình sẽ mang cậu về Tokyo như cách đây hơn mười năm đã từng mang cậu đến Okinawa?

“Tôi… không biết, Kame.”

“…”

“Tôi thật sự không biết, Kame.”

Tôi chỉ có thể nói được như thế. Thời gian có một sức mạnh quá lớn lao. Nó lay chuyển và thay đổi lòng người. Nó bào mòn dần niềm tin và sự can đảm của chúng ta. Cũng làm nhạt màu yêu thương và đẩy chúng ta vào một sự ngờ vực khó lường. Tất cả những gì tôi có thể trả lời Kame chỉ là như thế.

“Jin, đừng nghĩ nữa. Suy nghĩ chẳng giống với anh chút nào cả đâu. Đừng nghĩ nữa, cũng chẳng cần phải hỏi xem tôi có đồng ý hay không, cứ mặc nhiên mà mang tôi đi theo như ý anh muốn. Như thế không phải sẽ tốt hơn sao?”

“Jin, bốn tháng qua, tôi vẫn có thói quen như thế. Mỗi ngày trung bình nhớ đến anh ba lần. Mỗi ngày lại tự hỏi xem màu áo hôm nay anh sẽ mặc, tư thế lúc anh vừa ngáp ngủ vừa đứng cạo râu, sẽ gặp những ai và sẽ nói những câu chuyện như thế nào. Ở Kyoto này, tôi có được một sự yên tĩnh tuyệt đối. Nhưng mà, nó lại khiến cho tôi nhớ đến anh rất nhiều…Chuyện về Jin quả thực mỗi lần nghĩ xong đều luôn cảm thấy rất đau đầu, nhưng lại không cách nào ngừng lại được. Tôi cứ nghĩ mãi, đau đầu mãi, tự hỏi mình mãi… Khi nào thì Jin mới đến đây để mang tôi đi?”

Sau câu nói đó, mọi thứ trượt vào một sự im lặng dài.

Và rồi, Kame gọi tên tôi thêm một lần nữa.

Chỉ có “Jin.”. Ngoài ra không gì khác.

Chỉ có thế. Ngoài ra không gì hơn.

Chẳng có gì to tát cả, ấy thế mà nước mắt bỗng nhiên lăn dài trên má tôi.

X. 

Sáng ngày hôm sau, lúc tôi đang dùng điểm tâm ở khu nhà hàng của nhà nghỉ, một nhân viên của nhà nghỉ báo với tôi rằng có một người đến tìm, đang đợi tôi ở đại sảnh. 

Đó là một cô gái trạc khoảng 27, 28 tuổi, tóc vấn cao, mặc một chiếc kimono đỏ khá cầu kỳ và sang trọng. Trong gian đại sảnh vắng lặng của khách sạn, sự hiện diện của cô như một đám lửa đỏ đập ngay vào mắt người xung quanh. Cô ngồi giữa chiếc trường kỷ dài, lơ đãng ngắm những bức tranh treo trên tường, khuôn mặt nhìn nghiêng có những nét quen thuộc mà trong nhất thời tôi không sao nhớ ra được. 

Tôi đi về phía cô, cố lục tìm một ấn tượng nào đó rõ ràng hơn trong số những người quen biết của mình. Ngay lúc đó, trông thấy tôi, cô gái đứng dậy, khẽ cúi đầu chào. 

“Akanishi-san có phải không ạ?” 

Tôi gật đầu chào đáp lại. “Chị là…?” 

“Tôi là Keiko. Kamenashi-san nhờ tôi đến đây đón anh đi gặp cậu ấy”. Giọng cô gái ngân cao khi nói ra điều này. Có một vẻ gì đó rất kiêu hãnh khi cô nhắc về Kame. Sự kiêu hãnh đó dễ khiến cho người nghe nghĩ rằng dường như giữa hai người họ có một quan hệ thân thiết hơn bình thường. Vừa quan sát một cách kín đáo nét mặt của tôi, cô vừa nói thêm. “Hẳn là anh cũng đã biết, cậu ấy có vài điều bất tiện trong việc đi đứng.”

“À, vâng, tôi có biết. Rất cám ơn và xin lỗi vì đã làm phiền chị phải đến tận đây như thế này. Nếu như biết nơi Kame đang ở hiện giờ, tôi đã có thể tự mình đến thăm cậu ấy.” Tôi trả lời bằng giọng hoà nhã, và không hỏi gì thêm. 

“Cũng không phiền gì lắm.” Nói đến đây, Keiko đột nhiên mỉm cười. “Từ khi Kazuya đến đây, đây là lần đầu tiên tôi thấy có bạn bè đến thăm cậu ấy. Chuyện vui như thế có nhọc công một chút tôi cũng chẳng ngại gì.” 

Thay đổi một cách đột ngột trong cách xưng hô đối với Kame, rõ ràng cô gái này đang muốn dò xét phản ứng của tôi.

“Chúng ta có thể đi ngay bây giờ không?” Tôi cười nhẹ, nhìn thẳng vào mắt cô. “Tôi nhớ cậu ấy lắm rồi, chỉ muốn ngay bây giờ có thể gặp mặt cậu ấy ngay thôi.” 

“À, dĩ nhiên. Mời anh theo tôi.”

Vừa nói Keiko vừa đi về phía cửa lớn. Tư thế của cô hết sức đúng mực và trang nghiêm. Màu áo đỏ khiến cô trông giống như một ngọn lửa biết di chuyển. Tôi đi theo phía sau cô, nghe rõ tiếng động do đôi guốc gỗ của cô gây ra cũng như nhìn thấy hoàn toàn chiếc gáy trắng của cô bên dưới mái tóc đen nhánh đã được vấn cao. Điều này thật ra còn dễ chịu hơn rất nhiều so với lúc nhìn thẳng vào gương mặt trang điểm sắc sảo của cô. Kazuya à? Tôi thật sự muốn biết cô ta có quan hệ thế nào với Kame. 

Một chiếc xe taxi đã chờ sẵn bên ngoài khách sạn. Đường phố buổi sáng không tất bật cho lắm. Xe chạy qua những con phố hẹp, hai bên đường đầy những cửa hiệu bày bán sản vật và quà lưu niệm của địa phương. Một số trà quán nằm dọc theo con dốc cao, bên ngoài treo lồng đèn đỏ, bên trong là những không gian tối trầm đầy thoang thoảng thứ hương vị dễ chịu của trà đang pha. 

Keiko ngồi ở cửa sổ bên kia, còn tôi ngồi gần cửa sổ bên này. Khoảng cách giữa hai chúng tôi đủ chỗ cho một người thứ ba. Cô gái không nói gì thêm kể từ lên xe, chỉ chăm chú ngắm cảnh đường phố bên ngoài. Tôi cũng không cưỡng lại được vẻ đẹp của cố đô, dù đôi lúc vẫn mơ hồ cảm thấy một ánh mắt ai đó đang kín đáo quan sát mình. Những thắc mắc trong lòng, tôi cố gắng dằn xuống. Đêm qua, Kame bảo rằng sẽ gặp tôi, nhưng lại không hề nói đến việc có một cô gái đang ở cùng cậu, thậm chí còn đủ thân thiết và tin cậy đến mức cậu nhờ cô ta đến khách sạn đón tôi. Thật ra thì, trong bốn tháng vừa qua, cậu ấy đã sống như thế nào chứ? 

Xe chạy một lúc, qua một chiếc cầu nhỏ, rồi dừng lại trước một trà quán lớn. Tôi ra khỏi xe, ngẩng nhìn biển hiệu. Tấm bảng gỗ màu hổ phách đã lên nước bóng loáng có khắc một dòng chữ đỏ. Neko neko. Một lối đi trải sỏi dẫn sâu vào bên trong. Cánh cửa chính của gian nhà lớn bên dưới vẫn còn đóng kín. 

Trong lúc tôi còn đang mải nhìn mọi thứ trước mắt mình, cô gái đi đến gần, đến mức vai cô chạm vào cả vai tôi. 

“Akanishi-san, anh không thể biết được là tôi thương Kamenashi-san nhiều như thế nào đâu.” 

Câu thì thầm khẽ khàng nhưng rõ ràng từng tiếng một. Gương mặt sắc sảo của Keiko hướng thẳng vào tôi. Ánh mắt cô ngay thẳng và đầy vẻ kiên định. Nhưng ngay sau đó, vẫn như lúc ở khách sạn, cô nghiêng người, nhã nhặn mời tôi đi theo cô. 

--- 

Chúng tôi tiếp tục đi lên một cầu thang gỗ. Rồi Keiko để tôi ở lại một mình trước một gian phòng nhỏ cửa đóng kín. Cô bảo Kame đang ở bên trong đợi tôi. Cô phải đi chuẩn bị trà, vì là thời điểm gần cuối năm nên nhân viên trong trà quán cũng không còn được bao nhiêu người. 

Lớp giấy mờ che khuất quang cảnh trong phòng khỏi tầm nhìn của tôi. Có âm thanh như là tiếng nước chảy róc rách vang lên từ mảnh sân nhỏ bên dưới. Bầu trời Kyoto nhìn từ nơi đây chỉ là một mảng sáng màu trắng, chếch nghiêng theo độ cong của mái ngói. Tôi hít thở một hơi sâu, gõ nhẹ lên cánh cửa. 

“Keiko-san, chị về rồi sao? Có gặp được người đó không?” 

Kame vẫn nghĩ rằng cô gái sẽ dẫn tôi vào tận nơi để gặp cậu. 

Không trả lời, tôi đẩy nhẹ cửa, lách mình bước vào bên trong. Căn phòng rộng khoảng sáu chiếu tatami, hai bên đều có cửa sổ. Kame ngồi một mình, bên cạnh chiếc bàn thấp ở giữa phòng, đang nhìn chăm chú về phía cửa ra vào. 

Tôi đi lại gần cậu, ngồi xuống ở phía đối diện. Mặt sàn ấm sực, hẳn là có một lò sưởi hầm bên dưới. Tôi để ý thấy hai tay cậu cầm lấy tách trà, xoay nó qua lại một cách bối rối. 

“Keiko-san?”

“Cô ấy đã đi pha trà rồi, Kame.” Tôi nói, có chút thích thú khi quan sát sự bối rối và ngạc nhiên đang hiện dần lên mặt cậu. “Cô ấy bỏ tôi ở trước cửa, bảo tôi tự vào, rằng thì là Kazuya đang chờ tôi ở nơi đây.” 

“Ra là Jin.” Cậu cắn nhẹ môi dưới, sau đó thì chỉ cười mà không nói gì thêm. 

“Cái gì mà Kazuya cơ chứ? Sao cậu lại dễ dàng để cho người khác gọi tên mình như thế hả? Lại còn là một quý cô xinh đẹp như thế.” Tôi nói, tỏ ra đầy trách móc. 

“Được một quý cô xinh đẹp như thế đến tận nơi đón đi, anh còn phàn nàn cái gì hả Jin?” Kame nói, ngữ điệu tuy đã tự nhiên hơn nhiều nhưng vẫn không làm sao hết được cái vẻ bối rối khi bất ngờ gặp lại tôi. Cậu chỉ nhìn đâu đó xuống tay mình, liên tục kéo lại cổ áo và mỉm cười rất thường xuyên. Tôi chợt nhận ra mình có thể nhìn không biết chán dáng vẻ đó của cậu. 

“Xin lỗi vì tối qua đã gọi điện muộn như vậy.” Tôi chắp hai tay trước ngực. “Chắc là cậu đã chẳng ngủ được bao nhiêu nhỉ?” 

“Ừm, làm sao anh biết được số điện thoại đó?”. 

“Hmm…” 

“Là Tatchan, neh? Chỉ mình anh ấy là có thể thôi.” 

“Đúng rồi. Nhưng là tự cậu đoán ra đó nhé, không phải do tôi nói ra đâu đấy.” 

“Anh sợ bị mắng à?” 

“Ueda Tatsuya đáng sợ lắm. Cậu cũng biết mà.” Tôi cười. 

“Anh ấy vẫn khoẻ chứ? Cả Maru, Koki và Junno nữa. Mọi người vẫn khoẻ cả chứ?” 

“Ai, bọn họ đều tốt cả. Koki đang yêu, lần này có vẻ quyết tâm ghê lắm. Không chừng sẽ là tên đầu tiên lấy vợ đấy.” 

“Ồ, không thể tin được, chỉ có mấy tháng thôi mà đã…” Câu nói bị bỏ lửng giữa chừng khi Kame cúi xuống sửa lại tấm chăn quàng trên chân cậu. 

Tôi cũng vờ như mình bận rộn, cởi áo khoác ngoài, gấp nó lại ngay ngắn và đặt bên cạnh chỗ ngồi của mình. 

Đột nhiên, một sự yên lặng rất bối rối hiện ra giữa căn phòng. 

Tôi còn đang không biết nên nói gì tiếp theo thì cửa phòng mở ra một lần nữa và Keiko đi vào. Trên tay cô là một khay trà vừa mới pha xong, làn khói trắng mờ mang theo mùi thơm dễ chịu bốc lên nhè nhẹ từ miệng ấm. Ánh nắng của buổi sáng tháng mười hai giống với một buổi hoàng hôn hơn cả. Tôi xoa nhẹ hai tay, cúi đầu cám ơn lúc Keiko châm trà cho mình. 

“Keiko-san.” Kame nói khẽ, có lẽ cậu nhận ra sự có mặt của cô gái bởi tiếng bước chân, hay nói đúng hơn là tiếng loạt soạt của vải áo kimono. Cô gái quay về phía cậu mỉm cười nhưng không nói một lời nào. Sau khi xong việc của mình, cô biến mất sau tấm rèm mỏng phía sau lưng Kame. 

Tôi ngẩng lên nhìn Kame. 

“Chị ấy là họ hàng của cậu ư?” 

“Không phải.” Kame lắc nhẹ đầu. “Keiko-san là người yêu đầu tiên của anh cả tôi. Nhưng đó cũng đã là chuyện cách đây hơn năm năm rồi, giờ thì gọi họ là người tri kỷ của nhau có lẽ sẽ đúng hơn.” 

“Anh cả cậu? Ngạc nhiên thật đấy. Hmm, anh ấy không phải đang sống ở Okinawa sao?” 

“Ừm, nhưng người đưa tôi từ Tokyo đến đây là anh ấy đấy. Tôi cũng không hiểu rõ lắm sự giao tình giữa họ, nhưng dường như nó đủ thân thiết để anh cả cảm thấy yên tâm khi nhờ cậy Keiko-san việc chăm sóc tôi.” 

“Có vẻ như là thế.” Tôi nói, bỗng dưng nhớ lại câu nói kỳ lạ khi nãy của Keiko lúc chúng tôi vừa đến nơi. Dựa vào thái độ đó, tôi tin rằng chị ta không phải hoàn toàn không biết gì về mối quan hệ giữa tôi và Kame. 

“Chỉ là anh cả đã quá lo lắng mà thôi. Anh ấy cứ nghĩ là tôi còn bé, thật ra tôi đã lớn lắm rồi, làm phiền người khác như thế này cũng không phải chuyện nên kéo dài lâu.”

Tôi rót thêm trà vào chén của mình. Dòng nước màu thẫm vừa ra khỏi miệng bình, một mùi hương ngan ngát ngay lập tức dậy lên. Tiếng nước róc rách khi nãy cũng hiện ra rõ hơn trong sự yên tĩnh của căn phòng. Kame không đụng tay đến chén trà của mình. Tư thế ngồi của cậu từ lúc tôi bước vào vẫn không thay đổi. Một tấm chăn dày phủ kín đùi cậu, tóc cậu dài hơn so với lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Gương mặt cũng có vẻ nhợt nhạt hơn trước, cũng có thể ấn tượng ‘nhợt nhạt’ ấy chỉ là do ánh sáng ở nơi đây gây ra. Thỉnh thoảng cậu cố nhìn về phía tôi khi nói nhưng phần lớn thời gian cậu chỉ cúi mặt hoặc nhìn mông lung đâu đó ở xung quanh. Tôi cố nén lại ý muốn nhìn thẳng vào mắt cậu. Điều chờ đón ở đôi mắt ấy khiến tôi thấy buồn. Tôi sợ khi nghĩ rằng mình sẽ cảm thấy sợ hãi khi đối diện với đôi mắt chứa đầy bóng tối của cậu, như đã từng một lần trước đây. 

Buổi sáng lơ đãng trôi qua. Màu vàng của nắng đậm hơn. Tiếng ồn bên ngoài phố cũng lớn dần hơn. Nhưng bên trong trà quán vẫn yên tĩnh như thế. Có lúc, khi mắt bắt gặp chiếc điện thoại màu mận chín nằm ở một góc trên của phản, tôi chợt nhớ về cuộc gọi tối qua. Những lời cậu đã nói. Nước mắt tôi đã rơi ra. Chúng dường như chỉ tồn tại trong đêm tối, đã biến mất dưới ánh mặt trời này. Giây phút xúc động đó chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc. Kamenashi Kazuya ngồi trước mặt tôi giờ đây lại là con người điềm tĩnh hơn ai hết. 

Keiko quay trở lại một lần nữa, lần này mang theo một ít bánh ngọt và kẹo đậu phộng đặc sản của địa phương. Đặt chúng xuống bàn, cô đến bên cạnh Kame, thì thầm điều gì đó vào tai cậu ấy trước khi một lần nữa lại ra ngoài theo lối đi tắt phía sau tấm rèm cửa. 

Ngay sau khi cô đi khỏi, tôi bỗng dưng lâm vào một trạng thái lạc lõng rất khó chịu. Nơi đây là một trà quán, là một nơi xa lạ, không phải những không gian tôi và cậu đã từng ở qua cùng nhau, như phòng tập ở JE, những căn hộ riêng của cậu, hoặc quán mì ế khách trong con phố San gatsu. Hay thậm chí cả Kyoto này, nó cổ kính và trang nghiêm quá mực, nó không có sự thân quen tuỳ tiện như Tokyo. Nó chẳng chứa đựng bất cứ ký ức chung nào giữa hai chúng tôi. 

“Kame, cũng đã trễ rồi. Tôi có lẽ nên quay về khách sạn thôi.” 

Chuông vừa điểm qua số 11 một chút, tôi đứng lên, nói lời cáo từ với cậu ấy. 

“Khi nào anh về lại Tokyo?” 

“Có lẽ là sáng ngày mai.” Tôi nói, chậm chạp mặc lại áo khoác của mình. 

“Vội thế sao?” Tôi nghĩ, Kame có chút thất vọng khi nói câu ra câu này. 

“Tôi không chuẩn bị gì nhiều cho lần đến Kyoto này, Kame. Ngoài bộ quần áo trên người thì chỉ có mỗi số điện thoại của cậu mà thôi.”

Nói xong, tôi mới nhận ra mình lỡ lời. Để tránh đi, tôi đổi sang câu hỏi khác. 

“Khi nào thì cậu về lại Tokyo?” 

Kame không đáp, chỉ quay mặt đi nơi khác. Thái độ đó… Tôi buồn đến mức không thể nói thêm gì khác để tạm biệt cậu. Cứ đứng như thế, hết cài vào rồi lại gỡ ra những khuy áo của mình. 

“Chiều nay đi dạo cùng tôi một lúc, có được không Jin?” Khi tôi ra đến cửa, Kame chợt nói. 

Tôi ngoái nhìn lại gian phòng vắng. Ánh nắng xuyên qua những ô cửa giấy, in những khối hình hộp xuống mặt sàn. Cửa sổ bên tay trái đối diện với bàn uống trà của Kame. Luồng sáng màu vàng nhạt chứa đầy những hạt bụi nhỏ li ti chiếu thẳng vào nửa thân trên của cậu. Ánh mắt cậu vẫn hướng về phía cửa ra vào, chờ đợi câu trả lời của tôi. 

“Được, Kame. Chiều nay tôi chờ cậu.” 

--- 

Buổi chiều hôm đó, Kame đến nhà nghỉ Momiji bằng taxi. Cậu đợi tôi ở phòng khách, ngồi đúng chiếc ghế trường kỷ lúc ban sáng Keiko đã ngồi. Nhưng lần này, tôi phải đến tận nơi và đánh thức vị khách của mình. Kame ngủ gật trong hơn hai mươi phút đợi tôi. Khi tỉnh dậy, cậu bảo rằng có một giấc mơ ngắn, về một ngọn núi trong mưa. Thế là từ gợi ý đó, chúng tôi quyết định đi đến một nơi có thể nhìn thấy núi Arashi. 

Xuống xe ở chân cầu Togetsu, chúng tôi bắt đầu đi về phía những ngọn đồi. Chúng tôi đi chậm. Kame luôn cần sự giúp đỡ ở những quãng đường khó. Cậu vịn chặt tay tôi, tin tưởng đi ở phía sau tôi, thỉnh thoảng lại bảo, “Jin giống như một cây gậy dò đường ấy nhỉ?” 

Đáp lại, tôi chỉ cười. Tiết trời tháng mười hai ở Kyoto quả thực rất đẹp. Trong lành, sạch sẽ và còn có phần đáng yêu. Thời tiết thích hợp cho những cuộc đi dạo trong yên tĩnh. Cả hai chúng tôi đột nhiên chẳng ai còn hứng thú chuyện trò cho lắm. 

Đi mãi, cũng đến được những thiền viện phía bên kia những quả đồi. Trước đó, phải băng qua một cây cầu khác tên gọi Shoga. Hai bên chân cầu lác đác những quán ăn xây cất ở độ cao dăm mười bậc thang. Mùa đông biến mọi thứ ở nơi đây trở nên tĩnh lặng. Và chúng tôi có thể nghe được tiếng những súc gỗ được đưa vào bờ ở hạ lưu con sống. 

“Nơi đây yên lặng quá.” Tôi nói với Kame. 

“Tôi nghe thấy có tiếng người nói chuyện ở bên kia sông.” Vừa nói cậu vừa quay mặt về phía đó, như cố xác định rõ ràng hơn nội dung câu chuyện mình nghe được. 

Những con sông đào cắt vùng ngoại ô thành hai khu gần như riêng biệt. Trong nắng chiều, Arashi trở thành ngọn núi cô đơn đến lạ. Tôi từng đọc được trên một tạp chí du lịch rằng sau Fuji, Arashi là ngọn núi có lượt người đến thăm nhiều nhất vào những dịp nghỉ lễ. Thế núi vững vàng, đứng chắn sau một dãy đồi thoai thoải, soi bóng xuống mặt sông. Nếu là trong một cơn mưa xuân, từ chân cầu Shoga nhìn lên, bạn sẽ có cảm giác quả núi đang lơ lửng trôi. Khung cảnh nhoà nhạt khiến cho dáng núi mềm đi, gương mặt núi hiền hoà hơn, không còn quá thô cứng và sừng sững như khi nhìn ngắm nó trong những buổi trời quang. 

Dù đến Kyoto đã hơn bốn tháng nhưng đây là lần đầu tiên Kame đi đến nơi này. Trước đó, trà quán của Keiko là nơi duy nhất cậu trải nghiệm sự yên tĩnh mới lạ của bản thân mình. Mất đi thị giác, khứu giác và thính giác của cậu bỗng trở nên nhạy bén bất ngờ. Cậu có thể ngửi thấy hơi nước trong không khí, cảm nhận rõ sự thay đổi trong những cơn gió, và đôi khi dự đoán một cách chính xác sự đến gần của một cơn mưa. Bản thân cậu đã từng rất thích biển, nhưng từ khi mất đi ánh sáng, âm thanh khiến cậu cảm thấy bất an. Vì thế, trong những câu chuyện phiếm với Keiko, cả hai vẫn thường xuyên nói về núi. Nhưng công việc ở trà quán quá bận rộn, cùng với việc quá lo lắng cho tình trạng của Kame, Keiko vẫn lần hồi khất lại lời hẹn dẫn cậu đến thăm nơi này. 

“Nhưng hôm nay có Jin, Keiko-san không còn lý do nào để mà không cho phép.” 

“Thế ư?” 

“Vì chị ấy biết tôi thích Jin nhiều như thế nào. Cả việc đi cùng Jin thì tôi sẽ không có việc gì.” 

“Làm sao mà Keiko biết?” 

“Tôi nói. Tôi có thể nói chuyện về Jin với người đó. Một cách khác mà tôi dùng để nhớ đến Jin, để không mau chóng và dễ dàng quên Jin đi.” 

Tôi cúi xuống nhặt lấy một viên đá rồi dùng hết sức ném ra xa. Sau khi nảy trên mặt nước hai lần, nó chìm hẳn xuống đáy sông. Nhìn theo cho đến khi những vòng tròn gợn sóng trên mặt nước tan biến hẳn, tôi lội qua bãi cỏ ướt đẫm về chỗ Kame đang đứng. Nắm lấy tay cậu, tôi tiếp tục đi về phía trước. Kame không ngạc nhiên, cũng không hỏi bất cứ điều gì, chỉ yên lặng đi theo phía sau tôi. Lòng bàn tay cậu ẩm, những ngón tay run khẽ mỗi khi tôi siết chặt tay mình hơn. 

Ngày hôm đó, chuyến đi của chúng tôi dường như chỉ trở về khi trời đã sẫm tối. Phần lớn thiền viện ở nơi đây từ lâu đã bị bỏ hoang, một số khác đã được cải tạo lại thành khu nhà nghỉ chuyên phục vụ tuần trăng mật cho những cặp vợ chồng mới cưới. Đó đều là những kiến trúc có riêng lịch sử của bản thân mình. Tôi không quá quan tâm đến những điều đó. Nhưng Kame đã bắt đầu hỏi tôi về cảnh quan những nơi chúng tôi đang đi đến. Cậu muốn biết về màu sắc, cảnh vật, nước, kiến trúc nhà cửa, cây cối, thậm chí là những con người có mặt trong cùng một cảnh quan đó cũng giống như chúng tôi. Và mỗi lần như thế, tôi lại lâm vào một tình thế khó khăn nhất định. Tôi không ngại việc trở thành đôi mắt của cậu, giúp cậu nhìn thấy mọi vật xung quanh. Tôi vẫn luôn ước gì mình có thể làm việc đó mãi mãi. Tôi chỉ phiền lòng mỗi một điều. Thế giới này xinh đẹp như thế, một kẻ có đôi mắt vụng về như tôi, làm sao có thể thay cậu nhìn rõ sự xinh đẹp của nó? 

Kame ngồi trên băng ghế giữa khu vườn rộng của thiền viện. Sân vườn phủ đầy rêu. Vài khối đá tạc hình thú vật sau ngần ấy thời gian đã lên nước xanh bóng. Những vòm cây phong tuế đung đưa phía trên cậu. Nắng màu vàng nhợt của buổi chiều theo kẽ hở bò xuống những thớ gạch xanh rêu. Khung cảnh đẹp đẽ nhuốm màu thần thoại bởi thời gian và lối kiến trúc thời Mamamura. Ở một nơi như thế, thứ duy nhất cậu có thể bám víu vào vẫn chỉ là giọng nói của tôi. 

Nếu là lần đầu tiên, một cảm giác tự hào và vui sướng rất xuẩn ngốc sẽ xuất hiện bên trong tôi. Sự tin cậy của Kame bằng một cách nào đó khiến tôi cảm thấy sự tồn tại của bản thân mình được nâng lên rõ rệt. 

Nếu là lần thứ hai, đôi mắt nhìn thiền viện của tôi sẽ khác đi. Tôi sẽ cố tìm kiếm những điểm đặc biệt nhất và diễn tả lại bằng lời cho cậu ấy nghe. Hoặc cũng có thể tôi sẽ trơ ra như một thằng ngốc, chỉ nhìn mãi cái bóng trải dài của chúng tôi trên rêu mà nói về thời tiết của buổi chiều hay niềm hạnh phúc bé mọn bên trong tôi, về sự tồn tại của giây phút này. 

Lần thứ ba, tôi vẫn sẽ nói, tôi sẽ nói mà không dám nhìn Kame. Tôi không còn đủ tự tin để nhìn vào mắt cậu ấy nữa. Nếu cứ cố nhìn, sẽ có một Akanishi Jin đang khóc trong mắt của cậu ấy mất thôi. Và không cần ai nói, Kame cũng sẽ rất nhanh đoán biết được điều đó. Hình ảnh ấy cũng chẳng có gì đẹp đẽ cả, thế nên tôi không muốn cho cậu ấy biết. 

Nhưng khi buổi chiều hôm ấy diễn ra, thời gian đã đi quá xa khỏi những con số thứ tự đó, trong ký ức của mình, tôi không còn nhớ nổi đã bao lần chúng tôi cùng nhau ngồi như thế. Đó là buổi chiều thiền viện cử hành một nghi lễ nhỏ, khách trong vùng đến trẩy hội cũng đông hơn ngày thường. Họ đi qua rồi đi lại trước mặt chúng tôi. Màu sắc trên áo họ sặc sỡ và tươi vui, chẳng bao lâu đã hoà làm một với những gam màu trầm lạnh của khu vườn. Mùi nhang thơm lan toả trong không khí. Những hồi chuông nhỏ thả trầm mặc bên tai chúng tôi. Kame vẫn im lặng nhưng bàn tay cậu ấy run lên từng chặp. Tôi hiểu điều đó có ý nghĩa là gì. Đám đông ở nơi này toát ra một sự hấp dẫn khó cưỡng lại với người thanh niên ngồi cạnh bên tôi. Trong sâu thẳm, bản năng của con người vẫn là hướng về phía ánh sáng, hơi ấm và âm thanh. Kame không hay biết rằng việc tôi đang làm trong lúc đó chỉ là nhìn cậu. 

Ngày hôm đó, chỉ mỗi việc nhìn cậu thôi tôi đã không đủ sức. 

Đây là con người khiến tôi không sao khống chế nổi nhục tâm trong cơ thể mình. Đã từng có những giấc mơ về cậu vào lúc 3 giờ sáng của cái tuổi mười chín đôi mươi khiến tôi thở dốc trong khi ngủ và thức dậy cùng với đũng quần sooc ẩm ướt. Đã từng có những lúc vì cậu mà tôi ngủ trong những khách sạn xa lạ, qua đêm với bất cứ cô nàng nào tôi bắt gặp, chỉ vì muốn tin rằng cơ thể êm mềm của những người nữ vẫn nên là mong muốn lớn nhất của một người đàn ông. 

Nhưng có những lúc, chính vì cậu mà tôi mơ đến một cuộc sống bình thường nhất. Không sân khấu, không đèn tụ, không ánh mắt dõi theo, không hàng nghìn tiếng pháo tay cổ vũ. Trong cuộc sống bình thường đó, tôi và cậu có thể đi dạo bên nhau trên đường phố, ăn món okononiyaki chán chê ở những quán vỉa hè, đến bar uống say khướt và tìm đến hơi ấm của cơ thể nhau trong xe taxi mà chẳng phải ngại ngần gì. 

Trong cuộc sống đời thường đó, chúng tôi sống đơn giản và bình dị yêu thương nhau. 

~*~

Cuối năm đó, qua sự giới thiệu của một người bạn, một bác sĩ nhãn khoa uy tín đã đồng ý khám và tiến hành phẫu thuật cho Kame. Tỉ lệ thành công của ca mổ là 50/50. Hoặc sẽ khỏi hẳn. Hoặc tình trạng mù loà sẽ kéo dài vĩnh viễn. Một tia hy vọng đã xuất hiện, nhưng ánh sáng toả ra từ nó lại không hoàn toàn dành hẳn cho chúng tôi. 

Từ Tokyo, tôi gọi về Kyoto báo tin cho cậu ấy biết. 

Ngần ngừ một lúc lâu, Kame vẫn bảo rằng cậu cần suy nghĩ thêm về việc đó. 

Tôi đồng ý, kiên nhẫn chờ cậu ấy suy nghĩ trong ba ngày. 

Sau ba ngày vẫn chưa có cuộc gọi lại. Sáng ngày thứ tư, tôi đáp chuyến tàu tốc hành đầu tiên trong ngày, một lần nữa lên đường xuống Kyoto. 

Đến nơi, đứng chờ hơn hai tiếng đến giờ trà quán Neko neko mở cửa, tôi được Keiko dẫn lên phòng. Kame ngồi một mình trong góc, không ngủ suốt đêm qua, bên cạnh chiếc túi xách to đã dùng để đựng tất cả đồ đạc của cậu lúc từ Tokyo về đây. Chiếc túi căng phồng nhưng khoá kéo vẫn còn để mở. Nó giống như một dấu hiệu ngầm bảo, bên trong cậu vẫn chưa hết lo sợ và bất an. 

Không nhắc gì đến ông bác sĩ nhãn khoa và ca phẫu thuật tỉ lệ may rủi ngang nhau đó, tôi bước đến gần cậu, nói một cách rõ ràng và đơn giản, “Kame, chúng ta về nhà thôi. Hôm nay tôi đến là để mang cậu về đây.” 

Khi ngẩng lên, dù Kame cố làm ra vẻ không có gì thì tôi vẫn nhận ra khoé mắt cậu ửng đỏ và đâu đó trên vai áo cậu vẫn còn vệt ướt chưa kịp khô của nước mắt. Tuy nhiên, vì biết rõ Kamenashi là một kẻ cố chấp và kiêu hãnh như thế nào, nên tôi vờ như mình không biết gì cả. 

Keiko tiễn chúng tôi ra ga. Khác hẳn với lần đầu tiên gặp nhau, ngày hôm ấy cô mặc một bộ kimono đơn giản màu xanh nhạt. Đứng giữa sân ga, dáng vẻ cô gây ra một cảm giác thanh thản và nhẹ nhàng. Trong cái ôm nhẹ sau cùng cô dành cho Kame, tôi cảm thấy có một niềm âu yếm không sao nói rõ ra được. 

Điều quan trọng nhất vẫn là chỗ ngồi bên cạnh tôi trên chuyến tàu trở về đã không trống. Kame ở nơi đó, là một thực thể thật sự chứ không phải một hơi ấm mơ hồ nào đó như tôi đã từng tưởng tượng ra. 

Núi Fuji ngàn lần như một, khiến người ta không sao nén được ý muốn ngắm nhìn. Vẫn ở khúc quanh đó, hành khách rùng rùng kéo nhau rời đi, lên toa vãn cảnh để chiêm ngưỡng ở góc độ gần nhất vẻ đẹp của ngọn núi kiêu hãnh. Tôi ngồi yên tại chỗ, quan sát dãy lối đi vắng bóng người và những lưng ghế cao hoàn toàn che khuất kẻ ngồi bên trong chúng. Bên cạnh tôi, Kame vẫn đang ngủ. Và nhân cơ hội vài phút có được sự riêng tư ngắn ngủi, tôi áp tai mình trên ngực cậu, lắng nghe nhịp đập đều đặn của quả tim ở bên trong. 

Lẫn trong tiếng động vô cùng khẽ của con tàu đang lao đi vùn vụt, âm thanh đó nghe thật hay. 

Nó khiến tôi vô cớ cứ mỉm cười mãi, cho đến tận khi về đến ga xa lửa Tokyo. 

--- 

Cũng thời gian đó, lấy lý do tập trung cho liveshow cá nhân sẽ diễn ra vào đầu năm sau, tôi từ chối một vai diễn trong bộ phim giả tưởng hứa hẹn sẽ gây nhiều chú ý được dự định công chiếu vào khoảng thời gian cuối năm sau. Bỗng nhiên tôi thấy hết hứng thú với việc trở thành một người khác và sống thay cuộc đời của họ. Mỗi sáng đứng nhìn mình trong gương, tôi luôn tự biết rằng ánh mắt của tôi không ổn. Cảm xúc của tôi hiện ra ở nơi đó, có lúc chao đảo, có lúc rõ ràng, nhưng có thế nào đó vẫn là những cảm xúc rất thật. Tôi nghĩ mình đang bước vào giai đoạn đánh mất dần khả năng phòng vệ của bản thân. Một yếu tố khá quan trọng đối với những kẻ kiếm ăn trong giới nghệ thuật, tiếp xúc với nhiều người, có nhiều mối quan hệ. 

Bên cạnh đó, người quản lý cũng thay mặt tôi từ chối khá nhiều lời mời phỏng vấn cũng như các buổi chụp ảnh cho những trang tạp chí phù phiếm. Tôi cũng cắt một kiểu tóc khác và dành thời gian lui tới Jimusho nhiều hơn trước. 

Kame vẫn sống ở căn hộ vùng Kukamura lúc trước. Hai ngày sau khi cậu ấy trở về, chúng tôi cùng nhau đến gặp vị bác sĩ nhãn khoa nọ. Sau khi xem xét cẩn thận tình trạng của cậu ấy, ông cho một cái hẹn phẫu thuật. Cuối tháng hai, chỉ trước đợt nở hoa đầu tiên của anh đào trong mùa xuân này vài ngày. Trên đường trở về, dù không nói ra nhưng cả hai chúng tôi đều cùng lúc nghĩ đến cái tỷ lệ may rủi 50/50 nọ. ‘Cậu từng nói dám thay đổi là dấu hiệu của sự can đảm, có đúng không?”. Tôi muốn hỏi cậu ấy như thế, như một cách động viên âm thầm nào đó. Nhưng trước khi tôi kịp làm điều đó, Kame nhặt lấy bàn tay tôi, áp nó lên môi, thì thầm một câu nói qua khoé môi nóng ẩm. “Chúng ta sẽ cùng nhau sống đến già. Như thế có được không?” Tôi im sững, chẳng thể nói thêm gì khác. 

Nhiều lần, trong thời gian chỉ có một mình, tôi tự gặng hỏi bản thân mình về ý nghĩa của mối quan hệ với Kame, lý do tôi yêu thương cậu, vì sao chỉ cần nhìn thấy một người nào đó thôi, chúng ta lại có thể cảm thấy đủ đầy đến thế, vì sao chỉ cần sự hiện diện của một ai đó thôi, chúng ta lại tin rằng mình sẽ có thể sống hết cuộc đời này, một cách can đảm. 

Có lúc, tôi cảm thấy sự uỷ mị từ trong trái tim đã dần phủ lấy mắt tôi, và trong ánh mắt đó, Kame ít nhiều đã trở nên yếu đuối đi, ngoan ngoãn hơn, đau buồn hơn. Đó là một cảm nhận ích kỷ, tôi biết, nhưng cũng không phủ nhận rằng tôi đã từng rất hạnh phúc vì nó. Cái ý nghĩ rằng, cậu cần tôi ở bên, thế giới của cậu chỉ còn chứa mỗi tôi, vừa ngọt ngào vừa đắng chát. Đến khi phải lựa chọn một cách tỉnh táo nhất, tôi biết mình vẫn luôn mong muốn điều tốt nhất cho Kame. 

Ngay từ lúc bắt đầu, đó đã là cách tôi chọn lựa để yêu cậu. 

--- 

Chúng tôi cũng đã thực hiện được kế hoạch của mình vào đêm trăng rằm đầu tiên của năm. Cùng nhau uống trà và ăn món okonomiyaki của cửa hàng Aminoya ở Shikihara. Đêm ấy, khu vườn ngập ánh trăng. Một đoá hoa đỗ quyên đỏ rực nở trái mùa lẻ loi giữa thảm cỏ trắng bạc. Tuyết đã ngừng rơi một tuần trước đó. Tiết trời tuy lạnh buốt nhưng thỉnh thoảng vẫn có nắng. Lúc 11h đêm, chúng tôi cùng nghe thấy tiếng động lạ từ bụi dạ hương lý ở cuối vườn. Âm thanh như tiếng kêu của một loại chim ăn đêm nào đó. Thế nhưng Kame lại quả quyết đó là một con ve sầu còn sót lại từ mùa hè. Và rồi, chúng tôi rơi vào một trận cãi nhau ngớ ngẩn về điều kiện sống còn cần thiết của những loài côn trùng. 

Sau cùng, nhận ra sự vô lý của mình, cậu giảng hoà bằng cách bảo rằng vẫn muốn cùng tôi đến Hokkaido vào một lúc nào đó. Lần đầu tiên, đề tài đi du lịch trở lại trong những câu chuyện giữa chúng tôi. Giống như một quy ước ngầm, kể từ sau vụ tai nạn đó, cả hai chúng tôi chưa một lần nào nhắc về nó. Trong một thời gian dài, ánh sáng lạnh của nắp khoá chiếc valise ngày hôm ấy vẫn thường xuyên quay trở lại trong tâm trí tôi. Nó như ánh mặt trời chói chang đột ngột loé lên giữa đường hầm đen thẫm. Bóng tối dù êm dịu đến mấy, tia sáng ấy vẫn đã hiện ra và đọng lại vĩnh viễn trong tâm thức của tôi. Tôi đổi sang sử dụng túi xách du lịch mỗi khi buộc phải đi xa. Phần lớn những chiếc valise đều vô tội, nhưng một người anh em của chúng đã trở thành biểu tượng của điều không tốt lành đối với riêng tôi. 

“Hokkaido…” Kame bỏ lửng câu nói ngay sau cái tên đó, giống như đang nghiền ngẫm hết sức cẩn thận những lời tiếp theo trong đầu mình. Tôi để ý thấy tối hôm đó thay vì pyjama như thường lệ, cậu lại mặc một bộ yukata đã cũ. Nó có những hoa văn giống như cánh hoa rẽ quạt trên nền áo màu tím nhạt. Và khi tình cờ nhìn một lúc lâu vào bàn tay cậu, tôi có cảm giác dễ chịu kỳ lạ với những đầu móng tay cắt ngắn, có màu hồng nhạt rất tự nhiên. Có thể là vì khí trời mùa đông mà tôi ngửi thấy mùi tươi mát từ trong giọng nói và hơi thở của Kame. Điều đó thật tuyệt, tôi lơ mơ nghĩ, nhớ ra rằng đã rất lâu rồi tôi không còn khả năng để ý đến những dấu hiệu bình phục nho nhỏ trong lối sinh hoạt thường ngày của cậu. 

“…Anh biết không, Jin, lúc trước ở phòng thu tôi có quen một người kia chuyên phụ trách về bản tin du lịch nội địa. Sawada-san, anh ấy đã đến Hokkaido bốn lần cả thảy trong năm nay. Cứ mỗi mùa lại đi một bận. Chương trình của họ sắp có một kỳ phát sóng đặc biệt mừng hai năm lên sóng, đó là món quà đặc biệt Sawada-san dự định tặng cho thính giả của anh ấy.” 

Tôi thật không biết phải nói gì. 

“Khi nghe Sawada-san nói về Hokkaido, tôi quả thật rất muốn đi đến đó. Đó là nơi bất cứ người Nhật nào cũng nên đến thăm một lần trong đời mình, anh ấy bảo thế. Anh thấy có đáng ghen tỵ không? Cho nên, tôi đã từng rất muốn đi đến đó.” 

“Chúng ta sẽ lại đi cùng nhau chứ? Một lúc nào đó.” Tôi nói khẽ. 

“Ô…tôi cũng mong thế, nhưng Jin thường rất bận.” Kame thở dài. “Và tôi vẫn còn mơ thấy những chiếc máy bay với hình thù rất dị dạng và đen ngòm. Chúng còn thở ra những hơi thở màu xám và không thể nào bay nổi lên khỏi đường băng.” 

“Điều đó thật không công bằng.” Tôi nói ngay lập tức. 

“Hnmm, Jin, tôi không hiểu.” 

“Cả triệu người trên trái đất này đều đi máy bay, sao chỉ mỗi mình cậu mơ thấy như thế?” 

“Vì tôi là một kẻ lòng dạ nhỏ nhen. Vì máy bay là nơi tôi mất đi thị giác của mình nên giờ tôi chỉ còn nhìn nó bằng một màu đen như thế.” Nói rồi cậu cúi đầu, hai tay chắp trước ngực và lầm thầm câu “Gomennasai” với những chiếc phi cơ vô hình. 

Tôi ngắm Kame trong lúc đó, và tôi tưởng như mình đang nhìn thấy những quang cảnh đẹp nhất của Hokkaido trong thời gian hòn đảo ấy đẹp nhất trong năm qua những cánh hoa rẽ quạt trên vải áo yukata của cậu. 

“Đừng nói như thế, Kazuya.” Tôi gọi tên cậu, im lặng lắng nghe những âm sắc riêng tư đó vang lên từ môi mình. Mi mắt cậu giật nhẹ, một sự xúc động mơ hồ hiện ra trong cái cách cậu ngẩng lên và chậm chạp nhìn về phía tôi. Hẳn đã lâu lắm rồi không ai gọi cậu như thế. 

“Lần sau, khi lên máy bay, chỉ cần nắm chặt tay tôi.” Tôi nói tiếp một cách đơn giản. 

“Và rồi, chúng ta sẽ đến Hokkaido.” Cậu tiếp lời sau một lúc lâu im lặng. 

“Tôi sẽ thay cậu ngắm mây ngoài cửa sổ---“ 

Kame đưa một ngón tay lên miệng, ra hiệu cho tôi đừng nói nữa. 

“Điều đó không còn quan trọng nữa rồi Jin.” Cậu nói, rồi chỉ mỉm cười. “Thật sự đã không còn quan trọng nữa.” 

Trăng đã lên cao tới đỉnh. Cả khu vườn bên dưới hàng hiên tắm mình trong ánh trăng màu trắng lạnh. Đoá hoa đỏ của bụi đỗ quyên lung lay nhè nhẹ trong gió. Vài con đom đóm bay ra từ tàng cây rậm cuối vườn, ánh sáng xanh chập chờn như ngọn lửa trong đêm. 

Kame lần tìm chén trà hạt mít Arita của cậu, đưa lên môi uống một ngụm nhỏ. 

Suốt trong lúc đó và cho đến khi cùng nhau vào giường, nằm ôm chặt cậu ấy trong tay, tôi vẫn không hỏi thêm gì khác. 

Tôi tin vào điều đó. 

Mọi thứ khác, ngay vào lúc này đây, thật sự, đều đã không còn quan trọng nữa. 

.summary. tóc rối. ô đỏ. áo xanh.

.một rạp xiếc du hành qua những vùng sỏi đá.

.một trái tim đêm ngày mơ thấy nụ cười xinh.

Xanh, đỏ, trắng, vàng

Áo, ô, hoa, nắng

Lướt theo sáng nắng

Lượm về chiều mưa…

.Công chúa ếch.

Miyoung của Yuri mắt trong, là thành viên nhỏ nhất của đoàn xiếc. Người ta gọi vui là ‘sơn đông mãi võ”.

Yuri yêu, vì đôi mắt luôn như khóc. Mà không, tất cả, là mái tóc nâu mỏng manh bám sát gương mặt, là làn môi nhạt như mộng mơ, là giọng nói nho nhỏ êm đềm như thu cuối, Yuri yêu, tất cả đều yêu.

Ngay cả khi bàn chân cậu ấy đung đưa trên sân khấu cho một màn đu dây, ngay cả thân thể mảnh dẻ quấn theo vũ đạo nhào lộn, cả nụ cười rực rỡ trong màn xiếc thú hay thậm chí, ngay cả khi ngồi xa xa khỏi tiếng hò hét-bên ngoài rạp xiếc, khi cuộc vui vẫn còn diễn ra bên trong.

Miyoung của Yuri là một bí mật. Bí mật kì bí nhất Yuri từng biết. Cả đôi mắt trong veo, cả làn da trắng tái, cả khe hỡ giữa những ngón tay dịu dàng. 

Miyoung của Yuri, là một bí mật Yuri luôn khao khát được khám phá.

Miyoung của Yuri, là một diễn viên xiếc có đôi mắt trong.

***

Yuri yêu năm mười lăm tuổi, người cậu yêu, một cô bé biết hát.

Lần đầu tiên nhìn thấy cô ấy, Yuri đã nghĩ về ô cửa sổ gỗ nâu buổi trưa trời. Miyoung mỏng manh trong chiếc váy hồng ướt đẫm góc vai, thỉnh thoảng nhích người gọn vào phía dưới cổng nhà Yuri tránh mưa. Và khi nhìn thấy cậu lần đầu tiên thấp thoáng sau chiếc ô đỏ che nghiêng bước ra từ cửa nhà, đôi mắt Miyoung lắng đọng nước.

Vậy là lần đầu tiên nhìn thấy Yuri, Miyoung đã khóc. Mái tóc nâu ướt bám sát vào làn da cổ mộng mị, giọng cô nho nhỏ, trong như nắng mùa hạ.

“Em là người của đoàn xiếc?” Yuri dịu dàng hỏi, đẩy ô về phía Miyoung. 

Cô bé nhỏ run khẽ, đôi mắt lay động.

“Trú mưa à? Tôi đưa em về nhé?”

Chiếc ô nhỏ nghiêng nghiêng không sao che đủ hai người. Một tay Yuri che ô, một tay giữ áo kéo Miyoung lại gần. Vai trái Yuri đẫm nước, vai phải Miyoung khẽ run.

Những con đường mùa mưa ướt đẫm, xạm bạc cả một góc trời. Bước chân Miyoung nhẹ, êm đềm chạm xuống mặt đường trơn. Yuri theo Miyoung, cả trong mộng mị, từng chút một siết chặt cán ô đỏ. Giọt nắng nhỏ vội tan trong nước mưa trong. 

“Nào, đây rồi, Mắt Trong…” Yuri dừng lại ở cuối con đường, khúc rẽ thứ ba, Miyoung bắt đầu khe khẽ hát. 

Giọng hát Miyoung nho nhỏ, êm đềm như trăng mùa cũ. Ánh sáng lan tỏa khắp không gian, mưa thinh lặng rơi. Từng giọt, từng giọt một, váy hồng Miyoung ướt đẫm.

Ô đỏ Yuri mang về, vai trái bắt đầu khô.

***

Yuri yêu năm mười lăm tuổi, người cậu yêu, một cô bé nhỏ hơn tuổi mười lăm.

Miyoung của Yuri biết hát, một bài đồng dao.

Yuri tìm thấy Miyoung ở mé bên rạp xiếc, chốn thing lặng không người. Miyoung của Yuri hát nho nhỏ, mắt vẫn trong, mái tóc nâu óng lên dưới ánh trăng bạc. Nghe Yuri gọi, Mắt Trong, cô ấy quay lại, ánh sáng xao động trong đôi mắt tròn, rồi chợt tan.

“A… Tóc Rối…” Miyoung gọi, chỉ tay xuống vị trí bên cạnh. “Không xem xiếc?”

“Vì ở đó quá đông, chỉ tình cờ dạo ngang đây thôi.”

Yuri của Miyoung tóc rối, yêu Miyoung, bằng tình yêu lượm về.

Miyoung là bí mật kì bí nhất Yuri từng biết. Ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ, dưới ánh sáng chập choạng che bởi áo lam, ô đỏ vội ướt, Miyoung của Yuri đã là tình yêu Yuri không bao giờ sẵn sàng từ bỏ. Yuri yêu, vì đôi mắt như mùa thu vỡ vụn. 

Miyoung của Yuri hay hát, một bài đồng dao Yuri chỉ nhớ nhạc mà không nhớ lời. Lần đầu tiên gặp, dưới cơn mưa cuối cùng của mùa hạ trơn tru, Miyoung đã hát, hay dưới một đêm trăng rạng sau này, cô ấy cũng cất giọng vang vang.

Xanh, đỏ, trắng, vàng

Áo, ô, hoa, nắng

Lướt theo sáng nắng

Lượm về chiều mưa…

Miyoung của Yuri có giọng hát trong veo, đôi mắt trong veo và bàn tay ướt nước. Bàn tay con bé mười lăm sẵn sàng nắm lấy mỗi khi Miyoung cần. Yuri có một đôi nhẫn cỏ, một chiếc đơn con bé nhỏ hơn mười lăm yêu thích. Lần gặp trong đêm, đằng sau âm thanh ồn ào của màn biểu diễn, Yuri đã đeo cho Miyoung một chiếc. 

Chỉ đơn giản là một chiếc nhẫn cỏ. Năm mười ba, Yuri làm cùng mẹ trên giường bệnh. Năm mười lăm, Yuri chính thức sở hữu cặp nhẫn đáng giá bằng mẫu tử tình thân.

Lại quên, Yuri mồ côi cha từ nhỏ. Tài sản còn lại khi mẹ ra đi là một cặp nhẫn cỏ, một căn nhà, một chiếc ô đỏ.

Điều này, Miyoung của Yuri không biết. Khi được đeo nhẫn, đôi mắt trong xao động, miệng cô ấy vẫn khe khẽ hát. Xanh, đỏ, trắng, vàng, lượn theo một sáng nằm mơ.

Cũng như đứa trẻ ngoan nhận quà, Miyoung hiền lành, cúi đầu “Cảm ơn Tóc Rối, cậu cho thiệt ah?”

Miyoung của Yuri chân thật. Bên ngoài vũ đạo nhào lộn chuyên nghiệp là một đứa trẻ vụng về, Yuri yêu, vì luôn vấp ngã, luôn hát và cười ngẩn ngơ. 

Miyoung của Yuri thích đọc, chỉ truyện do Yuri viết. Yuri của Miyoung hay viết, những câu chuyện luôn có cô bé hát hay.

Hôm Miyoung gặp nơi cửa sổ gỗ nâu bám bụi, nắng nhợt nhạt mơn man cả đôi mắt buồn, Yuri vẫn còn cặm cụi viết. Miyoung leo lên cửa sổ, ngồi đung chân, từng nhịp từng nhịp nghiêng nghiêng cái đầu nhỏ. Yuri bảo, sao không về đoàn luyện tập, Miyoung của Yuri chỉ muốn ở với Yuri mà thôi.

“Viết gì đấy Tóc Rối?”

“Truyện cổ tích.”

“Có công chúa không?”

“Dĩ nhiên có. Có đến hai công chúa.”

“Thế là chắc chắn có hoàng tử rồi.”

“Không.”

“Không có hoàng tử à?”

“Không.”

“Không có hoàng tử thì lấy ai yêu công chúa?”

“Ừ ha?”

“Cậu chưa bao giờ nghĩ đến à?”

“Nghĩ đến cái gì?”

“Thì công chúa phải yêu hoàng tử.”

“Chưa…”

“Thế thì bắt đầu nghĩ đi.”

Miyoung kết thúc, nhảy khỏi ô cửa sổ, leo lên giường nằm đùa giỡn với chiếc ra xanh. Yuri bảo, này Mắt Trong, tí dậy phải dẹp đấy, chợt thấy chiếc nhẫn Miyoung đeo đã chuyển sang màu úa vàng. Yuri bảo, này Mắt Trong, khi ngủ tháo nhẫn ra nha. Miyoung cãi lại, người ta ai cũng đeo suốt thôi mà. 

Vài hôm sau, nhẫn hư mất. Miyoung lại hát. 

Cỏ xanh, cỏ vàng

Cả làn cỏ úa

Tưởng già cỏ dai

Ai dè cỏ chết…

Yuri của Miyoung bật cười, “Mắt Trong khùng.”

“Tóc Rối ngốc. Đã viết xong chuyện cổ tích chưa?”

“Rồi.”

“Thế công chúa yêu ai?”

“Hoàng tử ếch.”

“Er… bắt chước … er…”

“Thế làm sao?”

“Mà thế phải có đến hai hoảng tử ếch. Có hai công chúa lận.”

“Không, không ếch nữa.”

“Sao lại không?”

“Vì có công chúa ếch rồi.”

“Thế làm sao?”

“Er…”

Miyoung của Yuri mắt trong, Yuri yêu, vì nụ cười rạng rỡ. Vừa nói, Miyoung vừa nhoài người khỏi giường, ôm lấy cổ Yuri. Tim Yuri đập những nhịp không đều. 

Miyoung của Yuri lại cười, mắt trong tinh nghịch, nhẹ nhàng thở vào viền tai khiến Yuri bối rối. Đẩy Miyoung ra, Yuri nghe cô ấy cười. Tiếng cười giòn tan như nắng vỡ.

Yuri của Miyoung là một con ngốc. Miyoung của Yuri là kẻ tức thời.

Miyoung của Yuri là bí mật kì bí nhất Yuri từng biết. Yuri hỏi, sao lại có thể có người như Miyoung, nhưng cô ấy khẽ cười, đó không phải điều kì lạ, đó cũng không phải bí mật gì.

Yuri không tin, đó chắc chắn là bí mật Miyoung muốn giấu.

Miyoung của Yuri có một bí mật, ít ra, Yuri tin như vậy.

“Neh… Mắt Trong… xong rồi...”

“Sao? Xong sao?”

“Công chúa… xong rồi…”

“Một hay hai?”

“Cả hai.”

“Hai công chúa đều xong rồi à?” Miyoung bật khỏi giường, chạy đến bên bàn Yuri ngồi. Quàng tay qua cổ cậu, cô ấy bắt đầu chăm chăm từng chữ một. Tim Yuri hẫng nhịp, từng nhịp một, từng nhịp một, chậm lại rồi biến mất. 

Miyoung gần Yuri, hơi thở nhẹ, miệng lại hát, xanh, đỏ, trắng, vàng, mơ một ngày nắng lên.

“Er… Yuri!!!!!!”

“Sao?”

“Hai công chúa chết đúp neh?”

“Ừ, chết.”

“Sao chết?”

“Vì không có hoàng tử để yêu công chúa. Haha.”

“Chết thì đâu phải cổ tích.”

“Vậy giờ sao?”

“Er…” 

“Er…?”

“Hai công chúa yêu nhau.”

“Hai công chúa yêu nhau?”

“Ừ.”

“Có được không?”

“Được.”

“Chắc chắn?”

“Chắc chắn.”

Miyoung của Yuri gật cái rụp khẳng định, môi dãn cười hồn nhiên.

“Thế cũng đâu phải cổ tích đâu.”

Ngày xửa ngày xưa, ở một vương quốc xa xôi nọ, có một nàng công chúa nhỏ với lời nguyền lớn.

Hoàng hậu, mẹ nàng đã phạm điều cấm kị, vô lễ với một vị thần, nên công chúa nhỏ vừa sinh ra đã tồn tại dưới hình dạng con ếch. Bà hoàng hậu đã khóc hết nước mắt cho đứa con nhỏ chưa kịp nhìn thấy mặt trời dưới hình dạng người.

Nhưng đức vua, cha nàng, lại cảm thấy ếch là hiện thân của cái xấu xa và tàn độc, liền nhân lúc hoàng hậu say ngủ, cho người đuổi nàng đi.

Công chúa nhỏ lầm lũi trong cơn mưa, cô đơn quạnh quẽ.

Lời nguyền năm xưa của vị thần cảm thấy mình bị xúc phạm: Chỉ khi nào có một người hôn công chúa dưới hình dạng ếch, nàng mới có cơ hội trở lại làm người.

Và nàng công chúa nhỏ, tự đặt cho mình tên Y, đi tìm tình yêu lớn.

***

Lại quên, Miyoung của Yuri là thành viên nhỏ nhất trong đoàn xiếc.

Xiếc không phải ảo thuật, nó kết hợp cả kĩ năng và sự kì bí. Người làm ảo thuật luôn biến mình thành kẻ kì bí, người làm xiếc thể hiện kĩ năng. Nhưng quanh người làm ảo thuật là bí hiểm, còn kĩ năng của người làm xiếc là bí mật.

Hôm Miyoung diễn, lộn quanh và phun lửa, tim Yuri chuệnh choạng không ổn định.

Miyoung trên sân khấu khác hẳn Miyoung ngoài đời. Miyoung ngoài đời trong veo, Miyoung trên sân khấu bí ẩn. Nhưng Yuri biết Miyoung trên sân khấu, không hiểu Miyoung ngoài đời. Nên Yuri gọi cô ấy là bí mật cậu cần khám phá.

Hôm Yuri hôn Miyoung, bí mật đó càng khó nắm bắt. Yuri yêu, một thứ tưởng như có thể chạm vào.

Yuri muốn đi theo Miyoung, đến cùng trời cuối đất. Không cần bất cứ thứ gì, chỉ mang theo một chiếc ô đỏ.

Hôm gặp trưởng đoàn, Yuri nói, em muốn theo đoàn xiếc. 

Ngày hôm đó, công chúa Y dậy sớm hơn mọi hôm bởi một tiếng hát cất lên gần đấy. 

Giọng hát khe khẽ, trong veo, một bản đồng dao cũ.

Nàng tò mò chui ra khỏi hang, nhảy từng bước lần theo tiếng hát. Và ở đó, bên bờ suối trong, nàng thấy cô ấy, một nàng công chúa khác. Công chúa nhỏ váy hồng đang nghịch nước, để kẻ hầu người hạ bối bối cầm ô đỏ che lung tung. 

Công chúa Y, bây giờ là công chúa lớn, gọi cô ấy, công chúa nhỏ, là công chúa M.

Dù tim ếch không giống tim người, nhưng khi nhìn thấy công chúa nhỏ, công chúa lớn chợt nhận ra: A, đây có thể là người đồng nhịp đập với trái tim mình. Đây là tình yêu lớn mình đang tìm kiếm. Vậy là, nàng bạo dạn nhảy ra trước mặt công chúa nhỏ làm quen.

Đám tùy tùng của công chúa nhỏ, cũng giống cha công chúa lớn, đánh đuổi nàng trong tiếng la hét đáng sợ.

Nhưng công chúa nhỏ, tình yêu của nàng ngăn họ lại, đưa bàn tay dịu dàng nắm lấy nàng để vào lòng mình, và dịu dàng hát.

Ếch xanh, ếch đỏ

Ếch nhỏ, ếch ngoan

Ồm ộp kêu vang

Ếch yêu công chúa.

Rồi công chúa nhỏ cười, tinh nghịch hỏi: Này, vì thích ta mà ngươi đến đây phải không?

Xin chào, ta là M, còn ngươi là gì?

A, xin lỗi xin lỗi, ta gọi ngươi là Y neh?

***

Yuri của Miyoung là thành viên nhỏ nhất của đoàn xiếc. Người ta gọi đùa là ‘sơn đông mãi võ’.

Hôm quyết định bỏ nhà đi theo tình yêu lớn, Yuri không hề nói Miyoung của mình biết. Mãi đến sáng hôm sau, tỉnh dậy trên chiếc xe tải to chạy đến hàng trăm cây số, xa chốn cũ, cậu mới nhận ra Miyoung đã không cánh mà bay. 

Miyoung mắt trong, môi nhạt, làn da xanh tái, giọng hát nhỏ nhẹ đã thôi cất đều đều bên tai Yuri. Yuri gọi, Miyoung không trả lời.

Đoàn xiếc đi từ vùng này đến vùng khác, bụi đường quen, những con người mộng mơ thích hát đồng ca cũ. Yuri luyện tập tính theo từng giây phút, từ kĩ năng nhào lộn đến sự tinh tế bên trong những trò kinh rợn. Ở đó, Yuri biết, cũng như các ca kĩ ngày xưa thạo đủ các động tác như khi rót trà phải nghiêng người bao độ, để lộ bao nhiêu khoảng da tay, người làm xiếc luôn có kĩ năng thu hút ánh nhìn của khán giả đến cao độ. Đó cũng là bí mật ngành nghề.

Nhưng Miyoung của Yuri lại là bí mật dịu dàng, không ở kĩ năng, không ở sự tinh tế, mà là trong trẻo, là chân thật.

Hôm lưu diễn ở một vùng quê lạ, Yuri bạo dạn hỏi, này trưởng đoàn, Miyoung đâu rồi. Người ta bảo, Miyoung đã đi mất rồi. Ngay cái đêm Yuri gia nhập đoàn xiếc, Miyoung cùng chiếc váy hồng hay mặc đã hoàn toàn biến mất không dấu tích. Người ta thắc mắc, đứa trẻ phiêu bạt với đoàn xiếc có thể dừng lại ở đâu ngoài những buổi biểu diễn, nhưng không ai có thể ở lại tìm kiếm.

Yuri giận, Miyoung của Yuri là người thất thường. Yuri giận, Miyoung của Yuri ra đi không lời từ biệt. Ngay cả khi Yuri của Miyoung sẵn sàng hi sinh mọi thứ của cuộc đời mình.

Rồi một ngày, Yuri nhận ra, Miyoung của cậu sẽ không bao giờ trở lại.

Đoàn trưởng nói với đoàn phó, trong lều mật, tình cờ Yuri đi tìm chiếc ô đỏ mà nghe được. 

Miyoung của Yuri xin đoàn trưởng để được ở lại vùng đất đó, ngay ngày đầu tiên đến, vùng đất của Yuri. Nhưng đoàn trưởng không chịu, vì thiếu người. Mãi đến khi Yuri xin vào đoàn, đoàn trưởng phê chuẩn, Miyoung được ở lại, trong bí mật.

Và Yuri rời đi không một tình yêu lớn. Chợt nghĩ, họ chưa là gì của nhau.

Những con đường bụi mờ, những làng mạc cũ, những vùng đất nghèo chỉ toàn sỏi đá. Chiếc xe lớn đưa Yuri từ nơi này sang nơi khác, xa khỏi thị trấn nghèo, đến những vùng đất trơ trụi hay những thành phố phồn hoa. Yuri đeo chiếc nhẫn cỏ còn lại, ngày ngày viết, đêm đêm mơ, cốt làm sao không trách móc được cô bé có đôi mắt trong đam mê yên bình. 

Lần diễn đầu tiên, Yuri được đứng trên sân khấu lớn, một nhà hát. Ở đó, mới nhận ra  thật sự Miyoung kì bí. 

Kể cả động tác uốn dẻo hay những màn nhào lộn, Miyoung luôn cười, mắt luôn trong. Miyoung của Yuri lúc nào cũng đẹp, mọi tư thế, mọi thái độ, mọi hành động, mọi màn biểu diễn và mọi ước mơ. 

Miyoung của Yuri luôn là dịu dàng nhất trái tim yêu Yuri biết, ngay cả khi cô ấy để Yuri cô đơn một mình. Ngay cả khi, nếu yêu đương khi đó là dối lừa. Yuri yêu, vì lần đầu Miyoung nhìn thấy Yuri đã khóc.

Nhưng Yuri giận. Miyoung của Yuri dối lừa.

Đó là bí mật lớn nhất Miyoung che dấu.

Công chúa ếch ngày ngày đêm đêm theo công chúa nhỏ. Công chúa nhỏ có đôi mắt trong hay hát.

Mỗi buổi sáng sương, công chúa nhỏ ôm nàng trong lòng, vùi sát vào chiếc váy hồng thơm mùi hương liệu, tay che ô dạo dọc vườn hoa. Để đến một ngày, đang khi chơi đùa, công chúa lớn nhận thấy một đồng cỏ thân dài, lại cặm cụi thân ếch quấn quấn đan đan mãi cũng không xong một chiếc nhẫn cỏ. Đành cầu cứu thần tiên, nàng xin, giảm một nửa tuổi thọ. Thần tiên đồng ý.

Công chúa ếch đeo cho công chúa nhỏ, công chúa nhỏ lại khe khẽ hát. Dịu dàng cười nói, ta yêu Y của ta nhất.

Công chúa lớn khi đó lại nghĩ, đây chính là tình yêu lớn của mình.

Nhưng rồi một ngày, khi công chúa nhỏ ngủ say, người ta mang công chúa ếch đi mất.

Nàng bị trả về hang cũ, đương khi mưa, người ta che cho nàng bằng chiếc ô đỏ công chúa M hay dùng.

Thân là ếch, công chúa lớn ngơ ngác, biết đường nào tìm đến hoàng cung?

Người ta bảo, công chúa nhỏ chán công chúa lớn rồi.

***

Năm Yuri mười tám, đoàn xiếc nổi danh khắp thành phố thủ đô.

Buổi biểu diễn ở khu trung tâm thương mại, Yuri gặp Yoona của Seohyun, Seohyun của dịu dàng.

Từ trên sân khấu, giữa tiếng hò hét reo vang, ngay khi thời đại của những kĩ năng và bí hiểm còn huy hoàng, Yuri thấy, Yoona và Seohyun của nhau đang đàn hát ở một quãng xa. Seohyun đàn, Yoona hát. Xa khỏi tiếng ồn ào phố chợ.

Giọng hát Yoona vang lên trong không trung, liền bị tiếng vỗ tay hò reo nuốt chửng, tiếng đàn Seohyun như khe khẽ thì thào trong đêm. Nhưng họ đàn, họ hát.

Yuri nhớ, ngày xưa, Miyoung của Yuri cũng hát như vậy.

Thời gian đôi khi không xóa mờ thứ gì, còn lại đó sau những tháng năm là nỗi đau ngày một trải dài. Thời điểm đó, mỗi sáng tỉnh dậy, Yuri thường trách móc Miyoung của sự tàn nhẫn, giọng hát của đê mê và bí mật của dối trá.

Yuri gọi, Miyoung của Yuri chẳng bao giờ trả lời.

Năm mười tám, tình yêu ngủ quên, Yuri chợt nhận ra tóc mình đã thôi rối.

Có khi cô bé ngày xưa yêu mắt cũng đã thôi trong.

Công chúa Y, công chúa ếch, công chúa lớn, trước đây luôn tin công chúa nhỏ là định mệnh đời mình.

Nhưng, sao lại thế này?

Nàng nghĩ, cho đi hết, cả nhẫn cỏ bằng tình yêu cả cuộc đời mình. Cuối cùng chỉ nhận thấy sự dối trá.

Vậy là, công chúa ếch đến hoàng cung. Đột nhập phòng công chúa nhỏ đang say ngủ, cắp về một chiếc váy hồng.

Nàng không trách móc, không cần gì, chỉ cần một kỉ vật yêu đương. Một chiếc váy hồng.

Nhốt mình trong hang. Và yêu công chúa nhỏ đến trọn đời.

***

Năm Yuri gặp Sooyeon, tuổi hai mươi đã làm mắt đục. 

Mắt Yuri của Miyoung vốn không trong, nhưng tự dưng lại đục.

Ngày gặp, Sooyeon là cô bé mắt trong, và sáng. Thấy Sooyeon, Yuri như nhận thấy tình yêu đời mình sống lại. Tình yêu, với Miyoung. Một buổi sáng đường trơn, cũng mùa hạ mưa rơi ướt áo, Yuri chợt nhận ra mình yêu Miyoung vô cùng tận. Như công chúa lớn yêu công chúa nhỏ, ôm trọn tim yêu sống trong hang đến vạn đời.

Sooyeon thích xiếc, xem xiếc như khám phá bí mật. Ngày ngày tháng tháng đến đoàn xiếc chơi, Sooyeon bỗng dưng thân với Yuri vô độ. Khi thì mang cho miếng bánh, chiếc ô xanh, khi thì đến kể chuyện.

Dần dần, Yuri quen với Sooyeon như thói quen thường ngày. Như phản xạ.

“Chị xem gì đấy?” 

“Truyện cổ tích.”

“Thế nào?”

“Công chúa ếch.”

“Nó làm sao?”

“Kết thúc rồi.”

Công chúa lớn chờ công chúa nhỏ. Đến trọn đời.

Hôm Yuri cho Sooyeon mượn cuốn sách viết tay chuyện công chúa, Sooyeon đã khục khặc cười và nhạo báng đến mấy ngày liền. Đó không phải là câu chuyện dành cho tuổi hai mươi, Sooyeon đã nói.

“Chị không viết nó ở tuổi hai mươi.”

“Bao nhiêu?”

“Mười lăm.”

“Cũng quá lớn để mơ mộng.”

“Không phải cho chị.”

“Cho ai?”

“Một cô bé.”

“Bao nhiêu?”

“Mười ba.”

“Bé ấy thấy thế nào?”

“Cô ấy lớn hơn em.”

“Nhưng thời điểm đó?”

“Chưa đọc.”

Công chúa M, công chúa nhỏ, công chúa mắt trong… 

Vĩnh viễn cả đời không biết…

***

Ngày gặp Sooyeon, Yuri nghĩ, những cô bé mắt trong có thiên khiếu với trò nhào lộn. 

Vậy là, một mùa mưa chừng ấy năm sau, Sooyeon trên chiếc xe tải đi theo đòan xiếc, lại đến những vùng bụi mịt mờ. Yuri ở lại chốn phồn hoa. 

Sooyeon là thành viên nhỏ nhất đoàn xiếc. Người ta gọi vui là ‘sơn đông mãi võ’.

Yuri tuổi hai mươi, là nhân viên bán hàng cho một chuỗi công ti tại thành phố thủ đô. Ngày ở lại, chợt nhận ra cuộc đời có quá nhiều thứ bất ngờ không thể đoán biết trước. 

***

Miyoung của Yuri mắt trong, Yuri yêu, vì đôi mắt hay như khóc.

Ngày đầu tiên gặp lại, ngần ấy năm, những tưởng đôi mắt đã mờ, nay lại trong veo lạ lẫm.

Miyoung của Yuri ở thủ đô học đại học, năm đầu tiên, con nuôi của một gia đình khá giả. Giây phút tái ngộ Miyoung không cười, không hát, giọng nói vẫn nhỏ nhẹ, dịu dàng hơn nước mùa thu. 

Nắm tay Yuri, Miyoung của Yuri dẫn cậu đi về miền đất cũ, Yuri không muốn nhưng vẫn cứ theo. 

Xe khách chật chội, bàn tay Miyoung ướt nước, Yuri siết một lần rồi hai lần, chợt nhận ra chưa bao giờ quen buông lõng. Miyoung là bí mật kì bí Yuri khao khát một thời trẻ thơ, ngày gặp lại, tất cả những gì còn đó trào lên. Mạnh mẽ nhưng êm ả. Yêu Miyoung ngần ấy năm, đủ để Yuri viết nên một câu truyện cổ tích không trọn.

Yuri bảo Miyoung là bí mật lớn nhất đời mình. Yuri yêu bằng tình yêu cuộc sống và con người.

Ngày Miyoung biến mất, Yuri như người say ngủ chỉ gắng tìm giấc mơ. Tháng ngày một mình, Yuri viết lên tấm bạt căng lều mình những lời yêu thương tha thiết, chỉ là Miyoung không bao giờ biết được những điều đó. Vì Yuri cũng chẳng bao giờ nói tiếng yêu thương.

Hôm gặp lại, ngồi trên chiếc xe chạy dài trong bụi, làn nước mùa hạ phấp phới bên ngoài cửa kính, Yuri lại nghe Miyoung hát bản đồng dao cũ. Lần này cậu hát theo. Người thuộc rạp xiếc hay hát bài ca đó, đến mức như lẽ sống đời mình.

“Mắt Trong…” Yuri gọi, lẩn thẩn nhìn bụi đường tung.

“Tóc Rối neh…?” Miyoung của Yuri trả lời, môi mím chặt ngơ ngẩn. “Tóc rối đã đi đâu…?”

“Em đã làm gì?”

“Em ở lại đó, nhưng tóc rối đi mất.”

Yuri nghĩ, Miyoung của Yuri chân thật.

Tôi theo em, nhưng em biến mất. Câu nói này, Yuri chẳng thể nói ra.

Chỉ cười như ngày xưa bên nhau, họ đã hát.

***

Công chúa nhỏ chết vào một ngày mưa mùa hạ.

Không có váy hồng, món quà hộ mệnh của thánh thần, công chúa nhỏ bệnh, rồi chết.

Tay còn đeo nhẫn cỏ.

Công chúa ếch ôm váy ngồi trong hang, đêm ngày lẩn thẩn nghĩ mình đã tha thứ cho công chúa nhỏ phản bội.

Chỉ giữ lại một kỉ vật để yêu.

Không biết mình đã giết chết tình yêu đó.

Và chờ công chúa nhỏ.

Đến trọn đời.

Vì yêu.

***

Căn nhà Yuri ở, Miyoung còn giữ lại, một cánh cửa sổ gỗ nâu cọt kẹt. 

Ngày trở về, nắm tay nhau băng qua ngọn đồi trống và những dòng sông lặng lờ, Miyoung của Yuri kể về cuộc sống chập chờn bên nỗi nhớ. Yuri của Miyoung nói, đó là vạn ngày mơ cho những dấu yêu.

Ngày trở về, Miyoung muốn cả hai viết nên cổ tích, tại đó, nơi cánh cửa sổ sáng lên mỗi ngày nắng chiếu. Yuri lại muốn mang kiếp cầm ca, ngày ngày, nơi phố chợ, như cặp đôi ngày xưa Yuri nhìn thấy, Miyoung sẽ hát, Yuri gõ nhịp.

***

“Neh, Tóc rối... chuyện cổ tích xong chưa?”

“Xong lâu rồi.”

“Thế nào?”

“Công chúa yêu nhau.”

“Rồi sao?”

“Yêu thế chứ sao?”

“Chỉ thế?”

“Chỉ thế.”

“Ừ…”

“Này, Tóc Rối, kể nghe giấc mơ đêm qua nha…”

“Sao? Hay không?”

“Hay mới được kể à? Mơ thì hay ho gì?”

“Không, kể đi.”

“Cứ như đã trải qua, một câu chuyện cổ tích…”

“Sao?”

“Ngày xưa, có một công chúa bị nguyền rủa thành ếch…”

Và Miyoung của Yuri kể, công chúa ếch yêu công chúa nhỏ, rất yêu. Vì yêu mà sẵn sàng tha thứ cho sự phản bội, chỉ lấy đi một chiếc váy hồng công chúa nhỏ luôn mặc để tưởng nhớ, không hay biết rằng chính chiếc áo đó là vật hộ thân níu giữ mạng sống công chúa nhỏ trên cõi đời này. Vô tình, nàng vì yêu mà giết chết tình yêu của mình.

Nhưng mà sau đó, ngày ngày tháng tháng ôm đau thương trong hang, công chúa ếch cũng không hay biết việc mình đã làm, chỉ nghĩ rằng mình đã tha thứ cho công chúa nhỏ.

Nàng ôm tình yêu đến trọn đời, và chết trong đơn côi. Vì yêu.

Miyoung của Yuri kể, kết thúc bằng một tráng pháo tay tự thưởng cho mình. Quay sang Yuri đang ngồi trên cửa sổ, cô lại khe khẽ hát, bài ca năm nào còn vang vọng đâu đây.

Xanh, đỏ, trắng, vàng

Áo, ô, hoa, nắng

Lướt theo sáng nắng

Lượm về chiều mưa…

Yuri hát theo Miyoung, cuối mỗi đoạn, ngần ngừ một lúc khi Miyoung của cậu bối rối. Như cô bé mắt trong năm nào dịu dàng dựa vào trai trái Yunho khô nước, chiều hạ, mưa lại bắt đầu rơi.

“Rồi… đưa truyện đã viết đây…”

“Mất rồi.”

“Gớm. Xạo. Còn bày đặt làm ra vẻ bí mật. Đưa đây.”

“Không. Mất thật rồi.”

“Nó thế nào?”

“Ừm… bí mật.”

Nó chỉ là bí mật.

Và chẳng phải là bí mật nào.

“Er… làm cao… er…”

Và Yuri hôn, Miyoung của Yuri ngỡ ngàng mắt lại thêm trong trẻo. Đưa tay vò tóc Yuri thêm rối.

Ngày trở lại, bên nhau, họ kể chuyện đời. Câu chuyện về một rạp xiếc du hành qua những vùng sỏi đá, một trái tim đêm ngày mơ thấy nụ cười xinh. Về việc vì yêu thương mà đánh mất cơ hội. Về sự tha thứ dễ dàng cho lầm lỗi ngốc nghếch ngây ngô của mình.

Ngày trở lại, họ bắt đầu yêu.

Đan tay nhau, mùa hạ ngang ô cửa gỗ nâu bám bụi.

Lại một cơn mưa.

Khí Hêli và phi khoa học

Summary:

Yoochun có một đám mây to.

1.

Yoochun có hẳn một đám mây to trên bầu trời.

Gã ngồi trên đám mây, dùng phép thần thông nào đó để nó không tan ra, và ngăn cản không cho đám mây nào khác tới gần. Đơn giản, vì đó là đám mây của riêng gã.

Khi không có đám mây nào cao hơn đám mây gã đang ngồi, gã đạp cho đám mây bay khắp nơi, hòng tìm nơi có mây cao hơn che cho gã khỏi cái nắng của mặt trời.

Khi trên đầu gã lởn vởn những sợi mây màu xám, hay đen kịt, gã cũng góp phần vào trận mưa chuẩn bị diễn ra với đám mây của mình. Mưa, gã ngồi trên đám mây, ướt nhẹp.

Thỉnh thoảng, gã cột đám mây lại ở trên ngọn núi nào đó, rồi lựa một đám mây khác chở gã đi xuống, bước trên mặt đất như những người bình thường và ngắm họ.

Thỉnh thoảng, những giọt mưa rơi xuống đầu, xuống cái trán rộng của gã. Yoochun sực nhớ mình có một đám mây to.

2.

Gã thích đậu lại ở những vùng quê, vì mây ở đó thơm mùi lá, xung quanh sẽ có chim bay, và phía dưới sẽ có nhiều người nhìn lên. Gã không thích người ta nhìn thấy gã, nhưng gã thích cảm giác né trong những đám mây để ngó người phía dưới nhìn lên chỗ mình đang đứng.

Gã cũng thích đậu lại ở những thành phố lớn, dù mây ở đó nặng nề, xung quanh cũng chỉ có chim bay thấp chủm vào buổi sáng, nhưng phía dưới ít người nhìn lên. Gã là kẻ đầy mâu thuẫn, nên cũng thích khi không ai để ý mình.

Một lần, có một cô bé con ngước lên trời và không biết may hay rủi, nó nhìn thấy gã. Cô bé nhảy lên đầy phấn khích và đưa bàn tay nhỏ xíu lên vẫy chào.

Gã để ý cô bé này, nhưng sau vài lần nhìn lên không thấy gã nữa, nó cũng thôi.

Lần khác, một cô gái xinh đẹp hướng lên bầu trời và thấy gã. Cô gái đưa hai tay lên dụi dụi mắt, nhắm lại rồi mở ra không biết bao nhiêu lần. Cơ hồ không tin nổi vào mắt mình, cô bước vào hiệu thuốc và đem ra nguyên một bọc.

Gã để ý cô gái xinh đẹp này, và thấy cô ta đi tìm gặp bác sĩ tâm lý (?).

Một vài lần, những cậu trai trẻ nhìn lên và thấy gã. Họ nhún vai và bước tiếp trên con đường đông đúc.

Ngày qua ngày, Yoochun vẫn ngồi trên đám mây của riêng mình.

3.

Cũng không hẳn là Yoochun thích ngồi trên đám mây suốt như vậy. Nhưng đó là việc mà gã đã làm từ rất lâu, và chẳng có lý do hay dấu hiệu gì để gã phải ngừng lại. Nên gã cứ thế mà tiếp tục làm thôi~

Dần dà, gã ngứa ngáy trong người và không muốn đậu lại ở những làng quê nữa, vì những người ngước đầu lên nhìn gã ngày một ít.

Gã cũng không khoái đậu ở những thành phố lớn, vì chẳng ai thèm ngước lên nhìn trời nữa. Mà có ngước lên, cũng chẳng ai có cơ may nhìn thấy gã.

Yoochun cứ đạp thoả chân cho đám mây tội nghiệp bay suốt ngày, chỉ dừng lại vào ban đêm.

Nhắc tới đêm, đêm mới là đáng sợ.

Gã không thể đậu lại ở những vùng quê hay rừng núi vào ban đêm, vì như vậy sẽ che mất sao trời, và gã thì không thích những người ở dưới chửi rủa riêng mình đám mây của gã.

Gã cũng không thể đậu lại ở những thành phố lớn. Dù ở đó người ta vốn không thể thấy sao, nhưng gã vẫn thường nghe những người ngắm sao buổi đêm ở dưới đó bảo: họ không thể ngắm sao vì đèn đường và vì bụi khí. Gã nghĩ, nếu chỉ một mình gã được ngắm sao thì cũng kỳ cục quá.

Gã đành ra biển, chọn khúc nào không ai neo đậu - thường là ở vùng biển nguy hiểm hay gì đó đại loại thế để dừng chân.

Yoochun là người thích ngắm sao nhất trên thế gian này.

4.

Gã ghét nhất máy bay và những gì bay được trên trời. Cứ như là thử độ đập nhanh của tim gã vậy.

Nhiều khi có một quả bong bóng bay lên tới tận chỗ của gã, rồi vỡ tung ngay sau lưng hoặc bên cạnh, làm gã giật nảy mình.

Hay những con chim bay quá cao làm gã cứ sợ có ngày chúng nó sẽ đâm thủng mông mình bằng những cái mỏ nhọn đó.

Còn máy bay thì thôi rồi~ Tại sao người ta không chế ra sao cho chúng nó bay thấp thấp như kiểu trực thăng chẳng hạn? Bay cao quá bị mấy đám mây khác cản hết tầm nhìn rồi thì có gì là hay ho? Vậy mà số lượt máy bay họ đi ngày một nhiều.

Thấy cái máy bay là gã liền phải nhấn mình vào giữa đám mây, để cho mấy cọng bông mây gãi gãi vành mũi, thiệt khó chịu!

May mà không có cái máy ảnh hay thiết bị nào có thể chụp lại hay lưu lại gã.

Nhưng vật thể bay gã sợ nhất không chỉ dừng lại ở mấy thứ vặt vãnh đó.

5.

Nếu Yoochun là người có quyền quyết định đâu là vật thể bay đáng sợ nhất, gã sẽ bầu toàn bộ phiếu của mình chocon người.

Người bay ở đây không phải là Siu bơ men, Bét men, Phờ lai inh men, hay bất cứ cái gì + men mà con người có thể nghĩ ra được.

Đó là một thằng nhóc.

Thấy được Yoochun từ năm năm tuổi, nó giật ngay máy ảnh của cha mình và chụp lại đám mây của gã. Yoochun đổ mồ hôi hột nhìn theo cái tướng lùn lùn béo béo đó và sợ. Gã sợ lỡ đâu hình rửa ra sẽ chình ình cái bản mặt gã thì sao? Nhưng may mắn là không có.

May mắn hơn nữa, thằng nhóc đó phụng phịu nhìn tấm hình, không những vậy còn chỉ thẳng tay lên đám mây của gã mà nói gì đó rất hùng hồn - một thái độ dễ thương ngoài sức tưởng tượng luôn!

Suốt năm đó, nó sưu tầm bong bóng.

6 tuổi, không biết bao nhiêu bong bóng thu thập được, nhưng nó cật lực ngồi thổi.

Thổi cái đầu tiên, buộc bằng một sợi dây dài và rồi nhìn chằm chằm vào cái bong bóng, hỏi: “Sao mày không bay lên?”

Tràn trề hy vọng vào cái thứ hai: “Chắc nhiều nó mới hợp sức với nhau bay lên được”. Chúng vẫn không bay.

Cái thứ ba, buộc vào nhau. Vẫn không bay.

Cái thứ tư, vẫn không bay.

Cái thứ năm

...thứ sáu

...Đến cái thứ mười, chúng vẫn không bay.

Nó tức tối hỏi cha mình, và nhận được một tràng cười bể bụng.

“Su ngố của cha... Muốn bong bóng bay được phải thổi vào đó khí Hêli~” - vẫn cười khùng khục.

Nó đần cả người.

Khí Hêli là cái gì...?

6.

Tám tuổi học xong lớp Một, khi chữ viết [ có lẽ ] đã khá vững, nó nghiên cứu về khí Hêli.

Nhưng mà thiệt sự để nói thì... nó không biết có phải trong sách người ta đang viết tiếng Hàn không nữa...…

Phân tử, nguyên tử, số hiệu nguyên tử, quang phổ, điểm sôi, áp suất, khí đơn nguyên tử, khí trơ, tỉ trọng, ê lếch trôn, cấu hình ê lếch trôn, bờ rô tôn, nơ trôn, điện tích, điện tích hạt nhân, cân bằng điện tích, nguyên tử khối, độ âm điện, ô xi hoá, đồng vị, bờ là bờ la bờ la...

Rốt cuộc thì cái gì là cái gì? Và... đào đâu ra Hêli và làm sao để thổi vào được?

Không phải chỉ cần tìm nó ở đâu rồi hớp một miệng đầy và thổi vô là xong sao?

Ê mà... cái này hiểu nè.

Khí hiếm.

Hiếm tức là khó tìm.

Ôi...

7.

Vào cấp Hai, nó chính thức đâm đầu vào môn Hoá Học. Cấp Hai, tức là nó đã mười ba tuổi. Và đám mây của gã đã trở nên quá quen thuộc với nó. Nhắm mắt và đưa mi lên cảm giác thôi cũng đủ biết là nó đang bay ở đâu.

Gã thì vẫn trố mắt nhìn.

Cấp Ba, mười sáu tuổi, nó học suốt ngày nhắm thẳng vào khoa Kinh Tế của một trường nào học danh tiếng nào đó.

Mười chín tuổi, cánh cửa đại học rộng mở. Gã vẫn nhìn theo nó và ngỡ ngàng trước những gì trường Kinh Tế sẽ dạy.

Họ không dạy nó về bóng bay.

Họ sẽ không dạy. 

Yoochun đạp đám mây, chầm chậm bay trên bầu trời của đất nước nhỏ bé, xinh đẹp này.

8.

Nó hai mươi lăm tuổi, gã cũng đã bay đủ nơi và nhớ đủ chỗ nên quay về.

Nó không lùn cũng không béo, hai má vẫn phúng phính dù điệu bộ đã hết dễ thương [ chắc vậy ]. Cũng đã tạo ra được sự nghiệp cho mình và được gọi là thành đạt.

Yoochun đưa tay vơ lấy xung quanh, tự hỏi có khí Hêli ở đây không…

Nó đã cao và ốm hơn, đã chính chắn và người lớn hơn. Còn gã, hai mươi năm rồi mà vẫn trẻ trung như thế.

Đã lâu rồi không bước xuống mặt đất, kể từ khi gã thấy có người muốn bay lên.

Yoochun nằm dài trên đám mây to của riêng mình, vẫn xốp, mềm và thơm như thế, gã tự hỏi mình thật ra là ai.

9.

“Này anh gì đó...”

Yoochun giật mình, có ai đó đang kéo tay làm gã chuẩn bị rớt khỏi đám mây rồi !!!!

Gã tỉnh dậy và trố mắt nhìn.

“Anh gì đó, anh tên gì vậy?”

Câm nín.

“Anh gì đó ơi, anh không nói được à?”

Nói cái gì mà nói?

“Anh gì đó, sao anh ngồi trên mây được chừng ấy năm vậy? Anh giỏi thiệt nhe! Anh nhìn Su nè, Su cũng giỏi lắm đúng không? Giờ Su giàu lắm, hì hụi làm khinh khí cầu cả năm trời để bay lên đây đưa anh xuống đó xD~”

“Anh sao vậy? Không nói tức là đồng ý xuống dưới đó với Su đó~ Anh mà đông đá vậy nữa là Su bế anh vào trong này luôn~!”

* rị mọ rị mọ *

Đồ mông to dị thường!

Yoochun có thể chết vì xịt máu mũi được rồi!

Phải bắt đầu như thế.

Summary:

Yunho và Jaejoong là hai kẻ lấp đầy chính họ và lấp đầy thế giới.

1.

Yunho là kẻ nhiều khi trẻ con đến đáng kinh ngạc. Bằng sự trẻ con đó, anh làm mọi người yêu mến. Lịch sự và lễ độ, không ai có lý do để ghét anh.

Jaejoong là kẻ nhiều khi quái dị đến đáng kinh ngạc. Bằng sự quái dị đó, anh làm mọi người thích thú. Tốt bụng và tình cảm, không ai có thể ghét anh.

Trước khi gặp nhau, Yunho và Jaejoong là những con người bình thường. Họ lấp đầy cuộc sống của họ bằng những thứ họ thích và những rắc rối thường nhật. Gặp nhau, họ lấp đầy đối phương.

Như một câu chuyện hoàn hảo, Yunho thiếu những gì Jaejoong có, Jaejoong thiếu những gì Yunho có. Họ là hai mảnh ghép hoàn hảo với nhau.

Yoochun và Junsu thì khác.

2.

Yoochun là một kẻ cô đơn.

Hắn đắm mình vào những thứ riêng tư, hoàn toàn thoải mái khi ở một mình trong căn hộ rộng thênh thang và trắng toát. Hắn cũng hay ra khỏi nhà, nhưng ít ai biết hắn là ai.

Đám cưới của Yunho và Jaejoong, hắn và Junsu nhìn thấy nhau.

Junsu không hẳn là một người cô đơn. Nhưng khác với người bạn thân Jaejoong, cậu khá rụt rè, dễ xấu hổ và không hay nói chuyện với người lạ... Khi nhìn thấy Jaejoong lần đầu, người ta thường nói anh hẳn là lạnh lùng lắm. Sau một tháng, họ thấy Junsu mới đúng là kẻ lạnh lùng - dù sự thật chưa hẳn đã vậy.

Junsu chỉ thấy mình quá nhỏ bé, cậu không thể lấp đầy cuộc sống của mình, chỉ có thể tô tất cả bằng một màu xám nhạt.

Yoochun và Junsu nhìn hai người bạn của mình trao nhẫn cho nhau, tự thấy mình như cây khô giữa trời gió, ngóng về đôi chong chóng toả ra màu sắc rực rỡ, nổi bật cả bức tranh.

3.

Trong buổi tiệc đám cưới đó, người mà Yoochun nói chuyện là Yunho và Jaejoong, người mà Junsu nói chuyện cũng chỉ là Yunho và Jaejoong. Họ không hề nói chuyện với nhau dù ngồi cạnh... Dĩ nhiên, họ cũng không nói chuyện với người nào khác.

Không cần quần áo giống nhau, không cần vẻ mặt giống nhau, không cần suy nghĩ giống nhau, Yoochun và Junsu tạo thành một bức tranh thật lạ lùng.

Vốn là một kẻ cô đơn, Yoochun không nghĩ mình sẽ bắt chuyện với ai. Ngồi cạnh hắn, Junsu không nghĩ mình nên nói. Junsu không muốn chỉ duy nhất người ngồi cạnh mình là im lặng như thế. 

Mà dù người đó có ngồi ở bàn bên kia, cậu cũng không nghĩ là mình có thể làm lơ.

Cho nên cũng không biết là may hay rủi, là tốt hay xấu, là nên hay không, là từ đâu và tại sao... Sau buổi tiệc, ở một góc khuất bên ngoài cửa sau nhà hàng, Changmin - một người bạn khác của Yunho và Jaejoong, lúc đang ăn kẹo cây bảy màu, sau khi bị đá ra khỏi nhà bếp - nhìn thấy Yoochun ôm Junsu.

Yoochun - chủ động - ôm Junsu.

4.

Là một nhà nhiếp ảnh, Shim Changmin hận vì mình đã không chụp lại được cảnh ôm nhau đó [ dù vẫn thấy hạnh phúc vì cây kẹo ].

Đã bảo Yoochun và Junsu tại ra bức tranh rất lạ lùng mà~!

Ôm Junsu được gần một phút, Yoochun rời cậu ấy ra. Hắn tự hỏi tại sao ôm một người đầy đặn như cậu mà hắn lại thấy trống. Cứ như mọi xúc giác của hắn là không có, cứ như Junsu là không có.

Hắn nhìn xuống hai bàn tay, tự thất vọng với chính cơ thể và cảm xúc của mình.

Rồi hắn bỏ đi.

Hôm ấy là một ngày mùa xuân.

Sau khi thấy nóng khắp cả người, Junsu thấy lạnh.

Cậu vốn không phải kẻ cô đơn.

5.

Yoochun không phải là một nghệ sĩ, hắn là một kỹ sư phần cứng. Đó là lý do tại sao hắn chạm vào mọi đồ vật rất cẩn thận. Dần dà, hắn trở nên mất cảm giác.

Skinship là từ hiển nhiên không có trong từ điển.

Junsu tự hỏi có phải là do bàn tay chai sần của hắn không. Song, cậu lại lắc đầu để những ý nghĩ đó bị văng ra xa thật xa. Vì cậu nhớ, hôm đó Yoochun đã ôm cậu bằng cả người của hắn.

Sau nhiều ngày suy nghĩ, đồng ý vụ mai mối của cặp YunJae bằng nhắng, chấp nhận lời mời ăn trưa của Yoochun, trước ánh mắt ngạc nhiên suýt rớt cây kem của paparazzi Shim Changmin, Junsu luồn tay cậu vào giữa 5 kẽ ngón tay Yoochun.

"Phải bắt đầu như vậy chứ!"

Junsu dịu dàng nói nhỏ.

Yoochun nhìn đôi má phúng phính của Junsu, tim như muốn nhảy break dance.

6. (extra)

Mùa xuân năm tiếp theo đó, Shim Paparazzi hoàn thành quyển album "YunJae II - năm đầu sau khi cưới" và "YooSu I - tạp nham khó chú thích".

Không có quyển nào được kết thúc bằng từ "The End" hay tương tự.

Nhưng fic này thì phải End rồi =P.

Vậy nhé~

Cánh cửa kính phòng đại thiếu gia

Summary:

cửa sổ phòng mình và một vài ước muốn của mình với nó, bác sĩ người quen giàu có bận rộn, Hamlet, Black Jack, nghiên cứu tâm lý, không ăn và không đói, chạm vào thật khẽ, những dòng chữ ngắn gọn, suy nghĩ cao hơn rating K, hôn lên môi như món quà đẹp, chọc phá thiên hạ ...

1.

Park Yoochun là một bác sĩ tư nhân chuyên điều trị tâm lý cho những trường hợp giàu - không muốn tai tiếng / tiền sự và tương tự.

Dạo gần đây, càng ngày Yoochun càng cảm thấy ghét sự bận rộn mà mình đang có. Chúa ơi! Tại sao càng ngày những người mắc bệnh về thần kinh, sĩ diện với danh tiếng và giàu nứt đố đổ vách lại càng nhiều nhỉ?

Này, không phải Yoochun thương người hay có tấm lòng người thầy thuốc gì đâu. Càng bận rộn đồng nghĩa với việc càng giàu chứ sao? Yoochun lại không phải là người tốt bụng gì... Anh đã chọn nghề bác sĩ tâm lý vì hứng thú, tiền nhiều và y tá đẹp mà...

Chỉ là... Park Yoochun hiện đang sống cùng Kim Junsu.

2.

Tưởng bở đủ rồi đấy, Yoochun cũng muốn “này nọ” Kim Junsu chứ bộ... Dễ gì mà lại từ trên giời rơi xuống một cậu bé đáng yêu như Kim Junsu [ 16 tuổi ], dễ thương như Kim Junsu [ 16 tuổi ] và lạ ở chỗ, đồng thời cũng rất sexy như Kim Junsu [ 16 tuổi ] chứ?

Chẳng có cái đặc điểm nào của cơ thể Kim Junsu mà Park Yoochun không thích cả. Cậu ta có gương mặt dễ thương cùng làn da hơi rám nắng, vòng eo mà lắm đứa con gái ao ước, đường cổ gợi cảm và vòng ba hoàn hảo. Một kẻ mà không từ người hay vật, không từ trẻ hay già, không từ trai hay gái... miễn đẹp là thích như Yoochun thì Kim Junsu là quá tuyệt vời.

Không những vậy, cha mẹ của Kim Junsu giàu top 5 thành phố.

Điều đơn giản nhất để giải thích những câu hỏi “sao kỳ vậy?” hay “tại sao?” trong đầu bạn là: Kim Junsu [ 16 tuổi ] - bệnh nhân đặc biệt của Park Yoochun.

3.

Ban đầu, Park Yoochun nghĩ rằng mình không nên chạm vào cậu chủ nhỏ này làm chi, cậu ta mà oai oái lên thì dễ mất việc như chơi. Chỉ sau ngày đầu tiên, Park Yoochun gần như chán ngán với việc cả hai - anh và Junsu - có quá nhiều động chạm, cả trước mặt lẫn không trước mặt.

Ừ thì anh không nên chán, vì Kim Junsu thế kia cơ mà... Nhưng Yoochun phải chán thôi, vì, Junsu chẳng có gì cảm giác gì gọi là có-người-chạm-vào-mình cả. Hoàn toàn không luôn.

Và Park Yoochun hiểu ngay là anh phải bỏ những bệnh nhân giàu có khác rồi.

4.

Kim Junsu 16 tuổi, ứng cử viên thừa kế số 1 của mớ gia tài nhiều top 5 thành phố, bệnh nhân đặc biệt và danh dự của Park Yoochun - bác sĩ tâm lý số 1 của cả nước, người được các bệnh viện ghét nhiều nhất.

Dù trở thành bệnh nhân của Park Yoochun vì đã đập bể cửa kính phòng mình, Kim Junsu vẫn nghĩ mãi rằng: Tốt hơn hết là anh ấy gọi mình vào giờ cơm.

Lại một câu hỏi lớn, phải không?

5.

Nói không ngoa chứ món ăn Park Yoochun làm ngon nhất khu này.

Tuy vậy, Park Yoochun lần đầu tiên trong cuộc đời nghĩ rằng những món ăn của mình không ngon như nó đã từng. Đó là khi nó đã được bày biện đẹp đẽ trên bàn ăn và nằm yên ở đó đúng hai tiếng.

Chín giờ tối ngày đầu tiên của Kim đại thiếu gia tại nhà anh, Park Yoochun quá hiền để gọi cậu ta xuống ăn cơm hay ăn trước một mình...

Sự thật là vì Yoochun thấy Kim Junsu có gì đó rất đáng sợ.

Khi Junsu xuống tới nơi thì Yoochun đã gục trên bàn ăn. Cậu nhìn những thức ăn trên bàn, không chắc lắm “ngon” là thế nào nhưng cậu nghĩ nó sẽ vậy. Junsu trách mình vì đã không thấy đói bụng, không những vậy còn cặm cụi đọc Hamlet.

Junsu gọi Yoochun dậy, anh dụi mắt cười thật tươi và hâm lại thức ăn.

Junsu lại không chắc lắm về “ngon”, và lại nghĩ rằng những món ăn thật “ngon”.

6.

“Kể lại tất cả những gì liên quan đến bệnh của cậu cho tôi nghe nào?”. Junsu đã ngồi im như tượng đá khi nhận được câu hỏi như thế của Yoochun.

“Tôi phải nắm được mức độ nhận thức về bệnh tình của cậu như thế nào chứ! Làm ơn đi, cậu sẽ quyết định sự sống còn của tôi đó...”

Và Junsu bắt đầu những câu nói ngắn gọn về lý do tại sao cậu trở thành bệnh nhân của anh. Giờ thì tới lượt Yoochun sững người. Hai tròng mắt của anh không như-thể-muốn-rớt-ra-ngoài, nhưng anh lại nhìn xoáy vào Junsu rất khác lạ.

Cũng bình thường thôi mà. Chả là trong một vài giây nằm trên giường phòng mình nhìn ra ngoài, Junsu chợt nghĩ mình muốn phá luôn cửa kính thay vì chỉ mở nó ra. Và cậu làm thật. Cậu dùng tay ra sức đập cho đến khi cửa sổ kính vỡ tan tác, liền mãn nguyện ngủ rất thoải mái. Đến khi tỉnh dậy thì đã thấy bác sĩ kế bên, hai tay băng kín, ống truyền dây nhợ đâm thẳng vào người, và cửa sổ đã được thay mới.

Junsu rất khó chịu với nó, nhưng không ai cho cậu ra khỏi giường.

Giờ thì Junsu đã ở đây, muốn đập cửa sổ kính cũng không được: cửa sổ nhà Yoochun chỉ có khung với tấm màn mà thôi.

Junsu bảo, cậu cảm thấy rất thoải mái.

7.

Việc rating K+ và việc Yoochun không là người tốt bụng, cả hai đều không phải là chuyện cho có hay cho vui.

Park Yoochun, ngay sau khi nghe xong câu chuyện, liền quyết định rằng mình phải làm cậu bé này rên lên. Đó phải là một tiếng rên thật lớn, thật gợi tình, thật đặc biệt, thật hoành tráng!

Vì Park Yoochun quyết định ngay chứ không nghĩ, nên khi Kim Junsu kết thúc câu “thấy rất thoải mái”, cậu nhận được một nụ hôn.

Một nụ hôn nhẹ lên môi.

Junsu không thấy môi mình ấm hay ngọt, cậu thậm chí còn không cảm thấy có “thứ” gì đặt nhẹ lên môi mình. Nhưng tối hôm đó, Junsu đã ngủ rất mãn nguyện - như sau khi đập vỡ được cửa kính vậy.

8.

Sau khi kết thúc mấy tháng điều trị tại nhà Yoochun, chúng ta có thể tổng kết hộ Junsu như sau:

-Lần đầu tiên được hôn môi: ???

-Lần đầu tiên được hôn cổ: Yoochun hỏi “cảm thấy gì không?”, đã trả lời lại bằng chính câu hỏi đó, có chỉnh sửa.

-Lần đầu tiên đi xem phim với Yoochun: chẳng hiểu sao hai người có thể cùng đi ra khỏi nhà với nhau, nhưng Yoochun đã đi trước một tiếng và đứng chờ sẵn.

-Lần đầu tiên bị hành hạ ở những-điểm-nhạy-cảm-gây-cười: đã làm mất hứng Yoochun và nhận được một bài giảng về việc phải phản ứng lại khi bị chạm vào.

-Lần đầu tiên chịu cái lạnh 13 độ từ máy với Yoochun: đã thấy lạnh một chút, và thấy ấm một chút.

Và còn nhiều cái “lần đầu tiên” cũng như “lần thứ n” khác.

Sau đợt điều trị đó thì sao ư?

Mình cũng không biết.

Những hình tròn trong và sau giờ Lượng giác

Summary:

Yoochun rất thích những hình tròn. Cậu sinh vào mùa hè.

1.

Park Yoochun, trong khi đang cặm cụi nghe giảng môn Lý học vô cùng khó nhai, chợt nghĩ mình rất thích những hình tròn.

Đơn giản mà nói thì... Con người đang sống trên một hành tinh hình (hơi) cầu, và hình (hơi) cầu được tạo ra từ những hình (hơi) tròn - trích sách giáo khoa Địa lý. Những tế bào trên cơ thể cũng hình tròn - trích hình ảnh trong sách giáo khoa Sinh học. Những hình tròn được tạo ra từ những gạch thẳng - trích chương Chuyển động Lý học. Và chính những gạch thẳng cũng được tạo ra từ những điểm chấm hình tròn - trích Hình học và não bộ Yoochun.

Tự dưng, Yoochun đâm ra mê mấy thứ hình tròn.

2.

Park Yoochun cũng rất thích vẽ. Chuyện... kiến trúc sư tương lai mà. Nên thay vì ngồi nghe những thứ không thể hiểu nổi (dù có ích cho tương lai) trong giờ Lượng giác, cậu ngồi vẽ những hình tròn.

Một hình tròn lớn này, hai hình tròn nhỏ này, một hình tròn nhỏ nữa này... Thế là được khuôn mặt tròn xoe rồi! Thêm một vòng tròn bự ở dưới, bốn vòng tròn nhỏ ở những chỗ thích hợp...

Park Yoochun có một người tuyết. Dù, cậu sinh vào mùa hè.

3.

Một ngày mùa thu. Yoochun, vì đã quá "phiêu" trước đó, mà đã rớt từ trên bàn học xuống ngay trong lớp.

Chú ý chữ "trước đó" nhé, bởi vì Yoochun đã rớt một cú hoành tráng như thế, bị cả lớp cười hố hố, hình tượng bay mất cũng chỉ vì có một kẻ bỗng dưng từ trên trời rơi xuống.

Không sai đâu! Chắc chắn ông giời đã cho tuyết rơi sớm ở một nơi nào đó, tạo ra một người-tuyết-không-tan và cử hắn tới chỗ Yoochun. Thưởng, vì cậu là một cậu bé ngoan.

Khi tên đó cúi xuống và giới thiệu tên mình cho cả lớp, Park Yoochun liền nghĩ:

"Kim Junsu tròn lẳng..."

4.

Vầng, Kim Junsu tròn lẳng, hắn rất tròn.

Cái đầu tròn tròn, hai mắt tròn tròn, mũi tròn, môi mím tròn tròn. Cười một phát, mấy cái răng cũng tròn. Kim Junsu người tròn, đến bàn tay cũng tròn. Mấy ngón tay từ đó không ngoại lệ, cũng nằm trong số phận tròn xoe.

Kim Junsu tròn lẳng, ngồi ngay trước Park Yoochun và kế bên Lee Hyukjae. Nên, Park Yoochun hận vì mình đã đá Lee Hyukjae ra thay vì đá Lee Donghae đang ngồi cạnh mình.

Vì Kim Junsu ngồi ngay trước Park Yoochun, nên cậu thấy luôn mông Junsu tròn lẳng.

Mẹ kiếp! Park Yoochun quá khoái chữ "tròn lẳng"!

Không những vậy, Kim Junsu còn quay xuống cười với cậu một cái:

"Xin chào. Mình là Kim Junsu. Bạn tên gì?"

Nghe gần như thế, nên Park Yoochun nhận ra ngay rằng giọng Kim Junsu như kẹo bông gòn...

Cũng tròn~

Chưa kể, Kim Junsu sinh vào mùa đông.

5.

Park Yoochun rất hận Lee Junki. Có lẽ, Park Yoochun nên hận tất cả những kẻ họ Lee. Như, lão Lee So Man hiệu phó, Lee Hyukjae ngồi cạnh Kim Junsu kia, Lee Donghae đang ngồi kế bên mình, và gã Lee Junki ba chấm nào đó.

Lee Junki không phải học sinh như cậu, gã là một tay đã có việc làm. Nói trắng ra, Lee Junki là diễn viên, người "đẹp như con gái" và dẫn đầu phong trào đó. Chết tiệt thay, từ ngày có gã, bọn con gái thích tất tần tật các chủng loại dễ thương của con trai.

Vầng, Kim Junsu là người hội tụ tất cả những thứ dễ thương của-con-trai đó. Và Kim Junsu cũng là người đã kéo tất cả bọn con gái lẽ ra phải ở sân bóng rổ CỦA YOOCHUN chuyển qua SÂN ĐÁ BÓNG.

Tất cả là tại tên Lee Junki chết bằm!

6.

Park Yoochun ghét giờ thể dục. Và ghét luôn mấy phút trước giờ thể dục.

Giờ thể dục, cậu toàn vấp phải cái này, đá phải cái nọ. Tất cả cũng chỉ vì Kim Junsu tròn lẳng chạy qua chạy lại, miệng cười toe toét. Còn trước giờ thể dục là giờ thay đồ.

Chỉ vì nó, Park Yoochun biết là Kim Junsu rất gầy. Hắn không có "tròn lẳng" chút nào cả.

Và dù không thân với Kim Junsu như Lee Hyukjae, không đú với Kim Junsu nhiều như cặp DongHyuk đó, không "chăm sóc sắc đẹp" cho Kim Junsu nhiều như Kim Jaejoong ác quỷ lớp bên, không "anh anh em em" ngọt xớt với Kim Junsu nhiều như Jung Yunho lớp trên, và không nói chuyện với Kim Junsu nhiều như bất cứ đứa con gái nào trong lớp thích hắn... Park Yoochun vẫn kéo áo Kim Junsu để hắn xuống căn tin với cậu, cùng ăn cơm.

Park Yoochun cũng đã - ngốc nghếch thay - hùng hổ nói:

"Gọi tất cả những gì cậu thích. Tôi trả!"

Không đợi Kim Junsu từ chối, cậu bồi thêm: "Nhà tôi là đại gia giàu top 5 thành phố đó. Cậu sợ gì chứ? Gọi lẹ đi!"

Đáng tiếc cho Yoochunnie, đây không phải là fanfic DBSK theo dàn nhân vật truyền thống, nên cậu cũng chỉ là một học sinh cấp 3 bình thường mà thôi.

Park Yoochun, sau đó, đã phải la toáng lên: "KIM JUNSU! Cậu ăn như vậy từ nhỏ mà không mập lên tí nào à???"

Park Yoochun, cậu đã quên rằng Kim Junsu là bạn ăn hàng của Shim Changmin không đáy, và có một nhân viên chăm sóc sắc đẹp miễn phí là Kim Jaejoong ác quỷ lớp bên sao?

7.

Park Yoochun đã quên thật đấy! Cậu chẳng hề nghĩ đến luôn!

Nên hôm sau đó, Park Yoochun chính thức trở thành quái vật của trường vì đã đạp bàn đạp ghế, nằng nặc đuổi theo Kim Junsu và đòi hắn uống thuốc sổ lãi mà cậu mua.

Sau, Park Yoochun chôn vùi mình trong toilet nam, nơi không được sạch sẽ lắm, tự kiểm lại chính mình.

Kim Junsu à, cậu đã quá khờ khi hỏi Park Yoochun rằng cậu ấy làm vậy sẽ được lợi lộc gì rồi đấy!

8.

Park Yoochun rất muốn mình không thích những hình tròn. Nhưng đúng lúc cậu hạ quyết tâm là mình sẽ làm lơ cái người tròn lẳng kia, thì người đó từ từ lăn vào.

Vâng, lăn vào.

Kim Junsu đạp cửa phòng nhà vệ sinh, giữa tiết Công Dân đáng chán, nói vang cả phòng:

"Này! Hyukie với Haehae nói cậu thích tôi!"

Chết tiệt! Park Yoochun khóc chèm nhẹp cả mặt rồi.

"Này! Có đúng vậy không hả?" Junsu lại đạp cửa phòng

Yoochunnie là cậu bé ngoan mà... Sao Kim Junsu lại bắt nạt Yoochunnie như vậy chứ?

"Này... Tôi ngốc lắm hả...?"

"Cậu thích tôi như vậy, cả DongHyuk bằng nhắng cũng nhận ra, cả Jaejae cũng nói thế, Yunho hyung cũng gật đầu, đến Changminnie mà cũng vừa ăn vừa ừ..."

"Tôi ngốc lắm đúng không...?"

Đấy! Kim Junsu đã lăn vào lòng Park Yoochun như thế!

 Vợ và con gái

Summary:

Tạp chí Pati Pati tháng 8 năm 2009, Jaejoong và Yunho làm fans couple này điên lên vì cả hai đều muốn hai con gái và một con trai, Changmin làm mọi người cười điên dại vì chỉ muốn con trai, Junsu lại muốn có hai con trai và một con gái. Yoochun bảo, anh muốn gia đình có một vợ và ít con, con gái thì tốt.

1.

Jaejoong đôi khi chẳng có chút tình cảm hay lòng nhân ái. Là người trả lời phỏng vấn sau cùng và sau Yoochun, anh không thể ngăn hai khoé môi mình nhếch lên mãi. Phóng viên cứ thế vui mừng, tưởng chừng gây được điều thú vị gì đó với người được phỏng vấn là anh. Có hả? Có sao? Có mà...

Nhắc lại, Jaejoong nhiều lúc chẳng có chút tình cảm hay lòng nhân ái gì với members của anh, hay ít ra là với người “bạn tâm hồn”. Chỉ là... hôm nay có một cuộc phỏng vấn cho tạp chí Pati Pati, chủ đề là gia đình tương lai.

Junsu đầu tiên, cậu nhóc bảo rằng mình muốn có hai con trai và một con gái. Và nhiều thứ nữa về việc phát triển năng khiếu của “con em”. Không đợi Junsu nói hết, thằng nhóc Changmin xuýt nữa làm hỏng bàn vì cười quá nhiều khi tưởng tượng ra hình ảnh “ông bố Kim Junsu”.

Yunho là người tiếp theo, anh nói rằng mình muốn có hai con gái và một con trai. Dù không nói thứ tự trai gái, nhưng Jaejoong để ý điều này. Chuyện... Yunho và anh là official couple của TVfXQ mà. Quả thật rất giống nhau về tư tưởng.

Thằng nhóc Changmin sau một hồi cười (thiếu) ý nhị thì nói vài câu không thể vô duyên hơn, rằng muốn có hai con trai vì con gái rồi sẽ đi mất hết. Không hề nể nang fanclub của TVfXQ tới 97% là con gái, nó làm cả lũ cười rũ rượi. Dù vậy, ai cũng biết rằng nó sợ bị những mảnh máu của mình bỏ rơi thôi.

Tới lượt Yoochun, cậu ấy bảo rằng mình muốn có gia đình một vợ và ít con, con gái là tốt nhất, hai con là quá đát. Đơn giản vì cậu ấy muốn dành thời gian chăm sóc cho vợ mình.

Jaejoong là người cuối cùng, anh cứ tủm tỉm cười vì những lời Yoochun nói. Anh biết, “muốn chăm sóc cho vợ” chỉ là lý do sơ đẳng nhất mà tên bạn thân này của anh có thể nghĩ ra.

2.

Xin khẳng định lại lần thứ ba, Kim Jaejoong thật sự rất nhẫn tâm với members của anh, đặc biệt là soulmate Park Yoochun.

Nên, khi cuộc phỏng vấn đã kết thúc, anh liền bệ vệ đến bên người bạn nhỏ của mình, thì thầm riêng tư với cậu ấy:

“Này, sao lại bảo mình muốn có gia-đình với một vợ và hai con gái thế kia?”

Nhấn mạnh hai chữ gia-đình, nói xong liền bỏ đi.

Người bạn nhỏ giật mình, tự dưng nhớ rằng mình đã từng nói không muốn lập gia đình.

Suốt ngày hôm đó, Park Yoochun vừa làm vừa đưa tâm hồn lên mây, tìm lý do tại sao mình lại muốn có một gia đình.

3.

Kim Jaejoong rất biết nịnh người khác. Chỉ bằng vài chiêu đánh trúng tâm lý members, đã ngay lập tức dụ được hai chiến sĩ cao kều làm điều mà anh muốn.

Yunho thì dễ thôi. Chỉ cần thủ thỉ thù thì với cậu ấy, tên leader-ssi thương em đến nhiều chuyện này liền chạy lại chỗ Yoochun, tung tảy qua lại mà rằng: “Dữ nha... Gia đình tương lai không cần con cái ở bên nha... Chỉ cần vợ thôi đó nha...”

Chọc quê xong thì sung sướng bỏ đi, tới chỗ khuất không do dự mà đập tay gã ác quỷ Kim Jaejoong một cái chiến thắng.

Changmin thì khó hơn một chút. Nhưng nhóc này được cái thương anh, không những vậy về trình độ nhiều chuyện thì hoàn toàn không hề như ở trên mấy show truyền hình. Một vụ thú vị và bữa ăn khuya ngon lành cộp nhãn Kim Jaejoong, miệng lưỡi Shim Changmin phát huy ngay: “Mèn ơi... Cái người thích con gái yêu con trai kìa... Mèn ơi...”

Cứ thế mà “Mèn ơi” cho tới khi chắc rằng Yoochun không thể nghe được nữa, cười khẩy một cái thật đểu, chẳng hổ danh ác quỷ con do Kim Jaejoong nấu cơm cho ăn mà thành.

Thế đấy,

bạn chuột nhỏ ngơ ngác.

4.

Park Yoochun cứ định là mình sẽ ngơ ngác đến khi quên luôn cuộc phỏng vấn này cơ. Vì thật tình là với bao nhiêu đấy cái gợi ý của mấy tên ác quỷ được đại ca ác quỷ Kim Jaejoong vỗ béo kia, tài thánh Yoochun cũng không thể hiểu nỗi tại sao tự dưng giờ mình lại muốn có gia đình.

Cho nên khi đang ngồi giải lao, Yoochun liền nghĩ tới ý định từ bỏ lý do đó và xem như đó là một chuyện nhỏ nhặt. Có điều sự việc lại không đơn giản như thế. Vì...

Kim Junsu giá đáo.

Kim Junsu giá đáo, có nghe không hả????

“KIM JUNSU GIÁ ĐÁO~~~~~~~~~~~~~~~~~~~!!!!!!!!!!!!!!”

Ờm... Không phải trời sập đâu, bạn chuột nhỏ. Là Kim-Junsu-giá-đáo vừa hét vào tai bạn thôi mà... Cho nên bạn không cần phải làm cái tướng như kiểu thiếu nữ sắp bị “ấy” như vậy...

“Gì hả?” - bạn chuột nhỏ cộc lốc

“Nói nghe đi nói nghe đi...” - vồn vã như mọi khi

“Nói nghe cái gì?” - bạn chuột nhỏ tiếp tục cộc lốc

“Thì vụ hai gái một vợ đó... Ngốc gì mà ngốc dữ vậy?”

“Sao ngốc?”

“Thì nếu có thích con gái tới mức đó cũng phải được như thằng Min, sanh một con trai thôi rồi chờ nó lớn lên dắt bạn gái về nhà. Vừa đỡ tốn con vừa có con gái vừa có thời gian chăm sóc vợ. Đúng không?”

“Khùng quá đi!”

Bạn chuột nhỏ tức tối, chẳng thèm nhìn mặt Kim-Junsu-giá-đáo, lúc về tới nhà cũng chỉ ru rú trong phòng, nghe tiếng răng kèn kẹt và tiếng cười đáng sợ của đại ác quỷ Kim Jaejoong.

Này Kim Jaejoong kia, có khi nào khi chết rồi anh sẽ xuống đó tranh chức Diêm Vương không?

5.

Dù nói như vậy thật, nhưng mọi chuyện cũng không hẳn là tại Diêm-Vương-kế-nhiệm Kim Jaejoong.

Là tại Kim-Junsu-giá-đáo hết!

Tất cả là tại Kim-Junsu-giá-đáo! Park Yoochun có tỉnh rụi trong toàn bộ bài phỏng vấn tháng 8 của Peti Peti là tại Kim-Junsu-giá-đáo, có bảo rằng mình thích có gia-đình một vợ hai con gái cũng là tại Kim-Junsu-giá-đáo, bị hai con ác quỷ và một tên Diêm-Vương-kế-nhiệm chọc quê, làm rối bời hết đầu óc suốt 2 tháng ròng cũng là tại Kim-Junsu-giá-đáo. Giờ, phải nằm tự kỷ trên sofa, dán mắt vô đám phim rùng rợn trong ngày Halloween thế này cũng tại Kim-Junsu-giá-đáo!

Ai lại thu gom tất tần tật phim ma có thể để tích trữ trong nhà mà không xem, không những vậy còn giấu hết mấy cái phim bình thường kia đi như thế này chứ???

Đáng ghét! Đáng ghét! Lại còn đi chơi với thằng nhóc Hyukjae nữa! Đáng ghét tột cùng!

Giờ là 12 giờ rồi đó! Đáng ghét!

Sao thằng nhóc Changmin không xuống ăn khuya cùng vậy? Đáng ghét!

Hai tên ác quỷ kia ở đâu rồi chứ? Đáng ghét...

Toàn phim ma không hà... Đáng ghét...

...

......

Ừ thì...

Park Yoochun thích con gái lắm lắm.

Con gái thơm nè, béo béo tí thì dễ thương, nhìn là muốn ôm, gầy gầy chút cũng được, xương xương nhìn thương lắm. Con gái tóc dài trông vừa đẹp vừa hiền, tóc ngắn thì cá tính thu hút. Con gái không quá mạnh mẽ nhưng cũng không quá yếu đuối, vừa đủ để muốn bảo vệ và lắng nghe lẫn nhau. Con gái có nhiều thứ con trai không có, nên Park Yoochun rất thích con gái, đúng như lời Jung Yunho nói đó.

Nhưng... Shim Changmin cũng đã nói gì nhỉ? Rằng yêu con trai? Có sao? Có hả? Có ư? Con trai không thơm mùi của con gái, béo thì không dễ thương như con gái, gầy nhìn không xót như con gái. Tóc dài thì hơi dị hợm, tóc ngắn thì quá bình thường. Yếu đuối không bằng con gái, mạnh mẽ thì thừa hơn con gái. Chẳng có gì gọi là hợp cả.

Có điều rõ ràng là Park Yoochun hoàn toàn không muốn dùng từ “yêu” dành cho con gái. Còn cụm từ “yêu con trai” thì có đó, chỉ thêm dấu chấm hỏi thôi.

Yêu con trai? Có sao? Có hả? Có ư? Có mà...

Đấy, nó như vậy đấy.

Park Yoochun lại ngẩn ngơ, dù không được lâu lắm.

Kim Junsu giá đáo.

Kim Junsu lại giá đáo rồi, có nghe không hả???

“KIM JUNSU GIÁ ĐÁO NỮA NÈ~~~~~~~~~~~!!!!!!!!!!!!!!!!!”

Tự dưng, Park Yoochun cười tít mắt.

Kim-Junsu-giá-đáo không phải là con gái. Cũng không phải vì Kim-Junsu-giá-đáo thơm, hay béo, hay gầy, hay tóc dài, hay tóc ngắn, hay yếu đuối, hay mạnh mẽ... mà Park Yoochun luôn thấy vui khi ở bên cậu ấy như vậy.

Bạn chuột nhỏ giờ đã hiểu tại sao mình lại muốn có một gia đình, một vợ và hai con gái.

Bạn nào chưa hiểu thì... vì Park Yoochun thích con gái.

Và yêu con trai.

Này, chuyện gì thật buồn

Summary:

Tôi không có chuyện buồn để kể cậu nghe.

Tôi không có chuyện buồn để kể cậu khóc.

Cậu có chuyện buồn để kể tôi?

1.

Cả một thời gian dài, Junsu cứ chạy khắp nơi, tìm những người mà cậu quen với cây bút và quyển sổ trên tay, bảo họ hãy kể những câu chuyện buồn cho cậu.

Cậu đến hỏi Jaejoong, Jaejoong bảo rằng chuyện buồn duy nhất mà anh có là việc anh vừa gãy móng tay.

Cậu hỏi Yunho, anh lại nói rằng Typhoon của anh không chịu ăn uống gì cả, làm anh rầu thúi ruột.

Thằng nhóc Changmin thì thảy cho cậu cuộn Titanic cũ xì đã được cả đám coi đi coi lại không dưới trăm lần.

Junsu ngồi coi Titanic tới tối, tự dưng chẳng thấy buồn chút nào.

2.

Junsu không thân với Heechul lắm, nhưng vẫn mò lại ông anh này và hỏi về chuyện buồn. Đáng lẽ là cậu sẽ không hỏi Heechul đâu nếu không có chuyện tự dưng chỉ có một mình Heechul ở nhà 13.

Heechul cấu má Junsu (hành động mà anh gọi là nựng), bảo rằng chuyện buồn thảm thiết nhất là bản mặt ngơ ngác của cậu chẳng thể làm ai nghĩ tới chuyện buồn hơn nữa.

Heechul nói như vậy, thật tình Junsu không biết phải hiểu theo nghĩa nào.

Sau đó, Donghae và Hyukjae về tới nhà, Junsu cũng hỏi hai người đó về chuyện buồn. Donghae bảo cậu vừa mới gặp một chuyện rất thương tâm rằng Hyukjae không cho cậu ăn chung cây kem. Hyukjae thì bảo Junsu nên về nhà mình và mượn Jaejoong hyung cái gương.

Junsu chưa kịp nghĩ tiếp thì Sungmin xuất hiện, anh đang hớn ha hớn hở bước vào nhà, tự dưng xìu đi trông thấy và chạy thẳng vào giường mình.

Rất vui mừng, Junsu tí tởn đến chỗ Sungmin vì nghĩ rằng anh có chuyện buồn gì đó.

Hyung ấy lại chỉ vào Junsu.

3.

Về đến nhà mình, Junsu lại hỏi Jaejoong xem có chuyện gì mọi người đều nhớ mà cậu lại quên không.

Jaejoong vặn ngược lại, hỏi như vậy ý là sao?

Yunho trả lời giùm, có lẽ có mà cũng có lẽ không.

Changmin nhai khoai tây chiên rôm rốp, định bảo là Junsu quên giành ăn với cậu đã ba bốn tháng nay rồi, nhưng sau cậu thấy nói như vậy rất ngu ngốc. Nuốt hết khoai tây chiên, cậu bảo Junsu thật ra không phải đã quên. Xong, lại thảy cho Junsu cuộn băng Titanic chạy bằng đầu video.

Cái đầu video mà cả Jaejoong lẫn Yoochun đều tiếc của không muốn bỏ đi.

Cái đầu video chỉ dùng để coi Titanic.

4.

Junsu không biết “chuyện buồn” mà mình mong đợi là gì.

Cậu tiếp tục tua đi tua lại cuộn băng Titanic đến mức nếu có Jaejoong ở đây, anh hẳn sẽ cằn nhằn Junsu rằng cậu đang phá hỏng con cưng của anh đấy.

Đây là cái đầu video mà Jaejoong đã cực kỳ tiếc của giữ lại từ thuở hồng hoang cơ mà...

Junsu xem đi xem lại Titanic, khâm phục mình rằng dạo này xem chẳng thấy buồn.

Cậu ngồi một mình trước màn hình tivi, chẳng có ai tranh giành - ngay cả nhóc Changmin và Yunho hyung trong khung giờ chiếu siêu nhân Gao như thế này.

Này Jack,

anh liệu có chuyện buồn để kể cho tôi nghe?

Này Rose,

cô cũng có chuyện buồn chứ?

Jack và Rose cùng khung cảnh lãng mạn kinh điển trên Titanic.

Nghệ thuật ở chỗ giữa phim hạnh phúc để cuối phim khóc ròng.

5.

Tờ mờ sáng, Junsu ôm đầu video lên phòng mình, cậu gần như ngủ cùng nó trên giường.

Cậu nhớ, cuộn video không phải chỉ do mình Jaejoong tiếc của giữ lại...

6.

Bốn tháng từ sau đám tang Yoochun.

Junsu liên tục đòi kể chuyện buồn.

Cậu không khóc.

Su và Gồ - Cuộc vật lộn vật vã

Summary:

Một cuộc chiến đâu không khoan nhượng của TVfXQ’s Kim Xiah Junsu aka Su và Google aka Gồ: Ai sẽ là người chiến thắng đây?

1.

Xiah Junsu tự thấy là mình rất rảnh rỗi trong ba ngày nghỉ ngơi hiếm có này của TVfXQ. Vì vậy cậu vớ cái laptop của mình, lên trang Google.com và làm một khảo sát nhỏ.

Đầu tiên, cậu bấm lạch cạch bằng tiếng latin: Xiah Junsu.

Chỉ sau không phẩy mười một giây, màn hình ngay lập tức hiện mấy bức hình cực-kỳ-dễ-thương của cậu. Nhưng vì mục đích vĩ đại của Xiah Junsu lần này, nên cậu cảm thấy mấy bức hình đó thiệt tình là rất đáng ghét luôn.

Mà cậu cũng hoàn toàn không hiểu tại sao kết quả đầu tiên trên tổng số 592 000 kết quả mà Google tìm được lại là “Xiah Junsu (người đáng iu nhất TVXQ)” nữa.

Thật là nóng máu mà...

Xiah Junsu nhấp chuột vào kết quả thứ hai, trang Wikipedia về cậu, cũng không có gì nhiều lắm ngoài những thứ có thể tìm thấy ở bất cứ đâu, thế là cậu lại click back về trang Google. Bỏ qua luôn mấy fansite đông nghẹt của cậu ở những kết quả dưới, cậu click vào phần hình ảnh. Có 90 600 kết quả cho mục này.

Trang đầu tiên: toàn cute là cute

Trang thứ hai: vẫn cute là cute

Tiếp theo nữa: cute tràn ngập

Tiếp theo của tiếp theo nữa: lại một rừng cute bay lượn

Đáng ghét!

Xiah Junsu mà không phải là Xiah Junsu thì cái máy tính này đã đi tong rồi!

Người ta là Cool Junsu!

Cool Junsu nghe chưa???

2.

Sau hai ly nước lọc hạ hoả, Xiah Junsu trở về với trang Google. À không... với bao nhiêu đấy kết quả mà cậu tìm được, Xiah Junsu nên gọi đó là trang Gồ.

Xiah Junsu tìm từng thành viên một trong TVfXQ của mình. Bắt đầu bằng người anh trưởng, Hero Jaejoong.

Chỉ 410 000 kết quả, Xiah Junsu liền đưa tay lên làm dấu hiệu victory và cười thắng lợi với cái biểu tượng Google. Tuy vậy, chưa kịp hưởng thụ niềm vui chiến thắng bao lâu thì cậu đã phải cụp đôi mắt vốn không to mấy xuống:

Kết quả đầu tiên tìm được: Ảnh của Hero Jaejoong (DBSG)

Kết quả thứ hai: Hero Jaejoong người có khuôn mặt đẹp nhất châu Á

Cậu nhấn qua phần hình ảnh, 83 300 kết quả. Hình đầu tiên: flower boy, hình thứ hai ngay lập tức: cool/play(?)boy, hình thứ ba: charisma đầy mình, hình thứ tư: nhân danh hội fangirls bôi bác idols~ amen...

Chỉ bằng bốn kết quả hình ảnh đầu tiên, cái sự rất bựa của người anh cả này đã được thể hiện gần như đầy đủ.

Xiah Junsu tắt trang Gồ, quay trở lại chơi flash game. Cậu bật Metal Slug dòng 2D, và lại bắt đầu cuộc hành trình quen thuộc.

Thở dài, tự dưng hết hứng chơi Warcraft...

3.

Cậu chơi Metal Slug, chọn nhân vật quen thuộc rồi, qua tới màn mấy con xác ướp lết lết chạy lại rồi, nhân vật của cậu cũng biến thành xác ướp mà khạc máu me ra tùm lum rồi, bạn bè gì cũng cứu được rồi... Nên giờ cậu lại quay về với Gồ.

Trước giờ ăn cơm, cậu ngồi mò mẫm đánh: U-know Yunho.

548 000 kết quả, vẫn thua cậu xa. Cậu lại chuẩn bị nhảy múa mừng thắng lợi, nhưng rồi ứ hự ngay lập tức.

Mấy trang web thì không có gì đặc biệt, nhưng 105 000 kết quả hình ảnh lại khác. [ à mà... lại nhiều hơn cả Xiah Junsu và Hero Jaejoong cơ đấy~ ]

Charisma rất nhiều, ra vẻ ngầu rất nhiều. Nhưng sao ngay trang đầu tiên lại có cái tấm hun hít mi mít thế kia?

Lại có cả hình nhóc Seunghyun nữa à? Có cả hình Hero Jaejoong hyung nữa này! Hèn gì kết quả ra nhiều kết quả thế * phẩy tay phẩy tay *...

Cơ mà, Xiah Junsu dán chặt mắt vào tấm hình 509x596 pixels, 108 KB trước mắt mình. Thiệt là căm thù... sao ai cũng mi mà U-know Yunho hyung lại được đặc cách cho nguyên tấm như thế??? Thậm chí nó còn không phải là mi chính thức~!

Xiah Junsu nhăn nhó mặt mày, thiếu điều muốn đập luôn cái màn hình laptop. Hên cho cậu là Micky Yoochun đang đứng ngay sau lưng, khều khều cậu bảo xuống ăn cơm.

Xiah Junsu thấy cái mặt tếu-bà-cố của Micky Yoochun [ hay nói cách khác là cái trán quyến rũ của anh ấy ], liền cười ngu và tròn mắt, tung tăng chạy xuống.

Micky Yoochun biết là mình thật không phải khi “xâm phạm đời tư” người khác thế này, anh nhìn vào màn hình vi tính của Xiah Junsu, thấy tấm hình hun hít của fan nào đó làm cho U-know Yunho. Nhớ lại hình ảnh Xiah Junsu nhăn nhó mặt mày, tức tối khắp người ban nãy... lắc đầu, xìu mình đi xuống.

4.

Xiah Junsu ăn cơm xong, uống nước cũng rồi, lại nhảy tót lên phòng mà bấm bấm.

Cậu tìm: Micky Yoochun.

202 000 kết quả cho mục web, 123 000 kết quả cho mục hình ảnh. Mà hình của tên này cũng đủ mọi kiểu và thể loại: hình cool với piano này, hình ngầu, hình cute boy, hình khả ố, hình bà thím...

Xiah Junsu vô cùng chán nản, có cả hình với bạn gái cũ này!

Cậu bấm vào hình đó dù thật ra đã coi đi coi lại nhiều lần rồi. Ngó cô bạn gái cũ và cái mặt hớn đời non choẹt của Micky Yoochun, xong cười há há há, hố hố hố và click back.

Tự dưng sực nhớ, tìm lại: Xiah Junsu và Micky Yoochun.

Thật đúng là... Gồ vẫn hoàn Gồ! Sao toàn ra tin gì đâu vậy trời * khóc *...

Cơ mà... cái này...

Xiah Junsu.. Tôi có phải là gay không??..

Xin chào mọi người.. Junsu lớn hơn tôi một tuổi, nhưng mỗi lần nhìn thấy anh ấy tôi thực muốn khóc..

Tôi muốn đánh anh ấy bất tỉnh sau đó trói anh ấy lại.

Àh không làm gì đâu.. chỉ muốn ôm anh ấy thôi..

Tôi không phải háo sắc.. nhưng mỗi lần nhìn thấy mông của Junsu.. thì tôi tự dưng cảm thấy kỳ lạ..

Tôi phải làm sao đây.. làm sao đây..

Àh điều nữa, có thật anh ấy đang hẹn hò với Micky Yoochun không?

Xin hãy trả lời tôi..

Xiah Junsu đơ người.

Cậu lơ lửng như hồn ma, tay chân mềm oặt, tiến thẳng tới cái giường êm ái của mình.

Cậu nằm đó, và mở mắt thao láo, mấy dòng chữ cứ thế mà nã thẳng vào bộ não nhỏ bé của cậu.

Tui muốn đánh ảnh bất tỉnh rồi trói lại mà ôm...

Tui thấy thiệt kỳ lạ lắm khi nhìn thấy mông ảnh...

Có thiệt là ảnh đang hẹn hò với Micky Yoochun không????

Xiah Junsu biết mình với Micky Yoochun là một couple chứ. Nhưng mà có thiệt là cậu đang hẹn hò với Micky Yoochun không?

...

Nằm mở mắt được nửa tiếng, mỏi quá liền nhắm lại và ngủ một mạch.

5.

Micky Yoochun, với vô vàn thiện ý, theo thói quen mở cửa phòng của Xiah Junsu và Max Changmin mà không hề gõ cửa.

Mở ra rồi thì mới thấy Xiah Junsu đã ngủ từ thuở nào. Cũng với vô vàn thiện ý, anh lại gần laptop cá nhân của Xiah Junsu, định rằng là sẽ tắt giùm cậu.

Tự dưng khi không đâu đập vào mắt...

Xiah Junsu.. Tôi có phải là gay không??..

Thiệt tình muốn oánh cho tên này một phát.

Cái gì mà trói người ta lại rồi ôm? Cái gì mà cảm giác kỳ lạ khi thấy mông?

Ừ đấy! Xiah Junsu đang hẹn hò với Micky Yoochun đấy!

Thật đáng ghét~!

Micky Yoochun tắt máy, hậm hực đi ra.

Thật tình là Micky Yoochun chỉ nên có nhiệm vụ vào bảo Xiah Junsu xuống xem siêu nhân Gao chung với anh và Max Changmin thôi...

6.

Max Changmin bước lên phòng mình (và Xiah Junsu), thấy rằng Xiah Junsu đã ngủ từ thuở nào.

Vớ lấy cuốn truyện tranh và vẫn nhai khoai tây chiên rôm rốp, cậu nhún vai. Thôi thì người ta lo tìm trong giấc mơ xem Xiah Junsu và Micky Yoochun có thật là đang hẹn hò với nhau không, nên người ta có không thèm search mình trên Gồ cũng kệ vậy...

Này Max Changmin, số lượng kết quả hình ảnh của cậu là cao nhất đấy!

7. (extra)

Khoảng tầm 4 giờ sáng, Xiah Junsu giật mình thức giấc.

Cái giường đơn lại bị tên chung phòng với Hero Jaejoong hyung chiếm dụng hết phân nửa.

Nhích nhích người, yên phận ngủ tiếp~

Micky Yoochun, anh thắng rồi...

Fan. Fantastic.

Summary:

Rốt cuộc thì chúng ta là những kẻ ngốc khờ khạo nhất trên đời.

1.

Jaejoong tự dưng thích nhạc kịch kinh khủng. Là bạn tâm giao của hắn ta, Yoochun không còn cách nào khác trở thành người đầu tiên bị rủ rê. Không cần phải đến tận nơi, Yoochun có nhắm mắt bịt tai cũng biết Jaejoong nghe nhạc kịch thì ít mà đến ngắm người là nhiều thôi...

Cụ tỉ là, cái gã mà Jaejoong hâm mộ bỗng dưng ngừng hát mấy bài pop ballad, nghỉ hét mấy bài rock punk và chuyển qua hát nhạc kịch. Đơn giản là vậy.

Jaejoong mua được một đôi vé khá xa, và đây không phải là concert để nhìn qua màn hình, nên hắn ta đem theo một chiếc ống nhòm.

Một chiếc duy nhất luôn!

2.

Khi bước tới bên ngoài nhà hát Yoochun mới biết là mình bị kéo đi nghe nhạc kịch Mozart. Thiệt tình là muốn đánh tên bạn thân của mình hết sức.

Yoochun không thích Mozart, không một chút nào luôn. Shubert, Chaikovsky, Chopin... Bất kỳ ai miễn là không phải Mozart! Gustav Holst, Antonin Dvorak, Camille Saens... Ai cũng được đừng là Mozart! Thà là Beethoven người đã từng chịu ảnh hưởng lớn của Mozart còn hơn là Mozart!

Là một người nghe nhạc, Yoochun không và chưa từng động tới bài nào của Mozart ngoại trừ Requiem.

Từ sau bài đó, Yoochun không bao giờ động tới Mozart nữa.

Nay, bỗng dưng lại có oan gia đưa anh đến nơi này.

3.

Jaejoong thiếu điều muốn hét lên “Mozart! Mozart!” khoảng chục lần khi gã thần tượng của hắn bước ra. May cho hắn là Yoochun đang ở kế bên và đều đều nhắc đi nhắc lại: đây không phải concert, không phải concert đâu...

Khi gã thần tượng cất tiếng hát đầu tiên, khán đài im phăng phắc.

Giọng của gã đập đi đập lại trên mái vòm nhà hát, rồi từ sân khấu và mái vòm đó chạy thẳng vào bộ não Yoochun làm anh thiếu điều muốn chạy khỏi chỗ ngồi và ra ngoài.

Yoochun không thể thấy người đang hát với đôi mắt vốn cận và khoảng cách xa như vậy, nhưng anh rõ ràng không thích người này.

4.

Chịu trận được tới bài hát thứ ba của gã đó thì anh chạy thật, và Jaejoong lúc đó cũng không còn tâm trí đâu mà cản anh lại nữa - hắn ta đang mải mê dán mắt lên sân khấu.

Khi ra đến ngoài, anh ngay lập tức lấp đầy tai mình bằng chiếc mini-disc cũ xì. Một bản piano lộn xộn.

Anh cứ đứng đó nghe tiếng piano lặp đi lặp lại cho đến khi những con người dần dần ra khỏi nhà hát. Kim Jaejoong thơ thẩn bước ra như vừa bị thôi miên, chẳng thèm để ý mình đã đi cùng người nào đến mà cứ thế một mình về nhà trên chiếc xe của Yoochun.

Anh, đến lúc đó, mới nhận ra rằng chìa khoá xe của mình đã đưa Jaejoong giữ, thế là tí nữa phải đi xe buýt về rồi...

Yoochun theo bản năng quay vào trong, lại theo bản năng đứng tần ngần nơi góc khuất.

Đằng sau đang chuẩn bị có tiệc chiêu đãi cho buổi công diễn đầu tiên, cách đây mấy phút ở đây còn là một thế giới hiện hữu thì bây giờ chỉ còn sân khấu trống trơn cùng những hàng ghế. Yoochun cứ như vậy mà đứng đó, hít ngửi mùi của nhà hát.

Cho đến khi một tiếng hát vang lên.

5.

Đó là một giọng hát khàn, cao và có lực. Khác hẳn với giọng gã Mozart vừa rồi.

Yoochun nhận ra đó là một bài hát tiếng Anh, nhưng anh không biết nó nằm trong vở nhạc kịch nào - anh chưa từng nghe qua nó.

Anh mỉm cười, nhận thấy người này thật tình không thể phát âm được Anh ngữ rõ ràng. Và anh men theo lối khuất, đến gần hơn với sân khấu.

Người đó đang đứng giữa sân khấu, một mình, vẫn chưa nhận ra rằng Yoochun đang tiến sát tới.

Trước khi kịp nhìn rõ được gương mặt của người đang hát bằng đôi mắt kèm nhem của mình, Yoochun quyết định mình sẽ trở thành fan của người đó.

Đó là khi nước mắt anh bỗng dưng rơi.

Người đó đang hát một bài anh sáng tác.

6.

Ba giây sau khi Yoochun khóc, Kim Junsu nhận ra rằng mình không phải là chỉ có một mình. Cậu nhìn xuống nơi phát ra tiếng động và thấy Yoochun. Mặt Junsu ngay lập tức hoá đỏ, cậu chạy ngay xuống sân khấu nhưng vừa bước xuống thì thấy ở đây Yoochun càng nhìn cậu được rõ hơn hết. Chân đã đông cứng nhưng vẫn cứ thế mà bước tiếp, không hề có cảm giác.

Thật khốn khổ cho Junsu, một nhân viên nhà hát vào và báo cho cả hai biết rằng nơi này chuẩn bị đóng cửa. Park Yoochun cứ thế mà hoàn hồn, không nhìn chăm chăm vào Junsu nữa mà bước nhanh theo cậu.

Nhưng cũng rất may cho Junsu: đây là địa bàn của cậu. Rất nhanh lẹ, cậu cắt đuôi đối phương bằng những con hẻm vòng vèo và khiến Yoochun thở dài thất vọng.

Anh đi bộ về nhà.

7.

Park Yoochun nghĩ rằng mình có đủ tỉnh táo để về đúng ngôi nhà của mình, nhưng chẳng hiểu sao cửa lại mở và Kim Jaejoong đang gác chân lên cái bàn ngọc thạch nguyên chất, cầm ly rượu (có đá) đặt lên bụng, làm ướt hết cả cái áo thời trang.

“Này Kim Jaejoong.” Park Yoochun gọi, đá nhẹ vài phát và nhận được cái bĩu môi nhăn mặt, hành vi rõ là đang dỗi hờn. Đứng hình vài giây: kiểu này là kiểu gì đây? Nũng nịu với người yêu à?

“Kim Jaejoong!”

“Cái gì chứ?” ngay lập tức đáp lại

“Cậu bị làm sao thế?”

Như tiêm đúng mạch, Kim Jaejoong cứ thế khóc như mưa, hành động đúng như đang ăn vạ, cứ thế mà kể lể với ngôn ngữ mà loài người không thể hiểu được.

“Được rồi Kim Jaejoong, nói với tôi bằng tiếng người xem nào...”

Kim Jaejoong cứ thế mà đánh, rốt cuộc cũng tìm lại được ngôn ngữ của loài mình. Hoá ra là hôm nay tận mắt thấy thần tượng ôm hôn người khác, đè lên giường mà trêu ghẹo, tự thân thấy được là người ta rất xa, không thể chạm vào... Uất ức quá mà khóc ra tiếng động vật.

Park Yoochun liền nói, ừ cậu đúng đó Jaejoong, cậu là fan của người ta, luôn luôn nhìn người ta trong khi ánh mắt của người ta không bao giờ hướng về phía cậu. Fans chúng ta là như thế đó... 

8.

Park Yoochun kết thúc bản piano một cách hoàn hảo, đứng dậy và cúi chào toàn thể khán giả, trong chốc lát đã tưởng rằng mình quên mất một gương mặt.

Đứng ở nơi khuất nhất có thể, cái người hôm trước anh gặp ở nhà hát đang nhìn anh. Yoochun liền lập tức quên hết cả sĩ diện của người đàn anh về thăm trường, nhảy chồm đến chỗ của người đó.

Trong khi chạy trốn lần thứ hai, Kim Junsu nghĩ rằng Park Yoochun đã ra khỏi trường lâu rồi, chắc gì đã nhớ hết những thứ vốn-chưa-bao-giờ-thay-đổi ở đây. Nên cứ thế mà nghĩ lần này cũng như lần trước, cậu đang ở địa bàn của mình.

Rất tiếc cho Kim Junsu, Park Yoochun đã nắm được cổ tay cậu khi cậu đang cố chạy vào con hẻm cạnh trường. Đó là một con hẻm không rộng mấy, không những vậy còn bị ngáng hết phân nửa dành cho việc buôn bán cá kiểng, làm cho đa số những người đi ngang qua hoàn toàn không nhận ra đây là đường vào hẻm nữa.

Ngoài ra, đây còn là địa điểm yêu thích của Park Yoochun.

Kim Junsu cứ thế đứng ngay trước hẻm đó mà vùng vẫy hòng dứt tay mình ra. Nhưng cậu chẳng thể nào khiến mình bớt gây chú ý hơn mấy con cá bảy màu được.

(Lại) rất may cho Kim Junsu, Park Yoochun trượt tay anh xuống bàn tay của cậu, và tay cả hai đã quá trơn để có thể nắm lấy nhau lâu.

Kim Junsu vụt chạy. Nhắm thẳng về khu nhà trọ của mình trong hẻm.

Park Yoochun quay lưng. Rất tỉnh táo nhìn chung quanh và quay lại trường, lấy chiếc xe của mình.

Cả hai cùng nghĩ: chạm vào được thần tượng của mình như vậy có lẽ là đủ rồi.

9.

Kim Junsu mở cánh cửa phòng trọ của mình, thở hồng hộc rồi dắt chiếc xe đạp ra, lọc cọc vừa đạp đến vô định vừa khóc oà. Lòng liên tục gào thét: đã chạm vào rồi, chạm vào được rồi...

Đứng trước bờ sông quen thuộc ở ngoại ô thành phố, cứ thế mà muốn khóc thành tiếng, không ngờ ở bụi cây bên kia lại có tiếng khóc còn lớn hơn. Ló đầu qua và chần chừ không biết có nên lại an ủi, chưa kịp quyết định xong thì đã lại gần người đó lau nước mắt hộ - trong khi mặt mình vẫn chảy dài mấy hàng nước.

Đừng khóc, đừng khóc mà Park Yoochun...

Đừng khóc, đừng khóc nữa Kim Junsu...

10. (extra)

Kim Jaejoong nãy giờ đứng kế Park Yoochun mà cứ như người vô hình, tằng hắng bao nhiêu lần thì đứa em họ dại dột lẫn tên bạn thân đần độn vẫn cứ khóc ngon lành.

Thôi thì cũng đừng khóc, đừng khóc nhé Kim Jaejoong~

Cứ thế mà đi thẳng về ôm hình cái tên vừa cao vừa tham ăn vừa đểu cáng vừa đẹp trai vừa thông minh mà lại còn vừa có bờ môi “gợi cảm” độc nhất thiên hạ nhé =P.

Giày rách và điều ước

Summary:

Junsu mang một đôi giày vừa rộng vừa rách bươm. Cậu có ba điều ước.

1.

Park Yoochun, trong khi đang phơi nắng ngủ như một chú mèo lười, chờ tiết học đầu tiên đến, đã bị đánh thức bởi một âm thanh cao vút khàn khàn.

Mở mắt khó khăn, cậu nhìn thấy một gương mặt tươi rói, không những vậy còn có hiệu ứng từ mặt trời buổi sáng, làm gương mặt đó như búng được ra sữa, lấp lánh ánh hào quang.

Uể oải ngồi gượng dậy nhìn. Vừa nghe xong câu hỏi của người đó, Park Yoochun chán nản biết ngay mình sắp có một người “bạn thân”.

2.

Không nằm ngoài dự đoán, Kim Junsu bước vào lớp cậu học và như vớ được vàng, liền chọn ngay chỗ còn trống đằng sau Park Yoochun. Cứ thế ngồi sau luôn miệng nói nhỏ, Park Yoochun à, tên tôi là Kim Junsu đó nhé, cậu biết tên tôi rồi thì phải nhớ nhé... là Kim Junsu, Kim Junsu đấy...

Park Yoochun không hẳn là một học trò ngoan, cậu ngồi đấy dán mắt lên tấm bảng chi chít sơ đồ. Giáo viên cứ thế nói như giáo sư, tai Yoochun cứ thế giật ngược ra tiếng thỏ thẻ đằng sau.

Sau lưng Yoochun, một cuộn băng casette sống động đang kể về cuộc đời 16 năm hoành tráng của người tên Kim Junsu.

3.

Khi tiếng chuông báo hiệu tiết 1 kết thúc cũng là lúc cuộn băng casette (tạm) ngưng chạy. Yoochun dù không phiền khi phải nghe nhưng cũng không có ý muốn nghe thêm... cậu im lặng rút trong cặp ra một quyển sách và đọc.

Kim Junsu không nói gì nữa, chỉ lẳng lặng nhìn. Nhưng có vẻ không được lâu nên cứ chạy qua chạy lại quanh Yoochun, ngó nghiêng quyển sách cậu đang đọc, nhìn đủ mọi phương mọi diện của Yoochun. Được một hồi lại thôi.

Thỉnh thoảng, Yoochun lại ngước lên đảo mắt một vòng quanh lớp và tìm kiếm. Khi thì thấy Kim Junsu mỉm cười buồn bã nhìn xuống sân bóng đá phía dưới, lúc thì thấy Kim Junsu được một lũ con gái vây quanh.

Một trong số đó lớn tiếng hỏi, Junsu này, giày của bạn hình như cũ lắm rồi nhỉ?

Kim Junsu gãi đầu cười ngượng, bảo rằng không phải, là anh trai mới tặng nhưng lỡ làm rách thôi.

Park Yoochun lúc này mới để ý đến đôi giày rách bươm của Kim Junsu.

4.

Kim Junsu mở tròn đôi mắt, hai má đến tai đỏ hồng, sống mũi cũng bắt đầu đỏ, nước mắt cứ như muốn ào hết cả ra. Chỉ là Yoochun đã hỏi Kim Junsu này, cậu bảo là thích leo núi phải không?

Khi đã hết xúc động, Kim Junsu liền nhắng nhít nói phải rồi, phải rồi đấy, làm sao cậu biết thế Park Yoochun? Yoochun liền bảo chẳng phải lần trước cậu đã kể cho tôi tất tần tật rồi sao? Kim Junsu không những không trở về trạng thái bình thường, lại còn ôm chầm lấy Park Yoochun vui mừng, trong lòng cứ thế nghĩ người này đã không phải hỏi vậy chỉ vì nhận ra mình đang mang giày leo núi.

Ấy vậy mà khi Park Yoochun bảo Junsu nên đi mua giày mới, cốt cũng để mãn nhãn bản thân, Kim Junsu lại nằng nặc từ chối.

Kim Junsu ngây ngô bảo mình cảm thấy giống như chú bé đi hia, mang đôi giày này là sống trong cổ tích.

Park Yoochun cũng chỉ cười cho qua.

5.

Bằng cách này hay cách khác, Kim Junsu đã ngồi ngay trong sân vườn sang trọng nhà Yoochun, cùng người quản gia tíu tít tâm sự vào lúc 5 giờ sáng, an nhàn uống trà, ăn bánh buổi sớm.

Park Yoochun vì không biết Kim Junsu đang ở dưới, bị đánh thức bởi mấy giọng nói (có vẻ) quen thuộc nên nguyên dạng pijama thỏ con bước xuống.

Kim Junsu thấy cảnh tượng chẳng nói chẳng rằng, nhìn bộ dạng ngơ ngác của Park Yoochun rồi lại gần, kéo kéo, nựng nựng một bên tai thỏ ra điều thích thú lắm. Park Yoochun lần đầu tiên trong đời ngượng đỏ cả mặt, làm ra vẻ như con dâu về nhà mẹ chồng, nhắm tịt mắt như bị bắt nạt, bặm môi chạy ngược lên phòng.

Kim Junsu cười run cả vai, nhỏ nhẹ nói Yoochun thật dễ thương. Người quản gia điềm đạm kết luận, quả là chân nhân bất lộ tướng...

Không biết là đang nói tới ai.

6.

Park Yoochun sau khi dẹp hết tự trọng, hằn học mặc bộ đồ bảnh nhất đi xuống, những tưởng gỡ gạc được hình ảnh đáng xấu hổ ban nãy và ghim được vào đầu Kim Junsu cái sự lấp lánh rạng ngời, công tử hào hoa này của mình... nào ngờ lại bị chính con người kia cằn nhằn: tớ đến đây rủ cậu đi chạy bộ, tập thể dục buổi sáng cho khoẻ người ra... có phải là đi ăn tiệc hay khiêu vũ đâu mà mặc vest?

Yoochun chỉ còn biết ấm ức quay đi. Thay bộ quần áo thể dục chuẩn nhất, lại còn quay qua quay lại vài vòng trước gương, tự nháy mắt với mình... nhưng khi xuống đến đã 7 giờ hơn rồi: chẳng còn ai đi chạy bộ nữa.

Park Yoochun đành nguyên dạng ngồi ăn sáng với Kim Junsu ở sân vườn, nhăn mặt nhăn mày làm ra vẻ giận dỗi nên bị Junsu cười thối mũi bởi cái bộ dạng như vậy. Liếc từ trên xuống dưới mới thấy Kim Junsu hôm nay lung linh đến lạ, bộ quần áo thể thao thật là hợp, sau này phải ráng mà dậy sớm tập thể dục thôi... dù vậy vẫn đôi giày cũ nát đó làm hỏng hết cảnh đẹp.

Từ khi gặp Kim Junsu có vẻ cứ ở gần người này là không được yên thân, chưa kịp thưởng thức buổi sáng tao nhã đã bị nã ngay một phát vào tai. Kim Junsu giọng ngày một nhỏ nhưng không hiểu sao lại rõ ràng vô cùng, nói rằng Park Yoochun này, có thể để tôi ở tạm nhà cậu tới hết tuần sau được không?

Một con chim ngây thơ bị bắn xuýt chết.

7.

Cụ tỉ thì Kim Junsu bảo rằng cậu ấy thật tình là đang bỏ nhà ra đi, còn có đem cả hành trang theo đây (đến bây giờ Park Yoochun mới nhận ra đống đồ lỉnh kỉnh ấy). Giờ mà về chắc cũng bị ba thành viên lớn hơn đó đá ra khỏi nhà cho đi không biết tới chừng nào. Kim Junsu cứ nói mãi nào là chỉ quen một mình Park Yoochun thôi ngoài ra không còn ai hết, rồi lại còn quên đem tiền nữa nên chẳng biết ở đâu, tối hôm qua đã ngủ ở ga xe điện ngầm rồi...

Nghe tới đây, con chim ngây thơ chẳng thèm suy nghĩ mông lung nữa mà đồng ý rớt cái rụp. Dù sao thì song thân phụ mẫu cũng chẳng bao giờ về nhà.

Kim Junsu không những không hét lên vui mừng, lại còn bỏ nhỏ một câu rằng liệu mình có thể mang cả giày vào nhà không? Đảm bảo luôn là không dơ đâu.

Park Yoochun gật đầu một cách rất không chủ đích, mặt vẫn đần ra.

8.

Kim Junsu biết là mình càng ngày càng làm sai rồi...

Cậu có nửa tháng, nửa tháng thôi. Làm như vậy rồi cậu cũng đâu được gì nữa đâu chứ? Mà đối phương cũng đâu được gì? Không những vậy, cậu sẽ làm cả mình lẫn đối phương khốn khổ mất.

Kim Junsu biết là mình đã quá nông cạn, quá nông cạn rồi.

Thần thánh ơi...

9.

Junsu đang ngủ tại căn phòng mà song thân phụ mẫu của Yoochun cả năm chưa động vào. Rón rén bước qua và đẩy cánh cửa êm ru, Park Yoochun chỉ muốn kiểm tra rồi về phòng mình ngay thôi á, nhưng rốt cuộc lại chẳng thấy ai.

Park Yoochun lần nữa hoảng hốt, cậu chạy vội vàng xuống phòng khách và thấy Kim Junsu đang ngủ trên ghế sofa. Làm hết hồn! Cái người này... Người ta bảo đi đá banh là đá không biết xung quanh nữa, kêu ngủ giường êm nệm ấm thì lại xuống đây nằm... làm Park Yoochun phải lo đến sốt cả ruột.

Mà ai lại vừa ngủ vừa mang giày thế kia. Lại cái đôi giày rách đó, chẳng khác đâu được.

Park Yoochun gỡ đôi giày ra.

Kim Junsu biến mất.

Cậu có một đôi giày rách bươm và ba điều ước.

10. (extra)

Park Yoochun ngỡ ngàng nhìn chiếc ghế sofa. Mới cách đây mấy giây Kim Junsu còn nằm đó... Cậu nhìn lại đôi giày trên tay mình, ở gót có viết mấy chữ loè nhoè: Kim Junho - Lớp 1A trường cấp 3 LMN. Chẳng phải là ngôi trường số 1 về thể thao trong nước ở ngay thành phố bên cạnh sao?

Khi đến nơi và hỏi han thì thấy Kim Junho đang chơi bóng chày, Park Yoochun ngỡ ngàng đứng trân trân ở đó mà nhìn anh ta. Kim Junho như thần nghìn mắt, thấy được cả Park Yoochun ở góc khuất mà chạy tới, chỉ vào đôi giày.

Anh ta hỏi, chẳng phải đây là đôi giày của mình mà em trai đã lấy trộm để đi leo núi hồi tháng trước sao?

Park Yoochun bảo, Kim Junsu phải không?

Kim Junho liền nói, đúng vậy.

Park Yoochun thấy người này dù là sinh đôi nhưng quả không giống Junsu, liền nói tiếp rằng, Kim Junsu đã đến học lớp của mình trong một trường ở thành phố lân cận cách đây một tuần, cậu ấy luôn mang đôi giày này và bảo là anh trai tặng, lỡ làm rách mất nhưng lại chẳng chịu mang đôi khác.

Kim Junho ngỡ ngàng, sao có thể như vậy được? Liền bỏ hết việc luyện tập, cùng Yoochun đến nhà cậu ta. Kim Junho liền nói đống hành lý này quả là của em trai đã mang đi.

Kim Junho đến giờ mới sực hỏi, vậy em trai anh ta đâu rồi?

Park Yoochun nhắm mắt, rồi lại mở ra nhìn xoáy vào đôi mắt đau đớn của Kim Junho, bảo rằng cậu ấy đã tan đi mất rồi...

Ba ngày liên tục trên sườn núi nọ, cả hai tìm được xác của Kim Junsu.

Kim Junho khóc.

Park Yoochun thì không.

Ngày hôm sau đó, chẳng còn ai ở lớp của Yoochun nhớ về cái người tên Kim Junsu nữa.

Kể cả Park Yoochun.

Vì, Kim Junsu mang một đôi giày rách,

cậu có ba điều ước...

Thế này là thế nào?

Summary:

Yoochun là cậu bé con của một pháp sư nghiêm khắc. Một trong những nhiệm vụ của cậu là làm sạch đường ống.

1.

Yoochun chỉ là một cậu bé vừa tròn 13 tuổi. Cha của cậu là một pháp sư cực kỳ nghiêm khắc, và gia đình cậu có cả thảy 6 người anh em, tất cả đều đang luyện tập để trở thành pháp sư giống như cha.

Cha của Yoochun, mặt khác, là một người không ngại tính mạng của gia đình mình. Vì tất cả mọi người, theo ông thì có hy sinh chính mình hay con cái cũng là chuyện dĩ nhiên thôi. Vì lý do đó nên dù là con út trong gia đình và chỉ mới 13 tuổi, Yoochun cũng đã qua không biết bao nhiêu đợt huấn luyện nghiêm khắc và cả những lần một mình chống quái vật.

Một trong những nhiệm vụ của cậu - như một pháp sư nghiệp dư - là làm sạch những đường ống.

2.

Đường ống là thứ mà bất kỳ pháp sư chuyên nghiệp đã có bằng Huấn luyện viên nào cũng có. Nó sẽ tạo ra một vùng không gian bí ẩn có dạng ống tròn, trực tiếp dẫn pháp sư tới hang ổ của một con quái vật hay yêu tinh cấp thấp - vốn là những con không thể tự bảo vệ hang ổ của mình tốt hơn. Một đường ống chỉ rộng vừa đủ cho một pháp sư chui qua.

Với một pháp sư chuyên nghiệp thì việc quét dọn mấy “con” đó chỉ là chuyện vặt, và chuyện vặt thì dĩ nhiên phải giao cho pháp sư nghiệp dư.

Yoochun từ năm 8 tuổi đã dọn dẹp không biết bao nhiêu là đường ống rặt những con yêu tinh nhãi. 13 tuổi, cậu được giao cho một đường ống gọi là “hạng sang”.

Dù tràn đầy tự tin nhưng Yoochun vẫn thấy một chút lo lắng trong mình, lần này cậu sẽ không gặp một con yêu tinh bình thường như mọi khi. Thứ chờ cậu sẽ không phải là một lũ yêu tinh lùn nhãi nhép hay một con quái vật đã có sẵn thương tật.

Cậu gắn vòng tròn - cửa của đường ống - lên bức tường trong phòng mình, cầm chặt dụng cụ và bước vào con đường màu đen hun hút.

3.

Yoochun nhảy ra khỏi cửa bên kia của đường ống, dưới chân cậu nhóc bây giờ là mấy cọng cỏ xanh.

Vầng, cỏ xanh, xanh rì. Một cánh đồng cỏ trải dài hút tầm nhìn với gió thổi qua tai và những bông hoa đủ màu sắc tươi sáng. Còn con quái vật? Con quái vật ở đâu?

Yoochun quay sang trái và giật mình thấy ngay một cái lưng khổng lồ.

4.

Con quái vật đang ngủ, quay lưng lại nơi cậu đang đứng. Nó mặc một bộ quần áo màu đỏ và đen giống kiểu mụ nữ hoàng độc ác trong Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn vẫn thường được những người lớn kể cho bọn con nít. Nó nhè nhẹ hít không khí vào rồi lại thở ra, xem chừng rất yên bình.

“Chun~~ Chun~~~”

Yoochun lại một lần nữa giật mình đánh thót khi nghe thấy tiếng kêu tên mình. Quay sang bên phải, cậu nhận ra mấy đứa bạn pháp sư thực tập của mình đang bị nhốt trong lồng. Chúng nó với với tay ra và cố gắng gọi cậu bằng tiếng thì thào lớn nhất có thể, cơ hồ như sợ con quái vật tỉnh dậy.

Yoochun định chạy đến chỗ chúng nó nhưng chỉ mới đi được 3 bước đã bị cả bọn sỉ vả bảo đi nhẹ nhẹ thôi, không thì con quái vật tỉnh dậy ngay. Yoochun đành rón rén trên mấy đầu ngón chân mình mà tiến tới.

“Sao kỳ vậy?” - cậu gắt cộc lốc, theo kiểu thì thào

“Kỳ cái gì mà kỳ” - một đám trong đó trả lời, cũng thì thào

“Một đống đứa như vầy mà không xử đẹp được con đó nữa hả?”

“Mày thử coi biết liền hà...”

Rồi cả bọn run lẩy bẩy chỉ tay ra sau lưng Yoochun.

Cậu biết ngay là con quái vật đã tỉnh dậy.

5.

Đúng vậy, con quái vật đã tỉnh dậy.

Bằng hai ngón tay của mình, nó nắm lưng áo Yoochun và kéo lên, đưa trước mắt mình. Con quái vật quá bự để Yoochun có thể nhìn thấy toàn bộ gương mặt nó, cậu chỉ có thể thấy hai con mắt nhỏ xíu (so với guơng mặt) đang cố gắng mở tròn.

“Í da...” - con quái vật lên tiếng, cả đám (bao gồm cả Yoochun) đưa tay lên bịt lỗ tai. Rồi nó nói tiếp, kèm theo điệu cười khúc khích...

“Dễ thương quá à...”

...

“Có chút xíu à...”

...

“Thấy cưng ghê...”

...

“Tên gì vậy bé nhỏ?”

“Park Yoochun í...”

Cái chữ í cuối cùng không nằm trong tên của Yoochun đâu, chỉ là trả lời xong rồi mới giật mình bịt mồm mình lại. Ngu quá Yoochun, sao lại lỡ miệng như thế chứ? Lỡ nó thuộc loại quái vật sẽ cướp linh hồn người ta (hay gì đó đại loại) khi biết được tên thì sao chứ?

“Tên cũng dễ thương nữa... Chunchun gọi mình là Susu nhe... Tụi mình sẽ làm bạn với nhau hé~”

Yoochun đần cả người.

Làm bạn hả? Không có đâu.

“Làm bạn hả? Không có đâu” - bọn ở dưới rống cổ họng lên nói hộ Yoochun - “Chun đừng làm bạn với nó! Lời nguyền đó!”

Lời nguyền?

“Lời nguyền gì cơ?” - Yoochun hỏi vẩn vơ, cậu nhìn xuống dưới rồi lại nhìn vào mắt con quái vật

“Đã là lời nguyền thì sao nói cho Chunchun được chứ?” - con quái vật tự gọi mình là Susu nói

“Vớ vẩn” - Yoochun đạp đạp không khí

“Chunchun làm bạn của Susu nhe” - con quái vật Susu cười hí hửng, hai mắt tít lại với nhau

“Không.” - Yoochun trả lời ngay, hoàn toàn chắc nịch.

Rồi ngay lập tức cậu bé rút vũ khí mạnh nhất của mình, chém ra đằng sau nơi hai ngón tay con quái vật đang nắm lấy áo mình. Con quái vật bỗng dưng thấy đau kinh khủng, cơn đau từ hai đầu ngón tay đó mà lan cả cơ thể to lớn của nó. Nó buông tay ra và Yoochun cứ thế rơi tự do.

Nhưng, là một pháp sư nghiệp dư loại xịn, Yoochun đáp xuống đất một cách an toàn đến không ngờ làm bọn bạn trong lồng bất giác vỗ tay lia lịa. Cậu được nước làm tới, trong lúc con quái vật vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi đòn tấn công của kiếm phép hồi nãy mà chém nát cổng lồng. Bọn bạn của Yoochun cũng nhanh chân chạy đến chỗ cửa củađường ống.

“Chunchun, mấy bạn... Đừng chạy mà...” - con quái vật Susu gọi theo. Nhưng quá trễ, Yoochun và tất cả đã bước lên cửa đường ống và mất hút.

Con quái vật thử chọc ngón tay của nó vào cái lỗ nhỏ xíu mà Yoochun và tất cả vừa leo vào nhưng không thể: ngay cả ngón tay nhỏ nhất của nó cũng đã quá to so với cái lỗ đó.

Vài giây sau, cái lỗ biến mất.

6.

“Mèn ơi ghê quá” - tụi bạn thở phào khi đã đặt chân xuống nền phòng Yoochun

“Con quái vật đó bị lời nguyền gì vậy?” - Yoochun hỏi

“Không biết nữa. Chắc nó nói xạo á. Nó dụ dỗ mấy tao chơi chung” - thằng thứ nhất nói

“Mấy tao thấy nó không giống mấy con khác nên cũng chơi” - đứa thứ hai tiếp lời

“Ai dè nói mình thích bạn với nó xong thì bị hút vô cái lồng luôn.” - và một đứa khác kết thúc.

Yoochun đuổi cả lũ về, cậu lại gắn khung cửa của đường ống lên tường phòng mình. Cậu biết chứ, đường dẫn đến hang ổ quái vật được cài đặt ở chế độ random.

7.

Yoochun là một chàng trai vừa tròn 18 tuổi. Tối nay cậu sẽ chính thức trở thành một pháp sư chuyên nghiệp và nhận luôn giải “Pháp sư nghiệp dư diệt nhiều quái vật hạng sang nhất lịch sử”, sau khi làm xong nghi thức dưới trăng. Cha của cậu là một người nghiêm khắc, ông sẽ không tỏ ra tự hào mấy khi thấy con mình nhận được tấm bằng ghi nhận đó và một mục phỏng vấn kèm hình bìa của cuốn Guiness Pháp Sư đâu.

Mà Yoochun cũng không thiết tha lắm với cuốn Guiness Pháp Sư hay tấm bằng đó. Việc này làm cha cậu tự hào hơn nhiều - dù, dĩ nhiên, ông vẫn không tỏ ra ngoài.

Đây sẽ là lần cuối cùng cậu được giữ khung cửa của đường ống cho tới khi cậu được công nhận là một Huấn luyện viên. Để trở thành một Huấn luyện viên không phải chuyện dễ, phải là người cực kỳ xuất sắc và trải qua nhiều gian khổ mới có thể nhận được danh hiệu cao quý đó.

Nhưng ngay từ bé, Yoochun đã không muốn trở thành một Huấn luyện viên giống cha mình, cậu muốn trở thành một Pháp sư Anh hùng.

Cậu đặt trọn niềm hy vọng và niềm tin của mình vào ngày hôm nay, một ngày buổi sáng đẹp trời.

Và cậu lại gắn khung cửa của đường ống “hạng sang” quen thuộc lên tường phòng mình.

8.

Yoochun nhảy ra khỏi bên kia của đường ống, dưới chân cậu là mấy cọng cỏ xanh.

Trước mắt Yoochun là một cánh đồng cỏ trải dài đến tưởng chừng vô tận, điểm trên đó là những bông hoa đủ màu sắc rực rỡ nhưng lại có hình thù giản đơn như con nít vẽ.

Yoochun quay sang trái, và thấy một cái... gì nhỉ? Bắp chân à?

Rồi hai ngón tay trắng trắng bự bự bỗng dưng nhấc cậu lên cho đến khi cậu nhìn thấy một đôi mắt.

“Mình thích cậu, Susu” - Yoochun cười và nói

“Mình biết, Chunchun”

9. (extra)

“Mình biết, Chunchun” - con quái vật trả lời.

“Í gì kỳ vậy?”

Đoạn phim tạm pause lại vì câu nói này của Yoochun.

“Khoan đã. Thế này là thế nào?” - cậu hỏi với vẻ mặt ngớ ngẩn của mình

“Thế nào là thế nào cơ?” - con quái vật được gọi là Susu trả lời

“Đáng lẽ ra quái vật khổng lồ phải biến lại thành một cô gái xinh đẹp, à không, một cậu nhóc dễ thương rồi sau đó hai nhân vật chính phải nắm tay nhau đi về phía hoàng hôn chứ?”

...

[ Ba giây có hình không tiếng ]

[ Bật volume ]

“HÁ HÁ HÁ HÁ HÁ HÁ HÁ..............”

Con quái vật cười như muốn rung chuyển cả không gian. Nó cười, cười mãi đến mức không thể nào đủ sức để cầm lấy lưng áo Yoochun nữa mà buông cậu ra. Yoochun nhẹ nhàng đáp xuống và đần người nhìn con quái vật cười.

Nó cười...

Cười...

Cười lăn lộn...

Và nằm đè lên Yoochun.

=====

“Ái da... Đè chết người rồi~~!!!” - Yoochun bật câu nói trên lên thành lời và mở choàng mắt. Một con heo mập thứ thiệt đang ngồi trên bụng cậu.

“Mình biết mà, Yoochun.” - Junsu cười tít mắt, bộ dạng rất chi hí hửng.

“Biết cái gì cơ? Ra khỏi người tớ coi! Nặng chết được” - Yoochun mắt nhắm mắt mở, nhăn nhó mặt mày nhìn con người đang ngồi trên bụng mình.

“Thì vụ cậu thích mình đó!” - Junsu vẫn ngồi yên vị trên bụng cậu

“Cái gì cơ??” - Yoochun tỉnh hẳn, tròn mắt hỏi lại

Thế này là thế nào???

Chuyên gia mặt nạ.

Summary:

Kim Junsu là chuyên gia về mặt nạ.

1.

Kim Junsu vốn gia truyền nghề làm mặt nạ. Ban đầu, tổ tiên cậu chỉ làm những chiếc mặt nạ bình thường dùng để diễn kịch hay trưng bày, nhưng đến bây giờ thì mặt nạ nhà cậu đã lên một tầm cao mới.

Nhà Junsu làm nghề buôn bán những tác phẩm nghệ thuật. Trên tường ở tiệm nhà cậu treo đầy tranh và các tác phẩm. Cả Junsu cũng vậy, ngày nào cũng đeo một chiếc mặt nạ.

Tất cả đều trông rất xấu xí hoặc buồn cười.

2.

Thật ra, Junsu thường đeo tận hai chiếc mặt nạ. Một làm bằng những chất liệu thông thường (đôi khi là những chiếc mặt nạ làm theo kiểu cổ - bằng da, xương thú hoặc tương tự), còn một do chính cậu làm ra ở bên trong chiếc mặt nạ kia.

Khách hàng đến tiệm nhà cậu nhiều vì họ muốn tìm niềm vui và sự thích thú. Đáp ứng điều đó, Junsu chưa bao giờ làm họ thấy chán. Ai cũng khoái chí với những chiếc mặt nạ cậu đeo bên ngoài, và cười lớn hơn nữa khi thấy lớp mặt nạ tài tình bên trong.

Đôi khi đó là gương mặt của một cụ già, và Junsu sẽ bắt chước con nít làm cậu trở nên đến ngộ. Nhiều lúc khác đó sẽ là gương mặt một cô gái xinh đẹp, rồi Junsu sẽ ồm ồm nói rằng trông cậu đẹp trai nhất thiên hạ, và ưỡn ngực lên đi như kiểu những cô gái mang giày cao gót lần đầu.

Công việc của Junsu là thế. Tuổi 18, cả cậu và mọi người đều vui vẻ.

3.

Junsu là một người khéo mồm khéo miệng, nhiều cô gái ban đầu từ bị cậu làm ấn tượng, sau mê cậu say đắm dù chẳng ai trong số đó biết gương mặt thật của cậu như thế nào. Ngay từ khi còn đi học, cậu đã bất chấp nội quy, một mực mang mặt nạ. Chỉ có giấy tờ là có hình, nhưng cậu cũng chẳng để ai thấy.

Những cô gái thích Junsu đa phần có tính cách rất mạnh mẽ. Vì lý do đó nên Junsu thường biết ngay nếu họ đang muốn cưa cậu. Rồi Junsu sẽ chọn một ngày tốt lành nào đó mà gỡ lớp mặt nạ thứ hai của mình ra.

Cô gái may mắn đó sẽ được nhìn thấy “gương mặt thật” của Junsu.

Đó là một gương mặt với hai gò má cao, nhưng má thì hóp lại như một gã nghiện, nước da trắng xanh với đôi mắt nhỏ lấm lét, không quên những nốt tàn nhang màu bánh quế trên má và mũi...

Ngoài ra, còn là tác phẩm tuyệt vời nhất của Junsu.

4.

Như đã nói, những cô gái thích Junsu đa phần là những người mạnh mẽ. Một số cười cho qua rồi âm thầm rút lui. Nhưng đa số thì đồng ý cặp kè với cậu, cùng cậu và bộ dạng đó hẹn hò. Chỉ khi cậu chu bờ môi “gợi cảm” của mình ra đòi mi (thường là vào ngày hẹn thứ hai) thì họ mới chịu thua.

Một vài người khi thấy gương mặt đó của cậu thì không tin, họ cố gắng cấu lấy cấu để mà không biết rằng, đúng vậy, đó là kiệt tác của Junsu.

Junsu 18 tuổi, người mà chỉ từ năm lên 7 đã được Tổng cục phát hiện, từ đó tạo mọi điều kiện để cậu nghiên cứu, tạo ra và cung cấp mặt nạ cho họ. Junsu cũng là người đã giúp họ phá không biết bao nhiêu vụ án lớn, làm rúng động không biết bao nhiêu băng đảng. Chúng thậm chí cấu má, xẻo mặt từng người một của mình để kiểm tra, nhưng tất cả đều vô vọng.

Tổng cục gọi những tác phẩm đó bằng cái tên Thiên hạ đệ nhất mặt nạ. Nếu thực sự là như vậy thì gương mặt xấu xí kia hẳn là Thiên thượng đệ nhất. Không sai! Chính là Thiên thượng đệ nhất!

Không chỉ có những điểm mạnh của Thiên hạ đệ nhất mặt nạ, cách trang điểm và đủ thứ phụ kiện làm cho gò má của cậu trông như thật, còn môi thì cả nhìn và sờ đều thấy tự nhiên, đôi mắt không giống gì mắt của cậu, và lại còn hợp với thân người cậu đến kỳ lạ nữa.

Hơn nữa... làm cho những cô gái tin và chạy mất, còn kiệt tác nào hơn thế?

5.

Junsu trước 7 tuổi chưa từng nghĩ đến việc làm mặt nạ cũng có thứ gọi là đối thủ. Nhưng năm 7 tuổi, một cuộc thi làm mặt nạ bí mật được tổ chức và cậu là người giành chiến thắng. Nhờ vậy mà cậu cảm thấy hứng thú với nghề này rất nhiều. Cậu muốn làm hay hơn nữa, để khi lớn hơn có thể gặp và thi tài với những người còn “khủng bố” hơn. Nghề làm mặt nạ cần cả kỹ thuật lẫn cảm hứng! Một nghề hoàn hảo!

À mà... có bạn hỏi nếu cấu cũng không ra thì làm cách nào gỡ mặt nạ Thiên hạ/ thượng đệ nhất ra à?

Mỗi chuyên gia mặt nạ đều có một cách riêng để gỡ mặt nạ ra, còn với mặt nạ của Junsu thì phải rửa bằng một loại dung dịch đặc biệt do cậu điều chế, hoặc chấm loại dung dịch đó lên một phần của chiếc mặt nạ rồi gỡ ra.

Chính vì vậy không phải ai cũng có thể phát hiện đâu là da thực, đâu là mặt nạ. Nhất là khi chiếc mặt nạ đó lại được làm tài tình đến thế.

Ngoại trừ một người.

6.

“Tôi thích anh, Junsu!” - cô gái đó nói với cậu như thế. Junsu lại diễn trò cũ của mình như thường lệ.

Đáng sợ thay, khi nhìn thấy “gương mặt thật”, cô gái đó lại ré lên một tiếng kinh dị bằng chất giọng chua loét của mình rằng: “Đáng yêu quá!”

Và, dĩ nhiên, không ngần ngại ôm chầm lấy cậu.

Junsu đã nói rằng cô gái xinh đẹp này thậm chí còn cao bằng cậu chưa? Nhưng mà... mặc xác những điều đó và một số điều khác, Junsu và cô gái xinh đẹp hẹn hò với nhau.

7.

Ngày đầu tiên, họ đi thảo cầm viên. Ngày thứ nhì, họ cùng nhau ăn mì. Ngày thứ ba, hai người coi phim ma.

Một tuần trôi qua với không biết bao nhiêu kỷ niệm. Junsu nhận ra rằng mình thực thích cô gái này. Là thích-thích-thích ấy. Cậu thích lúc cô ấy ngây ngô chào mấy con thú vào ngày hẹn đầu tiên, thích khi cô ấy sụp soạt một cách thoải mái vào ngày thứ hai, cách cô ấy giả vờ mạnh mẽ nhưng sau đó lại sợ hãi ôm lấy cậu vào ngày thứ ba. Và cả những ngày sau đó nữa...

Junsu xấu xí nghĩ rằng mình muốn tạo lập mối quan hệ lâu dài với người con gái này.

8.

Vào một ngày đẹp trời khi bố cậu đi thăm họ hàng xa, Junsu rủ cô gái xinh đẹp chơi gêm với cậu. Họ chơi đủ thứ trên hệ Play Station. Metal Slug, Goal!x3, Baseball, Contra và đủ các trò khác - cả đối kháng lẫn không. Chơi chán, cả hai hè nhau ra ngủ ngay trên sàn, tự động ôm nhau rất ấm áp.

Lúc thức dậy, Junsu thấy mình đang nằm trên sofa, trên người là một chiếc chăn ấm, còn cô gái xinh đẹp đang nhấm nháp chút trà.

Cô cười dịu dàng khi thấy cậu nhìn, Junsu ngồi dậy và cười lại với cô rồi ngỏ lời.

“Yoomi này...” - cậu nói, hít một hơi thật sâu - “Anh thật tình đã không chuẩn bị gì cả... Nhưng... Em có đồng ý cùng anh đến suốt cuộc đời không?”

Cô gái nhã nhặn trả lời, vẫn với nụ cười trên môi:

“Cậu thua tôi rồi”

9.

Junsu đớ người vì giọng nói vừa phát ra. A... nó trầm, và ấm.

Người con gái (?) đối diện cậu kéo trong túi ra một chiếc bình thuỷ tinh nhỏ xíu, cô (?) đổ từ trong bình ra một ít bột và xoa lên má mình, sau đó bình thản gỡ chiếc mặt nạ ra.

Thậm chí còn đẹp hơn bên ngoài. Đó là những gì Junsu cảm nhận được.

“Cậu thật tình rất dễ thương, chẳng khác gì xưa cả” - cô... à không, chàng trai đó nói tiếp

Junsu giật mình sờ lên mặt mình. Đến bây giờ cậu mới nhận ra lớp mặt nạ Thiên thượng đệ nhất của mình đã không cánh mà bay đi mất rồi...

Mà khoan đã... gã đó đã nói rằng “chẳng khác gì xưa” sao?

“Tôi đã từng gặp cậu sao?” - Junsu hỏi. Gương mặt người đối diện bỗng dưng đanh lại vì phản ứng của cậu. Chết tiệt! Chẳng phải gã đã biết rõ ràng rằng mắt của cậu ấy sắc đến mức nào sao? Biểu cảm này trên mặt Junsu có nghĩa là gì chứ?

“Năm 7 tuổi, cuộc thi làm mặt nạ bí mật do giới chuyên môn tổ chức. Tôi giành hạng nhì.” - gã nói ngắn gọn. Thật sự, thật sự không muốn nhìn đôi mắt đang xoáy sâu vào của Junsu nữa.

Junsu im lặng, cậu lia mắt ra khoảng không nào đó bên phải mình, không nhìn vào người đối diện nữa.

Hoá ra là vậy...

Junsu đứng dậy, lịch sự mời người đối diện mình ra khỏi nhà. “Tôi thua anh rồi” - cậu nói vậy và mỉm cười - “Coi như chúng ta chưa từng biết nhau như một tuần qua nha...”

Người con trai kia vẫn dán chặt người mình vào chiếc sofa khi cậu nói vậy, gã ta nhận ra rằng chính gương mặt thực sự của Junsu đã là một chiếc mặt nạ tuyệt vời. Gã cười nhếch, tự thấy thương cho chính mình rồi theo hướng tay cậu mà ra ngoài.

“Park Yoochun...” - trước khi Junsu khép cửa, người đó nói - “Tên người đã ở bên cậu tuần qua là Park Yoochun, cậu có thể nhớ nó không?”

Junsu khép cửa.

10.

Không có mặt nạ, Junsu thấy mình trống rỗng. Nhưng mỗi khi đeo mặt nạ lên và nhìn vào trong gương, cậu càng thấy trống hơn.

Junsu không đeo mặt nạ thiên hạ thiên thượng gì nữa. Cậu thông báo lên Tổng bộ rằng mình sẽ nghỉ phép một thời gian, họ chấp nhận và cậu không việc gì phải làm mặt nạ nữa.

Junsu đeo một chiếc mặt nạ bình thường. Trên đó, một gương mặt ngố tàu đang cười tươi rói.

Cậu lại mở cửa hàng như mọi khi, vẫn dùng miệng lưỡi ngọt ngào của mình với những vị khách quen thuộc. Gỡ chiếc mặt nạ đó ra, và nói rằng mình thật là cool.

Park Yoochun vẫn đứng bên ngoài, phì phèo khói thuốc chờ cậu tha thứ.

Junsu thề khi làm xong công việc, cậu sẽ chạy ngay đến chỗ tên đó, vứt điếu thuốc trên miệng hắn đi.

Công cuộc tìm hiểu mới rồi sẽ lại bắt đầu, sau khi Junsu chấp nhận việc mình đã tha thứ cho Yoochun.

Cái tên Yoochun ngốc ngếch, xảo quyệt đã hết từ hình dạng này đến hình dạng khác, ngày nào cũng đeo một lớp mặt nạ mà đến tiệm của Junsu chỉ để nhìn cậu bé chủ tiệm ấy...

Bánh ngọt từ trời

Summary:

Park Yoochun, 21 tuổi kém nửa tháng

Kim Junsu, 22 tuổi thiếu nửa năm

1.

Park Yoochun, 21 tuổi kém nửa tháng. Thứ duy nhất gã có hiện giờ là một bộ quần áo bảnh choẹ mang hiệu Levi's trên người.

Park Yoochun không có nhà cửa, dù đã từng. Gã đã từng là một tên đại gia bé với nhà cao cửa rộng, người hầu kẻ hạ, xe xịn gái đẹp... Đùng một phát, tất cả những gì gã có là bộ Levi's.

Điều đầu tiên gã làm khi nhận ra mình không có đồng nào trong túi là: đến nhà Kim Jaejoong.

Gã đi bộ.

2.

Kim Jaejoong vốn danh soulmate của Park Yoochun. Cũng là một tay nứt đố đổ vách, 26 tuổi, hắn là giám đốc của công ty gia đình.

Park Yoochun bấm chuông cửa - điều mà trước đây gã chưa bao giờ phải làm. Lão quản gia dĩ nhiên nhận ra, từ chiếc hộp trước cửa liền xuất hiện tiếng nói của Kim Jaejoong:

“Ồ... Park Yoochun” - hắn ra điệu như chừng ngạc nhiên lắm - “Đã đến thời kỳ trưởng thành rồi à? Cậu đến đây làm gì thế?”

Gã nhìn lên chiếc camera ở trên, tưởng tượng Kim Jaejoong đang sung sướng vừa gác chân lên bàn vừa ăn bích quy mà nhìn mình, tự thấy căm hận ghê gớm.

“Cho em mượn ít tiền!” - gã vào thẳng chủ đề, không hề ngượng ngùng

“Sao thế?” - vừa hỏi vừa cười

“Năm đô thôi, hai ngày rồi em chưa ăn gì... năm đô ăn phát rồi em sẽ tìm việc mà...” - gã phụng phịu ra chiều đáng thương dễ yêu lắm

“Cậu đang mặc đồ Levi's đúng không?” - Kim Jaejoong nghiêm túc hỏi

“Đúng. Hai đô rưỡi thôi cũng được...”

“Anh không giúp được gì cậu cả. Sao cậu không đổi bộ Levi's trên người mình bằng một bộ rởm hơn và ít tiền nhỉ?” - hắn vẫn nói bằng chất giọng rất nghiêm túc

“Hai đô. Hay một đô cũng được. Anh có cho mượn không?” - gã bắt đầu cáu tiết

“Không nhóc ạ. Đây là giai đoạn trưởng thành của riêng cậu.”

Park Yoochun tức tối. Gã bỏ đi mà chẳng thèm nói thêm câu nào.

Mẹ kiếp - gã rủa. Nếu biết mình sẽ như vậy, Park Yoochun chắc chắn sẽ không uống rượu thay cơm liên tục hai ngày.

3.

Park Yoochun quả thật làm theo lời Kim Jaejoong. Gã đổi bộ quần áo hàng hiệu của mình lấy một bộ thảm thương hơn và một ít tiền. Chó chết! Một ít tiền!

Nhưng, thay vì đi ăn một bữa với toàn bộ số tiền đó, Park Yoochun - người đang trong giai đoạn trưởng thành của mình - quyết định vào một hiệu sách lớn.

Gã kỹ càng lựa chọn một chiếc thiệp có màu trắng, trên đó là hình hoa Lily ánh vàng trông rất sang trọng và khá tinh xảo cộng một cây bút kim hạng xoàng. Cây bút kim thì không, nhưng chiếc thiệp khốn nạn đã ngốn hết số tiền trong túi gã, chỉ chừa lại một ít xu.

Đơn giản, Yoochun đã quyết định mình sẽ xin vào một quán bar để làm. Bất cứ quán bar nào, miễn không phảiDouble Hoa của Kim Jaejoong hay WaiXi do chính gã mở ra, kèm theo một số quán bar mà gã đã từng đặt chân đến.

Việc tìm công việc như kiểu bồi bàn đối với một người đẹp trai rạng ngời, kinh nghiệm đầy mình như Yoochun không phải việc khó khăn lắm. Cái khó nhất là mọi quán bar hiện nay muốn vào làm đều cần giấy giới thiệu.

Yoochun mượn chiếc bàn nơi hiệu sách, nắn nón viết lên thiệp mấy chữ:

Ngày... tháng... năm...

Giấy Giới Thiệu

Kính gửi: Quản lý và chủ bar 'Đẹp Trai'

Kim mỗ vốn 'Double Hoa' tiểu chủ, nay có một người anh em, họ tên Park Yoochun muốn giới thiệu. Vốn người này là đỉnh đỉnh đại danh bồi bàn của 'Double Hoa', kinh nghiệm đã 5 năm kể từ khi mới 16 tuổi, vì đôi sự mà muốn rời khỏi khu vực tìm công việc thích hợp... Chẳng hay quý bar có thể thu nhận và giúp đỡ người đây? Nếu được vậy Kim mỗ xin chịu ơn.

Muôn vàn cảm tạ.

Ký tên

Kim Jaejoong

Suy nghĩ một chút, gã nắn nót thêm sáu chữ vàng dưới chữ ký rồi tiến về phía bar Đẹp Trai.

4.

Đầu tiên, gã vượt qua hai tên hộ pháp bằng nụ cười quyến rũ chết người (của một uke?) và vài cử chỉ vô cùng dễ thương khi nói: “Tôi đến cùng giấy giới thiệu”. Một trong hai tên liền dẫn gã đến chỗ người quản lý.

Ngạc nhiên thay, quản lý không phải một nam nhân như thiên hạ đồn đại, không những vậy người này còn ra vẻ miễn dịch với nụ cười sáng chói của Park Yoochun. Chỉ đến khi nhìn thấy mấy chữ Kim mỗ, Double Hoa hay Kim Jaejoong ở dưới mới chịu ngẩng mặt lên nhìn từ đầu tới chân gã.

Park Yoochun thật muốn nói với nữ nhân, khinh người thì khinh nó vừa vừa, nhưng rốt cuộc đành nuốt bồ hòn mà coi như ngọt vậy. Nữ nhân liền thủ thỉ cho một tiểu đồng xinh xắn bên cạnh, tiểu đồng này ngay lập tức chạy biến.

“Chẳng hay Park công tử có thể chờ đôi chút?” - nữ nhân lịch sự mỉm cười

Park Yoochun vì thế cũng nhã nhặn đáp lại. Ngay sau đấy, một nam nhân tuấn tú, rạng ngời, cực kỳ lãng tử bước ra.

Hắn chắc chắn chính là chủ bar Đẹp Trai thường gọi bằng bí danh a-b-c. Vậy ra nữ nhân này chính là Kaze mà thiên hạ đồn đại?

Dài dòng văn tự, a-b-c nhận từ tay Kaze bức thư giới thiệu. Người này nhìn chằm chằm vào lục kim tự mà Yoochun đã ghi thêm vào, rồi sau đó lại thủ thỉ gì đó khiến nữ nhân khoái chí. Thấy nữ nhân khúc khích, nam nhân chẳng ngần ngại thơm thơm lên má.

Park Yoochun đã có việc để làm.

Chẳng qua chỉ là thêm vào mấy chữ “Thiên Hạ Đệ Nhất Cơ Bắp” mà thôi...

5.

Công việc đầu tiên của Park Yoochun là đem rượu lên một phòng nào đấy của khách VIP. Gì chứ một người có kinh nghiệm làm khách VIP đầy mình như gã hẳn nhiên sẽ biết ngay phải làm sao để họ hài lòng. Vậy là Park Yoochun hùng dũng tiến về phía phòng VIP nào đó.

Quản lý không ngừng dặn dò: đây là VIP của VIP, tức là VVVVVVV(nhân en nờ)IP, phải cẩn thận mà hành sự; có lẽ trên phòng chưa chắc đã có VIP này mà là một bé trai nào đó - tình nhân một đêm của vị đó, nhưng có là ai thì cũng phải cẩn trọng.

Quản lý cứ đinh ninh Park Yoochun kinh nghiệm 5 năm chuyên ngành, hẳn nhiên sẽ nhận ra bá khí - dù chỉ một chút - của vị đại gia. 

6.

Park Yoochun đúng thật rất từ tốn, gõ cửa phòng VIP được ấn định một cách rất lịch sự. Ngay lập tức có người ra mở cửa.

Gã nghĩ: tự thân ra mở cửa thế này chắc hẳn không phải VIP đã được nói đến, không những vậy còn đáng yêu như hài đồng thế này, chắc hẳn là tình nhân một đêm rồi. Không những thế còn lắc đầu trong ý niệm: thật tiếc... nếu Park Yoochun ta mà như xưa, chắc chắn sẽ đem về làm vợ.

Chẳng ngờ đối phương khi nhìn thấy lập tức kéo vào phòng khoá chốt cửa, đẩy lên ngồi trên ghế, không ngừng sờ soạng lên gương mặt đẹp trai của gã mà nói rằng thật dễ thương.

“Này dễ thương này... tên cậu là gì nhỉ?”

Park Yoochun cơ hồ bị quyến rũ bởi khoảng cách quá gần nên vô thức nói tên mình.

Đối phương cười toe toét: “Tôi là Kim Junsu.”

7.

Kim Junsu kia một mực dùng vẻ mặt ngây thơ của mình kéo Park Yoochun lên giường mà hôn hít khắp mặt. Park Yoochun quả thật muốn tận hưởng, nhưng nghĩ dù Kim nhân đây có là VIP đi nữa, mình cũng đâu thể làm người-tình-một-đêm của cậu ta... Liền đẩy Kim Junsu ra mà hùng hồn nói:

“Tôi chỉ là phục vụ phòng, không phải phục vụ giường của cậu!”

Kim nhân không hề để tâm, tới đây đã cởi được nịt quần, bắt đầu dùng chiếc miệng nhỏ xinh đó mà mút kẹo rồi. Park Yoochun dĩ nhiên thích thú, không những vậy còn vô cùng hưởng ứng. Chỉ là quyết chí không rên la, đến tột đỉnh cũng không hề hé răng.

Rất thành thạo, chiếc quần bó sát của Kim Junsu đã không cánh mà bay. Sự thực là Park Yoochun đã để ý lâu rồi, nhưng đến lúc này mới cười cợt: “Ô cái mông cái mông... Cậu muốn nằm trên ai với cặp mông như vậy hở Kim Junsu?”

Vì Park Yoochun vừa cười vừa nói như vậy mà Kim nhân vừa mê vừa quê độ. Người ta là đại gia, sao có thể để bị nằm dưới chứ?

Rất tiếc cho Kim Junsu... đêm đó dù được nằm trên, nhưng người chịu đau cũng chính là cậu ta.

8.

“Park Yoochun.” - Kim Junsu nghiêm túc nói sau cuộc mây mưa - “Cậu chỉ là người tình một đêm của tôi thôi.”

Park Yoochun lúc đó đã mơ màng ngủ, nhưng chắc hẳn là có nghe.

Đêm hôm sau, một gã được gọi là “Chunchun” được thay vào vị trí đó.

Hôm sau nữa là “Chunnie”

Tiếp theo là “Micky”,

“Bạn chuột nhỏ”,

“Thỏ đội lốt”,

“Thôn nữ”,

“Người mẫu nông dân”,

“Thím tư”...

Nhiều lắm.

Nhưng Kim Junsu à, tại sao lần nào cậu cũng chỉ gọi tên Park Yoochun thôi thế?

Kể cả những đêm chẳng làm gì với nhau...

9.

Park Yoochun đón mừng sinh nhật lần thứ 21 của mình bằng một chiếc thiệp hỏi cưới và một chai rượu nhẹ tại nhà Kim Jaejoong. Kim Jaejoong thấy vậy, vẫn gác chân lên chiếc bàn cẩm thạch nguyên chất của mình, luôn mồm cằn nhằn: “Muốn cưới người ta thì đến nhà mà hỏi, ai lại gửi thiệp như thế?”

Park Yoochun im lặng hồi lâu, sau bảo muốn người ta bất ngờ mà... Kim Soulmate sao có thể tin những lời đó? Khinh bỉ nhìn Park Yoochun chừng năm phút không chớp mắt, làm gã sợ hãi quá liền thú nhận: “Em sợ.”

Park Yoochun sợ.

10.

Kim Junsu quyết định không tin cái tên cậu đọc được trên chiếc thiệp cầu hôn mình vừa nhận được. Đúng vậy, gã đại gia gửi cho cậu tấm thiệp đó mang tên “Park Yoochun”.

Kim Junsu không tin. Cậu hoàn toàn không thể tin mình đã bị lừa suốt nửa tháng nay... Tình cảm gì chứ? Yêu thương gì chứ? Nào là tình yêu sấm sét, nào là chăn gối mặn nồng, nào là siêu nhân gao...

Kim Junsu giật mình.

Park Yoochun không hề lừa cậu.

Cậu chỉ mới quen con người này nửa tháng. Kim Junsu, mày đã hiểu được người ta bao nhiêu? Rốt cuộc chỉ toàn kể chuyện mình cho người ta, để người ta nghe, để người ta thông cảm, để người ta vỗ về...

Để người ta thương yêu.

11.

Giai đoạn trưởng thành là giai đoạn mà những gã đại gia bé như Park Yoochun phải trải qua. Để chứng tỏ cho tất cả mọi người thấy rằng mình có thể sống không dựa vào gia thế, những kẻ như Park Yoochun phải tự sống trong một khoảng thời gian nhất định.

Đôi khi giai đoạn này kéo dài đến mấy năm, đôi khi chỉ là nửa tháng như Yoochun.

Duy trước giờ chỉ có một mình gã, không chỉ hoàn thành xuất sắc giai đoạn trưởng thành trong vòng nửa tháng mà còn đem về được cho mình một người vợ.

12.

Park Yoochun trưởng nam, 21 tuổi.

Và Kim Junsu thứ nam, 22 tuổi thiếu nửa năm.

Chuyện viễn tưởng

Summary:

mở ngoặc kép Đầu bếp đóng ngoặc kép Kim Junsu mở ngoặc hỏi chấm đóng ngoặc chấm hết

1.

Kim Junsu là một đầu bếp (?). Ừ thì điều đó cũng không đúng lắm, cậu ta chỉ là chân lau dọn của một nhà hàng nhỏ, và lén lút đội chiếc mũ đầu bếp khi cả nhà hàng chỉ còn lại đúng ba người.

Sau nhiều ngày đội trộm mũ đầu bếp và làm việc cật lực, Kim Junsu cũng học được vài ba món nổi tiếng mà chủ nhà hàng Kim Jaejoong thường hay làm. Đặc biệt là những món mà Shim Changmin - một người khá đặc biệt - thích.

Kim Junsu không có quá nhiều thời gian dư thừa. Trên tất cả, cậu không có nhiều tiền, một số tiền đủ để cậu có thể thử nấu những gì mà mình đã học được bằng mắt. 

Trời không phụ người có lòng, Kim Jaejoong chẳng bao lâu cũng nhận ra ý chí vươn lên của Junsu, nên nấu món nào cũng chậm đi một chút để cậu có thể bắt kịp công đoạn. Không những vậy một hôm còn cho phép Junsu sử dụng một số lượng nguyên liệu nhất định mà thử tay nghề của mình.

Kim Junsu quả nhiên rất vui vẻ, nhanh chóng bắt tay vào hành xử.

2.

Chẳng chuyện gì có thể dễ dàng hoàn thành ngày lần đầu tiên. Kim Junsu vốn không phải người chỉ cần quệt vài nét có thể ra bức tranh, hay bấm đốt tay là làm được một phép tính. Ai cũng có thể nấu ăn, nhưng Kim Junsu thì không thể nấu toàn vẹn lần đầu.

Với năm ngón tay bị thương, vẫn là rất khó khăn để Kim Jaejoong có thể cản cậu nhóc này, để cậu không dây tất cả máu me lên nguyên liệu.

Kim Junsu đã dang dở món ăn đầu tiên có vẻ “ra hồn” mà cậu làm.

3.

Với urgo, không có gì là không thể. Kim Junsu ngay ngày tiếp theo đã có thể tự do tung hoành với nào là dao, nào là thớt. Lần này, cậu ta làm chậm rãi và từ tốn. Thỉnh thoảng mỉm cười khi thấy một việc nhỏ xíu nào đó đã được mình làm xong, và cười toe toét khi thấy Kim Jaejoong gật đầu phía sau.

Kim Jaejoong nhất quyết không chịu thử món ăn đầu tiên mà Kim Junsu làm, bảo cậu không nên đưa cho người như anh thử. Junsu không hiểu lắm, cậu để nó vào một cái dĩa và quyết định đem về nhà.

Kim Junsu về nhà bằng cửa sau của nhà hàng, khi cậu vừa bước ra cũng là lúc Shim Changmin vừa mở cửa nhà bếp vào tới. Vẫn như cũ, nhà bếp không phải chỉ có thức ăn.

4.

Kim Junsu quả thật không nỡ ăn món ăn mà mình làm ra. Cậu thấy nó khá đẹp mắt nhất là khi đây là lần đầu tiên cậu làm, nghĩ nó chắc không đến nỗi tệ lắm. Kim Junsu quyết định sẽ đem nó về nhà chưng cho đến khi thiu thì thôi.

Nhưng vừa bước đi được ba bước, cậu biết ngay mình không thể nào làm như vậy được nữa. Chính là vì có một người đang nằm thở ở ngõ sau của nhà hàng.

Kim Junsu hốt hoảng đến gần người đó. Người lạ bảo đói, cậu không suy nghĩ thêm liền đưa món ăn đầu tiên mình làm được ra. Bằng sự hạnh phúc tột độ, người lạ ăn với nước mắt trào ra ngoài.

5.

“Anh thấy sao?” - Junsu hỏi

“Khoẻ rồi!” - người lạ trả lời

“Không, nhìn thì tôi biết rồi. Ý tôi muốn nói là anh thấy món đó sao.”

Người lạ trợn mắt nhìn Junsu, sau lại cụp mắt xuống và nói nhanh: “Ngon.”

Kim Junsu chính vì từ đơn giản với âm sắc đôi phần kỳ lạ đó mà sung sướng vô cùng, cả gương mặt ửng hồng lên trong khi môi nở một nụ cười lớn như hoa hướng dương.

Người lạ vẫn nhìn Junsu.

6.

Rất nhanh chóng, họ tự giới thiệu bản thân. Park Yoochun là một đầu bếp, vì một vài lý do cá nhân không tiện tiết lộ mà từ bỏ nghề, chán nản bán luôn căn hộ rồi đi khắp nơi với số tiền còn lại, khi đến đây thì đã không còn tiền lẫn sức. Quá đói đành nằm thở, rất may gặp được Kim Junsu.

Junsu bảo cậu là nhân viên của nhà hàng mà ngõ sau của nó là nơi Yoochun đã nằm thở. Yoochun nghe được thì khịt mũi một chút rồi hơi nhếch hai bên khoé môi.

“Cậu cũng là đầu bếp sao?” - Yoochun hỏi

“Không. Chỉ là chân sai vặt thôi.” - Junsu trả lời

Junsu, thay vì chia tay Yoochun tại đó, lại dợm mở cánh cửa sau của nhà hàng để đưa Yoochun vào trong. Nhưng đến khi đặt tay lên ổ thì lại giật mình đánh thót bảo không được.

“Không ổn. Shim Changmin đang ở trong đó.”

“Shim Changmin?”

“Cậu ấy là bạn của Kim Jaejoong, chủ nhà hàng. Chúng ta tốt nhất không nên vào trong.”

“Họ có thể đang làm gì chứ?”

Rồi Park Yoochun cứ thế dùng tay mình đặt lên bàn tay Junsu đang để trên ổ khoá, vặn nó sang phải và giữ nguyên tay như thế, đẩy cửa vào trong.

Có năm miếng urgo.

7.

Họ quả nhiên là không nên vào trong. Park Yoochun vừa đẩy cửa vào thì đã có một chuỗi hành động diễn ra như thể đang được quay chậm bằng thước phim hoạt hình là mắt của Junsu.

Đầu tiên, Kim Jaejoong quay đầu lại đằng sau, tiếp theo anh buông người cao ráo đang ôm mình, rời khỏi vòng tay người đó mà nhào ngay tới phía cửa. Kim Junsu cứ nghĩ rằng anh ấy sẽ đá văng cậu ra xa rồi đóng sập cửa lại. Nhưng không, Kim Jaejoong lại rất tự nhiên, đi lướt qua Junsu với hai tay dang rộng.

Lúc Kim Jaejoong và Park Yoochun ôm nhau rồi hôn lên má thay câu chào, Shim Changmin và Kim Junsu có cảm giác y hệt như nhau.

8.

Khi biết được rằng Park Yoochun đã ăn hết món mà Kim Junsu vừa làm ban nãy, Kim Jaejoong đã nhìn người bạn của mình bằng đôi mày nhăn lên ra vẻ ái ngại. Chẳng phải món đó có cá hồi sao? Cả Jaejoong và Yoochun đều không thể chịu nổi mùi cá hồi. Vả lại... nó khá vụng về.

“Cá hồi ư?” - Park Yoochun nhìn người bạn của mình - “Mình đã nhìn nên biết, Jaejoong à...

Mình đã nhìn nên biết.”

Park Yoochun đã không nhìn ai hết khi nói câu đó.

Không hiểu tại sao, Shim Changmin đứng lặng nhìn vào đôi mắt của Yoochun, Kim Jaejoong bần thần căng đôi vai mình lên. Và Junsu, cậu bắt đầu khóc khi đứng sau lưng Yoochun.

Cậu biết món ăn của mình tệ, chắc cậu đang khóc vì thế.

9.

Bằng cách này hay cách khác, Kim Jaejoong đã dụ dỗ được Yoochun làm phụ tá đầu bếp của mình. Yoochun biết mình đã bị dụ nên nhất quyết chỉ chuẩn bị nguyên liệu và giúp đỡ Jaejoong trong những việc khá bình thường với một người đầu bếp.

Kim Junsu thỉnh thoảng được nhìn hai người họ - Jaejoong và Yoochun - bằm bằm gọt gọt với tay nghề điêu luyện của mình, cảm thấy khung cảnh đó quả thực đẹp mắt.

Cậu không ở lại sau giờ làm để thử nấu nữa. Duy chỉ có một hôm quên đồ.

10.

Khi Kim Junsu nhẹ nhàng mở cánh cửa ra thì cũng là lúc một mùi hương lạ lẫm đến với cánh mũi cậu. Kim Junsu biết không phải là Jaejoong đang nấu. Quả nhiên, chính là Yoochun.

Junsu lại nhẹ nhàng, đóng cánh cửa lại, chân tự động đến gần Yoochun. Cậu không ngồi xuống chiếc ghế chỉ cách đó một bước chân mà cứ đứng nhìn con người trước mặt mình. Yoochun hẳn biết Junsu đang đứng đó, nhưng có vẻ đang hoàn toàn tập trung vào việc nấu nướng.

Yoochun hoàn thành xong món ăn, anh đặt nó lên bàn và nhìn Junsu.

“Cậu... có thể thử dùm tôi không?”

11.

Kim Junsu, với bàn tay run rẩy, đã ăn thử món cơm hải sản mà Park Yoochun làm.

Đó là món tuyệt vời nhất mà cậu từng ăn.

Kim Junsu ăn một cách từ tốn, chậm rãi như cái cách cậu làm món ăn đầu tiên, hay như cách Yoochun làm món này. Rồi cậu đưa mắt nhìn lên Yoochun:

“Chắc nó có vị ngọt, phải không Yoochun à?”

Yoochun nhìn cậu.

“Em đã nhìn anh làm mà biết thế.”

Hai đôi mắt nhìn nhau.

Dùng nến.

Summary:

Chỉ có nến mới có thể làm nên việc.

1.

Kim Junsu là một nam nhân trẻ tuổi, bẩm sinh đã yêu nam nhân, từ sớm quyết định rằng mình sẽ đeo đuổi Park Yoochun đến khi nào không thể nữa.

Kim Junsu luôn nghĩ, gì cũng có thể trở thành nhỏ, chỉ cần ta xé nó ra mà thôi. Park Yoochun yêu thích con gái, không những vậy còn đặc biệt khinh thường thể loại gay... chuyện nhỏ, chuyện nhỏ. Kim Junsu vui vẻ, mặt dày không kém người nào, bướng bỉnh không thua một ai... chuyện nhỏ, chuyện nhỏ.

Nói thì nói vậy... Kim Junsu đầu óc đơn giản, nghĩ được tới đâu làm ngay tới đó. Bước đầu tiên, bám riết Park Yoochun.

2.

Park Yoochun không phải là hot boy gì dữ dằn. Cùng lắm là có nhiều đứa con gái theo đuổi nhất, và nhiều thằng con trai khinh ghét ra mặt. Mười chín tuổi đã “thống trị” nhiều trái tim của các cô nàng nơi giảng đường đại học, thật ra cũng không phải “thành tích” gì cao siêu.

Kim Junsu, như đã nói, bẩm sinh yêu nam nhân. Dù ai cũng có thể thích được, nhưng không phải ai cũng có thể dễ dàng yêu. Điều này chứng tỏ một người bình thường như Park Yoochun cũng phải có cái gì đặc biệt lắm. Ấy vậy mà khi Park Yoochun dùng ánh mắt căm hờn lẫn khinh khi mà hỏi, Kim Junsu, tôi biết tôi là ai-đồ-lờ của cả trường, nhưng hà cớ gì trai tráng như cậu cũng đeo đuổi tôi chứ? Kim Junsu liền trả lời:

“Thích!”

Kim Junsu kiệm lời, đã vừa nói vừa cười thật tươi tắn. Hai hàng chân mày của Park Yoochun không suy chuyển, ánh mắt vẫn chất đầy sự khinh bỉ.

3.

Chuyện Kim Junsu thích Park Yoochun không phải là không ai biết. Không những vậy, còn khá là rùm beng. Nhưng hình như ai cũng coi đó là chuyện bình thường, thậm chí nhiều cô nàng còn đòi cạnh tranh công bằng. Ngoài Park Yoochun ra thì chẳng ai ra vẻ khó chịu cả.

Nhiều người hỏi này Kim Junsu, cậu chẳng giống bóng, cũng không ra vẻ bê đê, thậm chí về thể thao hay galant còn hơn nhiều người khác (ví dụ như Park Yoochun kia) một bậc. Nói sến một chút thì là có vẻ đẹp trai ngô ngố rất được ưa chuộng, với ai cũng tốt bụng, với ai cũng được lòng... Sao lại nhất thiết đeo đuổi một nam nhân có phần bình thường như Park Yoochun?

Kim Junsu nhún vai: “Ai mà biết.”

Rồi cười.

Cạnh tranh công bằng? Vốn, việc Kim Junsu không có ngực và thừa bộ phận trung tâm đã tạo ra cái thế không công bằng rồi.

4.

Kim Junsu có một người sư phụ họ Kim tên Jaejoong. Người này không phải gay nhưng rất thoải mái, một tay ôm eo bạn gái mà mồm vẫn có thể bàn bạc chuyện cưa trai với Junsu.

Kim Junsu còn có một soulmate đại gia tên đầy đủ Jung Yunho. Người này cũng không phải gay, nhưng vẫn vừa nâng tạ vừa đóng góp rất nhiệt tình vào bài giảng của Kim Jaejoong.

Ngoài ra, bên cạnh Kim Junsu còn có Shim Changmin thiên tài. Người này dĩ nhiên không gay, vừa ngồi vừa ăn khí thế nhưng vẫn không quên dỏng tai nghe và lên tiếng khi cần thiết.

Như đã nói, Kim Junsu vốn đầu óc đơn giản, ba vị này từ đó mà có nhiều việc để làm. Bạn bè, chuyện tình cảm nhất quyết không cản nhau, chỉ giúp đỡ và khuyên can mà thôi. Vậy nên khung cảnh hiện giờ là: dưới bóng cây táo ở sân sau nhà Jung đại gia.

Kim Jaejoong cùng bạn gái tưởng như hình với bóng ngồi ôm eo nhau vẻ rất đại gia trên chiếc ghế gỗ xám thấp tè cạnh chiếc bàn gỗ cũng thấp không kém. Jung chủ nhà ngồi ngay trên thảm cỏ dưới bóng cây mà hì hụi nâng tạ. Shim Thiên Tài cũng ngồi trên ghế cạnh bàn vừa ăn vừa đưa mắt nhìn.

Kim Jaejoong liến thoắng nói: Kim Susu, cậu phải như vầy hắn, như vầy hắn, như vầy hắn... Jung Yunho lại bảo: không được Kim Jaejoong, Kim Susu nhà tôi làm sao có dũng khí được như vậy, phải sửa kịch bản lại chút, như vầy này, vầy này, vầy này...

Kim Jaejoong khi thì gãi cằm đắn đo, khi thì cười ha hả ra chiều ưng thuận, lúc lại cãi nhau chí choé cho đến khi Shim Changmin lên tiếng, được lòng đôi bên.

Tính đi tính lại thì kết luận cũng không cao siêu gì mấy: Kim Susu, cậu một là vẻ dễ thương của mình, hai là cái mông kia.

5.

Kim Junsu không mặc màu hồng, nhất quyết cũng không vì một cái tên Park Yoochun mà mặc màu hồng. Vậy nên Kim sư phụ chỉ còn cách ép cậu ta chìm ngập trong màu trắng. Kim Junsu bắt đầu thay tủ đồ của mình bằng áo sơ mi, trắng.

Ngoài ra, dĩ nhiên chỉ có thể là quần bó lộ vẻ sếch-xì duy nhất mà cậu ta có. Kim Jaejoong đã không cần suy nghĩ gì mà quyết định như thế, ngay lập tức.

Kim Junsu bắt đầu xuất hiện thường xuyên hơn trước mặt Park Yoochun. Đeo đuổi, đeo, và đuổi. Nhiều khi Park Yoochun thể hiện rõ sự bực dọc của mình ra ngoài, làm ảnh hưởng tới cả những người xung quanh. Nhưng Kim Junsu vẫn tiếp tục, nghĩ rằng mục tiêu đầu tiên là trở thành bạn tốt cũng được.

“Park Yoochun, chúng ta có thể thành bạn tốt.”

Không cầu khiến, không nghi vấn. Đó chính là cách nói của Kim Junsu.

Sự việc đương nhiên không đơn giản. Chẳng suy nghĩ, Park Yoochun liền cho Kim Junsu ăn ngay một ly nước mát lạnh kèm theo đá cục trong suốt.

Trời sang hè, điện cúp liên miên, Kim Junsu càng thêm tỉnh táo.

6.

Park Yoochun là một nam nhân trẻ tuổi, bẩm sinh bình thường như bao người khác, có lẽ chỉ khác họ ở điểm không thể nào yêu thích được Kim Junsu.

Park Yoochun không phải là không muốn kết thân với một người bạn, đặc biệt là khi người bạn này tài năng xuất chúng, nghị lực phi thường. Nhưng chính bản thân lại khinh thường thể loại gay kinh khủng, làm sao có thể chấp nhận bên cạnh mình lúc nào cũng có một tên như vậy?

Hắn vốn không phải một người cổ hủ, càng không phải một kẻ bướng bỉnh vô địch. Chỉ là vì trong quá khứ có một số chuyện không hay... Kiểu kiểu như năm mười ba từng bị ây ấy bởi một đàn lang sói trong phòng học thể dục, sáng ra bị phát hiện nằm phơi thây nơi góc sàn lạnh, toàn thân kiệt quệ. Kiểu kiểu như cả gia đình quay lưng. Kiểu kiểu như suốt nhiều năm phải nhận những ánh mắt khinh khi, đến phải rời bỏ quê nhà vào năm mười bảy tới một nơi chẳng ai biết những thứ kiểu kiểu vậy.

Park Yoochun biết rằng kẻ Kim Junsu kia không thấy thoải mái gì khi nhận được ánh mắt khinh bỉ của mình. Nhưng biết sao được? Park Yoochun cứ như đang nhìn mình.

Hắn ta không phải vì thế mà chỉ yêu nữ giới. Những cô gái thơm tho, dịu dàng và những thứ mà đàn ông không thể có được. Chẳng phải người đàn ông nào cũng nghĩ vậy khi so sánh phụ nữ và gay sao?

7.

Kim Junsu thật tình không mưu mô xảo quyệt lắm, nhưng chẳng hiểu sao số phận cứ như xi-nê. Chẳng là đá bóng mệt mỏi nên ngủ quên ở một góc khuất, đến khi tỉnh dậy đã thấy trời tối đen như mực, đi một vòng thì phát hiện ra Park Yoochun.

Bấy giờ đồng hồ vừa mới chỉ quá nửa đêm. Park Yoochun thân muốn tản bộ mà không tìm ra chỗ nên trèo vào, không ngờ lại gặp Kim Junsu.

Hắn hẳn nhiên là vì sự im lặng dịu dàng của Kim Junsu mà đồng ý cùng nhau bách bộ.

8.

“Park Yoochun, chúng ta có thể làm bạn tốt.”

Vẫn là câu nói cũ, không cầu khiến, không nghi vấn. Park Yoochun không nhìn Kim Junsu, bảo rằng không thể được.

“Chắc anh có lý do nào đó...”

Tiếp tục là một câu phỏng đoán. Park Yoochun hướng mắt về phía trước bảo, cậu không bao giờ có thể nói một câu cầu khiến hoặc nghi vấn phải không?

Kim Junsu bước thêm ba bước, đi trước Park Yoochun rồi suy nghĩ, trong lúc suy nghĩ có ngơi chân. Trước giờ ngoại trừ đối với Park Yoochun, còn lại đều có thể nói chuyện thoải mái. Giờ lại không nhận ra bản thân đều nói những câu không rõ ràng với người này.

“Tại sao chúng ta không thể làm bạn tốt?”

Park Yoochun quả nhiên trả lời đơn giản, vì cậu yêu đàn ông.

Kim Junsu không hỏi gì thêm.

9.

Park Yoochun lương tâm có chút cắn rứt, nhưng cũng thở phào ra được một chút nhẹ nhõm khi Kim Junsu không hỏi nữa. Đến khi trăng đã ngang gần mặt thì Kim Junsu cất tiếng:

“Tại sao anh lại không yêu đàn ông?”

Park Yoochun trả lời ngay: vì đàn ông không có ngực.

Kim Junsu nhìn thẳng vào mắt Park Yoochun, sau đó nhẹ nhàng quay lưng đi, nhắm thẳng hướng tường mà leo ra.

Park Yoochun chỉ là đã chuẩn bị câu trả lời từ rất lâu về trước.

10.

Kim Junsu không muốn mình có ngực như phụ nữ, càng không muốn thay đổi bản thân vì một người nào đó - dù đó là người mình yêu.

Chỉ là vừa đi Junsu vừa nhớ một trò thuở nhỏ, sau khi một số chuyện không hay trong quá khứ vừa xảy ra... Kiểu kiểu như bị ây ấy bởi một đàn lang sói trong phòng học thể dục, sáng ra bị phát hiện nằm phơi thây nơi góc sàn lạnh, toàn thân kiệt quệ. Kiểu kiểu như suốt nhiều năm phải nhận những ánh mắt khinh khi, đến phải rời bỏ quê nhà tới một nơi chẳng ai biết những thứ kiểu kiểu ấy.

Kim Junsu ngồi tĩnh lặng trên chiếc ghế duy nhất trong phòng mình tại nhà Jung đại gia, thắp những chiếc nến dù điện không cúp.

Cửa sổ mở, Kim Junsu mỉm cười vì làn gió nhẹ, đổ những giọt nến lên những ngón tay, lên lòng bàn tay.

Chưa đủ, cậu ta đổ lên ngực trái.

Kim Junsu quả thực không muốn mình trở thành nữ nhi.

 End.

Summary:

Vì mọi chuyện chưa kết thúc

1.

Park Yoochun đóng quyển sách nóng hổi vừa được in thử một bản. Mỉm cười, anh bật ra khỏi cổ họng hai tiếng: Hoàn hảo.

Quyển sách anh đang cầm có bìa màu trắng, với những dải mây trắng được vẽ bằng những nét đen đơn giản trên nền trời trắng tinh. Phía dưới, vẫn là những đường màu đen đó, tạo ra những ngôi nhà. Cũng trắng.

Không người, không bóng bay, không chim chóc. Tác phẩm mới của Yoochun đang được anh cầm trên tay. Hứa hẹn đó sẽ là best seller tiếp theo của anh - một nhà văn trẻ.

Từng trang, từng trang của quyển sách, theo anh, là hoàn hảo.

2.

Kim Junsu đang cầm trên tay bản in thử quyển sách của Yoochun. Tên: Vì sự nghiệp.

Thật ra, một cái tên to tát như vậy không hợp lắm với mười lăm câu chuyện tình yêu tình báo được viết đến trong sách. Nhưng Junsu biết thừa sự nghiệp ở đây là sự nghiệp gì. Rõ ràng chỉ là muốn bảo cậu rằng ai lớp du mo đan ai căn sê.

Cậu nhẹ nhàng lật trang đầu tiên.

[ Đây là những câu chuyện có thật nên tên của nhân vật cũng sẽ được giữ nguyên như thật.

Điều thay đổi duy nhất, chỉ chúng ta biết. ]

Junsu mỉm cười, môi tạo thành một đoạn nhạc:

Hoàn hảo.

3.

“Này văn sĩ!” - Kim Junsu gọi. Park Yoochun đang tựa lưng vào ghế mà đu đưa, nghe thấy tiếng gọi liền đưa mắt lên nhìn theo tiếng nói. Anh mỉm cười khi thấy người yêu của mình đang tiến lại gần.

Hai người trao nhau một nụ hôn nhẹ. Xong Yoochun nhìn vào mắt phải của Junsu, hỏi: “Lần này em thấy sao?”

“Mười lăm câu chuyện của chúng ta. Em thích nó” - Junsu cao giọng

“Và...?”

“Hoàn hảo.”

Họ cùng nhau cười tít mắt, và Yoochun đặt lên môi Junsu nụ hôn kế tiếp.

Park Yoochun có một người yêu thích mơ mộng. Anh là người thích viết những điều mơ mộng đó. Cùng nhiều thứ khác, cả hai trở thành một nửa của nhau.

Một nửa đến vô cùng.

4.

Quyển sách của Park Yoochun, với văn phong cũ và chút bình thường của đời thực, một lần nữa trở thành best seller.

Một số nhà bình luận bắt đầu nói về những chi tiết thừa thãi vốn chưa từng có trong những tác phẩm trước của anh. Họ nói rằng trước kia truyện của anh rất kiệm từ, chính vì thế mỗi từ trở nên đặc biệt. Họ bảo, giờ, văn phong anh vẫn vậy, nhưng từ ngữ đã khác nhiều hơn.

Điều này làm cho truyện của anh trở nên dễ chấp nhận hơn, dễ đọc hơn, nhưng cũng thị trường hơn.

Yoochun nhún vai trái trước màn hình ti-vi đang chiếu một diễn đàn trao đổi, bình luận về những quyển sách được phát hành trong tháng. Bên vai phải, Junsu của anh đang cười khúc khích. Những sợi tóc rối bù xù nhưng mềm mại của cậu cọ vào cổ anh dễ chịu.

Thế giới này thật thú vị - cả hai cùng nghĩ.

5.

Park Yoochun là một nhà văn. Năm tháng trôi qua, cuộc sống tiếp diễn và anh không còn là một chàng trai trẻ nữa. Tự quyết định cuộc sống của mình, anh không bị phiền hà hay cản trở gì về phía gia đình hay xã hội. Đơn giản, thời đại anh đang sống là một thời đại lý tưởng cho tình yêu.

Kim Junsu là người yêu của anh. Hai người đã đăng ký kết hôn và cậu ta là người vợ anh yêu. Họ sống một cuộc sống êm đẹp, với tình yêu bình dị và dịu dàng - đôi khi lại có thêm chút gia vị. Những điều đó được anh viết lên thành những trang sách, những câu chuyện chân thật. Chúng dĩ nhiên phải vậy.

Mọi quyển sách của anh đều nói về hai con người mang tên Park Yoochun và Kim Junsu. Tình yêu, lòng ước ao và lối sống của họ. Muôn vàn hoàn cảnh, tính cách, trong những xã hội khác nhau. Tất cả đều là sự thật.

Điều thay đổi duy nhất, chỉ có hai người biết.

Cuộc sống của Park Yoochun dành tặng cho Kim Junsu. Chính vì lẽ đó mà anh quyết định cả kiếp này sẽ viết những quyển sách về tình yêu của hai người - điều mà cậu ta muốn. Junsu dĩ nhiên vui vẻ và cực kỳ hạnh phúc.

Năm Yoochun bảy mươi hai tuổi, anh chết. Junsu vẫn còn mạnh khoẻ và minh mẫn ở tuổi sáu mươi chín. Trước khi Yoochun từ trần, Junsu thì thầm vào tai anh một cách đầy yêu thương:

“Em yêu anh, Yoochun...

Lần này, anh có thể tự do.”

Chưa đầy một tuần sau, Junsu cũng chết.

Và đơn thuần là, mọi chuyện còn chưa kết thúc.

Love, fate and all that other crap

[Chương mở đầu]

Bạn đã nghe câu tục ngữ này rồi, phải không?

Chẳng ai còn trong trắng, bởi cuộc đời đã vấy bẩn tất cả.

Đúng như vậy đấy. Đời vốn là một con mụ xấu xa cà chớn, chuyên quẳng những quả cầu định mệnh vào bạn những khi ít ngờ đến nhất.

Hãy tóm lấy những gì thiết yếu, như tình yêu chẳng hạn.

Tôi ghét phải thừa nhận, nhưng tôi biết bạn đang bảo rằng tôi hơi bị lãng mạn thái quá. Tôi vẫn thường hay mơ mộng rằng tình yêu phải giống như trong phim ảnh hay ca nhạc. Tôi sẽ đứng yên, và không biết từ đâu ý trung nhân của đời tôi bỗng nhiên xuất hiện. Tôi sẽ chôn chân tại chỗ như đang bị thôi miên, và mọi thứ xung quanh sẽ chuyển động như rùa bò. Rồi tự dưng có một va chạm ‘ngẫu nhiên’ nào đó. Một vài thứ linh tinh sẽ rơi lung tung, và tôi phải cúi xuống lượm. Gần như cùng lúc, chúng tôi sẽ ngẩng lên, nhìn thật sâu vào mắt của nhau và rồi… lời nguyền không thể hóa giải sẽ được thốt ra. Chú thích, phông nền phải thánh thót một khúc nhạc hơi bị tình cảm.

Sến nhảm bựa, ha? Tôi thà chết còn hơn kể với bất kỳ ai chuyện này. Hee Jun sẽ trố mắt nhìn, rồi phá lên cười đến chừng nào hai con mắt Gizmo của nó chẳng thể to thêm nữa. Jae Won sẽ nhéo tai tôi và cười khùng khục : ‘Ôi, khỉ cưng dễ thương quá đi!”. Thế là tôi sẽ lại phải nhảy chồm chồm để binh vô đầu nó một quả đích đáng. Kang Ta là thằng lãng mạn vô đối nên tôi chẳng dại gì hé với nó tí ti. Cặp mắt nó sẽ sáng bừng lên, như thể nó đã tìm ra một kẻ đồng cảm tuyệt vời để dông dài kể lể suốt ngày suốt đêm về những mộng mơ, ước vọng và buồn khổ của mình. Hmm, cho tôi xin đi.

Nhưng Woo Hyuk… hmmm… không biết tôi có nên tin cậu ta hay không… Tôi quen cậu ấy lâu ơi là lâu rồi. Tụi tôi đã học chung hồi tiểu học và sơ trung. Cả cao trung, nơi hai thằng gặp bọn Hee Jun, Jae Won và Kang Ta. Có lẽ vì thế nên tôi thân thiết với cậu ấy hơn với lũ kia. Gần đây, tình cảm của chúng tôi càng khăng khít hơn khi dọn vào ở chung với nhau. Woo Hyuk sẽ hiểu, bởi cậu ấy đang cặp bồ với một cô gái tên Na Yeon. Mà ngay cả khi không hiểu, tôi nghĩ cậu ấy cũng chả cười nhạo tôi đâu.

Nhưng… Aphrodite vốn có khiếu hài hước hơi bị quái đản.

Tôi chẳng bao giờ có được mối tình lãng mạn theo kiểu Chàng-Gặp-Nàng của Hollywood.

Từ tất cả những quả cầu định mệnh, chả bao giờ tôi nghĩ mình đã trót yêu một thằng con trai khác.

“Không công bằng! Cậu luôn luôn thằng khi xài thằng Jin Kazama! Xài thằng khác đi, để tôi thắng một lần với!” Woo Hyuk nhăn nhó kêu lên, quẳng cái điều khiển PS2 của mình sang một bên.

Cậu ấy đã cáu bẳn và ủ rũ như thế cả tuần nay. Tôi nghĩ chắc là lại cãi cọ gì đó với Na Yeon. Thấy tội nghiệp thằng bạn thân quá nên tôi rất hay rủ cậu chơi game để giải khuây. Từ sâu thẳm tận đáy lòng, tôi thấy vui mừng một cách kỳ cục, vì thế nghĩa là tôi có thể ở bên Woo Hyuk nhiều hơn chút ít.

“Tốt thôi! Tôi vẫn có thể đá đít cậu dù xài bất kỳ thằng võ sĩ nào, ngay cả Ling Xiao Yu. Cậu chỉ đang không đỡ nổi cái sự thật tôi là SƯ PHỤ Tekken!” Cười tự mãn, tôi buông cái điều khiển của mình và nằm phịch xuống giường, tay gối quanh đầu.

“Nè, ít ra cậu cũng phải để tôi đứng dậy rồi mới tấn công tiếp chứ! Và ngưng xài đi xài lại mấy cái tuyệt chiêu cũ mèm khốn kiếp đó đi…” 

Cậu ăn gian… vân vân và vân vân…

Mỗi khi Woo Hyuk bực bội, y như rằng cậu lại lầm bầm chửi rủa suốt. Tôi im bặt, ngắm thằng bạn thân. Ha ha, cậu ta nổi khùng lên chỉ vì chơi thua. Từ góc nhìn của tôi, cục trái cổ của cậu cứ liên tục nhấp nhô lên xuống trông rất mắc cười khi Woo Hyuk vẫn đang say sưa huyên thuyên. Mỗi lần cậu nói quá nhanh hay cười không dứt là nó lại nhảy nhót múa may như thế. Vừa hài hài vừa ngộ ngộ, vì nó hơi bị nhọn.

“Chết tiệt, cậu có thèm nghe không đấy? Cậu biết tôi ghét bị người khác tảng lờ khi tôi đang…”

Ngay lúc này, cái cục trái cổ của cậu ấy đang nhảy lia lịa như kim máy may. Wow, cậu đúng là đang bực điên luôn…

Giữa mớ bòng bong chửi rủa tục tĩu và nhảm nhí của cậu ta, tôi chợt nghe thấy cụm từ ‘…khỉ ngu…’ Tôi ngước lên và bắt gặp Woo Hyuk đang nhếch mép cười chọc ngoáy vì biết đã khiến được tôi chú ý. Coi, bạn có thể gọi tôi là thằng đần độn, ngu si, dốt nát hay bất kỳ thứ gì, nhưng ‘khỉ’ thì KHÔNG BAO GIỜ! Hừ, chỉ vì lỗ tai của tôi hơi hơi vểnh…

Nhanh như chớp, tôi nhổm dậy và đè nghiến cậu ta xuống giường. Woo Hyuk đờ ra vì bất ngờ trong một giây. Đôi mắt đang mở lớn bỗng nheo lại đầy nguy hiểm. Và cũng nhanh xêm xêm, cậu gượng dậy rồi xô mạnh tôi ra. Tôi ngã bật ngửa, đập mông xuống giường đau điếng. Cậu ta lại nhếch mép cười, cái cười tinh quái hết sức. Tôi vẫn đang phẫn nộ, nhưng nụ cười của cậu là thứ rất dễ lây nhiễm nên tôi đành phải nhe răng cười đáp trả. Không một lời cảnh báo, Woo Hyuk chồm lên người tôi và một trận chiến thọc lét được khơi mào. Chơi cù nhau với cậu luôn luôn vui nổ trời vì hai đứa đều cực kỳ nhạy cảm. Tôi cười ngặt cười nghẹo và quắn quéo uốn éo như con sâu, cố gắng đẩy cậu ra nhưng chẳng thể.

Chịu đựng được một lúc, tôi quyết tâm lật ngược thế cờ bằng cách chọc tay vào sườn cậu và cù lét lia lịa để trả đũa. Gần như ngay lập tức, cậu buông tôi ra và bắt đầu vừa cố nhịn cười vừa cố phủi bật hai tay tôi khỏi sườn. Vô ích thôi.

Được chừng năm phút thì tôi ‘đình chiến’ trước bởi hai tay đã mỏi nhừ. Woo Hyuk vẫn còn cười hinh hích thêm tí chút. Rồi từ từ, cái cục nhọn hoắt trên cổ cậu ta chuyển động chậm dần khi cơn hưng phấn cuối cùng cũng chịu tắt lịm.

“Ha ha, mỗi khi nổi giận cậu lại biến thành một… con khỉ đáng yêu…” Cậu ngoạc miệng vừa để hớp không khí vừa để chọc ghẹo, nhưng tôi chẳng thể vặc lại vì đang bị phân tâm ghê gớm.

Tóc của Woo Hyuk đang hơi hơi ướt vì mồ hôi. Một vài lọn bết dính vào trán cậu. Những lọn khác thì lòa xòa che phủ hờ hững xung quanh gương mặt rất bầu bĩnh. Mắt cậu nhắm nghiền, có lẽ vì mệt. Tôi được dịp ngắm thật kỹ khuôn mặt của thằng bạn thân, tự hỏi tại làm sao từ hồi nào tới giờ mình không nhận ra là nó bảnh trai cực kỳ. Mắt tôi bỗng dưng vơ vẩn lang thang xuống tới miệng Woo Hyuk. Đôi môi của cậu hình như lúc nào cũng đỏ mọng. Cứ như vừa hôn quá nhiều. Ngay lúc này, hai cánh môi chỉ đang khép hờ và ướt át đến không ngờ. Những hơi thở khe khẽ của cậu vẫn còn khá gấp gáp… Nói ngắn gọn, tôi đang trầm tư tự nhủ : ắt hẳn đôi môi cậu ấy phải ấm và ngọt lắm…

Rồi tôi bỗng nhiên nhận thức sâu sắc về tư thế hiện tại của hai đứa. Tôi đang nằm ngửa trên giường, trong khi Woo Hyuk đang nửa ngồi nửa quỳ, kẹp chặt lấy tôi bằng cả chân lẫn tay. Cơ thể của hai thằng đang áp khá là sát vô nhau một cách hơi bị thân mật…

Tôi rên thầm vì những cảm giác ấm áp tuyệt vời này. Nhất là những giây trước, khi đang quằn quại vì bị cù, cơn hưng phấn cao độ bốc lên cuồn cuộn từ cơ thể cậu ấy truyền sang tôi… Tôi đang cân nhắc, liệu mình có nên thọc lét cậu một trận nữa hay không. Lũ cảm giác này sắp sửa làm tôi phát khùng lên…

Im lặng cứ mãi lơ lửng. Bị vây phủ bởi những ý nghĩ rời rạc và lạ lẫm, tôi ráng sức tập trung đầu óc trở lại. Không hiểu sao ánh mắt của tôi bỗng đậu xuống cái cổ trắng ngần của cậu.

Chả biết bị thứ gì nhập vô, bất thình lình tôi hơi rướn người và ngập ngừng giơ tay lên. Ngón cái của tôi nhẹ nhàng chạy dọc theo phần nhô ra bên dưới yết hầu cậu ta. Cứng thiệt, đúng y như tôi nghĩ. Tôi cảm thấy cậu giật mình vì sự đụng chạm đó.

Mắt Woo Hyuk hé mở trong một thoáng. Cậu chăm chú nhìn thẳng vào tôi.

Lạ kỳ thay, hai mi mắt nặng nề khép lại.

Cũng hên, tiếng chuông điện thoại chợt reo váng lên, cắt ngang thoáng chốc mê mờ tội lỗi của tôi. Đôi mắt Woo Hyuk mở lớn. Cậu buông vội tôi ra và chạy xuống phòng khách để nghe điện thoại. Tôi thấy gò má nóng bừng vì ngượng khi nhận ra mình vừa làm gì. Ôi, khỉ thật.

Chả biết phải làm gì kế tiếp, tôi đứng dậy và lê thây về phòng mình.

Có thể hóng hớt được một mẩu của cuộc điện đàm vọng ra từ sảnh ngoài. Tôi nghe tiếng Woo Hyuk đằng hắng vài lần. Căn cứ vào cái giọng trầm trầm hiện tại của cậu, ắt hẳn đầu dây bên kia là Na Yeon. Chết tiệt. Bao nhiêu công sức tôi đổ ra những mong thằng ôn nguôi ngoai phấn chấn coi như tan thành mây khói.

“Ừ, được rồi… Mấy giờ? Ừ, anh đi liền cũng được… OK, để anh đi thay đồ. Chừng mười giờ sẽ qua đón em. Bye.”

Thông thường Woo Hyuk sẽ kết thúc cuộc gọi bằng ‘anh yêu em’, nhưng hôm nay thì không. Giọng cậu ta đượm vẻ gượng gạo và cộc cằn một cách bất thường.

Tôi vội vã phắn vô phòng, những mong rũ bỏ cú sốc bự chảng khi nãy.

Ờ, tôi biết, tôi đã nghe lén họ nói chuyện. Thì sao? Tôi chẳng hề có ý trung nhân của đời mình. Tôi vẫn chưa tìm thấy người yêu lý tưởng phù hợp. Tôi chợt nhận ra mình đang đố kỵ chỉ vì Woo Hyuk và Na Yeon ở bên nhau. Và đâu đó trong sâu thẳm đáy tim, tôi vô thức cảm thấy ghen tỵ khi nghĩ đến cảnh Woo Hyuk âu yếm kéo Na Yeon vào lòng, trìu mến vòng tay ôm eo cô ta, cằm tựa nhẹ lên bờ vai. Cái cách cậu thủ thỉ những lời dịu ngọt tầm phào mỗi khi tám với cô ả qua điện thoại. Cái kiểu theo đuôi bất kể nơi đâu hay đối xử với cô nàng như với một bà hoàng.

Tôi ghen mà không hiểu tại sao. Có lẽ tôi vẫn đang cố phủ nhận, nhưng tôi nghi đầu dây mối nhợ chính là ở thái độ dạo gần đây của mình khi bắt đầu quan tâm đến Woo Hyuk nhiều hơn một người bạn. Đúng là cậu không có vẻ ngoài siêu xinh siêu đẹp như Kang Ta, nhưng cậu trông khỏe mạnh và hấp dẫn theo cách riêng. Cậu không hay nói nhiều, nhưng giọng nói thì – theo như tôi để ý – rất trầm ấm và êm tai. Chuyện đáng ngại nhất chính là phản ứng của tôi trước sự hiện diện của cậu. Nhìn ngắm lâu hơn bình thường. Rất sẵn lòng giết thời gian cùng cậu. Và… những cảm giác kỳ lạ cứ chạy dọc sống lưng mỗi khi tụi tôi vô tình chạm trúng tay nhau hay mỗi lúc cơ thể hai đứa gần gũi tiếp xúc. Có lẽ tôi chỉ hoang tưởng, nhưng những lúc cậu ta nghĩ tôi không chú ý thì kỳ thực tôi lại thấy ánh mắt của cậu chăm chú nhìn tôi với những cảm xúc khó dò. Hay như dạo này, những lúc cậu và Na Yeon đang bên nhau, tôi cứ cảm thấy ánh nhìn của cậu ghim chặt vào người mình, và tôi lại lịch sự quay đi…

Bỗng nghe tiếng gõ cửa, tôi ngước lên và thấy Woo Hyuk đang đứng bên ngoài. Thiệt ngớ ngẩn làm sao, tôi bị cậu ta phát hiện đang đứng thẫn thờ chôn chân ở giữa phòng, chỉ để nghĩ ngợi. Mặt tôi lại đỏ ửng. Cậu hắng giọng, nhưng cậu chưa kịp mở miệng tôi đã vội buộc mình phải lên tiếng trước để thanh minh chút chút về những gì đã xảy ra.

“Nè… về chuyện lúc nãy, tôi…” Giọng tôi lạc hẳn đi. Chẳng biết phải nói gì. Nó chỉ là một tai nạn. Tôi nghĩ vậy đó.

Tia nhìn của Woo Hyuk dường như xuyên suốt tôi. Cái cách tránh tiếp xúc bằng mắt của cậu khiến tôi bối rối. Có lẽ cậu ấy cũng đang cảm thấy không thoải mái vì ‘sự cố’ khi nãy. Cậu chỉ gật đầu, thấu hiểu lời xin lỗi câm lặng của tôi đúng kiểu một đứa bạn tốt.

“Để sau đã. Giờ tôi đi gặp Na Yeon.” Cậu nói rất khẽ, rồi bỏ đi.

***

Tối muộn hôm đó, tôi vẫn năm ườn coi ti-vi ngoài phòng khách. Tôi hy vọng nếu cứ nhìn như thôi miên vào cái màn hình hàng giờ liền thì mớ ký ức về những chuyện xảy ra hồi sáng sẽ bị chùi sạch khỏi trí nhớ.

Nhưng sự tập trung của tôi cứ luôn bị đứt đoạn.

Tôi thờ ơ nhìn những người trong màn ảnh trò chuyện với nhau, môi cử động nhưng không hề phát ra tiếng. Giọng nói của họ đã bị nhấn chìm bởi âm thanh của lý trí đang gióng giả trong đầu tôi lúc này. Tôi đã cố gắng đàn áp triệu triệu câu hỏi lũ lượt ập đến, nhưng chúng vẫn cứ lì lợm bám riết lấy tâm trí tôi, tầng tầng lớp lớp.

từkhinàomìnhbắtđầucảmthấynhưvầy…

mắcchứnggìcứnghĩtớinayeonlàmìnhlạibựcbội…

woohyukchỉlàbạnthâncủamìnhthôimà…

thíchmộtthằngcontraikhácthìcũngđâucógìsaitrái…

suynghĩcủamìnhsaomàkỳcụcquáđi…

cóphảichỉmìnhmìnhlàkỳcụchaykhông…

tạisaolúchaiđứaômnhaumìnhlạicảmthấytuyệtvờiđếnthế…

cóphảichỉtạikíchthíchtốcủatuổidậythìhaykhông…

Tôi chẳng thể nào đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho mớ lộn xộn đó. Đáng sợ thay cái cảm giác sớm muộn gì tôi cũng sẽ phải trả lời. Nhưng lúc này… tôi vẫn đang phải đấu tranh tư tưởng để cố gắng tập trung vô chương trình truyền hình mình đang xem.

Chậm chạp, vô thức, mi mắt tôi bắt đầu nặng dần. Tôi rơi tõm vào một cơn mộng vô nghĩa xáo động không ngưng. Về chức vô địch của Đại hội Thiết Quyền và về lũ khỉ khọt khoái bị cù lét. Ý thức cuối cùng sót lại là tôi tự dưng được bao phủ bởi một thứ gì đó rất ấm áp dễ chịu, rồi được nhấc bổng lên không trung.

Bay…

Khi tôi tỉnh giấc thì đã quá nửa đêm. Chắc chừng hai giờ khuya. Tôi vốn là kiểu người không thể ngủ quá lâu.

Tôi dụi mắt cho tỉnh hẳn. Ý thức rõ ràng giúp tôi nhận ra mình đang nằm trên giường, trong phòng riêng. Thiệt kỳ quái. Ắt hẳn lúc nãy trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh tôi đã tự lê thây về phòng…

Tôi ngồi dậy, quyết định đi vẩn vơ. Chưa bao giờ tôi ngủ lại được nếu tự nhiên giật mình thức giấc giữa đêm. Lọ mọ đi vô cái phòng khách tối om, tôi chợt phát hiện rằng cửa ban-công đang để ngỏ. Rõ ràng cả ngày nay nó vẫn đóng kia mà?!

Tôi đánh liều mò lên tầng trên. Và giật bắn mình bởi một bóng người lẻ loi trong góc tối.

“H-hyukah… phải cậu đó không?”

Cái bóng quay đầu và chậm rãi tiến về phía tôi. Cảm giác nhẹ nhõm lan tỏa khắp châu thân khi tôi nhận ra mớ tóc màu vàng cam quen thuộc. Woo Hyuk dừng lại khi còn cách chỗ tôi đứng vài bước chân. Đủ gần để tôi có thể nhận ra lờ mờ nét mặt cậu giữa màn đêm u ám.

“Cậu làm gì mà giờ này vẫn còn thức?” Tôi hỏi.

“Đâu có gì.” Cậu đáp, với một chút ngập ngừng. Khiến tôi cảm thấy rõ ràng lả có chuyện không ổn.

“Gì mới được? Cậu không bị gì đấy chứ?”

“…Không thật mà.”

“Chắc không?”

“Ừ mà, tôi sẽ sống mà… cám ơn cậu đã quan tâm, khỉ à.”

“NÈ…!”

Woo Hyuk cười khẽ. Tôi có thể hình dung ra nụ cười của cậu dịu dàng đến chừng nào…

“Cậu luôn luôn biết cách làm tôi cười.”

Bất thình lình cậu ngồi bệt xuống sàn lát đá, tựa lưng vào cánh cửa ban-công đang khép hờ. Tôi ngắm cậu ngước nhìn vô định vào khoảng không mờ tối xa xăm, khoe ra chiếc cổ trắng ngần của mình. Tôi khẽ khàng ngồi xuống bên cạnh cậu. Cùng nhau chúng tôi thả hồn lên những ngôi sao nhấp nháy xa tít tắp đầy ắp cả bầu trời mùa hạ. Bên dưới kia, vô số ánh đèn đô thị càng góp thêm nét huyền ảo cho bầu không khí bao quanh hai đứa.

Tụi tôi nói chuyện lâu cỡ nào, có trời mới biết. Về những thứ tầm phào bá láp như nếu không còn một giọt sữa nào thì sẽ ra sao, hay ai sẽ lãnh ‘trọng trách’ sửa chữa cái khung gỗ mẻ một miếng lớn trên cửa trước… Jae Won vốn là thằng không được thấp cho lắm…

Im lặng một lúc, rồi chủ đề của cuộc tán gẫu ngoặt trăm tám sang chuyện lúc nhỏ, vì cả hai đứa đều bỗng dưng hồi tưởng về ‘những ngày xưa thơ bé’. Tôi tức đến suýt bốc khói khi thằng ôn vừa nhăn nhở vừa nhai nhải là nó vẫn ấn tượng sâu sắc về hai cái tai của tôi trong ngày đầu tiên tới trường mẫu giáo, vội trả đũa rằng tôi cũng chẳng thể nào quên kiểu tóc ngu thấy ớn (y như cái tô úp) của nó bữa đó. Rồi cả hai đứa cùng cười hô hố, nhớ lại vẻ mặt của Hee Jun lúc trông thấy Kang Ta ở lớp kế bên. ‘Ối giời ơi, con nhỏ kháu chết bỏ chúng mày ạ!’, nó rú lên như vậy đó. Thiệt mất mặt…

Không thể nhớ mình đã cười nhiều đến mức nào. Tôi thở ra khoan khoái và sự yên lặng dễ chịu lơ lửng đậu giữa hai đứa. Trong khoảnh khắc, tất thảy ưu tư căng thẳng vớ vẩn trong tôi dường như đã bị lãng quên. Cho đến khi cái cảm giác đang bị theo dõi lại mon men mò đến. Tôi hơi hơi nhích người, quay đầu và bắt gặp ánh mắt của Woo Hyuk.

“Hoyah?”

“…Hmmm?”

Bất thình lình hơi thở của cả hai trở nên lặng ngắt. Mùi nước hoa sắc đậm của cậu dường như đã ướp đẫm không khí quanh tôi. Gai ốc trên tay sởn hết cả lên. Vì cái lạnh của đêm khuya, hay còn vì thứ gì khác…?

“Cậu có biết mình đã nói mớ khi tôi đưa cậu về giường không?”

Tôi giật nảy người. Giờ thì chi tiết thức dậy trên giường thay vì trên ghế đã hoàn toàn sáng tỏ.

“Ờ… cám ơn cậu nha… Thiệt sao? Tôi đã nói gì vậy?”

Vì vài lý do vớ vẩn nào đó, tôi lại bắt đầu cảm thấy căng thẳng và tội lỗi bởi những điều mình lỡ nói trong giấc ngủ. Lỡ đâu… tôi đã bị bội phản bởi lũ tư tưởng sâu kín tận đáy tâm can? Liệu cậu có biết dạo gần đây tôi đã rối rắm đến mức nào vì tình cảm của chính tôi?

Hơi hơi lâu sau cậu vẫn không trả lời. Rồi một câu hỏi bỗng cắt toạc không gian thinh lặng.

“Cậu có tin vào tình yêu… định mệnh… và những thứ vớ vẩn khác hay không?”

“Ờ thì… tôi nghĩ là…”

Tôi ba hoa lung tung với cậu về cái xì-tai tình yêu lý tưởng của mình, về cuộc gặp gỡ định mệnh với một đứa-chắc-là-tôi-sẽ-yêu nào đó giữa khung cảnh lãng mạn bất tận. Dù vì những lý do ngang bướng gì gì đó không thể hiểu nổi, nhưng trong thâm tâm tôi đành phải thừa nhận rằng mình cứ mãi lặp đi lặp lại những cụm từ kiểu như ‘tri âm tri kỷ của tôi’, ‘một nửa của riêng tôi’ (thuần túy là thuật ngữ, vẫn chưa xác định rõ giới tính), hay mơ mộng hơn, ‘tình yêu của đời tôi’… Cố mỉm cười gượng gạo, tôi thầm nghĩ ắt hẳn những điều mình vừa nói nghe sáo rỗng, sến súa và ngu ngốc tàn khốc…

Nhưng Woo Hyuk không hề cười.

“Hoyah…?”

“Hyukah…?”

…………

“Cậu có tin rằng chuyện chẳng thể chọn lựa người mình sẽ yêu… có thể xảy ra với…… bất kỳ ai hay không?”

Giây phút này đây, dường như cậu và tôi đang rất gần nhau. Cậu kiếm tìm trong mắt tôi, mong đợi một câu trả lời. Trong khoảnh khắc, tôi như đã thấy những tia cảm xúc chân thành chói lóe trong mắt cậu. Trần trụi và mãnh liệt. Tôi cố gắng phớt lờ ý nghĩa của chúng, nhưng cái cảm giác cậu đang cố nói cho tôi biết điều gì đó vẫn cứ chờn chợn. 

Cảnh tượng Woo Hyuk và Na Yeon vui vẻ bên nhau bỗng nhiên hiển hiện trong tâm trí. Cơn đau thốn của ghen tuông lại dậy sóng lòng tôi, như một con mãng xà mắt xanh lè. Nhưng lần này, thêm một cảm giác khác cũng đang ập đến.

Cảm giác vừa đau đớn vừa sung sướng của hiện thực phũ phàng và vô dụng. Thật đến mức nghẹn thở. Câu trả lời cho thái độ ghen tỵ của tôi trước bạn gái của cậu.

“Tôi… tôi phải đi đây.” Tôi thì thầm, vội vã đứng dậy mà không ý thức được mình đang làm gì. Woo Hyuk bỗng như bừng tỉnh cơn mê, quay mặt đi và lại hướng mắt lên khoảng trời vô định thẫm mờ. Chân tôi đã lê bước về phòng, nhưng mắt tôi vẫn buộc phải ngoái nhìn. Cậu ngồi đó, co ro và yếu đuối, tay ôm lấy đầu gối. Những xúc cảm hằn sâu trên khuôn mặt cậu khi ánh mắt của cả hai vô tình chạm nhau cứ mãi ám ảnh tôi.

Đau…

Sau đêm đó, chúng tôi tránh mặt nhau suốt. Hay chí ít là tôi né cậu ấy y như tránh hủi. Bên ngoài, tôi vất vả nỗ lực để giữ nguyên cái vẻ mặt phớt tỉnh Ăng-lê, nhưng bên trong lại là chuyện khác…

Tôi biết phải diễn tả thế nào, khi đùng một cái những cảm xúc kỳ cục bỗng dưng nảy nở trong tim mình, về cái đứa vốn là bạn thân nhất của tôi từ bấy lâu nay? Bạn thân nhất, đã-và-đang bồ bịch với người khác?

Bạn thân nhất, cũng là con trai…?

Đời vốn dĩ cà chớn thấy ớn, tôi nói rồi mà.

Suốt ngày suốt đêm tôi chỉ biết quanh quẩn ủ rũ trong phòng, thao thức, tuyệt vọng hết chúi mũi vô màn hình máy tính lại đến ti-vi, hoặc loay hoay sửa chữa cái khung cửa chính, v.v… những mong đừng có phát khùng. Trong bữa cơm đa phần là tôi cắm mặt vô cái tô mà ăn mải mốt. Tôi cố vờ như không hề biết rằng Woo Hyuk cứ chốc chốc lại liếc trộm mình một cái, hay vờ bị điếc đặc mỗi khi vài ba mẩu điện đàm của cậu tình cờ rơi rớt trúng lỗ tai. Và tôi càng đặc biệt vờ vịt giả ngu những lúc đang nằm ườn trên giường, ngắm đắm đuối cái trần nhà mà lắng nghe tiếng gõ nhè nhẹ vào cánh cửa trước khi tiếng cậu vang lên, thông báo rằng mình sắp sửa ra ngoài. Vậy đấy, tôi tự động liên hệ cụm từ ‘ra ngoài’ với ‘đi gặp Na Yeon’…

Nhưng dù có làm bộ làm tịch để tự lừa dối chính mình đến mức nào đi nữa, tôi vẫn không thể nào phủ nhận rằng mình đang rất nhớ cậu ấy. Không phải nhớ vì những cảm xúc kỳ cục điên khùng vô tình nảy nở bữa giờ đâu nghen, chỉ là những điều giản đơn… nói chuyện, đùa giỡn, ngắm cục trái cổ nhọn hoắt và nhìn vào đôi mắt của cậu mỗi khi cậu tươi cười… 

***

Một bữa nọ, khi tôi đang nằm ườn trong phòng như thường lệ thì chuông điện thoại bỗng reo váng lên. Nghĩ ắt hẳn người gọi đến lại là Na Yeon, tôi chả thèm ra nghe. Cái điện thoại vẫn gióng giả, một, hai, ba, bốn rồi năm hồi chuông liên tiếp. Mắc cái giống gì mà thằng Woo Hyuk chả chịu nhấc máy giùm đi?! Bực điên lên, tôi vừa lầm bầm chửi vừa nhấc thây khỏi giường và chạy ào vào phòng khách.

“A-lô?” Tôi hỏi, hơi xẵng giọng. 

“Tony hyung? Em Jae Won nà! ANH SAO DZẠ?!? Dạo này sao anh lặn biệt dạng luôn dzạ?!”

“Ờ… bận rộn chút đỉnh…”

“Ô em hiểu gòy. Mà sao cũng được, tối nay tụi em ra quán chơi nè. Chỗ cũ, giờ cũ. Anh và Woo Hyuk hyung có đến không?”

“Hmmm… Ờ được, anh sẽ đi. Để hỏi Hyuk đã.”

“Được gòy. Lát nữa gặp lại anh heng hyung! Tạm biệt!”

“Tạm biệt…”

Tôi đặt điện thoại trở lại chỗ cũ, và chậm rãi xoay người. Bỗng có tiếng cửa phòng tắm bật mở và Woo Hyuk xuất hiện trước mặt tôi. Phải gắng hết sức để trấn tĩnh, quai hàm tôi mới không rớt độp xuống sàn và mắt cũng không vọt khỏi tròng.

Cậu đứng đó. Khỏa thân hoàn toàn, ngoại trừ chiếc khăn tắm đang giữ lỏng lẻo trễ tràng quanh eo. Hẳn là cậu đang tắm thì nghe tiếng điện thoại reo, vì lúc này đây cậu hầu như ướt sũng. Nước nhỏ ròng ròng từ mái tóc xuống bờ vai rộng, rồi len lỏi chảy dài dọc theo dáng người mảnh khảnh nhưng rất rắn rỏi…

“Ai vậy?” Cậu cất tiếng hỏi. Phải mất vài giây tôi mới hiểu ra cậu đang nói gì.

“…Jae Won. Tụi nó rủ mình ra quán chơi. Có muốn tôi gọi điện thoại báo là cậu không đến được vì bận đi riêng với Na Yeon không?”

Tôi nhìn rất sâu vào mắt Woo Hyuk, không thể dứt ra. Tôi sợ phải nghe câu trả lời của cậu. Càng sợ hơn cái cảm giác đau nhói xuyên buốt lồng ngực trái mỗi khi chủ đề về bạn gái của cậu cất lên.

“…Không.” Cậu đáp, cũng xoay đầu nhìn thẳng vào mắt tôi. Vẻ thận trọng nháng lên trên nét mặt. “Tôi đi được… Tôi không bận.”

“Tốt.” Tôi lên tiếng, hơi lúng túng vì sự nhẹ nhõm lan tỏa trong giọng nói của chính mình. Tôi quay đi, định bỏ về phòng. Nhưng khi đi ngang qua Woo Hyuk, bất thần cậu chộp lấy cánh tay tôi. Bất đắc dĩ tôi phải ngước nhìn vào mắt cậu.

“Quán cũ, giờ cũ, như mọi khi?” Từ tốn, cậu hỏi.

“Ph-phải…” Tôi ấp úng đáp, bối rối vì bị ‘soi’ quá kỹ.

Bấn loạn, tôi hết ngó vào cánh tay trắng trẻo đang giữ chặt tay mình lại đến đôi mắt đen thẫm vẫn đang ngắm mình chăm chú. Ắt hẳn cũng cảm thấy rằng tôi đang rất không thoải mái, cậu vội buông tay ra. Mặt đỏ bừng, tôi đẩy bật cậu sang một bên mà chạy biến về phòng để thay quần áo.

Ánh đèn laser muôn màu biến ảo lia ngang dọc trong căn phòng tối om như hũ nút và chật nghẹt như hộp cá mòi. Khói mờ mịt không ngớt phun ra từ trên cao, cố gắng tạo nên một bầu không khí kỳ bí huyền diệu, nhưng hơi hơi thất bại vì cái hỗn hợp gớm lợm của mồ hôi lẫn thuốc lá đặc quyện luôn bảng lảng thường trực. Tiếng nhạc vũ trường công suất lớn xuyên suốt khắp phòng và xuyên thủng màng tang. Những cơ thể, áp sát vào nhau thành từng cặp từng cụm, đung đưa cuồng loạn theo giai điệu mọi rợ không dứt đó.

Tôi ôm bụng cười như điên khi ra nhảy với Jae Won. Nó luôn làm tôi chết cười vì cái kiểu huơ tay múa chân của mình. Tay chân dài ngoẵng, lúc này trông nó y chang con bạch tuộc bự trong một điệu nhảy đặc biệt vui nhộn. Kỳ thực, thằng nhóc trông dễ thương biết bao với cái vẻ mím môi tập trung trăm phần trăm để không chút sai nhịp… Bọn con gái đằng sau bắt đầu ngưng nhảy, túm tụm nhìn ngó và cố gắng kìm nén để không phá lên cười. Tội nghiệp Jae Won…

“UM… JAE WON À?” Tôi gào lên, cố át tiếng nhạc.

“DZÌ DZẠ HYUNG?” Thằng nhóc ngay lập tức gào đáp trả, vẫn đang nhảy kiểu ‘thợ lặn’. [*Chú thích của tác giả : Bạn biết kiểu nhảy đó phải không, cái kiểu một tay nắm mũi còn tay kia quơ quào loạn xạ trong khi người thì hụp lên hụp xuống như thể đang bơi ấy…]

“MÌNH ĐI UỐNG CHÚT GÌ ĐI!” Tôi bịa đại ra một lý do để nó ngưng làm xấu mặt chính nó bằng cái trò đó.

“ĐƯỢC GÒY HYUNG!!!” Thằng nhỏ vui vẻ hét toáng lên, ngừng cái màn tiến lùi kiểu ‘người đang chạy’ của mình. 

***

Tôi kiệt sức thả người xuống một chiếc ghế đẩu gần quầy rượu, bên cạnh Jae Won. Nó gọi một vại bia và bắt đầu nốc ừng ực như thể nước lã. Tôi xoay người, tăm tia săm soi đám đông đang cuồng loạn trên sàn nhảy và bỗng phát hiện ra Woo Hyuk. Cậu đang ngồi lẻ loi trong một ngăn khuất ở mút cuối quán rượu. Trông cậu cô độc và trầm cảm tệ. Tự dưng tôi thấy tội lỗi ghê gớm vì đã bỏ mặc cậu mà ngồi đây hú hí với Jae Won… Không biết Hee Jun và Kang Ta biến đâu rồi nhỉ? Khi đã (cố) dứt mắt khỏi Woo Hyuk, tôi bỗng đối mặt với một Jae Won đang nhìn mình với biểu cảm lạ kỳ.

“Hyung à…” Nó cất tiếng. “Anh có phiền không nếu em hỏi anh vài chuyện?”

“Không hề. Hỏi đi nhóc…”

Đắn đo chút ít rồi thằng nhóc tiếp tục.

“Um… thế… dạo này giữa anh và Woo Hyuk hyung xảy ra chuyện gì dzạ?”

“Ý mày là sao?” Tôi giả ngu, hỏi ngược lại.

“Ý em là… Gần đây anh cư xử… kỳ cục lắm… nhất là ở trước mặt mọi người… Em muốn nói, thường thường anh đâu có thích nhảy với em mà chỉ toàn khoái nhảy với ảnh kia mờ… Có phải… hai anh cãi lộn hay gì đó không dzạ?”

Tôi không biết phải trả lời nó thế nào. Chẳng lẽ tâm sự ẩn ức của tôi lại rõ rành rành đến thế?

Jae Won, rất có vẻ hiểu chuyện, nói tiếp.

“Mà sao mấy bữa nay hỏng thấy bóng dáng bồ ảnh đâu hết trơn dzậy ta?! Em nghĩ anh nên lại đó hỏi thăm ảnh thử coi. Trông mặt ảnh buồn thiu như con chàng hiu…”

“Ờ…” Tôi tán thành, nửa thương xót nửa băn khoăn khi nghĩ đến Woo Hyuk. Rồi mạnh dạn đứng dậy, tôi chen lách đám đông hỗn tạp, tiến về phía cuối quán và bỏ lại Jae Won ở quầy rượu, hớn hở nốc tiếp vại bia thứ hai của mình.

***

“Chào…”

Tôi đứng cạnh lối vào, cố ra vẻ tự nhiên hết mức có thể.

“Chào.” Woo Hyuk chua chát đáp, hơi ngạc nhiên khi thấy tôi chẳng còn tìm cách tránh né cậu.

“Trông cậu chán còn thua con gián.” 

Cậu mỉm cười trước nỗ lực ‘phá tan băng giá’ của tôi.

“À… nãy giờ tôi ngắm cậu ngồi với Jae Won ở đằng kia… Cuối cùng cũng tìm cách né được nó rồi hả?”

Tôi hốt nhiên đỏ bừng mặt vì ý nghĩ nãy giờ mình bị cậu ta ngắm mà không hề hay biết.

“Ờ phải… Thế Kang Ta và Hee Jun đâu rồi?”

Woo Hyuk không trả lời mà chỉ khoát tay về phía một góc khá kín đáo trên sàn nhảy. Tôi hướng mắt nhìn theo và ngay lập tức đứng chết trân. Tôi thấy một thằng tướng lập dị tóc đỏ chói và một con nhỏ cao hơn nó chút chút tóc ngắn ngủn đen mượt. Cả hai đứa đều có vẻ dở say dở tỉnh. Nếu như không có tiếng nhạc giậm giật uỳnh oàng vang dội xung quanh, tôi dám chắc tất thảy nhân loại sẽ nghe rõ mồn một tiếng rên rỉ của hai đứa nó. Nhưng rồi tôi nhận ra… cái đứa cao cao tóc đen đó… không phải là con gái… mà là Kang Ta! 

Vẫn đang chới với trong cú sốc quá mạng, chợt tôi có cảm giác Woo Hyuk đã đứng dậy và tiến lại gần mình. Tôi cảm nhận được hơi ấm của cơ thể cậu ép sát vào lưng mình. Chúng tôi đứng như thế một lúc hơi bị lâu, chăm chú nhìn hai thằng bạn đang xoắn lấy nhau không chút ngượng ngùng ở đằng xa. Rồi bất thình lình tôi nghe giọng cậu vang lên, kề sát bên tai.

“Muốn nhảy không?”

Hơi thở của cậu mơn man trên thịt da, khiến tôi vô thức rùng mình.

Tôi gật đầu.

“Khỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉ!!!”

Tôi rên thầm khi lại phải ghé vai khênh cái cùm nặng chịch đã say khướt mang tên Lee Jae Won vô nhà. Lẽ ra hồi nãy tôi không nên bỏ nó một mình ở quầy rượu…

“Nào, giờ thì đặt nó xuống giường.” Woo Hyuk vừa hướng dẫn vừa đỡ Jae Won khỏi vai tôi. Suốt từ nãy tới giờ thằng nhóc đã lải nhải lảm nhảm đủ mọi thứ tào lao trên trời dưới đất, nhưng chúng tôi hầu như mặc kệ.

“Em khỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉ, anh khỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉỉ… Toàn khỉ là khỉ… Hí hí hí… Tony hyung nhìn y chang con khỉ! …Whoaaa… Kang Ta hyung và Hee Jun hyung mới vừa giở trò khỉ phải hông hyung deul?” [T/N : “Deul” là phó từ chỉ số nhiều trong tiếng Hàn. “Hyung deul” tương đương với “các anh”.]

Kang Ta và Hee Jun không hiểu sao đã biến mất một cách bí ẩn. Bỏ mặc hai đứa tôi ‘chiến đấu’ với Jae Won. Tôi tránh sang một bên, ngắm Woo Hyuk kiên nhẫn dỗ dành thằng nhóc để nó chịu nằm xuống. Chẳng hiểu sao nhân loại cứ kêu ca ta thán rằng trông Woo Hyuk lạnh lẽo quá, y như băng như đá. Chắc vì họ không được may mắn như tôi lúc này, đứng ngắm cậu nhẫn nại vật lộn với thằng say xỉn kia. Cậu đúng là người tốt. Na Yeon quả là may mắn khi có được cậu.

Cuối cùng Jae Won cũng ngưng quậy phá hò hét. Gần như ngay lập tức, nó rơi tõm vào giấc ngủ với tiếng ngáy rền vang. Woo Hyuk ngẩng lên, bắt gặp tôi đang nhìn cậu trân trối. 

“Đi thôi.” 

***

Chuyến đi về nhà hoàn toàn chìm trong yên lặng. Woo Hyuk mải tập trung vào việc lái xe và vào con đường phía trước. Tôi thì tự dưng nảy ra hứng thú chú mục săm soi mớ khung cảnh vùn vụt trôi ngoài cửa sổ xe hơi.

“Tôi đã chia tay với Na Yeon.” Đột nhiên cậu lên tiếng, khiến tôi giật mình.

“Ồ…………………… Vậy hả?”

Hàng tỷ tỷ cảm xúc vỡ òa trong tôi cùng một lúc. Ngạc nhiên, choáng váng, nhẹ nhõm. Hy vọng.

Nhưng lý trí đáng ghét lại đã gióng giả những hồi chuông cảnh báo. Giờ thì mọi chuyện sẽ thế nào đây?

“Ừ… cái đêm cậu ngủ quên ngoài phòng khách ấy…”

Sau đó cả hai đứa lại tiếp tục thả hồn vào sự yên ắng miên viễn.

Tôi biết cậu và tôi đều đang nghĩ đến điều gì. Về điệu nhảy lúc nãy.

***

Thoạt tiên, chúng tôi cũng chỉ đưa đẩy vơ vẩn trong những bài techno thông thường. Chỉ để tận hưởng sự thoải mái khi được ở bên nhau sau chuỗi ngày tránh né giận lẫy đã qua. Nhưng động tác của cả hai vẫn ăn ý tuyệt vời. Rồi, một bản RnB nhẹ nhàng bỗng thong thả cất lên, choán ngợp cả sàn nhảy. [*Chú thích của tác giả : Bạn hãy nghĩ đến nguyên bản bài “Too Close” của Next ấy.] Tôi gần như đông cứng tại chỗ vì xấu hổ. Tôi nghĩ đến việc bỏ đi. Nhưng… đôi mắt của Woo Hyuk cứ như biết thôi miên… Thấy tôi đứng bất động, cậu chậm rãi bước lại gần sát tôi đến khi khoảng cách giữa hai đứa chỉ còn tính bằng xăng-ti-mét. Hầu như đã chạm vào nhau. Chậm rãi, chúng tôi chuyển động theo điệu nhạc du dương, như chỉ thuộc về nhau… cho đến khi cái hũ chìm ngố tồ Jae Won chả biết từ đâu xồ ra và đâm sầm vào tôi…

Ký ức ấy lại bắt đầu khuấy động những cảm xúc cấm kỵ trong tim tôi.

Tôi he hé liếc qua bên cạnh, ngắm những ngón tay thuôn dài đang giữ vô-lăng của cậu. Chúng cũng trắng trẻo như phần còn lại. Mới nhìn thì tưởng thằng này ẻo lả yểu điệu lắm, nhưng cái cách cậu cầm lái thì khác hẳn. Vững chãi và kiên quyết. Nam tính tuyệt đối. Óc tôi lại bắt đầu đặc nghẹt những suy nghĩ mà tôi đã phải cố hết sức ngõ hầu gạt bỏ. Như… chả biết những ngón tay ấy sẽ vuốt ve mơn trớn cơ thể tôi như thế nào… 

Đột ngột chiếc xe thắng lại và tôi nhận ra mình đã đến nhà. Tôi bước ra ngoài, run rẩy. Đi như chạy về phía cửa chính. Chả hiểu sao tôi chỉ muốn được về phòng ngay lập tức, để tĩnh tại gỡ rối cái nùi suy nghĩ đang cuộn xoáy trong đầu. Cậu đi theo sau.

Tôi đứng trước cửa chính, mò mẫm lục lọi khắp các túi để tìm chìa khóa nhà, vẫn run như điên. Chùm chìa khóa trượt khỏi mấy ngón tay vụng về lóng ngóng của tôi, rớt toạch xuống đất.

Tiếng kim loại va đập với sàn nhà loảng xoảng vang dội.

Từng giây từng khắc một lê thê trôi qua, dài như hàng thế kỷ.

Chậm chạp, tôi cúi xuống lượm.

Cậu cũng cúi xuống. Gần như cùng lúc.

Ngón tay của hai đứa chạm nhẹ vào nhau.

Tôi ngẩng đầu, nhìn thật sâu vào đôi nhãn cầu đen vô cùng kia. Và ngay lập tức bị xuyên thủng bởi những tia xúc cảm bỏng cháy.

Nỗi sợ hãi kéo tôi về với thực tại. Tại sao Na Yeon lại khiến tôi bực mình đến thế? Tại sao tôi đột ngột lại bị cuốn hút bởi thằng bạn thân nhất đến thế? Từ khi nào tôi đã bắt đầu cảm thấy như vầy? Thực sự tôi muốn gì ở Woo Hyuk kia chứ?

Tôi chợt nhận ra đây chính là lúc để trả lời tất thảy những câu hỏi đã quấy rầy tâm trí mình bấy lâu nay. Sự kiện cậu chẳng còn ở bên Na Yeon không phải là lý do phù hợp để tôi chạy trốn những cảm xúc của mình thêm nữa.

Và trong lúc này, tôi đành phải thừa nhận điều tôi luôn luôn thấy là đúng.

Tôi yêu Woo Hyuk. Và căn cứ vào những cảm xúc mãnh liệt day dứt khôn cùng long lanh trong mắt cậu mỗi khi cậu nhìn tôi, tôi hiểu rằng cậu cũng rất yêu tôi.

Dịu dàng, cậu giữ lấy khuôn mặt tôi bằng cả hai tay.

Đôi môi của cậu in hệt những gì tôi đã từng mơ mộng.

Ấm, ướt. Ngọt.

Vậy là, tôi nghĩ cuộc đời cũng không đến nỗi quá chó má.

Tôi những tưởng mình đã nhận được quả cầu định mệnh tồi tệ nhất, nhưng may mắn thay mọi thứ đã kết thúc trong êm đẹp.

Tôi nghiệm ra rằng đời sẽ đáng chán biết bao nếu thiếu đi chúng nó.

Cũng như lúc tôi và Woo Hyuk đã căng thẳng lo lắng cùng cực rằng có nên kể hết với lũ kia hay không. Tôi cứ nghĩ mình sẽ được ‘tiếp đón’ bằng một mớ lạnh nhạt, ghê tởm – hay thậm chí bởi cái màn bi kịch nhất : tình bạn tan vỡ – nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Chúng nó nhăn nhở trêu rằng đã nghi ngờ tụi tôi từ lâu lắm rồi, và thằng phấn khích Jae Won thì gào toáng lên : ‘CUỐI CÙNG THÌ CŨNG…!’ Còn gì nữa? Các bạn của tôi cũng đã nhận được một quả cầu định mệnh cho riêng mình. Hee Jun đã thầm yêu Kang Ta ngay từ lần đầu gặp mặt. Vài tuần trước khi chuyện ở quán rượu xảy ra, Kang Ta đã bẽn lẽn thừa nhận mình cũng rất thích Hee Jun…

Đắm chìm trong bộn bề suy nghĩ, tôi giật nảy mình khi đột ngột được một vòng tay ấm áp ôm choàng lấy, rồi thong thả âu yếm dừng lại nơi eo mình. Tôi thả lỏng dần và ngả người vào lòng Woo Hyuk, thở ra một hơi dài đầy thỏa mãn.

“Sarang hae, Hoyah. Không thể hiểu nổi tại sao chúng ta phải tốn nhiều thời gian đến thế, chỉ để chấp nhận điều này…” Cậu thì thầm, đặt một nụ hôn thoảng phớt ngọt lịm lên bờ vai tôi.

“Tôi hiểu… tôi cũng yêu cậu lắm, Hyukah…” Tôi mơ màng đáp.

Bất ngờ cậu xoay người tôi lại. Thoạt tiên hai đứa hôn nhau rất dịu dàng. Tôi thưởng thức chậm rãi hương vị của người mình yêu bằng đầu lưỡi và khuôn ngực rắn rỏi ấy bằng những ngón tay lang thang. Rồi… tôi mở mắt ra và thấy mình đã yên vị trên giường, trong phòng của cậu ở tầng hai. Tôi bị ghìm chặt bên dưới cơ thể Woo Hyuk trong khao khát và đam mê. Nụ hôn đã vượt quá tầm kiểm soát, nhưng chẳng mấy chốc cả hai đều phải ngừng lại và buông nhau ra vì thiếu dưỡng khí.

Khi chúng tôi vẫn đang nằm im và thở dốc, một ký ức chợt ùa đến với tôi.

“Nè Hyukah? Có nhớ cái lần tôi ngủ quên trên trường kỷ rồi được cậu đưa về phòng không?” Tôi hỏi, tay đan khít với những ngón tay của cậu.

“Ừ?” Cậu đáp, đặt những nụ hôn nhẹ nhàng lên mu bàn tay tôi.

“Cậu bảo tôi đã nói mớ trong giấc ngủ… Tôi đã nói gì vậy?”

Cậu toe toét cười.

“À… đâu có gì… vài câu vơ vẩn về Jin Kazama với sê-ri ảnh nóng bỏng nhất mà cậu từng thấy…”

Tôi đỏ bừng mặt.

“À, và còn một câu nữa…” Cậu lại nhoẻn cười, ôm chầm lấy tôi.

“Gì hả?” Tôi tò mò vặn hỏi.

“ ‘Tôi muốn trở thành con khỉ của cậu…’ ”

Tôi bật cười.

Still loving you

“Đó là một chuyện rất đơn giản, không có kịch tính, càng không sâu sắc gì.” Tôi ngước nhìn lên, góc trần để hờ, ánh sáng rọi qua nó xuống sàn nhà gạch tàu cũ. Rít một hơi thuốc thật sâu vào buồng phổi, tôi nói bằng giọng như thì thầm.

Một câu chuyện thuộc về riêng tư thì tốt hơn hết vẫn nên bọc lại bằng lớp màn tơ lặng lẽ.

Cậu ấy, người mà tôi phải lòng, là một người yêu thích nhiếp ảnh. Người có nụ cười thật rạng rỡ, tựa như mặt trời ngày thu, thật xa xôi. Nhưng có lẽ, vì quá xa như thế, lại khiến người ta cứ mãi muốn ngước nhìn.

Và khi đó, tâm tình sẽ đột nhiên trở nên mềm yếu.

Tôi học cùng với cậu ấy từ những năm cao trung. Cùng lớp. Chúng tôi không hẳn giống nhau, nhưng khác nhau vừa đủ để bù đắp nhau. Và chúng tôi học cùng đại học. Một trường bình thường, tôi vì muốn tiếp tục nhìn thấy cậu ấy, đã ghi nguyện vọng giống hệt vào tờ đăng ký của mình.

Tôi cố sức biến sự tồn tại của mình trở thành hiển nhiên với cậu ấy. Hy vọng một ngày nào đó cậu ấy sẽ nhận ra tôi. Nhìn thấy tôi.

Cậu ấy nói với tôi cần một người mẫu chụp chân dung. Tôi tìm giúp cậu ấy, một người bạn học cùng lớp. Cô gái với khuôn mặt và cử chỉ, tất thảy đều dịu dàng, mềm mỏng.

Cậu ấy đến tìm tôi, bảo rằng việc chụp ảnh tiến triển rất tốt. Nụ cười của cậu ấy… tôi chỉ có thể cười đáp lại ngu ngơ. Từng chút, từng chút một, hình dung của cậu ấy giống như vết khắc chạm trổ trong lòng tôi. Triền miên ám ảnh.

Ngày cuối của học kì thứ ba, cậu ấy hẹn tôi cùng đi ăn thịt nướng ở quán rượu dưới phố. Người bạn học ấy cũng đi cùng. Hai người họ khoác tay nhau đi trên vỉa hè, tôi bước phía sau.

Người con trai tôi phải lòng đã yêu một người khác.

“Rồi sau đó ?” Một người cất tiếng hỏi. 

“Sau đó…” Tôi khẽ cười, hớp một ngụm café đắng ngắt trong tách. Ánh sáng nhờ nhờ từ góc trần phủ lên chỗ chúng tôi ngồi một lớp bụi ướm màu cũ kỹ. Giữa không gian trầm lặng không một tiếng động này, tôi cảm thấy có cười bao nhiêu cũng không thể che đi vết đau trong lòng…

“Sau đó… thật ra, không có một ‘sau đó’ rõ ràng nào. Tôi nghĩ đã đến lúc phải dừng lại. Tình cảm của tôi. Nếu không gặp một thời gian, tôi sẽ có thể bình tâm lại. Tôi đã nghĩ thế…”

Quyến luyến, chính là điểm yếu của con người. 

Mỗi ngày đều trông thấy cậu ấy bước ngang qua hành lang dài, mỗi ngày đều trông thấy cậu ấy vẫy tay với người yêu trước cửa lớp, mỗi ngày đều nghe thấy giọng cười vui vẻ của cậu ấy với người yêu. Mỗi ngày.

Tôi yêu cậu ấy.

Và đau

đến nước mắt cũng không thể chảy ra được.

Cắm sâu vào lòng, vết khắc ngày trước, biến thành nỗi đau.

Tôi giả dụ rằng, tôi vừa thấy yêu một ai đó. Người thật hiền, nụ cười không như mặt trời, nhưng đủ khiến tôi nguôi đau đớn. Tôi giả dụ như vậy. Tôi quên cậu ấy đi.

Cậu ấy cười, khi tôi nói đã yêu. Không chút gợn, nụ cười trong như nắng. Mùa thu của tôi, mặt trời của tôi…

“Nó không kết thúc, phải không ? Chưa từng…”

Tôi im lặng. 

Nó mãi không thể kết thúc được, tôi biết điều đó. 

Cùng với nỗi đau không cách gì gột bỏ, niềm yêu đó vẫn tồn tại. 

Ngay cả khi tôi chưa từng nói ra, ngay cả khi cậu ấy giờ đây đã thuộc về một chân trời nào đó, xa lạ với tôi.

Một giấc mơ mà tôi tự nhủ phải ghi khắc suốt cuộc đời.

Broken strings

Tôi cứ luôn nghĩ, thời gian qua đi sẽ xoa dịu những cảm giác đó.

Trong tôi có một bức tường trong suốt. Mỗi khi loay hoay đến gần lại không cách nào phá vỡ được. Người dựng nó là tôi. Ở bên kia, có cái gọi là niềm yêu và tuyệt vọng đón đợi. Chúng nhuốm màu thẫm tối, rất nhẫn nại chờ một kẻ ngu ngốc nào đó sa vào và nhấn chìm tận đáy. Sẽ không thấy được ánh sáng nữa. Đó, không phải kết cục tôi mong muốn.

Tìm kiếm một vài khoảnh khắc để làm giá trị thỏa mãn, sau đó đi vào lơ đãng và lãng quên. Một người bạn đã từng nói với tôi. Đó là cách duy nhất tôi biết để ở bên cạnh anh, mà vẫn có thể duy trì nỗ lực bôi xóa đi những dấu vết của cơn say kéo lê từ quá khứ.

Nụ cười đó vẫn vậy, chẳng thay đổi gì. Anh là người khéo léo, rất dễ dàng cười với người khác. Và thế, ánh sáng từ đôi mắt nheo lại và đôi môi mở rộng ấy đã giấu mất bóng tối sau lưng. Cả người đó, cả tôi, đều không biết anh đã cảm thấy gì. Một ngày mùa đông, bầu trời tù mù nhờ nhạt, tôi hồ như nghe tiếng vỡ lách tách, rất khẽ, từ người con trai bên cạnh, khi người đó nói rằng hãy dừng lại.

Còn có thể mù quáng đến bao giờ ?

Tách…

Anh đã nhìn cái tách sứ đựng cà phê trên bàn rất lâu, cũng không để tâm đến việc đáp lời câu nói của người đó. Chỉ nhìn. Cho đến khi người đó đã rời đi, cho đến khi bóng tối phủ trùm lên căn phòng im ắng. Và anh nói, Won, anh mệt rồi, anh đi ngủ đây.

Mặt trời mọc, rồi mặt trời lặn bao nhiêu lần không đếm nữa. Sông Hàn đôi khi lái xe ngang qua, lại nhớ đến thời gian đang trôi. Trong ráng chiều phủ xuống thành phố, tôi dõi mắt theo những dáng người đi dọc bờ sông, mơ hồ tìm kiếm một hình dáng quen thuộc, một cách tình cờ. Nhưng chưa bao giờ sự tình cờ đó thành sự thật, chỉ có gió không ngừng thổi, lạnh suốt sâu.

Vài lần trong một năm, tôi sẽ gặp anh trong một chương trình nào đó của đài, sẽ chào nhau, vỗ vai nhau, thăm hỏi vài câu, và rồi tạm biệt. Công thức đó không ngừng lặp lại, giống như bộ cảm ứng cài trong búp bê, sẽ tự động quay đầu khi gặp vật cản, loay hoay trong chiếc hộp be bé của mình. Vị trí không thay đổi, mặc cho thời gian có đi qua bao lâu.

Wonnie – dongseng, từ quá khứ - đến hiện tại - và tương lai ?

Tôi biết, nhưng biết và hiểu thấu lại là việc hoàn toàn khác nhau. Bởi cái cách anh nói cười, nó chẳng hiển hiện chút dấu vết nào của ngày mùa đông hôm đó nữa. Thế nên, trong vô thức tôi cho phép mình… hy vọng… 

Người đang im lìm say ngủ bên cạnh đã biến đoạn đường dài từ đài truyền hình về thành phố trở nên ngắn lại, và xén đi một ít quay quắt nhớ trong tôi. Đó có lẽ là quãng thời gian dài nhất tôi và anh ở cạnh nhau sau những năm qua. Cửa sổ mở cho gió lùa vào khi xe chạy ngang qua những cánh đồng xanh. Khi bóng dáng của đô thị quen thuộc hiện ra trước mắt, tôi nhớ đến lời anh từng nói trong một tạp chí. Và rẽ theo con đường dẫn đến nơi đó.

Ngừng lại ở nơi có thể nhìn thấy mặt nước sóng sánh ánh sáng từ mặt trời ở rất xa, tôi ngồi yên lặng. Không làm gì ngoài lắng nghe tiếng gió chiều, tiếng nước vỗ vào bờ sông, tiếng người nói chuyện xa xa, cả tiếng thở đều đều của anh ngay bên cạnh. Để rồi không hiểu vì sao hoàng hôn lại có màu u uất.

Trong bóng tối nhập nhoạng, chúng tôi đã bước dọc theo bờ sông Hàn. Gió trở lạnh. Anh ở sau tôi một quãng, tiếng bước chân lẩn khuất giữa tiếng sóng nước vỗ bờ. Sau lưng tôi, thế giới của anh là một miền thinh lặng sâu thẳm, không một viên đá nào có thể chạm đáy, dù cho tôi có tự ném mình vào đó đi nữa.

“Wonnie, chỉ lần này, hãy đi phía trước anh.”

“…”

“Vì anh đã từng muốn… đi cùng cậu ấy đến đây…”

Tôi đã không từ chối, vì tôi cuối cùng cũng hiểu.

Bạn không thể chơi một cây đàn đã đứt dây.

Ôm và bị ôm

Hạo chỉ có một đôi bàn tay, mặc dù đôi bàn tay của đứa con trai ngoài hai mươi không còn be bé gầy guộc như của thiếu niên, nhưng vẫn chẳng đủ để đem hết cảm giác trong lòng truyền vào một cái siết ôm thật chặt. Hạo muốn có hai đôi tay, ba đôi tay... thật nhiều đôi tay để bọc lấy người đó, không một khoảng hở. Nghe ra thật ngốc nghếch và ngớ ngẩn. Người đó chắc là cũng sẽ nghĩ vậy.

Hạo vẫn chưa ôm. Người đó vẫn đang chúi mũi vào mấy cuộn băng tua đi tua lại, đôi hàng chân mày thỉnh thoảng lại nhíu, đôi môi mỏng thỉnh thoảng lại bị cắn nhẹ. Nếu chạm đến lúc này chắc chắn sẽ bị xô ngã khỏi sofa không thương tiếc. Thế nên Hạo chỉ biết lấy đôi tay đang rất muốn ôm người kia để bóc bánh snack, lơ đãng cho vào miệng mà mắt không nhích đi một ly khỏi khuôn mặt đó.

Lam chỉ có một đôi mắt, dù khóe mắt dài đến đâu cũng không thể vừa đảo theo mấy tổ hợp động tác phức tạp trong màn hình TV vừa dõi theo từng cử chỉ của con người đang thẫn thờ bên cạnh. Lam chẳng phải đã quyết định rất rõ ràng sao, hôm nay phải nắm cho xong những nét cơ bản để chuẩn bị vũ đạo cho ngày mai. Thật không có thời gian để tâm đến những chuyện vẩn vơ khác, như là trên mặt của người đó hẳn đang dính đầy vụn bánh như trẻ con, như là đôi mắt nâu không đều đó đang nhìn vào mặt mình như muốn khoan một lổ bự, như là cái bộ dạng co mình trên sofa kia chẳng khác nào một con chó nhỏ... 

Lam vẫn đang vận dụng trí nhớ để lưu giữ hình ảnh trước mắt và tống ra hình ảnh tưởng tượng trong đầu. Nhưng dường như nỗ lực chỉ đưa đến kết quả ngược lại. Nên Lam thở ra một hơi dài thượt, đứng dậy bỏ vào bếp.

Hạo suýt chút nữa đã vô thức đứng dậy đi theo người kia vào bếp, nhưng phút chốc nhận ra bản thân sắp hành động như một kẻ theo đuôi chân chính liền tự chủ lại, tiếp tục co chân ăn snack. Chỉ khác lúc nãy là ánh mắt Hạo bây giờ dán vào gian bếp. Ngơ ngẩn một lát đã thấy người đó trở ra, mang theo một ly nước lọc lớn và một túi bánh snack cùng loại Hạo đang ăn. Người đó trở về chỗ ngồi, mở túi bánh trong khi vẫn dán mắt vào màn hình, từ đầu đến cuối không để ý gì đến Hạo. Hạo bất giác nhìn vào trong túi bánh của mình…

Ăn mãi cũng phải hết chứ. Lam đủng đa đủng đỉnh mở túi, môi hơi mím lại để khỏi để người kia thấy nụ cười sắp ngoác ra của mình. Chắc là sẽ mất cỡ bảy giây để nghĩ, mất thêm bảy giây nữa để chậm chạp nhích lại gần, rồi lại mất thêm bảy giây nữa để ngập ngừng chồm người với tay bóc lấy bánh ở phía bên này. Lam bắt đầu lẩm nhẩm đếm thầm.

Nhưng mất không đầy ba giây Lam đã cảm thấy lớp đệm sát bên lún xuống, liền sau đó là cảm giác ấm áp từ vai dọc theo cánh tay trái. Người kia đã ngồi ở tư thế thoải mái nhất của mình, lười biếng tựa vào cạnh Lam, một tay đang với với lấy túi bánh ở bên phải Lam. Với đến nỗi sắp ngã dúi ra sau lưng Lam. Lam lại thở dài ngán ngẩm lần nữa, xoay mình đỡ lấy thân người đó kéo về phía trước, vòng tay giữ lấy.

Hạo bị hai tay của người đó quàng từ sau lưng, tư thế còn chệch choạc, cảm thấy không thoải mái. Hơn nữa, muốn ôm người không được ngược lại còn bị người ôm. Hạo nhích nhích người một chút, gần như đã ngồi gọn trong vòng ôm nọ. Việc lấy bánh trong túi bên kia cũng dễ dàng hơn, còn ngửi thấy mùi nước hoa Polo thoảng nhẹ... nếu so với ý định muốn ôm, thì thế này cũng không tệ.

Hạo cho một miếng snack vào miệng nhai rôm rốp, trong khi đôi bàn tay đang vòng quanh cậu dần đan vào nhau.

Happy

Ngày nghỉ, Woo Hyuk nằm dài phơi nắng trước hiên nhà. Nói phơi nắng, nhưng mái hiên mát rượi, lim dim mắt một lát đã ngủ mất.

Seung Ho ngồi kề bên, ghế mây, cạnh còn có bàn trà xanh, mùi thơm thanh theo khói còn tỏa nhiên. Xem sách ảnh mà Woo Hyuk đem về. Đã mua rất nhiều, có nhiều thể loại từ nghệ thuật lãng mạn cho đến thời sự chính trị. Seung Ho luôn chậm rãi lật giở từng trang. Bên trong, có chữ viết tay của Woo Hyuk ghi chú lại. Tháu vô cùng.

Ngày mùa đông, gió lạnh len nhẹ nhàng giữa đám hoa cúc bé.

Mùa đông của phương nam nhạt lắm. Chỉ vừa đủ cho một cái ôm siết và môi cười tươi rạng.

Seung Ho đôi khi ngừng xem sách, liếc sang người đang ngủ say. Cười êm như ru tình. Rồi nghiêng nghiêng người hôn trộm. 

Woo Hyuk thích làm một con mèo lười biếng, chờ miếng cá khô ngon lành chạm đến môi mình.

Vụt một cái, chỉ còn thấy vệt nắng bị bỏ lại bên hiên. 

Con mèo lười cùng miếng cá khô đã bỏ đi đâu rồi.

bình thường

Woo Hyuk ngồi co chân trên cái sofa yêu thích, nghiêng người tựa vào tay vịn, ăn dưa hấu. Phòng khách nhỏ xíu bị hai cái sofa xanh thẫm và đỏ sậm chiếm gần hết. Có giai điệu cũ của guitar vang lên xa xăm, khẽ khàng.

Từ chỗ ngồi, Woo Hyuk nhìn thấy phía sau lưng Seung Ho đang ở trong bếp. Cậu đang cắt dưa hấu. Cắt rồi lại cắt, nhẹ nhàng, thanh thản. 

Buổi tối mùa đông, bên ngoài hình như là lạnh, hình như cũng cô đơn lắm.

Nhưng ở đây thì, Woo Hyuk thấy thỏa mãn, và hài lòng. Vì một trạng thái rất thư thả hiện tại của mình. 

Con người ban ngày xông xáo đi khắp nơi, cười nói xã giao và làm rất nhiều việc có tên cùng không tên, hình như chỉ là ảo giác. Chỉ có bây giờ, mới là thật.

Woo Hyuk ăn hết miếng dưa trên tay rồi, đứng dậy đi vào bếp. Đứng sau lưng Seung Ho, tựa cằm trên vai cậu nhìn đôi tay có vẻ mềm mại kia đang cắt cắt gọt gọt. Từ từ nở nụ cười.

Ngửi được mùi dầu gội còn vương lại từ chiều, thấy những sợi tóc mai mọc lưa thưa, cả đuôi chân mày thỉnh thoảng nhướng lên, còn có chiếc khuyên tai bằng bạc nhỏ… 

Ừ, Seung Ho gần lắm.

Woo Hyuk nghĩ, thực ra chỉ cần được ở kế bên, nhìn Seung Ho cắt dưa cho mình ăn, thì đã tốt lắm rồi.

say

Woo Hyuk về sớm nhưng cũng đã gần mười một giờ đêm. Xe đã đưa đi sửa nên quản lý chở Woo Hyuk về bằng xe của công ty. Khu phố chỗ Woo Hyuk ở khá yên tĩnh, Woo Hyuk bảo quản lý cho mình xuống ở đầu đường rồi đi bộ lên dốc về nhà.

Con dốc về đêm vắng lặng, chỉ còn nghe tiếng gió thổi u u qua tai. Lạnh buốt. Woo Hyuk nghĩ bây giờ chắc Seung Ho đã ngủ. Hôm nay lịch của cậu không dày lắm.

Chiếc bóng Woo Hyuk đổ dài trên mặt đường gồ ghề, nhấp nhô. Cảm thấy có chút cô đơn.

Rồi điện thoại trong túi áo khoác rung nhẹ. Mở ra mới thấy số của Seung Ho.

Woo Hyuk đột nhiên cảm thấy mình không hẳn là quá cô đơn.

“đã về đến chưa?”

“đang lên dốc.”

“ừm. đi chậm thôi, tôi đang ra đây.”

“đi đón à?”

“… lúc nãy trước nhà có người hỏi đi đâu, tôi bảo vì muốn ăn cam, nên đi mua.”

Woo Hyuk bật cười, nhìn trên mặt đường đã có thêm một chiếc bóng. Ngước lên thấy Seung Ho một tay cho vào túi, một tay đang áp điện thoại bên tai.

Hai người bước song song đi về. Seung Ho mở khăn len dài thậm thượt đủ màu xanh đỏ tím lục trên cổ mình ra, quàng một nửa lên cổ Woo Hyuk.

“nếu người ta trông thấy thì sao?” Woo Hyuk quay qua cười hỏi.

“tôi sẽ giả người say dựa vào cậu cho cậu dìu về.”

“à… vậy bây giờ cậu có đã đang say chưa?”

Seung Ho không nói gì, chỉ cười.

Này, dịu dàng…

~ * ~

Hôm đó là một ngày tháng sáu sau mưa.

Tony chỉ mang theo một ít tiền lẻ và mặc chiếc áo khoác màu nâu hơi sờn cũ ra ngoài. Anh đội nón lưỡi trai màu đen sùm sụp che khuất gương mặt có phần hơi nhợt nhạt. Tony thức suốt đêm, làm đầy cái gạt tàn trong phòng làm việc, sắp xếp xong một số kế hoạch tươm tất cho thời gian sắp tới. Thời gian được anh dùng có vẻ hữu ích. Anh có thể ngừng đắm chìm trong những giấc mơ về một quá khứ được sắp đặt một cách hoàn hảo, không mất mát, không tiếc nuối điều gì. Anh có thể ngừng nghĩ đến một bàn tay đã truyền hơi ấm cho mình như thế nào trong một ngày mưa dầm và cửa sổ không bao giờ khép…

Những giấc mơ và hồi ức tạo nên một An Seung Ho ngày xưa - công việc, công việc và công việc chống trụ cho một Tony An của hiện tại, vậy thì Tôi của tương lai ở đâu?

Tony chỉ là sau khi đã quá mỏi mệt, nuốt lấy một ngụm nước lọc và thẫn thờ nhìn những giọt nước mưa vừa tạnh đậu lại trên lá, tự hỏi.

Trong căn nhà lặng im và cô quạnh, Tony bước đến tủ quần áo, chậm rãi lục lọi những thứ đã rất lâu không hề dùng đến. Những thứ mà cậu ấy đã cho mượn, và anh không bao giờ có cơ hội trả lại. Vì anh đã rất thích, rất thích. Mùi hương quen thuộc, vết rách quen thuộc, và cái nhíu mày quen thuộc… khiến anh thấy lòng mềm ra, thôi không đau, không buồn, không cả cô đơn. Nên mãi không muốn buông tay.

Mặc chiếc áo dường như còn phảng phất mùi của cậu ấy, đội lên chiếc nón dường như còn đang che đi nụ cười rộng mở của cậu ấy, Tony cũng cười. Anh nhớ. Rất nhớ. Quá khứ đã từng rất bình yên của chúng ta…

Tony đi dọc trên vỉa hè, đến trạm xe buýt gần nhà và xem bản đồ tuyến xe buýt trong khi chờ đợi. Seoul sau cơn mưa dài rất lạnh, những đám mây trải dài, giăng mắc khắp bầu trời không có một mảng xanh khiến cảnh vật dường như thành ra ảm đạm. Tony hơi co mình, siết chặt hai tay khoanh trước ngực, thỉnh thoảng rướn người về phía trước tìm kiếm cái dáng lù lù chậm chạp của chiếc xe buýt. Những cơn gió nhẹ vô tình thổi qua, cũng khiến người ta rùng mình. Có vài thiếu niên mặc đồng phục cũng đứng chờ tán gẫu với nhau bên cạnh, tiếng nói chuyện bị tiếng động cơ át đi. Tony kéo tay áo lên nhưng trên tay anh không có chiếc đồng hồ quen thuộc. Anh vội thu tay về tư thế khoanh lại như cũ. Không biết đã mấy giờ, khi anh đến, cậu ấy liệu đã về chưa. Tony rút điện thoại từ túi áo ra, màn hình trắng đang chờ. Cậu ấy có còn dùng số đó hay không. Cậu ấy sẽ dùng giọng nói như thế nào để đáp lại anh. Tony bất động nhìn màn hình cho đến khi nó chuyển sang trạng thái chờ màu đen. Lúc đó xe buýt vừa đến, Tony thả điện thoại trở vào túi và bước vội lên xe.

Tony phải đổi xe buýt ba lần, đã đi ngang qua một nhà thờ xây bằng gạch màu tro có vẻ cũ kỹ và cô liêu mà anh rất muốn vào thăm, ngang qua công viên nhỏ nơi trước kia có hai gã trai từng ăn mì jjajang giữa đêm muộn cùng nhau, ngang qua cả cây anh đào duy nhất đầu khu phố ngày trước nay đã phủ tán rộng. Thành phố trôi xuôi vừa có vẻ xa lạ, vừa có vẻ quen thuộc đến nhói lòng khi nhìn từ khung cửa kính xe buýt. Mưa lại bắt đầu rơi nhàn nhạt. Tony đến trạm dừng, vừa bước xuống đã cảm nhận cái lạnh một lần nữa tràn ngập khắp nơi không thể trốn chạy. Những hạt mưa rơi bạt nghiêng mỏng tang, như trăm ngàn hạt pha lê li ti đậu trên áo khoác, liền sau đó đã thấm vào lớp vải. Hơi lạnh dường như cũng đã thấm vào ngực Tony và sít chặt lấy cổ họng. Anh thở ra những hơi ngắn khó khăn, thu vai lại và rảo bước trên vỉa hè vào khu chung cư gần đó.

Người bảo vệ ngăn Tony lại ở ngay cổng vào chung cư. Anh chỉ đến mà không nghĩ sẽ đối mặt với việc bị hỏi những câu đầy tính đề phòng. Tony nhớ ra nơi này có khá nhiều người trong giới nghệ sỹ, việc gạn hỏi một người lạ như Tony là điều hiển nhiên. Người bảo vệ hỏi Tony đến gặp ai. Anh đáp, Jang Woo Hyuk. Người này lại hỏi tiếp quan hệ của anh với Woo Hyuk ra sao. Ngần ngừ chốc lát, Tony khó khăn nặn ra hai chữ Bạn Cũ. Người bảo vệ nhìn chăm chú gương mặt Tony dưới chiếc nón sùm sụp, chừng như còn ngờ vực. Tony im lặng, chợt nghĩ đến việc hay là thôi đi. Thế nhưng, căn phòng của anh rất lạnh, rất cô đơn, đến mức anh sắp không thở nổi. Anh thật không muốn quay về… Tony cho tay vào túi, rút điện thoại, mím môi nhấn dãy số từ trong trí nhớ, tuy mơ hồ nhưng không hề vấp váp. Như thể nó đã luôn ở đó sau màn sương, chỉ cần chạm đến sẽ lập tức hiện ra. Đã rất lâu, rất lâu không gọi, nếu như cậu ấy không dùng dãy số này nữa, thì sao? Hô hấp Tony trở nên trì trệ. Phổi anh cần dưỡng khí, nhưng trí não anh lại đang quá bận rộn với nỗi bất an vừa ùa đến mà chẳng mảy may lưu tâm đến điều gì khác. Thật lâu, mà Tony tưởng chừng như dài hàng mấy mươi phút, Woo Hyuk cuối cùng cũng bắt máy. Giọng trả lời nghe ra bình thản, có thể cậu ấy chẳng biết ai đang gọi đến…

Cuộc đối thoại chỉ diễn ra trong hơn hai mươi giây. Woo Hyuk không hỏi lý do hay bất cứ điều gì khiến Tony thấy khó xử, chỉ đơn giản nói địa chỉ căn hộ cho Tony đồng thời xác nhận với người bảo vệ về danh xưng bạn cũ của Tony. Trong thang máy một mình, Tony không ngừng nhớ lại giọng nói điềm nhiên gần như không cảm xúc của Woo Hyuk qua điện thoại. Nó rất khác với âm điệu giận dữ ngày đó mà Tony từng nghe thấy. Ít ra, ngày đó Tony còn có khả năng hiểu được Woo Hyuk đang nghĩ gì, còn bây giờ thì không. Woo Hyuk đối với anh đã trở thành một người không thể nắm bắt được nữa.

~ * ~

Woo Hyuk đang đứng trong bếp khi điện thoại rung. 

Anh đang thẫn thờ nhìn đám hoa vàng không biết tên trổ trên ban công một nhà đối diện, nghĩ ngợi bâng quơ một điều gì. Một nụ cười hay cử chỉ vụng về đã bị lãng quên, trở về cùng với cơn mưa nhàn nhạt rơi. Có thể vì mưa vốn thường mang theo hoài niệm. 

Anh đã tần ngần một lúc lâu chỉ để nhìn mãi vào dãy số không tên. Ngực anh như bị ai đó siết chặt, vì biết người đó là ai. Những thanh âm cao the thé của chính anh trong quá khứ cùng gương mặt như đã sắp khóc nhưng vẫn cứ cố thản nhiên của người đó hiển hiện trong trí nhớ anh. Và rồi anh vội vàng nhấn phím nhận đến suýt rơi điện thoại, vì một nỗi sợ mơ hồ rằng sẽ chẳng còn lần nào nữa. Sau đó, không gian với Woo Hyuk chỉ là giọng nói trầm hơi run run vì lạnh của cậu ấy. Không còn nghĩ suy, đo đếm, anh đáp như một con rối lên dây đã phải chờ đợi quá lâu.

Là An Seung Ho, không phải một Tony An có vỏ bọc cứng cỏi đủ sức nhìn anh bằng đôi mắt không gợn đau khi anh buông ra những lời nhiếc móc lạnh lùng. Là An Seung Ho trầm êm như mặt hồ đêm lạnh, không phải Tony An thản nhiên hờ hững như gió xuân… 

Vì cái gì mà anh đã không còn cảm giác ấy nữa, khi nhìn cậu ngồi trước mặt anh mà không phải bên cạnh, vẻ mặt nghiêm túc gần như vô cảm mà không phải dịu dàng ấm áp, nói rằng chúng ta đường ai nấy đi… Khi đó, anh nghĩ rằng Seung Ho đã không còn, chỉ còn một Tony An đã muốn đứng một mình mà không còn cần đến bàn tay níu lấy của anh. 

Những yêu thương trìu mến đột nhiên tan vỡ vào hư vô.

Anh đã nghĩ có những thứ không thể quay lại như ban đầu được nữa, dù trong thâm tâm có bao nhiêu luyến tiếc. Chỉ đơn giản, anh tự nhủ những gì đã kết thúc thì có nghĩa là dấu chấm đã đặt, không hơn.

Nhưng giờ đây, anh lại thấy mình giống như một Jang Woo Hyuk thiếu niên chẳng hề khôn lớn, đã luôn rất mau mắn đưa tay ra muốn nắm lấy bàn tay ấy một lần nữa… Thế nhưng, có ai quy định những người tay trong tay phải là những kẻ yêu nhau? Woo Hyuk nhớ, cái cảm giác yêu người ấy đến nhói lòng đã bị đánh rơi từ rất lâu trước kia không biết phải tìm lại nơi nào, thế nên ngày hôm nay cõi lòng đang mơ hồ dậy sóng này chỉ còn là những dư hương ngày cũ mà thôi.

Woo Hyuk nhấc mình dậy, bước đến gần cửa và ngả lưng vào tường. Nhắm mắt chờ đợi.

Một lát, một lát, tiếng chuông cửa vang lên làm Woo Hyuk giật mình. Anh xoay người vặn tay nắm cửa. Cùng với ánh sáng nhợt nhạt của màu trời xám ảm đạm sau mưa, Woo Hyuk nhìn người con trai đang đứng trước mặt. Chiếc nón lưỡi trai đã che đi phần lớn khuôn mặt, nhưng Woo Hyuk vẫn thấy đôi môi nhạt màu hơi run nhẹ vì lạnh. Anh đứng qua một bên để cậu bước vào. Vai áo cậu chạm nhẹ vào Woo Hyuk, rất nhanh, nhưng Woo Hyuk dường như cảm nhận được cái lạnh đã theo cậu truyền sang.

~ * ~

Suốt một lúc lâu hai người chìm đắm trong những ý nghĩ hỗn độn đan cài, tự tìm cho mình một câu nào đấy khả dĩ mở đầu cho cuộc thoại mà không quá nhạt nhẽo hay xa cách. Woo Hyuk ngồi trên sofa xanh thẫm, nhìn chăm chăm ra phía sau Tony. Cửa sổ kính khép chặt đóng khung một sắc xám không chút biến chuyển. Anh nhớ lại những ngày mưa từng đi qua như thế này, bầu trời cứ như chênh chếch mãi trên cao, ôm bên mình một màu mây nhàn nhạt như tấm phông nền trắng nhờ nhờ rọi bằng loại đèn tuýp cũ. Ngày bị treo im, không tàn. Woo Hyuk thích cái cảm giác có ai đó bên cạnh, cùng chờ đợi xem khi nào bầu trời chịu gỡ đi tấm phông nền ấy…

Cũng giống như cảm giác bây giờ… cậu ấy đang ở đây.

Woo Hyuk dời mắt liếc sang người vẫn ngồi im lặng đối diện. Thật gần, đủ để anh nhận ra đôi vai xuôi nọ dường như càng nhỏ hơn. Tháo bỏ chiếc áo khoác tối màu, Tony ngồi thu người, dáng vẻ như một con mèo hoang, ướt mưa. Đôi lần Woo Hyuk nhận thấy đôi môi Tony hơi mấp máy, như muốn nói gì rồi lại tần ngần đưa tay nâng tách trà nóng ấm trên bàn lên môi giấu đi bối rối. Anh định hỏi Tony cậu đang muốn nói gì à, nhưng lại không cất thành tiếng. Anh đủ hiểu sự ngập ngừng của Tony đến từ đâu, nhưng chính mình không chắc rằng có thể nói gì với cậu ấy, bằng một giọng bình thản mà không đượm hững hờ. Woo Hyuk nhìn thấy hai người, sau một thời gian không ngắn không dài, lùi về một bước. Sự giận dữ trước kia giống như một cái tát giáng vào cả Tony và anh, tê rần như cảm xúc mãnh liệt khi ấy, nhưng đến khi dấu đỏ đã phai đi thì lại thấy mơ hồ tự hỏi có từng xảy ra hay không…

Nhưng

làm sao anh biết mình không đang tự bao biện…?

Woo Hyuk dứt khoát hướng ánh mắt vào tách trà của mình trên bàn. Màu vàng nhạt trong suốt tĩnh lặng tịnh không gợn. Rồi vô thức anh lặp lại động tác hệt Tony, im lặng nâng tách lên uống từng ngụm, từng ngụm… 

Xoảng!

Woo Hyuk ngẩng lên, thu vào tầm mắt một Tony còn chưa khỏi giật mình. Mất vài giây để Tony thở sâu và bình tĩnh lại. Khuôn mặt cậu trông bợt bạt, không rõ vì lạnh hay vì chiếc tách vỡ. Woo Hyuk nghe cậu lẩm bẩm mấy tiếng “xin lỗi…” rồi cúi người xuống thu nhặt những mảnh thủy tinh trên sàn, đem vào chỗ gian bếp mà khi nãy Woo Hyuk đem trà ra. Chuỗi động tác diễn ra trong hơn một phút, Woo Hyuk chỉ lẳng lặng nhìn mà không bình luận hay ậm ừ gì. Anh chỉ tỉ mẩn quan sát, hơi nhíu nhíu mày rồi giãn ra. Anh dường như nhớ đến một điều gì đó, cảm giác quen thuộc và êm đềm. 

Tony nhìn từ phía sau, thật gầy… Người thiếu niên của mười năm trước cũng từng gầy như thế… 

Gương mặt nhợt nhạt lặng im đó, bảy năm trước cũng đã từng chỉ đem sự mạnh mẽ ra chống chọi với thế giới.

Tôi là Tony An.

Anh đã từng cười, quật ngã người tên Tony An ấy xuống mà gọi Seung Hoya,

thật dịu dàng và trìu mến.

Chỉ vì một ý muốn sâu thẳm chất chứa khi cái tên được cất lên… Rằng,

An Seung Hoya… người như cậu thì phải được hạnh phúc… có biết không…

Woo Hyuk đứng dậy khỏi sofa. 

Người tên An Seung Ho đang bước ra từ gian bếp. 

Anh ta ngạc nhiên nhìn một người hai tay giang rộng và đôi môi hơi cười, đang bước đến thật gần.

… cho đến ngày tôi lại tìm thấy dịu dàng riêng mang cho cậu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro