Z-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chuyện về thịt rắn và thịt chó

Việt Nam là một đất nước giàu có về ẩm thực-và câu chuyện về thịt chó và thịt rắn sau đây như một minh chứng cho lời khẳng định đó.

Thịt rắn ở Hà Nội 


Trong chuyến đi đầu tiên tới Việt Nam, chúng tôi đã có cơ hội nếm thử món thịt rắn ở Hà Nội. Sau một chút ngại ngần ban đầu, chúng tôi quyết định nhận lời mời và rồi, tối đó chúng tôi rời khách sạn. Chiếc xe bus nhỏ đưa chúng tôi tới một vùng ngoại ô của Hà Nội, nơi mà, theo đúng kiểu Á đông thì ở đó bạn sẽ tìm thấy những nhà hàng nhỏ đặc biệt nằm sát bên nhau. Tìm những cửa hàng như thế là điều rất đơn giản ở Hà Nôi. Bạn đang tìm mua lụa ư? Thế thì hãy đến phố bán lụa, hay là bạn muốn sửa xe đạp?-vậy hãy tìm góc phố của những người sửa xe. Nó gần giống như những thành phố thời Trung Cổ của chúng ta, khi mà tất cả những người làm nghề thủ công sinh sống cùng nhau ở một khu phố.

Chúng tôi bước vào nhà hàng qua một cánh cửa nhỏ, và đến một góc vườn. Tại đây chúng tôi tận mục sở thị những loại động vật kì lạ nhất được nhốt trong những chiếc lồng-như rùa, nhím, cú, và rắn. Ngay lúc ấy, chúng tôi chợt nhận ra rằng, những con vật này chỉ chốc lát nữa thôi sẽ trở thành bữa tối của chúng tôi!

Ngay từ đầu, chúng tôi đã mong rằng thịt rắn sẽ được trình bày một cách đẹp đẽ gọn gàng, với một hai món được mang ra, nhưng rồi chúng tôi sớm nhận ra rằng thực tế không phải vậy. Vừa ngồi xuống bàn, uống được cốc bia để tĩnh tâm lại một chút, thì ngay lập tức rắn đã đến. Người chủ quán mang theo một cái lồng rắn hổ mang, còn nghoe nguẩy cái đuôi. Thậm chí không để chúng tôi có thời gian vượt qua cú shock đó, ông ta đã đập đầu con rắn một cái thật mạnh xuống cạnh bàn. Chúng tôi mở to mắt ngạc nhiên, và cứ thế quan sát cách ông ấy rạch da con rắn, và mổ bụng nó, rồi đựng máu rắn trong một li rượu nhỏ. Đó chính là món khai vị của chúng tôi. Một trong số chúng tôi tỏ ra rất hân hạnh khi nhận li rượu này,nhưng tim đã đập thình thịch khi uống nó. 

Và thế là, đâm lao thì phải theo lao, ở đâu cũng vậy, và nhất là ở Hà Nội. Bởi vì, món khai vị thứ hai đã sẵn sang. Và lần này là rượu mật rắn. Đắng kinh hồn!
May mắn thay, sau đó chúng tôi cũng được phép nếm các món thịt rắn-như nem thịt rắn, thịt rắn xào xả ớt, da rắn rán. Để vượt qua những cảm giác kì lạ và xua đi sự ghê sợ, chúng tôi uống bia Tiger khi dùng các món đó
Cuối bữa, ông chủ nhà hàng dành một bất ngờ cho các vị khách Châu Âu- Ông mời chúng tôi một món tráng miệng là một li rượu gạo. Không phải là rượu thường, hẳn nhiên, đó là rượu ngâm dương vật rắn. Ông ta dốc ngược bình rượu, mà có đến một phần 3 là dương vật rắn. Nhân thể, bạn có biết là rắn có  hai dương vật? Thứ đồ uống này được cho là bổ dương.

Tôi đồ rằng vì món bia chúng tôi uống hôm đó làm chúng tôi đâm ra thích món rượu đó chăng. Bởi vì ngày hôm sau, khi chúng tôi định uống hết bình rượu mà chúng tôi đã nhận như một món quà, thì vị của nó thật là kinh khủng. Tôi cũng không rõ do rượu gạo hay dương vật rắn khiến chúng có mùi vị như thế.

Thành phố Hồ Chí Minh
Bất kỳ lúc nào, chúng tôi luôn tò mò về những bí mật sâu kín nhất trong căn bếp của người Việt Nam. Việc dũng cảm tiếp theo mà chúng tôi làm, là thử ăn thịt chó.  Trên hết, cũng giống như người Trung Quốc, người Việt Nam coi chó trước tiên là loài động vật có-thể-ăn-thịt-được và thứ hai mới là vật nuôi để trông nhà hoặc thú cưng. Vì thế, cũng không nên lấy làm lạ khi nhìn thấy một người đi xe máy với một cái lồng bự, nhốt đầy chó chở đằng sau xe, đang trên đường đi tới chợ hoặc nhà hàng nào đó.

Tôi có thể trấn an các vị khách du lịch khù khờ mới đến Việt Nam ngay lúc này. Bạn không thể nào ăn thịt chó mà lại không biết nó là thịt chó. Thực tế, thịt chó đắt hơn thịt bò và thịt lợn rất nhiều lần. Nó được coi là một món đặc biệt, lần nữa, lại liên quan đến bí mật của những vị thuốc bổ dương. Tuy nhiên,  ở miền nam món thịt chó dường như đã biến mất khỏi thực đơn, dưới sự ảnh hưởng của người Mĩ, bởi họ coi đó là điều bất kính với “người bạn thân nhất của con người”. Ngay cả ở miền Bắc, thịt chó cũng chỉ được người ta ăn vào 2 tuần đầu tháng. 

Nhưng chúng tôi đã ở thành phố Hồ Chí Minh và bởi vì, bây giờ đang là mùa thịt chó, chúng tôi thật sự rất muốn nếm thử xem thế nào. Chắc hẳn có người nào di cư từ Bắc vào, và khiến cho món thịt chó một lần nữa trở thành món ăn phổ biến ở đây. Chúng tôi tìm người lái xe nào có thể dẫn đường đưa chúng tôi đến nơi chúng tôi cần đến. Tuy nhiên, anh ta là người miền Nam chính gốc, và không quen thuộc lắm với món thịt chó. Dù vậy vì là người Việt Nam nên anh ta không dễ  gì thú nhận điều này. Với anh ta, khẳng định điều đó chẳng khác gì bị làm mất mặt, và hơn nữa, làm thế có vẻ không phải với chúng tôi.  

Tuy thế, chúng tôi càng mất thời gian trên những con đường ban đêm của Sài Gòn, thì càng ít có cơ hội thưởng thức món thịt chó cho bữa tối.Ở Việt Nam, cũng như các nước châu Á khác, người ta ăn tối rất sớm. Phải may lắm mới tìm được quán ăn nào mở cửa sau tám giờ tối. Sau cuộc tìm kiếm vĩ đại, rốt cục chúng tôi dừng lại tại một nhà hàng nhỏ  ở ven đường, chỗ này thịt chó là món cơ bản trong thực đơn.  Người lái xe giải thích cho bà chủ nhà hàng chúng tôi muốn gì. Bà ta cố gắng nói một cách ngắn gọn rằng thực ra cũng khá muộn, và bà ta đang chuẩn bị đóng cửa nhà hàng. Tuy thế, bà ấy để ý thấy vẻ thất vọng trên khuôn mặt của chúng tôi khi đến nơi mà không  được ăn, và rồi chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy bà ấy lôi ra một con chó gầy gò ở dưới quầy tính tiền. Nếu chúng tôi thích, bà ấy sẽ làm thịt nó cho chúng tôi. Khuôn mặt của con chó, cùng với đầu, chân, đuôi của nó sẽ trở thành món ăn cho chúng tôi bữa tối đó.

Chúng tôi cám ơn bà chủ rối rít, rồi bảo anh lái xe đưa ngay về khách sạn. Rút cục, chúng tôi quyết định kết thúc buổi tối này bằng một bữa ăn truyền thống hơn, với mì xào, và dùng dĩa.

 

Cách đây mấy hôm con chó thuộc loai Husky ( giống chó sói ) cùa nhà một nguời Mỹ - nghịch ngợm - lôi mấy cây hoa trong sân nhà nguời chủ Hàn Quốc cắn tanh bành. Chủ của con chó sang xin lỗi ông chủ nguời Hàn Quốc rối rít và hỏi muốn tạ lỗi bằng cách nào, ông chủ Hàn Quốc nói muốn bắt con chó. Ông Mỹ không ưng thuận và cuối cùng mua cây hoa trồng lại để bắt đền.
Vài ngày sau tự dưng ông chủ nhà Hàn Quốc thuật lại câu chuyện cho tui nghe. Cuối cùng ông nói tiếc quá, nếu không đã có  bữa tiệc thịt chó ăn ngon lành.
Có năm nào đó tui không nhớ chính xác, tui đi Hàn Quốc, nếu không lầm thì vào dịp Nhà văn Nguyễn ngọc Tư cũng sang Hàn Quốc để giới thiệu cuốn tiểu thuyết " Cánh đồng bất
tận " dịch sang tiếng Hàn.Các bạn Hàn Quốc của tui đã từng làm việc ở Hà Nội và biết rành Nhật Tân, nên rủ đi ăn thịt chó, lúc ấy tui từ chối và tuởng họ nói đùa, ai dè chẳng riêng gì nguời VN mà dân " củ sâm" cũng chuộng món " cờ tây"
Hồi ở VN tui có ông hàng xóm mỗi năm xin ở đâu về một con chó con, nuôi đến ngày Noel là ông ta giết thịt để là ăn Réveillon, rồi lại nuôi tiếp con khác để giết thịt cho Noel năm sau.
Ở VN khu vực chợ Ông Tạ (đường Phạm Văn Hai) là nổi tiếng bán " cờ tây", và ở Canthơ chắc là bạn Thăng rành lắm.
Sau 75 vài năm, tui cùng đứa con trai đầu có dịp ra Hànội, đến chợ Bắc Qua ( sau chợ Đồng Xuân) thấy thịt quay vàng rộm rất hấp dẫn, con tui muốn ăn nên tui hỏi mua, nhưng tui hơi nghi vì thấy cái đuôi con heo quay thì hơi xoăn xoăn, còn sao cái đuôi này nó ngay chừ? Hỏi kỹ lại thì ra là "thịt nai đồng quê".
Ờ miệt Long Thành ( Đồng Nai) tui thuờng gặp những nguời chạy xe Honda đi đổi đồ nhôm nhựa để lấy chó thịt.
Tui có quen 1 nguời bạn bán quán nhậu nổi tiếng ở Ngả Ba Tam Hiệp ( Biên Hòa ) có bán tay gấu, gân nai, thịt rừng, nó dặn tui đừng bao giờ ăn thịt nhím xào lăn nếu không thấy tận mắt con nhím, vì đa phần là thịt chó Nhật, khi đem thui thì da giòn như da nhím, uớp gia vị vào là y chang thịt nhím không phân biệt đuợc.
Hồi học ở truờng TPH, chị Kim Lang có kể tui nghe câu chuyện Con chó thác xuống âm phủ đi kiện Diêm vuơng về cái chết của nó. Nó kề người ta trấn nuớc, đập đầu. đem thui, cạo lông, xẻ thịt , uớp riềng mẻ, lá mơ, đậu phọng, kể đến đó thì ông Diêm Vuơng nạt nó : Thôi đừng nói nữa tao THÈM!
Ngay cả Diêm vuơng mà cũng khóai thịt chó, chẳng trách sao mà nguời phàm cũng bị mê hoặc...
Có nguời bạn nói với tui nếu không ăn thịt chó thì đời thiếu đi một nguồn hạnh phúc, tui nghĩ thà rằng mình thiếu đi 1 nguồn hạnh phúc còn hơn.
Hôm nay tình cờ tui thấy con chó này đây trong tay nguời đàn ông khiếm thị, tui gửi cho Phirom, nhờ em hỏi ai đành lòng ăn thịt nó không?

Sự thanh tao của thịt chó

Dạ vâng, quả thực trong vô vàn các loại đồ ăn thức uống thì chẳng thể có thức nào hơn được trà sen ở cái tính thanh tao. Hôm nay đây, tôi trình bày với quý vị, cũng chẳng mong khiến cho thịt chó soán ngôi trà sen, chỉ mong cho thịt chó một cái vị thế xứng đáng mà thôi. 

Nhân chuyện chó, tôi nói chuyện trà trước đã. Ai đã từng một lần thưởng qua thứ trà sen Tây Hồ trong cảnh bình minh buổi sớm, hay hoàng hôn chiều muộn giữa bát ngát hương sen, giữa mịt mờ sương khói thì chắc hẳn là người có phúc lắm rồi. Nói vậy để biết rằng, những cái quý không phải lúc nào dùng cũng là hay. Quý là quý ở chỗ dùng đúng chỗ, đúng lúc. Một ngày hè nóng nực, bạn đi đâu về, người nhễ nhại mồ hôi thì một tách trà nhài e chừng hợp lý hơn trà sen. Sự dịu mát của trà nhài khi ấy liên miên bất tận như thao thao giang thủy, xua đi cái nóng. Giả dụ lúc ấy bạn uống trà sen thì thực là phí phạm biết nhường nào.

Vâng, thịt chó cũng vậy!

Hàng ngày các ông các bà, các cô các bác, các anh các chị ăn cơm với gì? Nào đâu phải ăn với thịt chó đâu! Heo, bò, gà, tôm, cua, cá… nhan nhản các loại thủy, lục, không quân, thịt trắng thịt đỏ ấy mới quen thuộc, mới làm cho chúng ta ăn đến phát ngấy để rồi một ngày kia ta mơ màng đến thịt chó! Vậy, chẳng phải thịt chó và trà sen cũng khá giống nhau sao? Chúng đều không nằm ở tầng 1 của tháp nhu cầu, bởi chúng không phục vụ mục đích thỏa mãn vật chất tầm tường. Ở một khía cạnh nào đó, đây chính là giá trị tinh thần của thực khách, ẩm khách, là đỉnh cao của sự nhận thức và thỏa mãn bản thân.

Vậy, nếu hoa sen được chọn làm Quốc hoa, thì tôi nghĩ thịt chó cũng xứng đáng được chọn là Quốc nhục (nhục = thịt). Người ta trồng sen một năm chỉ được có một vụ, người ta nuôi một con chó cũng phải mất vài năm. Trong “Vang bóng một thời”, cụ Nguyễn Tuân có nói về trà sen, rằng “Chén trà sương” phải qua hàng bao nhiêu công đoạn tỉ mỉ, rằng Nhất thủy, Nhì hỏa, Tam trà, Tứ ấm thật công phu! Ồ, kỳ lạ thay, thịt chó cũng vậy! Cũng phải cắt tiết, thui rơm, chặt khúc, ướp nghệ, mẻ, xì dầu… cũng có Nhất mực, Nhị vàng, Tam khoang, Tứ đốm nào có kém cạnh gì!

Trong khi phải đủ bộ Mai, Sen, Cúc, Hồng thì mới gộp thành tứ bình, mới đủ cho một năm đầy mầu sắc thì riêng một mình thịt chó đã có thể khai tông lập phái, tạo cho mình chỗ đứng riêng với thất vị, hay dân gian còn gọi là “Cầy tơ bảy món”. Nào là luộc, nướng, hấp, xào lăn, chả, dồi, rựa mận, xáo măng.

Sen và trà sánh đôi đã mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm nay, như một cặp bài trùng, như là quần với áo vậy. Thưởng trà mà chưa từng thưởng trà sen thì không phải người sành. Ngắm sen mà cũng… chỉ để ngắm thì quá lắm cũng chỉ như bọn con trẻ trong nhà. Chẳng thế mà các cụ mới bảo: “Làm trai phải biết Tổ tôm, uống trà mạn thảo, ngâm nôm Thúy Kiều”. Tuy rằng trong câu ca dao chỉ nói chung chung là trà mạn thôi, nhưng nếu còn là trà sen nữa thì thật thú!

Ây dà, cứ vậy mà ngẫm ra thì thịt chó cũng vậy! Thịt chó phải có lá mơ! Các ngài không ăn được mắm tôm thì có thể chấm muối ớt, nhưng lá mơ thì cấm tiệt thằng nào thiếu được! Về mặt khoa học mà nói, lá mơ có chất diệt khuẩn rất tốt, có thể diệt được ecoli, amíp nên ăn thịt chó sẽ an toàn hơn. Thịt chó vốn là loại giàu protein, nếu ăn không thì sẽ no rất nhanh, nhưng ăn kèm với lá mơ thì sẽ lâu no hơn.

Nói tóm lại là thế này, Trà sen có cái riêng của trà sen, thịt chó có cái riêng của thịt chó. Người thưởng trà thì tinh thần phải thư thái, thoải mái, tự tại. Kẻ ăn thịt chó thì chiếu đất ngồi xổm hay bàn cao ghế đẩu cũng được, nhưng tuyệt đối không có điều hòa máy lạnh, không có tiếp viên váy ngắn, bằng không sẽ bị mất đi cái không gian văn hóa của thịt chó.

Người Việt ta đi xa, nhớ quê hương thì không tránh khỏi luôn văng vẳng trong đầu hình ảnh của cơm rau muống, cà dầm tương, của hoa mai, hoa đào… và đặc biệt là hoa sen. Hoa sen không chỉ là đặc trưng cho thói quen ẩm thực mà còn là đặc trưng cho tính nết, tinh thần người Việt, bởi vậy mới có câu: “Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Và cũng như vậy, thịt chó không đơn thuần là một món ăn, ăn cho sướng mồm mà còn bao gồm trong đó tất cả niềm vui của cuộc đời, bởi vậy nên cũng đã có câu: “Sống trên đời, ăn miếng dồi chó. Chết đi rồi, biết có hay không?”. Ôi thôi, người ta nhớ sen khi nhớ quê hương, cũng đâu khác nào người ta quyến luyến miếng thịt chó khi ngày rằm, mùng một!

Để kết lại bài viết, tôi xin gửi tới chư vị một công dụng của thịt chó qua đôi câu rêu rao nơi hàng thịt chó:

“Ngơ ngẩn bà khách đứng chờ,

Chó chặt, chó hấp, chó tơ ngon lành

Ăn rồi sung lắm hỡi anh

Em mua anh nhậu, em nằm sướng run”

Chuyện Con Chó

Lúc còn nhỏ ở ngoài Làng Kế Môn, tôi thấy chỉ có một số rất ít dân làng buôn bán hay làm nghề tiểu thương ở trên chợ, còn hầu hết đều theo nghề làm ruộng, nhà nào ít, thì năm ba sào hay khá hơn thì vài ba mẫu. Còn nghèo, không có ruộng, đến mùa gặt cấy thì đi làm công cho nhà khác, trước là để có cơm ăn ngày bốn hoặc năm bửa, chưa kể lại có thêm được một bao lúa của chủ nhà trả công mang về.

Nhưng dù giàu hay nghèo, hầu như nhà nào cũng có nuôi thêm một ít con lợn (heo), con gà hay con vịt , để mỗi khi kỵ giổ hoặc cưới hỏi ,làm một vài mâm cơm, trước là để cúng cho người  đã mất, sau để mời bà con nội ngoại ăn giổ hay tiệc tùng . Còn không, khi cần tiền thì đem ra chợ bán, có được ít tiền mua gạo hoặc các thức ăn hay những thứ cần thiết khác. Có người nghĩ xa hơn một chút, nuôi nó cho mau lớn, để dành  đến lúc lấy vợ, gả chồng cho con , thì cho con làm để làm vốn.  Biết đâu từ một con Nái, con Mái, hay mấy con Vịt cấy đó…sau này sinh sôi nẩy thành đàn mà con cái lại trở nên khấm khá !!!

Ngoài ra, có nhà còn nuôi một hai con Chó, nhất là trong nhà có con nít “Baby”. Đúng là một công hai việc,trước là để giữ nhà, sau là để các chú  thím Chó dọn giùm (thanh toán sạch sẽ) mấy đống c. vừa thải ra …, không phải tốn công lau chùi, dọn dẹp…Nói chung, ngoài con trâu ra,  con Chó cũng là một trong những con vật được trọng dụng, hơn nữa, chó cũng có tình, có nghiã lắm. Bởi vậy, dân ở Làng mình ít  có ai đem chó của mình nuôi ra làm thịt. Vả lại, phần đông dân làng đều theo Đạo Phật hay Thờ Cúng Ông Bà, nên thịt chó, thịt ếch là điều cấm kỵ … Nhưng lại có một người , rất nổi tiếng trong Làng về việc ăn thịt chó. Những ai đã lớn tuổi hay thường về thăm làng vào những năm của thập niên 1950 hay 1960 đều biết đến  Ôn Viễn,một người ngụ cư (người từ làng khác tới ở tại làng), nhà ôn ở nơi Bến Ông Lới. Thời đó tụi tôi đặt ông là” Vua” ăn thịt chó, bởi vì ông đi tới đâu, thì chó chạy theo ông , có khi cả đoàn, vừa chạy, vừa sủa inh ỏi…sủa cho đến khi nào khuất bóng ông mới thôi. Bến ôn Lới,nơi ông ở, là một bến cụt, chỉ như là một con rạch nối liền với bến Dưới, để tròng nốt qua lại trong muà gặt cấy, chứ không phải là Hói chạy thẳng ra Sông. Bởi vì nó không chảy ra, chảy vào như con sông hay con hói ,nên mặt nước hình như đọng lại một chổ giống nước ở trong hồ. Và cũng vì ông làm chó ngay tại cái bến đó nhiều quá, đến nổi, dưới bến lúc nào mở và lông chó cũng đóng thành từng mãng lớn nổi lềnh bềnh trên mặt nước thấy mà khiếp đảm…Thực tình thời đó, tôi cũng không hề hay biết : Chó ở đâu, mà ông có để làm thịt ăn hoài như vậy. Nhưng có một lần, tôi biết chắc chắn, nhân một dịp được về làng ăn tết. Thím của tôi, có nhà ở ngay sát đường ngang, trong nhà có hai em bé, nên thím có nuôi một con chó Vện , ngoài con Vện ra, thím còn nuôi thêm một đàn vịt chừng ba bốn con gì đó. Một bửa nọ, không biết vì sơ ý hay sao? đàn vịt cuả thím xổ  chuồng, chạy tuốt  xuống mấy đám ruộng sát đường cái Quan để tìm mồi hay rong rêu mà ăn, không may, gặp lúc ôn Viễn , là người từ lâu nay, được thôn trưởng của 2 ngụ Nhứt và Nhì Đông (từ xóm Đập ở đầu Làng tới Xóm Đình ở giữa Làng) , cử ôn làm người canh giữ đồng  ruộng  “Rice field’s  guardian”. Thế là trong chốc lát, cả mấy con vịt đẵ nằm trọn trong tay ôn, nghĩa là ôn có quyền sinh sát,vì vịt đã vi phạm cái tội  xuống ruộng ăn hay phá lúa của dân mà…Nhưng  ngược lại, ôn không thèm mổ vịt để ăn, ôn kêu thím tôi xuống nhà cho chuộc mấy con vịt lại, với một điều kiện duy nhất rất ư là dể dàng:  đưa cho ôn con chó Vện, thế là xong. Tết nhất đến nơi, có mấy con vịt trong nhà trong cửa, chờ  làm thịt để cúng” Ôn Mệ” ba ngày đầu năm ; không có vịt,làm gì có tiền để mua đồ cúng, thế là phải chịu đưa cho ôn con Vện để lấy lại mấy con vịt , vì có ai đi giết chó làm đồ cúng bao giờ ! ! !

Rồi một lần khác, độc đáo hơn nữa, hôm đó,tôi nghe bà con kể lại : ông có việc đi xuống chợ Đai Lộc (chắc là để mua củ riềng hay lá mơ). Vưà đi ngang qua quán hớt tóc của ông Đường nơi xóm đập, sát bên  chợ, mấy con chó đang nằm trước sân, hình như ngữi hơi và thấy ông, chúng xông ra và sủa ầm vang cả xóm chợ , ông đi tới đâu, mấy con chó chạy theo sau lưng ông chừng đó…và không hiểu có tình tóan trước hay không ? nhanh tay ông, lấy một vật nhọn để sẵn trong túi, rạch một lổ vào dưới da  nơi ống chân, làm máu chảy ra …rồi ôn la hoảng hốt,:”tui bị chó cắn, tui bị chó cắn… chảy máu nè bà con ơi ” Thế là ông có dịp làm khó dễ,  đòi Ông chủ quán hớt tóc, phải đưa ông vào bệnh viện trong Huế điều trị “Bịnh chó dại” . Đâu có ai nghĩ rằng: ” chó suả là chó không bao giờ cắn”, người Mỹ cũng có câu” Barking Dogs seldom bite” nếu nó muốn cắn, cứ việc gầm gừ im lặng, chờ cơ hội, đớp cho một phát, rồi cong đuôi chạy là xong ngay.  Nghe ôn Viễn nói vậy, cả nhà ông thợ hớt tóc cũng lo lắm, không biết  tính sao?  Đưa ông vô Huế chữa bịnh tốn kém dữ  lắm, đã hao tổn tiền bạc lại mất thời giờ, bỏ tiệm cắt tóc ai làm đây-tết nhứt đến gần kề,  đang phân vân do dự,  thì ông Viễn mới đề nghị: “ thôi được, đưa cho tôi một con chó, tất cả mọi  chuyện sẽ xong ngay. Thế là thêm một chú chó , được đưa lên giàn hỏa ” tử vì đạo”.

Đó là chuyện ngoài Làng lúc nhỏ, tôi được nghe và thấy. Sau này vào sống ở Đà Nẵng với bà con, trong nhà cũng có nuôi một con chó khá lớn, tên là” con Ky”. Chắc là giống tốt và được ở thành phố, ăn uống, chăm sóc đầy đủ, nên to lớn  và khỏe lắm, vì vậy  năm nào cũng đẻ được vài chú chó con, đẻ xong, lại đem cho bà con hay hàng xóm nuôi…Cứ như vậy, nó sống với gia đình của cậu suốt hơn mười năm.  Nhớ  Tết Mậu Thân, chiến tranh xãy ra ngay trong thành phố, súng đạn nổ um sùm.. khắp tứ phiá, hoảng hốt, nó chạy lạc đi đâu mất,cả nhà không ai hay biết  Ba bốn ngày sau cũng không thấy nó về nhà, ai cũng nghĩ, chắc bị trúng đạn chết hay đi lạc bị người khác bắt rồi. Khoảng gần một tuần sau, tình hình trong thành phố trở lại bình thường và yên tỉnh, buổi tối cả nhà đang ngủ, bổng nghe có tiếng chó rên rên,rỉ  rỉ  và có cả tiếng quào cấu vào bức cửa sắt ở tầng trệt, tôi vội vùng dậy, bật đèn và chạy xuống cửa để coi động tỉnh ra sao, thật là bất ngờ, vửa mở cửa ra,  đã thấy con “Ky ”  chồm dậy và tông cửa chun vô nhà thật nhanh, mặt mày bơ phờ, mình mẫy lem luốt,vẫy đuôi mừng rỡ lắm. Thế là cả nhà thức dậy, mừng không thể tả, cậu tôi mừng và xúc động quá, không cầm được nước mắt…Nhưng than ôi! chỉ vài tháng sau, chắc tại con Ky cũng đã già, sức khỏe cũng hao mòn theo năm tháng, nên nó cứ yếu dần cho đến một ngày nọ, con Ky cũng trút hơi thở cuối cùng…Cả nhà ai cũng thương tiếc. Sau khi nó mất, chúng tôi  kiếm một cái thùng giấy thường dùng để đựng hộp nữ trang khá dày và cứng , vừa đủ để đặt nó vô thùng, tôi thuê chiếc xe xích lô, chở lên nghiã điạ gần ngã ba Cai Lang, tìm một khoảng đất trống nằm dưới chân mộ người ta, nhờ bác chạy xe Xích Lô đó đào một cái huyệt nho nhò, vừa lớn bằng cái thùng giấy rồi bỏ xuống và lắp đất lại như một ngôi mộ nhỏ trước khi ra về… Tình cờ vài năm sau, có dịp đi ngang qua nghiã địa đó để tới nhà của người bạn ở Thanh Khê, tôi ghé vào thăm, ngạc nhiên hết sức, bây giờ ngôi mộ  vẫn còn đó và không biết người nào đã vun xới , đắp thêm đất chung quanh cao ráo, tươm tất, sạch sẽ,trông  như một ngôi mộ của người chết , có cả mấy chưng nhang của ai đó đã thắp cho con Ky nữa. Đúng là số nó có phước.

***

Bây giờ đến chuyện bên Mỹ, trong nhà anh Ba tôi , mấy đứa cháu cũng có nuôi  hai con chó thật dể thương ,  mỗi lúc đi đâu về có hai con chó, đùa giỡn với nó cũng vui vẽ lắm. Khi nào cà nhà đi khỏi, hai con chó được mấy cháu thả ra sau vườn , có hàng rào bao quanh nên rất an toàn . Một bửa nọ, không biết sao, cháu lớn mở cửa hàng rào để đem thùng rác ra bỏ ngoài đường cho xe rác đến lấy, xong  vội vàng lên xe đi học, quên đóng cửa , thế là mấy chú chó được tự do, thừa cơ hội chạy tung tăng ra đưòng ,có lẽ lâu ngày bị nhốt trong nhà, trong vườn, hôm nay đươc chạy chơi thỏa mái,không ai theo dõi, nên thi nhau chạy bạt mạng, vì thiếu “cảnh giác”, nên không may, một con đã bị chiếc xe lấy rác tông chết, bỏ xác nằm bên lề đường. Đến trưa, cháu Ngọc đi học về mới biết tin con chó mà cháu cưng nhất đã bị  chết rồi, thương và thấy tội nghiệp quá, cháu khóc suốt ngày, sưng húp cả hai mí mắt. Sau đó, phải thuê  ông Mễ hàng xóm đem bỏ nó trong thùng , đưa ra nghĩa trang của thú vật ( Pet  Cemetery)  chôn cất tử tế.  Vừa mất chó, lại tốn thêm mấy trăm đô trả công và đất tại nghĩa địa cho người ta nữa…

Chó và người  qúy mến và thương nhau như vậy đó.

***

Trở lại chuyện của Chó ỏ bên quê nhà . Tuần rồi, lên online tìm đọc mấy cái tin “xe cán chó” (ý nói mấy cái tin tức vô thưởng vô phạt của mấy anh chàng phóng viên nhà báo trước năm 1975, cả ngày ngồi tán dốc ở mấy quán cà phê bên lề đường, gặp chuyện không quan trọng, chuyện riêng tư, hay chuyện nhà chuyện cửa của dân cũng đưa lên báo, bắt độc giả phải đọc). Nhưng lần này cái câu chuyện chó rất là trầm trọng, đến mức ông Mike Ives, một phóng viên quốc tế của hãng thông tấn Mỹ  AP.  ở Hà Nội phải lên tiếng và gọi đó là: “ Dog Wars” , xin tạm dịch là: ”Cuộc chiến Vì Chó”.

Câu chuyện kể không phải vì các con chó cắn xé , đấm đá hay giết nhau như thời kỳ chiến tranh trong nước., mà  mục đích của bài viết là nói về  “Tệ nạn ăn trộm Chó” ở Hà Nội. xin được ghi lại, nếu bà con nào chưa đọc, thì đọc  cho biết. Chuyện kể:  Ông Nguyễn Văn Cường, một người dân Hà Nội, đang ở trong nhà, nghe có tiếng tri hô: ”Trộm”, “Trộm”  từ người hàng xóm, tức tốc cháy ra, thì đã quá muộn. Hai tên trộm đi trên xe gắn máy đã chộp lấy con chó yêu qúy của ông và phóng vèo đi mất.

Ông Cường và hàng xóm đuổi theo hai tên trộm trong tuyệt vọng. Trong khi đó hai tên trộm chuyên nghiệp, vừa chạy vừa ném gạch ngói vào những người đang truy đưổi. Một trong những miếng gạch đá bay trúng đầu một người đứng gần đó và giết chết ông này ngay tại chổ.

Những cuộc rượt đuổi người trôm chó, xãy ra rất bình thường trên cả nước. Vì dân mình, nhất là người ngoài miền Bắc,thích nhậu Cầy Tơ , không thua gì mấy ông củ sâm Đại Hàn cả, nên nhu cầu  thịt chó , cung cấp bao nhiêu cũng không đủ, đã vậy thịt cầy laị bán được giá, nên nhiều người thích “kinh doanh”  tổ chức đi trộm chó bán cho các cửa hàng ăn “Mộc Tồn” là mau có tiền nhất. Thỉnh thoảng, cũng có người đi ăn trộm chó, bi chủ dùng gậy gộc đánh chúng đến chết-thậm chí có trường hợp, người bị mất chó, châm lữa đốt chết tên trộm nữa. Ngược lại, mấy tên chuyên đi trôm chó, cũng xử dụng vủ khí  như dao búa, gạch đá… để chống trả người truy đuổi.   Tình trạng trộm chó mỗi ngày mỗi leo thang,mỗi ngày mỗi táo bạo hơn, và cứ thế, chỉ vì mấy con chó , đã có không biết bao nhiêu người phải  ”hy sinh tính mạng” để bảo vệ con cầy.  Các quán thịt chó đã phát triển rất nhanh, ở khắp hang cùng ngỏ hẻm của Hà Thành  và các thành phố lân cận…

Chó ỏ Việt Nam, thường  được thả và đi lung tung ở ngòai đường, nên chúng dễ dàng trở thành những miếng mồi ngon. Một con Chó còn sống, bán được gần 6 đô la /kg , thậm chí còn đắt hơn cả thịt gà. Trộm được một con chó nặng khoảng 20 kg, có thể bán được hơn 100 đô, cần gì phải đi làm cho cực thân xác !

Ở phương tây, nói chung người ta nuôi chó mèo trong nhà, vì họ coi những con thú như là một thành viên trong gia đình, nên chó hay mèo , họ trân qúy, nâng niu , chiều chuộng , săn sóc, mặc dù biết là nuôi nó , chi phí không phải ít : ngoài việc  lo ăn uống, đưa đi bác sĩ, tiền thuốc men, chủng ngừa, cắt lông,  cắt tóc, móng chân, móng tay… ôi thôi đủ chuyện. Có người lớn lên, không cần lập gia đình, chỉ nuôi một hay vài con mèo hoặc chó, coi như bạn bè thân thiết hoặc như con cái trong nhà ,thế là đủ. Còn bên mình, nuôi chó, một là để giữ nhà, hai là để ăn thịt, chó chưa được qúy trọng như các người  ở tây phương, mặc dù, ở Việt Nam, ngày nay , đã có nhiều người , nhờ cách này hay cách khác, trở thành  đại gia, cũng đua đòi học làm sang, trong nhà cũng tậu một hay vài con chó loại hiếm qúy, đắt tiền để có dịp khoe khoang với thiên hạ , cán bộ , hay đồng nghiệp trong sở.  Tổ chức tiệc tùng mừng sinh nhật cho chó, có khi tốn cả mấy  chục triệu…

Riêng bà con mình, nghĩ sao về chuyện này ? qúy vị là người  ủng hộ  “sống trên đời, không ăn thịt chó, chết xuống âm phủ, không có miếng thịt chó mà ăn” hay trái lại là người sẽ phản đối mạnh mẽ  chuyện giết chó ăn thịt.  Nếu được như vậy,  ngại ngùng gì mà không  gia nhập  hội “ Bảo vệ thú vật “  “We Love Pet” qúy vị nghĩ sao?

Thịt chó: Món ngon dân dã
 hay vị thuốc bổ?

Được viết bởi: http://yume.vn/nguyengiandon - Nguyễn Giản Đơn | 28/07/2011

Hôm bữa về quê, ông cậu mời cơm có món cầy xào lăn, mình ăn thấy ngon không tả hết được. Giờ bỗng nổi hứng về cái món thịt chó này.

Thế nên sưu tầm và tổng hợp ra cái bài này, ai thấy hợp ý thì bữa nào làm một buổi off thịt chó đê!

Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, thì quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh... huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?

Thực vậy, có ai một buổi chiều lất phất mưa xanh, trời căm căm rét, mà ngả một con cầy ra đánh chén với đôi ba bạn cố tri mới có thể cảm thấy rằng không phải đời lúc nào cũng không đáng để cho người ta sống.

Rõ ràng là mình đương buồn muốn chết, người ủ rũ ra, mà "làm một bữa" vào, chỉ giây lát là "nó sướng tỉnh cả người ra", không chịu được. Tôi có thể cam đoan với các bạn: Một người thất tình, muốn đi tự tử, nếu người ấy biết thưởng thức món thịt cầy, mà các anh lại mời y dùng chơi chút đỉnh rồi muốn đi chết đâu hãy chết, tôi có thể tin rằng mươi bận thì chín bận ăn xong anh ta sẽ đổi ý định ngay.

Là vì đời có thịt cầy, thỉnh thoảng ăn chơi một bữa ta thấy nó cũng bõ để cho ta sống, mặc dù có nhiều lúc cái kiếp con người còn khổ hơn cả cái kiếp con chó vài ba bực. Lo cho con học, vợ hỏi tiền mua gạo; tiền điện, tiền nước chưa trả; nhân tình dọa bỏ đi; cuối tháng, lại phải đến chủ nhà hỏi xem hắn có bằng lòng cho thuê nữa hay không... bao nhiêu nỗi lo âu khốn nạn nó làm cho lòng người ta day dứt!

Những lúc đó, ăn vàng vào miệng cũng không ngon. Ăn vàng vào miệng không ngon, nhưng ăn một miếng chả chó, ta lại muốn ăn hai để chờ món tái đem lên, ta vừa nhắm nhót vừa suy nghĩ trong khi đợi món dựa mận, chết! chết! Sao nó ngầy ngậy, béo béo, ngòn ngọt mà lại có thể thơm đến thế! Ta tự bảo: "ờ mà, sống ở đời bất quá nhiều lắm cũng chỉ đến sáu, bảy chục năm là cùng. Mà trong sáu, bảy chục năm đó, ngày vui quá ít, lo âu, sầu não lại nhiều, thế thì tội gì lại chuốc phiền khổ vào người cho mệt !”
Ngả con cầy ra đánh chén! "Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?"

Thôi thì được ngày nào hãy cứ biết chiều ông thần khẩu ngày ấy đã, sau ra sao sẽ liệu, ấy thế mà chưa biết chừng ăn một bữa cầy vào, cái vận mình nó lại chuyển hung thành cát, chuyển đen thành đỏ thì lại càng hay, chớ có sao đâu?

Thật vậy, thịt cầy ở nước ta không phải là một món ăn như thịt dê, thịt lợn, nhưng nó lại còn là một niềm tin tưởng trong dân gian nữa.
Vận đương xúi quẩy, ăn một bữa thịt chó vào, người ta rất có hy vọng giải đen. Đánh bạc thua liền ba đêm: này! Ăn một bữa thịt chó, có người gỡ lại hết cả tiền thua, mà lại còn được thêm là khác. Thử hỏi trong tất cả các món ăn trên thế giới có món ăn nào khả dĩ lại di chuyển được vận hạn của con người đến thế hay không? Nhưng dẫu sao, chuyện di chuyển vận hạn cũng là chuyện của tương lai huyền bí. Nói ngay đến chuyện thiết thực ở trước mắt mà chơi.
 

Một chiều mưa phiêu phiêu ở chốn đồng ruộng căm căm gió rét, không đi chơi đâu được, mà trải một cái chiếu lên thềm gạch ngô, đưa cay vài chén rượu, trước mặt có một mâm gỗ đựng thịt chó làm đủ các món: chả, tái, càry, dựa mận, chạo, nem... riêng cứ trông thôi, ta cũng đã thấy lòng phiêu phiêu như mở hội rồi.

Thịt luộc đỏ tươi, bì vàng màu da đồng, đặt bên cạnh đĩa rau húng chó; vài dĩa riềng thái mỏng tang; chả nướng béo ngậy màu cánh gián; đĩa bún trắng bong nằm cạnh những bát hầm dựa mận màu hoa sim; những liễn xào nấu với chuối "chưa ra buồng" thái con bài; những đĩa dồi tươi hơn hớn, miếng thì trắng, miếng thì hồng, miếng thì tím lợt, đôi chỗ lại điểm những nhát hành xanh màu ngọc thạch... tất cả tiết ra một mùi thơm làn lạt như mùi hoa đồng thảo lại ngồn ngộn như mùi thịt gái tơ... xin hỏi có ai mà chịu được, không thưởng thức một hai miếng làm duyên?

Người chưa ăn bao giờ ăn thử một miếng lại muốn ăn hai, còn người đã biết ăn rồi thì phải nói rằng trông thấy thịt chó mà không được ăn thì buồn bã ủ ê, nếu không muốn nói là bủn rủn chân tay, bắt chán đời muốn chết.
Thôi, hãy xếp mọi thứ ưu phiền lại, cầm đũa "làm" mấy miếng đi, người anh em! Xin mời! Rượu này là thứ rượu sen cất ở Tây Hồ nhưng không xóc, uống vào một tợp mà như uống cả một làn sen ngào ngạt của Hồ Tây ngạt ngào vào bụng.

Nhắm một miếng dồi, lại đưa cay một tợp rượu, rồi khẽ lấy hai ngón tay nhón một ngọn rau húng điểm vào một vị hăng hăng, man mát cho tất cả cái bùi, cái béo, cái cay, cái mát, cái hăng quyện lấy nhau, anh sẽ nói với tôi cảm tưởng của anh ra thế nào... Quả vậy, nếu sau này, người ta chết xuống âm phủ mà không có dồi chó để ăn thì âu cũng là một mối hận thiên thu mà ta cần phải đề phòng ngay tự bây giờ.
Óc chó có tiếng là ngon, nhưng có ý vị, càng ăn càng thấy ngon thì chính là dồi chó. Sao mà lại có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm một cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở trời?

Gắp một miếng chấm mắm tôm chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành.
Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là "sốt sích". Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi Tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừng sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏi.

Nhưng muốn thưởng thức một món cầy cho thật nổi vị, ai cũng sẽ phải công nhận với tôi không có gì "điển hình" hơn món chả.

Có một hôm trời lạnh bàng bạc màu chì, đứng tựa vào một hàng rào dâm bụt xanh, hoa đỏ, ta gọi một hàng thịt chó gánh đi qua mua một đĩa chả vào trong nhà nhắm rượu, cái ngon cũng đã "lẫm liệt" lắm rồi!

Vậy mà nói cho thực, cái ngon đó chưa thấm với cái ngon của một món chả do một người hiền nội trợ khéo chiều chồng đã làm ra, nó tinh khiết mà lại đủ vị hơn nhiều, ăn vào đến môi, trôi liền đến cổ, ôi, thơm phải nói là... điếc mũi!

Giờ đây mà xơi thịt thú rừng là có tội đấy!
Hồi còn ở bên K. thì thịt thú rừng tụi mình ăn nhiều (nếu có điều kiện). Nhưng chỉ có 2 món chính đó là luộc và hầm nhừ! Vì lính thời đó khổ lắm, ăn còn đói lên đói xuống thì lấy gì mà làm món này món kia! Chủ yếu là no bụng là được!
Cũng như thịt chó, bên đó tụi mình chỉ có mấy món chủ lực như sau:
- Hấp - luộc.
- Hầm (nhựa mận bây giờ )
- Dồi (nếu có thời gian và gia vị!
- Tiết canh (nhưng món này mình ít khi đụng muỗng).
Giống chó bên Campuchia cũng như bên mình, là loại chó cỏ, nhỏ con nhưng thịt thơm.... . Nhớ có lần, sau một đợt truy quét cả tháng trời trong rừng, khi về đến doanh trại thì cái thèm đủ thứ nó dày vò miệng lưỡi, ruột gan thằng lính. Trong rừng thiếu thốn mọi bề, rau thịt thì chỉ có trong những giấc mơ hay trong cacs câu tán gẫu thèm thuồng của đám lính tụi mình... Thấy rau cỏ mọc hoang củng nhổ về luộc chấm muối ăn ngon lành. Thấy mấy chú xì ke của dân hôm nào cũng chạy vô cứ để kiếm miếng ăn,thèm quá, tụi mình làm bẫy chộp được một chú (không dám bắn- coi chừng bị kiện thấy bà nội! )...Hehe...thế là cả đám vui như Tết....Dao thớt cứ khua nhặng cả lên! Cũng may là C mình đóng xa mặt trời nên cứ vô tư mần...! Phải nói là cho tới giờ, mình chưa thấy miếng ăn nào ngon như hôm đó, gắp một miếng bỏ vào miệng, cảm thấy dược cái ngọt ngào của thịt, cái thơm vô cùng của món ăn...nó cứ như giục đôi đũa gắp thêm miếng nữa, miếng nữa....Ngon lạ lùng....
Ăn xong, thằng nào thằng đó chóp chép cái miệng hoài....
Hôm sau, dân tới hỏi mấy chú đội có thấy xì ke của họ không? Tất cả đều đồng thanh: Te, te!
Vô bụng hết trơn rồi thì có thấy gì đâu

Cũng vì… chó!

Chưa thời nào loài chó lại lên ngôi như ngày nay ở Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Công tác và giá trị của loài chó đã thay đổi theo chính thể. Vào các thời quân chủ phong kiến hay thời tư bản, chó chỉ có một phận sự là canh giữ an ninh cho tư gia và tài sản của chủ. Hoàn thành tốt nhiệm vụ này, chó được đánh giá là vĩ đại. Những thành phần chơi chó bằng cách vuốt ve, ôm ấp dù sao cũng chỉ rất ít, chưa đủ sức lực của một dòng thác cách mạng hầu tạo thành một giai cấp. Đến thời xã hội chủ nghĩa, giới trộm cướp quá cao tay ấn khiến chó tiên tiến cỡ nào cũng phải từ chào thua đến mất mạng. Thế nhưng giá trị của chó lại được chế độ nâng cấp - ở một vị thế duy nhất: Thịt!

Thời xa xưa, vì chó thuộc hạ tầng cơ sở nên từ ngữ “chó” mang ý nghĩa sỉ nhục. Bởi thế người đời mỗi lần đấu võ miệng với nhau thì trong mười trận, cả mười trận đều ngập tràn tiếng… chó. Đủ loại, nhưng “ấn tượng” hơn cả là: Chó ghẻ! Chó cái! Chó đẻ! Chẳng cứ giới bình dân tức nhau liền gán nhãn hiệu - “Đồ chó” - cho nhau mà giới đại trí thức muốn chửi xéo nhau, nói bóng nói gió nhau hay muốn đá giò lái nhau, cũng cậy cục đến… chó. Trong văn học sử Việt Nam, trận chiến châm biếm… chó gây “đau hơn hoạn” hơn cả thiết tưởng không trường hợp nào bằng giai thoại Cao Bá Quát, nhà thơ lừng danh của thế kỷ 19, bị vua Tự Đức bắt đóng vai chứng nhân. Số là vào thời kỳ Cao Bá Quát tự Chu Thần giữ một chức quan hạng bét ở bộ Lễ, đã xẩy ra một vụ đấu khẩu kịch liệt giữa hai đấng quan lớn. “Sự cố” lập tức được một nịnh thần tâu trực tiếp vào lỗ tai vua. Tên nịnh thần này vốn cũng chẳng ưa gì cái bộ mặt vẫn coi đời không to hơn cái lá tre của Cao Bá Quát, bèn vớ ngay dịp may hiếm có này để chơi xỏ họ Cao, xác nhận với vua là trong số khán giả có quan Cao Bá Quát đứng gần hơn cả. Vua Tự Đức lập tức ra lệnh cho Cao Bá Quát viết tờ trình. Không đầy 3 phút sau, vua nhận được bản báo cáo nóng hổi khiến vua vừa thổi vừa đọc: “Tiền thần bất tri - Hậu thần bất tri. Đản kiến: Thượng bàn hô cẩu! Hạ bàn hô cẩu! - Thượng hạ giai cẩu - Lưỡng tương đấu ẩu - Thần gián bất đắc - Thần kiến thế nguy - Thần hoảng thần tẩu!”. Bản dịch chữ Nôm: “Trước, thần không biết gì cả - Sau, thần cũng chẳng hay chi. Chỉ thấy: Bàn trên hô: Chó - Bàn dưới hô: Chó! - Trên dưới đều là chó - Rồi hai bên đánh nhau - Thần can không được - Thần thấy thế nguy - Thần sợ quá, thần bèn chạy!”

Long nhan vua Tự Đức đang hồng hào nhờ sâm nhung đại bổ hải cầu hoàn từ từ chuyển sang mầu xanh xám của bộ mặt của một kẻ bị bệnh thiếu máu kinh niên hoặc suy thận, viêm gan. Vua Tự Đức đau điếng vì hiểu thâm ý của Cao Bá Quát muốn bóp nghẹt đường sinh mệnh của mình; nhất là câu “thượng hạ giai cẩu” - trên dưới đều là chó - à thì ra thằng… chó này nó muốn ám chỉ mình cũng là chó đây. Chữ “thượng” rành rành ra đó. Chẳng thế mà các thần dân vẫn rạp mình mà “muôn tâu thánh THƯỢNG” là gì?! Ngầm biết vậy nhưng vua Tự Đức vẫn không thể công khai bắt bẻ được Cao Bá Quát, bởi “tác giả” tờ trình này có viết gì sai quấy đâu, dù có chẻ từng chữ ra làm tư cũng chẳng thấy cái khe hở nào mà chụp mũ. Cuối cùng vua Tự Đức đành “ngậm bồ hòn làm ngọt” cho tới ngày bệ hạ di chuyển xuống tuyền đài.

Lại có nhiều tác giả văn học quả quyết giai-thoại-chó trên đây không phải là của Cao Bá Quát, nhưng của Nguyễn Công Trứ, một thi sĩ của hạ bán thế kỷ 18. Chuyện kể, khi Nguyễn Công Trứ “chen chúc lợi danh đã chán ngắt” rồi, hối hận vì “đám phồn hoa trót bước chân vào - Sực nghĩ lại giật mình bao kể xiết”, nên trước ngày dứt khoát “thoát vòng danh lợi”, cụ Trứ mời tất cả quan lớn ở trong và ngoài triều đình đến nhà đánh chén một bữa linh đình trước khi chia tay. Cụ sai gia nhân làm thịt chó để đãi các thượng khách, nhưng cấm họ không được bật mí thịt gì. Bàn kê chật ở nhà trên, bàn kê khít ở nhà dưới, dễ đến hơn hai, ba chục bàn.

Sau khi đã chuếnh choáng hơi men, một “cây đại thụ” trịnh trọng đứng lên phát biểu cảm tưởng: “Cụ Thượng hôm nay cho chúng tôi đớp, à quên ăn, à lại quên, cho thưởng thức món cao lương mỹ vị gì mà ngon quá sức tưởng tượng vậy, đến nem công chả phượng hay ‘dzấm-sủ’ của Hằng Nga cũng không sánh bằng”.

Cụ Nguyễn Công Trứ bèn tỏ ra khiêm nhượng, vẫn giả bộ không dám tiết lộ, lại càng khiến thực khách bấn loạn, thi đua mà hò hét, gõ bát, đập cốc, khua đũa mà đòi gia chủ cho lòi ra bí mật. Sau khi nhận thấy các đấng “phụ mẫu chi dân” đã chịu hết nổi, cụ Nguyễn Công Trứ mới thong thả đứng dậy, lấy tông thỏ thẻ như thể của con gái trăng tròn nhưng nghe vẫn lanh lảnh như giọng thiếu phụ hàng cá: “Bẩm các quan, đáng lý mạn phép được giữ độc quyền món quốc hồn quốc túy này, nhưng vì các ngài ép quá nên kẻ hèn này đành phải thành khẩn khai báo vậy: “Thưa, thật sự chẳng có thịt gì khác lạ cả?” - rồi cụ Trứ chỉ tay lên dãy bàn trên: “Dạ, thưa trên đó là chó!” - rồi chỉ tay xuống: “Dưới này cũng là chó!” - rồi xoa hai tay vào nhau, giọng nói có vẻ hể hả, tự đắc: “Phải, trên dưới đều là chó cả, ạ!”

Các bộ mặt bỗng xạm lại, mất hết khí thế do rượu đế tạo nên, các cửa “khẩu” (khẩu = miệng) liền mở banh ra như thể để tống ra hết tất cả những gì vừa được nhập “khẩu”. À thì ra nó gián tiếp cho mình là chó. Vậy là chó lại vừa ăn… thịt chó. Đau gấp trăm lần so với nỗi khổ vì bệnh trĩ. Ai bảo cứ nằng nặc hỏi cho bằng được nó cho ăn gì để nó có cớ chửi cả quan nhớn lẫn quan bé là đồ chó. Chẳng thể bắt bẻ nó được. Sách viết tiếp, thế là các quan, thượng trước, hạ sau, nối đuôi nhau mà ra khỏi nhà của cụ Nguyễn Công Trứ. Một vài cái miệng hàng ngày vẫn tụng kinh thánh hiền đã buột những tiếng “đèo” ai oán!

Được biết trong văn học sử, cả Công Trứ lẫn Cao Bá Quát đều là những nhà thơ đại tài có dư máu ngông trong huyết quản và ngòi bút. Cả hai đều là nạn nhân của thời đại nhiễu nhương - cả hai đều bị triều đình “đì sát ván” vì thái độ cao ngạo, bất khuất - và cả hai đều ghét cay ghét đắng từ hoàng triều thối nát đến lũ quan lại tham ô. Nên hậu thế có ngộ nhận giai-thoại-chó trên đây của cụ nào thì vẫn… có lý thôi! Tuyệt vời hơn nữa là giai-thoại-chó ấy mà mang áp dụng vào xã hội Việt Nam ngày nay, người ta vẫn có thể chỉ tay lên Ba Đình, vào bộ Trung Ương Chính Trị… rồi chỉ xuống hàng ngũ bộ đội, cán bộ Việt Cộng rồi hô to: “Thượng hạ giai cẩu! - Trên dưới đều chó cả!”. Vẫn đúng!
Vâng, như ở phần đầu bài kẻ hèn này đã viết là chó hiện đã chiếm được thế thượng phong trong xã hội Việt Nam - và giá trị của loài chó nằm ở một vị thế duy nhất. Đó là thịt. Khắp trên lãnh thổ đất nước, từ thôn quê lên thành thị, trong bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào cũng có cửa hàng thịt chó. Đại Hàn vẫn vỗ ngực với thế giới khoe món thịt chó là món ăn truyền thống của họ, nhưng nếu so sánh tổng số cửa hàng thịt chó, thực khách thịt chó lẫn món thịt chó, đương nhiên vẫn thua đậm Việt Nam xưa kia đã đành, ngày nay lại càng bị bỏ xa hơn.

Ở Việt Nam bây giờ, giai cấp nào cũng ăn thịt chó. Chẳng lạ mắt tí nào khi một cặp tình nhân đưa nhau vào một tiệm thịt chó. Không ai còn chê một bầy con gái xẻ cho nhau một dĩa tiết canh chó hay “vô tư” gậm một khúc xương chả chìa. Vào bất cứ dịp nào, kể cả cưới hỏi, tang chế, đãi đằng… có thịt chó là có tất cả. Thời xưa, người ta còn phân biệt: “Nhất mực, nhị vàng, tam khoanh, tứ đốm” nay thì chó nào cũng quí, cũng ngon, bất kể là chó ghẻ, chó hoang, chó bệnh hay chó dại. Cũng ngày xưa, thiên hạ chỉ mong “hạ cờ tây”, tức hạ cầy tơ. Nay, từ chó sữa tới chó già… đều có giá. Đã nói, loài chó nay đã được bình đẳng trong quan niệm của dân nhậu thịt chó nói riêng, trước mắt “nhân dân ta” nói chung.

Các món thịt chó cũng vì thế mà thi đua phát triển. Trước kia, việc làm thịt một con chó thường phải qua các giai đoạn chính yếu: Cắt tiết, đổ nước sôi để cạo lông, thui, mổ để lấy lòng rồi chặt từng phần để làm các món “chính qui” như: Luộc, nấu rựa mận, nướng chả chìa, làm dồi và đánh tiết canh. Ngày nay, “thịt chó 7 món” chỉ là… “chuyện nhỏ”. Cổ nhân thường lo lắng cho kiếp sau: “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó - Chết xuống âm phủ biết có hay không”. Nhiều cụ xơi thịt chó xong vẫn không chịu xỉa răng ngay, bảo để ba bốn hôm sau, lấy đầu cây tăm nậy chất thịt-chó-tàn-dư còn giắt ở kẽ răng rồi đưa lên mũi ngửi… Vẫn thơm! Phương pháp cổ truyền này nhằm lưu trữ thịt chó - y như nay ta cất trong tủ lạnh - để phòng ngừa trường hợp lâu mới được ăn lại. Đỡ nhớ! Bởi thế dân nhậu có câu: “Phòng cơ tích… nhục cẩu” để đối lại lời khuyên của tổ tiên: “Tích cốc phòng cơ”.

Cũng vì đâu đâu cũng “trăm hoa đua nở” quán thịt chó nên dân số chó ngày một xuống dốc không phanh. Chó chưa biết… mùi đời thì đã bị ngửi lá mơ, củ riềng, vậy thử hỏi làm sao loài cẩu sinh sôi nẩy nở kịp. Bởi thế hiện nay ở Việt Nam tình trạng hiếm chó không khác gì hoàn cảnh năm đói 1945. Dân buôn chó hàng ngày vẫn phải rong ruổi khắp mọi “con đường cái quan” để lùng chó mà mua, mà bắt trộm. Có người than, nhiều khi đi ba, bốn ngày không vớ được một con chó nào. Thiết nghĩ, đặt trường hợp Muammar al-Gaddafi có ẩn núp ở Việt Nam, chắc dân buôn chó cũng khám phá ra tương đối dễ, chứ tìm được một con chó ngon lành ngày nay khác chi “mò kim đáy bể”. Hàng nội cạn dần, nhiều tay buôn chó đã phải lặn lội sang tận các nước lân bang như Cam Bốt, Lào, Thái Lan, Mã Lai hay Trung Cộng… để lùng hàng ngoại. Nghe nói, người ta đã ngấp nghé cả thị trường chó… Hoa Kỳ rồi đó! Trong lịch sử, đã có chiến tranh nha phiến, có giặc châu chấu… Nay nếu chiến-tranh-chó có xẩy ra, âu cũng là lẽ thường tình thôi.

Cũng vì cạn chó nên nhà nào ở Việt Nam có chó thì - thay vì chó canh nhà - chủ nhân phải canh chừng chó thường trực. Người lạ đi lang thang vào xóm làng hay ngõ hẻm dễ bị “đánh giá” là quân trộm chó. Xưa kia, người nào đi đến đâu cũng bị chó sủa ắt là tự tố cáo mình là kẻ mê ăn thịt chó. Nay khỏi cần đến sự đánh hơi hay bản năng tự nhiên của chó, nhưng lại là người. Chẳng bao giờ sai, bởi người người ăn chó, nhà nhà ăn chó, toàn dân ăn chó… thì đâu đâu cũng là chó. Dễ nhận ra nhau!

Ngày nay, người Việt nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngờ trộm chó. Chẳng thế mà thầy giáo Phạm Văn Tần (36 xuân xanh) ở Mã Thành, Nghệ An đã bị dân chúng huyện Yên Thánh đánh gần bể sọ não, lòi xuông sống, sưng vù cặp mắt và mặt mũi… Nguyên nhân chỉ vì người ta nghi Tấn đến đây trộm chó. Khổ quá, hai làng xã vốn cận kề nhau, Tấn được nghỉ dạy học ngày 2 tháng 9, nên muốn sang thăm một người bạn. Tấn bị lạc đường, phải dừng xe gắn máy lại để hỏi thăm một phụ nữ. Tấn chưa kịp mở miệng thì một người đàn ông đã bất ngờ xuất hiện, túm lấy cổ áo Tấn, hét: “Đéo mẹ, mày hỏi gì?”. Lại vẫn chưa có cơ trả lời, Tấn đã bị hai thanh niên khác phóng từ nhà ra, tấn công vừa bằng gậy gộc vừa bằng võ miệng: “Ăn trộm chó!”. Lúc đó khoảng 8 giờ tối, không hiểu dân chúng rảnh rỗi thế nào mà vừa nghe báo động “trộm chó”, rất đông người đã ứng chiến ngay. Tấn ôm được chân một người lớn tuổi, hy vọng được cứu, xưng là giáo viên nhưng thay vì “muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy”, ông này lại hô: “Đánh cho nó chết mẹ nó đi!”. Hơn chục người, già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu hưởng ứng tận tình. Những trận mưa gậy gộc, dao rựa thi đua giáng xuống thân hình ông thầy giáo trẻ tuổi vốn ốm như “bộ xương cách trí” này.

Khi “ngọc thể” của Tấn đã mềm như sợi bún; máu me tuôn chẩy. Dân làng tiện tay châm lửa đốt luôn xe gắn máy của Tấn. Điện thoại di động, tiền bạc và giấy tờ tùy thân thì được bảo vệ, nhưng không biết người nào đã “cầm nhầm”.

Chị Đặng Thúy Hằng, vợ của thầy Phạm Văn Tấn đệ đơn lên chính quyền huyện Yên Thành  khiếu nại chồng bị vô cớ hành hung dã man. Quan lớn ở đây không xử, giải thích cho chị Hằng: Dân chúng bị mất chó quá nhiều nên bực tức, thành ra cứ thấy người lạ xuất hiện là nghi mò đến ăn trộm chó. Đánh!

Nghe nói, chính quyền đã ưu ái đưa cho chị Hằng 5 (năm) quả trứng gà, nói mang về cho anh Tấn… tẩm bổ. Nhưng vì bị chấn thương nặng ở sọ não, cột sống thắt lưng và lõm đốt sống 12… e rằng thầy giáo Tấn sống sót là đã phúc hơn bẩy mươi đời, chứ chẳng hy vọng có thể tiếp tục nghề “gõ đầu trẻ” được nữa.

Ước mong khí thế của dân chúng Yên Thành được sử dụng vào công cuộc “đánh bỏ mẹ” bọn Tầu Cộng xâm lấn đất đai nước mình và vẫn bạo hành ngư phủ Việt Nam.

Người viết bài này mạn phép kể lại truyện trên đây, chỉ muốn truyền thông đến quí độc giả một kinh nghiệm khi về thăm quê hương: Ở Việt Nam ngày nay, có nhiều nguyên nhân dễ gây tử vong cho bất cứ người vô tội nào, cách riêng Việt Kiều, trong số đó chó luôn luôn đứng đầu bảng

Khi tôi tìm tia, cắt tiết xong con chó thì xoong nước đun đã nóng già. Tôi liền nhúng nước con chó để vặt lông. Ở sát đường biên chốt 800 Đông và Bản Đơ, TQ vẫn bắn pháo sang. Hôm nay Trung Đội 1 cũng chẳng cần bảo liên lạc nhắc nhở khẩu đội cối của chúng tôi nữa vì phương án tác chiến của khẩu đội Cối tôi đã có sẵn rồi. Còn phản pháo để bắn trả kịp thời thì đã có C8, Cối 82 của D5 làm nhiệm vụ đó còn Cối 60 của tôi chỉ khi nào quân TQ tiến vào đến Bản Trang ( Vị Quang ) thì mới được bắn, Bản Trang là tiếng dân tộc dịch ra tiếng Kinh gọi là Bản Giữa, nó nằm ở điểm giữa giao nhau của thung lũng Vị Quang cách trận địa Cối của chúng tôi trên đỉnh Cổng Trời khoảng 500m mà TQ nó cứ bắn vu vơ như thế. Chúng tôi kệ cứ vẫn yên tâm bình tĩnh làm thịt chó. Khi con chó đã được thui vàng tròn căng. Tôi rửa sạch rồi mổ bỏ lòng ra cho thằng Khải và Thằng Hà làm, Thằng Xá và Thược phụ giúp tôi pha và lọc thịt. Thằng Phượng tiếp tục đi lấy 1 chuyến nước nữa. Tôi còn dặn thằng Phượng khi đi qua chốt B1 bảo anh Sử Trung Đội Trưởng đến trưa lên khẩu đội uống rượu thịt chó. Khi việc sơ chế con chó đã xương ra xương, thịt ra thịt rồi. Tôi mới chọn miếng nào để băm tiết canh miếng nào hấp, miếng nào làm rựa mận thì tôi thấy mấy người lính xách cả súng hớt hải chạy qua chỗ chúng tôi dáng vẻ vội vã tôi liền quát hỏi:" Này ! chạy đi đâu mà như ma đuổi thế ở đơn vị nào?" Chúng nó bảo:" Ở 800 Đông ". Thì ra là lính K6 địa phương ( người bản địa ). Thấy TQ bắn sang Chốt ác quá 2 ngày rồi, thì xách súng bỏ chạy. Tôi liền bảo:" TQ nó đang bắn sang không ở lại mà giữ chốt lại bỏ chạy nhỡ nó cho quân sang cướp chốt thì sao". Chúng nó bảo:" Em không biết, sợ lắm, chạy về với gia đình thôi, nếu TQ nó đánh sang thì cùng với gia đình đi sơ tán". ( Lính địa phương,người dân tộc nhà ở gần đơn vị thường là như thế đấy các bạn ạ )
- Chính vì lính địa phương bỏ chạy như thế, chúng tôi lại lên nhận bàn giao tất cả các Chốt ở sát đường biên còn lính K6 địa phương chuyển đi đâu thì tôi không rõ. Về việc này tôi sẽ viết kĩ thứ tự ở hồi kí của tôi sau. Tôi không muốn viết nhảy cóc kể cả về thời gian, không gian và địa điểm các bạn ạ.
- TQ vẫn cứ bắn chúng tôi vẫn cứ làm thịt chó để tổ chức liên hoan mừng có thêm lính mới và cũng ăn mừng hội lính 80 ở đơn vị tôi và cả Tiểu Đoàn 4 chúng tôi không có thằng nào bị giữ lại cả. Vì chúng nó chạy trốn thoát hết còn ở Tiểu Đoàn 5 và 6 tôi nghe hình như có mấy thằng bị bắt giữ lại đơn vị, thu quyết định luôn. Có thằng còn bị vệ binh sư đoàn giữ lại ở tận Nước Hai thu quyết định lại và đuổi về đơn vị cũ
- Hôm nay ngày 21-4 TQ bắn pháo sang hướng của bọn tôi gần 2 tiếng. Nhưng điểm nổ còn cách Chốt của chúng tôi hơn 1000m tính theo đường chim bay. Khúc dồi chó được cuộn tròn vào cây trúc nước vàng óng, thơm phức. Những bát tiết canh đông đặc chúng tôi 6 thằng và mời thêm anh Sử B Trưởng B1 nữa, chén 1 bữa trưa không hết. Chiều tối còn bao nhiêu 6 thằng chúng tôi chiến tiếp, hết sạch. Ngày hôm đó từ trưa đến tối tôi lúc nào cũng trong trạng thái lơ mơ và lơ mơ vì rượu

Trong những ngày thuộc hạ tuần tháng 4-1984 đó TQ  liên tục bắn pháo sang hướng của chúng tôi đóng quân nhưng chúng bắn có giờ giấc đàng hoàng lắm cứ 8 giờ sáng là chúng bắn, mỗi ngày chỉ hơn 1 tiếng hoặc gần 2 tiếng đồng hồ là cùng. Đầu tiên còn thấy lo và sợ sau vài ngày nó quen đi thành nhàm, tôi chẳng thèm quan tâm để ý đến nữa. Quân C8 Cối 82 của D5 chúng nó vẫn trực ở lũng Pươi và được C vận tải Trung Đoàn vận chuyển đạn Cối 82 lên tiếp viện liên tục để sẵn sàng bắn trả khi TQ bắn sang ta. Từ ngày 22-04-1984 thì kho thực phẩm dự trữ chiến đấu của Trung Đoàn mới cấp lên cho chúng tôi sử dụng ( Thịt lợn sấy, tương khô, mắm kem ). Đến sáng ngày 26-04 thì không thấy TQ bắn sang hướng của chúng tôi nữa, đến trưa hôm đó tôi nhận được lệnh cử người xuống Đại Đội ở Lũng Ngẳm lấy lương thực và thực phẩm, tôi nghĩ thịt lợn sấy cấp phát cho chúng tôi ăn vẫn còn, bây giờ  lại được cử người đi lấy nữa thì thích quá. Tôi liền cử thằng Khải và thằng Phượng về Đại Đội lấy gạo, thịt và còn dặn chúng nó rõ ràng:" 2 thằng mang 2 cái ba lô về lấy 10 ngày gạo là 42kg. 2 thằng xan đôi ra 2 ba lô là vừa đầy, hơi nặng một tí nhưng thôi, cố gắng". Khi 2 thằng chúng nó về Lũng Ngẳm rồi còn 3 thằng tôi giao việc luôn, đi hái rau ở xung quanh lán. Còn tôi cầm dao vào khe núi chặt lấy 1 cây mai vác về lán, chặt lấy mấy đoạn để đựng nước. Rồi tôi đẽo 1 cái đòn gánh đàng hoàng và cầm 2 cái can xuống mỏ nước tắm giặt và lấy nước luôn. Tắm giặt mát mẻ tôi gánh 2 can nước lên Cổng Trời, về đến trận địa Cối thì thằng Khải và thằng Phượng cũng lấy gạo và thịt về đến nơi. Tôi giật mình vì nhìn thấy 2 thằng chúng nó đã khoác mỗi thằng 1 ba lô gạo hơn 20 kg rồi lại còn khiêng cả 1 cái đùi lợn ( 1/4 con ). Tôi liền hô thằng Hà và Thược ra đỡ cho chúng nó, tôi cũng đang mệt vì vừa gánh nước leo Cổng Trời. Khải và Phượng cũng thở hổn hển, khi nghỉ ngơi cũng đỡ mệt rồi tôi mới hỏi tình hình thế nào sao nhiều thịt thế. Chúng nó bảo tiêu chuẩn mỗi người được 2,5 kg cả xương mà khẩu đội mình có 6 người được 15kg tất cả. Nhưng khổ cái thịt đã có mùi ôi ( thum thủm rồi ). Thì ra là thịt lợn của đồng bào tỉnh Hà Nam Ninh gửi tặng các chiến sĩ Biên Giới. Thịt lợn từ tỉnh rồi, cho vào xe đông lạnh chở thẳng lên Sư Đoàn 346. Rồi hôm sau Sư Đoàn, rồi nhập kho để qua đêm, sáng hôm sau cho chở vào E 677 bằng xe tải thì lợn đã hết lạnh rồi. Rồi từ E 677, ngày hôm sau C vận tải chuyển lên cho D4 chúng tôi hôm sau nữa D mới thông báo cho các C sang lấy đến chiều thì thịt lợn mới về được đến Chốt cho bộ đội dùng. Tôi ước tính từ khi thịt lợn cho đến khi lên đến Chốt mất khoảng 3 đến 4 ngày với số lượng nhiều như thế mà lại không bảo quản được kĩ mà không ôi thiu ( có mùi ) mới là chuyện lạ. Nhưng dù sao vẫn còn tốt chán các đồng chí và các bạn ạ. Vẫn còn có tí mỡ tí màngKhi thằng Khải và Phượng xuống Đại Đội lấy gạo và thịt lợn về ( 15 kg; 1/4 con lợn ) đã có mùi nhưng còn tốt chán. Tôi liền chỉ đạo chúng nó pha ít nước muối, rửa thật sạch rồi lọc hết mỡ ra để rán, còn thịt nạc cũng thái ra để rán cháy cạnh. Tôi liền chặt 2 cái ống mai ra để đựng mỡ, còn thịt đã rán cháy cạnh tôi cho ướp muối để ăn dần. Khi mỡ và thịt dự trữ đã nhiều ăn mãi cũng chán. Tôi liền đầu têu dẫn chuyện bàn với chúng nó ở khẩu đội, phải kiếm 1 bữa cá ăn, mà cá tươi hẳn hoi, khi chúng nó nghe thấy tôi nói đến cá tươi, mắt thằng nào cũng trợn lên lắc đầu. Có thằng còn bảo ở trốn thâm sơn cùng cốc thế này có cá mắm ăn là tốt lắm rồi, chứ lấy đâu ra cá tươi mà ăn, tôi liền bảo mỡ hiện giờ chúng ta đang có sẵn rồi, tôi sẽ kiếm cho chúng nó 1 bữa cá tươi rán ăn tử tế, nhưng bây giờ còn để tôi phải tính đã. Để hôm nào đẹp trời và thuận tiện thì mới thực hiện được chúng nó không tin. Tôi không nói trước cũng chẳng bàn nhiều làm gì mà tôi phải cho hội này tâm phục khẩu phục mới được. Vì tôi đã tăm tia được 1 cái ruộng ở gần Bản Cốc Cằng ( Đa số là người Hoa ). Có thả cá, toàn cá chép, chỉ to bằng 3; 4 ngón tay khoảng 2 đến 3 lạng 1 con mà nước ruộng ở đây rất nông chỉ khoảng 30cm là cùng mà nước chảy ra chảy vào liên tục chỉ cần đắp bờ phía trên không cho nước chảy vào ruộng nữa mà nước cứ chảy ra thì 1 tí là cạn chứ không phải tát đi đâu ( vì ruộng bậc thang tôi đã tính toán và lên phương án rất kĩ rồi).
Vào 1 buổi chiều, khi ăn cơm xong tôi liền bảo luôn đêm hôm nay trăng sẽ có muộn, phải tầm 1-2 giờ sáng thì trăng mới lên nhưng trăng yếu chỉ sáng lờ mờ rất thuận tiện chứ không sáng như trăng hôm rằm và sát rằm. Tôi liền bảo thằng Hà và Khải đêm nay sẽ đi cùng tôi còn Phượng, Thược, Xá ở nhà trông coi súng đạn và còn dặn chúng nó cẩn thận nếu có ai phát hiện ra chúng tôi không ở Chốt thì cứ bảo chúng tôi đi bản uống rượu từ tối chưa về. Còn thằng Hà và Khải phải nhất nhất theo lệnh của tôi mà phải bình tĩnh không sẽ hỏng hết việc. Tôi liền bảo chúng nó dồn gạo vào ba lô để lấy cái bao tải dứa để chuẩn bị đêm mang đi đựng cá tôi còn dặn kĩ là cá ở trong ruộng lúa đi bắt cẩn thận tránh dẫm nát lúa  vì lúa thời điểm này đã cao đến đầu gối rồi. Chúng nó nói tôi yên tâm đi, ở nhà chúng nó làm ruộng vẫn đi làm cỏ lúa đi vào ruộng quen rồi.
Qua 12 giờ đêm yên tĩnh, ánh trăng yếu ớt, vàng ệch lờ mờ những con đom đóm bay lượn lập lòe đêm vùng biên yên tĩnh quá. Tôi khoác 1 khẩu AK đầy hộp tiếp đạn. Đạn đã lên nòng khóa chốt an toàn lại hạ lệnh xuất phát xuống cổng trời vừa đi vừa dặn kĩ lại chúng nó lần cuối khi đi xuống đến ruộng thằng Hà sẽ đắp bờ trên không cho nước chảy vào ruộng nữa,thằng Khải sẽ tháo to bờ nước dưới để nước chảy ra nhanh. Khi bắt được cá thì ném lên bờ, tôi sẽ nhặt cá cho vào bao tải và tôi cảnh giới luôn. Khi có động ( Bị lộ ) tôi sẽ nổ súng để áp đảo và cản thì chúng nó sẽ chạy ngược Cổng Trời về Chốt cấm không được gọi tên nhau.
Khi xuống đến ruộng như phương án đã bàn chúng nó thoăn thoắt công việc rất gọn gàng, bình tĩnh, gần như không phát ra tiếng động chỉ một loáng, những con cá chép bằng 3-4 ngón tay đã được chúng nó ném lên bờ. Dưới ánh trăng lờ mờ những con cá dẫy nhẩy lên óng ánh nhìn như những thỏi bạc, trông thích mắt đáo để. Tôi nhặt liên tục cho vào bao tải, khi cảm thấy kha khá ( khoảng trên 30 con to nhỏ lớn bé ). Tôi liền bảo chúng nó thôi dừng lại, đủ rồi. Thằng Hà lại lên tháo bờ trên cho nước chảy vào ruộng. Khải đắp bờ ruộng dưới vợi vào quan sát xem có khóm lúa nào đổ thì vuốt dựng lại khóm lúa đó để xóa dấu vết. Rút ! 2 thằng chúng nó khiêng cá đi trước, tôi khoác súng đi sau để bảo vệ, qua mỏ nước Là Nìn tôi bảo chúng nó nhúng cả bao tải cá xuống nước để rửa cá cho sạch rồi mới mang về Chốt.

Khi 3 thằng chúng tôi mang gần nửa bao tải cá về đến Chốt an toàn, liền tổ chức làm cá rồi chọn một số con to vừa luộc vừa rán ăn vã ngay chỉ chấm muối thôi. Mà sao giống cá chép tuy nhỏ nhưng luộc ăn tươi sao mà ngọt thế, số cá còn lại tôi làm sạch, ướp muối để mai kho ăn dần. Các bạn thử tính xem, ở Chốt gần như là độc lập bắn nhau thì chả đến lượt mình ( Pháo tép mà ). Mà cán bộ thì ít kiểm tra lắm có khi nửa tháng hoặc hơn nữa Đại Đội mới lên kiểm tra 1 lần, khi ăn hết lương thực và thực phẩm thì lại cử người về Đại Đội lấy mà hàng ngày tôi cũng không phải về Đại Đội giao ban nữa. Anh Sử B Trưởng B1 về giao ban, có tin tức gì mới thì anh ấy thông báo cho tôi luôn. Chỉ ăn và chơi mãi cũng chán, các đồng chí ạ các cụ nhà mình có câu:" Nhàn cư vi bất thiện " cấm có sai tôi luôn nghĩ cách quấy quả nghịch ngợm, ngày thì đi bản tăm tia tối tối lại chỉ huy chúng nó đi hành sự. Nhưng chỉ kiếm cái ăn được thôi. Vì tuổi trẻ thèm thuồng thiếu thốn mà, còn ngày thì chúng tôi lên nương rẫy lấy quả bí ngô làm rau dự trữ, gần như lính ở bộ phận nào cũng thế nên chúng nó làm bài thơ cho lính.
      Tà tà chân bước vào nương
      Tay ôm quả bí  lòng thương đồng bào ;D ;D ;D
- Từ khi chúng tôi lên Chốt, lính 80 thằng Thanh Trố chạy trốn. TQ bắn sang được hơn 1 tháng thì tôi nhận được thư của thằng Thanh Trố, nó kể lại là đêm hôm đó khi chúng tôi báo động di chuyển chiến đấu, thì chúng nó cũng té luôn trong đêm, khá vất vả. Mà toàn đi bộ tắt rừng chứ không dám đi đường chính. Đi suốt đêm, cũng may có mấy thằng đi cùng nhau cũng đỡ sợ. Đến trưa hôm sau mới ra đến Nước Hai ( Hòa An ), đến tối thì ra đến Thị Xã Cao Bằng. Hiện giờ nó đã xin được vào học lớp cơ điện trường Công Nhân Kĩ Thuật Sĩ Nghiệp Liên Hợp Gang Thép Thái Nguyên. Khi đọc xong thư tôi cũng mừng cho nó đã thoát nạn, về được đến nhà an toàn, tôi cũng cũng cho nó biết tình hình Biên Giới, đơn vị và A Cối ra sao.
- Khi TQ không bắn sang nữa thì thực phẩm dự trữ chiến đấu chúng tôi không được ăn, nhân dân các huyện tỉnh tuyến sau cũng không chi viện, ủng hộ nữa. Cuộc sống người lính chúng tôi ở tuyến đầu rất khổ, nhiều lúc cơm ăn chỉ có muối và ớt chỉ thiên vì nguồn rau cũng cạn kiệt dần dần. Chỉ mong cho TQ bắn pháo sang hoặc đánh sang thì mới được ăn ngon, chứ cứ sống kiểu vật vờ thế này quá khổ. Vì đã đến mùa mưa rào rồi, mà lán thì lúc nào cũng ẩm ướt lụp xụp bọ chó rất nhiều. Rồi vào khoảng hạ tuần tháng 5-1984, khi anh Sử đi giao ban ở Đại Đội về thông báo cho tôi biết 1 tin mừng nóng hổi, các đồng chí và các bạn có đoán được tin vui gì không ?.
- Tất cả các Hạ Sỹ Quan và chiến sĩ nhập ngũ năm 1981 làm và khai lý lịch, chuẩn bị ra quân. Khi biết được tin đó tôi nhẩy cẫng lên vui mừng và hét lớn:" Mẹ ơiii... Con sắp được về với mẹ rồi."

Tò mò lính ta thử tí chị nuôi

Bọn mình vào lính, toàn ở độ tuổi choai choai, đa phần chưa có người yêu. Thằng nào có người yêu, thì cùng lắm cũng chỉ được “thơm” vào má người yêu, một phát là cùng. Vì ngày ấy kiêng khem dữ lắm, chứ chả như bây giờ.
Tuổi choai choai là tuổi chưa thành “người lớn”, nhưng không còn trẻ con, đã thích con gái.

Đối với bọn mình, chưa có người yêu, nên chỉ biết phái nữ qua tưởng tượng. Lão Hưng, Trung đội trưởng đã có vợ, ngồi kể chuyện ngủ với vợ thế nào... sướng lắm!. Đầu tiên là đưa tay sờ ti, nào mềm, nào ấm, nào đầy đầy…

Bọn lính trẻ chúng mình há hốc mồm ngồi nghe. Khoái củ tỷ!...

Nhưng lão Xuân, Đại đội phó bảo: "Thằng Hưng nó bốc phét!. Nghe làm gì?. Nó như thế này thế này cơ… Nó rắn câng cẩng, nó mát rười rượi!…". Tức thật, chả biết đúng - sai, thật - giả thế nào...

Rồi tưởng tượng!.. Mà tưởng tượng hình dung gì, thì cũng qua cái hình cái bóng cụ thể: Đó là các nữ “anh nuôi”.

Đại đội mình có mấy cô "anh nuôi". Cũng không xinh. “Cằm cô Luận, trán cô Binh, tớ đem ghép lại thành hình Lê Nin”, “Đùi Na, má Dánh, mông Đào, nếu đem ghép vào quỷ dữ chạy xa”... Mình đặt ra câu ấy để trêu. Trêu thì trêu vậy nhưng vẫn thinh thích. Bởi vì cả Đại đội, hơn trăm thằng toàn đực rựa, có mỗi 5 cô khác giới…

Hay thử liều một phát?…

Nhưng lại sợ!. Nhỡ nó tát cho thì... nhục!. Vậy là theo đuôi các anh lớn, mạnh mồm kháo chuyện với nhau. Nhưng đến trước bọn "nữ anh nuôi" thì…ngọng cả đám.

Thằng Quốc trong Tiểu đội là thằng hung hãn nhất, chả biết sợ là gì. Quốc bảo: “Để tao!”. Hôm sau, Quốc ta cố ý lùi lại xếp hàng sau cùng khi ăn cơm.
Cũng nói thêm: Ngày ấy, ăn cơm ở sân kho Hợp tác xã, nghe "Keng!. Keng!" tiếng kẻng cơm khua, thì lính cầm bát đũa ra sân kho.

Cả Đại đội tập trung thành sáu hàng dọc, lần lượt 6 người theo hàng ngang tách ra, biên chế thành “mâm”. 3 "chị nuôi" ở trong cái cửa liếp chắn lưng chừng, đưa cho một xoong cơm, một xoong canh, một đĩa 4 ngăn đựng thức ăn.

Lính đứng ở ngoài liếp nhận lấy. Sau đó, cái biên chế “mâm” bê cả ra sân, tìm chỗ trống ngồi xổm ăn cơm, chứ không có nhà ăn như bộ đội bây giờ.

Đang ăn thì thấy thằng Quốc từ chỗ phát cơm canh, vừa chạy vừa vuốt mặt, mồm la oai oái. Canh rau muống rớt đầy tóc, bám lên mặt lên cổ…

Mọi người ngơ ngác. Chẳng hiểu tại sao.
Hỏi mấy “chị nuôi”, thì thấy mấy cô mặt lạnh... như kem quốc doanh, bảo: “Nhỡ tay!”.

Không thấy Quốc ra ăn cơm nữa. Mình chén xong, về đến nhà trọ thì hắn đã tắm xong.

Quốc thì thầm kể với mình: Hắn đợi ở hàng sau cùng, đến lượt hắn ta đến chỗ “chị nuôi” Dánh để nhận canh. Bằng hai tay, Dánh đưa xoong canh cho Quốc. Thay vì đỡ lấy xoong canh từ tay Dánh, hai tay hắn lại đưa ra bóp…vú “chị nuôi”.

Dánh bị bất ngờ, tức đỏ mặt, nhưng không thể bỏ soong canh xuống, vì vướng tay của thằng giời đánh đang…

Dánh lúng túng đến mấy giây. Và việc gì đến phải đến: Cả soong canh trút lên đầu thằng Quốc. Quốc vội bỏ tay khỏi ngực đối thủ và chạy biến.
Mình hỏi: “Thấy thế nào? Thích không?”.

Quốc ta đượt mặt:

- Chả ra cái đếch gì!. Cứng như bọc bìa cat tông. Khô khồ khồ. Mấy lão chỉ nói phét!..

Xóm cháy

Thứ ba, 11 Tháng 7 2006 19:51

Năm 1966, Mỹ - ngụy tăng cường xúc tát dân, bắn giết, đốt nhà, gây bao cảnh tang thương cho các xóm làng đất Quảng, trong đó có làng quê tôi. Lúc đó, xóm tôi  ở ven vành đai Chu Lai, thuộc thôn 1 Kỳ Xuân ( nay là Tam Giang - Núi Thành) cũng bị đốt cháy …

Bữa thịt chó dang dở

Ngày 11-3-1966, anh bốn Kiến (con trai ông Trần Khiêm và bà Nguyễn Thị Nữa, Bí thư chi bộ thôn 1 Kỳ Xuân) đưa anh em bộ đội về ở trong buồng. Ông Khiêm làm thịt con chó để bồi dưỡng anh em. Không hiểu nguồn tin từ đâu mà bọn tề ngụy nắm được, nghi ngờ và báo về quận (Lý Tín). Mấy trung đội bảo an, địa phương quân và lính nghĩa quân lập tức kéo ra vây chặt. Tầm 20 giờ, bà Nữa ra sau hè cắt mấy tàu lá chuối để chuẩn bị vào vớt thịt chó luộc, thấy sau gốc dừa lố nhố bọn lính nằm phục, vội quay vào báo động cho anh em. Bọn địch thấy lộ, liền ập vào. Đội công tác của ta chống trả, bắn chết ngay tại chỗ 4 tên địch. Bị phản kích bất ngờ, bọn địch chững lại và tập trung hỏa lực, bắn xối xả vào nhà ông Khiêm. Một lát, thấy quân ta yên lặng, địch lại nhào lên, xông vào nhà. Bấy giờ, anh em ta đã nhanh chân tuồn ra phía hàng tre rậm dọc sông ẩn nấp. Vợ chồng ông Khiêm cũng vừa nhanh tay đổ nồi cháo và thịt chó vào chuồng heo, xới phân trộn lên.  Hậm hực, nhưng vì bọn lính bị thương kêu la, địch kéo quân đi, mang theo 4 xác chết.

Cuộc trả đũa

Nhà ông Khiêm cũng ở trong một xóm với nhà tôi. Nơi đây chỉ có 5 nóc nhà, nhưng nhà nào cũng thuộc diện tình nghi, theo dõi của địch. Bởi trong 5 nhà thì 4 nhà có người đi tập kết, 1 nhà có công với cách mạng.

Cả xóm “can cứu” này làm sao thoát được một cuộc trả thù, nhất là sau trận phục kích bất thành của địch.

Không ngoài dự đoán, 17 giờ chiều 14-3-1966, địch lại kéo quân ra. Chúng  vây chặt, bất thình lình bắn tới tấp vào xóm nhỏ. Nhà tôi có một con bò tài sản lớn nhất, cũng không kịp dắt đi gửi. Nghe súng nổ tứ phía, 3 mẹ con tôi lấn quấn chạy vào chuồng heo, có bao bờ đá ong chung quanh để núp. Mẹ sợ anh em tôi trúng đạn, la làng rầm trời. Nhưng mẹ càng la, súng càng nổ. Mẹ bảo anh em tôi bò qua nhà bà Nhiếp, gần bên, kiên cố hơn, để tránh. Tôi cùng bà Nhiếp, chị Hai Thọ chui xuống rầm ván mà vẫn nghe M79 nổ chung quanh, rung ngói đổ. 

Sau những hồi uy hiếp, bọn địch tràn vào. Chúng đòi đốt nhà mẹ tôi. Cây rơm, chuồng bò bốc cháy. Con bò bị bắn chết và cháy trong lửa ngùn ngụt. Mẹ tôi vừa khóc, vừa chửi : “Ác chi ác hung rứa trời.  Mấy ông chống mắt lên coi, cộng sản đâu ?”. Bọn địch hằm hằm lấy xăng khô (loại đóng cục), ném lên mái nhà để đốt. Chúng ném lên, mẹ tôi lấy cây gạt xuống. Tức mình, một tên lính đá vào hông mẹ tôi, khiến bà ngã quỵ, rồi bọn địch rút đi, sau khi đã đốt 6 cây rơm, và các chuồng bò…

Chưa chịu để cho xóm  được yên, sáng 15-3-1966, bọn địch lại càn. Lần này chúng bắt tất cả người lớn trong xóm, chỉ chừa ông nội tôi (vì quá già  82 tuổi) và tôi, lúc đó 10 tuổi. Mẹ tôi kể lại rằng, những người bị bắt vào hội đồng xã bị đánh đâp rất dã man. Địch dùng các hình thức man rợ như đổ nước vôi vào miệng hoặc bắt quỳ dang nắng. Đêm cũng bị bắt quỳ hết mấy tuần nhang. Chúng đánh ông bà Khiêm gãy tay, còn mẹ tôi thì xỉu ngất liên tục... Tuy nhiên, không một ai bị bắt và bị tra tấn cung khai cho bọn địch về tung tích của đội công tác.

Sau những trận càn ác liệt , xóm nhà tôi trở nên tan hoang, nhà cửa ruộng đồng bị đốt cháy. Bọn địch gọi đó là “xóm cháy”.

Một xóm nhỏ nhưng lòng dân kiên trung đã góp phần che chở và làm cơ sở cho cách mạng. Đất nước và quê hương này có những xóm làng như thế nên mới xây nên kỳ tích “trung dũng kiên cường”.

Thèm thịt chó trên đất Pháp

Thịt chó bên Pháp đào đâu ra, không lẽ xúi mấy anh em đi bẫy chó về làm thịt rồi chén? Cảnh sát mà bắt được là cho vào đồn ngủ luôn á. Thế nên bà con phải nấu giả cầy ăn thay "cầy" thật.

Ôi giả cầy nào, giả cầy nào! Lâu lắm mới được ăn, ngon ơi là ngon, he he. Giả cầy giữa nước Pháp!

Nhiều khi ngồi than thở với ai đó rằng "ôi thèm ăn... lắm". Bạn hồn nhiên bảo thì đi ra ngoài mà ăn. Hic, bên này có như nhà mình, thích thì chạy ra quán ới một câu rồi ngồi đợi 5 phút sau có người bê ra tận miệng đâu. Ở bên này muốn ăn thì tự lăn vào bếp. Ngon hay không ngon thì cũng cố mà lăn. Được cái tuy không ngon nhưng cũng tạm bằng lòng vì chỉ có đến thế...

Nào thì giả cầy. Thịt chó bên Pháp này đào đâu ra, không lẽ xúi mấy anh em đi bẫy chó về làm thịt rồi chén à? Vô nhân đạo lắm, mà cảnh sát bắt được sẽ cho vào "hotel de police" (sở cảnh sát) ngủ luôn á. Thi thoảng có ai về Việt Nam trốn mấy chú hải quan mang sang thì được ăn (mình ăn đến 4 lần bên Pháp rồi nhé).

Thế là bà con nấu giả cầy ăn thay "cầy" thật. Mà có phải thích là nấu được đâu. Bên này làm gì có mắm tôm ngon, làm gì có mẻ mà nấu. Nhưng chẳng phải vì thế mà mình không làm nên cơm cháo gì. Cứ nấu!

Thịt chân giò mua về nướng bằng... bếp điện. Lót một lớp giấy bạc lên rồi nướng, nó cũng cháy đen đen. Cũng khói um lên và thơm đáo để nhé. Cũng riềng, cũng sả, cũng nghệ tươi đoàng hoàng nhé! Không có mẻ thì ta dùng rượu vang, hoặc sữa chua nguyên chất (tức là không đường)... Mắm tôm chợ Tàu kém ngon, nhưng không phải là không ăn được. Trộn nháo nhào và kết quả là món giả cầy ra đời. Trông cũng ngon đấy chứ nhỉ.

Thịt chó Bình Nhưỡng ở Sài Gòn

Nhiều người đã đến ăn ở Taedonggang đều thừa nhận món ăn Triều Tiên ở đây ngon hơn cả. Đặc biệt là món thịt chó luộc đậm đà hương vị Triều Tiên. Quán của một công ty từ xứ Bắc Triều Tiên tên là Bình Nhưỡng

Không chỉ có thịt chó, ở Taedonggang còn có nguyên một khí quyển của Việt Nam những năm 1970 trở về trước. Ca nhạc truyền hình ở đây luôn luôn là loại ca nhạc với những giọng opera rất “nhọn”. Người hát không “múa” chân mà chỉ múa tay.

Quán luôn luôn chật khách trên tầng 1. Muốn có chỗ ở tầng 1 phải đặt trước. Ăn ở tầng 1, bạn luôn luôn được các cô tiếp viên kiêm ca công phục vụ một số bài hát Hàn Quốc và Việt Nam – nhạc Việt được chọn luôn luôn là nhạc đỏ. Hôm chúng tôi đến quán, may mắn là tầng trệt cũng đông khách, nên mới được các cô tiếp viên xinh đẹp người Bắc Hàn hát phục vụ bốn bài. Hai bài nhạc Bắc Triều thì chúng tôi mù tịt, còn hai bài nhạc Việt thì ai cũng biết trừ một số thuộc thế hệ 9X, 0X: Việt Nam quê hương tôi và Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Phong cách biểu diễn chỉ có diễn đạt bằng tay.

Những cô tiếp viên trong quán tỏ ra ít biết tiếng Việt. Tiếng Anh thì “Can you speak English?” “A little!” Có lẽ họ chọn phong cách ít giao tiếp, nhưng phục vụ thì ngon lành cành đào hơn kiểu quốc doanh những năm 1970 nhiều lắm! Nhất là nụ cười, cười nhiều cười tươi, không đến độ phải phát động chiến dịch “cười là yêu nước” như ở ta.

Chó dường như là món cao cấp nhất ở quán này, nên nếu bạn muốn thử cái hương vị thịt chó Bắc Triều thì phải chịu khó bỏ ra 300.000 đồng – có lẽ đây là đĩa thịt cao giá nhất của quán; nhưng chó không chắc gì được nhập từ cố quán sang mà e chừng là chó Ông Tạ.

Như đã nói, món ăn Triều Tiên ở đây ngon lắm, nên không chỉ có chó mà còn nhiều thức khác. Kim chi – món truyền thống xứ củ sâm ở đây không tìm cách đa dạng loại nguyên liệu làm dưa và chỉ bảo thủ ở cải thảo và củ cải, chứ không kim chi nào là rau muống, bồn bồn, cà rốt… Điều quan trọng là ngon. Rồi còn bánh xèo hải sản, bánh xèo kim chi. Thịt đông cũng có hương vị riêng – khác với thịt đông Việt Nam. Món ăn cũng được trình bày chăm chút rất là “tiểu tư sản” chứ không chịu “thô mộc”. Và cũng ở đây, bạn bắt gặp lại món dồi trường nhồi nếp nướng rất thân quen mà ta hay ăn ở gánh hàng bà Tư, cô Tám ở một vỉa hè Sài Gòn nào đấy lâu lắm rồi.

Còn một thứ quốc tửu của Triều Tiên không thể không kể: rượu soju. Nhiều người cũng bảo soju Bắc đậm hơn Nam.

NĂM TUẤT NÓI CHUYỆN CHÓ

Thuở ban đầu nơi gã đang cắm dùi, chỉ có một số ít gia đình làm nghề dệt chiếu. Những gia đình này đều thuộc gốc Phát Diệm và nghề dệt chiếu vốn là nghề cha truyền con nối, được đem từ miền bắc vào miền nam.

Cùng với thời gian, họ đã sinh con đẻ cái và con cái họ lấy vợ lấy chồng. Vì thế, nghề dệt chiếu như được nối vòng tay lớn và liên tục phát triển. Rồi sau đó, bàn dân thiên hạ thấy “mần ăn” được, nên cũng nhào vô kiếm chút cháo và nghề dệt chiếu được tràn lan khắp thôn ấp.

Ăn theo vào đó là nghề trồng đay, nghề xe đay và nhất là nghề đổi…chó, hay còn được gọi là nghề…chiếu chó!

Những người làm nghề chiếu chó phải là những thanh niên khỏe mạnh và dẻo dai. Chỉ cần một chiếc xuồng là hai vợ chồng có thể tung tăng chèo bơi trên sóng nước vào những đêm trăng sáng, cũng như vào những đêm trời tối với nghề chiếu chó. Khá hơn một chút thì ráp thêm chiếc máy nổ, cho đỡ tốn sức lao động và chỉ cần một người trên ghe cũng đủ.

Họ lấy chiếu từ nhà hay mua chiếu từ những gia đình dệt chiếu. Nếu mua thì họ thường mua chịu, gối đầu hai ba chuyến. Tiền bán chó lần này sẽ được dùng để thanh toán cho tiền mua chiếu của những lần trước. Có nghĩa là làm nghề này thì không cần bỏ vốn, mà chỉ cần bỏ công sức mà thôi. Chiếu mua thường là chiếu mỏng và chất lương…tồi, thì mới lời.

Họ phải len lỏi vào các kênh rạch chằng chịt, đi tới những nơi mà thiên hạ còn kiêng thịt chó, hay chưa mặn mà với món “mộc tồn” cũng như món “cờ tây”, thậm chí còn phải chui vào tận những sóc Miên, vì càng đi xa thì càng có lãi. Họ không mua chó, nhưng đem chiếu ra để mà đổi lấy chó.

Mỗi chuyến đi của họ thường kéo dài năm ngày. Nói theo ngôn ngữ vi tính hiện nay, thì đó là “mô đen 2.5”, có nghĩa là khởi hành vào sáng thứ hai và trở về vào chiều hay tối thứ sáu.

Ngày thứ bảy là thời điểm để bán chó. Họ có thể mang chó ra chợ, nhưng phần lớn đều đã được đặt hàng từ trước, hay được các “lái chó” đến cân, để rồi đem lên Saigon, Xóm Mới, Hố Nai… Nếu chẳng may có con chó bị nghẹt thở mà ngỏm củ riềng, thì họ mới làm thịt và sai vợ con đi bán rong.

Ngày kia, một cô nàng đội mẹt thị chó đi ngoài đường và rao bán :

- Ai thịt chó không ?

Bỗng một người từ trong nhà gọi vọng ra :

- Chó, chó lại đây.

Cô nàng đội thịt chó cũng không phải là tay vừa, nên đã hỏi lại :

- Ai chó đấy.

Giống như những tên tử tù, trước khi bị hành quyết, thường được cho ăn một bữa phủ phê, thì cũng vậy, trước khi bán chó hay cân chó, họ cho chó xơi một bữa thịnh soạn, muốn ăn bao nhiêu thì ăn, ăn cho đã thèm tới lúc căng bụng lên mới thôi. Chỉ tính riêng khoản này, họ cũng đã kiếm lời thêm được một vài ký khi bán chó hay cân chó.

Mua chiếu dổm, đổi chó rẻ và bán chó mắc, thành thử nhiều anh chàng “chiếu chó” làm ăn phất lên trông thấy. Tính trung bình mỗi chuyến đi như vậy, sau khi đã trừ mọi chi phí, họ còn lời được cả chỉ vàng.

Thời hoàng kim của nghề chiếu chó tại vùng khỉ ho cò gáy này là vào khoảng năm 1986, nghĩa là cách đây vừa đúng hai mươi năm. Hồi đó, nếu chỉ bấm đốt ngón tay, gã cũng có thể ghi nhận được ít nhất 50 ghe chiếu chó ăn theo trong ấp. Và bây giờ gã thử nhẩm làm một phép tính xem như thế nào nhé.

Bình thường thì một ghe, một tuần, một chuyến. Mỗi chuyến đem về khoảng 100 ký chó. Với con số 50 ghe trong ấp, vị chi sẽ đem về khoảng 5.000 ký chó, hay nói vắn tắt là 5 tấn chó trong một tuần. Một năm tính tròn là 52 tuần lễ, như vậy sẽ đem về khoảng 260 tấn chó mỗi năm. Số chó khổng lồ này sẽ được phân tán đi khắp tứ phương thiên hạ cho dân nhậu xài chơi.

Tuy nhiên, con người thời nay đã đổi khác. Người ta bắt đầu ưa chuộng nệm “mút”, nệm thông hơi, nệm nước, với những nhãn hiệu nổi tiếng, chẳng hạn như Kym Đan…Một khi đã quen nằm nệm rồi, mà lỡ đi tới đâu phải nằm chiếu, thì cứ y như rằng mọi xương sống, xương xườn, nghĩa là tất cả bộ xương cách trí của mình như đâm xuống giường, đau nhức không ngủ nổi.

Ngoài ra, dân chúng ở đây muốn dệt chiếu, thì phải mua cói tận Sađéc, thành thử chiếu nơi gã không địch nổi với chiếu Sađéc, vì giá cả mắc hơn. Một vài gia đình cũng thử trồng cói, nhưng không thành công, vì cói vừa ngắn lại vừa không đạt chất lượng.

Trong khi đó, nhiều loại chiếu khác nhau xuất hiện trên thị trường, từ chiếu ny lông đến chiếu gỗ, từ chiếu Thái Lan đến chiếu Trung Quốc được quảng cáo là vừa êm lại vừa có công dụng chữa bệnh!

Chính vì những lẽ ấy, hàng chiếu bị ế ẩm và nghề dệt chiếu dần dần bị dẹp tiệm.

Hơn thế nữa, nuôi được một con chó không phải là chuyện dễ. Kinh nghiệm về việc nuôi chó đã cho gã thấy như vậy. Có những lúc trong nhà ba con chó cái cùng đẻ một lúc, nên lúc nhúc ba bầy chó con. “Khuyển số” tổng cộng lên tới gần bốn chục.

Thế nhưng, khi chó con bắt đầu biết ăn cũng chính là lúc bệnh đường ruột xuất hiện và cướp đi sinh mạng của chúng. Số chó sống sót, khôn lớn và trưởng thành chỉ còn lại đôi ba con mà thôi.

Do đó, số cung không theo kịp với số cầu, số chó được nuôi không lấp đầy nổi cái khoảng trống vô cùng to lớn của dân bợm nhậu, khiến cho “nguồn” cung cấp chó ở khắp nơi bị cạn kiệt.

Chính vì lẽ ấy, dân chiếu chó lâm vào cảnh ba chìm bảy nổi và chín cái lênh đênh, nên phần lớn đã bỏ nghề chiếu chó mà xoay sang nghề khác.

Trong văn học sử có một giai thoại khá thơ mộng về một cô nàng bán chiếu. Giai thoại ấy như sau :

Ngày kia trên đường về nhà, Nguyễn Trãi đã gặp một cô gái rất đẹp, đang gánh chiếu đi bán. Muốn bỡn cợt cô gái nọ, Nguyễn Trãi đã đọc bốn câu thơ :

- Ả ở đâu mà bán chiếu gon ?

 Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?

 Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?

 Đã có chồng chưa, được mấy con ?

Không một chút do dự, cô nàng đã họa lại :

- Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,

 Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?

 Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ.

 Chồng còn chưa có, hỏi chi con.

Ngạc nhiên về sự thông mình xuất chúng của cô gái, Nguyễn Trãi bèn hỏi tên cô gái là gì ? Cô gái đã trả lời tên là Thị Lộ. Và rồi Nguyễn Trãi đã cưới cô nàng bán chiếu ấy về làm hầu thiếp. Câu chuyện “tình cô bán chiếu” còn dài, dẫn tới vụ án “Lệ Chi Viên”, khiến cho Nguyễn Trãi bị “tru di tam tộc”, bị giết tới ba đời, nhưng gã xin “xì tốp” ở đây để trở lại với cái nghề chiếu chó nơi quê hương gã.

Cái nghề chiếu chó nơi quê hương gã không được thơ mộng như cô nàng Thị Lộ bán chiếu ở Tây Hồ, trái lại rất nặng nề vất vả, trầy da tróc vẩy, đổ mồ hôi sôi nước mắt, mới kiếm được tí tiền còm đem về nuôi vợ nuôi con.

Một mình một ghe, nên ban đêm dân chiếu chó thường phải tìm những nơi đông dân cư, như chợ búa, nhà thờ hay nhà chùa để mà ngủ, bằng không sẽ trở thành miếng mồi ngon và rơi vào tầm ngắm cho bọn trộm cướp hỏi thăm sức khỏe.

Những đêm tạnh ráo còn đỡ, chứ những đêm mưa to gió lớn, thì vừa rét lại vừa run, nằm co ro trên chiếc xuồng nhỏ, vừa tròng trành, lại vừa nồng nặc mùi…chó, đến quỉ thần cũng không chịu nổi.

Cái mùi chó cũng rất đặc biệt. Những anh lái chó và nhất là những anh chuyên môn làm…chó, tức là giết chó lấy thịt, thì hình như bị cái mùi ấy, không phải chỉ ám vào áo quần, mà còn ám vào tận lục phủ ngũ tạng, dù tắm gội thế nào cũng không tẩy sạch nổi. Bởi đó, bất kỳ họ đi tới đâu đều bị lũ chó sủa vang.

Sinh nghề tử nghiệp. Trong ấp của gã đã có hai anh chàng chết vì nghề chiếu chó rồi đấy.

Một anh thì bị rơi tõm xuống sông vào mùa lụt lớn trong đêm giông bão và bị dòng nước cuốn trôi lúc nào không hay. Còn một anh thì bị chó cắn trong lúc thi hành phận sự, nhưng vì coi thường không thèm đi chích ngừa, đã nổi cơn điên một thời gian sau đó và đi tầu suốt sang thế giới bên kia, để lại người vợ trẻ và mấy đứa con thơ trong một căn nhà xiêu vẹo. Thì ra con chó cắn là một con chó dại.

Thời hoàng kim của nghề chiếu chó đã qua đi và chìm vào dĩ vãng, bởi vì số gia đình dệt chiếu bây giờ “lơ thơ như tơ liễu buông mành”, chỉ còn một vài hộ mà thôi. Ngoài ra, hàng chiếu cũng không còn được ưa chuộng nhiều trên thị trường như ngày xưa. Từ đó, nghề chiếu chó cũng bị tàn lụi theo, để rồi trên đám tro tàn ấy, nghề mua chó hay lái chó được phát triển theo một chiều hướng mới.

Thực vậy, cho đến bây giờ thịt chó vẫn là món…”khoái khẩu” cho dân bợm nhậu. Hơn thế nữa, trong cơn đại dịch H5N1, bao nhiêu gà vịt, chim chóc, nghĩa là phần lớn gia cầm gia súc đều bị giết sạch, chôn sạch, đốt sạch để khỏi bị lây lan bệnh cúm, nên thịt chó bỗng lên ngôi, vừa tương đối rẻ, lại vừa an toàn cho sức khỏe.

Chính vì lẽ ấy, hiện nay tại Việt Nam các quán thịt chó thi nhau mở ra như đi vào mùa xuân với trăm hoa đua nở. Con đường nào cũng có quán thịt chó, từ những con đường lớn dẫn vào trung tâm thành phố đến những con đường nhỏ dẫn về những vùng quê khỉ ho cò gáy. Mọi vùng đất, từ thị xã, thị trấn đến những thôn ấp đèo heo hút gió cũng thấy mọc lên những quán thịt chó, với những tên gọi rất quen thuộc và thân thương, chẳng hạn như : Cờ tây, Mộc tồn, Lá mơ, Nó kìa, Đúng rồi, Sống trên đời…

Gã ở nông thôn, nên cũng được xơi thịt chó đều đều. Thế mà đôi khi về Saigon, lũ bạn vẫn không ngần ngại rủ đi nhậu thịt chó. Địa chỉ của những quán ấy bây giờ không còn là độc quyền của khu vực Ngã Ba Ông Tạ hay Xóm Mới, mà đã lan tràn tới nhiều nơi, nhiều chỗ.

Lũ bạn gã, lúc thì lôi gã tới quán 297 đường Lý Thái Tổ, khi thì kéo gã tới quán Văn Bái ở bên Thanh Đa. Thậm chí có lần mò tới tận quán Tư Thân ở Bùi Môn. Nhưng đặc biệt nhất có lẽ là “cụm quán mộc tồn” ở một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đường Nguyễn Thị Minh Khai, ngày xưa là đường Hồng Thập Tự, khởi đi từ “bùng binh” Cộng Hòa, qua bệnh viện Từ Dũ, qua rạp Olympique với đoàn kịch nói Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô của Kim Cương, qua vườn Tao Đàn…

Hiện nay, nếu đi về hướng cầu Thị Nghè, thì sẽ gặp một con hẻm nhỏ. Rất tiếc vì hôm đó gã tới vào buổi tối nên không nhìn rõ tên con hẻm, nhưng nếu hỏi những nhà ở gần đấy rằng quán Hai Mơ ở đâu, chắc chắn họ sẽ chỉ cho ngay vì ai cũng biết đến tiếng tăm của “cụm quán” này.

Nằm sâu một chút trong con hẻm nhỏ, có tới cả chục quán thịt chó. Quán này liền vách với quán kia. Có lẽ do một nhóm dân cư họ hàng, bà con lối xóm với nhau ở ngoài bắc, kéo vô lập nghiệp.

Ở đây có hai hình thức ngồi nhậu thịt chó, một là ngồi ghế xoay quanh một chiếc bàn như vốn thường thấy. Hai là “đánh tệt”, nghĩa là ngồi xếp bằng bằng xuống chiếu, theo kiểu Nhật.

Các món ở đây được chế biến theo phong cách miền bắc như : luộc, nướng, dồi, hầm, chả chìa, rựa mận, xáo măng…Đặc biệt có món “bàn chân chó” thật tuyệt vời. Khi kêu món này, thì phải đặt hàng là mấy cái. Người ta sẽ dọn lên trong một hay hai cái đĩa toàn bàn chân chó. Có lẽ người ta đã phải hấp cho nhừ, rồi nướng lại trên than hồng, nên bàn chân chó vừa dẻo, vừa dòn lại vừa thơm vừa ngon nữa.

Còn ở thủ đô Hà Nội, hai địa điểm thịt chó được bàn dân thiên hạ chiếu cố và thường hay nhắc đến, đó là thịt chó ở đê Yên Phụ và thịt chó ở phố Nghi Tầm. Tuy nhiên, Hà Nội có một phong cách thưởng thức thịt chó hơi bị đặc biệt, đã từng được báo chí đề tới, đó là thịt chó ôm!!! Miết rồi cái gì người ta cũng có thể ôm được, từ cà phê ôm đến bia ôm, từ rượu đế ôm đến thịt chó ôm. Nhưng trong các thứ ôm ấy, chỉ có “xe ôm” là tương đối sạch sẽ nhất.

Nét đặc sắc của các quán “cờ tây” trên toàn quốc, là chỉ bán thịt chó mà thôi, không kèm theo bất cứ thứ thịt nào khác. Có lẽ một khi đã xơi thịt chó chấm mắm tôm, công thêm với lá mơ và củ riềng, củ xả, người ta sẽ nghiệm thấy thịt chó thật là đậm đà khó quên, trên cả tuyệt vời nữa, nên những thứ thịt khác, dù là đặc sản, cũng trở nên nhạt nhẽo, không thể sánh nổi.

Nói tới việc bán toàn thịt chó trong quán, gã nhớ tới một câu chuyện đã được đọc từ lâu trong một tác phẩm của Toan Ánh. Câu chuyện ấy như thế này :

Thời Pháp thuộc, có một viên tri huyện thường bị các quan trên bắt nạt. Ông ta tức lắm, nhưng nghĩ mình chức nhỏ, thấp cổ bé miệng, nên đành phải chịu vậy. Tuy nhiên, ông ta vẫn có ý muốn trả miếng lại những kẻ vẫn bắt nạt ông.

Ngày kia, nhân có việc, ông làm tiệc mời các hàng quan lớn, quan bé tới dự. Bữa tiệc đặc biệt này được ông làm toàn bằng thịt chó và ông thuê bếp Tàu đến nấu nướng rất ngon.

Vào tiệc, gắp một miếng chó hầm, xơi thấy ngon, quan tuần phủ mới hỏi quan huyện :

- Món gì mà ngon quá vậy.

Quan huyện kính cẩn đáp :

- Bẩm món chó đấy ạ.

Rồi ông ta đưa tay khoa một vòng như để chỉ món đã được bầy biện cũng như để chỉ khắp mọi người và nói :

- Hôm nay toàn chó thôi ạ. Tất cả đây đều là chó hết

Tới đây, gã xin trở lại với nghề mua chó hay lái chó. Thực vậy, theo định luật kinh tế : đã có cầu thì ắt phải có cung, có người mua, thì ắt phải có người bán. Trước nhu cầu thịt chó ngày càng gia tăng, người ta phải lùng xục khắp các hang cùng ngõ hẻm để tìm cho ra chó.

Như trên gã đã trình bày : Nghề chiếu chó nơi quê hương gã đã tàn lụi, thế nhưng trên đám tro tàn ấy, nghề mua chó hay lái chó được phát triển theo chiều hướng mới. Đúng thế, bây giờ, người ta không mang chiếu đi đổi lấy chó, nhưng người ta đi mua chó đàng hoàng.

Một anh lái chó hôm nay được trang bị bằng một chiếc xe gắn máy, phía sau “đèo” thêm một cái lồng chó hay một cái cũi chó bằng sắt. Ban sáng, anh ta chạy phom phom trên những con đường làng, ban chiều anh ta trở về với cái lồng hay cái cũi nhốt những con chó đủ loại : mực có, vàng có và lôm nhôm cũng có; già có, tơ có và xà mâu cũng có. Đôi khi còn có cả vài ba con mèo nữa, bởi vì mèo cũng là một món khoái khẩu, được dân bơm nhậu chiếu cố và được ưu ái gọi bằng cái tên…”tiểu hổ”.

Trong một vài năm gần đây, gã thấy xuất hiện ở nhiều nơi một cái nghề chẳng giống ai, đó là nghề…trộm chó.

Trước năm 1975, Saigon thường giới nghiêm vào ban đêm, nghĩa là từ mười hai giờ khuya cho tới ba bốn giờ sáng không ai được đi ngoài đường phố, ngoại trừ lực lượng “bạn dân”, tức là lực lượng cảnh sát, có bổn phận phải tuần tra.

Gã có một ông anh, lúc bấy giờ làm cuộc trưởng cảnh sát tại Hòa Hưng, còn được gọi là Cống Bà Sếp. Các bạn dân nằm tại cuộc cảnh sát này, thỉnh thoảng cũng mắc phải chứng bệnh nhạt miệng và thèm…thịt chó. Và thế là vào giờ giới nghiêm, ngài cuộc trưởng bèn phái mấy tay đàn em, leo lên chiếc xe díp, trực chỉ một bãi rác nào đó.

Ban đêm, chó thường kéo nhau tới bãi rác để kiếm thêm tí chút bồi dưỡng. Chỉ cần rút một khẩu súng, nhắm vào con chó nào có tướng tá ngon lành nhất, “pằng” một phát, rồi chạy đến bỏ vào bao tải, quẳng lên xe, chạy về cuộc. Trong khi đó ở nhà, những người khác đã đun nước sôi và chuẩn bị mọi thứ gia vị cần thiết. Thoáng một chốc là đã có những đĩa thịt chó nóng hổi vừa thổi vừa xơi. Nhanh, gọn, đẹp.

Đi trên đường phố, nhiều lần gã được chứng kiến cảnh nhân viên công lực bắt chó…chạy rông. Họ dùng một chiếc xích có thòng lọng ở đầu. Gặp một con chó chạy rông, họ đuổi con chó chạy về hướng người cầm thòng lọng đang đón đường sẵn. Khi chó chạy tới, người đó nhẹ nhàng, nhưng lại nhanh như cắt, đưa thòng lọng vào đầu con chó. Con chó càng dãy dụa, thòng lọng càng siết chặt. Sau cùng, con chó được đưa lên xe một cách rất êm ru bà rù.

Gã phải công nhận rằng người cầm thòng lọng đón đầu con chó thật điêu luyện và thành thạo, rất ít khi đoán sai và tròng hụt. Con chó chạy qua, họ đã chụp là phải đúng, như những tay thiện xạ, bách phát bách trúng. Những kẻ hành nghề trộm chó, cũng hay dùng cách thức này để bắt chó.

Ngoài ra, chúng còn dùng tới bả, tức là tẩm thuốc độc vào một miếng thịt và ném cho chó ăn. Khi chó ngấm thuốc và rơi vào tình trạng hôn mê, chúng chỉ cần nhét chó vào bao, mang về xả thịt, rồi mang tới những quan thịt chó, vốn là mối ruột của chúng. Cách thức này thường mất toi bộ lòng, vốn dĩ là một món tuyệt vời của thịt chó, như người xưa vốn bảo :

- Sống trên đời, ăn miếng dồi chó,

 Xuống âm phủ, biết có hay không ?

Trong cuốn “Ăn trộm và nghệ thuật bắt trộm”, Toan Ánh đã ghi lại hai cách thức trộm chó của người xưa, mà gã đã liệt vào hạng…tuyệt chiêu, vậy xin được chép lại, kẻo mai mốt bị thất truyền, hậu duệ con cháu những kẻ trộm chó chẳng biết đâu mà mò.

Tuyệt chiêu thứ nhất được gọi là “mỹ cẩu kế”, dùng chó cái để bắt chó đực. Toan Ánh đã mô tả tuyệt chiêu này như sau :

Bọn chúng nuôi một hai con chó cái. Chúng ta thả những con chó cái này ra để bắt “cẩu tình” vời những con chó đực và giữa lúc chó đực đang say men tình chó cái, thì chúng gọi chó cái về. Lẽ tất nhiên chó đực đi theo… Đầu tiên, đến ngõ nhà nàng thì chó đực rút lui, nhưng sau không thấy gì nguy hiểm, thì theo hẳn vào trong nhà. Chó đực đâu biết mình đã đi vào chỗ chết. Tên trộm chỉ chờ chó đực vào nhà liền đóng cửa lại để hạ thủ.

Tuy nhiên, nhiều chó đực đi theo chó cái nhưng lại không chịu vào nhà ban ngày, mà chỉ thường đến vào ban đêm, đứng ngoài cửa mà…rít gọi. Đối với loại chó đực này, bọn trộm khóet một lỗ hổng ở tường, chỉ chui vừa con chó. Bên trong chúng xích chó cái. Chó đực tới bên ngoài và rít lên để gọi. Chó cái ở bên trong cũng rít lên để trả lời. Chờ lâu không thấy bạn tình xuất hiện và thế là chó đực bèn chui qua lỗ tường. Tại đây, tên trộm đã rình sẵn. Và chó đực đi đời nhà ma.

Tuyệt chiêu thứ hai gã tạm gọi là “chó ơi là chó”. Có hai anh trộm chó đã nghĩ ra một mưu thật chiến. Mưu ấy như sau : Hàng ngày chúng dắt nhau ra cánh đồng, chỗ bàn dân thiên hạ đổ rác, cũng là nơi lũ chó thường tới để kiếm chút bổng lộc ngoài luồng.

Lợi dụng thói quen của lũ chó, một tên ngồi…ị, còn một tên vác vồ đi đi lại lại như anh nông phu vác vồ ra ruộng đập đất. Chó mon men đến chờ và khi đã vục đầu vào xơi cái món nóng sốt ấy, thì chiếc vồ sẽ đập ngay vào đầu nó và nó chỉ còn đủ thời giờ để kêu lên hai tiếng ăng ẳng mà thôi.

Chẳng biết hai tên trộm áp dụng tuyệt chiêu này đã bắt được bao nhiêu chó, nhưng rồi ngày hôm ấy, cũng theo bài bổn cũ, một tên ngồi đồng, còn một tên vác vồ. Thế nhưng, tới lúc đập, vì bị hoa mắt nên tên vác vồ thay vì đập chó, thì đã đập tên ngồi đồng, khiên tên này lăn đùng ra bất tỉnh trên chính cái món nóng sốt hắn đã cho ra.

Ơi chó ơi là chó.

Để kết luận, gã xin kể lại sự việc một chú chó đáng được lưu danh đã làm. Báo Công An Thành Phố đã kể lại sự việc ấy như sau :

Một con chó cái giống Esquimaux đã cứu mạng một cháu bé mới chào đời tại Đài Loan. Chị Huang, hai mươi bốn tuổi, mang bầu tháng thứ chín, hôm Chúa nhật chị cảm thấy khó chịu nên đi vào phòng tắm, con chó của chị là Baby theo sau.

Trong phòng tắm, chị chuyển dạ bất ngờ, rồi sinh một bé trai. Chị cố xoay sở để cắt rốn bé bằng một chiếc kéo, nhưng không được và chị gục xuống sàn, kiệt sức đến nỗi không thể gọi người bạn cùng phòng giúp đỡ.

Nhưng con chó trung thành đã ngoạm cẳng chân đứa bé và cứu nó khỏi chết đuối. Khi đứa bé đã thở và khóc được nhờ con chó liếm mặt, Huang mới cố lấy hết sức gọi người tới giúp. Và đứa bé được cứu sống.

Đặc tính của chó là trung thành và tận tụy giúp đỡ chủ. Phải chăng đó cũng là những điều đáng cho chúng ta suy gẫm trong năm Bính Tuất này lắm chứ.

Làng Mùi, ký sự chó !!!

Không biết tự bao giờ người Việt Nam đã biết ăn thịt chó, nhiều người nghĩ chắc cũng xưa không kém 1.000 năm Thăng Long, cũng không ít người nghĩ phải xưa hơn thế, thậm chí nhiều nhà sử học ưu tú còn cho rằng sở dĩ dân Tàu và dân Triều Tiên biết ăn thịt chó như ngày nay là nhờ công của Trọng Thủy, thằng con trai tuổi con ngựa lai con dê của Triệu Đà có thể vứt bỏ "hot girl" Mỹ Châu của xứ Âu Lạc, chứ không thể nào quên được miếng thịt chó nướng thơm lừng tận trời nam, cũng may là hắn không ăn được mắm tôm, chỉ có thể chấm xì dầu mà thôi nên dân ta giờ đây vẫn bảo tồn được món mắm tôm cho riêng mình. Ấy là chúng ta đang nói đến khía cạnh hương vị thơm ngon của thịt chó và vị thế chúng ta là một cường quốc sở hữu công nghệ chế biến thịt chó hàng đầu. Theo TTX vỉa hè cho hay hiện nay nước Mỹ đang hết sức quan ngại vì Trung Quốc cũng sở hữu một công nghệ không thua kém Việt Nam, và mới đây TT Obama bóng gió rằng sẵn sàng chuyển giao công nghệ hạt nhân cho VN để đổi lấy công nghệ chế biến thịt chó, xem đó là một chiến lược quốc gia mà Hoa Kỳ phải thực hiện cho bằng được.

Thịt chó thơm ngon bậc nhất là điều không thể bàn cãi, thế nhưng ở đời nhiều chuyện éo le, nhiều người không thích ăn thịt chó, thậm chí còn phản đối kịch liệt. Mà cũng dễ hiểu thôi, từ xa xưa con chó đã theo con người, là người bạn trung thành của chúng ta, làm sao nỡ ăn thịt chúng kia chứ !. Và cũng từ lâu lắm rồi trong lòng tui nảy ra một câu hỏi lớn “trên đời đâu thiếu những loại thịt ngon, tại sao nhiều người lại thèm ăn thịt chó đến vậy ?., chẳng lẻ có một nguyên nhân sâu xa gì đó hay sao ?. Chỉ biết rằng chuyện ăn thịt chó vẫn là đề tài gây tranh cãi suốt cả ngàn năm qua chưa có lời giải đáp.




Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, thì quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh... huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?

Thực vậy, có ai một buổi chiều lất phất mưa xanh, trời căm căm rét, mà ngả một con cầy ra đánh chén với đôi ba bạn cố tri mới có thể cảm thấy rằng không phải đời lúc nào cũng không đáng để cho người ta sống. Rõ ràng là mình đương buồn muốn chết, người ủ rũ ra, mà làm một bữa vào, chỉ giây lát là nó sướng tỉnh cả người ra, không chịu được. Tôi có thể cam đoan với các anh: Một người thất tình, muốn đi tự tử, nếu người ấy biết thưởng thức món thịt cầy, mà các anh lại mời y dùng chơi chút đỉnh rồi muốn đi chết đâu hãy chết, tôi có thể tin rằng mươi bận thì chín bận ăn xong anh ta sẽ đổi ý định ngay. Là vì đời có thịt cầy, thỉnh thoảng ăn chơi một bữa ta thấy nó cũng bõ để cho ta sống, mặc dù có nhiều lúc cái kiếp con người còn khổ hơn cả cái kiếp con chó vài ba bực. Lo cho con học, vợ hỏi tiền làm giỗ; phắc tuya đèn chưa trả; nhân tình dọa bỏ đi; cuối tháng, lại phải đến chủ nhà hỏi xem hắn có bằng lòng cho thuê nữa hay không... bao nhiêu nỗi lo âu khốn nạn nó làm cho lòng người ta day dứt ! Những lúc đó, ăn vàng vào miệng cũng không ngon. Ăn vàng vào miệng không ngon, nhưng ăn một miếng chả chó, ta lại muốn ăn hai để chờ món tái đem lên, ta vừa nhắm nhót vừa suy nghĩ trong khi đợi món dựa mận, chết chết ! Sao nó ngầy ngậy, béo béo, ngòn ngọt mà lại có thể thơm đến thế!

Ta tự bảo: “Ờ mà, sống ở đời bất quá nhiều lắm cũng chỉ đến sáu, bảy chục năm là cùng”. Mà trong sáu, bảy chục năm đó, ngày vui quá ít, lo âu, sầu não lại nhiều, thế thì tội gì lại chuốc phiền khổ vào người cho mệt! Ngả con cầy ra đánh chén ! “Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?”. Thôi thì được ngày nào hãy cứ biết chiều ông thần khẩu ngày ấy đã, sau ra sao sẽ liệu, ấy thế mà chưa biết chừng ăn một bữa cầy vào, cái vận mình nó lại chuyển hung thành cát, chuyển đen thành đỏ thì lại càng hay, chớ có sao đâu?

Thật vậy, thịt cầy ở nước ta không phải là một món ăn như thịt dê, thịt lợn, nhưng nó lại còn là một niềm tin tưởng trong dân gian nữa. Vận đương xúi quẩy, ăn một bữa thịt chó vào, người ta rất có hy vọng giải đen. Đánh bạc thua liền ba đêm, này! Ăn một bữa thịt chó, có người gở lại hết cả tiền thua, mà lại còn được thêm là khác. Thử hỏi trong tất cả các món ăn trên thế giới có món ăn nào khả dĩ lại di chuyển được vận hạn của con người đến thế hay không? Nhưng dẫu sao, chuyện di chuyển vận hạn cũng là chuyện của tương lai huyền bí. Nói ngay đến chuyện thiết thực ở trước mắt mà chơi.

Một chiều mưa phiêu phiêu ở chốn đồng ruộng căm căm gió rét, không đi chơi đâu được, mà trãi một cái chiếu lên thềm gạch ngô, đưa cay vài chén tửu, trước mặt có một mâm thịt chó làm đủ các món: chả, tái, ca ry, dựa mận, chạo, nem... riêng cứ trông thôi, ta cũng đã thấy lòng phiêu phiêu như mở hội rồi. Thịt luộc đỏ tươi, bì vàng màu da đồng, đặt bên cạnh đĩa rau húng chó; vài dĩa riềng thái mỏng tanh; chả nướng béo ngậy, màu cánh gián; đĩa bún trắng bong nằm cạnh những bát hầm dựa mận màu hoa sim; những liễn xào nấu với chuối 'chưa ra buồng' thái con bài; những đĩa dồi tươi hơn hớn, miếng thì trắng, miếng thì hồng, miếng thì tím lợt, đôi chỗ lại điểm những nhát hành xanh màu ngọc thạch... tất cả tiết ra một mùi thơm làn lạt như mùi hoa đồng thảo lại ngồn ngộn như mùi thịt gái tơ... xin hỏi có ai mà chịu được, không thưởng thức một hai miếng làm duyên?

Người chưa ăn bao giờ ăn thử một miếng lại muốn ăn hai, còn người đã biết ăn rồi thì phải nói rằng trông thấy thịt chó mà không được ăn thì buồn bã ủ ê, nếu không muốn nói là bủn rủn chân tay, bắt chán đời muốn chết. Thôi, hãy xếp mọi thứ ưu phiền lại, cầm đũa “làm” mấy miếng đi, người anh em ! Xin mời ! Rượu này là thứ rượu sen cất ở Tây Hồ nhưng không xóc, uống vào một tợp mà như uống cả một làn sen ngào ngạt của Hồ Tây ngạt ngào vào bụng. Nhắm một miếng dồi, lại đưa cay một tợp rượu, rồi khẽ lấy hai ngón tay nhón một ngọn rau húng điểm vào một vị hăng hăng, man mát cho tất cả cái bùi, cái béo, cái cay, cái mát, cái hăng quyện lấy nhau, anh sẽ nói với tôi cảm tưởng của anh ra thế nào...

Quả vậy, nếu sau này, người ta chết xuống âm phủ mà không có dồi chó để ăn thì âu cũng là một mối hận thiên thu mà ta cần phải đề phòng ngay tự bây giờ. óc chó có tiếng là ngon, nhưng có ý vị, càng ăn càng thấy ngon thì chính là dồi chó. Sao mà lại có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm một cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trời? Gắp một miếng chấm muối chanh, rối đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành.

Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là “sốt sích”. Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi Tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừng sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏi. Nhưng muốn thưởng thức một món cầy cho thật nổi vị, ai cũng sẽ phải công nhận với tôi không có gì “điển hình” hơn món chả.

Có một hôm trời lạnh bàng bạc màu chì, đứng tựa vào một hàng rào dâm bụt xanh, hoa đỏ, ta gọi một hàng thịt cho gánh đi qua mua một đĩa chả vào trong nhà nhắm rượu, cái ngon cũng đã "lẫm liệt" lắm rồi. Vậy mà nói cho thực, cái ngon đó chưa thấm với cái ngon của một món chả do một người hiền nội trợ khéo chiều chồng đã làm ra, nó tinh khiết mà lại đủ vị hơn nhiều, ăn vào đến môi, trôi liền đến cổ, ôi, thơm phải nói là... điếc mũi ! Là bởi vì các tiệm thịt chó, cũng như những hàng thịt cho gánh rong, không thể nào làm các món thực công phu, thực đúng kiểu, theo như ý chúng ta mong đợi. Muốn làm một món chả chó thật đúng với ý thích, người ta phải mất công phu nhiều hơn thế. Có thể bảo rằng ta phải tốn công phu y như thể nuôi chim yến đẻ. Trước hết, không phải là cứ có tiền ra chợ mua bất cứ con chó nào về thịt rồi làm thành món ăn mà ăn được cả đâu.
Riêng một việc lựa con chó “dùng” được cũng là cả một sự tìm tòi, học tập công phu rồi. “Chó già, gà non”, câu nói cửa miệng của người ta là thế: ăn thịt gà tìm gà non mà làm thịt, chó phải là thứ chó già mới thú. Nhưng thực ra, theo những người giàu kinh nghiệm, thịt chó già thường nhạt nhẽo, mà ăn hơi bã. Muốn cho thực ngon, phải là cái thứ chó không già mà cũng không non - cái thứ chó “chanh cốm” trung bình từ hai năm tới hai năm rưỡi, cái thứ chó mà nếu các bà cho phép, ta có thể ví với các thiếu nữ dậy thì “xanh lên ngọn tóc, nhựa căng vú đào”. Song le, đừng tưởng chọn như thế mà đã đủ. Tuổi tác của con chó mới là một điểm mà ta cần lưu ý. Còn phải lưu ý nữa là bộ lông con chó, chớ không phải là cứ là chó thì “hầm bà lằng” cả một lứa đâu.

Theo các chuyên viên ăn thịt chó, sắc lông ảnh hưởng tới mùi vị của thịt rất nhiều. Cái giống chó bẹcgiê, pêkinoá, cái giống chó bátsế cũng như giống phốc, nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn thịt được. Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá, ăn không ra cái “thớ” gì. Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông cụ. Người Tàu thường cho rằng những người hen suyễn hoặc suy chân thận mà ăn thịt mèo đen, không có một cái lông trắng nào, thì bổ ngang uống rượu ngâm bách nhật hươu bao tử. Giống chó thì không thế. Cái anh chó mực không được trọng dụng như mèo đen.

Những người sành ăn thịt chó cho rằng nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm, ngoại trừ ra đều “không trúng cách” cả - tuy vẫn biết rằng cứ ăn thịt chó, mà lại thịt chó ta, thì đã ngon chết đi rồi... Ấy đấy, trong bốn thứ chó bạch, vàng, khoang, đốm đó mà ta vớ được một anh giết thịt, nhất thiết ta không thể làm cẩu thả. Trái lại, phải cẩn thận từng li từng tí, mà có khi càng cẩn thận bao nhiêu thì lúc ngả ra đánh chén lại càng thấy thú vị bấy nhiêu.
Bởi thế, tôi đã từng thấy có những người thui chó tử công phu y như thể một nghệ sĩ đem hết tâm cơ ra để tạo nên một đứa con tinh thần lưu lại cho hậu thế. Con chó giết rồi, rửa ráy sạch cứ như ly như lau, treo lên cho khô hết nước rồi mới thui. Thui bằng rơm. Thui cả con. Thui xong, đem ra mổ, cắt đầu, cắt chân để riêng ra, duy chỉ lấy bộ lòng, làm thực kỹ, gia giãm đậu xanh, hành tỏi thực thơm cho vào đấy, rồi lấy những cành lá ổi bọc thực kín con chó lại, bọc cho dày, ngoài lại phủ một lần lá chuối, dàn hậu mói lấy bùn quánh đắp ra phía ngoài cùng.

Đoạn bắc kiềng lên, đặt chó vào, chung quanh chất củi cho những đầu củi chụm vào với nhau ở phía trên, kiểu những cái “tăng” hướng đạo, rồi đốt, đốt cho cháy hết củi. Củi tàn, còn than cũng đừng bắc ra vội, cứ để âm ỉ thế, cho đến khi than tàn hẳn. Nói thì dể, nhưng làm trọn công việc đó cũng mất mấytiếng đồng hồ. Những nghe mà sốt ruột. Nhưng thứ tưởng tượng lúc gỡ bùn, giở lá chuối và lá ổi ra mà thấy con chó béo ngậy, cái da cái thịt óng a óng ánh, cách gì mà lại không bắt thèm nhểu nước miếng ra, đòi ăn cho kỳ chết thì thôi. Nhưng mà ăn ngay thì còn ra cái quái gì. Phí cả thịt đi: muốn nên miếng chả, còn là lắm chuyện. Riềng già giã cho thật kỹ, đấu với mẻ, gia thêm vào đủ mắm tôm, để đấy cho ba thứ cấu kết với nhau thành một khối chặt chẽ, rồi mới bóp vào với những miếng thịt thái không to không nhỏ, cứ độ vào một đốt ngón tay cái là vừa. Đừng lấy ra ngay. Hãy ướp tất cả chừng vài tiếng đồng hồ rồi hãy lấy ra xếp vào một cái cặp chả, đặt lên trên than hồng mà nướng. Này, nướng chả chó, kỵ nhất cái thứ than tây đấy hé.

Nướng bằng củi cũng không được. Phải nướng bằng than tàu, quạt liền tay cho đỏ, mỡ có rỏ xuống than đừng tiếc. Mỡ đó vào lửa, bốc lên thành khói, khói đó quyện lấy chả, tạo ra một mùi vị đặc biệt không tiền khoáng hậu, thơm phưng phức nhưng không khô, thanh thoát cao sang mà vẫn gần nhân loại. Một người đau bịnh nặng, nằm ở bên cửa sổ nhìn ra giàn hoa thiên lý, chợt ngửi thấy mùi thịt bò xào hành tây, có thể ngấy mà lợm giọng; một người có chứng nhức đầu tự nhiên thấy bay đến trước mũi mùi chả lợn nướng có thế thấy khó chịu vì mùi tuy thơm nhưng có ý hơi nóng; nhưng ngửi đến mùi chả cầy ngát trong gió hiu hiu, ta có thể chắc chắn là người khó tính đến mấy đi nữa cũng phải thấy như cởi gan, cởi ruột. Gắp một miếng thịt chó đó, đừng ăn vội, hỡi người háu ăn ơi ! Cứ từ từ, chầm chậm để làm khổ ông thần khẩu đã ! Anh đưa miếng chả lên trước mắt mà xem: miếng thịt cứ săn lại như thịt một người lực sĩ, mà bóng nhễ bóng nhại một cách mới lành mạnh làm sao ! Nó thơm quá đi mất thôi, anh ạ. Thơm quá chừng là thơm, thơm không phải chỉ làm khổ riêng khứu giác của những người ở trong nhà mà thôi đâu, còn làm khổ tất cả láng giềng, hàng xóm. ở cạnh những người ăn ngon như thế, mình lâu lâu mà không được “thưởng thức”, cũng có khi phải phát bực lên mà 'ai oán' cho cái kiếp người không được mấy khi xứng ý.

Chả chó cũng như thịt luộc, ăn cho thật hợp giọng không nên chấm nước mắm, mà chấm với muối chanh. Ai thích cay, ăn vài miếng lại cầm cái cuống xanh của một trái ớt đỏ, cắn một chút, một chút thôi, rồi vừa ăn vừa suy nghĩ thì mình dù lãnh đạm với cuộc đời đến bực nào cũng phải thương hại cho những ai không biết thưởng thức mùi thịt chó ! Tài thế, sao mà cứ cái thịt ấy làm món gì ăn cũng cứ ngon ơ? Có thể anh không thích tái chó, đuểnh đoảng với món nem chạo, thấy món cary chó cũng ngon nhưng không thú vì nó không được thuần túy Việt Nam; nhưng đến cái món dựa mận thì nhất định cả trăm người ăn thịt chó đều phải công nhận đó là một món ăn bất hủ! Chẳng biết ông tổ nào nhà mình, trong một phút xuất thần, lại nghĩ ra một món kỳ tuyệt đến như thế được? Tôi dám nói quyết với các anh rằng có nhiều lúc ngồi thưởng thức cái món đó, tôi đã từng ví với bản nhạc “Le Danube Bleus” của Johan Strauss. Nó dìu dặt khoan thai, cuồn cuộn một cách êm dịu, có đôi khi lại như nhảy nhót lên trong ánh sáng. ấy đấy, cái món dựa mận vào trong miệng nó cũng từa tựa như thế đấy.

Thoạt mới dùng, ta thấy nó dìu dịu, hiền hiền, nhưng điểm mấy lá húng chó vào rồi đưa đi mấy lá bún trắng tinh, chấm với cái thứ nước quánh đặc một màu đào mận, ta thấy nhạc điệu khác hẳn đi, khác nhưng từ từ, chậm chậm, theo thứ tự từng gam một, chớ không lỡ điệu, không đột ngột. Khẩu cái ta như nhảy múa tưng bừng, có lắm lúc tưởng chừng như có cái gì sắp hỏng kiểu, làm cho ta hơi sợ; nhưng tài tình là chính lúc ta sợ như thế thì sự ngang trở uyển chuyển vuợt qua một cách thần điệu và tạo nên một nét nhạc mới thần tình đến lạ lùng.

Song đừng tưởng rằng muốn hưởng một “nhạc điệu” như thế vào trong lòng mình là một công việc dễ dàng đâu. Thực vậy, món dựa mận muốn ăn cho ra ăn, cần phải làm công phu rất mực, có khi còn công phu hơn cả món chả là khác nữa. Thịt chó thơm mà ngọt, thui vàng ngầy ngậy lên rồi, đem ra nấu dựa mận mà không quánh, đưa bát đựng dựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri của bảy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấu.

Muốn có một bát dựa mận thật là gia dụng, ta cần phải chú ý tới ba thứ nòng cốt là mắm tôm, riềng và mẻ. Mắm tôm phải là thứ mắm tôm 'tiến', lọc cho sạch; riềng giã thật kỹ, cần nhiều, kém thì không dậy mùi; mẻ cũng phải lọc đi lọc lại. Ba thứ đó trộn với nhau thực đều, gia thêm hành muối vừa độ, ướp với thịt chó sống, sau khi đã bóp kỹ rồi. Tất cả để đó, chừng một tiếng đồng hồ, chớ có đụng vào, rồi hãy lấy ra ninh. Chó già ninh kỹ, chó non đun vừa tới. Nhưng dù là chó già hay chó non cũng vậy, điều phải nhớ là không bao giờ nên gia nước - dù là nước xuýt - riêng cái tiết chó đánh vào cũng đủ làm cho nổi vị lên rồi.

Nói đến tiết chó, ta cũng nên biết một chút về cách mổ chó thế nào cho lông tơ của chó không rụng vào trong bát tiết. Thường thường, người ta cắt tiết chó như cắt tiết lợn. Song, những người cầu kỳ muốn tận hưởng một bữa thịt chó thật “ra trò” không chịu làm như thế, nhưng lại vẽ ra thêm một 'mốt' xét ra cũng vô hại trong nghệ thuật 'đả cẩu ở nước ta; họ tìm đúng cái mạch máu lớn ở nơi giữa cổ con cầy mà cắt; máu ra, họ cho một ống tre con vào mạch máu đó và truyền tiết vào trong một cái liễn lau rửa kỹ càng. Sự thực, tiết đó không đặc biệt gì hơn thứ tiết cắt thường, nhưng được một điều là không có lông tơ chó lẫn vào. Vả chăng, ai lại còn không biết rằng đối với các ông ẩm thực rỗi rãi thì giờ quá, làm một món ăn càng cầu kỳ, tỉ mỉ bao nhiêu thì họ vẫn thường tưởng tượng càng ngon miệng bấy nhiêu.

Trí tưởng tượng của người ta ẻo ọe y như người đàn bà trẻ đẹp: chiều thì thích, mà quên đi một chút thì 'mặt lưng mày vực' ngay ... Chính cũng vì lẽ đó, có nhiều ông ở nhà quê làm dựa mận ngon chết đi được rồi, mà vẫn không chịu ăn ngay, lại còn cầu kỳ muốn cho nó phải 'đông' mới thú. Mà ở nhà quê, thường thường không có tủ ướp lạnh thì mới biết làm sao đây? Đừng lo. Người sành ăn uống cầu kỳ cũng như người ghiền a phiến vậy. Dựa mận mà xong đâu đó cả rồi, không đụng tới mà cho vào trong một cái hũ, bịt kín lại, lấy dây thép quấn chặt rồi trát bùn ở ngoài, lẳng xuống đáy ao một ngày một đêm mới vớt lên.

Chao ôi, có cầu kỳ một chút kể cũng bõ cái công vất vả ! Ăn miếng dựa mận đông đó, nó tỉnh người ra như con sáo sậu. Lạ miệng, bùi, ngầy ngậy, thơm thơm... Quái lạ đến thế là cùng ! Thịt chó chất nóng, 'sốt' thì lạnh, hai cái mâu thuẫn đó, ngồi mà nghĩ tưởng chừng như không thể nào dung hòa được với nhau; ấy thế mà ngờ đâu nó lại y như thể là đại số học vậy; hai cái 'trừ' cộng với nhau thành ra 'cộng', lựa là cứ phải một âm và một dương. Có người đã nói thức ăn ngon mà chỗ ăn không ngon, không ngon; chỗ ăn ngon mà không khí không ngon; không ngon; không khí ngon mà không có bè bạn ăn ngon cũng không ngon. Câu đó đúng. Nhưng tôi muốn thêm vào 'Tất cả đều ngon, nhưng ăn ngon mà không đúng thời tiết cũng không ngon nốt'. Lắm lúc ngồi nhắm nháp một chén rượu tăm cất ở Tây Hồ, thưởng thức một mình một đĩa tái chấm muối tiêu, chanh, ớt, tôi vẫn thường nghĩ hình như trời sinh ra thịt chó là để ăn riêng ở Bắc Việt, chứ không phải ở bất cứ đâu đâu.
Từ tháng Tám trở ra, trời Bắc Việt nặng những mây mù, đìu hiu một ngọn gió hanh hao, lành lạnh, gợi nhiều niềm tưởng nhớ xa xưa. Lòng mình không buồn não nuột, nhưng sầu nhè nhẹ và mình ưa cái sầu đó, bởi vì nó không hại người mà lại nên thơ. Đó, chính ở trong tâm trạng đó mà thưởng thức một bữa thịt chó thì không còn gì hợp lý, hợp tình, hợp cảnh hơn. Lòng đương lạnh tự nhiên thấy ấm; đời đương bàn bạc bỗng tươi lên một nét đậm màu. Một thức ăn mà có lúc thay đổi được cả nhân sinh quan của người ta, âu cũng là một cái lạ ít khi thấy vậy. Vì thế, nhiều khi ngồi trong nhà trông ra giàn thiên lý để cho lòng lắng xuống, tôi vẫn thấy cần phải tha thứ cho nhứng nhà tu hành chỉ vì quá yêu cái đẹp, cái ngon, cất lẻn ra đi xơi thịt chó mà bị mang cái tiếng xấu là 'hổ mang, hổ lửa'. Chao ôi, một Lỗ Trí Thâm, một Hồ Quỳ, làm sao mà chịu được sự câu thúc của một thủ tục chật hẹp không cho người ta sống tự do - tự do tư tưởng, tự do thưởng thức, tự do ẩm thực?

Nếu tôi có tài, tôi quyết sẽ phải viết một loại bài đăng báo cổ súy những nhà hữu trách trong các giáo phái nên để cho các vị tu hành 'đả cẩu' tự do, và hơn thế, lại dùng thịt chó vào trong lễ tam sinh nữa, bởi vì theo các truyện kể trong dân gian thì dường như các ông thổ địa, các ông Thần Trà, Uất Lũy, kể cả vua Diêm Vương nữa, cũng ưa món ấy. Thần mà còn thích thịt chó, huống chi là người!

Trong các truyện cũ của Tàu, người ta thường thấy có những con hồ ly tinh gần thành chánh quả mà chỉ vì trong một lúc thèm thịt đàn ông, con trai đã làm điều càn bậy để đến nỗi phí cả mấy ngàn năm tu luyện. Ngồi mà suy nghĩ, tôi tưởng thịt đàn ông con trai, đối với các con tinh cái, ngon bất quá cũng chỉ bằng đến thịt chó đối với chúng ta là cùng. Chẳng thế mà thịt chó đã thành ra món ăn được ca tụng trên cửa miệng mọi người, và hơn thế, lại còn đi sâu cả vào trong văn chương bình dân nữa. Đàn ông biết đánh tổ tôm, Biết ăn thịt chó, xem nôm Thúy Kiều.

Thịt chó, thịt cầy, thịt “sư tử đất”, “nai đồng quê”, bao nhiêu danh từ được đặt ra, nhưng “làng đánh đụng” vẫn cho thế là chưa đủ, nên luôn luôn những danh từ mới vẫn được người ta “sáng chế”, không ngoài mục đích đề cao món ăn “số dách” kia: thịt chó còn có tên là mộc tồn - ra cái ý rằng mộc tồn là cây còn, cây còn là con cầy; nhưng linh động và ý nghĩa, chính là cái danh từ “hương nhục” - thịt thơm.

Này, có dịp nào gặp người biết thưởng thức thịt cầy, anh thử nói về thịt chó mà xem. Một trăm lần như một, anh sẽ thấy người ấy bắt đầu như thế này :”Không có thứ thịt gì lại có thể thơm như nó...” Nhưng dù thơm, dù ngon, dù ngọt, dù bùi, bao nhiêu 'đức tính' đó đã thấm vào đâu với cái đức tính bao quát của thịt chó trong công cuộc thống nhất dân tâm, san bằng sự phân biệt giữa các giai cấp trong xã hội? Thực vậy, tôi đố ai lại tìm ra được một miếng ngon nào khã dĩ liên kết được dân ý đến như vậy, một miếng ngon mà từ vua chí quan, từ quan chí dân, từ ông tư bản đến người làm công, thảy đều ưa thích, thảy đều dùng được, thảy đều thèm muốn, thảy đều công nhận... ba chế. Ôi, cứ nghe người ta nói thì đổ thóc giống ra mà ăn ! Ăn thịt chó là thiếu văn minh, ăn thịt chó là bẩn thỉu, ăn thịt chó là bất nhân bạc ác... và còn gì nữa, và còn gì gì nữa !

Người ta viện lý con chó là bạn của loài người, ăn thịt chó là mọi rợ, thế thì tại sao con ngựa, “một chinh phục cao cả nhất của loài người” mà người Âu Mỹ cũng đem ra “đánh chén”? Bảo là con chó ăn bẩn, thế thì con gà, con lợn, con cá ăn uống sạch sẽ ư? Không. Con chó là con vật để cho người ta ăn thịt; ăn thịt chó không khác gì ăn thịt thỏ, ăn thịt nai, ăn thịt bò. Huống chi thịt chó lại còn ngon và bổ; vì thế tôi cho rằng mặc dầu người ta đàm tiếu thế nào đi nữa, thịt chó vẫn cứ là một món ngon bất diệt của dân ta và tôi tin rằng: “Nước ta còn, thịt chó còn” mà văn hóa ẩm thực của ta mai sau hay, dở là ở điểm có biết duy trì thịt chó hay không vậy

Và đây nữa : Nét đẹp phụ nữ Việt Nam qua cách ăn...thịt chó!

Miếng dồi chó thơm phức, béo ngậy... châm thêm tí mắm tôm, cuốn thêm cái lá mơ... rồi chui tọt vào mồm ả... cái miệng ả đảo méo mó, vội vã như nuốt trôi tất cả...

Hắn ngồi sững nhìn ả ăn ngon lành... đã lâu rồi hắn và ả mới có dịp đi ăn thịt chó lá mơ tươi như thế này. Có lần, nghe một ông thầy phán rằng số ả phải kiêng thịt chó, không được làm “đục” cái “tâm” của mình... làm ả về trằn trọc mấy đêm.

Tiếng xèo xèo của mỡ và mủi chả nướng quyện lên, ả dỏng mũi hít lấy hít để rồi với tay tợp một ngụm ken... chèm chẹp chèm chẹp... Ánh mắt ả long lanh, cẩn trọng vặt từng gọng húng chó, ngắt thêm cọng hành, bẻ thêm mấy cọng xả... rồi chăm chú gắp miếng hấp bỏ tót vào miệng... ngọt lịm!!!

“Chủ quán, xin vài cái lá mơ”, giọng ả ngắt quãng phá tan cái không khí cành cạch của chén và chai... Đĩa hấp gọn ghẽ, lát nào ra lát đấy, đều tăm tắp; mấy miếng chả nướng vừa quăn, xùi lên vị riềng, ngầy ngậy; mấy miếng dồi nhát vừa khéo, chắc, mềm nhưng không mất đi tiếng lật xật của lạc giã... thơm đến kỳ lạ; bát giả cầy châm vừa đủ nước, bốc hơi nghi ngút; báo xáo, những cọng hành còn tươi nguyen; những cái lá mơ bánh tẻ, đầy lông măng...

“Bố mày cho xin ít riềng ngâm nữa đi”... ả đã giảm bớt tốc độ, đĩa lá húng cũng vơi dần theo những lần gắp của ả...

Ả chợt nhìn hắn âu yếm qua mấy cái đĩa dồi, buông một câu lãng nhách “Chó”!
Ngụm bia trong mồm hắn trở nên ngọt lạ!

NAI ÐỒNG QUÊ , MÓN NGON ÐỂ ÐỜI :

            Trong Hán tự, chữ cẩu và khuyển đều có nghĩa là chó nhưng xét về từ nguyên, thì chữ khuyển cổ hơn, nên tới nay bộ khuyển có tới 444 danh từ kép. Ngoài ra còn có các chữ phệ, hiến, nhiên và yếm .. chỉ món thịt chó, cũng liên quan tới chữ cẩu ố khuyển. Trong “ Thuyết văn giải tự “ , Hứa Thận đã ghi “ Tông miếu khuyển danh, Lương-Hiến, khuyển phì giã dĩ hiến chi “ có nghĩa Hiến-Lương là hai loài chó béo , dùng để tế lễ. Trong thiên khúc lễ của Lễ Ký, cũng ghi Hiến là tên của một loài chó dùng để tế lễ nhà thờ dòng họ. Như vậy đối với người Trung Hoa, ngoài trâu bò, dê lợn, gà vịt, chó cũng là con vật dùng để tế lễ quan trọng. Ngoài ra, chó còn được coi như một loài gia súc nuôi trong nhà để lấy thịt ăn như Lý Thới Trân, đã ghi trong sách “ Bản thảo cương mục “ , chia chó làm ba loại là Ðiền Khuyển (chó săn), Phệ Khuyển (chó sủa giữ nhà ) và Thực Khuyển (chó thịt). Theo Jacques Gernet, thì người Trung Hoa đã nuôi chó từ thời văn hóa Ngưỡng Thiều, cách đây gần 5000 năm., để lấy thịt cung cấp cho các cuộc hiến tế, của các tầng lớp quý tộc. Trong khi đó , người xưa lại dùng chữ Nhiên, bao gồm hai chữ khuyển và nhục, coi như một danh từ riêng để chỉ món thịt chó , giống như các danh từ ‘ nai đồng quê, cây còn, cầy tơ, mộc tồn’ trong Việt ngữ. Ngày nay người Tàu dùng danh từ kép ‘ Cẩu Nhục ‘ để chỉ món thịt chó, cũng như chữ ‘ Caro canis (Latin)’ hay ‘ Sva-mamsa (Sankrit) ‘ đều có nghĩa là thịt chó. Tóm lại qua thời gian, dù các danh từ chỉ ‘ thịt chó ‘ trong Hán tự như các chữ Hiến, Nhiên hay Yếm có bị giảm nét nhưng tuyệt đối không bao giờ bị xóa mất chữ khuyển (chó). Ðiều này cho thấy dấu ấn của thịt chó đã in đậm nét trong tâm khảm của người Tàu qua bao đời, đến nay vẫn không thay đổi sự ưa thích món ngon truyền thống.

            Ai củng biết chó là một con vật được nuôi trong nhà , được người ưa thích vì nó rất có nghĩa và trung thành với chủ. Do đó mà nhiều người VN không thích ăn thịt chó, nhất là những người theo Phật giáo hay thờ cúng ông bà, chứ không phải họ mê tín dị đoan. Tuy nhiên thịt cho cũngÔ được một số ít người ứa thích đến nỗi cho rằng không có một động vật nào khác có thể thay thế . Nhưng chắc chắn thịt chó đối với người VN, dù bất cứ ở địa phương nào , cũng chưa bao giờ là món ăn hằng ngày trong các bữa cơm gia đình. Ở những làng quê theo Phật giáo, gần như chẳng ai dám ăn thịt chó, riêng phụ nữ thì rất sợ món này. Bởi vậy khi có những người làm nghề giết hay mua chó, kể cả những bợm nhậu chuyên xài ‘ nai đồng quê ‘, đi qua những làng này, thì lập tức cả bầy chó từ đầu trên xóm dưới, rủ nhau sủa cắn inh ỏi , làm náo động cả xóm. Trái lại có những xóm làng theo đạo Thiên Chúa ở miền Bắc và vùng Thanh Nghệ Tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị.. nhiều làng đều ăn thịt chó, chẳng những hằng ngày trong gia đình, mà còn ăn tại các hàng quán, nhất là vào những dịp lễ tết và ngày giỗ.

            Tóm lại thịt chó rất được giới ăn nhậu ưa thích. Theo lời phán của các đại gia, thì chó trắng, chó vàng có bộ lông trắng và mịn, ăn ngon hơn hết . Bởi vậy nguời đời mới nói “ nhất bạch, nhì hoàng, tam khoang, tứ đóm ‘ . Thường thịt chó được chế biến thành nhiều món như chả đùm, rựa mặn, xào lăn, thịt luộc ăn với riềng bánh tẻ, cháo, tiết canh, làm dồi.. ăn đệm với ngổ ba lá, xáo hầm với măng tươi. Với những người sợ món ‘ Nai đồng quê ‘ , họ lại chế món ‘ Giả Cầy ‘, bằng cách nướng chân giò heo cháy vàng, nấu với các đồ gia vị , y như người ta đã nấu với thịt chó thật.

            Không biết thịt chó có mùi vị như thế nào, mà những bợm nhậu đã làm thơ ca tụng hết mức :

“ Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó,

Chết xuống âm phủ biết có hay không ?

Làm trai biết đánh tổ tôm

Uống rượu thịt chó, ngâm nôm Thúy Kiều

            Ngoài ra trong “ Nam Dược Thần Hiệu “ của Ðệ Nhất Thần Y VN là Ðại Sư Tuệ Tĩnh, đã có ghi những món đặc chế từ các bộ phận của chó như : CẨU THẬN được chế bằng thận của loại chó vàng, có vị mặn, ăn vào thấy nóng, giúp tráng dương ích tinh, trị được chứng thận suy, liệt dương, lưng gối mềm yếu vì luôn bị di tinh, phụ nữ mới sinh đẻ không được dùng. Món này được chế biến theo dạng thức ăn nhưng cũng có thể luộc phơi khô, rồi đem tán thành bột , dùng mỗi lần từ 4-12gr. Ngoài ra còn món ‘ Hải Cẩu Hoàn “ được chế biến từ Thận, Pín và Tinh Hoàn của loài Hải Cẩu đực sống ở Bắc Cực. Các bộ phận trên đem luộc, tán khô và dùng hằng ngày làm thuốc tráng dương.rất được người Tàu ưa chuộng và gọi đó là “ Ngột Nạp Thú “ . Trong tài liệu “ Thứ vật di danh sơ “ ghi rằng loài Ngột Nap giống như chó, đuôi dài, lúc mặt trời mọc thường nổi trên mặt nước, luận về dược tính gọi là hải cẩu. Loài này rốn nó giống như xạ hương có màu đỏ hơi vàng. Trong bút ký Vạn Lịch Dã Hoạch Thiên viết thời nhà Minh, cho biết trong vị thuốc trị liệu, chủ yếu là rốn hải cẩu. Muốn thử thuốc thật hay giả, người ta cho chó cái nằm lăn trên thuốc, nếu thấy khô và chó cái bị kích thích, thì đó là thận của hải cẩu thật. Thuốc tuy hiệu nghiệm nhưng nóng.

            Ăn thịt chó phải uống với các loại rượu đế, trắng hay bia, mới là đúng điệu nhất là đối với các đại gia sành điệu, không bao giờ dùng chung với rượu whisky, mùi hay Napoleon của Pháp. Từ trước tới nay, thịt chó của VN được chế biến thành bảy món cơ bản là rựa mận, luộc, sào, dồi, chả và nạm. Sau đó thêm món giò chó làm theo kiểu giò thủ nhưng nguyên liệu là thịt chó với mộc nhĩ, riềng. Ngoài ra thịt cầy non không bao giờ dùng để làm rựa mận hay xáo, vì thịt sẽ ngót đi nhanh chóng. Còn chó ngon và đắt nhất, là loại chó cái tơ sắp động cỡn, riêng chó đực là lúc nó bắt đầu đi ngửi các chó cái. Làm chó thui cũng phải lựa loại chó có mông to, má phính và phải quét mơ khắp mình chó , trước khi đem thui. Ngoài ra Mẽ để nấu rựa mận cũng phải chọn thứ ngấu. Thịt chó ăn kèm với bún và bánh đa. Ðối với những người ưa thích, họ có thể ăn hoài không ngán dù bụng đã no. Người miền Bắc VN thì gọi đó là thịt rồng hay hổ đồng bắng, còn bợm nhậu phía Nam thì đó là ‘ Nai Ðồng Quê “ , còn người Tàu thì nói thịt chó là ‘ Hương Nhục ‘.

            Nhưng dù có gọi bằng tên gì chăng nửa, thì người ta chẳng bao giờ ăn thịt chó một mình., mà phải cần có bạn nhậu giống như tri kỷ, để mà say xưa, khóc cười, tâm sự, nhất là lúc ai nấy đều ngà ngà say. Ăn thịt chó cũng khác biệt với lối ăn cổ hay các món khác. Những người nhậu thịt chó, thường rất thoải mái nhất là các tư thế ngồi hai chân bắt chéo trên chiếu, để lúc nào cũng thấy hả hê, tư lự kể cả lúc ném gọn những miếng dồi chó vào miệng nhai thòm thèm. Ăn thịt chó thú nhất là lúc quên đời, coi trời bằng vung, ném chuyện nhân sinh vào rượu thịt, để bữa tiệc có âm hưởng xưa xa của những chàng lục lâm tứ chiếng như kiểu Võ Tòng hay Lỗ Trí Thâm trên Lương Sơn Bạc, trong truyện Tàu. Cho nên trong bửa tiệc, ngoài món xáo có nước phải đựng trong tô và rựa mận bày ra trên dĩa, tất cả các món còn lại đều đặt trên các loại lá dong, riềng, chuối và sen. Có như vậy thức khách mới bốc mà ăn cho đúng điệu.

            Còn nữa, thịt chó phải chấm mắm tôm mới đúng điệu. Dọc theo bờ biển Bình Thuận nơi nào cũng có ruốc nhưng tập trung nhiều nhất , từ Phú Hài ra tới Duồng, vào tháng bảy hằng năm. Theo sự nhận xét của khách sành điệu, thì mắm ruốc Phan Thiết ăn ngon hơn mắm ruốc do bà giáo Thảo ở Vũng Tàu và Phú Quốc, tuy sự sản xuất không được qui mô. Cũng vì vậy mà hầu hết các tiệm bán “ Nai Ðồng Quê “ tại Phú Hài, Thanh Hải, Phan Thiết vào tới Xuân Lộc, Gia Kiệm, Hố Nai, Sài Gòn.. đều mua mắm ruốc Duồng (Hòa Ða) đem về pha chế thành mắm tôm ăn thịt chó. Ðặc điểm mắm ruốc ở đây ngon nhờ vị dịu không mặn lại có mùi thơm, làm cho các bợm ăn hoài không chán, dù bụng đã no cành.

2-MỘT VÒNG THĂM VƯƠNG QUỐC CHÓ :

            Món “ Nai đồng quê “ từ xưa tới nay, gần như đã ngự trị suốt miền Ðông Nam Á. Mới đây vào năm 1982, tại Manila, thủ đô của Phi Luật Tân, có ba dân biểu quốc hội nước này, đã đệ trình một dự luật cấm giết chó công khai để ăn thịt, với lý do phải cải thiện việc đã cẩu, để lấy lại uy tín đang sa sút của chế độ. Lý do vào năm 1981, một du khách Anh , đã chụp được tấm ảnh lúc chó từ chuồng, được đưa vào lò sát sinh. Tấm ảnh này được đăng lên bìa một tờ báo, gây sôi nổi ồn ào, làm uy tín của Tổng thống Marcos và vợ là Imelda đang bị cả nước chông đối vì tham nhũng, nay càng thêm xuống điểm.. Cũng theo dự luật đang đệ trình, đòi chính phủ phải phạt tiền 12-60 đô và tù 1 tháng, cho những ai thích ‘ Hạ Cờ Tây ‘ Ðược biết dân Phi cả nước, ai cũng thích món Mộc Tồn, nên dù có ban hành lệnh cấm, chắc gì thiên hạ chịu nghe .

            Nam Hàn nằm trên bán đảo Triều Tiên về phía đông bắc Châu Á, giữa Nhật, Trung Cộng và Nga Sô. Ðây là vùng đất đai khô cằn , núi đá chiếm tới 90% diện tích nhưng lại có nhiều linh dược như sâm và nấm linh chi, hiện được ươm trồng, trong các trang trại ven núi thuộc tỉnh Kanwondo. Ðặc biệt đàn ông xứ Hàn ăn to nói lớn, phát âm ầm ầm như đánh lộn, vang trời sập đất. Nam Hàn lạnh giá nhưng hấp dẫn với những chai rượu Sochu thơm ngát, lai rai với bò nướng, cá sống, lẩu hải sản và món kim chi quốc hồn ngày nào cũng có trong bữa ăn gia đình hay nơi hàng quán bình dân hoặc sang trọng ở các thị tứ Seoul, Pusan, Sorak San.. Món ăn của người Hàn Quốc cũng khác đời, khá đặc biệt với các loại gia vị nóng, nhất là ớt để chống lại cái lạnh mùa đông.. Ở đây người ta còn ăn thịt cá voi, có mùi tanh khủng khiếp vì toàn mỡ. Lại có những món Sunde bằng lòng bò trộn gia vị nướng ăn kèm với Buchu, món rau trộn lá hẹ tươi với ớt.

            Nhưng “ Nai Ðồng Quê “ vẫn là đại gia số một trong thực đơn của người Cao Ly. Bởi vậy vào ngày 25-5-1999, đã có cuộc biểu tình trước trụ sở Ðảng Quốc Ðại , đối lập chính quyền ở thủ đô Hán Thành, chung qui cũng vì thịt chó. Trong lúc đó bên trong Quốc Hội Nam Hàn đang thảo luận , nên hay không ‘ Ðả cẩu ‘ , trong thời gian nước này cùng với Nhật, đồng tổ chức giải túc cầu thế giới năm 2002. Rốt cục cả hai phe đối lập và đồng ý, đều không muốn đề cập tới cái sự giết chó là man di đối với người ngoại quốc. Trái lại còn hợp thức hóa ngành buôn bán chó, vì đó là truyền thống ăn uống lâu đời của đất nước này.

            Ở xứ sở sâm Cao Ly, “ Nai Ðồng Quê “ được coi như là nguồn cung cấp chính , lượng protein dồi dào , để thay thế thịt bò rất khan hiếm và mắc mỏ , mà chỉ có giới giàu có mới vói tới. Theo ước tính, hằng năm chỉ riêng Nam Hàn đã tiêu thụ tới vài chục tấn thịt cầy, nhất là vào mùa hè nóng nực, người ta lại càng hạ nhiều cờ tây, để nấu món súp , ăn vào vừa giải nhiệt vừa tăng cường chất bổ và cường dương tráng thận cho các đấng râu mày. Ở đây chó được nuôi trong chuồng như gà heo và hạ thịt bằng cách cột hai chân sau của chó treo lên cao. Sau đó dùng cây đánh khắp thân chó để thịt được mềm, tiêu mỡ ăn vào mau tiêu hóa.

            Vùng Yanbian trong tỉnh Liêu Ninh, thuộc Mãn Châu, bị Trung Cộng chiếm, giáp giới Bắc Hàn, nên dân số địa phương phân nửa là người Triều Tiên. Vì vậy các cửa hàng “ Mộc Tồn “ mọc lên như nấm, gần như chỗ nào cũng có. Trong lúc đó dân Tàu chính cống lại khoái khẩu món chó ninh với nước xốt cay. Vùng Muang Sakhon Nakkon ở đông bắc Thái Lan, giáp giới với tỉnh Vân Nam, hằng tháng dân địa phương hạ từ 20.000 ố 30.000 chó đủ loại.

            Ở VN , ngay từ thời Pháp thuộc, có một số đồng bào miền Bắc và các tỉnh Thanh Nghệ Tỉnh, vào làm phu tại các đồn điền cao su, cà phê và trà ở cao nguyên và miền đông Nam phần, nên “ Nai Ðồng Quê “ cũng theo chân khách lữ hành. Nhưng phải đợi tới năm 1954, những người Bắc di cư lánh nạn vào Nam, đã mang theo trong hành trang viễn xứ, cái hơi hướng của món mộc tồn, tại những vùng đất mới bên này sông Bến Hải vào tận mũi Cà Mâu. Tại Sài Gòn, thủ đô của VNCH lúc đó do Nguyễn Phú Hải tay lai làm Ðô trưởng, nên ban lành lệnh cấm bán thít chó kháp vùng Sài Gòn-Chợ Lớn. Do đó vương quốc thịt chó mới có cơ hội bành trướng mạnh mẽ ở Gia Ðịnh, cũng như các vùng phụ cận có nhiều trại di cư ở Hố Nai (Biên Hòa), Gia Kiệm (Long Khánh)., hàng nối hàng, phố chó kéo dài hằng cây số

            Rồi quân viễn chinh Pháp xuống tàu về nước, thịt chó cũng tiến nhanh tiến mạnh tiến một cách qui mô và bề thế, từ ngoại ô vào đô thành, khởi hành từ con đường Bắc Hải chạy suốt tới ngà tư Bảy Hiền và như tầm ăn dâu, cứ phân nhánh chằng chịt, tới các khu nào có mấy ông nhà báo gốc Bắc mê đã cẩu, rủ rê tụ hội quanh ‘ cẩu yến ‘, ăn uống no say sau đó về sáng tạo các mục ‘ chó tông xe, xe cán chó ‘.Cũng từ đó, Sài Gòn tới đâu cũng thấy chó, bắt đầu từ 10 giờ sáng, thịt chó được bày bán khắp các ngõ ngách xóm trong ra tới hai bên rìa đường Lê văn Duyệt. Người ta ăn thịt chó trong quán với bàn ghế hẳn hòi hay chỉ cần một tờ báo trải đâu đó làm mâm, thì các dân chơi cầu ba cẳng đã có một cuộc vui hả hê ngất ngưỡng.

            Ðối với các đại gia trong ngành cẩu, phải tìm mua cho được thịt tươi bày bán ê chề khắp chợ Ông Tạ , thôi thì đủ thứ, từ thủ, khấu đuôi, sườn, lòng.. nhưng không bao giờ tìm thấy món ‘ cẩu pín ‘ vô cùng qúi báu, nếu chẳng là chỗ quen biết đã đặt trước. Cũng tại vương quốc chó này, hình như chổ nào cũng ngửi được mùi vị chó kinh niên chất ngất, bốc mùi thơm phức, mà một nhà thơ nổi tiếng của Sài Gòn năm xưa, đã viết :

“ Ðộc đạp cơ xa đáo Bảy Hiền

Tây kỳ yên hỏa tại đình tiền

Ðồng lai đã cẩunhân hà tại

Phong cảnh y hi tự khứ niên .

Nghĩa là một mình đạp xe tới Bảy Hiền, từ các hỏa lò trưóc cửa tiệm thịt chó, mùi cờ tây nướng bốc thơm ngào ngạt, cảnh vật vẫn y chang như thuở nào nhưng bạn tri âm cùng ta từng đả cẩu, nay chẳng biết đã phiêu bạt về đâu ?.

            Ngoài ra quanh khu vực ngả bảy,các đường Lý Thái Tổ, Phan Thanh Giản, khu Xóm Mới Gò Vấp, phía bên kia cầu Thị Nghè ngoài xa lộ.. cũng đầy quán thịt chó và đã tồn tại từ đó đến giờ, trên các bàn nhậu của mấy anh chi Hai Sài Gòn, dù dân chơi đỏ hiện nay đang rộ lên các trào lưu hưởng thụ các món ăn sang trọng như cá điêu hồng, hào sống, nghêu luộc, cua rang, ốc nhầy nướng.. cùng các món tủy bò ninh thuốc Bắc.

            Trên đất Bắc, ngay từ thập niên 30, các dân chơi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Ðịnh.. đã thoải mái cầm nguyên đùi chó mà gặm rồi tu vào ưng ực từng bát đế , như kiểu sư hổ mang Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử truyện hay bang chủ cái bang Kiều Phong của tác giả Kim Dung. Dạo đó khắp cố đô dường như chỉ mới có dăm ba hàng thịt chó, ở các phố Hàng Lược, Hàng Ðồng, Hàng Hòm, Cổng Chéo.. khách tới toàn đực rựa, vì các trang tiểu thư mệnh phụ đài các của Hà Thành, đừng nói tới ăn, mà chỉ cần ngó hay ngửi mùi chó, nhiều người đã phát nổi da gà hay nôn oẹ tới mặt xanh. Nói chung thịt chó thời đó mới phát triển mạnh ở bên trong những lũy tre làng quê xa, vào dịp lễ lạc giỗ cúng. Nhưng người làng cũng chỉ mới biết có vài món phổ thông như thịt luộc và bộ lòng chấm mắm tôm, dựa mận, chả nướng, dồi, món xào và đặc biệt là món óc thêm tiết canh chó đưa cay mở đầu bửa nhậu. Theo các đại gia chó, thì món óc cẩu với muối tiêu vắt chanh rất bùi và ngậy, ăn không thua gì món óc khỉ mà năm nào Từ Hy Thái Hậu của nhà Thanh bên Tàu, trong bữa tiệc chiêu đãi các sứ thần Tây phương ở Bắc Kinh. Còn món tiết canh chó muốn làm, trước hết người ta cạo lông ở phía trái cổ chó, dùng một ống đầu nhọn, đâm ngay động mạch, huyết chó theo ống được hứng vào một cái tô lớn và được pha chế như làm tiết canh heo, vịt.

            Theo thời gian, thịt chó ngày nay đả chính thức gia nhập thực đơn của giới tư bản đỏ với nhiều cải tiến mà mọi quán đều có những món đặc biệt như quán Ý ở Nhật Tân, với mật và chân chó mực hầm và dồi nướng. Riêng chả cũng thêm hai món chìa và đùm, lại có lẩu, ragu và món xốt vang chó, còn thịt thì hấp chứ không luộc như ngày xưa, nên ăn ngon hơn. Dân đã cẩu phương Bắc hầu như đủ mọi thành phần, tiệc liên hoan cũng chó, đãi Việt kiều cũng chó, bên cạnh đó là những giang hồ hảo hán, những mệnh phu, dân chạy mánh và cả Tây, Tàu, Hàn..

            Trước kia Hà Thành chỉ có 36 phố phường nhưng từ năm 1986 về sau, khi phong trào ‘ Nai đồng quê “ nở rộ theo sự đổi mới cởi trói kinh tế xã nghĩa, thì Hà Nội mọc thêm Phố 37 Ðả Cẩu, mà ca dao mới đã truyền tụng :

‘ Phố 37 nhà sàn thịt chó

Nằm ven đê thuộc xã Nhật Tân

Ô tô xe máy rần rần

Kéo tới ăn uống rầm rầm ngày đêm ‘

            Ai củng biết xã Nhật Tân ở ngoại thành Hà Nội là chốn bao đời nổi tiếng về nghề trồng hoa, nhất là hoa đào vào mỗi độ xuân về. Nhưng nghề trồng hoa sau này càng ngày càng lụn bại, do đó người trong xã mới bỏ nghề, ra lập quán bán thịt chó trên con đê quai. Nhờ làm ăn khắm khá, nên tới đầu năm 1990 chỉ trong khu vực này đã có tới 70 quán ‘ nai đồng quê ‘.Theo các đại gia đả cẩu, thì phố 37 nằm trên đê mỗi ngày tiêu thụ vài ba trăm con chó, được cung cấp từ khu chợ trời chó, nằm trong một khoảng đất trống bên này cầu Long Biên. Ở đây, chó không cần phải nhất mực, nhì vàng, tam khoang, tứ đốm, mà bất cứ chó loại nào, kể cả những con cún, vện, vằn.. đều được các nhà hàng chiếu cố. Do hằng ngày phải tiêu thụ quá nhiều chó, nên muốn tìm những con mực đen tuyền với bốn cái huyền đề, không phải là chuyện dễ, trong lúc chó mực là đệ nhất hạng, nên quán nào cũng dành mua dù giá cao. Ngoài ra tại khu chợ Âm Phủ, nguyên là một nghĩa trang, gần Tòa Án, có bán thịt chó làm sẵn nhưng không ngon bằng những quán thịt chó của các cô gái làng Nhổn, trong lồng chợ Hàng Da. Theo dân đả cẩu sành nghệ ngày nay, thì câu ‘ sống trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không ?’, đã không còn chỗ đứng vì cái món xáo chân chó ninh nhừ, mà bất cứ bợm nhậu nào cũng đều ưa thích.

            Tháng 11-1993, Hà Nội ra lệnh giải tỏa các quán bán thịt chó trên đê, nên các chủ nhân bỏ tiền thuê đất của làng hoa xã Nhật Tân. Tại đây các quán chó nhà sàn mọc lên như nấm, kéo dài cả cây số với những biển quảng cáo treo đầy trên mặt đê. Quán nào cũng có sân rộng để làm chỏ đậu xe hơi và các loại xe gắn máy, xe đạp của khách. Quán nào cũng vậy, dù rộng hay hẹp, khách đều ngồi ăn trên chiếu. Ðối với các cô, bà mặc váy đầm hay các cụ cao niên cần yên tỉnh, trong quán cũng có một phòng đặc biệt với bàn ghế dành cho họ. Theo tập quán của làng chó, mỗi thang từ mùng 1-10 âm lich, mọi người cữ thịt chó vì tin là ăn vào sẽ bị xui xấu, nên thời gian đó, quán nào cũng ế khách, tuy vẫn mở cửa. Do nhu cầu thịt hằng ngày, nên ngoài chợ trời và chợ âm phủ chuyên bán chó, người ta còn mua chó tận Hà Nam, Nam Ðịnh, Ninh Bình, Tam Ðảo, Vĩnh Phú, Việt Trì, Tuyên Quang.. Ðối vói chó vùng cao, thịt không ngon lắm vì nuôi bằng sắn. Thường các công nhân làm trong quán thịt chó ở phố 37, ngày nghĩ lại phải vác thòng lọng, rảo các làng quê để thu mua chó, hay tìm tới lều của lái chó, trên quảng đê Trần Nhật Duật, ở đấy chó loại nào cũng có tuỳ theo túi tiền.

            Những người đi mua chó thời nào cũng không thay đổi cách bắt chó, y chang các viên cảnh sát tại thành phố, đi bắt các con chó hoang chạy rong phóng uế và cắn bậy người đi đường. Có điều cảnh sát thì dùng một chiếc xích có thòng lọng ở đầu, còn người mua chó hay kẻ trộm chó , thì sử dụng một chiếc xích ống tre thô sơ. Ngoài ra người ta còn dùng chó cái để mà nhử bắt những con chó đực muốn mua. Chính những hàng quán bán thịt chó là chỗ tiêu thụ đắc lực chó bị bắt trộm. Phần vì rẽ nhưng chó của bọn bắt trộm đều là chó ngon, tơ thịt thơm nên ai cũng thích. Còn những thịt chó bán ở chợ, phần lớn là chó già, gầy, bệnh nên thịt không béo lại kém thơm ngon. Hầu hết dân quê đất Bắc đều thích ‘ cẩu nhục ‘ nhắm với đế , nên không mua được thịt ở chợ, thì vài ba nhà lại hùn hạp, để hạ cờ tây , tức là đánh đụng.

            Xưa nay nhắc tới món mộc tồn, trong lúc ăn nhậu, các đại gia hay kể cho nhau nghe những giai thoại chó, như chuyện Lý Hồng Chương, ngoại trưởng Trung Hoa Dân Quốc, sang Anh thăm Nữ Hoàng Victoria. Dịp này ông được một mệnh phụ tặng cho con chó Fox rất quý và đẹp. Ba năm sau, bà quý phái náy sang Bắc Kinh , tới thăm Lý Hồng Chương, nhân dịp hỏi thăm con chó Fox của mình, thì được Lý trả lời là ngon lắm, vì thịt chó Fox của Anh, đem hầm với táo Tàu, ý dĩ, thảo quả và hạt sen.. thì trên đời này, còn món nào sánh bằng.

            Một người bán thịt chó dạo rao ‘ ai thịt chó không ?’. Tức thì trong nhà có tiếng gọi ‘ chó, chó lai đây ‘ Người bán thịt chó hỏi lại ‘ ai chó đấy ? ‘ . Thời Pháp thuộc có quan tri huyện nọ thường bị các quan lớn ức hiếp tức lắm nên kiếm dịp trả đũa. Một hôm trong nhà có giỗ, ông làm tiệc mời hết các quan lớn tham dự. Trong lúc nhập tiệc, quan tuần phủ nhân thấy thúc ăn món nào cũng ngon nên hỏi, được quan huyện đứng dậy trả lời ‘ bẩm quan chó đấy ‘ ông còn khoa tay chỉ hết mọi người từ mâm cao tới thấp và nói ‘ tất cả đều là chó ‘ . Các quan xanh mặt nhưng đành cấm đầu ăn cho hết bữa tiệc chó .

            Có vào quán thịt chó, chính mắt chiêm ngưỡng những đệ tử của bang phái ‘ Ðả cẩu ‘, ta mới tin ăn thịt chó là một nghệ thuật , phải ở một tư thế thật thoải mải, phải giữ ý tứ và lời phát biểu. Ðó là cung cách mồm nhai tai nghe, để có những giây phút quên đời, có như vậy ăn mới ngon, dù là ăn bốc. ‘ Lớn bùi bé mềm ‘, hiện làng Chôi là địa phương cung cấp số lớn thịt chó đã mổ, thui và làm lòng cho hầu hết các hàng quán thịt chó ở Hà Nội. Tại Hải Dương có nhiều nhà chuyên nuôi chó bán cho các quán thịt chó ở Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình. Phố thịt chó 37 Nhật Tân, hiện nay nổi tiếng về các món nạm, ninh gáy và đùi, cũng như món sụn và bốc mã. Ở đây còn nổi tiếng về món xào lăn thịt nạc và sáo đùi có cẳng chẻ ra, xương còn dính chút thịt, thơm mùi đu đủ xanh và lóp mở của nước súp. Thịt chó Hàng Lược ngon nhất là món chó hấp chấm mắm tôm. Tại Ô Quan Chưởng, các quán thịt chó chuyên món rựa mận bốn lửa, màu hổ phách, đầy nhựa, ròn tan, đậm đà ăn vào cổ , lưỡi nếm đủ năm mùi vị. Các quán thịt chó ở Bát Ðàn và Hỏa Lò, chuyên món dồi chó, làm bằng mấy loai thịt , mỡ chó, đậu xanh, đậu phộng và tiết. Ăn miếng dồi chó ở đây, khách có cảm tưởng như mình đang ăn món chiên, luộc rồi nướng. Tất cả cũng do bàn tay khéo của người bếp lúc cho dồi đảo qua mỡ chó thật nhanh, rồi luộc cuối cùng lại đảo qua mở, để nó gần giống như dồi nướng. Tại các chợ Âm Phủ, chợ Bưởi và gầm cầu cửa Ðông, nổi tiếng về thịt luộc và thịt chó gói ăn liền, trong đó có đủ thịt, dồi, rau hùng, riềng, muối tiêu. Tóm lại đi ăn thịt chó, dù ở vương quốc nào chăng nửa, vẫn không qua chủ đích là món ngon, địa điểm và người chủ quán.

            Từ trước tới nay, theo truyền thống món ‘ nai đồng quê ‘ của ta có bảy món là rựa mận, sào, luộc, dồi, chả, nạm và tiết canh. Hiện nay theo nhu cầu ăn uống của các đại gia, nha hàng đã dựa vào 7 món cơ bản trên để chế thêm các món giò chó , lẩu , súp .. không ai ăn thịt chó một mình bao giờ.

            Ở ngoài ăn sao cũng được nhưng về nhà, đặc biệt trong những ngày Tết, dù là người Bắc Trung hay Nam sống tại Sài Gòn, không bao giờ có chuyện ăn thịt chó vui Tết. Mà chỉ thấy bánh chưng, chả lụa, chả quế., giò thủ. Ngoài ra để có hơi hướng của Bắc Hà, nhiều nhà làm món thịt đông chân giò hay thịt gà nấu đóng. Bên cánh đó, còn có món giả cầy làm bằng giò heo cạo ạch đem thui, chặt khúc nấu với riềng và mẻ.

            Cám ơn Sài Gòn đã cho ta những ngày sống lang bạt của kiếp lính, nhờ đó mới có dịp hưởng đủ những hương vị cuả ba miền đất nước,trong đó có những bữa tiệc thịt chó nếp thang, giờ nhớ lại vẫn còn thèm -/-

Chúng ta hay nói chuyện ăn uống của các ngôi sao màn bạc, các ca sĩ và người mẫu mà ít để ý đến nhiều nhà văn của ta cũng rất sành ăn và mê ăn. Trên văn đàn Việt Nam từ trước đến nay, tôi thấy có rất nhiều người như Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai

, Thạch Lam với Hà Nội 36 phố phường, Nguyễn Tuân với Phở, hay gần đây có Hoàng Phủ Ngọc Tường với bút ký về Chuyện cơm hến ở Huế. Riêng Nam Cao, Trẻ con không được ăn thịt chó là một truyện ngắn rất kiệm lời khi tả món ăn, nhưng chữ ông dùng rất độc...

Trong Trẻ con không được ăn thịt chó, nhà văn Nam Cao viết: "Nồi xáo bốc hơi thơm lựng. Hai bát tiết canh đông lắm. Ấy là cái điềm lành báo rằng cuộc vui sẽ hoàn toàn... Cái mùi thịt chó bốc lên thơm vô cùng. Bao nhiêu là nước chân răng?". Người nào lâu ngày chưa ăn món này, đọc đến đây, chắc cũng thèm không tả hết. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường lại thèm kiểu khác trong bút ký Chuyện cơm hến: "Tất cả - các loại đồ màu - được đựng trong những thẫu, những vịm bày trên một cái trẹt, o bán cơm hến lấy ra bằng

Đối với món phở ở Hà Nội - mà bây giờ có người ví như sứ giả văn hóa của Việt Nam trên đường toàn cầu hóa - thì hơn 70 năm trước nhà văn Thạch Lam đã rất tinh tế: "Bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong mà trông lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ"; "Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính" (Hà Nội 36 phố phường).

Còn Nguyễn Tuân bên cạnh việc: "Vì hay la cà với phở mà tiếng nói của tôi được giàu có và chính xác hơn lên", ông lại chú ý đến tên các hiệu phở, gánh phở Hà Nội: Tên cúng cơm người bán phở hoặc tên con của họ, thường chỉ một tiếng như phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ; cũng có thể lấy cái tật nguyền của người chủ để đặt tên như phở Gù, phở Sứt; lại còn lấy chỗ đặt hàng phở như phở Gầm cầu, phở Ga tàu điện... Ông viết như đinh đóng cột: "Cái tên càng độc, âm ngắn cộc càng đáng cho người mua tin cậy, cái tên một chữ như một nhát dao thái xuống thịt chín...".

Trong việc ăn, khác với nhiều nhà văn, Nguyễn Tuân đặc biệt yêu mến cái tiếng rao bán hàng ở nhiều vùng miền mà ông ví như "cái mùi" của những vùng đất:“Ngày trước anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dầy giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất, có người rao nghe vui rền. Tại sao bây giờ Hà Nội vẫn có phở mà tiếng rao lại vắng hẳn đi?". Cái tiếng rao ấy ám ảnh Nguyễn Tuân cho đến khi ông vào Hội An (bút ký Cửa Đại): "Đi tới một nơi lạ, tiếng rao của bọn người bán quà rong có những thổ âm riêng, đã làm cho tôi cảm động hơn hết mọi cái gì của một vùng ấy". Nguyễn Tuân còn có ý định độc đáo là sưu tập tất cả các loại tiếng rao của các vùng đất trên cả nước ta để làm một công trình nghiên cứu về văn hóa.

Các nhà văn không chỉ tả các món ăn để thỏa mãn cái thú ăn uống của mình. Khi họ viết về món ăn khoái khẩu dường như có lúc họ cũng bất lực để diễn tả bằng thứ ngôn ngữ nhà văn là chữ viết! Thạch Lam khi nói về bún chả Hà Nội lại nhớ đến các bạn làm thơ: "Khi ngồi cuối chiều gió, đói bụng mà đón lấy cái khói chả thơm, thì ngài dễ thành thi sĩ lắm!". Cũng vậy, cụ Nguyễn Tuân lúc tả nét tài hoa của ông hàng phở khi xắt những lát thịt mỏng: "Ông nào ăn phở mà có chất họa thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay".

Từ cơm hến Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường lại "Hoài cảm phở" với một cách tiếp cận ngược chiều từ phở Sài Gòn ra phở Bắc, từ "phở không người lái", "phở xếp hàng", phở "Bắc Hải hóa", phở xuất ngoại theo chân người xa xứ... Rồi anh kết luận: "Những món ăn danh tiếng của một vùng đất đều lan tới những vùng khác theo luật giao lưu văn hóa và cuộc sống bình thường". Cái khác là anh Tường đã đúc kết: "Cuộc giao lưu này (của phở) gắn liền với những biến động đầy bi tráng của lịch sử dân tộc... thấy trong đó bao nhiêu hưng phế, và nếm trong thìa nước trong trẻo ngọt ngào kia một chút dâu bể của những tháng năm" (Phở hoài cảm). Vậy thì, nhà văn khi ăn có khác với nhiều người. Họ tiếp cận những món ăn bằng tất cả các cơ quan cảm giác: miệng, mũi, mắt, tai, óc tưởng tượng, trí nhớ và không quên đặt cả những món ăn ấy lên chiếc-bàn-thời-gian mà ngẫm ngợi.

Có điều trùng hợp thú vị, giống như anh Tường qua Paris nhớ về cơm hến Huế, vì thèm cơm hến đến đứt tóc; nhà văn Vũ Bằng lưu lạc ở Sài Gòn lại nhớ da diết và viết da diết về

các món ăn mà ông đã để lại miền Bắc trong Thương nhớ mười hai, còn cụ Nguyễn Tuân khi đến tận Phần Lan bên trời Âu mới thấy thật thèm phở và viết về phở mà ông đã "đụng chạm" mỗi ngày hay đến như vậy!

Gần đây nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có viết nhiều bài rất hay liên quan đến mì Quảng. Cũng là một phần do đi xa quê mà nhớ một món ăn tuổi thơ nên mới viết được như vậy. Ông Ánh lại viết rất chân thật về chuyện chủ quan của mỗi người khi bảo vệ một món ăn mà mình yêu thích. Điều này, nhà văn xứ Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng rất minh bạch: "Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hóa hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa, cứ phải giống y như người xưa, và mọi ý đồ cải tiến đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên đồ giả" (Chuyện cơm hến). Nếu tác giả bài báo này nhớ không lầm, thì cả Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều phản bác chuyện phở mà không phải là phở bò! Âu đó cũng là chỗ gặp nhau của các nhà văn...

Nếu như ai đó trong chúng ta từng có lúc nhịn ăn vì… giữ ý, chịu uống do… cả nể, thì Xuân Diệu thực sự là một tấm gương - một tấm gương không dễ noi theo. Bởi, khác với các nhà văn, nhà thơ, trong việc này Xuân Diệu không hề “sĩ diện”.

Nhà thơ Xuân Diệu.
Nhà thơ Xuân Diệu.
Với ông, có ăn thì mới có sức khỏe, mà có sức khỏe mới đủ sức “đương đầu” với công việc sáng tạo vốn dĩ được coi là rất nhọc nhằn, khổ ải. Nhà văn Tô Hoài quả là tinh tế khi nhận xét: “Tôi có cảm tưởng Xuân Diệu ăn uống chẳng bao nhiêu, nhưng ăn cố. Không phải Xuân Diệu ăn, mà một người nào khỏe lắm gắp hộ, nhai hộ”.

Nhà phê bình văn học Nguyên An từng kể lại kỷ niệm lần đầu ông được diện kiến Xuân Diệu. Hôm ấy, ông “bám càng” nhà thơ Hồ Khải Đại. Mấy thầy trò ngồi hàn huyên được một lúc thì đến giờ ăn trưa.

Hẳn vì cuộc gặp không hẹn trước nên Xuân Diệu cứ điềm nhiên sinh hoạt theo lịch trình thường nhật của mình. Nhà phê bình Nguyên An nhớ lại: “Đã trưa, Xuân Diệu bê ra một cái khay có hai cốc nước lọc trong suốt, mát lạnh với hai cái bánh xốp mời chúng tôi.

Còn ông, ông xin phép ngồi ăn riêng ở góc phòng: một cốc sữa, một lát giò, một cái bánh mì, và hình như còn một quả trứng luộc với vài quả dưa chuột nữa thì phải. Ông ăn và uống, hối hả, hì hụp như không còn có chúng tôi đang có ở trong phòng”.

Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn (trong sách Cây bút đời người - NXB Trẻ, 2002) cũng phát hiện ra thái độ khác thường trước bữa ăn của Xuân Diệu: “Giả sử ngồi bên mâm cơm cạnh tác giả, ta sẽ thấy ở Xuân Diệu vừa có cái sung sướng của trẻ nhỏ, thấy cái gì cũng ngon cũng bổ, cũng muốn ăn thêm một chút, để cho khỏe cho lớn thêm” và Xuân Diệu “biết ăn như thế nào thì đủ chất và có lợi cho mình nhất”.

Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh (trong sách Xuân Diệu thơ và đời - NXB Văn học, 1995) thuật lại lời trần tình của Xuân Diệu: “Có tài không đủ, phải có sức nữa. Đêm nào mình định viết một cái gì đấy, buổi chiều thế nào cũng phải mua vài lạng thịt”. Cũng theo Nguyễn Đăng Mạnh, Xuân Diệu là người luôn “tính toán ăn cái gì bổ hơn mà rẻ hơn”.

Nhà thơ Vũ Quần Phương kể với tôi: Trước đây, anh thường được nghe chuyện Xuân Diệu về các địa phương bình thơ, ông hay hỏi người mời đã chuẩn bị cho bữa ăn của ông như thế nào, có những món ăn gì? Thấy lạ, Vũ Quần Phương đem chuyện hỏi bậc đàn anh, thì được Xuân Diệu thừa nhận là có thật.

Và Xuân Diệu lý giải, đại ý, lương của ông không phải nuôi ai, nên ở nhà ông rất chăm chút cho bữa ăn. Bây giờ, đi công tác xa, dài ngày, mệt mỏi, nếu người ta không chuẩn bị cho ông ăn uống chu đáo, thì ông đi làm gì cho… hại người.

Vả chăng, họ chuẩn bị bữa ăn thế nào, cứ nói thẳng, để ông còn liệu. Cần thiết thì ông đưa thêm tiền cho họ đi chợ. Theo Vũ Quần Phương, về việc ăn uống, khác với Nguyễn Tuân nặng về yếu tố văn hóa (ăn để thưởng thức), Xuân Diệu chủ yếu ăn là để “nạp năng lượng”.

Có nghĩa là ông không chú trọng ăn cho… ngon mà là ăn cho “đủ chất”. Ví như với trứng gà, mặc dù tanh đến mấy ông cũng húp sống chứ không thích luộc chín, vì ông quan niệm rằng ăn như thế nhiều prôtit hơn.

So với nhiều người, Xuân Diệu thiệt thòi là không có được một gia đình riêng. Việc ăn uống, nội trợ hết thảy đều do ông phải tự lo. Thành thử trong đời, ông đã mất khá nhiều thời gian cho việc suy tính “rẻ mà bổ” này.

Sinh thời, Xuân Diệu từng tiết lộ: “Muốn viết được đều đặn phải có vật chất bồi dưỡng”. Về việc này, nhà thơ Vũ Quần Phương đã kể một chuyện vui: Một lần, Xuân Diệu vẩy bút mãi mà không ra thơ. Ông bèn đạp xe đến chợ Hàng Bè mua thịt chó. Có được món ăn “giàu đạm” này rồi thì cũng là lúc thi nhân… làm thơ được. Ông cười hà hà, bình phẩm: “Đấy, có phải “bí” thơ gì đâu mà là do mình ăn uống… thiếu chất”.

Nhân nhắc đến thịt chó - món “khoái khẩu” của Xuân Diệu, nhà thơ Chử Văn Long cũng cho biết: Một lần, Xuân Diệu mua một đĩa tú ụ thịt chó luộc và buộc anh phải ăn hết vì “thịt chó không để lại được mai, mất ngon…”.

Sợ ông anh quở trách, nhân lúc Xuân Diệu bận nghe điện thoại, Chử Văn Long đã bí mật san vợi đĩa thịt ra tờ giấy báo, cất để dành cho một người bạn. Khi quay trở vào, trông thấy đĩa thịt vơi nhiều, Xuân Diệu mừng lắm.

Và Chử Văn Long kết luận: “Dưới cái nhìn của Xuân Diệu ai cũng vêu vao ai cũng thiếu đói, nhất là những cây bút trẻ mà anh từng gặp” và vì thế mà “anh thường khuyên họ hãy lo lắng đến bữa cơm, manh áo cụ thể rồi hãy làm thơ”.

Ý kiến này hoàn toàn có cơ sở. Ông chính là tác giả của hai câu thơ trứ danh: “Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt/ Cơm áo không đùa với khách thơ

Thịt cầy - Món ăn vương nhục

Thịt cầy từ lâu được phong là món “vương nhục” (vua của các loại thịt), sẽ là quá phí phạm nếu bạn chưa một lần nếm thử. Bất kể hàng quán sang trọng hay lề đường bình dân, thịt cầy luôn đặc trưng với vị dai, sừn sựt, béo ngậy ăn kèm với lá mơ, mắm tôm, rau húng quế, lâng lâng cùng chút men sẽ làm tiêu tan phiền muộn của một ngày.

Thịt cầy có từ khi nào?

Ngoài cái tên thịt chó thì nhắc đến thịt cầy ai cũng biết. Bởi lẽ, xa xưa thịt cầy hương dòn, thơm, ngọt, chữa được nhiều bệnh nên bị săn lùng đến mức khan hiếm nên người ta nghĩ đến kế lấy thịt của các loài động vật khác giả thịt của nó và chó là món giả được thịt cầy giống nhất. Tên dân gian con cầy cũng được đặt cho con chó từ đấy.



Dần dần ở làng quê phía Bắc, món thịt cầy không thể thiếu ở các đám cưới hỏi, ngày giỗ, thậm chí là đám ma. Miếng thịt cầy làm cầu nối gắn kết tình làng nghĩa xóm giữa những tiếng nói cười, cụng ly ồn ào. Người Việt ở phía Bắc đã ăn thịt cầy  từ ngàn năm nay nhưng chỉ đến những năm 30 – 40 của thế kỷ trước thì những quán thịt cầy mới có mặt ở Sài Gòn, và cũng chỉ bó hẹp trong cộng đồng những người Bắc vào Nam lập nghiệp, làm thuê làm mướn.

Ngày nay, Sài Gòn đã là nơi chung sống của người dân nhiều vùng miền nên thịt cầy cũng ra sức nở rộ. Người ăn thịt cầy cũng không phân biệt vùng miền nào, ai thích uống rượu, thích món ăn vừa khoái khẩu vừa bổ dưỡng thì tìm đến nó.

Món khoái khẩu từ chó

Tiêu chuẩn cầy ngon phải có độ tuổi từ một năm đến một năm rưỡi, còn trên hai, ba năm thì thịt cứng và dai. Cầy có màu lông bạch sẽ được ưa chuộng nhất vì thịt ngon, ít mỡ, nạc mềm nhưng lại hiếm.



Khi thưởng thức các món từ cầy thì rượu nếp có lẽ là thích hợp hơn cả bởi vị tê cay của nó không đủ át mùi vị của món ăn, các món ăn thì đằm sẽ đưa hương rượu lên cao, làm bật lên hứng thú của bất kỳ ai.

Thịt cầy thường được chế biến thành các món đa dạng như: thịt luộc, dồi nướng, lòng hấp, thịt nướng, xáo măng (biến thể là lẩu), tái áp chảo. Ta thường thấy khái niệm “thịt cầy 7 món” nhưng đó chỉ là con số tượng trưng mà bao nhiêu món thì tùy thuộc vào tài nghệ biến hóa của người làm. Sau đây là một số món đã đi vào danh mục truyền tai nhau của giới sành ăn cầy.

Ăn Thịt Cầy

- Bữa nay mấy đứa nhở dzìa đông quá, Bảy đâu, con bắt con gà mái, đem vô xóm trong đổi con Cầy dzìa làm một bữa cho tụi nhỏ ăn chơi.

- dzà, má chuẩn bị nước và đồ gia vị sẵn ở nhà nhen

Lũ trẻ chúng tôi nhao nhao như một ngày hội làng, món thịt chó ở tỉnh thành là món nhậu cho các bậc mày râu, nhưng ngày ấy ở quê tôi là một món ăn khoái khẩu cho mọi người, nhất là cho đám trẻ thiếu thốn thịt thà , chả gỏi...thường xuyên của chúng tôi là cả một niềm vui và nhất là được chứng kiến cái hoạt cảnh săn lùng chó và tiếp theo là hành quyết chó...

(Câu chuyện dưới đây tôi chỉ kể lại cho các bạn nghe chơi, nó đã xảy ra lâu lắm rồi, thời gian của mấy chục năm về trước, và xảy ra tại Việt Nam, ở tận quê tôi..)

Cậu Bảy tôi đi trước, tay cầm cái bao bố mỏng và sợi dây thừng cũ, tôi lẽo đẽo theo sau, tay ôm con gà mái , chân được buộc bằng sợi dây chuối khô...vài đứa nhỏ khác chạy theo chơi.

Chúng tôi đi sâu vào xóm trong, băng qua đường rây xe lửa...đi đến đâu cũng nghe tiếng chó sủa râm ran, những tiếng sủa từng cơn, kéo dài và đứt khúc vì chúng vừa sủa vừa lùi vào bụi cây, góc sân, cà giựt, như tiếng hậm hực, tức tối và ghét bỏ...những âm thanh này càng lúc càng to dần và rầm rộ...

Chó là giống vật tinh khôn và rất có nghĩa có tình, biết có người sắp vào mua bán đồng loại , anh em, tộc họ nhà chúng, nên bảo nhau chạy trốn, hay tấn công lại đám người này..

.Đi qua mấy nếp nhà sâu bên trong các bờ rào bằng duối, cắt tỉa thẳng nếp, sạch trơn, sân đất dẽ cứng , bờ giậu quanh co...những ngôi nhà mái lá ba gian, đống rơm, bụi chuối, vun cao sạch sẽ...những ngôi nhà ở đây gần giống nhau, sạch sẽ tinh tươm, trước nhà có bờ rào che chắn...Mỗi lần đi qua mỗi căn hộ, cậu tôi hỏi vọng vào :

- Có chó đổi gà không bác ơi...

Đáp trả là tiếng chó sủa vang rền, làm át đi câu trả lời của chủ nhà...đi quanh co một chặp chưa đổi được món hàng, chân mỏi mắt hoa vì sức nặng của chị gà mái...tôi ngồi bệch xuống gần mé ruộng nghỉ chân.

Một đứa bé trai cỡ tuổi tôi, từ xa chạy lại báo tin là nhà anh trai nó cuối lũy tre, có chó muốn đổi gà...Tôi bật dậy như cái lò xo, được bung ra khỏi chỗ...

Ngôi nhà tranh , tường đất, nằm ké bên một ngôi nhà vững chãi hơn, chung vườn, nhưng cách xây thô sơ và tạm bợ...chứng tỏ chủ nhân là đôi vợ chồng mới ra riêng, mọi vật dụng trong nhà còn ít ỏi và trống trơn.

Tiếng chó sủa nhỏ dần và yếu hơn lúc chúng tôi mới đến, chủ nhà muốn đổi một con chó vện lấy con gà để ngày mai hai vợ chồng về nhà vợ ăn giỗ mà chưa có gì đem về cúng kiếng, nhà lại nuôi ba con chó, cũng không có gì cho chúng ăn no đủ nên phải hóa kiếp cho chúng...

Sau một hồi, chờ đợi và hồi hộp vì không biết là chủ nhà và cậu tôi làm cách nào mà con chó vện bạc phước đã nằm gọn trong bao cậu tôi, trao con gà cho chủ nhà, tay chân nhẹ nhỏm, tôi ra sau xin gáo nước, trong tiếng thét gào của hai sinh vật còn lại, chúng giật lùi ra góc vườn, sủa từng cơn thống thiết, ai oán và hận tủi....

Trên đường về, bọn chó trong các xóm nhà lại tiễn đưa chúng tôi bằng những trận sủa dữ dội và phẩn nộ, nhưng cũng không dám tới gần chúng tôi, có lẽ vì ngửi thấy mùi của sợi thòng lọng mà tôi đang cầm trên tay, mềm mại nhưng vô cùng nguy hiểm và độc địa...

Cậu Chín tôi ở nhà đã chuẩn bị xong phần gia vị và đang gom một mớ rơm khô, một nồi nước lớn đang có sẵn trên bếp giữa sân...Tất cả chúng tôi tiến về phía bờ sông Tân An, trên con đường đi hành quyết chú chó vện trong bao, nó đang rít lên mấy tiếng kêu nho nhỏ, rền rĩ và đứt quãng...có lẽ vì biết phần số nó đến đây là cạn kiệt, không còn phương chạy thoát, kinh nghiệm những lần trước vì miệng bao không cột chặt, con vật tung khỏi hiện trường chạy mất tiêu...

Lần này chắt như bắp, cậu tôi dùng sợi dây dù thít lại kín bưng...Chúng tôi ngồi nghỉ chân trên bãi cát, công việc tiếp theo của sát thủ, cậu Chín tôi xử tiếp....Những tiếng rên ư ử , nhỏ dần và tan biến, sau mấy cơn quẫy đạp trong vô vọng, sinh vật trong bao, im dần và thoát kiếp...làm thân chó ở một nhà nghèo quê tôi, cũng không có gì sung sướng, chủ nhân nó còn không đủ cơm ăn, còi cọc và xanh xao , làm sao nó có được bữa no lòng, chúng phải tự cải thiện cho cuộc sống còn bằng những kiếm tìm vật thãi của con người, hay những gì có thể kiếm được, cũng chua lắm, con người còn chưa đủ no lòng, huống chi là vật nuôi...

Ở quê tôi ngày ấy cứ một cặp vợ chồng mới cưới, sau khi ra riêng, dựng nhà bên một góc vườn hay miếng đất bờ cao, cha mẹ chia cho, cái chõng tre, mớ nồi niêu , chén bát và mái gà, con chó con đi kèm, là cả một gia tài bé mọn ...con gà mái đẻ trứng gây bầy đàn, tương lai thành con gà đẻ trứng vàng...con chó con mai mốt thành vật giữ nhà và giải quyết vấn đề vệ sinh cho con trẻ...

Lôi từ bao ra, con vật còn thở thoi thóp, cái miệng há ra, trơ hai hàm răng nhọn, có lẽ nó muốn nhào ra cắn xé mấy con ngưới ỷ đông hiếp yếu, nhưng sức tàn, hơi thở chỉ còn thoi thóp vì bị trấn nước hồi lâu, cái bụng ong óc, lúc nó còn ở nhà nó tôi nhác thấy còn xép ve, không chứa gì bên trong mấy mà giờ căng phồng.

Cậu tôi dùng con dao Phay đã mài bén ngót, đâm vào cổ con vật đang thoi thóp, cặp mắt nó trợn ngược, ai oán ....Tôi không dám nhìn thẳng, nhưng tính tò mò thôi thúc, những giọt máu đỏ tinh khôi, hòa vào tô nước đã được pha chế theo liều lượng cho món tiết canh...máu hòa với nước cho thấy một màu đỏ tươi, sóng sánh và tươi tắn, chút nữa đây món nhậu của mấy ông , mát trời ông Địa với một bát máu cùng công chế biến, làm nên một yến tiệc với mấy lít Bầu đá là thấy cả trăng sao...

Sau khi đã cắt lấy những giọt máu cuối cùng cho vào cái bát riêng để làm món giồi chó, hai cậu tôi, xối nước cạo lông, con vật trắng trẻo, trơn tru, mịn màng như thiếu nữ đang xuân, đến công đoạn Thui cho vàng ruộm lớp da ngoài bằng cách xông khói và nướng trên lớp rơm khô...một công trình mỹ mãn....

Con vật trở nên vàng óng, mượt mà và bốc mùi thơm của thịt da cháy sém, hình ảnh này thấy đã bắt đầu hấp dẫn., đã có vài người ứa nước miếng vì bụng đã cồn cào.

Chúng ta thường thấy bày bán ở chợ Ông Tạ, những con chó vàng ruộm, miệng há to, đuôi ngắn dài, cong vút, máng trên những cái móc sắt xuyên suốt và lủng lẳng, phơi giữa chợ, trên lối đông người, Chợ Ông tạ, nơi tập trung những cửa hàng Thịt chó, người ta đến mua bán như những món ăn bình thường, dân dả,và thân quen.

Nhưng đàng sau là công trình nấu nướng bài bản và tinh xảo, với món này mà không biết chế biến đúng cách , không đầy đủ gia vị là kể như mất đi cái hương vị đặc trưng của nó : Củ sả, củ riềng, tỏi , hành, mẻ, lá mơ và mắm tôm...vài gia vị khác, chế biến thành nhiều món lắm, nhưng phải thật tinh xảo và đúng điệu.

Qua bàn tay chế biến khéo léo của các cậu tôi, những món mà tôi ưa thích nhất là món sườn nướng, những miếng sườn mỏng dính với gia vị thấm đẫm và nướng vàng ruộm trên bếp lửa hồng, với món giồi nhỏ xíu chèn bên trong là đậu phộng rang vàng với tiết và gia vị là lá Thủ Địt, hay còn gọi là lá mơ, những chiếc lá leo kín rào với lớp nhung óng ả, những chiếc lá bình thường bên rào giậu, nay đã lên ngôi ở những bữa nhậu, bên món ăn khoái khẩu mà chúng tôi có được ngày ấy...Chúng tôi được một bữa phủ phê, hai má bóng loáng vì mỡ màng và no đủ...

Sau này khi đã có chồng, mỗi lần tôi mang thai, mẹ tôi vẫn cố tìm cho được một vài món thịt Cầy mà ngày xưa tôi ưa thích, ép tôi ăn trước lúc sanh nở , người cho rằng : Cho đứa nhỏ được thông minh lanh lợi như con Chó, đồng thời đem cho tôi một con chó con vài tháng tuổi, cho tôi làm vật nuôi cho có bạn trong nhà và giúp tôi thu vén vệ sinh cho con trẻ...Sau này kể lại chuyện này cho con tôi, chúng đồng thanh kêu lên mấy tiếng : Eo oi, khiếp quá...

Những cái mà bây giờ kể lại nghe chết khiếp mà đó chính là một triết lý mà tôi chiêm nghiệm cả đời về cách nghĩ mộc mạc của những con người chơn chất quê tôi, đại biểu là Mẹ tôi..

Họ chỉ mong cháu con thông minh chơn chất, có tình có nghĩa như con cầy...và nếu ai cũng có được bản chất này thì xã hội sẽ ra sao nhỉ ???

Những năm sau này, tôi rời xa quê nhà, không còn được thưởng thức những món ăn khoái khẩu ngày xưa, những yến tiệc của một thời tuổi nhỏ...

Thỉnh thoảng tôi về nhà, Anh họ tôi là anh Tuấn, hay rủ cả mấy anh em đi nhậu Thịt Cầy ở cái quán trong một hốc hẻm trong Khu 6, bây giờ chúng tôi, không còn thích ăn món này như xưa, nhưng vì để nhắc lại cho nhau những kỷ niệm của những ngày xưa bé...

Cái quán thật tạm bợ, trong căn nhà nhìn thấy cà trăng sao, chủ quán là một cặp vợ chồng người Bắc, vào nam sinh sống và dùng cách chế biến từ miền Bắc, chính là cái Nôi của món Cầy Tơ, lá mơ và mắm tôm...là những từ họ đưa vào, thực chất quê tôi là đơn giản chỉ là Thịt Chó và Lá Thủ Địt dính liền...

Chế biến ngon lành và điệu nghệ, ông chủ ngồi xắc thịt bên cạnh thưc khách, có khi đang xếp thịt vào đĩa, lại dùng tay gãi tứ tung, mọi ngõ ngách thấm đẫm mùi riềng mẻ, thậm chí hỉ mũi cho đứa bé lên ba chạy vào xin bố miếng dồi đang xắt cho thực khách, hình ảnh làm ấm lòng thực khách phương xa...

Tôi xin ra sau để làm chút việc riêng tư, tiếng tru nho nhỏ, tiếng ậm ừ rên rỉ, tiếng cắn xé nhạt nhòa, tò mò tôi nhìn vào chiếc lồng bằng sắt đang có bốn năm sinh mạng đang chực chờ hóa kiếp...mắt tôi nhìn thấy một con vật, nửa chó nửa sư tử...Bộ lông chèm nhẹp, chỗ mất chỗ còn, bên dưới lớp da đỏ sần mưng mủ, hai cái tai không còn chút lông mà sưng tấy và thấm đẫm máu và nước,..mủ xanh sưng tấy...

Nếu con vật này được nhìn thấy từ xa, chúng ta ai cũng giật mình, hoảng sợ...nó đang nằm đây, chờ dâng hiến xác thân cho những thực khách đang hoan hỉ bên ly bia , chén rượu...những tiếng dzô..dzô, những miếng mồi thơm tho trơn tuột qua từng cổ họng, trong đó có tôi...đang cuộn trào theo dòng chảy cuộc đời.

Tôi nghe vị đắng trào ra từ cổ họng, ruột trên dạ dưới chuyển động ba đào...nước mắt, nước mũi trào ra, mồ hôi tuông ra như tắm...tôi bị trúng gió nặng mất rồi và kêu xe xích lô chạy về nhà trốn mất tiêu...

Mấy ngày sau miệng vẫn còn đắng nghét....Giã từ món ăn khoái khẩu của những ngày tuổi nhỏ, cho đến tận bây giờ, mỗi lần nhớ về cái kỷ niệm của chuyến về thăm quê và cặp mắt nhắm nghiền của con vật trong chiếc lồng sắt., tôi cảm nhận như có cả giọt nước long lanh chảy xuống lớp da sưng tấy.

.Bụng dạ tôi lại cuồn cuộn những mật xanh , mật vàng...khi mỗi lần nghĩ đến.

.Nhưng dù sao cũng thán phục cho bàn tay Phù thủy của vợ chồng người chủ quán, bây giờ cái quán tạm bợ ngày nào đã trở thành một quán nhậu mấy tầng lầu cao, không biết mấy con chó ốm bây giờ vẫn nằm trong lồng sắt hay theo chủ mà được nằm chốn lồng son...

Quê Tôi Mùa Lũ

Viết bởi Nguyên Hạ - Lê NguyễnChủ nhật, 05 Tháng 12 2010 19:49

Những trận mưa không dứt trút xuống nơi này một cách dai dẳng, cuồng nộ nhưng bình yên, êm ả, không làm se sắt da thịt như những ngày tuyết phủ, cái lạnh như òa vỡ khi cơn mưa úp chụp xuống vạn vật, mấy cành thông ngã ngửa ngã nghiêng, vươn dài trên lối đi về như nàng vệ nữ xoãi dài gót chân khi kết thúc một bản tình ca êm ái.

Dòng xe cộ lũ lượt lách ngang thân những nhánh cây gãy gục, tôi kéo nhẹ kiếng xe cho gió ùa vào thảng thốt, hít một hơi dài chút gió cuối Thu có pha chút hương tình nhắn gởi của gió Đông đang chạm ngõ buổi chiều cuối Thu.

Phố xá chiều nay vẫn hiền hòa câm nín, không rộn ràng như buổi ban mai, không chói chang như buổi trưa mùa Hạ, chỉ là những giọt mưa thấm đẫm của đất trời gởi gấm cho những cội hoa trong vườn nhà ai có thêm chất nước mát thấm đẫm dự trữ cho mùa đông giá sắp đến, những giọt nước đầm đìa trôi tuột vào các ngõ ngách của những con đường, lau sạch những bụi bậm của đời thường, chuẩn bị đón chào những Bông Tuyết yểu điệu, những bông Tuyết lông ngỗng sẽ bay bay trong không gian ẩm đục và nhẹ nhàng đáp trên bãi cỏ như làm đẹp thêm cho những chiếc lá Thu vàng đang chờ màu trắng về pha chút hoang sơ.

Ba ngày nay trời mưa to, lúc sụt sùi, khi cuồng nộ, những chiếc xe vẫn âm thầm vút nhanh tìm về mái ấm, những cửa hiệu vắng tanh, những chợ búa vắng tiếng chân bước rộn ràng.

Ngày mai thì cảnh vật nơi đây lại tưng bừng, bờ cỏ lại thêm xanh, những cành cây nằm xoãi dài trên con lộ sẽ được thu vén trước buổi sáng, chúng sẽ được bỏ vào những chiếc xe bít bùng và bị nghiền nát ngay khi lìa khỏi mặt đất, mọi vật lại bình yên, phố xá lại đông vui.

Pha tách cà phê nóng, tôi ngồi nhìn mưa rơi xứ người mà chạnh nghĩ những cơn mưa xứ mình mà tôi đã nhìn thấy nơi quê nhà của những ngày xưa cũ.

Ba bốn ngày liên tiếp, những cơn mưa dằng dai tiếp nối, mặt nước sông trước ngôi nhà tôi đang ở trọ để đi dạy học khi mới ra trường.

Màu nước vẫn trong xanh hôm qua nay bỗng biến thành màu đỏ ối, đục ngầu, sau hai ngày đêm mưa to gió lớn, những mạch nước như vỡ òa liếm vào soi bắp đang thì đong trái, những nước là nước mấp mé ăn sâu vào đám ruộng, mấp mé soi bắp trên đồng.nhấn chìm rẫy khoai đầu ngõ.

công việc đồng áng của những người dân quê tôi vẫn chậm chạp, tiếp nối, những học trò của tôi vẫn cắp sách đến trường, những chiếc áo tơi lá kết thành những tầng chen chúc nhau như một chiếc nấm dài vẽ vụng, nhấp nhô sũng nước trước cửa lớp học, tiếng râm ran ôn bài của những trò đến trước, những môi xanh tái nhợt, những hạt nước mưa còn vương lên tóc các em, những môi tím tay run., những chân đất bấm bùn đen khi đến lớp, lặng nhìn các em niềm thương cảm ngập tràn qua từng hơi thở vội.

Bài học của cô trò chúng tôi vẫn tiếp nối, một sự chờ đợi không tên, tưởng như bình lặng như tất cả mọi ngày và đều diễn ra như thường lệ nhưng tất cả đều cuống quít, vội vã hơn.

Tôi trở về nhà trọ cùng đứa học trò con bác Tám chủ nhà mà tôi đang ở trọ

_Cô giáo không chuẩn bị về thành phố sao ?

_ Dạ, tôi còn chờ lệnh phòng giáo dục, hôm nay mới là thứ Tư

_ Đâu cô coi gói ghém đồ đạc có chuyến xe cô nên về sớm, coi bộ trận mưa này sẽ kéo theo cơn lũ lớn hơn mọi năm đa cô.

_ Dạ, nhưng chắc cũng chờ sáng mai coi có chỉ thị thì trưa cháu về cũng không muộn.

_ Chiều nay cô giáo đững nấu cơm, tụi tui xin mời cô dùng với gia đình tui bữa cơm trước khi cô về thành phố, hôm qua tui bắt được con cá chép to mắc kẹt trong kẹt đá sau mé sông.

_ Cám ơn bác Tám

Đứa con gái út của bác Tám là đứa học trò nhỏ của lớp tôi chủ nhiệm, chạy lăng xăng giúp tôi thu vén đồ đạc, Cả nhà lo chuẩn bị gói ghém đồ đạc, thức ăn và những đồ dùng cần thiết, bác Tám trai thì lo cho hai con trâu, bầy heo trong chuồng, đàn gà và những thực phẩm phải mang theo, phòng khi nước lên đột ngột phải di chuyển tất cả lên đường rầy xe lửa là nơi cao ráo nhất trong làng.

Tôi còn nhớ mãi bữa cơm chiều hôm ấy, bên nồi cơm bốc khói, con cá chép bằng cổ tay người lớn được chiên sơ kho chung với cải chua, một chén mắm tép màu hồng sẫm có pha thêm muối trộn với đu đủ xanh bào nhỏ, nồi canh tập tàng hái sau vườn trong mưa bão bầm dập không cần bóp nát vẫn bốc hương thơm ngát, nêm với chút mắm ruốc, nhưng sao vẫn ngon quá là ngon, tôi nhai những miếng cơm đậm mùi ân nghĩa, những miếng cá vàng ươm vì màu nghệ cứ dập dồn vào chén của tôi, những cử chỉ làm mắt tôi cứ muốn cay sè, không vì chút ớt hiểm trong nồi cá đồng kho thấm đẫm mà vì chút tình mà gia đình họ đã ưu ái cho tôi.

Sau bữa cơm chiều, con nước từ đâu ào về trong chớp nhoáng, bác Tám xếp cho tôi và đứa con gái út của bác ngồi trên nóc cái chạn bằng gỗ mun, vật quí của nhà bác qua mấy đời để lại, vững chãi và chính giữa nhà.

Ngồi trên nóc chạn nhìn thấu xung quanh, mênh mông biển nước, nước ngập vội vàng, tràn đồng, mất ruộng, hoa màu, cỏ cây, nhà cửa chìm khuất, nhấn chìm trong nước lũ mênh mông, những con nước đổ về cuồng nộ, sự hung dữ của đất trời ập xuống chốn sinh linh, con người lúc ấy thật quá nhỏ nhoi, sự sống và cõi chết chỉ trong gang tấc.nước mãi miết dâng cao.

Mưa vẫn từng hồi tiếp nối, mây vẫn vần vũ tứ phương, những cánh đồng nước ngập đục ngầu, tôi quan sát cái chạn mỗi giờ đi qua gần chạm mặt nước, hơi nước xông lên thấm buốt thịt da, túi quần áo sách vở gói chung với mấy chồng giáo án, chút nữa đây nước dâng cao...một thước, hơn rồi một thước rồi lại hơn vào thêm mấy tấc, thời khắc của đêm đen sẽ cuốn tung như chiếc rễ của một thân cây cố bám sâu vào lòng đất, nhưng nước lũ tràn vào bật tung gốc rễ.thật thế sao ?

Chiếc chạn gỗ mun đen nào phải có phép mầu, tôi len lén nhìn sang chỗ bác Tám đang ngồi trên mấy mảnh cây chuối ghép thả lềnh bềnh trên biển nước, ướt sũng lạnh run, bác đang theo dõi sự di chuyển của nước qua từng gốc cây, nhìn hớt hãi qua tường nhà bên cạnh...Tôi nhận biết trong bác sự lo sợ ngập tràn, nỗi lo sợ cho mọi người xung quanh hơn là lo cho bác.

Sự hung dữ của đất trời rồi cũng đến kỳ êm dịu, mưa đã dịu dần và nước cũng sẽ rút nhanh.

Hai cô trò ôm nhau ngủ gục trên góc chạn,...Bỗng giật mình vì những tiếng xôn xao,những cơn mưa cuồng nộ bắt đầu ngưng dần vì mỏi mệt, nước không còn bộn bề dâng mãi thôi dâng...trời ráo hoảnh, như người qua cơn vật vã khóc than, đang lau vội mấy giọt buồn còn sót lại.

Chúng tôi ùa ra sân với những bùn non bễn sệt, tri trét khắp nhà ra ngõ trước nhà sau, nước rút...thật kỳ lạ, tối hôm qua nước đang còn mênh mông, đấy ăm ắp như tràn đồng rồi kéo theo tất cả ra biển lớn.

Vậy mà chỉ một giấc ngủ chập choạng quên tăm tối quên gian nan, phú tất cả cho Thiên thời Địa họa .

Ánh sáng buổi ban mai đang nhấp nhô nơi đầu làng cuối ngõ, căn nhà nào cũng ngập ngụa trong đám bùn non đặc sệt, mọi người lo soạn lại những đồ vật trong nhà, nạo vét đám bùn non bễn sệt, nhão nhoẹt trong nhà , tôi kỳ cọ chiếc bàn con bên trong cánh cửa, khi nước về làm sứt một hai chân.

Ngoài vườn bác Tám, đang uốn lại những đám hoa gãy đổ trong vườn, những bụi chuối oằn mình tróc gốc, bác Tám chặt mang vào cho bác gái xắt nhỏ muối chua làm món ăn mỗi ngày cho những ngày ngồi chờ nước rút.

Tôi nhớ mãi những bữa cơm ngày ấy, gốc chuối muối chua ăn với nồi canh thu đủ đẹt nêm chút mắm ruốt thêm muối hột trắng ngần, bên nồi cơm bốc khói ngát hương , tôi góp mặt đưa chén bới hoài mà không thấy thẹn .

Hai ngày sau nước cạn khô nơi đầu làng cuối xóm, bác Tám lấy chiếc xe đạp đòn giông chở tôi ra Truông Bà Đờn để tôi đón xe về phố thị, bác nhét vào tay tôi gói cơm nếp trắng tinh, gói tinh tươm trong miếng lá chuối vuông tròn, mà hừng sáng bác gái đã vội vàng trên bếp lửa.

Ngồi trong xe trên chuyến xe đời chật chội, tôi ngậm ngùi nhai từng miếng nếp thơm, thoảng chút hương của hạt đậu đâm nhanh, ngọt đắng, ngon bùi sao nhai hoài mà chưa nuốt vội...

Thương thương lắm chút tình yêu thương của hương đồng cỏ nội, chuyến xe đời tôi chở mãi chút tình thâm.

Buổi chiều nay ngồi nhìn những hạt mưa tuông nơi xứ lạ, mưa vẫn âm thầm rơi rả rích tận ngày qua, những hạt mưa xứ người bỗng làm thức dậy trong tôi, miệng đắng nghét muốn ăn vài bát cơm với gốc chuối già làm dưa ngày ấy, thèm khứa cá kho gắp bỏ nhau mấy bận, thèm nắm xôi thơm thắm chút tình nồng, thèm thèm lắm nồi canh thu đủ đẹt nêm chút mắm hồng hồng như giọt nước mắt ai. Không biết bây giờ nơi xứ sở tôi, vẫn còn đủ những cơn mưa mùa lũ .

Sương lam phủ che mờ khói bếp
Gió hanh khô giấu giọt mưa tuông
Canh khuya thức ngọn đèn chao đảo
Quê hương tôi mùa lũ cứ trào

Mắm Cua Mùa Lụt

Viết bởi Nguyên Hạ - Lê NguyễnThứ sáu, 12 Tháng 11 2010 13:53

tặng Mẫu Đơn

Hàng năm cứ vào tháng chín tháng Mười, cái mốc từ ngày hăm ba tháng mười là quê tôi lại ngập tràn trong những con nước lớn, nước ngập tràn đồng chảy xuống tận Qui nhơn.

Tôi còn nhớ mãi những lời kể của Mẹ tôi, một người đàn bà nhà quê chơn chất, kể cho con nghe khi trời tối đêm về...

Những đêm nằm với các con , ba đứa con gái chập choạng cách nhau ba tuổi, sẽ bu quanh Mẹ những đêm trường gió chướng hay những đêm Đông giá lạnh , vẫn chung nhau một tấm chăn ghép nối tứ tung để tất cả sẻ chia nhau cái giá rét của đêm Đông hoặc chia ngọn gió mát đêm Thu nơi quê cũ hay chia phần chiếc quạt máy nhỏ cũ mèm trong những đêm Hè của những ngày còn bên nhau.trong những tháng ngày xưa cũ.

Vào những đêm Đông bốn mẹ con chia nhau hơi ấm của thịt da, cuộn trong chăn. lần tay bắt cho con những cái trứng chí thật nhỏ thật tròn, trên tay mẹ chuyền dần vào kẽ răng của người thiếu phụ ba mươi, Mẹ tôi đó, người thiếu nữ nhà quê cũng một thời xuân sắc, đã qua rồi với tay bế tay bồng...trong chuyện kể chuyền nhau qua ca dao hay chuyền miệng, có có, không không ... chỉ đủ để ru chúng tôi vào giấc ngủ mỗi đêm

Mẹ tôi thường kể... tôi chợt nhớ chợt quên vì thời gian nào xa lắm : Chuyện kể rằng trong một bối cảnh của làng quê...hai vợ chồng kia bỗng một đêm Trăng, đang chăn gối mặn nồng , bỗng dưng nàng đòi đi ra sân vì ...mắc tiểu, ngày đó quê tôi chưa bao giờ biết làm nhà tiêu, nhà xí, những góc vườn, sân trước sân sau, từng đêm rồi lại từng ngày, cuộc sống con người thản nhiên bên lũy tre bờ rạ... Khi người chồng ra ngoài thì đứng xa tuông xả, còn người vợ thì cho vào hang kiếng lửa giữa sân nhà , nước tràn vào hang kiến, kiến bỗng chui ra , từng đàn, từng lũ lại từng con...lời than oán của đàn kiến vừa lâm nạn, thở than bay bổng thấu tai ông Trời.

Chuyện kể rằng ngày đó con vật cũng biết thở than , buông thảng thốt mấy câu ngày nay còn ghi trên ca dao chuyền miệng:

Ông tha mà bà hổng tha
Dến cây nước lụt hăm ba tháng mười

Qua bao năm tháng nơi quê tôi vào ngày này bây giờ hay năm cũ...con chữ in sâu vào xoay chuyển của đất trời, chữ "dến" vận vào cuộc sống lao đao, những người dân quê tôi đồng gánh chịu, chuyện kể của Mẹ tôi chỉ là chuyện của những người bình dân chuyền miệng, nhưng cũng đã vận vào những cuộc sống đến tận ngàn sau, đôi khi tôi gẫm lại chữ "dến" và tìm trong kí ức lao xao, trong tự điển cũng không sao tìm thấy, nhưng chính nó đã đi sâu vào bờ tre gốc rạ , chuyện ngày xưa hòa lẫn chuyện hôm nay.

Những báo, đài, trên mạng, ngoài đời, tôi nhận hết và buồn lo biết mấy, hôm qua gọi về nhà thăm hỏi, nước ngập vào nhà lên cả gang tay, bì bỏm, dời đồ, chèo chống gió lay...tôi nhớ mãi những ngày xưa còn ở lại, cũng những ngày này của bao năm trước.

Khi nước ngập tràn đồng thì mọi người cùng nhau hết việc, mỗi nhà vét mấy lon gạo trong lu, ngâm xay bột , đổ bánh xèo , chấm với mắm cua , những lít mắm cua đồng san sẻ nhau qua nhiều công đoạn.cũng gian lao và cũng thật ấm nồng.

Khi nước ùa vào từng hang cua sâu thẳm, những con cua mình đen mẻm, đen thui, trôi lềnh bềnh trên con nước chảy xuôi, những cánh tay cua níu nhau trên ruộng đồng ngập nước, những chiếc sõng trôi lềnh bềnh hay những thân chuối vừa chắp vá, kết thành bè , đi vớt cua , bắt cá...cua mang về nhảy múa lao xao.

Những con cua đen, nâu, hay cua mén, là những con cua già hay cỡ tuổi Teen, cũng dùa hết bỏ mai rồi đem giã , lọc lấy nước cùng với những gạch cua vàng, đem bỏ thêm chút muối...đóng kín nút chai. Hai ngày sau biến thành cao lương mĩ vị,ăn thật ngon vào từng kẽ chân răng, vị mặn của muối hòa vào chút hơi cua, vị cay của ớt dính vào lớp gạch cua vàng chín đủ, nếu ai đã từng ăn mắm cua đồng thì mới nhận ra hương vị của chút mắm cua trong mùa nước lụt...thực phẩm, thiếu dần, bữa có, bữa không.

Nồi cơm nóng bên cạnh trã mắm cua kho củ sắn , .thời điểm đó mắm cua biến thành cao lương mỹ vị, còn tiếc chi nồi cơm trắng bỗng hóa không.

Những ngày nước ngập làng trên xóm dưới, lũ trẻ ngồi co ro trên giường trên phản, mắt hau háu nhìn từng con cua bò bò, cho đến lúc bỏ vào cối giã, loc lấy chút thịt thà lõng bõng nấu một nồi canh ngót hái sau vườn ...còn lọc lại phần ngon cho món mắm cua giữ lại những ngày sau, nước chưa rút kiếm đâu ra thực phẩm.Cứ mỗi ngày đàn trẻ mong cho đến giờ cơm dọn, lội nước suốt ngày thân đứa nào cũng xanh lè, ướt nhẹp, mỏi mắt chờ từng bữa cơm chia , kìa ...Điểm mong chờ đã đến rồi kia...

Mẹ tôi bắt lên kho , trên cái trã đất láng màu đen bóng mượt, sắc vàng tươi của chút gạch cua, ngát hương thơm của âm hưởng chút dư hương còn sót lại của hương đồng cỏ nội.và sau bao ngày .. nước rút.

Ôi những tô bún chan với mắm cua sao tôi ăn rất vội, ngó trước nhìn sau rổ bún hết sạch rồi, bụng đã no ,nhưng vẫn muốn xin thêm, một tô nữa là bốn tô vẫn còn chưa thấy đủ... Rồi bao tháng năm qua cứ mỗi mùa nước lũ, nước tràn đồng vẫn trên mãi quê tôi, tin nhắn về tôi vẫn hỏi chị tôi:

- Mùa nước lụt có còn mắm cua không hở chị ???

- Mùa nước lớn năm nay nhà mình sao hở chị? nước vào nhà nhưng còn dột nữa không???

- Chị coi chừng xung quanh mấy chỗ nằm, coi chừng dột, mai đi học mà không còn áo mặc...

- Đúc bánh xèo chị tìm con tôm nhảy, có hay không ???

- Em thích cái bánh xèo giỏ vừa trắng lại vừa mềm, ăn mấy cái cũng không cần đếm ,

- Nhớ gởi cho em vài ba chiếc ăn chơi, ôi ngon quá , em nhai hoài sao như mắc nghẹn.

- Nhớ gởi em thêm một" góc" mắm cua vàng, đã nấu chín bên lửa năm nào nha chị ...

Tất cả chuyện xưa chỉ còn là mộng mị nhắc bây giờ trong nỗi nhớ mênh mông...

* * *
Reng ....reng ...reng.

- Có phải em đó không ???trời mưa lũ nhà em sao rồi dzậy???

- Em Hoàng đây, nhà em trong ngõ hẹp, nước tràn vào chỉ mới ngập bàn chân.

Hỏi thăm em về mấy bạn xa gần, những Hiền , Hùng , yên, Kim yến, Bích Tiên, Hiếu Hòa, khánh Toàn, Việt , Đỗ thanh rồi lại Tuyết Nga...Hoàng nhớ nhắn dùm cô lời thăm hỏi, đó là tên những em cô còn nhớ được, chuyện bây giờ đâu còn như của ngày xưa.cho cô nhắn lời muộn màng thăm hỏi.

Nhớ khi xưa cũng trong lúc mùa mưa. khi nước lớn ,cô trò mình hay đi coi nước lụt, sao lúc đó cô vẫn thường theo các em trên yên sau xe đạp, cô vẫn thường để các em chở cho vui, đứa đạp xe , đứa phải kéo ghì , qua chỗ dốc sợ xe cô chỏng gọng...

Thương nhớ lắm những mùa mưa bên vườn sắn, guốc đứt, áo mưa tung vì gió lạnh lúc mưa tuông, những xâu củ sắn giòn, ngọt, trắng phau phau , bên bờ đất cùng chia nhau không ngại ngùng giành nhau chia mấy củ.

- Các em ơi sao quên đem muối ớt rầu.

Đứa này nhìn chỉ tại đứa kia.

- Không cần muối cũng ngọt ngon chi lạ.

Những học trò tôi, bây giờ đang thức ngủ??? có hay chăng giọt nước mắt ngắn dài, gởi về các em...những năm tháng đã nhạt phai, nhung nhớ lắm...nhũng ngày xưa mùa lũ.

Nhớ đến cô, thì xin các em trở về bờ nương cũ, tìm cho cô chút gió thoảng chiều mưa , hong khô lại tấm chân tình nhắn gởi...Tuy xa quê biết bao là hải lý , bao tháng ngày nung nấu chỉ Quê hương.

Ai từng bảo : Quê hương là chùm khế ngọt...Tôi bảo rằng :

Quê hương tôi là hạt cát vàng
Rơi vào mắt mà lau hoài chưa cạn

Tát Đìa

Viết bởi Nguyên Hạ - Lê NguyễnThứ sáu, 10 Tháng 9 2010 05:15

Trong sân nhà Ngoại tôi, hôm nay đủ mặt mọi người, huyên náo như sắp có đám giỗ lớn hay sắp có công chuyện gì quan trọng lắm. Tiếng cậu tôi phân công tác sắp tới.

- Ba đứa bay đứng trên bờ không được xuống nghen, giữ quần áo và cá.

- Bốn đứa bay thay phiên nhau tát nước.

- Còn con....còn con....còn... Những cái miệng nhao nhao lên xin công tác.

- Còn lại sáu người giữ không cho mấy người khác xuống ... Sau nửa tiếng mới cho "nẫu xuống bắt hâu "...

Hàng năm cứ gần đến ngày đám giỗ ông Ngoại là con cháu các nơi tụ tập về trước mấy ngày, đám giỗ ông tôi vào cuối tháng tám nên bọn trẻ chúng tôi chưa nhập học, về quê vui chơi thật là vui thú, hưởng trọn những ngày hè nơi thôn giã... Cái thú mà chúng tôi thích nhất là câu cá và cuối cùng của mấy ngày hè là "Tát Đìa".

Sau vườn nhà Ngoại có một hàng tre bao bọc và đàng sau hàng tre có một khoảng đất được đào sâu để giữ nước , mỗi lần về quê chúng tôi hay dùng cần câu nhỏ xíu máng vào một khúc trùn đào từ vườn nhà.

Cả bọn ngồi trên bờ hưởng cái thú ngồi chờ cá cắn câu, cái cảm giác vui thú khi cần câu được lay động và mỗi lần đứa nào giật được một con , dù chỉ là một con cá trắng bé bằng ngón tay , thì cũng là một niềm vui lớn cho thân chủ...

Sau một thời gian góp nhặt được, đem về nhà xỏ vào chiếc đũa nướng con cá do chính mình câu được... Ôi cái cảm giác ấy mới vui sướng làm sao, hương thơm của mùi rơm rạ , bốc khói bám vào thân con cá nhỏ xíu, đen thùi, vị ngon ngọt của chút thịt thà ít ỏi, đứa này ăn cứ nhìn vào đứa kia... Còn đứa nào không câu được con nào kể như ngày đó "xui xẻo", còn đứa nào câu được nhiều coi như đứa đó "sát cá ".

Những ai đã từng ngồi chờ cá cắn câu, thì mới hiểu rõ cái cảm giác vui sướng đầy thi vị ấy.

Thường là gần cuối mùa Hạ, trước ngày đám giỗ ông tôi, các cậu tôi tổ chức một bữa "tát đìa".

Chúng tôi háo hức từ những ngày trước, mỗi đứa xin cậu tôi phân công tác cho cái ngày vui sướng ấy từ trước.

Chúng tôi tìm cho mình mấy sợi dây thun để bó chặt hai ống quần sát trên bắp đùi, mấy đứa con trai thì đơn giản hơn vì đã có quần xà lõn, mỗi đứa tìm cho mình một vật dụng để giữ cá, đứa nhận làm công tác bảo vệ, không cho người ngoài vào bắt cá đìa nhà mình...

Sáng hôm ấy, không ai bảo ai mọi người rôm rả, bàn tính, tưởng tượng ra mức thu hoạch của lần này, hình dáng của những con cá chép to, những con cá tràu bự, những con cá rô lớn với những cái vi nhọn hoắt có thể đâm vào tay nhức nhối, phải tìm thêm thùng để chứa cá...hy vọng lần này kha khá đây...

Những dặn dò của mấy người lớn, ngăn cản và phân công cho đám con gái chúng tôi, chỉ đứng trên bờ giữ cá chứ không được lội xuống đìa...Coi chừng mất cá v.v...

Đến giữa trưa sau khi cơm nước xong, các cậu tôi lội xuống nhét lại những đường mương nhỏ thông ra ruộng, hai người đứng hai bên bờ ruộng và dùng gàu tát nước từ đìa ra ruộng. Loại gàu đan bằng tre, trét dầu rái cứng chắc, hai bên là bốn sợi dây thừng bện chặt , những gàu nước được múc từ bên này đổ sang ruộng lúa bên kia, nhìn thì có vẻ nhịp nhàng nhưng khi làm thử cũng là cả một công sức mà con gái sức yếu không kham nổi.

Bốn người khỏe mạnh thay phiên nhau tát gần ba tiếng đồng hồ, bọn trẻ háo hức, theo dõi từng gàu nước từ đầu cho đến gàu nước cuối cùng, mấy đứa khác chạy lăng xăng, nô đùa trên bờ...cho đến khi những gàu nước cuối cùng được đổ sang bờ ruộng bên kia, chất bùn đen sền sệt hiện ra...

Niềm vui òa vỡ trong mọi người, tất cả người nhà được xuống bắt cả, mấy đứa con gái ở trên bờ giữ mấy cái thùng chứa cá...không khí thật là sôi động khi người bên dưới bắt được một con cá to, chuyền lên cho bọn trẻ trên bờ. Những cái miệng mở lớn hô lên tên của chúng...râm ran và hào hứng...

- Hai con cá tràu to...

- Năm con cá cững...

- Cá rô nhiều quá...Chu cha cá trắng to ghê...

Những bọt trên lớp bùn đen, bịn rịn theo chân bước của mỗi người, khi nào thấy có một bong bóng sũi lên từ đâu đó là chúng tôi la to, chỉ chỏ cho người dưới đến mò chỗ đó, những con cá còn thở, thoi thóp, hai con mắt mở to tội nghiệp, sau khi đã được rửa sạch trong thùng nước dự trữ, chuyền từ từ vào nhà.

Dì tôi chuyền vào nhà và rộng vào cái chậu lớn...và chuẩn bị bữa cơm chiều cho cả nhà.

Sau hơn nửa tiếng đồng hồ cho người nhà mình bắt hết những con cá lớn, những người trong làng đứng trên bờ nãy giờ bây giờ mới được cho xuống tham gia. Đám bùn non bây giờ thành dẻo quẹo vì đông bước chân người, thu hoạch mỗi lúc một ít ỏi hơn.

Bọn trẻ chúng tôi, nãy giờ được cấm cản bây giờ cũng theo đám người "bắt hâu" nhào xuống đám bùn bền sệt, dẻo nhẹo, dùng tay mò mẫm, có lúc cũng bắt được vài con cá nhỏ nhưng mặt mày, đầu tóc, quần áo bám đầy những bùn đất, tiếng nói thì thều thào vì những la hét phụ họa khi mỗi lần thấy người nhà bắt được con cá lớn...

Buổi chiều hôm ấy là một bữa ăn ngon nhất trên đời mà chúng tôi có được, cho mãi đến ngày nay khi mỗi lần nhắc đến, những người đã từng tham gia "tát đìa" vẫn còn nhớ như in.

Những con cá chép, cá tràu, bà tôi rộng trong chậu cho ngày giỗ sắp tới, còn lại mấy con cá tràu nhỏ, hay còn gọi là "con cá cững" được xỏ vào chiếc đũa nướng trui, lớp vỏ cháy sém ngát hương thơm, cạo hết lớp vảy cháy đen, giằm nước mắm có bằm mấy trái xoài xanh, ớt hiểm, tỏi xanh, cay nồng, nồi canh chua cá thác lác nấu với khóm trong vườn, cá rô chiên vàng, béo ngậy...

Nồi cơm trắng thơm lừng ngày ấy không biết dì tôi phải nấu mấy lon gạo mà sao lúc mới bưng ra đầy vun bốc khói, loáng một chốc đã cạo đến lớp cháy vàng ruộm ở đáy nồi....Tiếng cười nói râm ran, tiếng hít mũi sồn sột của đám trẻ tranh nhau ăn cho nhanh, tạo thành một bức tranh hoạt náo, hai con chó ngồi chực chờ mấy cái xương cá quanh hai ba chiếc chiếu, bức tranh đầy màu sắc và ồn ào nhưng vui quá là vui vì ai cũng có đóng góp một phần công sức của mình.

Thỉnh thoảng bà tôi nhắc nhở đám trẻ nhỏ.

- Mấy đứa chí nhỏ ăn từ từ coi chừng mắt cổ xương...

- Ăn xong đi tới đi lui cho tiêu cơm mới được đi tắm sông...

Mặc dù bụng đã no cành nhưng đứa nào cũng ráng thêm, nghe tới tiết mục kế tiếp, tất cả bỏ đũa đứng lên, lúc mới vào chúng tôi chỉ tranh thủ rửa ráy qua loa, rồi nhào vào mâm cơm vì bụng đói meo.

Sau bữa ăn, mọi người mới nhìn lại thân thể mình, mái tóc người nào cũng còn vương mấy bệt bùn đen, bây giờ đã biến thành trắng xám... mặt mày đứa nào cũng vằn ngang, kẽ dọc, chất bùn đen đã khô cứng nứt ra từng mảng, nhìn kỹ như mấy anh hề trong gánh xiếc, lem luốc và khôi hài...

Nửa tiếng sau chúng tôi được đi tắm sông, kì cọ hết lớp bùn đất bám quanh mình mẩy đầu cổ từng đứa, chuẩn bị ngày mai đám giỗ Ông tôi, tiếp nối những ngày vui còn lại nơi nhà Ngoại, sau đám giỗ, chúng tôi phải trở về Quy Nhơn chuẩn bị cho năm học mới.

Riêng phần Ngoại tôi, đến phiên chợ Gò Chàm sắp tới, bà sẽ mua một thùng cá con bỏ vào đìa chuẩn bị năm tới chúng tôi lại về câu cá và tát đìa...

Bây giờ ngồi nghĩ lại quang cảnh của những lần "tát đìa" của những ngày xưa cũ, lòng tôi lại miên man với cái cảm giác vui thú, lâng lâng. Và biết bao giờ...chúng tôi còn có được nữa đây..

Ôi những con cá tràu, cá thác lác, cá cững, cá rô, cá chạch cui, cá sặt, cá trắng, cá diết...Những con cá...Quê hương tôi...

Bánh Xèo Tôm Nhảy

Viết bởi Nguyên Hạ - Lê NguyễnThứ bảy, 22 Tháng 5 2010 17:09

Trước ngày về quê, bạn tôi là Thanh Tùng, có căn dặn" lâu ngày về Qui nhơn, phải nhớ đi ăn Bánh xèo Tôm nhảy ở Tuy Phước"...Về Bình Định mà chưa đi ăn món này, thì kể như chưa về....

Thời gian ở lại nhà quá ngắn ngủi, nên tôi quên mất là phải tìm cho ra món này để thưởng thức, mà chờ mãi bạn tôi không ra được vì bận công việc...Không lẽ chuyến đi này mình bị coi như chưa đi sao ta ???

Sáng ngày mai, tôi phải rời thành phố này, nhẩm tính lại mấy việc đã làm...mở cuốn Notebooks ra đọc lại, coi có cái gì quên chưa làm...Nhớ đi ăn Bánh Xèo Tôm Nhảy ở Phước Sơn...

Chị tôi nghe đọc cái điều đang quên của tôi, bèn sai đứa cháu đi mua một mâm bánh xèo về cho tôi thưởng thức, mặc dù lúc đó bụng đã no anh ách vì bữa ăn chiều . Tôi ăn mấy cái, nhưng không thấy có gì đặt biệt : vẫn bột và tép, giá ở trên, chiên giòn, màu vàng của nước màu, nói chung là chưa phải là thứ hàng Độc như lời bạn tôi tả : Phải là gạo tẻ ngâm nước giếng, xay bằng cái cối xay tay, khuông phải là bằng gang, chiên trên bếp lửa than hồng, cái Đặc sản ở đây Phải là con tôm còn nhảy...con tôm phải biết nhảy, đó mới chính là điểm nhấn ở đây....Bây giờ cái gì cũng phải có nhảy, giống như mấy cô ca sĩ, không biết nhảy lúc hát, thì coi như chưa là ca sĩ Thời Thượng...hát trên núi, hát dưới đồng, nơi nào mà không có biết món này thì coi như ở nhà giữ cháu...Hiểu rồi, món ăn cũng vậy, con cá chiên xù, nằm trong đĩa hồi lâu, cái đuôi vẫn còn nhún nhảy, Đó mới là đúng điệu và am tường ẩm thực, nói chung cái gì bây giờ cũng phải có nhảy đi kèm ...

Chị tôi cứ giải thích là muốn có đúng món mà tôi muốn biết , thì chờ lần sau về ...chúng tôi sẽ tìm đến tận nơi, để tận mắt nhìn thấy mấy con tôm nhún nhảy trên cái khuông bánh xèo thì mới thõa mãn tấm lòng của người xa xứ...

Một mình ngồi trong máy bay, tôi quay về những kỷ niệm đã qua của những ngày tháng cũ...Ngày xưa ...Hàng ngày Mẹ tôi cũng mỗi ngày làm cái công việc này để kiếm sống, nuôi chúng tôi ăn học, lúc đó công việc chúng tôi thường giúp mẹ là xay bột, cái cối bằng đá, do người thợ đẽo đá núi ở một hốc núi vùng Truông Bà Đờn, vùng núi đá dọc theo Quốc lộ 19, những đá núi được chẻ đứng, chẻ nằm, người thợ đẽo thành những hình dáng khác nhau, công trình mài dũa thật công phu, chỉ một cái cối đá thô sơ, phục vụ cho giới bình dân, như cái cối giã cua , cối đâm tiêu, cối xay bột...bàn tay của con người thật tinh xảo và cũng đầy sáng tạo từ thuở xưa...

Những người thợ đẽo này nếu được đưa vào các trường Mỹ thuật, đào tạo bài bản thì hẳn họ cũng là những nghệ nhân lỗi lạc, nhưng ngược lại suốt đời họ chỉ dùng sức người đẽo gọt những vật dụng thô sơ , phục vụ cho người dân lao động, trong đó có Mẹ tôi, nhờ chiếc cối đá nặng trĩu, những vòng quay chậm chạp, chất bột trắng quáng đặt, lập lờ mỗi ngày....pha bột, những con tôm không còn nhảy nhót, chúng bạc thếch, sút cổ, gãy đầu, Mẹ tôi mua về với chút tiền được rẻ...chị em tôi giúp Mẹ cắt đầu cắt đuôi, tao sơ với chút gia vị tiêu hành và cho thêm chút phẩm màu cam đỏ...để lừa dối mắt người và tạo cho khách bình dân, có cái ảo giác là món bánh đang lùa vào bụng họ cũng có đủ tôm thịt, hành hẹ, thơm ngon và chất lượng...

Bao nhiêu năm nhìn thấy món bánh xèo rẻ tiền và cho nó vào bụng không biết bao lần, nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ là nó sẽ phải thế này, thế khác thì mới ngon lành và đúng cách...Ngày ấy, vào những hôm ế khách, nhìn mâm bánh còn vun đầy, che chắn bằng tấm Ny lon tạm bợ, sau buổi đi học về, tôi thường ra ngồi bán thay Mẹ, trước mâm bánh ế, lòng buồn vô kể, nhưng biết là chút nữa đây mấy chị em lại được một bữa phủ phê để trừ cơm...Trong tiếng thở dài của Mẹ vì một bữa xấu mở hàng, những ngày rơi vào tình huống này, Mẹ tôi phải mua chịu mấy xị dấu phộng ở chỗ bà Giáo Tám, đong mấy cân gạo tẻ không có tiền chi ...thật là tội nghiệp, bù lại, chị em tôi một bữa cứng bụng vì mâm bánh ế, những lần như vậy tôi không có cảm giác gì cả, tuy được ăn bánh xèo có thịt có tôm, thay vì buổi sáng nào , trước khi rời nhà đến lớp chị em tôi cũng chỉ được phát cho bốn năm cái bánh xèo giỏ lót bụng trước khi rời khỏi nhà, tôi không biết món bánh tráng khuông, không hành hẹ, không tôm thịt, món ăn lót dạ trường kỳ của tôi ngày ấy, với chữ viết bây giờ là đúng hay sai... bánh xèo giỏ hay bánh xèo vỏ...thôi thì chữ nào cũng được , chỉ cần biết là trong cơ thể tôi nó chiếm gần mấy năm trời, bây giờ lại thành món mà mấy người nhà giàu chọn làm món ăn dân giã và tìm về một cách trang trọng vì dư thừa ăn uống nên tìm đến cái mộc mạc chân quê...

Còn món tôm nhảy, tôm nằm gì tôi cũng kinh qua hết rồi, ngày ấy, mỗi lần bánh ế, tôi chơi hết nửa mâm, cho đến khi không còn chỗ nhét thêm, vì bao tử có giới hạn của nó, tôi thường đổ thêm ca nước trà đá nhạt màu, không mùi trà hay nước vối, òng ọc, trôi tuột trơn tru, giở áo, cái bụng no tròn, trắng hếu, cái rốn tròn ũm nhô cao vì vật chứa căng cứng bên trong, với tay ngắt miếng giấy cuộn, lau miệng cho trơn tru,sạch sẽ lắm rồi, cuộn giấy xốp cho mấy người sang trọng dùng làm việc riêng tư sang trọng ở chỗ những quán hàng bình dân quê tôi cũng chỉ dùng lau miệng cho sạch mà thôi, người giàu có họ dùng làm gì kệ họ, tới hàng Mẹ tôi là chỉ lau miệng mà thôi...

Mắt lim dim muốn tìm nơi bóng mát...sau khi dọn dẹp quán hàng qua loa, tôi nhẹ nhàng du mình vào giấc ngủ trên sàn xi măng mát lạnh...cuộc sống của những ngày tuồi nhỏ của tôi đơn giản như cây cỏ, như con chim sẻ , như con chó vện trong nhà, nhưng được phủ che bằng tình thương của Mẹ, sau này và bao giờ nhắc tới tôi cũng hiên ngang gợi nhớ ...không thêm thắt trau chuốt, không vo tròn trong sáo ngữ mà tôi đã nhìn thấy từ những kẻ quanh tôi, khi nhắc về tuổi thơ, họ tô son trét phấn, thêm một bớt hai như mấy bà đi chợ, bao nhiêu cũng chưa đủ đầy, thêm một chút cho đáng với danh vị mà mình có bây giờ... Còn tôi suốt đời chỉ biết dùng bàn tay và khối óc của người bình dân , từ công việc cho tới đời sống, mộc mạc và chưa sao rửa sạch cái cốt chân phèn...

Chân phèn, chân đất, hay chân ngọc tay ngà...gì cũng được, miễn là sống hiên ngang, sống khỏe, bỏ ngoài tai mọi lụy phiền là cuộc đời bay bổng thăng hoa...

Tôi đang luận bàn về món bánh xèo tôm nhảy, món đặc sản của quê mình, lần sau khi về lại quê nhà , nhất định tôi sẽ đưa bạn bè tôi về quê Nội của tôi...Phải đi từ hướng chợ Phù Cát xuống, đi qua chợ Phong An, chúng ta ghé vào quán cà phê mua mỗi người một ly cà phê đá...bảy ngàn bạc Việt Nam, ngon không thua gì ở các quán nổi tiếng tại Sai gon, sau đó ghé qua chợ Đại An Gò Củ, chính làng cũ của cha tôi, ăn bánh bèo đổ trong cái chén to, xoáy sâu chính giữa, bùi bùi, beo béo, đậm đà, sắt nét và no nê...câu cá, tắm sông...Xế chiều , ghé qua chợ Hàng rang, lúc này thì sắp tan buổi chợ, chỉ cần có mấy ngàn là mua cả một rổ ổi vườn, ăn không sợ bệnh tật, tai ương..

Buổi chiều về, chúng ta sẽ ghé chợ Gò Bầu. bây giờ thỉ để cho bạn tôi, Thanh Tùng sẽ hướng dẫn đi thưởng thức món Bánh xèo tôm nhảy, một chuyến về quê, thật thú vị, còn hơn cả một cuộc đi Crusers, con tàu ghé nhiều nơi lắm nhưng không được ăn những món ăn vừa miệng, không hít thở không khí quê mình, không được nói tiếng Bình Định thỏa thuê, phẻ re và cám ơn mảnh đất quê tôi, bao dung dị thân thương, cho quên đi mấy chữ excuse me, trên môi, sáo ngữ và lạ lẫm.

CẦY - Phiếm

Chó lúc sống gọi là con chó, lúc chết gọi là chó chết. Nhưng khi cái xác chó leo lên bàn nhậu thì cải danh thành cầy. Tại sao vậy? Các nhà ngữ học chắc không khoái món cầy nên làm ngơ về sự đổi tên này. Tôi thì ấm ức, muốn cho ra ngô ra khoai, bèn đoán đại, trúng thì tốt không trúng cũng... huề! Ăn thịt chó có lẽ trong lòng vẫn cảm thấy cấn cái nên người ta... kỵ húy. Đổi ra cầy cho an tâm. Đến nhà văn Vũ Bằng, ca tụng hầu hết các món ăn Bắc Kỳ trong Miếng Ngon Hà Nội, ngòi bút ông thao thao những con chữ ngợi ca. Ngay cả đến những món không... qui ước lắm như hẩu lốn, lòng lợn, tiết canh, ông vẫn cứ phóng bút thoải mái. Vậy mà đến món thịt cầy ông bỗng khựng lại. Trong bài Thịt Cầy, ông mở đầu bằng những dòng rao nam rao bắc rất khổ tâm: “Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh...Huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao?”

Tại sao đụng tới cầy lại khựng lại như vậy? Cũng như mấy quán bán thịt chó cũng chẳng dám nghênh ngang trương bảng hiệu để rõ là thịt chó mà núp dưới những cái tên chỉ phảng phất mùi rựa mận. Chỗ thì Cờ Tây, nói lái của chữ Cầy Tơ. Chỗ thì Mộc Tồn, diễn nôm ra là Cây Còn, đọc lái lại thành Con Cầy. Chỗ thì Lá Mơ, nói xa nói gần tới thứ rau chuyên trị thịt chó. Chỗ thì Sống Trên Đời, mon men từ câu thơ: Sống trên đời ăn miếng dồi chó/ Chết xuống âm phủ hỏi có hay không? Đại Hàn, một dân tộc cũng... chó hạng nặng, khi tổ chức Thế Vận Hội tại thủ đô Seoul, cũng bắt dân chúng dấu đi những tiệm bán thứ... quốc hồn quốc túy này. Ăn thịt chó là làm mất mặt nhau lắm sao?

Mùa đông năm 1967, tôi được mời tới dự một bữa ăn tại nhà một mục sư Tin Lành ở Hoa Thịnh Đốn. Ông mục sư này đã từng có thời tới rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam, rất mến Việt Nam, đã tổ chức bữa ăn này nhân có tôi từ Việt Nam qua. Nếu chỉ có gia đình ông ấy với tôi thì bữa ăn đã rất Việt Nam. Nhưng để cho vui, ông mời thêm khoảng hơn một chục người Mỹ, bạn của ông. Bữa ăn quả thật vui, vui cho tới khi không biết có phải vì rượu vào không mà miệng ông lại phun ra... thịt chó! Ông khơi khơi kể là ông đã ăn thịt chó ở Việt Nam. Những cắp mắt xanh quanh ông bỗng như bị lửa đỏ. Tròng xanh tròng trắng cứ trợn trừng cả lên. Các bà lấy khăn ăn lên che miệng. Họ nhìn ông bỗng như xa lạ. Ông vẫn tỉnh bơ nói nói cười cười, lại còn khen thịt chó rất ngon. Có mấy bà đã dợm đứng lên. Mọi cặp mắt đổ dồn qua tôi. Như không phải nhìn một con người. Họ hỏi tôi để xác nhận có phải ở Việt Nam người ta ăn thịt chó thiệt không? Tôi lúng túng, không nhận thì không được, mà nhận thì, trong bối cảnh quá bất tiện này, mất mặt bầu cua quá! Tôi cứ giữa hai lằn đạn mà ... ấp úng. Thì cũng có người ăn, nhất là ở thôn quê, nhưng chó ở Việt Nam không phải giống như chó ở Mỹ. Người ta ăn thịt chó Việt Nam chứ không ăn thịt chó Tây chó Mỹ!

Cái ấp úng của tôi cũng có... căn bản lắm chứ. Chó Tây chó Mỹ, ai thèm ăn! Vừa hôi, vừa lạt, vừa tanh, lại... ngoại lai. Lại phải viện tới tiên sinh Vũ Bằng. “Cái giống chó ‘bẹc giê’, ‘pê ki noa’, cái giống chó ‘bát sê’ cũng như giống ‘phốc’, nói tóm lại tất cả các giống chó tây phương, cấm có ăn thịt được. Thịt cứ dai như chão rách, mà hôi quá ăn không ra cái ‘thớ’ gì. Chó ăn, phải chính cống là giống chó ta, không được lai căng một tí một li ông cụ”.

Chó ta, tuy vậy, không phải... cá mè một lứa đâu. Cũng có đẳng cấp đàng hoàng. Nhất bạch, nhị vàng, tam khoang, tứ đốm. Không hiểu mấy ông tổ sư... chó ngày xưa, khoa học đến đâu, mà lại nối được mầu lông chó với chất lượng thịt cầy? Nhưng trong giới sành điệu, bảng sắp hạng trên vẫn được tôn trọng từ đời này qua đời khác. Cứ như là kinh sách!

Cầy nguyên thủy chỉ có bốn món căn bản: luộc, nướng, rựa mận và dồi. Sau này, nhân loại tiến bộ, cầy cũng mon men leo lên bằng... bò. Bẩy món đầy đủ. Món nào cũng... nhức răng!

Bữa ăn thịt cầy gần đây nhất của tôi là đầu năm ngoái, 2003. Bữa đó, chúng tôi nhậu nơi nhà ký giả Hà Túc Đạo ở gần phi trường Tân Sơn Nhất. Bàn ăn la liệt đủ món... quê hương, kể cả món hot nhất lúc đó ở Saigon là món cá điêu hồng. Mọi người đã đến đủ, chỉ chờ Văn Quang và Nguyễn Quốc Thái. Thời gian cứ ưỡn ẹo đi mà hai ông văn thơ này vẫn mù mịt tăm cá. Điện thoại di động. Cười hề hề bảo là sắp tới. Sau ba cú điện thoại dục dã, tới thật. Bị trách móc, Văn Quang giơ ra cái túi xách. Còn phải đi kiếm thuốc cho mấy ông Việt Kiều. Nguyễn Quốc Thái kể công. Tụi này phải đi tới nơi chân truyền nhất, loại xịn chính gốc! Mở ra. Cầy! Độc có hai món: luộc và dồi. Đầy đủ đoàn phụ tùng giềng, lá mơ, húng chó, mắm tôm pha chanh! Bữa đó tôi hơi xấu tính. Cứ nhè cầy mà tì tì với Martell! Sao mà... chó thế không biết! Ngon đâu mà ngon lạ ngon lùng. Món luộc đã nhức răng, món dồi thì hết biết. Đúng là cứ hỏi... có hay không?

Để cho quý vị còn nghi hoặc đến cái khiếu sành ăn của Diêm Vương, tôi lại mời ông Vũ Bằng về giúp một tay... tả tình tả cảnh cái món xuống tới Âm Phủ mới tiếc hùi hụi! “Sao mà có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm được cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trời? Gắp một miếng chấm muối chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành. Ai cũng đã ăn dồi lợn, và ai cũng ăn dồi của người Tây mà ta thường gọi một cách nôm na là “sốt sích”. Bằng thế nào được dồi chó, phải không ông? Dồi chó làm khéo thì cái ruột phải ken kỹ cho mỏng như tờ giấy, đến lúc ăn vào nó cứ giòn tan, không mềm lừ những tiết như dồi lợn, mà cũng không bã như rơmi kiểu dồi tây; nhưng nó nhuyễn lừ đi, nhai kỹ lại hơi sừn sựt, bùi béo nhưng không ngấy, ngan ngát nhưng không nồng mùi tỏi.”

Luộc đã vậy, dồi đã vậy, cái món chả chó cũng... đê mê phát khiếp!
Ăn rồi xách nón ra về
Thấy hàng chả chó lại lê chân vào
Chả này bà bán làm sao?
Ba đồng một gắp lẽ nào chẳng không
Dối rằng lại nghĩ đến chồng
Gần đến cánh đồng ngả nón ra ăn!
(Ca dao)

Chả chó là cái chi chi mà cô thôn nữ đi chợ, lê lết đủ thứ hàng quà, bụng căng mà trông vẫn thấy thèm, nói là mua về cho chồng, nhưng mới tới giữa đường đã ngả nón ngồi phệt bên đường mà... đớp! Chả chó, chân dung nó như thế này. Giềng già, mẻ, mắm tôm trộn vào với nhau. Thịt chó, cắt thành từng miếng bằng đốt ngón tay, vừa nạc vừa mỡ, bỏ vào thứ... hợp chất lừng lừng trên, bóp cho đều, để vài tiếng đồng hồ cho ngấm. Xiên vào thành từng xiên. Rồi nướng. Than phải là than tàu, lúc nào cũng quạt liền tay cho đỏ, thịt xèo xèo cháy, mỡ nhỏ xuống than bốc khói thơm lên quyện vào thịt. Mùi thơm nương theo làn gió làm khổ những cánh mũi, làm ứa nước miếng. Ăn một miếng chả chó chấm với muối tiêu, cắn một miếng ớt, quên hết trời trăng!

Rựa mận lại là một... chiêu khác! Cũng mắm tôm, gừng già, mẻ trộn với nhau. Thêm hành, muối vừa đủ. Cho thịt cầy vào bóp kỹ, để chừng một tiếng đồng hồ rồi ninh. Trước khi ninh trộn thêm tiết chó vào. Ninh cho tới khi quánh lại “đưa bát rựa mận lên ngang mặt, nheo một con mắt lại mà không thấy nổi lên những rằn ri của bẩy sắc cầu vồng, thế là chưa biết nấu” (Vũ Bằng). Cái thứ hợp chất đan kết với nhau một cách chặt chẽ này mà ăn với bún, bẻ thêm một miếng bánh đa nướng thì... tuyệt cú mèo!

Cầy, nó chẳng tha những chiếc áo thầy tu. Lỗ Trí Thâm trong Thủy Hử, dù có bị đời bỉ thử là “sư hổ mang” cũng cứ... cầy. Một ông hổ khác, ông Thiên Hổ, bút danh của cha Nguyễn Quý Lãm, Chủ Nhiệm nhật báo Xây Dựng của Saigon trước 75, cũng... cầy như ai. Trong Hồi Ức Bốn Mươi Năm Làm Báo, nhà báo Nguyễn Thụy Long tiết lộ: “Những bữa cơm trưa ở tòa soạn báo thường có món thịt chó, tôi không ăn được bèn biến, nhưng có hôm cha cũng dụ tôi ở lại được, ăn cơm với chả chiên, nhưng rồi tôi cũng khám phá ra món ấy là món chả chó!”

Ở hải ngoại, chúng ta cũng... tu. Tu giữa đời! Chó quẩn quanh đầy dẫy bên cạnh, như những cậu ấm cô chiêu, nhưng cầy thì tuyệt nhiên mất bóng. Nhiều người nhớ cầy nên... vọng tưởng, thịt heo một miếng làm tạm... giả cầy. Giả cầy dĩ nhiên không phải là cầy, cái thứ thịt dắt răng ba ngày vẫn còn thơm! Vậy mà ông bạn tôi ở Mỹ, cầy thiệt trăm phần trăm mới tài chứ! Cú phôn với giọng nói đẫm nước miếng báo cho tôi biết là trong tủ lạnh nhà ông đang nằm nguyên một cái đùi chó. Thứ thật một trăm phần dầu. Ỡm ờ cho sốt tiết bạn bè một đỗi rồi chàng mới bật mí. Nguyên là cô con dâu người Đại Hàn về chơi Đại hàn, khi trở lại Mỹ, không biết bằng cách nào mà dấu nguyên được một đùi chó trong hành lý để làm quà cho ông bố chồng theo đạo... dựa mận! Bạn tôi cất vào trong tủ lạnh, bảo quản còn hơn giữ cái thân mình, mỗi lần... lên cơn chỉ dám dè xẻn xẻo ra một chút cho đỡ... tương tư. Khi rựa mận, lúc chả chìa, khi luộc, lúc nấu măng. Ăn xong lại... a lô cho bạn bè chúng thèm chơi!

Thượng điền tích thủy hạ điền khan! Chúng ta đang ở hạ điền, bỏ ra một xín, vù một cái là tới thượng điền. Có mà khối! Chó tràn lan. Và rẻ rề! Rẻ nhất trong các thứ thịt. Khu ông Tạ, “nghĩa địa” chó từ những ngày di cư, vẫn cứ tấp nập dân làng... chó. Thịt cầy ở đây thuộc trường phái cũ, rất cổ điển. Món nào món nấy còn... khăn vấn áo the! Muốn theo thời một chút, chịu khó chạy lên đường Ba Tháng Hai, gần nhà thờ Vinh Sơn. Món dựa mận ở đây... số một! Hẻm Cống Quỳnh, cạnh nhà sách Thanh Niên, là địa chỉ của món chó... xô bồ. Xô bồ đây là nói về dân nhậu. Thượng lưu có, hạ lưu có, trung lưu cũng... lưu lại. Nhiều dân nhậu cho rằng ăn thịt chó phải xô bồ, tuệnh toạng như vậy mới đúng... chó. Chứ cứ đút đầu vô tiệm thịt chó máy lạnh bên hông Sở Thú, gần cầu Thị Nghè, sạch thì có sạch, sang thì có sang, nhưng không có không khí. Cũng quanh quẩn bên cầu Thị Nghè, có chó... ôm. Không phải ôm chó đâu. Tây đầm chi đâu mà bầy đặt! Đây là nơi có thịt chó trên bàn, thịt người bên cạnh. Hai thứ đều thơm nhưng mỗi mùi thơm một cách khác. Thứ thơm của thịt chín và thứ thơm của thịt... sống!

Hà Nội... Chó! Hay là Hà Nội Phố?
Nhật Tân phố chó
Quảng Bá phố phò!

Phò không ăn nhậu gì tới chó. Nó là thứ thức ăn của... chim. Chó mới là thứ thức ăn của người. Vậy đi ăn thịt chó thì chớ tới Quảng Bá, cứ Nhật Tân mà thẳng tiến. Đã có thời nơi đây có xấp xỉ ba chục tiệm thịt chó nhưng nay thì chỉ còn khoảng một chục. Nếu được mách bảo trước nên tới quán Anh Tú thì... nhức đầu. Vì ngày nay quán danh Anh Tú đã bị lạm dụng. Anh Tú Béo, Anh Tú Xịn, Anh Tú Nhà Kính, Anh Tú Nhà Lá, Anh Tú Rởm... Biết anh nào mới là Anh Tú chính cống? Mỗi Anh Tú, cũng như những anh hàng xóm Hồ Kiểm, Trần Mục, A Trang..., là một căn nhà được làm theo kiểu nhà sàn, lợp mái cọ, ngồi ăn trên chiếu trải trên sàn nhà. Ăn thịt chó kiểu này, mỏi chân lắm!

Ngày xưa, muốn ăn thịt chó, người ta chẳng phải mỏi chân ra tiệm. Người ta giết chó nuôi trong nhà. Con chó mực trong truyện ngắn Cái Chết Của Con Mực của Nam Cao là một chú chó già, ghẻ lở, có nhiều tật xấu. Người ta đã định thịt nó nhiều lần nhưng nó vẫn được hưởng... án treo! Khi Du trở về, số phận nó hầu như đã được định. Du là chủ cũ, đi xa lâu ngày, nay trở về, thấy con chó cũ ra mừng thì thương, nhưng nó ghẻ lở gớm ghiếc quá làm chàng không dám ve vuốt như ngày chàng còn nhỏ, thường chơi đùa với con mực. Những ngày sau đó, trong đầu Du cứ lởn vởn nửa thương con vật trung thành cũ, nửa ghê tởm cái nhơ nhớp của nó. “Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sự bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết người. Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập?”

Lòng đã quyết, khi thấy con Mực ngủ bên bờ dậu, Du rón rén cầm cái gậy bước tới định đập chết con Mực. Nhưng chàng như cảm thấy ngạt thở, lòng quả quyết tiêu tan hết. Khi con Mực giật mình thức giấc, chàng hoảng hốt vụt mạnh. Con Mực rống lên một tiếng và chạy trốn trong vườn. Cả đêm đó, Du thấy toát mồ hôi và nhất định không giết con chó nữa.

“Nhưng gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ quên đi ngay ở giữa sân để đến nỗi bị Hoa úp được... Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt thở phì phì. Hoa nhích lên tí nữa nhưng một cái đầu gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu ra. Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêu. -Đè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy! Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã run run. Con chó phì ra một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất. Mắt nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lẩn một nửa vào mí trên. Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồi thì con chó đã mềm ra không còn cựa cậy nữa. Du nghẹn ngào nén khóc...”

Những ngày còn nhỏ ở Hà Nội, tôi đã có lần mục kích ông hàng xóm làm thịt con chó nuôi trong nhà. Ông âu yếm gọi nó lại. Nó vẫy đuôi nhưng chân còn ngại ngùng. Hình như linh tính báo cho nó điều chẳng lành. Nhưng rồi nó cũng rón rén bước lại, thè lưỡi liếm chân ông. Ông bỗng bóp cổ con chó, cột chặt bằng sợi dây thép, xiết cổ cho tới lúc lưỡi nó thè ra. Tôi nhìn kỹ vào mắt con chó tội nghiệp. Thấy vẻ ngạc nhiên hơn là oán thù. Có lẽ nó ngạc nhiên vì sự đổi thay của người chủ mà nó vẫn phục tòng. Cho tới khi nhắm mắt!

Thịt bò ngày xưa...

Ở ngoài ca dao

Nói phở không thôi, gần như ai nấy đều hiểu là nói phở bò. Trong bát phở, con bò “đá” bay con gà. Chuyện đáng lạ, vì thịt của con gà nói chung “thân” với cái lưỡi Việt Nam hơn nhiều.

Ỷ có thịt thân, nó dám... cục tác:

“Con gà cục tác lá chanh”.

Ngoài gà, còn hai con nữa cũng cả gan léo nhéo đòi gia vị:

“... Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng”.

Ðó, ba con thịt thuộc loài cầm thú cơ bản nhất của ta. (Kể ra con vịt có “cạc cạc” đòi gừng chắc cũng không đến nỗi bị bà mắng, nhưng nó hay ở ngoài đồng, xa nhà. Mặc nó.)(1)

Con “ngu” (“ngu như bò”!), thi thoảng được biến thành thịt, không phải nó không ước ao được có chút sả, chẳng hạn, mà ướp cho... mát thân đâu, chẳng qua biết mình còn “sơ” (với ông thần khẩu của đa số người Việt), nó chỉ “ọ ọ” mấy tiếng rồi nhắm mắt, đưa thịt cho ta tùy nghi mắm muối!

Vắng trên bát đĩa

“Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Chắc chắn trước phở, Thăng Long và Phố Hiến đã từng có những sáng kiến ẩm thực xuất sắc. Tiếc xưa kia chưa có Tú Mỡ, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân v.v., nên giờ không sao biết được chút gì về những sáng kiến ấy.

Giở Vũ trung tùy bút, không thấy tăm hơi “miếng ngon Thăng Long”(2) (giá thay vì chép chuyện uống trà Tàu, Phạm Ðình Hổ ghi lại cái ăn cái uống của ta thì hay quá). Cổ nhân không để lời nào, bèn liều đoán thử một lời: rằng trong không biết bao nhiêu thứ đồ ăn “thơm điếc mũi”, “ăn ngon quên chết” ở chốn đế đô tính từ thời Lý Công Uẩn “dọn kinh” từ Hoa Lư ra đến đại khái trước ngày phở ra đời, nếu chỉ tính những món “cơ bản”, nghĩa là món gần như lúc nào muốn ăn cũng có, thì không có lấy một món nào là món thịt bò cả!

Ấy, xin quý đồng bào người Nam Ðịnh hãy khoan giẫy nẩy. Cái món bê thui chấm tương gừng bày la liệt ở các chợ Viềng vùng tỉnh Nam vào dịp đầu Xuân (3) thì đến các chúa Trịnh hẳn cũng... thèm sơi, đã đành. Nhưng chợ Viềng mỗi năm chỉ họp có đúng một ngày. Ăn xong bữa bê thui năm nay, ai nấy phải chịu khó nhịn thèm đợi đến đúng ngày này năm tới, “đến hẹn lại lên”(4) mà tái thưởng thức món thịt bò tái! Dĩ nhiên, bậc vua chúa muốn ăn gan rồng lúc nào thì ăn, nói chi thịt bò hay bê, nhưng người Việt Nam điển hình thời ấy, dù là người Thăng Long, hẳn có phải mỗi lúc muốn ăn thịt bò thì có thịt mà mua ngay về ăn được đâu...

Bằng vào thứ cơ sở gì mà dám bảo thịt bò xưa kia hiếm thế?

Cơ sở vững chắc. Tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam kể từ Ðào Duy Anh đều cho rằng truyền thống ẩm thực dân tộc có thể tóm tắt trong ba chữ: Cơm, Cá, Rau. Cơm, rau không kể, món đạm ngoài cá, có ba “con” mà bài ca dao nổi tiếng đã phong thần.

Thua cả thịt chó

Cùng “ngu” như nhau, thế mà chó “hơn” hẳn bò. Nghĩ xem: thịt chó dùng dịp đầu tháng sợ mất hên, chứ ngoài ra thì Vũ Bằng muốn ăn lúc nào mà lúc ấy chẳng có cầy tơ sẵn sàng biến thành dồi, thành chả chìa, nhựa mận cho ông sơi!(5) Trong khi “hóa” một con bò thành thịt bò thui, chẳng hạn, xưa kia chắc chắn là “đại sự”.

Mổ bò chuyện lớn, có gì lạ đâu. Bò tổ tiên ta nuôi là để cày. Nông dân có được hẳn một con bò để cày ruộng nhà mình là nông dân sướng, lẽ nào đem cái sướng ra mổ, thui để ngon miệng một lần (có thực thấy ngon không?) mà khổ cả đời!

Về cái độ phổ biến rất kém của thịt bò ở ta thời trước, dường như có một bằng chứng tâm lý mới rất gần đây hãy còn. Có ai để ý, ta vẫn thi thoảng gặp những người Bắc, nhất là phụ nữ nông thôn, có thành kiến xấu về thịt bò. Hỏi, họ bảo không thích. Hỏi lý do, có người bảo thịt bò “hôi”, người khác bảo “nóng”. Phải chăng cái lý do thực là xưa nay vốn quá ít khi ăn nên chưa “bén mùi”, ăn chưa thấy ngon, thậm chí còn thấy ngại?

Vì sao từ lạ hóa quen?

“Việt Nam thời cổ xưa”(6), các món thịt cầm thú nếu liệt kê tương đối đầy đủ và phân thành loại tỉ mỉ, thì thịt gà thịt heo dễ dàng xếp ngay vào loại “ăn thật”, thịt chó thịt vịt đại khái vào loại “ăn chơi thoải mái”, còn thịt bò vốn là loại “ăn chơi năm họa mười thì”, thêm cho dài thực đơn, chứ “thắt” hẳn vào cùng với các món thịt cơ bản rõ ràng không ổn.

Nó từ sơ hóa thân, thân đến mức nhảy vào chễm chệ trong bát phở, chuyện xảy ra lúc nào, do đâu, bí mật ấy rồi ta phải thử tìm cho ra.


Công của giặc Tây

Phở là từ phấn?

Ai cũng cho là phở sinh trưởng ở Hà Nội. Còn cái gốc của phở thì thuyết “ngưu nhục phấn”(7) phổ biến hơn cả. Thuyết ấy do nhà văn ưa kể “chuyện cũ Hà Nội” là Tô Hoài đưa ra. Theo Tô Hoài, “bên Quảng Ðông có món ăn ngưu nhục phấn (...) sang đến đây thì (...) Hà Nội hóa thành phở (...) khác hẳn cái món gốc”(8).

“Phấn” sang ta bao giờ, rồi hóa phở đại khái vào quãng thời gian nào, Tô Hoài không nói. Nếu ông biết, chắc ông không ngại gì mà không nói. Ta liều đoán xem sao.

Nhờ giặc Tây bít-tết mà khách Tàu phấn?

Cái năm Tây hạ thành Hà Nội dĩ nhiên là một năm quan trọng trong lịch sử dân tộc nói chung.(9) Trong lịch sử ẩm thực của dân tộc, tầm quan trọng của cái năm ấy có thể còn lớn hơn nhiều.

Nhé, Tây ai cũng biết chuyên ăn thịt bò. Tây chiếm Hà Nội rồi Tây ăn thịt bò Việt Nam, chứ đâu Tây có chở được bò... Gô-loa chính hiệu qua ăn. Thế là khai sinh cái nhà a-ba-toa, cái kỹ nghệ giết bò để làm món bít-tết mà nuôi Tây! Sẵn nhà sẵn búa sẵn dao, mổ xong bò cho thực dân rồi thì xoay qua mổ thêm ít con cho người Hà Nội có mua về nấu nướng gì đấy thì mua. (Dĩ nhiên thịt bò vẫn đắt, nhưng ở tỉnh thường sẵn kẻ dư tiền, nhất những kẻ đang lăng xăng hợp tác với Tây.)

Ðã nói ta vốn chỉ năm thì mười họa mới ăn chơi cái thứ thịt bò. Nay bỗng thấy các quan Tây ngày nọ qua ngày kia đều đều dùng nó, ta đâm nghĩ ngợi, rồi ta nhón bước đến cái a-ba-toa se sẽ bảo bán cho ít thịt bò, rồi về nhà ta bắt đầu loay hoay thử nấu vài món thịt bò “ăn thật” kiểu các quan Tây. Thế là con bò chập chững bước vào bữa ăn gia đình Việt Nam...

Ở Hà Nội, ngoài chủ mới người Pháp, chủ cũ người Việt, còn có một số “khách trú”, tức những Hoa kiều. Người Tàu dường như quen với thịt bò hơn ta. Trong đám Hoa kiều, có một số gốc Quảng Ðông, quê hương của ngưu nhục phấn. Từ lúc xa quê họ thèm “phấn” mà thiếu ngưu nhục để nấu, nay nhờ Tây chiếm Hà Nội họ có điều kiện để “phấn” tưng bừng, vừa ăn vừa bán. Thế là tiền thân của phở xuất hiện chính thức ở Hà Nội, có lẽ hàng đôi ba chục năm trước ngày sinh của Tô Hoài.(10)

Cái “thân trước”của phở chắc chắn không thọ, vì văn chương chữ quốc ngữ chủ yếu tả thực mà gần như không có văn thi nhân tiền chiến nào nhắc đến món ngưu nhục phấn. Hình như chỉ có một mình Tản Ðà. Theo Nguyễn Dư, trong bài “Ðánh bạc” viết vào khoảng năm 1915-1917 có câu: “Có nhẽ đánh bạc không mong được, mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ?”(11) Tản Ðà tuy viết văn mới nhưng thuộc thời cũ nên còn kịp ăn “phơ”, chứ những nhà văn sinh sau đẻ muộn hơn ông một chút thì có thức đêm đánh bạc cũng chỉ biết dùng có “phở” mà thôi! Nghĩa là khi văn quốc ngữ phát triển ồ ạt thì ngưu nhục phấn coi như đã... từ trần.

“Bát canh bánh”(12) chết là chí phải. Cái miệng, cái lưỡi, và cả cái bao tử, của người Việt Nam không chịu được nó đâu. Chưa thấy bát canh bánh lần nào, nhưng dễ dàng hình dung một bát đầy “bánh” và thịt bò, rắc ớt ngâm giấm, rảy xì dầu! Ta thấy lạ, ăn chơi một hai lần cho biết... chắc là cùng, chứ tội tình gì ăn tới lần thứ ba!

Mà Hà Nội ta phở?

Bát ngưu nhục phấn đầu tiên được hầu sáng bưng ra cho khách trong một cao lâu ở Hà Nội có lẽ không lâu sau ngày Pháp hạ thành Hà Nội. Bao nhiêu “nước chảy qua cầu” nữa thì đến ngày bát phở đầu tiên được một bác hàng phở múc trao cho khách ăn đang đợi ở một vỉa hè trong ba sáu phố phường?

Tú Mỡ sinh năm 1900, nhưng ai biết ông bắt đầu ăn phở năm nào...(13)

Ước ao được biết ngày sinh của phở để mừng. Ðường phở “bay” đã dài gì đâu, vậy mà ngoái lại, than ôi, đầu đường đã mịt mờ hơn “vết chim bay”(14)!


Công của máy cày

Bò từ ngoài dạ dày quê

Ðã đoán liều nhu cầu dùng thịt bò của quân xâm lược Pháp là tác nhân đầu tiên đưa con bò lại gần cái miệng của người Việt Nam. Một số đồng bào sống ở những tỉnh thành nơi quân Pháp đồn trú bắt đầu quen ăn thịt bò. Sẵn thịt, Hoa kiều, vốn bao giờ cũng ở tỉnh, nấu món ngưu nhục phấn truyền thống của họ, rồi người Việt lần lần hóa phấn ngưu thành phở bò. Các món thịt bò, nổi trội nhất là phở, theo nhau “âm thầm” đi vào bao tử chúng ta. Nói âm thầm là vì con bò vẫn chưa được ca dao chính thức tấn phong làm một “con thịt nhân dân”.

Nước Việt Nam thời Pháp thuộc, tuyệt đại đa số nhân dân sống ở nông thôn. Thịt bò muốn xưng là “thịt nhân dân” thì phải thực sự có quan hệ thân thiết với cái miệng của người dân quê. Chuyện ấy quân viễn chinh Pháp bó tay, không giúp được. Vì thế, các món thịt bò của người Việt ở tỉnh, sau một thời gian được tích cực Việt hóa, tuy giờ đã đậm đà mùi vị quê hương nhưng vẫn cứ còn đứng chơi vơi bên ngoài dạ dày dân tộc!

Tội nghiệp con bò, nó phải đợi đến hàng thế kỷ nữa mới đem được món nọ món kia về quê mà vinh quy.

Do thôi cày mà vào được trong

“Chồng cày, vợ cấy, con bò đi bừa.”(15)

Khói lửa, chồng lên đường đánh giặc Pháp, “ngày trở về” thành người thương binh “bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre”. Về đến lũy tre, anh “chống nạng cầy bừa”, may có “con bò xanh (vì thương yêu anh mà) hết lòng giúp đỡ”(16)... Chao ơi, tình nghĩa người-bò sao thắm thiết!

Thời oanh liệt nay còn đâu.

Ai hay về thăm nông thôn, hẳn biết cái “thế giá” của con bò nó đang sụt thê thảm. Từ đường đường ngang ngửa với “vợ, chồng”, từ một trợ tá đắc lực của thương binh, nó đang bị cái máy cày hạ xuống quá hàng con chó, xuống đến tận hàng hai con thuần nguồn đạm là con gà và con lợn!

Ở nông thôn, thịt bò nay không còn quá đắt đỏ, dân quê đã rất hiếm người ăn thấy “nóng”, có người trước chê “hôi” nay đã nghiệm ra chính cái mùi hôi ấy cũng có nét duyên dáng riêng. Bò càng xuống “giá”, thịt bò ăn càng thấy thấm đậm hương quê!

Bị máy cày đuổi ra khỏi lao động sản xuất lúa, bò đang ngày ngày thơ thẩn trên bờ ruộng đợi biến thành bê thui, bò sốt vang, phở bò, bún bò, bò bảy món, bò lụi, bò kho, bò xào, bò nhúng, bò lúc lắc v.v. Với thành tích sáng tác xuất sắc của ẩm thực Việt Nam, ai biết mười năm nữa sẽ có bao nhiêu món bò mới được “ngẫu hứng” nấu hay nướng ra. Ðó là chưa kể với đà bắt chước Tây đang cuốn mạnh hơn lũ, ta sẽ “nhập ngoại” thêm bao nhiêu món thịt bò kiểu Tây ngoài món bít-tết.

“Bò thả đồng”(17) rồi sẽ không đáp ứng nổi nhu cầu. Nhiều trại nuôi bò thịt sẽ được mở ra. Khách ăn khó tính sẽ phàn nàn về chất lượng thịt bò công nghiệp, người tiêu thụ nói chung sẽ lo ngại về độ nguy hiểm của thực phẩm nhân tạo nuôi bò (nhãn hiệu “Bổ Hơn Rơm”!)...

Phở giờ mới thực sự quần chúng...

Quân Pháp hạ thành Hà Nội, người Hà Nội ăn thịt bò.

Máy cày hạ con bò, người Việt Nam cả nước ăn thịt bò.

Giờ đây con bò có quyền đòi sả trong ca dao, nhưng than ôi, ngay ở thôn quê ai nấy cũng tất bật gần đủ mười hai tháng, thì giờ đâu nữa mà ca với dao, nhất thứ ca dao “con bò ọ ọ bó sả”, hoặc lá lốt, lá xương xông, hoặc thứ lá thứ củ gì đó!

Bắt đầu là nhìn bát phở mà nghĩ đến con bò. Ðến đây, ngẫm về thân thế con bò chán, lại lẩn mẩn nhớ bát phở.

Chuyện thịt bò đang trở thành “sao” thì dính líu gì đến phở? E dính chặt đấy. Trong việc phở đang mạnh mẽ trở nên có tính quần chúng thực sự (chứ không phải chỉ tính quần chúng đô thị), thiết nghĩ cái mức phổ biến của cái thịt con bò nó có vai trò “nhất định” không hề nhỏ chút nào.

Dân ta và trung quốc có câu: Ăn tất cả những con có bốn chân trừ bàn ghế và theo em thì trong những con có bốn chân thì mèo quả là một đặt sản cực ngon và bổ dưỡng.
Theo sách thuốc thì, thịt mèo tính ấm, vị chua, bổ tì, bài độc... Nhưng chưa thấy có sách nào nói đến công dụng đặc biệt của cao "tiểu hổ", ngoài những công dụng giống các loại cao động vật khác như: bổ xương, tăng lưu thông khí huyết. Quả là vô cùng bổ dưỡng
Vậy thì còn ngại ngần gì nữa các bác! Nhậu thôi

Trước hết em xin nói về các loại mèo và giá cả cụ thể:
Theo dân gian thì con mèo có mầu lông đen tuyền mắt xanh ( ko đc lẫn một chút nào mầu lông khác, tốt nhất là bố và mẹ đều đen như thế --> cái này bố ai mà biết đc ) gọi là hắc miêu, loại này đc coi là một loại thuốc tiên thực sự với công dụng chưa rất nhiều bệnh tuổi già, nên cũng là loại mèo đắt nhất ( lưu ý là càng già càng đắt những con 7-8 năm tuổi giá có thể lên 1- 2 triệu đồng nguyên bộ xương ko ) Loại mèo này chủ yếu đc những người làm thuốc nấu cao cả con. Giá cao từ 400K - 500K/ 1 lạng. Nhưng hiện tại mua loại hắc miêu còn non ( ăn cho ngon) tầm 80K / 1 cân hơi ( cân mèo còn sống)
Các loại mèo khác ko có màu lông đen thì đc đổ đồng một loại giá tầm 50K/ 1 cân hơi. ( lưu ý các bác giá cả ở trên là ở thiên đường ăn uống Ninh Bình quê em)
Ở HN hiện nay em chưa đc biết quán nào bán thịt mèo sống cả, nhưng mà thịt mèo đã chế biến thì một số quán thịt chó vẫn có bán. giá khá cao. Nghe nói ở trên đường bưởi và hoàng hoa thám có chỗ bán mèo sống nhưng mà em chưa lần ra đc ( còn trong vòng bí mật mừh ), Bác nào biết báo em 1 câu em mời bác về nhà làm một bữa do em tự tay chế biến.


Còn bây giờ là phần chảy nước miếng : Cách chế biến và các món ngon từ mèo:

Đầu tiên bao giờ cũng là cắt tiết: Cái này đòi hỏi tay nghề cực cao bởi nếu ko nhanh gọn thì rất mệt vì có thể : Một là : con mèo quá sợ hãi ( sợ mất mật) làm cho mật của nó bị tẩu tán ra mạch máu vào từng thớ thịt và hậu quả là: Thịt ko đc thơm ngon nữa, ko có mật để mà hoà rượu uống khi ăn thịt mèo . Hai là: Con mèo sẽ ko chết và cách duy nhất để giết đc nó là dìm nước cho chết ngạt ( dã man quá ). Vì thế cho nên khi cắt tiết phải chính xác nhanh gọn như một sát thủ có nghề hê hê.
Tiếp theo là làm lông. Cái này cũng phải có kinh nghiệm nếu nước ko vừa: Nóng quá làm nát da con mèo thui sẽ ko đều và đẹp, ko đủ nóng xẽ làm lông ko róc khó làm và còn thừa lông ở lại khi thui sẽ khét ko thơm và ko vàng da mất ngon .
Tiếp theo là thui: Nghệ thuật là ở điểm này thui sao cho vừa vặn để toàn thân con mèo ko còn tý lông nào và toàn bộ da phải nguyên vẹn ko cháy ko nứt phải có mầu cánh dán bắt mắt . Hic thèm quá.

Sau đó chúng ta mổ và rửa sạch chú mèo biến thành các tảng thịt ngon lành. Lọc toàn bộ xương mèo ra chỉ còn đầu đuôi và chân là để lại da. Lưu ý : Ko đc làm vỡ mật mèo, bỏ toàn bộ lòng mèo chỉ giữ lại đúng cái ruột đã đc làm vệ sinh sạch sẽ.
Giờ đã đến lúc lên bếp: Các món ngon từ mèo
1 : Mèo hấp : Bó thịt mèo như chó và hấp cũng thế:
2 : Xáo xương: Ninh kỹ xương mèo đã đc lọc hết thịt sau đó cho gia vị và ngải cứu vào đun sôi là chiến.
3 : Thịt mèo thái mỏng sào lăn với sả ớt.
4 : Chân đuôi và một số thị mèo ở sườn hay lưng ( để cả xương) chặt miếng nấu giả cầy.
5 : Lòng ( ruột) mèo xào giòn ( món này cá nhân tôi đánh giá là ngon tuyệt đỉnh)

Ngoài ra anh em nào thực sự khéo có thể làm thêm một số món nữa . Chẹp chẹp ực ực

Lưu ý anh em: Dùng rượu mạnh ướp qua thịt mèo trước khi chế biến sẽ làm món ăn thêm thơm ngon.

Rau sống khi ăn kèm ko thể thiếu: Riếp cá, rau má, quả sung,

Nghệ thuật” làng nghề… thịt chó

Thôn Cao Hạ, xã Đức Giang, huyện Hoài Đức từ lâu đã nổi tiếng xa gần về nghề thịt chó. Chó được thu gom từ khắp nơi ở trong và ngoài nước. Trung bình mỗi ngày Cao Hạ tiêu thụ tới vài tấn thịt chó.

Món nghề gia truyền

Ai có dịp về Cao Hạ sẽ không lại gì hình ảnh những chiếc xe tải hàng ngày chở chó về làng. Chó được thu mua từ các tỉnh xa như Phú Thọ, Bắc Giang, Bắc Ninh…, thậm chí được mua cả từ nước ngoài như Lào, Thái Lan. Cao Hạ có 400 hộ thì có đến 50 gia đình trực tiếp thịt chó, đấy là chưa kể những người ở nơi khác đến đay mua chó về làm.

Thường từ ngày 6 âm lịch hàng tháng, người Cao Hạ mới bắt đầu thịt chó nhưng bán chạy phải từ sau rằm cho đến cuối tháng. Mỗi đoàn xe tải chở chó về làng phải mất ba giờ để nhân công chuyển chó vào lồng. Thường các xe tải chở chó về làng lúc 1 – 2 giờ đêm, hoặc 5 – 6 giờ sáng, bởi lúc đó thời tiết mát mẻ, chó ít bị chết.

Là một trong những hộ gia đình có xưởng thịt chó lớn ở trong làng Cao Hạ, anh Nguyễn Văn Cải cho biết: Thường thì mỗi con chó khi đã qua sơ chế được lãi khoảng vài chục ngàn, một bộ lòng giá bán trước đây từ 5.000 – 7.000 đồng/con nhưng làm sạch sẽ bán được 15.000 – 20.000 đồng/con. Gia đình anh Cải chủ yếu thu mua chó từ những người buôn nhỏ lẻ khắp nơi đổ về. Dù làm thủ công, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.

Cũng là một "nghệ thuật"

Ngày nào cũng vậy, gia đình anh Cải cùng đội ngũ nhân công phải dậy từ lúc tờ mờ. Khoảng ba đến bốn giờ, chó được đưa lên giàn thịt. Sau khi cắt tiết, mấy thợ thịt chó nhanh chóng dùng rơm vàng thui cho đến khi được màu da bánh mật. Thịt một con mất khoảng 15 phút, bỏ chó vào máy cạo lông chỉ mất 2 – 3 phút, có khi còn nhanh hơn thịt một con gà.

Những chú chó da vàng bóng được móc lên giàn và cả khâu xẻ thịt cũng nhờ máy hỗ trợ. Phần thịt và nội tạng được tách riêng, chỉ làm lòng mà mỗi tháng gia đình anh Cải tiêu thụ hết 2 – 3 tạ muối. Anh Cải cho biết thịt chó đòi hỏi phải được rửa sạch, bảo quản tốt, nếu không thịt nhanh thiu… Cả con chó được đưa vào nồi luộc chín, ai mua phần nào thì tự đem về chế biến.

Các xưởng thịt chó được mở ra đã tạo được cơ hội cho người dân có thêm việc làm. Trung bình mỗi tháng tiền công của một thợ thịt chó được khoảng 1,5 triệu đồng. Ngoài nghề chính là thịt chó, hàng ngày vợ chồng anh Cải còn kết hợp nuôi 30 – 50 con lợn tận dụng nước luộc chó, nước bún đậu của các hộ xung quanh.

Hiện thu nhập bình quân của gia đình anh Cải khoảng hơn 20 triệu đồng/tháng, có thêm tiền để trang trải cuộc sống, gia đình anh cũng làm được nhà cao tầng, sắm xe máy, nuôi con cái học hành. Anh Cải tâm sự: "Làm thịt chó khó hơn làm thịt lợn, vì muốn chọn con chó nạc, chó sống phải ngon. Nếu luộc chó chín mà có mỡ thì khách hàng chê, khi pha chế thịt chó phải biết chọn loại nào đem bán sống và loại nào đem nấu chín".

Làm nghề thịt chó lâu năm, gia đình bà Phong đỏ cũng có xưởng thịt chó lớn nhất nhì trong làng. Với kinh nghiệm lâu năm, bà Phong cho biết: "Đã là chó thịt thì gần như nhốt suốt mấy ngày và không cho ăn. Tôi ngày nào cũng tắm cho chó và rửa chuồng sạch sẽ để không có mùi hôi. Như thế lông chó sẽ sạch khi thui. Làm nghề thịt chó cũng giống như những nghề khác vậy, có khi được lại có khi lỗ, vài chục triệu đồng đi tong".

Gia đình như anh Cải, bà Phong là những người đi đầu trong việc phát triển nghề thịt chó. Lúc đầu chỉ là thịt chó thưởng thức trong gia đình, sau đó thấy có khả năng mở rộng, anh Cải rủ một số người trong làng cùng nhau đi tìm hiểu và thâm nhập thị trường rồi quyết định mở cửa hàng bán thịt chó, sau đó có vốn mở xưởng lớn. Nhiều hộ gia đình như ông Nguyễn Văn Thân, ông Phạm Văn Hùng, ông Trương Cảnh thấy hay cũng làm thử và dần dần hàng chục hộ dân trong làng Cao Hạ đã lấy nghề thịt chó làm nghề chính.

Còn những trăn trở

Tuy nổi tiếng là làng thịt chó nhưng cả thôn Cao Hạ hiện chỉ có khoảng 10 hộ gia đình có đủ vốn mở xưởng lớn. Do đất chật nên mỗi hộ chỉ có gần sào đất, đất trồng lúa thì ngày càng bị thu hẹp do quá trình đô thị hoá. Tình trạng những xưởng thịt chó mọc lên tự phát gây ô nhiễm môi trường đang ngày càng đe doạ sức khoẻ của người dân nơi đây. Đặc biệt là những khi mất điện, làng nghề phải dùng máy phát nổ chạy từ 1 – 2 giờ đêm khiến người dân xung quanh mất ngủ. Tình trạng ô nhiễm cống rãnh nặng nề, gần như 100% hệ thống cống rãnh của làng Cao Hạ bị ứ đọng, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển các mầm bệnh.

BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH VNCH




Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.


Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.


Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.


Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv…


Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.


Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.


Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.


Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.


Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.


Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín.


Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.

Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.


Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.


“Này Tammy”

Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”

“Bố thương con nhiều.”

“Con cũng thế. I Love You!”


Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắc là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)


Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v…


Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.


Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.


Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”


Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.


Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.


Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.


Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.


Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”


Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, trong những bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72… với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh… Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.


Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.


Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời


Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”

Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.


Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi.


Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro