ss

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Dựng nước - Giữ nướcThư viện Lịch sử Quân sự Việt Nam => Tài liệu - Hồi ký Việt Nam => Tác giả chủ đề:: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:44:48 AM
Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:44:48 AM

Tên sách: Đường chiến đấu
Tác giả: Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2003
Số hóa: macbupda

“Đường chiến đấu”
ở dạng bản thảo đã được giải thưởng:
- Giải nhất, do Hội Văn học Nghệ thuật Tỉnh Bình Thuận trao
- Tặng tưởng VĂN HỌC NGHỆ THUẬT NĂM 2002 của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp của Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam (ngày 23 tháng 12 năm 2002).

Tôi chân thành cám ơn Hội Văn nghệ Bình Thuận, Ban Khoa học lịch sử Bộ Chỉ huy Quân sự Bình Thận, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Thuận cùng bạn bè, đồng chí đã giúp đỡ tư liệu và góp nhiều ý kiến bổ ích để tôi hoàn thành tập hồi ký này.

PHẠM HOÀI CHƯƠNG

(https://lh3.googleusercontent.com/HRnC-p-Q2XBdpwNSnzVJD4d7A_8gsVPhlDlOzyWigczMHawS53eYzK_jyUBTvC0lgJt_sb4PdGVcvb0oLdsCah4gYp4wdMmtozxtRyKbHrOhO-U6XgCOU1CgIZD_UQJ2jwIP4PBk-tzWohHrkDkGgFg1dQch9AaQcjksC8y-7Zn1dwpq4xrrfqvuzDa-1fPIWxzRGjCKDLIV-f1RFIlTAuGwnyUJS20Z-AloGoIdQD4Hy9K-99wwqIQlCUguIU_Ktv-yxLn63-swDl7EC4l-yB6UPA0tqxjohfJVYJVMWOnnW5ZuTSLdsV8r3wi20puu4QkOodrO-7qPcN_BwJOJ-YgYWxqhsGJsYUsI0MYYU50_Uw_LzFITGzYZXxsKEerv0_38iP_bisOmY1SzT-EpYFarw6DHuONqUX7qG032LdpU0aVTiqH_YkHpMPhRjVPoNdzjBYI-t8oh4awX7r5Q7yiApyZaEAHlzwhIPbBAoCwjiexHliTbw2fBLZkYr8UVFr4Tvf7zcRa09SrItkm8ITYCiiE35bfTVLsRSYgEFZToA6LjZ8jBSBMqHJhp0u8x147T41LylI-yiW3dpxMHI98VN7VYN6DpLFZOn7SLwLHKbBweBcjDo1p4cv1WIXODUy1u2SYAevk0gbF65jeHdL9z8Rfoq6U=w452-h640-no)

(https://lh3.googleusercontent.com/WhEw9jRlodL5MLn1cHGaDAhaPhMCA5gDHU8vaIkzCbvaqU_FKINwZS4IcLMwAfzPOip62lAGgLCRSikEvWinUOEr3a28UOGAiIz24veK4dh-KxV4FU1Y1fKk8pK0H4SK5czn9nlTOaHfJXwfLunYM4jwJ-IfOcytqT1bF_Mxx2tuU0qJIIrSQuNUZzslKSZvvMGsKhd85QlF7A6MhF2mx-493mMGNILg-npjAoLuMvCKsqZQOY5MYxh6NaSaOl8JADnGcz5ZnBDqXVwuzoRaAL1xvj0FifvZlr1LAg8WGNRZ5oVcyiezMR9aIUovrwyHJdZ-468XhBAB1Ay2taDZQ-iTvzpbWXDam-r1iUnU1W7CzloBZo93LYYntvFwsjZs6ld052zzDqtyZnfOmyzmz4-VNt5djp5c26Tuh8pZ3c2ki5pRlks2kSCrtqTDnzIjzzpUNBSu1f3Z5zRBVm1eWBZbOgb54lJdeBX0v-hK927nLY_xQotPMjEFa1uoKwEmc5PQQqBaLyBRUWuRvsQlAirFN5AY5uv5Plv96srdVaaRBRwuJAxrKX0rAkByBio3Te0HRI-0CbskxNlp-nom4RkdBUhUj8I4Qt35UymJzcmHayDXobvbgBf5p9KXUvoChAx5ZRPdxuWA5oFSF7HB0f-4bBPriKw=w304-h448-no)

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:45:59 AM

PHẦN MỘT

TRỞ THÀNH CHIẾN SĨ
Kháng chiến chống Pháp

1. Đến trường.

Tôi nhớ mãi ngày đầu tiên đến trường làng Xuân Hội học lớp tư (lớp 2 ngày nay). Vào trường so với các bạn cùng lớp thì tôi nhỏ tuổi và nhỏ con nhất nên thầy xếp ngồi ở dãy bàn đầu. Ngồi bàn đầu gần thầy, phải nghiêm chỉnh, không được trò chuyện hoặc nghịch ngợm chút đỉnh như một số học trò ngồi các bàn sau nhưng điều đó lại làm cho mình có một nếp sinh hoạt tốt trong trường ngay từ buổi đầu. Tôi cũng nhớ mãi bài tập đọc đầu tên: “Năm nay tôi lên bảy, đã lớn, tôi đi học, không chơi bời lêu lổng như mấy năm còn bé…”. Đặc biệt, những bài học về luân lý đã ăn sâu vào tâm khảm và cùng đi với tôi suốt cả cuộc đời

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con…”

“Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy…”

Và bài học lịch sử: “Hai mươi lăm triệu đồng bào con Hồng cháu Lạc, cha Rồng mẹ Tiên. Vua Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ – một bầu trăm trứng trăm con. Mười tám đời Hùng Vương dựng nước và giữ nước Văn Lang…

Nhìn những khẩu hiệu trên tường viết rất đẹp: “Tiên học lễ, hậu học văn – Nhất tự vi sư, bán tự vi sư – Trật tự, kỷ luật, sạch sẽ…”; các bản hình vẽ hoặc in về các môn học Cách trí, Sử ký, Địa dư làm tôi rất vui thích và thấy sự hiểu biết rộng mở hơn nhiều. Trường tôi có hai lớp: lớp năm (Đồng Ấu) và lớp tư (Dự bị). Qua những ngày cùng học, tôi có nhiều bạn bè, ngày ngày cắp sách đến trường vui đùa, chuyện trò, cùng nhau học tập, ngày càng yêu mến, gắn bó với trường.

Cha tôi trước cũng là một thầy giáo trường làng, khi tôi lớn thì ông đã nghỉ dạy. Cha con tôi rất thân mật, ông thường dặn dò chuyện học hành, lòng kính trọng thầy, tình cảm đối với bạn bè. Khi tôi lớn hơn, ông nói cả truyện đời, đôi khi còn luận bàn về thời cuộc. Mẹ tôi làm nội trợ, bà học đến sơ học yếu lược nên thường nhắc nhở giờ giấc học tập, kiểm tra bài vở của tôi, do vậy một phần lớn cũng làm cho tôi siêng năng chăm chỉ, không thể lười biếng được.

Năm đầu, mới quen trường quen lớp, cuối năm tôi chỉ đứng thứ 5 trên 36 sĩ số, nhưng vì là học sinh nhỏ nhất lớp nên nhận được một phần thưởng khuyến khích gồm một giấy khen, năm tập vở trắng, và một hộp bút chì màu. Tôi còn ở trường Xuân Hội một năm lớp tư nữa vì chưa đủ tuổi lên lớp 3 (sơ đẳng). Năm này tôi đứng nhất lớp, cứ sau mỗi kỳ thi tấn ích (kỳ thi ba tháng một lần) thì tôi nhận được một bằng khen; mẹ tôi đóng khung treo trên tường, đó là một vinh dự, tôi càng cố gắng để luôn giữ vị trí cho đến cuối năm học.

Sau nghỉ hè, tôi chuyển lên lớp ba ở trường Phan Lý. Là trường huyện nhưng từ trước cho đến năm tôi học vẫn chỉ có ba lớp. Hết học thầy Thê, tôi vẫn luôn thăm thầy, nhất là trong các dịp nghỉ hè và Tết. Kháng chiến, tôi đi chiến đấu xa, thầy ở trong vùng tạm bị chiếm; sau ngày giải phóng, tôi lại tiếp tục thăm viếng, mừng thọ cho đến khi thầy qua đời. Tôi rất kính trọng thầy và thầy vẫn thương yêu tôi như ngày nào còn nhỏ, các sáng chủ nhật thường đến nhà giúp thầy cộng điểm của lớp trong tuần.

Cuối năm thi yếu lược, tôi đỗ đầu toàn huyện. May mắn làm sao, vừa lúc nhà nước cho trường Phan Lý mở thêm lớp nhì nhỏ, chúng tôi khỏi đi học trường huyện Hòa Đa có sáu lớp nhưng xa hơn bảy cây số. Gia đình tôi không có xe đạp, nếu học ở Hòa Đa phải tìm nhà trọ, tốn kém, nhà nghèo không kham nổi. Thầy Vấn (dạy tôi) trong chống Pháp là cán bộ Ty Giáo dục Bình Thuận, nhưng không đi tập kết, nghe nói sau đó thầy đưa gia đình vào Sài Gòn rồi tìm cách ra được Khu 4 ở quê hương giải phóng. Đến nay, tôi vẫn không biết thầy cô và gia đình như thế nào.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:46:49 AM

Lên lớp nhì lớn, một lần nữa trường tôi lại được mở thêm lớp vào năm sau có tiếp lớp nhất. Khi khai giảng lớp nhì lớn, trường làm lễ khánh thành có thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục Phạm Quỳnh, công sứ Pháp và tuần vũ Bình Thuận về dự. Có một nghịch lý là tuy còn nhỏ nhưng chúng tôi vẫn có thể thấy là: khi thầy trò lớp tôi chụp ảnh kỳ niệm có ba vị quan lớn thì viên công sứ Pháp đầu tỉnh lại ngồi chễm chệ ở ghế giữa, còn thượng thư và tuần vũ Nam triều thì ngồi ghế hai bên. Rõ ràng Công sứ Đại pháp oai vệ hơn thượng thư và tuần vũ Nam triều. Thầy lớp nhì lớn tên là Lê Võ Thám, người Quảng Nam, chưa vợ, mạnh khỏe, khôi ngô, thường mặc âu phục, chơi ten nít giỏi. Thầy có lối dạy rất sắc sảo, luôn được Huấn đạo, Kiểm học nhận xét tốt về sư phạm. Cách mạng tháng Tám, tôi nghe nói thầy ở Bộ chỉ huy mặt trận Nha Trang, sau công tác ở vùng tự do Liên khu 5. Trong chống Pháp, tôi không ra học ở Liên khu 5 nên không có điều kiện để tìm thăm thầy. Sau năm học, các thầy Tích, Thám, Phú đều đổi đi dạy ở nơi khác.

Tuy chỉ học mỗi thầy một năm, nhưng tình thầy trò rất đậm đà, thân thiết. Tôi ghi nhớ mãi công ơn các thầy đã dạy dỗ, dìu dắt tôi những bước đầu trên đường học hỏi kiến thức và xây dựng nhân cách ở đời; dù từ khởi đầu tuổi học trò cho đến khi rời ghế nhà trường tôi cũng chỉ mới tuổi 13 nhưng nhờ sự bồi dưỡng giáo dục về hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết ơn tổ tiên nòi giống, biết tôn sư trọng đạo, nhân nghĩa lễ trí tín trong đối nhân xử thế; từ đó lòng yêu nước thương nòi tuy chưa sâu sắc nhưng cũng đã hình thành và qua năm tháng đã được nâng lên. Từ năm lên lớp nhì nhỏ tôi được học bổng, thời đó với học bổng ít ỏi này cũng đủ mua sách vở, giấy bút, quần áo mặc trong năm, đỡ một phần cho gia đình. Học bổng thời ấy là số tiền nhà nước giúp cho những học sinh nghèo học giỏi, sau này lớn lên ra đời làm việc thì phải hoàn lại bằng cách trừ tiền lương hàng tháng cho đến hết số tiền được cấp. Tôi chỉ nhận học bổng ba năm, sau đậu tiểu học thì ở nhà giúp việc gia đình. Cách mạng tháng Tám, tôi khỏi phải trả món nợ học bổng cho “nhà nước Đại Pháp”.

Năm tôi học lớp nhất, Bảo Long lên ngôi Hoàng thái tử, mỗi trường huyện chọn một học sinh nhận giải thưởng của Bảo Long. Tôi may mắn nhận được giải thưởng này gồm một bức ảnh Bảo Long, mặc long bào, đội mũ mang hia và một quyển từ điển tiếng Pháp (La Rousse). Ảnh Bảo Long xem chơi nhưng quyền từ điển thì có ích cho học vấn. Cũng là một kỷ niệm đẹp thời học sinh.

Là học sinh giỏi ở trường Phan Lý, nhưng năm 1940 vào Phan Thiết thi tiểu học (nay là trường tiểu học Đức Thắng I), tôi không khỏi lo lắng “học tài thi phận”. Không may cho tôi, đầu tiên gặp bài chính tả tiếng Pháp là bài Leriz, tôi không nhớ cụm từ Leriz est le don du ciel (hạt gạo là của trời cho). Thầy đọc giọng mũi điệu như giọng đầm rất khó nghe, tôi không phân biệt đây là một hay ba từ. Liếc sang thí sinh bên cạnh thấy anh ta viết ba chữ. Hỏi nhỏ như anh ta sợ liên lụy, không đáp mà còn che kín bài viết, tôi đành viết đại là dounbuissiel thật là ẩu vì không có nghĩa gì cả.

Ở nhà đã biết bài chính tả tiếng Pháp là quan trọng quyết định, nên bị hột gà thì cả 5 còn lại: toán tiếng Pháp, văn tiếng Pháp, văn tiếng Việt, tập viết, tập vẽ đều bị loại, không chấm nữa. Mà rớt thi viết, không được vào thi vấn đáp tức rớt luôn. Bài chính tả chỉ được phạm hai lỗi, còn lại là đề phòng cho dấu phẩy, chấm phẩy, xuống hàng, gạch nối v.v… Các dấu thầy không đọc, tự mình phải xử lý. Sau ngày thi viết, tôi rất buồn vì đã phạm ba lỗi một lúc, vậy các bài khác có giỏi cũng bằng thừa. Hai ngày chờ đợi kết quả thi viết, tôi thẫn thờ ăn ngủ không ngon, đi chơi cũng chẳng thích thú gì. May mắn làm sao lúc xướng danh số 270 thí sinh đủ điểm vào thi miệng có tên tôi. Tôi không tin vào tai mình nữa, lúc đó chỉ sơ tuyển số đủ điểm vào thi miệng nên chỉ công bố tên theo thứ tự A, B, C chứ không theo điểm cao thấp. Tên tôi vần C nên dò cũng nhanh. Đây rồi, có tên Phạm Hoài Chương, không có tên Chương nào nữa. Tôi mừng không thể tả, có qua được bước này mới hy vọng ở bước sau, tôi như mở cờ trong bụng. Ngày thi miệng khá trót lọt. Bài thi dịch tiếng Việt sang tiếng Pháp là bài Làng tôi. Tôi mới dịch được độ một phần ba bài, thầy cho tôi. Liếc theo quản bút, tôi thấy con số 9. Đến bài sử ký Pháp thì rắc rối, bài Napoléon, tôi chỉ nhớ Napoléon sinh ở đảo Coóc mà không nhớ làng nào nên bỏ qua điểm này. Thầy chặn lại hỏi Napoléon sinh ở làng nào? Tôi bí. Thầy cười. Phần sau nói khá đầy đủ. Lúc thầy cho thôi, tôi nhìn thấy con số 7. Tiếc ơi là tiếc, chỉ quên cái tên làng sinh của Napoléon mà không được điểm cao, nhưng tại sao phải biết Napoléon sinh ở làng nào mới được nhỉ? Cha tôi ngoài hành lang theo dõi các bài thi vấn đáp của tôi với vẻ hài lòng. Cuối này, ông vui vẻ nói: chắc con đậu.

Những buổi học cuối năm thật thong thả, thoải mái. Chúng tôi lưu luyến từ giã những người thầy đã hết lòng dạy dỗ mình trong những bước đi đầu tiên để vào đời. Từ biết trường Phan Lý thân yêu sau bốn năm miệt mài học tập, tôi và nhiều bạn cùng lớp biết rằng từ đây phải rời ghế nhà trường vì nhà nghèo không thể thi vào ban thành chung được. Thời ấy chỉ ở Sài Gòn, Hà Nội mới có nhiều trường công, tư ở bậc thành chung. Ở Huế cũng chỉ có trường Đồng Khánh cho nữ và trường Khải Định cho nam mà thôi. Cho nên phải học giỏi nhưng cũng phải là con nhà khá giả mới có thể học lên bậc cao hơn được.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:48:14 AM

2. Lao động.

Khi lớn hơn một chút, tôi được bà nội và mẹ cho biết ông nội tôi là người Hà Tĩnh, khi triều đình Huế bỏ các khoa thi chữ Hán thì ông học chữ quốc ngữ và các nghề thuốc bắc, thợ may. Có lẽ vì sinh kế, ông đi lần vào phía nam, đến ở xóm Tằm, làng Xuân Hội và gặp bà tôi. Ông làm thầy giáo ở trường làng ở Liêm Công, sau nghỉ dạy, ông làm thợ may và làm ruộng. Bà tôi nuôi tằm kéo kén thành tơ và làm nội trợ. Khi già, ông tôi thường bị bệnh, cuộc sống khó khăn hơn. Cha tôi vừa học chữ Hán vừa học chữ quốc ngữ, làm thầy giáo trường làng ở Thái An; khi tôi đến tuổi đi học thì cha tôi đã hết dạy từ lâu.

Mẹ tôi làm gạo hàng xáo, tráng bánh tráng, đi nhổ cỏ thuê, mót lúa ngày mùa. Khi tôi đi học thì nhà đã nghèo, nếu không ai đau bệnh thì cũng đủ sống. Hết học, tôi thường theo cha đi rập cu cườm và đánh cá.

Ở nông thôn, có mảnh bằng tiểu học cũng được coi trọng nhưng để bước vao đời thì cũng không dễ dàng. Chỉ một số ít con nhà khá giả, có thân thế thì mới chạy được làm giáo viên trường làng, không dễ như thời ông và cha tôi đâu. Tôi có người chú họ tên là Nguyễn Như Hương có anh bà con làm xếp ga ở Thủ Đức nên được làm nhân viên nhà ga. Cách mạng tháng Tám, chú vào thanh niên tiền phong, chiến đấu, hy sinh ở mặt trận Cầu Bông – Thị Nghè. Một người anh em bà con khác được học y tá ở nhà thương Phan Thiết. Tôi biết hoàn cảnh mình không được như vậy, thôi thì cứ lao động chân tay theo kiểu con nhà nghèo. Cha mẹ muốn tôi chọn lọc một trong các nghề thợ may, cắt tóc, thợ kim hoàn để khỏi nắng mưa vất vả nhưng tôi lại không muốn làm các nghề suốt ngày đứng ngồi một chỗ ấy mà chỉ muốn lao động làm thuê như các bạn cùng lứa. Năm 1941, cha mẹ cho tôi đi Sài Gòn học nghề sắp chữ in (typo graphe). Chủ nhà in tên là Trần Công Định ở 92 Pellerin, có quen biết cha tôi nên gia đình gửi tôi làm học nghề ăn cơm không, khỏi tốn tiền học việc, sau đó tôi có nghề để nuôi sống và giúp đỡ gia đình chút ít. Được đi đây đó, biết Sài Gòn cũng thích, tôi đồng ý. Học đến Tết, tôi đã có thể bước đầu kiếm một đồng/ngày; công nhân lành nghề một đồng rưỡi trở lên. Tôi định sau Tết sẽ xin đi làm ở nhà máy in Albert Portail lớn, có thể phát triển nghề nghiệp. Ở đó, tôi có một số bạn bè; vả lại, tay nghề mức đó mà chỉ làm ăn cơm không thì không tương ứng với sức lao động của tôi làm cho chủ. Trong thời gian học nghề, tôi còn làm thêm việc một lon ton.

Gần một năm học nghề ở Sài Gòn, tuy còn nhỏ tuổi, sau này tôi cũng nghiệm ra đó là một bước ngoặt của cuộc đời. Ở đó, đặc biệt có anh Toàn, một thợ sắp chữ, lớn hơn tôi chừng bảy, tám tuổi, tánh tình hiền hậu, điềm đạm, tuy không nói gì về cách mạng với tôi – vì tôi còn nhỏ - nhưng chính anh đã bí mật cho tôi mượn các “sách cấm” như sách viết về vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Trấn Ba Đình (Đinh Công Tráng). Anh còn hứa sau Tết sẽ cho tôi mượn đọc nhiều “sách quý hơn nữa để có những hiểu biết mới về người ta”. Cũng mãi sau Cách mạng tháng Tám, tôi mới biết năm 1940, không lâu sau khi tôi vào Sài Gòn, Nam Kỳ Khởi nghĩa long trời lở đất đã nổ ra và bị địch dìm trong bể máu mà nào tôi có hay biết chút gì. Đế quốc Pháp đàn áp đẫm máu mà bưng bít thật tài nên số đông đồng bào Sài Gòn chẳng biết được sự kiện này. Dù sao cũng có một việc địch không thể giấu, đó là Mỹ ném bom ở Xóm Chiểu làm chết hàng trăm lính nhật, đồng bào ta cũng có một số bị vạ lây. Cũng vì việc này mà sau Tết, cha mẹ không cho tôi vào Sài Gòn nữa vì “không biết rồi sẽ ra sao, lỡ có bề nào, gia đình chỉ có một mình mày là trai”. Tôi lại trở về với cảnh đồng quê yên ả giữa xóm làng. Tôi vui vẻ, hăng hái đi làm. Mùa cày gieo, tôi làm thuê cho các nhà nông thiếu lao động nên tôi sớm biết cày bừa, cả bên tá, bên dí đều thạo. Còn nhỏ nên người ta không cho gieo lúa vì gieo phải có kỹ thuật cao hơn.

Mùa nào việc ấy, tôi còn đi cuốc cỏ bắp, cỏ bông, nhổ mạ, cấy… Lớn chút nữa, đến mùa lúa chín, tôi đi gặt và ăn công đồng như mọi người. Các ông bầu gặt làng tôi có tinh thần đoàn kết tương trợ “trâu béo kéo trâu gầy”; không như bạn gặt Phan Rang vào, họ chia công nhứt, nhì, ba, tư rất sòng phẳng. Nếu vậy thì tôi mới chỉ đạt công nhì. Tôi rất thích gặt lúa vì đây cũng là một nghệ thuật, vừa phải dùng sức mạnh cơ bắp trong từng xác hái, vừa phải lùa lúa nhanh, nhiều, đều, không sót, chét không bị đứt gié lúa, đầu rạ bằng như thái.

Sức còn yếu mà lao động gặt quá nặng nên cứ gần trưa là tôi bị chảy máu cam, phải ngửa mặt lên hít mạnh, nhét trầu vào mũi rồi lại tiếp tục gặt. Đồng tiền làm ra từ lao động cật lực và đổ biết bao mồ hôi công sức mà lao động gặt là nặng nề nhất, đổ sức từng xác hái. Cơ thể cũng biết tự điều chỉnh, độ năm bảy ngày thì quen không chảy máu cam nữa. Ra sức suốt ngày, tối về nằm ê ẩm cả người, có điều ăn khỏe, ngủ ngon, qua mùa gặt lớn và rắn chắc hơn. Mùa gặt kéo dài hơn tháng, đây là làm khoán, đổ hết sức, ông bầu có nhiều kinh nghiệm nên giá trị ngày công khá cao, thường gắp hai ba lần làm công nhật. Ngoài tiền còn một phần lúa tương đương với tiền, lợi ích kinh tế cao. Cộng lúa hai cha con tôi gặt cùng số lúa của mẹ và hai em tôi mót thì ra Tết gia đình tôi có lúa cho nửa năm ăn.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:49:18 AM

Năm 1943, cha mẹ tôi thường bị bệnh, bà nội tôi sau nhiều năm bị đau đầu đông, đã bị mù, các em gái nhỏ, em trai út mẹ tôi vừa sanh còn quá bé, đời sống gia đình tôi sa sút, lo chạy bữa ăn hàng ngày cũng là gánh nặng. Lúa trong cà tăng vơi đi nhanh chóng vì cả cái ăn và thuốc thang. Năm 1944, cha mẹ khỏe lại, gia đình đi phát miếng rẫy hơn một héc ta ở Sông Sỏi, bắc Sông Mao vài cây số, trồng bông cho Nhật, mỗi hộ được ứng trước hai mươi đồng để canh tác, đến thu hoạch phải bán hết cho Nhật, đáp ứng yêu cầu chiến tranh của chúng. Miệt mài lao động chăm sóc, cây bông lên đều, tốt. Tròng xen với bắp; thu hoạch bắp, cả nhà ăn bắp tươi luộc trừ cơm ăn hơn một tháng, ngon bổ, ai cũng mập mạp, hồng hào. Sắp đến mùa bông, hy vọng đời sống dễ chịu hơn. Cha con tôi ở chòi giữ rẫy chờ ngày bông nở. Bỗng một đêm tối, một đoàn vài chục người, gánh giỏ to, trang bị côn rựa, phản mác, đến vây chòi, lớn tiếng dọa:

- Ở yên trong chòi thì không việc gì, la lối chống cự thì chết. Bọn tao chỉ hái lứa đầu thôi, chủ nhà ăn lứa hai, lứa ba là được rồi, đừng dại chết uổng mạng, không ai tới cứu được đâu.

Nghe giọng nói biết đâu là số dân tỉnh ngoài đến ở xung quanh ga Sông Mao. Tiếng đồn họ võ nghệ cao cường và rất hung dữ; họ ăn cướp công khai, côn đồ chứ không lén lút. Tức chết mà không làm gì được vì thế cô sức yếu. Sáng ra xem lại thì trái đã nở và trái già bị lặt sạch, nghe đâu họ chở ghe bầu lùi ra Quảng bán rất được giá. Đến lứa thứ hai, một lần nữa họ lại đến cướp sạch. Có nhà xót của xông ra chặn bị họ đánh gần chết, của mất tật mang. Chỉ còn một vài lứa chót, may mà vừa đủ nạp trừ tiền ứng trước đầu mùa cho Nhật. Công sức mấy tháng trời đổ sông đổ biển. Gia đình tôi lại gồng gánh trở về làng cũ làm thuê như trước.

Sau khi ở Sài Gòn về, tôi hơi lớn, đọc các “sách cấm” về vua Hàm Nghi, Phan Đình Phùng… tôi càng ngưỡng mộ các bậc anh hùng hào kiệt, đã có những suy ngẫm của mình, dù chưa có hiểu biết gì về cách mạng, về chống Pháp, cứu nước. Tôi cũng khâm phục ông Cao Hành, một thủ lãnh nghĩa quân Cần Vương người làng tôi, đã lập chiến khu đánh Pháp một thời gian ở ngay khu rừng dưới xóm Sủng. Ôi! các cụ ngày trước có gan, có chí đánh Pháp cứu nước nhưng việc đánh giặc sao mà quá đơn giản. Học sử ký có trường thầy cũng có giảng là nghĩa quân thấy lính Pháp đi ôpa (đi đều) cho là chúng không có đầu gối bèn hái ổi non phơi khô đem rải trên đường rồi phục kích, chờ giặc đi qua giẫm lên trượt té không đứng dậy được mà xung phong tiêu diệt; thế là bị thất bại. Cha tôi cũng có kể lại việc này của nghĩa quân Cao Hành, tôi hỏi:

- Anh nói cho cha biết về ông Cao Hành?

- Ông nội.

- Dân làng mình có đi lính cho ông Cao Hành không?

- Có. Lính ông Cao Hành có một cơ, khoảng trăm rưỡi người.

- Ông nội có tham gia lính ông Cao Hành không?

- Không biết, ông nội không nói. Sau thất bại, giặc giết nhiều lắm, nếu ông nội có tham gia thì cũng đã trốn được, bởi nếu lộ thì đã bị họ chém đầu rồi.

- Cha biết chỗ đóng quân của ông Cao Hành không?

- Biết, ở đám rừng xuống xóm trường làng Xuân An.

- Sao chiến khu lại ở gần thành Bình Thuận dữ vậy?

- Hồi đó rừng còn rậm rạp lắm. Nghĩa quân canh gác ngày đêm, đánh trống mõ tùng tùng, cắc cắc rất nghiêm.

- Ông Cao Hành có bị chém đầu không?

- Ông chạy thoát được, về sau không nghe nói nữa. (Sự thật là sau đó ông cũng bị giặc Pháp bắt và hành hình ở Phan Thiết rất dã man).

- Số bị chém nhiều không?

- Ở Xuân Hội, Xuân An bị chém 12 người, bêu đầu ở Bến Tượng, đầu cầu Xóm Lụa.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:51:38 AM

Trong tâm trí non trẻ của tôi hiện ra những tưởng tượng về ông Cao Hành, tuy không thấy sử sách ghi lại như Phan Đình Phùng, Đề Thám, Đinh Công Tráng nhưng quê tôi cũng có phong trào Cần Vương cứu nước, tôi thật sung sướng trong lòng. Tôi rủ cha tôi dẫn đi xem khu vực đóng quân ngày xưa của ông Cao Hành. Chiều con, ông dẫn tôi đi xem. Bây giờ ở đây còn một con đường mòn đi từ sau nhà ông Hào Liệu qua một đám gai chùm lé chứ không còn là rừng nữa, đường trổ ra xóm trường, ở miễu Xuân An. Phía sau lưng và bên hông xóm hiện cũng chỉ là một khu gò mả trống với một ít bụi gai góc lưa thưa. Sau ngày giải phóng, tỉnh Bình Thuận viết lịch sử truyền thống có nhắc đến tên ông Cao Hành trong phong trào Cần Vương ở Bình Thuận. Trong cuốn sử Nam Trung Bộ kháng chiến cũng có tên ông Cao Hành. Giờ đây, làng Xuân Hội đặt tên con đường chính của làng, đi từ quốc lộ 1 qua giữa xóm đến xóm Sủng là đường Cao Hành.

Trong xóm có nhà anh Cao Đàm, một người anh họ nhà giàu. Cách mạng tháng Tám, Cao Đàm là lý trường đương nhiệm, giao chính quyền Xuân Hội cho Cách mạng xong, anh tham gia công tác Việt Minh luôn cho đến sau giải phóng, nghỉ hưu. Điều đặc biệt tôi muốn nói là anh Đàm có một tủ sách rất nhiều loại mà tôi được mượn đọc tùy thích. Sách hay có, dở có, chính trị có, tiểu thuyết có. Thời đó tôi đã biết gì về chính trị, thích thì mượn đọc, tôi rất thích đọc sách nên đọc gần như hết tủ sách. Mà cũng lạ, anh mua được nhiều sách hay, như Đông Kinh nghĩa thục, Vợ ba Đề Thám, Tôi trốn sang Tàu, Phan Bội Châu, Nguyễn Trường Tộ… các sách này bổ sung thêm kiến thức cho tôi sau các sách cấm tôi được đọc ở Sài Gòn, làm tôi càng ngưỡng mộ các hào kiệt chí sĩ ấy. Sau Cách mạng tháng Tám, tôi biết Quốc dân đảng là phản động, còn lúc đó thì tôi vẫn trân trọng người nữ đảng viên Quốc dân đảng dám vượt gian khổ, hiểm nguy xuất ngoại mưu đồ giành độc lập. Tôi cũng được nhiều sách, tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết thứ bảy như Dưới bóng tre xanh, Đoạn tuyệt, Hồn bướm mơ tiên, Lá ngọc cành vàng, Gánh hàng hoa, v.v… một loại sách mà tôi cũng mê say đọc là Trung Nhật chiến tranh, Nhật Nga chiến kỷ, Trung Nhật yếu nhân, nên tôi biết nhiều chính khách, võ tướng Anh, Mỹ, Nga, Tàu, Pháp, Đức, Ý, Nhật v.v… Cuốn “Nhật Bản 30 năm Duy Tân” cho tôi biết Minh Trị Thiên Hoàng là người bỏ chính sách bế quan tỏa cảng, thực hành cải cách kinh tế, đưa nước Nhật thành một đế quốc hùng cường. Trong khi đó thì vua Tự Đức bỏ ngoài tai những bản điều trần tuyệt vời của Nguyễn Trường Tộ về cải cách kinh tế, xã hội nước ta.

Với số kiến thức tuy lộn xộn nhưng dù sao nó cũng mở mang tầm hiểu biết của một thiếu niên trẻ tuổi như tôi hồi ấy, cũng gạn lọc, hình thành dần trong tôi lòng ngưỡng mộ các nhà cách mạng yêu nước của ta. Những bậc siêu quần xuất chúng của thế giới. Tôi rất muốn noi gương các bậc tiền hiền thời ấy dù đâu biết phải làm gì.

Về Bác Hồ, nghe phong thanh là có một thanh niên Việt Nam yêu nước, cách mạng, tài nghệ siêu quần, đang hoạt động ở hải ngoại, lo việc giành độc lập cho Tổ quốc, tên là Nguyễn Ái Quốc, cái tên đẹp và cao quý làm sao! Có lúc lại nghe đồn Nguyễn Ái Quốc đang ở Nhật, sẽ đưa quân về đánh đuổi đế quốc Pháp nên cũng chỉ hy vọng, mong đợi vậy thôi, bởi có sách báo nào viết rõ, có ai giải thích đâu.

Ông nội mất lúc tôi mới lên ba, để lại một số sách quý, ngoài các sách học bậc cơ sở, toán pháp, cách trí, địa chí Trần Văn Thông, còn có các sách Tam tự kinh, Tam thiên tự, Ấu học Hán tự tân thư, Đại Nam quốc sử diễn ca, Chinh phụ ngâm, Kim Vân Kiều, Nam Hải dị nhân liệt truyện, Hưng Đạo Đại Vương truyện… Sự giáo dục của nhà trường, gia đình, việc đọc được một số sách hay đã nhen nhóm vun đắp cho tôi từ ấy lòng yêu nước thương nòi và có lẽ cả lòng ham thích quân sự cũng manh nha từ các sách về chiến tranh, từ những trận đánh giặc giả thời học trò chăng?

Từ cuối năm 1944, máy bay Mỹ thường bay dọc theo đường sắt, ném bom cầu sắt Nha Môn bắc ga Sông Mao, ném bom cầu xóm Lụa trên quốc lộ 1, chỉ cách nhà tôi mấy trăm mét. Có lần thấy máy bay Mỹ đuổi máy bay Nhật chạy tới bời. Có một trận đánh lớn giữa Mỹ và Nhật trên vùng biển Bình Thuận, không xa bờ lắm, dân ven biển Phan Rí Cửa, Duồng, La Gàn, Long Hương,… đều thấy rõ. Hàng đàn phi cơ Mỹ oanh tạc một đoàn tàu chiến lớn của Nhật chạy từ hướng nam ra, đội hình kéo dài đâu từ Vũng Tàu đến tận Mũi Dinh. Cao xạ Nhật bắn trả cũng dữ nhưng không thấy hạ được chiếc máy bay Mỹ nào, cũng không thấy máy bay Nhật tham chiến. Lính Nhật chết, bị thương, sống sót bơi và trôi tấp vào bờ rất nhiều. Dân không dám ăn các loại cá lớn vì trong thịt cá có nhiều sâu như là múi bưởi, người ta nói đó là do ăn xác lính Nhật. Có điều là dân biển vớ bẩm, ngư dân vớt được rất nhiều của trôi, các loại cờ rếp vàng rất đẹp bán cho thợ giầy đóng đế xăng đan, đế giày bán rất đắt. Dầu tàu thủy thì nhiều vô kể. Thời chiến tranh rất khan hiếm hàng hóa, phải thắp sáng bằng dầu cá, lơ mờ, hôi hám, nay thắp dầu xăng thì thật tiện lợi nhưng hay phựt ngọn, rất hao. Ai đó đã có sáng kiến rất hay, cứ bỏ vài hột muối vào mỗi lít dầu thì thắp sáng bình thường như dầu lửa, không hao, không phựt, giá lại rất rẻ.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:53:37 AM

Tôi có một người bà con tên là Trần Quang Lý làm thầy giáo, khi nghỉ dậy thì làm thầy thuốc bắc và bán cao đơn hoàn tán.

Năm 1948 anh Trần Quang Lý là bí thư huyện ủy Hòa Đa đầu tiên và đã mất vài chục năm nay.

Cha tôi có mua vài tháng nhật báo Sài Gòn. Lúc này ở phía nam có hai tờ báo hàng ngày là Sài Gòn và Điện Tín. Dù bị giặc Pháp kiểm duyệt gắt gao, tờ báo vẫn nói được một phần sự thật về thế chiến thứ hai. Tôi còn nhớ một bài báo có tựa đề là “Gấu Ó tranh hùng hay cuộc chiến tranh Nga – Đức” có đoạn viết: quân Đức hùng mạnh chỉ một thời gian ngắn đã chiếm gần hết châu Âu, đang cố gắng thôn tính Liên Xô, nhưng càng vào sâu nước Nga càng gặp nhiều bí ẩn khôn lường. Mùa đông giá rét kinh khủng đã gây nhiều khó khăn cho cuộc tiến công. Trận Xít-ta-lingờ-rát kéo dài nhiều tháng, quân Nga vẫn cầm chân quân Đức tại chỗ. Hai bên đánh nhau ác liệt, giành giật từng căn nhà, góc phố. Đức đã bị sa lầy ở mặt trận này của Nga Xô.

Ngày 8 tháng 3 năm 1945, Nhật lật Pháp, nắm quyền cai trị Đông Dương, trao độc lập cho Nam triều. Chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời. Lý hương vẫn làm việc, vẫn đóng thuế thân, thuế chợ, cuộc sống không có gì khác trước, chỉ có người Nhật thì chuyên quyền. Một số ít người Nhật trước đây không thấy, không nghe nói đến, nay xuất hiện ở Hòa Đa, Tuy Phong, cũng đội mũ mềm kiểu Nhật, mang kiếm dài, đi giầy ống, nói vài tiếng Nhật, dù cũng không thấy họ làm gì.

Tôi vừa tuổi 18, bị làng bắt vào thanh niên phòng vệ; ai cũng phải vào, cả trai, gái, mặc đồng phục áo sơ mi trắng, quần sọc nâu, nón lá buông vành to bốn múi kiểu hướng đạo, trang bị một gậy dài 1,6 mét và một khoanh dây. Hàng ngày tập quân sự cơ bản, tập mótxơ, xêmapho, do các huynh trưởng huấn luyện. Để khi có việc, thanh niên phòng vệ phối hợp quân Nhật bảo vệ độc lập nước nhà (!). Tập quân sự, học mótxơ lúc đầu mới lạ cũng thích nhưng sau thì chán vì không thấy lợi ích gì, lại mất công việc làm ăn nên dần dần cũng nguội lạnh rồi tịt luôn. Nhưng có một phong trào khác lại thu hút số đông tuổi trẻ, đó là “Truyền bá quốc ngữ” dạy cho các em nghèo không được đến trường, dạy chữ cho bà con lớn tuổi còn mù chữ. Chúng tôi tham gia hăng hái vì đây là việc có ích mà mình có thể giúp bà con được. Lớp học dùng đình làng, các nhà rộng cũng vui lòng cho mượn. Các em học ban ngày, người lớn học buổi tối. Lần đầu tiên chúng tôi biết một phương pháp dạy học mới vừa vui, hay, dễ nhớ:

i tờ giống móc cả hai
i ngắn có chấm, tờ dài có ngang, i tờ, tờ i ti…

… O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, ơ thì mang râu…

Nhiều người lớn, em nhỏ thông minh, mới một tháng đã biết đọc, biết viết.

Máy bay Mỹ đánh phá giao thông ngày càng nhiều, xóm làng được lệnh tổ chức “phòng không thụ động”, nhà nhà đào hầm ẩn nấp, các nơi công cộng cũng có hầm, một số được huấn luyện cứu thương, cứu sập. Một hôm, tôi cùng một số người đang đi trên cầu Xóm Lụa, nghe tiếng máy bay, chạy hụt hơi chưa khỏi cầu thì máy bay đã ở trên đầu, may sao nó đi thẳng, chẳng thấy đội Thần Phong đâu cả! Thời gian này có hàng đoàn người từ bắc kéo vào tìm việc làm, xin ăn, có người bán hoặc cho con nhỏ thật tội nghiệp. Đó là nạn đói khủng khiếp ở Bắc Bộ mà hồi ấy mọi người chưa biết là tội ác do giặc Nhật gây ra cho đồng bào ta. Bắt đầu có phong trào quyên góp và chở gạo ra Bắc giúp đồng bào bị nạn đói rất sôi nổi. Các thầy nhì Nguyễn Đình Huề, thầy nhất Thái Đức Cư đóng kịch rất hay, thường biểu diễn ở rạp hát Chợ Lầu, thu được bộn tiền mua gạo ủng hộ đồng bào ngoài Bắc.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:55:18 AM

3. Tham gia Cách mạng.

Một chiều cuối tháng 8 năm 1945, tôi và một số bạn bè được anh Nguyễn Xuân Thăng bảo đến nhà anh giáo Ích để bàn việc quan trọng. Việc gì nhỉ? Anh Bẩy Thăng không phải là huynh trưởng thanh niên phòng vệ nhưng chính là người đã nói Trần Trọng Kim là bù nhìn của Nhật và đôn đốc chúng tôi tham gia truyền bá quốc ngữ. Tin anh, tôi đến họp, có khá đông người dự, nhìn qua tôi biết là người tốt. Anh Bảy tuyên bố mình là đại diện Việt Minh huyện phụ trách việc cướp chính quyền ở đây. Việt Minh đã giành chính quyền ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh. Hôm kia, Việt Minh tỉnh cũng đã cướp chính quyền ở Phan Thiết xong. Anh cho xem cờ Việt Minh đỏ tươi có sao vàng năm cách trên góc và giải thích ngắn gọn chương trình Việt Minh. Thật bất ngờ và mới lạ biết bao. Trước đây ở xóm tôi chưa ai biết gì về Việt Minh và cướp chính quyền cả. Anh cũng có nói chuyện với tôi về thời cuộc nhưng cũng chỉ nói chung chung là rồi đây sẽ có thay cũ đổi mới. Hồi Cách mạng tháng Tám, học chính trị thường định nghĩa Cách mạng là thay cũ đổi mới, kinh tế là kinh bang tế thế v.v…. Anh cũng không giao làm việc cụ thể gì nên tôi đâu biết anh là cán bộ Việt Minh, có lẽ trước đây anh chỉ coi tôi là một quần chúng tốt thôi. Anh dặn ngày mai tập trung mang theo cây, dây, giáo, mác cho thêm sức mạnh của quần chúng vũ trang đi cướp chính quyền làng Xuân Hội. Đêm ấy tôi không sao ngủ được, đầu óc miên man nhớ đến các cuộc khởi nghĩa Cần Vương và bao nhiều cuộc cách mạng khác đều không thành, nay Việt Minh lãnh đạo cách mạng thành công khắp nước, ngày mai làng Xuân Hội cũng giành chính quyền, đánh đổ đế quốc, phong kiến, đem lại độc lập thực sự cho toàn dân. Rồi đêm cũng qua, tôi vội xách cây, dây ra đi. Trên trăm người hàng ngũ chỉnh tề, đi đầu là anh Bảy Thăng rồi đến một thanh niên giương cao cờ đỏ sao vàng. Đoàn người rầm rập kéo vào đình làng Xuân Hội. Ngũ hương đang làm việc, bất ngờ, ngơ ngác. Anh Bảy Thăng nói dõng dạc:

- Hôm nay Việt Minh cướp chính quyền làng Xuân Hội. Hãy đầu hàng Việt Minh và bàn giao chính quyền ngay!

Cũng người quen và anh em họ hàng trong xóm cả thôi nên không có gì gay go, náo động cả. Anh Hội nói tiếp:

- Việt Minh đã cướp chính quyền ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ở Phan Thiết, tỉnh trưởng Huỳnh Dư đầu hàng Việt Minh ngày 24 tháng 8 rồi.

Lý trưởng Cao Đàm phục tùng ngay. Anh Bảy Thăng đại diện Việt Minh cùng lý trưởng Cao Đàm ký biên bản bàn giao chính quyền êm thấm và nhanh chóng. Tiếp đó hạ cờ quẻ ly, làm lễ kéo cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ của đình làng. Mọi người nghiêm trang, chào cờ theo kiểu mới của Việt Minh và hô to các khẩu hiệu cách mạng:

- Việt Minh độc lập muôn năm!

- Mặt trận Việt Minh muôn năm!

- Đả đảo phát xít Nhật – Pháp!

Chúng tôi hát vang bài ca Lên đàng, Thanh niên hành khúc, Bắc Nam Trung, Bạch Đằng Giang thật sau sưa, hào hùng. Lúc ấy chưa biết các bài Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam, Diệt phát xít.

Sáng hôm sau, xóm tôi lại đi cướp chính quyền huyện Phan Lý. Gậy gộc, giáo mác tua tủa, khí thế hùng dũng lạ thường, ra đường quốc lộ nhập đám với đoàn các làng Thương Thủy, Tịnh Mỹ, Xuân Quang, v.v… Có lẽ huyện biết trước nên khi đoàn người kéo đến huyện nha, đã thấy tri huyện Phạm Ngọc Cẩn cùng các đề lại, thừa phái khăn áo chỉnh tề đón sẵn tại cửa huyện đường và nói ngay: “Chúng tôi đầu hàng và xin theo Việt Minh”. Các anh Nguyễn Xuân Thăng, Lê Thượng Ích, Nguyễn Em cùng tri huyện ký biên bản, thu con dấu, chìa khóa kho và súng của lính lệ. Sau khi anh Bảy Thăng tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ và làm lễ chào cờ đỏ sao vàng, tất cả mọi người tuyên thệ trung thành với cách mạng.

Hai hôm sau, toàn thể làng Xuân Hội từ 18 tuổi trở lên đi bầu cử Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời làng Xuân Hội, lần đầu tiên hưởng quyền dân chủ chính trị trực tiếp lựa chọn người thay mặt cho mình nắm chính quyền. Hồi đó chưa quy định người ứng cử phải 21 tuổi. Tôi được giới thiệu và trúng cử chức danh Ủy trưởng tuyên truyền. Chủ tịch là ông Lê Văn Vui; Ủy trưởng tư pháp là anh Huỳnh Mai, Ủy trưởng quân sự là anh Nguyễn Phê, v.v… Ủy ban bắt đầu nhận công văn, chỉ thị của huyện. Các báo Cứu Quốc, Quyết Thắng rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức ban đầu. Rồi chúng tôi cũng biết về Chính phủ Cách mạng lâm thời của nước ta, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự phổ biến miệng: Cụ Hồ là lãnh tụ vĩ đại chính là Nguyễn Ái Quốc càng làm chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ, khâm phục và kính yêu Bác. Các làng phía nam huyện Hòa Đa từ Tăng Long đến Lương Sơn thành một cấp chính quyền gọi là Nam Bộ Hòa Đa. Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc các làng xã được nhanh chóng tổ chức. tôi còn phụ trách đoàn trưởng thiếu niên nhi đồng Xuân Hội và trưởng Đoàn Tuyên truyền xung phong Xuân Hội. Phan Nên và Nguyễn Ca, hai bạn, thời tiểu học với tôi là ủy viên trong ban tuyên truyền. Nên còn là đoàn phó thiếu niên nhi đồng và đoàn phó tuyên truyền xung phong. Chúng tôi cùng nhau làm việc hăng say, đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ. Sinh hoạt đoàn thể nhanh chóng xây dựng cho các em có tính đoàn kết, kỷ luật, lễ phép, ham học tập, tiến bộ rõ nên cha mẹ các em tin tưởng đoàn thể, thiếu niên nhi đồng cứu quốc.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:56:37 AM

Chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, các làng của Nam Bộ Hòa Đa tập trung tại sân vận động trường Phan Lý làm mít tinh chào mừng, biểu thị lòng trung thành và ủng hộ Chính phủ Cụ Hồ. Nhìn cả rừng cờ đỏ sao vàng cùng vô số băng rôn, với các khẩu hiệu cách mạng, mọi người tràn ngập vui sướng và xúc động. Khi chào cờ, ai cũng rưng rưng nước mắt tự hào về nền độc lập thật sự của Tổ quốc do Cách mạng tháng Tám đem lại. Tất cả hô vang trời các khẩu hiệu mới:

- “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”

- “Nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh!”

- “Hồ Chủ tịch muôn năm!”

Hơn tháng đã qua, một chuyển biến mới hết sức kỳ diệu, mọi người sống một cuộc sống cách mạng vô cùng sôi nổi, hào hứng, đoàn kết thương yêu nhau, chan hòa tình nghĩa, các thói hư, tật xấu hình như biến mất. Sáng tinh sương, nhiều người lớn cùng thanh thiếu niên chạy tập thể dục khắp đường làng. Một số được anh Hai Phê điều khiển luyện tập võ nghệ để tăng sức mạnh phục vụ đất nước. Hoạt động của đoàn tuyên truyền xung phong nhằm vào các nhiệm vụ chính trị một cách tích cực và có hiệu quả: Ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, tăng gia sản xuất tiết kiệm, cứu đói miền Bắc, Tuần lễ Vàng, chuẩn bị bầu cử Quốc hội, v.v…. Noi gương Bác Hồ mỗi tuần nhịn ăn một bữa bỏ vào hũ gạo cứu quốc. Bản thân tôi làm rất nghiêm túc và bàn gia đình cùng làm. Truyền bá quốc ngữ nay thành Bình dân học vụ để diệt giặc dốt. Địa phương cũng bắt đầu chuẩn bị chống xâm lược bởi giặc Pháp đang mở rộng chiến tranh ra ngoài phạm vi Sài Gòn – Gia Định. Đoàn tuyên truyền xung phong Xuân Hội thường tổ chức các đêm lửa trại. Đồng bào rất hài lòng thấy con em mình hoạt bát dễ thương, biết ca múa, đóng kịch thể hiện các nhiệm vụ cách mạng một cách sinh động. Một hôm, đoàn đang cắm trại tại sân vận động Tịnh Mỹ thì có một ô tô con từ phía nam ra, thấy trại thiếu nhi bèn ghé vào. Đây là xe đồng chí Nguyễn Nhơn, Chủ tịch tỉnh ra công tác các huyện phía bắc, vào thăm nói chuyện với các em, điều đó khích lệ các em rất nhiều.

Tuy hăng say công tác, tôi vẫn đi làm kiếm sống vì cán bộ xã thôn phải tự túc. Mùa thu hoạch năm đó, bạn gặt Xuân Hội ra gặt tận Tuy Phong, Phan Rang đến tháng chạp mới về. Bấy giờ xe lửa là của ta, chúng tôi ngồi trên xe hát vang, lòng vui phơi phới và một sức sống mạnh mẽ dâng trào. Hành khách lạ, quen đều chan hòa ấm cúng như bà con một nhà, gọi nhau bằng đồng chí thật trìu mến, thân mật. Các bài Bắc Nam Trung, Thanh niên hành khúc, Lên đàng, Diệt phát xít, Chiến sĩ Việt Nam, Biết ơn Cụ Hồ được hát đi hát lại nhiều nhất và hăng say nhất

Dạo này có một trung đội Giải phóng quân đóng ở miễu làng Đa Phước. Hàng ngày, thanh niên đến thăm bộ đội và tập quân sự rất vui. Trung đội trưởng là Phạm Xuân Ngó, đồng chí tiểu đội phó Nguyễn Cang đang huấn luyện. Xem hay nhất là động tác bịt mắt tháo lắp súng đạn, đồng chí làm mẫu thật thuần thục, đẹp mắt. Bộ đội cho mượn súng trường anh đô-si-noa và mút-cơ-tông để tập nên rất ham, chủ yếu chúng tôi tập bắn súng để biết sử dụng khi cần thiết. Có một điều kích thích chúng tôi rất mạnh là đơn vị có một số nữ giải phóng quân rất trẻ, làm cứu thương mặt trận, đây là điều khiến thanh niên chúng tôi chạnh lòng. Phụ nữ dám xông pha chiến đấu nơi tiền tuyến, sao con trai mình không làm được việc đó. Điều băn khoăn này thường trở lại với tôi mỗi khi nhớ việc đi tập quân sự hôm ấy.

Giặc Pháp đã chiếm rộng cả Nam Bộ. Đồng bào Nam Bộ vùng lên chống giặc kiên cường. Phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến rất cao. Tỉnh tổ chức một đơn vị vào Nam Bộ tham gia chiến đấu ở mặt trận Cầu Bông – Thì Nghè. Không khí chuẩn bị chiến đấu ở địa phương rất sôi sục. ta vừa mới đuổi giặc Nhật khỏi Phan Thiết nhưng phải tích cực chuẩn bị đánh Pháp khi chúng đến, chưa biết lúc nào nhưng chắc không còn xa mấy nữa. Lệnh phá đường, đào hầm, ngã cây ở quốc lộ 1 được thi hành rất triệt để. Đoạn quốc lộ 1 từ Phan Rí đến Tuân Giáo hai hàng me bên lề đường đều bị đốn ngã chắn ngang cùng với hầm chữ chi xen kẽ dày đặc. Đường quốc lộ từ Phan Thiết đi Xuân Lộc cũng bị phá hoại nặng, chỉ các cầu cống là chưa phá. Tiếc rằng công tác phá hoại lớn, thế mà anh Nguyễn Thế Lâm chỉ huy mặt trận Nha Trang không biết, nên lúc ra Bắc, khi Bác Hồ hỏi ở Cực Nam có phá hoại giao thông không thì anh không trả lời được cho Bác vui lòng.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 06:58:11 AM

Một hôm, tôi sang làm việc ở trụ sở thì nghe tin báo có quân Pháp nhảy dù xuống Bình Nhơn. Anh Hai Phê tập hợp hơn 100 thanh niên đi bắt giặc Pháp. Khí thế hừng hực, không ai tính toán giặc có súng còn ta chỉ có gậy gộc giáo mác, đánh nhau sẽ có hy sinh, mà chỉ chung một ý nghĩ, một hành động là phải nhanh chóng đi bắt giặc mà thôi. Tôi cùng Ca, Nên xếp ngay công việc, có mặt trong hàng ngũ lên đường. Đi trên chục cây số thì thấy mấy đoàn các làng đi trước quay về vì máy bay Pháp chỉ quần đảo chứ không đổ quân. Chúng tôi quay lại, tuy mệt nhưng rất vui, coi đây là cuộc tập dượt để sắp tới đánh Pháp.

Ban tuyên truyền tập trung vận động đồng bào bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bình Thuận bầu hai đại biểu Quốc hội mà số ứng cử đến mười mấy người. Có người tôi biết như thầy nhì Nguyễn Đình Trà ở làng Phan Lý trước đây nhưng nhiều người chưa hiểu gì. Ông Nguyễn Tương được Việt Minh tỉnh giới thiệu là một cán bộ cách mạng từng bị đế quốc bắt tù đày, ông đã lãnh đạo giành chính quyền ở tỉnh nhà, chắc là được ủng hộ cao.

Ngày bầu cử mùng 6 tháng 1 năm 1946 là một ngày hội lớn. Tất cả bà con đi bầu nhanh chóng, đầy đủ đúng theo hướng dẫn. Chưa biết mấy về các ứng cử viên nên cũng khó lựa chọn; chỉ ông Nguyễn Tương được tất cả dân Xuân Hội bầu còn đại biểu thứ hai thì phân tán. Kết quả do tỉnh công bố, chỉ có ông Nguyễn Tương đắc cử. Vậy thì phải bầu lần thứ hai. Lần này, tỉnh giới thiệu bác sĩ Huỳnh Tấn Đối và ông đã trúng cử.

Sáng 29 Tết Bính Tuất, tôi định đi chợ một chút thì bỗng có một số thanh niên ở gần đường số 1 chạy hớt hải vào xóm báo có đoàn xe tăng chở giặc Pháp đang kéo qua cầu Xóm Lụa. Tiếp theo có một số người gánh gồng lỉnh kỉnh, có người chỉ kịp xách một cái túi đổ xô vào xóm Tằm. Thế là già trẻ, giá trai làng Xuân Hội cũng bung chạy xuống bến Ông Đình lội sang Lò Ngòi để rút vào Ngọc Sơn. Một lúc sau lại có tin tiếp là đoàn xe giặc đã kéo hết vào phía nam rồi. Tất cả trở về làng trong tâm trạng băn khoăn, lo lắng. Sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng quá, không thể hiểu hết nổi. Chiến tranh rồi sao? Chẳng thấy trên thông báo gì cả. Là một cán bộ, tôi cũng có nhiều suy nghĩ, tính toán: bây giờ Ủy ban Xuân Hội sẽ làm gì? Rõ ràng là không có Tết hòa bình nữa đâu, phải kháng chiến như Nam Bộ thôi. Ăn uống qua quít, chuẩn bị gồng gánh sẵn sàng khi có lệnh thì đi tản cư theo kế hoạch.

Sau khi chiếm huyện lỵ Hòa Đa, giặc để lại một đại đội Âu Phi đóng tại trụ sở Ủy ban huyện rồi tiến vào Phan Thiết. Huyện đã kịp rút về Ngọc Sơn, chỉ thị các xóm làng ven quốc lộ 1 phải làm vườn không nhà trống và tản cư sâu vào thôn quê, tổ chức ăn ở, canh gác chu đáo, không để địch đánh bất ngờ.

Việc làm vườn không nhà trống không được gì vì phải lo tản cư, công sức đâu mà đập phá nhả cửa. Đó là một thực tế. Sau này tôi chỉ thấy ở Thái An và Bầu Trắng là vùng sâu nên có làm nhà không vườn trống Một số bà con Xuân Hội chạy sang Khánh Tài, Lò Ngói cho gần, chiều tối có thể về coi nhà cửa, tài sản. Số khác chạy xa vào Ngọc Sơn cách quốc lộ 1 hơn ba cây số. Gia đình tôi ban đầu ở Lò Ngói. Tại đây có con đường đất rộng chạy lên giáp cầu Xóm Lụa chỉ hơn cây số. Sau đó tôi mới thấy mình không quàn sợ chút nào. Ngồi trong nhà ở Lò Ngói thấy rất rõ cầu Xóm Lụa và các đoàn xe địch chạy qua lại. Nếu xe địch theo đường này thì chỉ vài phút là đến xóm. Sau lưng xóm là đồng trống kéo dài đến bìa động Ngọc Sơn, địch ập đến thì không sao chạy thoát được. Quả nhiên mấy tháng sau, có một lần địch càn Lò Ngói, bắn chết bảy người.

Tản cư nhưng không sao đem hết tải sản, lương thực đi được, một số thanh niên cứu quốc Xuân Hội chúng tôi phải bám xóm làng trông coi của cải cho đồng bào. Bà con rất đồng ý. Cũng chỉ làm theo ý nghĩ của mình vì thấy là cần thiết. Đã ở lại xóm thì tất nhiên phải tổ chức nắm địch để bảo vệ mình, chúng tôi lập các tổ Mai Ca Nên, Chương Me nhỏ, Dung, Thuận, Huấn, v.v…. để bảo vệ dân và nắm địch. Từ đó mới nảy sinh việc ghi chép thống kê hành động hàng ngày của địch. Hơn mười ngày sau, địch Hòa Đa đưa một tiểu đội đến đóng đồn tại bờ bắc cầu Xóm Lụa để giữ cầu, đường và kiểm soát các làng xung quanh. Giặc Pháp gọi Phan Thanh Cần (một đề lại già của huyện Hòa Đa trước đây) ra làm huyện trường. Phan Thanh Giác người Chăm, chủ tịch huyện Phan Lý bị địch bắt trong một trận càn cũng đã nhận làm huyện trưởng Phan Lý Chăm, tiếp tay cho người Pháp nắm người Chăm. Lính Pháp ở đồn cầu Xóm Lụa (gọi là đồn cầu số 4) thường sục vào các làng lân cận tìm các lý trưởng cũ gọi ra làm tề. Cũng có người chịu ra làm xã trường như Đoàn Kế Nga ở Xuân An.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:49:37 PM

Chúng tôi nhờ thạo địa hình, biết tổ chức nắm địch, biết rõ chúng đi ngày nào, sáng chiều, quân số, trang bị, hành động, v.v… ghi chép đầy đủ cả xe cộ vận chuyển trên cầu như kiểu nhật ký nắm tình hình địch. Giá lúc đó có một đơn vị bộ đội liên lạc với chúng tôi để nắm địch tác chiến thì hay biết bao nhiêu! Trái lại, việc làm đó chẳng những vô bổ, lại sinh rắc rối, suýt mang họa. Huyện hỏi thanh niên Xuân Hội sao không tản cư mà ở lại xóm? Ai cho phép nắm địch, nắm để làm gì? Thật là một tin sét đánh. Hồi ấy, khi có điều gì nghi ngờ thường bị quy chụp là Việt gian và xử tử không phải là không có. Chúng tôi vội giải tán, đi theo gia đình tản cư, chưa đến mùa màng nên chỉ ăn chơi, trốn địch chứ chẳng làm được gì có ích cho kháng chiến và cho gia đình.

Thật ra thanh niên Xuân Hội cũng có tự động tìm cách đánh giặc theo cách của mình. Hai anh Nguyễn Nhỏ, Nguyên Me vốn là lính bảo an tỉnh ở Phan Thiết. Cách mạng tháng Tám trở thành Giải phóng quân, giặc đến, đánh mấy trận, đơn vị cho tạm về nhà. Là lính, các anh có kỹ năng quân sự và dạn dĩ. Một đêm hai người mò vào đồn Xóm Lụa quan sát địch. Đêm khuya yên lặng, vào sân đồn thấy mở cửa, bèn mò vào luôn, định tranh thủ chộp vài khẩu súng (!). Bỗng đụng chiếc cà mèn phát ra tiếng động, một tên Pháp đâu đó trong bóng tối hỏi: Cái gì? (quesque), cả hai vội bung chạy ra, tưởng mèo chuột khuya, nó chỉ bắn một phát pháo sáng rồi in luôn. Anh Nhỏ sau Hiệp định sơ bộ mùng 6 tháng 3, trên đường về đơn vị, đến Tăng Phú bị địch đi càn bắt về Hòa Đa, biết là Giải phóng quân, địch dụ dỗ không được đã bắn anh. Tấm gương trung thành với Tổ quốc, thà chết không theo giặc đã gây xúc động lớn trong đồng bào Hòa Đa. Nghe huyện có ý định đặt tên huyện Hòa Đa là huyện Nguyễn Nhỏ. Có lẽ do bận kháng chiến liên tục nên rồi không ai nhắc đến chuyện đó nữa.

Mò được vào tận đồn địch mà không lấy được súng tiếc quá! Ca, Nên và tôi bàn làm lại thử xem sao. Đêm ấy, ba chúng tôi ra hướng đồn, đi luồn từ nhà này sang nhà khác; đên lò rèn ông Kiểm Xồm cách đồn độ trăm mét chợt thấy trong căn nhà trống để ống bễ có nhiều người nằm ở sân gạch, quan sát kỹ thì đúng là địch ngủ, thấy đầu nó có súng. Một ý nghĩ lóe trong đầu, mỗi đứa cuỗm một khẩu súng. Chưa kịp chui vào thì một tên lính không biết từ đâu xuất hiện đi vòng quanh sân, tay lăm lăm khẩu súng. Hoảng hồn, cả bọn vội lui ra, bỏ mồi! Vừa tiếc, vừa ức, giá mỗi người có một quả lựu đạn thì tuyệt. Cho hay, dù là đi ăn trộm súng bí mật mà tay không thì cũng chẳng dễ ăn!

Anh em phát hiện: ban đêm có vài chục tên lính ngủ trên lòng cầu Xóm Lua; thanh niên xóm tôi lại bàn việc đánh bọn này theo tinh thần xáp chiến kiểu Cao Thắng. Cầu có tám nhịp, giữa hai mố là bảy trụ cầu, buộc dây vào năm chân giữa, dùng năm cặp để tấn công. Nối nhau leo lên mặt cầu, bất ngờ xông vào diệt bọn lính ngủ, cướp súng, theo dây tụt xuống nước bơi vền lên bến Xóm Tằm là xong. Kế hoạch rất táo bạo, rất hay, ai cũng hào hứng tham gia đội cảm tử. Nói thì hay, làm được thì lại càng tuyệt vời; song đánh giặc thật không phải như đánh giặc giả thời học trò. Cho một cặp leo lên mép thành cầu quan sát mới thấy bao nhiêu là cái khó. Đánh hai cặp thì nhanh nhưng không gọn, đánh nhiều thì khó giữ bí mật và làm sao tấn công nhất loạt? Nhưng khó nhất là không sao giải quyết được gọn gác lưu động chứ không phải bọn lính ngủ. Tính mãi không xong, cả những người hăng hái nhất cũng không gỡ được đành xếp lại. Chẳng lẽ thanh niên Xuân Hội không làm được việc gì sao? Anh Hai Phê lại đi xem địa thế trong làng. Có một đoạn đường có thể phục kích được. Bên nhà ông Bộ Thiện là hàng rào thuốc dấu rất dày, rậm rạp. Đối diện bên vườn ổi anh Giáo Lý là hàng trụ long cao, có thể khoét lỗ ngồi ém dưới chân rào. Địch thường đi một tiểu đội, ta sẽ dùng 12 cặp, mỗi cặp phụ trách một tên giặc. Khi cặp đầu xông ra ôm tên đi đầu, hô xung phong thì tất cả đồng loạt ào ra nhằm tên phụ trách mà hành động. Vũ khí là mác, phản, rựa cụt cán là gọn nhất. Quyết ăn cho được cú này. Nhưng… lại cũng như! Cao Thắng đánh ở rừng núi thành công rực rỡ, sử sách đã ghi chép, còn ở đây là xóm làng xem két kỹ thấy cũng không ổn. Khoét thử mấy lỗ thấy chỗ kín chỗ trống không sao giữ bí mật cho cả 24 người, nó phát hiện nổ súng trước thì nguy to, chắc chắn bị thất bại. Tính đi tính lại, chỉ huy Hai Phê cũng lắc đầu:

- Chưa được, để tính thêm, nhưng không bỏ đâu!

Nói thì chắc như vậy, nhưng sau đó có tin huyện hỏi thanh niên Xuân Hội không đi tản cư, ở lại xóm định làm gì. Thế là rã đám. Chỉ với tay không, chẳng súng, chẳng lựu đạn, không được giúp đỡ, khuyến khích mà nguy cơ đến tính mạng lơ lửng trên đầu. Thanh niên Xuân Hội muốn đánh địch một trận để có lợi cho kháng chiến mà không làm được. Trong khi đó ở Hòa Đa lại có một chuyện tay không lấy súng giặc thật tuyệt vời. Trường tiểu học Hòa Đa sát đường số 1 bỏ trống vì chạy giặc, các đoàn xe Pháp thường vào nghỉ trưa rồi đi. Một hôm, có đoàn xe ghé trường, lính ăn xong lăn ra ngủ mê mệt, súng ống bỏ ngổn ngang trong phòng. Anh cai trường vào phòng, địch chẳng biết gì, nhìn đống súng thèm quá, anh nảy ý định lấy một khẩu. Súng máy thì dài, nặng, khó giấu, súng trường thì không ngon, đã liều phải cho đáng giá. Thấy một khẩu vừa, gọn, anh lấy đút vào kệ dưới bàn thầy giáo. Địch vội vã hành quân, lộn xộn thế nào mà quên khẩu súng, anh liền xách súng nạp cho xã. Mừng quá mà không ai biết súng gì. Khẩu súng được đưa về huyện trang bị cho bộ đội địa phương. Đây là khẩu tôm xông, chiến lợi phẩm đầu tiên của tỉnh Bình Thuận trong kháng chiến chống Pháp. Khi trung đoàn rút một trung đội địa phương huyện thì khẩu tôm xông này về với đại đội Trần Quốc Tuấn. Trong một trận chống càn ở Ô Rô, nó đã nổ một loạt xâu táo hạ ba tên Pháp. Trường tiểu đội có mượn nó về giản bài binh khí học nên tôi biết rõ lai lịch khẩu súng này. Nhân dân ta thật anh hùng, khi có thời cơ thì tay không cũng làm nên việc lớn. Hồi đó không ai quan tâm khen thưởng chiến công này. Sau ngày giải phóng huyện Bắc Bình viết lịch sử truyền thống thì không tìm ra được anh cai trường này nữa!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:50:34 PM

Tôi vào Ngọc Sơn với gia đình. Một đêm, có anh Tạ Viết Quý, trung đội trưởng Đại đội 1 chi đội 1 đi công tác ghé xóm, tôi ngỏ ý xin theo anh đi bộ đội, anh nhận lời báo chờ ba hôm nữa anh quay lại dẫn đi. Tôi chờ mãi không thấy, vậy là lỡ một cơ may tòng quân.

Một hôm, anh Bảy Thăng nhắn tôi đến nhà làng Khánh Tài họp bàn công tác kháng chiến. Từ ngày giặc chiếm quê tôi cho đến lúc đó, Ủy ban và Việt Minh Xuân Hội ngừng hoạt động, ngay được gọi đi họp, tôi mừng vô hạn. Tại cuộc họp có các ông Trương Đình Nga, Lê Văn Vui, Nguyễn Hoàng và Văn Thảo. Anh Bảy Thăng động viên mọi người ra sức góp phần vào sự nghiệp kháng chiến. Huyện đã chia thành mười khu (như xá sau này), các làng Hòa Thuận, Đa Phước, Xuân An, Xuân Hội là khu 6. Anh chỉ định ông Nga làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính khu 6, ông Vui phó chủ tịch, Nguyễn Hoàng thư ký, Văn Thảo chủ nhiệm Việt Minh khu, tôi phó chủ nhiệm. Trước mắt là vận động toàn dân chống địch lập tề, đồng thời tích cực xây dựng lại các đoàn thể cứu quốc. Phương thức hoạt động là bí mật, bất hợp pháp, giữ gìn lực lượng. Công việc ban đầu là rải truyền đơn, dán biểu ngữ, treo băng cờ, làm cho nhân dân tin tưởng kháng chiến.

Anh Bảy Thăng là ủy viên Việt minh huyện và là bí thư Thanh niên Cứu quốc huyện nên còn bàn thêm công tác thanh niên và bổ sung tôi vào Ban Chấp hành thanh niên huyện phụ trách thanh niên khu 6. Mọi người nghiêm trang tuyên thệ dưới quốc kỳ và ảnh Bác Hồ, nguyện trung thành với chính phủ, nỗ lực thực hiện nhiệm vụ, đẩy phong trào địa phương lên, góp phần với huyện, tỉnh và cả nước. Ra về, lòng tôi tràn đầy sung sướng vì có sự chỉ đạo của trên, không lơ lửng như thời gian qua phí công vô ích. Rủi thay, chỉ một tuần sau, Văn Thảo hy sinh trên đường công tác ở Thương Thủy. Tôi thay thế nhiệm vụ Thảo. Tôi gặp Trường Cần, em bà con, cũng là bạn học của tôi; Cần là một thanh niên đầy nhiệt huyết, vui lòng nhận ngay nhiệm vụ bí thư Thanh niên khu 6. Cần tập hợp thêm hai bạn Trác, Lý thành một bộ ba rất hăng say, năng nổ. Về Phụ nữ cứu quốc, tôi vận động Trương Thị Kim Cúc làm bí thư Phụ nữ khu 6. Tôi cũng liên lạc với anh Lương Tri, một cán bộ nông dân ở Liêm Công để phụ trách đoàn thể nông dân. Chỉ một thời gian ngắn, Việt Minh khu 6 đã hình thành lại hệ thống các hội cứu quốc, khôi phục sinh hoạt, phát triển lực lượng, trước hết là củng cố lòng trung thành với Chính phủ Cụ Hồ, chống các chủ trương của địch. Phong trào khu 6 khá mạnh và được giữ vững lâu dài.

Ai cũng biết hoạt động là rất nguy hiểm, có thể bị tù đày, hy sinh nhưng công tác cách mạng rất quan trọng, vẻ vang, có tích cực hoạt động mới là thực sự kháng chiến, trung thành với Tổ quốc, với Bác Hồ. Mỗi lần sinh hoạt mừng công tác có kết quả, lòng vui khấp khởi, càng ra sức phát triển phong trào. Tôi vẫn nắm tổ chức thanh niên Xuân Hội; cùng Ca, Nên giáo dục lãnh đạo sinh hoạt và hoạt động; các em đã làm được nhiều việc, bám nắm địch, rải truyền đơn, treo băng cờ, đặc biệt là canh gác bảo vệ các cuộc họp.

Bấy giờ đã có số đông bà con về xóm sống hợp pháp làm ăn, kháng chiến trong vùng địch kiểm soát nên chúng tôi bám xóm làng hoạt động là có nhiệm vụ hẳn hoi, không phải tự động như trước. Là học sinh, anh em viết băng rôn, trình bày truyền đơn biểu ngữ với các loại chữ lớn nhỏ rất đẹp. Ca viết chữ hoa, chữ in, chữ rông, chữ gô tích không chê vào đâu được. Phông nền của các biểu ngữ áp phích đều rẩy mực tạo thành nền trời xanh có cờ đỏ sao vàng. Địch thì gỡ phá còn đồng bào thì trầm trồ khen ngợi. Có khi chỉ một ngày đã quần với địch vài ba lần. Truyền đơn, khẩu hiệu xuất hiện buổi sáng, địch lượm, gỡ hết thì trưa đã có số khác nhiều hơn, đẹp hơn. Chúng lại thu nhặt, la lối hăm dọa dân, chiều vẫn có tiếp. Việt Minh ở cạnh đây thôi, địch mệt đừ với các em thiếu niên cứu quốc dũng cảm này.

Đối đầu như vậy có lần cũng suýt bị nguy hiểm. Chợ Lầu là chợ làng Xuân Hội, các làng lân cận đến họp chợ hàng ngày rất đông đúc. Đầu chợ có một cái lầu nhỏ, có lẽ do vậy nên gọi là chợ Lầu. Địch dùng nhà lầu này làm nhà tuyên truyền, trình bày tranh ảnh khoe khoang sức mạnh của hải, lục, không quân Pháp hòng bắt đồng bào ta khuất phục, hợp tác với chúng. Tôi trà trộn vào xem và thấy nó rất nguy hiểm vì một số người xem cũng trầm trồ thán phục. Chúng tôi quyết phá phòng tuyên truyền. Chuẩn bị đầy đủ cờ, khẩu hiệu, áp phích, truyền đơn nói về cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta nhất định thắng lợi, kêu gọi quân viễn chinh Pháp chống lại cuộc xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp. Viết bằng hai chữ tiếng Việt – Pháp, trình bày công phu, đẹp. Đêm đó, tôi cùng Ca, Nên xuống chợ Lầu, bố trí canh gác rồi cả ba leo lên mái lầu, xuống chợ Lầu, bố trí canh gác rồi cả ba leo lên mái lầu, nảy vào bên trong, bên ngoài cửa vẫn khóa. Xé gỡ hết hình ảnh trưng bày của địch, treo cờ, dán áp phích lên vách, để đầy truyền đơn ta lên bàn. Có ám hiệu báo địch. Tắt đèn ngồi im, nếu chúng mở khóa thì không đường nào thoát vì nhà chỉ có một cửa vào, chúng tôi lại không có vũ khí gì cả. Tiếng giày đinh rầm rập, tiếng nói ồn ào xung quanh càng uy hiếp chúng tôi dữ dội. Có tên còn lúc lắc khóa để kiểm tra. Mỗi giây phút trôi qua là cái chết như sắp đổ xuống đầu. Một chập, chúng kéo đi. Hú vía! Xong việc, leo lên nóc chui ra nhảy xuống, sung sướng ra về. Chắc chắn ngày mai địch bị một vố đau. 8 giờ, địch ở đồn Cầu Xóm Lụa xuống chợ, vào phòng tuyên truyền, chúng sửng sốt rồi ra chợ truy hỏi nhưng chẳng ai thấy Việt Minh đâu cả. Chúng giận dữ bắn bậy một ồi, dọa lần sau còn xảy ra sẽ bắn hết cả chợ. Tất nhiên, chúng tôi cũng biết tin này và chẳng dại gì làm một lần nữa để địch giết hại đồng bào.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:51:44 PM

Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 đến thật bất ngờ, vui mừng không thể tả. Thắng lợi rồi! Nam Bộ kháng chiến gần nửa năm, tỉnh ta mới hơn một tháng! Trong lịch sử đánh quân Nguyên đời Trần lần thứ nhất cũng chỉ 21 ngày. Lúc này, chúng tôi mới có lòng trung thành, sự tin tưởng tuyệt đối Chính phủ và Bác Hồ, chứ trình độ chính trị thì còn non yếu nên vẫn thắc mắc: tại sao nước ta chỉ là một quốc gia tự do, lại còn ở trong khối Liên hiệp Pháp? Tại sao Bác Hồ và Chính phủ lại cho địch lên miền Bắc với 15 ngàn quân và 5 năm mới rút hết?

Mấy hôm sau nghe một số người đi qua trước đồn Xóm Lụa cũng không sao, có tên lính ngụy còn nói là đã có hiệp định, hết chiến tranh rồi, dân cứ đi lại làm ăn bình thường. Để biết thực tế, chúng tôi bàn đi trực tiếp quan sát. Tôi Ca, Nên và anh Nguyễn Ngọc Cẩn, người Xóm Tằm, đang học ban tú bài, về ăn Tết bị kẹt không ra Hà Nội được, còn ở xóm tản cư với chúng tôi. Ba giờ chiều, khi đã thấy cầu và tên gác rõ mồn một thì chột dạ cũng không lui lại được nữa. Qua cầu, đến cổng đồn một lính Pháp cùng hai lính ngụy ra hiệu chúng tôi dừng lại:

- Đi đâu?

- Đi tản cư về.

- Về đâu.

- Về Xóm Tằm.

Tôi chỉ vào hướng Xóm Tằm. Một tên ngụy nhìn chúng tôi chòng chọc rất ác cảm. Tên Pháp hỏi, tên ngụy thông ngôn lại bằng tiếng bồi:

- Bốn anh bạn này đi từ nơi trốn về nhà (quatre camarades parti de la fuite à la masion).

Tên Pháp gật đầu không nói gì. Chúng tôi bình tĩnh đi qua đồn. Tên ngụy kia nói với theo:

- Bắt lại giam, đánh chết mẹ nó đi, nó nói láo đó.

- Người ta về lại xóm là tốt, bắt làm gì?

Vừa khuất bóng giặc, chúng tôi bươn bả vào xóm làng chưa hết sợ, nếu chúng trở mặt gọi lại thì nguy. Về nghĩ lại thấy việc qua đồn cũng khá liều lĩnh, vẫn có tên có thái độ rất hằn học mà mình đều là thanh niên, dù anh Cẩn giỏi tiếng Pháp cũng chưa chắc gì đã yên. Sau đó anh Cẩn ra Nha Trang, nhờ giỏi tiếng Pháp nên được chúng cho đi ra khu 5, khu tư và lên Việt Bắc đậu kiến trúc sư, phó tiến sĩ. Ngày giải phóng, anh là phó giáo sư, phó tiến sĩ, Vụ trưởng vụ Kế hoạch, Bộ giao thông vận tải.

Giặc Pháp ngày càng phá hoại hiệp định sơ bộ. Hội nghị Đà Lạt không kết quả. Hội nghị Phông-ten-nờ-blô cũng khó khăn. Ở địa phương không có dấu hiệu gì địch muốn thi hành tạm ước 19 tháng 4, phải chiến đấu thôi. Huyện giải thể các khu, lập các xã. Khu 6 thành xã Thuận Thành; chủ tịch xã là ông Lê Vui, phó chủ tịch là Nguyễn Hoàng, tôi làm thư ký kiêm chủ nhiệm Việt Minh xã. Địch đẩy mạnh chiến tranh, tôi càng muốn đi bộ đội. Theo Hiến pháp 1946, thanh niên phải làm nghĩa vụ quân sự 3 năm, giá hồi đầu năm, anh Tạ Viết Quý trở lại Ngọc Sơn như đã hẹn thì tôi đã đi bộ đội rồi, nay phải xin phép, rắc rối quá. Bạn bè và các anh ở xã đều ủng hộ, riêng anh Bảy Thăng dứt khoát không cho.

- Để anh em khác đi cũng được, cậu đang có nhiệm vụ, phải ở lại hoạt động cho địa phương.

Tôi biết bộ đội tỉnh ta đã có hoạt động, trận Hòn Nghề ở Bình Thiện cuối tháng 5 ta diệt một trung đội Pháp, thu nhiều súng, có hai trung liên. Chiến thắng được truyền nhanh rộng, trong địch hậu cũng rất phấn khởi. Một đêm cuối tháng 7, tôi đang ngủ, giật mình choàng dậy vì súng máy đồn Xóm Lụa nổ dồn dập dữ đội, đường đạn bay trên mái nhà thật khiếp. Cả giờ trôi qua, tiếng súng thưa dần rồi tắt hẳn, đêm vắng lặng. Sáng rõ, một số ở gần đồn kéo ùa vào mới biết khi đêm bộ đội đánh diệt đồn, lấy súng, thiêu hủy hết đồn rồi. Địch xây đồn mới, lực lượng tăng thêm một trung đội. Tiếc là đánh xong, bộ đội ở thu dọn lâu mà không cho nổ sập cầu Xóm Lụa.

Giặc Pháp không thi hành tạm ước 19 tháng 4, càng thúc giục tôi nôn nóng nhập ngũ để làm tròn nghĩa vụ người trai “xếp bút nghiên”. Là cán bộ Việt Minh và Ủy ban xã, tôi phải được sự đồng tình ủng hộ của các đồng chí lãnh đạo. Thời đó dù đi bộ đội mà không được tổ chức đồng ý vẫn bị xem là đào ngũ. Tôi đã quyết nên mỗi khi họp là tôi kiên trì vận động. Cuối cùng anh Bảy Thăng cũng xiêu lòng:

- Nó muốn đi qua mình cũng không nỡ cản. Vậy là mất một cán bộ thanh niên rồi!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:57:10 PM

4. Nhập ngũ.

Dịp may đã đến. Đầu tháng 10 năm 1946, các anh Ba Cường và Bảy Sách, chiến sĩ Đại đội Quang Trung về làng vận động nhập ngũ. Bảy anh em Xuân Hội tòng quân. Tôi ở tuổi thanh niên nhưng nhỏ con, ốm yếu, Công và Khánh mới 16 tuổi, là ba người nhỏ con nhất. Ai cũng nói chắc tôi bị loại thôi, ốm yếu như vậy làm sao đánh giặc nổi. Hơi buồn nhưng tôi cứ quyết đi. Có người trốn cả cha mẹ, vợ con để đi, tội nghiệp. Tôi thì không, khi xin phép bà nội và mẹ không cản nhưng ý chứng không muốn tôi đi vì tôi là con trai lớn. Cha tôi nói nhẹ nhàng:

- Con đi là đúng. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Cha đã già rồi, nếu còn trẻ cha cũng đi.

Tôi cảm động không nói nên lời, nắm chặt tay ông và lòng biết ơn vô hạn. Cha tôi đã động viên, chắp cánh cho tôi. Mẹ cho hai chục đồng bạc Việt Nam và dặn:

- Con phải ráng sao cho bằng anh bằng em.

Tạm biệt gia đình ruột thịt, xóm làng, bạn bè thân yêu ra đi vì nước, thỏa chí tang bồng, mai này đất nước độc lập, thanh bình, nếu còn sống, ta sẽ về lại mái nhà từng gắn bó từ ngày thơ ấu, sống lại cuộc đời vui tươi nơi thôn đã yên lành. Mẹ tôi đi tiễn một đoạn đường. Bà bưng một rổ lớn nói là đi Thái An hái dâu tằm nhưng tôi biết ý định của mẹ là đi trước “trinh sát” bảo vệ cho chúng tôi vì bà dặn khi nào giở nón lá là có địch, ở sau phải lách tránh. Từ Thái An, đoàn đi vào đường xe bò xuống Bàu Trắng. Mẹ đứng nhìn đến khi chúng tôi khuất xa mới rẽ vào xóm. Đến Dốc Găng ghé vào một chòi rẫy nghỉ. Chủ nhà hỏi:

- Đi đâu mà toàn thanh niên vậy?

- Chúng tôi đi bộ đội. Xin bác một ít nước để ăn trưa rồi đi tiếp.

Nước ở Khu Lê rất khó, nhưng chủ nhà còn vui vẻ bưng ra một rổ khoai lang luộc mời khách. Khoai đất cát rất ngon, củ nào cũng tròn lẳn, mới thấy đã thèm. Chúng tôi ăn sạch cả rổ khoai rồi để hết cơm nắm biếu lại chủ nhà. Ở rẫy thường ăn cơm độn khoai đậu, nay có vắt trắng thì tuyệt rồi. Bốn giờ chiều, anh Cường vào đơn vị báo cáo. Ba mươi phút sau có hai người ra gặp. Một chỉ huy to cao đẹp trai, đầu đội bê rê bát, đính sao có vành vàng, quân phục xanh dương, nịt xanh tuya rông, một bên đeo xắc cốt, một bên đeo súng ngắn hơi trễ xuống, giầy da cao cổ rất oai. Một người đeo xác cốt, mặt xita xám, ca lô xám có sao vành chỉ bạc. Đại đội trưởng nhìn kỹ từng người, tự nhiên tôi thấy hồi hộp như sắp trải qua một cuộc sát hạch. Bỗng ông hỏi tôi:

- Tên gì?

- Dạ, Phạm Hoài Chương.

- Bao nhiêu tuổi? (có lẽ ông thấy tôi nhỏ con).

- Dạ, mười tám.

- Văn hóa đến đâu?

- Dạ, cơ thủy. (không biết sao tôi không nói tiểu học. Hồi đó có lúc người ta cũng nói tiểu học là cơ thủy).

- Cơ thủy là gì? Primaire, Diplôome hay Bachelier? (tiểu học, thành chung, tú tài)

Chà, hách quá. Tôi lúng túng nhưng rồi cũng giữ được bình tĩnh.

- Dạ. Primaire.

- Chịu được gian khổ, hy sinh không?

Tôi phấn chấn hẳn lên:

- Dạ được!

- Chắc không?

- Dạ chắc.

Bây giờ đại đội trưởng mới mỉm cười:

- Thế thì tốt.

Tôi nhẹ cả người, vậy là đã qua sát hạch thắng lợi. Có lẽ ông thấy tôi ốm, nhỏ con nên chỉ hỏi một mình tôi. Như thế cả ba người nhỏ nhất đều được nhận, bốn người kia tất nhiên rồi, vì đều khỏe mạnh, rắn chắc. Sáng hôm sau, y tá trưởng Liễn ra khám từng người, cũng sơ sơ thôi, đo chiều cao bằng đứng dựa vào cột chòi. Nghe tim, phổi, gõ đầu gối, không đo huyết áp, không cân ký, may quá!

- Được hết!

Tôi và Công về trung đội 2. Trung đội trưởng trung đội 2 tên Nguyễn Uẩn, người Huế, bố trí cả hai làm liên lạc trung đội. Tôi xin được ở tiểu đội chiến đấu và đã toại nguyện. Tôi về tiểu đội 2, tiểu đội trưởng tên Kiểm (người Bắc), trong đoàn quân Nam tiến vào tháng 10 năm 1945. Từ đây tôi là chiến sĩ Đại đội Quang Trung, Trung đoàn 82 – Bình Thuận.

Vào bộ đội, tôi và nhiều bạn đều mong sao qua được 3 năm quân ngũ để làm tròn nghĩa vụ quân sự của người thanh niên theo Hiến pháp quy định. Sau đó lâu thêm bao nhiêu càng tốt. Nào ngờ chống Pháp 9 năm, và chống Mỹ 21 năm nữa!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 02:58:10 PM

*
*   *

Mấy ngày đầu trong đại đội, tôi vừa vui vừa thoáng buồn. Vui vì đã thành người chiến sĩ trong đại gia đình quân đội cách mạng; có buồn đôi chút vi đây là lần đầu xa gia đình, làng xóm, bạn bè đã gắn bó từ thuở ấu thơ. Nhưng trước mắt là nhiệm vụ cao cả của người chiến sĩ tiền phương, tôi lại nhớ đến gương các anh hùng hào kiệt được học ở trường, được xem trong “sách cấm” ngày nào, nhớ đến lời dặn dò của cha mẹ, tôi hăng hái phấn chấn hẳn lên, nhanh chóng hòa vào cuộc sống của đơn vị. Trung đội trưởng bố trí tôi làm cấp dưỡng một thời gian để rèn luyện thử thách. Anh em trong tiểu đội động viên:

- Ai cũng phải qua bước này cả, đậu thì ở lại chiến đấu, rớt thì cho về. Cậu là học trò chắc hiểu biết điều đó. Bọn mình thi đầu hết mới được mang súng đấy.

Không biết các anh ấy có thi không nhưng tôi cũng cười, nói chắc nịch:

- Tôi đậu thôi, sau thời gian thử thách, tôi sẽ lại về lại tiểu đội thôi mà!

Tôi thầm nghĩ chắc mọi người cho tôi là học trò ở nhà sung sướng chứ biết đâu tôi đã lao động dạn dày, việc thử thách này không có gì làm tôi phải lo lắng. Cùng đến quản lý đại đội nhận việc còn có một số tân binh khác. Bác quản lý già thấy tôi nhỏ con tỏ vẻ thông cảm:

- Ráng lên đừng lùi bước, hết thời gian quy định lại về trung đội mang súng thôi!

- Cám ơn bác, người khác làm được thì tôi cũng làm được.

Hôm sau đại đội hành quân chiến đấu. Mười anh em đi phục vụ nuôi quân có tôi. Đường hành quân qua động cát Bàu Tráng ra Tăng Phú. Đại đội đóng quân ở Tăng Phú rồi đi phục kích bên Phan Rí Cửa. Chúng tôi kiếm củi nấu ăn, vắt cơm cho đơn vị về lấy. nặng nhọc nhất là lúc hành quân qua động cát, tôi cùng một tân binh khác khiêng bao gạo bằng một cây đòn sò đo. Dù được anh giúp đỡ, để tôi khiêng đầu trước và đoạn tôi hơi dài nhưng tôi thấp, trọng lượng lại dồn về phía tôi nhiều hơn thành ra càng vất vả. Khi đổi vai, tôi lại phải dừng lại, chùn chân lấy sức, hai tay nâng đòn qua đầu, có lần nặng quá nâng không nổi bị đòn gánh đánh lên đầu đau điếng, cát lún, chân đi xếu xáo, bao gạo như nặng hơn; chẳng có đoạn nào đất cứng cho đỡ một chút, toàn là cát, mồ hôi đầu đìa đầu tóc, mặt mày quần áo. Gần hai giờ khuya đến nơi, thở phào nhẹ nhõm. Việc nặng nhất đã qua, các việc khác bây giờ chỉ cần siêng năng là được. Cơm nước thì bác quản lý ưu đãi, ăn thoải mái, khỏi chia phần. Thời gian rồi cũng qua, tôi về tiểu đội với cái nhìn vui vẻ của mọi người.

- Được rồi, giờ lo huấn luyện để đi đánh giặc, mà đánh giặc mới là thử thách quyết liệt nhất.

- Tôi cũng đậu nữa thôi!

Tiểu đội trưởng và các chiến sĩ cũ đều hết lòng giúp đỡ chỉ bảo nhưng lại giao cho tôi mang một khẩu súng trường Nhật dài đẫm đễnh, súng không có dây quai, tôi phải vào rừng lột mẩu bện thành dây; làm sao êm bằng dây bờ-rờ-ren? Súng quá dài, mũi súng cao hơn đầu tôi cả tấc, đế súng thòng quá gối vài tấc! Găng nhất là cái nắp sắt đậy cơ bấm, mỗi lần lên đạn kêu rổn rảng thật đáng ghét mà cũng đáng sợ. Quân Nhật đánh chính quy cả binh đoàn không cần bí mật, ta đánh du kích thì bất lợi vô cùng. Mọi người an ủi:

- Súng Nhật bắn rất êm. Người cậu yếu, bắt mút-cờ-tông giật mạnh không chịu nổi. Đạn Nhật bắn đâu nổ đó, hạ giặc ngon ơ, không lép như đạn đam (đạn Pháp), nhiều lúc mất ăn, tức chết được.

Tôi mang khẩu súng cả trung đội trưởng, trung đội phó thấy cũng cười nhưng cũng không bảo đổi khẩu khác. Về sau, tôi bắn mút-cờ-tông thì không phải tất cả đạn đều lép và cũng không giật mạnh lắm, tôi chịu dư sức. Thì ra, lính cũ cũng đùn cho lính mới thứ súng dài thườn thượt, không thích mà thôi.

Tôi tập bắn, ném lựu đạn ngoài thao trường các buổi sáng, chiều. Trưa thì ngắm điểm chạm tại doanh trại, tối sinh hoạt, hát tập thể. Mấy ngày sau có lệnh đẽo kiếm gỗ để võ sư Phi Hùng (cũng lính đại đội) dạy bốn đường kiếm chém, đâm, đỡ, gạt cả bốn cửa trước, sau, phải, trái. Đại đội trưởng động viên:

- Ngày xưa, binh sĩ Tây Sơn ra trận xông lên như gió lốc, chém rụng đầu giặc như sung, quân địch bạt vía kinh hồn. Bây giờ, quân Pháp cũng rất sợ ta dùng bạch binh đánh giáp lá cà, phải cố tập cho giỏi.

Ở đại đội, tôi thấy có nhiều mã tấu thật. Một hôm, tôi đang tập đứng bắn, chính trị viên Phạm Hương từ sau đến nắm lấy đầu súng đẩy mạnh ra sau làm tôi suýt ngã.

- Anh ni là dở nhất!

Tôi ngượng quá, từ đó hết sức cảnh giác khi thấy cán bộ đến gần. Nhờ bị chê mà tôi tập môn xạ kích không đến nỗi nào. Ba bạn Cần, Lý, Trác cũng vừa mới nhập ngũ, tôi có thêm bạn thân càng vui. Cần, Lý to con, khỏe mạnh, tập tiến bộ nhanh. Trác bị cận nặng phải mang mắt kính có quai ra sau ót, chỉ sợ khi tác chiến mà rớt, hoặc bể kính thì nguy; tuy vậy cho đến tập kết, Trác mang kính cận đằng đẳng tám năm vẫn không hề gì.

Đại đội hành quân lên Thái An phục kích tại mé rừng hướng ra ruộng. Tôi ở tổ xung lực cạnh trung liên phát lệnh của trung đội 2. Tôi hy vọng cùng đồng đội lập công trận này. Phục ba ngày không địch, lòng nhủ lòng chờ dịp khác. Ở Thái An mấy tháng trước, trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám vá Quốc khánh 2 tháng 9 đã diễn ra một trận đánh của đại đội, ta thu một trung liên đầu bạc, mà mất lại một trung liên đầu đen, xem như hòa, nhưng giặc Pháp cũng nể Quang Trung và sợ Thái An không dám đi càn thường xuyên như trước. Mấy ngày phục kích cũng làm cho tôi quen với việc chọn địa hình vừa che khuất vừa che đỡ, để quan sát, có lợi thế xạ kích, bổ ích cho các trận đánh sau này.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, cả nước theo lời kêu gọi của Bác Hồ đứng lên toàn quốc kháng chiến. Trước lúc xuất quân, Đại đội Quang Trung tổ chức mít tinh ở xóm Bình Thiện, nhân dân các làng xung quanh đến dự rất đông. Đại đội trưởng Đinh Ngọc Hằng đăng đàn diễn thuyết, ông nói rất hùng hồn, hấp dẫn, khi dứt lời, tất cả vỗ tay như sấm dậy và hô khẩu hiệu vang động cả khu rừng, thể hiện ý chí muôn người như một, tin tưởng Chính phủ Cụ Hồ, quyết tâm kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Sau mít tinh là một đêm lửa trại theo kiểu hướng đạo. Xung quanh đống lừa hồng rực sáng, các tiết mục cây nhà lá vườn nhưng không kém phần đặc sắc, đủ cả đơn ca, đồng ca, hề độc diễn. Vở kích ngắn tả lại trận Bình Thiện, địch đang lùa trâu bò xuống huyện, bị đội đội nổ súng, chúng bò lê bò càng làm mọi người cười lăn cả ra. Liên hoan đoàn kết quân dân đậm tình cá nước là cuộc động viên chính trị đặc sắc mà đơn vị thực hiện rất thành công. Trong thời kỳ đầu chống Pháp, Đại đội Quang Trung với những chiến công rực rõ và công tác quần chúng xuất sắc đã tạo được niền thương mến, tin yêu không bao giờ phai nhạt trong đồng bào các huyện Hòa Đa, Phan Lý, Tuy Phong.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:03:15 PM

5. Rèn luyện.

Đại đội đánh đồn Thượng Chánh – Phan Rí Cửa, do một tiểu đội địch đóng giữ. Một bộ phận bí mật áp sát đồn chờ địch tập hợp chào cờ sáng thì nổ súng. Một bộ phận phục kích tại chợ Phan Rí Cửa, cách đồn vài trăm mét chặn viện Hòa Đa. Trung đội 2 đảm nhận đánh viện cũng chia hai bộ phận. Hai tiểu đội có trung liên bố trí tại chợ sẽ diệt hai đến ba xe. Một tiểu đội xung lực bố trí trên các lầu cách chợ 100 mét đánh chặn các xe sau. Tôi nằm trong tiểu đội ở trên lầu. Nhiệm vụ tiểu đội tôi vừa nhẹ vừa nặng: địch viện ít thì chỉ đủ cho trung đội diệt, không còn phần chúng tôi; địch nhiều thì nhiều mấy cũng diệt cho bằng được, như vậy sẽ rất nặng và phải đánh ác liệt để bạn hoàn thành nhiệm vụ. Quân Âu Phi cơ động Hòa Đa có tới 3 đại đội, nhất định chúng sẽ đi nhiều, chúng tôi không sợ chỉ ngồi xem bạn đánh.

Đêm Phan Rí Cửa về khuya im lìm lặng lẽ. Bà con thấy bộ đội đến bố trí rất sợ, ta động viên chủ nhà cứ bình tĩnh núp kín tránh đạn, họ không nói gì, còn đem quà bánh ra ủng hộ. Hồi đó, một tiểu đội có 12 người chia thành 2 bán đội. Bán đội tôi có tiểu đội phó Thiên bố trí trên lầu hai nhà. Lần đầu tham gia đánh địch trong vùng sâu, dân cư đông đúc, nhưng nhà cửa san sát, có thể che đỡ tốt nên tôi cũng bình tĩnh cùng anh em chờ giờ nổ súng.

Một loạt trung liên rền vang, tiếp theo tiếng lựu đạn, súng trường dồn dập. Đánh rồi! Có tiếng ôtô.

- Địch viện nhanh thế? Mấy chiếc?

- Một.

- Sao ít thế?

- Nào ai biết vì sao?

Mấy tên lính Pháp ngồi trong thùng xe to đùng. Xe đến chợ, khẩu trung liên của trung đội khạc rất giòn. Trên lầu, tôi thấy anh em tràn ra đường. Anh Uẩn đứng rạng chân, miệng thổi còi liên tục. Chiếc xe bốc cháy rừng rực. Có liên lạc đến cho biết: đây là chiếc xe mang máy điện thoại xuống đồn, nó ra khỏi Hòa Đa, ta mới nổi súng nên chưa phải là quân viện, ta diệt sáu tên, thu sáu súng trường Anh, một số máy và dây điện thoại. Trung đội tiếp tục phục đánh quân viện cho đồn. Trung đội đánh thắng đã làm khí thế đơn vị lên rất cao.

Hơn 15 phút mà súng ở đồn vẫn còn nổ, tiếng trung liên bắn qua lại không dứt, xen kẽ tiếng súng trường, lựu đạn ầm ầm. Kiểu này là chưa dứt điểm, sẽ đánh viện to. Bỗng có lệnh: Đại đội cho trung đội 2 lui, xuống đò qua Hà Bớ. Dưới bến đã có nhiều thuyền dân chở bộ đội. Lên đất Hà Bớ, tôi thấy bóng dáng cao lớn của đại đội trưởng và chính trị viên Trần Quốc Thái phía trước. Đang trên đường ra Tân Phú thì nghe tiếng xe ầm ĩ bên chợ, tiếp đó thấy khói lửa ngút trời. địch đã sang sông đốt làng Hà Bớ ở sát biển, hàng trăm nhà lá san sát nên cháy sạch cả. Quân viện không bị đánh, không dám đuổi bộ đội mà quay ra hại dân, tội ác giặc Pháp thật chồng chất. Về Tăng Phú được biết do ban ngày quá trống, ta không áp sát được sân đồn, địch tập hợp chào cờ nhưng xa, mấy loạt trung liên đầu không diệt hết địch, tên xếp và tên xạ thủ trung liên còn sống sót xách được khẩu trung liên chạy vào đồn bắn trả quyết liệt. Không chiếm được đồn, kéo dài sẽ bị kẹt không sang sông được nên đại đội cho lui. Bọn viện đến nghe dân hù là bộ đội đông lắm nên chỉ đốt nhà dân trả thù. Thương đồng bào Hà Bớ bị tai họa, may là không ai bị giết. Ta chỉ thương nhẹ vài đồng chí khi đánh đồn. Đồng chí Trương Cần đánh trận rất dũng cảm, được đại đội biểu dương. Tôi xiết chặt tay mừng bạn lập được thành tích.

Đại đội hành quân ra Tuy Phong, đóng trong rừng không xa đồn ga Sông Lòng Sông mấy, các tham mưu con đoán chắc sẽ đánh đồn tiếp. Quả là hôm sau đại đội phổ biến kế hoạch đánh ga Sông Lòng Sông. Trung đội 2 phụ trách đánh dãy nhà lính của đồn. Trung đội chia thành 3 mũi vào sát sân rào cách vách đồn trên 30 mét. Đồng chí Văn (tân binh) phụ trách tiểu đội phó đi kiểm tra đội hình, thấy tôi nằm trong một hố trũng hơi chệch không đúng hình chữ V như học ở nhà, liền bảo tôi phải dịch lại cho đúng, tôi không cãi nhưng ra trận điều quan trọng là phải biết lợi dụng địa hình địa vật cho có lợi khi tác chiến, xê dịch chút ít chả sao, việc gì phải đúng chữ V, chữ A!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:04:44 PM

Súng máy trung đội một nổ giòn giã, tiếng súng trường lựu đạn liên hồi. Địch bắn trả như vãi đạn. Chúng tôi tập trung bắn vào những nơi có ánh lửa tóe ra. Tôi ném một quả lựu đạn vọt qua rào, lăn lông lốc vào phía vách đồn, nổ dữ dội nhưng vì ngoài vách nên chẳng ăn thua gì. Trung đội trưởng cho đưa trung liên và một số xung lực vượt rào. Anh Kiểm leo rào, chạy vọt qua sân vào trong được một lựu đạn thì trúng đạn hy sinh. Trung liên chưa vào được, pháo sáng rọi thấy nhau rõ mồn một, địch bắn rát, trung đội trưởng thấy bộ đội bị chặn ngoài rào, nếu dây dưa, thương vong càng nhiều, nên cho lui. Anh Kiểm hy sinh, không đem về được.

Xuất quân đánh hai trận không kết quả nhưng tất cả vẫn quyết tâm chiến đấu lập công. Chiều 18 tháng 01 năm 1947, đơn vị ra quốc lộ 1 phục đánh giao thông đêm tại dốc Bàu Đá – xã Chí Công. Tiểu đội tôi nằm lề bắc đường chỉ cách mé lộ vài mét, ban đêm càng sát địch đánh càng dễ. Một xác ô tô con nằm cạnh đường được đẩy ra chắn ngay giữa lộ. Tiểu đội trưởng của tôi là anh Hồ Thế Sanh (quê Duồng, học sinh trung học, hiền, dễ mến) dặn tất cả đánh trận phải làm động tác bắt chước cho nhanh, bắn bao nhiêu đạn phải lượm hết vỏ về nạp. Tôi biết anh muốn kiểm tra chiến sĩ báo cáo bắn mấy viên thì phải có đủ số vỏ đạn nạp lại. Tiểu đội trưởng dẫu không dặn là không được ngủ quên thì tôi vẫn không chợp mắt được, bụng cứ nôn nao đợi giờ xe đến! Có lẽ hơn 3 giờ, chùm sao Bắc Đẩu đã chênh ngang tây. Có tiếng động cơ, tôi lên đạn, nhô đầu quan sát mặt đường. Ánh đèn pha sáng lóa trước mắt. Bị vật cản, chiếc xe đầu dừng lại. Các hỏa lực hốt-kít, bờ-ren đồng loạt trút đạn vào xe địch. Tiếng súng toàn trận nổ giòn giã. Tôi nhằm số lính trên xe đầu bắn liền ba phát thì anh Sanh xung phong, tôi nhảy vọt lên theo anh ra đường. Đêm lại tối như mực, đang dò tìm xác địch dưới đường để thu súng thì nghe một tiếng nổ lớn, lửa bốc cháy rừng rực cùng tiếng đạn nổ lớn, lửa bốc cháy rừng rực cùng tiếng đạn nổ như bắp rang trên xe, mùi khói súng, mùi thịt người khét lẹt tởm lợm. Một đồng chí nào đó đã vội vã ném chai cháy vào thùng xe, không ai dám lên xe thu súng. Chiếc xe thứ hai phía sau cũng cháy nhổ như vậy nên mọi người chỉ còn sục sạo hai bên đường. Có lệnh rút, tôi sực nhớ, vội quay lại hầm mò lấy đủ ba vỏ đạn. Về Thuận Long được phổ biến: kết quả ta đã diệt, thiêu hủy hai xe, bắn bị thương một xe, chiếc này chưa lọt vào ổ phục kích vội quay lại, bị bắn xép lốp sau, thương vong một số trên xe, nó vẫn cố lết về Duồng. Gần hết một đại đội Âu Phi cơ động của chi khu Hòa Đa đã bị diệt, nhưng ta chỉ thu được hơn chục súng trường Anh và mấy tiểu liên vì số lớn vũ khí bị cháy rụi cùng số lính chết trên hai xe. Địch ném một quả lựu đạn chày trúng hầm hốc-kít làm ba hy sinh (trong đó có đồng chí Phan Nhân Cương, trung đội trưởng trung đội 3, đồng chí xạ thủ hốc-kit và ba bị thương. Bọn này là lính lê dương thiện chiến nên cũng có tên kịp chống trả, gây cho ta tổn thất. Dù vậy, đây vẫn là một chiến thắng lớn, giòn giã của đại đội. Calvet, đại úy chi khu trưởng Hòa Đa, từng khoác lác sẽ bóp chết Đại đội Quang Trung trong một tháng; nhưng lâm trận đã tháo chạy thục mạng, bỏ mặc lính bị tiêu diệt. Quá trưa, địch mới đến trận địa, bắt dân xung quanh thu dọn xác chết, lượm lại súng đạn của bọn lính chết. Nếu đại đội để gần sáng mới rút hoặc để lại một số trinh sát sẽ thu thêm khá nhiều súng, có cả trung liên và mọt-ta. Âu cũng là thời kỳ đầu chiến tranh, chỉ huy và chiến sĩ chưa có mấy kinh nghiệm trong tác chiến và xử lý tình huống. Tôi được đại đội trưởng biểu dương không phải vì diệt địch thu súng mà vì đã nộp đủ ba vỏ đạn. Có lẽ không ai trong đại đội làm như vậy nên đại đội đánh giá cao để nêu gương. Thời ấy, mỗi súng chỉ có 10 – 15 viên đạn, phải nộp lại vỏ đạn như cho binh công xưởng rờ sạt thì mới có phát tiếp. Chiến thắng Bàu Đá có ý nghĩa và tác động lớn đối với phong trào địa phương.

Rừng chiến khu Thuận Phong –Nha Mé hôm nay tươi đẹp làm sao, gió sớm mát lành, cành lá xanh tươi mơn mởn, những cành mai vàng càng tô điểm thêm cho cảnh sắc ngày xuân. Tết đến với chiến sĩ! Vừa lập được chiến công để hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác Hồ, Đại đội Quang Trung như tươi trẻ hẳn lên, vui vẻ phấn chấn lạ thường. Mới hôm kia về đây còn âm thầm lặng lẽ với cảnh rừng không mông quạnh, chả có gi đặc biệt, có lẽ vì đang ém quân, nhưng hôm nay lại thấy nó xôn xao sôi động, tươi tắn lạ thường. Người vui cảnh cũng vui theo! Kế hoạch mấy ngày xuân của đại đội thật hấp dẫn. Chiều 29 và sáng 30 ăn Tết nội bộ; chiều 30 đi La Gàn ăn Tết đoàn kết quân dân; sau đó đi Duồng, Long Hương. Được đi thăm viếng và ăn Tết với đồng bào mấy bữa đầu năm thì thật là thú vị. Chiều 29, đại đội ăn Tết sớm. Chờ quản lý dọn các món, quản ca đại đội bắt nhịp bài Ra đi vì nước, rồi từng trung đội thi nhau hát các bài tù của mình.

- Đây mới là bữa ăn Tết sớm. – Quản lý Lương Văn Nghĩa nghiêng mình rất điệu nghê: - Trưa mai 30 ăn Tết chính thức lớn hơn.

- Có ngon không ạ? – Một chiến sĩ nào đó lém lỉnh chen vào.

- Chắc chắn là ngon rồi. – Anh Nghĩa tươi cười tiếp: - Chiều 30 xuống La Gàn. Đại đội cùng địa phương lo chu đáo rồi!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:08:56 PM

Một tràng vỗ tay tán thưởng rầm rộ. Nói là sơ bộ nhưng tôi thấy nào là thịt dồi cà chua, cá thu kho với thịt heo và tôm sú ăn cùng bánh tét, bún với thịt hầm, thịt xào chua, bánh tráng nướng, toàn là những món ăn ngày Tết chính cống. Vài mòn bánh ít, bánh nậm tráng miệng không chê vào đâu được. Sơ bộ mà thế này thì quá thần tiên, còn hơn ở nhà nhiều. Bữa Tết kháng chiến này thật là sang! Mấy ông quản lý thật giỏi và nhờ có sự ủng hộ chí tình của bà con Phan Rí Cửa, Duồng, La Gàn, Long Hương mới được vậy. Sau thời gian hành quân chiến đấu, nay về chiến khu ăn Tết vui Xuân thật phấn khởi. Ai cũng náo nức sẽ đi thăm viếng và ăn Tết với đồng bào cho thỏa tình quân dân cá nước rồi lại tiếp tục hành trình kháng chiến, giành thêm nhiều chiến thắng cho rạng danh Đại đội Quang Trung, góp phần tích cực vào công cuộc chống Pháp, cứu nước.

Cái vui nhất trong sinh hoạt tập thể vẫn là thi thố tài năng ca hát của từng trung đội hoặc đơn ca, song ca đối với những người có giọng hát hay. Anh Hồ Thế Xuân Sanh là cây đơn ca hay nhất đại đội. Anh có giọng ca ấm áp mượt mà; những bài Chiến sĩ trong đêm Xuân, Đàn chim Việt, Nhớ chiến khu, anh hát nghe như gần, như xa, lúc sâu lắng, khi dâng trào, thánh thót như rót vào lòng người, nhất là bài Thiên thai anh hát sao mà ngọt ngào say mê quyến rũ đến thế! Mãi bây giờ tôi vẫn còn nhớ một câu của bài Chiến sĩ trong đêm xuân:… “Kìa lác đác rơi bông hoa mai trắng, chống kiếm bên đường vắng, xuân sang chiến sĩ chờ”… Lời hát có phần mộng mơ, lãng mạn nhưng thật là hay và hát trong đêm xuân thì cũng thật thích hợp. Hồi ấy chúng tôi cũng chẳng thấy ảnh hưởng gì đến tinh thần giết giặc, ngược lại còn thúc giục mạnh mẽ hơn là khác. Ngay bài Chiến sĩ Việt Nam của Văn Cao, câu đầu cũng là; Bao chiến sĩ anh hùng lạnh lùng vung gươm ra sa trường! Anh Sanh không chỉ hát hay các bài trữ tình mà còn hát rất hay các bài hùng tráng như Thanh niên hành khúc, Không quân Việt Nam (Văn Cao), Bạch Đằng Giang… Trung đội 2 chúng tôi được chấm nhất bài Bắc Sơn. Trung đội 1 thì lúc nào cũng Ra đi vì nước thật hùng tráng, dồn dập. Trung đội 3 thì nổi tiếng với các bài ruột mà nay tôi chỉ nhớ là khi trung đội hát đến đoạn “Dấn bước lên đường, tiến tới chiến trường, nơi sa trường phủ lớp màn sương… thì cả trung đội như nhổm hết lên, ca gõ muốn bể và người hát cũng muốn đứt cả cổ! Đêm ấy tất cả ngủ một giấc thật yên ả ngon lành.

Sáng 30 Tết trời trong xanh, nắng vàng rực rỡ, gió ban mai mát lành. Tạm gác chuyện chiến đấu đã qua, trước mắt rạo rực chờ chiều nay xuống La Gàn. Tôi tính sẽ mặc chiếc áo sơ mi trắng may để mừng Tết độc lập nhưng rồi kháng chiến cất mãi, nay vẫn còn mới toanh. Áo này mặc với chiếc quần âu màu xanh dương chắc là rất nổi. Đi thăm đồng bào ngày Tết làm dáng một chút vậy mà.

Liên lạc đại đội đến thông báo có một cánh địch lớn đang tiến về hướng đại đội. Các trung đội lập tức kéo lên đồi phía sau, cách khoảng trăm mét. Ba dãy động cao, động sau cao hơn động trước, từ dãy cuối đổ xuống là rừng già kéo đến quốc lộ 1. Đại đội bố trí trên đồi thứ nhất. Đồng chí Thiên (tiểu đội phó) và tôi gác dưới chân đồi. Ban chỉ huy đại đội đi qua trước mặt, tôi hỏi đại đội phó Phạm Xuân Ngô:

- Địch đến, chúng tôi được bắn không hay chỉ bí mật lên báo cáo?

Đại đội phó không trả lời chỉ làm điệu bộ lên cu-lát rồi cùng đại đội trưởng, chính trị viên lên đồi. Tổ tôi nấp trong một lùm kín đợi địch, đến thật gần. Những tên Pháp cao to, mặc kaki vàng, đội calô, miệng hò hét a-lát-xô, vừa bắn vừa chạy đến chân động để lên chiếm đỉnh đồi. Nghe tiếng nổ trên đầu, nhìn lên thấy khẩu bờ-ren của trung đội đang nhả đạn. địch quá gần, tổ tôi hạ hai tên, chúng bắn như vãi đạn. Thiên gọi:

- Chạy!

- Chưa có lệnh sao dám lui?

- Anh em trên động lui hết rồi. Chạy nhanh theo trung đội kẻo bị kẹt.

Gặp anh Sanh mừng quá, anh bảo:

- Địch rất đông, bắn nhanh đi Chương!

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:11:12 PM

Hai anh em bắn từng phát. Anh Sanh súng trường Anh, tôi mút-cơ-tông,cứ nhằm mấy thằng chạy đầu mà nện, nó to dềnh dàng, nheo ngon lắm.

- Mình hạ được ba tên rồi!

- Tôi cũng bắn gục hai đứa, thấy bụng nó xịt khói rõ ràng.

Tôi bắn được năm viên, đang thay gắp đạn thì Thiên chạy đến gọi:

- Anh Sanh rút mau, đại đội lui rồi.

- Sao không thấy lệnh anh Uẩn.

- Không biết, anh em đi hết, tiểu đội mình cũng phải lui thôi.

Bên trái không còn trung liên bắn chặn nữa, cả tiểu đội vượt qua khoảng trống cuối cùng lên đồi ba. Ở đây là tuyến chiến đấu cuối cùng trên cao, nếu bỏ đồi tụt xuống rừng ở dưới thấp thì rất bất lợi. Nhìn xa xa bên trái, tôi thấy đại đội trưởng đứng cạnh khẩu hốc-kít đang khạc đạn, miệng nhai nhai một vạt áo, thói quen của anh khi đánh trận. Có lẽ phía trung đội 1 mé bên trái, địch đã lên đồi ba rồi nên có đạn bắn xuyên hông chúng tôi. Và kìa, cả ban chỉ huy đại đội đang tụt xuống rừng. trung đội 2 cũng yểm hộ nhau rút xuống. Mất điểm cao nhưng biết làm sao được, thế trận đã vỡ, bạn đã lui, có muốn giữ cũng không được. Địch thì nhí nhố vang trên đồi và quét từng loạt dài trung liên xuống rừng. Vào sâu mấy trăm mét, đại đội dừng lại bố trí chặn địch đuổi theo. Có lẽ bị thương vong nhiều nên chúng chẳng dám đuổi theo nữa, chỉ chiếm điểm cao rồi càn sục vào khu vực đóng quân của đại đội thôi.

Trời về trưa nóng ghê gớm. Dưới thấp bị đồi che khuất, không gió càng oi bức dữ, nước bình toong đã hết từ bao giò, cơn khát cháy cổ, dày vò hơn đói. Chiều tối về lại vị trí, một cảnh tượng đau lòng diễn ra trước mắt: tất cả đồ đạc cất giấu đều bị xáo tung đốt sạch, các thùng son thịt cá, các bao bánh Tết đều bị đâm thủng, dẫm nát. Càng mệt, đói, càng căm tức bọn giặc dã man độc ác. Đây là tiểu đoàn Âu Phi cơ động từ Phan Thiết ra phản ứng trận Bàu Đá vừa rồi. Ta hy sinh sáu (có đồng chí Tuy trung đội trưởng, Nguyễn Thanh Châu tiểu đội trưởng trung đội 1, quản ca đại đội và bác quản lý già), bị thương năm. Cũng may là đại đội chỉ đóng quân trong rừng, nếu cắt đường xuống La Gàn thì sẽ lọt ổ phục kích của một tiểu đoàn lê dương khác đang đón lõng vì chúng biết Quang Trung có kết hoạch xuống La Gàn ăn Tết. đêm ấy, tất cả ngủ tại công sự. Ngày mai địch càn tiếp thì trụ đánh tại chỗ. Tuổi trẻ nên việc ăn ngủ cũng dễ dàng, chỉ một giấc ngủ sâu là hồi phục sức khỏe. Bây giờ không ai nhắc việc đi La Gàn ăn Tết nữa.

Mờ sáng có một tiểu đoàn Âu Phi đang tiến vào hướng đại đội. Tứ bề yên lặng, chờ nổ súng rất căng thẳng. Nếu địch vào gặp ta đánh, tất nhiên chúng sẽ chiếm đồi, ta sẽ ở thế rất bất lợi. Mấy tiếng qua, có lẽ địch đã ra hết quốc lộ 1. Trưa đó có một cánh quân khác từ La Gàn lên hợp điểm ở quốc lộ 1 rồi cùng về hướng Hòa Đa. Hôm nay, đại đội trụ tại chỗ mà không có tác chiến. Địch chắc nể hoặc đoán sai là Quang Trung đã thoát vây đi xa rồi. Bà con Duồng, Phan Rí Cửa, Chợ Mới, Long Hương, La Gàn, Chợ Lầu vội gửi bánh trái, thịt cá cho đơn vị ăn Tết muộn và quần áo cho cả đại đội đủ mặc. Lòng dân như biển cả, nhờ vậy anh em cũng ấm lòng trong mấy ngày Xuân kháng chiến thoạt vui sướng, thoạt khổ ải này. Từ đó, các địa phương trên nổi tiếng là “vú sữa” của Đại đội Quang Trung.

Hôm sau đại đội cho một tổ gồm đồng chí Thiên, Tâm và tối đưa thương binh về bệnh viện trung đoàn ở Hố Đất. Cả tổ tôi đều xin ở lại chiến đấu nhưng các anh Uẩn, Sanh động viên chúng tôi nhanh chóng đưa thương binh rời khỏi vòng chiến. Chúng tôi lên đường khi ta, địch còn quần nhau, đường đi xa xôi dịu vợi, qua nhiều ngày đêm vất vả, thật không dễ dàng gì.

Tổ tôi về chiến khu ít hôm thì đại đội cũng về. Anh Uẩn về ban tham mưu trung đoàn; anh Lâm Bình Phước thay. Trung đội phó Bùi Xuân Diễn sang làm trung đội trưởng trung đội 1, anh Nguyễn Thân trung đội trưởng trung đội 3. Tôi được bầu làm chiến sĩ chính trị tiểu đội 2, công việc gần giống như chính trị viên trung đội; người chiến sĩ chính trị chỉ là chiến sĩ, không phải cán bộ chỉ huy như tiểu đội trưởng, tiểu đội phó, phải tích cực, gương mẫu trong học tập, công tác, chiến đấu và phải được anh em tín nhiệm. Nhiệm vụ vừa nặng nề vừa phải rất tế nhị, tránh đụng chạm với cán bộ tiểu đội và cả với chiến sĩ. Anh Lâm Bình Phước rất trẻ, chỉ hơn tôi một tuổi, có học vấn cao, hiền hậu, đẹp trai, anh em trung đội thường nói: Cô gái nào thấy anh cũng “cảm” ngay! Là một cán bộ quân sự, chính trị song toàn, nay làm trung đội trưởng nhưng chỉ ít lâu đã là chính trị viên đại đội, đại đội trưởng, tiểu đoàn phó. Tiếc là anh hy sinh quá sớm, vào giữa năm 1950 đang độ tài năng phát triển thật sung mãn, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho gia đình và đồng đội. Tôi được anh Phước tuyên truyền, giác ngộ về chủ nghĩa Cộng sản Đông Dương, về Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc, tôi càng ra sức phấn đấu để được trở thành đảng viên, suốt đời chiến đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là của mình.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 03:14:12 PM

Đại đội hành quân, đánh một trận rất táo bạo, độc đáo, tiếc thay, không thành công. Đồng chí Tâm (chiến sĩ Nam Tiến) lái một xe ôtô chở một quả bom 500 ký có Chiêu liên lạc (người địa phương) dẫn đường. Xe dừng trước cổng đồn Lương Sơn, Hạ đốt dây cháy chậm rồi cả ba phóng nhanh xuống bực hầm bến nước Lương Sơn. Một tiếng nổ long trời, tên lính trên chòi gác và tên lính ra xét xe đều bị bay mất xác. Binh lính trong đồn lịm đi đến mấy phút. Do bom nổ ngoài cổng còn xa vách đồn nên sức phá hoại không ghê gớm như ta tưởng, ta lại phục quá xa vì cũng sợ sức ép của bom. Sau tiếng nỏ, tưởng địch chết cả rồi, nhưng khi chạy đến gần, địch hoàn hồn bắn ra như mưa; may mà không gây sát thương ai. Điều nghiên không kỹ, trận đánh nổ ra đúng kế hoạch mà không ăn, tiếc công lao và tức anh ách!

Đầu tháng 4 năm 1947, tôi và các bạn Cần, Lý, Trác, Khuyến, Dũng đi học lớp “Quân chính tiểu đội” của trung đoàn mở tại Ô Rô. Một hôm, trung đoàn phó Nguyễn Đức Tuyến lệnh cho trường đi bảo vệ cơ quan trung đoàn bộ dời sang Lệ Nghi – Bá Ghe bên núi vì địch càn lớn các vùng Ô Rô – Hố Đất. Tạm nghỉ học, chỉ làm cảnh vệ, hàng ngày ngoài việc canh gác tuần tra còn giúp việc cho nhà bếp. Ở đây măng nhiều vô kể và tắm suối cả ngày, đặc biệt món thịt heo hầm măng ngon tuyệt, ở đồng bằng khó có. Hơn một tuần lễ ở lại Ô Rô. Có lần cả lớp đi thực địa ở Bàu Thiêu để thực hành bài tập: “Đánh một đại đội đi càn đóng quân dã ngoại ở Bàu Thiêu”. Trong cuộc càn vừa rồi có một đại đội địch đóng ở gần Bàu Thiêu thật. Là học sinh lớp tiểu đội mà ai cũng dùng một đại đội để tấn công, mỗi người đánh một kiểu mà bài nào đại đội ta cũng diệt gọn đại đội địch (!). Riêng anh Ngọ (học sinh của cơ quan trung đoàn) có cánh đánh đặc biệt nhất: anh sử dụng một tiểu đoàn vây kín, dồn địch xuống Bàu Diều diệt sạch không sót một tên. Xem bài đánh của Ngọ, ai cũng cười:

- Đánh như ông thì dễ ăn quá, chẳng cần kỹ thuật, chiến thuật gì ráo trọi.

Ngọ tỉnh bơ:

- Tôi dùng quân gấp ba lần địch thì ăn chắc là nhất định rồi. Tại sao chỉ dùng lực lượng ngang địch như các ông mới được?

Anh ta cũng có lý, trường “cho” địch một đại đội và có hạn chế sử dụng quân đâu! Còn cách đánh thì mỗi người một vẻ, bất tất ai phải giống ai. Hồi đó chúng tôi chưa học phòng ngự thì một đánh ba, còn tấn công thì ba đánh một. Ông Nguyễn Tương (chỉ huy tự vệ chiến đấu tỉnh) đến thăm trường cũng tham gia ý kiến. Theo ông, địch càn căn cứ thì ít nhất cũng một đại đội trở lên, nhưng anh chỉ dùng vài tổ quấy rối tiêu hao, rồi dùng nhiều tổ phục đánh nhiều nơi khi địch rút thì vừa sức ta mà địch bao nhiêu, đi mấy đường đều đánh cả. Cũng là ý hay nhưng anh là du kích nên có cách đánh của du kích. Chúng tôi, những chỉ huy tương lai của chủ lực thì lại thích cách đánh tiêu diệt, chính quy! Trường chỉ ra bài tập vậy thôi, không có chấm điểm, còn các học viên thì coi là mình đậu tất.

Tham mưu trưởng trung đoàn Phan Hạo cũng đến thăm trường và chỉ thị lớp học tham gia lễ kỷ niệm “Đệ nhất chu niên Trung đoàn 82” ngày 25 tháng 6 năm 1947. Học sinh quân là một khối diễu binh, mặc đồng phục vải ta trắng, đội ca lô trắng có sao vàng nền đỏ, mang súng mút-cờ-tông. Trong lễ, đội hình học sinh quân nổi bật nhất trong các khoa mục cơ bản biểu diễn cũng như lúc diễu binh, được hoan nghênh nhiệt liệt. Có cả 3 đại đội (Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung) diễu binh. Mỗi đại đội có một vẻ riêng nhưng Hoàng Hoa Thám trội nhất vì cái gì cũng thống nhất 100 phần trăm. Ban chỉ huy đại đội cưỡi ngựa, mặc kaki vàng, đeo xắc-cốt và súng ngắn có dây bờ-rờ-ten chéo, đội bêrê có sao vàng. Các trung đội trưởng cũng cưỡi ngựa, quân phục kaki xanh dương, mang kiếm dài. Đội hình đều tăm tắp, đẹp hết ý. Tiểu đội trưởng mặc kaki ăng lê xanh nhạt, mang tiểu liên, ca lô cùng màu. Chiến sĩ âu phục, vải đen mới, quần rút ống, xanh tuya-rông, có hai bao đạn, mang toàn súng trường mát 36 (chiến lợi phẩm). Ai cũng khen Hoàng Hoa Thám giàu, khéo tổ chức. Đại đội Phan Đình Phùng ăn mặc giản dị hơn, đặc biệt là toàn đại đội đều đội mũ tôn gò tròn như mũ sắt, mang súng trường mút-cờ-tông khá ngộ. Quang Trung thì chỉ huy, chiến sĩ đều mặc kaki vàng mới nguyên nhưng súng thì đủ loại (nhiều nhất là súng trường Anh), khẩu đại liên hốc-kít chân thấp cũng rất hiên ngang.

Sân lễ thật hoành tráng, rực rỡ. Buổi sáng sau lễ kỷ niệm chính thức là biểu diễn quân sự, diễu binh, tiếp theo là điền kinh. Các vận động viên Minh Quốc, Nguyễn Suất của Hoàng Hoa Thám chạy cự ly ngắn nước rút rất cừ nhưng đến 800 và 1.500 mét thì phải nhường cho Lê Văn Nhật (Quang Trung). Nhảy cao nhất 1,60 mét là Đỗ Hoàng Sửu (của Hoàng Hoa Thám). Còn nhảy dài nhất cũng lại là Lê Văn Nhật. Buổi chiều là bóng chuyền, bóng đá vô cùng sôi nổi. Buổi tối, đoàn văn công Sao Vàng của trung đoàn biểu diễn văn nghệ hay hết ý. Các diễn viên thật tài nghệ không kém gì các đoàn hát chuyên nghiệp. Không ai ngờ là buổi tối toàn sân rực rỡ trong ánh điện nào khác gì ở Phan Thiết. Lễ kỷ niệm gây ấn tượng thật sâu sắc cả với bộ đội và hàng ngàn đồng bào Khu Lê, Tam Giác, Bắc Bình, Phan Thiết; ai cũng khâm phục. Tất nhiên, họ càng tin tưởng kháng chiến lớn mạnh, nhất định thắng lợi.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:56:23 PM

Xong lớp, sáu anh em Quang Trung chúng tôi về đơn vị đều giữ chức vụ tiểu đội phó. Tôi vẫn ở trung đội 2. Tiểu đội trưởng lúc này là Phan Văn Võ, một học sinh trung học người Huế. Trong một trận đánh càn ở cầu Ông Soạn – Thái An, đại đội đã đuổi giặc ra quốc lộ 1 chạy về Hòa Đa. Anh Nhật bị thương phải đi bệnh viện, tôi thay làm tiểu đội trưởng. Anh Thiệt (xạ thủ trung liên của tiểu đội) người cao to, nhanh nhẹn, vác trung liên nhẹ như khẩu súng tường, hành quân đến nơi chỉ vài tiếng anh đã đào xong công sự đủ cho anh, tôi và đồng chí tiếp đạn. Anh Thiệt bắn súng máy rất điệu nghệ, khi thật cần lắm mới bắn loạt, còn chỉ điểm xạ vài viên một, rất chẩn xác, lợi hại.

(https://lh3.googleusercontent.com/Svbfo9Tq0rlAyMx8HKmvWPI_dW7wrN9u6w02pvTmgEqycuiY4aQvw4164puW0OCFMPi08rw3HZzwLitW-yWQ4sECwkMneTE0ytme0lzpFbmNY5D9gMuBUmDFipprfSBKwmcfD54n6vE-_rGwN6H5it4yEp6q2wFJRI0WOsPYA5VVT71FO0uY3J8ONA12qxWcdzbxCvVQ2R8oyY8YzU-3gUnKsptouSdCVg07yAS5XBEBj605u6Q0awNdITmaNb1ch7a92rBzIwx6yPpz089TsJEhWLhE2wl0jx6YHs3i-akHdgllmHrXpIwLqnIjuT0asqv7ugi9aOiAJagi9wipoH4g8sAZJtA-CCjd6zXrwe52gSCBY3SVHwRGR6teZt45_6aP2m-rjNTI5UkEqLJUPuHJww2wnoq9g0rbsbQg86KvcRhgpiJrOCqReHKZ0SqkkYki_tmoPYE0oRQ-mc9sfjX8o-hJ3Y2cm9Nhl3hv8RfUND-TERF9Mg7Y2PWk0GWqFgESUuTP1AOVOi0-oe1ONQkq0EeXvgJRrc4fFdQRLfS2w2WUonH5v13k8q6lDhYhx5LpGqls2QSwjWYwxUa0sBmKn7xMvjoTfy39o4Z2WwNglJUITFyB7Xbw6BDAlMd5IxCL-cyzvkm-mmwKSsIdJzvxij_wG4Q=w800-h532-no)

Khẩu trung liên do đồng chí Thiệt là xạ thủ đã bắn và diệt trên 100 tên địch

Mấy tháng sau, tôi đi học Lớp Chính trị Huỳnh Thúc Kháng của tỉnh mở tại Ô Rô cho cán bộ chính trị, quân sự các cơ quan tỉnh, huyện. Thầy dạy chính trị là đồng chí Nguyễn Côn, Bí thư khu ủy khu 6. Được một cán bộ cao cấp lên lớp, chúng tôi nghe rất say sưa, hứng thú, tiếp hu nhiều điều mới mẻ, sâu sắc. Ban đêm, học viện phải gác từ 24 giờ đến sáng. Tôi còn nhỏ, ham ăn ngủ, một khi đã ngủ phải có người đánh thức lúc đến phiên gác. Tôi nhận phiên gác lúc 24 giờ, nhưng yêu cầu các bạn cho tôi gác phiên kế tiếp hoạch gác hai phiên để bù cho người gọi tôi. Anh em thông cảm, nhưng anh Bảy Vĩnh (huyện đội trưởng Hòa Đa) dứt khoát không chịu, bảo tôi phải khắc phục, không ai làm hộ cả. Đêm ấy tôi phải cố thức đến 24 giờ, gác xong phiên rồi mới đi ngủ. Sáng ngày, anh Bảy Vĩnh nhìn tôi cười, nửa như khen nửa như mỉa:

- Có vậy mới tự lực được, nếu không cứ ỷ lại người khác mãi thôi!

Tôi không vui nhưng cũng chịu là phải và cũng là dịp rèn luyện mình. Nhớ lại hồi mấy tháng đầu nhập ngũ, có một chiến sĩ cùng tiểu đội tên Nhơn, một hôm hành quân đến Lương Sơn đã hơn 2 giờ sáng; ác thay Nhơn trúng phiên gác đầu; tuổi trẻ, quá mệt. Nhơn ngủ gục tại vọng gác. Chiến sĩ Choi (trung đội 10 đi đổi gác thấy, chạy vào bao cáo tiểu đội trưởng đi kiểm tra, biết rõ sự việc. Sáng, đại đội ra lệnh xử bắn Nhơn vì tội ngủ gác tại mặt trận. Ai cũng biết tội nặng nhưng hoàn cảnh cũng đáng thương, các trung đội trưởng cùng đến đại đội xin tha để Nhơn lập công chuộc tội nhưng đại đội không chấp nhận. Ôi, kỷ luật chiến trường phải nghiêm, nhưng sao mà nghiệt ngã đến thế! Từ đó, anh em nhắc nhở nhau thà hy sinh vì chiến đấu cho oanh liệt, đừng để chết vì xử tử thì nhục vô cùng!

Một đêm khác, tôi đi đổi gác cho Bá, một chiến sĩ lớn tuổi trong tiểu đội, quê Tuy Phong. Thấy Bá đứng ngủ, súng dựng một bên, tôi rất lạ: tại sao người ta đứng ngủ được? Không tựa vào đâu thì phải ngã chứ, hay anh ta đùa tôi? Không phải, vụ án Nhơn ai cũng còn lạnh gáy cơ mà! Tôi đến bên, Bá không hề hay biết, anh ta ngủ thật. Tôi lấy khẩu súng, vỗ vai gọi khẽ:

- Anh Bá, dậy đổi gác.

Bá giật mình thấy mất súng hoảng hồn, ôm chầm lấy tôi, nói nhỏ:

- Đừng báo cho tiểu đội trưởng biết nghen!

- Anh quá mệt nên lỡ ngủ, tôi không báo đâu, nhưng nhớ đừng tái phạm, gặp người như Choi thì nguy hiểm.

Mấy ngày qua, Bá thấy cũng là tôi không báo trên, anh rất mừng và cảm động. Tôi còn có những bạn tốt như Lê Quang Đẩu (quê xã Tân Hải – Hàm Tân), nhập ngũ trước tôi mấy tháng. Đẩu được cấp phát hai bộ quần áo xita, một đôi giày da cao cổ, một ca lô xita (quân trang của Liên khu 5 đưa vào bằng đường biển, Đại đội chỉ nhận được một lần, sau đó ghe không vào được nữa). Đẩu thấy tôi thường đi tiên binh dẫm gai góc nên cho tôi một đội giày cùng một bộ ka-ke, bê-rê, còn Đẩu thì mặc xita và đội ca lô lệch “mốt” hơn. Nhờ vậy, tôi có quần áo thay và đội chân thật dễ chịu. Sau Đẩu chuyển về binh công xưởng ở Hàm Tân; năm 1954 không đi tập kết. Sau giải phóng 1975, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp thăm nhau, tình bạn vẫn như 50 năm trước.

Tiêu đề: Đường chiến đấu - Thiếu tướng Phạm Hoài Chương
Gửi bởi: macbupda trong 10 Tháng Ba, 2019, 04:56:52 PM

Ở chiến khu, chiến sĩ gác mỗi đêm một giờ; tiểu đội trưởng đốc gác nửa đêm, tiểu đội phó nửa đêm. Một đêm, tôi gác phiên lúc 2 giờ; gác mãi mà không thấy ai ra đổi gác, không thể bỏ vọng gác vào hỏi, buồn ngủ quá, mệt và giận hết sức, chắc tiểu đội phó ngủ quên rồi. Khi đổi gác, tôi vào thì đã 4 giờ rưỡi. Bực quá, tôi hỏi hơi sẵng:

- Anh Hùng, sao để tôi gác lâu quá vậy?

Anh vừa ngáp vừa nói:

- Bậy quá, mình lỡ ngủ quên may mà trung đội không kiểm tra, nếu có kiểm tra thì mình cũng chết, thôi bỏ qua đừng giận nghen!

Tôi cũng hết giận, lại thấy thương anh thức từ 24 giờ, ai mà không có lúc vấp váp. Chúng tôi xiết tay nhau thông cảm, tình đồng đội trong chiến đấu gian khổ hy sinh là cao hơn những chuyện nhỏ bình thường.

Ở doanh trại, chiến sĩ có nhiều việc như luân phiên trực nhật trung đội, sáng đánh thức toàn trung đội tập thể dục. Kháng chiến không có đánh kẻng. Trung đội ăn xong tập trung xoong, thau, ca, muỗng gánh xuống bàu rửa, v.v… Một chiều, tôi gánh một gánh đang xuống dốc bàu thì gặp các chị Khánh Thu, Hồng Anh, Ánh Hồng cán bộ cán bộ phụ nữ Hòa Đa đi học tỉnh. Thấy tôi gánh một gánh lổn cổn, lảng cảng, các chỉ cười:

- Đời chiến sĩ vất vả qua anh Chương hỉ!

Hồi ở nhà là cán bộ cùng hoạt động, thân tình gặp thế này tôi cũng mắc cỡ, hơi ngỡ ngàng, lúng túng nhưng tôi kịp trở lại bình thản, tự nhiên:

- Làm chiến sĩ tất nhiên phải gian khổ, hy sinh chứ sao!

Tất cả cười vang. Qua câu chuyện trên đường, tôi biết gia đình vẫn mạnh khỏe, phong trào làng Xuân Hội vẫn vững vàng. Tôi cũng biết một số mất mát ở quê nhà: các anh Bảy Thăng, Đãi, Giáo Em đã hy sinh khi đi công tác. Người anh em bà con dẫn dắt tôi từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám, một cán bộ lãnh đạo nhiệt tình, đầy uy tín không còn nữa. Ông Lê Vui (cha của Công), anh Năm Hoàng cũng mới hy sinh vì địch tập kích vào cơ quan xã. Các anh là lớp liệt sĩ đầu tiên của huyện Hòa Đa. Các chị chia tay lên đường, tôi thong thả xuống bàu, lòng bùi ngùi nhớ đến những người thân thiết ở quê hương đã vĩnh viễn ra đi.

Một chiều tháng 10 năm 1947, các đại đội Quang Trung, Phan Đình Phùng tập hợp sau làng Thái An để thành lập Tiểu đoàn 89. Tiểu đoàn 86 đã thành lập trước đó mấy tháng ở Tam Minh – Hàm Tân. Tiểu đoàn 89 có hai đại đội, nhưng tôi cũng biết trung đoàn đang xây dựng thêm đại đội Lý Thường Kiệt (sẽ là đại đội ba của tiểu đoàn). Tiểu đoàn trưởng là Đoàn Tứ Bảy, chính trị viên là Trần Quốc Thái, tiểu đoàn phó là Lâm Bình Phước. Đại đội trưởng Quang Trung này là Nguyễn Minh Khương, chính trị viên Nguy

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro