Không Tên Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

12 chiến công của Hercule
Nguyên tác: The Labours of Hercules
Năm phát hành: 1947
Người dịch: Ahiru (me =))
Nguồn text tiếng Anh: www.archive.org/stream/agathachristie/

Bản dịch này làm vì yêu thích không vì tiền bạc.
Hãy xin phép nếu đăng đi nơi khác.
Hãy là người đọc văn minh!

Lời riêng: Sêri 12 Chiến công của Hercule là một trong những chùm truyện ngắn hay nhất của Agatha Christie. Phần 1 này gồm các chương hiện chưa có bản Việt hoá, do mình tự dịch. (chương 0, 1, 2 và 4)
Cá nhân mình cảm thấy chương 1 hay và chiêm nghiệm. Chương cuối (Chap 4) ly kì và nhiều phần cố xoắn não lừa độc giả. Hơi máu me kinh dị.
Enjoy!
Ahiru.

Giới thiệu

Vòng quanh thế giới hai lần,
Gặp tội đồ với thánh nhân nhiệm màu,
Nhà thơ, họa sĩ và vua,
Những vì sao chết, phép màu hiện lên,
Tôi đã từng ở những nơi không tưởng,
Học đầu bếp lại văn sĩ năm châu,
Vé vào thư viện trong tay,
Lạc vào thế giới muôn màu đẹp tươi.

Một phiên bản "12 chiến công của Hercules" hiện đại - đó là một ý tưởng thu hút Hercule Poirot. Trong thời gian trước khi nghỉ hưu, ông quyết định thực hiện mười hai vụ án ám chỉ đặc biệt đến mười hai chiến công của anh hùng Hercules cổ đại.

Thú vị và độc đáo, mỗi vụ án lại khó khăn hơn lần trước, chúng tôi đảm bảo rằng Chiến công của Hercule sẽ cân não những người trí tuệ nhất trên chiếc ghế bành thám tử.

MỤC LỤC

0. Foreword
Lời mở đầu

1. The Nemean Lion
Giết con Sư tử Nemea

2. The Lernaean Hydra
Giết Quái vật Hydra ở Lerna

3. The Arcadian Deer
Một Chuyện Tình/ Bắt sống con Hươu cái ở Cerynaea của Artemis

4. The Erymanthian Boar
Bắt sống con lợn lòi núi Erymanthus

5. The Augean Stables
Một Vụ Vu Khống/ Dọn sạch chuồng bò của Augeas

6. The Stymphalean Birds
Một Vụ Tống Tiền/ Diệt đàn chim và con Stymphalus

7. The Cretan Bull
Một Vụ Trả Thù- Bắt sống con Bò mộng đảo Crete

8. The Horses of Diomedes
Kẻ Buôn Bán Ma Túy/ Đoạt Bầy ngựa cái của Diomedes

9. The Girdle of Hippolyta
Bức Họa Của Rubens/ Đoạt chiếc Thắt lưng của Hypolyte, nữ hoàng bộ tộc Amazon

10. The Flock of Geryon
Đàn Cừu Của Andersen/ Đoạt đàn bò của Geryon

11. The Apples of Hesperides
Chiếc Cốc Bằng Vàng/ Đoạt những quả táo của chị em Hesperides

12. The Capture of Cerberus
Xuống Địa Ngục/ Bắt con chó ba đầu

FOREWORD
Lời nói đầu

Căn hộ của Hercule Poirot được trang bị những đồ đạc hiện đại thiết yếu. Đồ crôm ánh mờ. Những chiếc ghế dù được lót đệm êm ái, lại vuông vắn và hình dáng góc cạnh. Một ghế Hercule Poirot đang ngồi lên, ngay ngắn - chính giữa. Đối diện, trên một ghế khác là tiến sĩ Burton, giảng viên danh tiếng của đại học All Souls, đang nhấm nháp tán thưởng ly rượu Rothschild từ lâu đài Mouton của Poirot. Tiến sĩ Burton thì chả gọn gàng gì. Ông phúng phính, lôi thôi, bên dưới mái tóc bạc là dáng vẻ hồng hào tốt bụng. Ông cười khùng khục khò khè và theo thói quen phủ hết tàn thuốc lá lên mình mẩy với mọi thứ xung quanh. Poirot để gạt tàn quanh ông trong vô vọng.

Tiến sĩ Burton đang hỏi. "Nói tôi nghe," ông nói. "Tại sao lại là Hercule?"

"Ý ông bạn là, tên thánh của tôi?"

"Đâu phải tên thánh đâu," người kia phản bác. "Rõ ràng là tên ngoại đạo. Nhưng tại sao ư? Đó là điều tôi muốn biết. Tưởng tượng của ba? Ý thích của mẹ? Hay lý do gia đình? Nếu tôi nhớ đúng thì... mặc dù trí nhớ tôi không hoàn hảo lắm... ông bạn có một người anh tên Achille, phải không?"

Tâm trí Poirot tua lại chi tiết cuộc đời sự nghiệp của anh trai Achille Poirot. Chuyện gì đã thực sự xảy ra?

"Tôi chỉ có trong một khoảng thời gian ngắn," Ông trả lời.

Tiến sĩ Burton khéo léo vượt qua chủ đề về Achille Poirot.

"Mọi người nên cẩn thận hơn khi đặt tên cho con cái họ," ông nghiền ngẫm. "Tôi có con đỡ đầu rồi. Tôi biết chứ. Blanche [1], một trong số chúng bị gọi tên như vậy - thật tối tăm như dân du mục. Rồi thì Deirdre, Deirdre của nỗi buồn - con bé bị quay vui vẻ như con dê con. Rồi với Patience trẻ tuổi, con bé có lẽ nên được đặt tên là Impatience và tên phứt như thế cho rồi! Còn Diana - chà, Diana..." Vị học giả cổ điển già nua rùng mình. "Giờ nó cân nặng bằng mười hai tảng đá - mà con bé mới có mười lăm tuổi. Họ nói nó như con chó con béo ú - nhưng nó đâu có giống tôi! Diana! Chúng nó muốn gọi con bé là Helen, nhưng tôi phủi chân ấy. Phải biết bố và mẹ con bé trông thế nào chứ! Rồi bà nó nữa! Tôi gắng hết sức cho cái tên Martha, Dorcas hay gì đó hợp lý - nhưng thật tệ - chỉ phí hơi. Mấy người kỳ quặc, ba mẹ gì mà..."

(1- Blanche: tên thường đặt cho nữ, tiếng Đức nghĩa là Trắng.
Deirdre: là tên trẻ con người Ailen. Trong tiếng Ailen, ý nghĩa của cái tên Deirdre là thịnh nộ, tan nát hoặc sợ hãi. Truyền thuyết của Ailen và Scotland là nàng Deirdre đã tự sát sau vụ giết người yêu mình.
Patience: kiên nhẫn, Impatience: không kiên nhẫn.
Diana: nữ thần trong tiếng Anh)

Ông bắt đầu khò khè nhẹ - khuôn mặt béo nhỏ bé nhăn lại.

Poirot nhìn ông dò hỏi.

"Thử nghĩ về một buổi nói chuyện tưởng tượng xem. Bốn bà mẹ và bà Holmes quá cố, ngồi khâu vá ít quần áo hoặc đan len: Achille, Hercule, Sherlock, Mycroft." [2]

(2- Mycroft là anh của thám tử lừng danh Sherlock Holmes trong sêri truyện cùng tên- ND)

Poirot thất bại khi chia sẻ niềm vui thích với ông bạn.

"Điều tôi hiểu ông bạn muốn đề cập đến là, về ngoại hình tôi không giống với một Hercules [3] chứ gì?"

(3- Hercules: là một vị anh hùng con của Chúa trời, tên Heracles. Trong thần thoại La Mã, vị anh hùng này được gọi là Hercules. Những chiến công của Heracles vang dội khắp bốn phương, mang ý nghĩa sâu sắc, tượng trưng cho sức mạnh chinh phục thiên nhiên của con người thời xưa)

Đôi mắt của tiến sĩ Burton lướt qua người Hercule Poirot, trên con người gọn gàng nhỏ bé ấy mặc chiếc quần sọc, áo khoác đen đúng kiểu và thắt nơ chải chuốt, rồi ông đảo mắt qua từ đôi giày da tinh xảo đến cái đầu hình quả trứng và bộ ria mép rậm tô điểm cho môi trên của ông bạn.

"Thành thật mà nói, Poirot ơi," tiến sĩ Burton nói, "Chả giống đâu! Tôi tập hợp lại," ông nói thêm, "rằng bạn không bao giờ có nhiều thời gian để học những tác phẩm cổ điển?"

"Đúng vậy đó."

"Đáng tiếc. Đáng tiếc. Bạn đã bỏ lỡ rất nhiều. Mọi người nên được nghiên cứu về truyện cổ nếu mà tôi có cách."

Poirot nhún vai.

"Eh bien, tôi vẫn xoay sở rất tốt mà có cần chúng đâu." (Eh bien: Chà – tiếng Pháp)

"Xoay sở! Xoay sở! Nó không phải câu hỏi về việc ta xoay sở thế nào. Đó là quan điểm sai lầm hoàn toàn. Truyện cổ điển không phải là nấc thang dẫn đến thành công nhanh chóng như một khóa học về động cơ tương thích! Giờ giấc làm việc của người đàn ông không quan trọng - mà là anh ta có bao nhiêu thời gian rảnh rỗi. Đó là sai lầm của tất cả chúng ta. Xốc vác lên đi, ông bạn đang xoay sở, bạn muốn thoát ra khỏi mọi thứ để làm việc dễ dàng hơn - bạn đang làm gì với thời gian rảnh thế hả?"

Poirot đã sẵn sàng cho câu trả lời.

"Tôi định tham gia - nghiêm túc - vào việc trồng bí ngô."

Tiến sĩ Burton kinh ngạc.

"Bí ngô? Chúng nghĩa là gì cơ? Mấy thứ xanh lá sưng to phung phí nước ấy à?"

"À," Poirot nói hăng hái. "Nhưng toàn bộ quan điểm là đây. Người ta đâu cần nếm nước."

"Ôi! Tôi biết - rắc chúng với phô mai, hoặc hành tây băm nhỏ hoặc nước sốt trắng."

"Không, không... ông bạn sai rồi. Ý tưởng của tôi là hương vị thực sự của chính bí ngô có thể được cải thiện. Ta có thể đưa nó vào," ông nheo mắt, "hương vị rượu."

"Chúa ơi, ông bạn, nó có phải rượu vang đâu." Từ hương vị rượu nhắc nhở tiến sĩ Burton về cái ly ở khuỷu tay ông. Ông ta nhấm nháp và thưởng thức. "Rượu này rất ngon. Rất bổ. Phải." Ông gục gặc tán thành.

"Nhưng nghề trồng bí... ông bạn không đùa chứ? Bạn không có ý" - Ông nói trong nỗi hoảng hốt thất kinh – "nghĩa là bạn sẽ thực sự cúi xuống" - tay ông hạ xuống với sự đồng cảm kinh dị trên cái bụng bự của mình – "cúi lom khom, rồi đào phân, rồi tưới cây với mấy sợi len nhúng nước, rồi thì làm tất cả các phần việc còn lại ấy hả?"

"Ông bạn có vẻ," Poirot nói, "quen thuộc với vụ trồng trọt bí ngô nhỉ?"

"Tôi nhìn mấy người làm vườn làm thế khi đang ở nông thôn. Nhưng nghiêm túc này, Poirot, sở thích hay thiệt! So sánh điều đó với" - giọng ông khe khẽ reo hò tán thưởng – "Một chiếc ghế đơn giản phía trước đống lửa trong một căn phòng dài, thấp lót đầy sách... phải là một phòng dài... không phải phòng vuông. Tất cả sách quây quanh mình. Một ly rượu port (rượu boóc đô- ND) - và một quyển sách mở ra trong tay bạn. Thời gian như quay trở lại khi bạn đọc" Ông trích dẫn một cách hào hứng: "Myrf 6 a5re KV A epvriTrf A ev olvoTri ttovtw vija OofJV IQwel epe A OoA.evrJv ave A oio'I"

(Trích sử thi Hómēros, nhà thơ Hy lạp cổ đại – ND)

Ông dịch:

"Vượt biển Đen, hoa tiêu lèo lái – Thuyền lướt băng gió dập sóng dồi." Tất nhiên bạn không bao giờ có thể thực sự có được tinh thần của bản gốc."

Hiện tại, chìm trong lòng nhiệt huyết, ông đã quên bẵng Poirot. Và Poirot, nhìn ông, đột nhiên cảm thấy ngờ vực - sự khó chịu nhói lên. Ở đây, đã từng có thứ gì ông bỏ lỡ chăng? Sự giàu có tinh thần? Nỗi buồn len lỏi vào ông. Phải rồi, ông nên làm quen với truyện cổ. . .. Từ lâu. . . Bây giờ, than ôi, nó đã quá muộn . .

Tiến sĩ Button làm đứt quãng nỗi sầu muộn của ông.

"Ý ông bạn là bạn thực sự đã nghĩ đến việc nghỉ hưu?"

"Đúng thế."

Người kia cười thầm.

"Ông bạn sẽ không đâu!"

"Nhưng tôi đảm bảo với bạn..."

"Bạn sẽ không thể nghỉ hưu đâu, ông bạn ơi. Bạn quá quan tâm đến công việc."

"Không... thực ra... tôi đang sắp xếp lại tất cả. Một vài vụ án nữa... đặc biệt mấy vụ được chọn... không, ông bạn hiểu đấy, mọi thứ nó đã tự thể hiện rồi... vấn đề chỉ là có một sức hấp dẫn cá nhân thôi."

Tiến sĩ Burton cười toe toét.

"Chính thế đấy. Chỉ là một vụ án hoặc hai, rồi chỉ một vụ nữa... cứ thế. Buổi biểu diễn chia tay của ca sĩ Prima Donna sẽ không ở với bạn đâu, Poirot ạ!"

Ông cười khúc khích và chầm chậm đứng dậy, như một thần lùn tóc bạc đáng yêu.

"Mấy vụ án đó không phải là chiến công của Hercules," ông nói, "Đó là công việc từ tình yêu. Bạn sẽ thấy xem tôi đúng không. Tôi đặt cược rằng trong mười hai tháng nữa ông bạn vẫn ở đây, còn bí ngô vẫn sẽ là" – ông rùng mình – "chỉ đơn thuần là bí."

Rời chủ nhà, tiến sĩ Burton đi ra khỏi căn phòng giản dị hình chữ nhật. Ông bỏ qua những trang sách này mà không trả về chỗ cũ. Chúng ta chỉ quan tâm đến những gì ông đã bỏ lại phía sau thôi, đó là một ý tưởng.

Vì sau khi ông đi, Hercule Poirot lại ngồi xuống chầm chậm như người mộng du và lẩm bẩm: "Chiến công của Hercules .... Mats out, c'est une idee, ca..." (Ra nào, ý tưởng ơi, xem nào...)
Ngày hôm sau, người ta thấy Hercules Poirot đang nghiên cứu một bộ sách bự chảng bọc da dê và mấy tác phẩm mỏng hơn, thỉnh thoảng lại liếc nhìn qua các phiếu đánh máy khác nhau.

Thư ký của ông, cô Lemon, đã thu thập chi tiết thông tin về chủ đề anh hùng Hercules và để trước mặt ông. Dù chẳng hề thích thú (cô không phải kiểu người sẽ hỏi tại sao!) nhưng Lemon vẫn hoàn thành việc được giao với hiệu quả tuyệt hảo.

Hercule Poirot đang vùi đầu vào biển truyện truyền thuyết cổ điển mịt mờ, với đoạn giới thiệu đặc biệt: "Hercules, một vị anh hùng nổi tiếng, sau khi chết được xếp hạng đứng giữa các vị thần và chàng nhận được danh dự thiêng liêng."

Cho đến giờ, quá ổn - nhưng còn xa so với kế hoạch lắm. Trong hai giờ Poirot chăm chỉ đọc, ghi chú, cau mày, tham khảo những mẩu giấy và những cuốn sách liên quan khác. Cuối cùng ông lại ngồi xuống ghế và lắc đầu. Tâm trạng tối hôm trước đã bị xua tan.

Chao ơi con người!

Hãy xem Hercules này – vị anh hùng này! Anh hùng, thực sự sao! Anh ta là gì ngoài một sinh vật vai u thịt bắp với trí thông minh thấp tệ và xu hướng tội phạm! Anh ta nhắc Poirot nhớ về Adoife Durand, một tay hàng thịt, người đã bị xét xử tại Lyons vào năm 1895. Lời bào chữa là hắn đã bị động kinh - từ đó không nghi ngờ gì là hắn phải mang bệnh này - cho dù bệnh nặng hay bệnh nhẹ vẫn còn là cuộc tranh cãi trong vài ngày.

Chàng Hercules cổ đại này có lẽ mang bệnh nặng. Không, Poirot lắc đầu, nếu đây là ý tưởng của người Hy Lạp về một vị anh hùng, thì chắc chắn không thể đo nó theo chuẩn hiện đại. Toàn bộ những hình mẫu cổ đại làm ông sốc. Những vị thần và nữ thần này - họ dường như có nhiều bí danh như một tên tội phạm ngày nay.

Quả thực họ có vẻ dứt khoát là kiểu người có tội. Uống rượu, đồi trụy, loạn luân, của cải phi pháp, cướp bóc, giết người và gây gổ - đủ để làm cho một vị quan tòa liên tục bận rộn.

Không có cuộc sống gia đình tử tế. Không thứ bậc, không khuôn phép. Ngay cả trong tội lỗi của họ, cũng chẳng hề có trật tự hay khuôn phép!

"Hercules thực sự vậy sao!" Hercule Poirot nói, đứng dậy, vỡ mộng. Ông nhìn quanh mình đồng tình.

Một căn phòng vuông, với đồ nội thất đẹp vuông vắn hiện đại – thậm chí một góc bức tượng điêu khắc hiện đại cũng thể hiện một khối lập phương đặt trên một khối khác, phía trên là dây đồng được sắp xếp hình học. Và ở giữa căn phòng sáng ngời ngăn nắp này, chính là bản thân ông. Ông nhìn mình trong gương.

Mình đây, đây là Hercules hiện đại – rất khác biệt so với phác họa khó ưa về một hình người khỏa thân với cơ bắp phình to, vung vẩy cây gậy. Thay vào đó, là một dáng người nhỏ gọn được mặc trang phục đúng chất thành phố với một hàng ria mép – bộ ria mà Hercules kia không bao giờ mơ nuôi được – bộ ria lộng lẫy nhưng tinh xảo. Nhưng giữa Hercule Poirot và chàng Hercules của truyền thuyết cổ kia vẫn còn một điểm giống nhau. Hai người họ, không nghi ngờ gì, đều là công cụ tiêu diệt những loài gây hại cho thế giới... Mỗi người họ đều có thể được miêu tả như một người làm việc nghĩa ở thế giới nơi mình đang sống...

Tiến sĩ Burton đã nói gì lúc rời đi đêm qua: "Mấy vụ án đó không phải là chiến công của Hercules..."

Ah, nhưng ông sai rồi, ông bạn già cổ hủ. Nên có, một lần nữa, những Chiến công của Hercules – một chàng Hercules hiện đại.

Một sự tự phụ tài tình thú vị! Trong giai đoạn trước khi nghỉ hưu cuối cùng, ông sẽ chấp nhận mười hai vụ án, không hơn, không kém.

Và mười hai vụ án đó nên được chọn khi có điểm liên quan đặc biệt với mười hai chiến công của chàng Hercules cổ đại. Đúng vậy, nó không chỉ là tiêu khiển, mà sẽ là nghệ thuật, là tâm linh.

Poirot nhấc cuốn từ điển Cổ điển lên và lại đắm mình vào truyền thuyết cổ. Ông không định đi quá sát theo nguyên mẫu. Không nên có đàn bà, không áo của Nessus... Chiến công và chỉ chiến công thôi.

Chiến công đầu tiên, rồi, sẽ là về con quái vật sư tử Nemean..

"Sư tử Nemean", ông nhắc lại, cố uốn lưỡi.

Đương nhiên ông không trông đợi một vụ án thực tế liên quan đến một chú sư tử bằng xương bằng thịt. Quá nhiều sự trùng hợp, rồi ông còn phải tiếp cận giám đốc vườn bách thú để giải quyết vấn đề về chú sư tử thật kia nữa.

Không, ở đây biểu tượng cần phải liên quan.

Vụ án đầu tiên phải đề cập đến hình mẫu nào đó nổi tiếng đại chúng, nó phải giật gân và quan trọng hàng đầu! Một số tội phạm bậc thầy - hoặc ai đó như con sư tử trong mắt công chúng. Vài nhà văn nổi tiếng, hoặc chính trị gia, hay họa sĩ - hoặc thậm chí là Hoàng gia?

Ông thích ý tưởng về Hoàng gia...

Ông sẽ không vội đâu. Ông sẽ chờ - chờ vụ án tối quan trọng sẽ là chiến công đầu tiên ông tự mình đảm nhiệm.

CHAP 1- The Nemean Lion

Sư tử Nemean

Người dịch: Ahiru

"Có gì hay ho sáng nay không, cô Lemon?" Poirot hỏi khi vào phòng sáng hôm sau.

Ông tin tưởng Lemon. Cô là một người phụ nữ ít trí tưởng tượng, nhưng có bản năng tự nhiên. Bất cứ điều gì cô đề nghị là đáng xem xét, thì thường phải cân nhắc thật. Cô là người thư ký thiên bẩm.

"Không có gì nhiều ông Poirot. Chỉ có một lá thư tôi nghĩ có thể làm ông quan tâm. Tôi đã đặt nó lên trên chồng sách."

"Về cái gì vậy cô?" ông chăm chú tiến lên một bước.

"Một người muốn ông điều tra vụ con chó Bắc Kinh mà vợ ông ta nuôi bị mất tích."

Poirot dừng chân giữa không trung. Ông liếc cái nhìn trách móc sâu sắc về phía Lemon. Cô không để ý đến. Cô đã gõ chữ rồi. Cô gõ với tốc độ và sự chính xác của một con xe tăng bắn nhanh.

Poirot bị sốc; bàng hoàng và đau lòng. Cô Lemon, Lemon đầy năng lực, đã làm ông thất vọng! Một con chó Bắc Kinh. Chó Bắc Kinh! Sau giấc mơ ông có tối qua nữa. Ông đang rời điện Buckingham sau khi được đích thân cảm ơn, và người hầu phòng đến phục vụ món sô cô la buổi sáng!

Lời nói run run trên môi ông – những lời chua cay hài hước. Ông không thốt ra lời bởi vì Lemon, với tài gõ chữ tốc độ và hiệu quả, sẽ không nghe thấy chúng.

Làu bàu chán ghét, ông lấy lá thư ở trên cùng chồng sách nhỏ mé bàn.

Đúng, nó chính xác như cô Lemon đã nói. Một địa chỉ thành phố - một vụ án cộc lốc giống như không có nhu cầu phải lịch sự. Chủ đề -- vụ mất tích chó Bắc Kinh. Một trong những con thú nuôi mắt lồi, quá được cưng chiều của một phụ nữ giàu có. Đôi môi Hercule Poirot cong lên khi đọc.

Không có gì bất thường. Không có gì ngoài lề hoặc -- Nhưng đúng, đúng, trong một chi tiết nhỏ. Cô Lemon đã đúng. Trong một chi tiết nhỏ có gì đó bất thường. Hercule Poirot ngồi xuống. Ông đọc lá thư chậm rãi và cẩn thận. Đây không phải kiểu vụ án ông muốn, không phải là kiểu vụ án ông đã tự hứa với mình. Không phải là một vụ án quan trọng, mà cực kỳ không hề quan trọng. Nó không phải – và đây là mấu chốt sự phản đối của ông – không phải là một chiến công đúng đắn của Hercules.

Nhưng tiếc là ông tò mò...

Phải, ông tò mò...

Ông nói to vượt qua tiếng ồn đánh máy để Lemon có thể nghe được.

"Hãy gọi cho ngài Joseph Hoggin," ông yêu cầu, "và đặt một cuộc hẹn cho tôi gặp khách tại văn phòng của ngài ấy, như ngài ấy gợi ý. "

Như thường lệ. Cô Lemon đã đúng.

"Tôi là một người đơn giản, ông Poirot à," ngài Joseph Hoggin nói.

Hercule Poirot làm một cử chỉ thoái thác bằng tay phải. Nó bày tỏ (nếu bạn chọn lấy như vậy) lòng ngưỡng mộ đối với sự nghiệp đầy giá trị của ngài Joseph và đánh giá cao tính khiêm nhường trong việc mô tả bản thân ngài. Cũng có thể nó đã truyền đạt một lời phản đối duyên dáng. Dù là gì thì nó cũng chả thể hiện manh mối nào về ý nghĩ đầu tiên trong tâm trí Hercule Poirot, đó là ngài Joseph chắc chắn (dùng từ theo nghĩa thông tục thì) là người đàn ông rất mộc mạc. Mắt Hercule Poirot ngưng lại nghiêm túc trên quai hàm bạnh, đôi mắt hí, cái mũi củ hành và khuôn miệng mím lại. Toàn bộ ấn tượng chung nhắc ông nhớ về ai đó hoặc điều gì đó – nhưng lúc này ông không thể nhớ ra là ai hay điều gì. Một kí ức lờ mờ bị khuấy động. Đã lâu rồi... ở nước Bỉ... cái gì đó, chắc là, làm với xà phòng...

Ngài Joseph đang tiếp tục.

"Không rườm rà về tôi làm gì. Tôi không nói quanh co. Hầu hết mọi người, ông Poirot à, sẽ mặc kệ vụ này. Xóa nó như một món nợ xấu và quên đi. Nhưng đó không phải cách làm của Joseph Hoggin. Tôi là người giàu có – theo cách nói thì hai trăm bảng không là gì cả-"

Poirot nói thêm nhanh chóng:

"Chúc mừng ngài."

"Hả?"

Ngài Joseph dừng một chút. Đôi mắt nhỏ vẫn nheo lại. Ông nói gay gắt:

"Nói vậy không phải là tôi có sở thích ném tiền đi. Cái gì muốn, tôi trả. Nhưng tôi trả theo giá thị trường – không hơn."

Hercule Poirot bảo:

"Ngài nhận thấy rằng phí của tôi cao?"

"Đúng, đúng. Nhưng cái này," Ngài Joseph nhìn vào ông gian trá, "là một vấn đề rất nhỏ."

Hercule Poirot nhún vai. Ông nói:

"Tôi không mặc cả đâu. Tôi là một chuyên gia. Ngài phải trả giá để hưởng sự phục vụ của một chuyên gia."

Ngài Joseph thẳng thắn:

"Tôi biết ông là người hàng đầu ở lĩnh vực này. Tôi hỏi và được bảo rằng ông là người tốt nhất sẵn sàng. Ý tôi là theo vụ này đến cùng và tôi không ác cảm với chi phí. Đó là lý do tôi đưa ông đến đây."

"Ngài đã gặp may," Hercule Poirot nói.

Ngài Joseph nói "Hả?" lần nữa.

"Rất may mắn," Hercule Poirot xác nhận. "Tôi đang, có thể nói không khiêm tốn quá mức thì, ở đỉnh cao sự nghiệp. Một thời gian ngắn nữa tôi dự định sẽ nghỉ hưu - sống ở nông thôn, thỉnh thoảng đi du lịch để nhìn ra thế giới – cũng có thể, đi cày cấy vườn tược - đặc biệt chú ý vào việc cải thiện độ căng của bí ngòi. Loài rau kì diệu – nhưng thiếu hương vị. Tuy nhiên, đây không phải điểm chính. Tôi chỉ muốn tự giải thích rằng trước khi nghỉ hưu tôi tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ nhất định. Tôi đã quyết định nhận mười hai vụ án – không hơn, không kém. Những chiến công tự áp đặt của Hercules nếu tôi có thể mô tả như vậy. Vụ của ngài. Ngài Joseph, là đầu tiên trong mười hai vụ. Tôi bị nó thu hút," ông thở dài, "bởi sự không quan trọng nổi bật của nó."

"Quan trọng ư?" ngài Joseph hỏi.

"Tầm quan trọng là điều tôi nói đến. Tôi được gọi đến vì nhiều nguyên nhân khác nhau -- điều tra án mạng, cái chết không rõ nguyên nhân, vụ cướp, ăn trộm đồ trang sức. Đây là lần đầu tiên tôi được yêu cầu chuyển tài năng về làm sáng tỏ một vụ bắt cóc chó Bắc Kinh."

Ngài Joseph lầm bầm. Ngài nói:

"Ông làm tôi ngạc nhiên! Tôi phải nói rằng ông bạn nên có hàng phụ nữ làm phiền ông không dứt về những con chó cưng của họ."

"Điều đó, chắc chắn rồi. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi được một đức ông chồng mời đến."

Đôi mắt nhỏ của ngài Joseph nheo lại tán thưởng. Ngài nói:

"Tôi bắt đầu thấy lý do tại sao họ lại đề nghị ông với tôi. Ông là một gã khôn ngoan, ông Poirot."

Poirot lẩm bẩm:

"Nếu giờ ngài sẵn sàng, hãy kể tôi nghe những sự thật về vụ án. Con chó biến mất, khi nào?"

"Chính xác là một tuần trước."

"Và vợ ngài bây giờ hẳn phát điên, tôi đoán vậy?"

Ngài Joseph nhìn chằm chằm. Ngài nói:

"Ông không hiểu rồi. Con chó đã được trả lại."

"Trả lại? Rồi, cho phép tôi hỏi, chúng ta vào vấn đề, ở đâu xảy ra vụ việc?"

Mặt ngài Joseph đỏ nhừ.

"Vì tôi là thằng đáng chết nếu bị lừa! Bây giờ, ông Poirot, tôi sẽ kể cho ông tất cả. Con chó bị trộm một tuần trước – bị xoáy mất ở vườn Kensington khi ra ngoài với cô hầu của vợ tôi. Ngày hôm sau vợ tôi được yêu cầu hai trăm bảng. Tôi hỏi ông – hai trăm bảng! Cho con thú nhỏ chết tiệt ăng ẳng luôn quanh quẩn dưới chân ông!"

Poirot nói nhỏ:

"Ngài không chấp nhận trả số tiền đó, đương nhiên?"

"Tất nhiên tôi đã không – hoặc sẽ không nếu tôi biết bất cứ điều gì! Milly (vợ tôi) biết điều đó đủ rõ. Bà ấy không nói gì với tôi cả. Chỉ cần gửi tiền – những tờ một bảng theo quy định– đến địa chỉ cho sẵn."

"Và con chó đã được trả lại?"

"Đúng thế. Tối đó chuông reo và con thú nhỏ ngồi trên bậc cửa. Không thấy bóng dáng ai."

"Tuyệt vời. Tiếp tục đi."

"Rồi tất nhiên, Milly thú nhận bà ấy đã làm gì và tôi mất bình tĩnh một lúc. Tuy vậy, sau đó tôi trấn tĩnh – sau tất cả, việc đã rồi và ông không thể mong đợi một người phụ nữ cư xử đúng mực – và tôi dám chắc rằng tôi sẽ để mọi chuyện trôi qua nếu không gặp bạn cũ Samuelson ở câu lạc bộ."

"Vâng?"

"Chết tiệt hết, đây rõ ràng là một vụ làm tiền! Chắc chắn điều tương tự đã xảy ra với bạn tôi. Chúng đã bịp vợ ông ấy ba trăm bảng! Chà, thế là hơi quá rồi. Tôi quyết định việc này phải dừng lại. Tôi gửi thư cho ông."

"Nhưng chắc chắn. Thưa ngài Joseph, một lá thư thích hợp (và rẻ tiền hơn rất nhiều) sẽ được gửi cho cảnh sát?"

Ngài Joseph xoa mũi.

Ngài nói:

"Ông kết hôn chưa, ông Poirot?"

"Than ôi," Poirot nói, "Tôi không có diễm phúc đó."

"Hừm," Joseph nói. "Không biết diễm phúc hay không, nhưng nếu ông cưới rồi, ông sẽ biết rằng phụ nữ là những sinh vật khôi hài. Vợ tôi kích động khi chỉ vừa đề cập đến cảnh sát – Bà ấy đã in vào đầu rằng sẽ có gì đó xảy ra với Sơn Đông quý giá của bả nếu tôi gặp họ. Bà ấy không muốn nghe về ý tưởng này – và tôi có thể nói rằng bà không tiếp nhận dễ chịu lắm về ý định gọi cho ông. Nhưng tôi giữ vững và cuối cùng bà ấy phải nhường. Nhưng, nhắc ông là, bà ấy không thích đâu."

Hercule Poirot lẩm bẩm:

"Vị trí này, tôi nhận thấy, là tế nhị. Có lẽ sẽ tốt thôi, nếu tôi được phỏng vấn quý bà vợ ngài và thu được nhiều điều cụ thể hơn, trong khi đồng thời trấn an bà ấy về sự an toàn tương lai của chú chó?"

Ngài Joseph gật đầu và đứng dậy. Ngài nói:

"Tôi sẽ đưa ông đi cùng xe ngay lập tức."

Trong một phòng khách rộng, nóng, được trang hoàng đồ đạc hai người phụ nữ đang ngồi.

Khi Sir Joseph và Hercule Poirot bước vào, một chú chó Bắc Kinh bé nhỏ lao tới, sủa dữ dội, và chạy vòng tròn nguy hiểm quanh những mắt cá chân của Poirot.

"Shan - Shan, lại đây. Lại đây với mẹ, con yêu – Đón bé ấy lên. Cô Carnaby."

Người phụ nữ thứ hai vội vã tiến về phía trước và Hercule Poirot lẩm bẩm:

"Một con sư tử thực, thực sự."

Thay vào đó là hơi thở hổn hển đồng ý của người giữ Sơn Đông.

"Đúng, thật thế đấy, nó quả là con chó cảnh giới tốt. Nó không bị bất kì ai hay cái gì làm hoảng sợ. Một chàng trai dễ thương."

Sau khi thực hiện phần giới thiệu cần thiết, ngài Joseph nói:

"Chà, ông Poirot, tôi sẽ rời khỏi đây để ông làm việc nhé," và với một cái gật đầu ngắn, ông rời khỏi phòng.

Phu nhân Hoggin là một người phụ nữ mập mạp, trông nóng nảy với mái tóc được nhuộm màu đỏ lá móng. Hầu gái của bà, Carnaby đang bối rối, là một người bụ bẫm, nom đáng yêu từ bốn mươi đến năm mươi tuổi. Bà đối xử với bà Hoggin một cách tôn trọng hết sức và rõ ràng sợ hãi cho đến chết.

Poirot nói:

"Nói tôi nghe. Thưa phu nhân Hoggin, diễn biến đầy đủ của tội ác xấu xa này. "

Phu nhân Hoggin đỏ bừng mặt.

"Tôi rất vui lòng khi nghe ông nói thế, ông Poirot. Vì đó là một tội ác. Chó Bắc Kinh cực kỳ nhạy cảm - nhạy cảm như đứa trẻ. Sơn Đông đáng thương có thể đã chết vì sợ hãi nếu như không có gì khác."

Bà Carnaby nghẹn ngào thở dốc:

"Vâng, nó thật độc ác - độc ác!"

"Xin hãy nói cho tôi sự thật."

"Chà, là như thế này. Sơn Đông ra ngoài đi dạo trong công viên với bà Carnaby --"

"Ôi trời ơi, vâng, tất cả là lỗi của tôi," người hầu gái nói xen vào. "Sao tôi có thể ngu ngốc như vậy -- quá bất cẩn --"

Phu nhân Hoggin nói chua chát:

"Tôi không muốn trách mắng cô. Cô Carnaby, nhưng tôi nghĩ cô đã có thể cảnh giác hơn."

Poirot chuyển ánh mắt sang người hầu gái.

"Đã xảy ra chuyện gì thưa bà?"

Bà Carnaby vỡ òa trong lời nói nhanh và hơi run rẩy.

"Ôi, bất thường nhất là đây! Chúng tôi chỉ đang đi dọc con đường hoa - Sơn Đông đi đằng trước, dĩ nhiên - nó chạy bước ngắn trên bãi cỏ - và tôi sắp quay đầu về nhà thì tôi chú ý đến một em bé trong xe đẩy - em bé quá đáng yêu - bé mỉm cười với tôi - đôi má hồng dễ thương và những lọn tóc xoăn như vậy. Tôi không thể cưỡng lại việc nói chuyện với y tá phụ trách và hỏi bé bao nhiêu tuổi - mười bảy tháng, cô ấy nói - và tôi chắc rằng mình chỉ nói chuyện với cô ấy khoảng một hai phút, rồi đột nhiên tôi nhìn xuống thì Shan không còn ở đó nữa. Dây dắt chó đã bị cắt -"

Phu nhân Hoggin bảo:

"Nếu cô đã chú ý đúng mức đến nhiệm vụ của mình, không ai có thể lén lại gần và cắt dây được."

Bà Carnaby dường như có xu hướng bùng nổ thành nước mắt. Poirot vội vàng nói:

"Và những gì đã xảy ra tiếp theo?"

"Ôi, dĩ nhiên là tôi đã tìm khắp nơi. Rồi gọi điện hỏi người gác công viên xem anh ta có nhìn thấy gã nào mang theo một con chó Bắc Kinh không nhưng anh ta không nhận ra ai như vậy - tôi không biết phải làm sao nữa – rồi tôi tiếp tục tìm kiếm, nhưng cuối cùng, tất nhiên, tôi phải về nhà -"

Bà Carnaby lặng ngắt. Poirot có thể tưởng tượng cảnh tượng tiếp theo thế nào. Ông hỏi:

"Rồi sau đó bà nhận được một lá thư?"

Phu nhân Hoggin tiếp tục câu chuyện.

"Ngay bức thư đầu tiên sáng hôm sau. Nó nói rằng nếu muốn thấy Sơn Đông còn sống, tôi phải gửi 200 tiền giấy một bảng Anh trong một gói không ghi tên đến đại úy Curtis, quảng trường số 38 đường Bloomsbury. Thư nói nếu tiền bị đánh dấu hoặc cảnh sát được thông báo thì - thì - tai và đuôi của Sơn Đông sẽ bị -- cắt đi."

Bà Carnaby bắt đầu sụt sịt.

"Thật kinh khủng," bà nói nhỏ. "Sao người ta có thể hung ác như vậy"

Phu nhân Hoggin tiếp lời:

"Thư nói rằng nếu tôi gửi tiền ngay lập tức,... Sơn Đông sẽ được trả lại ngay tối đó sống sót và mạnh khỏe, nhưng nếu - nếu sau đó tôi mà đến cảnh sát, thì sẽ là Sơn Đông, thằng bé sẽ phải hứng chịu - "

Bà Carnaby nói nhỏ như phát khóc:

"Trời ơi, tôi rất sợ thậm chí ngay cả bây giờ -- tất nhiên, ngài Poirot không hẳn là cảnh sát - "

Phu nhân Hoggin lo lắng nói:

"Vậy nên ông thấy đấy, ông Poirot, ông sẽ phải rất cẩn thận."

Hercule Poirot nhanh chóng xoa dịu sự lo ngại của bà.

"Nhưng tôi, tôi đâu phải là cảnh sát. Những điều tra của tôi, chúng sẽ được tiến hành rất kín đáo, rất lặng lẽ. Bà có thể yên tâm, phu nhân Hoggin, Sơn Đông sẽ an toàn tuyệt đối. Tôi đảm bảo điều đó."

Cả hai người phụ nữ có vẻ nhẹ nhõm bởi từ ngữ ma thuật. Poirot tiếp tục:

"Bà có lá thư ở đây không?"

Phu nhân Hoggin lắc đầu.

"Không, tôi được hướng dẫn gói nó kèm theo tiền."

"Và bà đã làm thế?"

"Phải."

"Hừm, thật đáng tiếc."

Bà Carnaby rạng rỡ nói:

"Nhưng tôi vẫn còn dây dắt chó. Tôi lấy ra nhé?"

Bà rời khỏi phòng. Hercule Poirot tranh thủ sự vắng mặt của bà để hỏi vài câu thích đáng.

"Amy Carnaby? Ồ! Cô ấy khá ổn. Một tâm hồn đẹp, dù ngốc nghếch, tất nhiên. Tôi đã có vài người hầu gái và tất cả họ ngu ngốc hoàn toàn. Nhưng Amy đã hết lòng với Sơn Đông và cô ấy rất buồn bã sau mọi chuyện – có lẽ thế cũng phải – nấn ná bên xe đẩy và bỏ bê bé yêu của tôi! Những người giúp việc cũ đều giống nhau, ngu ngốc hơn đứa trẻ! Không, tôi khá chắc chắn rằng cô ấy không có bất cứ vấn đề gì."

"Có vẻ không có khả năng thật," Poirot đồng ý. "Nhưng khi con chó biến mất lúc bà ấy phụ trách, người ta phải chắc chắn về sự trung thực của bà ấy. Bà ấy đã ở bên bà lâu chưa?"

"Gần một năm. Tôi có những tài liệu tham khảo tuyệt vời về bà ấy. Bà ấy đã ở với cụ bà Hartingfield cho đến khi cụ chết - mười năm, tôi tin thế. Sau đó bà chăm sóc người chị tàn tật một thời gian. Bà ấy thực sự là một người xuất sắc - nhưng ngốc hoàn toàn, như tôi đã nói."

Lúc này Amy Carnaby quay trở lại, hơi thở dốc hơn, và đưa ra sợi dây dắt chó bị cắt mà bà trao cho Poirot với sự trang trọng tối đa, nhìn ông trông chờ đầy hy vọng.

Poirot nghiên cứu nó một cách cẩn thận.

"Mais oui" (Nhưng vâng) ông nói. "Dây này đã bị cắt không nghi ngờ gì."

Hai người phụ nữ vẫn chờ đợi. Ông nói:

"Tôi sẽ giữ cái này."

Ông bỏ nó trang trọng vào túi. Hai người phụ nữ thở phào nhẹ nhõm. Ông rõ ràng đã làm xong những gì được mong đợi.

III

Thói quen của Hercule Poirot là không để lại điều gì chưa được kiểm chứng.

Mặc dù bề ngoài có vẻ như bà Carnaby không có gì ngoại trừ là người phụ nữ ngốc nghếch và đầu óc khá mụ mị mà trông có vẻ vậy, Poirot vẫn tìm cách phỏng vấn một người phụ nữ có phần cấm đoán, là cháu gái của cụ phu nhân Hartingfield quá cố.

"Amy Carnaby" Cô Maltravers nói. "Tất nhiên, cháu nhớ cô ấy rõ ràng. Cô ấy là một người tốt và phù hợp với dì Julia đến khi xuống đất. Tận tụy với chó và xuất sắc trong việc đọc to. Lịch thiệp, quá thế, không bao giờ cãi lại một người tàn phế. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy vậy? Không phải bấy kỳ loại tai họa nào chứ, cháu hy vọng thế. Khoảng một năm trước cháu đã đưa cho cô ấy một tài liệu tham khảo về vài người phụ nữ - tên bắt đầu bằng chữ H –"

Poirot vội giải thích rằng bà Carnaby vẫn làm ở đó. Ông nói, là có chút rắc rối về một con chó bị mất tích.

"Amy Carnaby là dành cho những chú chó. Dì cháu có một con chó Bắc Kinh. Dì đã để nó cho cô Carnaby khi dì chết và cô Carnaby đã hết lòng với nó. Cháu tin rằng cô ấy khá đau lòng khi nó chết. Ồ vâng, cô ấy là một người tốt. Tất nhiên, không hẳn chính xác về mặt trí tuệ. "

Hercule Poirot đồng ý rằng bà Carnaby không thể được mô tả như người tri thức.

Bước tiếp theo của ông là khai thác người gác công viên, người mà bà Carnaby đã nói chuyện vào buổi chiều định mệnh. Ông không gặp nhiều khó khăn. Anh chàng nhớ vụ việc đang được nói đến.

"Người phụ nữ trung niên, khá mập mạp – đang trong tình trạng bình thường - đã mất con chó Bắc Kinh của mình. Cháu biết rõ bà ấy bằng mắt - mang chó đi theo hầu hết các buổi chiều. Cháu thấy bà ấy vào với con chó. Bà ấy hiếm khi đau lòng như vậy khi mất nó. Chạy đến đây để biết cháu có trông thấy ai với một con chó Bắc Kinh không! Chà, cháu hỏi bác nhé! Cháu có thể nói với bác rằng, công viên có rất nhiều chó – đủ loại - chó sục, chó Bắc Kinh, chó chồn Đức - thậm chí cả họ Borzois - tất cả các loài chúng ta có. Không có khả năng cháu lại chú ý một con Bắc Kinh nhiều hơn con khác."

Hercule Poirot gật đầu suy nghĩ.

Ông đến quảng trường số 38 đường Bloomsbury. Số 38, 39 và 40 được hợp nhất vào làm khách sạn tư nhân Balaclava. Poirot đi lên bậc thang và đẩy cửa vào. Chào đón ông bên trong là mùi bắp cải xào nấu ám mùi và phảng phất đâu đó những con cá trích muối hun khói cho bữa sáng. Bên trái ông là chiếc bàn gỗ gụ với một cây hoa cúc trông buồn rầu trồng trên đó. Phía trên bàn là một giá lớn được bọc kín, bên trong đầy thư bị kẹt. Poirot nhìn chằm chằm vào bảng trầm tư trong vài phút.

Ông đẩy cánh cửa bên phải ra. Nó dẫn vào một loại phòng chờ với những chiếc bàn nhỏ và vài cái đơn-giản gọi-là ghế được phủ một lớp vải gai chán chường. Ba bà già và một quý ông cụ trông hung dữ ngẩng đầu lên và nhìn chằm chằm vào kẻ không mời mà đến với vẻ căm ghét chết người. Hercule Poirot thẹn đỏ mặt và rút lui.

Ông đi xa hơn dọc theo hàng lang và đến một cầu thang. Bên phải ông một hành lang phân nhánh vào góc bên phải về nơi rõ ràng là phòng ăn.

Một lối đi nhỏ dọc theo hành lang này có cánh cửa được đánh dấu "văn phòng".

Poirot gõ cánh cửa này. Không nhận được phản hồi, ông mở cửa và nhìn vào. Có một cái bàn lớn trong phòng phủ đầy giấy tờ nhưng không thấy ai. Ông đi khỏi và mất hút cánh cửa lần nữa. Ông đi lọt vào phòng ăn.

Một cô gái nom buồn bã trong chiếc tạp dề bẩn thỉu đang sắp xếp lại một giỏ dao dĩa với mấy thứ cô đặt trên bàn.

Hercule Poirot nói xin lỗi:

"Xin phép, nhưng tôi có thể gặp bà quản lý không?"

Cô gái nhìn ông bằng ánh mắt lờ đờ. Cô nói:

"Tôi không biết, chắc thế."

Hercule Poirot bảo:

"Không có ai trong văn phòng cả."

"Ôi, tôi không biết bà ấy ở đâu, chắc thế."

"Biết đâu," Hercule Poirot nói, nhẫn nại và bền bỉ, "cô có thể tìm ra bà ấy."

Cô gái thở dài. Một ngày quẩn quanh ảm đạm, giờ lại tăng thêm vì gánh nặng mới này đặt lên cô. Cô nàng buồn bã nói:

"Ôi, tôi sẽ xem tôi có thể làm được gì."

Poirot cảm ơn cô và một lần nữa quay lại đại sảnh, không dám đối mặt với ánh mắt ác ý của những người ngồi trong phòng chờ. Ông đang nhìn đăm đăm vào giá thư phủ vải nỉ thì tiếng sột soạt nồng mùi của hoa violet vùng Devonshire thông báo bà quản lý xuất hiện.

Bà Harte đầy ân cần. Bà kêu lên:

"Rất thứ lỗi cho tôi không ở văn phòng. Ông đang hỏi phòng ư?"

Hercule Poirot nói nhỏ:

"Không hẳn vậy. Tôi tự hỏi một người bạn của tôi có ở đây mới rồi không. Ông đại úy Curtis."

"Curtis," bà Harte kêu lên. "Đại úy Curtis? Tôi đã nghe cái tên đó ở đâu rồi nhỉ?"

Poirot không giúp được. Bà lắc đầu bực bội.

Ông nói:

"Bà không thấy, rồi, không có ông đại úy Curtis ở đây?"

"Chà, không phải mới đây đâu, chắc chắn. Tuy nhiên, ông biết đấy, cái tên này chắc chắn rất quen thuộc với tôi. Ông có thể mô tả về bạn ông không?"

"Điều đó," Hercule Poirot nói, "sẽ khó đấy." Ông tiếp lời: "Tôi cho rằng đôi khi xảy ra việc có những bức thư gửi đến trong khi thực tế không có ai tên như vậy ở đây hết?"

"Có chứ, tất nhiên rồi."

"Bà làm gì với những thư như thế?"

"Chà, chúng tôi giữ chúng một thời gian. Ông thấy đấy, có thể là người được hỏi sẽ đến sớm. Tất nhiên, nếu thư hoặc bưu kiện ở đây trong một thời gian dài không ai hỏi đến, chúng sẽ được trả lại cho bưu điện."

Hercule Poirot gật đầu suy tư.

Ông nói:

"Tôi hiểu rồi." Ông nói thêm: "Thế này đây, như bà thấy. Tôi đã viết một lá thư cho ông bạn ở đây."

Khuôn mặt của bà Harte sáng tỏ.

"Điều đó giải thích tại sao. Tôi hẳn là đã chú ý đến cái tên trên phong bì. Nhưng thực sự chúng tôi có rất nhiều ngài cựu quân nhân ở lại đây hoặc đi ngang qua - Hãy để tôi xem xem."

Bà nhìn lên bảng.

Hercule Poirot nói:

"Nó không có ở đó đâu."

"Chắc nó đã được trả lại cho người đưa thư, tôi đoán vậy. Tôi rất tiếc. Tôi hy vọng không có gì quan trọng?"

"Không, không, không quan trọng gì đâu."

Khi ông đi về phía cửa, bà Harte, bao trùm trong mùi hương hoa violet cay nồng, đuổi theo ông.

"Nếu bạn của ông đến -"

"Điều đó rất khó xảy ra. Tôi chắc hẳn... đã nhầm lẫn..."

"Kỳ hạn trả tiền của chúng tôi," bà Harte nói, "rất phải chăng. Bao gồm cả cà phê sau bữa tối. Mời ông xem một hoặc hai buồng ngủ..."

Hercule Poirot đã khó khăn trốn thoát.

IV

Phòng khách của bà Samuelson rộng lớn hơn, trang bị xa hoa hơn và ở giữa được sưởi ấm thậm chí còn ngột ngạt hơn so với phòng nhà phu nhân Hoggin. Hercule Poirot chật vật tìm lối đi giữa những bàn chân quỳ mạ vàng và các nhóm tượng lớn.

Bà Samuelson cao hơn phu nhân Hoggin, mái tóc được tẩy chất nhuộm. Con chó Bắc Kinh của bà được gọi là Nanki Poo. Đôi mắt lồi của nó quan sát Hercule Poirot với vẻ kiêu ngạo. Cô Keble, hầu gái của bà Samuelson, gầy gò và ốm yếu so với Carnaby bụ bẫm, nhưng cô cũng nói liến thoắng và hơi khó thở. Cô cũng bị đổ lỗi cho sự mất tích của Nanki Poo.

"Nhưng thực sự, ông Poirot ơi, kinh ngạc quá chừng. Tất cả xảy ra trong tích tắc. Ngay ngoài Harrods. Một y tá hỏi tôi giờ giấc..."

Poirot ngắt lời cô.

"Một y tá? Y tá bệnh viện ư?"

"Không, không - một y tá trông trẻ. Đứa bé quá là xinh xắn! Một đứa bé đáng yêu. Đôi má hồng dễ thương lắm. Họ nói rằng trẻ con trông không khỏe mạnh ở London, nhưng tôi chắc rằng..."

"Ellen," bà Samuelson nói.

Cô Keble đỏ mặt, lắp bắp và dần im lặng.

Bà Samuelson nói chua chát:

"Và trong khi cô Keble đang cúi xuống một cái xe đẩy trẻ con không liên quan gì đến mình, thì tên tội phạm táo bạo đã cắt dây dắt bé Nanki Poo và biến mất với thằng bé."

Cô Keble nức nở:

"Tất cả xảy ra trong một giây. Tôi nhìn quanh và cậu bé yêu dấu đã biến mất - chỉ còn dây dắt lủng lẳng trong tay. Có lẽ ông muốn xem dây đó chăng, thưa ông Poirot?

"Không bao giờ", Poirot nói vội vàng. Ông không mong ước thực hiện một bộ sưu tập dây dắt chó. "Tôi hiểu," ông tiếp tục, "rằng ngay sau đó cô nhận được một lá thư?"

Câu chuyện tiếp theo cũng diễn biến giống hệt - lá thư - mối đe dọa bạo lực đối với đôi tai và đuôi của Nanki Poo. Chỉ có hai điều khác nhau - tổng số tiền yêu cầu – 300 bảng - và địa chỉ mà lá thư gửi đến, lần này là tới sĩ quan Blackleigh, khách sạn Harrington, 76 vườn Clonmel, Kensington.

Bà Samuelson tiếp tục:

"Khi Nanki Poo trở lại an toàn lần nữa, tôi đã tự mình đến nơi đó, ông Poirot. Rốt cuộc, ba trăm bảng là ba trăm bảng mà."

"Chắc chắn rồi."

"Thứ đầu tiên tôi nhìn thấy là lá thư đựng tiền của mình để trong một loại giá đỡ ở đại sảnh. Trong khi chờ đợi bà chủ, tôi đã nhét nó vào túi mình. Thật không may..."

Poirot nói: "Thật không may, khi bà mở ra nó chỉ chứa những tờ giấy trắng."

"Sao ông biết được?" Bà Samuelson quay qua ông sợ hãi.
Poirot nhún vai.
"Rõ ràng thôi, Madame ơi, kẻ trộm sẽ cẩn thận lấy lại tiền trước khi gã trả lại con chó. Sau đó, gã sẽ thay thế những tờ tiền bằng giấy trắng và trả lại lá thư vào giá phòng trường hợp nó bị chú ý khi biến mất."

"Không ai là sĩ quan Blackleigh từng ở đó."

Poirot mỉm cười.
"Và tất nhiên, chồng tôi vô cùng khó chịu về tất cả chuyện này. Thực tế là, anh ấy rất giận - hoàn toàn giận sôi gan."
Poirot thận trọng nói nhỏ:

"Bà đã không - ơ - hỏi ý kiến ông ấy trước khi gửi tiền?"
"Chắc chắn là không," bà Samuelson nói quả quyết.
Poirot nhìn dò hỏi. Người phụ nữ giải thích.
"Tôi sẽ không mạo hiểm chút nào đâu. Đàn ông rất khác thường khi được hỏi về tiền bạc. Jacob sẽ khăng khăng đòi đến cảnh sát. Tôi không thể mạo hiểm được. Nanki Poo yêu dấu tội nghiệp của tôi! Bất cứ điều gì có thể xảy ra với thằng bé! Tất nhiên là, sau đó tôi phải nói với chồng, vì tôi phải giải thích lý do tại sao mình lại rút tiền Ngân hàng."
Poirot lẩm bẩm:
"Quả là vậy – quả là vậy."

"Và tôi thực sự chưa bao giờ thấy anh ấy tức giận như thế. Đàn ông," bà Samuelson nói, xếp lại chiếc vòng tay kim cương lớn của mình và xoay những chiếc nhẫn trên ngón tay, "không nghĩ gì khác ngoài tiền."

V

Hercule Poirot đi lên thang máy đến văn phòng của ngài Joseph Hoggin. Ông gửi tấm thiếp của mình và được cho biết rằng ngài Joseph lúc này đã hẹn trước, nhưng sẽ gặp ông ngay bây giờ. Cuối cùng, một cô gái tóc vàng kiêu kỳ sải bước ra khỏi phòng của ngài Joseph với hai tay đầy giấy tờ. Cô liếc nhìn khinh khỉnh người đàn ông nhỏ bé kỳ lạ khi đi qua.
Ngài Joseph ngồi sau bàn gỗ gụ mênh mông. Có vết son trên cằm ngài.
"Chà, ông Poirot? Ngồi xuống nào. Có tin tức gì cho tôi không?"
Hercule Poirot nói:
"Toàn bộ sự việc là một vụ đơn giản dễ chịu. Trong mỗi trường hợp, tiền được gửi đến một trong những nhà trọ hoặc khách sạn tư nhân, nơi không có nhân viên khuân vác hoặc người phục vụ đại sảnh hay một lượng lớn khách luôn đến và đi, kể cả những người phục vụ cũ có ưu thế khá lớn. Bất cứ ai cũng có thể vào mà không gì dễ dàng hơn, rút ra một lá thư từ giá đỡ hoặc mang nó đi, nếu không thì lấy tiền và thay thế bằng giấy trắng. Do đó, trong mọi trường hợp, đường mòn đột ngột kết thúc trong ngõ cụt."

"Ý ông là ông không biết gã đó là ai?"

"Tôi có một số ý tưởng nhất định, vâng. Sẽ mất vài ngày để theo đuổi chúng."

Ngài Joseph nhìn ông tò mò.

"Làm tốt lắm. Rồi, khi ông có bất cứ gì cần báo cáo -"

"Tôi sẽ báo cáo cho ngài tại nhà của ngài."

Ngài Joseph nói:

"Nếu ông đi đến tận cùng vụ này, nó sẽ là một phần việc rất hay đấy."

Hercule Poirot nói:

"Không phải nghi ngờ thất bại. Hercule Poirot không thất bại."

Ngài Joseph Hoggin nhìn người đàn ông nhỏ bé và cười toe toét.

"Ông chắc chắn về bản thân, phải không?" ngài gặng hỏi.

"Hoàn toàn có lý do."

"Tốt thôi." Ngài Joseph Hoggin tựa lưng vào ghế. "Trèo cao ngã đau, ông biết đấy."

VI

Hercule Poirot, ngồi trước lò sưởi điện của mình (và cảm thấy một sự hài lòng thầm lặng với khuôn hình tinh xảo của nó) đang đưa ra hướng dẫn cho người được mình thuê làm mọi việc.

"Anh hiểu chứ, Georges?"

"Hoàn hảo, thưa ngài."

"Nhiều khả năng là một căn hộ hoặc ngôi nhà nhỏ. Và nó chắc chắn sẽ nằm trong những vùng nhất định. Phía nam công viên, phía đông nhà thờ Kensington, phía tây của doanh trại Knightsbridge và phía bắc đường Fulham."

"Tôi hiểu rõ, thưa ngài."

Poirot lẩm bẩm:

"Một vụ án tò mò nho nhỏ. Ở đây có bằng chứng về một tài năng rất rõ ràng có sự tổ chức. Và dĩ nhiên, có sự ẩn dấu bất ngờ của ngôi sao biểu diễn - chính sư tử Nemean, nếu tôi có thể gọi anh ta như vậy. Đúng thế, một vụ án nhỏ thú vị. Tôi ước gì mình cảm thấy bị khách hàng thu hút hơn - nhưng đáng tiếc ông ấy giống với một nhà sản xuất xà phòng Liege, người đã đầu độc vợ mình để cưới một cô thư ký tóc vàng. Một trong những vụ án thành công hồi đầu của tôi."

George lắc đầu. Anh nghiêm trang nói:

"Những cô gái tóc vàng này, thưa ngài, họ vốn chịu trách nhiệm cho rất nhiều rắc rối."

VII

Ba ngày vô giá sau đó.

George nói:

"Đây là địa chỉ, thưa ngài."

Hercule Poirot lấy mảnh giấy được đưa cho ông.

"Tuyệt vời, Georges giỏi giang của tôi. Ngày nào trong tuần thế?"

"Thứ năm, thưa ngài."

"Thứ năm. Và hôm nay, may mắn thay, là thứ năm. Vì vậy không cần trì hoãn nữa."

Hai mươi phút sau, Hercule Poirot đang trèo lên cầu thang của một dãy nhà lụp xụp chui rúc trong một con phố nhỏ dẫn ra một tòa nhà sang trọng hơn. Số 10 Rosholm.

Căn hộ ở trên tầng ba trên cùng và không có thang máy. Poirot vất vả leo lên trên vòng quanh cầu thang xoắn hẹp. Ông dừng lại để lấy hơi khi đến nơi và từ phía sau cánh cửa số 1 0, một âm thanh mới phá tan sự im lặng - tiếng sủa chói tai của một con chó.

Hercule Poirot gật đầu với nụ cười nhẹ. Ông bấm chuông phòng số 1 0. Tiếng sủa to hơn - tiếng bước chân đến cửa, nó được mở ra ...

Bà Amy Carnaby ngã ngửa, tay đưa lên bộ ngực to.

"Bà cho phép tôi vào nhé?" Hercule Poirot hỏi, rồi bước vào mà không đợi câu trả lời.

Có một cánh cửa phòng khách mở ở bên phải và ông bước vào. Đằng sau ông, bà Carnaby đi theo như trong giấc mộng.

Căn phòng rất bé và quá chật ních. Giữa mấy món nội thất có thể phát hiện ra một người, một bà lớn tuổi nằm trên ghế sofa gần lò sưởi gas. Khi Poirot bước vào, một con chó Bắc Kinh nhảy ra khỏi ghế sofa và tiến lên trước thốt ra vài tiếng sủa chói tai ngờ vực.

"Aha," Poirot nói. "Diễn viên chính đây rồi! Chào mừng bạn, người bạn nhỏ của tôi."

Ông cúi xuống, đưa tay ra.

Con chó đánh hơi nó, cặp mắt thông minh dán lên trên khuôn mặt của người đàn ông.

Cô Carnaby nói nhỏ yếu ớt:

"Vậy là ông đã biết?"

Hercule Poirot gật đầu.

"Vâng, tôi biết." Ông nhìn người đàn bà trên ghế sofa. "Chị gái của bà, tôi đoán thế?"

Bà Carnaby nói một cách máy móc: "Vâng, chị Emily, đây -- đây là ông Poirot."

Emily Carnaby thở hổn hển. Bà nói:

"Ồ!"

Amy Carnaby gọi:

"Augustus. ..."

Con chó Bắc Kinh nhìn về phía bà - đuôi nó chuyển động - rồi nó tiếp tục xem xét kỹ lưỡng bàn tay của Poirot. Đuôi nó vẫy nhẹ lần nữa.

Nhẹ nhàng, Poirot bế chú chó nhỏ lên và ngồi xuống đặt Augustus trên đầu gối.

Ông nói:

"Vậy là tôi đã bắt được sư tử Nemean. Nhiệm vụ của tôi đã hoàn thành."

Amy Carnaby nói giọng khô khốc:

"Ông thực sự biết tất cả rồi à?"

Poirot gật đầu.

"Tôi nghĩ thế. Bà đã tổ chức ra vụ này - với Augustus giúp đỡ. Bà đưa con chó mình được thuê trông ra ngoài đi dạo như thường, đưa nó về đây và tiếp tục đến công viên với con Augustus. Anh chàng gác công viên thấy bà với một con chó Bắc Kinh như thường lệ. Cô gái y tá chúng tôi từng tìm thấy, cũng đã đồng ý rằng bà có một chú chó Bắc Kinh đi cùng khi bà nói chuyện với cô ấy. Rồi trong lúc đang trò chuyện, bà cắt dây dắt chó và Augustus, được bà huấn luyện, ngay lập tức tuột ra và đi theo đường chim bay về nhà. Vài phút sau bà đưa ra báo động rằng con chó đã bị mất cắp."

Có một khoảng lặng. Rồi bà Carnaby rũ người dậy với đôi chút lòng tự trọng đáng thương. Bà nói:

"Vâng. Tất cả đều hoàn toàn đúng. Tôi - tôi không còn gì để nói."

Người phụ nữ tàn tật trên ghế sofa bắt đầu khóc khẽ.

Poirot nói:

"Không việc gì đâu. Thưa tiểu thư?"

Bà Carnaby nói:

"Không sao. Tôi đã là một tên trộm - và giờ đây tôi bị phát hiện."

Poirot lẩm bẩm:

"Bà không có gì để nói ư – lời bào chữa cho riêng bà?"

Một vệt đỏ đột nhiên xuất hiện trên đôi má trắng của Amy Carnaby. Bà nói:

"Tôi - tôi không hối hận về những gì mình đã làm. Tôi nghĩ ông là một người tử tế, ông Poirot, và có lẽ ông có thể hiểu chăng. Ông thấy đấy, tôi đã rất sợ hãi."

"Sợ hãi ư?"

"Vâng, thật khó để một quý ông hiểu, tôi mong vậy. Nhưng ông thấy đấy, tôi không phải là người phụ nữ thông minh, không được đào tạo và đang già đi - tôi rất khiếp sợ cho tương lai. Tôi không thể cứu vãn điều gì - làm thế nào tôi có thể chăm sóc được chị Emily? - khi tôi già đi và kém cỏi hơn sẽ không ai muốn thuê tôi. Họ sẽ muốn ai đó trẻ và nhanh nhẹn. Tôi - tôi đã biết rất nhiều người như tôi - không ai muốn bạn, bạn sống trong một căn phòng mà không thể có lửa hay hơi ấm, không có nhiều thứ để ăn, cuối cùng bạn thậm chí không thể trả tiền thuê phòng... Tất nhiên có những tổ chức, nhưng không dễ để vào đó trừ khi bạn có bạn bè thế lực, mà tôi thì không. Có nhiều người tốt khác hoàn cảnh giống tôi - những người hầu đáng thương - những người phụ nữ vô dụng không được đào tạo mà không có gì để trông đợi ngoài nỗi sợ chết chóc..."

Giọng bà run rẩy. Bà nói:

"Và vì thế - một số người chúng tôi - đã gặp nhau và - và tôi nghĩ về điều này. Thực sự việc có Augustus đã đưa nó vào tâm trí của tôi. Ông thấy đấy, với hầu hết mọi người, một chú chó Bắc Kinh rất giống với con khác. (Như chúng ta nghĩ về người Trung Quốc.) Tất nhiên nó thật là nực cười. Không ai biết rồi mà có thể nhầm Augustus với Nanki Poo hay Sơn Đông, hay bất kỳ chó Bắc Kinh nào khác. Nhưng như tôi nói, với hầu hết mọi người, chó Bắc Kinh chỉ là chó Bắc Kinh. Augustus đặt ý này vào đầu tôi - kết hợp với thực tế là rất nhiều phụ nữ giàu có chó Bắc Kinh."

Poirot nói với nụ cười yếu ớt:

"Chắc hẳn nó là một mánh lới sinh lời! Có bao nhiêu người trong nhóm – trong băng đảng? Hoặc có lẽ tôi nên hỏi rõ hơn là hoạt động này đã trót lọt bao nhiêu lần?"

Bà Carnaby nói đơn giản:

"Sơn Đông là vụ thứ mười sáu."

Hercule Poirot nhướn mày.

"Chúc mừng bà. Nhóm của bà đã thực sự xuất sắc."

Emily Carnaby nói:

"Amy luôn giỏi tổ chức. Cha của chúng tôi - ông là cha xứ của Kellington vùng Essex - luôn nói rằng Amy đúng là thiên tài về lập kế hoạch. Em ấy luôn sắp xếp mọi thứ cho những tập thể, những quầy hàng chợ và tất cả mọi thứ."

Poirot nhẹ cúi đầu:

"Tôi đồng ý. Như một tên tội phạm. Thưa tiểu thư, bà hẳn là đứng đầu."

Amy Carnaby kêu lên:

"Một tên tội phạm. Trời ơi, chắc tôi là vậy. Nhưng - nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế."

"Cảm giác như thế nào?"

"Tất nhiên, ông hoàn toàn đúng. Nó là vi phạm pháp luật. Nhưng ông thấy đấy - tôi có thể giải thích thế nào đây? Gần như tất cả những người phụ nữ thuê chúng tôi rất thô lỗ và khó chịu. Phu nhân Hoggin chẳng hạn, không để ý những gì nói với tôi. Bà ấy nói rằng thuốc bổ của bà có vị khó chịu khác trước và buộc tội tôi làm xáo trộn nó. Tất cả những việc kiểu như thế." Bà Carnaby đỏ bừng mặt. "Thực sự rất khó chịu. Và việc không thể nói gì hay đáp lời lại khiến nó chất chồng hơn, nếu ông hiểu ý tôi."

"Tôi hiểu ý bà," Hercule Poirot nói.

"Và rồi thấy tiền bị tiêu pha phung phí - điều đó thật khó chịu. Và ngài Joseph, đôi khi ông ấy thường mô tả một việc táo bạo mình đã làm trong thành phố-- đôi lúc là điều gì đó dường như với tôi (tất nhiên, tôi biết mình chỉ có một bộ não đàn bà và không hiểu biết về tài chính) hoàn toàn không chân thật. Ôi, ông biết đấy, ông Poirot, tất cả - tất cả xáo động tôi, rồi tôi cảm thấy rằng hãy lấy đi một ít tiền từ những người sẽ không thực sự nhớ nó, không quá cẩn trọng khi kiếm được - chà, thực sự nó hầu như không sai tí nào."

Poirot lẩm bẩm:

"Một Robin Hood hiện đại! Nói tôi nghe. Bà Carnaby, bà đã bao giờ phải thực hiện những lời đe dọa mà bà đã viết trong thư chưa?"

"Đe dọa ư?"

"Bà đã bao giờ bị buộc phải cắt xẻo các con vật theo cách bà đặt ra không?"

Bà Carnaby nhìn ông trong nỗi kinh hoàng.

"Tất nhiên, tôi sẽ không bao giờ mong làm cái việc như thế! Đó chỉ là - chỉ là một nét nghệ thuật."

"Rất nghệ thuật. Nó được việc đấy."

"Ôi, tất nhiên tôi biết chứ. Tôi biết mình sẽ cảm thấy ra sao với Augustus, và dĩ nhiên tôi phải đảm bảo rằng những người phụ nữ này không bao giờ kể với chồng cho đến khi xong việc. Kế hoạch luôn luôn trôi chảy. Trong chín vụ thường thì người hầu được đưa cho lá thư có tiền để gửi đi bưu điện. Chúng tôi thường hơ hơi nước mở nó ra, lấy các tờ tiền, rồi tráo chúng bằng giấy. Một hay hai lần người phụ nữ tự đi gửi thư. Sau đó tất nhiên, người hầu phải đến khách sạn và lấy thư ra khỏi giá. Nhưng việc ấy cũng khá dễ dàng."

"Còn cô giữ trẻ dính líu là sao? Có phải luôn là một cô giữ trẻ không?"

"Chà, ông biết đấy, ông Poirot, những người giúp việc lớn tuổi được biết đến là ủy mị phát rồ với trẻ sơ sinh. Vì vậy có vẻ khá tự nhiên khi họ say mê quá mức một đứa bé và không chú ý điều gì nữa."

Hercule Poirot thở dài. Ông nói:

"Tâm lý bà tuyệt vời, tổ chức của bà là hạng nhất và bà cũng là một nữ diễn viên rất giỏi. Buổi biểu diễn của bà vào ngày đó khi tôi phỏng vấn phu nhân Hoggin không thể chê trách điểm gì. Đừng bao giờ nghĩ coi rẻ bản thân mình. Bà Carnaby. Bà có lẽ được cho là một phụ nữ không được học hành nhưng không có gì sai với bộ não hay lòng can đảm của bà."

Bà Carnaby cười yếu ớt:

"Nhưng tôi đã bị tìm ra, ông Poirot."

"Chỉ có Tôi. Đó là điều không thể tránh khỏi! Khi tôi phỏng vấn bà Samuelson tôi nhận ra rằng vụ bắt cóc Sơn Đông là một trong chuỗi sự việc. Tôi đã biết rằng bà từng bị bỏ lại cho một con chó Bắc Kinh và có người chị gái tàn tật. Tôi chỉ phải yêu cầu người đầy tớ vô giá của mình tìm kiếm một căn hộ nhỏ trong bán kính nhất định, nơi một phụ nữ tàn tật có một con chó Bắc Kinh sinh sống, và một người em gái đến thăm bà ấy mỗi tuần một lần vào ngày được nghỉ. Đơn giản vậy đó."

Amy Carnaby rũ người dậy. Bà nói:

"Ông đã rất tử tế. Điều đó làm tôi bạo gan xin ông một ân huệ. Tôi không thể, tôi biết, thoát khỏi hình phạt cho những gì tôi đã làm. Tôi cho rằng, tôi sẽ bị tống vào tù. Nhưng nếu ông có thể, ông Poirot, ngăn chặn một số dư luận. Thật đau khổ cho chị Emily - và đối với mấy người biết chúng tôi ngày xưa. Tôi cho là mình không thể, đi tù dưới một cái tên giả? Hay rất sai lầm để đòi hỏi điều đó?"

Hercule Poirot bảo:

"Tôi nghĩ mình có thể làm được nhiều hơn thế. Nhưng trước hết tôi phải làm một việc khá chân tình. Vụ lừa đảo này phải dừng lại. Không còn con chó nào biến mất nữa. Tất cả đã kết thúc!"

"Vâng! Ồ vâng!"

"Và số tiền bà bòn rút của phu nhân Hoggin phải được trả lại."

Amy Carnaby băng qua phòng, mở ngăn kéo bàn giấy và trở lại với một túi tiền mà bà đưa cho Poirot.

"Tôi sẽ trả nó vào trong quỹ chung ngày hôm nay."

Poirot lấy tiền và đếm. Ông đứng dậy.

"Tôi nghĩ khả thi đấy. Bà Carnaby, rằng tôi có thể thuyết phục ngài Joseph không truy tố."

"Ôi, ông Poirot!"

Amy Carnaby siết chặt đôi tay. Emily khóc vì sung sướng. Augustus sủa và vẫy đuôi.

"Đối với bạn, mon ami," (bạn của tôi) Poirot nói với chú chó. "Có một điều mà tôi ước sao bạn có thể cho tôi. Tôi cần lớp che phủ vô hình của bạn. Trong tất cả các vụ việc không ai lại ngờ rằng có một con chó thứ hai tham gia. Augustus có lớp da tàng hình của loài sư tử."

"Tất nhiên rồi, ông Poirot, theo truyền thuyết, chó Bắc Kinh đã từng là những con sư tử. Và chúng vẫn còn trái tim của sư tử!"

"Augustus là, tôi đoán rằng, con chó được phu nhân Hartingfield để lại cho bà, cụ bà được báo là đã chết? Bà có bao giờ sợ nó về nhà một mình khi tham gia giao thông không?"

"Ồ không, ông Poirot, Augustus rất thông minh về giao thông. Tôi đã dạy thằng bé cẩn thận. Nó còn nắm vững nguyên tắc của đường một chiều."

"Trong trường hợp ấy," Hercule Poirot nói, "cậu bé vượt trội hơn hầu hết loài người!"

VIII

Ngài Joseph đón tiếp Hercules Poirot khi đang nghiên cứu giấy tờ. Ông nói:

"Chà, ông Poirot? Khoe khoang thu được gì không?"

"Trước tiên hãy để tôi hỏi ngài một câu," Poirot nói khi ngồi xuống. "Tôi biết ai là tội phạm và tôi nghĩ mình có thể đưa ra đủ bằng chứng để kết tội người này. Nhưng trong trường hợp đó tôi nghi ngờ liệu ngài có lấy được tiền hay không."

"Không lấy được tiền của tôi ư?"

Ngài Joseph chuyển sang tím mặt.

Hercule Poirot tiếp tục:

"Nhưng tôi đâu phải cảnh sát. Tôi thực hiện vụ này đơn độc chỉ vì lợi ích của ngài. Tôi nghĩ, tôi có thể lấy lại tiền của ngài nguyên vẹn, nếu không có vụ kiện tụng nào được thực hiện."

"Hả?" Ngài Joseph nói. "Điều đó cần chút suy nghĩ đấy."

"Hoàn toàn do ngài quyết định thôi. Nói đúng ra, tôi cho rằng ngài nên khởi tố vì lợi ích cộng đồng. Hầu hết mọi người sẽ nói vậy."

"Tôi cá bọn họ sẽ nói thế," Ngài Joseph nói gay gắt. "Có phải là tiền của họ bị dùng kiệt đâu. Nếu có điều tôi ghét thì đây là tôi bị lừa. Không kẻ nào từng bịp tôi mà cầm tiền trốn thoát."

"Vậy thì, ngài quyết định thế nào?"

Ngài Joseph đập bàn bằng nắm đấm.

"Tôi sẽ lấy tiền! Không kẻ nào được nói rằng chúng bỏ đi với hai trăm bảng tiền của tôi."

Hercule Poirot đứng dậy, băng qua bàn viết, viết ra một tấm séc trị giá hai trăm bảng và đưa cho người đàn ông kia.

Ngài Joseph nói với giọng yếu ớt:

"Ôi, quỷ tha ma bắt tôi đi! Thằng quỷ quyệt này là gã nào?"

Poirot lắc đầu.

"Nếu ngài chấp nhận tiền, thì không được hỏi câu nào."

Ngài Joseph gấp tờ séc lại và bỏ vào túi.

"Thật đáng tiếc. Nhưng đồng tiền đồng bạc. Và tôi nợ ông điều gì, ông Poirot?"

"Phí của tôi sẽ không cao. Như tôi đã nói, đây là vấn đề không hề quan trọng." Ông dừng lại - và nói thêm, "Ngày nay, gần như tất cả các vụ án của tôi đều là án giết người..."

Ngài Joseph mớm bắt chuyện.

"Thú vị phải không?" ngài nói.

"Đôi khi. Thật kỳ lạ, ngài gợi nhớ tôi về một trong những vụ án đầu tiên của mình ở Bỉ, nhiều năm về trước - nhân vật chính rất giống ngài về ngoại hình. Ông ấy là một tay sản xuất xà phòng giàu có. Ông ấy đã đầu độc vợ mình để tự do kết hôn với cô thư ký... Vâng - sự giống nhau rất đáng chú ý..."

Một âm thanh yếu ớt phát ra từ đôi môi của ngài Joseph – đôi môi đã chuyển sang màu xanh đáng ngờ. Tất cả những màu sắc hồng hào đã phai nhạt trên má ngài. Đôi mắt ngài, bắt đầu ra khỏi cái đầu, nhìn chằm chằm vào Poirot. Ngài trượt xuống một chút trong ghế ngồi.

Rồi với một bàn tay run rẩy, ngài lục lọi trong túi của mình. Ngài rút tờ séc ra và xé nó thành từng mảnh.

"Sạch nợ rồi – thấy chưa? Hãy coi đó là phí của ông."

"Ồ nhưng. Ngài Joseph, phí của tôi sẽ không lớn thế đâu."

"Không sao đâu. Ông cứ giữ lấy."

"Tôi sẽ gửi nó cho một tổ chức từ thiện xứng đáng."

"Cứ việc gửi đi bất kì chỗ chết tiệt nào ông thích."

Poirot nghiêng về phía trước. Ông bảo:

"Tôi nghĩ rằng tôi không cần chỉ ra nữa. Ngài Joseph, ở vị trí của ngài, ngài sẽ phải cực kỳ cẩn thận."

Ngài Joseph nói, giọng gần như không thể nghe thấy:

"Ông không phải lo. Tôi sẽ hoàn toàn cẩn thận."

Hercule Poirot rời khỏi tòa nhà. Khi ông đi xuống những bậc thang, ông nói với chính mình:

"Vậy... là đúng."

IX

Phu nhân Hoggin nói với chồng:

"Buồn cười, loại thuốc bổ này nếm lạ quá. Không thấy tí gì giống vị trước kia. Tôi tự hỏi tại sao?"

Ngài Joseph gầm gừ:

"Nhà hóa học. Những gã bất cẩn. Khiến cho mọi thứ trở nên khác biệt."

Phu nhân Hoggin nghi ngờ bảo:

"Tôi đoán đây vẫn là nó."

"Tất nhiên rồi. Nó thì có thể là cái gì khác?"

"Ông ấy có phát hiện ra điều gì về Sơn Đông không?"

"Có. Ông ta đã lấy lại tiền cho tôi."

"Thế ai là gã đó?"

"Ông ta không nói. Một gã rất kín tiếng, Hercule Poirot. Nhưng bà không cần phải lo đâu."

"Ông ấy là một người đàn ông bé nhỏ vui tính, phải vậy không?"

Ngài Joseph khẽ rùng mình và liếc mắt sang một bên như thể cảm thấy sự hiện diện vô hình của Hercules Poirot sau vai phải. Ngài có một ý nghĩ rằng ngài sẽ luôn cảm thấy ông ta ở đó.

Ngài nói:

"Ông ta là một thằng quỷ nhỏ khôn ngoan khốn kiếp!"

Rồi ngài tự nghĩ:

"Greta có thể bị treo cổ! Mình sẽ không mạo hiểm cái cổ của mình cho bất kỳ con ả tóc vàng bạch kim chết tiệt nào nữa!"

X

"Ôi!"

Amy Carnaby hoài nghi nhìn xuống tờ séc hai trăm bảng. Bà khóc:

"Chị Emily! Chị Emily ơi nghe này.

Bà Carnaby thân mến,

Cho phép tôi gửi kèm một phần đóng góp cho quỹ rất xứng đáng của bà trước khi cuối cùng quỹ bị tổn hại.

Trân trọng, Hercules Poirot."

"Amy ơi," Emily Carnaby nói, "Em đã may mắn đến khó tin, hãy nghĩ rằng em bây giờ có thể đang ở đâu."

"Wormwood Scrubbs - hay là Holloway?" Amy Carnaby lẩm bẩm. "Nhưng tất cả kết thúc rồi -- phải không, Augustus?"

Không còn đi bộ đến công viên với mẹ hay bạn bè của mẹ cùng với cây kéo nhỏ.

Một nỗi bâng khuâng xa xăm lọt vào đôi mắt.

Bà thở dài.

"Augustus thân yêu! Đáng tiếc thay. Ông ấy quá thông minh... Một người có thể dạy em bất cứ điều gì ..."


CHAP 3 - The Lernaean Hydra

Rồng chín đầu Hydra ở Lerna Người dịch: Ahiru

Hercule Poirot nhìn người ngồi đối diện mình khích lệ. Bác sĩ Charles Oldfield là một người đàn ông có lẽ bốn mươi. Anh có mái tóc thẳng màu xám hơi nhạt ở thái dương và đôi mắt xanh trời vẻ lo lắng. Anh hơi gù và cử chỉ lưỡng lự một chút. Ngoài ra, anh có vẻ khó khăn khi nói vào vấn đề.

Anh nói, hơi lắp bắp:

'Tôi đã đến với ông, ông Poirot, với một yêu cầu khá kỳ quặc. Và giờ tôi đang ở đây, có xu hướng trốn tránh tất cả. Bởi vì, như tôi thấy rất rõ bây giờ, đó là thứ việc không một ai có thể làm gì được.'

Hercule Poirot lẩm bẩm:

'Về điều đó, anh phải để tôi phán xét.'

Oldfield nói thầm:

'Tôi không biết tại sao mình lại nghĩ rằng có lẽ...'

Anh đứt quãng.

Hercule Poirot kết thúc câu nói.

'Có lẽ tôi có thể giúp anh chăng? Eh bien, (Chà) có lẽ tôi có thể đấy. Hãy cho tôi biết vấn đề của anh.'

Oldfield ngồi thẳng người. Poirot lần nữa chú ý đến người đàn ông trông hốc hác như thế nào. Oldfield nói, và giọng anh có một sự tuyệt vọng:
'Ông thấy đấy, sẽ không tốt nếu đến cảnh sát... Họ không thể làm gì cả. Tuy nhiên - mỗi ngày lại càng tệ hơn. Tôi - tôi không biết phải làm sao ....'
'Điều gì đang trở nên tồi tệ hơn?'
'Những tin đồn.... Ôi, khá đơn giản, ông Poirot. Chỉ hơn một năm trước, vợ tôi chết. Cô ấy đã có bệnh vài năm rồi. Họ đang nói, mọi người đều nói rằng, tôi đã giết cô ấy - rằng tôi đã đầu độc vợ!'
'Aha,' Poirot nói. 'Và anh có đầu độc cô ấy không?'
'Ông Poirot!' Bác sĩ Oldfield đứng phắt dậy.
'Hãy bình tĩnh,' Hercule Poirot nói. 'Và ngồi xuống một lần nữa. Chúng ta sẽ ghi nhận, rồi, rằng anh không đầu độc vợ mình. Nhưng tôi hình dung là, ông hành nghề ở một huyện nông thôn –'

'Vâng. Khu chợ Loughborough - ở Berkshire. Tôi luôn nhận thấy rằng đó là nơi người ta ngồi lê đôi mách về mấy vụ hay ho, nhưng tôi không bao giờ tưởng tượng rằng tin đồn lại đi xa như thế.' Ông kéo ghế ra phía trước một chút. 'Ông Poirot, ông không biết tôi đã trải qua điều gì. Lúc đầu, tôi không hề có ý niệm là điều gì đang xảy ra. Tôi nhận thấy mọi người có vẻ ít thân thiện hơn, có xu hướng tránh xa mình - nhưng tôi quy cho – cho rằng tại mình mới mất đi người thân. Rồi thì nó trở nên rõ rệt hơn. Thậm chí trên phố, mọi người sẽ băng qua đường để tránh nói chuyện với tôi. Việc hành nghề của tôi suy sút. Bất cứ nơi nào đi đến, tôi cảm thấy rõ được những tiếng nói thấp giọng, những cặp mắt không thân thiện quan sát trong khi những cái lưỡi hiểm ác thầm thì nọc độc chết người. Tôi đã có một hoặc hai lá thư - những thứ tệ hại.'

Ông dừng lại - rồi tiếp tục:

'Và - và tôi không biết phải làm sao. Tôi không biết làm thế nào để chống lại với – với mạng lưới dối trá và nghi ngờ ghê tởm này. Làm sao người ta có thể bác bỏ những gì không bao giờ được nói thẳng vào mặt mình? Tôi bất lực -- bị mắc kẹt – và bị phá hủy từ từ không thương tiếc.'

Poirot gật đầu suy nghĩ. Ông nói:

'Đúng. Tin đồn thực sự là con rồng chín đầu Hydra ở Lernea, không thể bị tiêu diệt ngay bởi vì khi một đầu bị chém đứt hai cái khác lại mọc lên đúng chỗ đó.'

Bác sĩ Oldfield nói: 'Chỉ có thế thôi. Tôi không thể làm gì - không thể làm gì cả! Tôi đã đến với ông như nơi cứu cánh cuối cùng - nhưng tôi không cho rằng ông có thể làm được gì ngay đâu.'

Hercule Poirot im lặng trong một hoặc hai phút. Sau đó ông nói:

'Tôi không chắc cho lắm. Vấn đề này làm tôi quan tâm. Bác sĩ Oldfield. Tôi muốn thử sức mình trong việc tiêu diệt con quái vật nhiều đầu. Trước hết, hãy kể cho tôi nghe thêm một chút về những tình huống dẫn đến tin đồn ác ý này. Vợ anh đã chết, anh nói là, chỉ hơn một năm trước. Nguyên nhân tử vong là gì?'

'Loét dạ dày.'

'Có khám nghiệm tử thi không?'

'Không. Cô ấy đã bị đau dạ dày lâu rồi.'

Poirot gật đầu.

'Và các triệu chứng viêm dạ dày và ngộ độc thạch tín rất giống nhau - một thực tế mà ngày nay mọi người đều biết. Trong mười năm qua, đã có ít nhất bốn vụ án mạng tày trời mà mỗi vụ nạn nhân bị chôn vùi không nghi ngờ gì cùng với giấy chứng nhận rối loạn dạ dày. Vợ anh già hay trẻ hơn anh?'

'Cô ấy hơn tôi năm tuổi.'

'Anh kết hôn được bao lâu rồi?'

'Mười lăm năm.'

'Cô ấy có để lại bất kỳ tài sản nào không?'

'Có. Cô ấy là người khá giàu có. Cô ấy đã để lại, đại khái, khoảng ba mươi ngàn bảng.'

'Một khoản tiền rất hữu ích. Nó được để lại cho anh?'

'Vâng.'

'Anh và vợ có chung sống tốt đẹp không?'

'Chắc chắn rồi.'

'Không bất hòa? Không cãi lộn?'

'Chà—' Charles Oldfiel do dự. 'Vợ tôi có thể được coi là một người khó tính. Cô ấy bệnh tật, quan tâm thái quá đến sức khỏe và, do đó, có chiều hướng cáu kỉnh và khó vừa lòng. Có những ngày không gì tôi làm là đúng cả.'

Poirot gật đầu. Ông nói:

'À vâng, tôi biết kiểu đó. Cô ấy có thể sẽ phàn nàn, rằng mình bị bỏ bê, không được đánh giá cao - rằng anh chồng đã mệt mỏi rồi và sẽ vui mừng khi cô chết.'

Khuôn mặt của Oldfield biểu lộ phỏng đoán của Poirot là đúng. Anh nói với nụ cười gượng gạo:

'Ông hiểu chính xác rồi đấy.'

Poirot tiếp tục:

'Có y tá bệnh viện đến chăm sóc bà ấy không? Hay là người hầu? Hoặc một người giúp việc tận tụy?'

'Có một y tá đồng hành. Một người phụ nữ rất biết điều và có năng lực. Tôi thực sự không nghĩ là cô ấy sẽ nói ra.'

'Ngay cả những người biết điều và có năng lực cũng được le bon Dieu (Đức Chúa lòng lành) ban cho tiếng nói - dù họ không phải lúc nào cũng sử dụng lời nói của mình một cách khôn ngoan. Tôi không nghi ngờ gì là cô y tá đó nói ra, rằng những người hầu nói ra, rằng mọi người đã nói ra! Họ có sẵn mọi nguyên liệu để bắt đầu một vụ bê bối làng quê rất thú vị. Bây giờ tôi sẽ hỏi anh một điều nữa. Quý bà đó là ai?'

'Tôi không hiểu.' Bác sĩ Oldfield giận đỏ mặt.

Poirot nhẹ nhàng nói:

'Tôi không nghĩ anh làm thế đâu. Tôi đang hỏi anh rằng người phụ nữ bị gán ghép tên với anh là ai?'

Bác sĩ Oldfield đứng dậy. Khuôn mặt anh cứng rắn và lạnh lẽo. Anh nói:

'Không có người đàn bà nào trong vụ này hết. Ông Poirot, tôi xin lỗi đã chiếm quá nhiều thời gian của ông.'

Anh đi về phía cửa.

Hercule Poirot nói:

'Tôi cũng lấy làm tiếc. Vụ của anh làm tôi quan tâm. Tôi muốn giúp anh. Nhưng tôi không thể làm bất cứ điều gì trừ khi được nghe toàn bộ sự thật.'

'Tôi đã nói với ông sự thật.'

'Không....'

Bác sĩ Oldfield dừng chân. Anh xoay người lại.

'Tại sao ông khăng khăng là có một phụ nữ liên quan đến vụ này?'

'Mon cher docteur (Bác sĩ thân mến của tôi!) Anh không nghĩ là tôi hiểu tâm lý phụ nữ ư? Tin đồn làng quê, nó luôn luôn, luôn luôn dựa trên mối quan hệ của hai giới tính. Nếu một người đàn ông đầu độc vợ để đi đến Bắc Cực hoặc để tận hưởng cuộc sống yên bình của một người độc thân – chuyện đó sẽ không khiến người cùng làng anh ta quan tâm tí gì! Đó là vì họ tin rằng vụ giết người đã được thực hiện để người đàn ông có thể kết hôn với một phụ nữ khác nên chuyện bàn tán mới phát triển và lan rộng. Đó là tâm lý học căn bản.'

Oldfield nói cáu kỉnh:

'Tôi không chịu trách nhiệm cho những thứ chết tiệt đám người bận rộn buôn dưa kia nghĩ ra!'

'Đương nhiên là không rồi.'

Poirot tiếp lời:

'Vì thế có lẽ tốt hơn là anh quay lại đây, ngồi xuống và cho tôi câu trả lời cho câu tôi hỏi anh ban nãy.'

Chậm chạp, gần như miễn cưỡng, Oldfield trở vào và lấy lại chỗ ngồi.

Anh nói, lông mày biến sắc:

'Tôi cho rằng có thể họ đang bàn tán về em Moncrieffe. Jean Moncrieffe là người phát thuốc theo đơn của tôi, một cô gái thực sự rất tốt.'

'Cô ấy làm việc cho anh bao lâu rồi?'

'Đã ba năm.'

'Vợ anh thích cô ấy không?'

'Ơ -- ồ không, không hẳn.'

'Cô ấy ghen à?'

'Thật ngớ ngẩn!'

Poirot mỉm cười.

Ông nói:

'Sự ghen tuông của các bà vợ đã thành tục ngữ. Nhưng tôi sẽ kể anh nghe điều này. Theo kinh nghiệm của tôi, lòng ghen tuông tuy có vẻ là ám ảnh xa vời và ngông cuồng, nó gần như luôn dựa trên thực tế. Có một câu nói, có phải không, rằng khách hàng luôn luôn đúng? Vâng, điều tương tự cũng đúng với người chồng hoặc người vợ hay ghen. Tuy có thể có rất ít bằng chứng cụ thể, về cơ bản họ luôn luôn đúng.'

Bác sĩ Oldfield mạnh mẽ nói:

'Vô lý. Tôi chưa bao giờ nói gì với Jean Moncrieffe mà vợ tôi không thể nghe được.'

'Điều đó, có thể đấy. Nhưng nó không làm thay đổi sự thật điều tôi nói.' Hercule Poirot nghiêng mình về trước. Giọng ông khẩn trương, thuyết phục. 'Bác sĩ Oldfield, tôi sẽ làm hết sức mình trong vụ này. Nhưng tôi phải có sự thẳng thắn tuyệt đối nhất của anh mà không màng đến những bề mặt lễ nghi hay cảm giác của chính anh. Anh đã ngừng quan tâm đến cho vợ một thời gian trước khi cô ấy chết, đúng, hay sai?'

Oldfield im lặng trong một hai phút. Sau đó anh nói:

'Vụ này đang giết tôi mất. Tôi phải có hy vọng. Bằng cách này hay cách khác tôi cảm thấy rằng ông có thể sẽ làm điều gì đó cho tôi. Tôi sẽ thành thật với ông, ông Poirot. Tôi không quan tâm sâu sắc đến vợ. Tôi nghĩ, mình cho cô ấy một ông chồng tốt, nhưng tôi chưa bao giờ thực sự yêu vợ.'

'Và cô gái này, Jean thì sao?'

Mồ hôi toát ra thành hạt sương nhỏ trên trán bác sĩ. Anh nói:

'Nếu không phải vì vụ bê bối xì xào bàn tán này, trước đây tôi nên hỏi cưới em ấy.'

Poirot ngồi lại trên ghế của mình. Ông nói:

'Cuối cùng bây giờ chúng ta đã đi đến sự thật! Eh bien, (Chà) bác sĩ Oldfield, tôi sẽ giải quyết trường hợp của anh. Nhưng hãy nhớ điều này – rằng tôi sẽ tìm ra sự thật.'

Oldfield cay đắng nói:

'Không phải là sự thật sẽ làm tổn thương tôi đâu!'

Anh ngập ngừng rồi nói:

'Ông biết không, tôi đã suy ngẫm về khả năng có một hành động vu khống! Nếu tôi có thể buộc tội bất kỳ ai rõ ràng - chắc chắn sau đó tôi sẽ được minh oan chăng? Ít nhất, đôi khi tôi nghĩ như vậy. Lúc khác tôi lại nghĩ nó sẽ chỉ làm cho mọi chuyện tồi tệ hơn - công khai lớn chuyện hơn rồi người ta nói: 'Có lẽ không chứng minh được nhưng không có lửa làm sao có khói.'

Anh nhìn Poirot.

'Nói thật với tôi đi, có cách nào thoát khỏi cơn ác mộng này không?'

'Luôn luôn có cách,' Hercule Poirot nói.

II

'Chúng ta sẽ đi về miền nông thôn, Georges,' Hercule Poirot nói với người đầy tớ của mình.

'Thật vậy sao, thưa ngài?' George điềm tĩnh hỏi.

'Và mục đích hành trình của chúng ta là tiêu diệt một con quái vật chín đầu.'

'Thực vậy ư, thưa ngài? Cái gì đó phỏng theo dạng quái vật hồ Loch Ness ư?'

'Ít hữu hình hơn thế. Tôi không nói đến một động vật bằng xương bằng thịt, Georges.'

'Tôi đã hiểu lầm ngài, thưa ngài.'

'Sẽ dễ dàng hơn nếu chúng là một. Không có thứ gì mơ hồ, rất khó để nắm giữ hơn là nguồn gốc một tin đồn.'

'Ồ vâng, quả thực thế, thưa ngài. Đôi khi thật khó để biết một thứ khởi đầu như thế nào.'

'Chính xác.'

Hercule Poirot không đến nhà của bác sĩ Oldfield. Thay vào đó, ông đi đến quán trọ địa phương. Buổi sáng sau khi đến nơi, ông có cuộc phỏng vấn đầu tiên với Jean Moncrieffe. Cô là một cô gái cao ráo với mái tóc màu đồng và đôi mắt xanh trời kiên định. Cô có cái nhìn cảnh giác, như có ai cần cô bảo vệ.

Cô nói:

'Vậy là bác sĩ Oldfield đã đến gặp ông... Tôi biết anh ấy đang nghĩ về chuyện này.'

Giọng điệu của cô có một sự thiếu nhiệt tình.

Poirot nói:

'Và cô đã không chấp thuận?'

Cô nhìn vào mắt ông. Cô lạnh lùng nói:

'Ông có thể làm gì?'

Poirot nói khẽ:

'Có lẽ có cách để giải quyết tình huống này.'

'Cách gì?' Cô ném những lời đó vào ông khinh bỉ. 'Ông định đi vòng quanh tất cả những bà già đang thì thầm và nói 'Thật đấy, làm ơn, bà phải dừng nói như thế này. Thật tệ cho bác sĩ Oldfield tội nghiệp. Rồi họ sẽ trả lời bạn và nói: 'Tất nhiên rồi, tôi không bao giờ tin vào chuyện ấy!' Đó là điều tồi tệ nhất trong tất cả mọi chuyện - họ không nói: 'Bạn thân mến, có bao giờ bạn nghĩ rằng có lẽ cái chết của cô Oldfield không hoàn toàn giống như bề ngoài không?' Không, họ nói: 'Trời ơi, dĩ nhiên tôi không tin câu chuyện về bác sĩ Oldfield với vợ. Tôi chắc chắn anh ta sẽ không làm điều đó, mặc dù đúng là có thể anh ta đã bỏ bê cô ấy một chút và tôi nghĩ, một cô gái khá trẻ làm người phát thuốc cho anh ta thực sự là hơi không khôn ngoan - tất nhiên, tôi không hề nói rằng có bất cứ điều gì sai trái giữa họ. Ồ không, tôi chắc chắn rằng nó khá ổn...' Cô dừng lại.

Mặt cô ửng đỏ và hơi thở gấp gáp.

Hercule Poirot nói:

'Cô có vẻ biết rất rõ những gì họ đang nói.'

Miệng cô khép lại. Cô cay đắng nói:

'Tôi biết chứ!'

'Và giải pháp của riêng cô là gì?'

Jean Moncrieffe nói:

'Điều tốt nhất cho anh ấy là bán phòng khám đi và bắt đầu lại ở một nơi khác.'

'Cô không nghĩ rằng câu chuyện có thể bám theo anh ấy?'

Cô nhún vai.

'Anh ấy phải mạo hiểm điều đó.'

Poirot im lặng trong một hai phút.

Rồi ông nói:

'Có phải cô sẽ kết hôn với bác sĩ Oldfield không, cô Moncrieffe?'

Cô không tỏ ra ngạc nhiên trước câu hỏi. Cô nói ngắn gọn:

'Anh ấy không hỏi cưới tôi.'

'Sao lại không ?'

Đôi mắt xanh của cô nhìn ông và lóe lên trong một giây. Rồi cô nói:

'Bởi vì tôi đã bóp cổ anh ta.'

'A, thật may mắn khi tìm thấy một người có thể thẳng thắn!'

'Tôi sẽ thẳng thắn như ông muốn. Khi tôi nhận ra rằng mọi người đang nói Charles đã bỏ vợ để cưới tôi, tôi thấy có vẻ như nếu chúng tôi kết hôn thì sẽ chỉ đẩy chuyện này lên đỉnh điểm. Tôi hy vọng nếu không có câu nào về hôn nhân giữa chúng tôi, vụ bê bối ngớ ngẩn có thể sẽ nguội dần.'

'Nhưng nó không nguội đi?'

'Không, không hề.'

'Rõ ràng,' Hercule Poirot nói, 'có một chút kỳ quặc?'

Jean chua chát:

'Họ không có nhiều thứ để tiêu khiển ở đây.'

Poirot hỏi:

'Cô có muốn cưới Charles Oldfield?'

Cô gái trả lời đủ lạnh lùng.

'Có, tôi muốn. Tôi muốn gần như ngay khi gặp anh ấy.'

'Sau đó, cái chết của vợ anh ta rất thuận lợi cho cô?'

Jean Moncrieffe nói:

'Chị Oldfield là một phụ nữ khó chịu khác thường. Thật lòng mà nói, tôi rất vui khi chị ấy qua đời.'

'Phải,' Poirot nói. 'Cô thật là ngay thẳng!'

Cô vẫn nở nụ cười khinh thường.

Poirot nói:

'Tôi có một đề nghị thế này.'

'Vâng?'

'Ở đây đòi hỏi những biện pháp quyết liệt. Tôi đề nghị ai đó – có thể chính cô - viết thư cho Bộ Nội vụ.'

'Ý ông là cái quái gì vậy?'

'Tôi muốn nói rằng cách tốt nhất để giải quyết sự việc này một lần và mãi mãi là cho khai quật và khám nghiệm tử thi.'

Cô lùi khỏi ông một bước. Đôi môi cô mở ra, rồi lại im bặt. Poirot theo dõi cô.

'Chà, Mademoiselle (Tiểu thư ơi)?' cuối cùng ông nói.

Jean Moncrieffe lặng lẽ nói:

'Tôi không đồng tình với ông.'

'Nhưng tại sao lại không? Chắc chắn một bản án tử hình từ những nguyên nhân bẩm sinh sẽ làm tất cả miệng lưỡi kia câm lặng?'

'Ông đã có bản án đó, phải.'

'Cô có biết mình đang đề nghị chuyện gì không, Mademoiselle?'

Jean Moncrieffe sốt ruột nói:

'Tôi biết tôi đang nói gì. Ông đang nghĩ về nhiễm độc thạch tín - ông có thể chứng minh rằng chị ấy không bị đầu độc thạch tín. Nhưng còn những chất độc khác - các alcaloit thực vật. Tôi nghi ngờ là sau một năm, thậm chí ngay cả khi chúng đã được sử dụng ông cũng sẽ không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào. Và tôi biết những nhà phân tích thuộc chính quyền này là người như thế nào. Họ có thể trả lại một bản tuyên bố lập lờ nói rằng không có gì chỉ ra nguyên nhân cái chết – rồi thì những miệng lưỡi sẽ bàn tán nhanh hơn bao giờ hết!'

Hercule Poirot im lặng trong một hai phút, sau đó ông nói:

'Theo ý kiến cô thì ai là người buôn chuyện thâm căn cố đế nhất trong làng?'

Cô gái cân nhắc. Cuối cùng cô nói:

'Tôi thực sự nghĩ rằng bà cô Leatheran là con mèo tồi tệ nhất trong đám ấy.'

'À! Cô có thể giới thiệu tôi với bà Leatheran không - nếu có thể, một cách tình cờ thôi?'

'Không gì dễ dàng hơn đâu. Tất cả những mụ già ngồi lê đôi mách ấy đang đi vơ vẩn mua sắm. Chúng ta chỉ cần đi xuống phố chính.'

Như Jean nói, cách này không gặp khó khăn gì. Bên ngoài bưu điện, Jean dừng lại và nói chuyện với một người đàn bà trung niên cao, gầy, mũi dài và đôi mắt tinh nhanh tọc mạch.

'Chào buổi sáng, bà Leatheran.'

'Chào buổi sáng, Jean. Thật là một ngày đẹp trời phải không?'

Đôi mắt sắc sảo tò mò quét dọc lên người bạn đồng hành của Jean Moncrieffe. Jean nói:

'Hãy để tôi giới thiệu ông Poirot, người đang ở đây vài ngày.'

III

Tinh tế nhâm nhi một chiếc bánh nướng tròn và đặt cân bằng tách trà trên đầu gối, Hercule Poirot cho phép bản thân trở nên thân tín với người chiêu đãi mình. Bà Leatheran đã rất tử tế khi mời ông uống trà, trong lúc ấy bà coi nhiệm vụ của mình là tìm hiểu chính xác người nước ngoài nhỏ bé kỳ lạ này đang làm gì giữa họ.
Một khoảng thời gian sau ông vẫn khéo léo lẩn tránh những công kích của bà - qua đó kích thích bà ham muốn biết hơn. Rồi, khi nhận định thời cơ đã chín muồi, ông nghiêng về phía trước: 'À, bà Leatheran,' ông nói. 'Tôi có thể thấy rằng bà quá thông minh so với tôi rồi! Bà đã đoán được bí mật của tôi. Tôi xuống đây theo yêu cầu của Bộ Nội vụ. Nhưng làm ơn,' ông hạ giọng, 'hãy giữ kín thông tin này.'

'Tất nhiên – tất nhiên rồi –' Bà Leatheran run rẩy – hồi hộp hết sức. 'Bộ Nội vụ -- ý ông không phải - không phải là cô Oldfield tội nghiệp chứ?'

Poirot gật đầu chậm chạp vài lần.

'TRỜI!' Bà Leatheran thốt ra một từ tràn đầy cung bậc cảm xúc thích thú.

Poirot nói: 'Đó là một vấn đề tế nhị, bà hiểu cho. Tôi đã được lệnh báo cáo xem ca này có thích đáng để khai quật hay không.'

Bà Leatheran thốt lên: 'Ông sẽ đào xới thứ tội nghiệp ấy lên. Thật khủng khiếp!'

Nếu bà ấy nói 'thật hay quá' thay vì 'thật khủng khiếp' thì những từ đó sẽ phù hợp với giọng điệu của bà hơn.

'Quan điểm của riêng bà thế nào. Bà Leatheran?'

'Chà, tất nhiên, ông Poirot, đã có rất nhiều cuộc bàn tán. Nhưng tôi không bao giờ nghe. Sẽ luôn luôn có rất nhiều tin đồn nhảm không xác thực xảy ra. Kể từ khi sự việc xảy ra bác sĩ Oldfield đã rất kỳ quặc không nghi ngờ gì, nhưng như tôi đã nói đi nói lại nhiều lần chúng ta cần chắc chắn không quy chụp đó là do lương tâm tội lỗi. Có lẽ chỉ là đau khổ thôi. Tất nhiên, không phải là vợ chồng anh ta có những lúc thực sự thương yêu nhau. Điều ấy tôi biết rõ – nắm trong lòng bàn tay. Y tá Harrison, người đã ở với cô Oldfield trong ba bốn năm đến khi cô ấy chết, đã thừa nhận nhiều rồi. Và tôi luôn cảm thấy, ông biết đấy, rằng y tá Harrison có những nghi ngờ - không phải là cô ấy đã nói gì đâu, nhưng nói hay không, từ cách cư xử của một người cũng nhìn ra mà?'

Poirot buồn bã nói: 'Một người thì chưa thể nói nên điều gì.'

'Vâng, tôi biết, nhưng tất nhiên, ông Poirot, nếu cái xác được đào lên thì ông sẽ biết thôi'.

'Phải,' Poirot nói, 'rồi chúng ta sẽ biết.'

'Trước đây đã có những vụ như vậy rồi, tất nhiên,' bà Leatheran nói, mũi bà ta phập phồng phấn khích. 'Chẳng hạn, Armstrong và gã kia - tôi không thể nhớ tên gã – rồi thì Crippen, tất nhiên rồi. Tôi luôn tự hỏi liệu Ethel Le Neve có ở trong đó với gã ta hay không. Đương nhiên, Jean Moncrieffe là một cô bé rất tốt, tôi chắc rằng... tôi không muốn nói đúng là cô bé đã dắt mũi anh ta - nhưng đàn ông khá ngớ ngẩn về các cô gái, phải không? Và, tất nhiên, họ được gán ghép rất là nhiều!'

Poirot không nói gì. Ông nhìn bà với vẻ mặt ngây thơ trong khi dò hỏi tính toán làm sao để đẩy tràng dài câu chuyện đi xa hơn. Trong thâm tâm, ông tự giải trí bằng cách đếm số lần các từ 'tất nhiên' xuất hiện.

'Rồi thì, tất nhiên, với một hậu sự và tất cả những việc đó, chắc chắc rất nhiều chuyện sẽ được khui ra phải không? Những người hầu và tất cả mọi người. Người hầu luôn biết rất nhiều, đúng không ông? Và, tất nhiên, gần như không thể giữ cho họ không tán nhảm, phải không nào? Beatrice của nhà Oldfields bị sa thải gần như ngay lập tức sau tang lễ -- và tôi đã luôn nghĩ kỳ quái thật – đặc biệt khi ngày nay kiếm người giúp việc khó khăn lắm. Trông như là bác sĩ Oldfield sợ bé ấy có thể biết điều gì đó.'

'Chắc chắn nó có vẻ là cơ sở cho một cuộc điều tra,' Poirot long trọng nói.

Bà Leatheran khẽ run lên miễn cưỡng.

'Tôi rất lưỡng lự với ý tưởng này,' bà nói. 'Ngôi làng nhỏ yên tĩnh thân yêu của chúng tôi – bị đưa vào mấy tờ báo - tất cả đều công khai!'

'Nó làm bà hoảng ư?' Poirot hỏi.

'Có chút ít. Tôi lạc hậu, ông biết đấy.'

'Và, như bà nói, có lẽ không có gì ngoài tin đồn nhảm!'

'Chà - tôi không muốn nói tận tâm đâu. Ông biết đấy, tôi thực sự nghĩ đúng lắm - câu nói rằng không có lửa làm sao có khói.'

'Bản thân tôi cũng nghĩ như vậy,' Poirot nói.

Ông đứng dậy.

'Tôi có thể tin tưởng sự thận trọng của bà chăng, Mademoiselle?'

'Ồ, tất nhiên. Tôi sẽ không nói với ai một lời.'

Poirot mỉm cười và rời đi.

Trên ngưỡng cửa, ông nói với cô hầu nhỏ nhắn đang đưa ông mũ và áo khoác: 'Tôi xuống đây để điều tra về hoàn cảnh cái chết của cô Oldfield, nhưng tôi sẽ biết ơn nếu cô giữ kín hoàn toàn chuyện đó.'

Cô Gladys nhà bà Leatheran suýt ngã vào giá để ô dù.

Cô thở xúc động: 'Ôi thưa ngài, sau đó bác sĩ đã giết bà ấy sao?'

'Nhiều lúc cô cũng nghĩ vậy phải không?'

'Chà, thưa ngài, không phải tôi đâu. Mà là Beatrice. Cô ấy có nhiệm vụ ở đấy khi bà Oldfield mất.'

'Và cô ấy nghĩ rằng có – Poirot cân nhắc chọn những từ cường điệu – 'vụ chơi bẩn'?'

Gladys gật đầu hào hứng.

'Vâng, cô ấy nghĩ vậy. Và cô ấy cũng nói có cô y tá ở đó. Y tá Harrison. Cô y tá từng rất yêu mến bà Oldfield, và đã rất đau khổ khi bà qua đời, Beatrice luôn nói y tá Harrison biết điều gì đó vì sau đấy cô ấy quay ra chống lại bác sĩ và cô ấy sẽ không làm thế trừ khi có điều gì sai trái phải không?

'Y tá Harrison hiện đang ở đâu?'

'Cô ấy chăm sóc cụ già Bristow ở cuối làng. Ngài không thể không thấy căn nhà ấy. Nó có những cây cột và một mái hiên.'

IV

Rất nhanh sau đó, Hercule Poirot thấy mình ngồi đối diện với người phụ nữ chắc chắn phải biết nhiều về những sự việc đã làm phát sinh tin đồn hơn bất kỳ ai khác.

Y tá Harrison là một phụ nữ vẫn đẹp trạc gần bốn mươi tuổi. Cô có những nét thanh thản điềm tĩnh của Đức mẹ Maria với đôi mắt to đen huyền đầy tình cảm. Cô lắng nghe ông kiên nhẫn và chăm chú. Sau đó cô nói chậm rãi: 'Đúng, tôi biết có những câu chuyện khó chịu đang diễn ra. Tôi đã làm những gì có thể để ngăn chặn chúng, nhưng thật vô vọng. Mọi người thích sự kích thích, ông biết đấy.'

Poirot nói: 'Nhưng phải có điều gì đó làm phát sinh những tin đồn này chứ?'

Ông chú ý thấy vẻ đau khổ của cô ngày càng sâu sắc. Nhưng cô chỉ lắc đầu lúng túng.

'Có lẽ,' Poirot đề nghị, 'Bác sĩ Oldfield với vợ không hợp nhau và chính điều đó đã bắt đầu tin đồn?'

Y tá Harrison lắc đầu cương quyết.

'Ồ không. Bác sĩ Oldfield luôn cực kỳ tốt bụng và kiên nhẫn với vợ.'

'Anh ta thực sự rất thích vợ ư?'

Cô ngập ngừng.

'Không - tôi sẽ không hoàn toàn nói thế. Chị Oldfield là một người rất khó tính, không dễ làm hài lòng và liên miên đòi hỏi sự thông cảm, chú ý mà không phải lúc nào cũng đúng.'

'Ý cô là,' Poirot nói, 'cô ấy đã phóng đại tình trạng của mình?'

Cô y tá gật đầu.

'Đúng thế - sức khỏe xấu của chị ấy phần lớn là vấn đề của sự tự tưởng tượng khác.'

'Chưa hết,' Poirot nói nghiêm trọng, 'cô ấy đã chết....'

'Ôi, tôi biết - tôi biết....'

Ông nhìn cô trong một hai phút; sự bối rối hỗn loạn của cô - sự lưỡng lự rõ ràng của cô.

Ông nói: 'Tôi nghĩ -- tôi chắc chắn rằng -- cô biết cái gì khởi đầu tạo nên tất cả những câu chuyện này.'

Y tá Harrison đỏ bừng mặt.

Cô nói: 'Ôi – tôi, có lẽ, có thể đoán được. Tôi tin rằng đó là em giúp việc, Beatrice, đã bắt đầu tất cả những lời đồn này và tôi nghĩ mình biết điều gì đã khơi nó vào đầu em ấy.'

'Vâng?'

Y tá Harrison nói khá rời rạc:

'Ông thấy đấy, tôi tình cờ nghe được vài điều - một đoạn nói chuyện giữa bác sĩ Oldfield và cô Moncrieffe - và tôi khá chắc rằng Beatrice cũng đã nghe thấy, chỉ là tôi không nghĩ rằng em ấy từng thừa nhận việc này.'

'Cuộc trò chuyện ấy là gì?'

Y tá Harrison dừng lại một phút như thể để kiểm tra độ chính xác của chính trí nhớ mình, sau đó cô nói:

'Đó là khoảng ba tuần trước khi cơn bệnh cuối cùng giết chết chị Oldfield. Họ đang ở trong phòng ăn. Tôi đang đi xuống cầu thang thì tôi nghe Jean Moncrieffe nói: 'Sẽ còn bao lâu nữa? Tôi không thể chịu đựng chờ lâu hơn nữa.'

Và bác sĩ trả lời cô: 'Không lâu nữa đâu, em yêu, tôi thề.' Rồi cô ấy lại nói: 'Tôi không thể chờ đợi thế này. Anh thực sự nghĩ rằng sẽ ổn à?' Và anh ta nói: 'Dĩ nhiên. Không thể sai được. Giờ này năm sau chúng ta sẽ cưới.''

Cô dừng lại.

'Đó là sự nghi ngờ đầu tiên tôi có, ông Poirot, rằng có gì đó giữa bác sĩ và cô Moncrieffe. Tất nhiên tôi biết anh ấy khâm phục cô ấy và họ là những người bạn rất thân, nhưng không có gì hơn. Tôi lại đi lên cầu thang - nó đã khiến tôi khá sốc - nhưng tôi nhận thấy rằng cửa bếp đang mở và tôi nghĩ rằng Beatrice hẳn là đang lắng nghe. Và ông có thể thấy phải không, rằng cách họ đang nói chuyện có thể hiểu theo hai hướng? Nó chỉ có nghĩa là bác sĩ biết vợ mình bệnh nặng và không thể sống lâu hơn nữa - và tôi không nghi ngờ rằng đó là ý anh ta nói - nhưng với bất cứ ai như Beatrice nghe có lẽ sẽ khác - có vẻ như bác sĩ và Jean Moncriefie đang - ôi - chắc chắn đang lên kế hoạch tống khứ chị Oldfield.'

'Nhưng cô không nghĩ thế chứ, chính cô ấy?'

'Không - không, tất nhiên là không....'

Poirot nhìn cô tìm kiếm.

Ông nói: 'Y tá Harrison, cô còn biết gì nữa không? Có điều gì đó mà cô chưa nói với tôi không?'

Cô đỏ bừng mặt và nói dữ dội: 'KHÔNG. Không. Chắc chắn không. Có thể có gì cơ chứ?'

'Tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng có thể còn - một điều gì đó?'

Cô lắc đầu. Cái nhìn bối rối cũ đã quay trở lại.

Hercule Poirot nói: 'Có khả năng Bộ Nội vụ có thể ra lệnh quật xác của cô Oldfield!'

'Ôi không!' Y tá Harrison kinh hoàng. 'Thật là một việc kinh khủng!'

'Cô nghĩ thật đáng tiếc sao?'

'Tôi nghĩ rằng thật tệ! Hãy nghĩ về tin đồn mà nó sẽ tạo ra! Sẽ kinh khủng lắm – đúng là khủng khiếp cho bác sĩ Oldfield tội nghiệp.'

'Cô không nghĩ rằng có thể nó thực ra là điều tốt cho anh ta?'

'Ý ông như thế nào?'

Poirot nói: 'Nếu anh ta vô tội - sự vô tội ấy sẽ được chứng minh.'

Ông dứt lời. Ông nhìn suy nghĩ bén rễ trong tâm trí y tá Harrison, thấy cô cau mày bối rối, và rồi thấy lông mày cô dãn ra.

Cô hít một hơi thật sâu và nhìn ông.

'Tôi đã không nghĩ về điều đó,' cô nói đơn giản. 'Tất nhiên, đó là điều duy nhất phải làm.'

Có một loạt tiếng đập mạnh ở tầng trên. Y tá Harrison nhảy dựng lên.

'Cụ già của tôi đấy. Cụ Bristow. Cụ ấy thức dậy sau khi nghỉ ngơi. Tôi phải lên làm cho cụ dễ chịu trước khi trà của cụ được mang đến và tôi ra ngoài đi bộ. Phải, ông Poirot, tôi nghĩ ông hoàn toàn đúng. Việc khám nghiệm tử thi sẽ giải quyết vụ này dứt điểm. Nó sẽ làm chấm dứt toàn bộ sự việc và tất cả những tin đồn tệ hại chống lại bác sĩ Oldfield tội nghiệp sẽ bị dập tắt.

Cô bắt tay và vội vã rời khỏi phòng.

V

Hercule Poirot đi bộ dọc theo bưu điện và gọi đến London.

Giọng nói ở đầu dây bên kia nôn nóng.

'Ông có nên bỏ qua những chuyện này không, Poirot thân mến? Ông có chắc đây là vụ án của chúng ta không? Ông biết những tin đồn ở thị trấn làng quê này thường là gì – chẳng có gì hết.'

'Đây là,' Hercule Poirot nói, 'một vụ án đặc biệt.'

'Tốt thôi - nếu ông nói thế. Ông có thói quen mệt mỏi như vậy là đúng. Nhưng nếu tất cả chỉ là một phát kiến hão huyền chúng tôi sẽ không hài lòng với ông đâu, ông biết chứ.'

Hercule Poirot mỉm cười với chính mình.

Ông nói khẽ: 'Không, tôi sẽ là người hài lòng.'

'Ông nói gì thế? Không thể nghe được.'

'Không có gì. Không có gì cả.'

Ông ngắt máy.

Nhô lên trong bưu điện ông nghiêng người qua quầy. Ông nói bằng giọng lôi cuốn nhất:

'Liệu bà có thể cho tôi biết không, Madame, nơi người giúp việc cũ của bác sĩ Oldfield - tên thánh cô ấy là Beatrice - hiện đang cư trú?'

'Beatrice King? Từ khi đó cô ấy đã có hai nơi ở. Cô ấy với bà Marley qua ngân hàng bây giờ.'

Poirot cảm ơn bà, mua hai tấm bưu thiếp, một cuốn sách tem và một mảnh gốm địa phương. Trong lúc mua hàng, ông tìm cách đưa cái chết của cô Oldfield quá cố vào cuộc nói chuyện. Ông nhanh chóng chú ý đến vẻ kỳ quái ngấm ngầm lén phớt qua khuôn mặt của bà trưởng bưu điện. Bà nói:

'Rất đột ngột phải không? Có lẽ ông đã nghe thấy nhiều tin đồn nó gây ra.'

Một tia quan tâm xuất hiện trong mắt khi bà hỏi:

'Có lẽ ông đang muốn gặp Beatrice King vì chuyện này? Tất cả chúng tôi đều nghĩ thật kỳ lạ khi cô ấy rời khỏi đó một cách đột ngột. Có người nghĩ rằng cô ấy biết điều gì đó - và có lẽ cô ấy biết chăng. Cô ấy bị gợi lên vài lời bóng gió rất lộ liễu.'

Beatrice King là một cô gái khá lém lỉnh với giọng nói nghèn nghẹt như viêm họng. Cô xuất hiện với vẻ ngốc nghếch dửng dưng, nhưng đôi mắt lại thông minh hơn cách cô mong đợi người khác thấy. Tuy thế, dường như không thứ gì thoát khỏi Beatrice King. Cô nhắc lại:

'Tôi không biết bất cứ gì hết trơn... Tôi đâu có nói chuyện gì xảy ra ở đó... Tôi không biết ý ông nói nghe lỏm vụ nói chuyện của bác sĩ và chị Moncrieffe là gì. Tôi không phải là người đi nghe mấy cái cửa, và ông không có quyền nói tôi như thế. Tôi không biết xíu gì hết.'

Poirot nói:

'Cô đã bao giờ nghe nói về ngộ độc thạch tín chưa?'

Một tia thích thú bí mật nhanh chóng lóe lên trên khuôn mặt ủ rũ của cô gái.

Cô nói: 'Vậy ra đó là những gì trong chai thuốc?'

'Chai thuốc nào?'

Beatrice nói: 'Một trong những chai thuốc mà chị Moncrieffe đã làm cho bà chủ. Y tá làm đổ hết - tôi có thể thấy điều đó. Chị ấy đã nếm nó, ngửi nó, rồi trút hết xuống bồn rửa và đổ đầy nước trắng từ vòi nước vào chai. Dù sao đó cũng là thuốc trắng như nước. Và có lần, khi chị Moncrieffe đưa ấm trà lên cho bà chủ, y tá lại mang nó xuống và làm mới nó – chị ấy nói nó đã không được trần nước sôi nhưng đó chỉ là những gì tôi thấy thôi, tận mắt! Tôi nghĩ lúc đó chỉ là kiểu quan trọng hóa của các y tá - nhưng tôi đâu biết - có thể còn hơn thế nữa.'

Poirot gật đầu. Ông nói:
'Cô có thích cô Moncrieffe không, Beatrice?'
'Tôi không bận tâm chị ấy.... Có chút rụt rè. Tất nhiên, tôi luôn biết chị ấy phải lòng bác sĩ. Ông chỉ cần thấy cách chị ấy nhìn anh ta.'
Một lần nữa Poirot gật đầu. Ông quay về nhà trọ.
Ở đó, ông đưa ra vài chỉ thị nhất định cho George.


VI

Tiến sĩ Alan Garcia, nhà phân tích Bộ Nội vụ, xoa tay và nháy mắt với Hercule Poirot. Ông nói:

'Chà, vụ này phù hợp với ông, ông Poirot, tôi cho là vậy? Người đàn ông luôn đúng.'

Poirot nói:

'Ông thật tử tế.'

'Cái gì cuốn ông vào thế? Tin đồn ư?'

'Như ông nói – Đi vào Tin Đồn, được những miệng lưỡi tô vẽ.'

Ngày hôm sau Poirot lại bắt một chuyến tàu đến khu chợ Loughborough.

Chợ Loughborough đang râm ran như ong vỡ tổ. Nó đã nhẹ rì rầm kể từ khi có các thủ tục quật mộ. Giờ đây kết quả khám nghiệm tử thi đã rò rỉ, sự phấn khích đã lên đến cơn sốt nóng.

Poirot đã ở nhà trọ khoảng một giờ và chỉ vừa ăn xong một bữa trưa thịnh soạn có bít tết và bánh pudding bầu dục nhắm bia khi có tin rằng một người phụ nữ đang đợi để gặp ông.

Đó là y tá Harrison. Khuôn mặt cô trắng bệch và phờ phạc.

Cô đến thẳng chỗ Poirot.

'Thật ư? Nó thực sự là thật sao, ông Poirot?'

Ông nhẹ nhàng đặt cô vào ghế.

'Vâng. Quá nhiều thạch tín đủ để gây chết người đã được tìm ra.'

Y tá Harrison khóc: 'Tôi không bao giờ nghĩ – chưa một lúc nào tôi nghĩ rằng –' và bật khóc.

Poirot nói nhẹ nhàng: 'Sự thật phải được phơi bày, cô biết đấy.'

Cô khóc nức nở. 'Họ sẽ treo cổ anh ta ư?'

Poirot nói: 'Rất nhiều điều còn phải chứng minh. Cơ hội - tiếp cận với chất độc – chất dẫn mà nó được thêm vào.'

'Nhưng giả sử, ông Poirot, rằng anh ta không có gì để làm được - không có gì hết.'

'Trong trường hợp đó,' Poirot nhún vai, 'anh ta sẽ được tha bổng.'

Y tá Harrison chậm rãi nói: 'Có một điều gì đó - điều gì đó, tôi cho là, trước đây tôi nên nói với ông - nhưng tôi không nghĩ rằng thực sự có vấn đề gì cả. Chỉ là khả nghi thôi.'

'Tôi biết có điều gì mà,' Poirot nói. 'Tốt hơn cô nên kể nó với tôi ngay bây giờ.'

'Không có gì nhiều. Chỉ là một ngày nọ khi tôi đi xuống phòng phát thuốc lấy đồ, Jean Moncrieffe đang làm gì đó khá là - kỳ quặc.'
'Vâng?'

'Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Chỉ là cô ấy đang đổ đầy hộp phấn bỏ túi của mình - một thứ men hồng -–'

'Vâng ?'

'Nhưng cô ấy không đổ đầy nó bằng bột – phấn mặt, ý tôi là vậy. Cô ấy đang nhét thứ gì đó từ một trong những cái chai ở tủ thuốc độc vào đấy. Khi thấy tôi, cô ấy bắt đầu đóng hộp phấn và ném nó vào trong túi của cô ấy – rồi nhanh chóng đặt lại chai vào tủ để tôi không thể thấy chai ấy là gì. Tôi dám chắc nó không có ý gì - nhưng bây giờ tôi biết rằng chị Oldfield thực sự bị đầu độc –' Cô ngắt lời.

Poirot nói: 'Cho phép tôi nhé?'

Ông ra ngoài và gọi điện thoại cho trung sĩ thám tử Grey của cảnh sát Berkshire. Hercule Poirot trở lại và ông với y tá Harrison ngồi trong im lặng.

Poirot đang nhìn thấy khuôn mặt của một cô gái với mái tóc đỏ và nghe giọng nói cứng rắn rành rọt: 'Tôi không đồng ý.' Jean Moncrieffe đã không muốn khám nghiệm tử thi. Cô đã đưa ra một lý do đủ hợp lý, nhưng sự thật vẫn còn đó. Một cô gái giỏi giang – có năng lực – cương quyết. Yêu một người đàn ông bị trói buộc với người vợ bệnh tật hay phàn nàn, người có lẽ sống dễ dàng trong nhiều năm kể từ đây, theo y tá Harrison, cô có rất ít vấn đề với cô ấy.

Hercule Poirot thở dài.

Y tá Harrison hỏi: 'Ông đang nghĩ gì vậy?'

Poirot trả lời: 'Đáng tiếc cho mọi thứ....'

Y tá Harrison nói: 'Tôi không hề tin anh ta biết bất cứ điều gì đâu.'

Poirot nói: 'Không. Tôi chắc chắn anh ta không thế.'

Cánh cửa mở ra và trung sĩ thám tử Grey bước vào. Anh ta có gì đó trong tay, được bọc trong một chiếc khăn lụa. Anh mở ra và đặt nó xuống cẩn thận. Đó là một hộp phấn men hoa hồng nhạt nhỏ gọn.

Y tá Harrison nói: 'Đó là thứ tôi đã trông thấy.'

Grey nói: 'Tìm thấy nó bị đẩy thẳng vào sau ngăn kéo bàn làm việc của cô Moncrieffe. Bên trong một gói khăn mùi soa. Cho đến nay có thể thấy rằng không có dấu vân tay trên đó, nhưng tôi sẽ cẩn thận.'

Anh ấn nút bật bằng chiếc khăn phủ lên tay. Chiếc hộp mở tung.

Grey nói: 'Thứ này không phải phấn thoa mặt.'

Anh nhúng một ngón tay và thận trọng nếm nó trên đầu lưỡi.

'Không có vị gì đặc biệt.'

Poirot nói: 'Thạch tín trắng không có mùi vị.'

Grey nói: 'Nó sẽ được phân tích ngay lập tức.' Anh nhìn y tá Harrison. 'Cô có thể thề rằng đây cùng là cái hộp đó không?'

'Vâng. Tôi khẳng định. Đây là cái hộp tôi thấy cô Moncrieffe cầm trong phòng phát thuốc khoảng một tuần trước khi chị Oldfield qua đời.'

Trung sĩ Grey thở dài. Anh nhìn Poirot và gật đầu. Người phía sau rung chuông.

'Xin vui lòng gọi người hầu của tôi vào đây.'

George, người đầy tớ tuyệt vời, kín đáo, không phô trương, bước vào và nhìn chăm chú vào chủ nhân của mình.

Hercule Poirot nói: 'Cô đã nhận dạng hộp phấn bỏ túi này, cô Harrison, là cái cô thấy cô Moncrieffe sở hữu hơn một năm trước. Cô có ngạc nhiên không khi biết chiếc hộp đặc biệt này được hãng Woolworth bán chỉ một vài tuần trước, và hơn nữa, nó có kiểu mẫu và màu sắc chỉ vừa được sản xuất ba tháng mới rồi?'

Y tá Harrison thở hổn hển. Cô nhìn chằm chằm vào Poirot, đôi mắt tròn và tối sẫm. Poirot nói: 'Trước đây anh từng thấy chiếc hộp này không, Georges?'

George bước lên:

'Vâng, thưa ngài. Tôi đã theo dõi người này. Y tá Harrison, mua nó ở Woolworfh vào thứ Sáu ngày 18. Theo chỉ thị của ngài tôi đã đi theo quý cô này mỗi khi cô ấy ra ngoài. Cô ấy bắt xe buýt đến Darnington vào ngày tôi đã đề cập và mua hộp phấn này. Cô mang nó về nhà. Sau đó, cùng ngày, cô ấy đến căn nhà nơi cô Moncrieffe ở trọ. Làm theo chỉ dẫn của ngài, tôi đã ở trong nhà. Tôi quan sát thấy cô ấy vào phòng ngủ của cô Moncrieffe và giấu cái này ở phía sau ngăn kéo phòng làm việc. Tôi có một góc nhìn tốt qua khe nứt cánh cửa. Rồi cô ấy rời khỏi nhà và tin rằng mình không bị quan sát được. Tôi có thể nói rằng không ai khóa cửa trước của họ ở đây và trời đã nhá nhem tối.'

Poirot nói với y tá Harrison, và giọng ông cứng rắn chua cay: 'Cô có thể giải thích những sự thật này không, y tá Harrison? Tôi nghĩ là không. Hộp này không có thạch tín khi nó rời khỏi hãng Woolworth, nhưng giờ lại có khi nó rời nhà cô Bristow.' Ông nói nhẹ nhàng, 'Việc cô giữ một nguồn cung thạch tín trong tài sản của mình là không khôn ngoan đâu.'

Y tá Harrison vùi mặt vào đôi tay. Cô nói giọng nhỏ khàn khàn: 'Đúng hết – Tất cả là sự thật... Tôi đã giết chị ấy. Và tất cả chẳng vì gì – chẳng vì gì cả... Tôi điên rồi'.

VII

Jean Moncrieffe nói: 'Tôi phải xin ông tha thứ cho tôi, ông Poirot. Tôi đã rất tức giận với ông – quá là tức giận với ông. Với tôi dường như ông đang làm mọi chuyện tồi tệ hơn rất nhiều.'

Poirot nói với một nụ cười:

'Vậy nên tôi đã bắt đầu với vụ án. Giống như trong truyền thuyết cũ về Lemean Hydra. Mỗi khi một cái đầu bị chém xuống, hai cái khác lại mọc lên ngay đấy. Vì vậy, bắt đầu với những tin đồn đang lớn hơn và sinh sôi nảy nở. Nhưng cô thấy nhiệm vụ của tôi đấy, giống như người trùng tên Hercules, là phải tìm đến cái đầu đầu tiên – cái đầu chính. Ai đã bắt đầu lời đồn đại? Tôi không mất nhiều thời gian để phát hiện ra rằng người khởi xướng câu chuyện là y tá Harrison. Tôi đã đến gặp cô ta. Cô ta có vẻ là một người rất tốt - thông minh và biết cảm thông. Nhưng gần như ngay lập tức cô ta đã phạm phải một sai lầm tồi tệ, cô ta lặp lại với tôi cuộc trò chuyện tình cờ nghe được giữa cô và bác sĩ, và cuộc trò chuyện ấy sai hết cả, cô thấy không. Về tâm lý thì nó khó mà xảy ra. Nếu cô và bác sĩ đã cùng nhau lên kế hoạch giết cô Oldfield, thì cả hai người đều quá thông minh và có đầu óc để tổ chức bàn luận trong một căn phòng mở cửa, dễ dàng bị ai đó ở cầu thang hoặc phòng bếp nghe lén. Hơn nữa, những lời được gán cho cô không hề phù hợp với bản chất tinh thần của cô. Chúng là lời của một phụ nữ lớn tuổi hơn và kiểu người hơi khác biệt. Chúng là những từ như được chính y tá Harrison tưởng tượng đang tự nói ra trong hoàn cảnh như thế.'

'Cho đến lúc đó, tôi đã coi toàn bộ vấn đề khá là đơn giản. Y tá Harrison, tôi nhận thấy, là một phụ nữ khá trẻ và vẫn còn đẹp đẽ -- cô ta đã bị đẩy sát vào bác sĩ Oldfield trong gần ba năm – bác sĩ đã rất ưa mến và biết ơn vì sự khéo léo và cảm thông của ả. Cô ả đã hình thành ấn tượng rằng nếu cô Oldfield chết, có thể bác sĩ sẽ hỏi cưới mình. Thay vì thế, sau khi cô Oldfield qua đời, ả biết được bác sĩ Oldfield đang yêu cô. Ngay lập tức, bị cơn giận dữ và ghen tuông thúc đẩy, ả bắt đầu lan truyền tin đồn rằng bác sĩ Oldfield đã đầu độc vợ mình.'

'Như tôi đã nói, đó là cách tôi đã hình dung lập trường ban đầu. Đây là vụ án một người đàn bà ghen tuông và một tin đồn dối trá. Nhưng câu ngạn ngữ cũ rích "không có lửa làm sao có khói" cứ trở đi trở lại với tôi nhiều lần. Tôi tự hỏi có phải y tá Harrison đã làm nhiều hơn là lan truyền một tin đồn. Một số điều cô ả nói nghe có vẻ kỳ lạ. Cô ả kể tôi rằng bệnh của cô Oldfield phần lớn là do tưởng tượng rằng cô ấy không thực sự chịu nhiều đau đớn. Nhưng bản thân bác sĩ cũng không nghi ngờ gì về thực tế những gì vợ mình chịu đựng. Anh ta không ngạc nhiên trước cái chết của vợ. Anh ta đã gọi cho một bác sĩ khác ngay trước khi vợ chết và bác sĩ kia đã nhận ra tình trạng nghiêm trọng của cô ấy. Tôi thử đưa ra lời đề nghị khai quật... Lúc đầu y tá Harrison sợ hết hồn bởi ý tưởng này. Rồi, gần như ngay lập tức, sự ghen tị và thù hận đã nắm quyền chỉ huy ả. Hãy để họ tìm thấy thạch tín -- ả đâu có bị tình nghi. Sẽ là bác sĩ và Jean Moncrieffe phải chịu đựng.'

'Chỉ có duy nhất một hy vọng. Làm cho y tá Harrison đánh lừa chính mình. Nếu có một cơ hội Jean Moncrieffe thoát tội, tôi tưởng tượng rằng y tá Harrison sẽ gắng sức mà liên lụy cô vào trong tội ác. Tôi đã đưa ra những chỉ dẫn cho Georges trung thành của mình - người đàn ông kín đáo nhất mà ả bằng mắt thường không biết. Anh ấy theo sát cô ả. Và như vậy - tất cả đã kết thúc tốt đẹp.'

Jean Moncrieffe nói:

'Ông thật tuyệt vời.'

Bác sĩ Oldfield hô vang. Anh nói:

'Đúng thế, thực sự. Tôi không làm sao có thể cảm ơn cho hết. Tôi thật là một kẻ ngốc mù quáng!'

Poirot tò mò hỏi:

'Cô có mù quáng không. Mademoiselle?'

Jean Moncrieffe nói chậm rãi:

'Tôi đã lo lắng khủng khiếp. Ông thấy đấy, thạch tín trong tủ độc không kiểm đếm được...'

Oldfield kêu lên:

'Jean - em không nghĩ -?'

'Không, không - không phải anh. Em đã nghĩ là chị Oldfield bằng cách nào đó hoặc người nào khác đã giữ nó - và rằng chị ấy đã lấy nó để làm cho mình bị bệnh và được cảm thông và rằng chị đã vô tình lấy quá. Nhưng em sợ rằng nếu khám nghiệm tử thi và tìm ra thạch tín, họ sẽ không bao giờ xem xét lý thuyết ấy và sẽ đi đến kết luận rằng anh đã làm thế. Đó là lý do tại sao em không bao giờ nói gì về lượng thạch tín bị mất. Em thậm chí khai gian sách độc dược! Nhưng y tá Harrison là người cuối cùng em nghi ngờ.'

Oldfield nói:

'Tôi cũng vậy. Cô ta là một kẻ thật nữ tính dịu dàng. Giống như đức mẹ Maria.'

Poirot buồn bã nói:

'Phải, cô ta chắc chắn sẽ là một người vợ và người mẹ tốt... Cảm xúc của cô ả chỉ là hơi quá chút mạnh mẽ.' Ông thở dài và lẩm bẩm lần nữa nhẹ hơn hơi thở: 'Thật đáng tiếc.'

Rồi ông mỉm cười với người đàn ông trung niên nom hạnh phúc và cô gái có khuôn mặt háo hức đối diện. Ông tự nói với mình:

'Hai người này đã ra khỏi bóng tối vụ án đi tới mặt trời... và mình - mình đã thực hiện chiến công thứ hai của Hercules.'


Chap 5 - The Erymanthian Boar
Bắt sống con lợn lòi núi Erymanthus

Người dịch: Ahiru
(Khuyến cáo: cuối truyện có cảnh máu me. Cân nhắc trước khi đọc)

I

Thành tựu chiến công thứ ba của Hercules đã đưa ông đến Thụy Sĩ, Hercule Poirot quyết định rằng ở đây, ông có thể tận dụng thực tế và đến thăm một số nơi mà đến giờ mình vẫn chưa biết. Ông đã trải qua vài ngày dễ chịu tại Chamonix, nán lại một hai ngày ở Montreux và sau đó đến Aldermatt, một nơi ông đã được nghe nhiều người bạn khen ngợi rất nhiều.

Aldermatt, tuy vậy, lại làm ông không hề dễ chịu. Nó nằm cuối một thung lũng với những ngọn núi phủ tuyết cao chót vót khép ngoài. Ông cảm thấy, vô lý quá, thật khó thở.

'Không thể ở lại đây,' Hercule Poirot nói với chính mình. Ngay lúc đó ông bắt gặp một tuyến đường sắt leo núi. 'Quyết định vậy đi, mình phải leo lên đó.'

Tuyến đường, ông phát hiện ra, đầu tiên dốc lên Les Avines, sau đó đến Caurouchet và cuối cùng đi Rochers Neiges, cao mười ngàn feet so với mực nước biển.

Poirot không trù định leo cao như thế. Les Avines, ông nghĩ bụng, sẽ khá là đủ chuyện cho mình.

Ông đồ rằng không thể nào có chuyện tình cờ thế được. Chuyến tàu đã khởi hành khi người soát vé đến gần Poirot và đòi vé của ông. Sau khi kiểm tra và bấm vé bằng một cái kìm bấm dễ sợ, anh ta trả lại nó với cái cúi đầu. Đồng thời Poirot cảm thấy một mẩu giấy nhỏ được dúi vào tay ông cùng với chiếc vé.

Lông mày của Hercule Poirot nhướn lên trên trán một chút. Lập tức, không phô trương, không vội vã, ông vuốt phẳng tờ giấy. Hóa ra nó là một ghi chú nghuệch ngoạc viết vội bằng bút chì.

'Không thể (chữ chạy lướt) lầm đâu hàng ria mép này! Chào mừng bạn, cộng sự thân yêu của tôi. Nếu ông sẵn sàng, ông có thể giúp tôi nhiều lắm. Ông không hề nghi ngờ khi đọc về vụ Salley? Kẻ giết người - Marrascaud - được cho là có điểm hẹn với một số thành viên trong băng đảng của hắn ở Rochers Neiges – tập hợp mọi miền trên thế giới! Tất nhiên toàn bộ có thể là một chuyện đùa – nhưng nguồn tin của chúng tôi là đáng tin cậy – luôn có ai đó hớt lẻo, đúng không? Vậy nên hãy mở to mắt, bạn ơi. Hãy liên hệ với thanh tra Drouet đang ở ngay chốn đó. Anh ta là một tay thạo việc – nhưng không thể tự phụ với tài hoa của Hercule Poirot. Quan trọng là, ông bạn ơi, Marrascaud phải bị tóm - và tóm sống. Hắn không phải người – hắn là con lợn rừng – một trong những tên sát nhân nguy hiểm nhất còn sống sót hiện nay. Tôi đã không mạo hiểm nói chuyện với ông ở Aldermatt vì tôi có thể bị theo dõi và ông sẽ rảnh tay hơn nếu được cho là một khách du lịch đơn thuần. Chúc săn tốt! Người bạn cũ - Lementeuil.'

Trầm ngâm suy nghĩ, Hercules Poirot vuốt ve hàng ria mép của mình. Đúng, thực vậy, không thể nhầm lẫn bộ ria của Hercules Poirot. Bây giờ tất cả chuyện này là gì? Ông đã đọc trên báo chi tiết về vụ Salley - vụ giết người máu lạnh một người cá độ đua ngựa có tiếng ở Paris. Danh tính của kẻ giết người đã rõ. Marrascaud là thành viên của một băng nhóm đua ngựa nổi tiếng. Hắn đã bị nghi ngờ về nhiều vụ giết người khác - nhưng lần này tội lỗi hắn đã bị chứng minh đầy đủ. Hắn ta đã chuồn đi, được cho là ra khỏi nước Pháp, và cảnh sát ở mọi quốc gia châu Âu đang cảnh giác hắn.

Vậy là Marrascaud được cho là có một điểm hẹn tại Rochers Neiges...

Hercules Poirot chậm rãi lắc đầu. Ông hoang mang. Rochers Neiges ở trên đường tuyết. Ở đấy có một khách sạn, nhưng nó giao thiệp với thế giới chỉ bằng đường sắt treo, đứng trên một rìa đá hẹp dài nhô ra trên thung lũng. Khách sạn mở vào tháng 6, nhưng hiếm khi có ai cho đến tháng 7 và tháng 8. Đó là một nơi khó mà có lối vào hay ra – nếu một người đàn ông bị theo dõi ở đó, hắn sẽ bị tóm trong cái bẫy. Nó có vẻ là một nơi không tưởng để được chọn làm điểm hẹn cho một băng nhóm tội phạm.

Tuy nhiên, nếu Lementeuil nói rằng thông tin của ông ta đáng tin cậy, thì Lementeuil có lẽ đã đúng. Hercule Poirot tôn trọng ngài ủy viên cảnh sát Thụy Sĩ. Ông biết ông ta là một người đàn ông thạo việc và đáng tin.

Vì lý do nào đó chưa rõ đã đưa Marrascaud đến điểm hẹn quá xa nền văn minh này.

Hercules Poirot thở dài. Săn lùng một kẻ giết người tàn nhẫn không phải là ý tưởng về một kỳ nghỉ dễ chịu của ông. Bộ não làm việc trên ghế bành, ông suy nghĩ, nhiều hơn là trên đường. Không phải để giăng bẫy một con lợn rừng trên sườn núi.

Một con lợn rừng - đó là thuật ngữ Lementeuil đã sử dụng. Chắc chắn đây là một sự trùng hợp kỳ quái...

Ông lẩm bẩm với chính mình: 'Chiến công thứ tư của Hercules. Lợn rừng núi Erymanthian?'

Lặng lẽ, không phô trương, ông quan sát những bạn hành khách trong khoang của mình.

Trên ghế đối diện ông là một du khách người Mỹ. Từ kiểu dáng quần áo, áo choàng, tay nắm ông ta giữ, đến lòng thân thiện đầy hy vọng và vẻ mê say ngây thơ với cảnh vật, thậm chí cuốn sách dẫn đường trên tay, tất cả lồ lộ ra và cho thấy ông ta ở một thị trấn nhỏ nước Mỹ thấy Châu Âu lần đầu. Trong một hoặc hai phút nữa, Poirot phán xét, ông ấy sẽ lao vào nói. Biểu cảm thèm muốn giống như con cún của ông ấy không thể nhầm được.

Ở phía bên kia toa là một người cao, trông ưu tú với mái tóc xam xám và chiếc mũi khoằm to đang đọc một cuốn sách tiếng Đức. Ông ta có những ngón tay chuyển động mạnh mẽ của một nhạc sĩ hoặc một nhà giải phẫu.

Xa hơn là ba người đàn ông dáng dấp giống nhau. Những kẻ khuỳnh chân và có gợi ý khó tả về sự mê đua ngựa. Họ đang chơi bài. Hiện tại, có lẽ, họ sẽ đề nghị một người lạ vào chơi. Lúc đầu người lạ sẽ thắng. Sau đó, may mắn sẽ chạy theo hướng khác.

Không có gì quá bất thường về ba người nọ. Điều duy nhất khác thường là nơi họ đang ở.

Người ta có thể đã nhìn thấy họ trong bất kỳ đoàn người nào trên đường đến một cuộc đua ngựa – hoặc trên một tàu khách không quan trọng. Nhưng trong một chuyến tàu treo hầu như không người ư – không!

Có một người khác ngồi trong toa tàu – một phụ nữ. Cô cao ráo và da ngăm. Đó là một gương mặt đẹp - một gương mặt có thể biểu lộ toàn bộ những cung bậc cảm xúc – nhưng thay vì thế lại đóng băng trong vẻ vô cảm lạ lẫm. Cô không nhìn ai, nhìn đăm đăm vào thung lũng bên dưới.

Hiện tại, như Poirot đã dự đoán, người Mỹ bắt đầu nói chuyện. Tên ông, ông nói, là Schwartz. Đây là chuyến thăm đầu tiên ông đến Châu Âu. Phong cảnh, ông nói, đúng là hùng vĩ. Ông đã bị lâu đài Chillon ấn tượng rất sâu sắc. Ông không nghĩ về Paris nhiều như là một thành phố - được đánh giá quá mức - ông đã đến nhà hát Folies Bergeres, bảo tàng Louvre và nhà thờ Đức Bà Paris – rồi nhận thấy không có lấy một nhà hàng hay quán cà phê có thể chơi một bản nhạc jazz sôi nổi đúng chất. Đại lộ Champs Elysees, ông nghĩ rằng, rất đẹp, và ông thích các đài phun nước đặc biệt là khi chúng ngập tràn ánh sáng.

Không ai rời đi Les Avines hoặc Caurouchet. Rõ ràng là tất cả mọi người trong tàu đang đi lên Rochers Neiges.

Ông Schwartz giải thích lý do riêng của mình. Ông nói rằng, mình luôn luôn mơ ước được lên cao giữa những ngọn núi tuyết. Mười ngàn feet rất là tốt – ông ấy nghe nói rằng người ta không thể luộc trứng đúng cách khi đang ở trên cao như vậy.

Với lòng thân thiện ngây thơ trong thâm tâm, ông Schwartz đã nỗ lực để lôi kéo người đàn ông cao, tóc xám ở phía bên kia toa tàu vào trong cuộc nói chuyện, nhưng người kia chỉ nhìn chằm chằm vào ông lạnh lùng qua cặp kính không gọng và quay trở lại nghiên cứu cuốn sách của mình.

Ông Schwartz sau đó đề nghị đổi chỗ với quý cô da ngăm - cô sẽ có góc quan sát tốt hơn, ông giải thích.

Thật nghi ngờ là cô ấy có hiểu tiếng Anh hay không. Dù sao, cô chỉ đơn giản lắc đầu và co rụt vào trong cổ chiếc áo choàng lông thú.

Ông Schwartz nói khẽ với Poirot: 'Có vẻ sai lầm khi trông thấy một phụ nữ đi du lịch một mình mà không ai trông nom đồ đạc giùm cổ. Một phụ nữ cần được chăm sóc thật nhiều khi cô ấy đi du lịch.'

Nhớ về một số phụ nữ Mỹ mình đã gặp trên đại lục, Hercules Poirot đồng ý.

Ông Schwartz thở dài. Ông thấy thế giới không thân thiện. Và chắc là, đôi mắt nâu của ông diễn cảm, không hại gì khi thân thiện ít đi với xung quanh?

II

Họ được tiếp đón bởi một người quản lý khách sạn ăn mặc nghiêm chỉnh trong chiếc áo choàng dài và đôi giày da tinh xảo không hiểu sao nom có vẻ buồn cười ở nơi ngoài thế giới này, hay đúng hơn là trên-đỉnh-thế-giới.

Quản lý là một người cao lớn đẹp trai, với cử chỉ trịnh trọng. Anh ấy rất xin lỗi.

Quá sớm đầu mùa... Hệ thống nước nóng không chạy... nhiều thứ hoạt động còn khó khăn... Dĩ nhiên, anh ấy sẽ làm mọi thứ có thể... Vẫn chưa đủ nhân viên... Anh ấy khá bối rối trước lượng khách không ngờ tới.

Mọi thứ được chuyển ra với sự lịch sự chuyên nghiệp và giờ đây với Poirot có vẻ như sau vẻ ngoài tao nhã ông thấy thoáng qua vài nỗi lo âu thấm thía. Người đàn ông này, với cử chỉ thanh nhàn, lại không nhàn nhã. Anh ta lo lắng về điều gì đó.

Bữa trưa được phục vụ trong một căn phòng dài nhìn xuống thung lũng phía dưới. Người bồi bàn đơn độc, được gọi là Gustave, là người khéo léo giỏi giang. Anh phóng tới chỗ này chỗ kia, tư vấn về thực đơn, rút ra danh sách rượu của mình. Ba người đàn ông cưỡi ngựa ngồi cùng bàn. Họ cười và nói chuyện bằng tiếng Pháp, giọng nói to dần.

'Bạn già tốt Joseph ơi! – Thế còn Denise bé nhỏ, mon vieux? (Ông bạn cũ) – Ông có nhớ con ngựa thần thánh tồi tệ đã khiến tất cả chúng mình thất vọng ở Auteuil không?'

Tính cách tất cả rất thân mật, quá là nồng nhiệt – và phi lý vượt ngoài chốn này!

Người phụ nữ với khuôn mặt xinh đẹp ngồi một mình ở cái bàn trong góc. Cô không nhìn ai.

Sau đó, khi Poirot đang ngồi trong sảnh chờ, người quản lý đến chỗ ông và nói kín.

Monsieur (Ngài) không cần phải đánh giá khách sạn quá nghiêm khắc. Đã hết mùa. Không ai đến đây cho đến cuối tháng Bảy. Quý bà ấy, có lẽ monsieur đã chú ý đến cô ấy? Cô ấy đến vào thời điểm này hàng năm. Chồng cô đã chết khi leo núi ba năm trước. Rất buồn bã. Họ đã rất dâng hiến cho nhau. Cô ấy luôn đến đây trước khi vào mùa – để thật yên tĩnh. Đó là một cuộc hành hương thiêng liêng. Quý ông có tuổi là một bác sĩ nổi tiếng. Bác sĩ Karl Lutz, đến từ Viên. Ông ấy đã đến đây, ông nói, để yên tĩnh và nghỉ ngơi.

'Thật yên bình, phải,' Hercule Poirot đồng ý. 'Và ces Messieurs (những quý ông) ở đó?' Ông chỉ ba người đàn ông cưỡi ngựa. 'Anh có nghĩ họ cũng tìm kiếm sự nghỉ ngơi không?'

Người quản lý nhún vai. Lần nữa trong mắt anh ta xuất hiện cái nhìn lo lắng.

Anh nói mơ hồ: 'À, khách du lịch, họ mong muốn một trải nghiệm mới... Độ cao - ở một mình đó là cảm giác mới lạ.'

Đó không phải là, Poirot nghĩ, một cảm giác dễ chịu lắm. Ông ý thức được trái tim của mình đang đập nhanh. Những dòng vần điệu trẻ thơ chạy ngốc nghếch qua tâm trí ông. 'Lên trên thế giới vút cao. Như khay trà nhỏ bay trên bầu trời.'

Schwartz bước vào sảnh chờ. Mắt ông sáng lên khi thấy Poirot. Ông ta đến bên ông ngay lập tức.

'Tôi đã nói chuyện với tay bác sĩ đó. Ông ta nói chuyện y như người Anh. Ông ta là người Do Thái - bị Đức quốc xã đuổi ra khỏi Áo. Nói xem, tôi đoán những người đó điên rồ cả! Tay bác sĩ Lutz này là một người đàn ông khá cao lớn, tôi tóm lại - chuyên gia về thần kinh - phân tích tâm lý - loại việc như thế.'

Mắt ông nhìn về phía người phụ nữ cao ráo đang nhìn ra ngoài cửa sổ nơi những ngọn núi dài miên man. Ông hạ giọng.

'Tôi có tên cô ấy từ người phục vụ. Cô ấy là Madame (Bà) Grandier. Chồng cô đã chết khi leo núi. Đó là lý do tại sao cô ấy đến đây. Tôi không biết, phải không, rằng chúng ta nên làm gì đó – Cố đưa cô ấy ra khỏi vỏ ốc?'

Hercule Poirot nói: 'Nếu là ông tôi sẽ không thử đâu.'

Nhưng lòng thân thiện của ông Schwartz không mỏi mệt.

Poirot thấy ông đề nghị, thấy họ bị từ chối không thương tiếc. Hai người đứng cạnh nhau phủ bóng lên ánh sáng trong giây lát. Người phụ nữ cao hơn Schwartz. Cô quay đầu lại và vẻ mặt lạnh lùng cấm đoán. Ông không nghe thấy cô nói gì, nhưng Schwartz trở lại với vẻ chán nản.

'Không làm gì được,' ông ta nói. Ông nói thêm tiếc nuối: 'Với tôi thì tất cả mọi người ở đây cùng nhau, không có lý do gì chúng ta lại không thể thân thiện với người khác. Ông có đồng ý không, ông – ông biết đấy, tôi không biết tên ông?'

'Tên tôi,' Poirot đáp, 'là Poirier.' Ông thêm vào: 'Tôi là một thương gia tơ lụa đến từ Lyons.'

'Tôi hân hạnh gửi ông danh thiếp của tôi, ông Poirier, và nếu ông đến Fountain Springs, ông chắc chắn sẽ được đón chào.'

Poirot nhận lấy danh thiếp, vỗ tay vô túi, than khẽ: 'Trời ơi, lúc này tôi không có danh thiếp nào trên người...'

Tối hôm đó, khi đi ngủ, Poirot đọc kỹ qua thư của Lementeuil trước khi đặt nó lại chỗ cũ, gấp gọn gàng, trong ví của mình. Khi lên giường ông tự nói với mình: 'Tò mò thật – Mình tự hỏi nếu như...'

III

Người phục vụ Gustave mang cho Hercule Poirot bữa sáng với cà phê và bánh cuộn. Anh xin lỗi về cà phê.

'Monsieur cũng hiểu đúng không ạ, ở độ cao này không thể có cà phê thực sự nóng? Thật đáng tiếc, nó sôi quá sớm.'

Poirot lẩm bẩm: 'Người ta phải dũng cảm chấp nhận những sự thất thường này của Thiên Nhiên.'

Gustave nói khẽ: 'Monsieur là một nhà triết học.'

Anh đi đến cửa, nhưng thay vì rời khỏi phòng, anh ta liếc mắt ra ngoài, rồi lại đóng cửa và trở về bên giường.

Anh ta nói: 'Ông Hercule Poirot? Tôi là Drouet, thanh tra cảnh sát.'

'À', Poirot nói, 'Tôi đã hoài nghi rất nhiều.'

Drouet hạ giọng.

'Ông Poirot, chuyện gì đó rất nghiêm trọng đã xảy ra. Đã có một tai nạn ở tuyến đường sắt treo!'

'Một tai nạn?' Poirot nhỏm dậy. 'Loại tai nạn gì?'

'Không ai bị thương. Nó xảy ra trong đêm. Có lẽ là, do nguyên nhân tự nhiên - một trận tuyết lở nhỏ quét xuống những tảng đá lớn và đá cuội. Nhưng có thể cho rằng có cơ sở của con người hoạt động. Người ta không biết. Trường hợp gì đi chăng nữa, kết quả là sẽ mất nhiều ngày để sửa chữa và trong thời gian đó chúng ta bị cô lập trên đây. Sớm đầu mùa, khi tuyết vẫn còn dày, không thể liên lạc với thung lũng bên dưới.'

Hercule Poirot ngồi dậy trên giường.

Ông nói nhỏ nhẹ: 'Đây là điều rất thú vị.'

Thanh tra gật đầu.

'Đúng thế,' anh nói. 'Nó chỉ ra thông tin của ngài ủy viên chúng tôi là chính xác. Marrascaud có một điểm hẹn ở đây, và hắn đã làm chắc để cuộc hẹn đó không bị gián đoạn.'

Hercule Poirot sốt ruột kêu: 'Nhưng thật không tưởng!'

'Tôi đồng ý.' Thanh tra Drouet giơ tay lên. 'Đây không phải là ý nghĩ bình thường - nhưng có đấy. Gã Marrascaud này, ông biết đấy, là một kẻ không tưởng! Chính tôi,' anh ta gật đầu, 'tôi nghĩ hắn bị điên.'

Poirot nói: 'Một kẻ điên và giết người!'

Drouet nói khô khốc: 'Nó không đáng cười, tôi đồng ý.'

Poirot chậm rãi nói: 'Nhưng nếu hắn có một điểm hẹn ở đây, ở gờ tuyết cao phía trên thế giới này, thì cũng có nghĩa là chính Marrascaud đang ở đây, vì giờ thông tin liên lạc đã bị cắt.'

Drouet khẽ nói: "Tôi biết.'

Cả hai người im lặng trong một hai phút. Rồi Poirot hỏi: 'Bác sĩ Lutz? Ông ta có thể nào là Marrascaud không?'

Drouet lắc đầu.

'Tôi không nghĩ vậy đâu. Thực sự có một bác sĩ Lutz - tôi đã nhìn thấy ảnh ông ấy trên các tờ báo - một người đàn ông xuất sắc và nổi tiếng. Người đàn ông này giống sát với những bức ảnh ấy.'

Poirot thì thầm: 'Nếu Marrascaud là một nghệ sĩ cải trang, hắn có thể đóng vai thành công.'

'Phải, nhưng hắn đâu thế? Tôi chưa bao giờ nghe nói hắn như một chuyên gia cải trang. Hắn ta không có thủ đoạn và tính gian xảo của loài rắn. Hắn ta là một con lợn rừng, hung dữ, khủng khiếp, người mang cơn giận dữ mù quáng.'

Poirot nói: 'Như nhau cả...'

Drouet nhanh chóng đồng ý.

'À vâng, hắn là một kẻ trốn chạy công lý. Do đó hắn buộc phải giấu giếm. Vì vậy có lẽ hắn – trong thực tế hắn phải - ít nhiều cải trang.'

'Anh có bản nhận diện hắn không?'

Người kia nhún vai.

'Chỉ sơ sơ thôi. Các bức ảnh và số đo chính thức của Bertillon đã được gửi lên cho tôi hôm nay. Tôi chỉ biết rằng hắn là một gã ba mươi tuổi lẻ, chiều cao hơn trung bình chút ít và nước da ngăm. Không có dấu hiệu phân biệt.'

Poirot nhún vai.

'Cái đó có thể áp dụng cho bất kì ai. Thế còn người Mỹ, Schwartz thì sao?'

'Tôi đang định hỏi ông. Ông đã nói chuyện với ông ta, và ông đã, tôi nghĩ là, sống nhiều với những người Anh và Mỹ. Ngẫu nhiên nhìn qua thì ông ta có vẻ là một người Mỹ đi du lịch bình thường. Hộ chiếu hợp lệ. Có lẽ lạ khi ông ta chọn đến đây – nhưng người Mỹ khi đi du lịch thì khá khôn lường. Bản thân ông nghĩ sao?'

Hercule Poirot lắc đầu lúng túng.

Ông nói: 'Nhìn bề ngoài, dù thế nào, ông ấy có vẻ là một người khá vô hại, quá thân thiện. Ông ấy có lẽ là người nhàm chán, nhưng có vẻ như khó mà coi ông ta là mối nguy hiểm.' Ông tiếp tục: 'Tuy nhiên có thêm ba du khách ở đây.'

Thanh tra gật đầu, mặt bỗng háo hức.

'Đúng, và họ là kiểu người chúng tôi đang kiếm. Tôi sẽ thề, ông Poirot, rằng ba gã đàn ông đó là thành viên của băng đảng Marrascaud dù thế nào đi nữa. Họ là mấy kẻ vô lại trên trường đua ngựa nếu mà tôi từng thấy. Và một trong ba gã có thể chính là Marrascaud.'

Hercule Poirot suy ngẫm. Ông nhớ lại ba khuôn mặt.

Một gã có khuôn mặt rộng với đôi lông mày nhô ra và cằm béo mũm – một bản mặt thô tục, cục súc. Một gã gầy gò còm nhom với khuôn mặt hẹp sắc sảo và đôi mắt lạnh lùng. Gã thứ ba là một kẻ khuôn mặt xanh xao với điệu bộ hơi đỏm dáng.

Đúng, một trong ba người có thể là Marrascaud, nhưng nếu vậy, câu hỏi đến miết là, tại sao?

Tại sao Marrascaud và hai thành viên trong băng nhóm của mình lại cùng nhau làm chuyến hành trình và chui vào cái bẫy chuột trên sườn núi? Chắc chắn có thể sắp xếp một cuộc gặp ở những nơi xung quanh an toàn và ít dị thường hơn - trong một quán cà phê - ở một nhà ga xe lửa - trong rạp chiếu phim đông đúc - trong công viên công cộng - nơi nào đó có nhiều lối thoát - không phải ở đây xa tít thế giới trong một vùng tuyết hoang vu.

Ông cố gắng truyền đạt cho thanh tra Drouet điều gì đó về chuyện này và người còn lại sẵn lòng đồng ý.

'Nhưng đúng, thật không tưởng, nó không có ý nghĩa gì.'

'Nếu đây là điểm hẹn, tại sao bọn chúng đi du lịch cùng nhau? Không, quả thực, nó không có nghĩa gì.'

Drouet nói, khuôn mặt lo lắng: 'Trong trường hợp đó, chúng ta phải xem xét giả thiết thứ hai. Ba người đàn ông này là thành viên băng đảng Marrascaud và họ đã đến đây để gặp chính Marrascaud. Vậy Marrascaud là ai?'

Poirot hỏi: 'Anh nghĩ gì về nhân viên của khách sạn?'

Drouet nhún vai.

'Không có nhân viên để nói chuyện. Có một bà già nấu ăn, ông chồng già Jacques của bà – tôi nghĩ họ đã ở đây năm mươi năm. Có người bồi bàn mà tôi đã thế chỗ, đó là tất cả.'

Poirot nói: 'Người quản lý, anh ta tất nhiên biết anh là ai?'

'Lẽ dĩ nhiên. Chuyện này cần sự hợp tác của anh ta.'

'Anh có để ý không,' Hercule Poirot nói, 'anh ta trông có vẻ lo lắng?'

Nhận xét dường như làm Drouet chú ý.

Anh nói trầm tư: 'Phải, đó là sự thật.'

'Có thể đó đơn thuần chỉ là nỗi lo lắng khi tham gia vào hành động của cảnh sát.'

'Nhưng ông có nghĩ nó còn hơn thế không? Ông có nghĩ là anh ta có lẽ - biết điều gì đó?'

'Tôi chợt nảy ra ý này, thế thôi.'

Drouet ủ rũ nói: 'Tôi tự hỏi.'

Anh dừng lại rồi nói tiếp: 'Ông có nghĩ, liệu ai đó có thể làm anh ta nói ra không?'

Poirot lắc đầu nghi ngờ.

Ông nói: 'Tôi nghĩ, sẽ tốt hơn là, đừng để anh ta biết chúng ta nghi ngờ. Hãy để mắt đến anh ta, vậy thôi.'

Drouet gật đầu. Anh quay về phía cửa.

'Ông có đề xuất gì không, ông Poirot? Tôi - tôi biết danh tiếng của ông. Chúng tôi đã nghe nói về ông ở đất nước mình.'

Poirot bối rối nói: 'Hiện tại tôi không thể đề nghị gì. Lý do vụt thoát khỏi tôi - lý do cho một điểm hẹn ở nơi này. Trên thực tế, tất cả lý do cho cuộc hẹn này là sao?'

'Tiền,' Drouet nói ngắn gọn.

'Anh bạn Salley tội nghiệp này bị cướp, sau đó, cũng như bị sát hại?'

'Đúng, một khoản tiền rất lớn của anh ta đã biến mất.'

'Và chỗ hẹn là để chia tiền, anh nghĩ thế?'

'Đó là ý tưởng hiển nhiên nhất.'

Poirot lắc đầu một cách không hài lòng.

'Đúng, nhưng tại sao ở đây?' Ông chậm rãi tiếp tục: 'Nơi tồi tệ nhất có thể cho một điểm hẹn của những tên tội phạm. Nhưng đó là một nơi, ở đây, người ta có thể đến để gặp một người phụ nữ...'

Drouet tiến lên một bước hăm hở.

Anh hào hứng nói: 'Ông nghĩ là -?'

'Tôi nghĩ,' Poirot nói, 'Madame Grandier là một phụ nữ rất xinh đẹp. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai cũng có thể leo mười ngàn feet vì cô ấy – đấy là, nếu cô ấy đã đề nghị như vậy.'

'Ông biết đấy,' Drouet nói, 'điều đó thú vị. Tôi chưa bao giờ nghĩ cô ấy có liên quan vụ án. Xét cho cùng, cô ấy đã đến nơi này vài năm qua rồi.'

Poirot nói nhẹ nhàng: 'Phải - và do đó sự hiện diện của cô ấy sẽ không gây ra bình luận. Đó sẽ là lý do tại sao Rochers Neiges phải là điểm được chọn, phải không?'

Drouet hào hứng nói: 'Ông đã có một ý tưởng, ông Poirot. Tôi sẽ nhìn vào góc độ ấy.'

IV

Một ngày trôi qua không có sự cố. May mắn là khách sạn được tích trữ lương thực tốt. Người quản lý giải thích rằng không cần phải lo lắng. Kho dự trữ được đảm bảo.

Hercule Poirot đã nỗ lực để bắt chuyện với bác sĩ Karl Lutz và bị từ chối. Bác sĩ nói rõ rằng tâm lý học là nỗi ám ảnh nghề nghiệp và ông sẽ không thảo luận với những kẻ nghiệp dư. Ông ngồi trong góc đọc một bộ sách lớn của Đức về tiềm thức và viết nhiều ghi chú và chú thích phong phú.

Hercule Poirot đi ra ngoài và lang thang vô định vòng quanh khuôn viên nhà bếp. Ở đó ông bắt đầu nói chuyện với ông già Jacques, người cáu kỉnh và ngờ vực. Vợ ông, bà đầu bếp, sẵn sàng hơn. May mắn thay, bà giải thích với Poirot, có một lượng lớn thực phẩm đóng hộp dự trữ - nhưng bản thân bà đã nghĩ là ít thức ăn trong hộp thiếc. Nó đắt đỏ tệ hại và trong đó có thể có thực phẩm gì? Đức Chúa lòng lành không bao giờ có ý định để mọi người sống nhờ đồ hộp.

Cuộc trò chuyện quay lại chủ đề nhân viên khách sạn. Đầu tháng 7 các cô phục vụ phòng và người bồi bàn thêm sẽ đến. Nhưng trong ba tuần tới, sẽ không có người hoặc hầu như không có ai. Chủ yếu là người ta lên đến nơi ăn trưa và sau đó quay trở về. Bà, Jacques và một người bồi bàn có thể quản lý dễ dàng.

Poirot hỏi: 'Đã có bồi bàn ở đây trước khi Gustave đến, phải không?'

'Đúng thế, quả là có, một người kém cỏi. Không kỹ năng, không kinh nghiệm. Không học hành gì.'

'Anh ta đã ở đây bao lâu trước khi Gustave thay thế?'

'Chỉ ít ngày thôi – trong khoảng một tuần. Dĩ nhiên anh ta bị sa thải. Chúng tôi không ngạc nhiên. Nhất định sẽ thế rồi.'

Poirot lẩm bẩm: 'Anh ta không phàn nàn quá mức ư?'

'À không, anh ta lặng lẽ đi. Rốt cục, anh ta có thể trông đợi gì? Đây là một khách sạn hạng sang. Ở đây người ta phải có sự phục vụ thích hợp.'

Poirot gật đầu.

Ông hỏi: 'Anh ta đã đi đâu thế?'

'Đây là Robert, ý ông là sao?' Bà nhún vai. 'Không nghi ngờ gì là anh ta trở lại quán cà phê tối tăm nơi xuất phát.'

'Anh ta đi xuống tuyến đường sắt treo ư?'

Bà nhìn ông tò mò.

'Dĩ nhiên, Monsieur. Còn đường nào khác để đi?'

Poirot hỏi: 'Có ai thấy anh ta đi không?'

Cả hai nhìn ông chằm chằm.

'Ôi! Ông nghĩ rằng có khả năng người ta sẽ đi tiễn một con vật như thế ư – ai đó cho anh ta một buổi chia tay long trọng? Ai cũng bị những công việc riêng choáng giữ.'

'Chính xác,' Hercule Poirot nói.

Ông chầm chậm đi ra, nhìn lên tòa nhà phía trên mình. Một khách sạn rộng lớn - hiện tại chỉ có một chái nhà mở cửa. Trong các chái nhà khác là nhiều căn phòng, kín mít và đóng cửa chớp, nơi không ai có khả năng đi vào.

Ông đi vòng qua góc khách sạn và suýt đụng phải một trong ba người đàn ông chơi bài. Đó là gã có khuôn mặt xanh xao và cặp mắt tái nhợt. Cặp mắt nhìn Poirot không chút biểu cảm. Chỉ có vành môi hơi cong lại lộ ra hàm răng như một con ngựa hoang nguy hiểm.

Poirot vượt qua gã và tiếp tục đi. Có một dáng người phía trước ông - hình dáng cao lớn duyên dáng của Madame Grandier.

Ông vội vã bước đi một chút và đuổi kịp cô.

Ông nói: 'Tai nạn với tuyến đường sắt treo này, thật là khốn khổ. Tôi hy vọng, Madame, rằng nó không gây phiền hà cho cô?'

Cô nói: 'Vấn đề ấy tôi không quan tâm.'

Giọng cô rất sâu xa – một giọng nữ đầy trầm. Cô không nhìn Poirot. Cô rẽ sang một bên và đi vào khách sạn bằng cửa phụ nhỏ.

V

Hercule Poirot đi ngủ sớm. Một lúc sau nửa đêm ông thức dậy.

Ai đó đang mò mẫm khóa cửa.

Ông ngồi dậy, bật đèn. Cùng lúc đó cái khóa chịu thua thao tác tay và cánh cửa bật mở. Ba người đàn ông đứng đó, ba gã chơi bài. Chúng đang, Poirot nghĩ, hơi say. Mặt chúng ngớ ngẩn và vẫn hiểm ác. Ông nhìn thấy ánh sáng một lưỡi dao cạo lóe lên.

Gã to con chắc nịch tiến lên. Gã nói giọng gầm gừ.

'Thằng lợn thần thám tử! Pằng!'

Gã tuôn ra một tràng những lời tục tĩu. Ba gã nọ tiến lên một cách có chủ đích đến người đàn ông không phòng bị trên giường.

'Chúng mày ơi, ta xẻo thịt hắn đi. Ê, mấy con ngựa con? Chúng ta sẽ rạch mặt quý ngài thám tử này ra. Tối nay thằng cha sẽ không phải người đầu tiên.'

Chúng đi vào, vững vàng, chủ đích – những lưỡi dao cạo lóe lên.

Và rồi, bị giật mình bởi giọng điệu quả quyết phía kia Đại Tây Dương, giọng nói vang lên: 'Giơ tay lên.'

Chúng quay ngoắt lại. Schwartz, mặc một bộ đồ ngủ sọc kỳ quái sặc sỡ đứng ở ngưỡng cửa. Trong tay ông cầm một khẩu tự động.

'Giơ tay lên, chúng mày. Tao rất giỏi bắn súng đấy.'

Ông ta bóp cò - và một viên đạn sượt qua tai gã to con găm vào trong cửa sổ gỗ.

Ba đôi tay nhanh chóng giơ lên.

Schwartz nói: 'Tôi có thể phiền ông không, ông Poirier?'

Hercule Poirot ra khỏi giường trong nháy mắt. Ông thu thập các vũ khí lóe sáng và rà tay qua người ba gã để đảm bảo chúng không còn trang bị vũ khí.

Schwartz nói: 'Bây giờ thì, bước đi! Có một tủ lớn ngay dọc hành lang. Không có ô cửa trong đó. Có tủ đó thôi.'

Ông ta dẫn chúng vào trong tủ và khóa chúng lại. Ông vòng qua Poirot, giọng vỡ òa với cảm xúc vui sướng.

'Cái này không phải chỉ là biểu diễn chứ? Ông biết không, ông Poirier, những người thân ở Fountain Springs đã cười nhạo tôi vì tôi nói mình sẽ mang súng ra nước ngoài. 'Ông nghĩ ông sẽ đi đâu?' họ hỏi. 'Vào trong rừng rậm à?' Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ nói tiếng cười đeo đuổi mình. Ông đã từng thấy một lũ vô lại xấu xí như thế chưa?'

Poirot nói: 'Schwartz thân mến của tôi, ông đã xuất hiện đúng lúc. Nó có thể như một tấn kịch trên sân khấu! Tôi nợ ông rất nhiều.'

'Không có gì. Chúng ta đi đâu đây? Chúng ta phải chuyển những anh chàng này cho cảnh sát và chuyện này chúng mình không thể làm được! Đó là vấn đề nan giải. Có lẽ tốt hơn là chúng ta nên hỏi ý kiến anh quản lý.'

Hercule Poirot nói: 'A, anh quản lý. Tôi nghĩ đầu tiên chúng ta sẽ tham khảo anh bồi bàn - Gustave - bí danh thanh tra Drouet. Nhưng đúng - anh bồi bàn Gustave thực sự là một thám tử.'

Schwartz nhìn ông chằm chằm.

'Vậy ra đó là lý do tại sao chúng làm thế!'

'Đó là lý do tại sao ai làm gì?'

'Đám lừa đảo này để ông vào thứ hai danh sách. Chúng đã xẻo thịt Gustave xong rồi.'

'Cái gì?'

'Đi với tôi. Ông bác sĩ giờ bận rộn đây.'

Phòng của Drouet là một gian nhỏ trên tầng cao nhất. Bác sĩ Lutz, mặc áo choàng, đang bận băng bó mặt cho người đàn ông bị thương.

Ông quay đầu khi họ bước vào.

'À! Là ông hả, ông Schwartz? Vụ này, một vụ việc kinh tởm. Lũ đồ tể! Bọn quái vật vô nhân tính!'

Drouet nằm yên, khẽ rên rỉ.

Schwartz hỏi: 'Anh ta có bị nguy hiểm không?'

'Anh ta sẽ không chết nếu đó là ý ông muốn nói. Nhưng anh ta không được nói - không được kích động. Tôi đã băng bó vết thương - sẽ không có nguy cơ nhiễm trùng máu.'

Ba người đàn ông cùng rời khỏi phòng.

Schwartz nói với Poirot: 'Ông nói Gustave là sĩ quan cảnh sát à?'

Hercule Poirot gật đầu.

'Nhưng anh ấy đang làm gì trên Rochers Neiges?'

'Anh ta tham gia truy tìm một tên tội phạm rất nguy hiểm.'

Trong một vài lời Poirot giải thích tình hình.

Bác sĩ Lutz nói: 'Marrascaud? Tôi đã đọc vụ án trên báo. Tôi rất muốn gặp gã đàn ông ấy. Có một số bất thường sâu sắc ở đây! Tôi muốn biết chi tiết về thời thơ ấu của anh ta.'

'Về phần tôi,' Hercule Poirot nói, 'tôi phải biết chính xác lúc này anh ta ở đâu.'

Schwartz nói: 'Hắn ta không phải một trong ba gã chúng ta khóa trong tủ à?'

Poirot nói với giọng bất mãn: 'Có khả năng – đúng, nhưng tôi, tôi không chắc... Tôi có ý này-'

Ông ngắt lời, nhìn chằm chằm xuống thảm. Nó có màu da bò sáng và có những vệt nâu sẫm rất han rỉ.

Hercule Poirot nói: 'Những bước chân - những bước chân đã giẫm lên, tôi nghĩ, trong máu và chúng đi từ chái nhà khách sạn không sử dụng. Đi nào - chúng ta phải nhanh lên!'

Họ đi theo ông, qua cánh cửa xoay và đi dọc theo một hành lang tối mờ, bụi bặm. Họ xoay góc, vẫn theo những vết trên thảm cho đến khi chúng dẫn họ đến một ô cửa khép hờ.

Poirot đẩy cửa mở ra rồi bước vào.

Ông thốt lên một câu cảm thán thất thanh khiếp sợ.

Căn phòng là một phòng ngủ. Chiếc giường nằm yên và có một khay thức ăn trên bàn.

Giữa sàn đặt xác một người đàn ông. Anh ta chỉ cao hơn trung bình và đã bị tấn công bằng sự hung dữ dã man không thể tin được. Có một tá vết thương trên hai cánh tay và ngực anh ta, đầu và mặt đã bị dần nhừ tử.

Schwartz cảm thán một câu hơi khó thở và quay mặt đi như thể ông ta bị bệnh.

Bác sĩ Lutz thốt lên một câu cảm thán kinh hoàng bằng tiếng Đức.

Schwartz nói yếu ớt: 'Người này là ai? Có ai biết không?'

'Tôi đoán,' Poirot nói, 'rằng ở đây anh ta được biết đến với cái tên Robert, một tay bồi bàn vụng về.'

Lutz đã đến gần hơn, cúi người lên xác. Ông chỉ một ngón tay.

Có một tờ giấy được ghim vào ngực người đàn ông đã chết. Vài từ viết nguệch ngoạc bằng mực trên đó.

Marrascaud không giết người nữa – hắn ta cũng sẽ không cướp của bạn bè!

Schwartz thốt lên: 'Marrascaud? Vậy đây là Marrascaud! Nhưng điều gì đã đưa hắn lên đây đến nơi hẻo lánh này? Và tại sao ông nói tên hắn là Robert?'

Poirot nói: 'Anh ta ở đây giả trang làm bồi bàn – và theo những thông tin thu thập được thì anh ta là một bồi bàn rất dở. Dở đến nỗi không ai ngạc nhiên khi anh ta bị đuổi. Anh ta rời đi - có lẽ là để trở về Andermatt. Nhưng không ai thấy anh ta đi.'

Lutz nói bằng giọng rung rung nhỏ: 'Ra thế - và ông nghĩ chuyện gì đã xảy ra?'

Poirot trả lời: 'Tôi nghĩ rằng ở đây chúng ta có lời giải thích về vẻ lo lắng nhất định trên khuôn mặt người quản lý khách sạn. Marrascaud hẳn phải đưa cho anh ta một khoản hối lộ to để được giấu giếm ở nơi khách sạn không dùng đến...'

Ông nói thêm suy tư: 'Nhưng người quản lý không hài lòng về điều này. Ồ không, anh ấy không vui chút nào.'

'Và Marrascaud tiếp tục sống trong chái nhà không sử dụng này mà không ai ngoài người quản lý biết?'

'Có vẻ thế. Sẽ hơi có khả năng, ông biết đấy.'

Bác sĩ Lutz nói: 'Tại sao anh ta bị giết? Và ai đã giết anh ta?'

Schwartz kêu: 'Dễ thôi. Hắn phải chia tiền với băng nhóm của mình. Hắn không làm. Hắn chơi trò hai mặt. Hắn đến đây, đến nơi hẻo lánh này, để nằm yên một lúc. Hắn nghĩ đó là nơi cuối cùng trên thế giới mà chúng nghĩ ra. Hắn sai rồi. Bằng cách này hay cách khác chúng đã khôn ngoan và đi theo hắn.' Ông ta chạm mũi giày vào xác chết. 'Và chúng đã thanh toán anh ta - như thế này.'

Hercule Poirot nói khẽ: 'Phải, nó không hoàn toàn là loại điểm hẹn chúng ta nghĩ đến.'

Bác sĩ Lutz cáu kỉnh nói: 'Như thế nào và tại sao có thể rất thú vị, nhưng tôi quan tâm đến vị trí của chúng ta hiện tại. Ở đây chúng ta có một người chết. Tôi có một người bệnh trong tay và một lượng vật tư y tế hạn chế. Và chúng ta bị cô lập khỏi thế giới! Trong bao lâu?'

Schwartz nói thêm: 'Và chúng ta đã có ba tên sát nhân bị nhốt trong tủ! Tôi sẽ gọi đây là một tình huống thú vị.'

Bác sĩ Lutz nói: 'Chúng ta làm gì đây?'

Poirot nói: 'Trước tiên, chúng ta nắm được người quản lý. Anh ta không phải là tội phạm, tay đó, chỉ là một người tham tiền. Anh ta cũng là một kẻ nhát gan. Anh ta sẽ làm mọi thứ chúng ta bảo. Ông Jacques, hoặc bà vợ, có thể sẽ cung cấp ít dây thừng nhỏ. Ba tên vô lại phải được đặt ở nơi chúng ta có thể bảo vệ chúng an toàn cho đến ngày có sự giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng khẩu tự động của ông Schwartz sẽ có hiệu quả trong việc thực hiện bất kỳ kế hoạch nào mà chúng ta có thể làm.'

Bác sĩ Lutz nói: 'Còn tôi? Tôi sẽ làm gì?'

'Ông ư, bác sĩ?' Poirot nói nghiêm trang, 'Ông sẽ làm tất cả những gì có thể cho bệnh nhân của mình. Phần còn lại chúng ta phải cảnh giác không ngừng - và chờ đợi. Chúng ta không thể làm gì khác.'

VI

Ba ngày sau có một toán người nhỏ xuất hiện trước cửa khách sạn vào đầu giờ sáng.

Chính Hercule Poirot đã long trọng mở cửa trước cho họ.

'Chào mừng ông, mon vieux.' (Ông bạn già)

Monsieur Lementeuil, ủy viên Cảnh sát, bắt lấy Poirot bằng cả hai tay.

'Chao, bạn ơi, gặp bạn tôi xúc động biết bao! Những sự kiện diệu kỳ - những cảm xúc bạn đã trải qua! Và chúng tôi ở bên dưới, nỗi lo lắng, sợ hãi của chúng tôi - không biết gì - sợ hãi mọi thứ. Không có radio - không phương tiện liên lạc. Truyền tin bằng ánh mặt trời, đó thực sự là một cú đánh thiên tài từ phía ông bạn.'

'Không, không đâu,' Poirot gắng sức để trông khiêm tốn. 'Sau mọi chuyện, khi những phát minh của con người thất bại, người ta phải cầu đến tự nhiên. Luôn có mặt trời trên bầu trời.'

Toán người nhỏ đi thành hàng vào trong khách sạn.

Lementeuil nói: 'Có phải chúng tôi không được mong đợi?' Nụ cười của ông khá là nghiêm nghị.

Poirot cũng mỉm cười. Ông nói: 'Không đâu! Người ta tin rằng tuyến đường sắt vẫn chưa được sửa chữa.'

Lementeuil xúc động nói: 'A, đây là một ngày tuyệt vời. Không còn nghi ngờ gì nữa, ông nghĩ sao? Thực sự là Marrascaud chứ?'

'Đây đúng là Marrascaud. Đi với tôi.'

Họ đi lên cầu thang. Một cánh cửa mở ra và Schwartz bước ra trong bộ áo choàng. Ông nhìn chằm chằm khi thấy mấy người đàn ông.

'Tôi nghe thấy tiếng nói,' ông ta giải thích. 'Tại sao, gì thế này?'

Hercule Poirot nói khoa trương: 'Trợ giúp đã đến! Đi theo chúng tôi, monsieur. Đây là một khoảnh khắc vĩ đại.''

Ông bắt đầu lên đợt cầu thang tiếp theo.

Schwartz nói: 'Ông đang lên chỗ Drouet à? Nhân tiện, anh ấy thế nào?'

'Bác sĩ Lutz báo đêm qua anh ta sẽ ổn.'

Họ đến trước cửa phòng Drouet. Poirot đẩy mở cửa. Ông tuyên bố: 'Con lợn rừng đây, thưa các quý ông. Bắt sống hắn ta và xem xem không hắn ta giở trò với máy chém.'

Người đàn ông trên giường, mặt vẫn băng bó, thình lình đứng dậy. Nhưng các sĩ quan cảnh sát đã bắt hắn trước khi hắn ta có thể di chuyển.

Schwartz la lên hoang mang: 'Nhưng đó là anh bồi bàn Gustave - là thanh tra Drouet mà.'

'Đây là Gustave, phải - nhưng không phải là Drouet. Drouet là anh bồi bàn đầu tiên, anh bồi bàn Robert người đã bị giam cầm ở phía khách sạn không dùng đến và là người mà Marrascaud sát hại trong cùng một đêm khi tôi bị tấn công.'

VII

Qua bữa sáng, Poirot nhẹ nhàng giải thích với ông người Mỹ đang hoang mang.

'Ông hiểu không, có một số điều nhất định người ta biết - biết khá chắc chắn trong quá trình làm nghề. Chẳng hạn, người ta biết sự khác biệt giữa một thám tử và kẻ giết người! Gustave không phải là bồi bàn – điều đó tôi nghi ngờ ngay lập tức - nhưng anh ta cũng không phải là cảnh sát. Tôi đã giao thiệp với cảnh sát suốt đời và tôi biết. Anh ta có thể qua mặt như là thám tử với một người ngoài - nhưng không phải với một người đàn ông chính là cảnh sát viên.'

'Và vì vậy, ngay lập tức, tôi đã nghi ngờ. Tối đó, tôi không uống cà phê. Tôi đổ nó đi. Và tôi đã khôn ngoan. Tối muộn hôm đó một gã đàn ông vào trong phòng tôi, đi vào với sự tự tin dễ dàng của một kẻ biết rằng người chủ căn phòng hắn ta đang tìm kiếm đã bị đánh thuốc mê. Hắn ta xem qua công việc của tôi và tìm thấy bức thư trong ví - nơi tôi đã để lại cho hắn tìm ra! Sáng hôm sau, Gustave vào phòng tôi với cà phê. Hắn chào tôi bằng tên và diễn vai hắn hoàn toàn chắn chắn. Nhưng hắn lo lắng - lo lắng khủng khiếp - vì bằng cách nào đó này khác cảnh sát đã lần theo dấu vết hắn! Họ đã biết hắn ở đâu và điều đó với hắn ta là thảm họa khủng khiếp. Nó làm đảo lộn hết tất cả mọi kế hoạch. Hắn ta bị bắt ở đây như con chuột trong bẫy.'

Schwartz nói: 'Cái thứ ngu xuẩn chết tiệt đó đã từng đến đây! Tại sao hắn lại làm thế?'

Poirot nói nghiêm trọng: 'Không quá ngu như ông nghĩ đâu. Hắn có nhu cầu, nhu cầu cấp thiết, về một nơi ẩn dật cách xa thế giới, nơi hắn ta có thể gặp một người nhất định, nơi có thể xảy ra một việc nhất định.'

'Người nào cơ?'

'Bác sĩ Lutz.'

'Bác sĩ Lutz? Ông ta cũng là kẻ gian à?'

'Bác sĩ Lutz thực sự là bác sĩ Lutz - nhưng ông ấy không phải là chuyên gia thần kinh - không phải nhà phân tâm học. Ông ấy là bác sĩ phẫu thuật, bạn ơi, một bác sĩ chuyên phẫu thuật khuôn mặt. Đó là lý do tại sao ông ấy được gặp Marrascaud ở đây. Bây giờ ông ấy nghèo, đi khỏi đất nước mình. Ông ấy được đề nghị một khoản phí khổng lồ để gặp một người ở đây và thay đổi vẻ ngoài gã đó bằng kỹ năng giải phẫu thuật của mình. Ông ấy có lẽ đã đoán ra hắn ta là một tên tội phạm, nhưng nếu thế, ông ta nhắm mắt làm ngơ. Nhận ra điều này, chúng không dám mạo hiểm ở một bệnh xá nước ngoài. Không, ở trên đây, nơi không ai đến sớm đầu mùa trừ một chuyến thăm lẻ tẻ, nơi tay quản lý là một người cần tiền có thể bị mua chuộc, là một địa điểm lý tưởng.'

'Nhưng, như tôi nói, chuyện đi sai hết. Marrascaud bị phản bội. Ba gã đàn ông, vệ sĩ của hắn ta, người sẽ gặp hắn ở đây và chăm sóc hắn chưa đến, nhưng Marrascaud hành động ngay lập tức. Viên cảnh sát đang giả làm bồi bàn bị bắt cóc và Marrascaud thế chỗ anh ta. Băng nhóm sắp xếp cho tuyến đường sắt leo núi bị phá hủy. Đó là vấn đề thời gian. Tối hôm sau Drouet bị giết và một tờ giấy được ghim trên xác chết. Chúng hy vọng rằng vào thời điểm những liên lạc được thiết lập lại với thế giới ngoài, xác Drouet có thể đã bị chôn vùi như là Marrascaud. Bác sĩ Lutz thực hiện ca phẫu thuật của mình không chậm trễ. Nhưng một người phải câm miệng - Hercule Poirot. Vì vậy, băng nhóm được cử đến tấn công tôi. Cảm ơn ông, bạn của tôi –'

Hercule Poirot cúi đầu duyên dáng với Schwartz, ông nói: 'Vậy ra ông thực sự là Hercule Poirot?'

'Chính xác.'

'Và ông chưa bao giờ bị cái xác đánh lừa dù chỉ một ly? Ông biết suốt rằng đó không phải là Marrascaud?'

'Chắc chắn rồi.'

'Tại sao ông không nói gì?'

Khuôn mặt của Hercule Poirot đột nhiên nghiêm nghị.

'Bởi vì tôi muốn đoan chắc về việc giao Marrascaud thật cho cảnh sát.'

Ông thầm thì nhẹ hơn hơi thở: 'Để bắt sống con lợn rừng Erymanthea...'

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kkkkk