PHẦN I: HIỂM HỌA Ở BIỂN NAM TRUNG HOA- BIỂN ĐÔNG

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BIỂN ĐÔNG

14:47 12/3/2034 (GMT+8)

Biển lặng, gây kinh ngạc ngay cả với những người đã 24 năm bôn ba trên biển như bà. Một sự yên tĩnh tuyệt đối từ chân trời này đến chân trời kia, như một tấm khăn trải bàn bằng vải lanh. Nếu có một cái kim rơi xuống nó cũng sẽ lặng lẽ xuyên xuống đáy biển và nằm yên dưới đó, không gây bất cứ một xáo trộn nào.

Đã bao lần bà đứng đây, trên cầu tàu, quan sát sự bình an màu nhiệm này. Một ngàn lần. Hay hai ngàn lần? Trong một đêm mất ngủ, bà đã lục nhật ký và thử cộng lại tất cả những ngày mình xa đất liền. Tổng cộng gần 9 năm. Ký ức chạy dài qua những năm tháng đó, từ ngày bà thực tập quan trắc, đứng trên bong lát gỗ của chiếc tàu quét mìn với động cơ diesel cứ hồng hộc như lên cơn suyễn, qua giai đoạn chiến tranh đặc biệt ở những vùng nước đục ngầu tranh chấp của thế giới, đến ngày hôm nay chỉ huy 3 chiếc khu trục hạm lớp Arleigh Burke chạy với tốc độ 18 hải lý một giờ theo hướng Nam-Tây Nam dưới ánh mặt trời gay gắt không thương tiếc.

Đội tàu của bà đang ở cách Dải Vành Khăn 12 hải lý, trong vùng biển tranh chấp ở Trường Sa để thực thi "quyền tự do hàng hải". Bà ghét thuật ngữ giả dối mà giới quân sự hay dùng này. Mục tiêu thực chất của cuộc hành quân này đơn giản là khiêu khích. Đây là vùng biển quốc tế, ít nhát là theo các luật hàng hải đang có, nhưng Trung Hoa đang công bố là của họ. Điều khiển đội tàu đi qua vùng biển Trường Sa như thế này tương đương về mặt pháp lý với việc lái xe đánh võng trước sân cỏ nhà hàng xóm vì ông ta cứ lấn dần hàng rào về phía nhà ta. Chính quyền Trung Quốc đã thực hiện việc "lấn hàng rào" đó hàng chục năm, chắc là cho đến khi họ chiếm cả vùng Nam Thái bình dương.

Bởi thế, đã đến lúc lái xe quậy vườn nhà họ. Hay là mình gọi thẳng như thế nhỉ, bà khẽ nhếch mép. Lái xe quậy thay vì Tuần tra vì tự do hàng hải. Ít nhất là đám thủy thủ đỡ phải đau đầu là họ ở đây làm gì.

Bà quay lại, bám đuôi soái hạm John Paul Jones là 2 khu trục hạm Carl Levin và Chung-Hoon đang hành tiến theo đội hình tác chiến. Bà là chỉ huy của đội tàu này, cùng 4 chiếc nữa đang nằm tại căn cứ ở San Diego. Bà đang ở đỉnh cao của sự nghiệp. Thuyền trưởng Sarah Hunt, chỉ huy hải đội khu trục số 21 – Solomons Onward, với danh xưng từ chiến tranh thế giới thứ hai "Những con sư tử hung hăng". Còn trên bảng tên của 7 con tàu thuộc hải đội, bà được gọi một cách yêu quí là "Sư tử hậu"

Bà đứng trầm tư, tưởng tượng mình ẩn hiện trong những con sóng tạo ra ở đuôi tàu. Bà mới nhận được thông báo của Hội đồng Y khoa, ngay trước khi nhổ neo rời cảng Yokosuka. Nghĩ đến chiếc phong bì cộm trong túi áo, cái đau nhói lên ở chân trái và nhanh chóng lan đến xương cùng cột sống. Vết chấn thương cũ cuối cùng đã khuất phục được bà. Hội đồng đã quyết định đây là chuyến ra biển cuối cùng của bà. Hunt không thể tin vào điều đó.

Trời bỗng dịu lại bất ngờ. Một bóng dài lướt qua mặt biển bỗng gợn sóng vì làn gió nhẹ ở đâu đó. Hunt ngẩng đầu lên và thấy một vầng mây mỏng tang đang trôi qua, rồi từ từ biến thành sương mờ dưới sức nóng của mặt trời. Mặt biển tĩnh lặng trở lại.

Những bước chân nhẹ nhàng, vang vang nhưng vội vã leo lên cầu tàu cắt đứt những suy nghĩ của bà. Hunt nhìn đồng hồ. Thuyền trưởng Jane Morris, lại chậm như thường lệ.

EO HORMUZ

10:51, 12/3/2034 (GMT+4:30)

Thiếu tá Chris "Wedge" Mitchell gần như không thấy cảm giác gì.

Bố ông có cảm xúc hơn một chút, khi hệ thống dẫn đường hồng ngoại bị hỏng, ông phải ném hai quả bom GBU-38 "gần quá mức" vào đám phiến quân ở Ramadi, mà chỉ dùng máy đo GPS bằng tay và bản đồ.

"Pop", ông của ông có cảm xúc hơn cả cả hai, khi dùng mắt thường thả bom bi và napal trong 5 ngày liền lên những cánh rừng dịp Tết, trong chiếc A4-Giặc Nhà trời bay thấp đến mức lửa bom táp cả lên thùng dầu.

"Pop-pop", ông cố của ông, Thiếu tá Gregory "Pappy" Boyinton, uống rượu khỏe, đánh giỏi, có lẽ là có cảm giác tốt nhất, khi lái chiếc VMF-214 săn các Con ma Nhật bản ở phía Nam Thái Bình dương, trong biên chế của phi đội Cừu đen nổi tiếng của Hải quân.

Điều khiến 4 thế hệ của Mitchell gắn với ghế lái là cảm giác được bay thô, dựa hoàn toàn vào trực giác. "Khi ông bay tuần tra với Pappy, chẳng có gì giống như bọn trẻ có bây giờ. Không có máy tính, không có chế độ bay tự động. Chỉ có thể dựa vào kỹ năng của phi công, khả năng kiểm soát và may mắn. Bọn ông đánh dấu các mục tiêu bằng bút chì mỡ lên kính bay, và thế là bay. Phải nhanh chóng học cách quan sát đường chân trời. Phải còn quan sát cả Pappy nữa. Khi ông ấy nhổ điếu thuốc ra khỏi ca bin và kéo mũ xuống, tức là sắp đánh nhau với bọn Nhật."

Lần cuối cùng khi Wedge nghe được ông mình nói là lúc 6 tuổi. Lúc đó ông đã hơn 90 tuổi mà giọng cũng vẫn chỉ hơi rè một chút. Nắng lấp lánh trên kính bay, Wedge có thể nghe rõ như là ông đang ngồi ở ghế sau, mặc dù chiếc F-35E Tia chớp của anh chỉ có 1 chỗ ngồi.

Đó là một trong những sức ép mà Wedge phải chịu đựng khi lái phi cơ của mình nhảy múa dọc theo không phận của Iran. Không phải vì phải xử lý gì khó khăn. Hành trình bay đã được cài sẵn trong máy tính và máy bay bay tự động. Anh thực tế không phải làm gì ngoài việc quan sát các đồng hồ, ngắm trời mây và lắng nghe tiếng nói dường như của ông mình ở ghế sau không tồn tại.

Đằng sau đầu đầu ghế, bộ pin dự phòng kêu o o, hơi quá ồn, thậm chí hơn cả tiếng động cơ. Bộ pin này, cỡ bằng hộp giày, cung cấp năng lượng cho mấy bổ sung công nghệ tàng hình mới. Không ai nói cho Wedge về tính năng mới này là gì, hình như là mấy cái máy phá sóng. Trước khi nhận nhiệm vụ, anh thấy có hai nhân viên dân sự của hãng Lockheed lọ mọ gì đó dưới gầm máy bay của mình. Xưa đến nay chưa có nhân viên dân sự nào được lên tàu sân bay George H.W. Bush. Anh đã báo cáo với chỉ huy và được giải thích có những công nghệ mới, rất bí mật và họ được phép làm việc đó. Có vẻ như đó là điềm báo gì đó, nhưng ngoài ra mọi sự đều rất suôn sẻ.

Thậm chí là quá suôn sẻ. Nên thành vấn đề. Wedge thấy buồn tẻ kinh khủng. Anh nhìn xuốn dưới. Eo Hormuz như một dải bạc chi chít vũ khí, chia cách Bán đảo Arab và Persia. Anh nhìn đồng hồ, chiếc đồng hồ hiệu Breitling có gắn la bàn và máy đo độ cao mà bố anh đã đeo khi oanh tạc Marjah 25 năm trước. Anh tin chiếc đồng hồ này hơn máy tính trên máy bay. Nhưng cả 2 đều nói rằng, còn 43 giây nữa sẽ đến điểm rẽ 6 độ sang phía Đông để tránh rơi vào không phận Iran. Tại điểm đó, nếu cái máy dưới đầu anh hoạt động bình thường, máy bay của anh sẽ biến mất. Như không có chuyện gì xảy ra.

Thật trớ trêu là anh được tin cậy sử dụng trong một phi vụ công nghệ cao như thế này. Các đồng đội trong phi đội thường đùa là anh đáng ra phải được sinh ra sớm hơn. Vì thế mà tên chiến đấu của anh được đặt là Wedge – Cái Nêm – công cụ đầu tiên và đơn giản nhất của loài người.

Đã đến chỗ rẽ 6 độ. Wedge tắt chế độ bay tự động. Anh biết sẽ phải trả giá đắt khi bay thủ công, nhưng anh sẽ chịu đựng khi về hạ cánh xuống tàu. Còn bây giờ anh muốn cảm nhận. Dù chỉ là 1 giây, dù chỉ là 1 lần trong đời. Dù có phải tủi nhục thế nào.

Và thế là với tiếng o o dưới đầu, anh cùng phi cơ lặn vào không phận Iran.

BIỂN ĐÔNG

14:58 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

"Bà muốn gặp tôi, thưa chỉ huy?"

Đại úy Jane Morris, thuyền thưởng John Paul trông có vẻ quá mệt mỏi để xin lỗi vì việc luôn chậm 15 phút khi gặp Hunt, người rất hiểu những sức ép mà Morris phải chịu, nhờ đã từng không ít lần trải qua nó. Đó là sức ép phải điều khiển con tàu đúng lộ trình, trách nhiệm với gần 400 thủy thủ, và thuyền trưởng thường xuyên bị gọi lên cầu tàu để chỉ huy con tàu luồn lách tránh vô khối những thuyền đánh cá ở Biển Đông. Người ngoài có thể cho rằng Hunt phải chịu sức ép gấp ba, nhưng cả Hunt và Morris đều hiểu là chỉ huy hải đội là ủy quyền, còn chỉ huy con tàu là trực tiếp. Đơn độc chịu trách nhiệm cho tất cả mọi việc xảy ra trên con tàu của mình.

Hunt rút 2 điếu xì gà từ túi dết.

"Cái này của ai vậy?" Morris hỏi

"Một lời xin lỗi. Của Cuba đấy. Bố tôi thường mua chui từ các thủy thủ ở Gitmo. Giờ thì có thể mua đàng hoàng, lại mất vui. Ngon lắm". Morris là một con chiên ngoan đạo, thậm chí còn âm thầm truyền đạo, nên Hunt cũng không chắc là cô sẽ hào hứng thử. Bởi thế bà khá vui khi Morris cầm điếu xì gà và bước lên đứng cạnh Hunt trên cầu chỉ huy để xin lửa.

"Một lời xin lỗi à? Vì gì vậy?" Morris vừa hỏi vừa châm điếu xì gà vào ngọn lửa từ chiếc Zippo của Hunt, trên đó khắc những con ếch vừa rít xì gà vừa cầm tiểu liên, vốn hay được xăm lên ngực và vai của lực lượng đặc biệt hải quân SEAL. Chiếc bật lửa này được bố Hunt truyền lại cho con gái duy nhất của mình.

"Tôi cho là cô cũng không hào hứng lắm khi biết rằng tôi đã chọn Paul Jones làm soái hạm". Hunt vừa nói vừa châm thuốc cho mình. Khói thuốc bay ra sau khi con tàu tiếp tục tiến lên. "Tôi không muốn cô nghĩ rằng lựa chọn đó là một lời chê trách. Hơn nữa vì chỉ có chúng ta phụ nữ, tôi cũng không muốn cô nghĩ là tôi muốn bao bọc cô khi đặt cờ soái hạm ở đây." Hunt nói và theo bản năng liếc nhìn lên cột buồm nơi cờ chỉ huy của bà đang phất phới.

"Thẳng thắn nhé!"

"Nói đi Jane, đừng khách sáo. Đây không phải là học viện."

"Ok, madam, tôi không hề có ý gì, thậm chí cũng chẳng nghĩ về chuyện đó. Bà có 3 con tàu tốt với 3 thủy thủ đoàn hảo hạng. Bà cần phải ở đâu đó. Thực ra chúng tôi cũng có tí vui mừng khi nghe tin có Sư tử Hậu trên boong của mình."

"Có lẽ sẽ tệ hơn, nếu tôi là đàn ông và các cô sẽ phải sống với Vua Sư tử"

Morris cười phá lên

"Nếu tôi là Vua Sư tử, cô sẽ là Zazu" Hunt cười tinh nghịch, nụ cười đã xóa nhòa bao nhiêu khoảng cách với nhân viên của mình.

Điều đó đã khuyến khích Morris, nói thêm, có lẽ nhiều hơn thường lệ: "Nếu chúng ta là đàn ông còn Levin và Hoon do 2 phụ nữ chỉ huy, liệu chúng ta có nói chuyện thoải mái như thế này?"

Morris im lặng như một câu trả lời.

"Có lẽ cô đúng," Hunt rít một hơi thuốc, dựa vào cầu tàu, nhìn ra chân trời, mặt biển vẫn bình yên kỳ lạ.

"Chân bà thế nào rồi?" Morris hỏi

"Vẫn tốt như xưa", Hunt thò tay xuống đùi. Bà không chạm đến vết gãy xương trong một lần tập luyện cách đây hơn chục năm. Lỗi mở dù, suýt nữa đoạt mạng bà, đã kết thúc sự nghiệp của bà như 1 phụ nữ đầu tiên của SEAL (Đội đặc nhiệm của Hải quân Mỹ – NTN). Thay vào đó, các ngón tay bà lần mò bức chứng thư của Hội đồng Y khoa trong túi quần.

Họ hít đến gần hơi cuối cùng khi Morris phát hiện ra cái gì đó trên đường chân trời. "Bà có thấy khói không?" Họ dập thuốc đi để nhìn cho rõ hơn. Morris vào buồng lái và mang ra 2 chiếc ống nhòm.

Giờ thì họ đã nhìn rõ rồi. Một con tàu đánh cá, dài tầm 30 mét, sàn thấp để dễ thu lưới, mũi cao để lướt đỉnh sóng. Cột khói đen đặc bốc lên ở đuôi tàu, đằng sau đài chỉ huy và cần cẩu kéo lưới. Thấp thoáng ngọn lửa. Trên bong tàu, tầm chục người từ thủy thủ đoàn đang cố gắng dập lửa một cách hỗn loạn.

Hạm đội đã được huấn luyện tình huống khi gặp một con tàu bị nạn. Đầu tiên họ kiểm tra xem có tàu nào ở gần đến ứng cứu không? Nếu không, họ sẽ khuyếch đại các tín hiệu cấp cứu và hỗ trợ cứu nạn. Điều mà họ sẽ không làm, hoặc là chỉ làm khi không còn cách nào khác, là trực tiếp cứu nạn.

"Cô có nhìn thấy quốc tịch tàu không?", Hunt vừa hỏi vừa khởi động "cây" ra quyết định trong đầu mình.

Morris báo cáo không thấy bất cứ lá cờ nào cả ở mũi và đuôi tàu, rồi quay vào đài chỉ huy để kiểm tra với sĩ quan trực, một thanh niên béo tốt có những lọn tóc vàng mịn, có nhận được tín hiệu cứu nạn nào gần nhất không.

Sĩ quan trực kiểm tra sổ trực ban, kết nối với trung tâm thông tin chỉ huy, bộ não điện tử của tàu ở tầng dưới, và kết luận không phát hiện được tín hiệu cấp cứu nào. Trước khi Morris ra lệnh cho sĩ quan phát tín hiệu cấp cứu hộ tàu cá, Hunt đã bước vào và ngăn cô lại.

"Chúng ta sẽ chuyển hướng để cứu họ!" Hunt ra lệnh.

"Chuyển hướng?" Morris thốt lên kinh ngạc. Đến nỗi tất cả trên cầu tàu đều xoay về phía chỉ huy của mình. Họ hiểu rất rõ lang thang ở đây là rất dễ va chạm với tàu của Hải quân Trung quốc. Nhưng thủy thủ đoàn được huấn luyện tốt, họ đã tập trung ở phòng họp và đợi lệnh.

"Chúng ta thấy một con tàu có vẻ như đang gặp nạn, nhưng không treo cờ hiệu và không gửi tín hiệu cầu cứu. Có gì đó không ổn!"

Morris ra lệnh rõ ràng cho thủy thủ đoàn, như một dàn hợp xướng mà cô đã tập luyện nhiều năm mà chưa bao giờ được biểu diễn. Các thủy thủ tản ra khắp nơi, tìm thiết bị cứu hộ, đeo mặt nạ chống độc, áo chống cháy, đóng các cửa, kích hoạt hệ thống chiến đấu, bao gồm bộ máy tàng hình che dấu sóng hồng ngoại và rada của tàu.

Trong khi John Paul đổi hướng tiến gần tới tàu cá bị nạn thì Levin và Hoon vẫn tiếp tục hành trình bảo vệ tự do hàng hải. Khoảng cách giữa chúng và soái hạm bắt đầu nới rộng. Hunt vào phòng chỉ huy, đánh điện mật cho Sở chỉ huy Hạm đội Bảy tại Yokosuka. Kế hoạch của họ có sự thay đổi.

04:47 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Tiến sĩ Sandeep "Sandy" Chowdhury, trợ lý cố vấn An ninh Quốc gia, ghét ngày thứ Hai thứ hai và thứ tư hành tháng. Vào ngày đó, theo thỏa thuận ly hôn, con gái 6 tuổi của ông Ashni, sẽ về với mẹ. Vấn đề là ở chỗ phải đến cuối buổi học mới bàn giao, nên ông sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi việc có thể xảy ra vào một ngày lạnh lẽo này. Và trong ngày thứ Hai cụ thể hôm nay, ngày mà ông phải trực trong Phòng Tình huống của Nhà Trắng để theo dõi chuyến bay thử nghiệm nhạy cảm ở Eo Hormutz, ông phải gọi điện nhờ mẹ, bà Lakshmi Chowdhury đến căn hộ của ông ở Logan Circle. Bà đến trước khi mặt trời mọc để trông Ashni.

"Đừng quên điều kiện của mẹ đấy," bà dặn con trai đang thắt lại cà vạt. "Con không quên đâu, con sẽ quay lại đúng giờ để đón Ashni". Điều kiện của bà mẹ là bà không muốn nhìn thấy mặt con dâu cũ Samantha, người từ vùng Vịnh Texas, mà bà coi là nhà quê. Bà không thích ngay từ ngày đầu nhìn thấy dáng vẻ mảnh mai, tóc vàng cắt kiểu con trai của cô ta. Kiểu MC truyền hình Ellen Degeneres khốn khổ mà bà không thể hiểu nổi.

Sự xấu hổ vì độc thân và phải nhờ vả mẹ ở tuổi 44 của ông biến mất khi ông rút tấm thẻ có thể ra vào khắp nơi ở nhà trắng dí vào mặt các mật vụ bảo vệ ở cổng Tây Bắc. Một cặp vợ chồng chạy bộ buổi sáng dừng lại ngắm nghía để đoán xem ông là nhân vật nào. Chỉ trong 18 tháng gần đây, khi ông bắt đầu nhận vị trí ở Cánh Tây của Nhà Trắng, mẹ ông mới bắt đầu đính chính khi mọi người nhầm con trai bà, Tiến sĩ (Dr) Chowdhury là bác sĩ y khoa (Medical Doctor)

Mẹ ông đòi đến nơi làm việc mấy lần, nhưng ông từ chối. Nghe thì oách, chứ văn phòng thực tế bên Cánh Tây chỉ là 1 cái ghế dán mặt vào tường hầm đông đặc nhân viên. Hôm nay ông đến sớm, tận hưởng sự vắng vẻ. Chưa ai đến văn phòng khi tuyết gần như làm tê liệt thủ đô. Ông rút ngăn kéo, lấy ra một thanh kẹo năng lượng nhàu nhĩ nhưng vẫn có vẻ ăn được, cầm cốc café đi qua cánh cửa cách âm của Phòng Tình huống.

Ông có một chỗ ngồi có màn hình cài sẵn, ở đầu bàn họp. Đằng kia phòng là màn hình LED lớn có bản đồ các lực lượng quân sự của Mỹ ở hải ngoại, với đường liên lạc video mã hóa với chỉ huy sở Phía Nam, Trung tâm, Phía Bắc và Còn lại. Ông tập trung vào Bộ chỉ huy Ấn Độ-Thái Bình Dương, khu vực rộng lớn và quan trọng nhất, chiếm 40% diện tích bề mặt trái đất, mặc dù đa phần là đại dương.

Người báo cáo là Chuẩn Đô đốc John T. Hendrickson, một chỉ huy tàu ngầm hạt nhân mà Chowdhury có quen biết, mặc dù chưa làm việc trực tiếp. Trợ tá cho đô đốc là 2 sĩ quan, một nam một nữ đều cao hơn hẳn ông ta. Đô đốc và Chowdhury đều làm luận văn Tiến sĩ tại Trường Luật và Ngoại giao Fletcher 15 năm trước. Nhưng không có nghĩa họ là bạn của nhau vì chỉ trùng nhau một năm. Chow biết đến Hendrickson vì năng lực của ông này. Chỉ cao khoảng 1m65, ông này như được sinh ra cho tàu ngầm. Óc suy đoán và phân tích của ông cũng rất phù hợp cho binh chủng hải quân đặc biệt này. Hendrickson hoàn thành luận văn tiến sĩ trong 3 năm (trong khi Chow mất 7 năm), tiện thể dẫn dắt đội softball của Fletcher 3 lần vô địch Boston, mang lại cho ông tên lóng "Bunt-Húc"

Chow suýt nữa thì gọi Hendrickson bằng tên lóng, nhưng kịp dừng lại. Cần nghiêm túc. Màn hình lấp lánh chỉ ra những vị trí tiền phương của quân đội Mỹ. Một nhóm tàu đổ bộ ở Aegean, nhóm tàu sân bay tại Tây Thái Bình dương, 2 tàu ngầm nguyên tử dưới lớp băng Bắc cực, một vòng các căn cứ từ Tây sang Đông bảo vệ Trung Âu khỏi sự xâm lược của Nga từ gần 100 năm nay. Hendrickson nhanh chóng tập trung vào 2 sự kiện quan trọng, một có kế hoạch từ lâu và một đang bất ngờ xảy ra.

Sự kiện đươc lên kế hoạch là việc thử nghiệm hệ thống chế áp điện tử trên F35 tàng hình. Thử nghiệm đang diễn ra và kết quả sẽ có sau vài tiếng nữa. Phi cơ cất cánh từ tầu George Bush ở Vịnh Arab và "đã biến mất trong không phận Iran 4 phút", Hendrickson nhìn đồng hồ rồi giải thích dài dòng về thế nào là chế áp điện tử, bí mật tuyệt đối ra sao...

Chỉ sau vài câu, Chow đã thấy hoang mang. Ông không có năng lực tập trung vào chi tiết, nhất là các vấn đề kỹ thuật. Bởi thế mà ông đi vào chính trị. Cũng bởi thế mà tại sao Hendrickson, rất thông minh, lại phải làm việc và báo cáo cho ông, điều mà nhiều sĩ quan ở Nhà trắng lấy làm khó chịu thừa nhận. Tài năng của Chow là trực giác tìm ra lời giải tốt nhất trong hoàn cảnh xấu. Ông đã bắt đầu sự nghiệp chính trị với tổng thống một nhiệm kỳ Pence. Ai có thể nói ông không phải là người sống sót.

"Tình huống thứ hai đang diễn ra", Hendrickson báo cáo tiếp. "Tàu chỉ huy John Paul Jones đã chuyển hướng khỏi nhiệm vụ tuần tra bảo đảm hàng hải ở Trường Sa để ứng cứu một phương tiện bị nạn."

"Phương tiện gì vậy?" Chow hỏi. Ông ngả người trên ghế bành bọc da, chiếc ghế mà đích thân tổng thống sẽ dùng nếu bà ở đây, nhấm nháp thanh kẹo năng lượng.

"Chúng tôi chưa biết, đang đợi cập nhật từ Hạm đội Bảy"

Mặc dù Chow không theo kịp chi tiết của vụ chế áp tàng hình F35, ông hiểu rằng, việc một tàu khu trục trị giá 2 tỷ đô được điều để ứng cứu một con tàu ma trên lãnh hải mà Trung Quốc đang đòi chủ quyền, có khả năng gây rắc rối cho ông trong buổi sáng hôm nay. Trong mọi trường hợp, phá vỡ đội hình trên mặt biển không phải là một ý hay.

"Có vẻ không ổn, Bunt. Ai là chỉ huy tại thực địa?"

Hendrickson ngoảnh lại. Có vẻ như đô đốc nhận thấy sự khiêu khích của Chow khi dùng nickname cũ. Hai viên trợ lý tỏ ra e ngại, nhưng Hendrickson bỏ qua. "Tôi biết chỉ huy. Thuyền trưởng Sarah Hunt. Bà ấy rất có năng lực. Đỉnh cao mọi nhẽ."

"Thi sao?" Chow hỏi

"Thì chúng ta có thể không quá phải lo lắng cho bà ta."

15:28 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Thủy thủ đoàn John Paul Jones nhanh chóng triển khai mệnh lệnh hỗ trợ tàu cá. Hai xuồng bơm hơi được hạ thủy và áp sát mạn con tàu đang cháy. Viên thuyền phó tóc vàng chỉ huy tại chỗ và báo cáo qua radio cho Hunt và Morris đang quan sát từ cầu tàu. Cả hai vị chỉ huy đều tỏ ra thông cảm với chút lúng túng của viên sĩ quan mới này. Anh ta đang dùng 2 máy bơm và 2 vòi nước để dập đám cháy trên một con tàu xa lạ, ở vùng biển thù địch.

Thù địch, nhưng rất bình yên, như mặt kính lớn phản chiếu đám cháy đang xảy ra bập bùng khoảng 200m gần đó. Hunt bâng khuâng ngắm biển, tự hỏi đây có phải là lần cuối cùng mình thấy biển bình yên như thế này, hay ít nhất là lần cuối cùng từ đài chỉ huy một con tàu quân sự. Sau khi suy nghĩ một chút, bà quay sang ra lệnh cho sĩ quan trực, gửi tín hiệu cho hai chiếc khu trục hạm còn lại, yêu cầu bỏ kế hoạch, chuyển hướng đến đám cháy. Có lẽ cần bổ sung một chút hỏa lực.

Levin và Hoon quay đầu và tăng tốc, chỉ mấy phút sau đã chiếm lĩnh vị trí chiến đấu hỗ trợ John Paul đang lừ lừ tiến lại con tàu cháy. Chẳng mấy chốc, viên sĩ quan trẻ đã dập tắt lửa trên tàu cá và vui mừng báo cáo với chỉ huy. Hunt và Morris chúc mừng anh ta và ra lệnh lên tàu để đánh giá thiết hại. Anh vội vàng tuân lệnh, hay ít nhất là cố gắng tuân lệnh.

Thủy thủ đoàn của tàu cá tiếp đón những vị khách định lên tàu bằng những tiếng hét giận dữ. Một thành viên còn đi xa hơn, quăng cái móc lên đẩy thuyền bơm hơi ra. Hunt khá ngạc nhiên, không hiểu sao họ lại chống đối những người giúp đỡ như vậy. Qua radio, bà nghe thấy có vẻ như thuyền viên tàu đánh cá nói tiếng Hoa.

"Madam, có lẽ chúng ta kệ họ đi. Có vẻ họ không cần sự giúp đỡ nữa." Morris đề nghị.

"Tôi thấy điều đó, Jane. Nhưng vấn đề là tại sao họ lại làm như vậy?"

Bà thấy rõ hai bên đang chỉ trỏ buộc tội nhau một cách hỗn loạn. Tại sao họ lại chống đối nhỉ. Bà hiểu quan điểm của Morris: mỗi phút chần chừ là tăng khả năng va chạm với hải quân Trung quốc, làm hỏng nhiệm vụ của họ. Nhưng chẳng phải nhiệm vụ của cuộc tuần tra là bảo đảm vùng biển này an toàn để di chuyển? 10 năm hoặc thậm chí mới chỉ 5 năm trước, các mối đe dọa nhỏ hơn nhiều. Những hiệp ước từ thời chiến tranh lạnh vẫn được tuân thủ. Nhưng giờ đã khác. Và khi ngắm chiếc tàu cá và thủy thủ đoàn bướng bỉnh này, trực giác mách cho Sarah Hunt rằng bản thân con tàu này là một mối đe dọa.

"Thuyền trưởn Morris, hãy áp sát mạn tàu cá. Nếu chúng ta không thể lên được từ thuyền hơi. Chúng ta sẽ lên từ tàu khu trục."

Morris ngay lập tức phản đối: thứ nhất, mất thời gian là tăng khả năng va chạm với kẻ thủ, thứ hai, áp sát mạn có thể gây nguy hiểm cho khu trục hạm "có giời mới biết trên tàu có có gì."

Hunt kiên nhẫn lắng nghe. Bà có thể cảm thấy thủy thủ đoàn vẫn đang làm việc, cố gắng bỏ qua sự bất đồng giữa hai vị chỉ huy. Sau đó bà nhắc lại mệnh lệnh và Morris chấp hành.

Khi John Paul tiến lại gần, Hunt có thể nhìn thấy tên con tàu Wen Rui, xuất phát từ Quảng Châu, một cảng nằm trên eo biển Đài Loan. Các thủy thủ quăng móc lên con lươn tàu và dùng cáp thép ép con tàu cá vào sườn. Hai chiếc tàu kèm nhau rẽ sóng như một chiếc mô tô và cái thùng ngang bướng. Quá nguy hiểm. Các thủy thủ của khu trục hạm yên lặng quan sát, có vẻ không đồng tình với việc chỉ huy của họ mạo hiểm cả một con tàu với một nhóm đánh cá người Hoa đang bị kích động. Nhưng không ai nói thành lời mong muốn để vị tư lệnh của họ hãy quên linh cảm đi, và đưa họ về vùng nước an toàn.

Cảm thấy sự bất đồng, Hunt tuyên bố là bà sẽ xuống bong. Mọi người nhớn nhác.

"Madam, bà định đi đâu?" Moris phản đối, phẫn nộ khi thấy vị chỉ huy định bỏ rơi mình trong tình huống nhạy cảm này.

"Tôi sẽ sang Wen Rui. Tôi muốn trực tiếp kiểm tra."

Và bà làm thế thật, cầm lấy khẩu súng lục từ viên sĩ quan tùy tùng đang kinh ngạc, đút vào bao, bỏ qua cái chân đau bỗng nhói lên. Khi bà đặt chân lên tàu cá, lính của bà đã bắt giữ gần chục thủy thủ đoàn của Wen Rui. Họ bị bắt ngồi xếp bằng trên sàn tàu, mũ sụp xuống, quần áo lấm lem dầu mỡ, hai tay bị còng ra sau, dưới họng súng giám sát. Thấy Hunt, một tù nhân, mặt mày nhẵn nhụi, mũ mão chỉnh tề, đứng dậy. Anh ta không khiêu khích, thậm chí ngược lại, mở to mắt. Hunt lập tức nhận ra anh ta là truyền trưởng của Wen Rui.

Viên sĩ quan chỉ huy đổ bộ, báo cáo là họ đã lục soát con tàu và phát hiện ra một khoang chống nước, có cửa bọc thép, bị khóa và thủy thủ đoàn từ chối mở. Họ đã mang máy hàn đến và phá cửa trong 15 phút.

Người tù mặt cạo nhẵn nhụi, thuyền trưởng của Wen Rui nói bằng một thứ tiếng Anh rất nặng:

"Bà là chỉ huy ở đây?"

"Ông nói được tiếng Anh à?"

"Có phải bà là chỉ huy cao nhất ở đây không?"

Viên thuyền trưởng nhắc lại, có vẻ như không tự tin lắm vào ý nghĩa của những từ mà chắc là chắc anh học thuộc đã lâu.

"Tôi là thuyền trưởng Sarah Hunt, Hải quân Hoa kỳ", Hunt đặt tay lên ngực, trả lời "Đúng, đây là hải đội của tôi."

Anh ta gật đầu, xuôi vai xuống như bỏ được gánh nặng. "Tôi bàn giao quyền chỉ huy lại cho bà", sau đó quay lưng lại với Hunt. Trông như một cử chỉ vô lễ. nhưng thực tế là anh ta xòe bàn tay đã bị còng, trong đó có 1 chiếc chìa khóa mà anh ta đã giữ từ đầu, giờ giao lại cho Hunt.

Hunt cầm lấy chìa khóa từ bàn tay mềm mại, không chai sạn như dân đánh cá, đi xuống đuôi tàu, tra khóa và mở tung khoang tàu.

"Chúng ta có gì vậy, madam?" Viên sĩ quan tùy tùng đứng ngay sau bà hỏi.

"Christ, tôi không biết." Hunt trả lời, nhìn chằm chằm vào dãy màn hình plasma và các ổ cứng bé tí đang nhấp nháy.

13:47 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORTMUZ

Khi Wedge chuyển sang chế độ lái bằng tay, các nhà thầu của Lockheed từ tàu George Bush ngay lập tức tra vấn, liệu mọi chuyện có ổn ko? Anh không muốn trả lời, ít nhất là ban đầu. Họ vẫn có thể theo dõi và thấy anh đang bám sát kế hoạch bay, quãng 50 hải lý phía Tây căn cứ hải quân Bandar Abbas của Iran. Ít ra là họ có thể thấy kỹ năng bay của anh chẳng kém gì máy tính.

Bỗng chiếc F35 rơi vào vùng nhiễu động, khá mạnh. Wedge có thể cảm thấy sự rung động mạnh trên cần lái, trên chân anh đang đặt trên chân chân lái, lan khắp đôi vai. Nhiễu động có thể làm phi cơ lệch hướng, rơi vào lớp phòng không tiên tiến vòng ngoài của Tehran, mà ngay cả hệ thống tàng hình của F35 có thể cũng chưa đủ.

Thời cơ đây rồi, anh nghĩ.

Hay là cũng gần như thế. Bản năng và kinh nghiệm nuôi dưỡng từ 4 thế hệ Mitchell, đã giúp anh hành động chính xác, vượt 7km với tốc độ ~ 1400km/h, lệch 28 độ so với hành trình, đưa phi cơ ra rìa nhiễu động. Tất cả xảy ra chỉ trong 4 giây, nhưng đó là thời khắc sung sướng thầm kí mà anh và tổ tiên đang theo dõi anh từ trên cao, chờ đợi đã lâu.

Nhiễu động biến mất và phi cơ trở lại cân bằng. Các nhà thầu Lockheed lại ồn ã gọi, yêu cầu anh chuyển lại sang chế độ lái tự động. "Roger" Wedge cuối cùng cũng trả lời, "sẽ kích hoạt chế độ lái tự động". Anh vươn tay nhấn một cái nút có vẻ như vô hại. Phi cơ rùng mình, như kiểu tàu hỏa khớp vào đường ray, F35 chuyển sang chế độ lái tự động.

Wedge đột nhiên thèm thuốc lá. Giống như ông cố Pappy xưa. Nhưng anh phải hoãn cái sự sung sướng đó lại đến sau buổi báo cáo hành trình, mặc dù bao thuốc đang cộm lên bên túi ngực trái áo bay. Hạ cánh với buồng lái ám khói Malboro có lẽ là hơi quá đáng với cấp trên của anh và các nhà thầu của Lockheed. Anh nhìn đồng hồ và tính toán rằng mình sẽ về kịp ăn tối trong nhà ăn dành cho phi công ở đầu hàng không mẫu hạm. Anh như thấy đang ngoạm vào cái bánh kẹp 3 tầng ngon "đốn tim" có phủ trứng rán ở trên.

Trong lúc anh đang mơ màng về thuốc lá và bữa tối, chiếc F-35 bị lệch ra khỏi hành trình, thẳng hướng Bắc vào không phận Iran. Thay đổi nhẹ nhàng đến mức mà Wedge không hề nhận ra cho đến khi có một loạt những thông điệp báo động hoảng hốt từ Bush.

"Hãy bật hệ thống điều khiển máy tính của anh lên"

Wedge chạm tay vào màn hình máy tính. "Hệ thống máy tính vẫn đang hoạt động mà... Gượm đã, đợi tôi khởi động lại."

Trước khi Wedge bắt đầu khởi động lại máy tính, anh chợt nhận ra máy tính đã bị đơ. "Các thiết bị điện tử không hoạt động. Tôi sẽ điều khiển bằng tay."

Anh kéo cần lái, đạp ga. Nhưng phi cơ không đáp ứng.

Chiếc F35 từ từ mất độ cao. Cố gắng một cách hoảng hốt, gần như giận dữ, anh kéo mạnh các cần điều khiển, bóp chặt như muốn giết chiếc phi cơ thân yêu. Các mệnh lệnh từ George Bush đã không còn là mệnh lệnh mà là những lời tuyệt vọng cầu xin Wedge hãy tìm ra vấn đề.

Nhưng anh không thể.

Anh không biết cái gì hoặc ai đang điều khiển chiếc máy bay của mình.

07:23 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow ăn hết cái kẹo, thêm 2 cốc café mà thông tin vẫn không ngừng cập nhật. Đầu tiên là John Paul thông báo phát hiện một hệ thống công nghệ tiên tiến trên tàu cá mà họ đã đổ bộ và bắt giữ. Commodore Sarah Hunt khẳng định trong vòng 1 tiếng họ có thể tải toàn bộ dữ liệu sang hệ thống máy tính trên các tàu trong hải đội của bà để phân tích tiếp. Trong khi Chow đang bàn bạc cân nhắc các phương án với Hendrickson thì họ nhận được thông tin từ sở chỉ huy Hạm đội Bảy. Một hải đội, ít nhất 6 tàu hải quân Trung quốc cùng với hàng không mẫu hạm Trịnh Hòa đã đổi hướng tiến thẳng đến vị trí của John Paul Jones.

Thông tin thứ ba là khó hiểu nhất. Chiếc F-35 mà Chow phải đến Phòng Tình huống buổi sáng lạnh lẽo đầy tuyết này để theo dõi, đã bị mất kiểm soát. Phi công đã thử tất cả các phương án dự phòng, nhưng đến tận giờ vẫn chưa điều khiển được phi cơ.

"Nếu phi công không điều khiển phi cơ. Chúng ta cũng không điều khiển nó từ xa từ tàu sân bay, vậy thì ma quỷ nào đang lái nó cơ chứ." Chow quát lên với Hendrickson.

Một nhân viên cấp thấp của Nhà trắng tiến vào, cắt ngang họ. "Tiến sĩ Chow. Tùy viên quân sự đại sứ quán Trung quốc muốn nói chuyện với ông."

Chow hoài nghi liếc sang Hendrickson, như muốn vị chuẩn đô đốc giải thích cho ông toàn bộ những câu chuyện này chỉ là một phần của một trò đùa tinh quái. Nhưng có vẻ không phải thế. "Ok, nối máy cho tôi," Chow với tay cầm điện thoại.

"Không, thưa ngài, đô đốc Lin Bao đang ở đây.", nhân viên trẻ nói.

"Cái gì! Ông ta đang ở đây, ở Nhà Trắng? Cô đùa à!", Hendrickson kinh ngạc.

Nữ nhân viên lắc đầu. "Không, thưa ngài, ông ta đang ở cổng Tây bắc."

Chow và Hendrickson đẩy cửa Phòng Tình huống, chạy dọc hành lang đến cửa sổ gần nhất và nhìn qua rèm cửa. Đô đốc Lin Bao trong quân phục màu xanh với các ngù vai màu vàng, đang kiên nhẫn đứng chờ cùng ba sĩ quan và một nhân viên dân sự Trung quốc ở cổng Tây bắc, giữa đám khách du lịch. Đây là một đoàn đại biểu nhỏ. Người Trung quốc chưa bao giờ kích động như thế này.

"Chúa ơi," ông nghĩ thầm.

"Chúng ta không thể cho họ vào," Hendrickson nói. Các mật vụ giải thích cho họ là quá trình cấp phép cho các quan chức Trung quốc vào Nhà trắng phải mất ít nhất là 4 tiếng, trừ khi được Tổng thổng, Tổng tham mưu trưởng liên quân hoặc Cố vấn an ninh quốc gia đích thân phê duyệt. Mà cả ba đều đang ở nước ngoài. TV lúc đó đang chiếu cảnh cuộc họp G7 ở Munich nơi đa số lãnh đạo an ninh quốc gia đang tham dự. Hiện tại Chow là quan chức cao cấp nhất của Hội đồng an ninh quốc gia.

"Mẹ kiếp, để tôi ra." Chow nói.

"Ông không thể ra đó được," Hendrickson nói

"Nhưng ông ta không thể vào đây."

Hendrickson không cãi được. Chow tiến ra cửa, không kịp cầm áo khoác mặc dù trời khá lạnh. Ông hy vọng là thông điệp gì đó mà Lin Bao mang đến sẽ không quá dài. Khi ông bước ra ngoài, điện thoại cá nhân bắt được sóng, tin nhắn đến tới tấp, toàn của mẹ ông cả. Lần nào cũng thế, khi trông hộ con gái ông, bà cũng đặt ra vô số câu hỏi để nhắc nhở về công lao của bà đang giúp ông.

Mặc dù khá lạnh, Lin Bao cũng không mặc áo khoác. Chỉ có quân phục và một ngực huân chương, ngù vai vàng và mũ sĩ quan hải quân cầm tay. Ông ta nhẩn nha dùng ngón tay nhón kẹo từ một gói M&M và nói với Chow đang đi qua cái cổng sắt: "Tôi đã bị M&M của các ông khuất phục. Đó là một cuộc can thiệp quân sự, ông biết không? Các lính Mỹ trong thế chiến II, nhất là ở Nam Thái bình dương, đòi hỏi một thứ kẹo socola không bị chảy, hay đúng hơn chỉ có thể tan chảy trong mồm họ."

Lin Bao liếm đầu ngón tay, nơi những viên kẹo phai màu, để lại những vết chấm lốm đốm.

"Chúng tôi có vinh dự gì đây, thưa đô đốc?" Chow hỏi

Lin Bao thò tay loay hoay trong gói kẹo, có vẻ như ông ta đang muốn tìm một viên có màu cụ thể mà không tìm được. Ông ta vừa nói vừa nhìn vào gói kẹo: "Các ông có một thứ của chúng tôi, một con tàu nhỏ, tên là Wen Rui. Chúng tôi muốn lấy lại." Rồi lấy ra một viên kẹo màu xanh, ngắm nghía nó như thể ông ta lấy nhầm, rồi vẫn đưa vào mồm.

"Chúng ta không thể nói chuyện ở đây." Chow nói.

"Vậy ông có thể mời tôi vào trong được không?", đô đốc hỏi, hất đầu về phía Cánh Tây, biết chắc là không thể làm được. "Bởi thế, tôi nghĩ, cách duy nhất là chúng ta nói chuyện ở đây."

Chow bắt đầu lạnh, ông kẹp hai bàn tay mình để sưởi ấm.

"Tin tôi đi, tốt nhất là các ông trao trả lại Wen Rui cho chúng tôi." Lin Bao nhấn mạnh.

Mặc dù Chow đã từng làm cho tổng thống Mỹ phi đảng phái đầu tiên trong thời hiện đại, ông biết rằng bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Nam Trung hoa là chính sách nhất quán của các đời tổng thống Mỹ dù là Cộng hòa hay Dân chủ trước đó. Chow nhắc lại quan điểm đó cho Lin Bao đang tỏ ra thiếu kiên nhẫn.

"Ông không có nhiều thời gian đâu," Lin Bao nói với Chow, vừa tìm cách moi kẹo từ trong gói M&M.

"Đây là một lời đe dọa?"

"Không hề," Lin Bao lắc đầu buồn bã, thất vọng vì Chow lại nghĩ như vậy. "Ý tôi là mẹ ông đang nhắn tin cho ông kìa. Có phải là ông cần trả lời không? Kiểm tra đi. Hình như bà ấy đang muốn đưa Ashni ra ngoài ngịch tuyết mà không tìm thấy áo khoác của con bé."

Chow rút điện thoại, liếc nhìn tin nhắn. Đúng là những gì Lin Bao nói.

"Chúng tôi đang cử đội tàu tới ngăn chặn John Paul Jones, Carl Levin và Chung-Hoon," Lin Bao liệt kê tên từng con tàu để chứng tỏ là ông ta biết điều đó, cũng như ông ta biết nội dung các tin nhắn gửi vào điện thoại của Chow. "Nếu các ông định làm lớn chuyện, đó sẽ là sai lầm!"

"Các ông có gì để đổi lấy Wen Rui không?"

"Chúng tôi sẽ trả lại F-35"

"F-35? Các ông làm gì có F-35."

"Có lẽ ông cần phải quay lại Phòng Tình huống để kiểm tra", Lin Bao bình tĩnh nói và đổ viên kẹo cuối cùng ra lòng bàn tay. Đó là viên màu vàng. "Chúng tôi cũng có M&M, nhưng ở đây ngon hơn. Ở Trung quốc có vẻ họ không tìm được công thức đúng." Ông ta bỏ viên kẹo vào mồm, lim dim mắt để thưởng thức rồi nhìn thẳng vào Chow: "Các ông cần phải trả lại Wen Rui cho chúng tôi."

"Tôi không cần phải làm gì cả," Chow khẳng định!

Lin Bao lắc đầu thất vọng, "Vậy hả, tôi hiểu." Ông ta vò gói giấy kẹo lại và vứt xuống vỉa hè.

"Đô đốc, mời ông nhặt lên cho." Chow nói

Lin Bao thờ ơ nhìn xuống "Nếu không thì sao?"

Trong lúc Chow đang suy nghĩ trả lời thế nào, thì viên đô đốc đã quay gót bước qua đường giữa dòng xe cộ đông đúc cuối buổi sáng.

16:12 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Một cặp chiến đấu cơ bỗng đâu xuất hiện. Tiếng nổ siêu thanh của chúng làm rung chuyển bong John Paul làm tất cả bất ngờ. Commodore Hunt chúi đầu xuống theo bản năng. Bà vẫn đang ở trên bong của Wen Rui, khám phá hệ thống điện tử họ mới phát hiện một giờ trước. Thuyền trưởng của Wen Rui cười toe toét, cứ như là anh ta đang đợi phi cơ đến. "Hãy đưa thủy thủ đoàn của Wen Rui xuống hầm tàu." Hunt ra lệnh cho viên sĩ quan cận vệ. Rồi quay trở về đài chỉ huy, gặp Morris đang tìm cách kiểm soát tình hình.

"Chúng ta thấy gì rồi?" Hunt hỏi

Morris dán mắt vào màn hình Aegis, giờ phát hiện ra không chỉ hai chiến đấu cơ mà còn ít nhất là 6 tàu chiến chưa rõ nguồn gốc đồng loạt xuất hiện. Có vẻ như cả một hạm đội, thỏa thuận cùng lúc bỏ mặt nạ ra cho mọi người nhận dạng. Chúng ở cách khoảng 15km, ở rìa của tầm nhìn bằng mắt thường. Con tàu chạy nhanh và gần nhất trên màn hình Aegis, có vẻ như là một khu trục hạm hoặc khinh hạm.

Hunt nhấc ống nhòm quét đường chân trời. Màu xám của chiếc khinh hạm đầu tiên xuất hiện.

"Đây rồi," bà nói!

Levin và Hoon cũng thông báo họ đã phát hiện bằng mắt thường, hai rồi 3 và cuối cùng là 5 tàu. Tất cả đều là của Hải quân Quân đội Trung quốc. Từ khinh hạm cho đến tàu sân bay Trịnh Hòa, hoành tráng không kém chiến hạm nào của Hạm đội Bảy. Các tàu Trung quốc bao vây 3 tàu của Hunt đang vây quanh Wen Rui, hình thành hai vòng tròn, chuyển động theo hướng đối nghịch nhau.

Liên lạc viên đeo tai nghe ở góc của đài chỉ huy, đang vẫy tay nài nỉ Hunt. "Gì thế?" Viên thủy thủ đưa cho bà tai nghe. Bà có thể nghe thấy một giọng rất rõ ràng vang lên trên nền tiếng lao xao: "Gửi chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Đây là Chuẩn đô đốc Ma Qiang, chỉ huy hải đội Trịnh Hòa. Chúng tôi yêu cầu các ông phải thả tàu cá mà các ông đang bắt giữ và rời khỏi hải phận chúng tôi ngay lập tức." Sau đó là một khoảng lặng. Sau đó thông điệp được phát lại.

Hunt thầm nghĩ, họ sẽ phải nhắc lại thông điệp này bao nhiêu lần. Và sau bao nhiêu lần không được trả lời, thì họ sẽ hành động.

"Liệu tôi có thể nói chuyện an toàn với Sở chỉ huy Hạm đội Bảy?" Hunt hỏi viên sĩ quan liên lạc. Anh này gật đầu và bắt đầu nối các dây xanh đỏ vào đằng sau chiếc laptop cổ điển thường được dùng để theo dõi thời gian trong các video games. Trông có vẻ thô sơ, nhưng đó chính là cách kết nối an toàn nhất.

"Họ muốn gì vậy?" Morris hỏi, trống rỗng nhìn sáu con tàu đang bao vây mình.

"Họ muốn đòi lại tàu đánh cá và tất cả các công nghệ trên đó, và muốn chúng ta rời khỏi vùng lãnh hải này."

"Chúng ta sẽ phải làm gì?"

"Tôi cũng chưa biết nữa" Hunt trả lời, liếc nhìn sỹ quan liên lạc đang loay hoay kết nối và đợi dial tone. Trong khi chờ đợi, bà bắt đầu cảm thấy đau ở chân do leo trèo xung quanh tàu. Bà thò tay vào túi quần, chạm vào nỗi đau và sờ thấy bản quyết định của Hội đồng Y khoa. "Đã liên lạc được với hạm đội chưa?"

"Chưa được, thưa bà."

Hunt mất kiên nhẫn nhìn đồng hồ. "Vậy thử gọi Levin hoặc Hoon, xem họ có kết nối được không?"

Viên sĩ quan liên lạc tròn mắt kinh ngạc nhìn bà, như muốn tìm sự dũng cảm để nói lên một sự thật khủng khiếp nào đó với chỉ huy của mình.

"Gì thế?"

"Tôi không tìm được gì?"

"Thế nào là không tìm được gì?", Hunt nhìn Morris, cũng đang lo lắng không kém.

"Tất cả các kênh liên lạc đều bị cắt đứt. Tôi không thể kết nối được với Levin và Hoon. Không nối được với ai cả."

Hunt tháo máy bộ đàm bà vẫn đeo bên hông, vừa mới dùng để liên lạc với đài chỉ huy khi bà xuống bong Wen Rui. Bà ấn đi ấn lại bàn phím. "Không tìm thấy một kênh nào sao?" Lần đầu tiên giọng nói đã phản bội bà, thể hiện dù chỉ là một chút dấu hiệu của tuyệt vọng.

"Chỉ có kênh này" viên sĩ quan đưa tai nghe mà anh ta đang nghe, vẫn là giọng nói rành rọt đó:

"Gửi chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Đây là Chuẩn đô đốc Mã Giang, chỉ huy hải đội Trịnh Hòa. Chúng tôi yêu cầu các ông phải thả tàu cá mà các ông đang bắt giữ và rời khỏi hải phận chúng tôi ngay lập tức."

14:22 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORMUZ

Tất cả các màn hình đều đen ngòm. Hệ thống điều khiển. Hệ thống hỏa lực. Hệ thống dẫn đường. Các kênh liên lạc đã bị gián đoạn mấy phút trước, làm Wedge cảm thấy bình tĩnh lạ lùng. Không ai gọi anh từ Bush cả. Chỉ một mình anh ở đây, với một vấn đề không thể tưởng tượng nổi.

Phi cơ vẫn tự bay. Hay chính xác hơn có một lực vô hình nào đó đang điều khiển nó một cách nhẹ nhàng và chính xác. Có vẻ như nó không hạ độ cao nữa. Anh ước tính là mình đang bay vòng tròn ở độ cao khoảng 2000m, với tốc độ tầm 900-1000km/h.

Anh lôi tablet có chứa bản đồ chi tiết của khu vực ra. Kiểm tra la bàn trên chiếc đồng hồ Breitling của bố để lại. Đối chiếu la bàn với bản đồ, anh tính ra chính xác vị trí của mình, đúng là phía trên Bandar Abbas, căn cứ quân sự lớn của Iran án ngữ cửa ngõ vùng Vịnh Pec-xich. Anh quan sát vùng đất hoang mạc phía dưới đang chậm rãi xoay tròn theo phi cơ.

Tất nhiên là có khả năng là chiếc F-35 bị trục trặc kỹ thuật. Nhưng xác suất đó là vô cùng nhỏ và nhỏ dần sau mỗi phút. Wedge tin rằng máy bay của mình đã bị chiếm quyền điều khiển và anh đã trở thành hành khách bất đắc dĩ và chút nữa sẽ bị ép hạ cánh xuống lãnh thổ Iran.

Tất cả đều không hoạt động. Hệ thống điều khiển. Vũ khí. Dẫn đường. Máy bay tự bay. Hay chính xác hơn là bị điều khiển bởi một thế lực vô hình. Thời gian không còn nhiều, anh chỉ còn nhiên liệu cho một giờ nữa. Nhưng anh vẫn còn một lựa chọn.

Khả năng là còn lâu anh mới có thể rít một hơi Malboro chào mừng ở đuôi tàu Bush. Anh thò tay xuống dưới giữa hai chân. Ở đó có một cần sơn sọc đen vàng, sẽ kích hoạt tên lửa phóng dù. Cái gì đến phải đến, anh gần như nói to, nghĩ đến bố, ông, rồi cụ mình và giật cần.

Nhưng không có gì xảy ra cả.

Hệ thống ghế phóng nhảy dù cũng đã bị tê liệt.

Động cơ của chiếc F-35 dịu xuống. Phi cơ bắt đầu mất độ cao, hạ cánh xuống Bandar Abbas theo hình xoắn ốc. Wedge cố gắng đạp chân ga, kéo tay lái, ôm cần lần cuối. Rồi rút khẩu súng ngắn trong túi áo bay. Trở đầu nòng, cầm nó như một cái rìu và bắt đầu đập phá các thiết bị trong buồng lái. Đầu tiên là cái hộp đen ở dưới đầu ghế vẫn không ngừng o o trong suốt thời gian khủng hoảng.

08:32 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chiếc Không lực 1, bay qua Đại Tây Dương, chở tổng thống từ cuộc họp G7 bị gián đoạn bởi khủng hoảng, dự kiến hạ cánh tại căn cứ không quân Andrew lúc 16h37. Khoảng 1h sau khi Chow thề với mẹ là sẽ về nhà đón con gái đưa sang vợ cũ. Vừa bước ra khỏi một cuộc khủng hoảng, ông lại rơi vào một tình huống bế tắc khác:

"Sandeep, tao không ngồi cùng phòng với con đàn bà đó đâu," Mẹ ông giận dữ, mặc cho ông van nài giúp đỡ. Khi mẹ ông hỏi lý do cái gì khiến ông không về được, ông không thể nói là Lin Bao đã đọc hết tin nhắn của mình. "Mẹ ơi, con xin mẹ, đây là vấn đề an ninh quốc gia đấy."

Ông cúp máy và quay vào Phòng Tình huống. Hendrickson và hai tay trợ lý đang ngồi một bên bàn, dán mắt vào bức tường đối diện. Lin Bao vừa gọi điện, thông báo thông tin còn đang trên đường từ tàu George Bush đến Trụ sở Hạm đội Năm ở Bahrain trước khi đến Trung tâm chỉ huy và Nhà Trắng: Lực lượng Vệ binh Cộng hòa Iran đã chiếm quyền kiểm soát và đã buộc hạ cánh chiếc F-35.

"Máy bay hiện đang ở đâu?"

"Ở Bandar Abbas"

"Phi công thế nào?"

"Đang ngồi trong buồng lái, vung vẩy súng lục"

"Anh ta ổn chứ?"

"Anh ta đang vung súng," Hendrickson nói rồi ngẫm nghĩ thêm về câu hỏi của Chow. Phi công an toàn, ít nhất là Iran và Trung quốc đang chưa sẵn sàng để giết anh ta. Lin Bao muốn một điều đơn giản: trao đổi. John Paul Jones vớ được một con tàu có giá trị, hay chính xác hơn là công nghệ trên đó – Wen Rui và Trung Quốc muốn thu hồi. Họ muốn dàn xếp một vụ trao đổi thông qua đồng minh của mình là Iran.

Trước khi Chow có thể ra quyết định gì đó, Lin Bao gọi lại. "Các ông đã nghiên cứu đề nghị của chúng tôi chưa?" Chow đang nghĩ đến một vấn đề lớn hơn. Từ giữa những năm 2020, khi Iran gia nhập "Một vành đai, một con đường" để ngăn chặn một thảm họa tài chính sau đại dịch Covid, họ đã giúp Trung Quốc khá nhiều về kinh tế và quân sự. Nhưng quan hệ đồng minh Trung-Iran thực chất là đến mức nào. Có bên thứ ba nào nữa không?

Chow không có thẩm quyền quyết định vụ trao đổi. Tổng thống sẽ quyết định bà ấy sẽ làm gì. Chow giải thích cho Lin Bao, thêm vào là tổng thống sắp về đến nơi. Lin Bao có vẻ không quan tâm: "Trong khi các ông đang giam giữ Wen Rui, chúng tôi buộc phải xem xét mỗi sự trì hoãn là một hành động gây hấn, vì các ông muốn tận dụng thời gian để khám phá công nghệ mà các ông đã chiếm giữ một cách phi pháp. Nếu sau một tiếng nữa, các ông không trao trả Wen Rui, chúng tôi và các đồng minh sẽ hành động."

Sau đó đường dây im bặt.

Đồng minh là ai? Họ định hành động gì? Lin Bao không nói. Không gì có thể làm được trong một giờ. Tổng thống đã nói rõ, bà không ưa tối hậu thư. Bà đã triệu tập Đại sứ Trung quốc vào buổi tối, nên sẽ không có quyết định gì trước đó, mà theo Lin Bao thì đã quá muộn. Trong lúc đánh giá tình hình, Hendrickson giải thích buồn bã cho Chow rằng lực lượng hải quân gần nhất mà Hoa Kỳ có được trong vòng một giờ để tiếp cận các tàu Trung Quốc là tàu ngầm nguyên tử Michelle Obama, đang theo dõi đoàn tàu thương mại Trung Quốc đi vòng quanh đồng bằng Bắc cực, trước đó bị đóng băng. Obama cũng theo dõi 2 tàu ngầm Nga cách đội thương thuyền độ 10 hải lý.

Trong lúc ngẫm nghĩ, Chow lại nhớ đến câu chuyện về Lincoln.

"Đấy là trong giai đoạn đen tối nhất của cuộc nội chiến", Chow kể cho Hendrickson, nhưng thực chất là nói với mình. "Bên Liên Bang đang thua liểng xiểng. Một vị khách rời Nhà Trắng về Kentucky có hỏi Lincoln là có tin gì tốt lành để ông ta mang về nhà. Lincoln kể cho vị khách cây chuyện một cao thủ cờ cỡ "độc cô cầu bại" thử đánh với máy chơi cờ và thua ba ván liên tiếp. Ông ta điên lắm, đứng phắt dậy đi vòng quanh cái máy nghiên cứu từng tí một. Và cuối cùng dừng lại chỉ tay vào cái máy rên lên: "Phải có một người ở trong đó." Lincoln dặn vị khách: "Thế đấy, dù tình hình có tệ thế nào, luôn phải có một người trong cái máy."

Điện thoại đổ chuông. Lại là Lin Bao.

15:17 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORMUZ

Wedge nổi cáu. Anh không thể dẹp được ý nghĩ mình bị phản bội khi phi cơ chạy trên đường lăn của Bandar Abbas. Anh không thể chọn được nơi hạ cánh, thậm chí không thể cởi mũ bay và tắt động cơ. Phi cơ đã phản bội anh hoàn toàn, làm anh cảm thấy xấu hổ. Anh đã kịp phá hủy cái hộp đen sau đầu bằng báng súng lục. Anh cũng đã đập nát hệ thống liên lạc và kiểm soát vũ khí. Anh lồng lộn trong buồng lái như một con thú bị bắt giữ.

Và anh vẫn tiếp tục làm thế sau khi hạ cánh.

Khi nắp buồng lái mở ra. Wedge đứng dậy và nã đạn liên tiếp vào bảng điều khiển. Anh cảm thấy hưng phấn, như một kỵ sĩ, nhả đạn vào đầu chiến mã đã từng trung thành với mình. Vài chục vệ binh cộng hòa đứng bao vây xung quanh, cố gắng hiểu sự náo loạn này. Ban đầu họ thận trọng giữ khoảng cách, không phải là sợ Wedge mà sợ hành động sai có thể làm hỏng chiến dịch cho đến bây giờ đang diễn ra mỹ mãn. Nhưng Wedge càng hung hăng đập phá, dẫm đạp các thiết bị, vung vẩy súng lục dọa nạt, càng khiến họ phải hành động. Nếu Wedge mà phá sạch các thiết bị, chiếc F-35 sẽ mất giá trị để đàm phán trao đổi.

Vị chỉ huy cao nhất tại trận, một viên chuẩn tướng, hiểu hành độnh của Wedge. Ông này cả đời đối mặt trực tiếp hoặc gián tiếp với người Mỹ. Ông cho khép chặt vòng vây dần dần. Wedge tiếp tục vung súng dọa nạt, nhưng anh biết rằng, mỗi lần anh vung lên, là một lần họ biết là anh sẽ không dùng nó, kể cả nếu nó còn đạn chứ không trống rỗng như bây giờ.

Viên chuẩn tướng, có bàn tay phải mất ngón út và ngón đeo nhẫn, đứng trên chiếc Jeep vẫy tay hét lên với Wedge. Tiếng Anh của ông ấy tệ như bàn tay ba ngón vậy, nhưng Wedge hiểu thông điệp: "Đầu hàng đi, ông sẽ được đối xử tốt."

Wedge không định đầu hàng mà không chiến đấu. Mặc dù anh cũng chưa biết sẽ chiến đấu với khẩu súng hết đạn như thế nào.

Viên tướng đã đến gần đến mức có thể nói trực tiếp mà không cần phải hét lên bắt Wedge đầu hàng. Anh đứng vụt dậy và lia khẩu súng về phía viên tướng. Khẩu súng xoay vòng bay như một chiếc bumerang. Viên tướng điềm tĩnh không hề chớp mắt, mặc khẩu súng liệng qua đầu, ra lệnh tấn công. Lính của ông ta xuống xe, tràn lên thùng xăng, cánh và buồng lái. Họ thấy Wedge đang ngồi trong tư thế chiến đấu, tay cầm cần lái, chân đặt trên bàn đạp, mắt nhìn đường chân trời, miệng vẫn đang ngậm điếu Malboro. Khi các vệ binh cộng hòa dí súng vào đầu, anh nhổ điếu thuốc ra khỏi buồng lái.

16:36 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Hệ thống liên lạc của hải đội đã bị cắt đứt trong 20 phút, tưởng như cả thế kỷ.

Hunt phải cho ba con tàu của mình liên lạc với nhau bằng cờ hiệu. Hóa ra đây là cách thức hiệu quả nhất để các thủy thủ phối hợp hành động với nhau ngay trước mũi hạm đội Trịnh Hòa đang bao vây. Thông tin duy nhất mà họ nhận được qua sóng vô tuyến vẫn là lời kêu gọi trả lại Wen Rui. Nó được nhắc đi nhắc lại trong khi Hunt và các cộng sự tìm mọi cách nhận thông tin từ Hạm đội Bảy để làm rõ tình huống đang ngày càng xấu đi này.

Sẽ không có thông tin nào cả. Hunt biết điều đó.

Bà cũng biết là điều đang xảy ra nằm trong một diễn biến rộng hơn mà bản thân bà không hiểu. Bà bị đặt vào một trò chơi mà đối thủ nhìn được toàn bàn cờ, còn bà chỉ nhìn thấy quân trước mặt. Thủy thủ đoàn của cả ba con tàu đều đang tập trung trong phòng chính. Viên sĩ quan tùy tùng đang cố gắng tải thông tin từ Wen Rui, hy vọng sẽ hoàn thành trong một giờ tới. Hunt giả thiết đối thủ của mình cũng biết điều đó, và điều gì phải xảy ra sẽ xảy ra trước khi hết một giờ đó.

Lại thêm 20 phút nữa. Morris, vừa từ Wen Rui về, bước lên cầu chỉ huy. "Họ tải sắp xong rồi. Có lẽ là 5 phút nữa. Khi đó chúng ta có thể quên Wen Rui đi và chuồn khỏi đây."

Hunt gật đầu, nhưng biết thừa là sự việc sẽ không diễn ra như vậy.

Bà không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng gì đi nữa, bà chỉ có đôi mắt để quan sát cái gì sẽ xảy ra chống lại mình. Biển vẫn lặng im như một tấm kính, như cả buổi sáng nay.

Hunt và Morris đứng cạnh nhau quan sát đường chân trời. Vì biển rất yên tĩnh, nên họ nhận ra hành động của kẻ thù rất nhanh, chỉ sau vài giây. Cái gì đó đang âm thầm lao tới như chớp dưới mặt biển: một quả thủy lôi

600 mét

500 mét

350 mét

Nó trỗi dậy rẽ sóng

Morris hét lên ra lệnh cho thủy thủ đoàn chuẩn bị va chạm. Còi báo động vang lên toàn tàu. Hunt, ngược lại, đứng im vào thời khắc quyết định này. Bà cảm thấy thư giãn một cách ngạc nhiên. Đối thủ đã đi trước. Giờ đến lượt bà. Nhưng quả thủy lôi này sẽ đâm vào John Paul hay Wen Rui? Ai là người tấn công? Sẽ chẳng bao giờ thống nhất được. Chiến tranh xảy ra vì những sự bất đồng đó. Ít người có thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra sau phát súng đầu tiên. Nhưng Hunt biết điều đó. Bà như nhìn thấy nhiều năm tới rõ ràng như quả thủy lôi giờ chỉ cách bà có gần 100 mét.

Ai có lỗi trong ngày hôm nay sẽ còn lâu mới được làm rõ. Chiến tranh sẽ xảy ra trước. Sau đó bên chiến thắng sẽ quyết định ai có lỗi. Đã là như thế và luôn là như thế. Đó là suy nghĩ của Hunt khi quả thủy lôi đâm vào.

17:13 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow ngả về phía trước, chống tay lên bàn hội nghị, vươn cổ về micro để ở giữa. Hendrickson ngồi đối diện, tốc ký lại cuộc gọi, trên máy tính. Họ nhận được lệnh từ Tổng tư lệnh và Trung tâm chỉ huy quốc gia trực tiếp từ Không lực 1. Trước khi đại sứ Trung quốc đến Nhà Trắng chiều nay, Cố vấn an ninh quốc gia đã vạch ra đường lối đàm phán tấn công mà bây giờ Chow đã truyền đạt cho Lin Bao

Nhưng đường dây vẫn im lặng

Chow liếc mắt nhìn Hendrickson. Ông này thò tay tắt mic và thì thào: "Ông nghĩ là họ đã biết chưa?" Chow lắc đầu không tin tưởng lắm. Sự kiện mà Hendrickson nhắc đến là: đã 40 phút qua, trụ sở Hạm đội Bảy ở Yokosuka mất mọi liên lạc với John Paul và các tàu trong hải đội.

"Xin chào?", Chow nói vào loa.

"Vâng, tôi đây" giọng Lin Bao vang lên quan đường dây. Có vẻ như ông ta mất kiên nhẫn vì bị bắt buộc phải tiếp tục cuộc đối thoại mà ông ta đã mệt mỏi trước đó. "Cho phép tôi nhắc lại quan điểm của các ông để chắc chắn là tôi hiểu đúng: hàng chục năm nay, hải quân các ông tự do đi lại trong vùng biển của chúng tôi, bay lượn trong không phận của các đồng minh của chúng tôi, và hôm nay bắt giữ một con tàu của chúng tôi. Và ông vẫn cho rằng, các ông là bên bị hại và chúng tôi phải nhân nhượng."

Căn phòng trở nên im lặng đến mức Chow nghe thấy tiếng dòng khí chuyển động trong những bóng đèn halogen trên đầu. Hendrickson đã kịp ghi lại những bình luận của Lin Bao và đang chuẩn bị gõ tiếp.

"Đây là quan điểm của chính quyền hiện tại, nhưng nếu các ông có đề xuất đối trọng, chúng tôi tất nhiên sẽ vui lòng xem xét." Chow thận trọng, nuốt nước bọt trước khi khi nói hết.

Sau đó là giọng bực tức của Lin Bao: "Chúng tôi có đề xuất đối trọng."

"Tốt quá," Chow xen vào, nhưng Lin Bao đã phớt lờ nói tiếp:

"Kiểm tra đi, ông sẽ thấy đề xuất trong máy tính của ông rồi đó."

Bỗng dưng điện mất. Tất cả tối sầm trong giây lát. Rồi lại có ngay. Nhưng Lin Bao đã không còn đó nữa. Chỉ có tiếng dial tone của điện thoại. Chow tìm cách bắt liên lạc với tổng đài Nhà Trắng còn Hendrickson login lại vào máy tính.

"Cái quái gì vậy?" Chow hỏi.

"Password của tôi bị vô hiệu hóa"

Chow đẩy Hendrickson sang một bên. Mật khẩu của ông ta cũng không làm việc nốt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#2034