214 bộ thủ qua thơ Phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Shū

气 – 風 – 雨 – 齊

Qì – fēng – yǔ – qí

鹿 – 馬 – 豕

Lù – mǎ – shǐ

生 – 力 – 隶

Shēng – lì – lì

网 – 舟

Wǎng – zhōu

黑 – 白 – 赤

Hēi – bái – chì

31. NỮ (女) con gái, NHÂN (儿) chân người

32. KIẾN (見) nhìn, MỤC (目) mắt, XÍCH (彳) dời chân đi

33. Tay cầm que gọi là CHI (支 )

34. Dang chân là BÁT (癶), cong thì là Tư (厶)

35. Tay cầm búa gọi là THÙ (殳)

36. KHÍ (气) không, PHONG (風) gió, VŨ (雨) mưa, TỀ (齊) đều

37. LỘC (鹿) hươu, MÃ (馬) ngựa, THỈ (豕) heo

38. Sống SINH (生), LỰC (力) khoẻ, ĐÃI (隶) theo bắt về

39. VÕNG (网) là lưới, CHÂU (舟) thuyền bè

40. HẮC (黑) đen, BẠCH (白) trắng, XÍCH (赤) thì đỏ au

Hắc-đen, Bạch-trắng, Xích thì đỏ au.

1. bộ Nhân ( vẽ hai chân của loài người). Có thể thấy điều này trong chữ Kiến (nhìn): trên vẽ mắt, dưới vẽ 2 chân người, ngụ ý: chỉ có loài người thì mới có "kiến giải""kiến thức"

2. Nói đến nữ = phái đẹp, là phái đẹp thì khiến cho người ta fải nhìn ngắm ( bộ kiến) nhìn thì bằng mắt( bộ Mục) và nhìn thấy rồi sẽ theo đuổi( bộ Xích= bước đi)

3.Chữ Chi này nghĩa gốc là "1 cành, 1 que" vẽ bàn tay 又và 1 cành cây nhỏ có 3 cái lá thành ra chữ十. Xin lưu ý rằng bộ Hựu thường có nghĩa là bàn tay trong các chữ ghép (phồn thể). (nguồn: Lý lạc Nghị)

4. Dạng chân là Bát 癶 vẽ 2 bàn chân dạng ra, qua 1 quá trình lịch sử biến đổi tự dạng( hình dáng chữ) lâu dài, nó có hình dạng như ngày nay. vd:

登 bước lên (thường là làm lễ nhận ngôi, tế trời đất quỷ thần): gồm 癶 và 豆(1 loại đồ đựng thức ăn thời xưa làm từ gỗ) ngụ ý chân bước lên, bưng theo đồ đựng thức ăn để tế lễ. (nguồn: Lý Lạc Nghị – như trên)

**Bộ Tư: no idea. (tôi thấy giống 1 cái gì đó cong cong)

5.Bộ Thù: vẽ bàn tay cầm 1 công cụ phá đá (giống như cái búa thời cổ đại) bên trên là búa, bên dưới là bộ Hựu = bàn tay.

6. Bộ Khí : vẽ đám hơi bốc lên. Bộ Phong : gồm chữ phàm chỉ âm đọc, bộ trùng = sâu bọ, ngụ ý gió nổi thì côn trùng sinh ra( theo Nguyễn Khuê). Bộ Vũ : nét 一là bầu trời; nét丨là từ trên xuống; nét冂là chỉ một vùng; bốn chấm 丶丶丶丶là vẽ các hạt mưa. (theo Lý Lạc Nghị). Bộ Tề : vẽ 3 bông lúa trổ đều nhau, cây ở giữa mọc trên đất cao nên cao nhất, 2 cây 2 bên mọc ở đất thấp hơn, nên bông lúa cũng thấp hơn. (theo Lý Lạc Nghị) bộ Tề này biến đổi tự dạng rất lớn, khó nhận ra được.bạn nào có điều kiện, tìm coi chữ Tề viết theo lối tiểu triện sẽ rõ.

Bộ Tề thêm vào cạnh gió mưa, khí hậu, ngụ ý mong muốn thời tiết điều hoà. Tề = tày, đều 1 lượt: vd: tề thiên đại thánh = đại thánh tày trời(to bằng trời). nhất tề : cùng(đều).

7)Tiếp đến nói về loài thú quen thuộc với người TQ: hươu, ngựa, heo. và các đặc tính của chúng: súc Sinh, khoẻ mạnh. cuối cùng là việc đuổi bắt chúng (bộ Đãi)

Cuối cùng nói về sông nước thuyền bè (giang hồ) nên có hắc, có bạch, đồng thời cũng có cả bọn Đỏ

Câu 41-50 Gồm 30 Bộ:

食 – 鬥

Shí – dòu

矢 – 弓 – 矛 – 戈

Shǐ – gōng – máo – gē

歹 – 血 – 心歹 – 血 – 心

Dǎi – xuè – xīn dǎi – xuè – xīn

身 – 尸 – 鼎 – 鬲

Shēn – shī – dǐng – gé

欠 – 臣

Qiàn – chén

毋 – 非 – 黽

Wú – fēi – miǎn

禸 – 舌 – 革

Róu – shé – gé

麥 – 禾 – 黍

Mài – hé – shǔ

小 – 大

Xiǎo – dà

爿 – 舛 – 片 – 韋

Pán – chuǎn – piàn – wéi

41. Thực (食) đồ ăn, Đấu (鬥) đánh nhau

42. Thỉ (矢) tên, Cung (弓) nỏ, Mâu (矛) mâu, Qua (戈) đòng

43. Đãi (歹) xương, Huyết (血) máu, Tâm (心) lòng

44. Thân (身) mình, Thi (尸) xác, Đỉnh (鼎) chung, Cách (鬲) nồi

45. Khiếm (欠) thiếu thốn, Thần (臣) bầy tôi

46. Vô (毋) đừng, Phi (非) chớ, Mãnh (黽) thời ba ba

47. Nhữu (禸) chân, Thiệt (舌) lưỡi, Cách (革) da

48. Mạch (麥) mỳ, HÒA (禾) lúa, Thử (黍) là cây ngô

49. Tiểu (小) là nhỏ, Đại (大) là to

50. Tường (爿) giường, Suyễn (舛) dẫm, Phiến (片) tờ, Vi (韋) vây

Chú giải:

1. Thực là đồ ăn, bởi vì ăn uống mà con người tranh giành => đánh nhau(đấu). Bộ Thực gồm Nhân và Lương(chữ 良 này nghĩa gốc là lương thực).Bộ Đấu có 2 chữ Vương(王vua), có thể coi như 2 ông vua đi từ xa đến để đánh nhau.

2.Đánh nhau thì phải dùng đến vũ khí nên có : Thỉ = mũi tên, Cung = cái cung( ở đây để bắt vần, tôi gọi là Nỏ), Mâu= cái mâu( vũ khí của Trương Phi là cái Bát xà mâu), Qua = cái đòng, 1 thứ vũ khí cổ xưa( Truyện kiều có câu : Vác Đòng chật sân)

3.Đánh nhau thì rơi xương đổ máu nên có bộ Đãi = xương tàn, Huyết= máu, và Tâm= tim, tấm lòng,(luôn đi cùng với chữ Huyết)

4.Đánh nhau có kẻ còn sống, giữ được Thân, kẻ bỏ xác (bộ Thi), kẻ làm vua thì có Đỉnh( vd: cửu đỉnh ở Huế), có nồi to (Cách = cái nồi rất lớn).

5.Kẻ thua trận phải thần phục làm bề tôi(bộ Thần), bề tôi thì luôn luôn thiếu thốn, thiếu sót(bộ Khiếm)

6. Câu này chuyển ngoặt, khuyên răn bề tôi, chớ làm điều phi pháp (Vô, Phi) và nói về động vật (con Baba)

7. tiếp theo nói về động vật, Nhữu =vết chân thú, Thiệt= lưỡi(loài động vật, loài người), và Cách (da thú đã thuộc , có thể làm giày, quần áo, túi v.v)Đều là những thứ cung cấp cho con người.

8.Tiếp đến là các loài ngũ cốc. Mạch = lúa mạch, gồm chữ Mộc + 2 chữ Nhân(2 bông lúa mạch) và bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch. 木+人+人+夂.Bộ Hoà gồm bộ Mộc 木 thêm 1 phết bên trên ngụ ý bông lúa gạo. Bộ Thử gồm bộ Hoà ngụ ý cây lúa禾. Bộ Nhân人 = vỏ trái bắp ngô, bên dưới là vẽ 1 cái lõi bắp ngô, và 4 hạt bắp ngô.(giống bộ Thuỷ nhưng ko có nghĩa là nước水)

9. Tiểu , Đại = nhỏ , to, là nói đến những bộ đối nghĩa

10.Tiếp theo sẽ là Tường>tương đối<Vi. Tường vẽ cái giường (chữ Sàng = giường có bộ tường.牀=床).Quay bộ Tường 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ, sẽ thấy là cái giường. Bộ Phiến ngược với bộ Tường, nghĩa là mỏng ( như tờ giấy, nên tôi tạm dịch Phiến =tờ). Bộ Suyễn vẽ 2 bàn chân dẫm trên mặt đất, nhưng vì tgian dài biến đổi tự dạng, nên khó mà nhận ra 2 bàn chân. (bạn có thể thấy nó trong chữ Vũ = múa.舞)Bộ Vi ở giữa có 1 chữ Khẩu nghĩa là vẽ 1 toà thành. bên trên bên dưới vẽ 2 bàn chân đang đi vòng quanh toà thành (ngụ ý bao vây). Tương tự bộ Suyễn, tự dạng biến đổi nhiều, ta khó nhận ra được. ( nguồn Lý Lạc Nghị – bộ Vi, bộ Suyễn)

Câu 51-60 Gồm 22 Bộ:

夂 – 夊

Zhǐ – suī

自 – 鼻 – 耳 – 首

Zì – bí – ěr – shǒu

青 – 艹 – 色

Qīng – cao – sè

豸 – 彑

Zhì – jì

Shǔ

香 – 米 – 屮 – 用

Xiāng – mǐ – chè – yòng

Dòu

干 – 工

Gàn – gōng

Shì

玉 – 貝

Yù – bèi

Đọc là: Đốc La:

51. TRỈ (夂) bàn chân, TUY (夊) rễ cây

52. TỰ (自) từ, TỴ (鼻) mũi, NHĨ (耳) tai, THỦ (首) đầu.

53. THANH (青) xanh, THẢO (艹) cỏ, SẮC (色) màu

54. TRĨ (豸) loài hổ báo, KỆ (彑) đầu con heo.

55. THỬ (鼠) là chuột, rất sợ mèo

56. HƯƠNG (香) thơm, MỄ (米) gạo, TRIỆT (屮) rêu, DỤNG (用) dùng.

57. ĐẤU (斗) là cái đấu để đong

58. Chữ CAN (干) lá chắn, chữ CÔNG (工) thợ thuyền.

59. THỊ (示) bàn thờ cúng tổ tiên,

60. NGỌC (玉) là đá quý, BỐI (貝) tiền ngày xưa.

Chú giải:

1. Bộ Trỉ vẽ hình 1 cái bàn chân đang đi xuống.

Vd:

a) Giáng降=阝(đồi cao)+夂(bàn chân)+phần bên dưới tôi không gõ được, cũng là vẽ hình 1 bàn chân.

Giáng nghĩa là đi xuống, vẽ 1 quả đồi (bộ phụ) và 2 bàn chân đi từ trên đồi xuống.(Hình vẽ 2 bàn chân bên phải đã trải qua hàng nghìn năm biến đổi tự dạng, nên hơi khó nhận ra, bạn nào muốn coi diễn biến của hình vẽ này, xin tìm nguồn tư liệu 汉字演变五百例-李乐毅)

b) Phùng 逄=辶(Sước)+夂(Trỉ)+丰(Phong).Ban đầu viết như thế này 夆,Phùng nghĩa là gặp gỡ, muốn gặp được thì phải đi tới(bộ Trỉ = bàn chân) bên dưới là chữ Phong chỉ âm đọc, Phong=> Phung=>Phùng. Sau đó người ta thêm bộ Sước vào cho rõ nghĩa hơn.(Sước = đi xa, ngụ ý hành động, v.v)

Bộ Tuy trông rất giống bộ Trỉ, nên đôi khi người học dễ bị nhầm lẫn. Nhưng bạn chỉ cần để ý 1 chút là sẽ phân biệt được.

Vd: Chữ 麥=木+人+人+夊 .Bộ Mạch là cây lúa mạch, nên vẽ Mộc = cây, hai chữ Nhân là vẽ 2 bông lúa nặng trĩu, bên dưới vẽ rễ cây lúa mạch.

2.Chữ Tự ban đầu chính là vẽ cái mũi.Sau đó người ta mượn chữ "Mũi" này để chỉ nghĩa Tự= Từ đó, Tự mình. Vì vậy cần phải tạo ra 1 chữ khác chỉ cái mũi, chính là chữ Tỵ.(âm đọc cổ của Tự và Tỵ gần giống nhau)

鼻(Tỵ)=自(tự)+畀(tý).Chữ Tỵ = mũi được tạo mới là 1 chữ Hình thanh (bộ Tự bên trên chỉ nghĩa , chữ Tý bên dưới chỉ âm đọc)

畀Tý =田(điền)+廾(Củng). Tý = đem cho .Bên trên vẽ bộ Điền , tượng trưng 1 gói quà, ta có thể coi như 1 chiếc bánh chưng cho dễ nhớ.Bên dưới vẽ hai bàn tay (bộ Củng = hai bàn tay chắp lại nâng một vật). Ngụ ý, đem quà đi tặng.(âm bắc Kinh Bi4)

Bộ Nhĩ vẽ cái tai.Đã bị biến đổi tự dạng rất nhiều

Bộ Thủ vẽ đầu con thú, có 2 sừng phía trên, khá giống đầu 1 con bò. Chú ý phân biệt với bộ Hiệt vẽ đầu người, không có 2 sừng bên trên.

3.Bộ Thanh nghĩa là màu xanh. 青=生+丹Cổ văn viết bên trên là Sinh(Sanh) chỉ âm đọc (Ghi chú: âm đọc Hán cổ và âm Hán hiện đại khác nhau, có lẽ thời cổ đại , chữ Sinh và chữ Thanh có âm đọc tương đối giống nhau). Bên dưới là Đan = màu đỏ, ngụ ý màu xanh luôn đi đôi với màu đỏ.

Bộ Thảo vẽ 2 ngọn cỏ, cổ văn và hiện nay đều dễ dàng nhìn ra điều đó.

Bộ Sắc = màu sắc, vẽ con Kỳ nhông đuôi dài, 2 nét trên cùng là cái đầu con kỳ nhông, phần ở giữa vẽ cái thân con kỳ nhông, nét cong dưới cùng vẽ cái đuôi con kỳ nhông, vì kỳ nhông thường thay đổi màu rất nhanh, nên người tq lấy nó để chỉ nghĩa màu sắc.

4.Bộ Trĩ (hoặc Sãi, Trãi) vẽ hình 1 con thú đuôi dài, bên trên là cái đầu có mõm nhọn, răng dài. có thể phân ra thành :

– đầu con thú = bộ nguyệt viết nghiêng

-lưng và đuôi con thú là nét cong bao bên ngoài

-4 chân con thú tượng trung = 2 nét cong bên trong(vì đây là hình vẽ con thú nhìn nghiêng)

Những loài thú dữ, xương sống dài thường dùng bộ Trĩ này để chỉ vd: 豹豺豼貇貅

Bộ Kệ vẽ cái đầu con heo, có mõm dài, rất khó nhận ra, nhưng ta có thể thấy tàn dư của nó trong các chữ Hán đang dùng ngày nay:彖vốn là 1 lòai heo rừng, sau mượn dùng làm chữ Sóan trong kinh dịch.

5.Bộ Thử là con chuột, cổ văn vẽ hình 1 con chuột, sau đó diễn biến thành hình chữ như ngày nay. Nếu bạn lấy chữ Thử tiểu triện quay ngược kim đồng hồ 90 độ, sẽ thấy khá giống 1 con chuột đang bò鼠.

hiện nay, muốn nhớ được chữ này, bạn có thể nhớ theo cách sau: Thử thuộc bộ Cữu= cái cối xay gạo. Con chuột "xay"gạo cũng khá là dữ, cho nên lấy bộ Cữu tượng trưng cho cái đầu của nó.Phần bên dưới vẽ 3 nét dài 4 nét ngắn. 3 nét dài tượng trưng cho mình và đuôi con chuột, 4 nét ngắn = 4 cái chân.

6.Bộ Hương = thơm, bên trên vẽ bộ Hòa = cây lúa, bên dưới vẽ bộ Cam(sau biến thành Viết) nghĩa là ngọt ngào. Gộp 2 ý lại=> mùi bông lúa chín ngọt ngào và thơm tho. 香=禾+甘=禾+曰

Bộ Mễ vẽ hình 1 bông lúa, sau chỉ nghĩa là gạo. trông hình chữ khá giống bông lúa. Những chữ Hán có chứa bộ Mễ thường chỉ về các loại hạt, hạt nhỏ, thậm chí nhỏ đến mức không nhìn thấy vd: 精,氣

Bộ Triệt vẽ 1 ngọn cỏ , tượng trưng cho loài rêu, bộ này ít dùng

Bộ Dụng vẽ hình 1 quả chuông(không có núm).Người xưa đặt nó trên bàn làm việc, khi cần "DÙNG" đến lính hầu, người ở thì dùng tay nắm lấy lắc cho kêu. do vậy mà người TQ vẽ cái chuông này để chỉ nghĩa Dùng, sử dụng

6.Bộ Ất là 1 trong mười thiên can của TQ, nó rất đơn giản chỉ có 1 nét. Bộ Ất theo ông Lý Lạc Nghị vốn vẽ hình 1 con chim én, sau đó mượn chữ này để chỉ thiên can. Các bạn mới học chữ Hán cũng nên học thuộc Thiên Can gồm 10 chữ khá cơ bản. Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. Tuy rằng chúng không fải là chữ rất thường dùng nhưng cũng được dùng khá nhiều. Hơn nữa , chúng nằm trong các chữ Hán rất thường dùng.

Thiên can: 甲乙丙丁戊己更辛壬癸trong đó các chữ 甲乙丁己更là rất thường dùng, ngòai ra các chữ còn lại 丙戊辛壬癸đều nằm trong các chữ rất thường dùng khác như : 病茂宰任葵

Bộ Trùng vẽ hình 1 con rắn hổ mang, chữ Trùng ngày nay vẫn còn giữ lại khá tốt hình dáng con rắn hổ mang. phần trên là chữ Trung giống như cái đầu con rắn hổ mang, 2 nét bên dưới vẽ hình nó đang cuộn tròn. Ngoài ra bạn có thể ghi nhớ được rằng Trung =>Trùng(về âm đọc). Ngày nay bộ Trùng được dùng chung để chỉ các loài không fải chim mà cũng không fải thú, các con vật trong thần thoại. Chú ý, vd như loài dơi, vốn thuộc loài thú, nhưng vì người TQ cổ đại nhầm lẫn nên xếp nó vào loài trùng. Sự fân biệt giữa Chim, Thú, Trùng, Ngư trong hệ thống chữ Hán cũng chỉ là tương đối.

Bộ Vũ vẽ hình đôi cánh chim, trông khá giống 1 đôi cánh

Bộ Đấu vẽ hình 1 cái đấu đong gạo. Người TQ cổ đại đong bằng đấu. Nếu bạn nào là người Vn gốc miền bắc chắc sẽ dễ hiểu hơn, vì người vn ở miền bắc vẫn dùng đơn vị "đấu" để đong gạo cho đến tận nhưng năm 80 của thế kỷ 20.

$UP



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#thơ-ca