A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa - Phần 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 10

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không năm 1984

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Huệ Trang và Đức Phong

       Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi:

Tập 19

      (Sớ) Sở vị: Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc dã.

      (疏) 所謂修證即不無,污染即不得也。

      (Sớ: Nói: “Tu chứng tức là chẳng không, nhiễm ô là chẳng đắc”).

      Đây là hai câu trong Lục Tổ Đàn Kinh, bao hàm ý nghĩa vô cùng sâu xa, mang nguyên tắc chỉ đạo rất hay cho sự tu học của chúng ta, hãy nên học tập. Đoạn công án này phát xuất từ chương Tham Thỉnh Cơ Duyên trong [Pháp Bảo] Đàn Kinh.

      (Diễn) “Tu chứng tức bất vô” giả, Nam Nhạc Nhượng thiền sư tham Lục Tổ.

      (演) 修證即不無者,南岳讓禪師參六祖。

      (Diễn: “Tu chứng tức chẳng không”: Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng tham yết Lục Tổ).

      Vị này là thiền sư Hoài Nhượng, Ngài là sư phụ của thiền sư Mã Tổ. Thiền sư Đạo Nhất họ ngoài đời là Mã, nên trong Thiền Tông gọi Ngài là Mã Tổ, Ngài có ảnh hưởng hết sức sâu xa đối với Phật giáo Trung Quốc: “Mã Tổ kiến tùng lâm, Bách Trượng lập Thanh Quy” (Mã Tổ dựng tùng lâm, Bách Trượng lập Thanh Quy). Thoạt đầu, hai vị này hợp tác kiến lập chế độ tùng lâm cho Trung Quốc. Lục Tổ là đời thứ sáu, thiền sư Hoài Nhượng là đời thứ bảy, Mã Tổ là đời thứ tám, là đồ tôn của Lục Tổ. Thiền sư Hoài Nhượng đến chỗ Lục Tổ tham học.

      (Diễn) Tổ vấn: “Thậm xứ lai?”

  (演) 祖問甚處來。

      (Diễn: Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”)

      Lục Tổ hỏi Ngài: “Ông từ nơi nào đến đây?”

      (Diễn) Nhượng vân: “Tung Sơn”.

      (演) 讓云:嵩山。

      (Diễn: Ngài Hoài Nhượng thưa: “Tung Sơn”).

      Ngài từ Tung Sơn đến. Tung Sơn[1] là Trung Nhạc. Về sau, Ngài trụ tại Nam Nhạc. Nam Nhạc là Hành Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam.

      (Diễn): Tổ vân: “Nhẫm ma vật? Nhẫm ma lai?”

      (演) 祖云:恁麼物,恁麼來。

      (Diễn: Tổ nói: “Vật gì thế? Đến như thế nào?”)

      Đây là cách nói thông dụng thời Đường, nói theo cách bây giờ là: “Rốt cuộc là vật gì vậy? Đến như thế nào?” Có ý nghĩa như vậy đó! Tức là hỏi: “Ngươi đến rồi, vậy thì ngươi là vật gì vậy?” Đây là cách cật vấn trong nhà Thiền, học trò đến xin tham học phải vượt qua được câu trắc nghiệm này, lời cật vấn được gọi là “cơ phong”[2]. Lục Tổ khảo nghiệm ngài Hoài Nhượng. Thiền sư Hoài Nhượng hết sức thông minh, liền hiểu ngay “âm thanh ngoài dây đàn” trong câu nói của Lục Tổ, Ngài trả lời:

      (Diễn): Nhượng vân: “Thuyết tự nhất vật, tức bất trúng”.

  (演) 讓云:說似一物即不中。

      (Diễn: Hoài Nhượng thưa: “Nếu nói là dường như có một vật sẽ chẳng trúng”).

      Ý nghĩa của câu này là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt”, nói không được. Nếu nói là dường như có vật chi đó, là vật gì đó, thì đã sai rồi! Đúng như Thiền gia đã nói: “Khai khẩu tiện thác, động niệm giai quai” (Mở miệng liền trật, suy nghĩ đều sai). Câu trả lời này hết sức cao minh, đủ thấy cảnh giới của Ngài cao lắm. Nếu tổ sư hỏi hai câu mà Ngài đáp: “Tôi là một người tu hành”, tôi đến như thế nào ư? “Tôi đi bộ đến đây” hay: “Tôi ngồi xe đến đây”. Đáp kiểu ấy cũng không sai, nhưng Tổ Sư nói: “Hay lắm! Biết ngươi thuộc tiêu chuẩn phàm phu, không có kiến địa!” Thiền sư Hoài Nhượng đáp như vậy, chắc là Ngài thuộc cảnh giới kiến địa, đương nhiên cảnh giới ấy cao lắm. Lục Tổ tiếp tục hỏi:

      (Diễn) Hoàn giả tu chứng phủ?

  (演) 還假修證否。

      (Diễn: Vẫn còn phải nhờ vào tu chứng ư?)

      “Giả” (假) là nhờ cậy. Vẫn còn phải nhờ vào tu hành để chứng quả hay sao?

      (Diễn) Vân: “Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc”.

      (演) 云:修證即不無,染污即不得。

      (Diễn: Thưa: “Tu chứng thì chẳng không, nhiễm ô thì chẳng được”).

      Câu trả lời của thiền sư Hoài Nhượng hết sức cao minh, hoàn toàn là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế, “Tu chứng tức bất vô”: Ngài có tu, tu hành hằng ngày. Tuy tu hành hằng ngày, nhưng sự tu hành ấy là tu hành trên mặt Sự, tức là trên mặt sự tướng thì có tu, có chứng, nhưng trên Lý Thể thì không có, chẳng nhiễm mảy trần. Nói cách khác, thân có tu hành, tâm quyết định chẳng nhiễm ô! Câu thứ nhất đáp theo mặt Sự, câu thứ hai đáp theo mặt Lý. Lý - Sự vô ngại, Lý - Sự viên dung. Đã chẳng phải là chấp Sự phế Lý, mà cũng chẳng chấp Lý phế Sự. Hằng ngày tu, tu mà không tu. Câu đầu là tu, câu sau là không tu. Tu mà không tu. Câu sau là không tu, câu trước là tu, đó gọi là “tu hành thật sự”. Nêu một tấm gương rất tốt cho chúng ta. Bất luận dùng công phu như thế nào, Ngài tham Thiền, nay chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, vẫn giống nhau, trên mặt Sự thì có niệm, suốt ngày từ sáng đến tối Phật hiệu chẳng gián đoạn giữa chừng, hằng ngày niệm, đó là “tu chứng tức bất vô”.

      Thế nhưng chúng ta nhất định phải thực hiện được câu sau đó: “Nhiễm ô tức bất đắc”. Tuy niệm Phật, tâm địa thanh tịnh, tuyệt chẳng nhiễm trước. Đó gọi là “tam luân thể không”. Thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật, trong Phật pháp gọi chân tướng là “Thật Tướng của các pháp” (chư pháp Thật Tướng). Thật sự hiểu rõ, trong tâm chúng ta thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần. Niệm Phật đừng bị ô nhiễm bởi Phật hiệu, Thiền gia tham cứu Thoại Đầu chẳng bị câu Thoại Đầu ô nhiễm; nếu không, sẽ chẳng thể thành tựu. Người niệm Phật nếu bị Phật hiệu ô nhiễm thì làm sao có thể đắc nhất tâm? Đấy chính là như trong Tánh Tông thường nói: “Tam luân thể không”. Niệm hay là chẳng niệm? Hằng ngày niệm từ sáng đến tối. Trong khi đang niệm, chẳng thấy tướng ta là người niệm, cũng chẳng thấy tướng của vị Phật được niệm, mà trong khoảng giữa cũng chẳng thấy danh hiệu được chấp trì, tam luân thể không, nhưng Phật hiệu trọn chẳng gián đoạn giữa chừng. Câu trả lời Lục Tổ của đại sư Hoài Nhượng có ý nghĩa như thế. Tham Thiền cũng là “tam luân thể không”; thậm chí lễ bái, đọc tụng đều phải “tam luân thể không” thì mới có thể tương ứng. Tam luân chẳng không, sẽ chẳng thể thấy đạo, chẳng thể kiến tánh. Người niệm Phật mà tam luân chẳng không sẽ chẳng thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn.

      (Diễn) Kim vị thả tựu chúng sanh nhất kỳ tu chứng, tự hữu trừng phản chi tích, tu chứng tức bất vô dã.

      (演) 今謂且就眾生一期修證,似有澄返之跡,修證即不無也。

      (Diễn: Nay nói: Nếu dựa theo sự tu chứng của chúng sanh trong một đời thì dường như có dấu vết “lắng trong, quay lại”, tức là “tu chứng chẳng không” vậy).

      “Nhất kỳ” là đời hiện tại, Trên mặt Sự dường như có những dấu vết, hình tướng như “lắng trong, quay lại”. Dẫu chính mình đã thấy tánh, thậm chí chính mình đã thành Phật, vẫn phải thị hiện những dấu vết, hình tướng ấy để làm gì vậy? Nhằm giáo hóa và nêu gương cho chúng sanh. Chính quý vị đã minh tâm kiến tánh, nhưng quý vị không niệm Phật lại bảo người ta niệm thì ai chịu niệm đây? Tự mình trọn chẳng niệm mà ông bảo chúng tôi niệm hay sao? Do vậy, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, vẫn phải nêu gương cho chúng sanh thấy. Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đã sớm thành Phật, kinh Phạm Võng nói sau khi thành Phật, Ngài đến thế giới này đã tám ngàn lần. Lần này là vào ba ngàn năm trước, thị hiện thành Phật lần thứ tám ngàn tại Ấn Độ. Thật ra, Ngài đã sớm thành Phật, mà vẫn phải thị hiện tám tướng thành đạo, đều để cho chúng ta xem, nêu gương cho chúng ta biết tu học phải theo cách nào. Chư Phật Như Lai và các đại Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, dụng ý hết sức sâu xa, chẳng những dùng ngôn giáo mà còn dùng thân giáo. Câu tiếp theo đây hoàn toàn luận theo mặt Thật Tướng.

      (Diễn) Nhi ư tự tánh thật vô đắc thất, tăng tổn, nhiễm ô tức bất đắc dã.

      (演) 而於自性實無得失增損,染污即不得也。

      (Diễn: Nhưng trong tự tánh không có được - mất, tăng - tổn, chính là “nhiễm ô sẽ chẳng được” vậy).

      “Tu chứng tức bất vô” là nói theo mặt sự tướng, nói trên mặt hình tướng. Nói theo phía tự tánh thanh tịnh tâm thì chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch. Bất luận quý vị tu theo cách nào, chắc chắn chẳng thể nói là tâm quý vị được tăng thêm một tí thanh tịnh nào, không hề có! Tu học không gì chẳng nhằm trừ phiền não và chấp trước mà thôi! Nhất định phải hiểu đạo lý này. Câu tiếp theo giải thích chữ “ba A-tăng-kỳ kiếp”.

       (Sớ) Tam kỳ giả, tam A-tăng-kỳ kiếp dã. Tăng-kỳ giải kiến hậu văn.

(疏) 三祇者,三阿僧祇劫也。僧祇解見後文。

      (Sớ: “Tam kỳ” là ba A-tăng-kỳ kiếp. Chữ Tăng-kỳ sẽ được giải thích trong phần sau).

      Trong phần sau sẽ giảng.

      (Sớ) Ngôn tam giả.

      (疏) 言三者。

      (Sớ: Nói ba là...)

      Vì sao nói ba A-tăng-kỳ kiếp?

      (Sớ) Dĩ Thích Ca thành đạo, tùng cổ Thích Ca chí Thi Khí, lịch thất vạn ngũ thiên Phật.

      () 以釋迦成道,從古釋迦至尸棄,歷七萬五千佛。

      (Sớ: Là vì [tính cho đến] khi Phật Thích Ca thành đạo, từ cổ Phật Thích Ca cho đến Phật Thi Khí, đã trải qua bảy vạn năm ngàn vị Phật).

      Thi Khí (Sikhin) là một vị Như Lai. Trong quá trình tu học, Phật Thích Ca đã gặp nhiều vị Phật như thế.

      (Sớ) Tùng Thi Khí chí Nhiên Đăng, lịch thất vạn lục thiên Phật. Tùng Nhiên Đăng chí Tỳ Bà Thi, lịch thất vạn thất thiên Phật.

      (疏) 從尸棄至燃燈,歷七萬六千佛。從燃燈至毗婆尸,歷七萬七千佛。

      (Sớ: Từ Phật Thi Khí đến Phật Nhiên Đăng, trải qua bảy vạn sáu ngàn vị Phật. Từ Phật Nhiên Đăng cho đến Phật Tỳ Bà Thi, trải qua bảy vạn bảy ngàn vị Phật).

      Mỗi một giai đoạn là một A-tăng-kỳ kiếp, Ngài ở trong một A-tăng-kỳ kiếp gặp nhiều vị Phật như vậy.

      (Sớ) Vân “tam kỳ” dã.

      (疏) 云三祇也。

      (Sớ: Nên nói là ba A-tăng-kỳ vậy).

      Chư Phật đồng danh đồng hiệu rất nhiều! Danh hiệu của Phật là do căn cơ của chúng sanh mà kiến lập. Quý vị phải hiểu: Phật, Bồ Tát hoàn toàn không có danh hiệu. Phàm phu chúng ta đặt danh hiệu quá nửa là ứng với kỳ vọng của chính mình. Trước kia, cha mẹ đặt tên cho con cái, nhằm biểu thị sự kỳ vọng của cha mẹ đối với cuộc đời của con cái. Chư Phật, Bồ Tát lập danh hiệu ứng theo nhu cầu của chúng sanh. Nói cách khác, đấy là tông chỉ dạy học của Phật, Bồ Tát. Đức Phật đến thành Phật trong thế giới Sa Bà này, danh hiệu của Ngài phải là Thích Ca Mâu Ni, bất luận là ai đến nơi này làm Phật, nhất định sẽ dùng danh hiệu ấy. Vì sao? Đối với thế giới Sa Bà, trong giai đoạn này phải dùng phương pháp ấy để dạy. Ý nghĩa của danh hiệu ấy (danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật) là: Thích Ca là Năng Nhân, [Năng Nhân] có ý nghĩa nhân từ. Nói cách khác, chúng sanh trong thế giới Sa Bà này thiếu khuyết lòng từ bi. Do vậy, nêu lên tông chỉ này. Thiếu khuyết tâm từ bi, và tâm lại quá loạn, tâm chẳng thanh tịnh, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ. Do vậy, lại dùng hai chữ “tịch mặc”. Mâu Ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Mặc. Do đây biết rằng: Thích Ca Mâu Ni là Năng Nhân Tịch Mặc, nhằm nói trúng ngay căn bệnh của chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Chúng ta niệm danh hiệu này là phải sanh khởi tâm niệm nhân từ, phải khởi lên tâm niệm thanh tịnh tịch diệt của chính mình, mang ý nghĩa này.

      Nếu đức Phật Bổn Sư của chúng ta đến làm Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng thể gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật, vì danh hiệu ấy chẳng có ích gì trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới ai nấy đều nhân từ, đều là đại từ, đại bi, quý vị còn muốn họ có lòng nhân thì chẳng có ý nghĩa gì cả! Ai nấy đều là nhất tâm bất loạn, tâm địa thanh tịnh; hai chữ Mâu Ni cũng không dùng được. Đem danh hiệu này đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì người trong Tây Phương Cực Lạc đều đã tu thành tựu rồi, cho nên phải cần dùng Vô Lượng Thọ. Do đây, có thể biết rằng: Danh hiệu của Phật, Bồ Tát do chúng sanh mà kiến lập, Ngài đến thế giới nào, thị hiện thân phận như thế nào, danh hiệu khác nhau. Danh hiệu ấy chính là tông chỉ dạy học, mà cũng là mánh khóe dạy học, khiến cho hết thảy chúng sanh nghe tên, chấp trì, sẽ khởi lên quán chiếu, có thể đối trị những thói hư của chính mình. Do vậy, công đức của danh hiệu là chẳng thể nghĩ bàn.

      “Cổ Thích Ca”: Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật mới phát tâm tu hành, gặp một vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Trạng huống của chúng sanh trong thế giới ấy đại khái chẳng khác tình trạng hiện thời của chúng ta cho mấy: Thiếu khuyết tâm từ bi, tâm tư tán loạn. Do vậy, đức Phật mới dùng danh hiệu ấy, tu hành trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp.

      (Sớ) Bị kinh đa kiếp, viễn chi hựu viễn.

      (疏) 備經多劫,遠之又遠。

      (Sớ: Trải đủ nhiều kiếp, đã xa xôi lại càng xa hơn).

      Hai câu này hình dung Thích Ca Mâu Ni Phật từ nhân đến quả, từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật đã trải qua nhiều kiếp. Chữ“đa kiếp” chỉ nhiều tiểu kiếp và đại kiếp. “A-tăng-kỳ” là một con số lớn, A-tăng-kỳ kiếp gồm quá nhiều kiếp! Do vậy, nói theo phương diện thời gian thì“viễn chi hựu viễn” (đã xa lại càng xa hơn).

      Trong Phật Học Thập Tứ Giảng có nói tới Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta tu pháp nếu không có tâm nhẫn nại thì làm sao thành tựu được? Con người hiện thời vẫn sợ chịu khổ, vậy là chẳng thể thành tựu! Trong Giới Kinh, đức Phật bảo chúng ta, khi Phật chẳng tại thế thì “lấy Giới làm thầy”, “lấy khổ làm thầy”. Vì sao? Khổ sẽ luôn nhắc nhở chính chúng ta phải cảnh tỉnh, hễ hưởng thụ sẽ mê hoặc, điên đảo. Do vậy, Phật pháp, đặc biệt là Phật pháp Đại Thừa, chẳng tán thành khổ hạnh vô ích, nhưng nếu khổ hạnh có lợi ích đối với sự tu học của chúng ta thì đức Phật vẫn khen ngợi. Hạnh Đầu Đà của Tiểu Thừa là tu khổ hạnh, còn Đại Thừa thì quý vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm, nơi chương Đức Sanh Hữu Đức đồng tử, [hai vị thiện tri thức này] đại diện cho hàng Đẳng Giác Bồ Tát, trong chương ấy còn tán thán mười hai hạnh Đầu Đà, tán thán khổ hạnh. Khổ hạnh quả thật nhắc nhở chúng ta cảnh tỉnh, chẳng lưu luyến thế giới Sa Bà. Con người hễ hưởng lạc sẽ lưu luyến thế giới này, đặc biệt là tu pháp môn Tịnh Độ, nếu lưu luyến thế giới này, làm sao vãng sanh? Do vậy, chúng ta đừng sợ khổ, hễ có hoàn cảnh khổ hạnh thì chẳng cần nghĩ trọn hết các phương pháp để tránh xa, [nếu tránh xa] sẽ là sai. Người tu hành phải nên “tùy ngộ nhi an” (an vui với hoàn cảnh), tùy duyên mà chẳng phan duyên. Khởi tâm động niệm tìm kiếm hoàn cảnh [sung sướng, thỏa ý] chính là phan duyên. Gặp những người chí đồng đạo hợp, đúng là có thể tự giúp chính mình mà còn có thể giúp đỡ Phật giáo, chúng ta có thể thường trụ ở nơi ấy.

      Những vị đại đức xưa kia tạo lập tùng lâm. Lúc hình thành, thoạt đầu là mấy vị pháp sư chí đồng đạo hợp trụ ở nơi ấy để tấn tu. Người học từ bốn phương sau khi nghe danh các Ngài dần dần kéo tới nơi ấy. Trước kia, con người thật thà hơn hiện thời, họ cảm thấy nơi ấy rất thích hợp, bèn ở lại, không đi đâu nữa, dần dần biến thành tùng lâm có quy mô lớn. Do vậy, kiến lập tùng lâm hoàn toàn chẳng phải là trước hết xây cất rất nhiều nhà cửa, rồi mới từ từ chiêu sinh. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, tùng lâm chưa hề chiêu sinh, đều do mấy gian nhà tranh dần dần mở rộng, có bao nhiêu người thì cất thêm bấy nhiêu gian. Hiện thời, tại Đài Loan có rất nhiều ngôi chùa xây rất to mà chẳng có ai ở. Thời đại Mạt Pháp mới có hiện tượng này! Do vậy, tu hành nhất định phải có tâm nhẫn nại, phải nhẫn nhục thì mới có thành tựu, nhất là đại chúng sống cùng một chỗ với nhau, đôi bên đều là phàm phu, tập khí đều rất nặng, nhất định phải nhường nhịn.

      (Sớ) Nhi kim bất việt nhất niệm, tật siêu sanh tử.

      (疏) 而今不越一念,疾超生死。

      (Sớ: Nhưng nay chẳng vượt khỏi một niệm, nhanh chóng vượt thoát sanh tử).

      Đây là nói pháp môn này thù thắng, chẳng cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, trong “nhất niệm” bèn vượt thoát. Nhất niệm là niệm gì vậy? Dưới đây sẽ nói rất rõ ràng.

      (Sớ) Nhất niệm giả, tức năng niệm A Di Đà Phật chi nhất niệm dã.

      (疏) 一念者,即能念阿彌陀佛之一念也。

      (Sớ: Nhất niệm chính là một niệm, niệm A Di Đà Phật vậy).

      Quý vị phải đọc kinh văn cho rõ ràng, không phải là nói “niệm A Di

Đà Phật bèn có thể vượt thoát” mà là “nhất niệm”. Hiện thời quý vị niệm A Di Đà Phật, không sai, nhưng quý vị vẫn niệm rất nhiều thứ, không phải là một niệm, mà là đa niệm. Niệm A Di Đà Phật mà còn đa niệm sẽ chẳng thể vãng sanh, chẳng thể vượt trỗi ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Nếu quý vị có thể đoạn sạch hết thảy vọng niệm, chỉ có một niệm thì sẽ vượt thoát. Quý vị phải suy tính chuyện này cho kỹ, rốt cuộc là thế giới Cực Lạc tốt đẹp, hay là thế giới Sa Bà tốt đẹp? Chúng ta muốn thường sống trong thế giới Cực Lạc, hay là muốn sống mãi trong thế giới Sa Bà? So sánh sự tốt đẹp giữa hai thế giới. Thật sự so sánh rồi nếu chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới thì phải buông xuống, phải xả được, bỏ nơi này, sẽ được Tây Phương Cực Lạc thế giới, như vậy thì mới có thể đạt được. Chẳng bỏ nơi đây sẽ chẳng đạt được thế giới Tây Phương. Xả sẽ được! Xả gì vậy? Xả hết thảy vọng niệm, nhất tâm niệm Phật, “nhất tâm” là nhất niệm, “nhất niệm” chính là nhất tâm. Trong tâm chẳng khởi tâm động niệm thì thôi, hễ khởi tâm động niệm bèn A Di Đà Phật, không có ý niệm thứ hai nào, niệm Phật như vậy sẽ thành công, hễ còn có tạp niệm là sai rồi! Ở đây chú trọng nhất niệm, chứ không chú trọng năng niệm. Sách Sớ Sao đã đặc biệt chỉ ra, nhất niệm chính là một câu Phật hiệu “A Di Đà Phật”.

      (Sớ) Chư thánh giả, Phật cập Bồ Tát dã. Tự phàm vọng thánh, cách chi hựu cách.

  (疏) 諸聖者,佛及菩薩也。自凡望聖,隔之又隔。

      (Sớ: Chư thánh” là Phật và Bồ Tát. Từ phàm hướng về thánh thì đã xa cách lại càng cách xa).

       Từ phàm phu nhìn vào thánh nhân, đã xa cách lại càng cách xa, khoảng cách quá xa. Được gọi là “thánh nhân” chính là các vị đại Bồ Tát đã đăng địa (từ Sơ Địa trở lên) mới gọi là thánh nhân. Phật, Đẳng Giác Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát, mười hai địa vị này được gọi là Thánh, những địa vị khác đều gọi là Tam Hiền Vị Bồ Tát. Phàm phu nhìn vào hàng Bồ Tát thuộc thánh vị, đúng là đã xa cách lại càng cách xa, nhưng hiện thời thì như thế nào?

      (Sớ) Nhi kim bất xuất phiến ngôn, trực đăng Bất Thoái.

   (疏) 而今不出片言,直登不退。

      (Sớ: Nhưng nay chẳng rời khỏi một câu, lên thẳng địa vị Bất Thoái).

      Sự “xa cách lại càng cách xa” bị tiêu trừ, dựa vào đâu để tiêu trừ? Dựa vào một câu A Di Đà Phật, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Rốt cuộc vẫn là thật hay giả vậy? Những điều này do chư Phật Như Lai, lịch đại tổ sư an ủi, khuyến khích chúng ta, hay là thật sự có chuyện ấy? Thưa cùng quý vị, nếu chư Phật, Bồ Tát an ủi, khuyến khích chúng ta thì các Ngài là đại vọng ngữ, chắc chắn không thể nào như vậy được! Như Lai là bậc như ngữ, tức nói đúng như sự thật, sự thật như thế nào Ngài sẽ nói như thế ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, hoàn toàn phù hợp chân tướng sự thật, chẳng giả tí nào! “Trực đăng Bất Thoái”: Trong lời chú giải nêu rõ....

      (Sớ) Bất Thoái hữu tứ.

      (演) 不退有四。

      (Sớ: Bất Thoái có bốn loại).

      Trong tương lai, đến phần kinh văn sẽ càng giảng [ý nghĩa Bất Thoái] tường tận hơn, ở đây chỉ nói đại lược.

      (Diễn) Dĩ vị đoạn phiền não, sanh Đồng Cư độ, vi Nguyện Bất Thoái. Phá Kiến Tư, sanh Phương Tiện độ, vi Hạnh Bất Thoái.

      (演) 以未斷煩惱,生同居土,為願不退。破見思,生方便土,為行不退。

      (Diễn: Do chưa đoạn phiền não, sanh vào cõi Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái. Phá Kiến Tư phiền não, sanh vào cõi Phương Tiện là Hạnh Bất Thoái).

      Chưa đoạn phiền não, nhưng phải chế phục phiền não, quý vị nhất định phải nhớ điều này. Nói tới đây, hôm nay khi dùng cơm tôi nghe các đồng học nói: Sau khi khóa giảng ở đây viên mãn, lại muốn sang chùa miếu khác tham phỏng, đó là năm mươi ba lần tham học, rất hiếm có! Nhưng quý vị phải hiểu: Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần là sau khi Ngài đã đắc Căn Bản Trí. Do vậy, Ngài tham phỏng để thành tựu viên mãn Hậu Đắc Trí. Hiện thời quý vị chưa đắc Căn Bản Trí, đến các nơi tham học, kết quả là vô lượng vô biên tri kiến, đâm ra chính mình chẳng có gì để noi theo. Vì vậy, tham học có một điều kiện. Cổ nhân cầu pháp ắt phải có một vị thầy căn bản, đấy là sư thừa. Phải đại triệt đại ngộ dưới tòa của vị thầy căn bản ấy rồi mới có thể lìa khỏi thầy, sau khi rời khỏi thầy bèn tham học, không có bản lãnh ấy, chẳng được! Có thể phân biệt chân - vọng, thị - phi, trong hết thảy cảnh giới nghe hiểu rõ ràng, quyết chẳng bị ảnh hưởng, quyết định chẳng dao động. Đó gọi là “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”. Có bản lãnh ấy thì mới có thể tham học. Không có bản lãnh ấy sẽ chẳng thể tham học. Con người hiện thời chẳng chịu làm như vậy. Vì thế, không có phước báo. Học sinh theo thầy chẳng chịu tách lìa, hạng học sinh như vậy tìm chẳng ra. Học sinh hiện thời thân cận một vị thầy, đại khái bảy ngày là cùng! Không có tâm nhẫn nại, bảy ngày thôi! Tôi nghe ông giảng kinh gần như tôi đã biết rồi, không cần phải học nữa, bỏ đi thôi! Như vậy thì làm sao mà thành công được? Do vậy, thật sự có thiện tri thức thì cũng chẳng thể thu phục quý vị được!

      Trong pháp môn Tịnh Độ, trong mấy năm gần đây nhất đã nổi lên một trận phong ba về chuyện đới nghiệp vãng sanh và tiêu nghiệp vãng sanh, những người niệm Phật trong ngoài nước bị ảnh hưởng rất lớn. Từ xưa đến nay, trong pháp môn này đều nói “đới nghiệp vãng sanh”, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đều chưa đoạn phiền não. Đột nhiên có cư sĩ Trần Kiến Dân hướng dẫn một nhúm học trò tra cứu kinh điển, bảo trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề nói “đới nghiệp vãng sanh”, rồi ông ta chủ trương “tiêu nghiệp vãng sanh”. Do vậy, tất cả người niệm Phật đều hoang mang, chẳng thể đới nghiệp, hỏng bét! Chúng ta chưa đoạn nghiệp, chẳng thể vãng sanh! Khi ấy tôi đến Mỹ, cư sĩ Châu Tuyên Đức vừa gặp mặt liền hỏi ngay chuyện này. Tôi bảo ông ta: “Tiêu nghiệp và đới nghiệp là một chuyện, tiêu một ít, mang theo một ít, mang theo một ít, tiêu một ít, đấy là cùng một chuyện. Nói tiêu nghiệp cũng được! Mà nói mang theo nghiệp (đới nghiệp) cũng được!” Tôi bảo ông ta: “Nếu chẳng mang theo nghiệp thì sẽ thành Phật hết rồi, Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh. Nếu chẳng thể đới nghiệp, phải tiêu hết nghiệp mới được vãng sanh thì Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có chư Phật và chư Phật, Đẳng Giác Bồ Tát đều chẳng có phần!”

      Nếu nói kinh điển không có bốn chữ “đới nghiệp vãng sanh” thì những gì Phật không nói quá nhiều! Tuy không có câu nói ấy, không có mặt chữ ấy, nhưng ý nghĩa thì có! Tịnh Độ có nói “ba bậc, chín phẩm” hay chăng? Có! Nếu chẳng đới nghiệp, thử hỏi làm sao giảng ba bậc, chín phẩm cho xuôi? Giảng chẳng xuôi! Đã nói “ba bậc, chín phẩm”, đương nhiên là đới nghiệp vãng sanh. Do vậy, chẳng thể dễ dãi để luận điệu của một cá nhân lay động căn bản của chính mình, khiến tín tâm của chính mình bị dao động, lầm lẫn quá lớn rồi! Nói tiêu nghiệp cũng xuông, là vì ví như sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tuy chưa đoạn phiền não, chủng tử, tập khí phiền não chưa đoạn, nhưng nhất định phải tiêu trừ phiền não hiện hành, há chẳng phải là tiêu một phần, mang theo một phần ư? Khuất phục phiền não, sức của một câu Phật hiệu chẳng chế ngự được phiền não sẽ chẳng thể vãng sanh. Đây là đạo lý nhất định!

      “Phá Kiến Tư” tức là tiêu Kiến Tư phiền não, tiêu nghiệp đấy! “Sanh vào cõi Phương Tiện là Hạnh Bất Thoái”: Tiêu trừ Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não vẫn còn, Vô Minh phiền não vẫn mang theo, há chẳng phải là tiêu một chút, mang theo một chút ư? Tiêu nhiều thì mang theo ít, tiêu ít thì mang theo nhiều; tiêu càng nhiều, phẩm vị càng cao; mang theo càng nhiều phẩm vị càng thấp, chuyện là như vậy đó. Có gì mà phải tranh cãi nữa? Chẳng cần phải tranh chấp. Cùng là một chuyện, cùng một ý nghĩa; nhưng hai câu nói này, mỗi câu có dụng ý riêng. Nói “đới nghiệp vãng sanh” thì chúng ta nghe câu này, chính mình cảm thấy Tây Phương Tịnh Độ ta có phần, ai nấy đều kiến lập cái tâm tự tin cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mang theo nghiệp vẫn được vãng sanh, được đấy! Chúng ta có hy vọng, có thể mong mỏi rồi! Nói tiêu nghiệp mới có thể vãng sanh thì cũng nhằm dụng ý khác: Hy vọng quý vị tiêu nghiệp nhiều một chút, hy vọng quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới tăng cao phẩm vị. Hai cách nói vốn không mâu thuẫn, đều hay cả! Như vậy thì sẽ tiêu trừ được cách nhìn lệch lạc của nhiều người, lại còn sốt sắng niệm Phật, nhất tâm chấp trì danh hiệu, chắc chắn có thể vãng sanh.

      Sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư là mức thấp nhất, là tối thiểu. Trong cõi Phàm Thánh đồng cư, cũng có ba bậc, chín phẩm. Trong kinh và các bản chú sớ đều nói điều này rất tường tận: Mỗi cõi trong bốn cõi đều có ba bậc chín phẩm. Do vậy, chúng ta sốt sắng đoạn phiền não; trước hết, khuất phục phiền não, công lực đạt tới mức thì sẽ tự nhiên có thể đoạn được phiền não. Công phu khuất phục phiền não cũng có sâu hay cạn khác nhau, quý vị có thể tự mình kiểm nghiệm chuyện này. Ví như niệm Phật, năm thứ nhất công phu như thế nào, năm thứ hai công phu ra sao, năm thứ ba công phu ra sao? Tự mình có thể thấy được! Bắt đầu là khuất phục phiền não. Nếu chẳng thể khuất phục phiền não, rất gắng công khuất phục phiền não, công phu tăng tấn hơn thì khuất phục phiền não chẳng tốn công sức cho lắm. Khi tiến bộ hơn, rất dễ dàng khuất phục phiền não. Từ những điều này mà có thể thấy công phu niệm Phật là sâu hay cạn, chứ không phải do niệm Phật mỗi ngày bao nhiêu câu. Quý vị một ngày niệm mười vạn tiếng, nhưng chẳng thể chế phục phiền não thì vẫn uổng công, chẳng thể vãng sanh! Công phu là do chế phục phiền não, thật sự có thể chế phục nó. Công phu tối thượng thừa là đoạn vô minh. Trần Sa, vô minh cũng phải chế phục trước, ba bậc chín phẩm do đây mà có. Do vậy, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái, sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư là Hạnh Bất Thoái.

      (Diễn) Phá trần sa, phần phá vô minh, sanh Thật Báo độ, vi Trí Bất Thoái.

      (演) 破塵沙,分破無明,生實報土,為智不退。

      (Diễn: Phá trần sa, phá một phần vô minh, sanh vào cõi Thật Báo là Trí Bất Thoái).

      Trong kinh văn gọi Trí Bất Thoái là Niệm Bất Thoái.

      (Diễn) Phá Tam Hoặc tận, sanh Tịch Quang độ, vi Vị Bất Thoái, tắc Bất Thoái danh đồng, nhi thiển thâm tự biệt.

      (演) 破三惑盡,生寂光土,為位不退。則不退名同,而淺深自別。

      (Diễn: Phá sạch Tam Hoặc, sanh vào cõi Tịch Quang là Vị Bất Thoái. Tuy cùng gọi là Bất Thoái, nhưng cạn, sâu khác nhau).

      “Phá Tam Hoặc tận” (phá sạch Tam Hoặc): Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều đoạn sạch, “sanh vào cõi Tịch Quang”, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ. “Vị Bất Thoái”: Đây là địa vị Phật, không phải là địa vị của hàng Bồ Tát. Nói cách khác, đã thành Phật, tuyệt đối chẳng lui sụt xuống địa vị phàm phu. Đây cũng là điều chúng ta rất quan tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật: “Chúng con tốn bao nhiêu thời gian tu hành như vậy, sau khi thành Phật có khởi vô minh nữa hay không? Có còn lui sụt xuống phàm phu nữa không?” Ở đây, đại sư bảo chúng ta: Thật sự đoạn sạch Tam Hoặc, trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ, tuyệt đối chẳng thoái chuyển! Dẫu thừa nguyện tái lai, thả chiếc bè Từ, vẫn chẳng thoái chuyển. Ví như Quán Âm Bồ Tát đã sớm thành Phật, Ngài quyết định chẳng thoái chuyển, tuy Ngài thị hiện làm Đẳng Giác Bồ Tát trong Tây Phương Tịnh Độ, thật ra, Ngài vẫn là Phật. Trong hội Hoa Nghiêm, Ngài xuất hiện dưới thân phận Đệ Thất Hồi Hướng Bồ Tát, Ngài vẫn là Phật. Trong hội Lăng Nghiêm, Ngài thị hiện thuộc địa vị Sơ Trụ, Ngài vẫn là Phật. Đấy là tùy loại hóa thân, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy, chắc chắn chẳng thoái chuyển. Ví như quý vị học đến học vị Tiến Sĩ, có tư cách đảm nhiệm chức vụ giáo sư đại học, mà cũng có thể làm giáo viên tiểu học. Khi làm giáo viên tiểu học, có phải là học vị Tiến Sĩ đã bị lui sụt hay không? Học vị của quý vị vẫn là Tiến Sĩ, chẳng bị lui sụt. Phật, Bồ Tát vì độ hết thảy chúng sanh, thân phận luôn chuyển biến, đấy là đại từ đại bi tùy loại hiện thân. Ở đây, nói tới bốn thứ Bất Thoái, cùng mang tên là Bất Thoái, nhưng trong ấy có sai biệt sâu hay cạn rất lớn.

      Những điều này đều nhằm giải thích công đức lợi ích do thọ trì một câu danh hiệu Di Đà, vượt trỗi sự tu hành trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chẳng ngăn cách với chư Phật và Bổ Xứ Bồ Tát mà hòa lẫn thành một khối. Chỉ cần quý vị vãng sanh Tây Phương thế giới, dẫu là hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quý vị vẫn có thể hằng ngày ở chung một chỗ với các vị Đẳng Giác Bồ Tát. Sức huân tập to lớn dường ấy! Trong hết thảy kinh luận khác chúng ta chưa hề thấy cơ duyên này! Trong hết thảy các thế giới chư Phật cũng không có, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới có nhân duyên thù thắng như vậy. Do vậy, pháp môn này mới được mười phương hết thảy chư Phật khen ngợi, kinh này chỉ nêu đại lược sáu phương Phật khen ngợi. Kinh này là kinh chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn này là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn. Kinh này vốn có tên là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Quý vị hãy suy nghĩ đề mục kinh này, chẳng thể nghĩ bàn!

      (Sớ) Chí tai nhị cú, tán từ. Chí, cực dã.

      (疏) 至哉二句,讚辭。至,極也。

      (Sớ: Hai câu “tột bực thay” là lời khen ngợi. Chí là tột bậc).

      Đạt đến chỗ cùng cực,

      (Sớ) Chí cực nhi vô dĩ gia dã.

      (疏) 至極而無以加也。

      (Sớ: Đạt đến chỗ cùng cực không còn thêm gì được nữa).

      Câu này nói thật đấy! Trong bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni nói hết thảy pháp môn, pháp môn này cao chót vót, chí cao vô thượng! Không còn có pháp môn nào cao hơn, không có pháp môn nào viên mãn hơn. Đấy là khen ngợi đến tột bực. Chúng ta nghe lời tán thán như vậy, chưa chắc đã đồng ý, vì sao? Anh tu Tịnh Độ, anh khen ngợi Tịnh Độ. Tục ngữ có câu: “Lão Vương mại qua, tự mại, tự khoa” (Ông già Vương bán dưa, tự bán, tự khoe). Há có phải Liên Trì đại sư cũng mắc cái tật ấy hay chăng? Trong phần sau, lão nhân gia nêu bày Lý - Sự đến tột cùng, chúng ta nghe xong chẳng thể không tin tưởng.

(Sớ) Diệu giả, tức thượng tứ cú tổng minh diệu nghĩa.

(疏) 妙者,即上四句總明妙義。

(Sớ: “Diệu” là bốn câu trong phần trên đã nêu tổng quát ý nghĩa của Diệu ).

Bốn câu “trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn” (lắng đục trở thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về, vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, bằng với chư thánh trong một lời) mầu nhiệm đến tột bực. Diệu dụng tột cùng vậy thay!

(Sớ) Dụng giả, lực dụng dã.

(Diễn) Lực dụng lực tự, nội hàm tam nghĩa.

      (疏) 用者,力用也。

(演) 力用力字,內含三義。

(Sớ: Dụng là lực dụng.

Diễn: Chữ Lực trong “lực dụng” bao gồm ba ý nghĩa).

      Không nói ra thì chúng ta chẳng hiểu rõ, chẳng thể tin.

(Diễn) Nhất giả, bổn tánh công đức lực.

(演) 一者、本性功德力。

(Diễn: Một là sức công đức của bổn tánh).

Đây là điều mỗi người đều có sẵn, sức ấy chẳng thể nghĩ bàn, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do sức này biến hiện ra. Tự tánh vốn sẵn có đủ, đấy là Tánh Đức. Câu thứ hai nói về Tu Đức. Tuy có Tánh Đức, nhưng nếu không có Tu Đức, Tánh Đức chẳng thể hiện tiền.

(Diễn) Nhị giả, hành nhân niệm lực.

(Diễn: Hai là niệm lực của hành nhân).

“Hành nhân” là người phát tâm tu học pháp môn Tịnh Độ, mà cũng là người phát tâm trì danh niệm Phật. Người ấy có thể niệm, chịu niệm, niệm niệm chẳng lìa Phật hiệu, chẳng khởi tâm động niệm thì thôi. Hễ khởi tâm động niệm bèn “A Di Đà Phật”. Sức ấy chẳng thể nghĩ bàn! Đấy là Tự Lực.

(Diễn) Tam giả, Di Đà nguyện lực.

(演) 三者、彌陀願力。

(Diễn: Ba là Di Đà nguyện lực).

Loại thứ ba là Tha Lực, tức “Di Đà nguyện lực”. Pháp môn này được gọi là “pháp môn Nhị Lực”, nhưng quý vị phải hiểu: Di Đà nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn! Di Đà nguyện lực tuyệt đối bình đẳng, rộng lớn, sâu xa, nhưng nếu niệm lực của bản thân chúng ta chẳng đầy đủ, sẽ chẳng thể kết thành một Thể với Di Đà nguyện lực. Di Đà nguyện lực dẫu lớn cũng không có cách nào giúp chúng ta vãng sanh. Nhất định phải thành tựu niệm lực của chính mình thì mới có thể kết thành một Thể với Di Đà nguyện lực. Như vậy thì mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Tiếp theo đây là tỷ dụ.

(Diễn) Bổn tánh như châu thuyền.

(演) 本性如舟船。

(Diễn: Bổn tánh như thuyền ghe).

Là bản thể.

(Diễn) Niệm lực như lỗ trạo.

(演) 念力如櫓棹。

(Diễn: Niệm lực như mái chèo).

      Chèo thuyền, thuyền nhỏ dùng Tương (槳: mái chèo nhỏ), thuyền lớn dùng Trạo (棹: mái chèo to).

      (Diễn) Nguyện lực như thuận phong, tam lực châu viên, tất đăng bỉ ngạn cố.

      (演) 願力如順風。三力周圓,必登彼岸故。

      (Diễn: Nguyện lực như xuôi gió. Ba lực trọn đủ, ắt lên được bờ kia).

      Câu này nói rõ vì sao quý vị có thể vãng sanh, và cũng nói rõ vì sao quý vị có thể thành tựu trong một đời, chẳng cần phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đạo lý là đây. Những pháp môn khác nói đến thành tựu, nói chung nêu ra một đạo lý khiến cho chúng ta tin tưởng, chúng ta có thể suy nghĩ, và thấy đạo lý ấy hợp lý, vậy là đúng, thì chúng ta mới có thể tin tưởng. Đạo lý này nói hết sức bình thường, chân thật. Đức Thế Tôn, A Di Đà Phật chẳng gạt người, chẳng nói: “Chỉ cần ngươi đến chỗ ta, tôn ta làm thầy, ta sẽ xoa đầu ngươi, thọ ký cho ngươi, ngươi có thể vãng sanh!” Hoặc là: “Ta cấp cho ngươi một giấy chứng nhận, trong tương lai ngươi có thể dựa vào giấy chứng nhận ấy để tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, không cần phải niệm Phật”. Trong thời kỳ Mạt Pháp, những kẻ tác quái rất nhiều, chúng sanh đúng là ngu si, mắc lừa dễ dàng! Những điều ấy là giả, chẳng phải thật, làm sao có chuyện chẳng tốn sức mà có thể vãng sanh? Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ được gọi là “dị hành đạo” (đạo dễ hành), không có pháp nào khác dễ dàng bằng! Tuy dễ dàng, nhưng chính mình phải niệm đến mức nhất tâm, đấy là điều kiện cơ bản, nhất tâm xưng niệm. Ngàn vạn phần đừng bị kẻ khác dối gạt!

      Công phu là gì? Chế phục phiền não là công phu, phá Ngã Chấp là công phu. Bất luận quý vị dùng phương pháp thiện xảo nào, nếu chẳng thể chế phục phiền não, chẳng thể phá Ngã Chấp thì đều là giả, chắc chắn chẳng phải là thật. [Nếu nghe kẻ nào khoe khoang] “dùng phương pháp này, quý vị đến nơi đây học, chẳng đầy mấy ngày bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, quý vị có tin được hay không? Quý vị cứ thử làm xem, đến học mấy ngày, khai ngộ rồi thì hãy xem sau khi khai ngộ là như thế nào. Ngộ rồi, “tôi đã khai ngộ rồi”, vẫn còn có Ngã Chấp! “Quý vị chưa khai ngộ, chứ tôi đã khai ngộ rồi”, Tứ Tướng trọn đủ: Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng trọn đủ. Phân biệt, chấp trước, tà tri, tà kiến, thứ gì cũng chẳng thể tách lìa được, người ấy khai ngộ cái gì vậy? Tăng thượng mạn! Ngạo nghễ, ngã mạn, khai ngộ rồi mà coi thường người khác! Người khác chưa khai ngộ, kẻ ấy đã khai ngộ, không để ai vào mắt, giả trất! Sau khi ngộ, tâm sẽ thanh tịnh, bình đẳng, cung kính hết thảy. Người đã ngộ sẽ tu pháp môn nào? Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, sau khi ngộ, bắt đầu tu, lấy mười đại nguyện vương làm nguyên tắc, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Người đã ngộ đối với bất cứ một ai sẽ nhất định là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính, quyết định chẳng ngạo nghễ, ngã mạn, quyết định chẳng có thói tự khen, chê người, người giác ngộ là như vậy đấy! Quý vị hãy đọc kinh Đại Thừa nhiều hơn, quý vị có thể thấy thấu suốt những màn kịch của bọn chúng, chẳng đáng ngó tới! Những kẻ ấy đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”.

     (Sớ) Phù cấu tâm nan tịnh, hỗn nhược Hoàng Hà, vọng tưởng nan thâu, dật như bôn mã, lịch Hằng sa vô số lượng chi kiếp, luân chuyển vị hưu.

      (疏) 夫垢心難淨,混若黃河,妄想難收,逸如奔馬,歷恆沙無數量之劫,輪轉未休。

      (Sớ: Tâm nhơ khó tịnh, đục như Hoàng Hà. Vọng tưởng khó gom, phóng túng như ngựa chạy cuồng, trải vô số lượng kiếp nhiều như cát sông Hằng, luân chuyển chẳng ngớt).

      Đoạn này nói tâm chúng ta có vô lượng vô biên ô nhiễm, phiền não, vô minh, tà kiến, cảm vời quả báo đời đời kiếp kiếp luân hồi sanh tử. Chúng ta phải hiểu những nỗi khổ này, khổ quá sức!

      (Sớ) Công Tam Tạng thập nhị bộ chi văn, giác lộ di viễn.

      (疏) 攻三藏十二部之文,覺路彌遠。

      (Sớ: Dốc sức nơi kinh văn trong Tam Tạng mười hai bộ loại, đường giác ngộ xa vời vợi).

      Câu nào cũng đều là lời thật.

      (Sớ) Nhi năng sử trược giả thanh, bối giả hướng, nhất niệm đốn siêu, phiến ngôn tức chứng, lực dụng chi diệu, hà khả tư nghị.

      (疏) 而能使濁者清,背者向,一念頓超,片言即證,力用之妙,何可思議。

      (Sớ: Nhưng có thể khiến cho đục biến thành trong, trái nghịch trở thành hướng về, nhanh chóng vượt thoát trong một niệm, do một lời liền chứng đắc, làm sao có thể nghĩ bàn lực dụng mầu nhiệm [của kinh A Di Đà] cho được?)

      Đoạn này nhằm giải thích lực dụng mầu nhiệm của kinh này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đọc mấy câu này phải nên tin tưởng. “Tam Tạng” (Tripitaka) là danh xưng chung của toàn bộ kinh điển trong Phật pháp. “Thập nhị bộ” (Dvādaśānga-Buddha-Vacana): Đức Phật nói kinh có mười hai phương thức, [mười hai phương thức ấy] được gọi là Thập Nhị Bộ, tức là có mười hai thể loại bất đồng. Trong lời chú giải có nêu ra tên gọi của mười hai loại ấy.

      (Diễn) Tam Tạng, vị Kinh, Luật, Luận.

  (演) 三藏,謂經律論。

      (Diễn: Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận).

      Nói chung, mọi người đều biết điều này. Còn một cách giải thích khác.

      (Diễn) Hựu Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, Thanh Văn Tạng.

      (演) 又佛藏、菩薩藏、聲聞藏。

      (Diễn: Lại còn có nghĩa là Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, và Thanh Văn Tạng).

      Phật Tạng là pháp Nhất Thừa. Theo cổ đại đức phán định, trong kinh điển chỉ có ba bộ là: Kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa thuộc Nhất Thừa Viên Giáo, có thể gọi là Phật Tạng. Kinh Phạm Võng là Nhất Thừa Biệt Giáo cũng có thể xưng là Phật Tạng. Bồ Tát Tạng là kinh Đại Thừa. Thanh Văn Tạng là kinh Tiểu Thừa. Kinh này (kinh A Di Đà) đặc biệt lắm! Nó vượt khỏi Tam Tạng mười hai bộ loại, đây chính là điều đại sư tán thán đến tột bậc. Tiếp theo là nói về mười hai bộ.

(Diễn) Thập nhị bộ, vị Tu Đa La.

(演) 十二部,謂修多羅。

(Diễn: Mười hai bộ, gồm Tu Đa La....)

Loại thứ nhất trong mười hai bộ là Tu Đa La (Sūtra), đây là tiếng Ấn Độ, có nghĩa là Khế Kinh, chuyên chỉ loại văn trường hàng, nay chúng ta gọi là “thể tài tản văn” (thể loại văn xuôi).

(Diễn) Trùng Tụng.

(演) 重頌。

Loại thứ hai là Trùng Tụng (Geya). Tụng (頌) tương tự như thi ca của Trung Quốc. Sau khi nói một đoạn khai thị, đức Phật thường dùng thể tài thi ca, câu cú rất cân đối để nhắc lại ý nghĩa một lượt. Điều này có ý nghĩa rất sâu, vì phải ghi nhớ kinh văn; nếu không nhớ kinh văn, quý vị sẽ không có cách nào quán tưởng, nhưng văn trường hàng quá dài, chẳng thuận tiện tụng thuộc. Do vậy, dùng thể tài thi ca để nhắc lại một lượt những ý nghĩa trọng yếu cho tiện tụng thuộc. Đấy là ý nghĩa thứ nhất. Còn một ý nghĩa khác nữa: Hội giảng kinh không giống như dạy học trong nhà trường, học sinh cố định, đến giờ lên lớp, mọi người đều có mặt. Ở nơi giảng kinh thì có kẻ đến trước, người đến sau, có khi đã giảng kinh được một nửa rồi họ mới tới. Đức Phật hết sức từ bi, đối với những người đến sau chưa nghe được nửa phần trước, Phật dùng kệ tụng để nhắc lại những ý chính trong phần trước một cách đơn giản, khiến cho người đến sau cũng có thể nắm được ý nghĩa hoàn chỉnh. Đấy là phương cách đại từ đại bi, cho nên trong kinh thường có Trùng Tụng. Trong kinh Hoa Nghiêm, Kệ Tụng hết sức nhiều, gần như sau mỗi đoạn văn trường hàng đều có một đoạn Kệ Tụng, quá nửa những đoạn Kệ Tụng ấy là Trùng Tụng, cho thấy Phật thật sự từ bi!

(Diễn) Thọ Ký.

(演) 授記。

Loại thứ ba là Thọ Ký (Vyākarana), tức là dự ngôn (lời tiên đoán), có thể đoán trước quý vị sẽ thành Phật khi nào trong tương lai, ở trong thế giới nào, Phật có danh hiệu là gì, thế giới có tên gọi là gì, quý vị sẽ giảng kinh bao nhiêu hội tại đó, độ bao nhiêu chúng sanh. Thế nhưng để được thọ ký phải có điều kiện: Gần như là đã đạt đến Thập Địa Bồ Tát mới được thọ ký, vì vị ấy chẳng bao lâu sẽ thành Phật. Đang là hạng phàm phu sát đất thì sẽ thọ ký điều gì cho quý vị? Trong Phật pháp, đó là thọ ký quý vị sẽ thành Phật.

(Diễn) Cô Khởi Tụng.

(演) 孤起頌。

       Loại thứ tư là Cô Khởi Tụng (Gāthā), đây cũng là Kệ Tụng. Loại Kệ Tụng này không phải là Trùng Tụng, mà nhằm để nói những điều chưa được nói tới trong phần trước. Do vậy, loại Kệ Tụng này không nhiều. Những điều chưa được nói đến trong phần trước, sẽ dùng Kệ Tụng để bổ sung, khiến cho ý nghĩa hoàn chỉnh hơn. Hoặc là đối với những điều đã nói tới trong phần trước, ngay khi ấy có người hỏi, trong thính chúng có nghi vấn, tuy [người có nghi vấn ấy] chưa nêu ra, nhưng trong tâm đã dấy lên ý niệm, Phật liền biết ngay (Phật có Tha Tâm Thông), Ngài bèn dùng Cô Khởi Tụng để trả lời. Trong kinh Đại Thừa chúng ta thường thấy Phật trả lời câu hỏi của chúng sanh, có trường hợp là “ý thỉnh” (trong tâm muốn hỏi), hoàn toàn chẳng phải là ngôn ngữ. Trong tâm có ý nghĩ ấy, đức Phật liền biết ngay, giảng cho họ.

      (Diễn) Vô Vấn Tự Thuyết.

      (演) 無問自說。

      Loại thứ năm là Vô Vấn Tự Thuyết (Udāna). Pháp môn này nhất định phải là pháp môn rất đặc biệt. Quy củ thuyết pháp của đức Phật nhất định là phải có người thỉnh pháp rồi mới thuyết pháp. Nói chung là có người khải thỉnh, có như vậy thì mọi người mới tôn trọng Phật pháp. Không có ai đến hỏi, mà Phật tự nói thì pháp môn ấy có hai ý nghĩa:

      - Ý nghĩa thứ nhất là cơ duyên [của thính chúng] chín muồi.

      - Ý nghĩa thứ hai là [pháp sẽ được nói ấy] hết sức trọng yếu, tuy mọi người không hỏi vẫn phải nên nói.

      Kinh Di Đà thuộc loại Vô Vấn Tự Thuyết. Kinh này tuy không có ai khải thỉnh, nhưng duyên đã chín muồi, người trong thế giới này có thể tu pháp môn này, pháp môn này sẽ khiến cho quý vị thành tựu rất nhanh chóng. Do vậy, kinh này hết sức trọng yếu. Nói thật ra, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa đều chẳng trọng yếu bằng kinh này. Nay quý vị học Hoa Nghiêm, học Pháp Hoa, chẳng thể vãng sanh trong một đời, chỉ có thể gieo thiện căn mà thôi! Chiếu theo phương pháp này để tu hành, sẽ có thể thành tựu trong một đời. Pháp môn này có thể thành tựu ngay trong một đời, quyết định thành tựu. Do vậy, pháp môn này chẳng thể không nói.

       (Diễn) Nhân Duyên, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị.

      (演) 因緣,譬喻,本事,本生,方廣,未曾有,論議。 

      Loại thứ sáu là Nhân Duyên (Nidāna), loại thứ bảy là Thí Dụ (Avadāna), loại thứ tám là Bổn Sự (Itivrttaka), loại thứ chín là Bổn Sanh (Jātaka). Bổn Sự và Bổn Sanh đều là Phật kể những câu chuyện hoặc công án trong khi Ngài còn tu nhân, đều là những chuyện tu hành trong quá khứ để chúng ta tham khảo, hiểu đức Phật đã tu hành thành tựu như thế nào trong đời đời kiếp kiếp, nêu gương cho chúng ta. Loại thứ mười là Phương Quảng (Vaipulya). Phương Quảng là danh xưng chung của các kinh Đại Thừa, Lý phương chánh (chính xác, chân thật), Dụng quảng đại (rộng lớn). Loại thứ mười một là Vị Tằng Hữu (Adbhutadharma), những điều được giảng trong kinh đều chẳng thể nghĩ bàn, là những Lý và Sự hết sức hy hữu. Loại thứ mười hai là Luận Nghị (Upadeśa), đây là những thứ nghiên cứu, thảo luận, và rất nhiều cuộc vấn đáp của các đệ tử Phật nhằm thảo luận vấn đề.

      Trong kinh Phật có mười hai thể tài, cổ nhân dịch là “mười hai bộ kinh”. Mười hai bộ kinh chính là toàn thể kinh điển nhà Phật. Nếu hiểu kinh Phật chỉ có mười hai bộ là sai! Trong mỗi loại này, không biết có bao nhiêu bộ kinh! Về sau, cổ đại đức sợ người ta nhìn mặt chữ hiểu lầm nên dịch thành “mười hai phần giáo”, như vậy sẽ chẳng dễ gì hiểu lầm! Trong từ ngữ “mười hai phần giáo”, “phần” là bộ phận, cũng có thể hiểu là chủng loại, tức là có mười hai phương thức dạy học. Đây là giới thiệu đơn giản về Tam Tạng Thập Nhị Bộ.

      “Công Tam Tạng thập nhị bộ chi văn” (dốc sức nơi văn tự của Tam Tạng mười hai phần giáo): Nếu quý vị thật sự phát tâm đọc Đại Tạng Kinh, thâm nhập kinh tạng, “giác lộ di viễn” (đường giác ngộ xa vời): Kinh văn dài quá, khai ngộ xa vời vợi không kỳ hạn, khó quá! Vừa bắt đầu đọc thì đọc phần trước chẳng biết phần sau, xem đến phần sau lại quên sạch phần trước, vô ích! Lại không có khả năng vừa xem qua liền chẳng quên, nói chung là được phần trước, sót phần sau. Ở đây, đại sư khuyên chúng ta đừng theo phương cách này, phải buông xuống, chuyên dốc sức nơi một bộ kinh, đại sư có ý này. Hãy chuyên dốc sức nơi một bộ kinh, chuyên niệm một câu A Di Đà Phật thì quý vị mới có khả năng thành công. Nếu chẳng dùng phương pháp này, muốn dùng biện pháp khác để thành công, tôi bảo quý vị: Tôi không tin. Quý vị tu Thiền hay Mật, tôi đều chẳng tin! Tôi chưa tham Thiền, nhưng kinh điển trọng yếu của nhà Thiền là Đàn Kinh, Đại Châu Hòa Thượng Ngữ Lục, Vĩnh Gia Đại Sư Thiền Tông Tập, Chứng Đạo Ca, tôi đều đã giảng qua. Tôi chẳng phải là kẻ xa lạ với Thiền, lý luận, phương pháp, cảnh giới nhà Thiền tôi đều hiểu. Đối với Mật, cũng không phải là kẻ xa lạ. Tôi theo Chương Gia đại sư, tôi thân cận Ngài ba năm, những cách thức trong Mật Tông tôi cũng biết rất nhiều, chẳng thể lừa tôi được! Do vậy, quý vị nói có thể thành tựu nhờ pháp môn nào đó, tôi không tin. Pháp môn Niệm Phật có thể thành tựu, tôi tin sâu xa chẳng nghi, chắc chắn có thể thành công. Nay đã hết giờ rồi!

Tập 20     

      Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi hai:

      (Sớ) Dụng tùng Thể Tướng nhi xuất, cố chỉ ngôn diệu dụng dã.

  (疏) 用從體相而出,故止言妙用也。

      (Sớ: Dụng do Thể và Tướng mà có, nên chỉ nói đến diệu dụng).

      “Dụng” là tác dụng, nhất định là phải nương vào Lý Thể hiện tướng mà sanh ra.

      (Diễn) Dụng tùng Thể Tướng nhi xuất giả, Phật chứng bình đẳng Chân Như hằng sa tánh đức.

       (演) 用從體相而出者。佛證平等真如恆沙性德。

      (Diễn: “Dụng do Thể Tướng mà có”: Phật chứng hằng sa tánh đức của Chân Như bình đẳng).

      Câu này nói về Thể. “Phật” được nói ở đây chính là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, đặc biệt là Phật trong Viên Giáo, mà cũng là nói những vị đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là “bình đẳng Chân Như”“Hằng sa tánh đức”: Ở đây, hai chữ “Hằng sa” (cát sông Hằng) hình dung ý nghĩa vô lượng vô biên, hình dung đức dụng của bổn tánh, tức là tác dụng của nó. Những tác dụng ấy vốn sẵn có đầy đủ, chẳng phải do học từ bên ngoài mà có. Trong câu này, chúng ta đặc biệt chú ý chữ “bình đẳng”. Nay chúng ta tu học, chẳng thể chứng quả, chẳng thể khai ngộ, là vì tâm chẳng bình đẳng. Đấy là vấn đề lớn! Vì sao tâm chẳng bình đẳng? Chấp trước cứng ngắc, Ngã Chấp, Pháp Chấp. Thật sự học Phật, thật sự tu hành, ắt phải chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí. Cổ nhân thường nói: “Tu hành quan trọng là chuyển thức thành trí”. Câu nói này là chân lý ngàn vạn phần chính xác, vĩnh viễn chẳng thay đổi. Tâm bình đẳng chính là chân tâm, tướng bình đẳng là như như. Tác dụng của tâm tướng bình đẳng là “Hằng sa tánh đức”. Chúng ta phải nỗ lực tại chỗ này, trong mười hai thời, hễ tâm vừa mới bất bình đẳng (vừa mới phát hiện bất bình đẳng) liền phải dấy lên Phật hiệu, Phật hiệu đánh thức cái tâm mê của chúng ta, khiến cho tâm bất bình đẳng khôi phục sự bình đẳng. Bình đẳng mới là bình thường, đúng mực, bất bình đẳng chẳng phải là bình thường, đúng mực. Đức Phật đã chứng bình đẳng. Nói cách khác, chẳng những thức thứ sáu và thức thứ bảy đã chuyển thành Diệu Quán Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí, năm thức trước và thức thứ tám cũng chuyển. Chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chuyển năm thức trước thành Thành Sở Tác Trí.

      (Diễn) Nhiên hậu lưu xuất Báo, Hóa chi Dụng, diễn thuyết thử kinh, thị Như Lai chi Dụng, cố tùng Thể Tướng nhi xuất.

      (演) 然後流出報化之用演說此經,是如來之用,固從體相而出。

      (Diễn: Rồi mới lưu xuất tác dụng của Báo Thân và Hóa Thân, diễn nói kinh này. Đấy là Dụng của Như Lai vốn do Thể và Tướng mà có).

      Kinh này không đơn giản! Nó từ hằng sa tánh đức của Chân Như bình đẳng lưu lộ. Kinh là như vậy, mà Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng là như vậy. Chứng đắc cái Thể bình đẳng của Chân Như rồi mới hiện tướng Hóa Thân và Báo Thân. Báo Thân Phật diễn nói kinh A Di Đà cho bậc Địa Thượng Bồ Tát, còn Hóa Thân Phật vì lục đạo phàm phu, Quyền giáo, Tiểu Thừa mà diễn nói kinh này. Đấy là đại dụng thuộc quả báo nơi địa vị Như Lai, “vốn từ thể tướng mà có”, cố nhiên nó thật sự từ Chân Như Lý Thể Thật Tướng lưu xuất.

      (Diễn) Kim chúng sanh y kinh niệm Phật.

      (演) 今眾生依經念佛。

      (Diễn: Nay chúng sanh vâng theo kinh, niệm Phật).

      Kinh văn của bộ kinh này, Phật hiệu, từng tiếng đều tương ứng với Như Lai Thể Tướng. Nếu chẳng hiểu rõ đạo lý trong ấy, làm sao một câu Phật hiệu của chúng ta có thể tương ứng với Thể - Tướng - Dụng của Như Lai bổn tánh cho được? Thể - Tướng - Dụng được nói đến ở đây chính là ba chữ Đại Phương Quảng trong tựa đề kinh Hoa Nghiêm, ba chữ này đều nhằm tán thán: Đại là tán thán Thể, Phương là tán thán Tướng, Quảng là tán thán Dụng. Do vậy, làm thế nào để một câu Phật hiệu của chúng ta tương ứng với Đại Phương Quảng? Chẳng hiểu rõ đạo lý này, quả thật sẽ chẳng tương ứng. Vì chẳng tương ứng nên hiệu quả thành tựu không to, chẳng rõ ràng. Nếu mỗi tiếng đều tương ứng thì hiệu quả sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư nói mấy câu này nhằm khích lệ chúng ta, khuyên chúng ta hãy giác ngộ, vâng theo kinh mà niệm Phật.

      (Diễn) Đốn siêu tức chứng, diệc dĩ bổn hữu Chân Như, bổn cụ tánh đức, phương hữu như thị lực dụng, cố vân: “Tùng Thể Tướng nhi xuất” dã.

      (演) 頓超即證,亦以本有真如,本具性德,方有如是力用,故云從體相而出也。

      (Diễn: Đốn siêu, liền chứng, cũng là do Chân Như vốn có, tánh đức vốn sẵn đủ, nên mới có lực dụng như vậy. Vì thế nói: “Từ Thể và Tướng mà có”).

      Đây là chúng ta phải tương ứng với chư Phật và Thể - Tướng - Dụng như thế nào. “Đốn siêu, tức chứng”: Cho thấy chẳng cần phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Cổ nhân nói: “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Đấy chính là “đốn siêu, tức chứng” (nhanh chóng vượt thoát, chứng ngay lập tức). Trong Thông Tán Sớ, đại sư Khuy Cơ đặc biệt tán thán kinh A Di Đà là đại pháp viên đốn; kinh nói có thể thành tựu từ một ngày cho đến bảy ngày. Trong hết thảy các kinh khác, chúng ta chưa hề thấy nói như vậy; nhưng chúng ta cũng đã từng dự không ít Phật Thất, tham dự xong vẫn là phàm phu. Nói cách khác, chẳng biến đổi tí nào, khi vào trong đạo tràng Phật Thất như thế nào thì xong bảy ngày vẫn giống hệt như vậy! Bảy ngày niệm Phật chẳng đắc pháp! Chẳng hiểu lý, chẳng đắc pháp, bảy ngày đã uổng công. Nếu đúng lý, đúng pháp, lẽ nào lại như vậy? “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Niệm bảy ngày như vậy, lẽ đâu chẳng thành Phật? Do vậy, từng tiếng Phật hiệu đều phải niệm từ “Chân Như vốn có, vốn sẵn tánh đức”.

      Từ Thể - Tướng, đức Phật lưu xuất kinh điển, nếu chúng ta nương theo kinh điển thì cũng phải lưu nhập Thể Tướng, Dụng ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Đây chính là ý nghĩa “tiếp dẫn”. Từ Thể - Tướng, đức Phật lưu xuất kinh điển nhằm tiếp dẫn chúng ta, chúng ta nương theo kinh điển này, dùng phương pháp niệm Phật, sẽ “đốn siêu, tức chứng”. “Siêu” là vượt thoát sanh tử, vượt thoát mười pháp giới, chứng ngay Chân Như bình đẳng. Diệu dụng ấy thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, trong lời Sớ, Liên Trì đại sư nói “cố chỉ ngôn diệu dụng dã” (vì thế, chỉ nói tới diệu dụng).

      (Sớ) Mạt cú kết quy, ngôn như thị diệu dụng đương thị hà kinh.

      (疏) 末句結歸,言如是妙用當是何經。

      (Sớ: Câu cuối là lời quy kết, nói rõ diệu dụng như vậy thuộc về kinh nào).

      Sau khi thấy diệu dụng ấy, ai mà chẳng hâm mộ, mong cầu? Kinh nào vậy? Ở đây, đại sư nói rất rõ ràng.

      (Sớ) Duy Phật Thuyết A Di Đà Kinh, túc dĩ đương chi.

      (疏) 惟佛說阿彌陀經,足以當之。

      (Sớ: Chỉ có Phật Thuyết A Di Đà Kinh, đáng được như vậy).

      Trong Tam Tạng kinh điển, tức là những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, nói đến “đốn siêu, tức chứng” (nhanh chóng vượt thoát, chứng ngay lập tức) thì bốn dòng kinh văn này đã nói rõ lý “đốn siêu tức chứng”. Nếu không có lý luận mà nói “đốn siêu, tức chứng”, chúng ta chẳng tin. Chúng ta cũng đã từng thí nghiệm, niệm nhiều năm như thế mà vẫn chẳng đốn siêu, cũng chẳng tức chứng! Dựa vào đâu mà nói như vậy? Ở đây, Lý ấy đã được nêu ra, chúng ta suy nghĩ, thấy thật sự có lý. Trong quá khứ, chúng ta niệm Phật lệch lạc, sai lầm rất lớn, từng tiếng Phật hiệu chẳng tương ứng với Thể, Tướng, Dụng, từng tiếng chẳng tương với hằng sa tánh đức trong Chân Như bình đẳng. Tuy hằng ngày đều niệm, nhưng chẳng thể đốn siêu, mà cũng chẳng thể chứng nhập. Chúng ta phải nên suy nghĩ sâu xa điều này, phải nghiêm túc phản tỉnh, sửa đổi.

      Tiếp theo đây, đại sư đặt ra một đoạn vấn đáp nhằm xiển minh [lý luận ấy] và phá trừ sự nghi hoặc của chúng ta. Có nghi ắt phải đoạn trừ, bởi nghi là chướng ngại rất lớn. Nghi vốn là một loại trong các phiền não căn bản “tham, sân, si, mạn, nghi”. Hoài nghi điều gì vậy? Hoài nghi thánh giáo! Do vậy, đối với lý luận, phương pháp tu hành, cảnh giới chứng đắc trong kinh điển và Thể, Tướng, Dụng đều phải hiểu rõ ràng, chẳng hoài nghi, sẽ có ích rất lớn cho sự chứng đắc. Nếu có hoài nghi thì nói chung là sẽ có chướng ngại.

      (Sớ) Hoặc vấn.

      () 或問。

      (Sớ: Nếu hỏi).

      Nếu có ai hỏi như thế này, nêu câu hỏi giống như thế này.

      (Sớ) Tiểu Thừa thả trí.

      () 小乘且置。

      (Sớ: Không nói tới Tiểu Thừa).

      “Trí” (置) là bỏ qua, gạt qua một bên. Chúng ta không bàn tới pháp Tiểu Thừa, vì sự tu chứng của Tiểu Thừa chỉ đạt tới A La Hán, chỉ đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng phải là pháp rốt ráo, chúng ta tạm để nó qua một bên.

      (Sớ) Chỉ như chư Đại Thừa kinh, quảng như sơn tích, vân hà diệu dụng thiên tán thử kinh?

  (疏) 只如諸大乘經,廣如山積,云何妙用偏讚此經。

      (Sớ: Còn như các kinh Đại Thừa rộng lớn chất chồng như núi, sao lại riêng khen ngợi diệu dụng của kinh này?)

      Lời hỏi này rất có lý! Kinh Đại Thừa rất nhiều. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Lăng Nghiêm, Lăng Già cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nhiều kinh như vậy chẳng tán thán, vì sao khư khư khen ngợi kinh A Di Đà? Chẳng lẽ kinh Hoa Nghiêm chẳng bằng kinh A Di Đà ư? Kinh Pháp Hoa cũng chẳng bằng ư? Lục Tổ Đàn Kinh của Thiền Tông cũng chẳng bằng ư? Những kinh luận của Mật Tông cũng chẳng bằng ư? Thưa quý vị, đúng là chẳng bằng! Chẳng giả một tí nào, quyết chẳng phải là xử sự theo cảm tình! Gạt bỏ cảm tình, thuần là quan sát khách quan thì mới hiểu được cái hay của bộ kinh này. Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh này thì toàn bộ bổn hoài xuất thế độ sanh mới được tỏ lộ, được thực hiện đạt đến mức viên mãn thật sự. Liên Trì đại sư đã tự đặt ra câu hỏi này rồi Ngài tự giải đáp.

       (Sớ) Đáp: Tu-đa-la trung.

       (疏) 答:脩多羅中。

      (Sớ: Đáp: Trong các Khế Kinh).

      “Tu-đa-la” chỉ hết thảy kinh Đại Thừa.

(Sớ) Tuy cụ hữu thử nghĩa, vị hữu như thử kinh chi minh thả giản giả.

      (疏) 雖具有此義,未有如此經之明且簡者。

      (Sớ: Tuy có đầy đủ nghĩa ấy, nhưng chẳng được rõ ràng và đơn giản như kinh này).

      Trong các kinh Đại Thừa có ý nghĩa này, lại còn phổ biến hơn, nhưng rõ rệt, tinh thuần, đơn giản như kinh này thì không có kinh nào sánh bằng A Di Đà Kinh.

      (Sớ) Cố phù xứng tánh nhi đàm, chánh trực nhi thuyết, phi bất viên đốn.

      (Diễn) Xứng tánh nhi đàm chỉ Hoa Nghiêm, chánh trực nhi thuyết chỉ Pháp Hoa.

      (Sớ) Nhi trừng trược phản bối, phương tiện vị chương.

      (Diễn) Phương tiện vị chương giả.

      (疏) 故夫稱性而談,正直而說,非不圓頓。

(演) 稱性而談指華嚴,正直而說指法華。

(疏) 而澄濁返背,方便未彰。

(演) 方便未彰者。

      (Sớ: Vì thế, đàm luận xứng tánh, giảng nói chánh trực, không gì chẳng viên đốn.

      Diễn: “Đàm luận xứng tánh” chỉ kinh Hoa Nghiêm, “giảng nói chánh trực” chỉ kinh Pháp Hoa.

      Sớ: Nhưng phương tiện “lắng đục, xoay ngược sự trái nghịch” chưa được nêu bày.

      Diễn: “Phương tiện chưa được nêu bày” là....)

      Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là Nhất Thừa Viên Giáo, nhưng đối với phương tiện “lắng đục, hướng về” quả thật chẳng nói đơn giản, trọng yếu, rõ ràng, cặn kẽ như kinh A Di Đà. Đơn giản, trọng yếu, rõ ràng, cặn kẽ, thuận tiện thọ trì, lại tiện tu học. Tiếp theo đây, sách Diễn Nghĩa giải thích đạo lý ấy, chỉ rõ chỗ thù thắng của bộ kinh này.

      (Diễn) Dĩ Hoa Nghiêm duy đàm tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức, tương nhập, đế võng trùng trùng, lục tướng, thập huyền, tứ chủng pháp giới đẳng.

      (演) 以華嚴唯談性海圓融,緣起無礙,相即相入,帝網重重,六相十玄四種法界等。

      (Diễn: Do kinh Hoa Nghiêm chỉ bàn về tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, mọi pháp chính là lẫn nhau, dung nhập lẫn nhau, lưới Thiên Đế trùng trùng, sáu tướng, mười huyền môn, bốn thứ pháp giới v.v...).

      Mấy câu này đã nêu ra đại ý của kinh Hoa Nghiêm. Từ mấy câu này, có thể thấy được sự rộng lớn, tinh vi, sâu xa của kinh Hoa Nghiêm. Trong hết thảy các kinh, chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm là viên mãn nhất, là sách giáo khoa rốt ráo nhất. Bất luận giảng về Sự, về Lý, về phương pháp, hay cảnh giới, không gì chẳng viên dung. Kinh Hoa Nghiêm có kích thước lớn, kinh văn dài. Do vậy, có thể đàm luận xứng tánh, không bị bó buộc chút nào. “Tánh hải viên dung”: Tánh là Chân Như bổn tánh sẵn có. Nếu quý vị nghĩ Tánh thuộc về Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, hay Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng liên can gì đến ta, quý vị đã sai rồi! Một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh hoàn toàn giảng về chính mình, giảng rõ nhân sinh vũ trụ sẵn có, nhân sinh là chính mình, vũ trụ vẫn là chính mình. “Duyên khởi vô ngại” là nói tới sâm la vạn tượng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, là pháp duyên sanh, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.

      “Tương tức tương nhập, đế võng trùng trùng” đều nói tới vô ngại. Hết thảy pháp không gì chẳng chính là lẫn nhau, không gì chẳng dung nhập lẫn nhau. “Đế võng trùng trùng” là tỷ dụ sự trùng trùng vô tận. Ý nghĩa vô tận này cũng được phô bày rõ rệt trong kinh Hoa Nghiêm, cảnh giới này rất khó hiểu. Cổ nhân bất đắc dĩ dùng hai tấm gương to đặt song song với nhau, tức là gương chiếu gương, hình ảnh của người đứng giữa hai tấm gương đó phản chiếu vô cùng tận, “trùng trùng vô tận, tương tức tương nhập”, lãnh ngộ ý nghĩa này. Hết thảy các pháp trong pháp giới, không pháp nào chẳng như vậy, chỉ là chúng ta chẳng thể quan sát, chẳng thể nhận biết, không thấy được chân tướng sự thật này. “Lục tướng” là [sáu tướng] đồng thời [tồn tại trên phương diện sự tướng]: Tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, đồng thời trọn đủ, hiển thị hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, duyên khởi tánh Không. Chúng tôi đã từng giảng về lục tướng và thập huyền môn khi giảng Hoa Nghiêm Luân Quán. “Tứ chủng pháp giới” là Sự Vô Ngại, Lý Vô Ngại, Lý Sự Vô Ngại, Sự Sự Vô Ngại. Đây là chân tướng của nhân sinh, vũ trụ, mà cũng là Thật Tướng của các pháp, đều được giảng rất rõ ràng, rành rẽ, kinh Hoa Nghiêm câu nào cũng nói lời thật.

      (Diễn) Nhị Thừa hiền thánh, thượng như lung á.

      (演) 二乘賢聖,尚如聾啞。

      (Diễn: Hiền thánh Nhị Thừa còn giống như điếc, câm).

      Nhị Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác. Thánh nhân là A La Hán và Bích Chi Phật. Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả là hiền nhân. Trong hội Hoa Nghiêm, các vị ấy như điếc, như câm, “lung” (聾) là không nghe được, “á” (啞) là không có cách nào nêu lên câu hỏi. Họ hoàn toàn không hiểu, muốn hỏi cũng không có cách nào hỏi được.

(Diễn) Mạt pháp hạ phàm khởi năng tu chứng? Cố phương tiện vị chương.

(演) 末法下凡,豈能修證,故方便未彰。

(Diễn: Hàng phàm phu căn cơ bậc hạ đời Mạt Pháp làm sao có thể tu chứng được? Vì thế, phương tiện chưa được phô bày. )

Phàm phu căn tánh hạ liệt đời Mạt Pháp làm sao có thể tu? Làm sao có thể chứng cho được? Kinh Hoa Nghiêm tuy có phương tiện, nhưng chưa rõ rệt, “chương” (彰) là phơi bày rõ rệt. Không phải là kinh Hoa Nghiêm không hay, nhưng nếu chúng ta hỏi vì sao bậc Nhị Thừa nghe kinh Hoa Nghiêm không hiểu? Quý vị phải biết, bậc Nhị Thừa vẫn còn có Pháp Chấp kiên cố. Do vậy, họ chẳng thể lãnh hội ý nghĩa của kinh. Hoa Nghiêm là cảnh giới của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Pháp Thân đại sĩ đã phá Ngã Chấp lẫn Pháp Chấp, nên các Ngài có thể thâm nhập. Nếu hai thứ Ngã Chấp và Pháp Chấp đều phá thì đọc kinh Hoa Nghiêm sẽ giống như đọc văn chương của chính mình mới thấy thú vị, mới thấu hiểu. Trong các buổi giảng, tôi thường nói: Nhị Chấp (Ngã Chấp và Pháp Chấp), Tam Chướng (Phiền Não Chướng, Sở Tri Chướng, và Nghiệp Chướng) chướng ngại tu hành, chướng ngại hiểu biết ý nghĩa. Quý vị có chướng ngại, có chấp trước, nghe kinh chẳng thể khai ngộ, nghe không hiểu, đối với những bộ kinh Đại Thừa chẳng tìm được cửa để vào, gốc bệnh là ở chỗ này. Nếu phá sạch hai thứ chấp, Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng đều đoạn, hết thảy các bộ kinh Đại Thừa có khi nào chẳng phải là cảnh giới chính mình sẵn có? Lời lẽ của đức Thế Tôn có bao giờ chẳng phải là lời lẽ của chính mình? Không khác gì hết! Đoạn này có ý nói: Kinh Hoa Nghiêm đàm luận xứng tánh tuy hay, nhưng chúng ta không thể lãnh hội được.

(Diễn) Pháp Hoa chánh trực xả phương tiện, đản thuyết vô thượng đạo, khai phương tiện môn, thị chân thật tướng, khai Quyền, hiển Thật, hội tam quy nhất, giai bất minh thị tấn tu phương tiện, cố diệc phương tiện vị chương.

(演) 法華正直捨方便,但說無上道,開方便門,示真實相,開權顯實,會三歸一,皆不明示進修方便,故亦方便未彰。

(Diễn: Pháp Hoa thẳng thừng bỏ phương tiện, chỉ nói tới đạo vô thượng, mở cửa phương tiện, nêu bày tướng chân thật, khai Quyền, hiển Thật, gộp tam thừa về nhất thừa, nhưng đều chẳng chỉ bày rõ ràng phương tiện tấn tu, nên cũng chưa phô bày phương tiện).

      Đoạn này phê bình kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa hay! Cũng là Viên Giáo Nhất Thừa, không bàn cãi gì nữa. Kinh Pháp Hoa khai Quyền hiển Thật: Quyền là pháp phương tiện, Thật là pháp chân thật. “Pháp Hoa chánh trực xả phương tiện”: Thẳng thừng gạt bỏ pháp phương tiện, “đản thuyết vô thượng đạo” (chỉ giảng về đạo vô thượng). Nhìn chung, những điều được nói trong cả bộ kinh không gì chẳng nhằm “khai phương tiện môn, thị chân thật tướng” (mở cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật), dùng phương thức phương tiện thiện xảo để chỉ bày Thật Tướng của các pháp, “khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất”. Đấy chính là nội dung của kinh Pháp Hoa. “Chư Phật sở chứng chi pháp, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (Pháp được chư Phật chứng chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, mà cũng không ba), nói rõ Nhị Thừa và Tam Thừa đều là phương tiện tiếp dẫn, Phật pháp thật sự chỉ có pháp Nhất Thừa.

      Trong kinh Pháp Hoa chưa từng chỉ rõ phương pháp tu hành. Chúng ta đọc kinh Pháp Hoa, cách tu như thế nào? Thiên Thai đại sư của Trung Quốc sáng lập một phương pháp tu hành là Tam Chỉ Tam Quán, đấy chính là phương pháp tu học của Pháp Hoa Tông. Tam Chỉ Tam Quán hết sức mầu nhiệm. Thuở ấy, có nhiều vị cao tăng Ấn Độ sang Trung Quốc, thấy phương pháp tu hành do Thiên Thai đại sư đề xướng, phương pháp ấy do Ngài ngộ từ kinh Pháp Hoa bèn hết sức khen ngợi Thiên Thai đại sư. Họ còn nói phương pháp Nhất Tâm Tam Quán do đại sư sáng lập hết sức giống với Xa-ma-tha, Tam-ma và Thiền-na được giảng trong kinh Lăng Nghiêm lưu truyền tại Ấn Độ. Do vậy, người Hán mới biết còn có một bộ kinh Đại Thừa là kinh Lăng Nghiêm. Các vị cao tăng từ Ấn Độ sang Trung Quốc mang theo nhiều kinh điển, nhưng chẳng cầm theo kinh Lăng Nghiêm. Pháp sư Trung Quốc sang Ấn Độ thỉnh kinh, du học, cũng chưa hề đọc kinh Lăng Nghiêm. Người Ấn Độ tiếc pháp, hết thảy các kinh đều có thể truyền cho ngoại quốc, nhưng kinh Lăng Nghiêm được coi là quốc bảo, bí mật cất giấu, chỉ truyền cho người trong nước, chẳng truyền cho người ngoại quốc. Do vậy, ngày nay Ấn Độ gặp phải đại nạn: Phật pháp đoạn diệt là do quả báo tiếc pháp đấy! Chúng ta nên cảnh giác điều này. Tiếc tài sản mắc quả báo bần cùng, tiếc pháp mắc quả báo ngu si. Vì lẽ đó, Ấn Độ hiện nay không có Phật pháp.

      Kinh Lăng Nghiêm truyền sang Trung Quốc quả thật chẳng dễ dàng! Khi ấy, Thiên Thai đại sư muốn sang Ấn Độ, đâu phải là chuyện dễ! Giao thông không thuận tiện, đi đường bộ phải mất hai, ba năm, không đơn giản! Do vậy, tại núi Thiên Thai, lão nhân giaxây một cái đài bái kinh hướng về phía Tây, hằng ngày lễ bái trên đài, cầu cho kinh Lăng Nghiêm sớm có ngày truyền sang Trung Quốc. Ngài lễ bái suốt mười tám năm, mãi cho đến khi viên tịch, kinh vẫn chưa truyền sang. Do vậy, Thiên Thai đại sư chưa hề đọc kinh Lăng Nghiêm. Người Trung Quốc tuy không đi xin kinh, nhưng suốt mười tám năm lễ bái không gián đoạn, có tinh thần ấy mà vẫn chưa chiêu cảm được. Đến đời vua Trung Tông nhà Đường, cao tăng Ấn Độ là Bát Lạt Mật Đế[3] lén đem kinh này, gạt được hải quan, mang tới Trung Quốc. Người Trung Quốc như có được món quý báu nhất, lại gặp được Phòng Dung là một vị học giả hạng nhất trong nước tham gia phiên dịch.

      Ngài Thiên Thai dùng phương pháp tu hành là Tam Chỉ Tam Quán, hoặc như kinh Lăng Nghiêm gọi là Xa-ma-tha, Tam-ma và Thiền-na, hàng phàm phu đời Mạt Pháp cũng chưa chắc đã có thể thành tựu được. Quý vị nghĩ xem: Ngày nay có bao nhiêu người học Thiền? Người học Thiền chưa chắc đã biết dùng Chỉ Quán, chưa chắc đã biết dùng phương tiện trong kinh Lăng Nghiêm, tức phương tiện đầu tiên nhất. Xa-ma-tha là tối sơ phương tiện, Tam-ma là sơ phương tiện, Thiền-na là phương tiện. Phương tiện, sơ phương tiện, tối sơ phương tiện, chẳng dễ dàng! Trong quá khứ, tôi đã giảng kinh Lăng Nghiêm rất nhiều lượt, kể như tôi đã có kinh nghiệm đối với những bộ kinh lớn ấy, phản tỉnh, kiểm thảo cặn kẽ nhiều năm như thế, mới thật sự phát hiện kinh A Di Đà có giá trị chẳng thể nghĩ bàn. Ở đây, đối với hai bộ kinh lớn thuộc Viên Giáo Nhất Thừa, đại sư đều nói “phương tiện vị chương”, [tức là] chưa nêu rõ phương tiện, chúng ta rất khó nắm bắt. Hai bộ kinh lớn đã như thế thì các kinh khác không cần phải nói nữa!

      (Sớ) Kỳ dư pháp môn, hoặc hạo bác nhi nan trì, hoặc u thâm nhi võng thố.

      (Diễn) Hạo bác nan trì, như quảng tu vạn hạnh đẳng.

      (疏) 其餘法門,或浩博而難持,或幽深而罔措。

(演) 浩博難持,如廣修萬行等。

      (Sớ: Những pháp môn khác hoặc mênh mông bát ngát khó trì, hoặc sâu thẳm khó thực hiện.

      Diễn: “Mênh mông bát ngát” như rộng tu vạn hạnh v.v...)

      Chắc chắn hàng sơ học chẳng thể thực hiện những điều này! Đối với năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, quý vị phải biết Ngài đã hội đủ điều kiện nào, chúng ta có thể học theo hay không? Nói theo phía người niệm Phật chúng ta thì người ta đã đắc Lý nhất tâm bất loạn mới có tư cách đi tham học. Nay chúng ta ngay cả “công phu thành phiến” còn chưa đạt được, nếu đi tham học các nơi, tâm quý vị làm sao có thể định được? Nghe nhiều càng tăng trưởng tà kiến: Người này thuyết pháp như thế này, người kia thuyết pháp như thế nọ, rốt cuộc ai thuyết pháp mới là đúng? Càng đến nhiều đạo tràng, tăng trưởng thị phi, chẳng dễ gì thành tựu! Ưu điểm của cổ nhân là gần như trong cả đời họ, trước khi đại triệt đại ngộ, họ trụ tại một đạo tràng, thân cận một vị thiện tri thức, tư tưởng đơn thuần, chẳng dễ gì dấy lên tà kiến, thị phi. Do vậy, cổ nhân so ra chất phác hơn con người hiện thời. Con người hiện thời đúng là ham cao, chuộng xa hơn cổ nhân, vừa bắt đầu liền mong học rộng, mong mỏi rộng tu vạn hạnh, mong trở thành bậc đại thông gia, đúng như pháp sư Ấn Quang đã nói: “Quyết định chẳng thể thành tựu”. Cương lãnh tu hành trong Phật pháp là “giác, chánh, tịnh”, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm. Quý vị hãy tự suy nghĩ: Đọc nhiều, nghe nhiều kinh luận có gây trở ngại ba nguyên tắc ấy hay không? Đến nhiều đạo tràng, quen biết nhiều người, có gây trở ngại cho ba nguyên tắc ấy hay không? Quý vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ.

      Từ thời Đông Tấn trở đi, Viễn công đại sư kiến lập Liên Xã tại Lô Sơn, đề xướng pháp môn Niệm Phật, cả đời lão nhân gia sống như bế quan. Bản thân Ngài đã như vậy, mà hễ ai tham gia Niệm Phật Đường [tại Lô Sơn] không ai chẳng giống như vậy. Nơi ấy có một con suối nhỏ gọi là Hổ Khê. Phạm vi hoạt động của họ không vượt quá con suối nhỏ ấy. Trong lịch sử còn lưu truyền giai thoại Hổ Khê Tam Tiếu, là chuyện về bằng hữu chí đồng đạo hợp. Đào Uyên Minh và một vị đạo sĩ đến Lô Sơn thăm viếng Viễn công đại sư. Vừa đi vừa nói chuyện, tản bộ trên đường, chẳng ngờ vượt quá Hổ Khê, từ trước đến nay chưa hề vượt qua [con suối ấy] một bước, đó là lần thứ nhất. Người ta tâm rất thanh tịnh như vậy, chẳng chạy loạn lên! Chẳng những chưa tu thành tựu thì không dám chạy lung tung, mà sau khi đã tu thành tựu cũng như như bất động như vậy, ở cố định tại một đạo tràng, sống cả đời tại nơi đó. Do vậy, chính mình thành tựu, mà cũng thành tựu đại chúng. Thuở ấy, liên xã gồm một trăm hai mươi mấy người, ai nấy đều thành tựu, ai nấy đều vãng sanh. Trong lịch sử Trung Quốc, bất luận một đạo tràng nào cũng không có nhiều người thành tựu như vậy. Chúng ta chỉ thấy đạo tràng của Viễn công đại sư, hơn một trăm người ai nấy đều vãng sanh. Những người vãng sanh sau, lúc mạng chung thấy Tây Phương Tam Thánh, còn thấy những đồng tu của chính mình [đã vãng sanh trước] theo Phật cùng đến tiếp dẫn. Trong Thiền Tông, đạo tràng của Lục Tổ đại sư chỉ có bốn mươi ba người thành tựu, chưa bằng một nửa số người thành tựu trong đạo tràng của Viễn công đại sư. Đọc những đoạn lịch sử ấy, có tác dụng khơi gợi to lớn đối với chúng ta.

      Niệm Phật phải sốt sắng niệm Phật! Hiện thời tại Đài Loan, phong trào Niệm Phật Đường rất mạnh, đấy là chuyện tốt, nhưng giáo nghĩa không hiểu rõ, một tiếng Phật hiệu chưa thể tương ứng với hằng sa tánh đức trong Chân Như bình đẳng. Do vậy có thể biết rằng: Người niệm Phật chẳng thể không thông hiểu giáo nghĩa, mức thấp nhất là phải tích cực thảo luận A Di Đà Kinh Sớ Sao và A Di Đà Kinh Yếu Giải. Nếu giáo nghĩa, phương pháp, cảnh giới đều hiểu rõ thì từng tiếng Phật hiệu sẽ tương ứng. Vì thế, tôi thường khuyên các đồng tu phát tâm học giảng kinh, chuyên giảng A Di Đà Kinh, một môn thâm nhập, tự mình quyết định thành công ngay trong một đời này. Nếu phát tâm suốt đời giảng A Di Đà Kinh, giảng Sớ Sao, Yếu Giải, người ấy tương lai nhất định Thượng Phẩm Thượng Sanh. Học một bộ kinh chẳng khó, tốn mười năm công phu, không ai chẳng thành tựu! Mười năm học mười bộ kinh, mỗi bộ kinh học một năm, công phu chẳng đủ, nắm vững kinh ở mức độ trung bình, chẳng thể vượt trỗi người khác, người ta điều gì cũng chẳng kém quý vị. Nếu quý vị dụng công mười năm nơi một bộ kinh sẽ vượt trỗi người khác. Chuyện gì cũng phải chuyên, cũng đều phải nhất tâm.

      (Diễn) U thâm võng thố, như trực ngộ nhất tâm đẳng.

  () 幽深罔措,如直悟一心等。

      (Diễn: “Sâu thẳm không thể làm được” là như ngộ thẳng vào nhất tâm chẳng hạn).

      Chữ “u thâm” ý nói hết thảy các kinh Đại Thừa quá sâu, “võng thố” là chẳng thể thực hiện từ nơi đâu được. Thật ra, bộ kinh A Di Đà này cũng sâu không đáy, không có cùng tận, nhưng chúng ta được Liên Trì đại sư chỉ dẫn và những vị tổ sư như Ngẫu Ích giúp sức; do vậy mới dần dần hiểu rõ ý nghĩa kinh này, mới thật sự tin tưởng trong một đời có thể thành tựu, kiến lập tín tâm. Nếu tự mình thật sự thâm nhập, cũng chẳng hoài nghi tí nào, sẽ nhận biết trong một đời quyết định thành tựu, quyết chẳng uổng công, thẳng thừng, thỏa đáng tu nhất tâm bất loạn.

      (Sớ) Kim đản phiến ngôn danh hiệu, tiện nhập nhất tâm, ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật.

      (疏) 今但片言名號,便入一心,既得往生,直至成佛。

      (Sớ: Nay chỉ do một câu danh hiệu liền nhập nhất tâm, đã được vãng sanh sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật)

      Đây là chỗ thù thắng của pháp môn này, “phiến ngôn” là một câu danh hiệu. Trong Tâm Kinh nói “thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú” (là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng). Chú ấy là chú gì vậy? Chính là hai trăm sáu mươi chữ của Tâm Kinh. Tôi đặc biệt giới thiệu với quý vị, còn có một bài đại thần chú bậc nhất cao hơn nữa. Chú, tiếng Phạn là Đà-la-ni (Dhāranī), Đà-la-ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng Trì, “tổng nhất thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa” (gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa). Quý vị hãy suy nghĩ: Sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật có phải là Tổng Trì hay chăng? Dịch sang nghĩa tiếng Hán là Quy Y Vô Lượng Giác. Sáu chữ ấy chẳng phải là gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa ư? Không còn phải bàn cãi gì nữa, quả thật danh hiệu này gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa. Nói cách khác, một câu Phật hiệu này là chú ngữ, không những là chú ngữ, tôi còn phải thêm vào “đại thần chú bậc nhất, đại minh chú bậc chú, chú vô thượng bậc nhất, chú không gì sánh bằng bậc nhất”. Quý vị chẳng cần phải học các chú ngữ Mật Tông nữa, A Di Đà Phật là chú bậc nhất! Mọi người nhất định phải hiểu rõ, tổ sư Tịnh Độ Tông mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, các Ngài chẳng niệm kinh mà cũng chẳng niệm chú, Phật hiệu đã là chú rồi!

      Từ Tâm Kinh, quả thật có thể thấu hiểu một câu danh hiệu A Di Đà Phật thật sự là đại thần chú chân thật chẳng dối, là đại minh chú, là vô thượng chú, là chú không gì sánh bằng, [hiểu như vậy] sẽ chẳng uổng công niệm Tâm Kinh. Một bộ Bát Nhã Tâm Kinh quy về câu Phật hiệu. Niệm kinh Hoa Nghiêm, niệm đến cuối cùng mới thấu hiểu: Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, toàn bộ Hoa Nghiêm quy về một câu Phật hiệu. Câu Phật hiệu này là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, niệm câu Phật hiệu giống như niệm toàn bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Tụng kinh Hoa Nghiêm, mỗi ngày niệm tám tiếng đồng hồ, phải tụng nửa tháng mới xong. Một câu Phật hiệu, chỉ là một lời, mà đã bao quát toàn bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chẳng sót một chữ nào, lẽ nào nó chẳng phải là đại thần chú, là đại minh chú ư? Sau khi hiểu rõ đạo lý này, đối với pháp môn Tịnh Độ, quý vị mới chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, khiêm hư sát đất, lẽ nào chẳng được vãng sanh?

      Ở đây, đại sư kết lại lời khen ngợi: “Kim đản phiến ngôn danh hiệu, tiện nhập nhất tâm, ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật” (Nay chỉ do một câu danh hiệu liền nhập nhất tâm, đã được vãng sanh sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật). Ý nói: Nếu chúng ta mong đạt đến Lý nhất tâm bất loạn, Sự nhất tâm bất loạn, thật sự chẳng dễ dàng. Lý nhất tâm bất loạn là phá một phần vô minh, Sự nhất tâm bất loạn là đoạn Kiến Tư phiền não, đều chẳng phải dễ dàng thực hiện được; nhưng một câu Phật hiệu có thể hàng phục phiền não, áp chế phiền não, đạt đến công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh, đấy chính là như Vĩnh Minh đại sư đã nói: “Vạn người tu, vạn người về”. Nói cách khác, mỗi người đều có thể làm được, đều có năng lực ấy, chỉ sợ quý vị không chịu làm! Đương nhiên, quý vị có chướng ngại, chỉ sợ quý vị không chịu trừ khử những chướng ngại của chính mình, chướng ngại gì vậy? Phiền não! Ví như đại chúng cùng tu với nhau ở một chỗ, mỗi người có ý kiến khác nhau, cách nhìn, cách làm, cách nghĩ mỗi người mỗi khác. Khác nhau là chướng ngại, chướng ngại sẽ nẩy sanh. Chướng ai? Chướng ngại công phu thành phiến của chính mình. Nếu có thể bỏ được thành kiến của chính mình, khởi lên câu Phật hiệu, đè nén phiền não của chính mình thì chính mình đã đạt công phu thành phiến. Tự mình niệm Phật đắc lực, vãng sanh chốn tốt lành Tây Phương Cực Lạc thế giới là do chính mình, chứ không do ai khác. Một mực chấp trước, một mực phân biệt, chướng ngại chính mình thành tựu công phu thành phiến. Chính mình niệm một câu Phật hiệu chẳng tốt đẹp, chẳng thể đắc lực thì chính mình thiệt thòi, đâu phải ai khác! Chỉ cần được vãng sanh, đâu sợ hạ phẩm hạ sanh! Điều tốt đẹp lớn nhất do sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là thọ mạng dài lâu, đạt được quả báo ấy. A Di Đà Phật thọ vô lượng, quý vị cũng thọ vô lượng. Dẫu thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, nhưng thọ mạng của quý vị là vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, ba A-tăng-kỳ kiếp thấm vào đâu? Trừ phi chẳng sanh về Tây Phương; hễ sanh về Tây Phương, quyết định thành Phật trong một đời, “ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật”(đã được vãng sanh, sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật), đấy là sự thật!

      (Sớ) Tức phương tiện nhi thành viên đốn.

      (Diễn) Tức phương tiện thành viên đốn giả, xưng bỉ danh hiệu phương tiện pháp dã.

  (疏) 即方便而成圓頓。

(演) 即方便成圓頓者,稱彼名號方便法也。

      (Sớ: Tức là pháp phương tiện mà trở thành viên đốn.

      Diễn: “Tức là pháp phương tiện mà trở thành viên đốn”: Xưng danh hiệu đức Phật ấy chính là pháp phương tiện).

      Mỗi ngày niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật, phương pháp này rất thuận tiện, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn không có pháp nào thuận tiện bằng. Thượng Phẩm Thượng Sanh là viên đốn.

(Diễn) Thượng Phẩm Thượng Sanh tức đăng Sơ Địa, khởi phi viên đốn?

(演) 上品上生即登初地,豈非圓頓。

(Diễn: Thượng Phẩm Thượng Sanh liền đạt lên bậc Sơ Địa, há chẳng phải là viên đốn ư?)      

Pháp này chẳng viên đốn thì pháp nào mới là viên đốn? Thượng Phẩm Thượng Sanh là Lý nhất tâm bất loạn. Muốn đạt đến Thượng Phẩm Thượng Sanh thì phải thật sự hiểu rõ Lý Tịnh Độ. Muốn thật sự đạt được, chỉ cần chịu tin tưởng lời tôi, quý vị sẽ đỡ tốn thời gian ba mươi năm. Tôi phí thời gian ba mươi năm trong hết thảy kinh điển, trong vô lượng pháp môn mới tìm ra! Quý vị không tin [lời tôi nói] như vậy là đúng lý, quý vị cứ thong thả mà tìm đi! Nếu quý vị tin tưởng, từ hôm nay bắt đầu gạt bỏ hết thảy kinh luận, hết thảy pháp môn, chuyên tu pháp này, tu suốt ba mươi năm, quý vị là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Tốn cả ba mươi năm tôi mới mò tìm được đường lối, trong khi quý vị đã là Thượng Phẩm Thượng Sanh, chẳng thể so sánh được! Nhưng nếu quý vị không tin, sợ rằng sẽ uổng phí cả đời này! Thuở ấy, khi tôi mới vừa học Phật, chẳng biết điều này! Nếu biết thì từ lúc mới phát tâm tôi đã chuyên niệm A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, chuyên đọc bộ kinh này, chuyên môn giảng bộ kinh này. Nếu giảng kinh này suốt ba mươi mấy năm, tôi nghĩ quý vị trông thấy tôi, cũng chẳng kêu tôi là pháp sư Tịnh Không mà nhất định sẽ kêu tôi là A Di Đà Phật. Thật đấy, chẳng giả tí nào! Nhất định phải thật sự thực hiện, phải chịu bỏ! Hết thảy giải môn, hạnh môn đều bỏ sạch, quý vị sẽ nắm được pháp môn này, có được bộ kinh này, sẽ đạt đến nhất tâm bất loạn, đấy mới là đại công cáo thành viên mãn!

      (Diễn) Vi thông huyền bí quyết, hoán cốt thần đan, như hậu văn sở tán.

      (演) 為通玄祕訣,換骨神丹,如後文所贊。

      (Diễn: Là bí quyết để thông đạt lẽ huyền nhiệm, là thần đan để thay xương, như trong phần kinh văn ở phía sau đã khen ngợi).

      Hai câu này là lời khen ngợi. “Thông huyền bí quyết”: Thông là thông đạt, Huyền là huyền diệu, u huyềnBí quyết”: Hình dung một câu A Di Đà Phật là đại thần chú có thể thông đạt lẽ huyền nhiệm, là bí quyết trong Phật môn. “Hoán cốt thần đan”: Giống như đan dược của thần tiên, uống vào sẽ có thể thoát thai hoán cốt[4], siêu phàm nhập thánh. Đây là lời tán thán Phật hiệu. Trong phần sau còn rất nhiều đoạn văn khen ngợi.

      (Sớ) Thần công thắng lực, bất quy thử kinh, tương thùy quy hồ?

  (疏) 神功勝力,不歸此經,將誰歸乎。

    (Sớ: Công đức thần diệu, lực dụng thù thắng, chẳng quy vào kinh này thì quy vào đâu nữa?)

      Công đức thần diệu chẳng thể nghĩ bàn, lực dụng thù thắng, chẳng quy vào kinh A Di Đà thì quy vào kinh nào? So sánh sẽ thấy đúng là chẳng giả tí nào. Chỗ này đáng khiến cho chúng ta phản tỉnh sâu xa. Do vậy, công đức, lực dụng quả thật tập trung trong bộ kinh này. Đại Tạng Kinh có nhiều kinh điển dường ấy, sách vở thế gian và xuất thế gian đều có thể dùng làm tài liệu tham khảo. Chẳng hạn như nói đến “lục tướng, thập huyền” thì có thể tra cứu Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Phật Học Từ Điển, Tam Tạng Pháp Số, dùng chúng làm tài liệu tham khảo. Tinh hoa của hết thảy các kinh và các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều quy nạp, dung nhập bộ kinh này, phá vô minh từ vô thỉ của chính mình, thành tựu nhất tâm bất loạn cho chính mình, rồi mới lại hoằng dương, phát huy pháp môn Tịnh Độ, lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh.

      Thật sự nói đến lợi ích thì ắt phải bắt chước Viễn công đại sư, niệm Phật trong Niệm Phật Đường, mọi người phát tâm cả đời chẳng ra khỏi sơn môn, hoặc hoạch định một giới tuyến, thật sự khiến cho tâm định lại. Giống như đầu thời Dân Quốc, tổ Ấn Quang đã lập Niệm Phật Đường tại núi Linh Nham, Tô Châu, quy củ của liên xã tuy không nghiêm ngặt như thuở Viễn công đại sư, nhưng cũng có không ít người thành tựu. Bất luận tại gia hay xuất gia đều có thể quải đơn[5] tham gia niệm Phật. Đây là Niệm Phật Đường quanh năm, hằng ngày đả Phật thất. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, Tết nhất cũng không nghỉ. Khóa tụng của núi Linh Nam là mỗi ngày niệm Phật sáu cây hương, mỗi năm hai lượt tổ chức Tinh Tấn Phật Thất. Tinh Tấn Phật Thất là tăng thêm thời gian niệm Phật, niệm đến chín cây hương. Thông thường là ghép bảy thất lại để làm Tinh Tấn Phật Thất, đạo tràng như vậy mới có thể thành tựu đại chúng. Trước kia, người niệm Phật quá nửa là thông đạt giáo lý, người niệm Phật hiện thời tuy có nơi chốn, nhưng niệm hai ngày, tâm họ thấy càng niệm càng phiền, bỏ đi, nguyên nhân là do đâu? Không thông giáo lý, chẳng hiểu công đức lợi ích thù thắng của pháp môn này. Do vậy, họ không có tâm nhẫn nại. Nếu thật sự hiểu rõ công đức, lợi ích và chỗ tốt đẹp của pháp môn này, tôi tin họ nhất định sẽ cho đến hết đời chẳng rời khỏi sơn môn. Đấy là phương hướng mà từ nay trở đi chúng ta phải nỗ lực. Đến đây, có thể nói là đại sư đã đem thánh giáo trong suốt một đời, tức Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, quy vào kinh A Di Đà. Nay đã hết giờ rồi!

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 10 hết

[1] Tung Sơn nằm ở phía Bắc thành phố Đăng Phong, phía Tây tỉnh Hà Nam, gồm hai rặng Thiếu Thất và Thái Thất. Chùa Thiếu Lâm nằm trên ngọn Thiếu Thất.

[2] Cơ Phong còn gọi là Thiền Cơ hoặc Chuyển Ngữ. Cơ có nghĩa là kích phát sự chuyển biến trong nội tâm, là mấu chốt để khế hợp chân lý, chữ Phong (mũi nhọn) chỉ sự thích ứng nhạy bén, khít khao. Dùng chữ Cơ Phong để chỉ giữa thầy và trò có sự tương hợp khít khao, thầy nói ra, trò tiếp nhận ngay, khít khao không suy xuyển. Lời thầy nói ra, trò vừa nghe liền khích động sự giác ngộ trong nội tâm.

[3] Ngài Bát Lạt Mật Đế (Pramiti), dịch nghĩa là Cực Lượng, người xứ Trung Ấn, không rõ năm sanh và năm mất, sau khi dịch kinh Lăng Nghiêm, Ngài trở về Ấn Độ (có thuyết nói Ngài bị quốc vương Trung Thiên Trúc cho người bắt Ngài về Ấn trị tội đã lén lút truyền kinh Lăng Nghiêm ra ngoài), không rõ mất năm nào. Năm Thần Long nguyên niên (705) đời Đường Trung Tông, Sư đến đạo tràng Chế Chỉ (nay là chùa Quang Hiếu) ở Quảng Châu, đọc ra nguyên văn kinh Lăng Nghiêm gồm 10 quyển, sa-môn Di Già Thước Khư dịch nghĩa, sa môn Hoài Địch dịch văn, cư sĩ Phòng Dung làm nhiệm vụ Bút Thọ (biên tập, nhuận sắc, hiệu chỉnh). Phòng Dung là người xứ Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, từng làm quan đến chức Chánh Gián Đại Phu Đồng Phượng Các Loan Đài Bình Chương Sự. Do ông này có họ hàng với Trương Dịch Chi, “ái thiếp” của Võ Tắc Thiên, nên khi Đường Trung Tông lên ngôi, đã triệt hạ những sủng thần của Võ Tắc Thiên, khiến Phòng Dung bị vạ lây, bị đày ra Khâm Châu, chết ở đó. Ông tham gia vào đạo tràng dịch kinh của ngài Bát Lạt Mật Đế trong thời gian tạm ngụ tại Quảng Châu trên đường đi đày.

[4] “Thoát thai hoán cốt” là một thuật ngữ của Đạo Giáo, nhằm sánh ví người tu tiên đắc đạo, sẽ chuyển thân phàm thành thân thánh, thành thân thần tiên không hư nát, giống như đổi phàm thai thành thánh thái, đổi xương phàm thành xương tiên. Về sau, Đạo gia tin tưởng có những loại thuốc tiên (kim đan, tiên đan) uống vào sẽ thoát thai hoán cốt. Từ ngữ này về sau được dùng phổ biến với ý nghĩa một người đã đạt đến cảnh giới thành tựu cao cả nào đó, trở thành bậc thầy trong một lãnh vực nào đó.

[5] “Quải đơn” là xin gia nhập chúng thường trụ của một ngôi chùa. Thuở xưa, chư Tăng ngủ trên đơn chứ không nằm trên giường. Đơn là một miếng gỗ kê lên giá, vừa đủ cho một người nằm. Khi có người gia nhập tăng chúng thường trụ thì kê thêm đơn, nên xin gia nhập một ngôi chùa nào sẽ được gọi là “quải đơn”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro