A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa - Phần 19

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 19

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không năm 1984

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Huệ Trang và Đức Phong

Tập 37

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi bảy:

(Sớ) Thượng minh niệm Phật hoạch như thị ích, bất niệm Phật chiêu như thị tổn, cố thuật kỷ ý, duy sùng niệm Phật, kim sơ tiên dĩ độn căn tự lượng dã.

(上明念佛獲如是益,不念佛招如是損,故述己意,唯崇念佛。今初先以鈍根自量也。

(Sớ: Trong phần trên đã nói rõ niệm Phật đạt được lợi ích như thế, không niệm Phật chuốc lấy tổn thất như vậy, cho nên trình bày ý mình: Chỉ đề cao niệm Phật. Nay, trước hết, do tự xét thấy mình là kẻ độn căn).

Chữ “thượng” (上) chỉ hai đoạn văn tự lớn trong phần trước, nói rõ lợi ích và công đức niệm Phật, nhất là đối với chúng tôi trong hai ba năm gần đây đã thấy những tướng lành niệm Phật vãng sanh hết sức hy hữu. Năm trước, có một vị lão đồng tu ở Hương Cảng Phật Giáo Đồ Thư Quán vãng sanh trong khi đang xem kinh. Cụ biết trước lúc mất, đã báo tin cho pháp sư Sướng Hoài một tháng trước đó, bảo pháp sư Sướng Hoài rằng cụ sắp ra đi, chẳng sanh bệnh. Hôm cụ mất, pháp sư Sướng Hoài sai người tới nhà cụ lấy Đại Tạng Kinh về, lão cư sĩ đang xem kinh, còn quở người ấy một trận: “Không sai! Tôi nói anh hôm nay đến lấy Đại Tạng Kinh về, nhưng không bảo anh lấy ngay bây giờ”. Người ấy bèn quay về, hai hôm sau trở lại lấy thì lão nhân gia đã vãng sanh rồi. Hỏi người nhà: “Cụ vãng sanh khi nào?” “Sau khi anh về hai tiếng đồng hồ, cụ ngồi vãng sanh ngay tại đó”. Do vậy, pháp sư Sướng Hoài hiện thời niệm Phật, là vì chính mắt thấy sự thật này. Gần đây nhất, tại Los Angeles, tôi thấy Sử cư sĩ cũng là một người biết trước lúc mất, không bệnh mà mạng chung, ngàn vạn phần xác đáng cụ đã vãng sanh, báo trước chuyện này với người nhà: Cụ sắp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Kinh nói rất kỹ về chuyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là Hạ Phẩm Hạ Sanh cũng chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, chúng ta nhất định chớ nên xem thường, đọc lướt qua câu này. Sở dĩ pháp môn này được gọi là “chẳng thể nghĩ bàn” là vì Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo và Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo mới chứng ba thứ Bất Thoái, nhưng chưa viên mãn. Ai mới chứng đắc viên mãn ba thứ Bất Thoái? Đẳng Giác Bồ Tát. Vì vậy, đọc tới câu này, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Hạ Phẩm Hạ Sanh mà viên chứng ba thứ Bất Thoái! Nói cách khác, người Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới bằng với Đẳng Giác Bồ Tát, chuyện này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, là pháp khó tin! Ngay cả trong kinh luận, đối với pháp môn này, chính đức Phật thường nói: “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh” (Chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo). Trong kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật và mười phương chư Phật đều chứng minh pháp môn này là pháp khó tin. Tuy khó tin, nhưng rất dễ thành tựu! Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư bảo chúng ta: “Vạn người tu, vạn người đến”, điều kiện tu học là Tam Tư Lương, tức là ba điều kiện trọng yếu: Thứ nhất là quý vị phải tin, thứ hai là phải chịu về đó, tức là quý vị phải phát nguyện, thứ ba là quý vị phải niệm Phật trì danh. Tín, Nguyện, Trì Danh là Tam Tư Lương, ba điều kiện ấy.

Chúng ta phải hiểu: Ở trong thế giới Sa Bà khổ sở! Bất luận quý vị thuộc địa vị như thế nào, giàu có cỡ nào, nhưng người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, kẻ giàu có nỗi khổ của kẻ giàu, làm quốc vương cũng chẳng được tự tại, vẫn có nỗi khổ riêng. Lên cõi trời làm thiên vương còn bị A Tu La gây rối, phải giao chiến với bọn hắn, thiên vương cũng chẳng tự tại! Đức Phật bảo chúng ta: “Tam giới đều khổ!” Chỉ cần ở trong tam giới, tìm chẳng ra một cõi nào vui sướng cả! Chúng ta phải nên giác ngộ điều này. Do vậy, ở đây, Liên Trì đại sư rát miệng buốt lòng khuyên lơn, răn nhắc chúng ta, nói rõ công đức và lợi ích của niệm Phật. Không niệm Phật tổn thất quá ư lớn lao, tổn thất không chi sánh bằng! Đây là nói với ai vậy? Nói với những người tu học các pháp môn khác. Phật pháp có tám vạn bốn ngàn pháp môn, họ chẳng niệm Phật, mà học các pháp môn khác. Nói thật thà, [những pháp môn khác] chẳng thể thành tựu, học chẳng thành công. Muốn thành tựu trong thời kỳ Mạt Pháp, chỉ có pháp môn này! Liên Trì đại sư muốn chú giải bộ kinh này, soạn ra bộ Sớ Sao này, dụng ý là như thế này: Đề xướng pháp môn Niệm Phật, “thôi sùng” (đề cao) cũng có nghĩa là đề xướng.

      Trong đoạn này, trước hết Ngài “độn căn tự lượng” (tự xét mình là kẻ độn căn). Nếu Ngài là người căn tánh rất nhạy bén mà tu pháp môn này, chúng ta nhất định sẽ nghĩ: Ngài là bậc căn tánh bén nhạy, thiện căn sâu dầy, chúng ta chẳng bằng Ngài; nói chung, chúng ta chẳng có phần! Ngài thị hiện làm một kẻ độn căn, căn tánh của ta cũng rất độn, Ngài tu được thì nói chung là ta cũng có phần, khích lệ chúng ta không gì lớn bằng!

      Đới nghiệp vãng sanh, tổ sư dạy chúng ta điều này. Hiện thời có người đề xướng chẳng chấp thuận đới nghiệp, chỉ có thể tiêu nghiệp vãng sanh. Cách nói ấy là muốn giũ bỏ cách nói này của tổ sư, nói như vậy có được hay chăng? Tôi thưa cùng quý vị, chẳng thể được! Tuy bọn họ cũng tốn không ít tinh thần suy tưởng để tìm cách giũ bỏ lý luận của tổ sư, tốn chẳng ít công phu tra cứu kinh luận. Trong kinh luận chẳng có câu “đới nghiệp vãng sanh”, tiêu nghiệp thì có, có thể tìm được [những câu kinh nói về] tiêu nghiệp, chẳng tìm thấy đới nghiệp. Do vậy, họ phản đối thuyết đới nghiệp của tổ sư, bảo thuyết ấy không đúng. Nếu chúng ta hỏi: “Trong kinh luận Tịnh Độ, có phải là đã nói tới bốn cõi, ba bậc, chín phẩm hay chăng?” Có! Từ hết thảy kinh luận, quý vị có thể thấy rõ ràng là đức Phật nói như vậy. Nếu chẳng đới nghiệp, ở đâu ra ba bậc, chín phẩm trong bốn cõi? Không có! Nếu chẳng đới nghiệp thì lại thưa với quý vị, chẳng cần vãng sanh nữa! Vãng sanh để làm gì? Chẳng đới nghiệp thì chỉ có một người thôi, ai vậy? Phật! Phật chẳng đới nghiệp. Đẳng Giác Bồ Tát còn đới nghiệp, chuyện này đã được hết thảy các kinh luận Đại Thừa nói rất rõ ràng. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh, Ngài vẫn còn đới nghiệp, sanh tướng vô minh là nghiệp! Quý vị hãy đọc về nghiệp tướng vô minh trong Duy Thức, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn mang theo nó; do vậy, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn đới nghiệp! Vì thế, có thể biết: Thuyết đới nghiệp vãng sanh tuyệt đối hợp lý! Chúng ta đừng bị những lời bịa đặt nhiễu loạn cái tâm thanh tịnh của chính mình; điều này rất quan trọng!

      Phàm vãng sanh thế giới Tây Phương, không một ai chẳng đới nghiệp, chỉ có thể nói là đới nghiệp nhiều hay ít. Đới nghiệp nhiều, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đới nghiệp ít, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Đới nghiệp nhiều, Hạ Phẩm Hạ Sanh; đới nghiệp ít, Thượng Phẩm Thượng Sanh, không một ai chẳng đới nghiệp. Vậy thì nói “tiêu nghiệp” có hợp lý hay chăng? Hợp lý! Người tiêu nghiệp nhiều thì đới nghiệp ít, tiêu nghiệp ít thì đới nghiệp nhiều. Tiêu một chút, mang theo một chút; mang theo một chút, tiêu một chút. Do vậy, nói đến “đới” (帶: mang theo) hay nói là “tiêu” đều được. Chỉ chấp nhận tiêu chứ không đới, hoặc chỉ chấp nhận đới chứ không tiêu, đều là trật, hoàn toàn lầm lẫn rồi! Do vậy, chúng ta đọc kinh phải quan sát mọi mặt thì sau đấy mới thấy viên mãn, thấy được lý viên mãn và ý nghĩa viên mãn.

      Trước tiên, chúng ta thấy đại sư tự coi mình là kẻ “độn căn”, rất trì độn. Sách Diễn Nghĩa chú giải chữ “tự lượng” rất hay.

      (Diễn) Tự lượng nhị tự cực giai, thánh chi sở dĩ thành thánh, hiền chi sở dĩ ích hiền dã.

      (自量二字極佳,聖之所以成聖,賢之所以益賢也。

      (Diễn: Hai chữ “tự lượng” tuyệt hay, thánh sở dĩ thành thánh, hiền sở dĩ càng thêm hiền [là do biết tự lượng]).

      Thánh nhân sở dĩ thành thánh, hiền nhân sở dĩ càng thêm hiền huệ là vì bản thân họ biết “tự lượng”, tức là tự mình biết đánh giá chính mình. Vì sao nói “sử dụng hai chữ này cực hay”? Đại đa số người học Phật, học những pháp môn khác đều là chẳng tự lượng sức mình, chẳng có năng lực học Thiền mà cứ khăng khăng học Thiền. Không có năng lực học Mật mà cứ khư khư học Mật. Có người hỏi tôi: “Rốt cuộc Mật pháp là tốt hay không tốt?” Đương nhiên là tốt, lẽ nào chẳng tốt? Quá ư là tốt! “Trong Mật Tông nói thành Phật ngay trong thân này (tức thân thành Phật), lời ấy có thật hay không?” Thật đấy! Quả thật là thành Phật ngay trong thân này, lời ấy chẳng giả! “Tốt lắm! Vậy thì tôi cũng học ngay, học Mật sẽ được thành Phật ngay trong đời này”. Vậy là quý vị lầm lẫn quá đỗi rồi! Tôi có thể dùng một tỷ dụ để nói chuyện này: Ví như chúng ta đến trường đại học Đài Loan để thăm lớp học Tiến Sĩ của hệ đại học Đài Loan, quý vị thấy những sinh viên trong lớp ấy chẳng mấy chốc tốt nghiệp bèn có học vị Tiến Sĩ. Quý vị hãy nói xem: Đó có phải là sự thật hay không? Thật! Họ học mấy tháng bèn giật được học vị Tiến Sĩ. Quý vị nghe nói vậy, [tự nhủ]: “Tuyệt quá! Tôi cũng phải mau theo học. Nếu tôi học hết hai tháng thì cũng giật được mảnh bằng Tiến Sĩ”. Được chăng? Trước lớp Tiến Sĩ, người ta còn có lớp Thạc Sĩ, còn có Đại Học, Trung Học, Tiểu Học, mẫu giáo, còn cả một con đường dài ngần ấy, họ đã đi hết rồi. Quý vị không thấy khúc đầu, chỉ thấy được khúc đuôi! Mật Tông là như vậy đó!

      Đối với thuyết “tức thân thành Phật” của Mật Tông, phải có tư cách nào mới có thể học được? Bát Địa Bồ Tát! Do vậy, quý vị phải tự lượng sức mình, quý vị có phải là Bát Địa Bồ Tát hay không? Bát Địa là Bất Động Địa (Acalā-bhûmi), Bát Địa Bồ Tát mới có tư cách học Mật, vậy thì những địa vị cao hơn như Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác đương nhiên là tức thân thành Phật! Cao hơn [Bát Địa] chỉ có ba địa vị, trong bốn mươi mốt đẳng cấp chỉ có ba đẳng cấp trên đây, rất gần với viên mãn. Bản thân chúng ta thuộc địa vị nào? Chẳng những không có tư cách Sơ Địa (Pramuditā-bhûmi), mà nói thật ra, ngay cả Sơ Tín cũng chưa đủ tư cách! Quý vị đâu có năng lực học Mật! Đây là chuyện không thể được! Thật sự là một vị Thượng Sư Mật Tông giỏi thì nếu quý vị muốn học Mật với vị ấy, Ngài sẽ đẩy quý vị ra khỏi cửa: “Anh không đủ tư cách”. Ví như viện nghiên cứu của trường đại học mở lớp Tiến Sĩ, quý vị ngay cả Tiểu Học còn chưa tốt nghiệp mà muốn đến đó theo học, muốn lấy học vị Tiến Sĩ, quý vị sẽ bị đuổi đi liền! Ngay cả đứng ngoài cửa cũng không cho, một vị Thượng Sư giỏi nhất định sẽ như thế. Nếu có vị Thượng Sư nói: “Không sao cả! Trong lớp Tiến Sĩ của ta, có thể đạt học vị Tiến Sĩ ngay lập tức, chưa học lớp Mẫu Giáo cũng chẳng sao hết, đến chỗ ta học, ta có thể cấp học vị cho nhà ngươi”. Quý vị nghĩ xem: Cấp học vị ấy cho quý vị có ích gì hay không? Cơ quan giáo dục chẳng thừa nhận! Ví như trẻ nhỏ tốt nghiệp Mẫu Giáo, ta cũng cho nó đội nón vuông giống như một vị Tiến Sĩ bé, bộ Giáo Dục có thừa nhận hay chăng? Chẳng thừa nhận! Do vậy, quý vị nhất định phải tự lượng.

      Người thật sự tự lượng sẽ học điều gì? Người ấy nhất định thật thà niệm Phật, biết trong tám vạn bốn ngàn pháp môn còn có một pháp môn này để có thể nương cậy được. Hiện thời chúng ta có tư cách, trình độ nơi pháp môn này, được rồi! Chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín - Nguyện - Hạnh, chắc chắn thành công. Trong bộ kinh này, chủ yếu là thảo luận Tín - Nguyện - Hạnh, thế nào là Tín, phát nguyện như thế nào, niệm câu Phật hiệu này như thế nào, đó là những điều cần thảo luận trong bộ kinh này!

      (Sớ) Mạt Pháp, tắc sanh chi bất thời.

      (末法,則生之不時。

      (Sớ: Mạt Pháp là sanh chẳng đúng thời).

      Sanh trong thời kỳ Mạt Pháp cũng là nói “sanh chẳng gặp thời”. Không sanh nhằm thời kỳ Chánh Pháp của Như Lai, chẳng thể thấy Phật. Thế nhưng bản thân chúng ta cũng đừng nên quá áo não, còn có nhiều người chẳng bằng chúng ta. Rốt cuộc chúng ta còn sanh trong thời kỳ Mạt Pháp, tuy không thể thấy Phật, nhưng hình tượng Phật vẫn còn, chưa được nghe Phật giáo huấn, nhưng kinh điển nhà Phật vẫn còn lưu truyền trong thế gian. Chúng ta đối trước kinh điển giống như đức Phật thuyết pháp cho chúng ta. Đấy là một điều may mắn lớn trong những điều bất hạnh, chúng ta nhất định phải trân quý điều này! Nếu lần này chúng ta đánh mất nhân duyên này, nghĩ đời sau sẽ lại gặp nhân duyên này, khá khó khăn! Tất nhiên thế gian loạn lạc ngày càng sâu, nếu muốn khôi phục sự thuần phác như trong quá khứ thì thưa quý vị, chẳng làm được! Nếu quý vị không tin, hãy xem lịch sử xưa nay, trong, ngoài nước, thế gian chỉ có ngày càng loạn hơn, đời này kém đời trước.

      Nếu chúng ta khởi vọng tưởng, đời này chẳng thành tựu, còn có đời sau thì đời sau chẳng biết là đến đời nào hay kiếp nào nữa! Thời kiếp ấy quá ư là dài! Trong thời kiếp dài ngần ấy, quý vị phải chịu hết mọi nỗi khổ, chẳng biết đến bao giờ mới có thể được nghe Phật pháp? Do vậy, bài kệ Khai Kinh có nói, chúng ta được nghe Phật pháp là “trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Đời này gặp gỡ, quý vị phải biết là do quý vị có phước báo to nhiều nên mới có thể gặp gỡ. Được gặp gỡ, đó là nhân duyên thù thắng của quý vị. Nói cách khác, đây là cơ hội thành Phật của quý vị. Thành Phật là vãng sanh, vãng sanh là thành Phật. Trong đời này, quý vị có thể nắm chắc [cơ hội này], quý vị sẽ thành Phật trong đời này. Nếu quý vị chẳng khéo vận dụng, bỏ lỡ cơ hội này, quả thật đáng tiếc, thật sự đáng tiếc! Do đây có thể biết: Dẫu sanh chẳng đúng thời, vẫn còn rất may mắn!

      (Diễn) Bất sanh Chánh Tượng.

      (不生正像。

      (Diễn: Chẳng sanh trong thời Chánh Pháp hay Tượng Pháp).

      Đây là Chánh Pháp và Tượng Pháp.

      (Sớ) Khứ thánh thời dao.

      (去聖時遙。

      (Sớ: Thời gian cách Phật đã xa).

      Chữ “thánh” (聖) chỉ Phật; thời gian chúng ta cách Phật đã lâu xa. Từ khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho đến hiện tại, theo niên đại được ghi chép bởi người Hán, tới năm nay (1985) là 3.012 năm, xa cách khá xa xôi.

      (Sớ) Hạ phàm, tắc báo chi bất thắng.

      (下凡,則報之不勝。

      (Sớ: Hạ phàm thì quả báo chẳng thù thắng).

      “Báo” (報) là quả báo. Hiện tại, chúng ta có thân phận, địa vị như thế nào? Phàm phu. Chẳng những là phàm phu, mà còn là phàm phu hạng bét! Chúng ta là phàm phu hạng bét, thượng đẳng phàm phu là ai? Chư thiên, Sắc Giới Thiên, Vô Sắc Giới Thiên, những phàm phu trong các cõi ấy là thượng đẳng, như Đại Phạm Thiên là phàm phu tối thượng đẳng.

      (Diễn) Phi thánh hiền ứng tích, thị nghiệp hệ phàm phu dã.

      (非聖賢應蹟,是業繫凡夫也。

      (Diễn: Chẳng phải là thánh hiền thị hiện, mà là phàm phu bị nghiệp chướng trói buộc).

      Chúng ta chẳng phải là cổ Phật hay Bồ Tát tái lai. Tôi lại thưa cùng quý vị, phàm những kẻ nào bảo họ là một vị Phật hay Bồ Tát nào đó tái lai, họ đều là nói dối, đều là gạt người! Ngàn vạn phần chớ nên tin tưởng họ, vì sao? Trong Phật pháp chẳng cho phép nói như vậy. Thích Ca Mâu Ni Phật đã căn dặn các vị đệ tử mai sau, chẳng cho phép họ tiết lộ thân phận; chỉ có một trường hợp được tiết lộ thân phận, tức là hễ tiết lộ bèn tịch ngay, tuyệt đối chẳng trụ trong thế gian này nữa, như vậy thì được. Lộ thân phận mà vẫn trụ trong thế gian thì là yêu ngôn mê hoặc đại chúng. Do vì hiện thời tôi nghe nói có rất nhiều pháp sư hoặc cư sĩ thường tự mình tuyên bố, hoặc bảo học trò của họ tuyên bố với bên ngoài, họ là vị Phật nào đó tái lai, có người nói là Văn Thù Bồ Tát tái lai. Có kẻ nói hắn là tôn giả Đại Ca Diếp hầu bên cạnh Thích Ca Mâu Ni Phật tái lai. Suốt ngày từ sáng đến tối đồn thổi ngoài phố! Đó là gạt gẫm người khác, dối gạt những chúng sanh ngu muội trong thế gian. Phàm những ai tin tưởng họ đều là phường mê hoặc, điên đảo, là những kẻ ngu si!

      Trong quá khứ, vào thời Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, quốc vương khi ấy cũng là tín đồ Phật giáo rất kiền thành, vì muốn cầu phước, liền mở hội Thiên Tăng Trai nhằm cúng dường một ngàn vị xuất gia. Quốc vương làm Trai Chủ, cúng dường như vậy để cầu phước. Trong số ấy, nhất định sẽ có thánh hiền tăng đến nhận cúng dường, phước báo sẽ rất lớn. Khi dâng cỗ chay, đương nhiên có chỗ ngồi danh dự, mọi người đều rất khiêm hư, nhường nhau chẳng chịu ngồi. Khi ấy, từ bên ngoài có một vị xuất gia bước vào, diện mạo nhếch nhác, mặc quần áo rách teng beng, thấy mọi người đều giữ lễ nhường nhau vị trí ấy, lão nhân gia liền tiến tới trước ngồi xuống, ngồi ở vị trí cao nhất. Quốc vương thấy vậy trong tâm rất khó chịu, nhưng chẳng tiện nói thẳng ra, đều là người xuất gia mà, cũng chẳng biết vị này từ đâu đến, trước kia chưa từng gặp. Vị này có đặc điểm là trái tai rất dài. Do vậy mọi người gọi Ngài là “đại nhĩ đóa hòa thượng” (hòa thượng tai to). Thọ trai xong, quốc vương hỏi Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư: “Trẫm cúng trai tăng hôm nay, có thánh nhân đến nhận cúng dường hay không?” Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư nói: “Có! Chính là hòa thượng tai to, Ngài là Nhiên Đăng Cổ Phật tái lai”.

      Vừa nghe nói vị ấy là Nhiên Đăng Cổ Phật, tuyệt diệu quá! Lập tức sai người đuổi theo, đi khắp nơi hỏi người ta có thấy vị hòa thượng ấy hay chăng? Đuổi theo tới một nơi rất xa mới tìm được, thì ra Ngài trụ trong một hang núi. Thân phận bị bộc lộ, mọi người đều biết Ngài là Nhiên Đăng Cổ Phật, quốc vương phái người cung kính đến dập đầu nơi đó, lễ thỉnh Ngài về cung đình nhận cúng dường. Ngài nói một câu: “Di Đà nhiêu thiệt” (Di Đà lẻo mép), A Di Đà Phật nói lung tung, lắm mồm tiết lộ thân phận của Ngài. Nói xong, liền viên tịch, qua đời. Sứ giả lại nghĩ: “Di Đà lẻo mép? Vậy thì Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư vốn là A Di Đà Phật! Không sao! Vị Phật này đã viên tịch, vị Phật kia hãy còn”. Vội trở về báo với quốc vương: “Nhiên Đăng Cổ Phật đã viên tịch, nhưng A Di Đà Phật vẫn còn”. Quốc vương cũng rất cao hứng, Vĩnh Minh vốn là A Di Đà Phật tái lai. Đang cao hứng, bên ngoài có người báo tin chạy đến rất gấp, đụng phải quốc vương ngã lăn kềnh. Quốc vương hỏi: “Chuyện gì?” Người đến báo tin tâu: “Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư đã viên tịch”. Thân phận vừa bộc lộ liền ra đi, tuyệt đối chẳng ở trong cõi đời nữa!

      Quý vị phải hiểu: Vào thời cổ ở Trung Quốc, những trường hợp như vậy rất nhiều, chẳng hề có chuyện sau khi thân phận bộc lộ mà vẫn ở trên đời. Giống như Di Lặc Bồ Tát, lão nhân gia thị hiện làm hòa thượng Bố Đại. Khi Ngài sắp tịch, tự nói Ngài là Di Lặc Bồ Tát. Nay chúng ta tạc tượng Ngài mập mạp, cười hề hề, Ngài là người đời Tống, cùng thời với Nhạc Phi, là người huyện Phụng Hóa, tỉnh Chiết Giang. Lúc Ngài lâm chung, bảo đại chúng Ngài là Di Lặc Bồ Tát. Do vậy, về sau, chúng ta tạc tượng Di Lặc Bồ Tát là tạc tượng Ngài. Đây là kiến thức thông thường nhất định phải biết: Bộc lộ thân phận thì chắc chắn chẳng có lý do nào để trụ trong thế gian nữa!

      Ấn Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai. Ngài bị bộc lộ thân phận thì quý vị có thể đọc Vĩnh Tư Lục[1] sẽ thấy: Chuyện này được một vị đệ tử quy y với Ngài ghi chép. Cô ta [lúc ấy] là một thiếu nữ, đang học Sơ Trung (Trung Học Đệ Nhất Cấp, cấp hai), trước kia chưa hề tiếp xúc Phật giáo, đột nhiên có một đêm nằm mộng, mộng thấy Quán Âm Bồ Tát. [Hình tượng] Quán Âm Bồ Tát rất quen thuộc, mặc y phục trắng, diện mạo rất từ ái, an tường, cô ta nhận ra ngay. Người chẳng tin Phật giáo cũng biết Quán Âm Bồ Tát. Trong mộng, cô ta thấy Quán Âm Bồ Tát bảo: “Đại Thế Chí Bồ Tát nay đang hoằng pháp tại Thượng Hải, ngươi nên đến thân cận Ngài”. Cô ta thưa: “Con không biết Đại Thế Chí Bồ Tát, rốt cuộc là vị nào vậy?” Quán Âm Bồ Tát bảo cô ta: “Pháp sư Ấn Quang chính là Đại Thế Chí Bồ Tát”. Hôm sau, cô ta tỉnh dậy, cảm thấy rất kỳ quái, cũng rất băn khoăn, bèn hỏi người nhà, người nhà đều không biết, cũng chẳng biết trong Phật giáo có một vị Đại Thế Chí Bồ Tát, càng chẳng biết tới pháp sư Ấn Quang. Đến cuối cùng, hỏi một người thân thích trong gia tộc, ông ta biết có Đại Thế Chí Bồ Tát, nhưng không biết pháp sư Ấn Quang. Do vậy, cô ta hỏi dò, hỏi dò rất lâu, có người bảo cô ta: “Ở Phổ Đà Sơn có một vị pháp sư tên là Ấn Quang, không sai! Hiện thời Sư được các cư sĩ mời sang Thượng Hải hoằng pháp”. Do vậy, người trong nhà rất vui sướng đến lễ bái lão hòa thượng. Gặp lão hòa thượng, cô ta bèn đem chuyện trong mộng kể lại. Lão hòa thượng mắng cô ta một trận tơi bời: “Ta chẳng cho phép ngươi kể chuyện này với bất cứ ai, đó là nói nhăng, nói cuội!” Thế nhưng Quán Âm Bồ Tát bảo cô ta, Đại Thế Chí Bồ Tát chỉ còn trụ thế bốn năm nữa; do vậy, sau khi bị pháp sư Ấn Quang quở mắng một trận, cô ta không dám nói nữa, nhưng bốn năm sau, quả nhiên Ấn Quang đại sư vãng sanh. Sau khi Ngài vãng sanh, cô ta mới đem chuyện này viết ra. Do vậy, mọi người mới biết: Ấn Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai!

      Đâu có vị nào tự mình phô trương ta là Phật này, là Bồ Tát nọ tái lai? Phàm kẻ nào nói những lời đó, đều là yêu ma, quỷ quái, chắc chắn không thể tin tưởng. Đây là nói đến chuyện “thánh hiền ứng tích”, chuyện này tại Trung Quốc hết sức nhiều. Quý vị đọc Cao Tăng Truyện và Thần Tăng Truyện, tại Trung Quốc, trải các đời, các vị Phật, Bồ Tát dùng thân phận xuất gia và tại gia thị hiện trong thế gian này rất ư là nhiều! Hiện thời có hay không? Đương nhiên là có. Khi chúng sanh càng khổ nạn, Phật, Bồ Tát ứng hiện càng nhiều, nhưng chắc chắn quý vị chẳng nhận biết, các Ngài cũng chắc chắn chẳng bộc lộ thân phận. Hễ thân phận bị bộc lộ bèn ra đi lập tức, chúng ta hãy nên hiểu rõ điều này!

      “Thị nghiệp hệ phàm phu” (là phàm phu bị nghiệp chướng trói buộc), đích xác! Chúng ta bị nghiệp buộc ràng. Nghiệp là gì? Thiện nghiệp, ác nghiệp. Trong thiện nghiệp sanh tham ái, bị tham ái ràng buộc. Trong ác nghiệp sanh sân hận, bị sân hận ràng buộc. Nói cách khác, thấy sắc, nghe tiếng, quý vị sanh phiền não, mừng, giận, buồn, vui, thất tình, ngũ dục là phiền não, quý vị bị nghiệp ràng buộc, chẳng được tự tại. Đấy là phàm phu, phàm phu bị trói buộc bởi nghiệp. Do vậy, quả báo của chúng ta chẳng thù thắng. Phật, Tổ dạy chúng ta buông xuống vạn duyên, tức là buông xuống nỗi khổ do bị nghiệp ràng buộc, khiến cho chính mình trong cuộc sống, bất luận gặp thuận cảnh hay ở trong nghịch cảnh, thời thời khắc khắc giữ cho thân tâm của chính mình thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh là trong hết thảy pháp chẳng sanh phân biệt, chẳng chấp trước, cũng đừng khởi vọng tưởng. Vì sao? Những thứ ấy đều chẳng chân thật. Do vậy, cổ nhân dạy chúng ta: “Thiểu thuyết nhất cú thoại, đa niệm nhất thanh Phật” (Ít nói một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật). Nói những lời nhảm nhí, chẳng có ý nghĩa gì cả! Hãy niệm Phật cho nhiều!

      Niệm Phật nhiều, quý vị phải hiểu: Niệm Phật là tiêu nghiệp chướng. Vì sao? Quý vị khởi tâm động niệm, khởi vọng tưởng là nghiệp chướng. Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối nói những câu nhảm nhí, đó là nghiệp chướng. Niệm Phật, quý vị chẳng khởi vọng tưởng, cũng chẳng nói nhảm nhí, há nghiệp chướng chẳng tiêu trừ ư? Chúng ta hằng ngày mong cầu tiêu tai, dùng phương pháp nào? Niệm Phật là phương pháp tiêu tai tốt nhất, là phương pháp tiêu nghiệp chướng hay nhất, quý vị phải biết dùng! Nếu chúng ta thật sự biết dùng, sẽ có thể giác ngộ, quả báo sẽ khá thù thắng. Nếu chẳng biết dùng, quả báo chẳng thù thắng. Quả báo thù thắng hay không là do một niệm của chúng ta giác hay mê.

      (Sớ) Cùng tưu, tắc kiến chi bất quảng.

      (Diễn) Kiến chi bất quảng giả, bất sanh Trung Hoa Phật quốc, thân chá đa hiền quảng kỳ văn kiến dã.

      (窮陬,則見之不廣。

  (見之不廣者,不生中華佛國,親炙多賢廣其聞見也。

      (Sớ: “Cùng tưu” là kiến giải chẳng rộng rãi.

      Diễn: “Kiến giải chẳng rộng”: Chẳng sanh trong Trung Hoa Phật quốc[2], thân cận nhiều vị hiền nhân hòng mở rộng sự hiểu biết vậy).

      Trong Phật pháp nói đến “sanh địa” tức là nơi chúng ta sanh ra. Nơi thù thắng nhất là nơi có Phật pháp hoằng dương. Quý vị rất dễ dàng tiếp xúc Phật pháp, đó là thù thắng. Nhìn từ điểm này, ngày nay chúng ta quả thật chẳng bằng thời đại của Liên Trì đại sư. Vì sao? Thời đại ấy, người hoằng dương chánh pháp vẫn còn đông. Tuy đông, nhưng cơ hội thân cận chẳng nhiều. Vì sao? Khoảng cách quá xa! Quý vị phải hiểu, hiện thời giao thông thuận tiện, thời ấy muốn nghe kinh phải đi đường bộ! Tự viện nào đang giảng kinh thì tự viện ấy cũng cách chúng ta mười dặm, hai mươi dặm, đi tới đi lui gần như phải mất năm, sáu tiếng đồng hồ đi đường. Do vậy, rất khó đi nghe kinh một lượt, chẳng giống như hiện thời lái xe hay ngồi xe bèn tới ngay, [thuở xưa] đâu được thuận tiện như vậy!

      Tuy vậy, trong Bồ Tát Giới Kinh có nói, người đã thọ Bồ Tát Giới, trong vòng bốn mươi dặm có pháp sư giảng kinh mà quý vị không đi nghe thì sẽ phạm giới. Quý vị đến ủng hộ đạo tràng trong vòng bốn mươi dặm, vào thuở ấy, đi đường bộ thì phải đi mấy tiếng đồng hồ? Phải đi năm tiếng, từ sáng tinh mơ, đi năm tiếng đến đó để nghe giảng kinh một buổi, quay về là năm tiếng nữa, thật sự chẳng dễ dàng! Quý vị có thời gian rảnh rang nhiều như vậy hay không? Đó là tính trong trường hợp quý vị chẳng cần đi làm. Chứ có công việc thì chẳng có cách nào hết! Đối với khoảng cách bốn mươi dặm, trong một ngày quý vị có thể đến rồi về, nơi ấy có giảng kinh thì quý vị phải đến nghe. Nếu trong một ngày chẳng thể đến rồi về, quý vị không đi cũng được. Hiện thời, bốn mươi dặm thấm vào đâu! Bốn mươi dặm là hai mươi kí lô mét, hiện thời quý vị ngồi xe hai mươi phút đã đến nơi rồi. Do vậy, về phương diện này, con người hiện thời có phước báo lớn hơn cổ nhân, nhưng nhân duyên giảng kinh chẳng bằng cổ nhân, vì sao? Trong thời đại hiện tại, giống như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Tà và chánh chẳng thể phân biệt, quá ư là khó! Chúng ta hảo tâm học đạo, nếu gặp phải một gã tà sư, chẳng phải là oan uổng ư? Do vậy, xét theo điều này thì quả thật chẳng bằng trước kia.

      Trước kia, trong thời đại đế vương, giảng kinh chẳng phải là tùy tiện giảng được. In kinh cũng chẳng thể tùy tiện in. Quý vị muốn in hay lưu thông một bộ kinh, phải được chánh phủ phê chuẩn, chẳng phê chuẩn sẽ chẳng thể tùy tiện lưu thông văn tự ấy. Do vậy, trước kia, kinh điển đều do hoàng đế ban phát, dẫu soạn chú giải, trước hết phải dâng lên cho hoàng đế duyệt, hoàng đế có thời gian đâu mà xem? Ông ta kiếm những vị pháp sư, đại đức cư sĩ, tìm những vị chuyên gia [ra lệnh cho họ] đọc, xem [tác phẩm ấy] có vấn đề hay không? Không có vấn đề, được! Hạ thánh chỉ cho phép lưu thông, mọi người đều có thể khắc in. Nếu chẳng được quốc gia ban bố, nhất định cấm ngặt lưu thông. Giảng kinh, thuyết pháp, dù là pháp sư, hay là cư sĩ, cũng phải được triều đình hoặc là quan lại địa phương chấp nhận thì mới được! Hiện thời, dân chủ, tự do, quý vị thích in gì cứ in nấy, chẳng có ai can thiệp. Do vậy, hiện đại quả thật là không chỉ là “ma cao một trượng, đạo cao một thước!” Tình hình không phải chỉ là như vậy! Vì thế, chúng ta sống trong thời đại này, khốn đốn, mê hoặc nhất là vì chuyện này!

      Nếu chúng ta muốn tránh né chuyện rối ren này, phải làm sao? Biện pháp duy nhất là đọc sách cổ. Sách cổ đã được khảo nghiệm qua lịch sử, chúng đã được chứng minh, khảo nghiệm, đã lưu truyền mấy trăm năm. Nếu chẳng phải thật sự là những thứ tốt đẹp, sẽ chẳng được lưu truyền, trong mấy trăm năm qua đã sớm bị đào thải! Những tác phẩm vẫn chưa bị đào thải, vẫn còn có thể được lưu truyền đến ngày nay, nhất định khá có giá trị! Do vậy, chúng ta đọc sách cổ. Sách cổ có khó đọc hay chăng? Chẳng khó! Chỉ cần quý vị có tâm nhẫn nại, dốc sức hai, ba năm! Cổ văn là văn chương viết theo thể loại Văn Ngôn, quý vị sẽ đọc thông thạo. Nhất là trong thời hiện tại, chúng ta học tập dẫu không có thầy vẫn có thể tự tập luyện. Bộ Cổ Kim Văn Tuyển do Quốc Ngữ Nhật Báo phát hành cũng thâu thập không ít bài cổ văn hay, chú âm (ghi chú cách đọc) lẫn chú giải đều tinh vi, tường tận, tự mình quả thật có thể tự trau giồi [bằng cách đọc bộ sách ấy]. Nếu toàn tâm toàn lực nghiên cứu kinh điển, chỉ cần chịu tốn chút công sức tra từ điển, [sẽ thấy] ý nghĩa sẽ chẳng khó hiểu. Quý vị phải biết, so ra, văn tự trong kinh Phật giản dị hơn cổ văn nhiều lắm, đó là văn tự đơn giản nhất trong thời ấy. Phật pháp đòi hỏi phổ biến lưu thông, cho nên chẳng dùng những câu chữ sâu xa, khó hiểu, sợ những người bình thường đọc không hiểu. Phật pháp trong khi phiên dịch đã được suy xét sao cho đại chúng hóa và phổ biến hóa. Do vậy, văn tự trong kinh Phật được gọi là “biến văn”, tức là loại văn biến thể, nói cách khác, là một loại văn Bạch Thoại thời ấy, rất dễ hiểu! Có nhiều bà cụ niệm Phật không biết chữ cũng có thể niệm kinh, hiểu được nghĩa kinh, đạo lý là ở chỗ này.

      Nói đến “kiến văn” thì học Phật quả thật là phải cầu học rộng nghe nhiều. Nói theo mặt lý luận thì không sai, nhưng nói theo mặt Sự, phải có chừng mực, chúng ta chớ nên không hiểu điều này. Phương pháp học hành trong thế gian hiện thời giống như Hồ Thích[3] đã ví von: Học hành giống như kim tự tháp (pyramid). Kim tự tháp phía dưới rộng, trên đỉnh nhọn hoắt. Có ý nghĩa như thế này: Học vấn phải học rộng nghe nhiều rồi mới chuyên tinh một môn; đấy là pháp thế gian. Đối với Phật pháp, phải lật ngược kim tự tháp, Phật pháp là “trước chuyên, sau rộng”. Quý vị học hành trong nhà trường, phải học mấy chục môn, càng học lên lớp cao hơn, học đến Đại Học, nghiên cứu sinh thì những thứ để học càng chuyên, giống như kim tự tháp lên đến chót đỉnh. Đó là nói theo học vấn thế gian. Phật pháp không như vậy, cổ nhân thường dùng cái cây để làm tỷ dụ, Phật pháp trước hết cầu điều gì? Cầu rễ, cầu gốc, gốc là cái thân chánh yếu, rồi từ cái thân chánh yếu mà trổ cành, đơm hoa, kết quả, càng ngày càng rộng rãi. Do vậy, phương pháp tu học trong cửa Phật và pháp thế gian hoàn toàn tương phản: [Trong nhà Phật], trước hết đổ công sức nơi một môn, thành tựu môn ấy rồi mới có thể học rộng nghe nhiều. Do vậy, học rộng nghe nhiều chẳng phải là để nói với kẻ mới học. Ai tu “học rộng nghe nhiều”? Bồ Tát! Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, đấy là học rộng, nghe nhiều; nhưng quý vị phải hiểu: Căn bản của Thiện Tài là ở chỗ Văn Thù Bồ Tát, Ngài đã được đặt định cơ sở vững vàng, đã thành tựu trong pháp hội của Văn Thù Bồ Tát, thành tựu Căn Bản Trí, đã tốt nghiệp rồi, đi ra ngoài tham học để cầu Hậu Đắc Trí. Hậu Đắc Trí là học rộng, nghe nhiều, Căn Bản Trí là chuyên dốc sức nơi một môn.

      Văn Thù Bồ Tát dạy Thiện Tài đồng tử tu pháp môn gì? Ngài dạy Thiện Tài pháp môn niệm A Di Đà Phật. Tôi chẳng gạt quý vị, thật đấy! Vì sao biết? Trong kinh Hoa Nghiêm không ghi chép, quý vị có dò kinh Hoa Nghiêm sẽ chẳng thấy. Vì sao tôi biết? Tôi dựa theo kinh điển để phán đoán. Sự phán đoán này tuyệt đối chính xác, vì sao? Chính Văn Thù Bồ Tát niệm A Di Đà Phật, trong kinh Hoa Nghiêm có chép Ngài cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, Ngài dạy các đồ đệ, nhất là đối với đồ đệ đắc ý nhất, chắc chắn phải dạy người ấy học cùng một pháp môn. Do vậy, tôi nghĩ Thiện Tài đồng tử nhất định tu pháp môn Niệm Phật. Đây là tôi dựa theo sự tu học của chính Văn Thù Bồ Tát để phán đoán. Thiện Tài đồng tử đi tham học, vị thiện tri thức đầu tiên Ngài gặp chính là tỳ-kheo Đức Vân, dạy Ngài niệm Phật, vị thiện tri thức cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Nhìn từ những “sợi tơ nhện, dấu chân ngựa” này, nhất định là Văn Thù Bồ Tát dạy Thiện Tài đồng tử niệm A Di Đà Phật, chẳng sai! Từ dấu tích ấy, chúng ta có thể thấy được!

      Tiếp đó, còn có một chứng cứ rất rõ rệt, tức là tổ sư đời thứ tư của Tịnh Độ Tông chúng ta là thiền sư Pháp Chiếu. Trong lời tựa cuốn Niệm Phật Phổ có chép chuyện này rất rõ ràng. Phương pháp Ngũ Hội Niệm Phật do đâu mà có? Do thiền sư Pháp Chiếu truyền lại. Ngài vốn học Thiền, đã đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông. Lão nhân gia gặp được Văn Thù Bồ Tát ở Ngũ Đài Sơn, khi ấy, Ngài trụ tại một nơi thuộc Hành Sơn, tỉnh Hồ Nam. Có một buổi sáng Ngài ăn cháo, chợt thấy trong bát đựng cháo xuất hiện cảnh giới giống như chúng ta nhìn vào màn hình TV vậy, thấy núi Ngũ Đài rõ ràng. Văn Thù Bồ Tát giảng kinh thuyết pháp tại đó, có hơn một vạn Bồ Tát vây quanh. Ở cửa chùa ấy có đề bảng tên rất rõ ràng “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Cách đi đường như thế nào Ngài cũng biết rõ. Vì vậy, Ngài liền phát tâm triều bái Ngũ Đài Sơn. Đến Ngũ Đài Sơn, vì Ngài vốn đã trông thấy từ trước, đã có ấn tượng, nên đường lối rất quen thuộc, tìm được Đại Thánh Trúc Lâm Tự, nghe Văn Thù Bồ Tát giảng một thời kinh. Nghe giảng xong, Ngài thỉnh giáo Văn Thù Bồ Tát: “Thời kỳ Mạt Pháp, chúng sanh căn tánh rất tệ, phiền não rất nặng, tu pháp môn nào thì mới có thể thành tựu?” Văn Thù Bồ Tát dạy Ngài niệm Phật, khuyên Ngài tu pháp môn Niệm Phật. Ngài bèn hỏi: “Niệm vị Phật nào?” Bồ Tát liền dạy Ngài niệm A Di Đà Phật, còn dạy cho Ngài cách niệm như thế nào. Đó là [phương pháp] Ngũ Hội Niệm Phật. Đấy là phương pháp do Văn Thù Bồ Tát truyền cho ngài Pháp Chiếu, ngài Pháp Chiếu truyền lại [cho hậu thế]. Do vậy, chúng ta biết Văn Thù Bồ Tát dạy Pháp Chiếu niệm A Di Đà Phật thì truyền dạy Thiện Tài nhất định cũng là niệm A Di Đà Phật.

      Thiện Tài đồng tử niệm đến nhất tâm bất loạn, nên mới có tư cách đi tham phỏng. Niệm đến nhất tâm bất loạn, giống như cây đã có cội, có gốc, nên cành, lá, hoa, quả mới trổ xum xuê. Đấy chính là thứ tự tu học trong Phật môn khác với thế gian. Do vậy, trải các đời, Phật giáo Trung Quốc luôn có nhân tài xuất hiện, đời nào cũng có không ít nhân tài. Đến ngày nay, Phật giáo không có nhân tài, nhân tài thưa thớt, vì nguyên nhân nào? Chẳng tuân thủ phương pháp cố hữu! Hiện thời, Phật Học Viện được tổ chức giống như học viện thế gian, cũng lập ra mấy chục môn học, mời bao nhiêu vị thầy, giống như xây kim tự tháp, trước tiên là rộng rãi, đến cuối cùng không còn nữa. Từ sau khi kháng Nhật thành công, Đài Loan mở bao nhiêu Phật Học Viện, nhưng Phật Học Viện chẳng đào tạo nổi nhân tài là do phương pháp sai lầm. Tôi học Phật, học với thầy Lý ở Đài Trung mười năm, thầy Lý sử dụng phương pháp dạy học theo lối xưa: Mỗi học sinh chỉ được học một bộ kinh. Nếu quý vị phát tâm học hai bộ kinh, thầy không dạy. Ngài nói quý vị không có năng lực. Do vậy, mỗi học sinh chỉ có thể học một bộ kinh. Cách dạy học, cách nhìn, cách làm ấy của lão nhân gia hoàn toàn không giống người khác. Trên thực tế, Ngài dạy học chỉ có hai năm, từ năm Dân Quốc 47 (1958) đến năm Dân Quốc 48 (1959), trong hai năm huấn luyện hai mươi mấy học trò, chúng tôi ai nấy đều có thành tựu, so với Phật Học Viện thì thành tựu cao hơn rất nhiều. Hiện thời hai mươi mấy người chúng tôi giảng kinh, thuyết pháp tại các nơi ở Đài Loan. Phương pháp quan trọng lắm! Nếu làm đúng cách, sẽ thật sự có nhân tài xuất hiện.

      Người như thế nào mới có tư cách giảng kinh? Thưa quý vị, mỗi người đều có tư cách, quý vị đừng coi thường chính mình. Thuở ấy, chúng tôi vừa mới đến Đài Trung, nghe nói giảng kinh trong lòng sợ hãi, tôi làm sao giảng kinh được? Thuở ấy, tôi học Phật, trước nay chưa hề mơ tưởng trong tương lai sẽ giảng kinh, chuyện này quá khó khăn! Tôi nhất định không làm được, đâu dám có ý niệm ấy. Kết quả là khi ấy đúng dịp thầy Lý mở lớp dạy giảng kinh, tôi đến Đài Trung, lớp học ấy mới khai giảng được một tháng, mỗi tuần học một buổi, nói cách khác, tôi mới bỏ sót bốn buổi học. Tôi theo học lớp ấy vào buổi học thứ năm, vào lớp ấy xem thử, tín tâm của tôi liền đầy đủ, không khó lắm, tôi cũng làm được, vì sao? Thấy tuổi của những bạn đồng học bảy phần mười đều lớn hơn tôi, lớn hơn rất nhiều; lại thấy có những vị học vấn không bằng tôi, tôi đã học xong Sơ Trung, họ vừa học xong Tiểu Học, còn có người chưa học xong Tiểu Học nữa, thua tôi! Những người đã học Cao Trung, học thức cao hơn tôi đại khái chỉ có ba bốn người. Tuổi lớn nhất là bà Lâm Khán Trị[4], khi ấy, bà ta đã sáu mươi, học xong Tiểu Học. Tôi thấy vậy, tín tâm vẹn mười, tôi có nhiều ưu thế hơn họ nhiều lắm!

      Tôi được huấn luyện tại đó hai năm, vừa xuất gia liền giảng kinh, dạy trong Phật Học Viện. Tôi chưa từng theo học tại Phật Học Viện, nhưng vừa xuất gia liền làm giáo sư trong Phật Học Viện, hiện nay tôi đã giảng dạy hai mươi bảy năm. Như vậy là mỗi người [trong số học sinh thuở ấy của thầy Lý Bỉnh Nam] đều có thể thành tựu. Tôi chính thức dạy Đại Học tròn năm năm, tôi giảng kinh ở ngoại quốc, thính chúng bảy mươi phần trăm có học vị Tiến Sĩ. Do vậy, quý vị phải tự mình nỗ lực, chỉ cần đúng pháp thì không một ai chẳng thành tựu. Học giảng kinh phải có cái tâm thường hằng, nghị lực, đừng sợ chướng ngại. Đầu tiên, nhất định sẽ giảng không hay, nhất định bị người ta phê bình, quý vị đừng ngã lòng. “Người này giảng kinh không được”, quý vị càng phải phát tâm: “Do vì tôi giảng không được, tôi mới muốn lên đài giảng. Nếu tôi đã làm được, tôi chẳng cần giảng”. Phải như vậy mới được! Quý vị mới có thể thành công. Do chưa được nên phải luyện tập trên đài giảng; làm được rồi, đã vững vàng rồi, không giảng nữa! Quý vị dập đầu, chắp tay thỉnh, tôi vẫn chưa chắc giảng cho quý vị! Là vì chưa làm được nên mới giảng. Hết thảy chướng ngại đều chẳng thể ngăn trở quý vị, quý vị bèn thành công. Quý vị hãy suy nghĩ: Tuổi tác, học vấn của quý vị so với chúng tôi đều tốt đẹp hơn rất nhiều; do vậy, quý vị phát tâm, trong tương lai nhất định thành tựu vượt trội chúng tôi. Đấy là chuyện đúng lý đương nhiên. Do vậy, nhất định phải chịu phát tâm.

      Điểm đặc sắc của Đài Trung là học sinh học ngay trên giảng đài, chẳng phải là học ở dưới đài. Mỗi học sinh đều phải lên giảng. Đài Trung Liên Xã huấn luyện nữ chúng, Linh Sơn Tự huấn luyện nam chúng. Người nghe cũng từ bảy tám chục người cho đến hơn một trăm người. Những người ấy đúng là công đức vô lượng. Không có những người ấy đến ủng hộ, chúng tôi học cũng chẳng thành. Là vì có nhiều người đến nghe dường ấy, chúng tôi mỗi tuần phải lên giảng một lần, ắt phải chuẩn bị rất cẩn thận. Do vậy, khi học giảng kinh rất khổ, mỗi tuần tối thiểu phải giảng kinh một lần, có ba đêm không ngủ, chẳng biết phải làm sao cho tốt, ăn cơm chẳng biết mùi vị gì, toàn bộ tinh thần đều đổ vào kinh điển. Huấn luyện như vậy mới nên người được. Do vậy, học sinh trong Phật Học Viện không thành công, không xuất đầu lộ diện được là vì sao? Họ không nếm trải những nỗi khổ ấy.

      Thuở ấy, chúng tôi giảng kinh, thầy Lý dặn nhất định phải soạn bài giảng. Quý vị phải biết, giảng kinh một tiếng rưỡi phải ghi chép một vạn năm ngàn chữ, do vậy, mỗi tuần phải soạn bài giảng đến một vạn năm ngàn chữ. Bài giảng ấy phải sửa đổi mấy lượt, lại còn phải luyện tập trước một lượt, hai lượt thì mới có thể lên bục giảng biểu diễn. Quý vị nghĩ xem có khổ hay không? Nhưng một bộ kinh giảng liên tục mấy tuần lễ, ai nấy đều giảng phờ phạc. Nếm trải nỗi khổ ấy rất có giá trị! Sau khi giảng xong một bộ kinh, pháp hỷ sung mãn; giảng lần thứ hai sẽ đỡ tốn sức rất nhiều, vì đã có kinh nghiệm, càng giảng càng hay. Do vậy, nhất định phải lên đài giảng, nhất định phải soạn bài giảng, phải có chuẩn bị chu đáo. Có như vậy thì mới có thể thành công! Chẳng chịu khổ, sẽ không có cách nào hết, chẳng thể nào thành tựu! Đây là nói về chuyện học rộng, quý vị nhất định phải hiểu học Phật khác với học thuật thế gian. Dùng phương pháp và thái độ của học thuật thế gian để học Phật, chắc chắn thất bại!

      (Sớ) Vãn học, tắc trí chi bất thâm.

      (晚學,則智之不深。

      (Sớ: “Vãn học” là trí chẳng sâu).

      “Vãn học” là mới học, hậu học, trí huệ chẳng sâu.

      (Diễn) Trí chi bất thâm giả, phi vi kỳ sư túc đức, cửu tu đạo hạnh, trí huệ thâm viễn dã.

      (智之不深者,非為耆師宿德,久修道行,智慧深遠也。

     (Diễn: “Trí chẳng sâu”: Chẳng phải là bậc thầy tuổi cao, đức trọng, tu tập đạo hạnh đã lâu, trí huệ sâu xa).

      “Kỳ” (耆) là đã có tuổi, từ sáu mươi trở lên đều có thể gọi là “kỳ”, tức là người già. Theo thói quen, thường là từ bảy mươi tuổi trở lên mới gọi là “kỳ”. Câu này có nghĩa là: Tuổi cao, đức trọng. “Cửu tu đạo hạnh, trí huệ thâm viễn”, tôi chẳng phải là như vậy, bất luận về tuổi tác, đức hạnh, đạo đức đều chẳng bằng người khác. Đây cũng là đại sư nói khiêm hư.

      (Sớ) Sự thả vị năng, huống phục tri Lý.

      (事且未能,況復知理。

      (Sớ: Sự còn chưa thể [tu tập], huống còn biết Lý?)

      “Sự” là gì? Là niệm Phật. Một câu Phật hiệu suốt ngày từ sáng đến tối tôi còn chưa niệm nên thân, huống chi lý Tịnh Độ rất sâu, làm sao tôi có thể hiểu rõ?

      (Sớ) Minh sở ngôn bất túc thủ tín ư nhân dã.

      (明所言不足取信於人也。

      (Sớ: Biết rõ lời của mình chẳng đáng cho người khác tin tưởng).

      Bản thân tôi biết rất rõ, lời tôi nói chưa chắc người ta đã chịu tin tưởng. Đây là nói rõ chính mình là kẻ mới học. Chúng ta có thể thấy rất rõ ràng: Những lời này đều là lời lẽ khiêm hư của Liên Trì đại sư, thật sự khiêm hư.

      (Sớ) Tố bỉ giả, tự tri thiển liệt, quý bỉ không đàm, sở vị: Sỉ kỳ ngôn nhi quá kỳ hạnh dã.

      (素鄙者,自知淺劣,愧鄙空談,所謂恥其言而過其行也。

      (Sớ: “Trọn thẹn” là tự biết mình nông cạn, hèn tệ, xấu hổ vì nói suông, nghĩa là: Hổ thẹn vì lời nói vượt quá việc làm).

      Tự mình biết căn tánh của chính mình nông cạn, kém hèn. Do vậy, chẳng muốn đàm huyền thuyết diệu, [tức là] chẳng muốn bàn luận những lý luận cao sâu, vì sao? Nói ra mà chính mình không làm được, “ngôn quá kỳ hạnh”, đó gọi là “không đàm” (bàn suông). Tiếp theo đây có một tỷ dụ:

      (Sớ) Họa bính khả tri.

      (畫餅可知。

      (Sớ: [Tỷ dụ] bánh vẽ [trong lời tựa] ý nghĩa dễ hiểu).

      Bánh vẽ chẳng thể đỡ đói!

      (Sớ) Yên thạch giả, tự ngọc nhi phi ngọc giả dã.

      (燕石者,似玉而非玉者也。

      (Sớ: Đá non Yên giống như ngọc, nhưng chẳng phải là ngọc).

      Đây là tỷ dụ. “Yên thạch”[5] là loại đá khá đẹp, thoạt nhìn giống như ngọc, nhưng thật sự chẳng phải là ngọc. Dưới đây, đại sư dẫn một câu chuyện nhỏ.

      (Sớ) Cổ hồ giả, Tây Vực cổ nhân thiện biệt bảo giả dã.

      (賈胡者,西域賈人善別寶者也。

      (Sớ: “Cổ hồ”: Lái buôn Tây Vực giỏi phân biệt các vật báu).

      “Cổ nhân” là người làm nghề buôn bán, nay chúng ta gọi họ là “thương nhân kinh doanh châu báu”. Những thương nhân kinh doanh châu báu ấy biết giá trị hàng hóa, họ có thể phân biệt bảo thạch là thật hay giả.

      (Sớ) Tích hữu đắc Yên thạch giả.

      (昔有得燕石者。

      (Sớ: Xưa kia có người có được một tảng đá từ non Yên).

      “Tích” là quá khứ, “hữu đắc Yên thạch giả”, nhặt được một tảng đá [từ Yên Sơn].

      (Sớ) Tự vị du cẩn.

      (自謂瑜瑾。

      (Sớ: Tự bảo là ngọc quý).

      “Du cẩn”[6] là ngọc quý. Người ấy tự cho là mình có một khối ngọc quý.

      (Sớ) Kiêu huyễn tục mục, ký đắc trọng thụ.

      (驕眩俗目,冀得重售。

      (Sớ: Kiêu căng, khoe khang với những kẻ gà mờ, mong bán cao giá).

      Người ấy hy vọng bán với giá rất khá, bán được rất nhiều tiền, rất ngạo mạn, khoe khoang, “tục mục” là những người không biết giá trị. Đối trước những kẻ không biết giá trị mà khoác lác.

      (Sớ) Dĩ thị cổ hồ, viết: “Thạch dã”. Đại tàm nhi phản.

      (以示賈胡,曰:石也。大慚而返。

      (Sớ: Đưa cho lái buôn Tây Vực xem, người ấy bảo: “Đá đấy mà!” Hết sức xấu hổ, tháo lui).

      Gặp phải người thông thạo, biết nó chẳng phải là bảo thạch, chẳng phải là ngọc, mà là đá, chính mình hết sức hổ thẹn. Những ý nghĩa bao hàm trong tỷ dụ này rất sâu! Ngọc quý ví như chánh pháp, đá non Yên ví như tà pháp, ngoại đạo. Về ngoại đạo thì có ngoại đạo trong nhà Phật, được gọi là “môn nội ngoại” (ngoại đạo trong Phật môn), lại còn có ngoại đạo dựa hơi Phật giáo, khoác chiêu bài Phật giáo, nhưng tu tập ngoại đạo. Do vậy, những đồng tu chúng ta phải chú ý: Có rất nhiều người thường gởi sách đến chỗ chúng ta, chớ nên tùy tiện bày ra, phải kiểm tra cẩn thận có phải là ngoại đạo hay không. Hoặc nhìn thấy những bản chú giải kinh Kim Cang, Tâm Kinh, xem kinh văn thì chẳng sai, nhưng nếu đọc lời chú giải sẽ thấy nói nhăng, nói cuội, lời lẽ yêu quái mê hoặc đại chúng, hại người! Nếu chúng ta nhận được những thứ sách ấy phải mau chóng đốt đi. Ngàn vạn phần đừng cho rằng: Đốt đi sợ mắc tội! Không có tội! Đốt đi sẽ có công đức, vì sao? Chẳng hại người! Do vậy, đối với những sách vở đó, nhất định phải hết sức thận trọng. Tiếp theo đây là nói tỷ dụ:

      (Sớ) Dụ y hy kiến đạo, phảng phất bất chân, minh nhãn nhân tiền, kham tác nhất tiếu.

      (喻依稀見道,彷彿不真,明眼人前,堪作一笑。

      (Sớ: Sánh ví thấy đạo ít ỏi, chỉ mường tượng chẳng thật, đáng làm trò cười trước người mắt sáng).

      Trước kia là như vậy, hiện thời không như thế. Hiện tại, những thứ này rất nhiều, nhưng chúng ta quả thật thiếu huệ nhãn, rất khó phân biệt. Ở Mỹ, tôi gặp một vị đồng tu, ông ta nói cũng học Phật tại Đài Loan, nhưng chẳng biết là học với người nào trong giới Phật giáo, ông ta cũng rất tin tưởng. [Người ấy] thường kêu ông ta đến lễ bái, bỏ tiền làm công đức, lại hỏi mượn tiền của ông ta, mở hội gì đó. Kết quả là ông ta bị kẻ ấy lừa tới một trăm vạn. Tới Mỹ, nghe tôi giảng kinh, hoàn toàn khác hẳn những gì ông ta được nghe trước kia, ông ta mới biết mình bị lừa gạt quá sức. Do vậy, thế nào là tà, thế nào là chánh, chúng ta phải phân biệt rõ ràng, quyết định chớ tưởng đá là ngọc, chớ nên coi Phật pháp giả mạo là chánh pháp. Nếu quý vị hỏi: Chánh pháp là gì? Thì bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này thật sự là chánh pháp, hãy chiếu theo lý luận này để tu học, chắc chắn chẳng sai lầm. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!

Tập 38

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi tám:

      Nhị, minh kỷ sở thượng

      二、明己所尚

      (Hai, nói rõ điều mình ưa chuộng).

      Trong đoạn lời Tựa này, “minh” là nói rõ, “kỷ” là Liên Trì đại sư tự xưng. [Câu “minh kỷ sở thượng” có nghĩa là] nói rõ điều Ngài ưa chuộng, tôn sùng. Nói cách khác, trong rất nhiều pháp môn ngần ấy, bản thân Ngài chọn lựa pháp môn nào để khởi tu. Chọn lựa pháp môn sẽ bao gồm nhiều điều kiện trong ấy, chẳng phải là chọn lựa tùy tiện. Nếu chọn lựa tùy tiện, thì ở đây không cần phải nói nữa. Do vậy, chính mình nhất định phải lượng sức, pháp môn [được chọn lựa] ấy chẳng những phải thích hợp với căn tánh của chính mình, mà đồng thời còn phải chẳng trở ngại cuộc sống và công việc của chúng ta thì bắt đầu tu tập mới khá thuận tiện. Nếu không, rất khó thành tựu! Vì sao? Tu học Phật pháp lấy tâm thanh tịnh làm tông chỉ. Nếu có trở ngại, tâm sẽ chẳng dễ gì đạt được thanh tịnh. Khi không học Phật, tâm đầy thanh tịnh; học Phật rồi, đâm ra tâm rối loạn tơi bời; đó là chọn lựa pháp môn không thỏa đáng nên mới có hiện tượng ngược đời ấy.

      (Tự) Chi thừa tiên sắc, đốc phụng tư kinh, vọng Lạc quốc vi gia hương, ngưỡng Từ Tôn như hỗ thị.

      (祗承先敕,篤奉斯經,望樂國為家鄉,仰慈尊如怙恃。

      (Tựa: Kính vâng theo lời sắc truyền từ trước, dốc lòng vâng theo kinh này, mong ngóng quê nhà nơi Lạc quốc, ngưỡng vọng đấng Từ Tôn như cha mẹ).

      Chữ “tiên” (先) chỉ thầy dạy, nói gần gũi là thầy dạy, vâng theo lời thầy dạy bảo; nếu nói xa sẽ là vâng theo lời Thích Ca Mâu Ni Phật răn dạy. “Sắc” (敕) là thánh chỉ của đế vương trước kia, đức Phật là pháp vương, do vậy, trong kinh luận cũng gọi lời Phật là “sắc”.

      Trong kinh, đức Phật dạy chúng ta: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu”, trong thời kỳ Chánh Pháp chỉ cần tu giới luật bèn có thể chứng quả. “Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu”: Trong thời kỳ Tượng Pháp, cách Phật đã xa, tu Giới Luật rất khó khăn, chỉ dựa vào giữ Giới Luật chẳng thể chứng quả, chẳng thể khai ngộ, do vậy, phải tu Thiền Định. “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”: Chúng ta nay đang sống trong thời Mạt Pháp, Liên Trì đại sư cũng sanh trong thời Mạt Pháp. Nói cách khác, chúng ta hiện thời học Phật chọn lựa pháp môn này là “chi thừa”, “chi” (祗) là kính, [“chi thừa”] là kính vâng theo lời răn dạy của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, lão nhân gia đã dạy chúng ta như vậy, chúng ta phải vâng theo, phải tiếp nhận, y giáo phụng hành. “Đốc phụng tư kinh” (dốc lòng vâng theo kinh này): Chữ “tư kinh” chỉ bộ kinh này.

      (Diễn) Tư kinh tán dương Cực Lạc, khuyến sanh Cực Lạc.

      (斯經贊揚極樂,勸生極樂。

      (Diễn: Kinh này tán dương Cực Lạc, khuyên hãy sanh về Cực Lạc).

       Bộ kinh này đặc biệt tán dương Tây Phương Cực Lạc thế giới, khuyên chúng ta vãng sanh Tịnh Độ của Phật Di Đà. Đấy là tông chỉ giáo học của bộ kinh này.

      (Diễn) Cố vọng Lạc quốc vi gia hương.

      (演) 故望樂國為家鄉。

      (Diễn: Cho nên mong mỏi Lạc quốc là nơi quê nhà).

      “Lạc quốc” là thế giới Cực Lạc, phải coi nơi ấy là quê nhà của chính mình!

      (Diễn) Tư kinh chỉ thị Di Đà, khuyến niệm Di Đà, cố ngưỡng Từ Tôn như hỗ thị.

      () 斯經指示彌陀,勸念彌陀,故仰慈尊如怙恃。

      (Diễn: Kinh này chỉ bày Phật Di Đà, khuyên niệm danh hiệu Phật Di Đà, vì thế, ngưỡng vọng đấng Từ Tôn như cha mẹ).

Bộ kinh này dạy chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dùng phương pháp nào? Kinh bảo chúng ta trong thế giới ở phương Tây có Phật, danh hiệu của Phật là A Di Đà. A Di Đà Phật từng phát ra bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng nhằm tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật trong mười phương sanh về cõi ấy, dạy cho chúng ta phương pháp, khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật. Do vậy, chúng ta kính ngưỡng đấng Từ Tôn như cha mẹ. “Hỗ thị”[7] là cha mẹ. Chúng ta coi A Di Đà Phật như cha mẹ của chính mình. Mấy câu dưới đây rất đáng cho chúng ta kiêng dè.

      (Diễn) Thiên sanh lưu lãng, bất tri hà xứ thị ngã gia hương.

      (千生流浪,不知何處是我家鄉。

      (Diễn: Ngàn đời trôi giạt, chẳng biết chốn nào là quê hương của mình).

      Chúng ta sống sống chết chết, chết chết sống sống trong thế gian, không chỉ “ngàn đời”! Từ vô lượng kiếp đến nay đã sanh tử luân hồi không ngừng. Sanh tử luân hồi là thật. Chúng tôi ở Mỹ đã gặp một đồng tu, kể rõ cho chúng tôi nghe một câu chuyện. Ông ta nói đời trước của mình có thể là một Hoa kiều già sống tại Mỹ, chết đi, đầu thai vào Đài Loan. Ông ta buôn bán ở Đài Loan, lần thứ nhất đến Mỹ, con người lẫn nơi chốn đều xa lạ. Có một hôm lái xe, vô ý lái qua một thành phố nhỏ thuộc phía Nam vịnh Cựu Kim Sơn (San Francisco Bay), lộ trình dự định của ông ta vốn chẳng phải là đi đến nơi ấy, chẳng biết vì sao lại lạc đường, lái xe đến nơi đó. Kết quả là đến chỗ đó, cảm thấy rất quen thuộc, ngay cả những con đường nhỏ ông ta cũng biết. Ông ta nghĩ: Đại khái trước kia ông ta là một Hoa Kiều sống bằng nghề đào quặng ở đó. Nếu không phải vậy, ta chưa hề đến nơi đó, vì sao lại quen thuộc với đường sá và nhà cửa ở nơi đó đến thế? Điều này chứng tỏ quả thật có đời trước. Có khi, chúng ta lữ du, đột nhiên cảm thấy địa phương nào đó rất quen thuộc, chứng tỏ trong đời quá khứ quý vị đã từng đến đó. Do điều này chứng tỏ: Con người quả thật có đời trước, đã có đời trước, đương nhiên có đời sau, có đời sau nữa. Vì vậy, quá khứ, hiện tại, vị lai ba đời là thật!

      Lục đạo luân hồi quả thật là “lưu lãng” (trôi nổi), chính mình chẳng thể sống an ổn ở nơi nào. Chúng ta không có trụ xứ, từ lúc sanh ra liền bận bịu vì chuyện này: Tức là cái chết! Mỗi ngày càng gần với tử vong hơn, thọ mạng mỗi ngày một giảm thiểu, ngày ngày giảm thiểu mãi cho đến khi chết. Đời người là như vậy đó. Đấy là “lưu lãng”. Các tôn giáo thông thường cho rằng sanh lên Thiên Đường là “vĩnh sanh” (sống đời đời), đó là hiểu lầm! Thiên Đường chẳng phải là sống đời đời, mà giống như con phù du trên mặt nước, thọ mạng chỉ có mấy tiếng đồng hồ! Con phù du thấy loài người thọ mạng khá dài, sống đến mấy chục năm. Phù du chỉ mấy tiếng đồng hồ là hết một đời, trông thấy thọ mạng loài người là mấy chục năm, một trăm năm, há chẳng phải là giống như chúng ta nhìn chư thiên ư? Phù du sống được mấy giờ, nó cảm nhận đấy là một đời. Con người sống mấy chục năm, cũng cảm nhận là một đời. Chúng nó cảm thấy mấy tiếng đồng quá ngắn ngủi, tạm bợ. Chúng ta cảm thấy mấy chục năm cũng hết sức ngắn ngủi, tạm bợ! Dẫu có sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, [thọ mạng] tám vạn đại kiếp, chư thiên vẫn cảm nhận [cuộc đời họ] ngắn ngủi, tạm bợ giống hệt [như chúng ta], chẳng sai khác gì. Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: Tam giới đều khổ! Trong tam giới chẳng tìm được chỗ nào an lạc. Quý vị muốn thật sự tìm được nơi chốn an lạc, ắt phải vượt thoát tam giới. Nói cách khác, muốn trốn thoát lục đạo luân hồi thì phải làm như vậy mới được. Đây là lời chân thật!

      (Diễn) Vạn kiếp đào vong, vị thức hà nhân thị ngã phụ mẫu.

      (萬劫逃亡,未識何人是我父母。

      (Diễn: Muôn kiếp trốn tránh, chưa biết ai là cha mẹ ta?)

      Đây cũng là tỷ dụ, giống như kẻ trốn khỏi quê nhà, trái nghịch đức Phật, lìa bỏ cha mẹ ra đi. Sau khi bỏ đi, không nơi nương cậy, cha mẹ là nơi ta nương cậy. Đương nhiên khi quý vị trưởng thành là chuyện khác; nếu là một đứa bé chưa trưởng thành mà lìa khỏi cha mẹ, tình cảnh gian khổ ấy chúng ta có thể tưởng tượng mà biết được. Ngày nay chúng ta chịu hết mọi nỗi cay đắng trong lục đạo, chẳng được an vui.

      (Diễn) Tư kinh chỉ xuất, cảm bất huyền vọng nhi xí ngưỡng da?

      (斯經指出,敢不懸望而企仰耶。

      (Diễn: Kinh này đã chỉ ra, dám đâu chẳng trông ngóng, ngưỡng vọng ư?)

      Rốt cuộc quê hương an ổn là đâu? Cha mẹ thật sự có thể nương tựa là ai? Trong kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật đã chỉ ra. Sau khi Ngài đã chỉ ra, chúng ta hãy nên mong mỏi, kính ngưỡng thì mới là đúng,

      (Sớ) Ký sủy độn căn, sự tất sư cổ. Chi giả, kính dã. Thế chủ ngọc âm, Pháp Vương kim khẩu, quân danh viết “sắc”. Đốc phụng giả, phụng chi chí dã.

      (既揣鈍根,事必師古。祗者,敬也。世主玉音,法王金口,均名曰敕。篤奉者,奉之至也。

      (Sớ: Đã xét mình là độn căn, ắt phải tuân theo, tôn cổ nhân làm thầy. “Chi” là kính. Tiếng châu ngọc của đế vương trong cõi đời, miệng vàng của đấng Pháp Vương đều gọi là Sắc. “Đốc phụng”: Vâng giữ đến tột bậc).

      Đoạn này giải thích hai câu đầu trong đoạn lời tựa ở phía trên. “Sủy” (揣) là “sủy ma” (揣摩), cũng có nghĩa là chính mình nghiêm túc phản tỉnh, kiểm điểm. Nếu chúng ta căn tánh rất độn, nói cách khác, chẳng phải là hạng lợi căn rất thông minh, chúng ta ắt phải noi theo cổ nhân, “sự tất sư cổ”: Sự (事) là “sư pháp” (học theo, tuân theo), tôn cổ nhân làm thầy. Nếu quý vị có trí huệ thông minh đặc biệt thù thắng thì khỏi phải bàn tới; chứ nếu là người căn tánh trung hạ, ắt phải tôn cổ nhân làm thầy, chắc chắn sẽ có thành tựu, giống như Mạnh Phu Tử tôn Khổng Tử làm thầy, Ngẫu Ích đại sư tôn Liên Trì đại sư làm thầy, đều là “sư cổ” (tôn cổ nhân làm thầy), đều là lấy cổ nhân làm gương mẫu và điển hình tu học cho chính mình. Chữ “thế chủ” chỉ đế vương trong thế gian, mệnh lệnh, ý tứ của đế vương trong thế gian được gọi là Sắc (敕). Mọi người thường gọi Sắc là “thánh chỉ”. Đức Phật là Pháp Vương, “pháp vương kim khẩu”. Chữ Kim có hai cách giảng: Theo phương diện biểu pháp thì “kim” (金) có nghĩa là tôn quý; nói theo mặt sự tướng, thân Phật là sắc vàng, cho nên [miệng Phật] gọi là “kim khẩu”. “Đốc phụng” là phụng hành đến tột bậc, nói cách khác, y giáo phụng hành một trăm phần trăm, tuyệt đối chẳng giảm bớt!

      (Diễn) Ký sủy độn căn giả, vi nhân bất khả bất tự sủy.

      (既揣鈍根者,為人不可不自揣。

      (Diễn: Đã tự xét mình là độn căn: Làm người chẳng thể không tự suy xét).

      Câu này nói rất hay. Trong phần trên đã nói con người phải tự lượng, lượng sức mà làm thì bất cứ chuyện lớn hay nhỏ nhất định sẽ thành tựu. Do vậy, nhất định phải suy xét, cân nhắc sức mình, suy nghĩ căn tánh, trình độ, hoàn cảnh sống của chính mình và bối cảnh thời đại hiện tại đều phải hiểu rõ. Suy xét từ nhiều khía cạnh rồi mới quyết định đường lối cho chính mình: Ta đi theo đường lối này thì nên làm theo cách nào để đời này mới chẳng đến nỗi luống uổng! Đối với pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, muốn có thành tựu, đương nhiên thành tựu trong pháp xuất thế gian là bậc nhất. Thành tựu pháp thế gian nhằm giúp đỡ người khác, thành tựu pháp xuất thế gian nhằm thành tựu tịnh nghiệp của chính mình. Nói tới chuyện giúp đỡ người khác, có rất nhiều phương thức. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, những vị thiện tri thức ấy đại diện cho các ngành nghề, nam, nữ, già, trẻ, toàn là Bồ Tát, toàn là học Phật. Do vậy, học Phật không nhất định phải xuất gia, không nhất định phải sống trong chùa miếu. Quý vị ở trong công ty, hãng xưởng, cửa tiệm, hoặc là cơ quan chánh phủ, cho đến ở trong gia đình của chính mình, chỉ cần quý vị đúng pháp, những nơi ấy đều là đạo tràng, sẽ đều là Bồ Tát, đều có thể thành Phật, đều có thể vãng sanh. Quý vị muốn thông đạt, lý giải, nhất định phải đọc kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, “tự xét mình” hết sức trọng yếu!

      (Diễn) Tự sủy nhược quả lợi căn, tắc trượng phu tự hữu xung tiêu chí, bất hướng Như Lai hành xứ hành.

      (自揣若果利根,則丈夫自有沖霄志,不向如來行處行。

      (Diễn: Tự xét thấy mình nếu thật sự là lợi căn thì trượng phu tự có chí hướng xông trời thẳm, chẳng noi theo hành xứ của Như Lai để hành).

      Nếu thật sự là hạng lợi căn bậc nhất thì được, người ấy quả thật có thể vượt Phật, trội Tổ, đốn ngộ, đốn chứng, nhưng người như vậy rốt ráo rất ít! Chúng ta đừng nói ai khác, nhìn vào lịch sử Phật giáo Trung Quốc, người giống như Lục Tổ Huệ Năng đại sư của Thiền Tông thì trước Huệ Năng đại sư chưa thấy ai như vậy, mà sau đại sư mãi cho đến ngày nay hơn một ngàn ba trăm năm cũng chẳng thấy có ai được như vậy. Đó là bậc lợi căn chân chánh. Do vậy, có thể đọc Đàn Kinh, nhưng chắc chắn chẳng thể học theo. Vì sao? Chúng ta chẳng phải là hạng căn tánh ấy, học không được! Chưa thấy mấy ai Tham Thiền có thể khai ngộ! Quý vị không tin thì hãy đọc Đàn Kinh, lúc Lục Tổ tại thế, có tới mấy ngàn người cùng tham Thiền với Ngài. Ngài trụ trì Tào Khê ba mươi bảy năm, người theo học với Ngài có mấy chục vạn người, thật sự khai ngộ chỉ có bốn mươi ba người mà thôi! Do vậy, quý vị tham Thiền chưa chắc khai ngộ, thật sự chẳng dễ dàng! Chúng ta nhất định phải giác ngộ điều này! Học Mật, nếu quý vị học mà đầu óc rất bình thường, kể như quý vị gặp vận may. Tôi thấy rất nhiều người học Mật, học được mấy năm, tinh thần đều bất bình thường, rắc rối to! Do vậy, chính mình nhất định phải hiểu căn tánh của chính mình. Trong pháp thế gian còn chẳng thể chụp giựt cơ hội, lươn lẹo, huống hồ Phật pháp! Xét theo lý luận, “tức thân thành Phật” hay lắm, nhưng về Sự thì không được! Tức thân thành Phật trên mặt Sự thì tôi xin thưa cùng quý vị, chỉ có bộ kinh này, chỉ có pháp môn Niệm Phật. Niệm Phật, dẫu chỉ là Hạ Phẩm Hạ Sanh, vẫn là tức thân thành Phật, thật đấy! Do vậy, bộ kinh này được mười phương chư Phật cùng tán thán, mười phương chư Phật cùng giúp đỡ hoằng dương.

      (Diễn) Kim ký độn căn, tất tu sư cổ.

      (今既鈍根,必須師古。

      (Diễn: Nay đã là độn căn, ắt phải tôn cổ nhân làm thầy).

      Hiện tại, chúng ta chẳng phải là lợi căn, đốn siêu chẳng được! Căn tánh của chúng ta hết sức trì độn, nghiệp chướng lại sâu nặng. Cớ sao biết nghiệp chướng của chính mình sâu nặng? Ví như chúng ta niệm Phật lâu dường ấy, chẳng những không thể đắc nhất tâm, ngay cả công phu thành phiến cũng chẳng đạt được! Chẳng những công phu thành phiến không đạt được, kể cả khi quý vị niệm Phật trong thời gian tàn một cây hương, trong thời gian tàn một cây hương, tức một tiếng rưỡi ấy, còn khởi vọng tưởng mấy lượt. Đấy chẳng phải là nghiệp chướng sâu nặng ư? Ngay cả trong vòng một tiếng rưỡi mà công phu chẳng thể thành phiến, vẫn còn khởi vọng tưởng; đấy là tướng nghiệp chướng sâu nặng. Chính chúng ta phải biết rõ%3

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro