#1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thời điểm hiện tại là một tháng kể từ sau khi tôi mất.

Tôi nhớ rằng vào lúc gia đình nhận tin tôi mất, vợ tôi Alice hoàn toàn ngã quỵ. Những đứa trẻ của chúng tôi phải mang cô ấy vào bệnh viện. Tội nghiệp mấy đứa nhỏ, tang bố chưa xong, còn phải chăm sóc thêm mẹ nữa.

Tình hình gia đình hỗn loạn như vậy khiến tôi hoãn việc đi theo Tử Thần. Ngay sau khi tôi mất, tôi đã trải qua phiên tòa của Thiên Chúa (tôi không muốn nhớ lại ký ức khủng khiếp ấy đâu). Sau phiên tòa, Tử Thần có nhiệm vụ mang tôi đến Luyện Ngục, nhưng tôi đã bỏ trốn. Việc bỏ trốn khá dễ dàng, vì Tử Thần không hề xích linh hồn của tôi lại, đến khi bỏ trốn được một thời gian kha khá, tôi cũng không thấy Tử Thần tìm kiếm tôi (cứ như thể ông ấy cố tình để tôi trốn đi). Tôi không biết nếu bây giờ tôi trở về thì tôi sẽ phải chịu những hình phạt gì nữa, nhưng điều này không khiến tôi lo lắng bằng gia đình của mình hiện tại. Tóm lại, hiện tại tôi đã trở thành một hồn ma lang thang, vì chấp niệm mà vẫn còn ở lại thế giới này.

Vợ tôi đau bệnh suốt một tháng liền kể từ cái chết của tôi. Sau khi từ bệnh viện trở về, Alice không buồn ăn uống gì cả ngoài mấy muỗng cháo trắng. Cô ấy bảo rằng thức ăn có vị lạ quá, cô ấy nuốt không vào. Ý này còn có thể hiểu là, nếu không phải thức ăn do chính tay tôi chuẩn bị, cô ấy sẽ không đụng vào. Hai đứa con trai của chúng tôi không ai có được khẩu vị nấu ăn của tôi, thế nên chúng đành bất lực nhìn mẹ chúng tuyệt thực, nhốt mình trong phòng ngủ.

Về phía tôi cũng chẳng khá khẩm hơn là bao. Tôi chỉ là một bóng ma, vô hình vô dạng, chỉ có thể nhìn Alice khổ sở mà chẳng thể nào ôm lấy cô ấy để an ủi. Suốt cả ngày dài, Alice chỉ biết cuộn tròn trên giường của chúng tôi ngủ mà chẳng đụng vào thứ gì dù chỉ một giọt nước. Gương mặt cô ấy ngày một nhợt nhạt, còn mái tóc vàng rối bời chẳng buồn chăm sóc. Cứ như thể cô ấy hy vọng rằng cô ấy có thể cứ thế này mà đi theo tôi vậy.

Tôi nào có thể chấp nhận được điều đó. Vận số của tôi đã hết, nhưng cuộc đời của cô ấy vẫn còn dài đến vậy, tôi không thể cứ vậy mà để cô ấy rút ngắn cuộc đời tươi đẹp của mình vì một người yểu mệnh như tôi.

Trong hai đứa con, đứa con cả Alfred chẳng bao giờ đụng tay vào bếp - thời gian học xa nhà của nó khiến khái niệm thức ăn trong đầu nó từ khi nào chỉ xoay quanh mỗi thức ăn nhanh và những thứ độc hại. Tuy vậy, Matthew lại thừa hưởng sự khéo léo và sở thích nấu ăn của tôi, chỉ là độ nhạy trong vị giác của nó lại không bằng tôi được.

Không sao cả, vẫn còn cứu được.

Khi cả nhà đã đi ngủ hết, tôi lặng lẽ di chuyển vào bếp, tìm kiếm sách nấu ăn vốn đã phủ bụi từ lâu. Tôi thừa hưởng những kỹ năng nấu ăn từ thời gian làm việc ở một nhà hàng danh tiếng, vốn dĩ chẳng cần đến cuốn sách dạy nấu ăn này làm gì. Cuốn sách này chẳng qua chỉ là một thứ tôi mua trong lúc ngẫu hứng, không ngờ rằng rồi sẽ có một ngày nó trở nên hữu ích, không chỉ thế lại còn hữu ích sau khi tôi qua đời.

Tôi đặt cuốn sách lên bàn, cầm bút ghi chú tỉ mỉ liều lượng, thêm cái gì bớt cái gì, gạch bỏ những thành phần dư thừa, lưu ý thời gian chế biến. Tôi viết liên tục suốt ba ngày, bất kỳ khi nào cả nhà đi ngủ, hoặc đi vắng, tôi đều sẽ mang cuốn sách dạy nấu ăn đó ra để ghi chú.

Đến khi tôi hoàn thành chỉnh sửa lại toàn bộ cuốn sách, tôi lặng lẽ mang nó đặt trên bàn làm việc của Matthew.

Ngày hôm sau, Matthew tỉnh dậy. Nó sững sờ nhìn cuốn sách dạy nấu ăn trải rộng trên bàn làm việc của nó, không thể nào tin nổi vào cái lúc quẫn bách nhất thì lại có một cuốn sách nấu ăn từ trên trời rơi xuống, bên trong chi chít bút tích của bố nó. Nó mang cuốn sách đi hỏi Alfred và Alice, nhưng ai cũng bảo với nó rằng họ còn không biết đến sự tồn tại của cuốn sách, chứ đừng nói là đặt cuốn sách vào phòng nó.

Matthew vừa kinh ngạc, vừa nghi ngờ nhìn chăm chú vào cuốn sách dạy nấu ăn. Từ trước đến nay, Matthew là một người theo thuyết vô thần - nó không tin vào thần thánh, linh hồn, hay bất kỳ khái niệm nào liên quan đến thế giới vô hình, cũng không hề tin vào những hiện tượng kỳ bí và tâm linh. Ngay từ thuở tấm bé, nó đã là một đứa trẻ vô cùng thông minh, biết nói từ rất sớm, và đưa ra nhận định rằng ma cỏ chỉ là một chuỗi hoang tưởng của những kẻ yếu bóng vía từ khi chỉ mới ba tuổi rưỡi. Nhưng sự việc trước mắt khiến nó không thể phủ nhận được: đây rõ ràng là bút tích của bố nó, được viết bằng loại mực chỉ mới sản xuất trong năm nay, và được đặt một cách ngay ngắn lên bàn nó.

Trở về phòng mình, lần đầu tiên trong đời, Matthew quỳ xuống cầu nguyện. Tôi cũng quỳ xuống cùng cầu nguyện với nó. Và cũng không biết từ bao giờ, Tử Thần cũng quỳ ở cạnh, cầu nguyện cùng chúng tôi.

Tôi nhìn Tử Thần.

"Nhìn cái gì?" Ông ta nói. "Tôi không thả anh đi, thì e là Alice Bonnefoy sẽ cùng quẫn mà tìm đến cái chết mất. Chuyện thất đức như vậy, tôi sao mà làm được? Haiz, đó là lý do tại sao tôi ngại nhận việc với mấy cặp vợ chồng yêu đương khăng khít như một thể. Càng yêu nhau thì lại càng muốn tìm đến cái chết cùng đối phương, đúng là ngu ngốc mà."

"Thiên Chúa biết anh thả tôi đi chứ?"

"Cái gì mà ổng chẳng biết." Tử Thần nói. "Ổng chỉ có không nói thôi chứ ổng biết hết. Mà thôi, anh cứ làm việc của anh đi, khi nào anh đi quá giới hạn thì tôi mới ngăn anh lại. Khi nào anh sẵn sàng rồi hẵng đến Luyện Ngục cũng được. Đa phần mọi người thì muốn thanh luyện sớm rồi kết thúc sớm, nhưng cũng có một số người giống anh, lưu luyến, lang thang một thời gian trên nhân giới rồi mới trở về. Cũng chẳng sao, chỉ là nếu họ bất mãn mà phá hoại thì họ sẽ vào biên chế lao động khổ sai, thời gian ở Luyện Ngục sẽ lâu hơn một chút."

"...Xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn." Trong lúc chúng tôi đang nói chuyện, Matthew bên cạnh thầm thì Lời Than Fatima.

Cảm thấy đã truyền đạt mọi thông tin cần thiết, Tử Thần đứng dậy, lướt qua chúng tôi. Ông ta đi xuyên qua Matthew khiến thằng bé rùng mình như vừa bị dội một thau nước đá lên đầu.

***

Khi Alfred đỡ Alice bước ra khỏi phòng, trông cô ấy chẳng còn hy vọng nào cả. Cơ thể cô ấy gầy còm hẳn đi, áo quần vừa vặn từ trước đến nay giờ trở nên rộng thùng thình trên người cô ấy. Đôi mắt xanh lục, tinh nhạy như mắt mèo mọi khi giờ đây tăm tối và trống rỗng. Cô ấy ngồi vào bàn ăn, bần thần nhìn vào một bàn thức ăn bốc khói nghi ngút.

"Bon appétit." Matthew nói, choàng tấm khăn ăn lên đùi mẹ nó, sau đó trở lại chỗ ngồi đối diện.

Alice cắm nĩa vào một lát khoai tây, đưa lên miệng. Theo từng chuyển động của Alice, tôi thấy bàn tay Matthew đang đan lại với nhau hơi run lên. Alfred cũng mím môi lại đầy căng thẳng.

Lát khoai tây được đưa vào miệng, được nhai một cách chậm chạp.

Matthew ngước mắt lên nhìn mẹ nó, và bàn tay run rẩy của nó thả lỏng.

Đôi mắt xanh màu ngọc lục bảo kia không còn tối tăm nữa. Nước mắt loang ra trên màu xanh ấy, óng ánh những tia sáng mềm mại và chảy tràn trên mi mắt. Alice lắp bắp, đôi môi run rẩy:

"Francis... Giống hệt... món ăn này giống hệt với món ăn mà anh ấy đã làm. Francis... Francis..."

"Anh đây." Tôi dịu dàng, tha thiết nói với vợ. Tôi ngồi cạnh cô ấy, đặt hờ bàn tay mình lên bàn tay cô ấy, sợ rằng nếu tôi nắm trọn bàn tay kia, tôi sẽ xuyên qua cô ấy mất.

"Ngốc quá." Alice nói, nước mắt lại trào ra. "Francis ngốc nghếch, tại sao cứ yêu tôi mãi như vậy chứ. Người đã đi rồi, đi rồi mà. Đi mất rồi, vậy mà vẫn yêu tôi. Những đứa trẻ của Francis cũng ngốc nghếch như Francis vậy. Ngốc quá, ngốc quá."

Cô ấy òa khóc. Cả hai đứa con đều ùa đến ôm lấy mẹ nó.

"Bố đã qua đời, nhưng bố chưa bao giờ hết yêu mẹ." Matthew nói với Alice.

"Ừ, mẹ biết, mẹ biết chứ." Alice ôm chặt hai đứa trẻ giờ đã cao hơn mình. "Bố con yêu mẹ nhiều đến nỗi ngay cả khi anh ấy ra đi, mẹ vẫn luôn có cảm giác anh ấy luôn hiện diện bên cạnh mẹ."

Tôi cũng ôm cả gia đình trong vòng tay của mình, không thôi nuối tiếc vì không còn có thể cảm nhận hơi ấm của họ được nữa. Alice đã lấy lại khát vọng sống, tôi cũng đã được chôn cất hơn một tháng, hai đứa trẻ đều đã trưởng thành và ổn định, dĩ nhiên có thể lo được cho mẹ chúng và chính bản thân chúng. Có lẽ, từ giờ trở về sau, họ không còn cần đến sự hiện diện của tôi làm gì nữa.

***

Tôi vẫn chưa đi.

Thời điểm hiện tại là bảy năm kể từ khi tôi mất. Và tôi vẫn chưa đi. Ngày nào tôi cũng quanh quẩn trong nhà mình.

Không phải là tôi sợ hãi Luyện Ngục hay còn nuối tiếc nhiều việc chưa làm ở đây. Luyện Ngục thì ai chẳng sợ, nhưng rốt cuộc vẫn phải vào, chẳng thà vào sớm. Tiếc nuối những việc chưa làm thì tiếc thật, ai chẳng vậy, nhưng giờ tôi chỉ là một linh hồn, tôi nào có thể làm được cái gì ở đây nữa chứ. Điều khiến tôi lo lắng vẫn là Alice, vợ tôi.

Ban đầu, tôi chỉ định bụng rằng tôi sẽ ở lại cho đến khi Alice ổn định và tìm được một hạnh phúc mới. Sau bữa ăn mà Matthew nấu theo công thức tôi chỉ, Alice dần dần bình phục. Cô ấy không còn bỏ ăn nữa, mà bắt đầu ăn đúng bữa, tập thể dục, rồi quay trở lại làm việc. Công việc của Alice ngày một thăng tiến và thuận lợi, ăn uống lành mạnh nhờ có Matthew chăm sóc, thể dục thể thao không thiếu ngày nào nhờ sự động viên của Alfred. Cuộc sống của Alice ngày một khởi sắc. Tử Thần nói đúng, cuộc đời cô ấy vẫn còn dài, vẫn còn nhiều chặng cần đi, không giống như tôi.

Tuy vậy...

Tuy vậy, đồ đạc của tôi trong phòng của hai vợ chồng vẫn chưa được chuyển đi. Áo quần của tôi đều được giữ nguyên trong tủ (tôi sẽ không nói rằng thỉnh thoảng Alice sẽ lôi hết áo quần trong tủ của tôi ra, ném lên giường và lăn trên đám áo quần đó cả đêm đâu). Sách vở, tài liệu của tôi đều được xếp gọn gàng trên giá, không bị dịch chuyển đi chỗ khác. Cả bàn chải đánh răng, dao cạo râu của tôi, mỗi lần bị cũ mòn đi đều được Alice thay mới. Trên tay của Alice luôn luôn là chiếc nhẫn vàng mà tôi trao cô ấy vào lễ cưới.

Rõ ràng là Alice vẫn chưa hoàn toàn bình phục khỏi sự ra đi của tôi.

Chúng tôi cưới nhau và có con từ độ tuổi khá sớm, thế nên ở thời điểm này, cả Alfred lẫn Matthew đều đã hai mươi hai tuổi, nhưng Alice thì cũng chỉ mới bốn mươi hai. Ở độ tuổi này, phụ nữ ở các nước Đông Á xem như không còn hy vọng gì vào hôn nhân, nhưng ở Châu Âu thì độ tuổi này chẳng làm giảm đi cơ hội hẹn hò của họ. Alice hoàn toàn có thể tái hôn với một người tốt, và thậm chí có thêm con cái và có cho riêng mình một gia đình thứ hai.

Mấy đứa nhà tôi dường như cũng có cùng suy nghĩ với tôi. Alfred và Matthew hẳn nhiên cũng nhận thấy tình trạng của mẹ chúng, và thường thì thầm, thảo luận với nhau rằng bọn chúng cần "tìm" cho mẹ chúng một đối tượng phù hợp. Alfred, đứa trẻ chẳng thừa hưởng chút tinh tế nào từ tôi, đã (bị Matthew xúi) đề cập đến chuyện này một cách trực tiếp:

"Má, má nghĩ thế nào về chuyện đi xem mắt?"

Alice hạ tờ báo xuống khỏi tầm mắt. Cô ấy đẩy kính, nhìn Alfred một cách dò xét:

"Sao lại hỏi thế?"

"Sau nhiều năm thì tụi con muốn có ba mới." Alfred nói, trong khi Matthew thiếu điều tự đập đầu mình vào tường vì phát ngôn đi vào lòng đất của anh trai nó.

"Mày muốn bố mới như thế nào?" Alice không khỏi cảm thấy buồn cười, lại hỏi Alfred.

Câu hỏi của Alice khiến Alfred trầm tư suy nghĩ một lúc.

"Tốt nhất vẫn là giống ba." Nó trả lời. Lần này thì Matthew đập đầu vào tường thật, còn Alice thì cười ngặt nghẽo.

"Làm gì có ai bằng được bố các con cơ chứ?" Alice vừa cười vừa nói, đôi mắt cô ấy lấp loáng nước mắt.

Tôi ngồi ngay bên cạnh Alice khi Alfred đưa ra đề nghị đó. Mặc dù có phần hơi đau lòng khi nghĩ đến chuyện xem mắt của Alice, nhưng tôi vẫn tán thành đề nghị của hai đứa nhỏ. Không chỉ có hai đứa này, cả tôi cũng sẽ xem xét đối tượng tiếp cận với Alice. Tôi sẽ không cho phép những cột cờ đỏ lởn vởn xung quanh cô ấy, dù bản thân cô ấy cũng là một cột cờ đỏ di động (ho).

Dường như cũng ý thức được rằng tình trạng của mình khiến con cái lo lắng, Alice đã đồng ý tham gia vào những buổi xem mắt để chiều lòng các con.

Cả những đứa trẻ lẫn tôi đều không ngờ được rằng, chính bởi qua những buổi mai mối, xem mắt này, mà Alice đã tìm được định mệnh thực sự của đời cô ấy, người mang lại hạnh phúc và đồng hành với cô ấy suốt quãng đời còn lại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro