Quyển 5 - TRẢO HOÀNG PHI ĐIỆN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 62: Vị Ương cung Chân Cơ thuyết liên ý…

(Giải thích tựa chương: Cung Vị Ương Chân Cơ nói chuyện vợ chồng… )

Thành Trường An, cung Vị Ương, trong điện của thiên tử.

Hôm nay, trên ghế rồng nơi bao đời thiên tử nhà Hán trị vì, có một tên lỗ mãng trí thông minh không quá chín mươi vũ lực đỉnh cao ngồi lên, ngọc tỷ truyền quốc lấp lánh ánh kim nằm im lìm ở một góc long án.

Dưới ngọc tỷ là một chồng giấy dày, trên giấy viết kín tên của các thiên kim tiểu thư.

Ôn Hầu Phấn Vũ tướng quân Lã Phụng Tiên, có vợ là Điêu Thiền hồng nhan bạc mệnh, mất sớm năm hắn ba mươi lăm tuổi.

Thế lực bành trướng, nay chiếm cứ một nửa phía Tây Trung Nguyên, Lã Bố góa vợ bảy năm, quả thật là quý tộc độc thân hàng thật giá thật giữa thời loạn thế. Vừa đặt chân đến Trường An, vô sô thư từ xin kết thân bay vào theo, lả tả như tuyết.

Trên danh sách gồm có:

Nhà cậu Mã Siêu, con gái Vua Tây Khương Triệt Lý Cát, em gái họ của Lưu Chương, con gái thứ ba của Tào Tháo, Tôn Thượng Hương em gái Tôn Quyền, Trương Yên con gái Trương Lỗ. Họ Chung sĩ tộc ở Quan Trung, họ Tư Mã, khuê tú họ Chân.

Họ Chung và họ Tư Mã vì muốn nhét người vào còn đánh nhau một trận tơi bời ở thành Nghiệp.

Lại còn không ít các danh sĩ ở trong thành Trường An, vót đến nhọn cả đầu để nhét con gái vào phủ Ôn hầu.

Kỳ Lân nhận được hàng tá thư xin kết thân, cũng không thèm xem, chồng thành một sấp dặn Trần Cung: “Giao cho Phụng Tiên, để hắn tự từ chối. Ta bận lắm, ai rảnh đâu làm ba chuyện này.”

Vì thế, Lã Bố đang bực muốn chết, ngồi nhìn xấp giấy ngây ngốc cả buổi chiều.

Có tiếng bước chân, không nghe thông truyền, vào điện là một người con gái.

Người này dung mạo đoan trang, điềm tĩnh, quần áo lụa màu lam, cánh tay trắng mịn như ngó sen đeo một chuỗi vòng vàng, đứng trước điện nhìn Lã Bố một hồi mới lên tiếng: “Mời Hầu gia dùng cơm.”

Lã Bố: “?”

Lã Bố đánh giá nàng, hỏi: “Ngươi là ai? Ngẩng đầu lên.”

Nàng cẩn trọng đáp: “Chân Mật.”

Vẻ mặt Lã Bố thay đổi: “Ngươi là người họ Chân à? Đến Trường An bao giờ?”

Chân Mật hỏi ngược lại: “Danh sách đưa đến hôm nay, Ôn hầu có chọn được ai không?”

Lã Bố suy nghĩ rất lung, sau lại không kiên nhẫn phất tay đuổi đi, đáp: “Không.”

Chân Mật cười nhẹ: “Quân sư mời Hầu gia về phủ ăn cơm chiều, nếu vẫn chưa nghĩ ra muốn cưới cô nương nhà ai thì thôi, cứ để quân sư lo.”

Chân Mật dọn dẹp danh sách, tính giúp Lã Bố sửa tay áo, Lã Bố cảnh giác nói: “Tránh ra!”

Chân Mật hơi dỗi, lạnh lùng nói: “Từ sáu năm trước, Viên Thái úy bại ở Trường An ta đã ở lại nơi này, cũng không định đến đây làm thiếp.”

Thế này Lã Bố mới biết mình hiểu lầm Chân Mật, đành nói: “Đi thôi, ta trách lầm ngươi.”

Lã Bố nhường xe cho Chân Mật, bản thân hắn cưỡi ngựa theo sau. Ôn hầu đối với đàn bà con gái vẫn rất phong độ lịch sự, Kỳ Lân rất thích tính cách này của hắn. Đương nhiên là không tính Thái Văn Cơ, Lã Bố không xem Thái Văn Cơ là phái nữ.

Hai người trở về Hầu phủ, thức ăn đã được dọn sẵn, nhưng không thấy Kỳ Lân.

Võ tướng ngồi đầy phòng, chuẩn bị ăn uống linh đình, ai nấy nói cười vui vẻ, trong đó không ít triều thần từ Tây Lương chuyển đến. Bầu không khí tiệc tùng náo nhiệt.

Lã Bố vừa ngồi xuống liền hỏi: “Quân sư đâu?”

Cao Thuận cười nói: “Kỳ Lân đang chiêu đãi người từ Ích Châu đến, bảo chúng ta ăn trước.”

Lã Bố trách mắng: “Như vậy sao được!”

Trần Cung xua tay, dùng mắt ra hiệu Chân Cơ nói: “Hầu gia quen biết quá ít người ở đất Xuyên. Pháp Chính Pháp Hiếu Trực lại càng…”

Lã Bố: “?”

Trần Cung thản nhiên nói: “Pháp Hiếu Trực là người hay để ý những chuyện nhỏ nhặt. Triều thần Trường An ở đây đa phần là người hào sảng phóng khoáng, chỉ sợ biến khéo thành vụn, giao cho quân sư xử lý là được.”

Lã Bố nghe xong lại không hiểu lắm, Chân Cơ không nhịn được nói nhỏ: “Pháp Chính lòng dạ hẹp hòi có tiếng, sợ chủ công nói sai gì đó mất lòng hắn. Ăn thôi, mọi người đều đói bụng cả rồi.”

Trần Cung dở khóc dở cười: “Ngươi nói kiểu đó…”

Chân Cơ còn chẳng thèm nhướn mày: “Không như thế làm sao hắn hiểu? Văn nhân các ngươi nói chuyện cứ lòng vòng thật phiền.”

Trần Cung ngạc nhiên hỏi lại: “Văn nhân thì thế nào? Cha ngươi không phải văn nhân à?”

Cha của Trần Cung và Chân Cơ cùng thế hệ, Chân Cơ không hề phân lớn nhỏ với Trần Cung, chống nạnh định cãi lại, Lã Bố đã vội nói: “Thôi, đại trượng phu không tranh luận với đàn bà con gái. Ăn cơm đi.”

Mọi người cười vang, Chân Cơ xù lông: “Thế nào là đại trượng phu không tranh luận với đàn bà con gái!”

Lã Bố thè lưỡi, trong lòng thầm xếp Chân Mật vào cùng hàng ngũ với Thái Văn Cơ.

Lã Bố rót rượu, chúng thần mới thật sự bắt đầu ăn tiệc mừng Đông Chí.

Chân Cơ xinh đẹp duyên dáng, sóng mắt còn hơi giận, sẵn giọng: “Cũng không biết làm sao ngươi ngồi vào được chỗ này.”

Lã Bố cười cười đáp: “Nhờ công của tất cả mọi người. Lại thêm một năm, ta mời mọi người một ly. Cạn!”

Tiết Đông Chí, ngoài trời phủ tuyết trắng xóa, sau khi buổi tiệc kết thúc, Lã Bố cởi bỏ áo lông cừu, khoanh tay đi ra ngoài.

Cao Thuận đuổi theo, Lã Bố nói: “Không cần dắt Xích Thố ra, ta đi dạo loanh quanh một chút.”

Lã Bố đến vườn Thượng Lâm. Buổi tiệc của Kỳ Lân đã tàn, vài tên văn sĩ đất Xuyên kết đôi kết ba đi ra, thấy Lã Bố mặc đồ võ, tưởng thị vệ trong cung.

Lã Bố cười cười với bọn họ, đám văn nhân đó chỉ hờ hửng đi qua.

Không nhận ra mình, Lã Bố tự giễu trong lòng. Nếu là mười năm trước, vô lễ cỡ này sẽ khiến hắn nổi nóng, thế nào cũng đập cho đám trói gà không chặt này một trận, rồi ném vào hồ Côn Minh nuôi cá.

“Kỳ Lân đâu?” Lã Bố chặn một người lại hỏi.

“Đi rồi.” Thị vệ kia đáp: “Hồi nãy đi cửa Tây ra khỏi vườn Thượng Lâm rồi.”

Cửa Tây, Lã Bố lên xe ngựa vừa đi vừa hỏi, đến khi thấy một bia đá dựng sừng sững giữa giáo trường trên nền tuyết bay tán loạn.

Bia đá này được chuyển từ Lũng Tây đến. Qua hai trận Quan Độ, Xích Bích, số tên tướng sĩ khắc vào bia từ đỉnh xuống đã gần vạn người.

Lã Bố xuống xe, đi bộ đến chỗ bia đá.

Đêm nay có tuyết rơi, nhà nhà trong thành Trường An đèn đuốc sáng trưng, còn muốn sáng hơn cả ban ngày. Dân chúng cùng người nhà trải qua mùa Đông, đường xá trống vắng, tuyết rơi trắng xóa.

Trong tuyết có một vật đen thùi lùi, Lã Bố giật mình, cau mày rón rén đến gần, xoạch một cái trốn ra phía sau giá cắm binh khí trong giáo trường.

Bốn vó Hắc Kỳ Lân chạm đất ngẩng đều kêu gì đó với tấm bia. Miệng ngậm một đóa hoa nho nhỏ không biết là hoa gì, đặt trước bia.

“…”

Lã Bố nhếch môi, tránh đằng xa quan sát.

Đồng tiên sinh không mang con… Rolls-Royce này theo sao? Lã Bố nhớ lại, Lúc Hạo Nhiên từ biệt, bọn họ không cưỡi đồ chơi này.

So với lần trước Lã Bố cưỡi, Hắc Kỳ Lân trông có vẻ nhỏ hơn một chút, chỉ tương đương con ngựa thôi.

Đây là nhóc… Rolls-Royce lần trước phải không nhỉ? Lã Bố hơi nghi ngờ.

Hắc Kỳ Lân co chân sau, hai chân trước chống đất, lộ ra cái bụng lông lông màu trắng, mông vừa chạm tuyết hơi run run, hình như bị lạnh mông rồi.

Lã Bố cẩn thận đến gần một chút, Hắc Kỳ Lân ngồi trên hai chân sau như chú chó nhỏ, ngẩn người.

Lát sau, nó lắc lắc đầu cho tuyết rớt xuống, ngã về đằng sau lăn lộn mấy vòng.

Nó đang nghịch nhỉ? Lã Bố cười.

Lăn mấy vòng xong, nó run tuyết trên người xuống, mềm mại nằm trên tuyết, giơ móng trước lên, ngốc ngốc quẹt qua quẹt lại, có vẻ như đang vẽ.

“Ứ ư ừ… éc éc éc…” Hắc Kỳ Lân vừa chú tâm vẽ vời trên tuyết vừa ngâm ca.

“Ê.” Lã Bố đánh tiếng.

Nháy mắt, Hắc Kỳ Lân cảnh giác quay đầu, vảy rồng dựng phắc lên, thấy là Lã Bố, lại bình thản xìu xuống.

Lã Bố khom người, ngoắc ngoắc: “Nhóc con không về cùng chủ nhân à? Lại đây xem nào.”

Hắc Kỳ Lân bất an lui nửa bước, Lã Bố cười cười nói: “Mày đang vẽ cái gì đó?”

Hắc Kỳ Lân chần chờ, đang suy nghĩ xem có nên xóa mấy thứ vừa vẽ trên tuyết đi không.

Lã Bố nghiêng trái, ngã phải làm như đang đánh Túy Quyền, lắc lư đến gần chạm vào Kỳ Lân, Kỳ Lân lại bước lui mấy bước, cuối cùng ngoan ngoãn để Lã Bố xoa đầu.

“Ta xem nhé?” Lã Bố nói.

Trên tuyết, có hai cái hình tròn tròn kì lạ, giao vào nhau, phía dưới nhọn nhọn.

Hắc Kỳ Lân ủn ủn bên sừng gãy vào ngực Lã Bố, Lã Bố chợt hiểu: “Tim à?”

Kỳ Lân gật gật đầu.

Bên trong một trái tim, còn vẽ một con ngựa không phải ngựa, nai không ra nai, xiêu xiêu vẹo vẹo, trên lưng còn chở một người nho nhỏ.

Người này có cái đầu tròn tròn, thân thể hình tam giác, tay chân hình que, trên đỉnh đầu có mọc cái gì trông như hai cái râu – hình ảnh tượng trưng cho Lã Bố, gián nhỏ đội mũ lông trĩ.

Lã Bố hiểu rồi, nói: “Đi, chúng ta đi chơi.”

Kỳ Lân hạ thấp người xuống để Lã Bố cưỡi lên. Hai chân Lã Bố rất dài, kéo lê trên tuyết, đạp tới đạp lui như đang bơi, cười nói: “Giá!”

Hắc Kỳ Lân loạng chà loạng chạng mà đi, để lại bức họa trên tuyết. Chốc lát sau, bị gió tuyết rơi đầy, nhẹ nhàng che lấp đi, không còn dấu vết.

Nó chở Lã Bố đi khắp nơi, cuối cùng, khi đến một cái vườn phía sau vườn Thượng Lâm mới dừng lại cọ một cái, ịn lỗ tai lên tường.

Lã Bố: “?”

Trong viện truyền ra tiếng nói quen thuộc.

Thái Sử Từ: “Hưng Bá tỉnh chưa?”

Thăng Thống: “Vết thương đã tốt hơn rồi.”

Thai Sử Từ: “Đáng ra người phải về Giang Đông, cứ im hơi lặng tiếng rời khỏi Kiến Nghiệp như thế, còn ra thể thống gì nữa?”

Lăng Thống đáp: “Đô Đốc chết rồi, ngươi cũng rời đi, Giang Đông còn gì giữ được ta? Cha ta chết dưới tay thủ hạ Hoàng Tổ. Ta không nhà cửa, không người thân, mười bốn tuổi được ngươi thu nhận, nay ngươi đến Trường An, nếu không theo ngươi, ta biết đi đâu bây giờ?”

Thái Sử Từ yên lặng hồi lâu, nói: “Ngươi đi trông Cam Ninh thế nào đi. Hắn vừa tỉnh lại là hỏi ngươi đâu.”

Lăng Thống hỏi lại: “Chứ không phải ngươi cho là ta… Ta và hắn có cái gì sao?”

Thái Sử Từ thảnh nhiên nói: “Ngươi muốn đi theo ai đều không liên quan gì đến ta.”

Hắc Kỳ Lân ngây ngốc há miệng, nghe đến là nhập tâm. Lã Bố xoa cằm Kỳ Lân, giúp nó khép miệng lại.

Lăng Thống không nói lời nào nữa, tiếng bước chân vang lên, quay lưng bỏ đi. Thái Sử Từ lại gọi: “Đứng lại, ta còn một chuyện muốn nói với ngươi.”

Lăng Thống không quay đầu lại, Thái Sử Từ nói: “Ôn hầu có nhân có đức, bản thân ta vì hắn mà ra sức. Ngươi thì đang vì ai? Muốn được chăng hay chớ, hay là rập khuôn theo bước chân ta?

“Quay về suy nghĩ cho kỹ. Nếu không, thiên hạ này dù có lớn cũng vĩnh viễn không có chỗ cho ngươi yên ổn.”

Lăng Thống đi. Thái Sử Từ đứng một mình trong viện.

Lát sau, nghe có hơi nóng phả vào sau gáy, Thái Sử Từ khó hiểu quay đầu lại, thấy một con quái thú đang bám trên tường viện, lỗ mũi phả hơi nóng vào mặt hắn, sợ tới mức hét toáng lên, ngã ngửa xuống đất.

Lã Bố rướn đầu từ phía sau quái thú, bình thản gọi: “Tử Nghĩa.”

“Chủ… chủ công?” Thái Sử Từ còn đang run sợ.

Lã Bố cười nói: “Đi uống rượu đi.” Dứt lời nhảy vào trong viện, lại vụng tay vụng chân nắm vó trước của Hắc Kỳ Lân, ôm nó xuống.

Thái Sử Từ dặn người đi lấy rượu cao lương, ở sân sau bày một bàn tiệc nhỏ với chút thức ăn, rượu nóng, vừa ngắm tuyết vừa đối ẩm với Lã Bố.

Lã Bố gặp đồ ăn đút cho Kỳ Lân, nói: “Nó tên là Rolls-Royce.”

Thái Sử Từ: “…”

Thái Sử Từ tựa như đoán được món đồ chơi này là cái gì rồi. Hắn nheo mắt, Kỳ lân trừng hắn. Thái Sử Từ tự hiểu không nói.

“Năm nay ngươi cũng ba mươi ba rồi.” Lã Bố mở lời.

Thái Sử Từ hơi trầm ngâm: “Vừa qua ba mươi, nguyện vì chủ công cống hiến thêm ba mươi năm.”

Lã Bố gật gật đầu: “Cam Ninh đối với thằng nhóc kia ghi tạc trong lòng…”

Thái Sử Từ mỉm cười hiểu ra, Lã Bố đến giúp Cam Ninh dọn dẹp tình địch, vội nói: “Ta với Công Tích có tình huynh đệ, chứ không… ừm không có tình gì khác.”

Lã Bố cười lên, chạm ly với Thái Sử Từ, Thái Sử Từ lại nói: “Lúc trước, Trương Liêu sai người truyền tin, muốn để cho con bé Tôn Thượng Hương kia…”

Lã Bố vừa nghe nhắc lại thấy đau đầu, nói: “Không cưới.”

Hai người lại chạm ly, Hắc Kỳ Lân nhắm mắt, an tĩnh nằm bên cạnh, nghe lâu chuyện của Thái Sử Từ và Lã Bố.

Thái Sử Từ: “Không cưới hay chưa cưới?”

Lã Bố không đáp.

Thái Sử Từ lại nói: “Nam nhi thành gia lập nghiệm là trách nghiệm phải làm. Thứ cho mạt tướng lắm lời, đất phong của Hầu gia được truyền cho đời sau, năm nay lớn hơn Tử Nghĩa hai tuổi, nếu không tính sớm, về sau tước Hầu sẽ để lại cho ai?”

Lã Bố hờ hững nói: “Năm xưa, cha mang ta nhập quan, về sau mẹ ta chết trong chiến loạn, khi tìm đến nương nhờ dưới trướng Đinh Nguyên ta chỉ có một mình. Qua hơn vài chục năm nữa, thế gian có còn Phụng Tiên hay Thái Sử Từ không? Đến một mình, thì đi một mình mới là phải.”

Thái Sử Từ thở dài: “Không ổn.”

Lã Bố lại hỏi: “Trong lòng Tử Nghĩa còn vướng bận ai chăng?”

Thái Sử Từ trầm ngâm một lát, sau mới đáp: “Có một người. Ngày trước đi theo Lưu Do đến thành Nghiệp, lúc Viên Thiệu đãi tiệc rượu trong hoa viên, ta có gặp một người con gái, chỉ thoáng lướt qua, từ đó vương vấn mười hai năm.”

Lã Bố mỉm cười: “Vi huynh biết tâm tình của ngươi. Ngày Đổng Trác vào Trường An, sau khi tan triều, Vương Doãn đãi tiệc mời ta, khi nhạc vang lên, cũng gặp một người con gái…”

Thái Sử Từ nhàn nhạt khuyên: “Người đã đi, Ôn hầu đừng quá đau buồn.”

Lã Bố vẫn đang nói: “… Chỉ thoáng lướt qua, chẳng qua vương vấn được có mười ngày.”

Thái Sử Từ phun rượu, cười ha ha.

“Chủ công thật thẳng thắn.” Thái Sử Từ kính rượu.

Lã Bố uống, tự giễu: “Ta không phải người chung tình, không như ngươi…”

Thái Sử Từ trêu ghẹo: “Hiện tại thế nào?”

Lã Bố thản nhiên đáp: “Hiện tại… đã thích người khác, đến nay được mấy năm. Hy vọng duy nhất là có thể bên nhau trọn đời này.”

Thái Sử Từ nghe không hiểu lắm nhưng không tiện hỏi, hai người kính rượu lẫn nhau, lát sau say không còn biết gì, đều gục trên bàn.

Kỳ Lân mặc đồ đen, mang theo hai tên thân binh, cõng Lã Bố lên xe, trở lại Hầu phủ.

Chân Mật đang pha trà ở hành lang, hương thơm tỏa ra bốn phía.

Kỳ Lân dặn người đưa Lã Bố vào phòng, còn mình đứng trong sân. Vào Trường An được một thời gian, Kỳ Lân tìm được người nhà họ Viên đang sống tạm ở đây, lo an bài thích đáng, nhưng vẫn chưa nói chuyện được mấy câu với Chân Mật, về việc Thái Văn Cơ biên sách, nhóm người Khổng Dung được đảm bảo an toàn.

Kỳ Lân hỏi: “Chân Cơ, buổi chiều chủ công có chọn được người chưa?”

Chân Mật ngồi pha trà ở hành lang, cũng không ngẩng đầu lên, đáp: “Vẫn chưa.”

Kỳ Lân lại hỏi: “Ở Trường An có quen không?”

Chân Mật không để ý nói: “Cũng được.”

Kỳ Lân: “Trong phủ không có nữ nhân… Bọn nam nhân không để ý nhiều việc, những việc đó làm phiền ngươi để ý.”

Chân Mật gật gật đầu nói: “Nay chiến sự hơi yến ổn. Trí thức Quan Trung, Giang Đông thể nào cũng vào Trường An, mượn danh quay về chốn cũ, thực chất là đến cầu hôn. Ngươi với Trần Công Đài thảo luận xem nên làm như thế nào đi thôi.

“Nghe nói mấy năm trước, khi Điêu Thiền vẫn còn, đã khiến cho toàn bộ Tây Lương xào xáo không yên. Hầu gia sẽ không để ý chuyện này, các ngươi nên thận trọng một chút.”

Kỳ Lân chợt nhớ hành động báo thù không đánh mà thắng kinh điển: Có thù với nhà nào, cứ nuôi con gái lớn lên, nuông chiều cho hư hỏng, gả cho con trai nhà đó, chỉ cần như thế, cả nhà hắn coi như tiêu tùng.

Kỳ Lân dở khóc dở cười: “Ta đã biết.”

Kỳ Lân xoay người muốn đi, bỗng nhớ ra: “Đúng rồi.”

Chân Mật nhướn mày, không nói. Kỳ Lân hỏi: “Mấy năm trước ngươi ở trong nhà họ Viên, Lưu do có mang theo một võ tướng đến làm khách…”

Chân Mật thản nhiên đáp: “Vẫn nhớ, mười hai năm qua không có gì thay đổi. Mấy hôm trước mngồi trên xe thấy Thái Sử Từ đang đi mua gì đó ở chợ Đông…”

“Kỳ Lân—” Lã Bố lèm bèm gọi một tiếng.

Kỳ Lân nói: “Nếu đã nhận ra…”

Chân Mậ bình tĩnh tiếp lời: “Việc của chính mình lo chưa xong, còn muốn đi làm mai cho người khác nữa à?”

Kỳ Lân tự giễu cười cười, mở cửa về phòng.

——————————-

Lời tác giả:

Truyện sẽ có 4CP

Tôn Sách, Triệu Vân còn lên sàn lần nữa. Đánh từ Quan Trung đến Lạc Dương sang thành Nghiệp luôn!

——————————————————————————–

Hồi 63: Thượng Lâm uyển Lã Bố du đăng tiết…

(Giải thích tựa chương: Vườn Thượng Lâm Lã Bố dạo phố ngắm đèn…)

Mười lăm tháng Giêng, tết Nguyên Tiêu, cung Vị Ương.

Lã Bố cầm một chồng giấy lật qua lật lại xem cả buổi, đột nhiên giận dỗi lên.

“Ta mặc kệ! Không cưới!” Lã Bố hét lớn, xé nát sổ ghi chép trên bàn, giấy trắng rải đầy đất.

Chân Mật khom người nhặt đám giấy vụn, lạnh lùng nói: “Hầu gia, hôm nay trong thành có lễ hội, thiên tử phong ngươi làm Thái thú Trường An. Thành Nghiệp, Hứa Đô, Kiến Nghiệp đều sai người đến chúc mừng, ngươi xé hết như vầy rồi biết ai với ai nữa?”

Kỳ Lần nói: “Dù sao cũng không cưới, ai với ai cũng như nhau.”

Chân Mật tưởng tượng cảnh Lã Bố bị một đám các cô gái thanh xuân mơn mởn vây quanh, líu ra líu ríu, nhịn cười không nổi, xoay người ra ngoài.

“Nói chuyện đàng hoàng.” Kỳ Lân cầm sổ ném lên bàn, lại lấy một viên dạ minh châu ra. Lã Bố thuận thế kéo tay Kỳ Lân, làm nũng: “Ôm một cái đi.”

“Ôm cái đầu ngươi!” Kỳ Lân dở khóc dở cười: “Tào Tháo phái Tư Mã Ý mang thánh chỉ tới, bên trên là bút tích của Lưu Hiệp, ngọc tỷ truyền quốc trong tay chúng ta, chỉ cần đóng dấu một cái, một mình ngươi liền kiêm bốn chức…

“Lương Châu mục, Phấn Vũ tướng quân, Thái thú Trường An, Ôn hầu.” Trong mắt Kỳ Lân chứa ý cười: “Ngươi chính là vị quan lớn nhất trên đời này luôn.”

Lã Bố bất mãn: “Hừ.”

Kỳ Lân lại nói: “Hành động này của Tào Tháo ý là muốn kết minh. Ít nhất có thể đảm bảo, trong vòng mười năm, ngươi sẽ không xuất binh nhập quan. Ngươi nghĩ sao?”

Lã Bố: “Không nghĩ.”

Kỳ Lân: “…”

Kỳ Lân làm bộ muốn đánh, Lã Bố vội ôm đầu, Kỳ Lân nói: “Chốc nữa, Trần Cung và Pháp Chính lại đây thương lượng việc này, ngươi đưa minh châu cho hắn, chuyên nghiệp chút, đừng nói mấy lời lộn xộn đó.”

Lã Bố miễn cưỡng gật đầu.

Lát sau, Trần Cung cùng một người nữa vào điện, Lã Bố hỏi thăm: “Thương thế của ngươi thế nào, nghỉ ngơi nhiều một chút.”

Trần Cung xua tay nói: “Không sao.”

Binh lính mang ghế đến, Kỳ Lân giới thiệu: “Vị này là Pháp Chính tiên sinh.”

Lã Bố gật đầu nói: “Mới tới.”

Pháp Chính cười cười, Kỳ Lân nói: “Chủ công nhà ta không phải là người tinh ý, Pháp tiên sinh chớ để trong lòng.” Nói xong nháy mắt với Lã Bố.

Lã Bố hiểu ý, chỉnh ngay ngắn quần áo đứng lên, nghiêm túc nói: “Từ hồi ở Tây Lương, ta đã nghe đại danh của Hiếu Trực tiên sinh. Nay có được tiên sinh phụ tá, còn sợ gì đại nghiệp không thành? Bố lấy châu này làm chứng, mời tiên sinh từ nay ở lại Trường An, chớ rời đi.”

Lã Bố đi xuống bậc thang, tự tay giao minh châu vào tay Pháp Chính. Lần này Pháp Chính hoàn toàn bị thuyết phục. Thấy trên châu có khắc tên mình, lòng biết ơn đầy tràn cõi lòng, nhận bằng hai tay, nói chân thành: “Xin hết lòng làm trâu làm ngựa cho Hầu gia.”

Lã Bố phất vạt áo, ngồi trên bậc thang, ngang hàng với ba vị mưu sĩ.

“Giả Hủ giữ Ích Châu, Thái Văn Cơ đang ở Tây Lương, mười ngày trước đã phái tín sử đến thông báo, trước tiên xem xét ý tưởng của hai người đó.” Kỳ Lân nói: “Ta đoán ý kiến của mấy người chúng ta cũng không khác nhau mấy. Ta muốn hỏi Pháp tiên sinh, đối với việc này tiên sinh nghĩ thế nào?”

Pháp Chính trầm ngâm trong chốc lát, sau mới nói: “Tào Mạnh Đức cần thời gian lấy hơi.”

Kỳ lân đáp: “Trận Xích Bích, quân Tào chết rất nhiều, thuyền chiến tổn hao tám phần, nhưng tướng sĩ vẫn còn hơn hai vạn tư.”

Pháp Chính nói: “Vào Hàm Cốc quan, theo hướng Đông, qua Chương Thủy. Một khi thành Nghiệp gặp nguy, chắc chắn Tào Tháo sẽ nghiêng về Lạc Dương. Nếu trong ba năm này khởi binh, con đường chinh chiến sẽ dài đằng đẳng.”

Kỳ Lân mỉm cười: “Việc đó thật ra không cần lo, hiện giờ thảo luận có đánh hay không, không phải đánh thế nào.”

Lã Bố nói: “Ngươi có biện pháp đốt Lạc Dương không?”

Trần Cung hỏi: “Ngươi định đánh hay không?”

Kỳ Lân nói: “Nếu đánh bất chấp thì có nhiều cách lắm. Ví dụ như: đến Nam Cương lấy vài cây anh túc, chế thành ngũ thạch tán, trà trộn vào đội buôn đưa vào trong quân Ký Châu và dân chúng; Hoặc là chờ mùa lũ đầu Xuân, lên thượng du Hoàng Hà, đắp đê làm đập, nhấn chìm tất cả các thành trấn Tào Tháo chiếm cứ…”

Pháp Chính nghe mà run rẩy trong lòng, Kỳ Lân lại nói: “Giả Văn Hòa nghe được nhiều biện pháp thương thiên hại lý từ chỗ Hoa Đà lắm. Dù chẳng vui vẻ gì, nhưng ít nhất cũng giúp chúng ta chủ động khơi mào một trận đánh lớn.

“Tinh thần quyết thắng như ở trận Quan Độ của Tào Tháo đã qua, hiện giờ hắn thua lớn ở Xích Bích, sĩ khí tan rã, năm nay vùng Quan Trung mất mùa lương thực, tô dịch nặng nề, dân chúng oán than khắp nơi, hắn đã muốn mất đi ngọn cờ vương đạo rồi.”

Bỗng nhiên Lã Bố nói: “Ngươi nhớ nhà phải không?”

Kỳ Lân hơi nhướn mày, đáp: “Không, ta đã quyết định ở lại… Đang nói chính sự, ngươi nghiêm túc một chút.”

Lã Bố phẫn nộ nói: “Không nhớ? Vậy tại sao nhất quyết đánh Lạc Dương? Đánh xong để ngươi còn về chứ gì?!”

Kỳ Lân dở khóc dở cười, chuyện này là thế nào nữa đây?

Pháp Chính nghe đến đây thì không hiểu họ nói gì, Trần Cung vội hòa giải: “Chủ công đừng nóng nảy, hiện tại còn chưa có gì mà. Tào Tháo phái Tư Mã Ý đưa con gái đến cầu hôn, muốn kết thân với chủ công, mục đích tranh thủ thời gian nghỉ ngơi lấy sức.”

Trần Cung: “Ta với Kỳ Lân đã thương lượng qua, theo ý quân sư, việc này dù thế nào cũng không thể làm.”

Pháp Chính gật đầu: “Ý Hiếu Trực cũng là như thế.”

Kỳ Lân mắt điếc tai ngơ: “Có phải ta mà về ngươi sẽ bỏ luôn kế hoạch không?”

Lã Bố không khoan nhượng: “Từ đầu ngươi đã không nói thật với ta!”

Kỳ Lân: “Ngươi xây dựng sự nghiệp là vì ta hay vì chính bản thân ngươi? Lúc trước, khi chúng ta xuất quan, ngươi đâu có nói như vậy.

“Ngươi muốn phụ lão ở Tịnh Châu, dân chúng ở Quan Trung được sống bình an, muốn trăm ngàn quân Lương Châu đi theo ngươi không lo cơm áo, muốn người nông dân có ruộng tốt. Ngươi quên cả rồi sao.”

Lã Bố đột nhiên giận dữ hét lên: “Ngươi muốn nghĩ sao thì nghĩ! Ta không muốn xuất chiến!”

Pháp Chính: “…”

Lần đầu thấy chuyện lạ, Pháp Chính nhíu mày, hỏi nhỏ: “Chủ công với quân sư… thường nghị sự như vậy à?”

Trần Cung cũng lần đầu thấy chồng chồng son cãi nhau, dở khóc dở cười, xua tay đáp: “Ta cũng không biết… Gần đây chủ công hơi lạ lạ.”

“Đâu chỉ ‘hơi lạ lạ’, hết chuyện này đến chuyện khác, trên đời này làm gì có ai ngồi không chờ chết? Ngươi đến thời kỳ mãn kinh đấy à , Lã Phụng Tiên?” Kỳ Lân nói.

Lã Bố: “?”

Lã Bố: “Thời kỳ mãn kinh… là cái gì? Ngươi nói rõ ràng cho ta! Ngươi chửi ta đúng không?”

Trần Cung vội can: “Chuyện gì cũng từ từ”. Lại e hèm, ý bảo có người ngoài ở đây. Pháp Chính gật gật đầu: “Nếu chủ công… không muốn sớm xuất binh, cũng có thể xem là cách bảo toàn lực lượng.”

Lã Bố đáp: “Không phải ta không muốn sớm xuất binh, mà không bao giờ xuất binh! Giao Quan Trung cho Tào tặc đi, ta với hắn chia đôi giang sơn, trong tay hắn có hoàng đế, trong tay ta có ngọc tỷ! Chia đều! Ý ta đã quyết, khỏi nói nhiều!”

Trần Cung: “…”

Pháp Chính: “…”

Kỳ Lân nói: “Khi mới bắt đầu, chúng ta như chó mất chủ, bị Tào Tháo, Viên Thiệu đánh đuổi tới Từ Châu, lại bị Viên Thuật đuổi tới tận Tây Lương. Đến nay, ngươi quên hết rồi phải không?”

Kỳ Lân thản nhiên nói: “Ngươi không giết Tào Tháo, nhưng hắn sẽ đến giết ngươi. Nếu cho hắn vài năm, thì hắn chả cần tuyên chiến nữa đâu, cứ đánh thẳng từ Hàm Cốc quan đến đây luôn. Ta cứ đinh ninh ngươi hiểu chuyện này.

“Đến khi mất Trường An, ngươi muốn mang ta đi đâu để trốn? Về Tây Lương loạn lạc, nếu ngươi không chết thì ta chết. Đến cả tính mạng còn không đảm bảo, quốc gia chưa yên ổn nói chi gia đình?

“Chủ công, ngươi có thể đánh, nhưng dù cho ngươi có là đệ nhất Võ Thần Lã Phụng Tiên, ngươi có thể che chở hai ta sống an ổn, vậy bọn họ thì thế nào?” Kỳ Lân chỉ Trần Cung: “Các vị tướng quân theo ngươi, nhóm mưu sĩ thì sao? Bọn họ có thể đi đầu quân cho ai?”

Lã Bố ngang bướng nói: “Ta mặc kệ.”

Kỳ Lân: “…”

Chân Mật cẩn thận đi vào, Lã Bố quát: “Ngươi vào đây làm gì? Các ngươi ra ngoài hết cho ta, Kỳ Lân ở lại!”

Chân Mật nhíu mày, ném phong thư lên bàn rồi đi ra, Lã Bố mơ hồ mở phong thư, bị Kỳ Lân “xoạch” một cái giành lại.

Kỳ Lân nói: “Thư của Giả Hủ và Thái Văn Cơ, xem xem bọn họ nói gì.”

Pháp Chính hoàn toàn im lặng.

Kỳ Lân mở thư, nhanh như gió đọc xong, nói: “Ngươi quyết định đi.”

Ý kiến của Thái Văn Cơ: Thóc gạo Tây Lương đầy đủ sung túc, đủ cung cấp cho năm năm chiến tranh. Có thể chặn con đường tơ lụa thông thương với Trung Nguyên và các nơi. Trấn giữ những con đường quan trọng chính yếu, chờ cơ hội ra quân, xâm chiếm từng bước một.

Ý kiến của Giả Hủ là: Trận Xích Bích đã xong, bên ta vật tư sung túc, lại vừa thắng lớn, lẽ nào lại cho Tào Tháo thời gian lấy hơi sao, tuyệt đối không thể ngồi không để lỡ mất thời cơ.

Nên khởi binh vào mùa Xuân năm sau, đánh úp Hán Trung, phía Đông Tịnh Châu và thành Nghiệp, bức Tào Tháo lui về Lạc Dương, lại hợp tác với Tôn Quyền, ra quân thảo phạt.

Lã Bố còn không thèm nhìn đến lá thư: “Ta không đánh, ta liên minh với Tào Tháo, ai đánh hắn, ta sẽ bảo vệ hắn.”

Kỳ Lân hết nói nổi, bỗng nhiên chợt nghĩ ra:

“Vậy thì ngươi phải cưới con gái hắn.”

Lã Bố bị chặn họng.

Pháp Chính: “Chủ công…”

Lã Bố nói như đinh đóng cột: “Ta không cưới con gái hắn!”

Kỳ Lân: “Ồ, cự tuyệt là trở mặt rồi, vậy thì phải đánh!”

Lã Bố trợn tròn mắt.

Pháp Chính đằng hắng, hiến kế: “Không thì thế này đi. Ngoài sáng kết thân với Tào Tháo, âm thầm cho binh tấn công bình nguyên Quan Trung?”

Lã Bố muốn phát điên: “Đùa cái gì thế! Như vậy càng không được!”

Trần Cung đành phải nói: “Pháp tiên sinh, hay là… Hôm nay chủ công hơi thất thường, ta mời ngươi đi uống rượu nhé?”

Pháp Chính vui vẻ nói: “Đúng lúc lắm, Hiếu Trực cũng muốn du ngoạn phong thổ dân tình ở Trường An.”

Trần Cung nháy mắt, mặt Kỳ Lân sa sầm, Lã Bố hậm hực ngồi đó, không ai nói gì.

Trần Cung vừa dẫn Pháp Chính đi xong, Chân Mật dẫn một đám võ tướng đông nghìn nghịt tới.

Sắc mặt đám người Cao Thuận, Trương Cáp trông không đẹp đẽ gì cho cam, chắc chắn bị Chân Mật dọa rồi.

Mặt Lã Bố như đưa đám: “Ngươi ra ngoài đi… Ta sợ ngươi rồi, được chưa? Các ngươi… Cao Thuận, các ngươi đi theo nàng làm gì? Ai ra cái ý kiến cùi bắp này để hại ta?”

Chân Mật kéo tay áo, mặt hầm hầm như ma nữ: “Giờ Dậu, tám phố một trăm bốn mươi ngõ ở Trường An đều đã treo hoa đăng, nơi nơi náo nhiệt, Hầu gia không đi ngắm à?”

Lã Bố chợt nảy ra một ý, nghiêng đầu nói: “Kỳ Lân…”

Kỳ Lân đứng dậy hỏi: “Xe ngựa chuẩn bị xong hết chưa?”

Chân Mật đáp: “Chuẩn bị rồi, trong cung, ngoài cung đều sẵn sàng.”

Lã Bố: “Sao không hỏi ý của ta?”

Chân Mật lạnh lùng: “Chủ công, ta là nữ quan, chưởng quản sự vụ lớn nhỏ trong cung. Ngươi tuy nghi so tam tư, nhưng không phải quản lý của ta.”

“Ơ!” Lã Bố ngạc nhiên: “Chức nữ quan của ngươi không phải do Hầu gia phong à?! Buồn cười! Trong mắt các ngươi còn có chủ công này không?!”

Kỳ Lân nói: “Đừng chọc vào hắn, hôm nay hắn gặp ai cũng muốn cắn. Chân Cơ, xe ngựa có những nhà nào?”

Chân Mật đáp: “Nhà Tư Mã, nhà họ Tào, họ Tôn, sứ của Tây Khương, họ Ngô ở Ích Châu, thiên sư của họ Trương đều đang chờ ngoài cung.”

Lã Bố: “…”

Kỳ Lân nói: “Lần này coi như cho Phụng Tiên đủ thể diện. Lát nữa ngươi chọn một người cho xong luôn đi. Lâu lắm rồi mới nghe chuyện có người đưa con gái cho Hầu gia chọn, cũng bắt đầu có khí phái của thiên tử rồi đó… Chậc chậc chậc.”

Chân Mật cười yêu kiều: “Còn không phải sao? Thần có việc cáo lui.”

Kỳ Lân nói: “Chân Cơ đi cùng ta một đoạn đi, buổi tối có việc cần xử lý.”

Kỳ Lân cong cánh tay cho Chân Mật vịn vào, hai người ra khỏi cung Vị Ương, Lã Bố còn chưa kịp hiểu chuyện gì: “Ê—Này!”

Cao Thuận nói: “Chủ công dừng bước, mau về thay quần áo, các vị khuê tú đang chờ!”

Lã Bố đứng trong gió lạnh, hai hàng nước mắt bay bay, giận dữ hét: “Ta không đi! Kỳ Lân!”

Cuối cùng, Lã Bố thay quan phục võ tướng phối hai màu đen đỏ, dây lưng vàng kim ôm sát eo lưng mạnh mẽ tràn đầy sức mạnh, bao cổ tay màu đen thêu rồng, tóc ghim trâm ngọc bích, đứng ở trước Ngọ Môn, khí phách cao quý khó nói thành lời.

Nữ quan dưới trướng Chân Mật đang nói chuyện ríu rít, thấy Lã Bố dẫn theo vài tên võ tướng đến đều nhỏ giọng thét lên, chạy bước nhỏ đến xếp hàng ngay ngắn, tầm mắt đồng loạt chỉa hết vào Lã Bố, tràn đầy sùng bái và ái mộ.

Lã Bố hỏi lấy lệ: “Đây là các tiểu thư phu nhân nhà ai?”

Cao Thuận cất cao giọng nói: “Hầu gia có chút lễ mọn, mời các tiểu thư ở trong thành ngắm đèn.”

Hơn mười tên thân binh nâng khay gỗ đến, trong mâm đầy chật những thỏi vàng nhỏ, các xe ngựa rối rít nâng mành lên.

“Vị này là tiểu thư nhà Tư Mã.” Nữ quan giới thiệu.

Tư Mã Tình dịu dàng nói: “Tạ Hầu gia.”

Lã Bố gật gật đầu, Tào thị cũng vén rèm xe, Tào Nhu tự nhiên mỉm cười, dịu dàng nói với Lã Bố vài câu.

Lã Bố lần lượt tặng lễ, dạo một vòng qua các xe, cũng không bị sắc đẹp làm cho rung dộng.

Màn xe rối rít kéo lên, Lã Bố muốn choáng váng, đang muốn co giò chạy trốn, bị Trương Cáp chặn lại.

Trương Cáp nói: “Chủ công, hôm nay phải mời một vị tiểu thư đi ngắm đèn.”

“Phạch” một cái, Lã Bố dựng lông, sủa như điên: “Ai bảo ngươi cản đường! Lại là Chân Mật đúng không?! Ta là chủ công hay nàng là chủ công!”

Trương Cáp đứng yên không nhúc nhích.

Các cô gái trên xe vô cùng hy vọng, Lã Phụng Tiên là ai cơ chứ? Năm xưa, hắn cưới Điêu Thiền, là đệ nhất mỹ nhân,  khuynh quốc khuynh thành, dung nhan như tiên nữ. Sau Điêu Thiền chết, Ôn hầu lại làm bạn với tuyệt đại giai nhân Thái Văn Cơ và Chân Mật, không thèm để ý đến mình cũng bình thường.

Lã Bố đang giơ nắm tay huơ huơ muốn uy hiếp Trương Cáp, Kỳ Lân với Chân Mật đi ra khỏi Ngọ Môn, nghe Chân Mật gió lạnh từng cơn nói: “Chủ công… ngươi chỉ sai hướng…”

Lã Bố vội bỏ tay xuống, thấy Kỳ Lân và Chân Mật ra khỏi cung.

Ngón tay Lã Bố chỉ chỉ vào mấy chiếc xe ngựa, lầm bầm: “Cây hành boa-rô, ta cắt cắt ra tô…”

Cao Thuận: “??”

Lã Bố hát xong hai câu Súy Thông Ca, ngón tay vòng năm sáu vòng, cuối cùng dừng lại ở hướng xe ngựa của Tào Nhu, mới nói: “Ừm, nàng ta đi, xe này nhìn đẹp, ai ngồi trong xe đó?”

Nháy mắt, trong mấy chiếc xe ngựa vang lên tiếng lách cách ạch đụi, té dồn cục.

“Thưa chủ công, là xe đến từ thành Nghiệp, thiên kim nhà tướng gia Tào Thừa tướng.”

Tào Nhu vừa vui vừa lo, đột nhiên ứ một tiếng, lấy khăn ôm ngực, té xỉu.

Lã Bố lên xe, nhét Tào Nhu vào một góc sát trong thùng xe, hầm hầm ra lệnh: “Xuất phát, đi theo Kỳ Lân! Xem xem thằng nhóc này định đi đâu.”

—————————————————————————

Hồi 64: Nhân duyên thạch tiền tình định giai lão…

(Giải thích tựa chương: Trước đá nhân duyên hứa hẹn bên nhau đến già…)

Trăng sáng lưng chừng trời, vạn ngọn đèn treo khắp phố lớn ngõ nhỏ, chiếu đỏ mọi nẻo đường trong thành Trường An.

Từ hồi Đổng Trác vào kinh đến nay, đây là năm phồn hoa nhất thời loạn thế. Nam thanh nữ tú nơi nơi, đi thành đôi dưới trăng, nắm tay quyến luyến.

Bảng hiệu được tháo xuống, treo đèn màu lên, đây đó vài cửa hàng tưng bừng khai trương.

Giữa thành, giáo trường Ngự Lâm đã được tu sửa, xây lên một đăng thụ cao lớn sừng sững, trăm ngàn cành nhánh thướt tha lả lướt, treo hoa đăng đủ màu sắc.

Lã Bố nghiến răng ken két, xốc mành xe lên nhìn ra ngoài: “Hắn đi ngắm đèn với Chân Mật à? Không thể nào!”

Kỳ Lân với Chân Mật đi đến dưới đăng thụ thì dừng lại.

Thái Sử Từ cầm một cái đèn giấy, chạy lấy đà trên thang gỗ, dậm nhảy, lộn người, nâng ngọn đèn lên, máng dây đeo vào móc sắt trên cây, ngọn đèn đu đưa đu đưa thành công treo lên.

“Hay!” Bọn binh sĩ khen rối rít.

Thái Sử Từ khom người rơi xuống đất, cười nói: “Xong rồi, mọi người đi chơi đi nào.”

Hắn đứng dậy, thấy Kỳ Lân và Chân Mật.

Chân Mật khoanh cánh tay trắng như ngó sen, tay kia cầm quạt tròn che nửa bên mặt đẹp, trầm ngâm không nói.

“Thái Sử huynh?” Lăng Thống từ sau chạy tới gọi.

Kỳ Lân cười nói: “Vốn định đi dạo cùng Chân tiểu thư nhưng vẫn còn việc chưa giải quyết.”

Thái Sử Từ kinh ngạc nhìn nhưng quên mất tiếp lời.

Lã Bố: “Thế nào lại là Thái Sử Từ?!”

Tào Nhu: “…”

Kỳ Lân nói: “Tử Nghĩa có đồng ý…”

Thái Sử Từ lấy lại tinh thần, vội nói: “Đồng ý!”

Chân tay hắn luống cuống, nhìn Chân Mật, lại nhìn Kỳ Lân, nói: “Chờ ta một chút, ta về thay bộ áo vải lại ra đây.”

Chân Mật dịu dàng nói: “Tướng quân mặt giáp không phải sẽ đẹp hơn sao.”

Gương mặt tuấn tú của Thái Sử Từ đỏ ửng, đưa tay qua, Chân Mật thu quạt thản nhiên cười vịn vào tay hắn, hai người đi ngắm đèn hoa đăng.

Lăng Thống cô đơn đứng một mình dưới gốc cây.

“Hôm nay có vạn ngọn đèn hoa đăng…” Kỳ Lân thổn thức nói.

Lăng Thống im lặng, Kỳ Lân lại lên tiếng: “Công Tích, đi theo ta.”

Lã Bố rên thảm thiết: “Sao lại là Lăng chỉ huy?!”

Tào Nhu: “Ừm… Hầu gia?”

Lã Bố thúc giục: “Đi tiếp, xem hắn đi đâu! Nhanh lên…”

Kỳ Lân nắm tay Lăng Thống, đến trước nhà một người thợ mộc ở trong chợ mới dừng lại, vào nhận một món đồ, gọi binh lính đưa đến phủ Lăng Thống.

“Đây là xe lăn gỗ, làm cho các tướng sĩ bị thương.” Kỳ Lân cười giải thích: “Cái này ta thiết kế, hàng mẫu thôi. Một thời gian nữa sẽ làm với số lượng lớn.”

Lăng Thống hờ hững đánh giá vật kia, hỏi: “Để người bị thương dùng sao?”

Kỳ Lân gật đầu: “Vết thương của Cam Ninh vẫn chưa tốt lên, ngươi đưa hắn đi dạo đi, chú ý đừng để bị lạnh.”

Nhóm nam thiếp còn ở Tây Lương, Cam Ninh lẻ loi một mình ở Trường An, Lăng Thống lòng rối như tơ vò về phủ. Lát sau đẩy Cam Ninh đi ra, Cam Minh vẫn như trước lưu manh cười hề hề, trên người còn đắp thảm.

Lăng Thống nhàn nhạt hỏi: “Muốn đi đâu?”

Cam Ninh đáp: “Đi đâu cũng được, đi lòng vòng, hoặc theo chân Thái Sử Từ với bà chị họ Chân kia cũng được.”

Lăng Thống giận lên, thẳng tay đẩy xe xuống mấy bậc thang. Cam Ninh bị va chạm, vết thương trên người lại đau, la thấu trời, vẫn cười làm lành: “Không đi thì thôi, đến phố Tây đi?”

Xe ngựa Lã Bố dừng lại trước phủ Thái Sử, huýt sáo một tiếng, hỏi: “Kỳ Lân đâu?”

Lăng Thống chỉ hướng Đông.

Lã Bố lại gâu gâu gâu giục phu xe, trong cửa sổ thoáng hiện ánh mắt thê lương của Tào Nhu.

Nên tác hợp cũng đã tác hợp rồi, Kỳ Lân lẻ loi đứng giữa chợ trong đám đông huyên náo, kẻ đến người đi.

“Quả nhiên, mình vẫn không thuộc về thời đại này.” Kỳ Lân tự nhủ.

Hắn ngẩng đầu, nhìn hoa đăng ngủ sắc đung đưa trên đỉnh đầu.

Lã Bố xuống xe.

Tào Nhu ngập ngừng: “Hầu gia…”

Lã Bố: “À, cảm ơn, ngươi về đi.”

Tào Nhu: “…”

Kỳ Lân mỉm cười, cúi người ngồi chồm hổm trước một sạp nhỏ, chọn một hình nhân nhỏ nhỏ vẽ mặt xanh xanh đỏ đỏ.

Ông lão bán hàng không ngẩng đầu, vừa nặn bột trên mặt hình nhân vừa nói: “Khách nhân nặn một hình nhân đi.”

Kỳ Lân nói: “Còn chưa nghĩ ra… Ngươi nặn gì đó?”

Trên sạp của lão có hình nhân của mấy tay lỗ mãng, có người đẹp, còn có động vật ly kỳ trong Thượng Cổ Sơn Hải Kinh.

Kỳ Lân nhận ra một vài: “Bá Vương, Ngu Cơ.”

Ông lão cười ha hả: “Anh bạn muốn mua cái gì? Mười hai con giáp? Ngươi cầm tinh con gì?”

Kỳ Lân tự giễu: “Ta cũng không biết ta cầm tinh con gì…”

“Ta muốn mua chủ công, được không?” Hai mắt Kỳ Lân sáng trong, nhỏ giọng cười.

Ông lão nặn tượng cười đáp: “Nặn chủ công! Được!”

Ông lấy dao, gọt những đường nét dư thừa trên mặt, cho Lã Bố tạo hình mặt trắng, lại gắn hai cọng râu, cẩn thận nhuộm thành màu vàng.

Ông lão cười nói: “Chủ công thật đẹp trai…”

Kỳ Lân huơ tay diễn tả: “Cho hắn cưỡi một con ngựa màu đen, đầu rồng, thân nai.”

Ông lão: “Ơ? Ngựa yêu của chủ công đâu phải màu đen! Anh bạn nhỏ không biết rồi! Thần câu kia tên là Xích Thố!” (Xích là màu đỏ)

Tay ông lão lại bóp tới bóp lui mấy cái, nặn ra một con ngựa, nhét vào mông Lã Bố, lấy bút quẹt quẹt vài cái tô màu đỏ.

Kỳ Lân tức giận nói: “Xích Thố… Thôi được rồi, lại nặn thêm một người nữa đi, cùng cưỡi Xích Thố với chủ công.”

Ông lão: “Ha ha! Được! Mỹ nhân sánh đôi với anh hùng…”

Kỳ Lân nói: “Là một người mặc đồ đen như ta vầy…”

Lão giả dựng râu: “Từ xưa, hồng nhan sánh anh hùng. Phu nhân Hầu gia là thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Điêu Thiền. Giai thoại thiên cổ!”

Dứt lời, nhanh tay nặn một cô gái mặc áo lụa hoa xanh biêng biếc, cưỡi trên lưng Xích Thố, lại bẻ cong cánh tay nhỏ như cây tăm của Điêu Thiền ra đằng trước, ôm eo Lã Bố.

Môi Kỳ Lân giần giật.

Ông lão giao que trúc cho Kỳ Lân: “Mười văn tiền.”

Một trận gió lạnh quật tới, Kỳ Lân cầm que trúc, quay lưng đi, bỗng nhiên kiềm không nổi nữa.

“Ha! Cmn chứ Điêu Thiền a a a —!”

Kỳ Lân phát điên, quăng “Điêu Thiền” xuống đất, “Điêu Thiền” dính quá chặt, níu rơi một bênh cánh tay của Lã Bố.

Kỳ Lân ném “Điêu Thiền” xuống đất xong, không ngừng dẫm mạnh, lại làm rơi cả “Xích Thố”, hắn ném luôn. Một tay cầm que trúc, một tay cầm “Lã Bố”, chẳng nói chẳng rằng, chọt đầu nhọn que trúc vào mông “Lã Bố”, nghiến răng kẽo kẹt cầm “Lã Bố” đi mất.

Trước đá nhân duyên, đồng tiền phủ kín đáy hồ, ước một điều ước, ném một đồng tiền.

“Nguyện ở bên Tiểu Lan đời đời kiếp kiếp…” Tiếng nói thư sinh truyền đến.

“Nguyện ở bên Thanh Như đến răng long đầu bạc…” Thanh âm nhẹ nhàng của cô gái.

Kỳ Lân nắm một đồng tiền trên tay, đồng tiền chuyển từ ngón trỏ xuống ngón út, rồi lại chuyển ngược trở lên.

“Đời đời kiếp kiếp nói dễ hơn làm. Nếu chết ở đời này, ba hồn bảy vía như bụi trần bay khắp đất trời, chẳng thể nào tìm lại được người đó nữa.” Kỳ Lân thong thả nói: “Dù có tìm được đầu thai chuyển thế của hắn, thì hắn vẫn là hắn sao? Hắn còn muốn thích ngươi không? Trí nhớ của kiếp trước không còn nữa, ép duyên thì có ích gì?”

Đôi tình nhân bên cạnh nhìn Kỳ Lân một cái, cô gái cười khẩy nói: “Tên điên.” Rồi nắm tay tình nhân đi mất.

Bên kia hồ, giọng đàn ông lạnh lùng vang lên: “Ta cũng muốn vĩnh viễn sánh cùng thiên địa, e rằng không được.”

Kỳ Lân im lặng một lát, mím môi cười: “Ngươi biết không? Dù là tiên cũng sẽ có lúc chết đi. Thọ cùng trời nhất, sáng cùng nhật nguyệt gì đó chỉ có người tu tiên đứng trên đỉnh cao nhất mới được. Trên đời này, chuyện vĩnh viên không già không chết, ngoại trừ thánh nhân, chính là linh thú khai thiên tích địa đếm trên đầu ngón tay.”

Người kia cố chấp nói: “Ta mặc kệ, ngươi nghĩ cách đi. Không phải cái gì ngươi cũng biết, cũng làm được sao.”

Kỳ Lân thở dài: “Ta không có cách nào cả.”

Người kia thất vọng: “Cuối cùng vẫn phải rời xa ta sao?”

Kỳ Lân cười cười: “Ta nghĩ kỹ rồi, nếu cầu trời tàn đất tận, sông cạn đá mòn không được, thì lui một bước cầu cái khác. Chỉ cần bên nhau hết kiếp này cũng tốt lắm rồi.”

Người kia hờ hững nói: “Cả đời… không phải chỉ có bốn năm chục năm thôi sao. Chúng ta đã trải qua gần mười năm… Quá nhanh. Vậy cả đời chẳng qua chỉ như nháy mắt, làm sao đủ?”

Kỳ Lân khó lựa lời, sau một hồi mới chậm rãi nói: “Không đủ cũng không còn cách nào khác… Người phàm, ai rồi cũng chết.”

Người kia hỏi: “Chết rồi, ta sẽ ra sao?”

Kỳ Lân thở dài: “Sau khi chết, linh hồn ngươi sẽ vào bánh xe thời gian chờ chuyển thế, có thể đến Chiến quốc, cũng có thể đến ba ngàn năm sau. Trong dòng lịch sử, không biết kiếp sau ngươi sẽ đầu thai thành ai, không biết đàn ông hay đàn bà.”

Người kia hỏi: “Vậy còn ngươi?”

Kỳ Lân mỉm cười một cái: “Chắc đang đi tìm ngươi? Tìm được kiếp sau của ngươi rồi kể cho ngươi rằng chúng ta từng yêu nhau. Kiếp sau, không biết ngươi thành heo hay chó, nam hay nữ, nếu lỡ đầu thai thành cá thì đến cả nói chuyện còn không nói được nữa là… Lúc đó, ừm… giao tiếp hơi khó khăn chút.”

Người kia cô đơn nói: “Đời này ta giết nhiều người quá, kiếp sau, có khi sẽ bị người ta giết.”

Kỳ Lân chế nhạo: “Đầu thai thành con heo con à?”

Người kia: “Ta không tu tiên được sao? Ta lấy kích tự sát, ngươi mang hồn phách ta về, rồi ngàn năm vạn năm sau làm bạn bên cạnh ngươi.”

Kỳ lân chậm rãi đáp: “Mỗi người, ở tất cả các thời điểm đều có cùng một linh hồn. Ngươi là người của thời đại này, chỉ có thể ở lại thời đại này, giống như Bá Phù, dù hắn được Thái Sư phụ ta giúp cho sống lại, nhưng vẫn phải tuân thủ thời gian và nhân quả.

“Khoảnh khắc Đông Hoàng mở cửa trời lần nữa, bánh xe thời gian lại bắt đầu quay, theo nhân quả, các ngươi sẽ không tồn tại ở ba ngàn năm sau.

“Tất cả những người sống lại ở hậu thế, bất kể là hồn phách hay thân xác, một khi đã sống lại, chỉ cần rời Thiên nữ Bạch ngọc luân nửa bước, bước ra khỏi kết giới của thần khí bảo hộ sẽ hóa thành hư vô.

“Đó là hoàn toàn hư vô, chưa từng tồn tại.”

Người kia hỏi: “Ở Xích Bích, ta từng thấy Thái Sư phụ của người cầm một thứ, hút tất cả anh linh trên sông vào, hắn đem linh hồn về làm gì?”

Kỳ lân đáp: “Thái cổ thần khí Hạo Thiên tháp, có thể trấn trăm triệu anh linh, nhưng chỉ có vào không có ra, người duy nhất mở được nó là Nguyên Thủy Thiên Tôn ở trận Phong Thần và Đông Hoàng Thái Nhất đã sớm bỏ mình.

“Thái Sư phụ muốn đem nó luyện hóa thành một cửa chuyển kiếp khác, như vậy triệu linh hồn trong đó mới có thể đầu thai. Nếu ngươi thành một trong số đó, vừa vào luân hồi đã chẳng còn nhớ gì cả. Kiếp sau có tìm được ngươi, ngươi có còn yêu ta không?”

Người kia trầm mặc rất lâu: “Ta không biết.”

Kỳ Lân nói: “Ta muốn ở lại, bên nhau đến già, tâm nguyện này được không?”

Kỳ Lân ngẩng đầu, đôi mắt chiếu rọi vầng trăng vành vạnh trên bầu trời đêm: “Trời đất có tình, xin hãy tác hợp cho ta với hắn.”

Người kia nói: “Trong lòng ngươi đang nghĩ, ta thật sự rất ích kỷ phải không?”

Kỳ lân mỉm cười: “Trên Kim Ngao đảo dù có trải qua ngàn năm, thì cũng như một cái chớp mắt. Mười năm trên thế gian này có là gì. Ta nguyện nhìn ngươi chết trước ta, như vậy còn không được sao? Ngươi chết rồi, kiếp sau ta lại nghĩ cách đi tìm ngươi.”

Kỳ Lân đang muốn ném đồng tiền, người kia lại nói: “Thôi. Ta nghĩ rồi. Quý trọng thời gian trước mắt, nên thế nào thì cứ thế ấy.”

Kỳ Lân ngẩn ra.

Bên kia đài nhân duyên, Lã Bố nặng nề nói: “Ngươi dạy ta, từ xưa mỹ nhân và danh tướng đều chết sớm.

“Ta với ngươi, lúc mới quen phong nhã hào hoa, cùng nhau chinh chiến thiên hạ, cười ngắm giang sơn. Trần thế qua bao năm cũng là như thế.”

Lã Bố hờ hững nói: “Ngày sau, nhất thống Trung Nguyên, ngươi tu tiên của ngươi, ta trông giang sơn của ta… Trong lòng ta có ngươi, trong lòng ngươi có ta, không có gì nuối tiếc. So với răng long đầu bạc, ta càng muốn trong lòng ngươi vĩnh viễn nhớ một Lã Phụng Tiên trẻ tuổi… ngông cuồng, mặc kệ đời.”

Kỳ Lân nói: “Ta còn muốn nghĩ cách, ngươi… đừng để ý, ta từng nghe nói qua có một cách giúp chúng ta luôn luôn ở bên nhau… Lúc còn rất nhỏ ta có nghe qua, đến lúc đó rồi hãy nói.”

Lã Bố hỏi: “Cách gì?”

Kỳ Lân cũng không nói chính xác được nên không nói nhiều, hồi sau chậm rãi đáp: “Hiện tại… cứ vậy đi. Lại đây đi. Cùng nhau hứa nguyện, Tiểu Hắc cùng với Phụng Tiên, muốn bên nhau vĩnh viễn sánh cùng trời đất.”

Kỳ Lân búng đồng tiền trong tay ‘ong’ một tiếng, bay qua đá nhân duyên.

Lã Bố cũng đồng thời, màu vàng kim lấp lánh chói mắt kéo thành đường cong.

Đồng tiền, thỏi vàng, cùng lúc rơi xuống đáy hồ trước mặt đối phương, làm sóng gợn lăn tăn.

Kỳ Lân ngẩng đầu, thấy gương mặt anh tuấn cùng ánh mắt sâu xa của Lã Bố ở bờ hồ đối diện.

Bảy năm, một tên hung hãn đã được gọt giũa trui luyện biết giấu đi mũi nhọn, ngày xưa im lặng như con sói không kiên nhẫn, nay ánh mắt như ưng bủa vây con mồi.

Kỳ Lân nói: “Ta yêu ngươi, không muốn rời xa ngươi.”

Lã Bố đáp: “Ta biết, ta đã quyết định rồi, không cần nói thêm gì nữa.”

Tết Nguyên Tiêu, đài nhân duyên.

Hai người lặng nhìn nhau chăm chú, mỗi người chọn hai nguyện vọng ngược nhau, nhưng đã hiểu tâm tư của đối phương.

Kỳ Lân còn muốn nói gì đó, đột nhiên có tiếng hô toáng bên cạnh: “Vàng kìa—!”

“Cướp mau!”

“Này! Các ngươi!” Lã Bố vội tiến lên nắm Kỳ Lân.

Trong chốc lát, đám người chung quanh bu đen bu đỏ, ngươi xô ta kéo, đẩy Kỳ Lân ngã xuống đất, vọt vào bên hồ như ong vỡ tổ. Bọn đàn ông đạp nhau, các cô gái cào tóc móc mắt, cướp thỏi vàng Lã Bố vừa ném vào hồ.

Kỳ Lân bị chen liên tục lùi ra đằng sau, vất vả chui ra khỏi đám đông, khắp người toàn là dấu chân, Lã Bố tức giận hét: “Cút hết–!”

Tiếng của Thái Sử Từ: “Ha ha, ta cướp được nè!”

Thái Sử Từ giơ nắm tay, đem thỏi vàng về tìm Chân Mật tranh công lãnh thưởng.

Lã Bố cạn lời, chỉ muốn xông tới tẩn tên Thái Sử Từ một trận.

Kỳ Lân được Lã Bố kéo tay đứng lên, vỗ vỗ bụi trên người hắn, lại ngồi xuống giúp hắn chỉnh lại vạt áo. Tào Nhu đứng xa xa nhìn thấy.

Kỳ Lân hỏi: “Cha ngươi thế nào?”

Tào Nhu mím môi, lát sau đáp: “Bệnh đau đầu của cha ta trở nặng.”

Kỳ Lân nói: “Về nói với hắn, vật kia không phải thu hồn hạp.”

Tào Nhu nghe không hiểu: “Sao?”

Kỳ lân nói: “Ngươi cứ lặp lại nguyên văn là được.”

Lã Bố chỉnh áo xong đứng dậy, nhìn Kỳ Lân trong chốc lát, khoác tay lên vai hắn, nhìn lại Tào Nhu, nói: “Về tận hiếu đi thôi, không còn nhiều thời gian đâu.”

Tào Nhu ứa nước mắt, Lã Bố lại tiếp: “Sinh lão bệnh tử, yêu hận ly biệt đều có số. Về đi. Còn có thể gặp cha ngươi nhiều một chút.”

Sắc mặt Tào Nhu trắng bệch, Lã Bố không nói gì thêm, nắm tay Kỳ Lân về phủ.

Năm ngày sau, hai mươi tháng Giêng năm Kiến An thứ mười hai.

Ôn Hầu Lã Bố trục xuất tín sử của thành Nghiệp ra khỏi cung Vị Ương, dùng văn thư thông cáo thiên hạ, từ chối lãnh chức Thái thú Trường An, cả đời không cưới.

Thống cáo vừa đọc xong, thiên hạ chấn động, ai cũng cho rằng Lã Bố còn nhớ thương vợ cũ đến điên rồi.

Vào ngày tín sử rời khỏi Trường An, Khổng Dung soạn <<Thảo Tào Thư>>, liệt kê mười bảy tội trạng, triệu tập chư hầu trong thiên hạ chinh phạt Tào Tháo, đón thiên tử về Trường An, chấn chỉnh nhà Hán.

Một tờ thánh chỉ trắng chỉ in tám chữ to trên ngọc tỷ truyền đi khắp Trung Nguyên: THỤ MỆNH VU THIÊN, KÝ THỌ VĨNH XƯƠNG.

Lương Châu, Ích Châu, Kinh Châu, Dương Châu đều khởi binh. Kỳ Lân sai người đi thuyết phục Trương Lỗ, Chân Mật biên thư đến Ký Châu.

Trước đêm đại chiến, phía Đông Hổ Lao quan ngàn dặm đất khô, dân chúng bắt đầu di chuyển, trốn đến hai châu Kinh, Dương.

Sau trận chiến Xích Bích, thành Nghiệp mịt mờ như đảo hoang giữa biển.

Bệnh đau đầu của Tào Tháo ngày càng nặng, truyền chức Thừa tướng lại cho con trai là Tào Phi, còn bản thân hắn tránh ở trong cung tĩnh dưỡng.

Ước định quyết chiến bảy năm trước của Lã Bố và Tào Tháo, chính thức bắt đầu.

——————————————————————

Hồi 65: Đồng Tước điện trung bút thư ngự chỉ…

(Giải thích tựa chương: Trong điện Đồng Tước đặt bút viết chiếu thư…)

Mùa Xuân năm Kiến An thứ mười hai, thiên hạ phạt Tào.

Binh lực Tây Lương đến tập kết ở Trường An, trừ võ tướng lưu thủ bên ngoài, mưu thần cũng đều tề tựu về Trường An.

Ghế rồng để trống không, bên cạnh đặt một chiếc ghế màu đen khảm vàng, Lã Bố ngồi trên đó, mặc áo gấm thêu, chân trái gác lên đầu gối chân phải, tác phong nhanh nhẹn, chức quan cực cao.

Hai tay thon dài giao nhau, lạnh lùng nhìn chăm chú quần thần trong điện

Truyền quốc ngọc tỷ nằm trên long án.

Văn thần: Thái Ung lâu năm, được ban ghế ngồi đầu tiên. Theo tứ tự phía sau, gồm có: Kỳ Lân, Thái Văn Cơ, Chân Mật, Trần Cung, Giả Hủ, Pháp Chính, Khổng Dung. Bên dưới nữa còn hơn mười văn thần đứng theo chức quan, lại khôi phục khí thế trang nghiêm của triều đình nhà Hán.

Võ tướng lấy Cao Thuận làm đầu, Trương Liêu từ Ích Châu chạy về, Cam Ninh, Mã Siêu, Trương Cáp, Thái Sử Từ, Lăng Thống, Ngụy Diên.

Một triều đình không có thiên tử, giống như năm đó Đổng Trác cầm giữ triều chính, nay ghế nhiếp chính đã đổi người ngồi.

Lã Bố thờ ơ nói: “Cuối cùng cũng được đánh Tào Tháo, không uổng công các ngươi đi theo bản Hầu nhiều năm như vậy.”

Một văn thần bước ra khỏi hàng, quỳ sát đất, kích động nói: “Hầu gia tận trung với nhà Hán ta mười năm, một tấm lòng son ai cũng thấy! Hôm nay…”

Lã Bố xùy: “Vì nhà Hán của ngươi, với cả vì nhà Hán của ai.”

Văn thần còn ngạc nhiên, Lã Bố nói: “Mười ngày sau ra quân, các vị đại nhân có cao kiến gì không?”

“Đánh giá binh lực song phương hẳn chủ công đã biết, hiện ta sẽ nói lại một lần cho chư vị.”

Kỳ Lân bước ra khỏi hàng, văn thần kia biết điều về chỗ.

Kỳ Lân: “Lương thảo của chúng ta đủ để tham chiến năm năm, nhưng binh lực thời kỳ đầu không thể hoàn toàn tập trung, ra Hàm Cốc quan vẫn còn hai nơi chưa rõ ý đồ.

“Thứ nhất là Hán Trung, thứ hai là Liêu Đông. Hán Trung có Trương Lỗ trấn giữ, từ sau loạn Giặc Khăn Vàng đến nay đã tự mình đứng vững một phương, không tham gia chiến sự Trung Nguyên. Chúng ta nhiều lần chọn đường đi qua Hán Trung, qua lại giữa hai châu Kinh, Ích, Trương Lỗ cũng không ngăn trở.”

Hoa Hâm nói: “Trương Lỗ là người thế nào? Nhiều lắm cũng chỉ giả thần giả quỷ chẳng ra gì. Năm đó nếu không có đám đạo sĩ làm loạn, triều đình nhà Hán đâu sa sút đến nông nổi này?!”

Pháp Chính gằn giọng: “Lời ấy không hay. Tư Đồ đại nhân, ngày nay muốn phạt Tào, cần phải gạt bỏ những ân oán ngày trước. Nếu không, Hầu gia xuất binh, phe ta hai mặt thụ địch. Làm sao thắng được?”

Kỳ Lân nhẹ gật đầu nói: “Đúng vậy, nếu tranh thủ được Trương Lỗ ủng hộ, nhất định phải thừa nhận địa vị chính thống của Thiên Sư giáo. Ngũ Đấu Mễ giáo khởi binh không phải vì cứu dân trong nước lửa hay sao? Có gì khác chúng ta? Theo ý ta, trước khi xuất binh, sai người đi bày tỏ lòng thành, bái Trương Lỗ làm quốc sư.”

Lời vừa dứt, trong điện ồ lên, vài văn thần nói: “Việc này không thể được!”

Kỳ Lân nói: “Nghĩ lại văn hóa nhà Hán ta, từ thời Hán Cảnh Đế cầm quyền đều lấy Hoàng Lão vô vi làm đạo trị quốc, lao dịch và thuế nhẹ. Về sau dù có Nho, Pháp, Đạo, Âm dương nhiều nhà cùng tồn tại song song nhưng vẫn không có gì ngoài một câu ‘Đạo bá vương là hỗn tạp’ thì có gì không thể? Nếu vì đại nghĩa, chư vị đại nhân còn e ngại điều gì?

“Huống chi, Quốc sư chẳng qua chỉ là một chức vị không có thực, không can dự chính sự. Dùng chức này đổi lấy hán Trung, tránh được rắc rối ở hậu phương, không có việc gì có lợi bằng việc này.” Kỳ Lân lại nói: “Chư vị đại nhân muốn bác bỏ của ta, mời đề xuất biện pháp tốt hơn.”

Trong điện yên lặng, lát sau Khổng Dung nói: “Dùng vương đạo khiến người ta tâm phục khẩu phục cũng là một cách hay.”

Thái Ung nay đã tám mươi, thở dài run run nói: “Lỗ Tư Đồ này—”

“Lửa cháy tới lông mày, hư danh đều là đồ bỏ. Mấy năm ở Tây Lương, nếu không có Ôn Hầu ra tay mạnh mẽ, thần tử nhà Hán liệu còn ai không?”

Khổng Dung gật đầu: “Thái phó dạy phải lắm.”

Thái Ung đứng dậy, mấy người vội đến đỡ, Thái Ung nói với Lã Bố: “Chức Thái phó, ta nguyện chắp tay nhường lại, chỉ mong Trương Lỗ có thể thần phục, quay về thiên tử.”

Kỳ Lân cảm động, lời này của Thái Ung thật đúng lúc, nếu Trương Lỗ được thăng làm thầy Vua, thật khiến cho đạo Thái Bình vinh dự trăm năm khó gặp.

Thái Ung chậm rãi nói: “Ta mười sáu tuổi đỗ Hiếu liêm, trong mấy năm Kiến An cùng được phong Trung lang tướng với Vương Doãn, sau được đề bạc làm Thái phó. Nhiều năm đọc sách như vậy, mới biết lúc quân Khăn Vàng mới lập vốn chỉ muốn trừng trị kẻ ác cứu giúp dân thường vô tội, cứu người mất mùa đói kém, không phải như Tào tặc trà trộn vào đó làm loạn.”

Kỳ Lân gật đầu nói: “Hiện nay Trương Lỗ an phận ở đó, không tham gia vào Tào Tháo nhưng vẫn đang quan sát. Tết Nguyên tiêu vừa rồi đưa con gái đến cầu hôn, đó là phép thử.”

Thái Ung nói: “Nếu đúng như thế, chức Thái phó nhường cho hắn cũng không sao. Ta già rồi, tâm nguyện duy nhất lúc sinh thời là có thể thấy thiên tử quay lại Trường An. Chúc Ôn Hầu trận này mã đáo thành công.”

Lã Bố muốn đứng lên đưa tiễn, Thái Ung giơ tay ngăn lại, bước chân run run đi ra khỏi cung Vị Ương.

Trần Cung nói: “Nếu các vị đại nhân không còn gì dị nghị, vậy vị nào xung phong đi thuyết khách, đến thương lượng với Trương Lỗ?”

Lã Bố thản nhiên đáp: “Ta đi.”

Nhóm mưu thần rối rít: “Không được, chủ công cần chuẩn bị lãnh binh ra trận…”

Kỳ Lân hiểu ý cười: “Ngươi đi? Nhắm làm được không?”

Lã Bố nói: “Việc này không phải ta thì không ai làm được. Huống hồ, ta có việc muốn hỏi hắn.”

Kỳ Lân vừa lên tiếng, quần thần đều im lặng. Kỳ Lân nghĩ nghĩ, hỏi: “Ngươi muốn hỏi hắn cái gì?”

Lã Bố có vẻ hấp tấp, lát sau nói: “Đợi về nói cho ngươi.”

Kỳ Lân gật đầu.

Trần Cung mở sổ, nói: “Nghỉ ngơi ở Lương Châu bảy năm, trừ trận Xích Bích chết hơn vạn người, binh mã trong thành Trường An còn hơn ba vạn tám ngàn người.

“Binh sĩ toàn Tây Lương có khoảng năm vạn, tân binh từ Ích Châu mới đến là hai vạn. Tính tới tính lui, trừ tam quân, lương thảo hậu viện, tổng cộng có mười một vạn tinh binh.

“Trong đó có năm vạn kỵ binh Tây Lương, bốn vạn bộ binh, hai vạn thủy quân.”

“Tóm lại, chúng ta có gần mười một vạn người.” Kỳ Lân tiếp lời: “Cần để lại một vạn trấn thủ Trường An, phòng khi có biến loạn. Ở trận Xích Bích, Tào Tháo mang tám mươi vạn đại quân chiếm Trường Giang, bị thiêu bảy phần.

“Điển Vi và Tào Hồng dẫn quân, hội hợp với Tào Tháo ở Cự Lộc, ít nhất có hai mươi vạn người trú đóng ở ba nơi Cự Lộc, Hổ Lao quan, thành Nghiệp.”

“Hai mươi vạn!” Quần thần rúng động.

Kỳ Lân nhẹ nhàng nói: “Tính luôn số Tào Tháo quay về trưng binh, phỏng chừng lớn hơn số này nhiều lắm. Căn cứ vào đánh giá của chúng ta, vì để đánh một trận tử chiến, lúc lâm nguy có thể phản kích, Tào Tháo có thể triệu tập tối đa ba mươi lăm vạn quân.”

Nhóm quan văn mặt mày tái mét.

“Mười vạn đối đầu với ba mươi lăm vạn.” Kỳ Lân nói nhẹ như không: “Trận này khó đánh.”

“Hay là… Lại nghỉ ngơi thêm một thời gian nữa?” Quan văn lúc đầu nịnh nọt Lã Bố dè dặt lên tiếng.

Trần Cung cười khẩy: “Quân ta nghỉ ngơi, quân Tào không nghỉ à? Đợi mười năm nữa, hai phe tập trung được năm mươi vạn, trăm vạn hùng binh, trước ải lại máu chảy thành sông, thây phơi đầy đất, có gì khác nhau?”

Lã Bố: “Phân tán binh lực, hạ gục từng phần là cách tốt nhất.”

Pháp Chính vuốt râu nói: “Chỉ sợ không dễ dàng như vậy.”

Trần Cung lại nói: “Nếu chủ công có thể chiêu hàng Trương Lỗ thành công, chúng ta sẽ có thêm hai vạn binh mã…”

Kỳ Lân cùng Giả Hủ đồng thanh: “Đừng quá kỳ vọng vào Trương Lỗ.”

Kỳ Lân nói: “Bắt đầu hành quân, ta với Mã Siêu mang đại quân đến Hàm Cốc quan, chủ công mang tám ngàn người đến thành Ba Trung trước. Sau đó, ngàn dặm bình nguyên từ Hàm Cốc quan đến Hổ Lao quan, thành Nghiệp là tiền tuyến.

“Chúng ta phải chuẩn bị cho trận đánh dài hơi, đồng thời đề phòng Tào Tháo cấu kết với mã tặc ở quan ngoại chặt đứt lương thảo của chúng ta.”

Giả Hủ nói thêm: “Càng cần đề phòng Quách Gia, Tuân Úc dùng kế vườn không nhà trống, tiêu hao sĩ khí quân ta, kéo dài thời gian tiếp viện.”

Kỳ Lân khẽ gật đầu: “Chiến thuật cụ thể đợi ta với chủ công hội hợp rồi quyết định sau.”

Quân thần bàn luận sôi nổi, cuối cùng Khổng Dung bất an hỏi: “Thường nói quân sư thần cơ diệu toán, thông hiểu thiên cơ, theo ý ngươi, trận này chúng ta có thắng không?”

Vấn đề quan trọng nhất rốt cục cũng đến rồi đây, Lã Bố tổ chức lần triều hội này chính là vì muốn ổn định lòng quân.

Kỳ Lân mỉm cười đáp: “Thắng hay không ta không đoán trước được, nhưng có thể đảm bảo với mọi người là: Nếu lần này thua, chúng ta chỉ có thể lui về Hàm Cốc quan, trốn chui trốn nhủi, sống đến cuối đời, chờ Tào Phi, Tư Mã Ý như gió thu cuốn hết lá vàng. Cả đời này không thể nào thắng được Tào Tháo nữa.”

Lã Bố nói: “Tư Đồ cứ yên tâm, chúng ta có thể thắng.”

Mọi người nhìn về phía Lã Bố, Kỳ Lân hơi bất ngờ, ánh mắt nhìn hắn cũng thêm vài phần hy vọng.

Lã Bố đứng dậy, đi xuống bậc thang, trầm giọng nói: “Chư vị đại nhân có từng để ý không? Hai trận Quan Độ, Xích Bích, thậm chí là trước đó, khi mười tám lộ chư hầu liên minh thảo phạt Đổng Trác.”

Trần Cung thì thầm chọc ghẹo: “Lần này mất bao lâu mới thuộc?”

Ánh mắt Kỳ Lân mang theo tự hào, đáp nhỏ: “Ta không có dạy hắn… Từ trận Quan Độ ta dã không dạy hắn học thuộc lòng nữa rồi.”

Trần Cung cảm thấy rất khó tin, nhíu mày, lại nghe Lã Bố dõng dạt nói: “Khi thảo Đổng, Tây Lương có mười vạn đại quân, Tôn Kiên xung phong mang theo gần hai vạn, bức Đổng tặc lui về ngoài Hàm Cốc quan; trận Quan Độ, Viên Thiệu có hai mươi vạn nhân mã, trong tay Tào Tháo chỉ có năm vạn, đánh đuổi Viên Bản Sơ chạy về Trường An. Viên Thiệu thua trận! Chết vào tay bản Hầu.

“Ở Xích Bích! Tào Tháo xưng có tám mươi vạn quân lực, binh mã ba nhà chúng ta gộp lại không tới mười tám vạn, đánh cho quân tào đại bại, sợ hãi chạy trốn lên Bắc, từ đó không dám bước về Trường An nửa bước.”

Lã Bố hỏi: “Có trận nào không lấy ít thắng nhiều?”

Trong điện yên ắng, chỉ còn tiếng nói của Lã Bố: “Bị chặn đánh nhiều gấp năm, thậm chí địch quân nhiều gấp mười, điều gì đã giúp bọn họ chỉ tiến không lui ra trận? Vấn đề này, Phụng Tiên đoán không cần nói chư vị cũng tự nhiên hiểu rõ.”

Kỳ Lân khen ngợi: “Nói rất hay! Nay lá cờ bảo vệ thiên tử của Tào Tháo đã rơi. Đại nghĩa trong tay chúng ta, trên danh nghĩa cứu viện thiên tử, giúp đỡ nhà Hán, thiên hạ đồng lòng, trận này nhất định thắng!”

Lã Bố thản nhiên đáp: “Đúng vậy, không có gì tiếc nuối.”

Lã Bố đi đến trước điện, đứng đối diện với Kỳ Lân, giơ tay xoa lỗ tai Kỳ Lân, ra lệnh: “Ngày mai tập kết đại quân, mười ngày sau ra khỏi ải.”

Thành Nghiệp.

Hiến đế ngồi trước bàn, ghế nhiếp chính bên cạnh không người ngồi, cũng không có Quách Gia.

Trước điện, võ tướng Tào doanh và mưu thần chia làm hai nhóm, Tuân Úc đứng đầu tiên, sau hắn là Ngự sử Tư Mã Ý mới thăng chức.

Vẻ mặt Hiến đế trông ốm yếu bệnh hoạn, hỏi nhỏ: “Thừa… Thừa tướng đâu?”

Tào Tháo cáo bệnh không lên triều, Tuân Úc thở ra một hơi, bước ra khỏi hàng nói: “Bệ hạ, Thừa tướng bệnh nhẹ, Ôn Hầu Lã Phụng Tiên khởi binh, chúng ta mời bệ hạ phát thiên tử lệnh, chiếu cáo thiên hạ, lệnh chư hầu thảo phạt hắn.”

Tư Mã Ý nói: “Chiếu lệnh này…”

Lưu Hiệp nhìn Tuân Úc, lát sau, môi tái nhợt giật giật nói: “Trẫm không biết nên viết thế nào.”

Tào Phi nháy mắt với Tư Mã Ý, Tư Mã Ý đi lên, bày ngự chỉ, lấy bút chấm vào nghiên, giao vào thay Hiến đế.

Ánh mắt Lưu Hiệp như nước lặng, siết bút trong tay, tựa như nắm chiếc phao cuối cùng cứu mạng hắn.

Tư Mã ý nhắm mắt, đọc chậm rãi: “Nay, thiên hạ tạm ổn, bốn biển thái bình…”

Lưu Hiệp vừa viết vừa ngừng.

“… Ôn Hầu Lã Bố, lãnh chức Phấn Vũ Tướng quân, không biết đền nợ nước, dẫn quân làm phản…”

“Hắn không có làm phản.” Lưu Hiệp nói nhỏ.

Tư Mã Ý: “Tâm muốn phản rõ ràng, giang sơn nhà Hán trăm năm, nếu như nghiêng ngã bấp bênh…”

Lưu Hiệp: “Hắn không phải phản tặc… Lã Phụng Tiên không phải phản tặc…”

Tư Mã Ý: “Kêu gọi thiên hạ cùng nhau thảo phạt…”

Đột nhiên Lưu Hiệp hô lớn: “Hắn không phải phản tặc! Lã Phụng Tiên không phải phản tặc! Trẫm đợi hắn gần mười năm! Một lũ nghịch tặc các ngươi muốn soán vị! Các ngươi…”

“Bệ hạ!”

Nháy mắt, Lưu Hiệp xô đổ long án, triều đình hỗn loạn!

Ai nấy cuống quít đến giữ hắn lại, Lưu Hiệp vẫn giãy giụa, la hét điên cuồng: “Các ngươi mới là phản tặc đại nghịch bất đạo! Anh linh liệt tổ liệt tông nhà Hán ta trên trời có linh thiêng sẽ không bỏ qua cho các ngươi! Mưu triều soán vị! Chiếm quyền thiên tử! Các ngươi mới là…”

Lưu Hiệp chưa kêu hết, đã bị thái giám che miệng kéo vào hậu cung.

Tư Mã Ý lắc đầu cười gượng, mực dính đầy đâu, binh lính dọn dẹp long án, Tư Mã Ý tiếp tục viết thiên tử chiếu. Ngày đó, chiếu cáo thiên hạ, lệnh cho chư hầu đánh dẹp Lã Bố.

Hậu cung:

Cấm vệ hung ác chen vào, lật cả hoàng cung, tìm chứng cứ trao đổi giữa Lưu Hiệp và Lã Bố.

Các cung nữ hét toáng lên chạy trốn, Đổng quý phi lo lắng nói: “Bệ hạ đâu? Bệ hạ đâu rồi?”

Vẻ mặt Hứa Chử dữ tợn, thô lỗ nói: “Bệ hạ đang ở thiên điện, bảo bản tướng đến đây lục soát!”’

Đổng quý phi nói: “Ngươi có ý gì?”

Đổng quý phi ôm một đứa nhỏ tầm bảy tuổi, loạng choạng lánh ra sau bình phong. Binh sĩ khắp nơi, làm cho một cái cung điện to như vậy lộn xộn chưa từng thấy.

Đổng quý phi run rẩy, thở dốc dồn dập, ngồi chồm hổm xuống.

Đứa trẻ trong lòng nàng cầm trên tay một cây đao nhỏ, nhìn Hứa Chử không chớp mắt.

“Cha đâu ạ…” Nó hỏi nhỏ.

Đổng quý phi chưa hết sợ hãi, thì thầm: “Hi nhi, đừng sợ, cất Thất Tinh đao vào đi con. Chưa đến lúc đâu.”

Binh sĩ lục soát tẩm điện đi hết, Đổng quý phi vẫn ôm đứa nhỏ, len lén khóc nức nở.

Xuân tháng Ba, trước Hàm Cốc quan chim kêu hoa nở, lúc này ba quân Tây Lương, Ích Châu, Trường An đang nghị sự.

Trung quân Lã Bố giữ ấn soái, quân sư Giả Hủ; Thiên quân Kỳ Lân, quân sư Pháp Chính.

Hai tướng Trương Liêu, Lăng Thống theo Lã Bố đi Hán Trung; Trương Cáp, Thái Sử Từ, Ngụy Diên, Mã Siêu đi theo Kỳ Lân chinh phạt Ký Châu.

Thái Văn Cơ trấn giữ Tây Lương; Cao Thuận, Trần Cung cùng với Cam Ninh bị thương nặng chưa lành ở lại giữ Trường An.

“Đưa quân ngàn dặm vẫn phải từ biệt.” Trần Cung thản nhiên nói, bưng lên một chén rượu lớn.

“Vất vả cho ngươi rồi, ông bạn già.” Kỳ lân uống rượu, hiểu ý cười.

Trần Cung chậm rãi gật đầu, đây là trận chiến cuối cùng tính từ ngày bọn hắn đi theo Lã Bố.

Mấy năm trước quen biết ở Trường An, Kỳ Lân theo Lã Bố chinh chiến khắp thiên hạ, Trần Cung trấn giữ phía sau.

Kỳ Lân như kiếm, Trần Cung như thuẫn, mỗi một lần Kỳ Lân tiến công đều dốc toàn lực, không sợ biến cố sau lưng. Trần Cung cũng chưa bao giờ có sơ sót, mỗi lần đều hết sức hoàn thành nhiệm vụ, cầm giữ sinh lực rất lớn.

Hai tên mưu sĩ, hai trách nhiệm riêng, phối hợp hoàn mỹ, không có sơ hở để tấn công, có thể làm gương cho mưu thần trong thiên hạ.

Ngàn câu vạn chữ thay bằng một nụ cười, Kỳ Lân và Trần Cung đập tay ba cái, quay lưng rời đi.

Cao Thuận dõng dạt hô: “Chúc chủ công, quân sư mã đáo thành công!”

Phía sau, chúng binh sĩ đồng thanh hô lớn, văn thần Trường An đưa tiễn trăm dặm, nhìn đại quân từ từ đi xa.

Sau trận chiến Xích Bích chưa đến nửa năm, đại quân của Ôn Hầu lại ra Hàm Cốc quan, giống như mũi kiếm bén nhọn vô song, đại địa Trung Nguyên không có bất kỳ thế lực nào có thể ngăn lại mười vạn thiết kỵ Tây Lương.

Vạn Lý Trường Thành chi đôi quan ngoại mịt mù cỏ dại, chim cắt bay cao.

Kỳ Lân dừng ngựa: “Chúng ta chia quân ở đây đi.”

Lã Bố căn dặn: “Đại quân theo hướng Đông đi dọc theo Trường Thành, cứ cách một ngàn dặm đóng quân nhớ phái người hồi báo với ta.”

Kỳ Lân đáp: “Biết rồi, ngươi nhớ cẩn thận, lắng nghe ý kiến của Giả Hủ, đừng cố chấp làm theo ý mình.”

Lã Bố chầm chậm gật đầu, phóng mắt nhìn thảo nguyên mênh mông.

Kỳ Lân hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì thế?”

Lã Bố thản nhiên: “Nghĩ đến mùa Thu năm nay, ta phải ra tái ngoại săn thú một mình.”

Kỳ Lân cười nhẹ: “Ta sẽ đi săn thú cùng ngươi.”

Lã Bố không đáp.

Kỳ Lân sửa lời: “Không chỉ năm nay, mà mùa Thu năm sau, năm sau, rồi năm sau nữa, năm nào cũng đi.”

Kỳ Lân còn chưa nói xong, Lã Bố đã quay đầu ngựa, mang theo một vạn kỵ binh xuống phía Nam, tiến về Hán Trung.

——————————————————

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#💙💚