No. 10 - Chạy Trốn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

   Lặng lẽ sập cánh cửa gỗ cũ kĩ vấy máu và bùn đất của tên bác sĩ điên, Helen lấy ngón tay dụi dụi hai hốc mắt, thở dài.

Cuộc "hẹn" của anh vừa kết thúc không mấy suôn sẻ. Khởi đầu của nó còn chán chường hơn.

Dr. Smiley nhắn cho anh loạn cả lên, kêu anh chạy thục mạng về tận cái biệt thự đổ nát cách nhà Y/N tới chục cây số như thể hắn đã phát hiện ra kho trữ bom nguyên tử của chính phủ vậy.

'Về đây ngay, tôi có chuyện cần nói với cậu. Không đợi được đâu' là sao? Trong khi tất cả những gì gã nói với anh là việc tìm kiếm thông tin của Y/N đang 'gặp nhiều trở ngại lớn nhỏ khác nhau', nhưng 'vẫn sẽ có cách giải quyết', rồi đuổi anh đi mà không thèm cung cấp thêm bất kì thông tin tình hình nào khác dù cho anh có gặng hỏi tới gãy cả lưỡi.

Tất cả đều đã có thể giải quyết bằng một cái tin nhắn, nhưng không.

   Càng nghĩ, anh càng thêm đau đầu. Gã như muốn chọc tức anh vậy.

   Dù sao thì đây cũng chỉ là chuyện thường thấy thôi. Ít ra hắn cũng không đòi hỏi gì quá nhiều.

   Nghĩ đến chuyện đòi hòi, Helen chợt nhớ đến đứa trẻ mà anh bắt về để đổi lấy lượng thông tin về Y/N từ Dr. Smiley. Anh không thấy nó trong phòng, cũng không thấy bất kì món vật trưng bày mới nào trên các kệ đựng chiến lợi phẩm của gã.

   Chẳng biết liệu Slender Man có phát hiện ra rồi xé xác nó luôn rồi không. Dù sao lão vẫn luôn căm ghét thứ "mùi" khó ngửi của con người, và lão không muốn phải thấy bất kì đứa nào khác chạy loăng quăng trong "lãnh địa" của lão nữa.

   Helen bực bội bước qua cái hành lang tối tù mù dài đằng đẵng. Tiện đã ở đây rồi thì anh cũng nên tạt qua căn phòng cũ lấy vài thứ đồ anh bỏ quên.

   Xét cho cùng thì Helen là một trong số những người "mới" được đưa về nơi này nên căn phòng của anh cũng khá được ưu ái so với những người cũ. Ưu ái ở đây tức là sàn, trần và giấy dán tường đỡ mốc meo và mủn nát thôi, chứ cái mùi nồm ẩm và tiếng kêu kẽo kẹt của các loại mọt gỗ vẫn tra tấn các giác quan của anh không kém những kẻ còn lại khi phải trú ngụ ở đây.

   Vậy mà vẫn có những kẻ không mảy may nghĩ đến chuyện dời đi. Anh không hiểu nổi chúng, nhưng đồng thời, anh cũng chẳng dám ho he gì, chỉ sợ lại đúng dịp lão già đang khó ở thì coi như xong đời.

   Cũng đã khá lâu rồi kể từ lần cuối anh sử dụng căn phòng đó. Phải bảy, tám tháng cũng nên.

   Bề mặt những món đồ đạc lẻ tẻ trong phòng đã tích được kha khá bụi. Mọi thứ vẫn ở nguyên vị trí của chúng. Có vẻ mấy kẻ khác cũng chẳng bận tâm tới việc vào phá phách phòng của anh sau một khoảng thời gian dài anh không trở về.

Ngoài những món đồ thiết yếu như giường chiếu, bàn ghế và tủ quần áo ra, phòng của Helen còn một vài chiếc canvas lẳng lung tung, hầu hết là các tác phẩm bị hỏng hoặc đang vẽ dở, hai chiếc giá ghỗ cũ kĩ để canvas, một chiếc bàn cạnh đầu giường và một chiếc đèn ngủ vàng với các hoạ tiết cổ điển.

Mở chiếc bàn cạnh đầu giường ra, Helen tìm thấy hai chiếc điện thoại cũ kèm sạch, một cái từ hồi mới rời trại cải tạo, một cái khác là đồ ăn cắp như cái anh đang dùng. Trong đó còn hai con dao cũ đã cùn và khó sử dụng, một chiếc hộp cứu thương nhỏ và một vài mẩu giấy thấm máu đã khô cứng từ lâu, chắc là từ một lần anh bị cảnh sát bắn trúng mạn sườn và chẳng biết chạy về đâu ngoài nơi này.

Cầm lấy hộp cứu thương, anh không cần hai cái điện thoại và hai con dao cũ đấy. Hầu hết những món đồ anh muốn lấy là ở chỗ khác.

   Helen mở cánh cửa tử quần áo của mình ra, đánh kẹt một tiếng đến nhức tai. Trong đó còn ba chiếc áo phông và hai chiếc quần dài anh để lại, kèm với vài đôi tất và một đôi dày cũ kĩ đựng trong một chiếc túi vải hôi mùi ẩm mốc.

   Vơ vội đống đồ bỏ vào chiếc balo đeo chéo anh có trộm được hôm nọ, Helen chợt nhận thấy trong góc tủ còn một thứ khác.

   Một chiếc thùng các tông không nhỏ cũng chẳng lớn nằm im lìm dưới đống quần áo bừa bộn của Helen. Trong đó chứa đựng những thứ vừa quan trọng để anh không nỡ vứt đi, nhưng lại vừa chẳng còn giá trị để anh lục lọi tìm xem lại.

   'Mình không có thời gian để ở đây lâu. Nên chạy nhanh trước khi muộn giờ đón Y/N', dù tự nhủ là vậy, nhưng rồi Helen vẫn không kìm nổi sự tò mò mà lôi chiếc thùng ra.

   Đã rất lâu kể từ lần cuối anh đụng vào những thứ trong đó. Đủ lâu để anh quên mất trong đó đựng những gì.

   Thứ đầu tiên Helen thấy khi mở chiếc thùng ra là bao bì một món bưu phẩm từ cha mẹ Helen, được gửi đến địa chỉ trại cải tạo anh từng ở, ngày gửi là ngày anh được thả ra để trở về với xã hội vốn dĩ đã ruồng bỏ anh.

   Nếu anh nhớ không nhầm thì trong đó có khoảng hai nghìn đô la, cùng một lá thư sướt mướt nói về những "lý do" họ không thể đến thăm anh trong suốt bảy năm trời, rồi những lời chúc phúc sặc mùi giả dối, mong anh sẽ có một "cuộc sống tốt".

   Anh đã dùng số tiền đó để thuê nhà, tích trữ đồ ăn thức uống và mua một số đồ dùng cần thiết. Còn lá thư, chắc anh đã đem đi đốt hoặc lẳng nó vào một cái thùng rác nào đó mà anh bắt gặp trên đường cũng nên.

   Để cái bao bì sang một bên, anh tiếp tục tìm nhặt những thứ khác trong đó mà anh nghĩ rằng đủ quan trọng để anh mang về nơi ở mới. Helen nghĩ vậy, nhưng có lẽ, nó cũng chỉ là một lời biện hộ để anh có thể được nhìn ngắm lại mọi thứ lần cuối.

   Anh tìm thấy một chiếc kẹp file đựng những giấy tờ cá nhân của anh. Hầu hết chúng đều đã ố vàng và hết hạn, hoặc anh không có nhu cầu cần dùng tới trên con đường một tên tội phạm bị truy nã của mình.

   Ở ngay dưới chiếc kẹp file là một chiếc vé mời đến dự buổi tiệc Halloween định mệnh hôm ấy.

   Helen nhớ rằng anh đã trộm chiếc vé này từ ngăn bàn một thằng con trai mọt sách ngồi cách anh đúng một dãy bàn, ít nói và cũng chẳng có mấy bạn bè.

   Anh vô thức cười khẩy khi nghĩ đến bộ dạng co rúm trong sợ hãi của nó khi lũ bắt nạt tìm đến nó chỉ để chép bài tập về nhà, đổi lại thì chúng sẽ để nó yên phận.

Vậy mà nó có thể trơ tráo tuyên bố với hai đứa "bạn" duy nhất mà nó chơi cùng là nó được lũ đầu gấu trong lớp "tôn trọng" bởi cái não thiên tài của mình.

   Chiếc vé không ghi tên, ban tổ chức cũng chẳng để ý xem người đưa chúng vé để dập lỗ cho vào buổi tiệc này là ai, nên việc anh có thể qua mặt chúng với một chiếc mặt nạ là chuyện đương nhiên.

   Lẳng chiếc vé ra sau, Helen chẹp miệng, chắc lát anh phải đem cái vé cùng đống giấy tờ đi đốt ở đâu đó gần bìa rừng mất. Giữ lại chẳng để làm gì, mà vứt đi thì biết đâu cảnh sát hay kẻ nào đó mò được rồi tung lên báo chí truyền thông thì anh lại chẳng được yên phận trong vài tháng tiếp theo.

   Đang vẩn vơ nghĩ ngợi, một con thỏ bông màu trắng lấm tấm bụi bẩn, ố vàng và đã có phần mốc meo chợt thu hút sự chú ý của anh ở góc chiếc thùng. Đây là món quà sinh nhật từ bố mẹ Helen lúc anh mới ba, bốn tuổi gì đó.

   Anh biết nỗi khao khát tới ám ảnh của cha mẹ mình khi mong mỏi hết năm này qua năm khác để có một mụn con gái, nhưng rồi chỉ có thể đẻ ra một thằng con trai nên đành phải nuôi nấng nó như một đứa con gái cưng mà họ chưa bao giờ có được.

   Khi đó anh còn quá nhỏ để hiểu được cách nuôi dạy con đầy sai lệch và vặn vẹo về mặt nhân cách của cha mẹ mình. Nên ngày ấy, hay thậm chí là bây giờ, khi anh đã hiểu ra, anh cũng chưa một lần trách mắng họ. Dù giờ cảm xúc của Helen dành cho họ còn khá lẫn lộn, và chắc hẳn họ cũng hối hận vô cùng khi có một đứa con trai bất hiếu như anh.

   Chỉ là càng nghĩ, anh càng thấy cay đắng một cách khó tả.

   Bỏ con thỏ vào một chiếc túi ni lông, lẳng vào balo, có lẽ anh sẽ giữ lại thứ này.

   Helen lại tiếp tục lục lọi. Và rồi, ở đáy hộp, là một cuốn sổ đựng ảnh, với chiếc bìa bằng da giả đã mục nát và mốc meo.

   Nhẹ nhàng nhặt nó lên, anh định mở ra, nhưng rồi có thứ gì đó cào xé trong bụng anh, ngăn anh lại.

   Anh biết.

   Người ta nói, con người thường hay chụp ảnh để lưu giữ những khoảng khắc quan trọng đối với họ, bởi lẽ sau này, họ vẫn có thể nhìn lại những tấm ảnh mình đã chụp để nhớ về những khoảng khắc mà họ lo sợ mình sẽ quên.

   Còn Helen, đó là điều trái ngược với cái anh mong muốn.

   Anh ước mình quên hết chúng đi, nhưng vì chúng quá quan trọng với anh, nên dù có toan vứt đi đến bao nhiêu lần, thì cuối cùng anh vẫn chép miệng tiếc rẻ, tự nhủ 'nốt một lần nữa thôi', rồi lại đem về mà cất đi.

   Anh sợ. Anh sợ nếu nhìn lại, nó sẽ lại cho anh thêm hi vọng.

   Vì khi con người ta hi vọng bao nhiêu, thì họ sẽ càng thất vọng bấy nhiêu.

   Đó là cái anh sợ.

   Tuy nhiên, lòng người đâu dễ để lý trí thu phục.

   Lẳng lặng cho cuốn sổ ảnh vào cùng chiếc túi với con thỏ bông, Helen tự nhủ:

   'Nốt lần này thôi.'

———

   Nằm dài trên chiếc đệm phủ ga giường bằng da thú, tay phải cầm lấy cuốn sổ trên ngực, Helen ngắm nhìn cái trần bằng gỗ đục màu trước mặt. Mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, những tia nắng ít ỏi xuyên qua ô cửa kính nhỏ, nhẹ nhàng tràn lên những món đồ đạc lẻ tẻ phía góc nhà.

   Sau khi ghé qua căn phòng cũ và xử lý những thứ cần thiết, Helen đến công viên chờ Y/N đúng theo lời hẹn.

   Trên đường trở về nhà cậu, Y/N có kể cho anh về một hoạt động cuối năm của một câu lạc bộ trong trường cậu.

   "Đó là lễ hội pháo hoa, một lễ hội cực phổ biến bên Nhật vào mùa hè. Mọi người bảo đây là một hoạt động có một không hai trong suốt lịch sử thành lập trường, bởi đây là lần đầu tiên mà nhà trường chấp nhận bỏ một lượng chi phí không hề nhỏ ra để tổ chức các hoạt động học sinh," Y/N hào hứng kể, nhìn vào tờ giấy tuyển nhân sự chuẩn bị cho lễ hội trên tay.

   "F/N thuộc ban tổ chức của câu lạc bộ Nhật Bản, câu lại bộ mà trực tiếp đứng ra tổ chức lễ hội này. G/F/N có đăng ký tham gia làm nhân sự, rồi rủ tôi làm cùng, nhưng mọi người vừa phải chuẩn bị cho lễ hội, vừa phải học ôn thi cuối kỳ, thực tôi không nghĩ mình có đủ sức để làm cùng mọi người không . . ."

   "Vậy sao." Helen nói, mắt vẫn hướng về con đường phía trước, không mấy để tâm đến cuộc hội thoại.

   "Nhưng mà, họ nói sẽ cho tôi vé tham dự miễn phí đấy! Và . . ." Y/N chợt lúng túng, miệng vẫn nhoẻn cười, nhìn về phía Helen, "Tôi . . . có xin thêm một vé nữa cho anh, không biết liệu anh có muốn đi cùng tôi không?"

   "Tham gia lễ hội á hả?" Helen dứt khỏi những suy nghĩ lơ mơ trong đầu, bấy giờ mới thật sự tập trung vào những gì Y/N nói, "Hm."

   "Tại vì F/N và G/F/N sẽ trông các gian hàng cả buổi ý, tôi cũng không rõ họ sẽ rảnh những lúc nào, và . . . tôi cũng không muốn phải đi một mình . . ." Y/N thỏ thẻ, dán mắt xuống con đường trước mặt, "Chúng ta có thể đeo mặt nạ hoá trang? Mặt Yukata và tham gia các gian hàng trò chơi ở đó! Lễ hội vào chiều tối nên sẽ có tiết mục bắn phao hoa nữa! Không biết anh . . . có thích không?"

   Helen hơi liếc xuống cậu con trai đang đi bên cạnh. Trông cái bộ dạng rụt rè và bản mặt cún con của Y/N thì chỉ có những kẻ ghét cậu mới có thể từ chối được, và trong đó không có Helen.

   Hơn nữa, anh sẽ được mặc một bộ đồ mà một kẻ giết người không mấy khi mặc và đeo mặt nạ hoá trang nên sẽ không lo lắm khi ở nơi đông người.

   "Có chứ," Helen cười nhẹ, ngắm nhìn khuôn mặt chú cún con bên cạnh như bừng sáng lên khi nhận được câu trả lời đúng ý, "Vậy, ta hẹn lịch chuẩn bị chứ?"

   Helen và Y/N nói lời tạm biệt sau khi họ về được tới nhà cậu. Y/N có nhắn tin hẹn ngày đi mua mặt nạ và Yukata, cùng thời gian địa điểm dự kiến của lễ hội cho anh, nên giờ Helen chỉ việc đợi Y/N thi học kỳ xong là có thể cùng cậu chuẩn bị cho các hoạt động khá là đáng mong đợi này.

   Hiện tại, Helen đang sống chui lủi ở một chiếc cabin gỗ bỏ hoang tận sâu trong một khu rừng nơi thị trấn ít người cách chỗ Y/N sống không quá xa, chỉ một bến tàu điện và khoảng năm trăm mét đi bộ.

Nơi ấy có vẻ như từng là chỗ ở của một tên thợ săn, bởi toàn bộ những thứ nội thất cũ kĩ phủ đầy bụi và mạng nhện trong đó đều được bọc bằng lông và da thú thật, kèm bộ sưu tập sừng các loại hươu treo trên tường.

Helen có tìm thấy ba bốn con dao săn, một cái nỏ cũ bằng gỗ đã gần mục nát, và hai khẩu súng lục có hơi gỉ sét nhưng vẫn hoạt động được tốt. Ngoài ra, còn có hẳn một chiếc rương lớn đựng đạn pháo, hộp cứu thương và một cuốn nhật kí đã ố vàng của người chủ cũ.

Sau khi dọn dẹp nơi ở mới (mất khoảng ba ngày), Helen có ngồi đọc cuốn nhật kí anh tìm được. Hôm nay, anh định bụng sẽ đọc cho xong rồi đi kiếm thứ gì đó khác thú vị hơn để làm.

   Chương đầu được viết vào ngày 23 tháng 9, năm 1997, địa điểm là cái cabin này. Helen khá ngạc nhiên là nơi này đã trường tồn từ lúc đó tới giờ, không khéo còn sớm hơn, bởi trông nó vẫn còn khá mới. Có lẽ gã thợ săn đã rất gắn bó và chăm chút cho nơi này.

   Cuốn nhật kí có tổng cộng năm trăm bốn mươi chín chương. Lượng thông tin nó để lại về người chủ cũng không nhiều. Với cách hành văn này thì Helen chỉ có thể đoán mò rằng gã ở độ tuổi trung niên, là người Canada, tên Noah. Mỗi ngày, gã ta sẽ chỉ quanh quẩn những việc như thức dậy, kiếm cái để ăn, làm mấy việc lặt vặt mà các gã thợ săn hay làm, đi ngủ, rồi lặp lại.

   Chương cuối cùng, ngày mùng 2 tháng 7 năm 2000, bị bỏ ngỏ. Lão Noah lâm bệnh nặng, có vẻ như không biết là bệnh gì, khiến cho tầm một tháng đổ lại gã không thể đi săn hay vận động ngoài trời. Helen đoán chắc hắn đã chết vì bệnh tật, nhưng lại không tìm thấy bất kì dấu vết thi thể nào của hắn trong chiếc cabin.

   Dòng cuối cùng trong cuốn nhật ký là: 'Mong là ta vẫn có thể thức dậy một lần nữa.'

   Để cuốn nhật ký lên chiếc bàn cọt kẹt thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng mọt gỗ chối tai, Helen thở dài. Không hiểu sao anh lại chọn đi đọc cái thứ rẻ tiền này, đọc xong vừa không được gì, vừa cảm thấy não nề khó tả.

   Chỉ một vài ngày nữa thôi là Y/N sẽ thi học kỳ xong, và ngay sau đó, hai người sẽ chuẩn bị đồ đạc cho lễ hội pháo hoa ấy.

   Hơi ngồi dậy, Helen khẽ lấy tay gạt mở tấm cửa sổ bên cạnh, để chút gió trời thổi vào chiếc cabin của mình. Bây giờ đã là đầu tháng sáu, trời vẫn còn se se lạnh, nhưng không đủ lạnh để anh phải mặc quần áo dài tay và đóng cửa kín mít.

   Luồn bàn tay có phần chai sạn qua làn tóc đen, Helen vẩn vơ nghĩ ngợi. Anh đã sống lẳng lặng ở đây suốt gần ba tuần qua kể từ lúc anh tìm thấy nơi này. Thỉnh thoảng anh lại tạt qua một cửa tiệm nhỏ nào đó cách đây mười lăm, hai mươi phút đi bộ mua chút đồ ăn thức uống, hay đi dạo lung tung trong cánh rừng phía sau, nhưng phần lớn thời gian anh dành trong chiếc cabin này.

   Ngủ nghê chán chê mê mỏi, Helen lại lục lọi đống sách vở cũ kĩ mà người chủ cũ để lại đọc cho đỡ buồn, hay ngắm nhìn từng món đồ bằng da thú đến lúc chập chờn buồn ngủ.

   Không hiểu sao, nhưng vài tháng dạo gần đây Helen không có hứng thú đi tìm kiếm nhiên liệu để vẽ vời cho lắm. Anh có mua một chiếc bút chì, một cục gôm tẩy và vài tờ giấy ở tiệm tạp hoá để thỉnh thoảng thấy chán thì lôi ra nghệch ngoạc vài đường, chứ giết chóc thì không.

   Có lẽ anh đã đang thực sự sống cái cuộc sống của một người "bình thường" mà anh thề thốt đợt mới gặp Y/N rồi cũng nên.

   Chợt, một cảm giác không mấy thoải mái nhưng lại vô cùng quen thuộc ập tới trong bụng Helen. Anh chán chường liếc nhìn ra phía chiếc rương lớn dưới chân giường, gọi:

   "Hiện hình đi, tôi đang không trong trạng thái muốn chơi trốn tìm lúc này đâu The Puppeteer."

   "Ây dà~"

   Hình ảnh một cậu thanh thiếu niên ở độ tuổi mười chín hai mươi, nước da xám tái và đôi mắt vàng sáng hiện lên với dáng ngồi khá thoải mái trên chiếc rương. Hắn cười cười:

   "Cuộc sống an nhàn không phải lo toan bộn bề việc giết chóc và bị truy nã thế nào? Trông cậu có vẻ hưởng thụ ra phết nhỉ?"

  "Tôi sẽ thấy thoải mái hơn nhiều nếu cậu không ở đây." Helen thở dài, với tay xoa vai gáy.

   "Nghe nói dạo này cảnh sát tập trung vào mấy vụ của những tên khác quá nên có vẻ như chúng đã dần quên mất cậu rồi đấy. Thấy thế nào? Vui chứ?" The Puppeteer nói tiếp, không mảy may đến những lời vừa xong của Helen.

   "Càng tốt. Tôi không cần đến sự chú ý của công chúng bây giờ." Người thanh niên tóc đen chép miệng, ngồi thẳng dậy, đối mặt với kẻ kia, "Cậu muốn gì?"

   "Hả? Chẳng gì cả. Tôi chỉ đơn giản nghĩ là cậu cần một ai đó nói chuyện cùng cho bớt nhớ Y/N thôi." Nói rồi, kẻ kia tủm tỉm cười đầy ẩn ý.

   "Xin đừng tự tiện gọi tên cậu ấy ra như thể chuyện giữa tôi và cậu ấy có liên quan gì đến cậu."

   "Rồi rồi, được rồi," The Puppeteer thở dài, đứng dậy rồi cho hai tay vào túi áo khoác, bước lại gần Helen, "Nhưng cậu tính sao? Cậu định lừa dối cậu ta đến bao giờ?"

   "Tới khi nào tôi chết." Helen bắt đầu tỏ rõ thái độ khó chịu, lồm cồm bò dậy về phía The Puppeteer.

   Kẻ kia giữ im lặng, như để nghĩ ngợi hồi lâu, rồi lại nói tiếp:

   "Nhỡ đâu cậu ta biết sự thật trước khi cậu chết thì sao? Hèn chi cậu còn đang sống vì cậu ta nữa. Rồi cậu ta sẽ nghĩ gì? Tôi cũng đoán rằng cậu khá đặc biệt với Y/N đấy. Cậu ta sẽ sống như thế nào đây nếu biết chuyện mình gián tiếp giết chết cậu?"

   Lần này Helen không trả lời.

   Có lẽ hơn bất cứ ai, The Puppeteer là người có thể thấy rõ tâm can Helen nhất. Helen vừa thấy như được an ủi bởi vẫn còn người biết được mình đang nghĩ gì, nhưng lại vừa thấy khó chịu đến điên đảo vì hắn lúc nào cũng cố gắng chen chân vào chuyện riêng của anh, lý do đơn giản chỉ vì hắn 'biết'.

   "Tôi không muốn nói chuyện này bây giờ. Cậu về đi." Helen lầm bầm, đứng thẳng dậy trước mặt The Puppeteer, nhưng lại không dám nhìn vào mắt hắn.

   "Helen, nghe này - "

   "Về đi!"

   ". . ."

   "Làm ơn đấy . . ." Vai người thanh niên tóc đen khẽ run lên. Hai bàn tay anh siết chặt lại, đôi mày xô vào nhau, "Cậu nghĩ gì hay nghĩ về tôi thế nào cũng được, nhưng tôi không muốn phải nói đến chuyện này bây giờ. Nên, về đi."

   ". . . Được rồi. Nhưng nhớ rằng cậu không thể chạy trốn chuyện này mãi mãi như vậy đâu. Helen." The Puppeteer thở dài, quay lưng bỏ về phía cánh cửa gỗ duy nhất của chiếc cabin. Một luồng khói đen toả ra quanh hắn như muốn nuốt chửng hắn vào trong bóng tối.

   Cậu không thể chạy trốn chuyện này mãi mãi như vậy được đâu,

   Helen.

———
Xin chào mọi ngườiiii ⊙▽⊙ xin lỗi vì chap này ra hơi lâu một xí, bởi tôi bỗng mất hứng viết truyện á :( không phải là tôi không muốn viết tiếp, chỉ là tôi bỗng thấy cách hành văn của mình cứ bị sao sao thôi

Nếu có thể thì mọi người giới thiệu cho tôi vài fic mà cách hành văn cũng tương tự như của tôi, theo kiểu slice of life hoặc deep deep các thứ được khum '∀`) đọc cho có chút cảm hứng viết tiếp truyện hihi

Với cả, mọi người cho tôi xin góp ý về cách viết truyện của mình được không :( tôi biết là chap này không được hay lắm vì dạo gần đây quaratine nên tôi thấy không được khoẻ, nên mọi người có ý kiến gì thì cứ đổ hết vào đây nhó = =

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro