hoi uc binh si lien xo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KÝ ỨC CHIẾN TRANH
(Hồi ức của những binh sĩ Xôviết từng tham gia cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại)

Người dịch: Lý Thế Dân

MỤC LỤC

Phần 1: Hồi ức của lính bộ binh
1. Toivo M. Kattonen
2. Vladimir Zimakov
3. Daniil Zlatkin
4. Braiko Petr
5. Ivan Shelepov
6. Nikolai Obryn'ba
7. Antonina Kotliarova

Phần 2: Hồi ức của các phi công
1. Yurii Khukhrikov
2. Vyacheslav Ivanov
3. Arkhipenko Fyodor Fyodorovich

Phần 3: Hồi ức của lính thông tin
1. Josef Finkelshteyn
2. Yurii Koriakin

Phần 4: Hồi ức của lính pháo binh
1. Vasily F. Davidenko
2. Ivan A. Yakuskin
3. Mikhail Lukinov
4. Zhuravlev Alexander Grigoryevich
5. Aleksandr Goncharov

Phần 5: Hồi ức của lính xe tăng
1. Aleksandr Bodnar'
2. Dmitriy Loza
3. Rem Ulanov
4. Semon Aria
5. Nikolai Zheleznov

Phần 6: Hồi ức binh lính thuộc các binh chủng khác
1. Vladimir Dolmatov
2. Viktor Leonov
3. Nikolai Dupak

HỒI ỨC LÍNH BỘ BINH
Toivo M. Kattonen
Xạ thủ súng máy,
Đại đội súng máy số 1, Tiểu đoàn Trượt tuyết độc lập tình nguyện 99

Chúng tôi biết rằng chúng tôi phải thúc nhau xông lên phía trước. Đôi khi chúng tôi thậm chí không kịp cả chuẩn bị chiến hào xuất phát khi có mệnh lệnh "xung phong" ban ra. Điều gì khiến tôi nhớ nhất à? Tôi chỉ nhớ nhất một điều rằng chiến tranh là chiến tranh. Chúng tôi không lần nào được ở qua đêm trong một ngôi nhà đàng hoàng - chỉ được ở trong rừng. Ba tháng trời ở trong rừng. Cố gắng ẩn nấp và sống sót trong đó. Chỉ có đôi người là còn sống trở về.
Tôi tới từ vùng Toksova, thuộc làng Veikkala. Tôi sinh năm 1917, nông trường quốc doanh kolkhoz thành lập ở làng tôi năm 1930 và thế là chúng tôi làm việc trong nông trường cho tới năm 1936. Và rồi người ta bảo rằng chúng tôi phải dời đi, do biên giới ở sát đó. Họ cưỡng ép mọi người phải chuyển đi 30 kilômét, tới tận Gruzino. Chúng tôi có một con bò cái, đồ đạc, mùa màng thì vừa mới gieo, lúa mạch đã lên rất cao, vậy mà lại phải chuyển đi. Chúng tôi không biết đó là ý kiến của ai, và ai là có tội trong chuyện này. Toàn bộ gia đình tôi, cùng ngựa và tất cả đồ đạc, phải dọn đi và chuyển tới vùng Vologda. Tôi làm việc tại đó cho tới năm 1937, năm 1937 tôi đi tới Lenenergo (xí nghiệp trực thuộc Leningrad) để làm người đào đất. Sau đó tôi được lên làm thợ máy và kế nữa là làm người đặt cáp. Tôi làm thế từ 1937 cho tới 1942. Năm 1942 một lần nữa người ta lại không chịu để cho người Phần Lan yên, họ trục xuất chúng tôi tới Toksova, Kavgolovo và nhiều nơi khác nữa. Họ chỉ cho chúng tôi có 24 giờ để chuẩn bị. Tôi ở đây, tại Leningrad vậy mà cũng bị trục xuất. Tôi tới chỗ chị mình ở vùng Vologda, trong khi tất cả những người khác đều bị chở tới Siberia. Họ bị chuyển đi rất xa, tới lưu vực sông Ugryum và nhiều nơi khác. Người ta cũng hỏi tôi - anh đi tới đâu đây? Tôi trả lời: anh sẽ không có giấy tờ của tôi đâu, tôi không đưa giấy tờ tuỳ thân của mình cho anh và tôi đang đi về nơi mà từ đó tôi đã tới. Tôi tới đây bằng xe lửa. Tôi làm nghề điện thoại viên tổng đài ở đây, tại vùng Vologda, nơi đây có một tổng đài điện thoại trong một ngôi làng Xôviết. Năm 1942 chúng tôi bị động viên, lọt qua được kỳ kiểm tra y tế và được chuyển tới vùng Chelyabinsk. Toy cho rằng đó cũng là một dạng động viên vào quân đội, nhưng là lao công quân đội. Nó cũng tựa như quân đội, nhưng khắc nghiệt hơn. Chúng tôi bị nhốt sau hàng rào kẽm gai. Ở đó có các tù binh Đức, và chúng tôi ở ngay bên cạnh họ. Họ bị đưa tới chỗ làm việc bằng lính gác, có súng trường và chó canh, chúng tôi cũng bị áp tải bằng lính gác mang súng. Cứ như trong tù vậy.
Chúng tôi làm việc tại đó, xây dựng những lò luyện than cốc, hiện nay chúng vẫn còn ở đấy. Người ta đưa chúng tôi tới một khu rừng, ở đó chúng tôi chặt cây và xây lò. Và rồi, khi bắt tay vào xây thì thời tiết lại chuyển thành rất nóng. Có năm cái lò, nhiệt độ lò phải lên được tới 1000 độ, nếu không lò sẽ không hoạt động được. Chúng tôi khởi động lò, đổ than vào theo lệnh. Không khí quá nóng đến nỗi chúng tôi như muốn đổ xuống, không thể làm tiếp nổi do mặt trời hun cháy mọi người cộng thêm với cái nòng tỏa ra từ lò. Thế là xuất hiện hệ thống thay ca - chúng tôi nghỉ và những người ca khác tới thế. Rồi, một thời gian sau, chúng tôi bắt đầy xây nhà và xưởng máy khi đã hoàn tất các lò luyện cốc. Năm 1945 tôi có quay lại đây. Chiến tranh đã kết thúc, và tôi trở về nhà ở Leningrad bắt đầu làm việc tại xưởng đúc, nhưng tôi chỉ có thể làm việc đó trong một thời gian ngắn. Người ta lại bắt đầu réo gọi bọn tôi là tụi Phần Lan, và lại không cho chúng tôi sống trong thành phố. Họ bảo rằng tôi phải chuyển đi, xéo tới bất cứ chỗ nào mà tôi thích. Vài tay Đoàn viên Komsomol tới và bảo tôi phải xéo đi. Tôi quay về ngôi làng sinh quán của tôi, nhưng tại đó tôi cũng bị đuổi đi. Tôi lại đến vùng Pitkaranta, gần Jannisjarvi, cách Phần Lan không xa. Tôi làm nghề thợ rèn ở đấy. Tôi làm việc ở đấy không lâu, chỉ trong vòng vài tháng, dù tại đấy người ta đã cấp cho tôi một ngôi nhà hai tầng. Tôi đã viết thư cho vợ rằng tôi sẽ quay về và đón cô ấy đi, nhưng nàng trả lời là nàng không muốn tới đó. Thế là tôi quay về (với vợ - LTD). Sau đấy, khi Stalin chết, chúng tôi đã có thể quay lại Leningrad, và tôi quay lại và làm việc ở một nông trường. Đấy là một chuyến du hành dài đằng đẵng. Tôi định cư lại ở đây trong một thời gian dài, kể từ 1959. Tôi làm việc ở nhà máy LTM và nghỉ hưu ở tuổi 55, sau đó tôi phải chịu một cuộc phẫu thuật và không tiếp tục làm việc nữa. Thế rồi tôi lại vào làm cho nhà máy Svetlana trong 20 năm nữa. Hiện giờ tôi lại đã nghỉ hưu, bắt đầu từ năm 1993.
Năm 1939, khi chiến tranh nổ ra, người ta huấn luyện 120 giờ cho chúng tôi rồi đưa ra mặt trận. Họ dạy chúng tôi cách bắn, ẩn nấp và nguỵ trang. Không có thời giờ để tập đi đều bước và những nghi thức khác. Tôi thuộc Tiểu đoàn trượt tuyết 99, vừa làm xạ thủ súng máy vừa làm xạ thủ tiểu liên. Từ khi còn bé tôi đã biết trượt tuyết, việc này trong gia đình tôi là rất đỗi bình thường. Những người dân tộc Nga trong tiểu đoàn cũng trượt tốt, nhưng khởi đầu thì không êm ái lắm. Người ta cũng dạy cho chúng tôi một khoá trượt tuyết ngắn hạn trong nội dung huấn luyện nêu trên. Những người tình nguyện trong tiểu đoàn hầu hết là học sinh trung học và sinh viên đại học. Không có người tình nguyện nào mà không thề trượt tuyết được hết - nếu vậy họ làm cái quái gì ở đây. Hầu hết tình nguyện viên đều là Đoàn viên Komsomol, kể cả tôi. Người ta hỏi: "Ai muốn tình nguyện tham gia chiến tranh với Phần Lan?" Tôi đáp: "Tôi đi, viết tên tôi vào." Vậy là tôi được tuyển dụng tại quận uỷ Dzerzhinski của thành phố. Tôi không còn nhớ rõ làm cách nào mình biết về bản thông báo kêu gọi những người tình nguyện nữa. Tất cả những tình nguyện viên trong tiểu đoàn tôi đều là người Nga, chỉ mình tôi là người Phần. Thái độ của mọi người với tôi rất tốt, không ai thắc mắc về việc tôi là người Phần. Cũng không có sự chú ý đặc biệt nào của NVKD hay của politruk (chính trị viên) tiểu đoàn đối với cá nhân tôi. Anh chàng chính trị viên khá dễ thương và cả tiểu đoàn trưởng cũng vậy.
Chúng tôi có ba anh em, anh cả tôi Semen được động viên trong thời gian chiến tranh Phần Lan, anh ấy không đi tình nguyện như tôi. Anh được tuyển vào Quân đội Nhân dân Phần Lan, đóng tại Zelenogorsk (Terijoki). Anh được huấn luyện để luồn ra sau phòng tuyến địch và làm tình báo viên. Họ được ăn mặc khác chúng tôi, chúng tôi thì trang phục nhẹ, như yêu cầu của lính trượt tuyết phải thế. Anh thứ tôi cũng được gọi nhập ngũ. Người thứ ba được ở lại nhà để không có chuyện tất cả phải vào quân đội. Năm 1941 lúc đầu tôi cũng được miễn quân dịch vì công việc của mình, nhưng rồi việc miễn trừ đã bị huỷ bỏ. Thật kinh khủng khi phải sống ở đây cho tới năm 1942, trời rất lạnh, xung quanh âm 40 tới 45 độ, sương giá khủng khiếp. Người ta đi xuống sông Narva để lấy nước và chết gục trên đường đi. Anh tôi Matvei cũng chết trong thời kỳ bao vây Leningrad, tôi đã tự tay chôn cất cho anh năm 1942.
Semen bị động viên cũng như những người Nga khác, rồi anh ấy tham gia chiến tranh, và anh được gửi đi lần cuối cùng làm một điệp viên hoạt động đằng sau phòng tuyến Phần Lan. Lúc đấy đã là giữa cuộc chiến lần hai. Theo như tôi hiểu, người ta đã gửi anh ấy đi làm điệp viên. Thậm chí có đồng đội vẫn còn nhìn thấy anh trong thời kỳ chiến tranh. Điều ấy có nghĩa là anh vẫn còn sống được thêm một thời gian nữa, và rồi anh bị giết, được chôn cất tại Turku. Có tin đồn rằng anh có mặt tại Turku. Tin đồn nói rằng những tù binh chiến tranh Nga đã trông thấy anh tại đó. Họ thấy anh đi qua trong quân phục sĩ quan Phần Lan. Anh ấy cứ đi ngang qua, trong khi các tù binh đang làm việc, không hề chào hỏi họ. Họ nhận ra anh, do họ ở cùng làng và cùng học với nhau. Sau chuyện đó, người anh em họ chúng tôi, hiện đang sống ở Phần Lan, bảo rằng người ta tìm thấy mộ anh và con anh ta thậm chí còn chụp ảnh cả nơi ấy. Thế là giờ chúng tôi biết được rằng anh ấy đã bị giết và người Phần Lan đã giết anh ấy. Tuy nhiên, chẳng ai biết chuyện đó đã xảy ra thế nào, và làm sao người Phần lại phát hiện ra anh là điệp viên Xôviết. Một điệp viên chỉ có thể mắc sai lầm một lần duy nhất trong đời. Chúng tôi đã nhờ Hội Chữ thập Đỏ giúp tìm kiếm anh, nhưng không thấy, và giờ đây chúng tôi biết điều gì đã xảy ra với anh. Chúng tôi không biết được ai đã chôn cất cho anh - tất cả những điều ấy vẫn còn chưa sáng tỏ. Pavel cũng bị thương trong chiến tranh tại Pskov và khi chúng tôi chuyển tới vùng Chelyabinsk, anh ấy đã chết vì vết thương tại đây.
Vậy là họ đưa chúng tôi lên tàu chuyển tới tiền tuyến, ra lệnh không được hút thuốc và phải tiến về phía trước thật yên lặng. Chúng tôi đeo thanh trượt vào và lặng lẽ tiến vào rừng. Và rồi chúng tôi băng qua Raivola. Kế đó là tới Mustajoki, và rồi chúng tôi tới Phòng tuyến Mannerheim, lúc này đang có chiến sự ác liệt ở đó. Chúng tôi cũng tới Metsakyla, ngày nay có tên là Molodezhnoe. Rồi chúng tôi tới bờ Vịnh Phần Lan và tiến quân dọc bờ vịnh.
Suốt trong Chiến tranh Phần Lan, chúng tôi phải chặt cành thông và tự dựng lên cho mình những hầm trú ẩn rồi nhóm một ngọn lửa ở giữa - chúng tôi sinh sống như vậy đấy. Nhiệt độ khoảng -50, xung quanh tuyết dày khoảng một mét. Tôi đeo các thanh trượt và mang theo một khẩu súng máy, nó nặng tới 16.5 kí lô cộng thêm với một băng đạn hình đĩa. Thêm vào đó tôi còn có cái balô trên lưng..
Tôi sử dụng một khẩu trung liên DP, những người còn lại hầu hết là dùng súng trường, chúng tôi chỉ được nhận tiểu liên về sau này và thực ra chúng tôi không sẵn sàng sử dụng chúng. Chúng tôi cũng có súng cối, tôi không nhớ rõ cỡ nòng là bao nhiêu, chúng khá nhỏ và có thể vác trên lưng một người được. Đại liên Maxim được di chuyển trên xe trượt, tuy nhiên chúng tôi có hơi ít súng Maxim. Tôi ở trong đại đội súng máy số 1, và chỉ còn có bảy người trong đại đội tôi còn sống sót. Một đại đội súng máy quân số ít hơn một đại đội bộ binh thường, nhưng vẫn được gọi là một đại đội. Tôi không biết gì về thiệt hại của các đại đội khác. Trợ thủ cho xạ thủ đại liên phải mang hai băng đạn, trong khi người trợ thủ hai phải mang theo ba băng. Họ vận chuyển đạn trong những thùng đặc biệt có tay cầm khi mang vác. Các trợ thủ của tôi rất vất vả gian khổ, tất cả cánh xạ thủ đại liên chúng tôi rất vất vả gian khổ. Chúng tôi phải vác tất cả đạn dược theo mình. Chúng tôi không thiếu đạn, nhưng tất nhiên là cũng vẫn phải tiết kiệm đạn. Tôi thường bắn thành từng loạt ngắn, nhiều người chưa quen có thể bắn hết cả băng đạn chỉ một lần nhấn cò. Tôi chưa bao giờ gặp vấn đề với khẩu súng của mình; nó rất đáng tin cậy. Nó hoạt động tốt thậm chí ngay cả khi bị thấm nước hay dính tuyết bên trong. Khẩu đại liên này là người bạn chiến đấu trung thành nhất của tôi. Cũng có loại súng trường bán tự động 25 viên, tôi nhớ thế, nhưng chúng luôn bị kẹt đạn. Ngay khi bị tuyết lọt vào khóa nòng là bị. Chúng tôi thậm chí không thèm đem chúng theo, mà lập tức vứt chúng lại - khẩu súng trường Mosint thân thương tốt hơn nhiều. Trợ thủ súng máy của tôi cũng dùng một khẩu súng trường Mosint. Lựu đạn cầm tay là loại quả dứa, hoặc là loại cán dài. Lựu đạn quả dứa là tuyệt nhất, dễ mang theo, nhưng cũng khá nguy hiểm, ngừơi sử dụng phải cẩn thận nếu không sẽ bị dính mảnh khi ném nó. Đấy là cách chúng tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến ấy, cho tới tận khi kết thúc. Một lần chúng tôi chiếm được mấy ngôi nhà hai tầng nằm trên một ngọn đồi, tôi không nhớ rõ nó ở vùng nào, phía Bắc Metsakyla hay nơi nào khác, đã lâu lắm rồi kể từ thời đó. Chúng tôi muốn được nghỉ lại qua đêm trong đó, nhưng viên chỉ huy khuyên mọi người không nên ở lại. Thật may mắn, bằng không hôm nay tôi đã chẳng còn ngồi đây để kể chuyện cho các bạn. Mấy ngôi nhà bị bắn trúng bằng đạn cối và cháy trụi hoàn toàn - đấy là diều suýt nữa đã xảy ra với chúng tôi. Tuy vậy, chúng tôi vẫn có nhiều người bị chết và bị thương.
Từ Metsakyla chúng tôi đi tới Koivokyla, và rồi mội vài kyla (ngôi làng) khác nữa, tôi không còn nhớ tên làng nào cả, và rồi tới Vyborg. Chúng tôi còn cách Vyborg khoảng ba kilômét. Ngày 12 tháng Ba chiến tranh vẫn còn rất ác liệt, đại bác và súng vẫn bắn loạn xạ. Rồi ngày 13 tháng Ba tới, chiến tranh kết thúc và chúng tôi được đưa về. Tại đó người ta tổ chức một cuộc mít tinh, tất cả chúng tôi đều hân hoan, nã mọi loại súng lên trời. Pháo cũng bắn mừng. Rồi tới ngày thứ hai sau khi chiến tranh kết thúc người ta yêu cầu chúng tôi tập trung súng ống lại vào thùng, bôi dầu mỡ cẩn thận, chúng tôi làm theo. Sau hai hay ba tuần, tôi cho là khoảng 25 tháng Ba, chúng tôi được trở về nhà. Vì là tình nguyện viên, chúng tôi được phép về thẳng nhà. Đại loại thế.
Nhiệm vụ của chúng tôi thường là đi lùng sục các khu rừng. Lùng sục khu rừng để không còn tên địch nào nấp bên trong. Quân phục chúng tôi là một áo sơmi lót vải ấm, một áo sơmi thứ hai, một áo nịt len, một áo jacket trắng làm bằng vải dầu. Chúng tôi cũng có cả bao tay xỏ hai đầu và găng tay. Chúng tôi vứt bao tay đi và đem theo găng tay để bắn súng dễ hơn. Tay tôi không bao giờ bị lạnh cóng, tôi chưa lần nào bị giá ăn, mặc dù nhiều người trong đơn vị bị giá ăn tay hoặc chân, và rất nhiều người đã chết. Tôi không nhớ rõ có bao nhiêu người bị chết. Tôi đi ủng cao cổ, cỡ 44, một đôi tất hoặc xà cạp. Chân tôi được giữ khá ấm. Toy đi ủng dạ chỉ một lần, chúng được chuyển tới quá trễ. Toàn tiểu đoàn đều đi ủng cao cổ. Khi còn trong thời gian huấn luyện ở Ga Maskva, chúng tôi đang đi giày quấn xà cạp, một vị chỉ huy tiến tới và nói: đám nào đang đi giày kia vậy, tình nguyện phải không? Lấy cho tất cả chúng nó ủng cao cổ! Do đó tất cả chúng tôi đều có ủng cao cổ, mỗi người chọn lấy cỡ ủng hợp với mình. Tôi quay về nhà trên đôi ủng ấy, tôi không làm cháy nó trong chiến đấu cũng như không làm hỏng rách nó. Tôi mặc áo choàng chỉ một lần, khi tôi trên đường về nhà, hầu hết thời gian là tôi mặc áo vatnik lót bông và áo khoác vải bạt màu trắng ngụy trang phủ bên ngoài. Trời lạnh, nhưng ta có thể làm thế nào bây giờ? Đồ che đầu của chúng tôi là mũ budennovka đội mùa đông, (budennovka là kiểu mũ chóp nhọn của kỵ binh Hồng quân Budionnưi, nổi tiếng thời kỳ Nội chiến - LTD), mũ cát lót len, phủ được kín cả mặt và cổ, chỉ hở hai con mắt. Th6é là chúng tôi đội mũ len lên trước, rồi tới cái budennovka, và cuối cùng là mũ sắt. Ban đầu chúng tôi không đội mũ sắt, thế mà về sau chúng tôi bắt buộc phải đội tất. Nếu tôi không đội nó, chắc giờ tôi chẳng còn để ngồi ỡ đây. Mũ sắt sơn màu xanh, trên cùng bọc vải bạt trắng, cùng thứ vải bạt để làm áo choàng ngụy trang của chúng tôi. Người ta khuyên tất cả chúng tôi khâu miếng sắt ghi số lính đeo cổ vào cổ áo jacket của mình. Miếng sắt đeo cổ phẳng và có hình chữ nhật. Những chỉ huy ban đầu mặc áo khoác lông cừu màu trắng. Thế rồi bọn Phần bắt đầu săn những chiếc áo khoác lông cừu, nhắm vào các sĩ quan, cho nên họ chuyển sang mặc quân phục bình thường.
Người ta bảo rằng khẩu DP có vấn đề với cái càng hai chân, nó hay lún vào trong tuyết. Mọi chuyện đều có thể xảy ra. Đôi khi tôi gác cái càng ấy lên xác một tay lính Phần hay lính Nga chết và bắn. Tôi rất ít khi quàng khẩu DP của mình bằng dây đeo lưng. Chúng tôi không trú trong các ngôi nhà, tất cả đều có bẫy mìn gài. Mìn có ở khắp nơi. Có lần một đồng đội của chúng tôi phải kiếm cho mình một bộ ván trượt mới - bộ cũ của anh ta đã gãy hoặc bị mất đâu đó. Lần ấy là ở quanh Koivokyla hay chỗ nào khác tôi không nhớ rõ nữa. Có một bộ ván trượt khá tốt đang dựng vào một thân cây, thế là anh ấy bảo rằng anh phải đi lấy chúng. Anh ta đi lấy bộ ván trượt và nằm lại đó vĩnh viễn. Cái cây nổ tung cùng với bộ ván trượt. "Bộ ván trượt tốt thế đấy," tôi nói với mọi người.
Chúng tôi hầu như chỉ toàn ăn đồ khô, do không có nơi để nấu nướng thức ăn. Ban đầu chúng tôi có một xe nhà bếp có ngựa kéo, nhưng nó đã bị phá huỷ - trúng phải một quả mìn cài trên đường. Chúng tôi thường ăn bánh bích quy và xong thì để tuyết tan trong cà mèn và uống nó. Chúng tôi cũng được phát 100 gram vodka mỗi ngày.
Một lần khi chúng tôi đang tiến công, tôi phát hiện một tên xạ thủ bắn tỉa cuckoo Phần, và chuẩn bị bắn hạ hắn. Nhưng hắn đã nhanh tay hơn, ngay khi tôi đang ngắm thì hắn đã bắn vào tôi "shhhhhh", và tôi chúi xuống tuyết để tránh. May là tôi đang đội cái mũ sắt, nếu không hắn đã hạ tôi rồi. Tôi vừa chúi đầu xuống tuyết thì phát đạn đã bắn trúng như thể có ai đó đập búa lên đầu mình vậy. Tôi như bị điếc nhẹ. Tai chỉ nghe lại được sau đó nhiều ngày, nhưng tôi không bị thương trong lần ấy.
Ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi là tiếng Phần Lan, nhiều lần họ yêu cầu tôi tham gia dịch những cuộc thẩm vấn, nhưng ở đấy cũng có một người phiên dịch, anh ta điều hành việc dịch thuật của tôi - để đảm bảo là tôi không nói dối. Viên chỉ huy có một cuốn từ điển hội thoại tiếng Phần Lan, và anh ta kiểm tra xem tôi có biết tiếng Phần Lan không. Anh ta rất ngạc nhiên khi tôi nói chính xác tất cả các câu. Mọi người đều sửng sốt vì tôi lại chiến đấu bên phe Hồng quân. Viên chỉ huy hỏi tôi: "Tại sao anh không chạy sang phía Phần Lan?" Tôi đáp: "Ừ, đúng, để cho anh bắn vào đầu tôi ngay bây giờ à." Tôi không hề có một suy nghĩ nhỏ nhất về việc đào ngũ theo quân Phần Lan, họ cũng sẽ giết tôi ngay lập tức. Thêm nữa, cha tôi khi đó vẫn còn sống mà tôi lại không còn họ hàng gì ở bên phần Lan hết.
Suốt thời gian chúng tôi ở trong rừng, không có một đơn vị nào đóng bên sườn trái chúng tôi, bên phải thì là Tiểu đoàn trượt tuyết 100, tôi có một người bạn ở trong đơn vị đấy. Họ gần như bị diệt sạch. Chúng tôi có 900 người, bốn đại đội. Giờ đây tôi là người duy nhất của tiểu đoàn ấy còn sống. Năm ngoái chúng tôi còn năm người, giờ chỉ còn mình tôi. Anh sẽ không thể tìm thêm được người nào thuộc Tiểu đoàn 99 ở Leningrad. Có rất nhiều tình nguyện viên trong các tiểu đoàn trượt tuyết đến từ Leningrad, gồm tiểu đoàn tôi, tiểu đoàn 100, và tôi cho là cả ở tiểu đoàn 101 nữa, nhưng họ đóng xa hơn, đâu mãi tận vùng Priozersk. Chúng tôi thì ở ngay chỗ này, trên Phòng tuyến Mannerheim, nơi có các boongke bằng bê tông, bằng gỗ và đắp đất. Boongke bêtông có ba tầng và rất rộng, tháp quan sát làm bằng cao su để đạn bắn vào sẽ bật ra - một thiết kế hoàn hảo. Chính mắt tôi đã trông thấy một boongke ba tầng, sau khi nó bị chiếm. Không thể chiếm nó được, do đó người ta đã đổ ngập nước vào, có lẽ do người kỹ sư Phần Lan đã xây ra nó. Vẫn còn nước bên trong cái boongke khi tôi bước vào trong.
Các chiến hào của họ cũng rất hiểm yếu, một khẩu súng máy có thể bắn vào chúng tôi mà chúng tôi không thể xác định được hướng đạn tới từ đâu. Chúng được ngụy trang bằng tuyết, cho nên chúng tôi không trông thấy chút gì hết. Khi chúng nã đạn, chúng tôi theo thói quen sẽ nằm xuống và nổ súng, và nếu chúng tôi không xác định được đạn bắn từ đâu, chúng tôi sẽ nấp kỹ, để đạn địch không bắn trúng. Nếu chúng tôi bị bắn trực tiếp, chúng tôi sẽ không thể nằm lâu mà phải đứng dậy và tấn công. Chúng tôi sẽ vứt gậy trượt tuyết xuống, băng lên trước và vừa chạy vừa nổ súng. Quân Phần Lan hoàn toàn không dùng gậy trượt tuyết. Tôi không rõ tại sao chúng tôi phải cần những cây gậy trượt tuyết ấy. Ban đầu thì chúng tôi sợ pháo binh Phần Lan, chúng tôi nghĩ rằng mình sẽ trúng đạn, và rồi chúng tôi cũng quen dần. Chúng tôi thường xuyên phải nằm dưới làn đạn cối pháo kích, nhưng dù sao chúng tôi cũng thoát được. Chỉ có ở hai ngôi nhà kia tại Metsakyla, mới có ngừơi bị trúng đạn cối - ở đấy chúng bắn cối thật dữ dội. Hai căn nhà ấy cháy suốt cả ngày, nhờ thế mà chúng tôi có thể tự sưởi ấm bên đống lửa. Đáng lẽ chúng tôi đã cháy ra tro nếu ở lại trong đó qua đêm. Tôi nhớ không có một đêm nào mà chúng tôi được nghĩ trong nhà qua đêm. Chỉ một lần chúng tôi được ngủ lại trong một hầm trú ẩn chiếm được của quân Phần Lan, nhưng tất cả thời gian còn lại chúng tôi ngủ trong tuyết, trong các hầm hố chúng tôi tự đào.
Đánh nhau giáp lá cà ư? Làm thế nào tôi đánh giáp lá cà được trong khi còn phải vác khẩu đại liên? Chúng tôi không phải đánh giáp lá cà, chúng tôi không hô "Hurrah". Chúng tôi chưa hề bị bao vây, mà chỉ luôn tấn công về phía trước.
Điều mà tôi nhớ nhất có lẽ là lần chúng tôi đã suýt chết đuối trên mặt băng của Vịnh Phần Lan thế nào. Chúng tôi đang đi bộ trên băng thì một quả đạn pháo hay đạn cối bắn trúng băng và tạo ra một cái hố trên đó. Có những chiếc xe tăng đang đi phía trước chúng tôi, chúng tôi nhảy lên mấy chiếc tăng đó và sống sót, bằng không thì đã chết đuối cả rồi. Tổ lái tăng cho chúng tôi một ít thức ăn. Tôi không biết được họ là đơn vị nào và chỉ huy là ai. Lần đó lúc đầu pháo bắn rất dữ dội. Tôi cũng không nhớ tên hòn đảo mà chúng tôi đã tấn công. Chúng tôi bắt được vài tù binh, nhưng nói chung thì có rất ít tù binh bị bắt. Tất cả đám tù binh Phần Lan chúng tôi bắt được đều hung dữ khủng khiếp, chúng sẵn sàng ăn sống chúng tôi. Tôi đã nói chuyện với một tên trong số đó, và đột nhiên hắn nhảy xuống một cái hố trên mặt băng, xuống Vịnh Phần Lan, ngay chỗ mà chúng tôi suýt chết đuối. Hắn không thèm để ý là nước lạnh cóng thế nào, hắn chỉ muốn không phải đầu hàng. Quân Phần Lan có ít người, nhưng họ đều nguỵ trang rất tốt, họ có boongke và cứ điểm vững vàng. Họ cũng có lương thực và mọi thứ cần thiết. Họ quan sát rõ chúng tôi, trong khi được nguỵ trang trong tuyết, còn chúng tôi chẳng thấy được chút gì. Chúng tôi nghe thấy tiếng súng, nhưng chỉ có quỷ mới biết súng bắn từ hướng nào. Cũng có bọn xạ thủ bắn tỉa cuckoo nấo trên cây. Lính trượt tuyết Phần Lan không dùng gậy trượt. Ban đầu chúng tôi dùng gậy trượt tuyết, nhưng chúng rất phiền toái. Quân địch cũng có những đôi giầy có mũi cong, chúng có thể nhảy xuống từ trên cây, đeo giày trượt vào và biến mất. Chúng cũng lót da nai ở dưới giày trượt để giảm ma sát. Chúng tôi không có những giày trượt như thế. Chúng là những chiến binh thực sự, và chiến đấu rất giỏi. Bọn chúng có ít người, nhưng giết rất nhiều người của chúng tôi. Toy cho là chúng tôi cũng thiệt hại nặng vì giá rét - giá ăn chân tay. Người của chúng tôi đi giày cổ ngắn và quấn xà cạp, chỉ còn biết cố gắng sống sót trong nhiệt độ âm 50 với đôi xà cạp quấn chân.
Một lần đám chỉ huy của chúng tôi đang đi trên mặt băng của Vịnh Phần Lan, khi đó tôi đang trong phiên gác, nằm phục với khẩu súng máy của mình. Chúng tôi dùng một khẩu lệnh được thay đổi liên tục trong ngày - một khẩu lệnh thường là "súng trường" hay "súng máy" hay đại loại thế. Mấy người kia bắt đầu đi sau nửa đêm và không biết khẩu lệnh mới. Tôi đang nằm trong rừng với khẩu súng máy và nghe thấy họ đi tới và trò chuyện. Toy hét lên: "Dừng lại! Khẩu lệnh!" Họ nói: "Súng máy", tôi đáp: "Không, không đúng. Nằm xuống đất ngay lập tức nếu không tôi bắn." Tôi kéo khóa nòng và chuẩn bị bắn. "Được, chúng tôi đang nằm xuống đây." họ bảo. Và rồi đội tuần tra tới và thả cho họ đi. Họ đứng dậy và tôi trông thấy cả hai đều mặc áo lông cừu trắng, một là đại tá và người thứ hai là trung tá. Thế đấy, tôi nghĩ, bây giờ mình sẽ gặp rắc rối cho mà xem. Chỉ là vì họ đã đi sau nửa đêm và không biết khẩu lệnh mới. Nếu họ biết thì tôi đã để họ qua, thậm chí nếu một tên Phần biết khẩu lệnh thì tôi cũng để cho hắn qua. Làm sao mà tôi biết được hắn là lính Phần hay không? Đó là một bí mật nhỏ của chúng tôi. Sáng hôm sau tôi nhận được lời tuyên dương trước đơn vị vì đã gương mẫu thực hiện nhiệm vụ.
Tôi không nhớ rõ những gì quân Phần Lan la hét với chúng tôi, dù tôi biết tiếng Phần rất giỏi. Tôi cũng không nhớ nội dung những tờ truyền đơn. Tôi nhớ có lần chúng tôi bắt được một tên xạ thủ cuckoo, quật ngã hắn và bắt đầu thẩm vấn. Hắn nói rằng đã giết được 9 lính Nga, và hắn phải giết được mười người. Tôi bảo hắn, không đâu, "et sina osaat minun tappaa" (Mày sẽ không thể giết được tao - tiếng Phần Lan). Hắn nhìn tôi, nhận ra tôi là người Phần và nổi điên còn hung dữ hơn trước. Rồi tôi hỏi hắn tại sao lại leo lên cây và giết chúng tôi. Hắn đáp rằng hắn phải giết chúng tôi, rằng hắn đã giết chín và phải giết được mười, nhưng giờ thì không làm được nữa rồi. Tuy nhiên hắn đã dành sẵn cho tôi một viên đạn.
Sau chiến tranh người ta tổ chức một cuộc diễu binh, người ta cấp cho chúng tôi quần dài màu xám, áo sơmi trắng, cà vạt, mũ lưỡi trai trắng có gắn ngôi sao đỏ và trong bộ quân phục như vậy tôi đi tới trụ sở dân uỷ và báo cáo rằng tôi đã trở về. Tôi không được nhận phần thưởng vì đã tham gia cuộc chiến đó. Tôi không nghĩ là có ai trong tiểu đoàn tôi được thưởng. Tôi đoán là chúng tôi không đáng được vậy. Chiến tranh là chiến tranh. Ban đầu người Nga không muốn gọi đó là một cuộc chiến tranh. Ý tôi là ... người ta gọi nó là gì nhỉ? Một chiến dịch, chiến dịch Phần Lan, người ta gọi như thế đấy. Tôi nghĩ là tới khi Yeltsin tuyên bố cái gì đó về nó thì người ta cuối cùng mới bắt đầu gọi đó là một cuộc chiến tranh thực sự. Đó là một công việc cực nhọc. Chiến tranh nói chung là một công việc cực nhọc, và hơn nữa, để thêm vào với tình cảnh khổ cực của chúng tôi là một mét tuyết dày và cái lạnh -45 tới -50 độ. Chỉ còn biết cố gắng sống sót trong rừng trong điều kiện như vậy mà thôi.
Chúng tôi không được tiếp viện hay bổ sung quân số, chỉ còn tự biết lo cho thân mình. Khi chúng tôi quay về nhà, tới ga Phần Lan ở Leningrad, các cô gái chạy ra đón những bạn trai của họ trong đội tình nguyện. Chúng tôi đã phải giải thích cho rất nhiều người trong số họ là bạn trai của họ sẽ không trở về nữa. Những người bị giết được chuyển tới nghĩa trang Ohta, có 700 người được chôn ở đó. Tôi không biết họ có thuộc tiểu đoàn tôi hay không. Có một nhà thờ ở Zelenogorsk (Terijoki), ở đó có cả những bia mộ của người Nga lẫn người Phần Lan.
Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
VLADIMIR ZIMAKOV

Phần 1
Diệt xe tăng

Vladimir Zimakov, mùng 9 tháng Năm năm1945, vùng Galati - Romania.

Tôi biết chiến tranh đã xảy ra khi thấy máy bay địch bắt đầu dội bom Smolensk, nơi chúng tôi đang sống. Đó là vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng Sáu. Gia đình chúng tôi phải di tản. Năm 1943 tôi nhập ngũ, khi lên 18 tuổi. Ban đầu chúng tôi được đưa tới Morshansk, Tambov. Rồi chúng tôi được đưa tới huấn luyện quân sự tại doanh trại Melikess thuộc vùng Ulyanovsk. Chúng tôi được nhận đồ lót mới, nhưng quân phục thì đã cũ. Tôi đoán chúng được lấy từ những chiến sĩ ta đã hy sinh. Họ đã khâu vá cẩn thận những vết rách thủng do đạn và mảnh trái phá xuyên qua.

Người anh em ạ, lúc đó trời rất lạnh! Chúng tôi may mắn có được áo choàng, đồ lót bằng len và bông và giầy ủng với xà cạp đủ ấm. Có lần vài tay Uzbek bị đưa tới doanh trại. Ồ, họ thật đáng thương! Họ được phép mặc áo "khalat" (một loại áo khoác lông cừu) dưới lớp áo choàng. Thực ra, ta không bị lạnh đâu bởi phải tập luyện và chạy rất nhiều. Có lần trong suốt mười ngày liền chúng tôi phải hành quân tới 20 cây số mỗi ngày. Họ sẽ nhồi 16 ký cát vào ba lô của anh, thế rồi anh xách lấy khẩu súng và lên đường.

Việc huấn luyện tiếp tục từ tháng Giêng cho tới tháng Ba. Tới tháng Ba họ tập hợp chúng tôi lại và ra lệnh: "Những ai có trình độ từ lớp 7 trở lên - tiến lên trước ba bước." Tôi bước khỏi hàng, bởi đã học xong lớp 8. Nói chung, hầu hết đám tân binh chúng tôi đều là dân quê. Vài người trong số họ học đến lớp 5 hay lớp 6, phần lớn thậm chí chưa từng được đi học. Khoảng một trăm người được chọn và gửi tới trường đào tạo sĩ quan. "Lấy vật dụng cá nhân và chuyển đi." Lúc đó chúng tôi thì có cái gì đâu?! Một cặp đồ lót, một mẩu xà phòng đen và một cái khăn mặt. Thậm chí không ai có được cái bàn chải đánh răng - không phải là thói quen! Hãy xem trong balô lính Đức có gì. Một bàn chải răng sạch, bột đánh răng, một bánh xà phòng thứ phẩm. Tất cả đều ngăn nắp, đúng theo kiểu Đức. Bánh xà phòng thứ phẩm thô ráp, có lẽ được trộn cát hay thứ gì đó tương tự. Chúng rất lâu mòn.

Chúng tôi mất 3 ngày để đi từ Melikess tới thị trấn Kinel, gần Samara. Chúng tôi được phân về Trường Huấn luyện Bộ binh Kuybyshev số 3. Trường nằm cách dòng Volga khoảng 130 cây số. Chúng tôi trông giống như đám học sinh sỹ quan thời trước chiến tranh: áo len, quần bông, giầy ống cao cổ. Nếu kết thúc sáu tháng học ở đây, chúng tôi sẽ được ra mặt trận với quân hàm thiếu uý. Có biết bao nhiêu thiếu uý và trung uý bị giết ngoài mặt trận! Anh bạn ạ, chỉ một ít trong số họ là còn sống. Ngay khi vừa tới mặt trận, họ liền lọt vào kính ngắm của bọn xạ thủ bắn tỉa Đức. Chúng ta không bao giờ quan tâm tới việc che chắn ngụy trang. Sĩ quan được cấp loại sơmi khác với lính tráng, và đội mũ có lưỡi trai! Mà xạ thủ bắn tỉa Đức lại bắn rất cừ.

Chúng tôi học được hai tháng cho tới khi trường nhận lệnh đưa lứa học viên khóa trên ra mặt trận. Không có vấn đề gì, trừ việc quân phục dành cho họ không được chuyển đến đúng hẹn. Thế là chúng tôi phải cởi quân phục của mình ra cho lớp khóa trên mặc vào. Chúng tôi được nhận lại mớ quần áo cũ của mình, nhưng tới lúc này giầy ủng của chúng tôi đã mòn vẹt hết cả, thế nên chúng tôi được cấp thêm giầy vỏ cây và xà cạp trắng. Chúng tôi mặc chúng tiếp hai tháng cho tới khi quân phục mới được chuyển tới.

Huấn luyện các xạ thủ chống tăng.

Chúng tôi được học cả thảy ba tháng cho tới khi trường phải đóng cửa. Họ gửi chúng tôi tới Inza, nơi chúng tôi được phong hạ sĩ. Đó là một doanh trại lớn nằm giữa một cánh rừng thông. Ở đấy có những cái giường cao ghép thành ba tầng với những con chuột lớn, cỡ bằng con ngựa (cười). Lữ đoàn chúng tôi gồm những trung đoàn súng máy, pháo, xe tăng và chống tăng chuyên biệt. Tôi được chuyển tới trung đoàn chống tăng. Họ huấn luyện chúng tôi rất kỹ. Chúng tôi được học kỹ năng bắn súng trường, súng máy và tất nhiên là súng chống tăng Degtiarev và súng chống tăng Simonov. Khẩu Degtiarev giật rất mạnh vào vai. Khẩu Simonov giật yếu hơn, chứa năm viên đạn trong hộp súng và có chế độ lên đạn bán tự động. Chúng tôi bắn súng chống tăng vào những mô hình xe tăng bằng gỗ dán chuyển động. Nhắm vào đâu? Khi chúng tiến về phía ta, hãy nhắm vào lỗ quan trắc hay phía dưới tháp pháo để làm nó mắc kẹt. Bắn vào lỗ quan trắc! Cứ làm đi, nhắm vào chiếc xe tăng từ khoảng cách 500 mét. Vài người làm được nhưng tôi thì không. Tất nhiên, ta có thể bắn đứt xích nó bằng một viên đạn, nếu may mắn. Việc này chặn nó dừng lại và đám xạ thủ chống tăng hoặc pháo thủ sẽ tiêu diệt nó. Khi chiếc xe tăng chìa sườn về phía ta thì có thể ngắm vào thùng đạn của nó. Thật tuyệt! Chuyện đó sẽ gây ra một tiếng nổ lớn! Cứ như pháo hoa! Chiếc tăng sẽ tan xác, tháp xe cùng nòng pháo văng ra xa. Tuyệt vời! Lính tráng la hét, nhảy nhót, tung mũ lên trời. Đó là lần chúng tôi hạ được chiếc "Ferdinand" của mình, nhưng đó lại là một chuyện cá biệt.

Họ dạy chúng tôi trong ba tháng, thăng chúng tôi lon hạ sĩ và đưa chúng tôi ra mặt trận. Chúng tôi đi trên xe lửa suốt hai tháng trời. Trên đường ra mặt trận khoảng 20-30 người trong chúng tôi bị giết bởi mìn. Mọi khoảnh đất dọc tuyến đường sắt đều bị rải đầy mìn. Một tay lính thuỷ bị một quả mìn "cóc" cắt rời người. Làm thế nào hắn lại bị vậy? Thật ngớ ngẩn! Vài tay lính trẻ đứng gần đó đái. Hắn bảo họ: "Xem này, nó sẽ nhảy. Tớ sẽ chụp lấy nó và nó sẽ không nổ". Quả mìn nhảy lên và phát nổ. Hắn bị xén đứt một cánh tay và ruột xổ tung. Một người nữa chết và ba người khác bị thương.

Chúng tôi tới thành phố Starưi Oskol và phát hiện ra cây cầu đã bị nổ tung, thế là chúng tôi bị kẹt lại. Trận Kursk vừa kết thúc từ hai tuần trước. Khi đoàn tàu chúng tôi còn phải chờ thông đường, chúng tôi được lệnh đi chôn xác chết. Chúng tôi mang xác lính xe tăng ra khỏi xe của họ, cả lính ta lẫn lính Đức. Mùi xác chết thật kinh khủng! Sau một thời gian chúng tôi đã quen được với nó, nhưng ban đầu thì thật lợm mửa. Chúng tôi không có chọn lựa nào khác. Chà, ở chỗ đấy có quá nhiều xe tăng bị nổ tung! Vài cái đâm vào nhau và dựng đứng lên. Tăng bên nào bị nhiều hơn à? Chúng tôi không đếm. Có thể là tăng của bọn Đức.

Chúng tôi chôn cất binh lính trong những ngôi mộ tập thể. Tất nhiên, chúng tôi luôn lục túi họ để tìm giấy tờ. Nếu thấy tiền hay cái mề đay đựng ảnh, chúng tôi gửi nó về cho người thân của họ. Đôi lúc chúng tôi tìm thấy những bức thư tuyệt mệnh. Rất nhiều người chẳng có gì, không một chút giấy tờ. Xác những người lính xe tăng trông như những món đồ chơi bị cháy rụi. Làm sao chúng tôi xác định tên tuổi của họ được? Tôi không hiểu tại sao, nhưng những người như vậy xác không có mùi. Chúng tôi chôn lính Nga và lính Đức chung với nhau và chỉ viết lên mộ như sau : "Nơi đây chôn cất một số lượng ... như thế lính Nga và một số lượng ... như thế lính Đức".

Cho tới năm 1944 Sư đoàn Bộ binh 22 chúng tôi thuộc Tập đoàn quân 55 vẫn chưa tham dự trận đánh nào. Chúng tôi được chuyển tới ngoại ô thành phố Korsun-Schevchenko. Chúng tôi hành quân bộ suốt gần 70 cây số giữa những đêm dài tháng Giêng. Mất khoảng hai tuần. Chúng tôi vừa đi vừa ngủ gà ngủ gật suốt ngày. Tháng Giêng năm đó thời tiết khá ấm áp. Đường xá biến thành những vũng lầy. Ta hành quân trên dải đất đen xứ Ukraina, nó cứ dính bết từng tảng lên ủng và xà cạp. Bạn cạo sạch đi rồi nó lại dính bết như cũ sau khoảng chục bước chân. Ồ, chúng tôi đã lội bộ được khá nhiều (cười lớn).

Xạ thủ chống tăng thuộc Sư đoàn Bộ binh 186.
Mặt trận Kalerian. 1942.

Tôi phục vụ trong một đại đội chống tăng. Trợ thủ của tôi là Malưsev. Cậu ta là một tay cao kều người Siberia, sinh năm 1925. Chúng tôi có khẩu chống tăng loại Simonov. Ban đầu chúng tôi phải vác khẩu súng được lắp ráp hoàn chỉnh, thế rồi chỉ huy cho phép chúng tôi tháo rời nó ra. Thử tưởng tượng xem, nó nặng tới 22 ký. Ngoài ra, chúng tôi còn đem theo 200 viên đạn dành cho nó, tức thêm 28 ký nữa. Tôi cũng phải đeo một khẩu Nagan (xạ thủ số 1 có một khẩu súng lục và xạ thủ số 2 có một tiểu liên). Malưsev thì vác một khẩu tiểu liên PPSh cùng ba băng đạn, lương khô và đồ lót. Chúng tôi phải tự mình vác tất cả những thứ đó!

"Halt!" (tiếng Đức: dừng lại - LTD) Được thôi. Trinh sát báo cáo: "Bọn Đức ở gần đây". Chúng tôi nhận lệnh phải đào chiến hào ngay rìa làng. Ngôi làng tên gì nhỉ? "Komarovka." Làm như ghê gớm lắm vậy, "Komarovka!" ("Muỗi mắt" - Anton Kravchenko). Trong tiếng Ukraina nó là Komarivka. Được thôi, nhưng đào chiến hào hướng nào? Hướng này, về phía ngôi làng. Chúng tôi đào chiến hào. Chiến hào bọn tôi nằm dưới một cối xay gió mái có hình móng ngựa. Mấy giờ rồi nhỉ? Đã 3 giờ rồi. Chúng tôi đào sâu thêm một chút, nhưng nước bắt đầu rỉ vào trong hào nên đành dừng lại.

Vâng, ngay lúc đó chúng tôi gặp chuyện rắc rối. Chưa bao giờ gặp lại lần nào như thế trong suốt chiến tranh. Sự việc là cùng lúc đó bọn Đức đang lặng lẽ ngồi trong một khe núi phía sau làng. Ngay khi đám bộ binh đào xong chiến hào và ngồi nghỉ, chúng bắt đầu nã súng cối cật lực về hướng ngôi làng. Chúng có một khẩu đại liên ngay trên chiến hào chúng tôi, trên chính cái cối xay ấy. Và khẩu súng đó đang bắn thẳng vào làng. Chiến hào chúng tôi chỉ dài khoảng 5 mét, tại sao chúng không quẳng một quả lựu đạn vào đấy nhỉ? Có lẽ mấy tên đó không còn quả nào chăng? Malưsev chờ một lát rồi bảo: "Valodka, tớ sẽ trèo lên trên ấy. Tớ sẽ khử chúng." Cậu ta nói thêm: "Đưa tớ khẩu súng lục của cậu". Tôi đưa khẩu súng lục của mình và cậu ta trèo lên. Một lát sau, tôi nghe tiếng súng bắn qua lại, của cả bọn Đức và Malưsev. "Malưsev chết rồi." Tôi nghĩ. Không hề như vậy! Cậu ta quay trở ra. Đã giết xong cả hai thằng ngồi trên ấy. "Xong rồi," cậu ta nói, "Tớ đã hạ chúng rồi".

Rồi cơn ác mộng bắt đầu. Anh bạn ạ, tối hôm đó tôi không thấy một sĩ quan nào của ta cả! Chúng tôi bắt đầu bắn bằng khẩu súng của mình. Nhưng bắn về hướng nào? Trời tối như mực! Chúng tôi cứ bắn về hướng có chớp sáng, hết khoảng 20 hay 30 viên đạn theo kiểu ấy. Về sau mới biết là ở đấy chỉ có khoảng 500 tên Đức. Chúng tôi có đến hai tiểu đoàn bố trí trong các chiến hào để chống lại chúng. Thêm vào đó, chúng tôi còn tới một tiểu đoàn dự bị. Chúng tôi là lính mới, anh biết đấy, nhưng những tay có kinh nghiệm lúc ấy cũng phải lúng túng. Rồi chúng tôi gặp một tay thượng uý. Anh ta hét, "Nằm xuống, các cậu. Tháo khóa nòng ra và ném khẩu súng của các cậu đi." Chúng tôi làm theo như anh ta bảo. Chúng tôi tháo nó ra và dấu trong chiến hào. Malưsev nhét cái khóa nòng vào túi rồi phủ chiếc áo telogreika của mình lên khẩu súng chống tăng. Tay sỹ quan ấy bị thương vào cả hai chân. Chúng tôi xốc nách anh ta rồi cùng chạy. Bọn Đức liên tục nã súng cối. Phần còn lại của đơn vị chúng tôi đang rút lui. Binh lính cứ ngã xuống, ngã xuống. Còn bọn Đức vẫn tiếp tục bắn. Hầu hết đám lính ta rẽ vào một cái thung lũng nhỏ để tránh đạn. Người sỹ quan nói: "Hãy chạy thẳng lên đồi! Lên trên đồi! Đừng chui xuống cái thung lũng ấy, bây giờ mà ở đấy là bị thịt ngay!" Quả vậy. Bọn Đức chỉnh khẩu cối theo hướng ấy, thật kinh khủng. Tưởng tượng mà xem? Và rồi chúng tôi đã vượt qua đỉnh đồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống để nghỉ. Anh ta nói: "Hãy nghỉ một lát, tim tôi lộn lên tậïn trên cổ rồi." Anh ấy trông còn trẻ, nhưng cả hai chân đều bị thương. May thay không trúng xương, chỉ bị vào phần mềm.

A hà. Bình minh đã lên. Anh biết không, chúng tôi đang ngồi như thế trong đám cỏ khô cao ngập đầu thì có hai tên Đức đi ngang. Thượng úy thấy chúng trước. "Im lặng," anh ta nói, "bọn Đức đấy. Nằm xuống. Tôi sẽ bắn, để các cậu làm thì trượt mất." Anh ta lên cò khẩu TT của mình rồi ngắm bắn. Bóp cò. Thằng Đức thứ hai bắn trả ngay lập tức. Bọn Đức được huấn luyện để bắn ngay về hướng có tiếng súng. Thượng uý hạ luôn được thằng thứ hai. Bắn liền tay. Thật là một tay có kinh nghiệm. Chúng tôi thì sợ đến chết được. Tôi còn nghĩ rằng thế là tiêu rồi. Thật ra, tất cả chỉ mới là lần đầu đối với chúng tôi.

Vâng, chúng tôi đã rút lui. Không như chúng tôi, tiểu đoàn dự bị tiến lên, quét sạch bọn Đức, chiếm lấy ngôi làng và tiếp tục hành quân. Còn chúng tôi có hai tiểu đoàn thì lại bỏ chạy. Thế đấy. Một nửa số người chạy vào cái thung lũng đã bị giết chết. Nói ngắn gọn, chúng tôi chỉ còn lại một tiểu đoàn trong số hai tiểu đoàn ban đầu. Một tiểu đoàn có 500 người. Một đại đội gồm 125 người. Tóm lại, chúng tôi có ba đại đội bộ binh và mấy trung đội súng máy, tiểu liên và súng cối.

Sáng hôm đó chúng tôi tới sở chỉ huy sư đoàn. Chúng tôi khiêng thượng uý tới đơn vị quân y và báo cáo lại những gì đã xảy ra trong thung lũng. Họ hứa sẽ gửi cứu thương và xe ngựa tới để vận chuyển những người sống sót. Thượng uý nói: "Những chàng trai này đã cứu mạng tôi, họ phải được tặng thưởng." Chúng tôi trả lời, "Chính anh ấy đã cứu mạng chúng tôi." Tất cả đều cười. "Những anh chàng thiếu kinh nghiệm." Anh ấy được đưa lên bàn mổ ngay lập tức. Họ chữa vết thương cho anh rất cẩn thận, dù không có thuốc mê. Anh ấy rất can đảm. Một anh chàng dũng cảm!

- A hà. Bây giờ chúng tôi đi đâu đây?

- Vũ khí của các anh đâu?

- Đây ạ.

- Các anh là lính gì?

- Chúng tôi là xạ thủ chống tăng.

- Thế súng chống tăng của các anh đâu?

- Chúng tôi bỏ lại ở chỗ kia.

- Quay lại lấy chúng ngay!

Vâng, chúng tôi quay lại. Buổi sáng trời lạnh hơn và con đường đã đỡ lầy lội. Chúng tôi đi và nghe thấy những tiếng rên rỉ trong cái thung lũng! Thật khủng khiếp! Ma quỷ! Không còn ai trên đường, chúng tôi đang đi một mình. Thế là chúng tôi quay lại và tìm thấy khẩu chống tăng của mình ở nơi đã bỏ nó lại. Chúng tôi vào trong làng - không ai còn sống sót trong đó. Rồi một ông già xuất hiện từ một cái lán. A ha. Tôi nói: "Bố ơi, làm thế nào bố còn sống sót được?" "Lão không biết, các con ạ. Đám các con bắn trả bọn Đức từ trong căn nhà này suốt đêm qua." Chúng tôi tiến lại gần hơn. Đó là đám trinh sát của trung đoàn chúng tôi. Tất cả đã bị giết. Thế đấy. Trận đánh đầu tiên của chúng tôi là vậy đấy.

Artem Drabkin: Có khi nào các ông bắn vào bộ binh bằng súng chống tăng không?

Đôi khi chúng tôi làm thế, nhưng thường chúng tôi dành đạn để bắn xe tăng. Nhân tiện, xin kể về một vụ như thế. Việc xảy ra trong những ngày đầu tiên của chúng tôi ngoài mặt trận. Tôi cho rằng bọn Đức đã quyết định kiểm tra xem chúng tôi sẽ xử sự thế nào dưới làn hỏa lực mạnh. Vì thế chúng tiến hành pháo kích chúng tôi bằng súng cối và đại bác. Trận pháo kích thật dữ dội, chúng tôi phải ẩn nấp để tránh mảnh đạn tận dưới đáy chiến hào. Có lẽ một quả đạn đã rơi vào chiến hào bên cạnh. Có vài người bị giết. Một cậu Uzbek bị "giập". Cậu ta nhảy khỏi chiến hào, quay qua quay lại rồi chạy về phía bọn Đức. Tiểu đoàn trưởng chạy tới, miệng hét: "Bắn hắn đi! Bắn đi!" Anh ta chạy tới chỗ chúng tôi, gạt Malưsev sang một bên, chĩa khẩu súng chống tăng của chúng tôi về người lính ấy và bắn trúng ngay sau đầu anh ta. Khi chúng tôi chạy lên phản công, lật ngửa anh ta lên - khuôn mặt đã biến mất, bị vỡ tung. Quỷ tha ma bắt, viên đạn ấy nặng tới 70 gram.

Sau đấy, chúng tôi ngồi trong chiến hào quanh Korsun suốt một tuần lễ. Đó là nơi mà chúng tôi, Malưsev và tôi, đã hạ được một chiếc Ferdinand. (Lính Nga gọi chung tất cả các loại pháo tự hành của Đức là "Ferdinand" - Artem Drabkin) ("Ferdinand" là loại pháo tự hành Elephant nổi tiếng, bộ máy tuyên truyền Quốc xã sử dụng hình ảnh này để quảng cáo cho sức mạnh của Quân đội Đức - LTD). Vị trí chiến đấu của chúng tôi rất bất hợp lý. Bọn Đức đóng trên một điểm cao trong khi chúng tôi lại nằm dưới một khoảng trũng. Khoảng cánh giữa hai bên là 200 mét. Có một ngôi làng nằm trên đỉnh cao ấy. Một khẩu pháo tự hành nấp sau góc của một trong những căn nhà ấy. Chỉ có cái nòng pháo thò ra. Bọn quan trắc của chúng có lẽ cũng ở đấy, bởi ngay khi chúng xác định được các vị trí của chúng tôi, chiếc xe trườn tới từ sau ngôi nhà và nã đạn rất chính xác. Lính ta bị thịt dần. Mấy khẩu pháo 45mm của ta bố trí sau lưng chúng tôi, trên một đỉnh đồi. Anh xem, họ chọn một vị trí tệ thế đấy, nơi thiếu che chắn nhất. Tới lúc này, không một pháo thủ nào còn sống. Khi quay lại chỗ này, chúng tôi trông thấy hai khẩu pháo và các xác chết nằm ngay cạnh. Và họ đã bị phủ một lớp tuyết, những ngừơi lính ấy. Không có ai chôn cất cho họ. Năm chiếc T-34 bị bắn cháy ngay trước mắt chúng tôi. Chỉ một phát đạn, và thế là chấm hết. Rồi đến chiếc kế tiếp. Bọn Đức khát máu, chúng thật là những chiến binh thông minh và mạnh mẽ. Không có ai mạnh hơn chúng, ngoại trừ lũ khờ dại chúng tôi. Chúng tôi luôn chiến đấu với chúng bằng nắm đấm của mình, chạy thẳng vào chỗ nguy hiểm mà không hề quan sát trước.

Đại đội trưởng đã gửi đi ba khẩu đội chống tăng, không ai trong bọn họ quay về. Hoặc một tên bắn tỉa diệt họ, hoặc họ nấp sau những xe tăng cháy và bị trúng đạn của khẩu pháo tự hành, tôi không rõ lắm. Chỉ huy nói: "Tiến lên, các chàng trai, trườn xuống dưới cái xe tăng đầu tiên, đừng sợ." Malưsev của tôi là một chàng trai dũng cảm. Chà, cậu ta là một thợ săn thực sự, một tay Siberi! Dù tôi là xạ thủ số 1, cậu ta luôn là người bắn khẩu súng chống tăng. Tôi thì không có can đảm (cười). Vâng, cậu ta đã bảo: "Valodia, đừng lo. Chúng ta sẽ ngắm trúng nó." Và chúng tôi mất suốt đêm để trườn tới nơi. Chúng tôi nấp dưới một trong những chiếc xe tăng đấy, và bắn, gần như ngay sát bọn Đức. Chỉ cách khoảng 150 mét tới chỗ căn nhà đấy.

Những xạ thủ chống tăng.

Tới sáng chúng tôi bắt đầu bắn hết phát này đến phát khác. Chúng tôi bắn trúng vào bánh xe hoặc xích xe gì đó, bởi chúng tôi chẳng nhìn rõ cái gì khác. Rồi nó phát hiện ra chúng tôi và bắn trả. Úi chà chà, thật ác liệt! Cái tháp pháo trên đầu chúng tôi bị nổ tung! May mắn thay, phát đạn không bắn trúng phía dưới xe tăng, nếu không chúng tôi đã rồi đời. Tai tôi điếc đặc. Rồi nó trườn khỏi góc nhà để kết liễu chúng tôi. Tôi nghĩ: "Thế là hết, chúng sẽ nghiền nát chúng ta." Nhưng Malưsev vẫn bình tĩnh. Khi chiếc xe chìa sườn về phía chúng tôi, cậu ấy chĩa khẩu chống tăng ra từ dưới cái xích xe và nã luôn năm phát vào sườn nó, phát này nối tiếp phát kia. Thật là một cú ghê gớm! Chiếc Ferdinand của chúng tôi nổ tung thành từng mảnh - cả tháp pháo, mọi thứ!

Trên đường về, bọn Đức bắn đạn cối trúng vào bọn tôi. Lúc đó chúng tôi đã về rất gần chiến hào của mình rồi. Những phát đạn nổ rất gần. Một phát sượt sát cạnh. Một phát khác bắn trượt phía trước. Tôi nói: "Malưsev, chạy mau!" Tại sao cậu ấy không làm theo nhỉ? Tôi cũng không biết nữa. Hoặc cậu ấy đã bị thương hoặc bị ù tai mất rồi. Tôi kéo mạnh chân cậu ấy, "Đi nào!" Tôi không nhớ điều gì xảy ra tiếp theo. Tôi chỉ tỉnh lại trong chiến hào khi đạn bắn đã ngớt. Mọi người nói: "Một phát đạn nổ trúng cả hai cậu". Tôi mặc một áo giáp ở dưới chiếc telogreika và áo choàng. Anh biết không, chiếc áo choàng của tôi bị xé tung, nhưng tôi không bị một vết trầy nào. Malưsev bị xé rách chân phải. Tại sao chúng tôi không chờ tới trời tối nhỉ? Đại đội trưởng đã bảo chúng tôi, "Hoàn thành nhiệm vụ và quay về lập tức. Bằng không, các cậu sẽ chết. Bọn Đức sẽ bò tới và giết các cậu." Chúng tôi đem theo một khẩu súng chống tăng, một khẩu Nagan và một khẩu tiểu liên với chỉ một băng đạn. Malưsev không mang nhiều hơn, cậu ấy tin chắc mọi sự đều sẽ tốt đẹp. Tôi được nhận một phần thưởng khi kết thúc chiến tranh, huy chương "Vì Dũng cảm", nhờ chiến công ấy. Đúng ra, tất cả những ai từng bắn hạ xe tăng đều xứng đáng được thưởng 500 rúp và Huân chương Sao Đỏ. Tất nhiên, phần thưởng trước tiên và tuyệt nhất vẫn là "Vì Dũng cảm" và kế tới là Huân chương Vẻ vang.

Khi hoàng hôn xuống, hầu hết chiến sĩ đại đội chúng tôi đều đã hy sinh. Lúc khởi đầu, chúng tôi có 60 người tức 30 khẩu súng chống tăng (một đại đội chống tăng của trung đoàn). Giờ chúng tôi chỉ còn lại khoảng một chục khẩu đội. Chỉ huy trung đội cũng bị giết. Một tuần trôi qua và chúng tôi nhận được tiếp viện lấy từ những người địa phương, thuộc lứa sinh năm 1926-1927. Tất cả đều được gọi nhập ngũ và chuyển tới mặt trận. Chúng tôi gọi họ là "sơmi đen", do họ mặc đồ màu tối và áo khoác lính màu xám. Họ vẫn chưa được nhận quân phục.

Rồi chúng tôi tiến xa hơn và tới trú trong những hầm trú ẩn được đám công binh đào sẵn. Họ đã làm hết sức mình, hầm được lót tới hai hay ba lớp gỗ. Tại đó tôi đã bị "giập". Khi tôi tỉnh lại, không còn ai bên trong và một góc hầm đã bị sụp. Tôi không báo cáo lại cho trạm quân y. Tôi không hiểu đó là một trận oanh kích hay do cái gì khác. Hình như kho đạn pháo của bọn Đức lúc đó đã gần cạn. Có lẽ là một quả bom.

Chúng tôi tiến xa hơn. Lại là hành quân đêm. Trăng sáng vằng vặc. Máy bay trinh sát của bọn Đức bay liên tục. Tất nhiên, khi "Cái khung" ấy xuất hiện, chúng tôi nhận được lệnh "Halt!". Khi bọn Đức bay đi, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Đây là lúc tôi nhận được một người trợ thủ mới. Chúng tôi tiếp tục đi như vậy cho tới khi cả hai rơi vào một hố bom. Nó chứa đầy nước, cao ngang mức mặt đường, và rất sâu đến nỗi đầu tôi ngập trong nước. Chúng tôi chật vật ngoi lên và được đưa tới trạm quân y. Họ kiểm tra trợ thủ của tôi, đo nhiệt độ và khám tổng quát, rồi thả ra. Tôi thì bị giữ lại. "Bị giập." Tôi bị đau tai và kèm theo là phát âm khó. Tôi được đưa tới bệnh viện và phải nằm đấy hai tuần. Rồi các cậu ấy bắt đầu bàn: "Sao chúng ta phải nằm đây? Hãy đuổi theo đơn vị của mình. Ở đấy vui hơn." Bọn tôi có sáu mống cả thảy. Chúng tôi đánh lừa y tá của mình để họ trả lại quân phục. Rồi chúng tôi nói: "Tạm biệt nhé, Masha!" "Đám nhóc các anh đi đâu?" "Tới mặt trận, đuổi theo đơn vị của mình" "Tôi sẽ báo cáo lên trên!" "Cứ làm đi".

Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko
Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko
Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Vladimir Zimakov
Zimakov

Phần 2
Đội trinh sát

Vladimir Zimakov (bên phải),
tháng Ba năm 1945, Budapest.

Lúc đó đang dịp Lễ Phục Sinh. Chúng tôi tiếp tục tiến bước và một ngày kia có mặt tại một ngôi làng. Bà chủ nhà nơi chúng tôi ở lại làm rất nhiều món ngon cho ngày lễ: khoai tây rán, mamalưga (cháo yến mạch, nấu theo kiểu Moldova). Bà ta cũng đặt lên bàn cả đùi lợn sấy, mỡ lợn muối cùng mọi thứ đồ nhắm làm từ dưa chuột và cà chua. Bà ta còn đem ra cả một chai gorilka (rượu mạnh trong tiếng Ukraina). Ôi chà chà! Thế mới là lễ chứ! Chúng tôi chưa gặp cảnh nào tuyệt như thế trong suốt hàng bao nhiêu năm trời! Chúng tôi vừa uống một ngụm nhỏ thứ rượu gorilka Ukraina ngon tuyệt đó là lăn ra ngủ tít trong hai ngày trời.

Đã tới lúc phải tiếp tục lên đường. Bốn người trong nhóm dường như đã có một kế hoạch gì đó. Họ bảo chúng tôi: "Cứ đi trước đi, chúng tớ sẽ bắt kịp các cậu sau." Hai người chúng tôi rời căn nhà và đứng chờ họ ngoài đường, bởi chúng tôi cũng chẳng biết đi đâu nữa. Chúng tôi chờ mãi, chờ mãi nhưng các bạn tôi vẫn không thấy xuất hiện. Rồi có một anh chàng vận đôi giầy ống cao của Đức, cổ đeo một khẩu tiểu liên Đức đi tới. Anh ta hỏi :

- Này, các cậu kia, thuộc sư đoàn nào thế?

- 202.

- À, "Sư đoàn tụt hậu"! Hãy tới Sư 180 tham gia đội trinh sát của chúng tớ!

- Làm sao được? Chúng tôi là xạ thủ chống tăng cơ mà!

- Quỷ tha nó đi! Thôi bắn vào mấy cái xe tăng đi! Hãy tham gia đội trinh sát chúng tớ, chỗ chúng tớ nhiều trò vui lắm!

Đó là cách tôi tham gia trung đội trinh sát đặc biệt số 90 của Sư đoàn 180. Tôi báo cáo lên trung đội trưởng là mình tới từ trung đội chống tăng của Trung đoàn bộ binh 645, Sư đoàn 202. Anh ta hứa sẽ báo cáo lại với họ rằng tôi đã bắt đầu phục vụ trong đơn vị của anh ta kể từ giờ phút này. Thật đơn giản.

Bọn Đức đang cố chọc thủng chiến tuyến của quân ta ở vùng Pochaevcy-Shurzhency và sư đoàn 202 và 180 chúng tôi phải trải qua một thời gian khốn đốn. Nhưng chúng tôi cũng đã bắt bọn Đức phải trả giá đích đáng.

Ồ! Khi chúng tôi kết thúc chiến dịch Korsun-Schevchenkovsky, ở đấy chất đống những thây người và ngựa. Thật là một cơn ác mộng! Nhất là tại một hẻm núi. Kinh khủng! Đạn Katusha bắn vào đấy, hai hoặc ba lần gì đó và trộn tung mọi thứ lên!

Vào mùa xuân năm 1944, bọn Đức chặn đứng đợt tấn công của chúng ta ở gần Yassy (ngày nay là Iasi). Đội trinh sát chúng tôi đã xuất hiện ở ngoại ô Yassy nhưng bọn Đức đã đẩy lui chúng tôi bằng xe tăng. Chúng lấy đâu ra những cái xe tăng ấy? Dường như chúng đã bỏ lại tất cả xe cộ ở thành phố Uman và vùng ngoại ô rồi cơ mà?! Hãy xem, ngay đường sá lầy lội cũng không chặn bước được chúng! Chúng tôi thường bị dừng lại vì bùn lầy, còn chúng thì không! Hay chúng có thêm viện binh? Dù sao đi nữa, chúng cũng đã đẩy lùi chúng tôi khoảng 15 - 25 km khỏi Yassy bằng xe tăng. Chúng tôi đã phải dừng tại đó mãi cho tới tháng Tám.

Chúng tôi thường tiến hành trinh sát mỗi ngày một cách: có hôm thì đi bộ, hôm khác lại cưỡi ngựa. Chúng tôi mặc vatnik (áo choàng lót bông vạt ngắn - Anton Kravchenko) và quần lót bông quanh năm suốt tháng, mặc cho đang là mùa hè hay mùa đông. Chúng bảo vệ chúng tôi khỏi mảnh đạn rất hiệu quả. Khi một mảnh đạn bay được hơn 100 mét, nó chỉ xé rách nổi lớp vải lót, không hơn. Nếu quả đạn nổ cách anh khoảng 30 thước, nó cũng sẽ chỉ làm xước da anh, thế thôi. Nhưng tất nhiên là nếu nó nổ ngay cạnh anh - ồ, anh bạn ạ, sẽ không có gì cứu nổi anh! Nó sẽ biến anh thành cái rây bột, dù anh có mặc gì đi nữa. Chúng tôi cũng có áo chống đạn. Chúng không nặng lắm và chỉ dày khoảng một ly rưỡi. Tôi có một cái khi còn ở trong trung đội xạ thủ chống tăng. Tất nhiên, chúng có tác dụng làm ta yên tâm hơn là thực sự hữu ích. Chúng tôi không được cấp áo choàng ngụy trang, chỉ là quân phục dã chiến bình thường. Bọn Đức thường mặc áo choàng ngụy trang tiệp màu đất. Tôi chưa từng thấy thứ nào như vậy trong quân đội ta. Do thế, chúng tôi mặc áo nguỵ trang của Đức. Đôi lúc, khi vừa trở về sau một chuyến trinh sát, chúng tôi thường nghe lính phe mình hét: "Bọn Đức!" Và chúng tôi đáp lại, "Nhìn lại đi, lũ ngốc! Chúng tớ đây! Chúng tớ vừa đi qua đây mà!" Chúng tôi phải quay trở về đúng chỗ chiến tuyến đã xuất phát ban đầu để không bị hạ bởi chính phe mình.

Bọn trinh sát Đức cũng không ngốc, chúng thường bắt cóc lính ta để lấy tin tức về cách bố trí quân ta. Đám trinh sát chúng tôi học được rất nhiều từ bọn Đức. Tôi muốn nói tới cách ngụy trang, nghệ thuật chiến tranh và những mánh lới đặc biệt của chúng. Chúng là những người rất chính xác, không khi nào bắn nhiều đạn hơn cần thiết. Chỉ trừ những phát bắn trượt! Mặt khác, khi chúng xác định được vị trí tập trung quân ta, chúng không hề quan tâm tới số lượng đạn và thủ pháo. Ngay khi chúng bắt đầu nã đạn, chúng tôi phải cố gắng trườn tỏa theo mọi hướng trước khi chúng giết chết được tất cả mọi người.

Một lần chúng tôi lọt phải ổ phục kích của bọn Đức. Chúng tôi đang trườn đi như sau: một người dẫn đầu cả nhóm và hai người khác ở hai bên. Và người đầu tiên đã lọt vào ổ phục kích. Anh ta bị giết chết. Không nghĩ ngợi lâu la, chúng tôi đưa ổ phục kích đó xuống địa ngục! Ngay lập tức, chúng bắt đầu bắn lựu đạn vào chúng tôi. Ôi Trời ơi! Thật là kinh khủng khi chúng bắt đầu bắn vào cùng một điểm từ mọi phía. Không trốn vào đâu được! Bạn phải tìm cho bằng được bất cứ cái lỗ nào để rúc đầu vào. Nhưng chúng tôi cũng phải cố thoát khỏi nơi ấy bằng bất cứ giá nào. Hai người của chúng tôi bị thương trong vụ ấy, nhưng chúng tôi đã vác được họ về. Chúng tôi không bao giờ bỏ những người chết và bị thương lại chiến trường.

Những người được chọn vào đội trinh sát đều là những chàng trai rất tuyệt! Tôi là một tay đụt và không thể đối phó với một thằng Đức được nên luôn được bố trí trong toán cảnh giới của nhóm trinh sát. Nhưng trong nhóm trinh sát của chúng tôi có những tay rất khá! Ví dụ như hai gã trai thuộc trung đội trinh sát của trung đoàn, Fomichev và Alexandrov. Họ là những chàng trai rất thông minh. Họ có thể đi cặp cùng nhau và bắt về một tên Đức! Đấy là cả một câu chuyện. (Trong một lần chúng tôi tiến hành trinh sát) Chúng tôi đã lặng lẽ bò được một lát, cuối cùng trông thấy hai thằng lính gác Đức đang đi tới đi lui trong chiến hào. Chốc chốc chúng dừng lại để quan sát suốt dọc chiến hào. Rồi lại tiếp tục đi. Bọn chúng có một chòi canh có bố trí đại liên. Đối lại, phía chúng tôi có Fomichev và Alexandrov, những người luôn được phân công cùng đi với chúng tôi trong những nhiệm vụ đặc biệt phức tạp. Họ bảo: "Chúng tớ sẽ lặng lẽ hạ thằng này. Cậu nào nhận nhiệm vụ hạ thằng còn lại?" Vâng, chúng tôi có những chàng trai như thế đấy. Khi bọn gác tách khỏi nhau, các chàng trai của chúng tôi sẽ hạ gục chúng trong khoảnh khắc! Hề hề! (Cười)

Artem Drabkin: Các ông có phải trải qua khóa huấn luyện nào trong thời gian rảnh rỗi không?

Khi chúng tôi đang phòng ngự, chúng tôi được gặp một huấn luyện viên, một viên trung uý vạm vỡ, khoảng 25 tuổi. Anh ấy dạy chúng tôi một số miếng võ ju-jitsu: miếng khóa, miếng đá hậu, cách quật ngã đối phương. Anh ấy cũng dạy cách sử dụng dao và cách đoạt dao khỏi tay đối phương. Ở đấy tôi cũng được học cách cưỡi ngựa: cách cưỡi, cách chém đứt một cành liễu (đây là bài tập của kỵ binh để học cách sử dụng gươm).

Trung đội chúng tôi nằm dưới sự chỉ huy của một thượng sĩ. Chúng tôi đặt cho anh ta biệt danh là Kochubey (tên một anh hùng nổi tiếng thời kỳ nội chiến Nga) do bộ râu mép ấn tượng màu lúa chín và chỏm tóc trên trán anh ta. Anh ta mặc trang phục Kazak cổ truyền và đội cái mũ kubanka (loại mũ lông tròn, không vành - Anton Kravchenko) với cái chóp đỏ. Sư đoàn trưởng thường bảo anh ta: "Sao anh cứ lượn lờ như một con gà trống vậy? Mặc ngay bộ quân phục vào. Chúng tôi không có những tay Kazak ở đây!" Nhưng Kochubey không thèm nghe lời ông ta. Rồi anh ta mất tích ở nơi nào đó và chúng tôi được nhận một chỉ huy mới, trung uý Petr Domozhir, người thành phố Nizhnưi Tagil, hiện là bạn tôi, sinh năm 1925. Anh ấy đã phục vụ ở độâi trinh sát trong suốt chiến tranh. Anh đã được tặng ba Huân chương Cờ Đỏ và một Huân chương Lênin. Anh ấy bị thương nặng trong một chuyến trinh sát và đã không quay lại đơn vị sau khi rời bệnh viện. Chúng tôi nghe nói lại rằng anh ấy được phong Ngôi sao Anh hùng Xô viết và chuyển về huấn luyện ở Maskva.

Artem Drabkin: Các ông thường vượt qua chiến tuyến bao xa?

Không xa lắm. Chúng tôi đi dọc theo chiến tuyến và lọt ra sau nó, không hơn 8 km.
Artem Drabkin: Khi đi trinh sát các ông hay sử dụng loại vũ khí gì?

Một khẩu tiểu liên và lựu đạn, loại "quả chanh" (loại F1 - LTD). Chúng tôi đem theo rất nhiều "quả chanh": ba quả ở thắt lưng và khoảng mười quả trong balô. Và chúng tôi lấy càng nhiều đạn càng tốt. Chúng tôi phải đem theo rất nhiều đạn.

Artem Drabkin: Các ông có sử dụng dao không?

Tất nhiên, có chứ. Ban đầu tôi dùng một con dao loại thường. Nó trông thô nhưng khá sắc. Rồi trong một đợt tấn công, tôi thấy một tên Đức nằm chỏng chơ - một gã tóc đỏ to cao. Tất nhiên, viên đạn có thể bắn trúng tất cả mọi người, nó đâu thèm quan tâm tới chuyện người ấy cao hay thấp. Tôi thấy hắn có một con dao tốt và tôi cắt lấy nó cùng cái bao đựng dao khỏi cái thắt lưng của hắn. Khi ta phóng con dao ấy, mũi dao luôn hướng về phía trước. Nó sắc tới mức ta có thể dùng nó cạo râu được!

Artem Drabkin: Ông đã giết được bao nhiêu lính Đức?

Thường tôi giết chúng mà không đếm. Hãy xem, anh bắn vào hắn trong một trận đánh và thấy hắn ngã xuống. Thế nhưng làm sao anh biết được như thế là hắn đã chết hay chỉ cúi xuống ẩn nấp? Tất nhiên, đôi lần anh thấy rõ được mình đã bắn trúng hắn.

Mắt tôi tinh lắm. Khi đi trinh sát, tôi thường làm người canh chừng. "Valodka, quan sát cẩn thận nhé." Tôi nhìn rõ ban đêm như một con mèo. Mục đích chính là phát hiện ra mìn. Sợi dây gài quả mìn căng rất thấp trên đám cỏ. Ngay khi bọn Đức bắn một quả pháo sáng, ta nên dừng lại và quan sát. Ồ, nó đấy, một sợi dây rất nhỏ, ngay phía trước mặt bạn!

Artem Drabkin: Thường bọn Đức xử sự thế nào khi các ông bắt chúng?

Chúng kháng cự lại, tất nhiên. Sức mạnh của một con người tăng gấp ba trong thời khắc nguy hiểm. Nhưng không tên Đức nào có thể thoát khỏi những anh chàng Fomichev và Alexandrov khoẻ như sói của chúng tôi! Không một ai! Không cách nào! Và vấn đề không phải ở chỗ tên Đức khoẻ như thế nào. Chúng tôi trói chúng thế nào ấy hả? Kiểu thông thường - bẻ quặt tay ra sau, nắm tóc kéo đầu ra sau lưng, cách ấy làm tên Đức bất tỉnh trong khoẳng khắc. Điều cốt yếu là giữ tay hắn cách xa khẩu súng và con dao.

Artem Drabkin: Bọn Đức có cạo trọc lính của chúng không?

Không, chúng để tóc dài bình thường, đôi khi cắt ngắn. Trên thực tế, bọn Đức là những kẻ chính xác và cẩn thận. Nhưng có đôi lần chúng tôi đã hạ được chúng một cách bất ngờ. Tôi còn nhớ chúng tôi đã nổ tung một hầm trú ẩn của chúng như thế nào. Chúng tôi tìm cách lặng lẽ tiến gần chúng. Bọn lính gác đang ngủ quên. Chúng tôi trói tay, bịt miệng chúng rồi ném cả hai qua bờ chiến hào. Rồi tay công binh của chúng tôi mở ra một lối an toàn và chúng tôi ném lựu đạn vào trong hầm. Sau đó hai người trong bọn tôi đột nhập vào hầm và nã tiểu liên dọc những cái giường tầng. Có thể còn vài thằng Đức sống sót sau đòn đó, tôi không chắc lắm. Khi chúng tôi trên đường trở về, bọn Đức bắt đầu bắn trả bằng súng cối, súng máy và phóng lựu đạn (Chúng có một loại lựu đạn có thể gắn vào nòng súng trường và phóng đi nhờ một viên đạn không có đầu. Chúng tôi cũng dùng cách đó. Quả lựu đạn bắn đi bằng cách đó có thể xa tới 50 mét). Chúng tôi chật vật mới thoát được. Lần ấy tôi bị dính một mảnh đạn vào chân. Thật may tôi lại đang mặc cái quần lót bông.

Thật ra, tôi đã bị thương ba lần và bị giập thương một lần. Dù vậy, tôi không được nhận một tờ giấy chứng thương nào, bởi tất cả các vết thương đều nhẹ và trong trung đội có tay cứu thương riêng chữa trị cho chúng tôi. Cậu ấy tới từ Osetia (thuộc vùng Caucasus) tên là Sasha Gevorkov, nếu tôi nhớ không lầm. Cậu ấy cũng kiêm nhiệm vụ phiên dịch, bởi cậu ta rất giỏi tiếng Đức. Cậu ấy chữa trị cho chúng tôi. Vết thương đầu tiên tôi bị ở chân. Các bạn tôi cắt và vứt bỏ chiếc ủng cao cổ. Sasha lấy mảnh đạn ra khỏi chân và rửa sạch vết thương bằng cồn rivanol. Cậu ta bảo: "Valodka, hãy ra canh lũ ngựa (bởi đó là một công việc nhẹ nhàng). Cậu cứ đi lại như thế trong vài tuần và vết thương sẽ tự khỏi." Rồi tôi bị trúng một viên đạn vào xương gót chân. Nó xé toạc bàn chân, xuyên qua da thịt và dừng lại ở xương. Cậu ấy nói: "Nếu nó đau dữ dội thì có nghĩa là xương bị gãy. Tớ đã lấy viên đạn ra. Trong trường hợp chân bị mưng mủ, tớ sẽ phẫu thuật và rửa sạch cho cậu." Nhưng mọi chuyện kết thúc tốt đẹp, vết thương đã tự lành như một vết muỗi đốt (nguyên văn: "như một vết thương của chó" - LTD).

Rồi cậu ấy bị giết. Chúng tôi trở về chiến hào phe mình sau một lần trinh sát. Sasha đâu rồi? Viên chỉ huy nói: "Hai người các cậu đi đưa cậu ta về." Lúc ấy bọn Đức đã ngưng bắn. Khi được đồng đội đưa về, cậu ta đã chết. Lúc đầu chúng tôi không tìm được vị trí vết thương. Rồi có ai đó cởi thắt lưng cậu ta và cả một khối máu ộc ra từ dưới áo sơmi. Hóa ra một mảnh lựu đạn đã cắt đứt động mạch dưới nách cậu ấy. Chúng tôi rất thương tiếc bởi cậu ta là một tay rất tốt, sinh năm 1920.

Tôi nhớ rất rõ một chuyến trinh sát trước khi mở màn đợt tấn công. Chúng tôi đã đi tới hai lần. Nỗ lực đầu tiên của chúng tôi thất bại, nhưng lần thứ hai thì thành công. Chuyện này xảy ra khoảng ngày 15 - 16 tháng Tám, ở gần thành phố Yassy. Khi chúng tôi đi lần đầu tiên, trung đội trưởng của chúng tôi rất sợ. Anh ta không dám dẫn chúng tôi đi xa và chúng tôi quay về khi đang lọt giữa các sư đoàn bọn Đức. Dù vậy anh ta báo cáo là chúng tôi đã đi tới đây, tới kia vào lúc này, lúc này (dù chúng tôi không hề làm vậy). Anh ta báo cáo là tất cả các mục tiêu đều bị canh gác cẩn thận. Tất nhiên, anh ta bị cách chức và bị đưa tới một nơi nào đấy không rõ. Đó là một trường hợp tồi tệ. Tất cả các trường hợp như vậy đều bị xử lý bởi SMERSH. Sau đợt trinh sát thất bại ấy bọn Đức canh chừng thận trọng hơn. Chúng canh gác mọi địa điểm nằm giữa các sư đoàn của chúng bằng các đội tuần tra và các ổ phục kích. Thật là một cái bẫy chằng chịt khó qua lọt! Chúng tôi được lên kế hoạch đổ bộ bằng đường không. Thế rồi một lính trinh sát của trung đoàn báo lại rằng anh ta đã tìm ra một vị trí từ đó chúng tôi có thể băng qua chiến tuyến.

Và rồi chúng tôi đã vượt qua thật dễ dàng mà không gây một tiếng động. Nếu chúng tôi gây động, bọn Đức chắc chắn sẽ không để chúng tôi qua lọt. Cùng tối hôm đó chúng tôi tới được sở chỉ huy sư đoàn của bọn Đức. Bọn chúng thật bất cẩn: trong hậu phương chúng sinh hoạt như thể chúng hoàn toàn kiểm soát được tình hình vậy. Thậm chí chúng còn cởi quần áo mà ngủ. Không cứ ở hậu phương, chúng ngủ như thế cả ngoài chiến trường! Chúng tôi gặp như thế đã nhiều lần. Ngay sau khi chúng tôi nã đạn, chúng tôi thấy bọn Đức chạy túa ra để lấy vũ khí với chỉ độc đồ lót trên người. Chúng sống ngoài mặt trận mà cứ như trong thời bình vậy! Chúng tôi cứ mặc đầy đủ quân phục khi ngủ. Có vài người đi ngủ tháo ủng, nhưng hầu hết là không. Anh biết đấy, khi ta ngồi trong một cuộc phục kích hay đang trong chiến hào chẳng hạn. Đôi lúc anh có thể chợp mắt một chút, nhưng thường là anh bị rét run rất khó ngủ, nhất là vào mùa đông. Đôi khi hai người thay phiên nhau người ngủ người thức canh. Trong mùa đông anh sẽ không thể ngủ say được, bởi trời rất lạnh. Thêm nữa lũ bọ chét cũng sẽ không để anh ngủ yên.

Đội trinh sát chúng tôi có 16 người. Bốn người trong bọn đang tham gia một chiến dịch khác. Thế là đội chỉ còn lại 12 người. Vâng, Fomichev và Alexandrov của chúng tôi diệt tên gác, ném lựu đạn và nhờ thế xoá sạch cả trung đội trong sở chỉ huy địch. Họ nhét tất cả các tài liệu quan trọng vào balô, khống chế tên tướng Đức, vác hắn trên vai và mang tất cả những thứ đó chuồn đi. A ha, anh xem, chúng tôi đã chơi cho chúng một vố thế nào! Bọn Đức bắt đầu lùng sục từ những làng xung quanh đấy. Chúng tôi rời ngôi làng (nơi đặt sở chỉ huy Đức) và chạy vòng vòng quanh một cánh đồng ngô. Trung đội trưởng của chúng tôi là một tay rất khôn ngoan. Anh ta đưa chúng tôi một loại bột ngụy trang để xoa lên quần áo và giày ủng. Sau khi xoa bột, chúng tôi quay ngược lại dọc theo cánh đồng, nằm lì ở đó trong suốt ba ngày. Chúng tôi không được ăn uống cũng như hút thuốc. Anh bạn ạ, trời lúc đó nóng khủng khiếp! Chúng tôi rất khát, dù có đem theo một chút nước. Và chúng tôi phải tiểu tiện tại ngay chỗ nằm. Người ta chịu đựng được trong những hoàn cảnh như thế chỉ khi còn đang tuổi thanh xuân. Nếu chúng tôi rời khỏi chỗ đó, chúng tôi có thể bị bắt ở một nơi nào khác. Cuối cùng ba ngày trôi qua và người chỉ huy dẫn chúng tôi quay lại đúng ngay nơi mà chúng tôi đã xuất phát xuyên qua phòng tuyến. Đáng lẽ chúng tôi nên quay lại chếch về bên trái hay bên phải chỗ ấy một chút thì hơn. Bọn Đức đang đợi chúng tôi ở ngay chỗ ấy. Người sĩ quan chỉ huy ra lệnh cho tôi và Fedorenko: "Các cậu hãy tiến lên, còn chúng tôi sẽ chặn bọn Đức lại trong chốc lát." Họ đưa cho chúng tôi cái balô đựng giấy tờ tài liệu. Tên tướng phải ở lại với họ. Dù sao thì chúng tôi làm thế nào để đưa hắn về được? Còn họ đã làm gì hắn ấy à? Họ đâm hắn chết, tôi đoán thế. Trong bọn tôi có tay Pavljuk, hắn chẳng quan tâm tới việc hắn đang cắt cổ ai - một con gà mái hay một con người, huống hồ là một tên Đức. Vâng, cả hai chúng tôi đều sống sót. Pavel bị thương ở tay và chân trên đường về chiến hào của ta. Tôi không biết được điều gì đã xảy ra với những chàng trai còn lại. Sau đó tôi không gặp lại bất cứ ai trong bọn họ nữa. Người ta bảo là Fomichev và Alexandrov đã quay lại được đơn vị và tôi tin như vậy, bởi họ là những tay cáo già, lanh lợi thông minh và không bao giờ mất bình tĩnh. Nhưng kể từ đó tôi không có dịp gặp lại họ, bởi tôi đã chuyển lên phục vụ tại sở chỉ huy sư đoàn, mà họ lại thuộc trung đoàn đang tiến phía trước chúng tôi. Đấy thật là một chiến dịch thành công, bởi chúng tôi đã mang được về một khối lượng khổng lồ tài liệu quan trọng ngay trước khi đợt tấn công bắt đầu.

Khi các chiến sĩ của ta tiến công, Pavlik và tôi được lệnh đi áp giải bọn tù binh Đức. Chúng tôi áp giải chúng về hậu phương, khoảng 70 tên một lần. Chúng bước đi và tuân lệnh ngoan ngoãn như một lũ bê non. Chúng tôi thường dừng lại ở một ngôi làng và mọi người cho chúng tôi (tôi, Pavlik và bọn tù binh) thức ăn. Không tên tù binh nào có thể thoát khỏi tay tôi. Vâng, trừ có một lần. Tôi suýt nữa bị đưa vào tiểu đoàn trừng giới vì vụ đó. Đó là khi tôi đang phục vụ trong đơn vị thuộc sở chỉ huy. Một hôm tôi và Pavlik được lệnh cùng đi, nhưng rồi cậu ta lại bị chuyển đi làm chuyện khác.

Chỉ huy đơn vị trinh sát bảo tôi: "Zimakov, cậu phải áp giải bốn tên tù binh tới sở chỉ huy của quân đoàn. Chúng là những tên rất nguy hiểm - có Trời mới cứu được cậu nếu cậu để chúng trốn thoát!" Lúc đó là mùa thu và trời đã về chiều. Viên sĩ quan chỉ đường cho tôi. Tôi có thể dẫn chúng đi dọc con đường ôtô dài 15 km hoặc theo một con đường mòn dài khoảng 7 tới 8 km. Tôi chọn cách sau. Vâng, lúc đó tôi nghĩ: đây là khẩu tiểu liên, chúng sẽ không thoát khỏi tay mình. Thêm nữa, tôi lại đang cưỡi ngựa. Chúng thì đã bị lục soát, hoàn toàn không có vũ khí. Tay chân chúng được tự do, không bị trói.

Vâng, tôi đã áp giải chúng như thế và rồi chúng tôi đi qua một cánh đồng trồng hướng dương. Anh biết không, ở chỗ đó người ta trồng những cây hoa hướng dương rất cao! Và thình lình một tên tù binh quay lại bắn vào tôi bằng một khẩu súng ngắn! Ơn Chúa là con ngựa của tôi lại chồm lên ngay khi hắn quay lại. Tôi bắn lại hắn bằng khẩu tiểu liên. Đám tù binh còn lại chạy tán loạn theo mọi hướng : một tên bên trái và hai tên còn lại về bên phải. Tôi bắn và hạ ngục tên bên trái. Rồi tôi bắn vào hai tên còn lại. Thân cây hoa thì cao, đầu bọn chúng nhấp nhô giữa cánh đồng. Trời đang tối dần. Tôi nghĩ rằng mình nên cưỡi ngựa dọc theo dấu vết của chúng. Tên đã nổ súng nằm chết thẳng cẳng và tên chạy về bên trái cũng đã ngoẻo. Hắn không chạy được bao xa. Tôi tiến tới trước. Rồi tôi tìm thấy tên thứ ba. Tôi xuống ngựa để lục túi hắn. Hắn đã chết. Người còn ấm nhưng ngoẻo rồi. Tôi tiếp tục tiến, tay gò cương ngựa. Khẩu tiểu liên đeo trên cổ, sẵn sàng nhả đạn. (Loại tiểu liên Shpagin PPSh của ta rất nặng và có băng đạn hình đĩa cứ đập vào lưng khi đeo. Tôi thường khoác khẩu tiểu liên Đức cho tới khi điều đó bị cấm. Nhưng lính ta luôn sử dụng khẩu ấy trong khi trinh sát bởi chúng không bao giờ bị kẹt đạn. Khẩu PPS cũng là một khẩu súng tốt, nhẹ và dễ sử dụng.)

Tù binh Đức ở gần Minsk, 1944.

Trở lại câu chuyện, tôi tiếp tục đi theo dấu vết và bất ngờ nghe tiếng ai đó hét lên với tôi "Đứng lại!"

- "Tôi đang đứng đây," Tôi trả lời nhưng tay vẫn giữ trên khẩu súng.

- "Anh là ai?!"

- "Tôi đang áp giải tù binh. Đã hạ gục được hai tên và thêm một tên nữa đang nằm sau tôi. Một tên trong bọn chúng bắn vào tôi, nhưng con ngựa đã cứu tôi thoát."

- "Chúng tôi vừa tìm thấy một tên trong cánh đồng khoai tây, hắn đang cố nấp bằng cách nằm ẩn vào các luống khoai."

Đó là những người thuộc đơn vị cảnh vệ đối nội. Họ đem tên Đức bị thương đi và đưa tôi một tờ giấy trong có ghi rằng tôi đã buộc phải thanh toán bọn tù binh. Các đơn vị cảnh vệ đối nội ("zagradotrjad") là những lực lượng đặc biệt trực thuộc Dân ủy Nhân dân thuộc Cục Đối nội (từ 1935 tới 1945, sau đó được đổi tên - Anton Kravchenko). Họ chuyên tìm kiếm bọn đào ngũ, những kẻ được gọi là "binh lính thuộc Phương diện quân Ukraina số 5", những kẻ đang đi lang thang trong vùng hậu phương sau khi đã rời bệnh viện, nhậu rượu nặng trong các làng, và những kẻ khác tương tự như thế.

Có lần chúng tôi ăn trộm của một bà nông dân. Vụ đó xảy ra tại Ukraina. Bếp ăn bị tụt lại phía sau và chúng tôi đang rất đói. Mà cụ bà ấy lại kể: "Các con ạ, ta có một con ngựa non rất tốt mới hai tuổi. Bọn Đức đã lấy đi của ta nhưng Hồng quân đã trả nó lại." "Thế con ngựa đang ở đâu?" "Ở đây, trong chuồng ngựa." Đêm hôm đó hai gã ăn trộm trong bọn tôi trộm lấy con ngựa, dắt nó ra khỏi làng, bắn chết và đem nấu thịt. Bà già khóc quá chừng! Vâng, chúng tôi đã cho bà con ngựa khác khi rời cái làng đó.

Rốt cục tôi cũng không bị trừng phạt vì bốn tên tù binh đó. Tôi quay về sở chỉ huy sư đoàn và đưa cho họ tờ giấy.

-Tại sao anh không theo dõi bọn tù binh cẩn thận hơn?!

-Thế tại sao các anh lại giao cho tôi những tên như thế?! (Tại sao lại không kiểm tra xem chúng có mang vũ khí không, nhất là khi các anh biết rằng chúng nguy hiểm đến vậy?) Các anh đáng lẽ phải cho hai người đi áp tải chúng chứ! May cho tôi là con ngựa đã lồng lên, nếu không thì chúng đã khử tôi và trốn mất rồi.

- Dù sao anh để chúng trốn cũng là quá tệ rồi! - Anh ta cau mày.

Ngày 20 tháng Tám chúng tôi chọc thủng mặt trận của bọn Đức và tiếp tục tiến công. Toàn đội trinh sát hành quân phía trước sư đoàn khoảng 30 km. Đấy là khi Romania đầu hàng. Tôi cần nói rằng người Romania căm ghét bọn Đức. Người Hungaria thích bọn Đức, nhưng người Romania thì không, cũng giống người Nga chúng ta. Người Romania nghèo, rất nghèo. Gần Budapest chúng tôi tiến hành một đợt trinh sát cùng với sư đoàn trưởng. Trên đường đi chúng tôi bị một toán Ju-87 ném bom. Đấy là lúc tôi bị thương lần cuối cùng. Tôi được điều trị trong một bệnh viện nằm cạnh một tu viện gần thành phố Kiskunfelegyhaza.

Ba tuần sau, chúng tôi được tập trung vào một trung đội và gửi tới ngoại ô Budapest. Thành phố đang bị bao vây. Chúng tôi thuộc một lữ đoàn đột kích đặc biệt. Chúng tôi chỉ được giao cho pháo, đại liên và súng máy, thế thôi. Và chúng tôi thường được gửi tới những điểm yếu nhất trong vòng vây bao quanh Budapest. Khi viện binh tới nơi, chúng tôi lại di chuyển tới một vị trí khác, rồi lại một nơi khác nữa, cứ thế. Tới tháng Ba bọn Đức tiến hành một nỗ lực để thoát khỏi Budapest qua hệ thống cống ngầm dưới lòng thành phố. Lính Đức tiến lên như thác đổ. Chúng tiến tới mà không nổ súng, nhưng chúng tôi vẫn bắn vào chúng. Rồi chúng bắt đầu ném vũ khí xuống đất. Tôi không biết chính xác nhưng con số lính Đức bị giết rất lớn. Chúng tôi được nghỉ ngơi rồi tiếp tục tiến quân. Chúng tôi đã thấy nhiều giàn thiêu xác lính Đức trong một khu rừng, cứ năm cái gom lại trên một giàn. Có rất nhiều trận đánh nảy lửa diễn ra tại Budapest, không một căn nhà nào còn nguyên vẹn trong thành phố. Hầu hết đều bị hủy diệt! Khi chúng tôi nghỉ lại ở Pest (phần nằm bên kia sông Budo của thành phố Budapest - LTD.) chúng tôi được thấy toàn cảnh thành phố - toàn là đổ nát! Tất cả! Như trong một cơn ác mộng. Tóc dựng đứng trên đầu, có phải là do chúng tôi đấy không? Đúng, chúng tôi đã làm vậy, bởi bọn Đức đã chống lại. Rồi tôi gặp một người bạn thuộc đội trinh sát pháo binh. Anh ta nói:

- Đội trinh sát các cậu đã bị giết dưới lòng thành phố, trong hệ thống cống ngầm. Sư đoàn trưởng ra lệnh cho họ chiếm lấy một ngôi nhà và họ đâm đầu vào bọn Đức. Họ quét sạch bọn Đức nhưng cũng hi sinh hết.

- Tất cả mọi người sao?

- Đúng, kể cả những người lính trong đội đột kích nữa.

Ở Áo, gần thành phố Munich của Đức, chúng tôi được gặp những người lính Mỹ và Anh. Ban đầu chúng tôi uống với nhau suốt ba bốn ngày trời, thế rồi xảy ra một sự cố: cánh lính ta đả nhau với họ vì một người da đen. Một tay trong bọn họ (người Mỹ hoặc Anh) đá một người da đen, lính bên ta trông thấy và đứng về phía người đen. Thế rồi người chỉ huy an ninh thành phố gửi tới trung đội của ông ấy, làm dịu hai bên, xây lên một hàng rào ngăn chia quân đội các nước. Chúng tôi phải rời thành phố và cắm trại trong rừng.

Trên dãy Alps lính ta đã bắt được một lượng lớn lính Đức đang định trốn sang đầu hàng quân Đồng minh. Thật kỳ quái! Chúng tôi lục soát người những tên Đức ấy trong suốt một tuần lễ! Nán lại và lục soát chúng! Chúng tôi lấy tất cả vũ khí và đồ quý, mỗi tên lính Đức chỉ được giữ lại một chiếc nhẫn vàng. Rồi tới lượt chúng tôi bị quân ta lục soát.

Artem Drabkin: Ông có gửi bưu phẩm về nhà không?

- Tôi có gửi về một gói từ thành phố Galatz (nay là Galati). Nó chứa một chiếc đồng hồ nữ và một cái dây chuyền. Tôi cũng gửi về một chuỗi đá màu. Tôi đã tìm được nó, có thể nói như thế. Không thứ nào trong số đó được nhận cả (bởi gia đình tôi). Tới gần Viên, tôi mắc bệnh sốt rét và phải vào bệnh viện. Đúng lúc đấy chiến tranh chấm dứt.

Artem Drabkin: Điều gì là tệ nhất ngoài mặt trận?
- Tìm cách sống sót sau một trận ném bom. Ta sẽ không bao giờ biết được nó nổ chỗ nào. Anh có thể núp vào một chiến hào nào đó, nhưng một quả bom đã nhắm trúng anh và thế là tất cả tay chân ruột gan anh văng tung tóe khắp nơi. Chúng tôi bị ném bom rất nhiều lần. Chủ yếu do chúng luôn chọn lúc máy bay ta vắng mặt. Anh sẽ nghĩ: "Máy bay của ta đâu rồi? Bị hạ hết rồi sao?" Và trong lúc đó lũ máy bay Đức đang bổ nhào xuống ném bom, ném bom, hết đợt này đến đợt khác. Mặt đất rung chuyển! Chúng làm như vậy từ 10 tới 15 phút rồi bỏ đi. Vâng, máy bay ta cũng làm chúng nhức đầu y như vậy. Khi tôi tới trạm quan sát của quân ta, tôi trông thấy các máy bay cường kích mặt đất của ta bổ nhào và bắn rốc két trúng ngay vào chiến hào bọn Đức. Một thứ khủng khiếp nữa là những tiếng nổ, thứ mà người ta gọi là "Vanusha", loại súng cối sáu nòng của Đức! Khi chúng bắt đầu rít lên, tất cả mọi người đều biết điều gì sắp xảy ra và vội nấp thật sâu vào các chiến hào.

Artem Drabkin: Các ông tắm rửa và giặt giũ bằng cách nào?

- Không, tôi nhớ không lần nào chúng tôi đi tắm vào mùa đông. Vào mùa hè thì có, mùa hè chúng tôi có tắm rửa. Chúng tôi tắm hơi. Tôi nhớ lại có lần chúng tôi dừng chân bên bờ một con sông có tên là Zhizha (nghĩa là "Bùn loãng" - Anton Kravchenko) (tên đúng của con sông là Jijia). Lúc đó tôi đang ở đội trinh sát. Nước sông có màu vàng, nhưng con sông có một nhánh nước rất sạch. Các chàng trai chúng tôi thường đắp một con đập ngang qua nhánh sông và chúng tôi tắm trong cái đầm ấy. Còn nói về giặt giũ, chúng tôi thường dùng phương pháp sau : chúng tôi lấy một cái nồi kim loại to, đổ vào ba tới bốn gầu nước và chàø quần áo của mình trên cái nồi ấy. Sau đó chúng tôi đậy cái nồi bằng một cái vung hay một cái áo lông cũ và nhóm lửa dưới nồi. Không một con rận sống sót được dưới sức nóng ấy! Và ta có thể mặc lại áo và dùng tiếp nó trong vài tháng.

Artem Drabkin: Ngoài mặt trận có khi nào ông bị ốm không?

- Có chứ, đôi lúc, nhưng rất ít. Người ta thường bị cảm hết lần này đến lần khác. Một người ốm nằm trên giường mất ba hay bốn ngày và rồi lại xuất hiện bình thường. Cứu thương đôi khi tới hỏi: "Ở đây có ai bị ốm không?" Thế thôi. Khi anh còn trẻ thì anh luôn luôn khỏe mạnh.

Artem Drabkin: Khẩu phần các ông gồm có gì?

- Cháo đậu nấu đặc. Có một loại bánh khô nhỏ, được nấu thành súp khi bỏ vào nước sôi. Chúng tôi cũng được phát bánh bột kiều mạch, chúng chứa mỡ hoặc margarine. Anh đổ nước sôi vào nó và thế là bữa ăn đã sẵn sàng. Đôi người ăn chúng mà không cần nước, không cần nấu. Khẩu phần như thế cũng không tồi, hiểu thế nào cũng được. Đôi khi chúng tôi không được phát gì cả và cũng không cách nào để chuyển thức ăn tới chúng tôi, do đang có ném bom hoặc pháo kích xung quanh! Và nếu trung sĩ quân nhu của ta lại là một thằng nhát gan thì ta sẽ cứ thế mà nhịn đói! Thực ra, ban đêm chúng tôi luôn nhận được chút thực phẩm. Khi ở ngoài chiến tuyến, chúng tôi được phát thức ăn nóng ít nhất mỗi ngày một lần.

Artem Drabkin: Lúc còn ở đơn vị cũ ông có được cấp ống ngắm cho súng chống tăng không?

Không. Thật ra, những loại súng ấy không hiệu quả lắm khi bắn ở tầm xa. Nó hiệu quả khi bắn trong khoảng cách từ 200 tới 300 mét, thậm chí có thể tới 500 mét. Anh có thể trông rõ chiếc xe tăng: anh nổ súng và khoét vào nó một cái lỗ! Nhưng nếu ở khoảng cách xa hơn thì viên đạn không xuyên thủng được vỏ thép xe tăng.

Artem Drabkin: Ở ngoài mặt trận ông có tin vào bùa chú không?

- Tôi không biết nữa. Vài người có đeo bùa, còn tôi thì không. Nhưng những lúc đang căng thẳng quyết liệt thì tôi lẩm nhẩm trong đầu, "Lạy Chúa hãy phù hộ con! Lạy Chúa hãy cứu con!" Thế đấy!

Phỏng vấn: Artem Drabkin-Anton Kravchenko
Dịch từ Nga sang Anh: Anton Kravchenko
Chỉnh sửa bản tiếng Anh: Claire Fuller Martin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
BRAIKO PETR

Braiko Petr. Anh hùng Liên Xô. Tham gia bảy trận tập kích của binh đòan (brigade) du kích do S.A.Kovpak chỉ huy. Với mơ ước từ bé là trở thành phi công chiến đấu, ông tốt nghiệp Trường Thông tin Biên phòng Maskva và vào ngày 22 tháng Sáu đã tham gia đánh trả quân xâm lược Quốc xã trên tuyến biên giới Liên Xô-Rumani. Bắt đầu chiến đấu từ ngày 22 tháng Sáu năm 1941 với vai trò là chiến sĩ biên phòng Xôviết canh gác biên giới với Rumani. Đã chứng kiến bi kịch lực lượng Xôviết bị bao vây và đánh tan gần Kiev. Trải qua nhiều năm họat động sâu trong hậu phương địch. Được dẫn dắt bởi những chỉ huy du kích Xôviết nổi tiếng tại Ukraina là S.A.Kovpak, S.V.Rudnev và P.P.Vershigora.

Ông đang ở đâu khi chiến tranh nổ ra?

Tôi là một người lính biên phòng, vì thế tôi phục vụ tại vùng biên giới khi bọn Quốc xã xâm lược Liên Xô lúc 4 giờ sáng ngày 22 tháng Sáu. Tôi thuộc đơn vị biên phòng số 97 đóng tại chốt biên giới 13 thuộc thị trấn Chernovtsy. Lãnh thổ Tây Ukraina được sáp nhập vào Liên Xô năm 1939, do đó chúng tôi cần cải thiện tình hình an ninh tại chốt biên giới của mình. Đường biên giới đi ngang qua một vùng rừng núi phong cảnh rất đẹp. Khi được chuyển tới chốt năm 1940, tôi đóng lon thiếu úy. Điều đầu tiên tôi phát hiện là các bạn đồng đội biên phòng của mình đã có trong tay 9 tới 12 năm kinh nghiệm, trong khi thời gian nghĩa vụ yêu cầu chỉ là 3 năm! Lý‏‎ do là mỗi khi thời hạn nhập ngũ vừa hết thì họ lại nộp đơn xin tăng hạn. Họ không thể rời chốt, nó tựa như một gia đình đối với họ.

Lính biên phòng đi gác theo từng tổ hai người: một tổ đi theo lối mòn, một tổ khác vào vị trí phục kích, một tổ tới bãi trống quan sát, một tổ nữa - tới chốt thông tin liên lạc. Chỗ chúng tôi có trung sĩ Zưkin, anh ấy phục vụ đã được 11 năm. Đối với tôi, một thiếu úy, anh ấy là một chuyên gia, bởi anh biết tường tận mọi việc. Vì thế tôi bảo anh: "Cậu giúp tớ học hỏi kinh nghiệm nhé?" và anh đáp: "Được". Tôi vẫn còn nhớ rất rõ về anh, anh hướng dẫn tôi mọi kỹ năng cơ bản trong suốt nửa năm trời, một số chuyện không thể hình dung nổi trong bất kỳ ngôi trường hay học viện nào.

Năm 1941 chứng kiến những vi phạm không ngớt vùng biên giới. Chúng tôi không được tiếp viện và đụng độ bùng lên đêm nào cũng có. Hàng đêm xuất hiện những kẻ xâm nhập và chúng tôi bắt được hầu hết. Những tên nào đã vượt qua không cho thấy có dấu hiệu gì nguy hiểm. Thời kỳ ác liệt nhất là vào tháng Năm 1941, khi bọn điệp viên đó bắt đầu quay ngược trở về (phía địch - LTD). Chúng tôi bắn hạ chúng ngay tại chỗ trong trường hợp không thể bắt sống được.

Ngày 22 tháng Sáu chúng tôi phải chịu đựng pháo bắn dữ dội, và rồi là bọn bộ binh cơ giới. Không có xe tăng, địa hình ở đây không cho phép chúng họat động. Một đồn biên phòng là một đơn vị nhỏ khỏang 50-75 người, phải bảo vệ một khu vực 20-25 kilômét biên giới. Nhưng việc bảo vệ biên giới lại rất khác với việc phòng thủ biên giới. Năm mươi lính biên phòng trang bị súng trường và lựu đạn chẳng có tác dụng gì. Chỉ những sĩ quan mới được trang bị tiểu liên. Và vũ khí cũng không được tốt. Lính biên phòng chưa bao giờ được huấn luyện để đánh xa. Họ thường để kẻ thù tới gần và ra đòn quyết định giết ngay đối phương. Đấy cũng là cách chúng tôi chiến đấu trong ngày đầu tiên của chiến tranh. Chúng tôi tản ra và mỗi tổ hai người tự độc lập chiến đấu. Cuối ngày đầu tiên chỉ còn có hai người sống sót. Tất cả đều bị giết. Tới chiều tôi về được ban chỉ huy đơn vị để báo cáo những gì đã chứng kiến. Sau chiến tranh tôi tự hỏi liệu có ích gì khi ta ra đi chiến đấu mà bụng biết chắc rằng mình sẽ bị giết.

Ông đã chứng kiến cuộc phong tỏa Kiev. Ông có thể kể thêm cho chúng tôi về sự kiện này được không?
‏‎‎
Tôi được cấp giấy thông hành và chuyển về Trung đòan bộ binh cơ giới số 4 thuộc Xôviết NKVD tại Kiev. Trung đòan gồm những lính biên phòng còn sống sót. Tôi được chỉ định làm đại đội trưởng đại đội liên lạc. Nhưng chẳng có gì là liên lạc cả. Có chỉ huy và trang bị kỹ thuật nhưng không có lính. Chỉ huy ra lệnh cho tôi tổ chức nhân sự cho đại đội cho phù hợp yêu cầu thời chiến trong thời hạn hai tuần. Tôi chọn mấy tay lính dự bị, những anh chàng trước kia từng làm sĩ quan liên lạc và giờ quay lại tham gia chiến đấu từ cuộc sống dân sự. Trung đòan tôi được yêu cầu phòng thủ trên sông Irpen chảy dọc đường quốc lộ Zhitomir về phía Tây Kiev. Bọn Đức đã đánh tan tuyến phòng thủ gần Zhitomir và lập ra một lực lượng cơ động gồm hai tiểu đòan xe tăng cùng lính pháo thủ và chọc thẳng vào khu Kreshchatik tại Kiev. Chúng tôi chặn chúng lại. Tại đó lần đầu tiên tôi thấy việc chiến đấu thú vị. Trong chiến hào được gia cố bằng bê tông chúng tôi hòan tòan an tòan. Chúng tôi không bị phát hiện và được trang bị đầy đủ. Vì thế chúng tôi chỉ ngồi chờ cho hai tiểu đòan kia tới gần chiếc cầu băng qua sông Irpen. Con sông vốn hẹp nhưng sâu đáy, và khi hai chiếc tăng đầu tiên trèo lên cây cầu, nó nổ tung lên không trung và đổ sập xuống sông cùng đám xe tăng. Đòan xe tăng đang chạy với tốc độ cao và chúng tôi nã đại liên và tiểu liên vào chúng. Mất khỏang chừng 15 phút để thiêu rụi tòan bộ đòan quân địch. Bọn Đức tổ chức một cuộc đột kích khác vào ngôi làng Belogorodki. Nhưng chúng tôi lặp lại tương tự và kẻ thù phải ngưng tấn công trên hướng chúng tôi. ‏‎

Kế đó bọn Đức quyết định đột phá tuyến phòng thủ tại nhà ga Boayrka nằm phía nam Kiev. Đòn tấn công thật dữ dội như vẫn thường xảy ra. Nhưng Binh đòan dù số 5 của đại tá Rodimtsev là một trong những đơn vị tinh nhuệ nhất. Đại tá Radimtsev sau này trở thành tướng và Hai lần Anh hùng Liên Xô. Binh đòan của ông thành lập từ những lính biên phòng ngay từ trước chiến tranh. Lính biên phòng quen với đánh cận chiến nhưng bọn Đức không biết điều này. Quân địch đưa tới đây ba sư đòan bộ binh môtô, nhiều trung đòan tăng và đưa khỏang 1000 bộ binh lập một hình bán nguyệt đi trước, tất cả tập trung trên một dải đất hẹp. Chúng muốn làm chúng tôi hỏang sợ. Khi đã tới gần, chúng bị cánh lính dù bắn hạ sạch - cả đám bộ binh, đám xe tăng và sư đòan môtô. Trận đánh kết thúc sau một tiếng rưỡi đồng hồ. Bọn Đức phải đưa xe ủi đất tới và mất suốt hai tuần liền dọn dẹp xác chết. Khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng kẻ thù sẽ không bao giờ chiếm được Kiev.

Trung đòan ông tụt lại trong hậu phương địch ra sao?

Bọn Đức chọc thủng phòng tuyến Xôviết ở hai nơi - phía bắc Kiev gần Gomel và phía nam Kiev gần Kremenchug. Chúng đưa tới đây các tập đoàn quân xe tăng và những tập đòan quân này tiến thẳng về phía đông vào cuối tháng Tám. Bọn Đức nhanh chóng tiến được 350 kilômét vào sâu trong nội địa và đồng tiến tới gần Konotop-Bakhmachi-Vorozhba phía đông Dnieper. Năm tập đòan quân ta bị lọt vào giữa vòng vây thép đó. Nhưng chúng tôi chỉ biết được chuyện đó khi đã là cuối tháng Chín.

Đột nhiên chúng tôi nhận được mệnh lệnh cho nổ tung các cứ điểm phòng thủ và rút về phía bờ đông của sông Dnieper. Nước mắt lưng tròng chúng tôi phá hủy tuyến phòng thủ của mình, rút lui về Kiev trong đêm tối mà không được nổ một phát súng, giật mìn nổ tung mọi cây cầu bắc qua sông Dnieper và tiến về bờ đông của sông Dnieper. Khi đó chúng tôi cho rằng mình thế là đã an tòan. Do đó, chúng tôi đi xa hơn về phía đông... và bọn Đức có mặt ở khắp nơi, chỗ nào chúng tôi tới cũng đều gặp bọn Đức. Chúng tôi tới được sông Trubezh, cũng tựa như sông Irpen, hai bên bờ lầy lội. Chúng tôi biết được rằng có một cây cầu cho đường sắt bắc ngang qua sông. Thế là chúng tôi tiến lên đó, lót ván lên để xe tải có thể chạy qua được và hai tiểu đòan chúng tôi tiến sang phía bờ đông. Ngay khi chiếc xe cuối cùng rời khỏi cầu, bọn Đức dội pháo, súng máy và tiểu liên lên đầu chúng tôi, và sau vài phút tòan bộ đòan xe chúng tôi đã cháy rụi.

Ngay từ phát đạn đầu tiên tôi đã lăn ra khỏi buồng lái và qua được bờ đối diện, nơi không có quân Đức. Tôi đứng thẳng trên hai chân và trông thấy bên cạnh có 11 người nữa còn sống sót. Tất cả đều là lính trơn, chỉ có tôi là sĩ quan duy nhất. Họ đeo khẩu carbine với 10 viên đạn còn tôi chỉ có mỗi khẩu súng lục "TT".

Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ từ hướng bờ sông. Và chúng vang tới ngày một gần hơn. Đằng sau chúng tôi là dòng sông và cây cầu thủng lỗ chỗ. Chúng tôi chẳng biết chạy đi đâu, chúng tôi đã bị hòan tòan bao vây. Do đó chúng tôi chỉ còn mỗi một cách - tìm lấy một chỗ trú kín đáo, để cho kẻ thù tới gần khỏang 5 mét, tiêu diệt chúng và đi tiếp.

Từ dưới đọan chiến hào cũ còn lại từ thời Nội chiến, tôi có thể nghe thấy tiếng chó sủa ngay cạnh. Điều này xác nhận điều tôi lo sợ nhất đã xuất hiện. Lũ chó sẽ không khi nào bỏ qua chúng tôi. Sau lưng chúng tôi, cách khỏang 20 mét, là dòng sông với bờ sông lầy lội. Tôi thì thào ra lệnh "Hãy đừng quay lưng lại, cứ thế bò trở lui".

Tính tóan của tôi thật ngây thơ trẻ con. Tôi nghĩ rằng bọn chó sẽ không dám đi ra chỗ lầy và sẽ mất dấu chúng tôi, và bọn Đức đi sau sẽ bắn lên trời để cảnh cáo. Mọi chuyện xảy ra khác hẳn. Bọn Đức cắt cỏ đem tới, chỉnh khẩu súng máy và bắn xuống. Mỗi khi chúng nã ra một lọat đạn bắn đứt những tán lau sậy là một lần chúng tôi hụp đầu xuống nước. Đám sậy đã giúp chúng tôi rất nhiều. Lý‏‎ do là nếu ta ngậm nó trong miệng thì ta có thể ở dưới nước lâu tới nhiều phút. Cuộc bắn giết cuối cùng cũng chấm dứt. Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi. Chỉ còn bốn người sống sót.

Cho tới cuối đời tôi vẫn sẽ luôn ghi nhớ cái ngày đó. Đó là nỗi sợ hãi kinh khhủng không tài nào tả được, còn đáng sợ hơn chính bản thân chiến tranh. Không vũ khí, chúng tôi không thể tự lo liệu và không biết phải làm gì tiếp theo bởi cũng chẳng có bản đồ bên người. Lúc đó là vào ngày 30 tháng Chín năm 1941.

Thế là tôi tụt lại trong vùng địch kiểm sóat. Bọn Đức có ở khắp nơi. Trong ngôi làng đầu tiên gặp được, chúng tôi đã thay lấy quần áo dân thường và dân làng cho chúng tôi một ít đồ ăn.

Từ vùng Kiev chúng tôi đi tới vùng Chernigov. Tại làng Voronki chúng tôi bị một chiếc xe tải chặn lại. Hai tên Đức ngồi trong buồng lái, ngòai ra có bốn tên nữa ngồi sau xe. "Partisanen? (Du kích - LTD)"- chúng hỏi. Và không chờ trả lời chúng ra lệnh cho chúng tôi leo lên xe tải. Tôi có một khẩu súng lục và 30 viên đạn. Nếu chúng tìm thấy thì câu chuyện sẽ kết thúc tại đây. Trong khi tôi còn đang tính xem mình sẽ làm gì với khẩu súng thì chúng tôi được đưa tới một trại tù binh rộng lớn trứơc đây là một khu nhà kho kỹ thuật nằm tại Darnitsa, Kiev.

Tình thế lúc đó như thế nào?

Những người lính chúng tôi lúc đó trông không còn giống lính tráng nữa. Quấn trong tấm áo khóac lính rách nát, mũ lưỡi trai và mũ sắt lúc nhúc những rận, trông họ thật lôi thôi. Vây quanh khu trại là những người vợ và mẹ đang đi tìm người thân của mình. Lý‏‎ do là họ biết có cả một tập đòan quân đã bị bao vây. Bọn Đức tỏ ra khá hào hiệp. Nếu một người vợ tìm thấy chồng mình thì anh ta sẽ được thả. Đám phụ nữ đứng ngòai hàng rào suốt nhiều giờ liền và đem theo thực phẩm, họ ném chúng qua hàng rào. Tôi tận mất trông thấy có nửa ổ bánh mì nhà làm rơi xuống ngay sát chỗ chúng tôi ngồi. Khỏang 10 tù nhân nhào tới và họ bắt đầu đánh lẫn nhau. Năm tên sĩ quan Đức xuất hiện tại chỗ có tiếng la hét và khi đã biết chuyện gì xảy ra, chúng liền lăn ra cười. Rồi chúng rút súng ra và bắn thẳng vào đám đông đang tranh nhau. Đám tù binh tản vội theo mọi hướng và trên mặt đất chỉ còn lại nửa ổ bánh mì và năm xác chết. Cảnh ấy là tóc gáy tôi dựng cả lên. Tôi chợt nhận thấy rằng nơi đây chúng tôi không phải là con người, chúng tôi là sâu bọ và chúng tôi được đối xử như lòai sâu bọ. Khu trại được vây quanh bởi những hàng rào bê tông cao bốn mét có chằng dây thép gai xung quanh. Làm sao thóat ra ngòai được?

Thật tình cờ tôi được gặp Sergei, một cậu người Kavkaz mặc chiếc áo khóac đen còn tốt. Anh ấy cho tôi biết về các quy luật trong trại tù. Mỗi thứ bảy bọn chúng đem chôn 200 người bị chết đói. Vào buổi sáng chúng phân phát súp lõang nấu với thứ củ cải không thèm rửa sạch. Tới 8 giờ sáng tù nhân được tập hợp lên một xe tải và chở đi xây lại những cây cầu bắc qua Kiev. Những ai không nằm trong danh sách lao động thì làm người phục vụ cho bọn sĩ quan sống trong khu trại đối diện. Sergei kể rằng mỗi ngày anh ta đều được đưa đi làm việc cho thiếu tá Lutke. Tên thiếu tá cho anh ta một giấy thông hành để anh ta có thể tự do đi lại. Trong thời gian cuộc nói chuyện của chúng tôi xảy ra thì anh ấy đang phục vụ cho một viên sĩ quan khác. Vì thế tôi hỏi xem anh ấy có thể cho tôi tờ thông hành của Lutke được không. Sergei chìa ra một mảnh giấy có ghi "Giấy phép cho ba người. Thiếu tá Lutke". Tôi mau chóng cầm lấy và chợt cảm thấy có một thóang hy vọng. Tôi nhận ra rằng mình sẽ được an tòan.

Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi và hai người nữa cùng trung đòan trèo xuống dưới tấm ván làm giường ngủ. Chúng tôi nằm đó thêm một giờ nữa cho tới khi sự ồn ào buổi sáng giảm bớt. Chúng tôi đi ra ngòai. Điều quan trọng nhất là cư xử sao cho tự nhiên và không tỏ ra sợ hãi. Chúng tôi phải vượt qua được bốn trạm gác và một chiếc cổng. Tại mỗi trạm gác tôi đều bảo với lính canh rằng mình đang đi phục vụ cho một sĩ quan. Trời đầy sương giá và tại mỗi trạm gác đám lính canh đều trông tựa những cột băng lạnh lẽo. Chúng không nói gì, chỉ tránh sang cho chúng tôi đi qua. Chúng tôi rời trại và hướng tới khu nhà sĩ quan. Dọc khu sĩ quan có một con đường người dân Kiev hay dùng để tới chợ đổi chác hàng hóa cần thiết. Cả gia đình cùng đi với nhau. Khi chúng tôi đã tới được con đường tưởng chừng vô tận ấy, tôi hỏi một người đàn bà rằng mình có thể xách giúp được không. Bà ấy lập tức hiểu ngay chúng tôi từ đâu tới và bảo: "Hãy đi theo chúng tôi". Chúng tôi qua được chiếc cổng. Giữa đám đông chúng tôi không thể bị phát hiện. Đấy là chuyện chúng tôi đã trốn khỏi trại ra sao, lặng lẽ và khôn khéo.

Làm cách nào ông tìm thấy đơn vị du kích của mình?

Dân làng cho chúng tôi hay có một đơn vị du kích Xôviết rất đông trong vùng Sumy. Tìm được đơn vị này thật khó khăn: hai sư đòan quân Đức đang truy tìm nó nhưng đều thất bại. Tại làng Victorovo, tôi gặp một đám con gái đang khóc lóc. Họ bảo rằng họ khóc vì các bạn trai họ đã bị gọi vào tham gia một đơn vị du kích địa phương. Họ cũng bảo tôi rằng tóan du kích đã động viên các chàng trai của họ đã chuyển sang làng Uzlitsa cách đây 5 kilômét. Tới được đó theo cách thức một vận động viên maratông, tôi gặp được một lính gác mang vũ khí, mặc chiếc áo chòang kiểu Hungary và đội chiếc calô lính Đức trên đầu. Sự trung thành của anh ta thật khó đóan. Anh ta kiểm tra tôi và rồi áp giải tôi tới một ngôi nhà gần đó. Ở ngay cửa vào có một tay gác khác, một cậu bé đeo khẩu súng trường Mosin 1891. Vào trong, tôi bị cật vấn bởi một người đàn ông mặc bộ đồ da sĩ quan Đức cùng một khẩu súng lục Parabellum của Đức bên sườn. Tôi nhẩm lại câu chuyện bịa của mình là đóng vai một học sinh Konotop trên đường tới nhà ông mình.

- 'Tại sao anh tham gia polizei?'

- 'Không. Tôi là dân thường và không biết sử dụng súng.'

- 'Tại sao anh gia nhập đơn vị Côdắc ?'

- 'Không.'

- 'Thế còn đám du kích chống đối?'

- 'Không.' Trả lời khác đi có nghĩa là cầm chắc cái chết.

- 'Mẹ mày. Xéo khỏi đây mà về với ông mày đi.'

'Anh ta là ai vậy?' - tôi hỏi tay lính gác thiếu niên đứng ngòai thềm nhà. 'Có phải là sếp cảnh sát địa phương (polizei) này không?' Cậu bé chửi thề và cho tôi hay rằng người đàn ông kia là đại đội trưởng du kích, thiếu úy Lưsenko. Tôi quay vội lại và thừa nhận mình là người có cảm tình với du kích. Họ không tin tôi là nhốt tôi lại để thẩm vấn. Tôi phải nằm ba ngày trong một phòng giam của quân du kích tại làng Zazirki.

Đó có phải là đơn vị của Kovpak không?

Đúng. Thực ra ông ấy đã điều khiển quá trình thẩn vấn từ căn nhà chỉ huy của mình. Bốn người ngồi đối diện tôi trên một chiếc bàn dài, trông có vẻ là cựu sĩ quan quân đội Xôviết. Người ngồi ngay đối diện - một ông khá lớn tuổi với bộ râu cằm nhỏ vuốt nhọn - đó là Kovpak. Tay đẹp trai trông khá ngầu ngồi bên trái ông ta - có bộ ria đen và cặp mắt sắc sảo thấu tâm can - là Rudnev. Anh ta là người thẩn vấn chính. Họ ghi lại tỉ mỉ những câu trả lời của tôi về hàng ngàn câu hỏi rất thông thường. Trong những quãng nghỉ giữa những cuộc thẩn vấn mỗi ngày, họ kiểm tra lại những câu trả lời của tôi với những người khác trong đơn vị của họ biết rõ về những địa điểm tôi đã nói tới. Tới ngày thứ ba, khi họ đang đặt câu hỏi về Konotop, một người bước ra từ một chỗ nấp đằng sau lò sưởi và nói với họ rằng anh ta đã nhận ra tôi. Trước chiến tranh, anh ta là Chủ tịch Hội đồng ở Konotop. Trong đơn vị Kovpak, anh ta chỉ huy đơn vị mà chúng tôi gọi là Trung đòan Konotop. Tôi trở thành một chiến sĩ của trung đòan này. Sáu tháng sau, Kovpak bảo tôi rằng trong ngày hành hạ đầu tiên, Rudnev đã tìm cách thuyết phục hội đồng thẩm vấn tạm hõan quyết định đem tôi ra xử bắn.

Ông có thể kể lại tình hình và điều kiện trong đơn vị của Kovpak khi ấy được không?

Kovpak và Rudnev ban đầu họat động độc lập, mỗi người có trong tay khỏang ba chục người. Rồi Rudnev đề nghị một sự sáp nhập. 'Bố già' liền đồng ‏‎ý. Ông ấy trở thành Chỉ huy trưởng, cho Rudnev làm Chính ủy. Ngay sau khi tôi gia nhập lực lượng của họ, một tay chỉ huy nữa xuất hiện, Piotr Petrovich Vershigora đến từ Cục Tình báo Quân sự Hồng quân. Trong năm 1943, khi quân số của đơn vị là 1500 người, bọn Quốc xã đã ước tính lực lượng của họ tới 20 ngàn người. Đấy chính là môi trường đã hun đúc tôi trở thành một chiến binh thực thụ.

Nghiên cứu kế họach trước chiến dịch phá hủy một khu khai thác dầu mỏ tại dãy Carpath. Từ trái sang: S.A.KOVPAK, S.V.RUDNEV.

Ông giữ chức vụ gì trong đơn vị của Kovpak?

Trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đòan trưởng, trưởng ban tình báo chiến thuật, trung đòan trưởng.

Xin hãy kể lại cho chúng tôi về các chiến dịch của đơn vị du kích của ông.

Chúng tôi đã thực hiện được 7 cuộc tập kích quy mô lớn và vô số cuộc tập kích cỡ nhỏ. Tháng Tư năm 1942, một người trong bọn tôi tới được Kharkov thuộc miền đông Ukraina và vượt qua được vùng phụ cận do Xôviết kiểm sóat. Các cựu chiến binh từng trải qua vòng vây khổng lồ của bon phát xít bao vây lực lượng Xôviết tại Kiev năm 1941 đã xác nhận lý‏‎ ‏‎ lịch và câu chuyện do anh ta kể. Bộ chỉ huy Xôviết đã thả dù xuống một máy điện đài dã chiến cho chúng tôi và chúng tôi bắt đầu tiến hành các chiến dịch theo sự chỉ dẫn từ Maskva.

Trở về sau cuộc tập kích Dãy Carpath, 1943.
Người đi đầu là P.Ye.BRAIKO

Chỉ dẫn đầu tiên là tổ chức vượt qua hữu ngạn sông Dniepr và thiết lập một vùng mới dứơi quyền điều hành của Xôviết trong vùng lòng chảo rậm rạp gần nơi nhánh sông Pripyat đổ vào sông cái Dniepr. Trong cuộc tập kích điển hình của chúng tôi vào dãy Carpath mùa hè năm 1943, chúng tôi đã làm tê liệt giao thông trên tuyến đường sắt chiến lược từ Kiev tới Kovel và từ Kiev tới Lvov. Một cuộc tập kích khác vào miền đông nam Ba Lan đầu năm 1944 cũng là một thử thách thực sự. Không có ngày nào là không có hành quân và chiến đấu! Ban đêm thì không được nghỉ ngơi. Binh đòan Kovpak đụng độ với năm sư đòan tinh nhuệ của Đức trong suốt cuộc tập kích ấy. Ngày nào chúng cũng tìm cách bao vây chúng tôi, cứ thế trong suốt hai tháng trời. Nhưng ngày nào chúng tôi cũng thóat được. Rừng rậm là địa bàn của chúng tôi. Chúng tôi coi đó là nhà, còn kẻ thù thì trở thành những khách trọ không được mời, xa lạ và vụng về.

Xin hãy kể cho chúng tôi những nguyên tắc cơ bản của chiến tranh du kích. Nó có gì khác lạ đối với một sĩ quan quân đội chính quy như ông không?

Cẩm nang chiến thuật thông thường chỉ nói về ba hình thức chiến đấu chính: tấn công, phòng thủ và giao chiến. Giao chiến không có trong khái niệm của du kích và tôi luôn tránh giao chiến khi giữ nhiệm vụ trung đòan trưởng. Thay vì tấn công, du kích dùng phương cách tập kích chớp nhóang rồi rút lui. Thay vì phòng thủ thì họ phục kích. Một ổ phục kích tốt là tránh không để dù chỉ một phát đạn phản công vào sườn. Quan trọng nhất khi phục kích là chọn vị trí, cái này đem lại uy lực hơn bất cứ thứ xe tăng, súng máy hay bom đạn nào. Quân du kích buộc phải tiết kiệm lực lượng và đạn dược. Họ chủ yếu dựa vào các lọai vũ khí cá nhân trong chiến đấu.

Chúng tôi mất một năm rưỡi để học hết những bài học đó và rồi các chiến dịch của đám du kích chúng tôi trở nên chuyên nghiệp vô cùng. Trong năm tháng đầu chiến tranh, bọn Quốc xã đã tiêu diệt 17 tập đòan quân chính quy Xôviết. Nếu mỗi tập đoàn quân đó chỉ cần có một chuyên gia về chiến tranh du kích trong đội ngũ thôi, hẳn thiệt hại đã giảm thấp hơn rất nhiều.

Quay trở lại những năm 1920s và 30s, theo lời khuyên của M.V.Frunze, đất nước đã tiến hành những chuẩn bị quy mô lớn cho chiến tranh du kích. Lượng trang bị dự trữ đủ cho hai năm đã được chôn giấu tích trữ, và những trường huấn luyện du kích xuất hiện tại nhiều nơi, gồm cả Kiev và Kharkov. Rudnev đã tốt nghiệp tại đấy. Tuy nhiên, năm 1937, chính quyền trung ương đã đột ngột giải tán các cơ sở của hệ thống chiến tranh du kích, đồng thời với cả những nhân sự thực hiện. Tiếp theo sự kiện chiến tranh nổ ra năm 1941, mọi thứ lại phải dựng lại từ đầu.

Xin hãy mô tả một vài chiến dịch du kích thành công nhất của ông.

Mùa hè năm 1943, trung đòan du kích của tôi với chỉ 200 người nhận được lệnh phải khóa chặt cuộc hành quân của ba trung đòan môtô hóa SS - gồm cả pháo binh và xe tăng - tại hẻm núi nơi con sông Bystrica Nadwornianska tại vùng Đông Carpath chảy qua. Chúng tôi chỉ có một tiếng rưỡi đồng hồ dự trữ đạn để hòan thành nhiệm vụ và ban đầu tôi tưởng chừng đã thất bại đến nơi. Khảo sát địa hình thực tế làm nảy ra một giải pháp. Một con đường đất chạy dài suốt 5 cây số theo hẻm núi Bystrica băng qua con sông trên những chiếc cầu tại bốn địa điểm ngay gần miệng hẻm núi. Chúng tôi khôn khéo gài mìn tại những cây cần đó. Bọn Đức, khi hành quân, phải cho xe tăng và pháo binh lui về phía sau. Không hề biết về sự hiện diện của chúng tôi, chúng tiến vào hẻm núi theo đội hình hành quân thông thường và mau chóng lọt vào ổ phục kích hình móng ngựa của chúng tôi. Nhờ sự che chở của những tảng đá khổng lồ vốn có thể chịu được bất cứ thứ bom đạn nào, chúng tôi trút đạn như mưa vào chúng và xua chúng chạy tán lọan suốt 15 phút. Hòan thành nhiệm vụ, trung đòan tôi lập tức rút về một vị trí tương tự phía dưới dòng, cách đó khỏang một cây số. Bọn Đức mất tới năm giờ để băng bó thương binh, thu dọn xác chết và dọn dẹp con đường qua hẻm núi. Ba ngày cứ phục kích luân phiên như vậy đã làm tan tác 7 tiểu đòan quân Đức. Trung đòan tôi chỉ mất có 4 người.

Trong cuộc tấn công của Hồng quân để giải phóng Byelorussia tháng Sáu và tháng Bảy 1944, Sư đòan Du kích Ukraina số 1 chúng tôi như hồi đó được gọi yểm trợ một gọng kìm của Phương diện quân Byelorussia 1 nhằm bao vây Cụm Tập đòan quân Trung Tâm của Đức. Gần con sông Neman, sư đòan gồm 600 người của chúng tôi - tức hai trung đòan, trong đó có trung đòan tôi, chạm trán với ba sư đòan xe tăng và hai sư đòan bộ binh môtô hóa của Đức. Để chống lại những xe tăng Tiger và Panther, chúng tôi chẳng có gì ngòai mìn chống tăng. May mắn thay, chúng tôi tìm cách chốt được trên một vị trí thuận lợi để chiến đấu - trên một khe núi sâu hai bên có bụi rậm dày đặc. Khi chúng đã tới tầm bắn trực diện, chúng tôi trút tất cả hỏa lực trong tay vào kẻ thù. Những xe tăng đi đầu cố gắng quay lại và lập tức cán phải mìn của chúng tôi gài hai bên đường. Tòan bộ đòan côngvoa Đức quay lại, cứu tôi khỏi phải suy nghĩ ra một giải pháp phức tạp để làm gì tiếp theo. Chúng tôi chỉ mất có hai người. Chiến tranh du kích như vậy đã đạt được đỉnh cao!

Đó có phải là cuộc tập kích cuối cùng của đơn vị Kovpak không?

Vâng, đúng vậy. Tới tháng Bảy năm 1944 thì sư đòan nhập vào các đơn vị Hồng quân chính quy. Tới tháng Tám, tôi được phong Anh hùng Liên Xô vì những chiến công trong cuộc tập kích vùng đông nam Ba Lan. Trong cuộc tập kích cuối cùng và thành công nhất của đơn vị Kovpak, cuộc tập kích tại Byelorussia, chẳng một ai trong đơn vị nhận được dù chỉ một lời khen tặng đúng lệ từ Bộ Chỉ huy Tối cao.

Mọi người đứng trong tấm ảnh này đều vừa được phong tặng Danh hiệu Anh hùng Liên Xô. P.Ye.BRAIKO đứng thứ hai từ trái qua. Người đứng giữa là P.P.VERSHIGORA.

Dịch từ Anh sang Việt: L‏‎ý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Daniil Zlatkin

D.Zlatkin
Phần 1

Tôi là người đã từng trải qua chiến tranh - cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Tôi tham gia chiến đấu từ mùng 3 tháng Bảy năm 1941 cho tới tận tháng Năm năm 46. Thực ra, đối với tôi, chiến tranh là một cuộc chiến liên tục để sống còn, đặc biệt trong những điều kiện cực kỳ gay go mà tôi đã trải qua, mặc dù không phải lúc nào cũng cầm súng trong tay. Dưới đây tôi xin được kể đôi lời về quãng đời đó.

Ngày 22 tháng Sáu tôi đang ở thành phố Feodosia, nơi chúng tôi tiến hành xây dựng một hệ thống đồn bót bí mật. Tôi sống trong khách sạn Astoria. Tôi thức dậy lúc 10 giờ - xung quanh không còn ai. Tôi ra ngoài và nhận ra chiến tranh đã bắt đầu. Vâng, lúc đó tôi cảm thấy thật là... Có lẽ, cũng như tất cả những công dân Xôviết khác - tôi thấy thật bực bội lo lắng, bởi bố mẹ tôi sống gần biên giới phía tây. Thêm nữa, tôi đã hiểu quá rõ chiến tranh là thế nào vì đã từng phục vụ trong quân đội như một sĩ quan công binh. Chiều hôm đó tôi đã có mặt trên một chuyến tàu đi thẳng về Maskva. Tại Maskva tôi lập tức bị động viên đi xây dựng các công trình trú bom. Và vào ngày 3 tháng Bảy, sau bài phát biểu của Đồng chí Stalin, tất cả các bạn bè tôi đều đi đăng ký vào dân quân vũ trang, nhưng tôi đang là một kỹ thuật viên chuyên nghiệp có tay nghề - tôi chỉ nhận được lệnh động viên từ dân uỷ quân khu khi có lệnh điều động đặc biệt, nên không thể cùng đi với họ. Các bạn tôi bảo: "Dan'ka, chuyện quái gì vậy?! Tất cả bọn tớ đều lên đường! Còn cậu thì sao? Cùng đi đi chứ!" Ông quản đốc cũng nói: "Danil, sao cậu lại làm vậy? Tất cả các đồng chí của cậu đang lên đường, còn cậu lại không?" Vì thế tôi cũng đi tham gia vào cái mà người ta vẫn gọi là tổ chức dân quân vũ trang. Khi phát hiện ra tôi là một hạ sĩ quan, người ta liền chỉ định tôi làm trung sĩ trong một đại đội công binh độc lập. Tôi được giao cho khoảng 300 người, hầu như tất cả bọn họ đều có trình độ học vấn khá cao, thậm chí có cả tiến sĩ khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc - đủ thứ, nhưng chỗ chúng tôi không có ai là công nhân cả. Tôi lập tức tập hợp họ lại - rống lên: "Vào hàng!" - họ liền thấy trước mặt mình đúng là một trung sĩ thực thụ đã từng tham gia quân ngũ. Thế đó, tôi tập hợp họ lại và đưa họ tới chỗ thợ cắt tóc, và mặc cho những trò phản ứng và chống đối tất cả bọn họ đều bị húi trọc. Rồi họ được dẫn tới nhà tắm. Thế là mọi chuyện đều được đưa về đúng chỗ của nó - đám người lộn xộn kia đã thực sự trở thành một tiểu đoàn công binh, được chỉ huy bởi một trung sĩ thực thụ.

Ngày 4 hoặc 5 tháng Bảy chúng tôi rời Maskva đi theo đường Mozhaisk. Chúng tôi hành quân 30 km tới ngôi làng Tolstopaltsevo và cắm trại tại đó. Cuộc đời quân ngũ bắt đầu: huấn luyện, tập sử dụng vũ khí, nắm vững các loại đạn và chất nổ. Một lần tôi được gọi lên gặp chỉ huy công binh sư đoàn, bạn tôi Zinoviy Levin, anh ta nói: "Dania, cậu phải tới quân khu Ivanovo và đem về từ đó 6 tấn thuốc nổ. Đồng thời lấy khoảng 150-200 quả mìn cá nhân và mìn chống tăng, kèm theo 5 - 6 xe nhà bếp." Tôi bảo: "Trong tay tớ sẽ có những gì?" Anh ta nói: "Cậu lấy theo một trung đội lính và một xe GAZ AA. Chúng tôi ngồi lên xe và tôi hỏi: "Lấy gì để tôi đem tất cả những thứ đó về đây bây giờ?!" Họ bảo tôi: "Cậu là kỹ sư công binh gì mà không tìm được cách chuyển hàng về?!"

Tôi không còn nhớ mình đã làm cách nào để tới được Podolsk, bởi đường tới Ivanovo là con đường hoàn toàn khác, nhưng vì lý do nào đó chúng tôi đi theo một ngả khác và xuất hiện ở Podolsk. Trong khi ngồi trên xe đi ngang Podolsk, tôi thấy cái bảng chỉ đường có ghi chữ "Xưởng ôtô", và một sáng kiến thoáng hiện ra trong đầu. Tôi bước vào phòng làm việc của viên quản đốc xưởng, đặït khẩu súng lục của mình lên bàn (tôi không có bao súng, khẩu súng lục được giắt vào thắt lưng) và nói: "Hãy nghe đây: các anh ngồi ở đây, tại hậu phương, ăn uống đầy mồm, trong khi chúng tôi đang phải chiến đấu!" - mặc dù chúng tôi chưa từng tham gia chiến đấu, tôi chỉ giả vờ rằng mình là một tay lính đã có kinh nghiệm. Hắn bảo: "Các anh cần gì?" Tôi nói: "Chúng tôi cần ít nhất 12 xe tải để đi vận chuyển chất nổ." Hắn đáp: "Tôi biết làm cách nào để kiếm ra chúng bây giờ?! Tôi cần có giấy phép!" Tôi ra lệnh: "Không để một xe nào ra khỏi đây, nhưng cứ để cho xe đi vào!" Tôi khóa trái hắn ở trong phòng, đặt một người đứng gác, đi ra ngoài, tập hợp tất cả những lái xe lại và bảo: "Các cậu, tớ có ở đây hai balô xúc xích hun khói, nửa balô đường và đồ hộp. Nhưng tớ không có vodka. Chúng ta cần phải lái tới quân khu Ivanovo và nhận chất nổ cùng các thiết bị khác dùng cho mặt trận. Ai sẽ đi cùng nào?" Mọi người đồng thanh: "Chúng tôi sẽ đi!" Bằng cách đó tôi có được 15 xe tải. Viên quản đốc hét với theo bên cửa sổ: "Quân vô lại! Mày sẽ bị ra toà!" Tôi bỏ đi cùng đoàn xe tải, đi xuyên khắp Matskva và tới được quân khu Ivanovo. Tại đó chúng tôi chất hàng và quay về đơn vị của mình vào sáng hôm sau. Cần kể thêm là trong khi chất hàng tôi cũng tiện tay xách luôn hai thùng đèn pin mà không ghi sổ. Khi trở về đại đội mình, tôi báo cáo mọi việc xảy ra lên đại đội trưởng. Anh ta bảo:

"Cậu biết không? Đừng trả những thùng đèn pin đó về kho dự trữ công binh, hãy đưa nó cho chúng tớ."

"Thưa đồng chí đại đội trưởng, tôi không có quyền làm chuyện đó." - tôi nói.

"Tôi ra lệnh cho anh đó!" - anh ta bắt đầu cất cao giọng.

"Tôi không tuân lệnh."

"Hãy lặp lại mệnh lệnh: để lại một thùng đèn pin!"

"Tôi sẽ không lặp lại mệnh lệnh đó!"

"Tôi sẽ đem anh đi xử bắn ngay lập tức!"

"Thử làm đi!"

Hắn ta rút khẩu Parabellum ra, tôi trông thấy bọt trắng sùi ra trên môi hắn, hắn dậm mạnh chân lên sàn nhà và hét:

"Lặp lại mệnh lệnh!"

Tôi mở nút áo quân phục của mình, xé phanh ngực áo, thét lên:

"Tới đây bắn tôi đi! Nhưng tôi sẽ không theo lệnh đó dâu!"

Hắn ném khẩu súng và mũ của mình xuống sàn nhà và dẫm chân lên trên, nhưng tôi đã quay đi và bỏ ra ngoài. Câu chuyện kết thúc tại đây, nhưng tôi bị cách chức và thôi không được làm trung sĩ của đại đội nữa. Tôi bị đưa vào một trung đội ở cùng người bạn thân Vasia Karpenko.

Sau đó chúng tôi bị chuyển tới khu làng Pupovo thuộc quân khu Smolensk. Tại đây tôi tham gia cuộc bắt giữ ba tên phi công, máy bay của chúng bị súng phòng không của ta bắn hạ. Chúng bị bắt và giải tới Sở chỉ huy sư đoàn. Chúng bước vào đó với dáng điệu rất vênh váo - vung tay lên đằng trước, miệng hét: "Heil Hitler!" Điều đó gây một ấn tượng to lớn đối với tôi: làm sao một tên tù binh lại có thể hành xử như vậy?

Ngày hôm sau một chiến binh cứng cựa thực thụ có trên vai ba vạch (trung tá - Artem Drabkin) tới, tập hợp toàn đại đội lại và thông báo: "Bất cứ ai có trình độ văn hóa cấp hai hoặc cao hơn, bước lên trước hai bước!" Tôi làm theo.
"Các đồng chí, các anh sẽ tới một trường huấn luyện để nhận được những cấp bậc phù hợp với trình độ chuyên môn của bản thân. Anh kia, làm nghề gì?"
"Tôi là một kỹ sư xây dựng" - tôi nói.
"Vậy anh sẽ là một kỹ sư công binh bậc ba."
Thật tuyệt. Họ dồn chúng tôi lên xe tải và chở tới làng Korni gần Viazma. Tại đấy 36 người chúng tôi được phân vào trung đội súng máy số 1, đại đội một, tiểu đoàn một. Tôi nói: "Tại sao lại là xạ thủ súng máy?! Các anh làm cái gì vậy?! Tôi tới đây đề trở thành một kỹ sư công binh kia mà?!" "Im lặng! Không trao đổi!" Tời buổi chiều tôi ngồi viết một báo cáo, trong ghi rằng tôi đã bị lừa dối. Họ viết trả lại trên tờ báo cáo đấy: "Đồng chí Zlatkin, tổ quốc đang cần những xạ thủ súng máy."

Công việc huấn luyện bắt đầu - suốt từ 6 giờ sáng cho tới tận chiều tối khẩu súng trường không rời khỏi vai tôi, chúng tôi tập đi đều bước, ca hát, mở lách cách cái khóa nòng rỗng không - đó là cách để người ta dạy chúng tôi trở thành xạ thủ súng máy. Còn về thức ăn - trà uống với đường vào buổi sáng, cùng một lát bánh mì; vào giữa ngày, cho bữa trưa là một ít cháo lúa mạch loãng hầu như không có gì ở trong, thậm chí không được đến một củ khoai nhỏ, và kasha (cháo ngũ cốc), còn cho bữa tối - lại đường và một lát bánh mì. Sau 10 ngày chúng tôi đã bạc nhược đến mức phải chật vật mới lê đi được. Tôi liên tục hỏi: "Khi nào thì chúng ta sẽ học sử dụng súng máy? Những khẩu súng máy đó đâu rồi?" Họ trả lời: "Im lặng! Không phải chuyện của anh! Không được tranh cãi! Chúng tôi sẽ làm những gì cấp trên yêu cầu!" Vâng, điều đó đã thực sự làm tôi kinh ngạc...

Một buổi chiều tôi ra khỏi hầm trú ẩn để đi ngoài và thấy các bạn mình đang ăn khoai tây. Lạy Chúa tôi - khoai tây! Tôi hỏi:" Các cậu lấy chúng ở đâu vậy?" "À, ở chỗ anh nuôi đấy. Trong nhà bếp." Tôi chạy tới tay đầu bếp đó: "Làm thế nào để tôi có được khoai tây của anh?" Anh ta nói: "Khoai tây... thứ đó phải kiếm mới có được." Tôi trả lời: "Tôi muốn kiếm lấy chúng! Tôi đang đói lắm!" "Cậu biết không" - anh ta bảo - "ngày mai hãy quay lại đây, sau khi trời tối - đem theo củi khô, cưa, cắt chúng, sao cho tới 5 giờ sáng, khi tôi tới đây, nước đã được đun sôi. Hiểu chưa?" "Hiểu." Tôi đã lao động suốt cả đêm hôm đó, chuyển củi từ bờ sông lên, cưa chúng ra bằng chiếc cưa tay, bổ chúng bằng cái rìu luôn chỉ chực văng ra khỏi cán, và tới 5 giờ sáng tôi đã đun sôi nước và chuẩn bị đủ thứ để đốt lò. Anh ta quan sát mọi việc, miệng bảo: "Tốt lắm! Cậu làm một mình, vậy mà hãy xem cậu đã làm được gì kìa! Tôi thuê cả hai ba người cũng chưa chắc làm được như thế. Cậu quả là một gã trẻ trai khỏe mạnh, tôi mang cho cậu khoai tây đây. Lấy đi." Tôi nói: "Tôi có thể lấy được bao nhiêu?" "Cứ lấy bao nhiêu tuỳ theo sức của cậu." Tôi có đem chiếc áo bekesh vạt ngắn của kỵ binh (bekesh: một loại áo khoác - Oleg Sheremet) theo trên người. Tôi nhồi đầy khoai tây vào cả hai bên túi áo - nhưng như thế dường như vẫn chưa đủ với tôi. Tôi rút ra một con dao Phần Lan, xẻ một đường quanh áo và nhồi khoai tây khắp thân mình. Rồi tôi cứ thế mà đi, trong lòng lâng lâng hạnh phúc, bụng nghĩ: "Bây giờ mình sẽ đem một ít đi rán, hoặc nướng chúng trên than hồng." Đột nhiên một sĩ quan tay áo đeo ba gạch xuất hiện. Hắn thấy tôi và bảo:

"Đồng chí học viên, lại đây!"

Tôi lại gần. Hắn nắm lấy áo bekesh của tôi và nói:

"Cái gì trong này?"

"Khoai tây."

"Ăn cắp?"

"Không, không phải ăn cắp - kiếm được đấy."

"Mày nói dối, đồ lợn, mày ăn cắp nó! Không ai có thể kiếm được nó, chúng ta không phải là một đơn vị để mày kiếm chác! Chắc chắn mày đã ăn cắp nó!"

Chúng tôi bước vào phòng ăn tập thể, nơi binh lính lúc đó đang ngồi ăn sáng. Mọi người đang uống thứ "trà" đó - chỉ là nước sôi với đường và một lát bánh mì. Hắn tuyên bố với họ:

"Các đồng chí binh sĩ, bọn Đức chỉ được có 200 gram bánh mì một ngày mà đi chiến đấu! Và hãy xem chúng chiến đấu như thế nào! Các anh được tới 500 gram, nhưng vẫn có những tên trộm cướp trong bọn các anh, chúng trộm cướp của các anh và ăn thức ăn của các anh. Đây, hãy nhìn xem!"

Hắn bắt đầu lôi khoai tây từ túi tôi ra và nện chúng lên mặt bàn. Lôi ra một củ - nện xuống, lại củ khác - nện xuống, miệng lặp đi lặp lại:

"Các anh có thấy thằng ăn cướp này không! Khoai của các anh đây! Đáng ra chúng phải ở trên bàn của các anh!"

Vâng, tất nhiên là đám lính bắt đầu xì xầm khi núi khoai tây dần xuất hiện. Hắn hét lên với tôi:

"Leo lên bàn!" Tôi leo lên trên cái bàn.

"Lột ngôi sao ra khỏi mũ!" Tôi cởi nó ra.

"Cởi thắt lưng ra" Tôi tháo nó ra.

"Cởi xà cạp ra." Tôi cởi chúng ra.

"Nhân danh Cộng hòa Xôviết Liên bang Nga, tôi tuyên bố tên trộm cướp này phạm tội xử bắn!"

Hắn rút súng ra và chĩa vào tôi. Từ lúc này tôi như bị mù. Tôi không còn trông thấy và nghe thấy gì nữa, tôi chỉ còn biết đứng như trời trồng trên đôi chân mình. Tôi nghĩ: "Thế đấy, bây giờ sẽ có một phát súng." Tôi đã chuẩn bị đón nhận tất cả. Một quãng thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua, tôi không biết nó kéo dài trong bao lâu. Tôi không nghe thấy tiếng súng, nhưng vẫn đứng lặng đi như vậy. Có ai đó kéo tay tôi - một lần, rồi lần thứ hai. Tôi mở mắt ra và trông thấy lữ đoàn trưởng, người mà tôi đã gửi báo cáo lên. Ông nhỏ nhẹ nói với tôi: "Xuống đi", và tôi ngã xuống, bất tỉnh. Vị đại tá ân cần bế tôi xuống, gắn lại ngôi sao cho tôi, đeo lại thắt lưng và bảo"Tự quấn lấy xà cạp nhé". Tôi cúi xuống, quấn đôi xà cạp. Ông lại nói: "Hãy cầm lấy chỗ khoai kia". Tôi cầm lấy khoai tây, ông liền vòng tay quanh vai tôi, và chúng tôi đi ra. Xung quanh hoàn toàn yên lặng: tất cả binh lính đứng nhìn chúng tôi, còn chúng tôi đi ra, mọi ánh mắt đều dõi theo. Ông khẽ hỏi tôi: "Cậu lấy khoai tây ở đâu vậy?" Tôi liền khóc rống lên. Thần kinh tôi đã chịu đựng tới giới hạn tột cùng, tôi khóc và kể cho ông chỗ mình đã kiếm khoai tây. Ông hôn lên trán tôi và bảo: "Con trai ạ, tai nạn đã qua rồi. Thôi, hãy ăn khoai của con đi."

Ba ngày sau người ta dồn chúng tôi lên một toa chở hàng và đưa chúng tôi tới một nơi nào đó. Có khoảng 60 tới 80 người chất trên một toa tàu - không còn chỗ nào mà xoay trở được! Không một ai biết nơi họ sẽ chở chúng tôi tới. Cuối cùng chúng tôi cũng được ra khỏi tàu. Đã có thể nghe thấy tiếng nổ và tiếng súng vang lên cách đó khoảng một cây số. Một người lính bị thương lê tới. Chúng tôi cất tiếng hỏi:

"Bác ơi, ai đang ở kia vậy?"

"À, người ta bảo bọn Đức đã nhảy dù xuống chỗ đấy."

"Thế chỗ chúng ta ở đây là đâu?"

"Có con sông Plotva ở quanh đây. Cách không xa chỗ này là Borodino. Còn kia là làng Myshkino."

Tuyệt. Tôi nhớ rồi - Myshkino.

Tới buổi chiều họ tập hợp chúng tôi vào một nhà tắm. Có khoảng 20 người ở trong đó. Một trung sĩ đứng nói: "Các đồng chí, đây, trước mặt ta là một khẩu đại liên kiểu mới nhất. Nó cần 4 người để điều khiển: một người mang nòng súng, một người khác mang đôi bánh xe này, hai người còn lại mang theo đạn. Hiểu chưa? Anh! (chỉ vào tôi), anh sẽ là xạ thủ Số Một! Hiểu chưa? Đây, vác lấy cái nòng." Tôi cầm lấy nòng súng. "Còn anh," - anh ta nói với một người khác trong trung đội tôi - "anh là xạ thủ Số Hai." Và đưa cho anh ta chiếc bánh xe. Anh ta chỉ định hai người nữa để mang đạn - họ cầm lấy các thùng đạn. "Để bắn các anh cần ấn vào đây, đẩy tới, kéo ở đây, lắp nó vào, và bắn - hiểu chưa?!" Mọi người đều đồng thanh: "Hiểu!!" Và không một ai trong chúng tôi hiểu chút gì. Thế là với lượng kiến thức như thế về súng máy chúng tôi tiến về hướng mặt trận, và lập tức bước vào chiến đấu. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng đạn réo. Tôi không phải là người hèn nhát, trái lại, tôi rất táo bạo liều lĩnh, nhưng khi đấy tôi đã cảm thấy cái chết - tôi cúi xuống tránh, chân và tay tôi run lẩy bẩy, không đứng dậy nổi, cảm thấy như mọi viên đạn đều bắn về mình, và không hiểu tại sao mình vẫn chưa bị bắn trúng?! Tôi nhìn quanh - Số Hai của tôi đã biến mất, cả người tiếp đạn cũng không thấy đâu, chỉ còn độc mình tôi với cái nòng súng. Nhưng tôi còn đeo thêm khẩu súng trường mười phát SVT, một cái balô, một chiếc mặt nạ phòng độc, một chiếc rìu, và chỉ có quỉ mới biết còn cái gì đeo thêm trên mình tôi nữa. Tổng cộng, tất cả trang bị của tôi lên tới 32 kg! Tôi nằm xuống. Ngay lúc đó một đại uý hô lớn: "Đồ cặn bã, tiến lên, vì Tổ quốc! Vì Stalin!" Và chọc khẩu súng lục vào gáy tôi. Tôi cũng hét: "Tiến lên!" Nhưng sau tôi làm gì còn ai?! Chẳng có ai cả... chỉ tôi và anh ta - hai chúng tôi. Chúng tôi chạy. Tất cả mọi người còn lại đâu rồi?... Tôi nhìn quanh. Họ đang nằm rải rác khắp nơi. Người ta đã đưa chúng tôi tới một quãng trống, trong khi bọn Đức đang nấp sau một ngôi làng. Đó không phải là một trận đánh, đó đơn giản chỉ là một cuộc tàn sát: chúng tôi thì nằm trên mặt đất trống trải, không tài nào trông thấy kẻ thù, nhưng kẻ thù thấy rõ chúng tôi và không để một ai ngóc đầu dậy. Trong khi đó máy bay của chúng bay trên đầu, bắn hạ những ai đang di chuyển, khẩu súng máy trên máy bay bắn một tràng sượt qua người tôi. Tôi ngã xuống đất một lần nữa, rồi tôi giơ tay lên hét với ai đó, tôi cũng không biết là đã hét với ai nữa: "Tiến lên! Vì Tổ quốc! Vì Stalin!" Ngay lúc đó tôi bị trúng đạn vào tay phải. Tôi không biết vết thương có nặng không, nhưng có thể vì sợ hay do quá bất ngờ nên tôi lăn ra bất tỉnh. Và đó là lần thử lửa đầu tiên của tôi.

Tôi tỉnh dậy vào ban đêm. Trời rất lạnh - trận đánh xảy ra vào 15 tháng Mười năm 1941. Toàn thân tôi bị tê cóng. Tôi đứng dậy, nhưng đôi chân không còn ủng nữa - có ai đó đã lấy mất ủng của tôi và tôi chỉ còn có vải bọc chân. Tôi quan sát - có hai ngón tay bị gẫy, máu vón cục trên đó. Tôi xé áo lót, cố gắng tìm được cách băng bó vết thương. Không một ai trong chúng tôi có được hộp sơ cứu cá nhân. Dù vậy, vẫn có một loại dung dịch chùi rửa đựng trong mặt nạ phòng độc, nhưng chúng tôi đã uống hết tất cả trước khi đến được mặt trận, bởi trong thành phần chất lỏng này có rượu cồn. Chúng tôi đổ dung dịch này qua bột than hoặc than đá và sau đó có được loại cồn trắng tuyệt hảo. Khi tỉnh dậy, tôi liền cảm thấy đói, nhưng không còn gì để ăn - trong hai ngày người ta chỉ phát cho chúng tôi có hai cái bánh bít cốt và hai con cá muối...

Khi đứng lên, tôi lập tức tìm đường về phía quân ta. Tôi trông thấy nhiều xác lính chết nằm rải rác khắp nơi. Tôi tìm được một biđông trong chứa nước đã đóng băng trên một cái xác, một chiếc bánh bít cốt trên cái xác khác, rồi lột lấy đôi ủng của một người nữa. Đã định lấy tiếp chiếc áo khoác của ai đó, nhưng rồi tôi thấy có một người đang cử động. Anh ta nói:

"Bạn ơi, giúp tôi với."

"Anh là ai?" - tôi hỏi.

"Tôi là Pet'ka."

"Anh bị sao vậy?"

"Tôi bị thương vào đầu gối. Giúp tôi với, bạn ơi."

Anh ta lớn tuổi hơn tôi và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn, như sau này tôi nhận thấy. Anh ta nói:

"Anh biết không, bọn Đức đã đi ngang qua, chúng lấy ủng của những người chết, lột cả ủng của anh. Tôi đã thấy tất cả."

"Cái gì, thế có phải là chúng ta đang bị bao vây không?!"

"Không chỉ bị bao vây, hiện chúng ta đang ở vùng bị bọn Đức chiếm đóng rồi."

"Petia, Chúng ta phải tìm cách trốn thoát thôi!"

"Cậu hãy đưa tôi tới đống cỏ khô kia đi."

Anh ta rất nặng, nhưng tôi đã kéo được anh ta khoảng 150 mét tới tận đống cỏ khô đó, và chúng tôi khoét một cái lỗ rồi trườn vào trong. Nước trong bình đã tan ra, chúng tôi uống nó, ăn hết cái bánh, và anh ta nói: "Có một cái làng ở phía đối diện với chúng ta. Hãy vượt qua sông, rồi đi tới ngôi nhà đầu tiên và hỏi xin ai đó một bữa chén thử xem." Nhưng tôi không biết bơi. Bèn tìm lấy hai khúc gỗ, buộc lại bằng cành cây, rồi vượt qua sông bằng cái bè đó. Tới gõ cửa một ngôi nhà. Một ông già ra mở cửa, vừa trông thấy tôi ông liền la lên: "Con trai quý mến ơi, đi đi, làng này đang đầy bọn Đức." Tôi nói: "Cụ ơi, chúng con cần được ăn, con không đi một mình, còn có một đồng chí nữa đang bị thương." Ông lão bảo: "Chờ đấy, để ta kiếm cho chút ít, con sẽ được biết chúng ta sống khá như thế nào." Tóm lại, ông lão cho chúng tôi thức ăn và chỉ dẫn cách tìm đường trở về phía quân ta. Đêm tới, Peter và tôi lên đường. Tôi nói: "Petia, tớ không thể vác nổi cậu nữa. Tớ hết sức rồi. Ít nhất hãy nhảy lò cò một chân đi." Cậu ấy bắt đầu nhảy lò cò, tay dựa vào tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được con sông, băng qua nó, vừa ướt và lạnh. Chúng tôi chật vật đi thêm được 200 mét rồi đột nhiên có tiếng: "Halt, ai đó?" Rồi họ tóm lấy chúng tôi và chúng tôi lập tức bị tách khỏi nhau. Trong tình trạng bị ướt sũng, sương giá phủ đầy như thế tôi bước vào một căn nhà. Một đại uý ngồi sẵn bên trong, anh ta rút khẩu súng lục của mình ra và đặt lên bàn:

"Ngồi xuống!" - (một cách thân mật, tất nhiên) Tôi ngồi xuống.

"Hãy kể đi!"

"Kể gì?"

"Anh là ai?"

Tôi nói cho anh ta biết mình là ai.

"Anh nói dối! Đó không phải là anh. Hãy kể cho tôi xem anh đã được tuyển dụng như thế nào (bởi tình báo địch, thế đấy)" - Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi!

"Hãy cho tôi biết, có phải tôi đang ở NKVD?" - tôi hỏi.

"NKVD nào?! Anh nghĩ anh đang ở đâu vậy?! Anh đang ở trong Hồng quân, hiểu chưa?"

"Tôi hiểu rồi."

"Hãy cho tôi biết ai tuyển dụng anh, anh tới đây với nhiệm vụ gì? Ai đã sắp xếp để anh bị thương nhẹ? Đừng nói dối, nếu không tôi sẽ bắn anh ngay lập tức!" - Hắn lại gần tôi, tay cầm khẩu súng lục và chọc nòng súng vào lợi tôi. Xé rách môi tôi - một lần, rồi một lần nữa...

"Tại sao anh lại đánh tôi?! Tôi sẽ kể." - Tôi nói.

"A ha, tốt đấy!" - Và chọc vào môi tôi một lần nữa, làm dập nó, máu tuôn ra.

"Anh muốn tôi kể về cái gì?"

"Cái gì, mày vẫn còn giấu diếm thế à?! Mày đã nói là sẽ kể cơ mà!"

"Vâng, tôi sẽ kể, nhưng hãy cho tôi biết anh muốn tôi kể cái gì cơ đã?!"

"Ai đã tuyển dụng mày? Đồng bọn của mày ở đâu? Thằng bạn của mày đã kể cho chúng tao là mày đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder để giết các chính trị viên! Hãy cho tao biết ai đã tuyển mày? Nhiệm vụ của mày là gì?" - Tôi như bị đẩy bật lại, không nhận ra hết mức độ trầm trọng của sự việc đang xảy ra. "Bạn nào kể cho anh?"

"Bạn anh, Pet'ka."

Tôi nghĩ: "Thật là quân vô lại! Sao hắn dám nói thế! Mình đã cứu hắn khỏi chỗ chết, kéo hắn thoát về! Và mình đã được trả ơn thế này đây!" Ngay lúc đó một vị đại tá bước vào. Tôi quay sang ông ta và nói:

"Đồng chí đại tá, xin cứu tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy!?"

"Ở Maskva có ai biết anh không?" - ông ta nói.

Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Anh tôi đang phụ trách Phòng Số một trong Văn phòng Chánh Uỷ viên Công tố của Hồng quân Liên Xô. Tôi bảo:

"Anh tôi hiện thế này, thế này... "

"Họ của anh ta là gì?"

"Brainer, Lev Markovich."

"Chờ một phút. Đồng chí đại uý, ta ngưng hỏi cung đã."

Ông ta quay lại sau 15 phút: "Hãy để anh ta đi, tôi xin chịu trách nhiệm." Ông ta cho tôi đi, bên ngoài là Pet'ka đang đứng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hôn. Anh ấy nói: "Dan'ka, sao cậu lại vu khống tôi những chuyện như thế?" Tôi nói: "Chuyện gì vậy?" "Thế đấy, cậu đã kể rằng tớ và cậu đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder." Tôi bảo: "Pet'ka, họ cũng nói với tớ hệt như vậy. Nói là cậu đã kể thế." Tóm lại, họ đưa chúng tôi tới Borodino bởi chúng tôi đang bị thương, chất chúng tôi lên một chiếc xe chở khách và chúng tôi khởi hành đi Maskva. Trên đường đi, Pet'ka tiến lại gần mấy bà cụ già. Cậu ta quấn giẻ đầy mình, nhưng không có nổi lấy một chiếc mũ, đành quàng chiếc khăn hay chiếc mùi soa lên đầu rồi rên lên: "Mẹ ơi, cho chúng con chút gì ăn!" Tôi rất xấu hổ và gọi: "Petia!" Nhưng cậu ta vẫn: "Mẹ ơi, cho chúng con thức ăn!" Và mấy cụ già, bằng đôi bàn tay run rẩy, san ra chỗ tài sản quý báu của mình, tổng cộng cũng chỉ vừa đủ cho họ ăn, rồi chìa cho anh ta chừng một mẩu bánh con. Anh ta quay lại để chia nó với tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được ga Belorussia (ở Maskva - Oleg Sheremet). Tại đây đám cảnh sát lôi tôi đi xềnh xệch và đưa tôi tới chỗ sảnh chính rồi đặt tôi lại đó. Rồi chúng tôi được đưa vào bệnh viện, hai ngày sau chúng tôi được chất lên một đoàn tàu để tới Urals.

Daniil Zlatkin
Phần 2

D.Zlatkin
Phần 1

Tôi là người đã từng trải qua chiến tranh - cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Tôi tham gia chiến đấu từ mùng 3 tháng Bảy năm 1941 cho tới tận tháng Năm năm 46. Thực ra, đối với tôi, chiến tranh là một cuộc chiến liên tục để sống còn, đặc biệt trong những điều kiện cực kỳ gay go mà tôi đã trải qua, mặc dù không phải lúc nào cũng cầm súng trong tay. Dưới đây tôi xin được kể đôi lời về quãng đời đó.

Ngày 22 tháng Sáu tôi đang ở thành phố Feodosia, nơi chúng tôi tiến hành xây dựng một hệ thống đồn bót bí mật. Tôi sống trong khách sạn Astoria. Tôi thức dậy lúc 10 giờ - xung quanh không còn ai. Tôi ra ngoài và nhận ra chiến tranh đã bắt đầu. Vâng, lúc đó tôi cảm thấy thật là... Có lẽ, cũng như tất cả những công dân Xôviết khác - tôi thấy thật bực bội lo lắng, bởi bố mẹ tôi sống gần biên giới phía tây. Thêm nữa, tôi đã hiểu quá rõ chiến tranh là thế nào vì đã từng phục vụ trong quân đội như một sĩ quan công binh. Chiều hôm đó tôi đã có mặt trên một chuyến tàu đi thẳng về Maskva. Tại Maskva tôi lập tức bị động viên đi xây dựng các công trình trú bom. Và vào ngày 3 tháng Bảy, sau bài phát biểu của Đồng chí Stalin, tất cả các bạn bè tôi đều đi đăng ký vào dân quân vũ trang, nhưng tôi đang là một kỹ thuật viên chuyên nghiệp có tay nghề - tôi chỉ nhận được lệnh động viên từ dân uỷ quân khu khi có lệnh điều động đặc biệt, nên không thể cùng đi với họ. Các bạn tôi bảo: "Dan'ka, chuyện quái gì vậy?! Tất cả bọn tớ đều lên đường! Còn cậu thì sao? Cùng đi đi chứ!" Ông quản đốc cũng nói: "Danil, sao cậu lại làm vậy? Tất cả các đồng chí của cậu đang lên đường, còn cậu lại không?" Vì thế tôi cũng đi tham gia vào cái mà người ta vẫn gọi là tổ chức dân quân vũ trang. Khi phát hiện ra tôi là một hạ sĩ quan, người ta liền chỉ định tôi làm trung sĩ trong một đại đội công binh độc lập. Tôi được giao cho khoảng 300 người, hầu như tất cả bọn họ đều có trình độ học vấn khá cao, thậm chí có cả tiến sĩ khoa học, nhà thơ, nhà văn, nhà soạn nhạc - đủ thứ, nhưng chỗ chúng tôi không có ai là công nhân cả. Tôi lập tức tập hợp họ lại - rống lên: "Vào hàng!" - họ liền thấy trước mặt mình đúng là một trung sĩ thực thụ đã từng tham gia quân ngũ. Thế đó, tôi tập hợp họ lại và đưa họ tới chỗ thợ cắt tóc, và mặc cho những trò phản ứng và chống đối tất cả bọn họ đều bị húi trọc. Rồi họ được dẫn tới nhà tắm. Thế là mọi chuyện đều được đưa về đúng chỗ của nó - đám người lộn xộn kia đã thực sự trở thành một tiểu đoàn công binh, được chỉ huy bởi một trung sĩ thực thụ.

Ngày 4 hoặc 5 tháng Bảy chúng tôi rời Maskva đi theo đường Mozhaisk. Chúng tôi hành quân 30 km tới ngôi làng Tolstopaltsevo và cắm trại tại đó. Cuộc đời quân ngũ bắt đầu: huấn luyện, tập sử dụng vũ khí, nắm vững các loại đạn và chất nổ. Một lần tôi được gọi lên gặp chỉ huy công binh sư đoàn, bạn tôi Zinoviy Levin, anh ta nói: "Dania, cậu phải tới quân khu Ivanovo và đem về từ đó 6 tấn thuốc nổ. Đồng thời lấy khoảng 150-200 quả mìn cá nhân và mìn chống tăng, kèm theo 5 - 6 xe nhà bếp." Tôi bảo: "Trong tay tớ sẽ có những gì?" Anh ta nói: "Cậu lấy theo một trung đội lính và một xe GAZ AA. Chúng tôi ngồi lên xe và tôi hỏi: "Lấy gì để tôi đem tất cả những thứ đó về đây bây giờ?!" Họ bảo tôi: "Cậu là kỹ sư công binh gì mà không tìm được cách chuyển hàng về?!"

Tôi không còn nhớ mình đã làm cách nào để tới được Podolsk, bởi đường tới Ivanovo là con đường hoàn toàn khác, nhưng vì lý do nào đó chúng tôi đi theo một ngả khác và xuất hiện ở Podolsk. Trong khi ngồi trên xe đi ngang Podolsk, tôi thấy cái bảng chỉ đường có ghi chữ "Xưởng ôtô", và một sáng kiến thoáng hiện ra trong đầu. Tôi bước vào phòng làm việc của viên quản đốc xưởng, đặït khẩu súng lục của mình lên bàn (tôi không có bao súng, khẩu súng lục được giắt vào thắt lưng) và nói: "Hãy nghe đây: các anh ngồi ở đây, tại hậu phương, ăn uống đầy mồm, trong khi chúng tôi đang phải chiến đấu!" - mặc dù chúng tôi chưa từng tham gia chiến đấu, tôi chỉ giả vờ rằng mình là một tay lính đã có kinh nghiệm. Hắn bảo: "Các anh cần gì?" Tôi nói: "Chúng tôi cần ít nhất 12 xe tải để đi vận chuyển chất nổ." Hắn đáp: "Tôi biết làm cách nào để kiếm ra chúng bây giờ?! Tôi cần có giấy phép!" Tôi ra lệnh: "Không để một xe nào ra khỏi đây, nhưng cứ để cho xe đi vào!" Tôi khóa trái hắn ở trong phòng, đặt một người đứng gác, đi ra ngoài, tập hợp tất cả những lái xe lại và bảo: "Các cậu, tớ có ở đây hai balô xúc xích hun khói, nửa balô đường và đồ hộp. Nhưng tớ không có vodka. Chúng ta cần phải lái tới quân khu Ivanovo và nhận chất nổ cùng các thiết bị khác dùng cho mặt trận. Ai sẽ đi cùng nào?" Mọi người đồng thanh: "Chúng tôi sẽ đi!" Bằng cách đó tôi có được 15 xe tải. Viên quản đốc hét với theo bên cửa sổ: "Quân vô lại! Mày sẽ bị ra toà!" Tôi bỏ đi cùng đoàn xe tải, đi xuyên khắp Matskva và tới được quân khu Ivanovo. Tại đó chúng tôi chất hàng và quay về đơn vị của mình vào sáng hôm sau. Cần kể thêm là trong khi chất hàng tôi cũng tiện tay xách luôn hai thùng đèn pin mà không ghi sổ. Khi trở về đại đội mình, tôi báo cáo mọi việc xảy ra lên đại đội trưởng. Anh ta bảo:

"Cậu biết không? Đừng trả những thùng đèn pin đó về kho dự trữ công binh, hãy đưa nó cho chúng tớ."

"Thưa đồng chí đại đội trưởng, tôi không có quyền làm chuyện đó." - tôi nói.

"Tôi ra lệnh cho anh đó!" - anh ta bắt đầu cất cao giọng.

"Tôi không tuân lệnh."

"Hãy lặp lại mệnh lệnh: để lại một thùng đèn pin!"

"Tôi sẽ không lặp lại mệnh lệnh đó!"

"Tôi sẽ đem anh đi xử bắn ngay lập tức!"

"Thử làm đi!"

Hắn ta rút khẩu Parabellum ra, tôi trông thấy bọt trắng sùi ra trên môi hắn, hắn dậm mạnh chân lên sàn nhà và hét:

"Lặp lại mệnh lệnh!"

Tôi mở nút áo quân phục của mình, xé phanh ngực áo, thét lên:

"Tới đây bắn tôi đi! Nhưng tôi sẽ không theo lệnh đó dâu!"

Hắn ném khẩu súng và mũ của mình xuống sàn nhà và dẫm chân lên trên, nhưng tôi đã quay đi và bỏ ra ngoài. Câu chuyện kết thúc tại đây, nhưng tôi bị cách chức và thôi không được làm trung sĩ của đại đội nữa. Tôi bị đưa vào một trung đội ở cùng người bạn thân Vasia Karpenko.

Sau đó chúng tôi bị chuyển tới khu làng Pupovo thuộc quân khu Smolensk. Tại đây tôi tham gia cuộc bắt giữ ba tên phi công, máy bay của chúng bị súng phòng không của ta bắn hạ. Chúng bị bắt và giải tới Sở chỉ huy sư đoàn. Chúng bước vào đó với dáng điệu rất vênh váo - vung tay lên đằng trước, miệng hét: "Heil Hitler!" Điều đó gây một ấn tượng to lớn đối với tôi: làm sao một tên tù binh lại có thể hành xử như vậy?

Ngày hôm sau một chiến binh cứng cựa thực thụ có trên vai ba vạch (trung tá - Artem Drabkin) tới, tập hợp toàn đại đội lại và thông báo: "Bất cứ ai có trình độ văn hóa cấp hai hoặc cao hơn, bước lên trước hai bước!" Tôi làm theo.
"Các đồng chí, các anh sẽ tới một trường huấn luyện để nhận được những cấp bậc phù hợp với trình độ chuyên môn của bản thân. Anh kia, làm nghề gì?"
"Tôi là một kỹ sư xây dựng" - tôi nói.
"Vậy anh sẽ là một kỹ sư công binh bậc ba."
Thật tuyệt. Họ dồn chúng tôi lên xe tải và chở tới làng Korni gần Viazma. Tại đấy 36 người chúng tôi được phân vào trung đội súng máy số 1, đại đội một, tiểu đoàn một. Tôi nói: "Tại sao lại là xạ thủ súng máy?! Các anh làm cái gì vậy?! Tôi tới đây đề trở thành một kỹ sư công binh kia mà?!" "Im lặng! Không trao đổi!" Tời buổi chiều tôi ngồi viết một báo cáo, trong ghi rằng tôi đã bị lừa dối. Họ viết trả lại trên tờ báo cáo đấy: "Đồng chí Zlatkin, tổ quốc đang cần những xạ thủ súng máy."

Công việc huấn luyện bắt đầu - suốt từ 6 giờ sáng cho tới tận chiều tối khẩu súng trường không rời khỏi vai tôi, chúng tôi tập đi đều bước, ca hát, mở lách cách cái khóa nòng rỗng không - đó là cách để người ta dạy chúng tôi trở thành xạ thủ súng máy. Còn về thức ăn - trà uống với đường vào buổi sáng, cùng một lát bánh mì; vào giữa ngày, cho bữa trưa là một ít cháo lúa mạch loãng hầu như không có gì ở trong, thậm chí không được đến một củ khoai nhỏ, và kasha (cháo ngũ cốc), còn cho bữa tối - lại đường và một lát bánh mì. Sau 10 ngày chúng tôi đã bạc nhược đến mức phải chật vật mới lê đi được. Tôi liên tục hỏi: "Khi nào thì chúng ta sẽ học sử dụng súng máy? Những khẩu súng máy đó đâu rồi?" Họ trả lời: "Im lặng! Không phải chuyện của anh! Không được tranh cãi! Chúng tôi sẽ làm những gì cấp trên yêu cầu!" Vâng, điều đó đã thực sự làm tôi kinh ngạc...

Một buổi chiều tôi ra khỏi hầm trú ẩn để đi ngoài và thấy các bạn mình đang ăn khoai tây. Lạy Chúa tôi - khoai tây! Tôi hỏi:" Các cậu lấy chúng ở đâu vậy?" "À, ở chỗ anh nuôi đấy. Trong nhà bếp." Tôi chạy tới tay đầu bếp đó: "Làm thế nào để tôi có được khoai tây của anh?" Anh ta nói: "Khoai tây... thứ đó phải kiếm mới có được." Tôi trả lời: "Tôi muốn kiếm lấy chúng! Tôi đang đói lắm!" "Cậu biết không" - anh ta bảo - "ngày mai hãy quay lại đây, sau khi trời tối - đem theo củi khô, cưa, cắt chúng, sao cho tới 5 giờ sáng, khi tôi tới đây, nước đã được đun sôi. Hiểu chưa?" "Hiểu." Tôi đã lao động suốt cả đêm hôm đó, chuyển củi từ bờ sông lên, cưa chúng ra bằng chiếc cưa tay, bổ chúng bằng cái rìu luôn chỉ chực văng ra khỏi cán, và tới 5 giờ sáng tôi đã đun sôi nước và chuẩn bị đủ thứ để đốt lò. Anh ta quan sát mọi việc, miệng bảo: "Tốt lắm! Cậu làm một mình, vậy mà hãy xem cậu đã làm được gì kìa! Tôi thuê cả hai ba người cũng chưa chắc làm được như thế. Cậu quả là một gã trẻ trai khỏe mạnh, tôi mang cho cậu khoai tây đây. Lấy đi." Tôi nói: "Tôi có thể lấy được bao nhiêu?" "Cứ lấy bao nhiêu tuỳ theo sức của cậu." Tôi có đem chiếc áo bekesh vạt ngắn của kỵ binh (bekesh: một loại áo khoác - Oleg Sheremet) theo trên người. Tôi nhồi đầy khoai tây vào cả hai bên túi áo - nhưng như thế dường như vẫn chưa đủ với tôi. Tôi rút ra một con dao Phần Lan, xẻ một đường quanh áo và nhồi khoai tây khắp thân mình. Rồi tôi cứ thế mà đi, trong lòng lâng lâng hạnh phúc, bụng nghĩ: "Bây giờ mình sẽ đem một ít đi rán, hoặc nướng chúng trên than hồng." Đột nhiên một sĩ quan tay áo đeo ba gạch xuất hiện. Hắn thấy tôi và bảo:

"Đồng chí học viên, lại đây!"

Tôi lại gần. Hắn nắm lấy áo bekesh của tôi và nói:

"Cái gì trong này?"

"Khoai tây."

"Ăn cắp?"

"Không, không phải ăn cắp - kiếm được đấy."

"Mày nói dối, đồ lợn, mày ăn cắp nó! Không ai có thể kiếm được nó, chúng ta không phải là một đơn vị để mày kiếm chác! Chắc chắn mày đã ăn cắp nó!"

Chúng tôi bước vào phòng ăn tập thể, nơi binh lính lúc đó đang ngồi ăn sáng. Mọi người đang uống thứ "trà" đó - chỉ là nước sôi với đường và một lát bánh mì. Hắn tuyên bố với họ:

"Các đồng chí binh sĩ, bọn Đức chỉ được có 200 gram bánh mì một ngày mà đi chiến đấu! Và hãy xem chúng chiến đấu như thế nào! Các anh được tới 500 gram, nhưng vẫn có những tên trộm cướp trong bọn các anh, chúng trộm cướp của các anh và ăn thức ăn của các anh. Đây, hãy nhìn xem!"

Hắn bắt đầu lôi khoai tây từ túi tôi ra và nện chúng lên mặt bàn. Lôi ra một củ - nện xuống, lại củ khác - nện xuống, miệng lặp đi lặp lại:

"Các anh có thấy thằng ăn cướp này không! Khoai của các anh đây! Đáng ra chúng phải ở trên bàn của các anh!"

Vâng, tất nhiên là đám lính bắt đầu xì xầm khi núi khoai tây dần xuất hiện. Hắn hét lên với tôi:

"Leo lên bàn!" Tôi leo lên trên cái bàn.

"Lột ngôi sao ra khỏi mũ!" Tôi cởi nó ra.

"Cởi thắt lưng ra" Tôi tháo nó ra.

"Cởi xà cạp ra." Tôi cởi chúng ra.

"Nhân danh Cộng hòa Xôviết Liên bang Nga, tôi tuyên bố tên trộm cướp này phạm tội xử bắn!"

Hắn rút súng ra và chĩa vào tôi. Từ lúc này tôi như bị mù. Tôi không còn trông thấy và nghe thấy gì nữa, tôi chỉ còn biết đứng như trời trồng trên đôi chân mình. Tôi nghĩ: "Thế đấy, bây giờ sẽ có một phát súng." Tôi đã chuẩn bị đón nhận tất cả. Một quãng thời gian chờ đợi nặng nề trôi qua, tôi không biết nó kéo dài trong bao lâu. Tôi không nghe thấy tiếng súng, nhưng vẫn đứng lặng đi như vậy. Có ai đó kéo tay tôi - một lần, rồi lần thứ hai. Tôi mở mắt ra và trông thấy lữ đoàn trưởng, người mà tôi đã gửi báo cáo lên. Ông nhỏ nhẹ nói với tôi: "Xuống đi", và tôi ngã xuống, bất tỉnh. Vị đại tá ân cần bế tôi xuống, gắn lại ngôi sao cho tôi, đeo lại thắt lưng và bảo"Tự quấn lấy xà cạp nhé". Tôi cúi xuống, quấn đôi xà cạp. Ông lại nói: "Hãy cầm lấy chỗ khoai kia". Tôi cầm lấy khoai tây, ông liền vòng tay quanh vai tôi, và chúng tôi đi ra. Xung quanh hoàn toàn yên lặng: tất cả binh lính đứng nhìn chúng tôi, còn chúng tôi đi ra, mọi ánh mắt đều dõi theo. Ông khẽ hỏi tôi: "Cậu lấy khoai tây ở đâu vậy?" Tôi liền khóc rống lên. Thần kinh tôi đã chịu đựng tới giới hạn tột cùng, tôi khóc và kể cho ông chỗ mình đã kiếm khoai tây. Ông hôn lên trán tôi và bảo: "Con trai ạ, tai nạn đã qua rồi. Thôi, hãy ăn khoai của con đi."

Ba ngày sau người ta dồn chúng tôi lên một toa chở hàng và đưa chúng tôi tới một nơi nào đó. Có khoảng 60 tới 80 người chất trên một toa tàu - không còn chỗ nào mà xoay trở được! Không một ai biết nơi họ sẽ chở chúng tôi tới. Cuối cùng chúng tôi cũng được ra khỏi tàu. Đã có thể nghe thấy tiếng nổ và tiếng súng vang lên cách đó khoảng một cây số. Một người lính bị thương lê tới. Chúng tôi cất tiếng hỏi:

"Bác ơi, ai đang ở kia vậy?"

"À, người ta bảo bọn Đức đã nhảy dù xuống chỗ đấy."

"Thế chỗ chúng ta ở đây là đâu?"

"Có con sông Plotva ở quanh đây. Cách không xa chỗ này là Borodino. Còn kia là làng Myshkino."

Tuyệt. Tôi nhớ rồi - Myshkino.

Tới buổi chiều họ tập hợp chúng tôi vào một nhà tắm. Có khoảng 20 người ở trong đó. Một trung sĩ đứng nói: "Các đồng chí, đây, trước mặt ta là một khẩu đại liên kiểu mới nhất. Nó cần 4 người để điều khiển: một người mang nòng súng, một người khác mang đôi bánh xe này, hai người còn lại mang theo đạn. Hiểu chưa? Anh! (chỉ vào tôi), anh sẽ là xạ thủ Số Một! Hiểu chưa? Đây, vác lấy cái nòng." Tôi cầm lấy nòng súng. "Còn anh," - anh ta nói với một người khác trong trung đội tôi - "anh là xạ thủ Số Hai." Và đưa cho anh ta chiếc bánh xe. Anh ta chỉ định hai người nữa để mang đạn - họ cầm lấy các thùng đạn. "Để bắn các anh cần ấn vào đây, đẩy tới, kéo ở đây, lắp nó vào, và bắn - hiểu chưa?!" Mọi người đều đồng thanh: "Hiểu!!" Và không một ai trong chúng tôi hiểu chút gì. Thế là với lượng kiến thức như thế về súng máy chúng tôi tiến về hướng mặt trận, và lập tức bước vào chiến đấu. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng đạn réo. Tôi không phải là người hèn nhát, trái lại, tôi rất táo bạo liều lĩnh, nhưng khi đấy tôi đã cảm thấy cái chết - tôi cúi xuống tránh, chân và tay tôi run lẩy bẩy, không đứng dậy nổi, cảm thấy như mọi viên đạn đều bắn về mình, và không hiểu tại sao mình vẫn chưa bị bắn trúng?! Tôi nhìn quanh - Số Hai của tôi đã biến mất, cả người tiếp đạn cũng không thấy đâu, chỉ còn độc mình tôi với cái nòng súng. Nhưng tôi còn đeo thêm khẩu súng trường mười phát SVT, một cái balô, một chiếc mặt nạ phòng độc, một chiếc rìu, và chỉ có quỉ mới biết còn cái gì đeo thêm trên mình tôi nữa. Tổng cộng, tất cả trang bị của tôi lên tới 32 kg! Tôi nằm xuống. Ngay lúc đó một đại uý hô lớn: "Đồ cặn bã, tiến lên, vì Tổ quốc! Vì Stalin!" Và chọc khẩu súng lục vào gáy tôi. Tôi cũng hét: "Tiến lên!" Nhưng sau tôi làm gì còn ai?! Chẳng có ai cả... chỉ tôi và anh ta - hai chúng tôi. Chúng tôi chạy. Tất cả mọi người còn lại đâu rồi?... Tôi nhìn quanh. Họ đang nằm rải rác khắp nơi. Người ta đã đưa chúng tôi tới một quãng trống, trong khi bọn Đức đang nấp sau một ngôi làng. Đó không phải là một trận đánh, đó đơn giản chỉ là một cuộc tàn sát: chúng tôi thì nằm trên mặt đất trống trải, không tài nào trông thấy kẻ thù, nhưng kẻ thù thấy rõ chúng tôi và không để một ai ngóc đầu dậy. Trong khi đó máy bay của chúng bay trên đầu, bắn hạ những ai đang di chuyển, khẩu súng máy trên máy bay bắn một tràng sượt qua người tôi. Tôi ngã xuống đất một lần nữa, rồi tôi giơ tay lên hét với ai đó, tôi cũng không biết là đã hét với ai nữa: "Tiến lên! Vì Tổ quốc! Vì Stalin!" Ngay lúc đó tôi bị trúng đạn vào tay phải. Tôi không biết vết thương có nặng không, nhưng có thể vì sợ hay do quá bất ngờ nên tôi lăn ra bất tỉnh. Và đó là lần thử lửa đầu tiên của tôi.

Tôi tỉnh dậy vào ban đêm. Trời rất lạnh - trận đánh xảy ra vào 15 tháng Mười năm 1941. Toàn thân tôi bị tê cóng. Tôi đứng dậy, nhưng đôi chân không còn ủng nữa - có ai đó đã lấy mất ủng của tôi và tôi chỉ còn có vải bọc chân. Tôi quan sát - có hai ngón tay bị gẫy, máu vón cục trên đó. Tôi xé áo lót, cố gắng tìm được cách băng bó vết thương. Không một ai trong chúng tôi có được hộp sơ cứu cá nhân. Dù vậy, vẫn có một loại dung dịch chùi rửa đựng trong mặt nạ phòng độc, nhưng chúng tôi đã uống hết tất cả trước khi đến được mặt trận, bởi trong thành phần chất lỏng này có rượu cồn. Chúng tôi đổ dung dịch này qua bột than hoặc than đá và sau đó có được loại cồn trắng tuyệt hảo. Khi tỉnh dậy, tôi liền cảm thấy đói, nhưng không còn gì để ăn - trong hai ngày người ta chỉ phát cho chúng tôi có hai cái bánh bít cốt và hai con cá muối...

Khi đứng lên, tôi lập tức tìm đường về phía quân ta. Tôi trông thấy nhiều xác lính chết nằm rải rác khắp nơi. Tôi tìm được một biđông trong chứa nước đã đóng băng trên một cái xác, một chiếc bánh bít cốt trên cái xác khác, rồi lột lấy đôi ủng của một người nữa. Đã định lấy tiếp chiếc áo khoác của ai đó, nhưng rồi tôi thấy có một người đang cử động. Anh ta nói:

"Bạn ơi, giúp tôi với."

"Anh là ai?" - tôi hỏi.

"Tôi là Pet'ka."

"Anh bị sao vậy?"

"Tôi bị thương vào đầu gối. Giúp tôi với, bạn ơi."

Anh ta lớn tuổi hơn tôi và có lẽ nhiều kinh nghiệm hơn, như sau này tôi nhận thấy. Anh ta nói:

"Anh biết không, bọn Đức đã đi ngang qua, chúng lấy ủng của những người chết, lột cả ủng của anh. Tôi đã thấy tất cả."

"Cái gì, thế có phải là chúng ta đang bị bao vây không?!"

"Không chỉ bị bao vây, hiện chúng ta đang ở vùng bị bọn Đức chiếm đóng rồi."

"Petia, Chúng ta phải tìm cách trốn thoát thôi!"

"Cậu hãy đưa tôi tới đống cỏ khô kia đi."

Anh ta rất nặng, nhưng tôi đã kéo được anh ta khoảng 150 mét tới tận đống cỏ khô đó, và chúng tôi khoét một cái lỗ rồi trườn vào trong. Nước trong bình đã tan ra, chúng tôi uống nó, ăn hết cái bánh, và anh ta nói: "Có một cái làng ở phía đối diện với chúng ta. Hãy vượt qua sông, rồi đi tới ngôi nhà đầu tiên và hỏi xin ai đó một bữa chén thử xem." Nhưng tôi không biết bơi. Bèn tìm lấy hai khúc gỗ, buộc lại bằng cành cây, rồi vượt qua sông bằng cái bè đó. Tới gõ cửa một ngôi nhà. Một ông già ra mở cửa, vừa trông thấy tôi ông liền la lên: "Con trai quý mến ơi, đi đi, làng này đang đầy bọn Đức." Tôi nói: "Cụ ơi, chúng con cần được ăn, con không đi một mình, còn có một đồng chí nữa đang bị thương." Ông lão bảo: "Chờ đấy, để ta kiếm cho chút ít, con sẽ được biết chúng ta sống khá như thế nào." Tóm lại, ông lão cho chúng tôi thức ăn và chỉ dẫn cách tìm đường trở về phía quân ta. Đêm tới, Peter và tôi lên đường. Tôi nói: "Petia, tớ không thể vác nổi cậu nữa. Tớ hết sức rồi. Ít nhất hãy nhảy lò cò một chân đi." Cậu ấy bắt đầu nhảy lò cò, tay dựa vào tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được con sông, băng qua nó, vừa ướt và lạnh. Chúng tôi chật vật đi thêm được 200 mét rồi đột nhiên có tiếng: "Halt, ai đó?" Rồi họ tóm lấy chúng tôi và chúng tôi lập tức bị tách khỏi nhau. Trong tình trạng bị ướt sũng, sương giá phủ đầy như thế tôi bước vào một căn nhà. Một đại uý ngồi sẵn bên trong, anh ta rút khẩu súng lục của mình ra và đặt lên bàn:

"Ngồi xuống!" - (một cách thân mật, tất nhiên) Tôi ngồi xuống.

"Hãy kể đi!"

"Kể gì?"

"Anh là ai?"

Tôi nói cho anh ta biết mình là ai.

"Anh nói dối! Đó không phải là anh. Hãy kể cho tôi xem anh đã được tuyển dụng như thế nào (bởi tình báo địch, thế đấy)" - Bây giờ thì tôi hiểu ra rồi!

"Hãy cho tôi biết, có phải tôi đang ở NKVD?" - tôi hỏi.

"NKVD nào?! Anh nghĩ anh đang ở đâu vậy?! Anh đang ở trong Hồng quân, hiểu chưa?"

"Tôi hiểu rồi."

"Hãy cho tôi biết ai tuyển dụng anh, anh tới đây với nhiệm vụ gì? Ai đã sắp xếp để anh bị thương nhẹ? Đừng nói dối, nếu không tôi sẽ bắn anh ngay lập tức!" - Hắn lại gần tôi, tay cầm khẩu súng lục và chọc nòng súng vào lợi tôi. Xé rách môi tôi - một lần, rồi một lần nữa...

"Tại sao anh lại đánh tôi?! Tôi sẽ kể." - Tôi nói.

"A ha, tốt đấy!" - Và chọc vào môi tôi một lần nữa, làm dập nó, máu tuôn ra.

"Anh muốn tôi kể về cái gì?"

"Cái gì, mày vẫn còn giấu diếm thế à?! Mày đã nói là sẽ kể cơ mà!"

"Vâng, tôi sẽ kể, nhưng hãy cho tôi biết anh muốn tôi kể cái gì cơ đã?!"

"Ai đã tuyển dụng mày? Đồng bọn của mày ở đâu? Thằng bạn của mày đã kể cho chúng tao là mày đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder để giết các chính trị viên! Hãy cho tao biết ai đã tuyển mày? Nhiệm vụ của mày là gì?" - Tôi như bị đẩy bật lại, không nhận ra hết mức độ trầm trọng của sự việc đang xảy ra. "Bạn nào kể cho anh?"

"Bạn anh, Pet'ka."

Tôi nghĩ: "Thật là quân vô lại! Sao hắn dám nói thế! Mình đã cứu hắn khỏi chỗ chết, kéo hắn thoát về! Và mình đã được trả ơn thế này đây!" Ngay lúc đó một vị đại tá bước vào. Tôi quay sang ông ta và nói:

"Đồng chí đại tá, xin cứu tôi, chuyện gì đang xảy ra vậy!?"

"Ở Maskva có ai biết anh không?" - ông ta nói.

Đột nhiên một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi. Anh tôi đang phụ trách Phòng Số một trong Văn phòng Chánh Uỷ viên Công tố của Hồng quân Liên Xô. Tôi bảo:

"Anh tôi hiện thế này, thế này... "

"Họ của anh ta là gì?"

"Brainer, Lev Markovich."

"Chờ một phút. Đồng chí đại uý, ta ngưng hỏi cung đã."

Ông ta quay lại sau 15 phút: "Hãy để anh ta đi, tôi xin chịu trách nhiệm." Ông ta cho tôi đi, bên ngoài là Pet'ka đang đứng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hôn. Anh ấy nói: "Dan'ka, sao cậu lại vu khống tôi những chuyện như thế?" Tôi nói: "Chuyện gì vậy?" "Thế đấy, cậu đã kể rằng tớ và cậu đã được tuyển dụng tại Frankfurt-trên sông Oder." Tôi bảo: "Pet'ka, họ cũng nói với tớ hệt như vậy. Nói là cậu đã kể thế." Tóm lại, họ đưa chúng tôi tới Borodino bởi chúng tôi đang bị thương, chất chúng tôi lên một chiếc xe chở khách và chúng tôi khởi hành đi Maskva. Trên đường đi, Pet'ka tiến lại gần mấy bà cụ già. Cậu ta quấn giẻ đầy mình, nhưng không có nổi lấy một chiếc mũ, đành quàng chiếc khăn hay chiếc mùi soa lên đầu rồi rên lên: "Mẹ ơi, cho chúng con chút gì ăn!" Tôi rất xấu hổ và gọi: "Petia!" Nhưng cậu ta vẫn: "Mẹ ơi, cho chúng con thức ăn!" Và mấy cụ già, bằng đôi bàn tay run rẩy, san ra chỗ tài sản quý báu của mình, tổng cộng cũng chỉ vừa đủ cho họ ăn, rồi chìa cho anh ta chừng một mẩu bánh con. Anh ta quay lại để chia nó với tôi. Bằng cách đó chúng tôi tới được ga Belorussia (ở Maskva - Oleg Sheremet). Tại đây đám cảnh sát lôi tôi đi xềnh xệch và đưa tôi tới chỗ sảnh chính rồi đặt tôi lại đó. Rồi chúng tôi được đưa vào bệnh viện, hai ngày sau chúng tôi được chất lên một đoàn tàu để tới Urals.

Daniil Zlatkin
Phần 2

D.Zlatkin
Đầu năm 1943, tôi trở thành sĩ quan tình báo thuộc phòng tình báo của Bộ chỉ huy Tập đoàn quân 19, Phương diện quân Karelia. Nhiệm vụ chính của chúng tôi là thành lập những nhóm trinh sát gồm từ 10 tới 20 người, cứ 3-4 ngày lại tổ chức đột kích đêm vào sau chiến tuyến địch để bắt lấy một "cái lưỡi" (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga, chỉ một tù binh đối phương được bắt để khai thác tin tức - Oleg Sheremet) Chúng tôi phải biết được mọi thứ, toàn bộ tình hình trên mặt trận. Nếu không, nếu phòng tình báo không có được thông tin nào, và không báo cáo được lên cấp chỉ huy, thì cấp chỉ huy đó và phòng tình báo đó trở thành vô dụng. Chúng tôi biết được mọi điều về kẻ thù! Và, chúng tôi hiểu, kẻ thù cũng biết về quân ta. Nhưng chúng tôi vẫn biết nhiều hơn! Tại sao vậy? Tôi sẽ giải thích ngay. Vấn đề ở chỗ lính Nga chúng ta biết rõ tên của đại đội trưởng, có thể là cả tên của tiểu đoàn trưởng, nhưng trung đoàn trưởng hay sư đoàn trưởng của anh ta - không phải chuyện để anh ta quan tâm. Lính Đức biết đến tên những trung đội trưởng ở cả các sư đoàn kế bên. Còn về chỉ huy của chúng, chúng không chỉ biết tên của họ, mà còn biết cả từng người sinh trưởng ở đâu, gia đình thế nào, y ta là người tốt hay kẻ xấu. Sau cùng, biết được lý lịch cá nhân của một tên chỉ huy là yếu tố quan trọng để vạch ra các kế hoạch tác chiến.

Trong một khu vực của mặt trận có hai sư đoàn địch bố trí đối diện chúng tôi, một được chỉ huy bởi tướng Von Ditmar, người tôi sẽ kể tới ở đoạn sau, sư đoàn còn lại do tướng Rubel chỉ huy. Von Ditmar đã bị chuyển đi, sau đó hắn cưới Magda, em gái Goebbels, và tướng Ratschi được đưa tới thế chỗ hắn. Nhìn chung, Rubel là một tên tướng rất tự cao, chỉ quan tâm tới các sĩ quan, không coi binh lính như những con người mà đối xử với họ rất khinh miệt. Còn về tướng Ratschi, hắn thường được gọi đùa là Ratschi-bum - "sét giật". Hắn xuất hiện đột xuất để thanh tra đơn vị của mình, trước tiên là chui vào tham quan nhà xí của doanh trại, kế đó là phòng ăn tập thể và la mắng bất cứ kẻ nào mắc sai sót. Binh lính tôn sùng hắn, trong khi đám sĩ quan lại ghét cay ghét đắng. Vậy khu vực nào chúng tôi nên chọn để thực hiện đòn tấn công? Tất nhiên, sẽ là khu vực mà binh sĩ không ưa chỉ huy của mình, không muốn liều mình vì hắn - đấy là tại sao sĩ quan tình báo chúng tôi cần biết lý lịch cá nhân của những tên chỉ huy. Chúng tôi có được hồ sơ cá nhân của từng tên chỉ huy một, thậm chí đến từng tên trung đội trưởng.

Còn với tên tướng Von Ditmar, chúng tôi đã có một cuộc đối đầu vô cùng thú vị! Bộ Tổng tham mưu yêu cầu chúng tôi cung cấp hồ sơ về hắn, đặc biệt phải tìm ra được tấm ảnh của hắn. Mọi cuộc điều tra của chúng tôi đều không đem lại kết quả. Bọn tù binh luôn sẵn lòng kể về hắn: "Vâng, ở đây có một vị tướng như thế. Ông ta điều hành cả một khu vực rộng lớn." Và chỉ được có thế, không hơn. Tiến hành việc này là trung đội trinh sát của một trong những trung đoàn của Sư đoàn bộ binh số 152, được chỉ huy bởi thiếu uý Ivan Lukich Kobets, hiện anh ấy đã là đại tá và là bạn thân của tôi. Anh ấy được giao nhiệm vụ đi bắt về một cái lưỡi. Đội trinh sát tiến sâu vào hậu tuyến địch, khoảng 20-25 kilômét, dọc theo con đường dẫn tới trước thị trấn Alakurti và bắt được một xe ngựa chở bảy tên lính. Họ trói chúng lại bằng cùng một sợi dây thừng, tay quặt ngược sau lưng và chân tên này buộc liền với chân tên kia, đầu dây còn lại được giữ chặt bởi một người lính vạm vỡ, có nhiệm vụ sẽ giật thật mạnh khi gặp rắc rối để kéo ngã tất cả đám tù binh. Bằng cách đó họ đã an toàn về được Sư đoàn bộ binh 152 của mình.

Trong khi lục soát cả nhóm tù binh, những người thực hiện đã mắc một sai lầm nghiêm trọng khi họ tước đi tất cả giấy tờ của chúng và để chung lẫn lộn với nhau, vì thế chúng tôi không thể xác định chúng thuộc về ai, tuy tất cả đều hết sức quan trọng: ảnh chụp, thư từ - mọi thứ, đối với người làm tình báo thì không có gì là không quan trọng, bất cứ điều nhỏ nhặt nào cũng được xem xét thật kỹ lưỡng sao cho không có yếu tố nào bị bỏ sót. Một sĩ quan tình báo giỏi phải là người không bao giờ quên điều này. Những tên tù binh đó được đưa tới Sở chỉ huy Tập đoàn quân chúng tôi trong tình trạng bị trói thành hàng dọc như vậy. Họ bảo tôi: "Danil, hãy phân loại giấy tờ ra." Tôi đọc thật kỹ tất cả những giấy tờ đó, săm soi các bức ảnh, và đột nhiên tôi trông thấy một tấm ảnh nhỏ thoạt trông không có gì đặc biệt, kích thước 3x4cm, mặt sau có đề dòng chữ: "Tặng người cần vụ của tôi, Von Ditmar." Chúa ơi! Tôi hét lớn với người phiên dịch và chỉ huy bộ phận tình báo: "Senia! Senia! Trông này!" Anh ta mừng rỡ: "Đó chính là tướng Von Ditmar! Dan'ka, cậu lấy nó ở đâu vậy?!" Tôi bảo: "Thì ở cái đống này." Anh ta nói: "Chúa ơi, nó thuộc về đứa nào?!" Tôi nói: "Bây giờ nhiệm vụ của chúng ta là tìm cho ra tấm ảnh này của tên nào, bởi chắc chắn hắn sẽ không thú nhận điều đó đâu." Chúng tôi trao đổi với nhau, sau đó chúng tôi đưa bọn tù binh tới và bảo: "Sẽ không có ai đem các anh ra bắn, bởi quân đội Xôviết không bao giờ cho phép bắn tù binh - chỉ trong giọng điệu tuyên truyền của lão Goebbels nhà các anh mới nói rằng chúng tôi xử bắn tù binh mà thôi. Các anh sẽ được đưa về hậu phương, vào một trại tù binh." (Đúng là chúng tôi không bắn chúng. Tôi nhớ là không có trường hợp nào tù binh bị đem xử bắn ở tập đoàn quân chúng tôi. Chúng tôi giam chúng khoảng một ngày rồi chuyển chúng lên phương diện quân. Trên phương diện quân sẽ giữ chúng thêm hai ngày rồi chuyển chúng vào trại tù binh. Chúng tôi không hề cắt xẻo trên người chúng, không bắn chết, không tra tấn, không đâm kim vào người. Mọi chuyện đều hết sức đơn giản - chúng tôi cho chúng ăn cá trích (là loại cá trích muối mặn khủng khiếp của vùng Kandalaksha, và không được ngâm nước trước) và không cho chúng uống nước. Sang ngày hôm sau, tên tù binh sẽ khai ra bất cứ chuyện gì chỉ để nhận lấy một ngụm nước. Hắn sẽ sùi bọt đầy mép, và chúng tôi sẽ đưa hắn tới, rót ra một cốc nước nhỏ, hắn sẽ run rẩy và la hét: "Nước, nước!" Thế là chúng tôi liền bảo: "Được thôi! Khai đi!", và lại cho hắn ăn cá trích lần nữa. Xét cho cùng, hắn vẫn cần phải ăn. Dù muốn dù không hắn cũng phải ăn hết con cá muối đó.) Bọn chúng vui hẳn lên. Tôi bảo: "Đây, mọi thứ trên bàn này là của các anh, hãy cầm lấy những gì là của mình." Chúng tôi bỏ đi, và khi quay trở lại, không chỉ hình ảnh mà thậm chí một mẩu giấy vụn cũng không còn trên bàn. Thế đấy, người chủ của bức chân dung von Ditmar đã lấy lại nó. Chúng tôi tách chúng ra lần nữa và bắt tay vào lục soát kỹ từng tên. Chúng tôi tìm thấy bức ảnh trên người tên trẻ nhất trong bọn, một tên lính mới 18 tuổi. Hắn nói lắp bắp, nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt. Hắn thú nhận rằng mình vốn là cần vụ của Von Ditmar, người đã nhận hắn phục vụ theo đề nghị của cha hắn, một người làm vườn tại điền trang của tên tướng. Hắn cho chúng tôi biết toàn bộ lý lịch của tên tướng này: tính cách, tình hình gia đình, v.v. Vì chiến công này tôi được tặng huy chương "Vì đã chiến đấu xuất sắc". Đó là kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi, hay có thể nói là lần thử lửa đầu tiên, trong hoạt động tình báo.

Rồi kế tiếp là vụ sau đây. Chúng tôi bắt được một tên phi công. Tên hắn là Kurt Ekkert, thượng uý, sinh tại Riga, Tiến sĩ Triết học, nổi bật nhờ thành tích trong trận đánh chiếm đảo Crete và Narvik, đã được thưởng một Huân chương Chữ Thập Sắt với Cành sồi. Hắn chính là một tên phi công Át! Trong khi thẩm vấn hắn luôn miệng nói: "Tôi không phải là người Quốc xã. Tôi không là thành viên trong đảng của Hitler. Tôi chỉ là một người Đức bình thường, nhưng tôi đã có lời thề trước nước Đức và sẽ không bao giờ phá bỏ nó." Trong suốt hai ngày trời chúng tôi giấu không thông báo cho phương diện quân việc đã bắt được tên phi công, và trong hai ngày đó hắn không tiết lộ cho chúng tôi bất cứ điều gì. Sự việc chỉ kết thúc khi tên tù binh được đưa tới cho Kozlov, chỉ huy trưởng Tập đoàn quân, thẩm vấn. Tôi lên gặp chỉ huy trưởng với một chiếc cặp tài liệu chứa những tấm ảnh trinh sát chụp từ máy bay mà tôi có nhiệm vụ phải giữ. Lúc này cuộc thẩm vấn đang được tiến hành. Nó được thực hiện bằng tiếng Nga, qua thông dịch viên. Tên Đức vẫn không tiết lộ một thông tin nào. Tôi bỏ ra và ngồi nghỉ ngoài phòng chờ, đột nhiên cửa phòng mở và tôi nghe được một cuộc trao đổi ngắn gọn: "Hãy diễn cho hắn xem một cuộc xử bắn giả." Xử bắn giả là một cực hình gây đau khổ khủng khiếp. Kẻ bị kết án bị đưa ra trói vào trước một gốc cây, người ta đọc cho hắn nghe bản án tử, mọi thứ đều được phiên dịch cẩn thận, trong khi đó một tiểu đội xử bắn đứng chờ bên cạnh. Hắn sẽ được hỏi: "Anh có chịu khai không?" Thông thường câu trả lời sẽ là: "Nein!" Lặp lại lần thứ hai: "Anh có chịu khai không?" "Nein!" Tới lần thứ ba: "Anh có chịu khai không?" Hắn liền phát điên và hét lớn: "Nein!" Thế là mệnh lệnh được ban ra: "Tiểu đội sẵn sàng! Bắn!" Sau loạt đạn kẻ chịu án sẽ ngã xuống vì sợ hãi và choáng váng. Và thế là một lệnh khác tiếp tục: "Cái gì vậy?! Bắn trượt rồi! Hãy làm lại lần thứ hai, ngay lập tức!" Nhưng đám lính, không hề biết rằng ổ đạn của mình đều rỗng, sẽ nghĩ bụng: "Làm sao mình lại bắn trượt được nhỉ?!" Thông thường mọi người sẽ không kiềm chế được và bắt đầu bàn tán. Điều này được gọi là gây sức ép tâm lý. Nó thật tàn nhẫn, tất nhiên, anh có thể sẽ làm tàn phế một con người, bẻ gãy thần kinh anh ta. Và thế là chỉ huy trưởng nói: "Hãy làm bất cứ điều gì anh muốn, nhưng các thông tin cần thiết phải nằm trên bàn giấy của tôi sau 4 tiếng nữa." Một viên đại tá bước ra ngoài và hô lớn: "Đội xử án! Theo tôi!" Do xung quanh không còn ai, tôi hiểu đó là một lệnh dành cho mình. Tôi bước vào, giơ tay chào và nói: "Người thi hành án có mặt!" "Bắn hắn đi!" Tôi đáp: "Xin tuân lệnh!" Tôi rút khẩu súng lục ra, tiến gần tên Kurt Ekkert đó, xách lấy tay hắn, nhưng hắn đẩy mạnh làm tôi ngã xuống. Hắn chạy tới chỗ viên tướng và nói bằng thứ tiếng Nga thuần chất nhất: "Thưa đồng chí tướng quân, xin hãy dừng trò xiếc này lại." Điều gì xảy ra tiếp theo?!! Không thể tưởng tượng ra được! Chỉ huy trưởng Tập đoàn quân hét lên: "Tất cả ra ngoài!" Chúng tôi dẫn tên tù binh đi ra. Kozlov hét với viên đại tá: "Nếu tôi không có trong tay những thông tin của hắn trong vòng một tiếng đồng hồ nữa, anh sẽ bị đưa vào tiểu đoàn trừng giới". Và thế là một lần nữa tên Đức lại được chuyển sang cho chúng tôi, và chúng tôi đưa ra cho hắn đề nghị sau: chúng tôi sẽ kể cho hắn những gì chúng tôi đã biết, cho hắn xem các tấm bản đồ, nếu sau đó hắn vẫn không nói, Afanasiy (Afanasiy Pil'kin, một tay Siberia, cần vụ của viên đại tá) sẽ dắt hắn ra ngoài, nã một viên đạn vào gáy hắn rồi kêu lên: "Nó bỏ chạy. nó bỏ chạy! Nó muốn chạy trốn!" Rồi bắn tiếp hai phát lên trời. Và chúng tôi sẽ chấm dứt câu chuyện này ở đây. Chúng tôi đem cho hắn xem các tấm bản đồ, kể cho hắn mọi điều chúng tôi biết... Từ đó trở về sau chưa bao giờ tôi được thấy kẻ nào điên khùng lên như thế: hắn cắn đến gãy cả răng mình vào lưng chiếc ghế đẩu. Bác sĩ vội chạy tới tiêm cho hắn một mũi. Sau khi lấy lại hơi thở, hắn kể rằng giá biết trước chúng tôi đã nắm được những thông tin hoàn chỉnh như thế, hắn đã kể ngay cho chúng tôi mọi chuyện, vì những gì hắn tiết lộ cũng chẳng đến nỗi là phản bội tổ quốc cho lắm. Chúng tôi cho hắn ăn, cho uống nước rồi chuyển hắn lên Sở chỉ huy Phương diện quân.

Trong công việc, tôi thường thẳng thắn bộc lộ khả năng hơn hẳn của mình so với viên đại tá, chỉ huy trưởng phòng tình báo. Ông ta nuôi trong lòng một ý định phục thù đối với tôi và một lần nọ gọi tôi lên thông báo: "Thiếu uý, anh phải đi tiến hành một nhiệm vụ đặc biệt sau phòng tuyến địch và liên lạc với điệp viên của ta. Bộ ắcquy cho radio của anh ta đã hỏng nên anh ta bị mất liên lạc. Chỉ anh mới có thể tìm được anh ta." Tôi trả lời: "Thưa đồng chí đại tá, tôi đã biết mật mã của Ban Tình báo trung tâm thuộc Bộ Tổng Tham mưu. Tôi đã có lời thề là sẽ không bao giờ đến gần chiến tuyến hơn 30 km. Nếu tôi làm điều đó, tôi sẽ bị xử bắn ngay lập tức mà không cần xét xử. " Ông ta nói: "Được, chẳng lẽ anh lại phản bội dễ vậy sao?! Tôi ra lệnh cho anh đó! Tuân lệnh đi!" Tôi đành phải tuân lệnh. Rồi tôi tới gặp trung tá Yakunin, phó của ông ta: "Hãy nghe này, chuyện là như thế đấy." Yakunin liền nổi giận: "Lão ấy là một thằng ngốc! Lão đang đưa anh tới chỗ chết! Anh đã làm điều gì không phải với lão rồi. Lão ấy không cần gì hết, mà lão cũng chẳng quan tâm tới điệp viên của chúng ta - lão ấy chỉ muốn nhắm vào anh thôi. Tôi chỉ có điều này để khuyên anh - hãy bỏ tất cả những đồ đạc quân dụng lại đây. Hãy tự tìm cho mình một câu truyện huyền thoại nào đó (từ chuyên môn của kỹ thuật tình báo Nga, chỉ một câu chuyện bịa để ngụy trang cho một điệp viên mật - Oleg Sheremet)." Lúc đó tôi đang quá bối rối nên không dám hỏi để tránh bộc lộ sự ngu dốt của mình, nhưng thậm chí ngay cái từ "huyền thoại" đó tôi cũng không biết! Tôi không phải là một quân nhân! Tôi cũng không phải là một sĩ quan tình báo! Tôi là một kỹ sư xây dựng, một thường dân. Làm gì có huyền thoại nào?! Nhưng nhiệm vụ thì vẫn phải hoàn thành.

Thế là vào ban đêm, vài người thuộc bộ tộc Saami đưa tôi vượt qua chiến tuyến trên hai chiếc xe trượt tuyết. Họ thực hiện công việc đó thật hoàn hảo - chỉ họ mới có thể làm được thế. Có một lối trượt tuyết đi qua giữa những cứ điểm của quân Đức, chúng bố trí cách nhau khoảng 20-30 km. Trong trường hợp một tên lính tuần tra phát hiện ra vết trượt tuyết xuất phát từ phía chúng tôi, chúng sẽ ngay lập tức đưa một chi đội ra đuổi theo những người vừa đột nhập. Do đó chúng tôi quay lại điểm xuất phát hai lần, cắt ngang tuyến đường cũ, đi lòng vòng và hơn thế nữa lâu lâu dừng lại một lần, tháo ván trượt ra, di chuyển tới trước khoảng 50 mét rồi dùng tay xoá đi các dấu vết của lằn trượt. Bằng cách đó họ đã đưa tôi tới gần điểm hẹn. Ba kilômét cuối cùng tôi phải xuống tự đi, do họ không được phép đi tiếp để hộ tống tôi. Tôi bảo: "Xin hãy đợi tôi ở đây, tôi sẽ quay lại đúng theo dấu ván trượt của mình." Tôi đem theo 4 bộ ắcquy BAS-80, mỗi bộ có trọng lượng lên tới 12, thậm chí 15 kílô. Tôi tự làm ra một thứ gần như chiếc xe trượt, xỏ bàn trượt tuyết vào chân, chất lên xe 4 bộ ắcquy, siết chặt lại trang phục rồi bắt đầu gò lưng kéo. Khi tới được địa điểm đã hẹn, tôi đã kiệt sức tới nỗi nằm lăn xuống, đè gẫy mấy lùm cây bụi rồi lập tức ngủ say như chết. Tôi thức dậy bởi có ai đó đang đập vào chân tôi. Tôi mở mắt ra và thấy một người Phần Lan đang đứng đó, tay cầm súng chĩa vào tôi. Tất cả những chuyện đó diễn ra trong im lặng. Tôi ngồi dậy và chúng tôi quan sát nhau. Tôi hỏi: "Người Phần Lan hả?" Hắn ta vẫn im lặng. Tôi hỏi tiếp: "Deutch? Sprechen Sie Deutch?" ("Người Đức hả? Có nói được tiếng Đức không?" - L.T.D.) Hắn ta vẫn im lặng. Và rồi một suy nghĩ chọc vào đầu tôi, có thể anh ta là người tôi cần gặp chăng? Tôi nói mật khẩu, anh ta đáp lại và nói: "Thằng dở người nào gửi anh tới đây vậy? Sao anh có quyền ngủ vào lúc này?! Anh đang ở trong hậu phương địch! Bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua đây! Hãy xem có biết bao dấu ván trượt quanh đây! Sao anh lại làm thế!?" Tôi đáp: "Trước tiên, tôi mệt lắm rồi, kế đến - tôi đang rất đói." Anh ta lấy ra hai thanh sôcôla, một chai rượu, và chúng tôi cùng uống, tìm ra được một ngôn ngữ chung, rồi anh ta cho tôi biết số liệu về các sân bay ở Varde và Trondheim, về lực lượng, điểm khởi hành và nơi đến của các đơn vị Đức. Anh ta bắt tôi lặp lại tất cả điều đó khoảng 15 lần rồi đưa tôi về.

Tôi quay trở lại sở chỉ huy - hàm dưới viên đại tá trễ xuống khi lão trông thấy tôi vẫn còn sống: "Mọi chuyện diễn ra thế nào?" Tôi đáp: "Tôi vẫn còn sống sót quay về, mặc cho ông đã đưa tôi tới chỗ chết." Lão ta nói: "Ai bảo là tôi đưa anh tới chỗ chết?!" Tôi trả lời: "Tôi hiểu rõ mọi chuyện, thưa đồng chí đại tá." Câu chuyện đã kết thúc ở đó. Nó lại lặp lại về sau này, khi bạn thân của tôi, mà nay đã quá cố, đại tá Nikolay Dmitrievich Antonov, tới làm chỉ huy phòng tình báo thay cho tên ngốc kia. Anh ta cũng gọi tôi lên và bảo: "Dania, cậu phải lặp lại lần nữa những gì đã từng làm, nhưng tôi trước tiên muốn tạo cho cậu một huyền thoại thực sự đã." Lúc này tôi đã biết một huyền thoại có nghĩa là gì rồi. Tôi được đưa tới Belomorsk để huấn luyện về mật mã. Họ cho tôi ăn mặc như một người tù trong một căn nhà ở gần Belomorsk: cấp cho tôi cặp guốc gỗ, quần áo rách, mũ lông "ushanka" thiếu mất một tai mũ. Tôi được giao cho một tờ sao của bản án do Toà án Quận Frunze của thành phố Maskva tuyên, trong có ghi rằng Zlatkin, Daniil Fedorovich, bị kết án 10 năm tù, không được quyền liên hệ với người thân vì đã có những hành động chống lại chính quyền Xôviết, lan truyền những chuyện đàm tiếu chống Xôviết, tuyên truyền chống chiến tranh Vệ quốc, v.v. Người ta bảo tôi: "Anhh sẽ tới Solovki (quần đảo trên Bạch Hải, nơi có một trại tù nổi tiếng - Oleg Sheremet) Mọi chuyện đã được chuẩn bị sẵn sàng ở đó cho anh. Anh sẽ ở đó 10 ngày, anh sẽ không chỉ phải làm quen với đám bạn tù và nắm rõ lý do chúng phải vào đó, mà còn phải biết đến cả tên con chó cưng của người đầu bếp. Đã nắm mọi chi tiết chưa?" Tôi đáp: "Đã rõ." Khi tới nơi, giám đốc trại tù kéo tôi ra và bảo: "Tôi đã biết mọi chuyện rồi. Tôi sẽ báo cho anh khi nào chuyện đó xảy ra." Và tôi bị ném vào trong một trại giam đầy lũ trộm cướp và lừa đảo - mọi hạng người đều có ở đó ngoại trừ những tù chính trị, vốn bị giam ở một trại giam khác biệt lập. Tôi kể cho chúng nghe vài chuyện cười, cho chúng biết rằng tôi là một thủy thủ ở Odessa, đi trên chiếc tàu chở hàng của hải quân - tại đấy tôi đã làm quen với gã Val'ka Mắt lé. "Cái gì, cậu biết Val'ka Mắt lé à? Các bạn ơi! Thế cậu đi trên tàu gì? Khoan, cậu có biết tàu "Chervona Ukraina" không? Gượm đã, ở đó cũng có một chiếc Chervona Ukraina khác.. Ờ phải, tại đó chỉ có một chiếc như thế thôi." Nói chung, tôi đã trở thành thành viên của chúng. Cùng làm với chúng ở mỏ đá - thật là một công việc khủng khiếp khi phải đập vỡ những tảng đá bằng một chiếc búa, một cái đục hay một cái cuốc chim. Đôi chỗ chúng tôi được sử dụng thuốc nổ, và do tôi đã từng là công binh nên được giao cho việc này. Công việc cũng không quá phức tạp - chúng tôi chỉ đơn giản là đặt thuốc nổ vào dưới những tảng đá. Nhiệm vụ của chúng tôi là sản xuất sỏi đá để làm đường, đôi chỗ sỏi đá lộ ra trên mặt đất, ở đó có những tảng đá dễ vỡ để thu nhặt. Điều này làm nhẹ bớt công việc của chúng tôi, và đám tù nhân bắt đầu tỏ ra tôn trọng tôi hơn. Tới ngày thứ 9 người giám đốc trại tù gọi tôi lên và bảo: "Danil, mọi chuyện đã sẵn sàng rồi, đi thôi." Tôi đi cùng ông ta ra bờ biển. Ông ta chỉ chỗ cho tôi và bảo: "Kia, ở dưới đó có một chiếc xuồng chèo tay, trong có một thùng nước ngọt và một túi bánh khô. Cậu đã sắp xếp được người đi cùng chưa?" Tôi được lệnh phải tìm ra một ai đó và dụ hắn cùng trốn đi. Tại sao tôi lại phải làm tất cả những chuyện đó, tại sao tôi lại kể ra tất cả những chuyện đó? Tôi phải tạo ra được một huyền thoại, để trong trường hợp bị bọn Đức bắt được thì tôi sẽ kể rằng mình là như thế, như thế, những cư dân ở Solovki có thể xác nhận rằng tôi đã từng ở đó. Không được quay trở về đơn vị của mình, trên người phải mặc những quần áo rách rưới, thậm chí còn tệ hơn cả trong lần đột nhập đầu tiên, nhưng đã có tờ tuyên án của mình ở sẵn trong ngăn túi bí mật, tôi vượt qua chiến tuyến và gặp được người điệp viên mà lần trước tôi đã biết (tên của anh là Boris Borisovich. Tôi không bao giờ còn được nghe đến tên anh lần nữa). Tôi quay về và thế là nhiệm vụ của tôi kết thúc. Không bao giờ tôi còn bị gửi đi bất cứ đâu nữa.

Dưới đây là một câu chuyện thú vị khác. Nó xảy ra vào giữa năm 44, chúng tôi đang ngồi làm việc trong hầm trú ẩn của mình. Đột nhiên, vào 4 giờ chiều, có một tiếng nổ lớn trong khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Tiếng nổ thứ hai tiếp theo sau đúng 2 phút. Người sĩ quan trực nói: "Có lẽ đám sĩ quan công binh đang làm gì đó." Vụ nổ điếc tai thứ ba xảy ra đúng 2 phút sau đâu đó gần hầm của chúng tôi và làm vỡ toàn bộ kính cửa sổ. Đất vụn bắt đầu rơi lả tả từ trần nhà xuống. Rồi có một tiếng kêu: "Mọi người tìm chỗ ẩn nấp! Bọn Đức đang bắn vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân!" Trong ngày hôm đó bọn Đức đã bắn 40 phát, chúng rơi chính xác vào khu vực Sở chỉ huy Tập đoàn quân. Một quả đạn thậm chí đã xuyên qua cửa sổ hầm trú ẩn của ban chỉ huy lực lượng thiết giáp. Trong hầm đang có một người thư ký đánh máy 17 tuổi và một thiếu tá, một người đàn ông 45 tuổi. Ông ta lấy hai tay ôm chặt đầu (về sau chúng tôi nhận thấy mảng tóc nằm dưới mấy ngón tay ông ta đã trở nên lốm đốm bạc), hiểu là cái chết sẽ xảy đến ngay lập tức, nhưng quả đạn không phát nổ, và thế là cả hai người chạy ra ngoài. Hóa ra bọn Đức vừa nhận được ba khẩu đại bác tầm xa 155mm, vẫn được gọi là đại bác hậu phương vì thường được dùng để bắn vào các sở chỉ huy. Cánh không quân chúng tôi lập tức cố gắng bịt họng những khẩu pháo đó, nhưng không hiệu quả. Sang ngày thứ hai bọn Đức lại bắn thêm 40 quả đạn nữa vào Sở chỉ huy Tập đoàn quân với cùng một độ chính xác - cứ 2 phút mỗi viên, nhưng các phát đạn đã rơi ra sau Sở chỉ huy khoảng 1 kilômét. Chuyện gì xảy ra vậy?! Chúng tôi đã lừa được bọn Đức! Chúng tôi ngụy trang tất cả những thiệt hại và hố đạn ở Sở chỉ huy và cho nổ 40 khối TNT cách đó 1 kilômét, phía gần với chiến tuyến, nhằm tạo ra ảo giác chúng là những hố đạn. Một "cái khung" (biệt hiệu của loại máy bay trinh sát quân Đức thường dùng) bay qua đó vào buổi sáng và chụp ảnh kết quả cuộc pháo kích, nhưng do tất cả những hố đó đều là của giả do chúng tôi tạo nên, việc chỉnh hướng của bọn Đức đã làm cho các quả đạn bắn ra về sau bay vượt qua đầu chúng tôi. Tới lúc đó trọng pháo và máy bay của ta đã tiêu diệt được hai khẩu đại bác của chúng. Chúng không làm phiền chúng tôi thêm lần nào nữa. Vậy đấy, về cơ bản, đó là câu chuyện cuộc đời quân ngũ của tôi trong phòng tình báo của Tập đoàn quân số 19.

Ghi âm phỏng vấn: Elena Siniavskai
Hiệu đính: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH BỘ BINH
Ivan Shelepov
Chiến tranh là chiến tranh

- Ivan Ignatievich, xin hãy kể một cách vắn tắt ông bắt đầu nhập ngũ khi nào và ở đâu?

- Tôi nhận giấy triệu tập vào giữa ngày làm việc. Họ gọi tôi lên văn phòng, tôi tới, rồi họ đưa tôi xem tờ giấy và bảo: "Hãy chuẩn bị đồ đạc, Shelepov, sáng mai anh tới địa chỉ ghi trên mảnh giấy này." Đó là khoảng tháng Tám năm 1941. Tôi không nhớ rõ là ngày nào... Sau một dịp nghỉ cuối tuần thì sự việc xảy ra như thế thật đột ngột.

- Sau đó ông đi đâu?

- Ban đầu tôi tới trường huấn luyện quân sự. Trước đó tôi sống tại Kineshma, một thị trấn nhỏ gần Ivanovo. Phong cảnh thật đẹp! Tuyệt vời dòng Volga! Người ta tập hợp tất cả chúng tôi lại và đưa tới Ivanovo, tới trường quân sự.

- Đó là Học viện Lục quân phải không?

- Đúng. Đầu tiên, chúng tôi được báo là khóa học sẽ kết thúc sau ba tháng, nhưng có lẽ do bọn Đức đã chọc thủng chiến tuyến nên sau hai tuần, tất cả chúng tôi được trang bị và chở bằng xe tải tới ga xe lửa. Từ nhà ga chúng tôi tiến thẳng ra mặt trận.

- Tới khu vực nào?

- Gần Smolensk. Sư đoàn bộ binh 161 chúng tôi thuộc Quân đoàn bộ binh số 2 (Quân đoàn này gồm 2 sư đoàn bộ binh - sư đoàn 161 và sư đoàn 100. Ngày 18 tháng Chín năm 1941, cả hai sư đoàn này đã trở thành những đơn vị Cận vệ đầu tiên của Hồng quân nhờ đã chiến đấu gan dạ, dũng cảm và kiên cường - Valeriy Potapov). Vào chập tối chúng tôi được nhận lương khô và tới rạng sáng trung đoàn tôi tấn công vào vị trí bọn Đức mà không có pháo bắn yểm trợ.

Ivan Shelepov tại trạm quân y ngay sau một trận đánh. Tháng 11 năm 1942.

- Chỉ mình trung đoàn ông tham gia thôi sao?

- Tôi không rõ - dường như là toàn bộ sư đoàn tôi. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ - mới một giờ trước tôi còn là thường dân, vậy màø giờ đây tôi đang cầm khẩu súng trường trong tay. Tôi cũng biết chiến tranh thật đáng sợ, nhưng tôi không thể hình dung ra nỗi sợ hãi bao trùm lên người như thế. Thực ra tôi đang phí thì giờ để kể cho anh chuyện ấy - điều ấy không cách nào tả nổi. Cái cảm giác như là anh đã sống suốt cuộc đời mình mà không hề có quá khứ và tương lai vậy. Đôi lúc thậm chí tôi không thể cử động được vì quá căng thẳng, xin thề như vậy! Tất nhiên, chúng tôi đã được thông báo vào lúc mờ sáng là sẽ phải tấn công. Đại đội trưởng tới từng nơi và thông báo cho mọi người. Nhưng tất cả đã diễn ra theo một cách rất kỳ lạï. Tôi không thể nhớ lại chi tiết trận đánh đó. Tôi không rõ tại sao - có vài trận đánh ghi sâu vào ký ức như chúng mới diễn ra hôm qua, nhưng ký ức về trận đánh đầu tiên của tôi thì chỉ hiện ra lờ mờ. Tôi luôn nhớ nó một cách lộn xộn.

Tiểu đội tôi nằm đợi trong một chiến hào nông choẹt. Chúng tôi phủ lên người những cành cây để bọn Đức không phát hiện được. Tôi cứ nghĩ rằng sẽ có một tiếng hô "Tiến lên!", chúng tôi sẽ hô "Hurra!" và tấn công. Tuy vậy mọi việc lại diễn ra rất khác. Đại đội trưởng của chúng tôi khẽ nói: "Đi nào, các bạn!" và trèo lên bờ công sự. Tôi cũng làm như vậy. Tôi đi theo anh ta như một cái máy mà không nhận thức được mình đang làm cái gì. Chúng tôi lặng lẽ đứng dậy và tiến lên phía trước. Chúng tôi thậm chí không chạy - chỉ bước tới. Không hô "Hurra!', không gây tiếng động, không la hét. Chỉ đứng lên rồi tiến về phía trước. Trời vẫn còn tối và có một lớp sương mù giăng khắp cánh đồng. Một sự im lặng chết người bao phủ xung quanh - chỉ có tiếng vũ khí của chúng tôi kêu lách cách. Bỗng nhiên, tôi không còn nhớ rõ như thế nào, khung cảnh bỗng thay đổi, và đối phương bắt đầu bắn như điên về phía chúng tôi. Đầu tiên là bằng súng trường, kế đó là hai khẩu đại liên. Hay là ngay từ đầu bằng đại liên? Tệ thật, tôi không nhớ rõ nữa. Thế rồi tất cả chúng tôi đều khom người chạy tới, tôi chạy đằng sau một người, tôi không biết tên anh ta là gì. Trong suốt cuộc tiến công, tôi chỉ còn nhớ cái lưng có đeo balô của anh ta. Tôi không còn nhớ gì thêm.

Tôi chạy nhanh hết sức mình. Chạy đi đâu - tôi không rõ. Một tiếng hô "Tiến lên!" vang lên trong đầu tôi, nhưng tôi cho rằng không phải tiếng tôi kêu. Tôi không biết mình đã chạy bao lâu - trong một giây hay một tiếng đồng hồ, thời gian đối với tôi như dừng lại. Thình lình có cái gì đó đâm vào sườn tôi, tôi nhớ là đã bị hất tung lên rồi ngã xuống đất. Tôi bật dậy và lại ngã lần nữa, đồng thời cảm thấy đau nhói. Cái chân của tôi!!! Chân của tôi gập lại vì đau. Tôi cố quay lại xem chuyện gì xảy ra với chân mình, nhưng không thể. Tôi trườn tới trước, nhưng rồi lại nghĩ: "Chờ đã! Tại sao mình lại trườn tới? Mình cần phải quay về trạm quân y." Suốt một lúc lâu tôi không thể nhận ra đâu là đằng trước, đâu là đằng sau. Khói đạn che phủ khắp nơi, tiếng nổ, tiếng súng, tiếng va chạm vang lên khắp nơi. Toàn chiến trường ngổn ngang những người co giật vì bị thương và một vài vật gì đó (tôi không thể xác định cụ thể là vật gì - Valeriy Potapov). Tôi cố chịu đựng và bò ngược trở lại. Tôi đã nghĩ trong tuyệt vọng rằng mình sẽ không thể quay về chiến hào của ta được nữa. Bỗng có ai đó nắm lấy chân tôi và kéo. Mắt tôi tối sầm lại vì đau. Tôi không biết được làm thế nào mình bò tới được chiến hào nữa. Chính ủy đang ở ngay đó! "Anh đang làm cái quái gì ở đây?" - anh ta nói - "Quân hèn nhát!". Tôi trả lời rằng tôi không phải là người hèn nhát, tôi bị thương ở chân. "Vết thương đâu???" - Anh ta hét. "Tôi không thể tự xác định được." Một người cứu thương bổ tới, sờ vào chân tôi và cười lớn: "Anh bị trật khớp" - anh ta nói - "bây giờ tôi sẽ kéo khớp và chữa cho anh!". Anh ta nắm lấy chân tôi - trước cả khi tôi kịp kêu "Mẹ ơi!" - và kéo mạnh! Tay chính uỷ lắc đầu - tôi chửi thề thật khủng khiếp. Bản thân tôi cũng không biết được mình đã nguyền rủa dữ dội đến mức nào.

- Ông ta có hỏi cung ông không?

- Ồ không! Anh ta cần đến tôi làm gì? Anh ta chỉ hỏi tôi thuộc đơn vị nào rồi bỏ tôi lại. Người cứu thương, sau khi biết tôi thuộc Đại đội 3, đại đội vừa được bố trí đêm hôm trước, đã mạnh dạn lên và cho biết rằng các đại đội khác đã quay trở về. "Mẹ nó, chúng ta lại trắng tay lần nữa! Bao nhiêu người bỏ mạng vô ích." "Hãy bò về với đồng đội của mình" - anh ta nói - "và hãy cẩn thận, bởi bọn Đức sắp gửi máy bay tới đấy. Hôm nay cậu thật may mắn, hãy nhớ lấy cái ngày này! Tất cả đồng đội của cậu giờ có lẽ đã chết cả rồi."

- Ngày hôm đó các ông có tấn công lần nữa không?

- Không. Làm gì còn ai để tấn công. Toàn đại đội chỉ còn 10-12 người cùng trung uý chỉ huy. Thượng sĩ phụ tá cũng bị giết. Tôi chỉ còn nhớ họ của anh ấy - Chumilin. Tại sao lại thế nhỉ - nhưng dù sao tôi cũng đã nhớ. Giờ đây tôi cảm thấy thương cho anh ấy! Anh ấy mới chỉ 20 tuổi đầu, nhưng tóc đã bạc và bị mất một ngón tay. Tôi không biết thêm điều gì về anh ta.

- Sau đấy ông có tiếp tục tham gia tấn công không?

- Sao không? Tất nhiên là có chứ. Hai lần nữa.
- Hai lần nữa??? Ông thật may mắn!

- (ngắt lời người phỏng vấn) Hê! Tất cả những ai sống sót sau chiến tranh đều rất may mắn! Họ đều có một số phận khác thường. Những ai có số phận bình thường đều đã chết thậm chí ngay khi chưa kịp bắn một phát súng, chưa kịp nhìn thấy bọn Đức.

Cùng đọc tờ báo của sư đoàn. Có lẽ vào khoảng Hè - Thu 1943.

- Ông chiến đấu lần kế tiếp khi nào?

- Hai ngày sau chúng tôi nhận được lính tiếp viện đến từ một nhà máy, họ thật to lớn và khỏe mạnh! Bàn tay họ tựa những chiếc kìm sắt. Lúc ấy tôi 18 tuổi, còn tất cả những công nhân ấy đang ở tuổi 40. Ngày hôm sau chúng tôi tấn công lần nữa, Thậm chí chúng tôi còn được pháo binh hỗ trợ. Chúng tôi ngồi trong một cái rãnh nhỏ, hút thuốc và lắng nghe tiếng đạn pháo quân ta rú ngang qua đầu. Tôi đã quen với điều đó, nó không còn làm tôi khiếp nhược dù tiếng rú quả là kinh khủng. Rồi chúng tôi tiếp tục nhận được lệnh "tiến lên!" và tất cả trèo lên khỏi cái rãnh. Alex Kotov, Felix - anh chàng người Armenia và tôi được lệnh phải yểm trợ cho một khẩu pháo của ta. Ở đấy chúng tôi có loại pháo 45mm và chúng tôi được lệnh phải bảo vệ một trong số các khẩu pháo ấy. Thậm chí chúng tôi còn được nhận một khẩu trung liên DP (Degtyarev) cùng hai băng đạn hình đĩa kèm theo.

- Ivan Ignatievich, Vasil Bykov nói về khẩu trung liên DP một cách khác, nói rằng đấy là một khẩu súng nặng nề và kém chính xác. . . (tiểu thuyết "Phát tên lửa thứ ba" - LTD.)

- (ngắt lời người phỏng vấn) Đúng, tôi có đọc đoạn ấy! Bykov là ai? Anh ta là lính pháo binh! Thế đấy! DP là một khẩu súng tốt. Anh ta chỉ trích súng máy của quân ta, nhưng khẩu 34 (MG-34 - Valeriy Potapov) của Đức còn nặng hơn thế! Nó nặng khoảng 12 kí, còn nếu gắn trên càng ba chân thì thậm chí không thể nhấc nổi! Súng máy của ta rất tốt, anh ta nên câm miệng lại! Sau đó bọn Đức có thêm khẩu 42 (MG-42 - Valeriy Potapov), khẩu ấy cũng khá nặng nhưng bắn nhanh hơn. Bọn Đức dù vậy vẫn dùng khẩu MG-34 cho đến hết chiến tranh.

DP là loại súng trung liên. Chúng tôi dùng chúng rất nhiều, trong mỗi trung đội đều có. Bọn Đức có nhiều súng máy như thế không? Chúng tôi thì có đủ súng máy để phòng thủ. Trong thời kỳ đầu, chúng ta đôi lúc bị thiếu đạn, vì thế nhiều người đã hy sinh một cách vô ích!

- Các ông yểm trợ cho cánh pháo binh bằng cách nào?

- Bằng cách nào à? Đầu tiên, kể nhé, nếu bọn Đức phản công, chúng tôi phải ngăn không cho chúng lại gần các khẩu pháo. Các pháo thủ cũng có vũ khí cá nhân, thậm chí cả tiểu liên. Tuy nhiên chúng tôi luôn đặt mục tiêu bảo vệ các khẩu pháo lên hàng đầu. Đại đội trưởng của chúng tôi luôn bảo : "Đừng quên các anh có mặt ở đây để làm gì!" Chúng tôi không thể giữ vững vị trí nếu thiếu những khẩu pháo ấy. Bây giờ người ta hay xem thường các khẩu pháo ấy, cho rằng chúng thiếu hiệu quả, nhưng tôi muốn nói với anh rằng: nếu chúng tôi không có những khẩu pháo ấy, chúng tôi đã không thể phòng thủ được. Để chống lại các ụ súng máy Đức, bộ binh cơ giới (Panzergrenadiers - Bair Irincheev), xe half-track (xe chở lính có vỏ thép mỏng, có bánh hơi phía trước và xích phía sau - LTD), sử dụng những cục cưng của chúng tôi là hợp nhất! Bọn Đức cũng có những loại pháo y như vậy.

- Nó có hiệu quả khi đối đầu với xe tăng địch không?

- Vâng, khá hiệu quả! Tất cả chúng tôi cùng hợp sức chống lại xe tăng. Cả pháo binh lẫn bộ binh chúng tôi cùng tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, bọn Đức không phải lúc nào cũng có xe tăng, nhưng bộ binh cơ giới và xe half-track thì luôn có mặt. Chúng tôi đốt cháy xe tăng của chúng thật dễ dàng! Nhiệm vụ trước tiên của các xạ thủ súng máy là cắt rời bộ binh khỏi xe tăng. Đấy là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì xe tăng luôn cố tiêu diệt các ụ súng máy trước tiên. Nếu chúng tôi cắt bộ binh khỏi xe tăng thành công, chúng tôi có thể đốt cháy tất cả xe tăng của chúng. Một chiếc xe tăng không thể thấy bất cứ gì xung quanh nó, bạn có thể tiến lại gần và đốt cháy hoặc phá đứt xích xe.

Chúng tôi có rất ít loại pháo chống tăng đó, đôi khi có pháo nhưng lại không có đạn. Đôi khi thậm chí chúng tôi đã phải dùng pháo của bọn Đức, miễn là tìm ra đạn cho chúng.

- Có thường xuyên không?

- Không, không thường xuyên. Nhưng đôi khi chúng tôi tìm cách kiếm lấy một khẩu pháo nhỏ cùng một cơ số đạn. Rồi chúng tôi mang nó đi.

- Loại cối 50mm cấp đại đội có hiệu quả không?

- Cối cấp đại đội tất nhiên là bắn yếu hơn cối cấp tiểu đoàn (cối 82 mm - Valeriy Potapov), nhưng nhẹ hơn. Nó có thể khiêng bởi hai người. Loại cối cấp tiểu đoàn phải mất ba người khiêng: một người mang ống nòng, người khác mang càng chống và người thứ ba mang mâm chống giật. Khẩu cối cấp tiểu đoàn khá nặng, đôi khi mất đến hai người để khiêng mâm súng. Anh cứ thử - mang cái của ấy đi 10 km không nghỉ, chạy lúp xúp trong bụi cây để tránh đạn vãi từ máy bay và rồi lập tức khai hỏa vào đối phương thử xem! Rồi xem trông các anh sẽ như thế nào! Còn nữa, trong trận chiến anh phải mau chóng thay đổi vị trí bắn với khẩu cối đại đội, nhưng không phải lúc nào cũng làm được thế với khẩu cối tiểu đoàn! Anh không thể bỏ nó lại hay để mất nó - anh có thể sẽ bị xử bắn. Nếu nó bị hỏng - anh phải mang về cho đại đội trưởng hay cho thượng sĩ phụ tá. Nếu không thì "bố già" ("bố già": sĩ quan NVKD hay SMERSH - Valeriy Potapov) sẽ sờ gáy anh.

Súng cối khá hữu ích trong phòng thủ. Nếu bọn Đức bị ghìm đầu xuống trong khi tấn công, chúng tôi sẽ gõ đầu chúng bằng súng cối ngay dưới làn đạn súng máy của mình. Bọn Đức cũng dùng mánh lới y như thế! Đó là tại sao lại rất nguy hiểm khi chúi đầu xuống lúc tấn công. Sẽ không dễ để vùng dậy lần nữa! Nếu ta tấn công, ta phải luôn chạy cho tới phút chót, và không bao giờ được chúi xuống ẩn nấp. Nếu nằm xuống - ta sẽ không thể nhấc nổi mông khỏi mặt đất lần nữa. Ta cũng có thể sẽ nhận một viên đạn của đại đội trưởng. Anh ta có quyền làm thế. Đó là trách nhiệm của anh ta để bắt bạn phải tiến công, và tiểu đoàn trưởng hay trung đoàn trưởng cũng không thể trách nếu anh ta bắn ai đó vì điều này. Đại đội trưởng của chúng tôi cảnh cáo ngay từ đầu rằng nếu chúng tôi nằm xuống, anh ta sẽ bắn tất cả. Anh ta quả đã bắn một vài người. Sau đó chúng tôi không lần nào thử làm như thế nữa.

- Ông có thường phải tấn công không?

- Tất nhiên, sao lại không nhỉ? Có chứ. Nhưng tấn công có nhiều cách khác nhau! Tốt nhất là khi đợt tấn công của bọn Đức vừa bị bẻ gãy, lúc chúng bắt đầu rút lui thì "Tuốt lê!" và tiến lên! Chúng tôi phải moi bụng bọn Đức, rồi nhảy vào chiến hào của chúng. Sau đó phải ngay lập tức củng cố công sự. Anh có thể kiểm tra đồng hồ của mình: trong vòng nửa giờ đồng hồ bọn chúng sẽ hồi tỉnh và tổ chức một đợt phản công. Nếu anh không có một vị trí phòng thủ chắc chắn, chúng sẽ đánh bật anh trở lại! Anh không đưa kịp pháo yểm trợ vào vị trí, thế là tuyệt vời cho bọn bộ binh cơ giới. Nhưng nếu anh cố đưa được dù chỉ một khẩu pháo tới nơi thì chúng sẽ chẳng thể làm được gì! Bọn chúng sẽ phải đưa tới xe tăng và pháo, nhưng đào đâu ra được những thứ đó? Chỉ trên phim ảnh thời nay (ông nói với vẻ hờ hững - Valeriy Potapov) mới thấy bọn Đức với hàng đàn xe tăng trong các đợt tấn công của chúng. Trong thực tế sự việc diễn ra khác xa! Tất nhiên, bọn Đức có xe tăng, nhưng không phải ở khắp nơi! Thường thường chúng gửi tới vài chiếc xe tăng, chúng sẽ bắn từ một khoảng cách an toàn và đẩy lùi bộ binh của chúng ta, thế thôi! Chúng sẽ không làm hơn thế đâu! Chúng cũng không muốn chết, tại sao chúng lại phải phơi mình ra trước đạn pháo của chúng ta? Chúng sẽ cố bắt chúng ta để lộ vị trí đặt pháo và cố tiêu diệt pháo bằng tất cả những gì chúng có trong tay - máy bay, pháo và cối. Đấy là lý do tại sao pháo của ta phải mau chóng thay đổi vị trí. Họ vừa mới đào công sự đằng sau lưng anh, vậy mà một giờ sau đã thấy họ biến đâu mất!

Tôi đã khoác lác khi nói rằng dễ dàng đốt cháy xe tăng của chúng. Không hề! Trước khi đại đội của anh đốt cháy một chiếc xe tăng, anh sẽ phải đổ mồ hôi chán chê. Nó sẽ diệt một nửa đại đội bằng súng máy hay nghiền nát họ bằng xích sắt. Nếu bọn Đức tiêu diệt thành công khẩu pháo chống tăng của ta, chúng sẽ cho xe tăng bò dọc chiến hào và làm gỏi mọi người. Nhưng đó là về sau này, khi chúng tôi đã biết đào chiến hào.

- Thế trước đấy thì các ông làm gì?

- Năm 1941 chúng ta không đào chiến hào. Chúng tôi đào hố cá nhân hay hố cho hai người, đào theo đội hình trung đội.

Tại một công sự bê tông Đức bị phá hủy. Tháng 7 năm 1944.

- Ưu nhược điểm của chúng thế nào?

- Nhược điểm là anh có thể bị chôn vùi trong đấy, nếu nó bị sập. Đó là một chuyện. Kế tới là nó hoàn toàn bị cô lập! Chiến tranh là thế; tiếng nổ ở khắp nơi, anh không thể nghe hay thấy được mệnh lệnh, sự chỉ huy và thông tin lúc đấy rất kém. Làm cách nào anh chỉ huy được lính nếu mọi người đều ở trong hố của mình? Lắp điện thoại cho mỗi hố sao??? Anh cảm thấy thế nào khi ngồi trong một cái lỗ giữa cánh đồng? Anh cũng không thể biết những người khác ra sao. Có lẽ họ đã chết hay rút lui mà anh lại là người duy nhất còn lại? Cứ như thể tất cả quân thù đang nhằm bắn vào anh vậy. Thật là một cảm giác khủng khiếp! (Hồi ký của Nguyên soái Rokossovsky cũng đề cập tới chuyện tương tự. Ông viết rằng đấy là một trong những lý do chính của sự rút lui không tổ chức và điều đấy ngăn ta điều khiển binh lính trên chiến trường - Valeriy Potapov)

Tuy nhiên, các sĩ quan của chúng tôi đã mau chóng học bài học này và dạy chúng tôi cách đào hào sâu toàn thân và sâu bán thân. Đó quả là cả một khoa học! Không phải chỗ nào ta cũng có thể đào chúng được! Ta đào ở đây và đụng phải đá, Ta đào chỗ kia và gặp nước phun lên. Đôi lúc chúng tôi phải chiến đấu với nước ngập đến đầu gối. Đó là vì chúng tôi không có thời gian để đào ở chỗ khác, hay bởi "những tính toán chiến thuật". Chúng tôi đào hào sâu bán thân để khỏi phải đứng trong nước. Nhưng những hào ấy rất dễ sập, và sau một giờ chiến đấu quyết liệt anh không thể nói đó là một vị trí phòng thủ nữa.

Ivan Ignatievich đã từng tham gia chiến đấu quanh hồ Balaton.

- Ivan Ignatievich, ông có thể kể tỉ mỉ cho chúng tôi về trận đánh ấy, đến tận từng tiểu tiết được không?

- Tốt hơn hãy để tôi kể câu chuyện bắt nguồn từ một tin đồn truyền đi trước khi có biến cố ở Hungary. Tin đồn nói rằng họ sẽ chọn tất cả những người có từ ba vết thương trên mình trở lên (Ivan Ignatievich đã bị thương bốn lần trong chiến tranh). Họ nói rằng sắp chiến tranh với Mỹ và họ cần những người có kinh nghiệm. Số lượng vết thương trên mình là một thứ nhãn hiệu, một thứ dấu bảo đảm kinh nghiệm của chúng tôi. Tin đồn đã thành sự thật - một thiếu tá tới tiểu đoàn chúng tôi, tất cả chúng tôi tập hợp lại và ông ta chọn lấy vài người trong danh sách, trong đó có tôi. Chúng tôi được đẩy lên xe tải và rời tiểu đoàn đi huấn luyện làm thiếu uý chỉ huy. Tuy nhiên, theo như tôi nhớ, tôi chỉ ở đấy trong vòng một tháng. Đột nhiên họ tập hợp chúng tôi lại, phát cho vũ khí, đẩy lên xe tải và đưa chúng tôi đi đâu đó. Chúng tôi được đổ xuống trên một cánh đồng và nhận lệnh phải đào chiến hào. Ngoại trừ lựu đạn và súng trường, chúng tôi không được phát thêm gì cả. Toàn đại đội chỉ có hai khẩu trung liên. Chúng tôi đang ở đâu, các đơn vị láng giềng bố trí ở đâu, đâu là hậu phương, pháo yểm trợ chỗ nào - chúng tôi đều không được biết. Từ những tiếng đất rung chuyển rầm rầm và tiếng nổ gần đấy, chúng tôi nhận ra mình đang ở rất gần trận tuyến. Đại đội trưởng đảo tới đảo lui và thúc chúng tôi đào hào cật lực. Dù sao chúng tôi cũng không đào xong! Trước khi chúng tôi kịp làm bất cứ chuyện gì, bọn "Messers" (biệt danh máy bay Đức Bf-109 do lính Nga đặt - Valeriy Potapov) bay là là về phía chúng tôi, theo sau là mấy chiếc "Shtuckas" (biệt danh máy bay Đức Ju-87 do lính Nga đặt - Valeriy Potapov). Chúng không tấn công chúng tôi mà bay tới một thị trấn nhỏ ở phía tay phải chúng tôi. Tại đó chúng bị máy bay tiêm kích của ta chặn lại và một trận đánh dữ dội bắt đầu.

Những tiếng nổ đã vang tới rất gần, dường như tôi đã nghe thấy tiếng gầm gừ của động cơ - XE TĂNG!!! Tuyến phòng thủ của chúng tôi nằm phía sau một ngọn đồi lớn. Tôi liên tục nhìn lên đỉnh đồi. Tôi thấy đội cảnh vệ tiền tiêu của chúng tôi xuất hiện ở đỉnh đồi và chạy về phía chúng tôi. Họ chạy tới đại đội trưởng, giải thích gì đó với anh ta và chúng tôi nhận được lệnh: "Sẵn sàng chống lại xe tăng!" - mặc dù tất cả chúng tôi đều biết điều gì đang xảy ra - chúng tôi đều không còn là tân binh. Chúng tôi nấp dưới những dãy hào hố mới đào xong một nửa, cố gắng nguỵ trang thân mình bằng cành cây, đất cát và bằng tất cả những gì chúng tôi tìm thấy được.

Tất nhiên, chúng tôi biết mình chết chắc - chúng tôi không có pháo chống tăng, không có súng máy - thật vô vọng để chống lại xe tăng. Chúng tôi có lựu đạn, nhưng thật khó đánh gục xe tăng bằng quả lựu đạn cầm tay!

- Vấn đề nằm ở đâu?

- Vấn đề là xe tăng được làm bằng thép còn con người thì không. Chúng sẽ bắn súng máy và pháo vào anh. Chúng cũng có thể nghiền nát anh. Nói chung rất khó để hạ một chiếc xe tăng, và đặc biệt rất khó khi dùng lựu đạn cầm tay. Nếu tổ lái là tân binh thì anh còn có cơ hội, nhưng nếu có lính cựu trong xe thì gần như là không thể. Điều bất hạnh ở chỗ anh chỉ biết được điều đó khi chiếc xe tăng thình lình quay lại và nghiền nát anh. Hay khử anh bằng súng máy. Nhân tiện tôi hỏi, anh dùng từ "hạ gục" là có ý gì? Chúng ta có loại lựu đạn chống tăng, nhưng chúng vô dụng khi chống lại xe tăng hạng nặng. Không phải lựu đạn nào cũng đốt cháy được xe tăng! Phải là người được luyện tập, lạnh lùng và có kinh nghiệm. Anh không có nhiều cơ hội để tiến lại gần chiếc xe tăng, và anh còn ít cơ hội hơn nữa để chạy xa khỏi xe tăng nếu không hạ được chúng. Trong phần lớn trường hợp chúng tôi cố phá hỏng xích xe. Sau đó thì dùng đến bộc phá. Tổ lái không cần phải bỏ một chiếc xe bất động, chúng có thể ở lại và tiếp tục chiến đấu. Anh luôn phải đốt cháy xe.

Đây là bức ảnh bạn tôi, Alexander Shulgin, chụp vào mùa thu 1943. Tôi rất mong các anh công bố bức ảnh này, bức duy nhất của anh ấy mà tôi có - anh đã hy sinh khi đang chiến đấu ngày 3 tháng Tư năm 1944.

- Lúc đó thậm chí chúng tôi còn không có cả chai cháy ("Molotov Cocktails" - Valeriy Potapov) Chúng tôi chỉ có lựu đạn cầm tay, hầu hết là loại "quả dứa" (loại F1 - LTD). Vừa lúc ấy có vài người xuất hiện trên đỉnh đồi - họ chạy hết tốc lực về phía chúng tôi. Điều đó có nghĩa là tuyến phòng thủ của chúng tôi đã hoàn toàn bị bẻ gãy và đám xe tăng cùng bộ binh cơ giới (Panzergrenadier) sắp ùa về phía chúng tôi.

- Sao lại có bộ binh cơ giới?

- Bọn Đức thường làm thế - xe tăng tiến công, theo sau là bộ binh cơ giới. Đấy là lý do tại sao các đợt tấn công của chúng thật mạnh mẽ.

- Rồi điều gì xảy tiếp?

- Xe tăng Đức xuất hiện ở đỉnh đồi. Khoảng một chục chiếc cùng tiến - chúng phóng tới trước với một tốc độ rất cao và bắn súng máy vào đám bộ binh của ta đang bỏ chạy. Tôi nhớ lại cái suy nghĩ ngu ngốc - "NÓ đấy !" - đã lướt qua đầu tôi lúc đấy. Thật đáng sợ - một đợt tấn công của xe tăng! Chúng thậm chí nã pháo liên tục. Điều đó gây ấn tượng kinh khủng lên đám lính thiếu kinh nghiệm, mặc dù hầu như không thể bắn chính xác khi đang di chuyển. Nhưng gây ảnh hưởng tinh thần ghê gớm! Tôi cũng bị dao động, dù trước đó đã có kinh nghiệm về kiểu tấn công thế này. Tôi biết điều chính yếu là không được bỏ chạy, dù đôi chân chỉ chực cuốn phăng tôi đi. Chúng tôi phải để cho xe tăng tiến qua vị trí của mình rồi chặn đứng bọn bộ binh cơ giới. Thế nhưng đám xe tăng quay lại và lăn dọc tuyến phòng thủ của chúng tôi, hầu như sắp nghiền nát chúng tôi ra. Tôi trông thấy một trong những chiếc xe tăng đó nghiến trúng một quả mìn và nổ tung...

- Những quả mìn ở đâu ra?

- Kỹ sư công binh của trung đội đặt chúng để gài mìn con đường. Hai chiếc xe tăng bị hạ bởi những quả mìn đó, một chiếc bốc cháy còn chiếc kia, xích bị đứt tung, vẫn tiếp tục bắn rất lâu trước khi bị bao trùm bởi ngọn lửa. Tôi muốn nói với anh một điều - tất cả nghe thì có vẻ anh hùng, thế nhưng không có gì anh hùng trong trận đó cả. Tôi trông thấy một chiếc tăng Panther của Đức với xích xe nhuộm đỏ. Chúng đỏ lên vì dính máu, nhưng mãi sau tôi mới nhận ra điều đó. Tôi không còn nhớ mình đã nghĩ gì trong suốt trận đánh đó. Tôi chỉ còn nhớ mập mờ về nó. Họ nói rằng tôi đã hạ gục một xe tăng, nhưng tôi không chắc đấy có phải "do tôi hạ" không. Tất nhiên, các vị lãnh đạo cần những anh hùng còn sống chứ không phải những người đã chết. Đó là lý do tại sao trong bệnh viện (đây là lần bị thương cuối cùng của Ivan Ignatievich - ông bị mất một chân trong trận này - Valeriy Potapov) tôi được nhận Huân chương Vẻ vang.

Sau này tôi đã quay lại nơi đấy một lần (thị trấn Komarno thuộc Hungary - Valeriy Potapov). Năm 1985 họ đưa chúng tôi tới đó nhân dịp Ngày Chiến thắng. Tôi đã tới viếng nghĩa trang. Tất cả các bia mộ đều được khắc cùng một ngày - 19 tháng Hai, 1945. Chuyện là thế đấy.

Phỏng vấn: Valeriy Potapov
Dịch từ Nga sang Anh: Bair Irincheev
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC LÍNH BỘ BINH

Nikolai Obryn'ba

Tôi ba lần căm thù những kẻ mà,
vì gây ra chiến tranh,
đã buộc tôi phải giết người

Nikolai Obryn'ba, năm 1943.

Đầu đội những chiếc mũ sắt vuông cạnh, hai ống tay áo xắn cao, tiểu liên lăm lăm trong tay, bọn Đức tiến thành một hàng dài dọc con đường làng, chốc chốc lại nã một loạt đạn, đó đây có những binh lính ta chui ra khỏi chỗ ẩn nấp để đầu hàng. Leshka (hay Lesha hoặc Leshka đều là tên gọi thân mật của Alexei - Oleg Sheremet) nhảy lên phía trên chỗ tôi:

"Chúng đang ở rất gần rồi!"

Chúng tôi giấu những khẩu súng của mình xuống dưới lớp rơm, lúc này đã có thể nghe thấy tiếng chúng nói:

"Rus! Los, los!" (tiếng Đức: "Bọn Nga kia! Nào, ra nào!" - LTD.)

Bọn Đức cười lớn và đưa chúng tôi tới nhập vào nhóm binh lính ta đang đứng xa xa, có hai tên lính đứng gác.
Chúng tôi đứng đằng trước một ngôi nhà trong làng, chia từng nhóm 3 đến 4 người, và rồi, sau khi nhóm bên trong đi ra, một nhóm tù binh mới được dẫn vào trong nhà. Tại đó họ bị lục soát, kiểm tra giấy tờ từng người và tìm xem có ai giấu vũ khí trong người hay không.

Tôi bước vào ngôi nhà. Một lớp rơm vàng mới tinh được phủ lên trên sàn nhà, một trong những chiếc cửa sổ được che bằng một tấm chăn, trong phòng có chừng năm tên Đức, gồm cả một tên thiếu uý hãy còn trẻ. Chúng bắt chúng tôi tháo balô, mặt nạ phòng độc ra và đặt tất cả lên bàn, và bắt đầu lục soát cẩn thận. Một tên trong bọn tìm thấy mẩu salo (mỡ lợn muối - Oleg Sheremet.) trong túi của tôi, phủ đầy vụn bánh mì. Hắn lẳng lặng bỏ nó vào túi mình, cùng một miếng đường còn sót lại mà tôi định để dành phòng những khi thiếu thốn.

Lục tung chiếc túi cứu thương của tôi, bọn Đức không lấy đi món gì, ngoại trừ sau khi tìm thấy một hũ đựng mật ong bên ngoài có dán nhãn một loại thuốc nào đó, xoay xoay nó trong lòng bàn tay một lúc lâu, ngửi ngửi nhưng rồi cho rằng đó là một loại thuốc và ném trả nó lại vào trong túi. Một tên Đức vừa tuột chiếc thắt lưng có khảm những miếng đồng kiểu Cápcadơ khỏi quần tôi rồi đeo thử nó vào người, vừa nói: "Đồ lưu niệm, gut, gut..." Tôi hiểu ra rằng chúng đang lấy đi bất cứ thứ gì của chúng tôi mà chúng thích, và sự đê tiện này làm tôi thấy kinh ngạc: tại sao một người lính lại đi lấy một miếng đường, một mẩu mỡ lợn, một chiếc khăn tay còn sạch của một người lính khác?

Thế rồi một tên feldwebel (hạ sĩ quan - LTD) tóc đỏ mặt đầy tàn nhang lôi cuốn album có chứa những bức vẽ của tôi về cuộc đời quân ngũ từ chiếc túi đựng mặt nạ phòng độc ra, miệng nói "kunstmaler, kunstmaler" (nghệ sĩ - LTD), và xem nó một cách chăm chú. Đám còn lại vội đặt balô của chúng tôi sang một bên và cũng bắt đầu chăm chú nhìn, ngón tay chỉ trỏ, miệng cười thích thú. Tên thiếu uý cấm lấy cuốn album, xem qua nó rồi tra hỏi tôi:

"Từ đâu tới?"

Tôi trả lời:

"Moskau, kunstmaler Akademie." (tiếng Đức: "Ở Maskva, Học viện Nghệ thuật" - LTD)

Điều này làm hắn chú ý. Mở cuốn album ra chỗ một trang còn trống, hắn chỉ ngón tay vào đấy, rồi chỉ ngược lại vào người hắn, miệng nói:

"Zeichnen, zeichnen portrait." (tiếng Đức: "Vẽ đi, vẽ chân dung tao này" - LTD)

Tôi lấy ra một chiếc bút chì và bắt đầu phác thảo chân dung của hắn. Bọn Đức và những tù binh còn lại đờ người ra quan sát. Năm phút sau tất cả đều đã nhận ra chân dung tên thiếu uý và bắt đầu xì xào: "Gut! Prima!.." (tiếng Đức: "Tuyệt! Số một!" - LTD) Tôi xé tờ giấy có vẽ bức chân dung ra và đưa nó cho tên thiếu uý. Hắn quan sát nó thật tỉ mỉ rồi nhét vào trong túi áo.

...Ngày thứ mười bốn của cảnh bị giam cầm. Đã tới Holm-Zhirkovskiy. Sau mười ngày phải chờ sau hàng rào kẽm gai nơi chúng nhồi nhét những tù binh từ con số 350 ngàn người bị bọn Đức bao vây hồi tháng Mười năm 41 ở Viazma, chúng bắt đầu dẫn chúng tôi đi về phía tây, dọc theo một con đường lớn. Trong mười ngày đó chúng không cấp cho chúng tôi cả thức ăn lẫn nước uống, và chúng tôi phải ngồi chen chúc ngoài trời không mái che. Những đợt tuyết sớm rơi vào khoảng đầu tháng Mười của năm đó, trời rất lạnh và thời tiết thật ẩm ướt khó chịu. Tại đây, lần đầu tiên trong đời, chúng tôi phải trông thấy cảnh những con người đang khoẻ mạnh đã ngã ra chết vì đói như thế nào.

Chúng tôi đi đến ngày thứ tư trên con đường quốc lộ Warsaw dẫn về Smolensk, nghỉ chân tại những khu trại được bố phòng đặc biệt, bao quanh bởi những hàng rào kẽm gai và các tháp canh có đặt đại liên, chúng rọi đèn pha vào chúng tôi xuyên suốt qua màn đêm. Đi bên chúng tôi là một hàng dài những tù binh bị thương - nằm trên những chiếc xe ngựa thường, những xe ngựa hai bánh hay đi bộ. Phần đuôi của đoàn tù binh, rải dài từ ngọn đồi này qua ngọn đồi nọ, kéo ra cho tới tận đường chân trời. Tại những điểm dừng chân và dọc trên suốt chặng đường đi nằm rải rác hàng ngàn xác người chết vì đói và rét. Những kẻ còn ngắc ngoải bị bọn lính bắn hạ bằng tiểu liên, một tên lính gác giơ chân đá vào một tù binh đã ngã và, nếu anh ta không thể đứng dậy kịp thời, hắn liền nổ súng. Tôi theo dõi trong khiếp hãi cảnh chúng biến những con người khoẻ mạnh dần thành những những kẻ hoàn toàn kiệt quệ và cuối cùng là tới cái chết. Mỗi lần trước khi chúng tôi khởi hành, đám lính gác cầm dùi cui lại tập hợp dọc hai bên hàng người, tiếp theo là một mệnh lệnh vang lên:

Trên đường di chuyển. Tháng Mười năm 1941
Cảnh tù binh đang lột da một xác ngựa.
Được vẽ ở mặt sau của một tờ truyền đơn Đức.

"Tất cả mọi người, chạy!"

Đám người co chân chạy, cùng lúc đó những cú quật văng xối xả vào chúng tôi.

Chạy được khoảng một - hai kilômét, một mệnh lệnh khác lại ban ra:

"Dừng lại!"

Nghẹt thở, nóng bức, mồ hôi đầy mình, chúng tôi dừng lại, và chúng thường để chúng tôi cứ đứng như thế trong mưa và tuyết, vặn mình dưới những ngọn gió buốt lạnh thấu xương suốt cả tiếng đồng hồ. Những bài luyện tập đó được lặp đi lặp lại nhiều lần, kết quả là sau đó chỉ những người khoẻ mạnh nhất là còn bước đi trên đường. Rất nhiều đồng chí của chúng tôi phải nằm lại đó, và những phát súng lẻ tẻ vang lên - bọn chúng đang kết liễu những ai không thể đứng dậy được.

Đôi khi chúng dồn chúng tôi đi sang hai bên đường, điều này nhằm mục đích dọn sạch những quả mìn; nhưng chỉ có những quả mìn cá nhân bị nổ, sức nặng của chúng tôi không đủ để kích nổ những quả mìn chống tăng, và khi chúng cho những chiếc xe đi qua các ngả đường đã được dọn, xe của chúng thường bị nổ tung.

Đoàn chúng tôi dừng lại vì một chiếc ôtô Đức vừa trúng mìn, tôi rút cuốn sổ tay của mình ra và bắt đầu phác lại cảnh đó. Đột nhiên một tên lính cưỡi ngựa phi tới chỗ tôi và giơ chiếc roi lên, nhưng may thay viên đại tá đang đi chiếc xe mui trần cạnh đó gọi hắn quay lại. Tên đại tá gọi tôi tới, hỏi xem tôi đang làm gì. Tôi đáp rằng mình là một nghệ sĩ đang vẽ. Hắn xem các bức phác thảo và nói:

"Anh không đước phép. Anh không được vẽ cảnh các binh sĩ Đức hy sinh."

Tôi lẩn vào đám tù binh đang đi qua một con đường bị rải mìn, ở đó chúng sẽ không thể tìm ra tôi.

...Tuyết đang tan và ráng chiều lặn xuống nhợt nhạt, bóng đen của những người đang xây dựng một cây cầu nổi lên trên đó, hình dáng chiếc cầu cùng với những mố trụ trông như bộ xương của một con cá khổng lồ. Chúng tôi đã tới Yartsevo, đoàn tù binh kéo vào một khu bao quanh bởi hàng rào kẽm gai, nằm trên khu đất của một nhà máy sản xuất gạch bỏ hoang. Nó được chia thành nhiều gian với những tháp canh đặt trên những chiếc cột mảnh khảnh, trong đặt những ụ súng máy - chiếc tháp canh trông như một con nhện.

Tôi mang chiếc túi đựng bông băng và thuốc mangan trên vai đi dọc suốt đoàn tù binh. Hai đồng đội của tôi, Sasha (hay Sasha hoặc Sashka đều là tên gọi thân mật của Alexander - Oleg Sheremet) Lapshin and Alexei Avgustovich, cùng tôi, những sinh viên của Học viện Nghệ thuật Maskva, đều là y tá cứu thương. Chúng tôi nảy ra ý đăng ký vào một bệnh viện để chữa trị các tù binh bị thương. Chúng tôi rời khỏi hàng và giải thích đề nghị của mình với một tên lính gác, hắn kêu một tên polizei (cảnh binh -LTD) tới và bắt tên kia đi gọi một bác sĩ. Chúng tôi đứng lại chờ, một dòng người đang kiệt sức đi ngang qua chúng tôi, họ cố bước để giữ cho chân mình đừng đổ gục xuống. Cuối cùng người bác sĩ, cũng là một tù binh, đã tới. Đáp lại lời đề nghị của chúng tôi, anh ta nói rằng mình đã có nhiều bác sĩ hơn là cần thiết, nhưng lại quá ít y tá. Nhưng đột nhiên, như chợt nhớ ra điều gì, anh ta chấp nhận chúng tôi vào trại để chữa chạy cho những người bị thương nặng. Chúng tôi vui mừng đồng ý.

Tên polizei (cảnh binh) dẫn chúng tôi đi qua nhiều khu vực có rào kẽm gai để tới một căn lán gỗ. Lúc này bên ngoài trời đã tối. Một người to con mở cửa cho chúng tôi, anh ta là người phục vụ ở đây. Sau khi cho chúng tôi vào, hắn lập tức đóng cửa lại. Trong bóng tối chúng tôi không trông rõ cái gì, nhưng mùi hôi của da thịt thối rữa lập tức chọc vào mũi chúng tôi. Chúng tôi nép mình vào bức vách gỗ, những khe hở của nó cho phép chút không khí trong lành và ánh sáng le lói lọt qua. Người phục vụ theo dõi chúng tôi với thái độ thù địch không cần che đậy, tôi không tài nào hiểu được lý do sự bất mãn của y. Cuối cùng y thốt lên:

"Ở đây không có chỗ nào để ngủ hết. Các bác sĩ không tới đây. Tất cả những người bị thương ở đây đều đã vô hy vọng."

Sửng sốt trước sự tàn nhẫn không giấu diếm của hắn, thậm chí hắn cũng không thèm hạ thấp giọng, chúng tôi im lặng không trả lời.

"Dù sao thì họ cũng sẽ chết," hắn lại tiếp tục. "Thế các anh sẽ làm cái gì ở đây?"

Tôi tuyên bố một cách kiên quyết:

"Chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì để giảm bớt đau đớn cho những người này, nói chung là tất cả những gì trong khả năng có thể. Tối nay chúng tôi sẽ nghỉ ở đây và bắt tay làm việc vào sáng mai."

Các giường ngủ được ghép thành ba tầng. Một lối đi chỉ rộng khoảng bảy mươi hay tám mươi xăngtimét trải dọc suốt chiều dài của chiếc lán. Mọi người nằm chen chúc nhau, ép sát vào những người kề bên, cố gắng giữ cho mình được ấm. Có ai đó chạm vào ống tay áo tôi và tôi nghe thấy tiếng thều thào rên rỉ:

"Bác sĩ, bác sĩ, xin hãy cứu tôi, tôi muốn sống, tôi có một ngôi nhà với khu vườn và lũ trẻ, ba đứa cả thảy, bác sĩ ơi, cắt tay tôi đi, nó đau lắm, chỉ cần sống là được... "

Một cơn nghẹn dâng trong cổ tôi, nhưng, cố gắng kìm mình lại, tôi trả lời bằng cách kiên quyết nhất mà tôi có thể làm được:

"Tôi sẽ khám và chữa cho tất cả mọi người vào ngày mai. Hiện giờ thì không được, trời quá tối."

Tôi không có đủ can đảm để thú nhận rằng mình không phải là một bác sĩ bởi không muốn làm cho những con người đang ngắc ngoải kia buông xuôi, không muốn lấy đi hy vọng của họ. Các bạn tôi đứng đó không thốt nổi nên lời, bị giằng xé bởi lòng thương xót và cảm giác bất lực trước những đau đớn của họ.

Gã "phục vụ" đã leo lên chiếc giường của hắn đặt tại một ngăn riêng trong căn nhà, còn chúng tôi chui xuống những chiếc hố phía dưới giường, chật vật xoay sở trong khoảng trống chật hẹp, và cuối cùng cũng thu xếp được chỗ để nằm nghỉ.

Trên đường đi. Tháng Mười năm 1941. Cái rãnh bên đường. Tháng tư năm 1942.
Trên đường đi các tù binh thường đổ xô tới các xác ngựa, cố xé lấy cho mình một miếng thịt đã đóng băng. Bọn gác đôi khi nổ súng để ngăn chặn. Ở phía bên phải là một cái rãnh chất đầy xác tù binh tại trại Borvukha-1. Những chiếc rãnh trải rất dài, hơn 3.000 xác chết được ném vào mỗi rãnh như vậy. Sau đó những rãnh mới sẽ được đào tiếp. Bức vẽ được thực hiện trên mặt sau của một tờ truyền đơn Đức. Nếu phạm tội xé rách một tờ truyền đơn - kẻ phạm tội sẽ bị xử bắn; nếu vi phạm nội dung tờ truyền đơn - sẽ bị treo cổ.

Không khí thật ngột ngạt, nhưng mùi hôi dần trở nên đỡ khó chịu hơn, sự mệt mỏi đã choán chỗ tất cả. Tôi nhắm mắt lại và lập tức hình ảnh con đường ướt át trơn trượt bắt đầu chập chờn trước mặt tôi, cùng với những xác chết, xác chết, xác chết... Chúng tôi nằm không nhúc nhích trong chiếc hố giữa những đau đớn, mê sảng, chết chóc, và mặc cho sợ hãi, thậm chí chúng tôi đã bắt đầu thấy dễ chịu, người ấm dần lên, và từ từ chúng tôi đi vào giấc ngủ. Đột nhiên một thứ chất lỏng ấm ấm xối từ trên xuống, lập tức chân tôi bị ướt sũng. Ban đầu tôi không hiểu đó là cái gì, nhưng rồi Sashka nói:

"Tôi bị ướt khắp người rồi, những người bị thương đang đái lên chúng ta đấy."

Buổi sáng xám xịt, nhớp nháp đã tới. Ngay khi chúng tôi chui ra khỏi chỗ nằm của mình, mọi người ở đó đều đã hiểu rằng các bác sĩ đã tới. Bọn Đức không cấp chút nước nào cho những người bị thương, họ chỉ được phát một cốc nước trà hoặc cà phê - một thứ chất lỏng đùng đục có màu nâu - vào mỗi buổi sáng. Nhưng tôi cần có nước sôi để bắt tay vào làm việc.

Một cảnh được mô tả chi tiết. 1942

Để lấy nước tôi phải tìm mọi cách để tới được khu bếp ở trong trại. Nó được đặt trong một cái lán rộng, lửa được giữ bằng cách nhét thẳng củi vào dưới những chiếc nồi đang treo lơ lửng, có khoảng hai mươi cái như vậy. Họ khuân tới đây những xác ngựa chết được nhặt dọc đường, xả chúng ra và ném những súc thịt lớn vào những chiếc nồi đầy nước, rồi họ lấy thịt ra và chặt thành từng mảnh nhỏ. Tôi như nghẹn thở trước cảnh người ta đang mang tới những con ngựa đặt trên những chiếc xe ngựa hai bánh do người kéo. Mọi thứ xung quanh đều phủ đầy khói và mồ hóng, làn khói dầy đặc màu xám có pha sắc hồng, toé ra những tia lửa, bay trên những chiếc nồi treo lơ lửng, bị những lưỡi lửa đỏ quạch từ dưới phụt lên. Những con người vàng vọt xám xịt với vành mũ buông xuống che kín hai tai đang lột da những xác ngựa treo lơ lửng. Một cái bóng khổng lồ của ai đó, lắc lư thành thạo giữa những đám mây khói và hơi nước đang bay lên và tản ra, biến mất dần dưới mái của chiếc lán khổng lồ. Tất cả những điều đó trông tựa như trong đoạn mô tả Cảnh Địa ngục của Dante; điều đáng sợ nhất trong tất cả những thứ đó là tôi không hề nghe thấy bất cứ một giọng nói nào, tựa hồ như tất cả mọi người đều đã câm tiếng.

Chật vật lắm tôi mới tìm thấy một bình nước sôi và chúng tôi liền bắt tay vào việc. Phần lớn những người bị thương chỉ mới được băng bó sơ sài ngay trên chiến trường. Một vết thương đã được băng thường được quấn thêm bên ngoài bằng những chiếc xà cạp. Khi vừa tháo lớp băng cũ ra, tôi phát mửa bởi mùi hôi thối từ vết thương. Sasha và Alexei lập tức bị loại khỏi công việc, tôi phải đặt họ nằm ra ngoài hàng hiên chỗ gần bức tường. Lớp băng mới tôi quấn cho những người bị thương rất chắc chắn gọn gàng, tôi rửa sạch vết thương bằng mangan và băng nó lại, ấn tượng của lớp băng mới đem lại cho người bị thương một cảm giác hy vọng sẽ chóng lành bệnh. Khi tôi tìm thấy người đồng hương "với khu vườn" của mình (anh ta phát âm với giọng Ukraina - Oleg Sheremet), anh ta đã chết, có lẽõ anh bị hoại thư từ trước đó.
Chỉ những người bị thương nặng được tập trung ở đây, tôi thậm chí đã phải tiến hành một cuộc phẫu thuật - cắt rời bằng con dao phần còn lại của một cánh tay bị dập nát. Bệnh nhân của tôi bất tỉnh, tôi cho anh ta ngửi nước đái quỉ và quay sang tiếp tục làm việc. Khi anh ta nhìn thấy cánh tay cụt của mình đã được quấn một lớp băng trắng tinh, một thoáng cười hiện lên đôi môi xám nhợt của anh. Hay ít nhất cũng gần như vậy, bởi ngay lúc đấy mọi thứ trở nên chao đảo trước mắt tôi, tôi cảm thấy buồn nôn... Khi tỉnh lại, có ai đó dúi một điếu thuốc vấn bằng makhorka (loại thuốc lá nặng và rẻ tiền - Oleg Sheremet) vào môi tôi, thứ này gần đây đã trở thành vô cùng có giá trị, do đó có thể hiểu đây là biểu hiện của lòng biết ơn vô hạn từ bệnh nhân của tôi. Và rồi lại quay về với việc băng bó: đầu, bụng, hạ bộ - thật là một vị trí vô cùng bất tiện để quấn băng. Alexei và Sasha phân phát thức ăn cho người bị thương, xua người phục vụ đi, hắn thường không thương xót đánh cắp thức ăn của họ. Ngoài trời mưa tuyết đang rơi, hàng đoàn tù binh mới vẫn tiếp tục dồn tới. Một nhóm người mới đến chạy tới căn lán của chúng tôi, họ gõ cửa đề nghị chúng tôi mở ra và cho họ vào. Tôi biết rằng nếu thậm chí chỉ một người trong bọn họ bắt đầu phá vỡ một tấm vách để lọt vào trong - căn lán sẽ bị phá sập, đập nát trở thành củi đốt. Sau khi tưởng tượng ra hình ảnh đó, tôi đeo chiếc túi có chữ thập đỏ của mình lên vai và bước ra ngoài, chắn ngang cánh cửa bằng thân hình của mình. Đám đông những con người đau khổ đó gầm lên đầy đe dọa và bắt đầu xô đẩy nhau. Đột nhiên, một kẻ trong bọn họ nhảy tới phía tôi:

"Hãy để tôi vào!"

Tôi đá vào bụng hắn, hắn lập tức đổ xuống và bắt đầu rên rỉ. Tôi cảm thấy chua xót và xấu hổ. Tôi quan sát khắp những khuôn mặt xanh xám vì lạnh, đang nhìn tôi qua những hốc mắt tối sẫm, rồi nói:

"Những người bị thương nặng đang ở đây. Thậm chí ở đây không còn chỗ cho những người cứu thương chúng tôi. Chúng tôi đang băng bó những người bị thương, và nếu lúc này họ không được bảo vệ, tất cả bọn họ sẽ chết hết."

Đám đông xám xịt ngập ngừng, nhưng rồi một tên trong bọn hét lên:

"Các anh nghe lời lũ chó này làm gì?! Chết lũ con hoang này đi!"

Trong một giây thoáng qua tôi nhận ra rằng bản năng giết chóc hiện đang chiếm số đông, trong khi tôi đang đứng đơn độc chống lại tất cả bọn họ - điều đó thật kinh khủng và bất công; cứ như thể họ đang tự bào chữa cho mình bằng sự đồng thuận của số đông, như thể họ muốn xé tan thành từng mảnh và giết chết không chỉ một người y tá đang bảo vệ những kẻ bị thương - giết chết tôi, họ sẽ giết được một lực lượng đen tối nào đó đang muốn tiêu diệt họ. Và tôi cất tiếng hét lớn. Tôi không thể phô bày sự yếu đuối của mình. Trong tiếng hét đó tôi trút xuống họ quyền năng của lời buộc tội sự tàn nhẫn đối với những người bị thương và tàn phế - để cho họ không còn gì dể bào chữa nữa.

Đám đông rút lui. Tôi gục xuống, run rẩy vì những gì mình vừa phải trải qua.

Không còn ai dám tới khu lán lần nữa, nhưng chúng tôi vẫn giữ cảnh giác suốt đêm hôm đấy.

Sang ngày thứ ba nguồn thuốc của tôi đã cạn sạch, tôi cảm thấy choáng váng vì kiệt sức, vì những đau đớn về tinh thần; dường như tôi đang bắt đầu thối rữa tựa như những thương binh của mình. Tôi vẫn còn hũ mật ong được cất kín, trong có cả sáp và ong non, phòng cho những tình huống như hiện giờ tôi đang trải qua. Tôi quyết định đem chia chỗ mật cho ba người chúng tôi, nhưng gã phục vụ lại gần và khuyên chúng tôi đổi mật ong cho đám đầu bếp để lấy thịt ngựa. Sau một hồi thương lượng qua hàng rào thép gai, chúng tôi đồng ý đổi nó cho một tay đầu bếp, cũng là một tù nhân, anh ta đã có đủ thịt ngựa và muốn kiếm món gì khác ngon miệng hơn. Chúng tôi đưa anh ta mật ong, và tôi sẽ tới chỗ anh ta vào ban đêm, khi thịt ngựa đã chín, lấy về một cái đùi để đổi lấy chỗ mật cho tay đầu bếp lúc đó đã được ăn no đủ. Tay đầu bếp - một thợ đào than to con vùng Donbass có cặp lông mày đen tên là Anton, anh ta nói giọng pha lẫn âm Ukraina và Nga, đặc điểm của người miền Nam Ukraina - bảo:

"Đừng lo, tôi sẽ đưa ngay cho anh chiếc đùi khi anh vừa tới. Nhớ đừng để bị bắt bởi bọn polizei (cảnh binh Ukraina - LTD) đứng canh cổng."

Tôi phải trườn dưới lớp kẽm gai của cái hàng rào ngăn chia căn lán chúng tôi với khu sân bếp, chạy băng qua cái sân mà không bị phát hiện, rồi đột nhập vào đằng cửa bếp ngay trước mặt một tên cảnh binh (polizei).

Anton bảo rằng nồi của anh ta nằm hàng thứ hai tính từ giữa phòng. Và quả thế, tôi đã tìm được đúng anh ta.

"Tốt, hãy xem đây, anh đã tìm ra tôi, dù anh rất sợ bị bắt. Mật ong của anh đã được sử dụng vào mục đích tốt, tôi có một người bạn bị bệnh, anh ta cần được uống trà với mật ong. Đây, hãy lấy chiếc đùi phần anh đi."

Anh ta lôi một chiếc đùi ngựa khổng lồ từ trong nồi ra, nó đang bốc khói nên không thể cầm mang đi ngay được. Tôi để cho nó nguội đi một chút rồi nhét nó vào dưới nách, cuộn lại bằng chiếc chăn màu đỏ của Tonia, vật đã cứu mạng tôi không biết bao nhiêu lần. Tôi luồn ra phía cửa, nhưng chưa kịp bước qua ngạch cửa thì đã nghe tiếng tên cảnh binh gọi giật lại:

"Mày mang cái gì vậy?!" - và chộp lấy cái chăn.

Không cần nghĩ ngợi, tôi giật phắt ra và, với đầu óc thật tập trung tỉnh táo, chạy nhanh về góc nhà bếp. Tên polizei vồ trượt và ngã xuống, xé rách một mảnh của chiếc chăn, hét toáng lên: "Bắt nó lại! Bắt nó lại!.." Một cú đẩy nữa và tôi chạy ra nhanh như cắt, Sasha đang chờ sẵn ở ngoài kia, tay nhấc cao cái hàng rào kẽm gai. Một khẩu súng máy khạc đạn dọc theo hàng rào, nhưng lúc này tôi đã được kéo an toàn vào trong lán, chúng tôi đóng cửa lại và chặn ngang nó bằng một chiếc gậy. Chúng tôi nghe thấy tiếng bọn polizei lùng sục, chửi rủa, chúng đang phát điên lên như thể chính bọn chúng vừa bị trộm mất vậy, thật khó mà tưởng tượng ra điều gì sẽ chờ đợi tôi ngoài sân trại vào ngày hôm sau nếu tôi để bị chúng bắt.

Nhưng chúng tôi đang cảm thấy hạnh phúc và ấm cúng, tay vuốt ve súc thịt hãy còn ấm trong bóng tối. Chúng tôi chia thịt ngựa ra thành bốn phần, và rồi vồ lấy chiếc đùi đã róc thịt. Nhoáng cái đã chỉ còn lại những chiếc xương sạch nhẵn, mọi thứ đều được cho vào bụng, vậy mà dường như vẫn còn quá ít. Chúng tôi đưa một phần cho tay lính thủy phục vụ (đó là biệt hiệu trong trại đặt cho do chiếc áo lót kẻ sọc của anh ta), anh ta rất vui, luôn miệng đảm bảo với chúng tôi rằng chúng tôi sẽ luôn thành công nếu nghe theo lời anh ta. Chúng tôi phát vài miếng cho những người nằm kề bên. Mọi người đều hạnh phúc, và yên lặng, chầm chậm, xé ra từng sớ thịt một, nhai kỹ, và mọi người đều nghĩ tới một điều gì đó thật dễ chịu... Đột nhiên, nhận ra rằng chúng tôi có thể ăn hết ngay mọi thứ, tôi thì thào với mọi người:

"Các bạn, ăn thế đủ rồi! Cất tất cả đi, sau này nó sẽ trở thành hữu ích đấy."

Sashka giấu phần của mình vào một cái nồi nhét trong balô, còn tôi quấn nó trong một cái khăn mặt. Leshka, mặc dù là người gầy nhất trong bọn, khổ sở hơn tất cả chúng tôi trước khi chịu rời miếng thịt.

Chúng tôi lăn ra ngủ trong cái góc hôi hám của mình, tiếng mê sảng của những người bị thương vang lên không dứt, chốc chốc lại có người dậy đi về phía cửa, anh ta cần cần ra ngoài nhưng cửa đã bị gác và không cho ai ra vào. Cuối cùng mọi người nằm yên và giấc ngủ tới, có thể nghe thấy tiếng một tên polizei hét xa xa, tôi kéo chiếc chăn rách nát của Tonia chùm lên trên đầu.

Những tia sáng mảnh dẻ của buổi bình minh ảm đạm đã xuyên qua những chiếc lỗ trên vách lán, Sashka đang lay tôi dậy; nhận ra tôi đã tỉnh giấc, cậu ta bắt đầu thì thầm với tôi rằng chúng tôi cần phải rời đi, chúng tôi không thể làm thêm điều gì để giúp những người bệnh mà chỉ tổ làm thiệt mạng chính mình. Ngay lúc đó có tiếng người gõ mạnh vào cửa một cách hách dịch. Tôi trèo qua người Leshka, vẫn ngủ mà không biết chuyện gì đang xảy ra, cậu ta chống trả lại bằng hết sức mình. Cuối cùng tôi tới được cửa và mở nó ra. Người bác sĩ đã gửi chúng tôi tới đây đang đứng trước mặt tôi. Anh ta ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, và cả hai chúng tôi đều rất mừng rỡ. Người bác sĩ đã có được giấy do tên sếp Đức cấp cho phép chọn lấy một nhóm người bị thương còn có thể tự di chuyển được để cùng đi với đoàn tù binh tới Smolensk. Anh ta quyết định lấy chúng tôi đi theo làm người phục vụ để hộ tống những người bị thương tại đây tới địa điểm.

Thật đau khổ khi nhớ lại việc quyết định những người được chọn đã diễn ra khó khăn như thế nào, mọi người đều hiểu là ở lại khu lán ấy có nghĩa cầm chắc cái chết. Nhiều bàn tay vươn về phía chúng tôi, những người bị thương đều đảm bảo với chúng tôi là họ cảm thấy khoẻ mạnh, cố gắng tỏ vẻ dũng cảm, thậm chí hạnh phúc trên nét mặt - nhưng tôi nhớ lại mình đã băng những vết thương ở bụng, tay và chân bị gãy nát, và hiểu rõ những nụ cười cố gắng vượt quá sức người ấy đã bắt họ phải trả giá thế nào. Và trên đường đi, ngay lần ngã gục đầu tiên và phải chịu cú đá từ chiếc giày của tên lính gác, nếu anh ta không thể đứng dậy, anh ta sẽ bị kết liễu ngay lập tức. Khi ấy tim anh sẽ như nảy bật lên - anh đã chọn anh ta cùng đi, và sẽ có không biết bao nhiêu lần anh tự nhủ rằng dù sao anh ta cũng sẽ chết, nhưng điều đó cũng không làm anh khuây khỏa.

Một vụ xử tội. Cảnh bọn polizei đang đánh đòn tù binh. Tháng Tư năm 1942.
Vẽ trên mặt sau một tờ truyền đơn Đức.

Trời rất lạnh, tuyết rơi biến con đường thành một hỗn hợp màu vàng sệt. Đoàn người tập hợp lại và khởi hành về hướng Smolensk. Hình ảnh về những gì tôi đã trải qua luôn chập chờn trước mắt tôi: nơi đây tôi rửa sạch vết thương, băng bó chúng, nắn lại xương, những gương mặt méo mó vì đau đớn... Căn bếp của khu trại... Rồi kế tới là cảnh một cuộc xử bắn: một tên feldwebel (hạ sĩ quan, cai đội - LTD) đang la hét rằng bọn Nga là lũ lợn, còn chúng, người Đức - là một dân tộc vĩ đại; một thân mình dang chân dang tay nằm không nhúc nhích, hai tên súc sinh polizei ngồi lên đầu và chân anh ta, còn tên thứ ba quật mạnh vào thân hình đang run lẩy bẩy ấy, tên feldwebel đếm từng cú đánh một. Khi lần đầu tiên nghe thấy những tiếng đánh ấy, tôi cứ nghĩ đó là tiếng ai đập bụi một tấm đệm; sau khi tận mắt trông thấy căn nguyên tiếng động, tôi cảm thấy buồn nôn và tim mình nghẹn lại từng chập - trận đòn thật kinh tởm; thậm chí giết chết người ta đi còn tốt hơn. Nhưng rồi, cái chết đâu phải xa xôi gì...

Đoàn tù binh chúng tôi bước đi, mọi người nép sát vào nhau, nâng đỡ những người bị kiệt sức. Những chiếc xe phủ bạt màu xám và xe mui trần phóng ngang qua chúng tôi hướng về phía đông, chất đầy những người đang cười vào mặt chúng tôi, chĩa máy ảnh vào chúng tôi, những kẻ đã bị nhiễm thứ dịch hạch nâu (chỉ bộ đồng phục màu nâu của Đảng Quốc xã - LTD).

Vâng, đó là chiến tranh, chúng tôi đang phải đối mặt không chỉ với sự hủy diệt về thể xác - bọn phát xít đang cố gắng huỷ diệt nhân cách của chúng tôi, niềm tin vào những giá trị tốt đẹp của chúng tôi. Thật rất khó để tồn tại trong cái địa ngục này, nhưng hàng trăm ngàn lần khó hơn nữa để tồn tại mà ta vẫn còn nhân tính.

Một chiếc ôtô đi ngang làm bắn toé bùn lạnh lên mình chúng tôi, vấy lên lớp băng trắng của những người bị thương, chúng tôi nghe thấy tiếng bọn Đức cười đùa, tiếng kèn ắcmônica...

Chúng tôi được chất lên một đoàn tàu tại Smolensk. Chúng lùa chúng tôi lên các toa bằng báng súng, thúc mạnh thẳng vào lưng chúng tôi. Đám đông xô đẩy lẫn nhau, ta phải giữ thăng bằng trên hai tấm ván đặt dốc để lao lên, có người trượt chân, ngã xuống và không thể đứng lên được. Bọn Đức la hét: "Schneller! Schneller!" (tiếngĐức: "Nhanh lên! Nhanh lên!" - LTD), bọn polizei chửi rủa. Cùng với Alexei và Sasha, tôi leo lên được giữa nhóm người đầu tiên, và chúng tôi xoay xở tới được một chỗ tốt trong góc toa. Nhưng các tù nhân vẫn được tiếp tục dồn lên toa, ngày càng chặt hơn. Chúng tôi tìm cách ngồi được xuống, thu chân vào dưới thân mình, nhưng những người khác thì phải đứng. Có khoảng hai mươi nữ cứu thương được dồn lên toa trong đợt cuối cùng, họ chỉ còn có thể đứng ở gần cửa toa. Cuối cùng cánh cửa kêu rít lên, chiếc then sập xuống. Nhưng đoàn tàu vẫn chưa chuyển bánh. Sau chuyến đi và lần chuyển trại mọi người đều đã kiệt sức, mặt mũi râu ria tua tủa, mũ tụt xuống tận mang tai; áo choàng không còn thắt lưng, rất nhiều người bị lấy mất thắt lưng trong khi lục soát; balô và túi đựng mặt nạ phòng độc lép kẹp, bọn Đức đã ăn cướp gần hết; thứ duy nhất còn lại chỉ là chiếc gà mèn đeo phía trước - vật dụng chính phục vụ cho mục đích tồn tại. Một người trung niên trông hốc hác quị xuống trên hai chân ngay cạnh tôi, anh ta đeo một cặp kính, nhưng một bên tròng đã bị vỡ, và anh ta nghiêng mái đầu một cách kỳ lạ để nhìn cho rõ bằng một con mắt cận thị của mình, một tay bịt con mắt còn lại; anh ta nói không rõ, đôi môi của anh đã phồng rộp lên nên ta chỉ có thể nghe thấy tiếng khò khè khó nhọc phát ra từ chúng: "Nước..." Nhưng phần lớn trong chúng tôi đã không ai còn nước, và những ai còn giữ được thì giấu đi, phòng khi chính mình sẽ phải rên rỉ giống như thế để mong làm ẩm đôi môi và cổ họng mình. Những chiếc tăm pông tàu va vào nhau loảng xoảng, một cú nhấn, rồi một cú nữa, toa tàu giật mạnh rồi đoàn tàu lăn bánh chậm chạp và miễn cưỡng, những tiếng la hét trên sân ga Smolensk tan dần vào không trung.

"Chúng đang đưa chúng ta đi đâu?" người ở bên phải tôi thì thào.

"Chuyện ấy giờ còn ý nghĩa gì nữa?" một người khòng lưng mặc chiếc áo choàng xanh lá cây có khuôn mặt râu ria lởm chởm, có lẽ là một dân quân bị bắt làm tù binh (opolchenets - thành viên của narodnoye opolcheniye, tức "dân quân vũ trang", lực lượng quân sự tình nguyện không thường trực được thành lập nhằm đẩy lui làn sóng quân Đức dâng cao tại thời điểm khủng hoảng năm 1941 - Oleg Sheremet) "Ở đâu thì chúng ta cũng bị giam cầm cả thôi. Có lẽ chúng đang chở chúng ta về Đức."

Đoàn tàu vẫn lăn đều bánh trên đường ray...

Người đứng kế bên trái tôi đã thôi khò khè và tôi cảm thấy rõ thân mình anh đang đè nặng lên tôi, tôi cố thoát ra nhưng không thểû, do anh ta cũng bị xô lấn từ nhiều phía khác. Đột nhiên tôi trông thấy một dòng chất lỏng trào ra khỏi đôi môi sưng phồng của anh ta và đầu anh gục xuống. Hiển nhiên là anh ta đã chết. Tôi kêu lên: "Anh ấy chết rồi." Không có ai phản ứng, mọi người đều quay đi. Leshka nhăn mặt đau đớn, nói thầm với tôi: "Nikolay, tôi phải làm gì bây giờ? Bụng tôi đau lắm, tôi cần phải ra ngoài." Tôi chật vật rút một chiếc khăn mặt khỏi túi đựng mặt nạ phòng độc ra và đưa cho anh: "Lót nó dưới mình cậu đi." Leshka xoay sở với chiếc khăn của tôi, nhưng vẫn không đủ, cậu ta đã mắc bệnh ỉa chảy và viêm ruột. Cạnh đó, một cậu lính rất trẻ, gần như vẫn còn là một cậu bé, đang gục dần xuống xác người nằm bên cạnh tôi, đôi mắt đảo nhanh điên dại, cậu ta cũng đang chết khát.

Một giờ, rồi hai giờ trôi qua. Tôi nhận thấy lúc này không ai còn đứng nữa, mọi người đều ngồi xuống, cố gắng xoay trở để giành lấy chỗ ngồi thuận tiện. Chỉ còn đám nữ y tá là đang đứng ở gần cửa; tìm cách che chở lẫn nhau, họ cố gắng giữ mình trong kỷ luật. Sasha đang ngồi nhắm nghiền mắt, còn tôi cảm thấy rất buồn ngủ, hay có lẽ đơn giản là tôi sắp ngất đi, không khí ngột ngạt trong toa là nguyên nhân tình trạng này...

Đoàn tàu chạy chậm dần rồi dừng lại. Có tiếng la hét bằng tiếng Đức và tiếng ủng nện trên sân ga. Cái gì ngoài kia vậy? Chúng tôi đang ở đâu đây? Không một ai còn đồng hồ, vài người đã bị lấy mất trong khi khám xét, số khác đã giấu chúng đi và cương quyết không cho ai biết. Vài người thốt lên một tiếng rên như tuột khỏi cổ họng: "Aah," rồi ngã xuống bất động. Tôi không còn ngạc nhiên khi thấy người bên cạnh mình đang ngồi trên một xác chết, anh ta làm mấy cử động rất lạ rồi đột nhiên bắt đầu nghẹn thở, liên tục đớp đớp không khí, cặp mắt xanh của anh lóe sáng thậm chí ngay trong toa tàu tối lờ mờ. Anh ta xé rách chiếc mũ đang đội trên đầu, quờ quạng cánh tay một cách vô thức, làm tuột mấy chiếc nút áo sơmi. Đột nhiên anh ta nắm lấy đầu tôi: "Nước, nước..." Tôi cố gắng thoát ra, nhưng anh ta nắm tóc tôi rất đau, tôi đã dùng hết sức để gỡ tay anh ta ra nhưng không được. Leshka tới giúp tôi, chúng tôi không nhận ra rằng anh ta đã chết. Chúng tôi gỡ tay anh ta khỏi tóc tôi, anh ta ngã ra, đầu anh gục xuống, ánh sáng từ cửa sổ phản chiếu lên cặp mắt mở to điên dại. Người ngồi kế bên phải kéo mũ của người chết xuống che mắt cho anh ta. Một cô gái trong nhóm nữ y tá hét lên kinh hòang... Qua chiếc cửa sổ ở trên cao, trời đã bắt đầu tối. Một tên lính gác bước đều trên nóc toa tàu, chúng tôi nghe rõ tiếng bước chân nặng nề của hắn.

...Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Trong toa trở nên rộng rãi hơn, rất nhiều người đã nằm xuống, và không ai biết được anh ta sẽ ngủ thiếp đi trong bao lâu. Tôi đang phải khó nhọc chịu đựng cơn khát, nhưng chúng tôi không còn một giọt nước nào; tôi đã quên mất từ lâu là mình đang đói, tôi chỉ còn biết rằng mình đang khát nước. Thời gian chậm chạp trôi qua, hay thậm chí như đang đứng hẳn lại, do chúng tôi không còn cả mục đích lẫn hy vọng. Trời đã hoàn toàn tối sẫm... Có tay ai đó sờ soạng sau lưng tôi để cố thò vào trong balô, tôi gạt nó ra. Bàn tay giật lại, họ đã nhận ra là tôi vẫn còn sống, tôi nghe thấy có tiếng thở rầm rĩ. Tôi lại tiếp tục rơi vào trạng thái mơ màng...

Tôi đã tỉnh lại. Đoàn tàu đang đứng yên, bọn chúng đang dùng báng súng đập vào cửa toa, then cửa vừa bật ra là chúng đã hét lên:

"Los, los! Schneller!" (tiếng Đức: "Nào, nào! Nhanh lên!" - LTD)
Cánh cửa kêu rít lên, trượt dọc theo cái rãnh sắt, không khí trong lành và ánh bình minh xám xịt ùa vào trong toa tàu. Sasha lay mạnh Leshka, cậu ấy đã hoàn toàn kiệt sức, khuôn mặt chuyển sang màu vàng nhợt nhạt. Tôi và cậu ta không thể đứng lên được, đôi chân chúng tôi đã tê dại, chúng tôi phải cố quỳ dậy trên đầu gối. Đám phụ nữ đã đi ra, số còn lại trong chúng tôi di chuyển về phía cánh cửa, bước qua những xác chết. Chúng tôi rất chật vật mới ra được khỏi toa tàu, do không còn đủ sức để nhảy xuống. Tôi đỡ lấy Lesha, cậu ấy đã ngồi dậy trên đôi chân đờ đẫn, Sasha cũng tới giúp sức. Sau cùng chúng tôi đỡ nốt Sasha ra ngoài. Nhà ga đã bị phá huỷ gần một nửa, các đoàn tàu nằm trên đường ray - hóa ra chúng chuyển chúng tôi tới Vitebsk, chúng tôi rất mừng vì đó không phải là nước Đức. Bọn Polizei giúp đám lính gác Đức la mắng và quất dùi cui nếu có ai đó đi chậm lại dù chỉ chút ít. Chúng dẫn chúng tôi tới một trại tù binh - một khu đất rộng rào kín bởi nhiều lớp hàng rào kẽm gai, tháp canh có đặt súng máy và lính gác cùng chó canh. Tôi bước đi như trong mơ ngủ, trong khi Leshka đã tươi lên và thậm chí còn đùa cợt:

"Chúng ta sẽ không được tắm, hết khăn để tắm rồi."

Chúng dẫn chúng tôi ra ngoài sân trại và tập hợp chúng tôi lại. Một tên phiên dịch hét lớn:

"Hỡi các tù binh chiến tranh! Bộ chỉ huy Đức không cho phép các sĩ quan và chính trị viên được ở chung với binh lính! Chúng ta muốn dành cho họ những tiện nghi tốt hơn! Như một sĩ quan đánh được hưởng! Ai là chính trị viên và sĩ quan, hãy lên trước một bước!"

Nhưng không ai thực hiện cái bước chết người đó. Mệnh lệnh lại vang lên lần nữa. Đột nhiên có nhiều người bước ra, nhưng trông tất cả bọn họ đều no đủ, khoẻ mạnh. Tên phiên dịch nói:

"Các anh là chính trị viên phải không?"

Cả năm đều đáp:

"Vâng!"

Tên sĩ quan ra lệnh:

"Múc cho họ một gà mèn súp đầy!" Và bắt đầu tán dương họ.

Tôi rất muốn nói rằng mình cũng là một chính trị viên do mùi súp thơm đã hoàn toàn xâm chiếm đầu óc tôi. Nhưng Sashka ngăn lại:

"Cậu không thấy à, chúng là bọn khiêu khích đó. Còn ở đằng kia, xem kìa, chỗ đất hãy còn mới - đó mới là huyệt mộ của các chính trị viên thực sự."

Không kiếm được gì từ chúng tôi, chúng tập hợp chúng tôi thành đoàn rồi đưa chúng tôi đi lấy bánh mì và balanda (tiếng lóng của tù binh Nga, chỉ món súp loãng - Oleg Sheremet). Tôi đã gần như bất tỉnh, Leshka và Sasha đỡ hai bên để tôi khỏi ngã xuống, nhưng có kẻ nào đó đã tháo mất cái gà mèn thiếc của tôi, tôi không còn vật gì để đựng và do đó, không thể có balanda. Sasha luồn xuống cuối hàng, nhét tôi vào đó, rồi chen lấn lên phía trước, nhận và mau chóng ăn hết phần súp, rồi đưa tôi cái gà mèn của mình. Sau món balanda mọi chuyện đã trở nên khá hơn, và sung sướng ngồi trên sàn nhà bếp của khu trại, tôi ăn một cách từ tốn phần bánh mì của mình.

Sự sung sướng tại trại Vitebsk không diễn ra được lâu. Sớm hôm sau bọn chúng đã tập hợp chúng tôi lại và tiếp tục dẫn chúng tôi đi qua những dãy phố đổ nát của Vitebsk, chúng tôi đã biết chắc rằng mình sẽ bị đưa tới nước Đức.

Lần này chúng tôi di chuyển trên những toa mui trần có thành toa rất cao. Việc lên tàu diễn ra rất lâu, những câu chửi thề cả bằng tiếng Đức lẫn tiếng Nga tuôn ra như mưa, bọn polizei liên tục quất roi, tù binh rên rỉ, ngã từ ván thang xuống vì bị xô lấn, bọn Đức bắn tất cả những ai quá yếu sức một cách không thương xót, và rồi, yên vị trong góc cạnh thành toa, chúng tôi thậm chí còn cảm thấy ấm áp thoải mái do đã yên tâm không còn lo sợ bị xử bắn nữa.

Tù binh Xôviết. Mùa thu 1941.

Những đám mây xám xịt kéo tới trên đầu chúng tôi, cái thành toa lạnh lẽo và những tấm ván nứt nẻ lót sàn toa không giữ được nhiệt độ lâu hơn, trong toa mau chóng lạnh cóng, màn mưa bụi lạnh lẽo trùm lên tấm chăn mỏng màu đỏ có in hoa của Tonia, vật che chắn duy nhất của chúng tôi khỏi mưa tuyết và giá rét. Chiếc cửa sắt nặng nề đóng sầm lại, tiếng còi vang lên, những chiếc cột điện tín bắt đầu trôi qua ngày càng nhanh, và rồi chúng tôi không thể trông rõ bất cứ thứ gì nữa, chỉ còn đám khói đen sẫm bay dọc theo tấm thân kim loại chất đầy người của con tàu.

Như thường lệ, mọi người bắt đầu xoay trở, tìm lấy một chỗ thoải mái, một vài người, do quá yếu, đã nằm bệt bất động. Tôi cũng đã quá yếu đến nỗi không thể cố xoay trở nổi, đành ngồi xuống, hai tay bó sát bên người. Bất ngờ Sashka nảy ra một ý kiến:

"Các bạn ạ, hãy thử đổi chác xem sao."

"Đổi cái gì?" Tôi hỏi một cách ngờ nghệch. "Với ai?"

"Với dân địa phương."

"Dân địa phương nào?" Tôi vẫn chưa hiểu ra cậu ta muốn gì.

"Nhưng chúng sẽ không cho chúng ta ra ngoài," Leshka nói.

Sasha rút một thanh xà phòng giặt từ balô ra, Leshka và tôi giương mắt nhìn đần độn, còn cậu ta vẫn thao thao về ý tưởng của mình:

"Toa tàu trống ở phía trên. Chúng ta sẽ bỏ bánh xà phòng vào một cái gà mèn. Khi tàu dừng lại ta sẽ treo nó ra ngoài thành toa bằng thắt lưng của mình, và sẽ hét lên: "đổi nào, đổi nào."

Lập tức chúng tôi sôi nổi hẳn lên, mơ mộng trong đầu: sẽ có một người địa phương nào đó tới và bỏ vào một mẩu bánh mì hay thứ gì đó khá khá. Chúng tôi cởi thắt lưng của mình ra, tôi thậm chí còn rút cả sợi dây đeo vai của cái balô trên lưng mình. Chúng tôi nhất trí là Sasha sẽ leo lên lưng tôi để với được tới đỉnh của thành toa, còn Leshka sẽ phải trong tư thế sẵn sàng để thế chỗ cho tôi.

Chúng tôi đã tới một ga nọ, đoàn tàu dừng lại; có ai đó đang chạy bên ngoài, chúng tôi nghe thấy bọn lính la mắng đám phụ nữ đang tiến gần đoàn tàu. Sashka leo lên lưng tôi, thả chiếc gà mèn thiếc xuống và đu đưa nó nhằm thu hút sự chú ý, nhưng cậu ấy không thò được mặt mình lên, cậu ấy cũng la hét, nhưng giọng bị ngắt quãng:

"Đổi đi... lấy bánh mì ..."

Leshka thế chỗ cho tôi, nhưng cũng chẳng khá hơn. Mọi người trong toa ngạc nhiên quan sát bọn tôi, rồi bọn họ hiểu ra, nhưng phải phối hợp hai ba người mới làm được chuyện đó, và trong khi những người khác đang bàn bạc thì chúng tôi đã bắt tay vào đổi chác rồi.

Nhưng rồi đoàn tàu chuyển bánh, Sasha kéo chiếc gà mèn thiếc đựng bánh xà phòng lên, chúng tôi tiếp tục bị nhồi lắc trên toa tàu đang di chuyển.

Đột nhiên có tiếng súng nổ. Tôi yêu cầu Sashka khòm lưng xuống chống trên hai tay hai chân để mình leo lên quan sát. Đoàn tàu đang đi ngang qua một đoạn đường đắp cao uốn cong thành hình bán nguyệt. Có nhiều người đã leo lên thành một toa mui trần rồi nhảy xuống, một người bị ngã rất đau và tôi trông thấy anh ta bị bắn hạ ngay trước mắt, nhưng hai người còn lại đứng dậy và bỏ chạy, ngã xuống rồi lại tiếp tục đứng dậy chạy về hướng khu rừng. Tim tôi như sẵn sàng bật tung khỏi lồng ngực vì hồi hộp và lo lắng - ô kìa, tôi phải lập tức làm một điều gì đó! Liên tiếp lại có người nhảy khỏi chính cái toa tàu đó và bỏ chạy trên mặt cỏ phủ tuyết. Súng bắt đầu nổ từ tháp canh đặt trên một toa nằm giữa đoàn tàu, toa của chúng tôi nằm gần cuối nên tôi có thể trông rõ mọi việc xảy ra. Đầu tiên chúng bắn bằng hai khẩu tiểu liên, và rồi một khẩu đại liên lên tiếng. Hai người mặc áo choàng ngã xuống ngay lập tức, người thứ ba vẫn chạy, ngã xuống rồi tiếp tục trườn đi. Súng vẫn nổ ran. Tôi thấy rõ hai người bọn họ bị thương, họ cố đứng dậy nhưng lập tức bị mấy phát súng trường kết liễu. Đoàn tàu đang chạy đến khúc đường cong, và bắt đầu một cuộc săn để tìm người cuối cùng. Anh ấy đã tới được chỗ cái khe núi - chỉ một bước nữa thôi là anh sẽ an toàn! Nhưng bọn chúng đã hạ được anh ta, không cho anh ta thực hiện nốt cái bước đó. Tôi rơi từ lưng Sasha xuống, tôi không còn muốn bỏ chạy chút nào nữa, cơ thể tôi như kiệt hết sức lực. Một người ngồi kế phía trên đầu tôi cau mày, giày của anh ta suýt nữa chạm vào môi tôi, lên giọng lý sự:

"Đừng làm ầm lên, ngồi yên đấy, nếu không bọn chúng sẽ bắn hạ anh như một con thỏ vậy."

Thời gian trôi qua, mưa ngừng rơi, trời đã chuyển về chiều...

Lại có tiếng đập mạnh và tiếng loảng xoảng, chúng tôi bị lắc mạnh và rồi đoàn tàu dừng lại trên một sân ga. Sasha và Leshka lại một lần nữa dựng lên một "chốt đổi hàng", lần này Sashka chống trên hai tay hai chân, còn Lesha đứng trên lưng cậu ta, cất tiếng rao kéo dài:

"Đổi đi, đổi đi. Xà phòng đây..."

Đột nhiên Leshka nhận thấy có ai đó kéo chiếc gà mèn thiếc! Cậu ta luống cuống kéo nó lên rồi hạ vào trong toa - trong gà mèn đựng đầy một thứ phó mát nhà làm lấy! Chúng tôi không nhận thấy những người khác đang nhích lại gần chúng tôi, nhưng Sashka thì thấy, và ngay lúc đó có người xô rất mạnh vào hông tôi, Sashka vội thò tay mình vào trong gà mèn và nắm lấy mớ phó mát. Nhiều bàn tay tóm lấy cậu ta, Alexei và tôi gạt chúng ra, có ai đó ngã ra và lăn tròn trên sàn toa, nhưng có rất nhiều người đè lên trên chúng tôi, một tay to lớn rít lên: "Đưa nó cho tao!" - nhưng không người nào biết được miếng phó mát giờ nằm trong tay ai. Nhiều phút giành giật vô ích trôi qua, và rồi mọi người, lúc này đã kiệt sức, trườn dần ra xa. Chúng tôi đang ở trong góc toa, Sasha dựa lưng vào thành tàu ngồi nghỉ. Khi chúng tôi quây quần lại, cậu ta nhè miếng phó mát trắng dính mấy gân máu đỏ ra tay, bảo: "Tớ đã giấu nó trong miệng mình." Chúng tôi chia nó ra, mỗi người một mẩu, và gắng ngậm nó trong miệng mình càng lâu càng càng tốt. Chúng tôi không còn thứ gì để đổi chác. Đoàn tàu vẫn tiếp tục chạy.

Đoàn tàu dừng lại một lần nữa và lần này dừng rất lâu. Đang là ban đêm. Mưa trút xuống, chúng tôi ngồi dựa vào thành toa, thu mình lại cho nhỏ và nhét balô xuống dưới người. Đầu gối chúng tôi bắt đầu tê bại. Chúng tôi rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa thức. Những xác chết lúc trước nằm gần chúng tôi, giờ đã bị ai đó lôi ra xa. Lúc ban chiều họ còn mặc áo khoác, nhưng giờ họ chỉ còn là những đốm trắng, áo của họ đã bị lột mất, do cái lạnh giá và ẩm ướt đang thấm sâu vào xương tủy của từng người. Đoàn tàu trườn đi, lâu lâu dừng lại một lần, và chúng tôi, bị cơn buồn ngủ đánh gục, ngủ mê mệt trong đủ loại tư thế, lăn lóc trên sàn toa trong giấc ngủ say...

Bình minh đem lại một chút tươi tỉnh cho mọi người, tàu của chúng tôi đang dừng lại, ngọn gió khởi lên từ sáng sớm thổi tới những đám mây tối sầm, không làm chúng tôi ấm người hơn. Chúng tôi thèm ngủ vô cùng. Lúc này bọn tôi chỉ còn biết đung đưa chiếc gà mèn thiếc bên ngoài thành tàu, và trong một lần thực hiện vô vọng như vậy năm củ khoai tây đã được bỏ vào đó. Khoai còn sống, chúng thật khó ăn, nhưng không ai tìm cách lấy chỗ khoai sống đó của chúng tôi, và chúng tôi chật vật nuốt trọn tất cả.

Đoàn tàu lại tiếp tục di chuyển. Những bông tuyết to và xốp bắt đầu rơi, ban đầu rơi chầm chậm, rồi sau đó bay thốc vào mặt chúng tôi đang quay ngược chiều tàu chạy. Bây giờ chúng tôi có bốn người, chúng tôi lặng lẽ trò chuyện, tất cả đều ủ rũ, đói khát và thiếu ngủ. Số người chết ngày càng tăng, họ bị lôi về phía cuối toa, và không còn biết xấu hổ gì nữa, những người khác lột quần áo của họ rồi mặc lên người mình. Nhưng tôi để ý rằng không ai lấy ủng của họ, có lẽ tất cả đều nghĩ rằng họ sẽ không còn dịp đi mòn hết giày của mình.

...Đoàn tàu dừng lại trên một cánh đồng, mọi thứ đều phủ đầy tuyết ướt đang tan. Qua tiếng la hét bên ngoài chúng tôi hiểu rằng bọn chúng sẽ không đưa chúng tôi đi xa hơn nữa do đường tàu đã bị phá huỷ, trong khi còn rất nhiều đoàn tàu từ Đức tới theo hướng ngược lại. Các con tàu rầm rầm chạy ngang chúng tôi, khi ta nhìn qua khe hở trên thành toa, ta có thể thấy những toa trần chở xe tăng, toa chở lính, toa chở hàng - mọi thứ đang di chuyển về phía đông. Sẽ không ai chặn chúng lại được sao? Trong một góc tâm hồn có một thoáng hy vọng rằng một điều gì đó mà chúng tôi không biết được sẽ xảy ra, và cơn triều này sẽ bị bẻ gãy; nhưng giờ đây chúng tôi đang đi dần tới cái chết mà không còn cơ hội sống sót, xa dần khỏi đau đớn và giá rét, không thể hỗ trợ cùng nhau, chúng tôi chuyển thành những con người nô lệ cho bản năng sinh tồn của mình, không còn khả năng hy sinh giúp đỡ lẫn nhau, giữa một đống những xác người chết trong cô độc.

Cửa toa rít mạnh, bọn chúng bắt đầu đưa chúng tôi ra ngoài tới một nơi theo chúng tôi dường như là một cánh đồng. Rất khó để bắt đôi chân chúng tôi tuân lời, và khó hơn nữa để bước hay bò khỏi toa ra ngoài bùn tuyết ẩm ướt. Chúng tập hợp chúng tôi, tất cả những ai còn sống sót, cạnh các toa tàu và phát một ổ bánh mì còn ấm cho mỗi người, mùi thơm sực nức, sự ấm áp mà từ lâu chúng tôi không còn được cảm thấy, chúng tôi quấn nó vào những mảnh giẻ và bắt đầu bẻ nó cho vào miệng, từng miếng một, lo ngại nó sẽ chóng hết; những người khác, với cặp mắt đầy thù hằn, tọng những miếng lớn vào mồm họ - họ đã đói khát tới mức cùng cực, họ đang sắp chết. Đám cảnh binh la hét, nhưng không chửi bới. Một người trong bọn họ la lớn:
"Những người Nga kia, các anh hãy tập trung tất cả sức mình lại để đến được khu trại! Hãy giúp đỡ những người yếu sức, đừng để họ bị bắn chết!"

Người cảnh binh nào đã dám nói những lời như vậy? - Thật là một con người dũng cảm và chân chính. Tôi nhớ mãi những lời lẽ và giọng nói ấy cho tới cuối đời mình.

Chúng tôi chật vật bước đi trên con đường ngập bùn, lướt qua những người bị đánh. Có ai đó ngã xuống, tiếng súng của bọn lính gác vang lên. Và giọng nói kia lại cất lên lần nữa:

"Những người Nga kia, hãy tới giúp đồng đội các anh đi!"

Tôi không thể làm thế, chân tôi như rời ra vì kiệt sức, nhưng Valodia (tên gọi tắt của Vladimir - Oleg Sheremet) đã tới dìu đỡ cho một người nào đó đang đi bên cạnh, còn Sasha thì tới giúp tôi. Tôi trông thấy một gốc bắp cải đã được thu hoạch nhô lên rất gần con đường, liền cúi xuống và nhổ nó lên. Sashka giấu nó vào trong mình cậu ta, còn tôi đã rất yếu sau nỗ lực ấy, thở dốc như đứt hơi. Chúng tôi đang ở cạnh những hàng rào kẽm gai chăng quanh những gốc thông cao, ngọn của chúng đã đẩy lên đỉnh cái cổng trại cả một búi dây kẽm đang đung đưa.

Bọn chúng dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà và nhốt vào trong đó. Tôi bị nhét trên tầng hai, Sasha, Valodia, Lesha cũng cùng chung với tôi. Căn phòng rộng khoảng bốn mươi mét vuông; cạnh một khoảng trống nhỏ gần cửa ra vào có một cái sân chung cho toàn bộ tầng nhà, rất nhiều người được nhồi nhét trong đó. Chỉ tới lúc này bọn chúng mới cảnh cáo chúng tôi không được thò đầu ra ngoài cửa sổ, còn đi vệ sinh - một lần mỗi ngày. Bọn chúng không cấp cho chúng tôi nước. Nhưng bên ngoài đang có tuyết, những người liều lĩnh cột thắt lưng của mình lại và ném một cái gà mèn qua cửa sổ, nếu ai xúc lên được thì thật may mắn, nhưng anh ta cũng có thể bị ăn một viên đạn do bọn gác bắn ra.

Trên đời không gì khổ sở bằng chuyện không được uống nước. Lạy Chúa, nó thiêu đốt con người thật khủng khiếp! Và không ở đâu, không có gì làm người ta chết nhanh bằng chuyện khát nước. Người ta phải liên tục chuyển xác chết ra khỏi căn phòng. Tất cả chúng tôi cùng ở trên chiếc giường, nằm, ngồi, không nói với nhau một lời. Tôi vẽ vào cuốn album của mình khuôn mặt gầy gò hốc hác của những người chết, đang ngồi với ánh mắt chằm chằm vô hồn. Đổi chác vẫn tiếp diễn nơi đây. Một người gạ bán một điếu thuốc, đòi giá tới hai mươi lăm rúp. Một người khác buộc những chiếc thắt lưng lại rồi ném gà mèn của mình ra ngoài cửa sổ. Xúc được một ít tuyết, anh ta vội chúi xuống dưới bậu cửa sổ, và ngay lập tức một tràng tiểu liên bắn vỡ nốt phần kính cửa còn lại, làm vữa trần lả tả rơi xuống. Nhưng trong tay anh chàng ủ rũ ấy đã có chiếc gà mèn chứa đầy tuyết mịn, múc được khoảng vài thìa đầy. Anh ta lập tức đem đổi một thìa tuyết ấy, giờ có giá hai mươi lăm rúp, lấy một điếu thuốc lá và liếm hết chỗ tuyết còn lại trong gà mèn. Mọi người theo dõi đầy ghen tị, không rời mắt khỏi anh chàng vừa lấy được nước. Bất ngờ anh ta chìa một thìa tuyết vào miệng tôi:

"Đây, ăn đi."

Tôi đẩy đi:

"Tôi không còn tiền hay thứ gì khác."

"Không mất tiền, ăn đi, anh cần nó hơn. Anh vẽ đi, tất cả chúng ta sẽ chết ở đây, nhưng có thể bức vẽ của anh còn lại, và mọi người sẽ biết được chúng ta không phải là những kẻ phản bội tổ quốc."

Những lời nói đó làm tôi sững sờ, tôi cảm thấy xấu hổ và đau đớn vì một lẽ gì đó, nhưng tôi không thể kìm mình được nữa, đôi môi khô nẻ khó nhọc chạm vào chiếc thìa, chất nước mát lạnh tan ra trong miệng tôi, và những giọt nước lăn xuống từ hai mắt. Mọi sự khiếp hãi đều không thể làm được cái điều mà ngụm nước con người đó ban cho tôi đã làm. Một ngụm nước cho tất cả, cho những chịu đựng và những tủi nhục của họ. Tôi cảm thấy đau xót cho mọi người và cho bản thân, tôi muốn làm một điều gì đó cho mọi người, muốn thay đổi một cái gì đó... Có thể từ giờ phút này tôi đã hiểu thấu những gì đã xảy đến với tôi, cảm thấy trách nhiệm về tất cả trong suốt thời gian qua. Giây phút đó sẽ đi cùng trong suốt quãng đời còn lại của tôi, những lời người đó sẽ luôn vang lên như một mệnh lệnh: "Anh hãy vẽ đi!" Có những phút giây trong một đời người khi anh ta đột nhiên hiểu ra ý nghĩa sự tồn tại của mình - lúc đó mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, và ý nghĩa cuộc đời anh ta thật sáng tỏ. Cứ như thể những lời của con người đó đã đánh thức sự tỉnh táo và nhân tính trong tôi, tôi rời bỏ những bản năng thú vật, và sau đó niềm tin rằng mình sẽ chóng thoát khỏi cảnh giam cầm miễn là lấy lại được sức khoẻ đã quay về với tôi. Miễn là tôi có cơ hội. Điều đó sẽ sống mãi trong tôi.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Ảnh chụp và hình vẽ lấy từ tư liệu của N. Obryn'ba

Obrynb'a Nhikolai Ippolitovich
Trích từ hồi ức "Hoạ sĩ và thời gian"

Phần 1.

Tiến độ xây dựng khu trại du kích của chúng tôi ngày càng nhanh chóng và ổn định. Công việc xây dựng được tiến hành nhộn nhịp đến nỗi từ cuối thu-đầu đông chúng tôi đã ra một quyết định táo bạo là cướp lấy một động cơ hơi nước từ doanh trại của bọn Đức về làm máy phát điện trong trại. Họ chuyên chở động cơ về vào ban đêm trên cái xe do một đôi bò thiến kéo. Tuyết đã rơi. Người ta dựng nên một nhà kho lớn, đặt các ống sắt và trại đóng quân của chúng tôi vang lên tiếng động cơ. Hơi nước làm quay bánh đà, bánh đà - làm quay động cơ và đèn sáng lên trong các căn hầm. Điện đã xuất hiện như vậy đó ở chỗ chúng tôi. Ngọn đèn đầu tiên Dubrovxki và Lobanok chia đến chỗ chúng tôi, để tôi có thể làm việc ban đêm và in ảnh, vì nó rất cần để làm giấy tờ cho cánh trinh sát. Bolodia Lobanok nghĩ đến việc tổ chức một xưởng in trong trại vì truyền đơn viết tay và các bản tin đánh máy không đủ cho văn phòng thông tin Xôviết. Mọi người mang phần còn lại của một bộ chữ in chì từ Usachei đến và soạn lại. Trong đội có Klim Pasheiko trước là biên tập báo địa phương và ông được giao nhiệm vụ thành lập xưởng in. Mọi người dọn dẹp, chừa ra một khu vực, các trinh sát thuyết phục và đưa về hai người tạp vụ, và chúng tôi bắt đầu làm báo vùng và báo đội, còn bản tin thì được in hàng ngày. Nhikolai Guchievu được giao việc in truyền đơn và biểu ngữ. Nhikolai cắt miếng vải sàn ra, sau đó in chữ lên - trông cũng y như thật. Sau đó, chúng tôi còn vẽ rất nhiều truyền đơn bằng giấy than, rồi trang trí bằng màu nước, các dòng chữ thì viết tay hoặc in trong xưởng in.

Nikolai Obryn'ba (bên trái), Nikolai Gutiyev
và chú chó TASS, vùng du kích Lepel'skaya năm 1943

Thành phần chính của đội chúng tôi đóng trong toà nhà của ngôi trường ở Antunovo. Trong phạm vi 5 cây số quanh trại, ngoài du kích, người ngoài không được vào. Ở đây, phiá bên ngoài là vũ khí của chúng tôi, còn các chiến sỹ pháo binh thì ở ngay trong toà nhà để có thể xuất quân thuận tiện hơn. Ngoài ra, trong trường còn có xưởng bánh để bảo đảm có bánh cho các doanh trại xa, còn trong rừng có xưởng bánh riêng để cho những người sống trong trại và những nhóm bí mật đi làm nhiệm vụ.

Nông trại viên chở thực phẩm đến Antunovo, rồi còn từ Antunovo du kích tự chuyên chở vào trại, rồi trong trại mới chia vào các hầm chứa. Ở trong rừng chúng tôi xông khói thịt và giò (kolbaxa); nướng bánh mì - cũng những cái bánh mì hình viên gạch, như trước chiến tranh. Tôi rất ngạc nhiên: giữa một đầm lầy, trên một rẻo cát nào đó mà đặt được lò, làm các khuôn sắt và làm ra những cái bánh mì còn ngon hơn là các lò bánh thực sự.

Chủ nhật hàng tuần, những người muốn gia nhập du kích đến Antunovo gặp Ủy ban, và người ta cũng đến đây để giải quyết mọi việc. Đây chính là trung tâm của chính quyền Xôviết trong vùng du kích. Gần đến mùa xuân 1943 ở đây có tổ chức một sân khấu và quy tụ được du kích, thanh niên từ các làng quê lân cận; có nhiều người đến nhảy rồi ở lại làm du kích luôn. Biểu diễn trên các sân khấu này là các nghệ sĩ du kích, họ ca những bài hát, những bài dân ca về những đề tài thời sự, diễn những vở kịch nhỏ, đọc thơ. Trong trường Antunovo luôn treo chân dung Stalin, rồi biểu ngữ, báo tường, bản tin, vào những ngày lễ thì chăng các dây hoa kết từ lá linh sam (cây họ thông) và các khẩu hiệu trên giấy đỏ.

Ở Antunovo có hàng loạt các loại xưởng. Trong xưởng may người ta may áo khoác ngụy trang và trang phục cho du kích. Và khi máy bay (tiếp tế) đến chỗ chúng tôi, thả các bao đạn dược, thuốc men xuống, thì những cái vỏ bao lại được dùng để may áo va-rơi và quần dài. Những cái dù cũng được việc: may đồ lót cho du kích. Lông cừu thì được ép thành ủng. Người ta làm cả giày cao su từ các lốp (vỏ) xe hơi. Thu xếp được cả xưởng thuộc da và rồi may áo da ngắn, mũ và mũ lông cao.

Cần phải trang bị ủng cho du kích chuẩn bị vào mùa lầy lội. Mọi người học được cách làm ủng, để làm việc này đã có da ngựa, bò, hươu nai. Nhưng để làm ủng thì da ngựa là tốt nhất. Người ta mang đến Antunovo ngựa chết, và giết bớt đi những con ngựa già yếu. Trại trú quân đóng trong khu bảo tồn ở Berezinxki, nên cả du kích lẫn nông dân không được phép giết thú hoang, và mọi người nghiêm túc tuân theo. Nhưng thỉnh thoảng, những khi mà thức ăn thiếu thốn quá thì nguời ta bắn 2- 3 con hươu theo lệnh của Dubrovxki, và da thì chuyển sang xưởng thuộc. Thu xếp được một ngành thuộc da là cả một công trình. Bởi vì cần phải có các chất thuộc da, phải tìm đuợc thợ thuộc da thạo công việc này. Trước chiến tranh các sản phẩm da làm thủ công bị cấm, nên khó tìm được thợ thông thạo hết toàn bộ công nghệ. Nhưng vào tháng 2 -3 tôi đã vẽ những người du kích (Gorgishel, Danhich) được trang bị hoàn toàn nhờ nền sản xuất của mình - từ mũ lông cao và áo khoác da ngắn đến giầy, ủng, bao tay. Họ còn tổ chức lấy được một máy tiện từ Lepel và mang về trại. Lắp đặt xong, những người thợ vũ khí đã tiện ngay được những chi tiết cần cho việc sửa chữa. Búa thợ rèn đồng lòng nện, và họ sửa chữa vũ khí, chế tạo, cải tạo - và đấy nhìn xem: vũ khí trên các bánh xe và các bệ kiểu mới. Từ những súng trường đã bị cháy xém người ta làm ra những cái mới. Những khẩu súng cối tự chế tạo mới tuyệt làm sao! Và cả súng máy nữa, cải tạo từ khẩu súng trường SVT. Những người thợ rèn bất đắc dĩ trở thành những thợ kim hoàn, làm nên những điều kỳ diệu, họ chẳng những chế tạo được vũ khí và mọi thứ cần thiết cho sản xuất từ kim loại, mà còn làm được công cụ để chế tạo các phụ tùng.

Trong các lò rèn đặc biệt, họ nấu chảy đạn đại bác, lấy thuốc nổ làm mìn để đánh phá đường sắt. Công việc thật vô cùng nguy hiểm và liều lĩnh này được các thợ rèn của nông trại học làm thành thạo. Phần lớn số súng máy là tước được của lính Đức và tháo từ máy bay (bị bắn rơi - LTD) của ta, nhưng không dùng bằng tay được, bởi tốc độ bắn của nó rất cao. Thợ rèn Perednhia từ Putilkovich' sáng chế ra một bệ xoay, như cái giá đỡ, và súng có thể tha hồ xoay xung quanh, đủ một vòng. Sau chiến tranh bản thiết kế phần bệ này đã được áp dụng làm bệ cho súng máy của quân đội, bởi cơ chế quay này giúp cho súng máy của ta trở nên tiện lợi hơn những cây súng trên giá đỡ 3 chân nổi tiếng của Anh. Cấu trúc của Perednhia thông minh hơn và súng máy nhẹ hơn. Cũng chính Perednhia sáng chế ra súng cối từ các đoạn ống nước, để bắn các quả đạn, dù không xa nhưng rất mạnh, - các qủa đạn này rít lên ghê rợn, nổ chói tai và gây ấn tượng kinh hãi cho kẻ thù, chúng tạo thành một cột nấm sát thương khổng lồ bằng các mảnh sắt nhỏ.

Điều làm tôi ngạc nhiên là sự sáng tạo tài tình của nhân dân khi họ chủ động đấu tranh và nhìn thấy thành tựu của cuộc chiến đấu này. Đó là nguyên nhân tại sao có thể đặt được đến 300 km dây liên lạc và hình thành trạm điện thoại cực mạnh, liên kết được tất cả các doanh trại du kích. Nhưng còn cần phải gỡ được 300km đường dây của Đức. Và nếu nói thêm nữa rằng hơn nghìn cây súng được làm lại từ những cây súng cháy; hàng chục nghìn viên đạn được lấy lên từ lòng sông Dvin hoặc được thu về từ vùng phòng tuyến cũ, rồi được các phụ nữ của chúng tôi chùi bằng bột gạch thì sẽ thấy rõ về công việc sản xuất khổng lồ mà đội chúng tôi tiến hành. Giai đoạn chuyển tiếp này của đội du kích từ các đơn vị chỉ chiến đấu trở thành một thể thống nhất như là một thời đại phát triển của xã hội đã sinh ra ý thức rằng tất cả, tất cả đều có thể thực hiện được! Chỉ cần cho những người thợ cả này tự do và họ, như Levsa, sẽ làm được những điều không tưởng tượng nổi. Và khi tôi nhìn thấy, cảm nhận thấy điều này, trước mắt tôi hiện lên tầm vóc tài năng của nhân dân ta, tài năng và trí tuệ bẩm sinh cho thấy, rõ ràng, điều này và chỉ có điều này có thể chặn được quân thù, những kẻ được trang bị kỹ thuật hiện đại và kỹ năng chuyên nghiệp dày dặn. Và cũng rõ ràng rằng: chiến đấu không chỉ có quân đội, mà toàn thể nhân dân chiến đấu! Tất cả mọi người đều bước vào cuộc chiến để quật ngã quân thù, không có ai từ chối rằng không thể làm được điều gì đó vì thiếu phụ tùng hay nguyên liệu. Cần phải chiến đấu và chúng tôi đã tạo ra mọi thứ để có thể chiến thắng quân thù.

Phần 2:

Phục kích bên đường, vùng du kích Lepel'skaya 1943.
Chúng tôi nghỉ ngơi rồi đến gần sáng thì đi ra đường sắt. Iarmosh, đại uý pháo binh quân đội, bố trí vũ khí hỏa lực trong rừng thông cạnh đường rày; chúng tôi nằm trên một triền dốc. Một đoàn tàu dài xuất hiện, phía trước đầu tàu là hai đường kè tàu. Iarmosh nâng súng lên và bắn trực diện vào đoàn tàu. Đầu tàu phun trắng hơi nước, đạn trúng ngay vào nồi hơi, đoàn tàu dừng lại, khực... và một tíc tắc sau - bùng! - đó là các đội viên đánh mìn thực hiện, họ cho nổ phía đuôi đoàn tàu. Súng máy của ta vãi từng lọat đạn ngắn, rồi dài lần lượt, rải khắp đoàn tàu. Năm phút sau, pháo hiệu bay lên, tất cả tập hợp lại và chạy tới đoàn tàu. Không có người trong các toa tàu nhưng thay vào đó trong các toa đổ vỡ toàn là ngũ cốc. Tôi ở phía đầu đoàn tàu khi súng máy bắn vào bên hông. Lại có pháo hiệu, nhưng pháo hiệu trắng - tín hiệu rút lui. Vanhia Kitisha chuyển cho tôi cái đèn đỏ lấy từ đầu tàu, và chúng tôi lúp xúp chạy ngược vào rừng, bởi vì bọn Đức bắn ngày càng dữ dọc theo đường rày, cố gắng tách du kích ra khỏi đoàn tàu. Ai nấy đều rất hài lòng, về đến làng, mỗi người kể cảm giác và hành động của mình, và tôi tự hào với cái đèn của mình: tuyệt, quá hợp để làm ảnh. Về đến căn hộ. Chủ nhà đã không còn lạ chúng tôi nữa, mà làm bánh đón chúng tôi. Ông chủ nhà hoá ra là trưởng thôn, vợ ông là người Ba Lan, rất vui tính, xinh xắn và khéo léo, tên là Iadia, Iadviga. Sự lạ lẫm biến mất, và bao nhiêu là chuyện đùa, là tiếng cười trong căn nhà của người phụ nữ vui tính này, bà đúng là người giữ bếp lửa, nhìn đâu cũng thấy rõ Iadia chăm sóc chồng mình như thế nào. Mitia Frolov và chồng bà, ông trưởng thôn có một thoả thuận là: ngay khi chúng tôi ra khỏi thôn thì ông phải chạy vào trung tâm và báo cảnh binh; nhưng đến được trung tâm thì mất 15 cây số, cho nên chúng tôi tính là, trong khi ông đến báo được cảnh binh thì chúng tôi đã xa rồi, mà ông lại không bị trách vì đã không trình báo.
Một thời gian sau khi chúng quay lại vùng biên một lần nữa và dừng lại tại nhà trưởng thôn thì tôi đã được Iadia tin tưởng. Bà biết tôi là họa sĩ, và đề nghị tôi vẽ chân dung cho bà. Tôi để bà ngồi cạnh cửa sổ và bắt đầu vẽ. Lúc đó có một du kích bước vào, đội mũ calô có gắn ngôi sao, Iadia với lấy cái mũ, khéo léo đội lên đầu mình, chỉ ngón tay vào ngôi sao, bà bảo:
- Phải làm cho nó lấp lánh đấy nhé!
Khi bị hỏi để làm gì thì bà trả lời:
- Để mai mốt tôi sẽ bảo tôi cũng đã từng là nữ du kích. Chẳng lẽ tôi không phải là du kích sao? - bà ấy đã bắt đầu tự hào vì tham gia vào công việc của du kích. Mà sự thực là như thế - người phụ nữ Ba Lan này và chồng bà đã là những chiến sĩ du kích. Và tôi vẽ Iadia như một chiến sĩ: đội mũ calô gắn ngôi sao. Bức chân dung hoàn thành. Ba tuần qua đi, trong 3 tuần đó có ba lần đánh phá tuyến đường sắt bên cạnh làng của Iadia, và lần nào ông trưởng thôn cũng cần mẫn thông báo cho cảnh binh. Nhưng khi chúng tôi quay lại Ugla lần nữa thì ông đã không còn. Bọn Đức đã bắn ông sau khi lục soát, bởi vì chúng tìm thấy bức chân dung của Iadia. Chúng cũng bắn cả bà như bắn một nữ du kích.
Cái chết của Iadia để lại cho tôi chấn động vô cùng, và đến tận bây giờ vẫn có một chút gì như ân hận, cùng với cảm giác đó là suy nghĩ chiến tranh đã huy động hết mọi bất ngờ, mọi điều không thể lường được.
Sau chiến tranh mẹ tôi đã kể chuyện một tên khách trọ Đức giết người hàng xóm như thế nào. Người hàng xóm này ở chơi nhà người quen muộn quá giờ giới nghiêm nên ngủ lại đó. Sáng sớm, khi quay về nhà, vợ ông ta đùa "Ôi, chàng du kích của tôi!". Tên Đức rút súng lục bắn ông ta chết ngay lập tức, mặc dù hắn đang ngồi trong bàn ăn, ăn món ăn sáng mà chính bà chủ nhà dọn cho. Trong chiến tranh không được đùa với bất cứ chuyện gì, cuộc sống được dệt từ những sợi chỉ đen và trắng. Nhưng kết cục này ở Ugla đến tận tháng Hai tôi mới biết, còn bây giờ thì chúng tôi ngày ngày chuẩn bị cho những cuộc tấn công mới đánh phá đường sắt.
Tối đến Dubrovxki gọi tôi tới giao nhiệm vụ:
- Cậu đi cùng với Bulba theo nhóm 1, cần phải cho nổ cái máy xúc cạnh ngã rẽ.
Bulba là biệt danh của Xtepan Nhikolaievich Shenka, làm trong đường sắt Đức. Shenka vạm vỡ, không cao, tóc vàng, mắt xanh lá cây và nói giọng miền Tây Belorus. Cứ cách hai ngày, sang ngày thứ ba là ca trực của Shenka nên anh có đủ thời gian vào đội thông báo mọi thông tin cần thiết rồi quay về.
Tôi và Bulba ngồi trên xe trượt tuyết của nhóm trưởng vòng vèo một lúc lâu trong rừng, Xtepan Nhikolaievich giải thích từng mỏm đất: chỗ nào nên nằm canh, chỗ nào để ẩn tránh nếu quân Đức tấn công từ ga ra. Chúng tôi đi xuyên qua khu rừng nhỏ thì bắt đầu bão tuyết, đêm tối đen và lạnh lẽo. Cuối cùng thì chúng tôi cũng về đến trạm, hay đúng hơn là nơi tập kết vào trận của nhóm, và nằm nối đuôi nhau bên ven rừng. Nhóm đánh mìn biến vào bóng tối trước, để đặt thuốc nổ phá cái máy xúc trên công trường xây dựng nền đường ray. Những giây phút mỏi mệt...
Bỗng nhóm đánh mìn quay lại, hoá ra là không đủ thuốc nổ, cần phải lấy thêm và đi đặt lại. Nằm cạnh tôi là một chú du kích bé con, chú thì thầm hỏi:
- Chú ơi, thế mình nhắm vào đâu?
Tôi giải thích rằng khi nghe tiếng nổ, nếu quân Đức tấn công thì chúng ta cứ nhè chúng mà "nhắm". Thời gian vẫn trôi.... Thật lạ là tôi cứ luôn có duyên đụng với mấy chú bé con, vào trận hay ở trại, lúc nào quanh tôi cũng có mấy chú du kích 13 - 14 này.
Đột nhiên có tín hiệu báo động ở ga, quân Đức đổ xuống, rất đông, lại có ngay một đoàn tàu đứng ở ga và chúng bắt đầu bắn về phía bìa rừng, nơi chúng tôi đang nằm. Chắc là chúng phát hiện ra nhóm đặt mìn. Vài phút nữa trôi qua, đạn tiếp tục bắn mà vẫn chưa có tiếng nổ. Nghĩa là phải bò lại đó và đặt lại mìn. Nhóm đặt mìn vừa nhích về phía nền đường thì xung quanh bỗng sáng loà và mặt đất rung chuyển - mìn nổ! Nghe tiếng kêu la của quân Đức, súng máy bắn liên hồi. Chúng tôi bắn trả lại. Anh chàng du kích của tôi dán sát vào người tôi nhưng cũng đáp trả đâu ra đó. Và xảy ra một chuyện không thể tưởng tượng nổi: cái quy - lát súng của tôi lỏng ra và rơi xuống tuyết mất. Hiểu là không được tỏ ra lo lắng, tôi cố mò mẫm tìm nó lắp lại. Cuối cùng cũng lắp lại được nhưng mải mê với việc này tôi không nhận thấy là mọi người đã rút lui, chỉ còn lại mỗi hai chúng tôi với nhau. Chúng tôi nép vào những bụi cây, xung quanh đạn nổ tán loạn, như là chúng bắn từ khắp nơi vậy. Cuối cùng thì chúng tôi cũng thoát được và tìm thấy quân mình. Quân ta buộc phải rút vào rừng.
Nhóm hành động quay về làng, trận đánh đã thành công, quân Đức chết rất nhiều, còn quân ta không mất ai. Ba giờ khuya, chúng tôi về đến nhà, ở Ugla, và bàn tán cảm tưởng với các chiến sĩ nhóm 3.
Ban ngày ở trong thôn, đêm đến lại ra "đường rày", tôi đã thuộc nhóm của Mitia Korolenko. Bulba dẫn đến nền đường sắt cạnh cầu và chỉ cho biết, bao nhiêu lính canh và ở chỗ nào cùng giờ tàu chạy: vào lúc 1 giờ đêm một đoàn tàu từ Đức sang, mười phút sau khi con tàu phía tây sẽ có con tàu phía đông đi qua cầu. Một giờ thiếu 10 phút, lính canh đổi gác, quân ta đặt mìn vào phần trên thân cầu và đầu cầu, kéo dây về. Định là sẽ cho nổ ngay khi đoàn tàu lên cầu. Không phải đợi lâu. Một tiếng nổ long trời với các cột khói đen, lửa và các mảnh sắt bay làm đinh tai chúng tôi - cây cầu nổ tung, và như dự đoán, đầu tàu không thể dừng lại được, lao vào chỗ gãy và đổ nát. Súng máy của chúng tôi bắt đầu lên tiếng, nã vào các ô cửa sổ đoàn tàu, vũ khí của địch bị chìm trong hàng loạt đạn súng máy dài. Từ phía nhà ga súng máy hạng nặng bắt đầu bắn, chúng tôi buộc phải di chuyển. Nhưng rồi tiếng "Ura-a!" vang lên - và tất cả lao vào tấn công lên đoàn tàu. Quân Đức đã trấn tĩnh lại và bắt đầu bắn trả, nhưng lựu đạn và khói mạnh đến nỗi chúng đành phải rút lui. Và đoàn tàu từ phía đông tới gần. Đầu tàu ngừng lại cách đoạn bị phá đứt khoảng vài mét. Chúng tôi bắn súng máy vào nhưng nó hoàn toàn yên lặng - không một phát súng trả lời. Korolenko cử nhóm phá nổ đi đánh nổ đoàn tàu. Tiếp theo lại cử Pashieia Petra mang theo bom loại 50kg.

Đạp lên lớp tuyết lầy lội, tay ôm quả bom to đùng, Petro chạy đến nền đường ray, và gặp ngay các chiến sĩ đặt mìn đang từ đầu tàu chạy ra; Trong bóng tối Petro nhận ra lính Đức đang bám đuôi nhau đi tới, và tên chỉ huy khẽ ra lệnh: "Suỵt, Suỵt, du kích..". Petro ném qủa bom xuống và nhảy vào bụi cây chắn bảo vệ nền đường ray. Anh ta vốn cao lớn, nên khi lao vào bụi cây thì cây súng đeo ngang phía sau bị vướng vào những cành thông và hất ngược anh ta trở lại, về phía quân Đức. Chúng túm lấy anh. Nhưng anh vùng được ra và bò luồn dưới gốc những cây thông. Lính Đức không kịp túm lại, mà bắn thì không được vì sợ để lộ tung tích.

Korolenko bực mình không chịu nổi - đoàn tàu không đánh nổ được, mà thuốc nổ lại bị mất. Đứng trước mắt anh ta là hai chàng trai, anh ta thì thầm:

- Thuốc nổ phải nổ hoặc là phải được mang về đây. Chẳng nhẽ để lại cho bọn Đức à? Tôi không thấy các cậu. Mang chất nổ về đây, rồi báo cáo!

Hai người lính đánh mìn quay lại. Chỉ có sự tháo vát mới giúp được họ hoàn thành nhiệm vụ. Lính Đức im lặng rải dọc theo thân tàu và tấn công, lính đánh mìn luồn qua hàng rào lính Đức, đến đuôi đoàn tàu rồi bò dọc dưới gầm con tàu đến đầu tàu, và gỡ lại qủa mìn ngay trước mũi lính Đức, rồi quay ra cũng bằng cách luồn dưới gầm toa tàu.

Trong các toa tàu binh lính bị thương rên rỉ, nhân viên y tế chạy tới chạy lui nhưng quân Đức thì không thấy đâu sau lọat bắn nhau đó. Lính đánh mìn mang mìn về cho Dmitri Timofeevich, nhưng một người trong số họ bạc trắng cả đầu (vì căng thẳng và sợ - LTD) Mệnh lệnh thật khắc nghiệt, nhưng những người lính hiểu là không thể khác được, không thể không có kỷ luật, mà nhóm 3 của Dmitri Timofeevich Korolenko là nhóm đáng tin cậy nhất, kỷ luật cao nhất trong đội.

Quân Đức nhảy ra khỏi toa và đi theo hàng dọc theo toa tàu. Korolenko ra lệnh rút, và chúng tôi rút vào rừng. Nhiệm vụ chỉ hoàn thành được nửa chừng, vì không giật nổ được đoàn tàu thứ hai, đoàn tàu này hoá ra tàu chở quân, điều này chúng tôi không ngờ và phải rút lui để tránh nguy cơ bị bao vây. Nhưng ba ngày sau chúng tôi được biết rằng trong trận đó, lính trên đoàn tàu bị thương và chết rất nhiều, khỏang vài trăm tên phát-xít.
Đó là cuộc tập kích lớn đầu tiên vào tuyến đường sắt. Nhưng thực tế cho thấy rằng cần phải tìm những cách giải quyết mới. Phá nổ đầu tàu hay đoàn tàu không cho hiệu qủa cao, không đủ mìn để hất đoàn tàu ra khỏi đường ray; cần một chiến thuật đặc biệt - xử lý tất cả các toa, tiêu diệt mọi giá trị vật chất và lực lượng chiến đấu trên tàu. Một thủ thuật mới được nghĩ ra. Bức tranh "Đoàn tàu cháy" là để tặng cho nó.
Gần sáng cả đội lui về trại. Tôi và Nhikolai Gutievui đi bên tuyến hông. Phía trước hàng quân bao giờ cũng là trinh sát đầu não và hai bên cách khoảng 100 -150 mét là tuyến hông, chúng tôi cần điều tra tất cả mọi chỗ xung quanh để đề phòng phục kích hay bị đánh úp bất ngờ. Tôi và Nhikolai Gutinevui song song với cả đội, lúc lên gò, lúc xuống lũng.
Hai cuộc hành quân, hai ngày - và chúng tôi đến nhà. Kolia và TASS, chú chó của tôi mừng chúng tôi trở về. Dựng nên một nơi tắm mới, ngâm suốt trong đó, chốc chốc lại mấy chàng trần như nhộng nhảy ra lấy vội thêm nước, rồi chạy ngược vào nhà tắm, những người khác lại nhảy ra lăn trên tuyết rồi lại chạy ngược vào. Thật là sung sướng vô cùng khi được tắm táp sau trận đánh, được mặc quần áo sạch và quay lại căn hầm, nơi công việc và bạn bè đang chờ.
Tôi xếp những tấm tranh vẽ trong cuộc hành quân ra, Nhikolai thích những tấm tranh này, bạn bè đưa ra nhận xét. Kolia cũng cho xem những gì anh ta làm ở trại - phác thảo chân dung, truyền đơn, ấn phẩm cho đội.
Buổi chiều Korolenko, Dubrovxki và Lobanov - chính trị viên của đội lại đến hầm, hôm nay tất cả được nghỉ ngơi. Chuyện trò về chiến dịch, Lobanov trêu chọc tôi về việc tôi biết "tháo" quy - lát. Mọi người quay ra xem xét khẩu súng của tôi và cái quy - lát lại rơi ra tay. Súng của tôi có cái báng mới, đã từng bị cháy, nghĩa là lại phải đưa sang xưởng vũ khí lần nữa.
Hai ngày sau mấy cảnh binh đến xin nhập du kích, và một trong số họ kể rằng:
- Khi các anh đang ở Ugla, đánh phá tàu và quay về, thì chúng tôi phục kích trên đường đi của các anh. Chúng tôi nguỵ trang trong tuyết, dưới các gốc thông. Và rồi, có hai người các anh tới, ngồi xuống, ngay trước mặt chúng tôi, giải quyết nỗi buồn và đi tiếp. Chúng tôi muốn bắn họ nhưng không được phép. Chúng tôi tưởng là một nhóm nhỏ tới, và sẽ bắn, thế mà nguyên một đoàn...
Quả thực, khi đi cùng với Nhikolai trong tuyến hông, chúng tôi thấy có nhu cầu, nhưng lại không được để mất dấu cả đoàn, nên đành phải ngồi ngay trên gò cạnh một cây thông phủ đầy tuyết, rồi lại đi tiếp.
Trong trận phục kích đó có 30 cảnh binh, và hầu như một phần ba số đó - 8 người, ra với ta, gia nhập du kích. Như người cảnh binh nọ nói thì "cuộc phá hoại" của chúng tôi gây một ấn tượng mạnh đến nỗi họ hoàn toàn ý thức được sự thất bại của mình. Nhưng tôi với Nhikolai thì may, không nhận ra quân phục kích nguỵ trang thành cây thông trong tuyết. Bạn không bao giờ đoán trước được, không bao giờ nghĩ ra, bạn đi bên cạnh cái chết của mình khi nào và như thế nào, cũng như điều gì cứu bạn thoát khỏi nó.

Phần 3

Chú ngựa xám mình phủ đầy sương muối đang nhảy nhót vui vẻ, nhưng tôi thấy lòng nặng nề vô cùng. Thứ nhất là vì việc tôi sắp phải làm: vào ngôi làng gần Atunovo và xử bắn một phụ nữ mà theo như báo cáo của dân làng là đã đến với cảnh binh ở Lepel'. Người phụ nữ này không phải dân địa phương, mà là người tản cư. Tôi không thích nhiệm vụ này, mà làm sao có thể thích được việc đi bắn phụ nữ kia chứ. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, và nỗi sợ hãi của những người sống xung quanh cô ta là một nguyên nhân rất quan trọng, rất nặng ký, vì hành động đi đi lại lại Lepel' với người yêu cảnh binh của người phụ nữ nọ làm tê liệt những người đang sống trong lo lắng, sợ rằng cảnh binh sẽ biết về các quan hệ của họ với du kích; do vậy thoạt nhìn thì thấy đây là một mệnh lệnh tàn nhẫn nhưng nó lại có cơ sở nhân bản - nó bảo vệ những người đang giúp đỡ cuộc đấu tranh với quân xâm lược. Tôi cũng hiểu thêm rằng mình đang bị thử thách, vì chính Markevich đã kể là ngay trong cuộc họp đội mọi người đã nói: Không biết Nhikolai có dám bắn, hay nói chung là giết chết ai không? Tôi tạo cho mọi người cảm giác (tôi) hơi yếu đuối, mà cuộc chiến đấu thì khốc liệt và đòi hỏi sự tự tin trong mỗi người lính.

Cuối tháng 11, trời rất lạnh, buốt giá vô cùng, đợt rét đến đột ngột, tuyết phủ kín những ổ gà, những vết xe trên đường, cuộn thành những ụ nhỏ; đường ngày càng dễ đi xe trượt tuyết hơn, nhưng trên những gò đụn thì bánh xe vẫn còn nghiến ken két trên mặt đường đóng băng cứng như đá.

Đường phía trước còn dài, ngồi trong cái xe trượt tuyết nhẹ hai chỗ, Pavel, cũng như mọi khi kể hết chuyện nọ đến chuyện kia...

Chúng tôi đến ngôi làng vào ban đêm. Không có căn nhà nào có ánh lửa, chỉ có bóng những căn lều, và phía sau là rừng âm u. Ngựa dừng cạnh căn lều cần đến:

- Đấy, đến rồi đấy. Tóm lại thì, Nhikolai, thực hiện nhiệm vụ đi! Giờ thì xem xem cái mụ cảnh binh này là thế nào?

Anh ấy như muốn làm tôi tức điên lên vì biết rằng tôi sẽ rất khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ này. Tôi muốn có chỗ dựa nên rủ anh cùng vào. Mở cửa cho chúng tôi là một ông cụ, rồi ông quay vào, vặn đèn và treo lên tường. Ánh sáng leo lét nhưng từ ngoài tối vào nên thấy nó rất sáng, soi rõ một vách ngăn bằng ván có dán giấy tường màu hồng. Phía trong khung cửa không có cánh, tôi thấy một cụ bà, nằm trên những chiếc ghế kê vào nhau, quay phía lưng tựa ra ngoài, chỗ trống bên cạnh chắc là của cụ ông. Tôi hỏi ông cụ:

- Những ai đấy?


Mùa xuân năm 1943 ở khu du kích Lepel'. Chữ ghi ngoài bìa: "Tôi đi ngựa đến làng, thấy người phụ nữ này. Vũ khí cất giấu ở bìa rừng, đợi quân Đức tấn công đến, còn bà cụ trồng khoai tây quanh chỗ để vũ khí. Tôi cho phép mình dùng cuộn phim mà tôi quý như vàng và quyết định ghi lại cảnh này. Sau chiến tranh tôi quay lại Pushno, lòng muốn gặp người phụ nữ này để hỏi về số phận bà. Ngay tại sân nhà bà, người ta chỉ cho tôi một hố bom và kể rằng bà đã mất mùa xuân năm 1944, khi đang trồng khoai tây. Máy bay tới, ném bom - rơi ngay xuống đây.

Ông cụ trả lời rằng hai ông bà sơ tán từ Leningrad về đây năm 1941 và từ đó ở lại đây luôn. Ông cụ đứng giữa nhà, khoác cái áo len phụ nữ, quấn chiếc khăn nhàu nhĩ ở cổ và nhìn chúng tôi với vẻ bất lực.

- Thế còn một người nữa đâu?

Tôi nói to, cố gắng tỏ ra nghiêm khắc, cố gợi cho mình cảm giác thù ghét người phụ nữ đi lại với cảnh binh, nhưng điều này chỉ làm cho tôi càng thêm bực bội và cảm thấy thật vô lý khi gào lên với những cụ già bất hạnh này:

- Cô Nadedzda á? Cô ấy ở đây, - cụ già nói và chỉ vào phía trong khung cửa, đằng sau tấm rèm - Cô ấy cũng là dân sơ tán, từ Leningrad.

Tôi gạt cái rèm ra và thấy một phụ nữ trẻ nằm trên giường sắt với hai đứa nhỏ, một đứa trai một đứa gái, bé gái chắc khoảng 3 tuổi, còn bé trai trông có vẻ lớn hơn. Trong lòng bỗng lẫn lộn bao nhiêu cảm xúc! Tôi phải thi hành mệnh lệnh! Mà mệnh lệnh bây giờ thì càng trở nên nặng nề hơn, tôi phải bắt đầu chiến công của mình bằng việc bắn vào người phụ nữ ngu ngốc rước bất hạnh vào mình và con cái này.
Nadedzda im lặng ngồi dậy. Cô ấy mặc áo sơ mi nam, mặt nhợt nhạt, với vài chỗ sưng vù. Tôi bắt đầu nói rằng vì hành vi của cô ta, vì cô qua lại với cảnh binh nên cô ta phải nhận án:

- Người ta đón nhận cô về sơ tán! Thế mà cô trả ơn họ bằng cách làm bây giờ cả làng sợ cô, không dám giúp đỡ du kích vì lo bị cô bẩm báo! Cô khéo chọn được lúc để yêu đương với cảnh binh nhỉ?

Nadedzda đứng cúi mặt như hoá đá, hai tay buông thõng, còn tôi thì dùng đủ mọi lời lẽ chua cay để lên án cô ấy, nhưng trong đầu thì ong ong: Rồi, bây giờ dẫn cô ta ra sân, và bắn, sau đó quay lại phòng và phải làm gì đó với lũ trẻ, các cụ già không nuôi nổi chúng, bản thân họ còn lay lắt, mà sau những chuyện như thế này thì trong thôn chẳng ai muốn cưu mang chúng đâu. Đưa chúng đi đâu bây giờ? Chẳng lẽ lại cứ để mặc chúng lại đây, một mình trong căn lều lạnh lẽo này rồi lên xe đi? Tôi quay sang hỏi Khot'ko:

- Pavel, làm gì với loại cỏ rác này đây?

Pavel cũng không biết làm sao nên trả lời ngắn gọn:

- Cậu nhận lệnh rồi, cứ thế mà thực hiện.

Tôi nhận thấy là mọi lời nói của tôi với tội nhân chẳng tạo nên ấn tượng gì, cô ta hoá đá vì bị sốc như phần lớn những người sắp lãnh án. Tôi lại bắt đầu:

- Tại sao cô không biết nghĩ đến bọn trẻ con? Sao lại có thể đến với bọn giặc như thế?! Chính vì bọn phát xít mà cô phải chạy khỏi Leningrad, thế mà bây giờ lại sang Lepel' - đến với bọn chúng!

Tôi hiểu rằng những lời nói của mình là vô ích. Tôi quyết định: phải lôi cô ta ra khỏi trạng thái gỗ đá này, bắt cô ta phải cảm thấy nỗi sợ cái chết và khi đó mới nói tiếp.

Tôi nghiến răng thì thầm để không làm trẻ con thức giấc:

- Nào, mặc quần áo vào, ra ngòai trời!

Cô ta ngồi xuống như cái máy, ngoan ngoãn cho chân vào đôi ủng lính to đùng còn buộc dây kỹ, thấy rõ là đã lâu không buộc, không tháo gì, khoác lên vai cái áo lót lông mới phủ dưới chân cô ta và đi theo tôi. Đến cửa tôi nói với lại:

- Cầm lấy cái xẻng, sẽ tự đào mồ cho mình, chứ còn bắt ai đào cho nữa.

Chúng tôi bước ra ngoài bóng tối. Ánh sáng chiếu qua khe cửa, gió cuộn tuyết trên mặt đất. Tôi lại bị nhói lên vì ý nghĩ: Tôi đưa bọn trẻ đi đâu bây giờ? Người phụ nữ bước ra và các cái xẻng đi theo gò đất, kéo lê đôi ủng to tướng.

- Nào, - Tôi giận dữ nói, - đào đây!
Cô ta bắt đầu thử thúc xẻng xuống đất đóng băng... và bỗng rùng mình và khóc rền rĩ. Bây giờ lại phải quay lại căn lều, lại nói chuyện lại, cố tìm lối thoát, làm rõ xem tại sao cô ta đến Lepel', khi đó sẽ hiểu rõ là cần phải làm thế nào với cô ta.

Chúng tôi bước vào căn lều, ngọn đèn chiếu thứ ánh sáng rầu rĩ, Pavel ngồi cạnh bàn, các cụ già co ro trên những chiếc ghế của mình, trẻ con ngủ. Và lòng tôi lại rối lên:

- Nhikolai, quyết đi, - Khot'ko nói, - cậu lằng nhằng với nó lâu quá.

Bấy giờ chúng tôi ngồi vào bàn và tôi thấy cô ta khóc. Tôi hỏi:

- Kể xem, khi nào và để làm gì?

Cô ta nấc lên, lấy tay che mặt, vai rung lên:

- Tôi ra chợ... váy dài... cho trẻ ăn. ...màu xanh, tơ lụa Trung quốc...tôi muốn bán. Hắn tới gần và bảo: "Đi với tôi, tôi mua cái váy cho". Tôi đi với hắn, hắn bảo: "Tôi sẽ cho em một xô lúa mạch, tôi thích em"... Vào đến nhà, thế là ...hắn...đẩy...lên giường...Hắn cho lúa ...và tôi ...về, ở nhà mọi người đang đói...

Nhóm tập trung ở hầm tham mưu, vào những ngày đầu tháng 10 này, chỉ huy đội cử một toán lớn - 10 người - đi đánh đường sắt. Dẫn đầu toán này là chỉ huy trung đội trinh sát Nhikifor Dzurko và trinh sát viên Vaxilii Vitko. Thiết tha đòi theo nhóm đi thực hiện nhiệm vụ có Fedia Moshov, một du kích trẻ, vẫn còn là một chú bé, nhưng chú không được nhận, tôi thấy đôi môi chú run run vì giận dỗi, muốn chú khuây khoả nên tôi dẫn chú vào hầm chúng tôi và quyết định chụp cho chú một pô ảnh, tôi có một cái máy ảnh "Kontack" lấy được của quân Đức. Vaxia Vitko đuổi theo chúng tôi và khi biết về việc chụp ảnh đã bảo chụp như vậy phí đi. Rồi họ quay lại với đầy đủ quân phục, Vitko còn có một khẩu súng máy chiến lợi phẩm, và tôi chụp họ cùng với nhau, rồi chụp một mình Fedor, sau đó chúng tôi sang chụp cả đội đánh mìn chuẩn bị đi làm nhiệm vụ. Vitko bước xuống từ cái xe đạp, bên cạnh đó có một trái mìn có đề dòng chữ: "Reichstag (Nghị Viện Đức). Adolf Hitler".

Trên ảnh Fedia trông khá oai, nhưng rõ ràng là khuôn mặt rất buồn, như vừa khóc. Chú mới 13 tuổi. Cha chú, một du kích, bị bọn cảnh binh bắt giữ và chúng đặt một ổ phục kích trong nhà Moshov, vì chúng nghĩ: "Thế nào sói mẹ cũng tới cứu sói con". Mẹ Fedia làm bánh nhân anh túc, thuốc cho lính canh ngủ và đêm đến bà cùng với con trai chạy thoát được qua cửa sổ, chạy ra rừng. Và thế là Fedia trở thành du kích - làm trinh sát, một trinh sát thông minh, giỏi giang.

Tất nhiên là mọi người chiều chuộng và cố gắng trang bị cho cậu bé Fedia, kiếm được cho chú áo khoác, đính thêm galife vào, ủng cũng tìm được đôi vừa chân. Vaxia Vitko còn cắt bớt cái báng súng Đức đi cho nhẹ hơn. Trên tấm hình còn cho thấy bộ bao đạn trên người Fedia cũng là của Đức, đạn cũng đạn Đức, trên thắt lưng là lựu đạn RGD, đó là của Vitko cho mượn, để cho ra vẻ một người lính hoàn hảo.

Người phụ nữ run rẩy vì sợ hãi, vì phải nhớ lại nỗi nhục của mình, nấc nghẹn, nhưng cô ta không được khóc, để không làm bọn trẻ con thức giấc, tôi cũng rùng mình ớn lạnh, tôi thấy thật tội nghiệp cho cô ta, tôi biết là cô ấy nói thật, tôi rùng mình vì cái sự thực khủng khiếp này, khi bạn phải kết án một người rơi vào vòng xoáy của các sự kiện. Và tôi chợt loé lên ý nghĩ - nhưng cô ta không có lỗi! Đây là hoàn cảnh bên ngoài đối nghịch cô ấy, còn cô - không có lỗi gì!!! Và không còn nghĩ đến việc phải chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành nhiệm vụ, tôi moi trong cặp ra một cuốn sổ, Khot'ko ngạc nhiên nhìn, không biết tôi định làm gì?
- Đây, Nadedzda! - Tôi nói - Hôm nay cô đã hiểu cuộc sống có thể quay lưng với cô, để lại hai đứa con mình côi cút như thế nào. Đừng nghĩ đến chuyện quay lại chỗ cảnh binh lần nữa nghe chưa? Mà thôi không đến Lepel' luôn đi! Tạm thời tôi cho cô giấy đến kho của đội, đến Antunovo mà nhận nửa bao lúa mạch. Có thể hỏi xem có việc gì làm không, ở đó có các xưởng may quần áo ngụy trang cho chúng tôi.
- Cậu làm sao đấy, Nhikolai, điên à?! - Khot'ko không nhịn được, hỏi tôi.
Nhưng tôi thấy nhẹ lòng. Nadedzda đưa tay run run cầm tờ giấy tôi vừa xé ra. Tôi bước ra khỏi bàn, Khot'ko cũng đứng dậy, hai cụ già tiến lại chỗ chúng tôi, tôi nói với lại với các cụ:
- Các bác trông chừng cô ấy nhé, để cô ấy đừng làm điều gì ngu ngốc nữa. Sẽ không biết phải làm sao với bọn trẻ đâu.
Chúng tôi bước ra ngoài bóng đêm đầy gió và những bông tuyết bay là là trên mặt đất, phải đi thôi. Ngựa lạnh cóng, hăng hái kéo xe trượt đi trên mặt đường đóng băng, Khot'ko chỉ nói:
- Bọn Đức chó chết! Chắc là cậu đúng, chẳng biết làm sao với bọn trẻ. Có thể rồi đâu sẽ vào đấy. Chỉ cần trên đường về phải rẽ vào bảo họ đừng có đụng đến cô ấy nữa.

Dịch từ Nga sang Việt: Nguyễn Thủy (TuDinhHuong)
Hiệu đính tiếng Việt: L‏‎yù Thế Dân

HỒI ỨC LÍNH BỘ BINH
Antonina Kotliarova

Antonina Kotliarova, 1944
Tôi tên Antonina Aleksandrovna Kotliarova, sinh năm 1923 tại Maskva. Chiến tranh nổ ra ngày 22 tháng Sáu năm 1941, và chúng tôi, những học sinh lớp Tám trường số 1 Quận Lenin, nằm trên phố Tolmachevskii gần Bảo tàng Tret'iakov, đang cùng đi tới khu công viên Triển lãm Thành tựu Kinh tế Quốc dân Toàn Liên bang VDNKh (trước năm 1939 là VSKhV - Hội chợ Triển lãm Nông nghiệp Toàn Liên bang, ngày nay được đổi tên thành VVTs - Trung tâm Triển lãm Toàn Nga. Tuy nhiên mọi người vẫn tiếp tục gọi nó là VDNKh. - LTD). Đột nhiên xuất hiện một thông báo trên radio - sắp có một bài diễn văn của Viacheslav Mikhailovich Molotov. Vì một lý do gì đó mọi người đều chạy tới Quảng trường Trung tâm. Vâng, Molotov đã thông báo rằng quân thù đã tráo trở tấn công đất nước ta. Chúng tôi phải làm gì đây? Chúng tôi gọi về nhà, ở nhà bảo chúng tôi: "Hãy trở về nhà ngay lập tức." Chúng tôi quay về. Cha mẹ tôi và cha mẹ chồng tôi đã đăng ký để chuyển đi đâu đó trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi ngoài dự kiến.

Vì thế cha của Kolia (Kolia (tức Nikolai) là tên chồng tôi) đi tới Trụ sở Hội đồng Quận Lenin nơi ông bắt tay vào tổ chức các đội dân quân vũ trang, sau đó họ đã chiến đấu trên mọi nẻo đường từ Maskva tới tận Berlin. Còn cha tôi gia nhập quân ngũ làm binh nhất, bởi ông chưa có cấp bậc trong quân đội. Đám thanh niên lúc này chưa được tuyển vào quân đội. Chồng tôi, Nikolai cũng thuyết phục người ta cho anh gia nhập quân đội. Anh ấy đã chiến đấu trong lực lượng xe tăng thiết giáp, làm xạ thủ súng máy. Anh ấy trở về Maskva từ mặt trận, và tôi hỏi anh: "Thế nào, Kolia, ngoài ấy có sợ không?" Và anh ấy trả lời: "Không. Anh nấp đằng sau tháp pháo, bọn anh tiến tới gần bọn Đức, nhảy xuống, nổ súng một chốc rồi cánh bộ binh áp sát tới hỗ trợ và bọn anh lại tiếp tục tiến lên." Tôi vẫn suy nghĩ một cách ngu ngốc là ngoài đó không hề đáng sợ. Sau này khi chính tôi được ra mặt trận, tôi đã quan sát và tự nhủ: "Làm sao mà một người cao lớn như vậy (anh ấy cao tới gần hai mét) có thể nấp đằng sau cái tháp pháo? Đó đơn giản chỉ là một cái đích ngắm!" Nói chung, tôi cũng muốn được ra mặt trận, nhưng không thành công. Tôi tới làm thợ tiện tại Nhà máy Dụng cụ Cơ khí Sergo Ordzhonikidze. Làm ở đó tôi được nhận khẩu phần hàng ngày là 800 g bánh mì. Thế là, sau khi làm việc trở về nhà, tôi sẽ đến lấy bánh tại tiệm bánh nằm tại Polianka. Tôi sẽ nhận khẩu phần ấy, chia nó làm hai, ăn một nửa với nước lã, và rồi lên giường ngủ. Không thể ngủ ngay được vì tôi vẫn rất đói, trong khi nửa ổ bánh còn lại đang còn nằm trong ngăn kéo... Tôi bò dậy, ăn nốt nửa còn lại, rồi ngủ tiếp và sáng hôm sau đi tới nhà máy. Khi người ta bật còi báo động không kích, chúng tôi vẫn thực hiện nhiệm vụ ngoài đường, thậm chí chúng tôi còn có quyền đi lại khắp Maskva trong khi báo động. Một lần chúng tôi phải trực gác gần một ngôi nhà. Chúng tôi trông thấy ai đó đang đóng mở một cánh cửa sổ trên tầng thượng - có lẽ đó là một kiểu ám hiệu. Lần đó một quả bom rơi trúng cây cầu Malyi Kamennyi. Chúng tôi thông báo điều đó cho người sĩ quan trực. Họ đi kiểm tra, hóa ra ở đó có một mụ đàn bà Đức thường phát ám hiệu cho lũ phi công Đức của mụ. Và chuyện đó xảy ra trong khu vực có một rạp chiếu phim và Nhà máy Tháng Mười Đỏ - phải chăng đó là nơi để ném bom?

Sau cơn hoảng loạn ngày 16 tháng Mười, nhà máy được sơ tán tới Nizhnii Tagil. Tất nhiên, tôi không cùng đi với họ. Tại sao tôi lại ra đi trong khi nghĩa vụ của tôi là phải chiến đấu với bọn phát xít? Tôi tới trụ sở dân ủy, họ vẫn tiếp tục không tuyển tôi. Tôi đã gia nhập Đoàn Thanh niên Komsomol. Do đã ở lại thành phố, tôi cần phải làm việc ở một nơi nào đó. Tôi tới Trường Thương mại số 60, nằm trên Quảng trường Kaluga (hiện là Quảng trường Oktiabr'skaia). Tại đó chúng tôi chế tạo mìn, ít nhất cũng đóng góp được chút gì cho mặt trận. Rồi họ đưa chúng tôi đi kiếm củi đốt cho Maskva. Tôi tới quận Sasovo thuộc quân khu Riazan. Khi từ đó trở về, cuối cùng tôi cũng thuyết phục được cho họ chuyển mình vào đơn vị pháo phòng không gần Maskva. Đó là Trung đoàn phòng không 50, được bố trí tại ga Bulatnikovo. Đầu tiên tôi giữ nhiệm vụ quan trắc đo cao. Nhiệm vụ này yêu cầu phải để một mắt theo dõi mục tiêu cần ngắm, rồi chuyển tọa độ cho PUAZO (thiết bị điều khiển bắn), và rồi chuyển tới khẩu pháo. Kế đó tôi được chuyển tới làm việc với PUAZO. Chúng tôi sử dụng loại pháo 76mm.
A.D. Tinh thần tại trận tuyến hậu phương như thế nào, đặc biệt trong thời kỳ đầu chiến tranh, khi quân ta đang rút lui?
Trong cơn hoảng loạn, người ta đốt sách của Lenin và Stalin trong sân nhà họ. Tôi có một bộ sưu tập tác phẩm của Lenin xuất bản năm '24. Tôi đã không đốt hay vứt đi một quyển sách nào. Nhưng tình trạng hoảng loạn thật kinh khủng. Ngày 17 hay 18 tháng Mười tôi đã được thấy người ta chở hàng bao đường và kẹo trên xe trượt qua cầu như thế nào. Toàn bộ Nhà máy Tháng Mười Đỏ đã bị cướp phá. Chúng tôi đi tới Kaluzhskaia Zastava, và thậm chí còn đi xa hơn, ném đá vào những xe ôtô chở các vị tai to mặt lớn đang bỏ trốn. Chúng tôi rất căm phẫn khi thấy bọn họ đang rời bỏ Maskva. Có lẽ như thế là vô pháp luật, nhưng đó là những gì chúng tôi đã làm. Cho tới đầu năm '42 ta rất hiếm khi bắt gặp người đi ngoài phố ở Maskva. Maskva trở nên hoàn toàn vắng vẻ.

Khi bọn Đức đã hoàn toàn bị đẩy lùi khỏi Maskva, và tôi vẫn còn đang nghĩ rằng mình phải đi chiến đấu với bọn phát xít, tôi phát hiện ra là có một trường dạy xạ thủ bắn tỉa trên đường Silikatnaia. Tôi trở thành một học viên tại đó. Tốt nghiệp với điểm ưu, và do Kolia của tôi và cha chúng tôi đang chiến đấu tại Phương diện quân Belorussia 1, tôi cũng yêu cầu người ta gửi tôi tới đấy. Tôi, xạ thủ hỗ trợ tôi Olga Vazhenina, cùng khoảng mười cô gái nữa tới Phương diện quân Belorussia 1. Lúc này đã là tháng Mười Một năm 1944. Chúng tôi được bố trí trong Tập đoàn quân 47, Sư đoàn 143. Ban đầu chúng tôi đóng tại Praga, gần Varsava. Tiểu đội tôi luôn chiến đấu bên nhau - chúng tôi thuyết phục chỉ huy đừng phân tán chúng tôi vào các đại đội khác.

Vậy là tôi đi săn địch cùng Olga. Ban ngày chọn lấy một vị trí mai phục, rồi chiếm lĩnh nó vào mờ sáng và bắt đầu cuộc săn. Tất nhiên, chúng tôi thường chọn một vị trí sao cho địa hình mặt đất không bị thay đổi, nhằm khiến bọn Đức không thể biết được rằng có ai đó đang nằm phục trước chiến hào của chúng tôi. Thêm vào đó, tại mặt trận tình hình luôn là như sau: vị trí của chúng tôi thì nằm ngoài khoảng trống, còn bọn Đức luôn bố trí trong rừng hoặc dưới các bụi cây.

Đến đây tôi cần kể thêm là huấn luyện là một chuyện, người ta có thể dạy anh rất nhiều thứ ở trường, nhưng khi chúng tôi tới mặt trận, mọi thứ hoàn toàn khác hẳn. Tất nhiên, điều đầu tiên chúng tôi làm ở đấy là nhìn qua lỗ châu mai để xem bọn Đức đang làm chuyện gì. Và ngay ngày đầu tiên một cô gái đến từ Leningrad đã bị giết chết. Cô ấy đã trải qua suốt thời gian Leningrad bị phong tỏa, và ngay ngày đầu tiên sau khi chúng tôi tới mặt trận, khi cô ấy đang quan sát qua lỗ châu mai, một viên đạn xuyên qua và cắm vào ngay dưới mắt cô. Và thế là cuộc đời quân ngũ của chúng tôi bắt đầu bằng một đám tang.

Khi tôi diệt được tên Fritz của mình, vừa về đến hầm trú ẩn, một phóng viên chạy tới và hỏi xin được phỏng vấn. Tôi không nhớ mình đã nói với anh ta điều gì, nhưng trong suốt ngày hôm ấy và cả ngày tiếp theo, tôi không thể ăn uống hay ngủ ngáy gì được. Tôi biết rằng hắn là một tên phát xít, rằng chúng đã tấn công đất nước chúng ta, chúng giết chóc, đốt phá, treo cổ đồng bào ta, nhưng hắn vẫn là một con người bằng xương bằng thịt. Thật là một trạng thái tệ hại... Khi giết được tên thứ hai, tôi cũng bị lâm vào tình trạng tương tự. Sao vậy nhỉ? Bởi vì tôi trông thấy rõ hắn qua ống kính ngắm: hắn là một tên sĩ quan còn trẻ. Dường như hắn đang nhìn lại tôi và đột nhiên tôi giết hắn chết. Nhưng hắn là một con người! Thật là một trạng thái kinh khủng. Nhưng sau đó tôi trở nên quen dần. Tôi giết - phải làm như vậy thôi, không còn cách nào khác.

Chúng tôi giải phóng Varsava. Đó là một thành phố rất lớn. Chúng tôi sử dụng súng trường và cả tiểu liên. Năm quả lựu đạn thay vì hai. Và thế là chúng tôi chiến đấu để giải phóng từng căn hộ, từng mảnh sân, từng gác mái. Cuối cùng là giải phóng hoàn toàn thành phố.

A.D. Vậy là trong thực tế bà đã chiến đấu như một xạ thủ tiểu liên?

Vâng. Ở đấy tôi như một xạ thủ tiểu liên, kỹ năng bắn tỉa của chúng tôi không được phát huy. Trước hết, đó là do trong khi ta đang ngắm bắn, ta rất có thể sẽ bị giết chết. Vì vậy chúng tôi hành động như những xạ thủ tiểu liên. Đôi khi sự việc diễn ra như sau: ta đang quan sát, đột nhiên - aha, chỗ kia có nhiều tên Đức đang đứng. Ta quẳng vào đấy một quả lựu đạn, nó làm gọn mọi việc. Tóm lại, sau khi giải phóng Varsava, chúng tôi tiếp tục tiến quân.

Sau đó chúng tôi tiến tới sông Vistula, tại đấy có một ngọn đồi. Chúng tôi, những cô gái, cùng 5-7 anh chàng nữa ở lại để giữ nó, còn đơn vị chúng tôi tiếp tục truy kích quân phát xít ở phía trước. Thế là chúng tôi phải giữ ngọn đồi trong suốt hai ngày trời. Ban đêm bọn Đức cố gắng bắt sống một "cái lưỡi" (trong từ lóng quân sự Nga, "cái lưỡi" là một lính địch bị bắt để khai thác tin tức - Oleg Sheremet). Nếu chúng biết được ai đang đối đầu với chúng, chắc chắn chúng sẽ nghiền nát chúng tôi. Nhưng chúng đã không biết được. Chúng tôi không cho chúng làm điều đó. Chúng tôi đẩy lùi mọi đợt tấn công, thậm chí tôi đã phải bắn một khẩu súng chống tăng và một khẩu súng máy. Nó giật lại rất mạnh. Lúc này tôi không cần đến khẩu súng trường của mình, chỉ đôi khi sử dụng kính ngắm của nó để quan sát. Chúng tôi giữ vững ngọn đồi đó, và rồi quân ta đã tới kịp thời.
A.D. Có bao giờ bà sử dụng một khẩu trung liên hay thượng liên không?
Thường là loại Maxim. Tôi nghĩ rằng vào thời gian đấy tại chiến trường chúng tôi có không loại súng khác.
A.D. Bà có được dạy cách sử dụng nó không?
Không, chúng tôi đều đã có kinh nghiệm. Chúng tôi có thể tự làm tất cả. Và nữa, chúng tôi có thị lực và kỹ năng tốt. Xét cho cùng, chúng tôi đã tốt nghiệp một trường dạy bắn tỉa. Chỉ có một chàng trai bị giết chết tại ngọn đồi đấy. Cậu ta ngồi đó, trông rất buồn, có lẽ cậu ấy đã cảm thấy rằng mình sẽ chết. Cậu ấy không lại gần lỗ châu mai hay khẩu súng máy. Cậu ấy chỉ ngồi đó, và tất cả kết thúc... Tôi không biết cậu ấy bị giết như thế nào. Có lẽ cậu ta bị co giật mạnh. Chuyện thường xảy ra khi một người biết rằng mình sắp chết.
A.D. Có lẽ có vài trường hợp mà bà có thể ra một cách chi tiết?
Việc tôi giết người như thế nào ư? Điều đó thật kinh khủng. Tốt hơn là đừng kể. Tôi đã kể cho anh rằng Olga và tôi đang nằm cạnh nhau. Chúng tôi khe khẽ trao đổi với nhau vì bọn Đức đang ở ngay gần trước mặt. Chúng đang nghe ngóng mọi thứ. Xét cho cùng thì chốt quan sát của chúng được bố trí rất tốt. Chúng tôi cố gắng không cử động, trò chuyện với nhau thật khẽ và tìm kiếm một mục tiêu. Khắp người tê bại cả đi! Ví dụ, tôi bảo cô ấy: "Olia, thằng này để tớ." Cô ấy sẽ hiểu ngay - cô ấy sẽ không bắn tên đó. Sau khi nổ súng tôi sẽ chỉ đóng vai trò quan sát giúp cô ấy. Tôi sẽ nói, ví dụ như: "Đấy, đằng sau cái nhà đó, đằng sau lùm cây đó", và cô ấy sẽ hiểu ngay phải nhìn chỗ nào. Chúng tôi luân phiên thay nhau nổ súng. Ban ngày chúng tôi luôn có mặt suốt tại vị trí, tới đó và quay về vào ban đêm. Ngày nào cũng vậy. Không có ngày nghỉ.
A.D. Có phải bà đang nói rằng bà không được di chuyển khẩu súng?
Hoàn toàn không!
A.D. Vậy nó đặt như thế nào? Chỉ đơn giản là tì vào vai hay sao?
Tì vào vai và ngón tay ta luôn đặt trên cò súng. Bởi có thể ta sẽ phải kéo cò vào bất cứ lúc nào. Phạm vi nổ súng là 800 m. Và khi ta quan sát, đột nhiên một mục tiêu xuất hiện. Khi mục tiêu lọt khớp với chữ thập thì tôi nổ súng. Có nghĩa là mục tiêu tự đi vào điểm ngắm. Và tất nhiên, điểm ngắm đó đã được chỉnh sẵn tầm bắn.

Có một trường hợp, xảy ra khi chúng tôi đang lùng sục một khu rừng. Lúc đó đã là cuối chiến tranh, lính cựu cũng không còn nhiều nữa, tất nhiên. Lính bắn tỉa lại phải sử dụng tiểu liên, nhưng khẩu súng trường luôn bên mình chúng tôi. Chúng tôi đi từ một phía rừng, còn đám trinh sát đi phía ngược lại. Và thế là chúng tôi tiến về phía nhau và bắt làm tù binh bất cứ tên nào chúng tôi vớ được. Tại đó tôi đã thả cho một thằng bé đi. Hắn thật còi cọc, mà tôi thì có một đứa em trai cũng trạc như hắn. Tôi thương hại hắn - không giết mà cũng không bắt làm tù binh, mặc dù đáng ra tôi phải làm điều đó. Tôi không biết nữa, có thể sau đó cũng có người giết hoặc bắt hắn làm tù binh, nhưng tôi không hề động tới hắn.

Có một trường hợp khác, khi chúng tôi đang giải phóng Deutch-Krony, tại đấy có một thị trấn tên như thế. Thị trấn này nằm trong một khu rừng. Và chúng tôi được lệnh phải giải phóng nó. Bắt được rất nhiều tù binh và tiếp tục tiến quân. Đột nhiên, có người đuổi tới phía sau chúng tôi và báo: "Thị trấn đã bị bọn Đức chiếm lại." Chúng tôi đã đánh tan chúng, nhưng chúng đã từ khu rừng đột nhập lại vào thị trấn. Chúng tôi phải chiếm lại nó lần thứ hai. Nhưng lần này chúng tôi không tha cho bất cứ tên nào nữa - chúng tôi đã phát điên. Chúng tôi đã giết rất nhiều tên ở đó, rất rất nhiều. Chiến tranh là chiến tranh. Chuyện phải diễn ra như thế, không thể khác được.

Chúng tôi kết thúc chiến tranh trên bờ sông Elbe. Chúng tôi đang ở trong những căn nhà của người Đức. Vào lúc 3 giờ sáng chúng tôi bị đánh thức bởi tiếng còi báo động. Có tiếng súng bắn, nhưng chúng tôi không hiểu, có phải do bọn Fritz bắn không? Tin chiến tranh đã kết thúc được thông báo. Chúng tôi chạy ra sân, tìm được ở đấy một ít rượu mạnh và uống, nhắm với mứt. Nhân tiện kể thêm, trong khi chúng tôi đang tiến công, trung đội tiếp tế luôn tụt lại phía sau. Chúng tôi vừa giải phóng được một ngôi làng, bước vào một ngôi nhà, và ở đó vẫn còn một bữa ăn nóng hổi trên bếp lò. Các cô gái sẽ nói: "Tonia, thử ăn nó đi". Thế là Tonia ngốc ngếch sẽ ăn thử nó. Nếu tôi không chết ngay, tất cả sẽ cùng ăn bữa ăn đó. Và thậm chí tôi không hề nghĩ rằng mình có thể bị chết. Những suy nghĩ như vậy không bao giờ có trong đầu tôi!

A.D. Tiểu đội của bà có bị tổn thất nào không?

Không. Thử tưởng tượng xem, vậy mà tất cả chúng tôi vẫn còn sống. Nhưng có hai người bị thương nặng. Lida Medinskaia và Nina Maziarova bị thương trong một đợt pháo kích. Nhưng sau đó họ đã quay trở lại đơn vị tôi và chúng tôi cùng sát cánh bên nhau cho tới khi kết thúc chiến tranh.

A.D. Cánh lính tráng đối xử với bà như thế nào?

Rất tốt! Đám lính đối xử với chúng tôi rất tốt. Họ bảo vệ chúng tôi, không làm bất cứ điều gì gây hại cho chúng tôi. Đôi khi họ kiếm được cho chúng tôi một thỏi sôcôla hay một thứ gì đó rất khá.

A.D. Quan hệ giữa bà và cư dân những quốc gia được giải phóng như thế nào? Như Đức hay Ba Lan chẳng hạn?

Thực ra tôi không giao tiếp với dân thường. Nhưng không có ai nấp trong góc đường mà bắn vào lưng chúng tôi.

A.D. Bà có gửi bưu kiện về nhà không?

Không. Bưu kiện gì? Chiến lợi phẩm sao? Chúng tôi là lính mà. Không. Sau này, khi ở nước Đức, ta có thể bước vào một căn nhà - nếu ta cần phải thay đồ lót, ta sẽ mở cửa phòng vệ sinh, cởi quần lót ra, vẫn giữ lại quần dài nhưng thay đồ lót ở đấy. Chúng tôi không còn quấn xà cạp nữa, nhưng thay vào đó là 5-6 cái tất dài bằng lụa hay vải Ba Tư, rồi bên ngoài là đi giầy. Và ta có thể tiếp tục lên đường. Vào cuối chiến tranh tôi đã chuốc vạ vào thân cũng vì chuyện ấy. Thay quần áo... Chúng tôi không còn balô, chúng tôi đã bỏ chúng lại với trung đội tiếp tế từ lâu rồi. Mặt nạ phòng độc cũng vậy. Chúng tôi chỉ còn đem theo đạn, lựu đạn và một khẩu súng trường. Và thế là ngay trước khi kết thúc chiến tranh, tôi tìm thấy một ngôi nhà, có đồ lót sạch thêu đăng ten trong phòng vệ sinh. Tôi không thể kiểm tra xem nó như thế nào, đúng không?! Thế là tôi thay tất cả đồ lót, và hóa ra nó đã bị rách và được vá lại từ trước! Và tôi quay về Maskva với một cái quần lót bị vá trên người.

A.D. Nói chung, làm cách nào bà tắm rửa và giặt quần áo ngoài mặt trận?

Rất khó thực hiện. Có lần chúng tôi tiến vào một ngôi làng, tại đó có một cái nhà tắm. Chúng tôi vào trong và chật vật lắm mới ra khỏi được - bị ngộ độc carbon monoxide, chúng tôi không biết cách nào sử dụng được nó. Nói chung, rất khó tắm giặt được.
A.D. Thế ngoài đó có rận không?

Không. Tôi không có con nào. Cánh lính thì có chấy rận. Họ phải húi trọc đầu. Và ở trường người ta cũng cắt t1c cho chúng tôi như tóc đám con trai. Tôi còn nhớ có lần chúng tôi đang đi trong đám đông, Marusia Guliakina đi cuối cùng. Cô ấy đang bị ốm và do đó tóc cô ấy để dài. Có một cô gái đứng bên đường, cô ta nói: "Mẹ ơi, mẹ, xem kìa, đám đàn ông đang đi, trong đó có một người đàn bà!" Chúng tôi đang mặc quần dài và tất cả chúng tôi đều húi cua...

A.D. Bà nghĩ thế nào về quân Đức?

Ồ, chúng tôi căm thù chúng!

Người phỏng vấn: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA PHI CÔNG
Yurii Khukhrikov

Tôi tên Khukhrikov, Iurii Mikhailovich, người Maskva chính gốc đời thứ tư, thậm chí có thể là thứ năm. Dòng họ tôi làm nghề đánh xe ngựa ở Dorogomilovo. Cụ tổ tôi, Stepan Khukhrikov, là một trong những người đánh xe ngựa đầu tiên ở Dorogomilovo. Ông chở hàng hoá và hành khách trong khu vực ga Kiev. Ở đấy trước đây có ngõ, đường cụt và chợ mang tên Khukhrikov. Chợ Khukhrikov nằm trước cầu Borodino nếu bạn đi từ tòa nhà Bộ Ngoại giao, về phía sông Maskva. Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống quân sự. Cha và chú tôi đều là quân nhân chuyên nghiệp. Họ đã tham gia chiến tranh từ năm 1914, và sau Cách mạng thì làm việc trong Ban Giám đốc kỹ thuật của Bộ Tổng Tham mưu từ năm 1921. Cha tôi mang hàm đại tá còn chú tôi là thiếu tướng. Tôi sinh năm 1924, lớn lên và đi học tại Christưie Pruđưi, đối diện Coliseum mà nay là Nhà hát Sovremennik.

Từ 1930 cho tới 1941 tôi học ở Trường Số 311 trên phố Lobkovski, nay là phố Makarenko. Tôi học chung với Iurii Nagibin [một nhà văn Soviet nổi tiếng] (đấy là theo họ mẹ của ông, còn khi này tên ông ta là Frumkin). Tôi cũng học với Zhenia Rudneva [Evgeniia Rudneva - người phụ nữ sau này trở thành phi công ném bom đêm]. Cô ấy hơn tuổi tôi, đã tham gia Học viện Hàng không từ trước chiến tranh. Đó là những người tôi đã cùng học chung.

Năm 1940, không biết hay dở thế nào tôi lại gia nhập một câu lạc bộ hàng không. Họ quay tôi đủ kiểu - nói rằng tôi còn quá trẻ. Nhưng cuối cùng tôi cũng đạt được nguyện vọng và họ bắt tôi phải mang tới giấy cam kết đồng ý từ cha mẹ. Lần đầu tôi cất cánh là trên một chiếc U-2, vào tháng 9 năm 1940, tại sân bay gần Maskva.

Năm 1941 tôi 17 tuổi. Chúng tôi chuyển từ Kraskovo tới Scherbinka, gần Podolsk. Ở đấy có một cánh đồng rất phẳng. Chúng tôi bố trí thành một sân bay, dựng lều và bay. Ngày lễ Mùng Một tháng Năm, tôi, với danh nghĩa là học viên câu lạc bộ hàng không, tham gia lễ diễu hành cuối cùng trong thời bình tại Quảng trường Đỏ.

Tháng Bảy năm 1941 tôi tốt nghiệp. Họ cấp cho tôi giấy chứng nhận đã hoàn tất khóa học. Nó giúp tôi rất nhiều sau này. Tất cả các câu lạc bộ đều gửi học viên tới học viện hàng không. Chúng tôi đều tưởng là sẽ được đưa đi Tbilisi. Nhưng vì chiến tranh đã bắt đầu, tất cả những ai tốt nghiệp năm 1941 đều được chuyển tới Saratov, nơi tập lái máy bay SB. Người ta gọi chúng là "những cây nến". Chúng hoàn toàn không được bảo vệ, thêm nữa chúng được làm từ hợp kim đuya-ra nên hễ trúng đạn hay mảnh đạn là cháy bùng lên. Tôi bắt đầu tập bay loại này, và rồi có lệnh từ Bộ Quốc phòng: "Chuyển Học viện Saratov về Lực lượng Đổ bộ đường không". Lập tức họ gửi tới các loại tàu lượn: US-4, US-5, Sh-10, G-9 và "Stakhanovets". Tất cả chúng đều là loại tàu lượn thể thao. Cũng có cả loại chuyên dụng cho lính nhảy dù - "RotFront-8" và "RotFront-11". Các công trình sư có kinh nghiệm cũng tới đây - Iudin, Anokhin và một số người khác. Chúng tôi lập tức được đổi sang học lái tàu lượn. Các tàu lượn được kéo bởi các loại máy bay U-2, R-5, SB, Douglas v.v. Bằng cách này chúng tôi mau chóng tích lũy những kinh nghiệm cần thiết. Máy bay phải lượn một vòng tròn và tới độ cao 500-600 mét thì chúng tôi tách khỏi máy bay. Chúng tôi lượn vòng và phải hạ cánh xuống một vị trí đã chuẩn bị sẵn. Anh không được mắc dù chỉ một sai lầm nhỏ khi lái những tàu lượn đó. Ví dụ như sau khi lượn xong vòng cuối, nếu anh tính toán sai, anh có thể mất độ cao ngay trước điểm hạ cánh và khi đó không gì có thể giúp anh ngóc đầu lên - tàu lượn làm gì có động cơ ! Thế là anh rơi. Cho nên chúng tôi thường nhắm tàu hơi vượt quá đích đến một chút cho an toàn. Khi đáp, chúng tôi nghiêng cánh và chúi xuống, điều này cho phép ta hạ dần độ cao và đáp xuống với độ lệch không đáng kể. Chúng tôi không bay trên Saratov mà cách thành phố khoảng 30 km, ở đó có mấy làng người gốc Đức sinh sống. Cư dân tại đấy đã bị trục xuất đi đâu không biết nhưng những ngôi làng này vẫn chưa bị ai chiếm dụng. Đó là nơi chúng tôi sống và học bay. Thảo nguyên Volga trải dài. Một nơi tuyệt vời để bay tàu lượn.

Sau đó tôi vượt qua khóa huấn luyện dành cho chỉ huy các nhóm biệt kích vu hồi: sử dụng thuốc nổ, đánh cận chiến, chống lại chó canh. Vâng, chúng tôi đeo găng tay, mặc áo khoác dày và chống lại lũ chó. Như mọi người khác, đến tháng Mười năm 1941 tôi gửi một lá đơn đề nghị được chuyển sang lái máy bay tiêm kích. Đơn được chấp nhận! Ngày 31 tháng 12 tôi được chuyển tới một học viện không quân tiêm kích. Ở đấy ngay lập tức chúng tôi được học lái các loại máy bay UT-1, UT-2, I-16. Sân bay Belyi Kliuch của chúng tôi cách thành phố Uianovsk 18 cây số, không xa dòng Volga. Một sân bay tuyệt vời, có tầm nhìn hạ cất cánh rất tốt.

À, tôi quên kể rằng vào tháng Mười tôi và anh bạn thân Boria Bezrukov, người đã cùng học phổ thông và chung câu lạc bộ hàng không với tôi, sau đó lại gặp nhau tại học viện Saratov, được lệnh phải chuyển thứ gì đó tới Maskva. Người ta đóng kiện, niêm phong - còn chúng tôi tới, ký nhận và chuyển đi. Rồi tôi và Boria quyết định, một cách cương quyết, rằng phải tìm cách ra mặt trận.

Chúng tôi xâm nhập tuyến đầu. Tìm cách có được mấy khẩu tiểu liên, học cách bắn chúng. Có mấy khẩu pháo 45mm triển khai gần chúng tôi, điều khiển bởi những tay lính cựu. Đó là những người thực sự có kinh nghiệm. Nhưng nhân viên mật vụ ở đấy làm việc cũng thật cừ. Họ nhận ra ngay chúng tôi là người lạ:

"Các anh là ai? Từ đâu tới?" Chúng tôi kể cho họ nghe tất cả.

"Các anh có giấy tờ gì?" Đấy là lúc tờ chứng nhận của câu lạc bộ hàng không và giấy tờ xác nhận công tác chuyển hàng của chúng tôi tới Maskva đã cứu chúng tôi thoát.

"Biến đi và không được quay lại!" Chúng tôi thu dọn và chuồn nhanh. May mắn quá giang xe cộ, chúng tôi quay lại Saratov và không ai phát hiện ra chuyến bỏ trốn của chúng tôi. Tất cả chuyện đó diễn ra trong không hơn một tuần, ít nhất là không ai chú ý tới. Nhưng tôi cũng được nhận huy chương "Vì đã bảo vệ Maskva". Sau khi tôi từ Saratov chuyển tới Ulianov thì Boria hy sinh. Khi chúng tôi bay tàu lượn đêm, có 8 người phải ngồi trong mỗi tàu lượn như những hành khách. Boria rất vui vì được ngồi trong vai hành khách. Chiếc tàu va chạm vào máy bay kéo, sợi cáp vướng vào cánh tàu và xé toạc nó. Tất cả mọi người trên tàu lượn đều thiệt mạng.

Chúng tôi bắt đầu được huấn luyện ở Ulianovsk, rồi một lệnh từ trên tới yêu cầu phải tái huấn luyện để bay máy bay cường kích IL-2.

A.D. Máy bay có được chuyển tới không?

Có. Họ đưa tới hơn 30 cái từ Kuibyshev.

Tôi tốt nghiệp Học viện Ulianovsk vào năm 1943. Sao lâu thế à? Là tôi may mắn đấy! Rất nhiều người chỉ tốt nghiệp sau khi chiến tranh kết thúc! Họ chỉ chọn những ai xuất sắc nhất, để có thể dạy chúng tôi ít nhất - lý do là không đủ xăng cho huấn luyện.

Vị trí khẩu đội phòng không 8.8cm PaK43 của Đức.
Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.
Rồi họ chuyển chúng tôi tới sân bay dự bị tại Diad'kov, nằm cách Dmitrov 18 km về phía Bắc. Tại đấy phi công được học các kỹ thuật chiến đấu - ném bom và xạ kích. Tất cả những khóa học ấy chỉ chiếm khoảng vài giờ bay. Khả năng không cho phép làm hơn. Một tuyển dụng viên từ mặt trận sẽ tới - và anh sẽ ra đi cùng anh ta. Zhora Parshin tới chỗ chúng tôi - anh ấy là một phi công Át! Một phi công cường kích mặt đất! Anh ấy đã hạ 10 máy bay trên một chiếc IL! Anh đã chiến đấu suốt từ đầu cho tận tới khi kết thúc chiến tranh. Một người tuyệt vời. Sau này tôi thường gặp lại anh ở Leningrad tại đại lộ Liteinyi. Còn khi anh ấy tiếp nhận chúng tôi là vào năm 1944. Chúng tôi được nhận vào trung đoàn Không quân Cường kích mặt đất 566. Đây là trung đoàn đầu tiên được nhận danh xưng Cận vệ - Solnechnogorsk. Nó đã chiến đấu ở đây, tại Maskva. Gần như tất cả mọi người đều hy sinh. Từ năm 1941 tại trận Maskva, chỉ còn Afonia Machnyi sống sót, thậm chí anh ấy đã bị mất trí nhớ sau khoảng năm chục phi vụ. Từ năm 1942 thì chỉ còn Leva Korchagin sống sót, từ 1943 thì còn được một nhúm, và cứ thế đấy. Trong suốt chiến tranh trung đoàn mất 105 phi công và 50 xạ thủ. Trong số 28 người chúng tôi tới sư đoàn thì 15 hy sinh. Mất mát như thế đó.

Tôi được đưa vào Phi đội 1 của Trung đoàn 566. Mykhlik làm phi đội trưởng. Sau này trở thành hai lần Anh hùng Liên Xô. Chúng tôi là dạng may mắn - đấy đang là thời kỳ yên tĩnh giữa hai chiến dịch nên có điều kiện để tiếp tục được huấn luyện, bay theo đội hình và bay tới một khu vực quy định. Chiến tranh tiếp diễn và chúng tôi bắt đầu tung hết sức chiến đấu trên bầu trời Baltics. Trung đoàn chúng tôi chiến đấu chủ yếu ở Phương diện quân Trung tâm và Phương diện quân Leningrad.

Chúng tôi chiến đấu trên máy bay IL-2. Chúng là loại máy bay tuyệt nhất vào thời đó! Mang được 600 kg bom, 8 quả tên lửa, 300 viên đạn 23mm cho 2 khẩu đại bác VIa và 3600 viên cho hai khẩu súng máy. Xạ thủ ngồi sau sử dụng một súng máy 12.7mm Berezin, 10 quả lựu đạn tầm xa DAG-10 cho máy bay để bảo vệ khoảng không tầm thấp phía sau. Nếu một máy bay Đức xuất hiện, anh chỉ cần ấn một cái nút, thế là một quả lựu đạn bung dù và nổ tung khoảng 150 m phía sau máy bay. Thêm vào đó còn có một khẩu súng máy bộ binh và lựu đạn cầm tay.

Một đợt đột kích vào vị trí tập trung xe cộ.
Ảnh chụp từ buồng lái máy bay IL-2.

A.D. Người ta nói máy bay IL-2 rất khó điều khiển?

Không. Không đúng hẳn. Máy bay tiêm kích I-16 thì đúng thế. Nhất là lúc hạ cánh.

A.D. Theo ông xạ thủ ngồi sau có tác dụng thế nào?

Xạ thủ phía sau là cần thiết. Hiệu quả của anh ta thì khỏi phải bàn!

A.D. Ông đã từng lái loại IL-2 bọc thép toàn thân chưa?

Đã từng. Tất cả các máy bay này đều được trang bị radio rất tốt. Nhược điểm duy nhất là chúng tôi phải ngồi ngay trên một thùng xăng: một thùng dưới ghế ngồi, một ở phía trước và một ở giữa tôi và xạ thủ. Chúng tôi ngồi trên một thùng xăng lớn.

Chúng tôi bắt đầu chiến đấu tại Baltics, vượt qua Prussia và kết thúc chiến tranh tại Wittenberg, nơi mà từ đó chúng tôi thực hiện những phi vụ tới Koenigsberg và thậm chí tận Danzig.

Chúng tôi bị bắn trúng đôi lần. Một viên đạn bắn trúng cánh máy bay trong phi vụ thứ hai mươi tám. Chúng tôi thoát được một cách kỳ diệu - cái lỗ đạn rộng tới khoảng một mét! Nếu bị trúng đạn, bạn có thể ngửi ngay thấy mùi kim loại cháy. Tôi ngửi thấy mùi đó. Quay đầu lại - thấy một cái lỗ toang hoác. Nhưng tôi đã gặp may - Sóng chấn động và mảnh của nó văng về phía người xạ thủ. Chân anh ta bị cắt nát. Hệ thống liên lạc bị cắt đứt. Chúng tôi hạ cánh ở Wittenberg. Tôi hạ cánh, tắt động cơ, nhảy ra cánh máy bay - người xạ thủ, Viktor Shakhaev, người Siberi, sinh năm 1926, đang nằm đó. Mọi người chạy tới chỗ chúng tôi, kéo anh ta ra. Vừa kịp để cứu chân của anh. Hóa ra tôi cũng bị thương. Một mảnh đạn sượt qua gáy. Nó xuyên qua chỗ nào nhỉ? Họ muốn đưa tôi tới bệnh viện nhưng tôi từ chối. Chiến tranh kết thúc với tôi tại Wittenberg. Tôi đã bay được 84 phi vụ.

Cuối tháng Năm năm 1945 họ chọn người trong các trung đoàn của sư đoàn chúng tôi để tham dự Lễ Diễu hành mừng Chiến thắng. Họ chọn những người cao 1 m 80 và gửi tới Koenigsberg để tập luyện. Tay trung sĩ của chúng tôi là một huấn luyện viên rất cừ. Đầu tháng Sáu chúng tôi được chuyển lên một chuyến xe lửa và hở tới Maskva. Tại đó chúng tôi được bố trí vào một tiểu đoàn hỗn hợp gồm các phi công của Phương diện quân Belorussia 3. Chỉ huy của chúng tôi là tướng Prutkov, sư đoàn trưởng sư đoàn Cận vệ Cường kích mặt đất Stalingrad số 1. Họ cho chúng tôi áo bay, giầy ủng và mũ. Đó là một không khí hạnh phúc, tuyệt vời. Chúng tôi sống ở doanh trại Chernyshevskie, gần Shabolovka. Chúng tôi đi chơi đâu à? VDNKh (Trung tâm Triển lãm Toàn Liên bang - LTD), gần cầu Crimea và một vài nơi khác. Khẩu phần Voroshilov đặc biệt trong bữa ăn, thậm chí có cả bánh mì trắng. Tôi cũng cần kể rằng thức ăn tại mặt trận cũng rất tuyệt. Lễ Diễu hành diễn ra ngày 24 tháng Sáu. Tôi cũng được dự tiệc mừng ở đấy.

IL-2 (có dấu mũi tên) đang thoát ra sau một đợt công kích.

A.D. Ông bay ở vị trí số 2 hay vị trí biên đội trưởng?

Ngoài mặt trận mọi người ban đầu đều phải bay ở vị trí số 2. Vasia Mykhlik cùng tôi bay khoảng 40 phi vụ. Rồi anh ấy tới Maskva để nhận Ngôi Sao vàng Anh hùng Liên Xô và chỉ quay lại vào cuối tháng Tư (năm 1945). Khi đó tôi đã là biên đội trưởng. Hai phi vụ cuối cùng tôi đã dẫn đầu tám chiếc - cả một phi đội. Đấy là ngày 8 tháng Năm. Phi vụ đầu vào lúc 10 giờ sáng, phi vụ thứ hai khoảng 2 giờ chiều. Tới bán đảo Zemland. Chúng tôi lượn trên mọi ngóc ngách của nó. Rồi trở về. Họ đã nạp xăng để chúng tôi bay tiếp phi vụ thứ ba. Chúng tôi lăn ra đường băng, sẵn sàng chờ lệnh. Bỗng tham mưu trưởng Nikolai Ivanovich Borkov chạy tới chỗ chúng tôi: "Ura, quay lại. Kết thúc rồi!" Chúng tôi tắt máy, vãi đạn lên trời để ăn mừng. Chiến tranh đã kết thúc! Và rồi tôi tiếp tục bay IL và MIG trong một thời gian dài.

A.D. Người ta nói cứ 7 xạ thủ bị giết mới có 1 phi công chết, điều này có đúng không?

Không. Để tôi giải thích cho anh. Chúng tôi có 105 phi công và 50 xạ thủ hy sinh, tại sao? Bởi trung đoàn chiến suốt từ đầu tới cuối chiến tranh. Nửa đầu trên loại máy bay IL một chỗ ngồi. Còn nửa sau trên loại hai chỗ ngồi. Trong hầu hết mọi trường hợp cả hai cùng hy sinh. Một phi công cường kích mặt đất, theo các số liệu được thống kê, thường bay khoảng 7 tới 8 phi vụ là chết. Con số thống kê là thế đó.

A.D. Ông có được yểm trợ bằng máy bay tiêm kích không?

Luôn luôn. Trong chiến dịch Prussian (Đông Phổ - LTD) chúng tôi thường được hộ tống bởi trung đoàn Normandie-Niemen.

A.D. Nhiệm vụ chiến đấu có được phân công rõ cho từng ngừơi trong phi đội không?

Điều này không cần thiết. Tùy theo mỗi phi vụ.

A.D. Ông thường tham gia loại phi vụ nào nhất?

Thường là ném bom các vị trí ở tuyến đầu. Có lần tôi phải đi bộ để trinh sát trước. Tay chỉ huy bộ binh bảo tôi: "Các anh không cần phải nổ súng. Chỉ cần bay tới xuất hiện ở đây. Thế là đủ rồi. Còn nếu các anh công kích, các anh sẽ luôn là các khách mời đặc biệt của chúng tôi!". Đánh đắm tàu thuyền đậu trong cảng, và có 4 lần công kích các sân bay địch. Đấy là một công việc đáng sợ! Chúng luôn được bảo vệ rất tốt. Công kích những nơi tập trung xe thiết giáp. Vâng, để chống lại các mục tiêu quân sự ấy, hàng trăm máy bay được tung ra, nhằm mục đích quét sạch mọi thứ khỏi mặt đất.

A.D. Cái gì nguy hiểm hơn, pháo phòng không hay tiêm kích đối phương?

Pháo phòng không. Tất nhiên vào thời kỳ đầu chiến tranh, đám tiêm kích thực sự đe dọa mạng sống các phi công cường kích mặt đất chúng tôi. Nhưng cuối chiến tranh là pháo phòng không. Đó thật là một công việc rùng rợn! Có đến hàng chục khẩu pháo phòng không cỡ nhỏ được bố trí và nã đạn vào cùng một mục tiêu. Và xung quanh là những cụm khói nhỏ màu đen từ những khẩu phòng không cỡ trung. Bạn phải bay mà không thể đoán trước khẩu nào sẽ ... bắn trúng mình. Tất nhiên chúng tôi cũng thực hiện phương án để chống phòng không.

Chúng tôi thường bay cách nhau từ 30 tới 50 m. Khi tới chiến tuyến chúng tôi dãn ra - khoảng cách là 150 m. Và đánh võng máy bay từ bên này qua bên kia. Rồi chúng tôi tạo thành một vòng tròn phía trên mục tiêu và bắt đầu ra tay. Có một ít tiêm kích yểm hộ phía trên. Công thức là thế đấy.

A.D. Ông thường phải thực hiện bao nhiêu bước thao tác?

Tùy theo hoàn cảnh. Có thể xảy ra tình huống bị phản công - khi đó thì lạy Chúa! Khi đó thì chỉ có một thao tác. Anh phải sử dụng mọi vũ khí ngay lập tức - tên lửa, đại bác, bom. Nếu hỏa lực bắn lên không mạnh lắm thì sử dụng làm 4 tới 6 lần. Sau đó người biên đội trưởng phải đủ khôn khéo, sao cho người bay số 2 có thể theo kịp. Chúng tôi tiếp cận mục tiêu theo đội hình, nếu thời tiết cho phép, ở độ cao 1200-1400m, và thoát đi sau khi tập hợp lại, cũng theo đội hình, ở cùng cao độ trên.

Một khẩu pháo tự hành Đức, có thể là loại StuG III.
Ảnh chụp từ buồng lái của IL-2.

A.D. Chỗ nào là điểm yếu nhất của IL-2?

Động cơ. Ở hai cánh thì ít nhiều gì cũng không sao. Nếu một thùng xăng bị trúng đạn thì cũng chưa đến nỗi tệ lắm. Sao thế nhỉ? Là vì khi tiếp cận mục tiêu, chúng tôi mở công tắc xả carbon dioxide từ hộp chứa vào đầy các khoảng trống trong các thùng nhiên liệu. Nếu một viên đạn xuyên qua thân và trúng thùng nhiên liệu, hóa chất tự hàn sẽ lấp kín lỗ thủng, xăng sẽ không thoát ra, và sẽ không có bốc hơi nhiên liệu, do đó không dẫn tới bốc cháy.

A.D. Tên lửa sử dụng có hiệu quả không?

Đó là loại tên lửa 82 mm. Tất nhiên, chúng tôi bắn chúng ở khu vực lân cận mục tiêu. Nhưng trên tuyến đầu thì các mục tiêu ở khắp nơi, binh lính và xe cộ tập trung với mật độ rất cao. Một chùm là hiệu quả nhất - một quả trượt thì chắc chắn quả khác sẽ trúng mục tiêu. Chúng tôi cũng dùng loại RS-132, nhưng chỉ đeo theo 2 quả. Trong trường hợp ấy chúng tôi đem ít bom hơn - chỉ 200 kg. Thường chúng tôi dùng loại RS-82, đôi khi tới 16 quả.

A.D. Máy bay của ông có lắp pháo 37 mm không?

Chúng ta có loại IL dùng pháo 37 mm, 40 viên đạn cho mỗi khẩu. Nhưng tôi không bay loại đó. Chúng không hiệu quả lắm.

A.D. Bộ binh Đức được bảo vệ hiệu quả không?

Chúng thường chỉ có một cách bảo vệ - tập trung các ụ pháo phòng không. Không chỉ một khẩu đội mà tập trung ở bốn cụm theo bốn góc. Đôi lúc tôi đếm được tới 40 khẩu - chúng bắn lên liên tục, không ngớt. Pháo phòng không cỡ nhỏ đặc biệt nguy hiểm.

A.D. Có bao giờ ông tấn công bổ nhào không?

Luôn luôn là công kích bổ nhào, từ khoảng 30 tới 40 độ. Anh sẽ không có đủ thời thời gian để sử dụng tất cả vũ khí nếu bổ nhào với một góc lớn hơn. 30 tới 40 độ - đó là góc cho phép sử dụng hết toàn bộ các loại vũ khí cùng một lúc.

A.D. Ông đã sử dụng loại bom diệt tăng lần nào chưa?

Có. Chúng tôi đã thực hiện khoảng 280 lần. Có cả loại bom 25 kg, 50 kg và 100 kg - 4 khoang chứa, sức chứa 600 kg. Chúng tôi thường trút bom từ độ cao trên1400-1500 m. Nếu trời có mây thì là 400-600 m, nhưng thường chúng tôi kết hợp với kíp nổ chậm.

A.D. Thường ông bay khoảng bao nhiêu phi vụ một ngày ?

Đôi khi là 3 ... nhưng có khi nhiều lắm. Nhiều lắm.

Nếu ai đó nói không sợ thì chắc chắn là nói dối. Cái khoảng khắc chờ đợi là lúc sợ nhất và khó chịu nhất. Ví dụ như họ có thể nói: "Lúc 14 giờ tại sân bay này". Anh ngồi đó: 14 giờ - chưa thấy gì, 14 giờ 30 - chưa thấy gì, 15 giờ - vẫn chưa có lệnh! Hay khi anh đang trong buồng lái, chờ một phi vụ đi phóng tên lửa, và mãi chẳng thấy. Chân cẳng bắt đầu run rẩy. Một nỗi sợ hãi thực sự bắt đầu trỗi dậy. Sau cùng là không gì bảo đảm anh không bị bắn hạ trong khi thực hiện phi vụ. Nhưng khi một quả tên lửa bắn vào không trung, đầu anh bắt đầu tập trung theo nhiều hướng khác nhau và nỗi sợ sẽ dần dần biến mất. Kế đó là một cảm giác khó chịu xuất hiện khi anh tiếp cận mục tiêu nhưng không thể tấn công ngay lập tức. Chúng sẽ có thời gian chuẩn bị và bắn trả. Khi bắt đầu tấn công thì, người phi công khởi sự công việc, dõi tìm mục tiêu, nhấn cò, phóng tên lửa, nã súng máy, pháo, nhấn nút ASSh-41 (Nút thả bom khẩn cấp. Bom sẽ thả ngay khi buông nút ra, hay nếu anh muốn thả đồng loạt tất cả bom thì cũng nhấn nút ấy).

A.D. Làm cách nào xác định hiệu quả oanh kích của một phi vụ?

Mỗi người đều có một máy camera gắn theo khẩu pháo, nó làm việc khi anh đang khai hỏa. Nếu anh bắn cháy một cái xe, nó sẽ ghi lại. Nếu anh bắn một chiếc tăng, nó cũng sẽ ghi lại. Thêm vào đó, các xạ thủ ngồi sau trang bị những camera quay góc rộng. Thường luôn có hai người như thế trong mỗi nhóm. Chúng quay được một vùng rộng, và sau khi hạ cánh chúng tôi đem phim đi tráng. Thêm nữa, khi tiến tới chiến tuyến chúng tôi thiết lập liên lạc với một người quan sát, thường là một đại diện của sư đoàn không quân. Chúng tôi có thể nhận rõ giọng nói của anh ta. Anh ta sẽ thông báo cho chúng tôi: "Các bạn, qua phải một chút. Tốt". Anh ta cho chúng tôi lệnh tấn cong. Thông báo điểm bom rơi. Bước thứ hai là xác nhận kết quả. Sự xác nhận của anh ta được ghi lại để công nhận chính thức.

A.D. Và ông làm thế nào để giúp các phi công mới hòa nhập?

Cũng thường thôi. Sau khi tốt nghiệp các phi công được đưa tới các trung đoàn dự bị. Ném bom và oanh kích các mục tiêu mặt đất bằng pháo và súng máy. Rồi một người tuyển dụng sẽ tới. Chúng tôi sẽ phải luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

A.D. Còn khi ở trung đoàn chiến đấu?

Sau khi trải qua thủ tục trên, chúng tôi được chuyển tới trung đoàn và bố trí vào một phi đội. Phi đội trưởng sẽ bay với từng người, trắc nghiệm thử thách mức độ sẵn sàng của từng cá nhân, và chọn ra người sẽ bay số 2 với mình. Tôi đã ngay lập tức được chọn bay chung với phi đội trưởng. Tôi chỉ bay chung với anh ấy. Tôi yêu bay lượn và hầu như đã được chọn ngay từ đầu.

A.D. Trong đơn vị của ông có chiếc IL-10 nào không?

Tất nhiên. Nhưng chỉ sau chiến tranh. Chất lượng của chúng cũng thế. Cùng trọng lượng, xạ thủ, chỉ huy, phi công. Cấu trúc thì phức tạp hơn. Diện tích cánh nhỏ hơn một chút. Vũ khí tương tự. Hai khẩu pháo và hai súng máy. Tầm bắn có khác chút xíu. Nhưng hầu như là giống IL-2.

A.D. Có khi nào ông bắn phải đồng đội không?

Chỗ chúng tôi có một phi công Hai lần Anh hùng Liên Xô Len'ka (Leonid) Beda, chúng tôi đã cùng học với nhau. Một con người cẩu thả. Dù sao chúng ta cũng không nên nói xấu về người đã khuất. Có lần một vị tướng tới, chúng tôi được lệnh tập hợp. Vị tướng chú ý tới anh ta:

"Họ?"

"Beda" ("Beda", trong tiếng Nga có nghĩa là "tai họa" - LTD.)

"Tôi đang hỏi họ của anh là gì!"

"Beda, thưa đồng chí chỉ huy!"

Len'ka đã giết lầm 118 người vào cuối chiến tranh. Đó không phải là lỗi của anh ta, họ đã ra lệnh cho anh trước khi bay: "Hãy ném bom mục tiêu đó ". Nhưng trước khi đó anh ta phải bay tới mục tiêu đã. Có lẽ mất khoảng 30 phút. Khi họ bay tới, tình hình đã thay đổi. Quân ta đã chiếm được nơi đó, nhưng không ai thông báo cho anh ta. Phi đội oanh tạc mục tiêu - 118 người chết. Anh ta trở về, họ tước huân chương của anh, nhưng ngay lập tức điều tra và trả lại chúng. Sau này anh ta trở thành Tư lệnh Không quân Quân khu Belorussia.

A.D. Đã khi nào ông phải đối đầu với máy bay địch không?
Tôi chưa lần nào tham gia không chiến, nhưng xạ thủ phía sau cũng không khi nào phải ngồi chơi - sau khi rút khỏi một đợt công kích anh ta nã đạn vào các mục tiêu trên mặt đất.

A.D. Có trường hợp hèn nhát lung lạc nào không?

Chỉ một vài trường hợp đơn lẻ xảy ra. Có lần, khi tay N. đang dẫn đầu một phi đội lớn, khoảng 20 máy bay, anh ta rút lui trước khi tới được mục tiêu và đưa toàn bộ phi đội về sân bay. Ra tòa án binh. Chịu bảy năm tù. Nhưng sau đó anh ta chiến đấu tốt - được 4 Huân chương Cờ đỏ. Cũng có những kẻ ranh mãnh. Một số ít thôi, nhưng có. Hắn vẫn tìm cách giữ độ cao. Chúng tôi thì bay, còn hắn cứ lơ lửng ở trên, rồi hạ xuống độ cao 1000 m, thả bom và nhập vào phi đội. Nhưng chúng tôi thấy hết mọi điều.

A.D. Các ông có nện hắn ta không?

Chỉ cảnh cáo hắn. Bảo hắn là: "Sasha, anh mà còn làm thế lần nữa, chúng tôi sẽ bắn hạ anh". Hắn đã phá vỡ sự phối hợp của chúng tôi ! Chúng tôi bay ở cao độ 600 m, hắn lại ngóc đầu lên nên cao độ trở thành 1200 m. Sự phối hợp bị đứt đoạn. Lời cảnh cáo được thực hiện.

A.D. Có hiện diện một phi đội cường kích mặt đất trừng giới nào không?

Không. Họ gửi các sĩ quan phạm lỗi tới chỗ chúng tôi, không nhất thiết phải là phi công. Họ sẽ phải bay 10 phi vụ với nhiệm vụ xạ thủ súng máy.

A.D. Cái gì giúp xem xét kết quả một phi vụ chiến đấu?

Chỉ có cách ném bom mục tiêu địch với các tấm ảnh minh chứng.

A.D. Các ông có khi nào bị rơi máy bay do lỗi kỹ thuật không?

Các kỹ thuật viên làm việc rất tốt. Nếu một máy bay không trở về do lỗi kỹ thuật thì phải có điều gì đó khá nghiêm trọng xảy ra. Tất cả những chuyện đó sẽ được điều tra cẩn thận.

A.D. Ông có áp dụng chiến thuật đặc biệt nào không?

Có. Anh thực hiện xong bước một, rồi tới bước thứ hai, và họ sẽ thông báo từ mặt đất: "Hãy chờ một lát, để cho bộ binh xông lên, chúng tôi sẽ thông báo cho các anh vị trí mục tiêu kế tiếp". Thế là chúng tôi dừng lại trên bầu trời, còn họ thông báo mục tiêu kế tiếp dựa trên các thông tin từ vị trí quan trắc tiền tiêu.

A.D. Các ông có thực hiện phi vụ trong khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch không?

Những hoạt động căng thẳng nhất diễn ra trong thời gian thực hiện các chiến dịch. Những lúc như thế chúng tôi phải bay rất nhiều, nhưng chỉ khi nào được yêu cầu, và đã có các chuẩn bị tương ứng. Tổ lái và trang thiết bị phải được chuẩn bị kỹ. Trong những khoảng thời gian tạm dừng chiến dịch chúng tôi cũng bay. Để thực hiện các nhiệm vụ chiến thuật. Tất nhiên là với lực lượng nhỏ hơn. Chúng tôi thường được gửi đi hỗ trợ cho bộ binh hay để tiêu diệt những đội hình hành quân của địch. Ví dụ như Pokryshkin bay hơn 500 phi vụ, tham gia 84 trận không chiến. Anh ta đã bắn hạ 59 máy bay. Tôi cũng đã tham gia 84 phi vụ chiến đấu. Thế nhưng nếu bạn chuyển hiệu quả tác chiến của tôi thành tiền thì tôi chắc chắn cũng không hề thua kém anh ta. Tôi có thể khẳng định điều này. Tất nhiên là đôi tay các phi công cường kích mặt đất luôn ngập máu đến tận khuỷu. Nhưng đấy là nhiệm vụ của chúng tôi, và tôi cho rằng chúng tôi đã làm việc rất hiệu quả. Chúng tôi đã phải làm mọi việc trên đời. Vâng, và Chúa hẳn không chỉ đơn giản ban cho chúng tôi những "cây thập giá".

Phỏng vấn: Artem Drabkin
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA PHI CÔNG
Vyacheslav Ivanov

(Ông sinh năm 1921. Là thiếu úy hoa tiêu trên máy bay U-2 thuộc Phi đoàn 387 NBAP. Lần đầu tham gia chiến đấu vào tháng Sáu năm 1943, tại Phương diện quân Bryansk, ông thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đêm đầu tiên vào đầu chiến dịch Orel-Kursk, giải phóng Orel. Tại đây, nhờ đã hoàn thành 30 phi vụ chiến đấu, ông được trao tặng Huân chương Sao Đỏ, và vào ngày mùng 9 tháng Tám năm 1943, trong khi thực hiện phi vụ thứ 37, máy bay của ông bị bắn rơi trên bầu trời thị trấn Karachev, phụ cận Bryansk. Đầu tháng Giêng năm 1944 ông tham gia chiến đấu trong thành phần Ban tham mưu Phi đoàn 715 NBAP thuộc Phương diện quân Ukraina 1. Tổng cộng, ông đã thực hiện 99 phi vụ chiến đấu. Trung đoàn ông cũng thực hiện rất nhiều phi vụ bay ngày bằng máy bay U-2 khi họ ném bom lực lượng Đức bị bao vây trong khu vực thị trấn Chertkov (phía Nam Ternopol). Phi đoàn 715 NBAP cũng đã ném bom một cây cầu bắc ngang sông Dnestr trong khu vực thị trấn Kamenets-Podol'sk. Do những chiến công đó, Phi đoàn 715 NBAP đã được nhận danh xưng Cận vệ "Kamenets-Podol'skiy".

Cuối năm 1944 ông được chuyển tới 600 VTAP ON (Trung đoàn Vận tải đường không thực hiện Nhiệm vụ đặc biệt), thuộc Bộ Tổng Tư lệnh. Tại đây ông đã bay các loại máy bay Shche-2, Yak-6, Li-2 và (sau chiến tranh) Il-12. Tổng cộng ông đã thực hiện khoảng 3000 giờ bay. Năm 1956, do mắc bệnh thận, ông chuyển sang công tác dưới mặt đất. Sau đó ông tiếp tục phục vụ trong VVS (Không quân Liên Xô) cho tới tháng Chạp năm 1971, khi ông về hưu với chức vụ Tham mưu trưởng Đoàn Không quân 229 VTAP ON/4 AD ON.

Ông đã được tặng ba Huân chương Sao Đỏ, một Huân chương Vệ quốc và 17 huy chương các loại.)

"Chuyện đó xảy ra vào mùng 9 tháng Tám năm 1943. Chúng tôi bay đi ném bom một nhà ga đường sắt. Pháo phòng không bắn lên dữ dội và, theo tôi nghĩ, tiêm kích Đức cũng có mặt. Tôi không biết chính xác thứ gì bắn hạ chúng tôi, nhưng máy bay tôi bốc cháy và bắt đầu rơi. Chúng tôi rơi xuống gần khu vực ga đường sắt Karachev. Tôi và trung úy phi công Pavel Radenko chui khỏi cái máy bay giờ đang cắm mũi xuống đất. Chúng tôi hỏi nhau tình hình thương tích và, sau khi đã chắc chắn là chúng không có gì nguy hiểm, chúng tôi quyết định rời khỏi nơi máy bay rơi. Nhưng trước tiên chúng tôi phải cởi áo bay. Anh ấy cởi áo thật nhanh và bắt đầu giục giã tôi. Nhưng tôi vẫn còn loay hoay với cái áo của mình, rồi lại tìm túi cứu hộ và tháo lấy la bàn, rồi mới trườn ra để đuổi theo anh ta. Lúc này trời đã tối, tôi không thể đuổi kịp. Tất cả nỗ lực của tôi để tìm người chỉ huy trong đêm tối đều thất bại. Tôi đi mãi tới khi gặp một nhà ga xe lửa. Tôi định băng qua dải đường sắt về phía Bắc, nơi có một cánh rừng, nhưng ý định đó thất bại khi tôi kịp phát hiện một nhóm gác đang tuần tra trên đường. Một lần nữa tôi lại bắt đầu đi tìm dấu vết chỉ huy của mình. Chủ yếu tôi bò trườn sát đất do sợ gây chú ý cho những người mà chốc chốc tôi lại nghe thấy tiếng trò chuyện. Bọn họ nói với nhau bằng tiếng Đức. Tôi trườn mãi tới khi nhận thấy có người đang tiến thẳng lại gần mình. Chờ hắn tới thật gần, tôi bật nhanh dậy và hỏi rất to tên của hắn. Hắn trả lời bằng tiếng Đức: "Halt". Thế là tôi bắn thẳng vào hắn và vội quay lại chạy vọt đi. Trời bắt đầu sáng và tôi ẩn mình vào đám cỏ cao mọc trong cái rãnh ven đường. Tôi ở đấy trong suốt ngày đầu tiên. Một chiếc môtô ba bánh chở một xạ thủ trung liên và một tên lính nữa ngồi sau thằng lái chạy qua con đường. Chúng cứ chạy đi chạy lại như thế mấy lần nên tôi phải nằm chờ đến khi trời tối hẳn. Đêm tới, tôi chui khỏi cái rãnh, thận trọng lảng xa thị trấn ấy và đi về phía đông, định hướng nhờ cái la bàn. Chiến tuyến hiện ở gần khu vực ga đường sắt Naryshkino, cách thị trấn Karachev 50 km và cách Orel khoảng 30 km. Tôi biết lúc này Orel đã được giải phóng và quân đội ta đang tiến quân về Bryansk. Do đó, tôi đi về hướng mặt trận với hy vọng vượt chiến tuyến về phía quân ta.

Máy bay PO-2 của Phi đoàn 668 BAP.

Tôi bước gần miệng của một cái hố lớn - đó là cái hố tạo ra bởi vụ nổ của một quả bom hạng nặng. Tôi quyết định dừng lại đây để chờ cho hết ngày thứ hai. Suốt đêm lẫn ngày của hôm đầu tiên mưa rơi rả rích nên giờ đây, nằm trong cái hố, tôi phơi người dưới nắng để hong cho khô và cố chợp mắt một chút. Tôi thức dậy do một cú chạm nhẹ và, hé mắt ra đôi chút, tôi thấy một người mặc quân phục Đức đứng ở miệng hố. Sau một thoáng, tôi hiểu là hắn đang ném đá vào người mình, do đó tôi phải cố giữ im lặng không động đậy. Thế rồi, qua khoé mắt, tôi thấy hắn đi tìm một hòn đá lớn và cố lăng nó vào tôi. Tôi nhắm chặt mắt lại và tự nhủ rằng, dù chuyện gì xảy ra đi nữa tôi cũng cố giữ cho người bất động. Hòn đá, may thay chỉ là một tảng đất pha cát, vỡ vụn ra sau khi trúng vào đầu tôi. Tôi chờ một chút, khi đám đất cát vụn tuôn qua mặt, mở hé mắt và nhận thấy tên Đức phẩy tay rồi bỏ đi.

Tôi vẫn ở lại trong cái hố thêm một lúc. Chờ tới khi trời tối, tôi rời hố bom và tiến xa hơn về hướng đông. Tôi tới được một cánh đồng lúa mì đã gặt, tuốt lấy vài bông bỏ vào túi, cảm thấy mừng vì vẫn tìm được chút gì đó để nhai. Tôi ở lại cánh đồng ấy trong ngày thứ ba. Vẫn còn vài bông lúa trong túi. Đêm đã đến và tôi một lần nữa lại tiếp tục tiến về hướng đông.

Rạng sáng ngày thứ tư, tôi lần được tới chỗ có những đống rơm khô. Vùi mình vào một trong những đống rơm đó, tôi lăn ra ngủ. Tôi bị đánh thức bởi tiếng đạn nổ trong khu vực ấy, bắn ra từ hướng quân ta. Tôi kết luận có lẽ mặt trận đang ở gần và tôi đã không lầm. Đã là cuối ngày thứ tư. Tới đêm, tôi chui khỏi đống rơm và quyết định trườn đi kiểm tra xem có gì ở phía trước mặt. Hóa ra, tôi đã tới được ngay mặt trận. Các chiến hào xuất hiện rất gần và tôi đã có thể quan sát rõ đám người và một chiếc xe ngựa đang di chuyển về hướng tây. Ngày thứ năm bắt đầu. Ngay lập tức, tôi nhận ra mình đang ở giữa mặt trận. Trong đụn rơm nơi tôi ẩn nấp, tôi nghe được một cuộc trao đổi bằng tiếng Đức và thấy có hai người đang tiến về phía mình. Chúng lại gần và bắt đầu lấy rơm ở ngay chỗ đầu tôi, một tên trong chúng đè lên vai tôi. Ôi, tôi nghĩ, thế là hết ... Tôi nắm chặt khẩu súng lục trong tay và sắn sàng nổ súng nếu chúng phát hiện ra. Điều đó nghe có vẻ ngốc nghếch, nhưng lúc đó tôi đã thực sự nghĩ như thế và đã sẵn sàng thực hiện... Bọn Đức lấy rơm khô và quay đi, nhưng tôi lại nghe và thấy chúng một lần nữa quay trở lại. Chúng bỏ đi sau khi lấy đủ rơm. Với tôi một lần nữa mọi chuyện lại kết thúc tốt đẹp: chúng chỉ đến lấy rơm để lót vào chiến hào. Tôi cẩn thận nằm lại chờ tới khi trời tối. Rồi tôi chui ra, uống no nước trong một vũng lầy, nhai nốt chỗ lúa mì còn lại và quyết dịnh nằm chờ tới lúc trời sáng bên đống rơm. Rạng sáng ngày thứ sáu của chuyến hành trình giữa hậu phương quân Đức, tôi nghe có những tiếng trò chuyện và la hét ồn ào bằng tiếng Nga. Tôi nhận ra một toán rất đông binh lính có vũ trang đang tiến về phía tây, ngang qua chỗ tôi. Ngay lúc ấy, về phía dải đường sắt chạy bên trái tôi, tôi thấy có nhiều người đang bước thẳng lưng. Tôi đã gặp đám lính bộ binh của Kapitan, trung đoàn trưởng một trung đoàn công nhân Tula, theo lời anh ấy nói.

Đấy là ngày 15 tháng Tám năm 1943. Tổng cộng tôi đã đi được 7 cây số kể từ thị trấn Karachev. Đêm và ngày 16 tháng Tám, tôi nghỉ tại một điểm đóng quân, nơi vào ban đêm tôi nghe thấy tiếng những xã trưởng bị bắt, do trước đó đã cộng tác với quân Đức, đang bị thẩm vấn.

Tới sáng, sau khi nhận được một túi nhỏ chứa bánh mì khô và một hộp thịt, tôi quá giang một xe tải để tới thị trấn Orel, 7 cây số cách cái sân bay mà từ đó tôi đã cất cánh ngày 9 tháng Tám năm 1943.

Tại Orel tôi gặp một chuyên viên mặc quân phục không quân cư xử rất lịch sự, nhưng đó chính là một sỹ quan "Smersh" và quá trình thẩm tra tôi bắt đầu. Thật khổ cho bất cứ ai sống ở thị trấn này. Đơn giản là tay chuyên viên đó từ chối tin việc tôi là phi công thuộc sân bay đóng tại khu vực ga xe lửa Stish. Đã ba lần họ lôi tôi ra sau một đống rác nhỏ, để làm gì không hiểu? ... Tới tận bây giờ, tôi vẫn không thể trả lời chắc chắn cho câu hỏi đó. Mỗi lần tới sau đống rác, họ, lần lượt người này kế tiếp người kia, và cuối cùng là bốn người một lúc, cố gắng bắt tôi kể tên thư ký của nhóm sinh hoạt Đoàn Thanh niên Komsomol đầu tiên mà tôi từng tham gia. Nhưng làm sao tôi nhớ nổi cái tên đó, nhất là trong tình huống thế này? Trong suốt thời gian diễn ra câu chuyện khó chịu đó, tôi vẫn giữ được cái thẻ Đoàn và tất nhiên là chìa nó ra cho đám "Cận vệ" đầây tinh thần cảnh giác kia. Sau khoảng ba tiếng đồng hồ, sức kiên nhẫn của tôi đã cạn và tôi buông ra những từ ngữ gay gắt để bộc lộ sự căm phẫn về cách cư xử quái gở của họ. Tôi bảo họ rằng sân bay chúng tôi chỉ nằm cách ga Stish (tức làng Mikhailovka) có 7 cây số, hãy tới đó mà kiểm tra và, nếu thấy tôi sai thì cứ việc đem tôi ra làm bất cứ điều gì họ muốn. Sau khi nghe tôi nói thế, họ đề nghị tôi bình tĩnh lại và bỏ tôi một mình trong phòng. Nửa tiếng sau, một nhân vật hoàn toàn mới bước vào, bảo tôi cầm theo cái túi đựng bánh khô của mình và chờ một chiếc xe tải sắp khởi hành để tôi quá giang về hướng ga Stish. Lúc này trời đã gần về chiều, chúng tôi bắt đầu lên đường. Chúng tôi rời thị trấn và chiếc xe dừng lại. Không gian xung quanh chúng tôi im ắng không một tiếng động. Tôi được yêu cầu phải xuống xe. Rồi tôi được chỉ cho phương hướng cần đi. Tôi rời chiếc xe và đi theo hướng được chỉ. Tôi tự ra lệnh cho bản thân tuyệt đối không được quay lại nhìn. Lúc đó trong đầu tôi tràn ngập những ý nghĩ trái ngược, thậm chí là những ý nghĩ cực đoan nhất, nhưng tôi chẳng làm gì khác được. Chờ một lúc khá lâu, tôi từ từ ngoái đầu lại. Chiếc xe tải đã đi một quãng xa và tôi không thấy dấu hiệu gì đe dọa nữa. Thở phào nhẹ nhõm, tôi bước nhanh theo hướng đã được chỉ. Mau chóng, tôi đón được một chiếc xe cho tôi quá giang tới tận nơi sân bay chúng tôi. May mắn cho tôi, đấy cũng chính là lúc chiếc xe cuối cùng ở đó khởi hành để tới vị trí đóng quân mới của Phi đoàn 387 NBAP chúng tôi. Ngay buổi chiều cùng ngày, trong vòng tay anh em đồng chí cùng trung đoàn, tôi thuật lại cho họ về những gian nan vất vả của mình. Tôi được cấp một kỳ phép hàng tháng theo quy định của đơn vị. Khoảng 10 ngày sau, thị trấn Karachev được giải phóng và chúng tôi, dẫn đầu bởi các kỹ thuật viên trung đoàn, mang theo cuốn nhật ký làm việc của sân bay, tiến vào Karachev. Tại đấy tôi mau chóng tìm ra chiếc máy bay của mình. Nó đã cháy rụi hoàn toàn. So sánh số serie máy với các ghi chép trong nhật ký hành trình, chúng tôi đã xác định đó đúng là máy bay của mình.

Số phận chỉ huy của tôi, trung úy Pavel Rodenko, chỉ được xác định vào năm 1946. Vào đêm ấy, một ông lão đã gặp anh và đưa anh về, giấu anh vào một hầm chứa. Nhưng tay xã trưởng ở đấy biết được và báo cho bọn Đức đến giết anh. Sau này, khi quân đội ta giải phóng Karachev, một tháp tưởng niệm vong hồn anh đã được dựng lên tại thị trấn đấy.

Lyubertsy
09.09.2000
Người phỏng vấn: Artem Drabkin.
Dịch từ tiếng Anh: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA PHI CÔNG
ARKHIPENKO FYODOR FYODOROVICH

Arkhipenko, Fyodor Fyodorovich. Anh hùng Liên Xô, một trong những phi công Át Xôviết hạ được nhiều địch nhất. Trong Thế chiến thứ hai, ông đã bay 467 phi vụ, không chiến 92 trận và bắn hạ 44 máy bay địch. Tham gia chiến đấu từ tháng Sáu năm 1941 cho tới tháng Năm 1945. Cùng sát cánh chiến đấu với các phi công Át huyền thọai của Xôviết A.I.Pokryshkin, I.N.Kozhedub và N.D.Gulayev .

Ông bắt đầu bị máy bay ám ảnh từ khi nào?

Khỏang năm lên sáu, khi ấy tôi nhìn thấy hai phi công, mình mặc bộ áo bay liền quần và đi ủng lông, ngay sau khi họ phải hạ cánh khẩn cấp ở gần làng tôi tại Byelorussia. Được thông tin và dẫn dắt bởi Komsomol - Đòan Thanh niên Cộng sản - tôi tốt nghiệp trường hàng không thanh niên mùa hè năm 1938 và tiếp theo là trường dạy lái quân sự mùa thu năm 1939. Cả hai trường này đều nằm tại Bobruisk, Byelorussia. Được cấp chứng nhận là phi công chiến đấu và thăng lon thượng úy, tôi nhận nhiệm vụ tại một sân bay gần Kovel, vùng Tây Bắc Ukraina.

Sân bay của ông lọt thỏm trong vùng biên giới. Vậy đơn vị không quân của ông có chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh không? Chiến tranh bùng nổ ngày 22 tháng Sáu có diễn ra một cách bất ngờ không?

Vào tháng Tư và tháng Năm, các máy bay trinh sát Đức đã chụp ảnh sân bay chúng tôi từ độ cao 6 đến 7 ngàn mét. Căn cứ chúng tôi đang thi công một dải đường băng bê tông để phục vụ công tác chuẩn bị cho chiến tranh. Tới khỏang ngày 10 tháng Sáu, chúng tôi bố trí các máy bay của mình rải rộng ra trong chu vi sân bay và cẩn thận ngụy trang chúng bằng cành lá. Không may thay, chúng tôi không có pháo phòng không. Việc thông tin liên lạc rất kém, và trong ngày 22 tháng Sáu, bản thân căn cứ này đã hòan tòan bị cô lập.
Xin hãy kể lại ngày tham chiến đầu tiên của ông

Chúng tôi tham chiến cùng với bộ đội biên phòng từ 4h25 sáng ngày 22 tháng Sáu. Hôm đó là Chủ nhật. Hầu hết các phi công và kỹ thuật viên đang ở cùng gia đình của mình. Hôm ấy tôi đang lãnh trách nhiệm trực nhật. Thời tiết rất tốt, bầu trời trong xanh không chê vào đâu được. Vừa chui ra khỏi hầm trú ẩn, tôi chợt trông thấy khỏang 60 máy bay ném bom Đức đang tới gần. Rất nhiều máy bay của ta bị trúng đạn và bốc cháy. Đứng trong đài chỉ huy, tôi nhào xuống sàn nhà cứ mỗi lần có tiếng nổ để tránh bị trúng mảnh bom. Từ một chiếc ném bom Đức bay thấp, tôi nhận thấy có một thành viên tổ lái có mái tóc dài uốn xoăn dưới chiếc mũ trùm đầu. Lúc đó tôi nghĩ đấy là một cô gái. Về sau tôi mới hiểu đó là một kiểu tóc Phương tay chưa được du nhập vào Liên Xô. Trong suốt thời gian cho tới trước giữa trưa, sân bay chúng tôi đã phải chịu tới bốn đợt ném bom của quân Đức.
Tới giữa buổi sáng thì vị quyền sư đòan trưởng xuất hiện. Đó là Anh hùng Liên Xô, đại tá Lakeyev. Trong suốt đợt ném bom thứ ba của bọn Đức, ông nắm chặt cái micro và hét to mệnh lệnh cho một trung đòan tiêm kích ở Zhitomir bay tới cứu chúng tôi. Ở bên cạnh ông, tôi đã tìm cách chế ngự được nỗi sợ hãi của bản thân.

Ông có thực hiện phi vụ trong ngày chiến tranh nổ ra không?

Vâng, tôi có. Cùng với ba chiếc tiêm kính từ Trung đòan Không quân Zhitomir, tôi bay dọc chiều dài biên giới từ Brest thuộc Byelorussia cho tới phía Tây Lvov ở Ukraina. Tất cả các thị trấn và làng mạc dọc biên giới với Ba Lan đều bốc cháy rừng rực. Thật kinh khủng. Trông như một dòng Volga rực lửa. Tại phía Tây Vladimir-Volynski, chúng tôi gặp phải một hỏa điểm phòng không dày đặc của địch. Khắp nơi chằng chịt những quả cầu khói đen. Ban đầu tôi không nhận ra đó là gì. Khi trở về sân bay, đồng đội cho tôi hay đó là đạn phòng không nổ. Từ đó về sau, tôi rất cẩn thận tìm cách tránh những cuộc chạm trán tương tự như vậy.

Sân bay của ông bị thiệt hại bao nhiêu máy bay?

Tới cuối ngày thứ ba, chúng tôi đã mất khỏang 170 máy bay. Chỉ còn lại 8 chiếc. Có rất nhiều phi công không còn máy bay. Sân bay đã gần như bị bao vây. Cả 8 chiếc còn bay được đều bay về Rovno. Những phi công không có máy bay đi xe tải tới Zhitomir, tại đấy các chỉ huy cao cấp tổ chức một điểm tập kết các phi công và máy bay còn sống sót từ khu vực biên giới.

Ông có chứng kiến thiệt hại trong chiến tranh của ta không?

Có. Việc lực lượng Xôviết bị bao vây quanh Kiev là giai đọan bi kịch nhất trong suốt cuộc chiến tranh. Phía Xôviết mất khỏang một triệu rưởi binh lính trong trận ấy. Vòng vây có hai vành đai, thóat ra khỏi đó gần như là không thể. Trung đòan tôi cũng bị bao vây và không có xăng bay. Máy bay và xe tăng địch tiến tới nghiền nát mọi thứ trên sân bay chúng tôi. Các đường băng lỗ chỗ những hố bom đạn, và chỉ vài chiếc máy bay của ta tìm cách bay thóat được an tòan. Một kỹ sư quấn lá cờ trung đòan quanh mình và đưa được nó đi thóat. Điều này cứu cho trung đòan khỏi bị giải thể. Mọi chuyện là một thảm họa thực sự! Tôi may mắn có mặt tại phía an tòan của sân bay và những người lính bộ rút lui đã đưa tôi theo cùng một chiếc xe tải sắp khởi hành. Lại một lần nữa, có quá nhiều phi công không còn máy bay. Chúng tôi đã quá giang xe tới Poltava và rồi tới được Kharkov.

Ông đã bay trên 450 phi vụ chiến đấu. Phi vụ đầu tiên là tại Ukraina ngày 22 tháng Sáu năm 1941, và phi vụ cuối cùng là gần Berlin vào mùa xuân năm 1945. Vậy phi vụ nào là đáng nhớ nhất? Ông có thường gặp phải tình huống khẩn cấp không?

Tôi vẫn nhớ một cách rõ ràng sống động nhất từng phi vụ của mình tới mức có thể vẽ lại các bức tranh về chúng. Tình huống khẩn cấp xảy ra rất nhiều và thường xuyên. Một lần trong phi vụ đi chặn ba chiếc ném bom Heinkel-111 tại một sân bay gần Kiev, máy bay của tôi đột nhiên bị trục trặc động cơ và phát cháy. Chẳng bao lâu sau khi tôi hạ cánh khẩn cấp, đạn dược trong máy bay phát nổ bắn ra tung tóe khắp nơi. Trong lúc vội vã tìm chỗ ẩn nấp, chắc tôi đã phá kỷ lục thế giới về chạy nước rút. Nỗi sợ hãi vẫn còn trong mỗi đường gân thớ thịt của tôi cho tới tận ngày nay. Nói chung, tôi đã bị tới ba lần động cơ bốc cháy khi đang bay. Trong một phi vụ hộ tống các máy bay ném bom Sukhoi-2 ban ngày, máy bay của tôi tự nhiên rơi mất mấy mảnh. Động cơ bị chết, cánh quạt dừng lại. Kiểm tra máy bay sau khi hạ cánh khẩn cấp, tôi nhận ra rằng bộ hộp số đã rơi mất. Khi tôi sờ tới cái cánh quạt, nó rời ra và rơi xuống mặt đất.

Một số lần hạ cánh khẩn cấp của tôi diễn ra trên vùng đất do địch kiểm sóat. Ngày 15 tháng Mười 1942, tôi và chỉ huy của mình hồi đó là Nikolai Savin - một anh chàng người Maskva đẹp trai và dũng cảm, kẻ khi chọc gái có thể dễ dàng bay trên một cây chổi - cất cánh từ một sân bay gần Oboyan nằm kề Belgorod trong một phi vụ yểm trợ một tuyến sơ tán đường sắt của quân đội Xôviết. Chúng tôi phát hiện một đòan công voa của bọn Đức và tấn công nó. Trong phi vụ kế tiếp cùng ngày, máy bay của Nikolai trúng đạn và bốc cháy. Nikolai nhanh chóng hạ cánh và vẫy tôi từ dưới đất xin giải cứu. Tôi thử tìm cách đáp xuống, nhưng bộ bánh đáp đã gẫy gục sau 150 mét chạy hạ cánh. Chúng tôi chạy tới khu rừng gần nhất và lê bước suốt 10 ngày về phía đông trước khi tới được khu vực do quân đội Xôviết kiểm sóat. Nhớ lại lời khuyên của các đồng đội đã từng thóat được khỏi vòng vây dày đặc quanh Kiev, chúng tôi đổi quân phục của mình cho dân địa phương lấy quần áo thường dân, thậm chí là cả đến đồ lót tại một làng nhỏ trên đường đi. Bọn lính Đức kiểm tra chúng tôi ba lần. Một lần, chúng ngồi trên xe ngựa, chất vấn bằng tiếng Nga về gốc gác và nơi đến của chúng tôi. Chúng tôi bảo hắn rằng mình là dân làng địa phương trở về nhà sau nhiều tuần đi đào đất tại một khu công sự phòng thủ Xôviết gần Sumy. Xem xét mớ giẻ rách trên người chúng tôi, hắn ta xua chúng tôi bằng chỉ một từ: "Đi đi". Nikolai máy móc trả lời: "Rõ!" và thực hiện một cú quay người theo đúng kiểu quân nhân. Tôi lập tức nghẹn thở đi vì sợ. Về sau, tôi bảo anh ấy rằng đáng ra nên lấy cành tầm ma quất cho anh một trận mới đúng. Anh ta mau chóng thừa nhận sự xuẩn ngốc của mình. Bên bờ một con sông nhỏ do địch kiểm sóat chia đôi giới tuyến, chúng tôi phải nằm dưới một đợt pháo kích của Hồng quân và rút chạy về vùng do địch kiểm sóat. Mãi tới tận ngày 30 tháng Mười chúng tôi mới về được trung đòan của mình. Hôm đó cũng là ngày tôi tròn 20 tuổi. Chiều hôm ấy trời rất trong xanh, ấm áp và bình yên. Tôi sẽ không bao giờ quên được điều đó.

FYODOR ARKHIPENKO VÀ NIKOLAI SAVIN, 1942.

Trong một phi vụ bảo vệ bầu trời gần Kirovograd ban ngày, tôi đối đầu với hai chiếc ném bom Junkers-88. Sau khi bắn hạ một chiếc, tôi thực hiện cú tăng tốc đuổi theo chiếc còn lại. Khi chỉ còn cách dưới bụng nó khỏang ba mét, tôi phát hiện ra rằng mình đã hết đạn. Tôi qu‏‎yết định sẽ lấy cánh quạt của mình chặt đứt đuôi chiếc máy bay ném bom. Khi chỉ còn cách mục tiêu 2 mét, tổ lái Đức bắt đầu thả bom. Tôi tránh được không bị trúng bom chỉ trong gang tấc và bắn sang bên như một chiếc nút sâm banh. "Hãy sử dụng súng máy và pháo của mình, nhưng chớ có bao giờ thử tìm cách húc máy bay", tôi tự rút kinh nghiệm. Tôi sẽ suốt đời ghi nhớ cái giây phút súyt mất mạng đó.

Đã bao giờ ông phải nhảy khỏi máy bay chưa?

Không bao giờ. Thật ra, tôi chưa bao giờ thử nhảy dù. Người ta muốn đuổi tôi khỏi trường học lái vì đã từ chối không chịu nhảy dù. Ông hiệu trưởng quở trách tôi rất dữ, nhưng tôi vẫn trả lời ông rằng tôi sẽ không bao giờ chịu áp dụng kiến thức l‏‎ý‏‎ thuyết về nhảy dù của mình vào mục thực hành. Rốt cục ông ta cũng để tôi yên. May thay, tôi không bao giờ bị bắn rơi và tôi không khi nào, không khi nào phải nhảy dù.

Phi công tiêm kích thường được mô tả là những người hay săn tìm cái chết. Công việc của họ là tham gia không chiến. Theo ông để làm một phi công tiêm kích giỏi thì phải cần những gì?

Theo tôi, anh phải có khiếu bẩm sinh làm một phi công. Trên mặt đất, tôi chỉ là một anh chàng nhí nhố bình thường. Trên bầu trời, tôi là một tay đầy tự chủ. Những quyết định hợp l‏‎ý và khôn khéo đã cứu mạng tôi không biết bao nhiêu lần. Anh phải có một người biên đội trưởng không bao giờ bị kích động. Những người dễ bị kích động thường là thất bại. Đồng thời anh cũng phải được huấn luyện đầy đủ. Vì gấp rút, các phi công tiêm kích Xôviết được huấn luyện rất kém trong thời gian chiến tranh. Các phi công mới rất chật vật khi tìm cách cất cánh hạ cánh. Trong không chiến, họ bị bắn hạ dễ dàng như lũ gà gô. Tôi là một phi đội trưởng và tôi chỉ chọn những ai có nhiều kinh nghiệm bay để bay cùng với mình trong các phi vụ chiến đấu. Với những người thiếu kinh nghiệm, tôi trình bày cho họ những kiểu bay và kỹ thuật bay mặc cho những phản đối từ các chỉ huy cao cấp. Kết quả là tôi không bị mất một phi công nào trong phi đội của mình.

Theo kinh nghiệm của tôi, trong một phi vụ chiến đấu, một cặp thiếu ăn ‏‎phối hợp gần như sẽ dẫn tới cái chết cho cả hai. Tôi luôn tìm cách tránh cách chọn người bay cùng ngẫu nhiên. Việc ganh đua cũng đóng vai trò rất quan trọng. Một hôm Gulayev chọn người phi công bay cùng vốn mang tiếng là hay do dự khi chiến đấu. Khi đối đầu với máy bay ném bom Đức, anh ấy bảo phi công số hai tấn công chiếc bay gần hơn trong biên đội. Số hai khai hỏa từ khỏang cách 200 mét.

Gulayev ra lệnh cho anh ta tới gần hơn và nhấn mạnh bằng cách bắn một lọat đạn cảnh cáo ngay sát anh chàng nhút nhát nọ. Tay kia hiểu ra, bay gần thêm và bắn hạ chiếc ném bom. Nỗi sợ trong chiến đấu của anh ta vĩnh viễn biến mất.

FYODOR ARKHIPENKO VÀ NIKOLAI GULAYEV, 1944.

Bắn hạ một máy bay địch là một câu chuyện thành công rất hiếm gặp. Thường thì là anh sẽ bắn vào khỏang trống mà không trúng chút nào vào cái mục tiêu của mình. Quay lại căn cứ, anh sẽ báo cáo là chẳng bắn trúng gì và thầm đáp lời tay sĩ quan thẩm vấn mình "Thì anh cứ thử tự bắn mà xem!".

Các phi công có gặp điềm báo không?

Phi công là những người vô cùng mê tín. Lấy ví dụ, đứng chụp ảnh trước khi bay là một điềm rất xấu. Có lần một phóng viên tới, tay cầm máy ảnh. Sư đòan trưởng bảo chúng tôi rằng ngày hôm đó sẽ không có phi vụ nào và chúng tôi cho phép tay nhà báo chụp ảnh chúng tôi. Mấy phút sau, sư đòan trưởng ra lệnh cho trung đòan tôi gửi một biên đội đi thực hiện nhiệm vụ trinh sát. Tất cả các phi công đều thẳng thừng từ chối. Sư đòan trưởng chấp nhận và ông ta ra lệnh cho trung đòan trưởng chúng tôi bay đi thực hiện nhiệm vụ yêu cầu.

Trong trận Stalingrad ông đóng vai trò gì?

Tại đấy, khi cuộc phản công lịch sử của quân đội Xôviết đang tới gần, mọi người đều cảm thấy tầm quan trọng của việc làm chủ bầu trời. Một đêm nọ, trung đòan trưởng của tôi tóm tắt cho tôi và các phi đội trưởng khác về lực lượng quân Đức, Ý, Rumani và Hungary tập trung xung quanh và cho chúng tôi biết về kế họach của quân đội Xôviết tổ chức cuộc tấn công tổng lực sau vài giờ nữa. Trong những giờ trước bình minh ngày hôm sau, anh ta đưa chúng tôi tới sân bay và yêu cầu chúng tôi bay đi kiểm tra xem một đơn vị lớn của lục quân Xôviết đã bị mất liên lạc vô tuyến với Bộ chỉ huy Phương diện quân đã tới được địa điểm đã định sẵn chưa. Cánh đồng ngập dầy dưới lớp tuyết mới rơi và phủ đầy sương mù dày đặc. Tầm nhìn ngang không vượt quá 300 mét, các lớp mây trôi ở cao độ dưới 30 mét. Tôi chọn ra một người bay kèm, chúng tôi nhẹ nhàng cất cánh và mau chóng bay tới được khu vực mục tiêu nằm bên hữu ngạn sông Đông. Chúng tôi trông thấy những xe ngựa và binh lính hành quân bộ phía dưới. Trở về căn cứ, chúng tôi thông báo với trung đòan trưởng rằng lực lượng kia đã tiến quân và vượt qua sông Đông. Một giờ sau, báo cáo của chúng tôi tới được Bộ Chỉ huy Tối cao tại Maskva. Trong những năm 50, khi tôi ở trong Học viện Không quân ở thủ đô, tôi được biết rằng Josif Stalin khi ấy đã dựa trên báo cáo về việc chọc thủng phòng tuyến địch nhờ cuộc hành quân của Lữ đòan xe tăng 26 và đưa ra quyết định chiếm thị trấn Kalach trên sông Đông, và lữ đòan đó đã khép kín vành đai lịch sử bao vây tất cả các lực lượng Quốc xã xung quanh Stalingrad. Khỏang 300 ngàn quân Đức đã bị bao vây.

Ông cũng tham gia trận Kursk, và khi đó căn cứ không quân của ông nằm rất gần khu vực diễn ra trận đấu tăng nổi tiếng gần Prokhorovka. Ông có chứng kiến trận đấu tăng đó không?

Tôi đã bắn hạ 12 máy bay địch ở gần Prokhorovka. Tôi cũng bị thương và được thăng lon đại úy tại đấy. Trận đánh tại khu vực này rất dữ dội. Rất nhiều phi vụ được thực hiện ở độ cao thấp, nếu không muốn nói là bay là là sát mặt đất.

FYODOR ARKHIPENKO bên chiếc tiêm kích AIRCOBRA của mình. 1944.

Một hôm, chúng tôi hạ cánh, đổ thêm xăng và bay lên thì trông thấy nhiều xe tăng Đức tiến ngay sát sân bay chúng tôi. Chỉ huy chúng tôi ra lệnh tiếp tục bay mà không rút lui về sân bay dự phòng.

Phía trên chiến trường của trận đấu tăng, bất cứ thời điểm nào cũng có ít nhất 200 máy bay Đức. Các phi công Xôviết giao chiến với chúng trên mọi độ cao. Trung đòan Không quân 508 chúng tôi thực hiện nhiệm vụ tại độ cao dưới 2000 mét. Các trung đòan khác, hầu hết trang bị máy bay Lavochkin-5 (La-5), tuần tra trên độ cao khỏang giữ 2000 tới 5000 mét. Về phía quân Đức, cũng vậy, ta có thể quan sát thấy rất nhiều kiểu máy bay. Khói và bụi từ những trận đánh dưới mặt đất bốc cao lên không trung tới hàng trăm mét và thường gây khó thở cho các phi công.

Trong trận Kursk, Không quân Xôviết đã chiến thắng và thống trị không có đối thủ trên bầu trời trên khắp mặt trận Xô-Đức. Chiến đấu đã trở nên dễ dàng hơn nhiều đối với phe Xôviết.

Ông có tham gia trận đánh đặc biệt ác liệt nào trong thời kỳ sau trận Kursk hay không?

Tôi còn nhớ những trận đánh ác liệt ở gần Iasi tại Rumani. Trong 8 ngày chiến đấu tại phía Bắc thành phố đó, hai bên mất tổng cộng khỏang 1200 máy bay. Các cánh đồng trông như những đống sắt vụn khổng lồ. Có lần, tôi và năm phi công Xôviết khác đã phải không chiến chỉ vài giây sau khi cất cánh trong suốt một ngày liên tục phải cất cánh, đụng độ ngắn ngủi nhưng ác liệt và hạ cánh. Tôi chạm trán với một chiếc Messerschmitt-109 (Bf-109 - LTD) và bắn hạ nó. Nó đâm xuống mặt đất chỉ cách Trạm chỉ huy Lữ đòan tôi có 150 mét.

Một bài hát vui phổ biến thời đó mô tả phi công như những kẻ chỉ biết có máy bay và không quan tâm gì tới các cô gái. Thực tế thì như thế nào?

Các phi công của Phi đội 1 và 2 thuộc Trung đòan Không quân Cận vệ 129. RUMANIA, 1944.

Thật ra, chúng tôi không được gặp gì khác ngòai các sân bay và thực hiện các phi vụ từ bình minh cho tới tận chiều tối suốt bảy ngày trong tuần. Tôi phải bay tới 4 phi vụ mỗi ngày. Sau khi mặt trời lặn, chúng tôi đi tới nhà ăn và rồi là về lều ngủ của mình. Thú vị thay, người vợ tương lai Lidya của tôi khi ấy ở cách sân bay dã chiến của tôi không xa, tại Rossosh gần thành phố Voroshilovgrad, và nàng thường trông thấy chiếc tiêm kích của tôi bay là là một mình mỗi khi tôi bay đi thực hiện phi vụ oanh kích các đòan công voa quân Đức trên tuyến đường chạy qua ngôi làng Gvozdovka của nàng. Chúng tôi đã gặp mặt nhau sau khi chiến tranh kết thúc.

Trong chiến tranh, tôi không có người thân nào để khuyến khích động viên. Họ sống trong vùng bị bọn Quốc xã kiểm sóat và tôi không nhận được tin tức gì của họ. Nhiều năm sau, tôi mới biết rằng bọn Quốc xã đã giết hại người bà yêu qu‏‎ý‏ ‎ của tôi bằng cách ngâm bà vào dầu lửa và thiêu sống bà. Mọi người kể rằng bà đã liên lạc với các chiến sĩ du kích địa phương. Anh trai tôi cũng đã ngã xuống gần Prokhorovka khi đang dẫn đầu một tiểu đòan bộ binh. Chúng tôi nhận được giấy báo tử chính thức xác nhận anh đã hy sinh trong chiến đấu sau khi chiến tranh kết thúc. Các đồng chí của tôi thường nhận được thư từ từ gia đình mình. Tôi thì không bao giờ. Tôi yêu cầu cha mẹ họ viết thư cho tôi. Một vài đồng chí khác thì viết thư qua lại bằng cách chọn những địa chỉ in trong các tờ báo.
Ông còn nhớ có trường hợp nào khiến ông cười vui không?

Thật ra cũng có khá ít. Gần Yampol, một phụ nữ địa phương khi đang đãi tôi và đồng đội món trứng bắc đã than phiền rằng bọn lính Đức đã cướp mất con bò cái của bà. Tôi lập tức trao cho bà tất cả số tiền tôi có trong người, khỏang 700 rúp. Khỏang 40 phút sau, bà quay lại với một chú bò mới tậu bên mình. Câu chuyện này lan ra khắp lữ đòan. Trên bầu trời, bọn họ trêu tôi bằng cách gọi vào bộ đàm như sau: "Số Mười, Số Mười", -- đó là tên hiệu của tôi -- "có một đàn bò phía dưới, trong đó có một con là của cậu". Lần nào như vậy tôi cũng đỏ cả mặt lên và đáp lại bằng những từ ngữ không hay gì. Kể từ năm 1943 đó, con bò cái của tôi chắc hẳn đã sản sinh ra vô số con cháu. Anh có thể sẽ trông thấy chúng đang gặm cỏ đâu đó gần Yampol.

Ông ở đâu trong Ngày Chiến Thắng?

Tại Lipetsk, trong một khóa học chỉ huy không quân mà tôi đã được chuyển tới từ tháng Tư năm 1945. Ban đầu thật khó tin rằng chiến tranh đã thật sự kết thúc. Tới tháng Sáu, tin tức đã tới được khóa học tại Lipetsk cho biết rằng tôi đã được phong tặng Anh hiệu Anh hùng Liên Xô.

Dịch từ Anh sang Việt: L‏‎ý‏‎ Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN

Josef Finkelshteyn
CUỘC CHIẾN VĨ ĐẠI ĐÃ BẮT ĐẦU

Ngay từ dạo mùa xuân 1941, người ta đã có thể cảm thấy hơi thở của chiến tranh đang tới gần.

Thời gian này tôi đang làm việc tại Học viện Nghiên cứu Leningrad ở vị trí kỹ sư bậc cao. Tại đây chúng tôi được học về các phương pháp phòng chống không kích. Sau giờ làm việc, trong sân của Học viện, chúng tôi học cách đào chiến hào và đeo mặt nạ phòng độc rồi thử làm việc trong khoảng nửa giờ. Đó là cách chúng tôi chuẩn bị phòng ngừa một cuộc tấn công thực sự bằng hơi ngạt.

Đêm ngày 22 tháng Sáu trời ấm áp và quang đãng. Đang là thời gian làm lễ tốt nghiệp ở nhiều trường học, tôi đi về nhà sau khi dự một buổi tiệc mừng. Ở buổi tiệc tôi được gặp khá nhiều thanh niên. Các cô gái thướt tha trong những chiếc áo dài dạ hội màu trắng và giày cao gót. Những đôi gót giày của họ vui vẻ gõ trên mặt đường nhựa. Không khí yên bình và tĩnh lặng bao trùm khắp nơi. Có tiếng ai đó ngâm nga giai điệu foxtrot đang thịnh hành "Tại nơi nào đó ở Taihiti"... Nhưng chúng tôi còn ở rất xa Tahiti và những tai họa khủng khiếp đang dần tiến đến. Chúng tôi không hề biết rằng cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại đã bắt đầu được vài tiếng đồng hồ.

Sáng hôm sau tôi ra ngoài mua thức ăn. Một đám đông đang bao quanh chiếc loa phóng thanh gắn trên một cột điện. Tôi nghe thấy giọng nói ngèn ngẹt của Bộ trưởng Ngoại giao Molotov, "Máy bay Đức đã ném bom những thành phố của chúng ta mà không hề tuyên chiến. Đã có những trận chiến ác liệt diễn ra ngoài biên giới. Các chiến sĩ biên phòng anh dũng của chúng ta đang đánh bại cuộc xâm lăng của quân thù một cách dũng mãnh (ogoltelyi - không có từ tương tự trong tiếng Việt. Từ này có nghĩa là sự giận dữ không thể kiềm chế nhưng bộc lộ một cách có chủ đích. Nó thường được dùng trong các thông báo tuyên truyền nhằm mục đích chính trị - James Quinn)." Tôi không còn nhớ chính xác những lời ông nói, nhưng đó đúng là những gì còn đọng lại trong ký ức của tôi.

Chúng tôi đã cảm được chiến tranh đang tiến gần từng ngày một từ rất lâu trước khi nó thực sự bắt đầu, nhưng không ai nghĩ rằng chiến tranh lại nổ ra sớm và diễn ra kéo dài đến như vậy. Và chúng tôi cũng không thể ngờ sự thất bại của chúng tôi lại liên tục lâu như thế. Ai ai cũng biết tuyên bố của những vị lãnh tụ sáng suốt của chúng ta, "Chúng ta không cần những mảnh đất xa lạ, nhưng chúng ta nhất quyết không để mất dù chỉ một phân mảnh đất quê hương chúng ta." Chúng tôi đã hát, "Chúng ta sẽ tiêu diệt quân thù trên chính quê hương chúng chỉ bằng một đòn kiên quyết. Sẽ có rất ít máu đổ," Nhưng thực tế đã hoàn toàn khác. Tới tháng Chín, quân Đức đã xuất hiện ở rất gần Maskva và Leningrad.

Giữa tháng Sáu tôi đã nhận được một thông báo yêu cầu phải có mặt tại trụ sở quân uỷ (văn phòng tuyển quân - James Quinn) vào cuối tháng Bảy. Tôi không muốn phải chờ cho đến ngày đó nên đã tới trước vào ngày 23 tháng Sáu và nhập vào hàng người đứng chờ. Không khí rất hỗn loạn và ồn ào, nhiều người liên tục nguyền rủa. Các đại uý, thiếu tá và trung uý chạy nháo nhào từ phòng này sang phòng nọ với giấy tờ trên tay. Một sĩ quan cần vụ đọc tờ thông báo rồi hét vào mặt tôi, "Anh có mù chữ không? Chỗ này có viết rõ ràng khi nào anh cần phải có mặt ở đây! Đừng làm phiền tôi, về nhà đi!" Tôi trả lời, "Nhưng chiến tranh đã nổ ra. Tôi nói tốt tiếng Đức, có thể cho tôi làm thông dịch viên!" Viên sĩ quan cần vụ không thèm nghe lời tôi, "Đừng nói tào lao nữa! Cút đi!"

Cha tôi đã bị động viên ngay từ tuần đầu tiên của chiến tranh. Mẹ và tôi đi tiễn ông tại ga Varsava (Một trong những ga đường sắt chính ở Leningrad - James Quinn). Dàn kèn đồng đang chơi, các em thiếu nhi hát bài "Hãy mau quay về với chiến thắng". Rất nhiều người trong số họ, bao gồm cả cha tôi, không bao giờ còn quay về nữa. Đối với ông, đó là một chuyến đi vào cõi hư vô.

Bức thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ ông có đề ngày mùng 8 tháng Chín năm 1941. Ông viết, "Anh đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Anh đã học cách chơi domino và thực hành phẫu thuật điêu luyện." Chúng tôi không bao giờ được nhận lá thư kế tiếp. Chúng tôi đã phải trải qua biết bao nhiêu chờ đợi mà không hề biết chuyện gì đã xảy ra. Mỗi lần hỏi thăm chúng tôi đều nhận được những câu trả lời như nhau, "Anh ta đã mất tích trong chiến đấu." Sau cùng, vào cuối tháng Mười Hai năm 1941, chúng tôi nhận được một lá thư từ người đàn bà đã làm việc chung với cha. Bà viết rằng ở gần thành phố Staraya Russa bệnh viện của họ đã bị ném bom và cha tôi đã bị giết bởi một mảnh bom. Không ai khác ngoại trừ cha tôi bị chết. Người cha đáng thương của chúng tôi thật không may. Chúng tôi không cách nào tìm được mộ của ông, thậm chí chưa chắc mộ ông còn tồn tại.

Mọi người đều chờ đợi được nghe bài diễn văn của Stalin. Cuối cùng, vào ngày mùng 3 tháng Bảy ông cũng đã phát biểu trên radio. Đó đã là ngày thứ 12 kể từ khi cuộc xâm lược bắt đầu và quân thù đã chiếm được một phần lãnh thổ rộng lớn của chúng ta. Ông bắt đầu bài diễn văn của mình với từ "Hỡi các anh chị em". Trước kia ông ta không bao giờ phát biểu với nhân dân bằng cách nói thân mật như vậy.

Ngay từ đầu tháng Bảy 1941, chính phủ đã cho thông báo sự thành lập của Đội quân Tình nguyện. Ai cũng có thể tham gia tổ chức này, thậm chí kể cả những người không thể phục vụ thường xuyên hoặc những người đã bị rút khỏi danh sách nhập ngũ vì có những khả năng đặc biệt (tôi cũng nằm trong số này). Người sĩ quan tuyển quân ghi tên tôi vào một sư đoàn dân quân dự bị mới thành lập, chỉ huy bởi những hạ sĩ quan và những người đã từng nhập ngũ. Số người đăng ký trong danh sách của sư đoàn chỉ đủ để lập thành một trung đoàn duy nhất. Những sĩ quan thừa lại, bao gồm cả tôi, được gửi tới một trung tâm huấn luyện dự bị đặt tại một trường học trên đảo Krestovsky. Chúng tôi cùng học chung với những nữ y tá đang gần kết thúc khóa học của mình. Đang trong thời chiến, mọi chuyện đều được tha thứ, do đó bạn có thể dễ dàng hình dung điều gì đã xảy ra nơi đây.
Mỗi ngày chúng tôi đều chờ đợi để nghe thấy tin tức về cuộc tổng phản công của quân đội ta, nhưng chúng tôi đã phải đợi một thời gian thật dài. Vào đầu tháng Tám một sĩ quan của đơn vị thiết giáp nọ xuất hiện tại sư đoàn chúng tôi. Anh ta tới để hỏi xem những ai đã từng làm quen với thao tác trên máy vô tuyến của xe tăng. Khi còn ở trong khóa huấn luyện quân sự dự bị năm 1939, tôi đã từng học chúng và tôi cho rằng mình có thể làm được những gì anh ta yêu cầu. Nhưng mong ước được thực sự tham gia chiến đấu của tôi cuối cùng vẫn không thành hiện thực. Một lần nữa tôi lại bị đưa vào đơn vị dự bị, có điều lần này là một đơn vị xe tăng dự bị. Tôi trở thành trung đội trưởng trung đội thông tin của cả một trung đoàn xe tăng hạng nặng đóng tại Đại học Bách khoa Leningrad.

Tới đầu tháng Chín bọn Đức đã chiếm được Shlisselburg, cắt đứt mối liên lạc đất liền giữa Leningrad và phần còn lại của tổ quốc. Đã có rất nhiều cuốn sách mô tả về nạn đói, cái giá lạnh và những hành động anh hùng của người dân thành phố bị bao vây. Tôi không đủ khả năng để viết thêm điều gì khác mới mẻ hơn.

Cháu gái tôi, Natasha, được tản cư tới Tashkent cùng với nhạc viện mà cháu đã nhập học vào mùa xuân. Mẹ tôi cũng sớm nhập cùng họ sau đó. Chín người trong số những họ hàng thân thiết của tôi ở lại Leningrad trong vòng vây. Chỉ còn hai trong số họ, dì Sonia và anh họ Victor của tôi, là còn sống. Những người còn lại đều đã chết vì tình trạng loạn dưỡng gây bởi sự thiếu ăn.

Tôi bắt đầu viết một cuốn nhật ký từ những ngày đầu của chiến tranh. Nó đã cùng theo tôi suốt cuộc chiến tranh trong cái ba lô quân dụng. Lúc này tuy trông thật sờn nát tiều tuỵ nhưng tôi vẫn giữ được nó. Dưới đây là vài đoạn trích trong cuốn nhật ký đó.

Ngày 17 tháng Tám, 1941
Đã là ngày thứ 56 của cuộc chiến tranh, và là ngày thứ 47 trong đời lính của tôi. Tôi đã đăng ký vào Sư đoàn xe tăng Dự bị số 12, đóng tại khuôn viên của Đại học Bách Khoa Leningrad. Tôi là chỉ huy trưởng trung đội thông tin với chỉ một chiếc điện đài đã hỏng, một chiếc 71TK. Đại diện của các đơn vị quân đội đôi khi tới đây và chọn những người đã từng tham gia chiến đấu để đưa tới những đơn vị ngoài mặt trận. Thật đau khổ khi phải nghe những thông báo về các thành phố của chúng ta đang rơi vào tay quân thù. Bọn Đức tiếp tục tiến quân nhanh chóng vào sâu trong lãnh thổ nước ta.

Ngày 10 tháng Chín
Đã là ngày thứ hai liên tiếp bọn Đức ném bom dữ dội xuống Leningrad. Bầu trời đêm sáng rực bởi những ráng lửa cháy. Kho Bodaevsky, chứa những nhu yếu phẩm cung cấp cho người dân Leningrad, đang bốc cháy. Khi tiếng còi báo động không kích vừa cất lên, ban đầu tôi không cách nào thúc được mọi người tới trú trong những chiến hào tránh bom. Thế rồi một quả bom nổ thật gần đến nỗi kính trên các cửa sổ vỡ tan. Sau đó, tất cả mọi người đều ba chân bốn cẳng chạy tới các chiến hào. Quân Đức đã tiến tới sông Dnepr và chiếm được Kiev. Đêm đó tôi mơ thấy những quả táo Antonov to và ngọt ngào. Chúng thật lớn, mọng nước và ngon lành. Tại sao tôi lại có giấc mơ như thế nhỉ?

Mùng 1 tháng Mười
Bọn Đức đã vượt qua Pushkin và đang tiến tới Pulkovo. Trạm thiên văn Pulkovo đang bốc cháy. Trong suốt nhiều ngày trời bọn chúng tấn công Leningrad bằng đại bác tầm xa.

Sáng nay chúng tôi được chứng kiến cuộc hành hình những kẻ đào ngũ tại khu nhà máy bỏ hoang gần Đại học Bách Khoa. Vụ xử được thực hiện như một lời răn đe dành cho chúng tôi. Chúng tôi đứng thành hàng để quan sát vụ hành hình cho rõ hơn. Có ba kẻ đào ngũ, tất cả đều là thành viên một tổ lái tăng trong đại đội chúng tôi. Hai người trong bọn họ đội pilotka (mũ vải quân đội - James Quinn) và người còn lại đội chiếc mũ của lính xe tăng. Cả ba đều lộ vẻ đờ đẫn trên khuôn mặt. Có lẽ họ đã nói xong lời vĩnh biệt với cuộc đời. Họ bị cởi bỏ quần áo và đứng trong tuyết với độc đồ lót của mình. Đó là đợt tuyết sớm trong năm nay. Họ đứng đó, chờ một huyệt mộ đang được đào ngay cạnh họ. Họ đã chạy khỏi mặt trận, bỏ lại xe tăng của mình.

Tiểu đội hành quyết tới dàn ra phía trước mặt họ. Người lính đội chiếc mũ lính tăng lấy tay mình che mắt lại. Người ta bước tới gần và kéo tay anh ta xuống. "Bắn vào bọn phản bội tổ quốc," người sĩ quan chỉ huy hô to. Máu vọt ra từ mặt họ và tất cả bọn họ ngã xuống. Có hai người vẫn còn động đậy. Một sĩ quan NKVD bước tới và bắn vào đầu hai người đó bằng khẩu súng lục của mình.

Quân thù đã xuất hiện ở Ligovo, cửa ngõ thành phố Leningrad. Pháo kích đã trở nên quen thuộc tới nỗi không ai thèm chạy tới hầm trú ẩn để tránh nữa. Khi tiếng còi báo động không kích cất lên, một lần nữa rất khó mà bắt được binh lính của tôi vào trú trong chiến hào. Tất cả nhân viên của bộ chỉ huy đều được phát một phiếu thực phẩm để tới ăn tại căn tin chỗ chúng tôi. Doanh trai không được sưởi ấm. Những chiếc chăn mỏng và áo khoác của chúng tôi không thể chống nổi cái lạnh. Một anh chàng khéo tay đã tự chế ra một chiếc lò sưởi nhỏ. Chúng tôi dùng gỗ lấy từ những công trình bị trúng bom gần đó để làm củi đốt. Chúng tôi đốt chiếc lò suốt 24 giờ trong ngày, nhưng trời lạnh tới nỗi điều đó cũng không giúp được gì mấy.

Tôi được phép về thăm gia đình trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Khu vực nhà máy Putilovsky đã bị trúng bom và hai mươi hai người vừa trở thành vô gia cư tới trú tại căn hộ chúng tôi. Anh Mark của tôi và tôi nấu súp bằng cách đun chín món rong biển khô. Mẹ chúng tôi thường bỏ món đó vào nước tắm để giúp tăng cường sức tỉnh táo. Giờ đây chúng tôi dùng rong biển để đổ đầy dạ dày và dường như chúng khá ngon miệng đối với chúng tôi.

Trẻ em trong thành phố Leningrad đang được sơ tán. Chỉ còn một con đường duy nhất để đi từ Leningrad về hậu phương, băng qua Hồ Ladoga. Tất cả các tuyến đường sắt và đường bộ dẫn tới những vùng đất của ta đều bị cắt đứt. Phía Nam và phía Đông hiện bị bọn Đức phong tỏa, còn về phía Bắc là bọn Phần Lan. Ngày hôm qua em trai mẹ tôi, chú Naum, cùng gia đình của chú đã vượt qua Hồ Ladoga trên một chiếc xà lan.

Hoạt động của máy bay Đức ngày càng leo thang. Bầu trời sáng rực. Viện Hóa học Ứng dụng và chiếc vòng lượn cho thiếu nhi chơi đang bốc cháy. Quân ta đã phải rút bỏ Odessa.

Ngày 23 tháng Mười
Một bản thông báo mới của TASS cho biết "đây là ngày thứ năm của những trận chiến đấu ác liệt tại khu vực Mojaysky, Maloyaroslavsky và Kalininsky." Quân Đức đang rất gần Matskva. Tướng Zhukov đã được chỉ định làm chỉ huy trưởng của toàn thể mặt trận chống Đức. Một bức thư nữa của tôi gửi cho cha đã bị trả về. Tôi rất lo, "Không biết chuyện gì đã xảy ra với cha?" Tôi muốn tin rằng ông đã bị chuyển sang một sư đoàn khác.

Khi còn ở trong thành phố, tôi đi tới một cửa hàng, chỉ để ngắm chút ít. Khi tôi đứng đó, một người đàn bà béo lên cơn kích động. "Tại sao các anh lại bày đồ ngọt ở tủ hàng? 'Mẹ ơi, mua cho con một chiếc kẹo' - những đứa con của tôi kêu khóc. Đám bán hàng các anh có lẽ được tọng đầy mồm đồ ăn thức uống, nhưng các anh lại không chịu bán kẹo cho một đứa trẻ chỉ vì không có phiếu!?!" Bà ta la lớn và chìa cho người nhân viên bán hàng cái kukish (cử chỉ của bàn tay biểu lộ sự lăng mạ - James Quinn). Một ông già có bộ mặt hốc hác và những đầu ngón tay ám khói thuốc vàng khè ủng hộ bà ta, "Đúng đấy, tôi không cách nào mua được diêm mà không có tem phiếu. Chúng ta cứ đập vỡ cửa kính và lấy đi thôi!" Nhưng nào ai dám làm thế. Nếu họ thực sự làm điều họ đã dọa, họ sẽ bị xử bắn ngay lập tức.

Thức ăn trên bàn ăn của chúng tôi ngày càng trở nên tệ hơn. Chúng tôi chỉ có 75 gram bánh mì cho mỗi bữa sáng và bữa tối, đôi lúc có thêm một mẩu phômai hay cá nhỏ, và trà với đường. Vào bữa chính chúng tôi nhận được một đĩa xúp loãng và 200 gram bánh mì. Đôi khi có thêm một nồi súp đậu. Tôi không thể ngờ rằng món súp đậu đó có thể ngon như vậy. Tôi đã rất yếu, rất chật vật tôi mới leo được lên thang gác.

Những trận đánh ác liệt tiếp tục diễn ra gần Matskva. Tôi gửi một lá đơn xin được chuyển tới một đơn vị ngoài mặt trận lên sư đoàn trưởng của mình. Ông ta không chấp nhận và xua tôi đi. Quân ta đã phải rút khỏi Stalino (Donetsk, thành phố ở miền Nam Ukraine - James Quinn). Năm mươi ngàn tên Đức bị giết tại đấy. Mọi người nói, 'chúng ta đã giết được hàng ngàn tên, thế nhưng chúng vẫn đang tiến công'. Khắp nơi mọi người đều nói về chuyện thực phẩm.

Ngày 7 tháng Mười Một
Hôm nay là lễ kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười. Hôm qua, nhân ngày lễ, chúng tôi được cấp mỗi người nửa lít rượu vang. Chúng tôi uống rượu giữa một trong những đợt báo động không kích. Hôm nay ở đây có một cuộc "diễu hành". Chúng tôi diễu quanh Đại học Bách Khoa. Binh lính hỏi xin kẹo, hệt như lũ trẻ nhỏ. Vẫn chưa có tin tức từ cha tôi trong một thời gian dài. Tôi rất lo không biết hiện cha như thế nào.

Tôi phải trực tại nhà bếp và làm thân với người đầu bếp. Tới đêm thì tình bạn giữa chúng tôi đã trở nên thắm thiết. Ngày hôm sau anh tôi tới thăm và cô ấy tặng cho anh một nồi súp khi tôi lên tiếng đề nghị cô.

Trang nhất tờ Pravda (Sự Thật) Leningrad hôm nay có viết, "Leningrad đang bị bao vây. Mọi người không thể trông chờ việc cải thiện vấn đề thực phẩm cho tới khi vòng vây của quân thù bị phá vỡ."
Hôm qua đã có lời kêu gọi những người tình nguyện tham gia vào một sư đoàn đánh phá vây. Chỉ có mười người được chọn trong đơn vị của tôi. Tôi không được chấp nhận bởi tôi vẫn chưa từng tham gia chiến đấu.

Ngày 14 tháng Mười Một
Đêm qua tại đây có ba cuộc báo động không kích. Một quả bom nổ ở đâu đó rất gần và ngôi nhà lắc lư như một gã say rượu. Đó là một đêm không trăng êm ả. Quân Đức đang bắn lên trời những quả pháo sáng treo lơ lửng nhờ những chiếc dù. Chúng chiếu sáng trời đêm tựa như đang ban ngày. Dường như tuyết đang có màu xanh, bóng cây trông như những con nhện khổng lồ đang duỗi những chiếc chân của chúng tới nơi chiến hào chúng tôi đang ngồi. Các xạ thủ phòng không cố gắng bắn hạ những chiếc dù pháo sáng. Các luồng đạn, đỏ, xanh lam và xanh lục, rạch ngang dọc bầu trời. Trông thật kỳ diệu và tuyệt đẹp như đang ở trong khu vườn Gassnardon (dinh thự do chính phủ quản lý, mở cửa cho công chúng - James Quinn).

Vào tám giờ sáng tiếng còi báo động không kích lại vang lên. Bên trong chiến hào lạnh lẽo và ẩm ướt. Chân cẳng của chúng tôi lạnh cóng.

Chính uỷ sư đoàn đã hứa sẽ giới thiệu đơn xin của tôi vào lực lượng quân nhảy dù. Tôi đang lo rằng mình lại bị từ chối lần nữa. Khẩu phần bánh mì hàng ngày của chúng tôi đã bị giảm xuống còn 300 gram. Đây là thứ thực phẩm chính của chúng tôi. Người ta nói rằng loại bánh mì này được làm với nguyên liệu chứa tới 40% là mạt cưa.

Có tin đồn là một khẩu đại bác bí mật đang di chuyển từ vùng này sang vùng khác để bắn vào Leningrad. Những người tình nguyện trong sư đoàn chúng tôi cố gắng tìm ra nó. Họ cho rằng đã xác định được nó tại Công viên Udelniy, sau đó lại bảo tìm thấy tại chỗ này chỗ khác.

Hiển nhiên những người tình nguyện kia đã bị ảo giác vì đói.

Ngày 16 tháng Mười Một
Những đợt oanh tạc ác liệt cứ lặp lại ba đêm một lần. Binh lính dưới quyền tôi chật vật mới tới được chiến hào. Tất cả bọn tôi đều trở nên bị ám ảnh bởi thuyết định mệnh. Có người đã nói, "Người có số bị treo cổ sẽ không chết đuối, không ai thoát khỏi số kiếp của mình, tựa như trong một giấc ngủ say."

Một mệnh lệnh được ban ra: "Mọi người đều phải ngủ trong trang phục sẵn sàng. Khi có không kích mọi người đều phải mau chóng chạy tới chiến hào trú ẩn của mình." Hôm qua tôi có mặt trong thành phố và tới thăm nơi làm việc cũ của mình. Thức ăn là điều duy nhất mà người ta bàn tới.

Ngày 6 tháng Chạp
Anh tôi đã bán đứt cây đàn piano của chúng tôi với giá rẻ mạt. Anh ấy cũng đã bán những đồ gỗ dùng trong phòng ăn, cái áo khoác lông cáo của cha và những đồ vật khác đã từng có mặt trong một phần cuộc đời chúng tôi từ khi tôi còn là một đứa bé. Tôi còn nhớ cha tôi đã mặc chiếc áo khoác lông đó khi ông từ nhà đi thăm các bệnh nhân của mình. Giờ ông đang ở nơi nào? Điều gì đã xảy ra cho ông? Tốt nhất là hãy nghĩ về việc làm cách nào giúp đỡ những người thân của bạn hơn là nghĩ về tất cả những chuyện linh tinh đang xảy ra xung quanh.

Một gã con buôn chợ đen tới để mua những món đồ trong nhà chúng tôi. Hắn nói, "Tôi là một trong những bệnh nhân cũ của cha các anh, do đó các anh nên để giá thấp cho tôi, nhân mối quan hệ quen biết xưa kia." Cái thứ lập luận gì mà lạ lùng? Hắn thử đội chiếc mũ lông của cha tôi và ra ngắm trước tấm gương. Tôi đã nói "Cái mũ thật vừa với ông" thay vì làm điều tôi thực sự mong muốn là đấm vào mõm hắn và đá hắn ra ngoài.

Vẫn không có thư gì của cha. Tôi vẫn chưa nhận được hồi âm từ đề nghị được gửi ra mặt trận làm thông dịch viên của mình.

Ngày 10 tháng Chạp
Trời lạnh 20 độ âm và có gió mạnh. Quân đội vẫn được cho ăn thứ gì đó, nhưng thường dân đang chết dần vì đói. Họ ngã xuống như những chiếc lá vào cuối thu. Hôm qua, tôi đã nhận được giấy phép cho về thăm nhà trong hai mươi bốn giờ. Tôi đã hứa với tham mưu trưởng là sẽ mang tới một chiếc máy hát từ nhà mình.

Anh Mark và tôi đã phá chiếc bàn nhỏ mà trước kia tôi và đứa cháu Natasha thường cùng ngồi làm bài tập của mình. Đó là một chiếc bàn màu trắng tuyệt đẹp. Mark và tôi cùng tắm trong một chiếc chậu tắm, mặt đối mặt. Nước tắm được đun bằng củi từ chiếc bàn. Đó không phải là tắm mà là đang hưởng thụ trên thiên đường. Tôi đã không tắm trong suốt một tháng nhưng, tạ ơn Trời, vẫn không có rận. Tới buổi chiều anh tôi, bạn của anh là Igor Mukhin và tôi tất cả cùng ngồi quanh chiếc lò sưởi nhỏ trong đó phần còn lại của chiếc bàn đang cháy. Chúng tôi uống cà phê làm từ rễ cỏ rang không pha đường và bàn tán với nhau về thức ăn và tình hình ngoài mặt trận.

Bọn Đức đã tập trung 31 sư đoàn bộ binh, 10 sư đoàn xe tăng và 7 sư đoàn cơ giới quanh Matskva. TASS thông báo, "Quân ta đã tiến hành một đợt phản công và đẩy lùi quân Đức từ 50 tới 100 kilômét khỏi Matskva."

Ngày 12 tháng Chạp
Nhật Bản bất ngờ tấn công vào hải quân Mỹ. Thiết giáp hạm "Prince of Wales" và một tuần dương hạm loại "King George" bị đánh chìm. Lực lượng Nhật đã đổ bộ lên Philippines và Malaysia. Mọi người đều tin rằng chúng ta sẽ sớm tuyên chiến với Nhật Bản. Quân đội ta đã giải phóng thành phố Yeltz. Gần Matskva 30,000 lính Đức và 1,500 xe tăng bị tiêu diệt trong các trận chiến. Vẫn không có tin tức gì về cha tôi.

Ngày 20 tháng Chạp
Ngày 17 tháng Chạp tôi được tin là một trong những đơn xin của tôi đã được chấp nhận và tôi được nhận vào Đại đội Thông tin dự bị. Tôi đã được chuyển từ lính thông tin thành một điện đài viên thuộc lực lượng thiết giáp và giờ lại trở thành lính thông tin lần nữa.

Tôi gửi một điện tín tới người thân của mình ở Tashkent, chúc họ một Năm Mới 1942 Hạnh phúc. Điều gì đang chờ đợi chúng tôi trong tương lai? Tại đâu và khi nào chúng tôi sẽ gặp lại nhau? Khi đó biết ai còn sống và ai đã mất đi? Chỉ có Chúa mới biết điều đó.

Ngày 21 tháng Chạp
Đã là ngày thứ ba của tôi tại nhiệm sở mới. Tại đây tôi gặp lại rất nhiều bạn cũ từ hồi ở Học viện Truyền dẫn Điện và cả một anh bạn cùng học trường "Petershul" tên là Karlin. Cậu ta bảo tôi rằng đơn vị tình báo của Phương diện quân đang tuyển điện đài viên biết tiếng Đức. Ngay lập tức tôi gửi hai báo cáo tới người phụ trách và tới đơn vị tình báo của Phương diện quân.

Người ta kể rằng còn lại rất ít thực phẩm trong các cửa hàng tại Leningrad. Rất nhiều người đang chết dần vì đói. Họ được mai táng trong những ngôi mộ tập thể, có người được liệm trong bao, có người thì không. Không có gỗ để làm áo quan. Rất nhiều người chết ngay trên đường phố. Đội mai táng thu nhặt họ vào sáng sớm và đưa tới một nghĩa trang tập thể. Do mùa đông lạnh lẽo đến sớm nên mặt đất bị đóng băng rất sâu. Mất khoảng từ 300 tới 500 rúp để thuê người đào một huyệt mộ.

Mark tới thăm tôi. Anh ấy trông rất tiều tụy. Những vết loét xuất hiện trên mặt và cánh tay anh do đói. Anh kể tôi rằng anh đã đến thăm chú Naum trong bệnh viện. Bệnh tim của chú đang nặng thêm do tình trạng loạn dưỡng. Chú ấy nói với Mark, "Chúng ta hãy cùng nói lời Vĩnh biệt với nhau."

Một lần nữa tôi lại viết báo cáo cho đơn vị tình báo của Phương diện quân để xin được nhận vào làm thông dịch viên trong quân đội trực chiến. Trời rất lạnh, tay và chân tôi đều lạnh cóng. Doanh trại đã từ lâu không còn được sưởi ấm.

Ngày 30 tháng Chạp
Hôm qua tôi về thăm thành phố. Hệ thống xe điện không còn hoạt động nữa. Không còn chút nhiên liệu nào. Mặc cho chiến tranh, một vài nhà hát vẫn còn hoạt động. Họ diễn những vở kịch hoàn toàn không liên quan gì tới chiến tranh - vở "Cyrano de Bergerac" và "Bà Kamelias" tại Nhà hát Leninsky Komsomol; vở "Ba người lính Ngự lâm" tại Nhà hát Ca nhạc Hài kịch; và vở "Một người chồng lý tưởng" ở Nhà hát Radlov. Phần lớn các nhà hát đều đã đóng cửa.

Người đại diện của Bộ chỉ huy Phương diện quân lại tới và ghi vào sổ tay của mình là anh ta sẽ đăng ký tôi vào đơn vị của anh ta làm thông dịch viên. Cái lạnh ngoài trời hiện đang khoảng 30 độ âm.

Trong Tiểu đoàn Tình báo vô tuyến Đặc biệt 345

Đáng tiếc đây là tờ cuối cùng trong quyển nhật ký của tôi. Sau một thời gian dài, một trong những đề nghị của tôi được chấp thuận và tôi được đưa tới Tiểu đoàn Tình báo vô tuyến Đặc biệt 345. Tôi đã phục vụ trong tiểu đoàn này bốn năm (từ 1942 tới 1945). Nhiệm vụ chính của tôi là nghe trộm những bức điện radio cấp tiểu đoàn và sư đoàn Đức. Đôi khi chúng phát đi những bức điện khá quan trọng giữa trận đánh mà không dùng mã khóa. Chúng tôi phải nghe chúng trong các chiến hào ngoại trận địa bởi sóng của các máy vô tuyến đó không phát được xa quá 1 km.

Vào ngày mùng Hai tháng Giêng tôi tới được tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng - đại uý Friedman lưu ý tôi, "Chỗ này có khá nhiều các cô gái trẻ xinh đẹp. Đừng tìm cách ve vãn họ nếu không muốn bị sa thải." Đúng là có rất nhiều cô gái 16 - 18 tuổi xinh xắn dễ thương đang phục vụ tại đây. Tất cả bọn họ đều tốt nghiệp từ những khóa hiệu thính viên vô tuyến và được động viên từ hồi đầu chiến tranh.

Ngày mùng Năm tháng Giêng tiểu đoàn của tôi vượt qua Hồ Ladoga đang đóng băng bằng xe tải để tới Phương diện quân Volkhov. Chúng tôi được thông báo, "Hãy sẵn sàng để nhảy ra khỏi xe bất cứ lúc nào. Ở đây có rất nhiều hố trên mặt băng mà xe tải có thể lọt vào." May mắn thay mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp. Và không cần phải nhảy khỏi chiếc xe tải. Khi chúng tôi tới được bờ hồ bên kia, tôi đổi hai bao thuốc lá từ khẩu phần chỉ huy của bản thân để lấy nửa cân bánh mì. Tôi không thể kìm lại được và ăn nó ngay lập tức.

Câu chuyện chi tiết về những năm tháng gian khổ không thể nào quên đó, về cái chết của các bạn tôi và về những dặm đường chiến tranh đằng đãng, tôi xin được kể vào một dịp khác. Đó là một câu chuyện quá dài để kể ra ở đây.

Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân
Josef Finkelshteyn
PHÁO HOA MỪNG NGÀY HỘI

Josef Finkelshteyn

Khu vực của chúng tôi đang trải qua một trong những ngày tạm yên tĩnh. Tờ báo quân đội viết, "Mặt trận Volkhovsky vẫn yên tĩnh", tựa như tiểu thuyết của Remarque "Mặt trận Phía Tây vẫn yên tĩnh". Trong những ngày tháng quân ngũ như thế bạn thường nghĩ: "Người ta đang bắn đấy, nhưng không sao đâu. Ai mà biết được mình có bị trúng hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào số phận."

Đó là dịp Giáng Sinh năm 1943. Tôi đang phục vụ trong Tiểu đoàn Trinh sát vô tuyến 345. Tiểu đoàn chịu trách nhiệm tìm hiểu tình hình của các tiểu đoàn, sư đoàn và tập đoàn quân của Đức bằng cách liên tục lắng nghe các bức điện vô tuyến của địch.

Hạ sĩ Nika Grigoriev, người phụ tá trung thành của tôi, và tôi ngồi nghe lỏm những buổi chuyển phát vô tuyến của các tiểu đoàn và sư đoàn Đức bằng thiết bị vô tuyến bắt được của địch. Đôi khi chúng tôi bắt được những thông tin rất quan trọng, bởi trong lúc chiến đấu chúng thường phát tin mà không dùng mã khóa. Bộ thiết bị radio có phạm vi hoạt động chỉ khoảng một kilômét, do đó chúng tôi phải bố trí nó ngay gần chiến hào ở tuyến đầu.

Nika và tôi tới được vị trí trung đoàn của sư đoàn 44 vào chiều ngày 29 tháng Mười Hai. Khi bước vào trạm quan sát của trung đoàn trưởng, chúng tôi đã rất mệt và khắp người lấm lem. "Hãy tận tình giúp đỡ thiếu uý Finkelshteyn hoàn thành nhiệm vụ quân sự quan trọng của anh ta.", đó là mệnh lệnh của sở chỉ huy mà tôi chuyển cho viên đại uý có bộ mặt ủ rũ, râu ria lởm chởm. "Quỷ quái nào mà họ lại đưa anh tới chỗ tôi thế?" tay đại úy râu ria càu nhàu. "Nếu anh mất mạng, tôi sẽ phải viết lên một báo cáo - thuật lại tất cả sự việc đã diễn ra thế nào và tại sao."

"Hãy tìm lấy một hầm trú ẩn còn trống. Và nhớ đây, đám ishak (nghĩa đen là "con lừa") sẽ oanh kích vị trí của chúng ta hàng ngày chính xác vào lúc 16 giờ. Đừng ló mặt ra khỏi hầm trú khi chúng bắt đầu rú lên. Hôm qua bọn ishak đã giết mất sĩ quan phụ tá của tôi và hai người lính nữa. Nhìn xem những cái cây lớn bị gẫy kia, tác phẩm của chúng đấy."

Ishak là tên mà binh lính đặt cho loại giàn phóng tên lửa nhiều ống đặt trên xe tải của Đức, tương tự loại Katyusha nổi tiếng của chúng ta. Chúng bắn tới với những tiếng rú kinh khủng "yya-yya-yya". Sức nổ của những quả tên lửa đó rất mạnh.

Nika và tôi tìm thấy một hầm trú ẩn còn chưa bị phá huỷ đã bị ngập nước một phần. Chúng tôi tát nước ra và lót lên một lớp cành vân sam. Bên trong rất lạnh, ẩm ướt và thiếu thoải mái. Chúng tôi có vodka - thứ tiền lương của lính - và tôi phái Nika đi kiếm về một chiếc lò sưởi. Một giờ sau Nika quay về tay không. Chẳng ai có một chiếc lò sưởi dự trữ cả.

Tuyên truyền viên Xôviết. Mặt trận Kaleria.

Tôi tới gặp người đại uý có tác phong lôi thôi, hy vọng anh ta có thể giúp mình. Phía trước hầm trú ẩn của anh ta, một người lính gác đang hơ tay mình trên một chiếc lò cá nhân, đang hừng hực đốt cháy những cành củi khô. Đột nhiên lũ ishak bắt đầu rú lên. Mọi người đều mau chóng ẩn nấp tựa như một cơn bão mùa đông đã quét sạch họ đi. Khi tay lính gác chúi đầu vào một căn hầm, tôi vội chộp lấy chiếc lò và chuồn nhanh. Giữ chặt chiếc lò tỏa khói trong đôi găng tay đang bắt lửa, tôi chạy thật nhanh về hầm của mình. Nhìn lại đồng hồ tôi nghĩ, "Lũ chó đẻ này chính xác thật". Chiếc đồng hồ đang chỉ 4 giờ 2 phút chiều.

Nika và tôi nhanh chóng sắp xếp vị trí cho chiếc lò, bỏ thêm vào vài cành cây khô và bật chiếc máy vô tuyến lên. Trong hầm dần ấm lên và đã thấy thoải mái hơn. Chúng tôi vừa lắng nghe những thông báo của bọn Đức về tình hình mặt trận quân ta, vừa lau khô đôi chân. Bất thình lình hai tay lính lăm lăm súng xuất hiện ở cửa hầm chúng tôi. Một người hét lớn, "Hende Hohn! (tiếng Đức nói theo kiểu Nga: "Giơ tay lên!"), không được động đậy!" cùng với một tràng dài đầy những lời tục tĩu mà tôi từng được nghe mẹ mình sử dụng. Tôi cố gắng giải thích cho anh ta chúng tôi là ai và tại sao chúng tôi lại có mặt ở đây, nhưng anh ta không thèm nghe. Anh ta đánh vào ngực tôi bằng khẩu tiểu liên và nổ súng lên trần. "Nếu cử động mày sẽ được ăn một viên đạn vào cái sọ khốn khiếp của mày! Hạ sĩ, hãy đi gọi đại uý tới, chúng ta đã bắt được bọn gián điệp."

Khi đại uý tới, anh ta nhận ta chúng tôi, và vừa cười, anh ta vừa nói, "Đừng giận họ thiếu uý. Hôm qua một nhân viên SMERSH (Phản gián quân đội) đã nói với chúng tôi rằng đang có một tên gián điệp trong sư đoàn chúng tôi. Bất cứ khi nào binh lính chúng tôi tụ tập quanh bếp dã chiến hắn lại phát tín hiệu cho bọn Fritz và chúng lập tức nhả đạn vào chúng tôi." Rắc rối được dàn xếp ổn thoả, chúng tôi mời viên đại uý một cốc trà. "Có lẽ các anh có thứ nào khác mạnh hơn chăng?" Nika lấy ra một bi đông vodka và sau lần chạm cốc thứ ba chúng tôi đã trở thành bạn thân của nhau.

"Hãy nghe tôi này thiếu uý" tay đại uý râu ria nói, "Gần đây những người trong đội tuyên truyền có tới chỗ chúng tôi để phát sang bọn Đức bằng một chiếc loa phóng thanh. Họ đã để quên chiếc loa khi rời đi. Hãy nguyền rủa lũ con hoang Phát xít bằng chính thứ tiếng Đức bẩn thỉu của chúng. Tớ sẽ nói và cậu sẽ dịch lại. Tớ chính là một chuyên gia về chửi tục đây". Tôi cố giảng giải cho anh ta là ở trường tôi chỉ được học tiếng Đức chứ không học chửi tục. "Không hề gì, cứ làm hết khả năng của cậu" tay đại uý nói. "Hãy ra chỗ chiến hào gần nhất, chỉ cách đây khoảng 100 mét."

Đằng sau chiến hào có một hẻm núi phủ đầy dây kẽm gai. Bọn Đức đang có mặt ở phía bên kia. Không khí rất yên tĩnh và chúng tôi tới gần đến nỗi có thể nghe thấy tiếng chúng đang gọi nhau. Có tên nào đó đang thổi bài hát ưa thích của chúng, bài "Lyly Marlen" bằng một chiếc ácmônica. "Làm đi nào!" đại uý nói và đưa tôi chiếc loa. Tôi không tài nào chửi thề bằng tiếng Đức hay như cách tay đại uý chửi bằng tiếng Nga. Nhưng câu sau trôi chảy hơn câu trước, và bọn Đức cũng đáp lại bằng thứ vốn chửi thề tiếng Nga xuất sắc nhất của chúng. "Cái lũ con hoang này học được cũng khá thật! Tớ sẽ dạy cho chúng một bài học!" viên đại uý vừa nói vừa trèo vào cái boongke gần đấy và nã một tràng đại liên về phía vị trí bọn Đức. Bọn Đức đáp trả lại ngay lập tức. Một chốc sau trận đấu súng đã lan rộng ra khắp chiến tuyến. Bọn Đức bắn pháo sáng gắn dù trên khắp hẻm núi phía chúng tôi. Bần trời được chiếu sáng rực tựa như ban ngày.
Trung đoàn trưởng gọi cho chúng tôi và hét lên, "Cái quái quỉ gì đang diễn ra vậy?" "Không có gì nghiêm trọng cả, đó chỉ là bắn pháo hoa ngày hội thôi mà" đại uý trả lời.

Dịch sang tiếng Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch sang tiếng Việt: Lý Thế Dân

Josef Finkelshteyn
CHIẾN THẮNG

Tháng Năm năm 1945 tôi đang ở vùng núi Alps thuộc nước Áo, gần thành phố Gratz. Đó đang là dạo mùa xuân, trời nắng ấm, những khu nghỉ dưỡng mùa đông tuyệt đẹp có thể trông thấy rõ trên những ngọn núi phủ đầy tuyết. Mọi người đang trong tinh thần hưng phấn; chiến tranh chắc chắn sẽ sớm kết thúc.

Tiểu đoàn Trinh sát vô tuyến 345 của tôi thu thập thông tin về chỗ đóng quân và chuyển quân của bọn Đức. Tôi ngồi nghe những tin tức hàng ngày từ Berlin, London và New York qua chiếc radio chiến lợi phẩm và viết báo cáo cho bộ chỉ huy Phương diện quân.

Một hôm tôi nghe được trên BBC, "Chủ tịch Quốc hội Thụy Điển thông báo rằng Hitler đã cho ông ta biết quyết định đầu hàng có điều kiện của mình." Vào ngày 2 tháng Năm đài Berlin thông báo, "Adolph Hitler đã chết do những vết thương nghiêm trọng. Đô đốc Donitz đã lên nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân đội Đức."

Cuối cùng, ngày 7 tháng Năm, trong bản tin của người Mỹ, tôi chợt nghe được, "This is the Voice of America, America at war." (Đây là Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, nước Mỹ trong chiến tranh - LTD) đây là câu mở đầu của tất cả những bản tin của đài VOA trong những năm đó, "Nước Đức đã chấp nhận đầu hàng vô điều kiện! Trong ngày mai thỏa ước này sẽ được ký kết!"

Chiều hôm đó tôi nhận được lệnh tức khắc đi đổi cái thông tin lý thú đó lấy rượu vang trong các thị trấn lân cận. Và do không còn rượu vang sót lại trong các thị trấn đằng sau chiến tuyến của chúng tôi, một tài xế cùng tôi đi lên phía trước mặt trận. Bầu không khí xung quanh chúng tôi được bao phủ bởi một sự im lặng khác thường. Chiến tranh không còn tiếp diễn nữa.

Trong những ngôi làng mới bị bọn Đức sơ tán vẫn còn rất nhiều rượu vang. Rất nhiều thùng rượu bị bắn thủng và vơi mất một nửa. Đó là hậu quả trò nếm rượu của đám lính ta đi tiên phong. Chúng tôi chỉ cần những thùng còn đầy. Cuối cùng chúng tôi tìm thấy một ngôi làng chưa bị tàn phá và bước vào ngôi nhà gần nhất. Tôi thông báo cho họ về cái chết của Hitler và sự đầu hàng vô điều kiện vào ngày mai của nước Đức. Tin này mau chóng lan đi khắp làng. Mọi người mau chóng tới đầy căn phòng. Ông xã trưởng, một ông béo mặc chiếc quần soóc bằng dạ và đội chiếc mũ màu lá mạ có gắn lông chim, mời mọi người bước vào nhà mình. Ông ta nói với chúng tôi rằng ông luôn yêu mến người Nga và căm ghét Hitler. Con trai ông ta, bị người Anh bắt làm tù binh, giờ đây đã có thể sớm trở về nhà.

Chúng tôi cạn ly với những người Áo, vài người mặc quần soóc, vài người đánh quần dài, có cả đám phụ nữ còn trẻ và đã luống tuổi, quyến rũ và không quyến rũ. Tất cả bọn họ mau chóng trở nên đáng yêu trước mắt tôi. Những người Áo cất giọng hát những bài yodel (dân ca Áo-Thụy Sĩ - LTD); người lái xe và tôi thì hát bài hát Nga "Katyusha". Lát sau, bước đi lảo đảo, chúng tôi tìm đường quay trở ra phố. Chiếc xe của chúng tôi đã chất đầy những thùng rượu. Những người Áo giúp chúng tôi leo trở vào trong cabin xe. Tới giờ tôi vẫn không hiểu làm sao lúc đó chúng tôi có thể lái nổi về đơn vị mình mà không bị đâm vào chỗ nào trên đường.

Tối ngày mùng Chín tháng Năm, chiến tranh được chính thức tuyên bố là đã kết thúc. Tiểu đoàn tôi tổ chức một bữa ăn mừng. Mỗi người đều được nhận một lít rưỡi thứ rượu vang mà tôi đã đem về. Ít nhất đó là tiêu chuẩn chính thức; thực ra anh có thể uống đến hết sức mình. Chiều hôm đó, không ai còn có thể đứng vững trên hai chân mình được nữa. Súng nổ ở khắp nơi. Những luồng đạn xanh đỏ rạch dọc ngang bầu trời. Người ta có thể cho là có đánh nhau, nhưng đó chính là lễ mừng hòa bình. Thế giới và tất cả xung quanh tôi đều đang say xỉn và cứ thế kéo dài cho tới khi kết thúc. Đó chính là CHIẾN THẮNG!

Nước Áo là một đất nước tươi đẹp và yên bình, nhưng giờ đây điều chúng tôi thực sự mong muốn là được trở về quê nhà.

Dịch từ Nga sang Anh: Kirill Finkelshteyn
Hiệu đính bản tiếng Anh: James Quinn
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

HỒI ỨC CỦA LÍNH THÔNG TIN
Yurii Koriakin

Tôi bị động viên vào tháng Mười năm 1941, khi vẫn còn học lớp 10, trong những ngày Matskva tràn ngập nạn phá hoại, cướp bóc và hoảng loạn. Tôi bị động viên dù mới vừa qua sinh nhật lần thứ 17 của mình. Có lẽ nhằm mục đích không bỏ sót dù chỉ một người lính trong tương lai cho bọn Đức.

Trong khoảng một tuần lễ, tôi hoạt động như thành viên trong một nhóm của quân ủy khu Il'ino-Zorino, ngoại ô Gorkiy. Những khu trại lớn có tổ chức được lập tại đây. Họ dồn chúng tôi trong những hầm trú xây âm một nửa dưới đất chứa tới 300-400 người. Tôi được xếp vào khóa học dành cho hạ sĩ quan. Chúng tôi được bố trí đi đào những chiến hào. Họ chuẩn bị huấn luyện chúng tôi thành những sĩ quan nằm vùng, nhiệm vụ này nghĩa là cầm chắc cái chết. Đại diện của các binh chủng khác cũng thường xuyên tới trại này. Họ chọn lựa và tuyển lấy những ai phù hợp công tác của họ. Trình độ chưa hết lớp 10 của tôi được coi là mức văn hóa khá cao thời kỳ ấy, nên tôi cũng được chọn. Đầu tiên người ta cho tôi vào một đơn vị Cận vệ súng cối phản lực. Tại đấy tôi bị loại và gửi trả về bởi tôi đã kể rằng cha tôi đang ngồi tù. Rồi tôi lại tới một đơn vị khác. Một lần nữa tôi bảo với họ rằng cha mình đã bị tù - tôi là một người thành thật, nhưng đáng ra tôi nên nói dối - do đó tôi nói dối trong lần thứ ba, khi họ tới để tuyển những điện đài viên. Tôi quyết định: "Mình nên nói gì nhỉ? Mình sẽ bảo rằng cha mình đang đi tản cư. Ai mà kiểm tra ra được?" Mọi việc xảy ra đúng như thế. Tháng Hai năm 1942, cuối cùng tôi cũng tới được mặt trận, trước đó thậm chí còn học xong khóa dạy liên lạc viên vô tuyến của trường Gorkiy. Một lần nữa tôi lại gặp may: tôi trở thành điện đài viên tại Zapoliarye, trên tuyến Kandalaksha thuộc Lữ đoàn Lính thủy đánh bộ độc lập số 77. Do đó, đơn vị chúng tôi gồm toàn thủy binh. Họ khác thường ở chỗ cứ nói được một từ tiếng Nga bình thường thì phải chêm vào tới năm câu chửi thề. Tôi cũng biết những câu chửi đó, nhưng chửi nhiều, dẻo miệng, thường xuyên và cứ tự nhiên phun ra như họ thì thật đáng nể đối với tôi. Ngoài ra, họ thường cởi nút cổ áo để phanh ngực áo lót kẻ sọc cho mọi người thấy, và họ khoe cả những hình xăm - nội dung không ngạo đời hay tục tĩu mà rất yêu nước: chân dung Stalin hoặc một chiếc mũ thủy thủ. Bọn Đức, chứ không phải Phần Lan, đối đầu với chúng tôi: Sư đoàn SS Nord, những tên lính to lớn, mạnh khoẻ, trang bị tốt. Mùa hè năm 1941 chúng tiến qua biên giới được 150 kilômét, nhưng khi còn cách Kandalaksha 70 km thì chúng bị chặn lại, và suốt từ mùa thu năm 1941 cho tới mùa hè năm 1944 không hoạt động quân sự tích cực nào được tiến hành trong khu vực mặt trận của chúng tôi. Mặt trận yên tĩnh được gần hai năm rưỡi, chúng tôi thậm chí còn đào được chiến hào, dù cách duy nhất để xuyên thủng lớp đất băng giá này là dùng cuốc chim hoặc xà beng. Hai bên sườn chúng tôi bị bỏ trống - ở đấy toàn là đầm lầy và hồ ao. Các anh đã xem phim "Nơi đây bình minh yên tĩnh" chưa? Một cuốn phim hay. Vâng, họ chiếu lại đúng cảnh vật nơi đó. Thật hoang vắng. Thêm vào việc để trống hai bên cánh và thói quen chiến đấu vào mùa đông, khi đầm lầy và hồ ao đóng băng, nhiều hoạt động trinh sát-nghi binh được tiến hành đằng sau phòng tuyến của địch.

Hai tới ba trung đội được nhập lại, gồm từ 60 tới 90 người, cộng thêm tôi và máy điện đài, và tất cả cùng đi lang thang trong hậu phương quân Đức. Chúng tôi di chuyển bằng bàn trượt, đôi khi có đem theo hươu để vận chuyển đạn dược và thương binh. Không bao giờ chúng tôi đem theo chó - chúng hay sủa, lũ khốn khiếp. Chúng tôi tiến rất xa, tới tận Rovaniemi (khoảng 200-250 km. - Artem Drabkin), và đi trong những ngày mà thậm chí ngay bọn Đức cũng không chịu ra chiến đấu. Ví dụ những Lễ Giao thừa năm 43 và 44 tôi đã phải đón ở sau phòng tuyến của địch. Chúng tôi khởi hành vào khoảng 20 tháng Chạp, do đó tới Giáng sinh chúng tôi đã lọt sâu trong hậu phương địch. Thằng Đức nào lại đi đánh nhau trong đêm Giáng sinh? Vậy mà đám lính Nga lại làm chuyện đấy. Thế đó - lũ Nga tinh quái! Chúng tôi tấn công những đồn bót của quân Đức, gài mìn các con đường. Chúng tôi luôn tính toán sai lực lượng, đó là lý do tại sao thất bại thường xảy ra - tin tình báo hiếm khi chính xác: thường là một đồn phòng thủ hoá ra không yếu như trinh sát báo cáo, trong đồn có tới 200 lính thay vì 50. Những lần ấy hành quân rất khó khăn: vừa rét, vừa sợ, lại vừa mệt nhọc. Cứ thử sống khoảng ba tuần trong cái lạnh âm 20-30 độ ấy mà xem! Thế đấy! Mặc dù chúng tôi ăn mặc khá ấm: valenki (ủng nỉ), quần bông, áo choàng ngụy trang mùa đông, rồi tới áo vét, quân phục, đồ lót bằng len ấm, và trong cùng là đồ lót vải lanh thông thường. Họ phát cho chúng tôi rượu vodka và 100 gram bánh mì mỗi người một ngày. Chúng tôi cũng được cấp thịt hộp Mỹ. Hương vị thật dở! Một hộp thiếc to, trong có một lượng mỡ lợn chỉ vừa đủ phết lên một lát bánh, và ở giữa - một mẩu thịt bằng nhỏ bằng nắm tay. Dù sao, chúng tôi cũng không chết đói ... còn có bánh mì khô. Chúng tôi thậm chí còn có đèn dầu, thường được gọi là loại "ấn-đẩy". Đó là một cái hộp thiếc nhỏ, cỡ bằng hộp mứt, trong chứa sáp pha cồn. Nếu bạn đốt cái hỗn hợp này, nó sẽ cháy và cho một ngọn lửa trắng sáng. Nhờ nó bạn có thể hâm thức ăn hoặc đun nước.

Nhưng sao lại đi đốt cồn - phải đem uống nó chứ! Đó là lý do chúng tôi bỏ nó vào một mảnh giẻ và đem vắt - bạn sẽ lấy được khoảng 50 gram rượu cồn, và kể từ khi chúng tôi được nhận khá nhiều hộp chất đốt đó, ta có thể nhậu thoải mái, dù việc đó tất nhiên là không hay ho gì, nhưng chỗ sáp còn lại vẫn cháy tốt. Về vũ khí, trong những cuộc đột kích đó chúng tôi đem theo tiểu liên và lựu đạn, đôi khi có thêm một hay hai khẩu Degtiarev. Từ năm 1942 trở về trước chúng tôi vẫn còn sử dụng loại súng trường Mosin - tất nhiên đó là loại vũ khí rất bất tiện, về sau họ cấp cho chúng tôi loại tiểu liên PPSh. Hoàn toàn không có hỗ trợ hoặc thả dù tiếp tế từ "miền đất lớn". Nói chung, chúng tôi vác tất cả trên đôi vai mình: súng tiểu liên, ba lô, máy điện đài. Điện đài của chúng tôi là loại V-100 sản xuất tại Mỹ, có bộ phận thu phát to bằng cái TV cỡ trung. Khi ở chế độ thu tin, nó sử dụng một bộ ắc quy BAS-80, cấp được 80 Volt, nhưng khi chuyển tin nó cần bộ nguồn phụ, do đó mới có tên gọi "động cơ lính" đi kèm: một cái giá ba chân gập lại được có gắn pê đan, thường được quay bằng tay. Nó có công suất mạnh hơn loại do ta sản xuất, và mỗi khi phải đi xa, chúng tôi luôn đem nó theo. Chúng tôi rất hiếm khi di chuyển bằng máy bay: người ta sợ chúng tôi sẽ bị phát hiện. Nói chung, công việc của một điện đài viên rất khác thường: anh luôn phải hoạt động đơn lẻ. Cấp trên đày đọa anh mọi điều chỉ vì sợ anh bị phát hiện và bị pháo địch tiêu diệt, đồng thời họ cũng không thể thiếu chúng tôi, do đó chúng tôi luôn có mặt, trong một hầm trú ẩn, một cái hào, một hố bom; anh bò vào trong và ngồi đó để sẵn sàng chờ được gọi, nhưng anh chỉ được đi máy bay thực hiện nhiệm vụ trong những trường hợp cấp bách nhất. Tín hiệu tới chúng tôi đều đã được mã hóa thành những cột năm chữ số, do đó tất nhiên tôi không thể biết được nội dung của chúng.

Lữ đoàn trượt tuyết số 31, Sư đoàn xạ thủ Cận vệ số 10, mùng 2 tháng 11 năm 1942.
Mặt trận Karelian.

Tôi nhớ nhất mùa đông của năm 43-44. Đó là chuyến hành quân đẫm máu nhất của chúng tôi. Chúng tôi có từ 80 tới 90 người, và tổn thất tới 30-40 người, tức là cứ mỗi người trong nhóm thì có một người khác bị thương hoặc hy sinh. Lần ấy có một trường hợp bi thảm xảy ra. Có hai anh em cùng phục vụ trong đơn vị chúng tôi, và trong trận đột kích vào một công sự bê tông, một người trong họ chui vào bên trong, nhưng người còn lại, do không biết chuyện đó, đã ném vào một quả lựu đạn và giết chết anh ta. Anh ấy đã đau khổ ghê gớm ... Thậm chí đã định tự sát. Ngay khi đấy chúng tôi nhận được lệnh của Stalin - không được bỏ lại những người đã chết, và nhất là những người bị thương, tất cả phải được đưa về. Chúng tôi lôi họ trên những chiếc "volokushas" - một chiếc cáng nhỏ bằng gỗ dán có gắn sợi thừng kéo. Lần đó tôi phải kéo về một thủy binh bị thương. Thực ra, chiếc cáng không quá nặng, nhưng phải kéo đi hàng chục dặm đường, thêm nữa tôi còn phải mang cái điện đài, một khẩu tiểu liên, chiếc ba lô tôi đặt dưới chân anh ta... lại không phải trên đường lộ - có đến cả trăm lần tôi làm ngã anh ta trên những chỗ gập ghềnh và phải đặt anh ta lên cáng trở lại. Anh lính thủy đó, hiện tôi vẫn không biết được tên, bị thương vào ngực, và dù tôi đã băng cho anh, máu vẫn cứ chảy ra. Tôi còn có thể làm được gì? Chúng tôi không đem y tá theo cùng. Mỗi lần hồi tỉnh, anh ấy lại van xin: "Người anh em, hãy bắn tôi đi, bắn tôi đi, người anh em... " Cuối cùng tôi cũng đưa được anh về tới nơi, nhưng lúc đó anh đã chết mất rồi. Thêm nữa, khi ra chiến tuyến, chúng tôi bắt buộc phải giữ liên lạc chặt với Sở chỉ huy. Chỉ huy trưởng, thiếu tá Karasev, một người rất khắt khe, bắt chúng tôi phải luôn chuẩn bị điện đài sẵn sàng, và bạn tôi lại cắm nhầm nguồn ắc quy 80 V vào dây bóng đèn, có hiệu điện thế cho phép chỉ 2.5 V! Tất nhiên, tất cả đèn bên trong đều cháy sạch, nên máy chỉ có thể chuyển tin nhưng không nhận tín hiệu được nữa. Chỉ huy hét lên: "Tao sẽ bắn chúng mày, lũ cặn bã!". Tất nhiên anh ta không bắn chúng tôi, nhưng bù lại dịp đó chúng tôi không được nhận bất cứ thứ huy chương bằng khen nào. Một lần khác, sau khi quay về căn cứ, chúng tôi kéo lật một chiếc xe tải chở bánh mì, đang đói quá mà. Một bản cáo tội tất cả đám chúng tôi được lập, và dù người ta cũng đã tìm mọi cách bưng bít, chúng tôi lại một lần nữa mất cơ hội được khen thưởng. Nói chung, cứ chuẩn bị tới dịp khen thưởng là tôi lại gặp xui xẻo. Năm 45, tôi cứu sống trung đội trưởng đã gần chết đuối khi vượt sông, và vì đã cứu chỉ huy, đáng ra anh phải được khen thưởng - một lần nữa họ lại không trao cho tôi. Vâng, tôi cũng có được một Huân chương Sao đỏ, một huy chương "Dũng cảm", nhưng thế cũng không nhiều lắm... Dù sao, người ta cũng không thưởng quá nhiều cho một tay lính trơn.

Vài lần chúng tôi đem về tù binh. Chúng tôi không bắt quá nhiều: chúng gây biết bao phiền toái. Tất nhiên, tốt nhất là bắt được bọn sĩ quan, những "cái lưỡi" ở cấp thấp hơn thì không hữu dụng. Đám tù binh phải cùng trượt tuyết với chúng tôi và đôi khi bị bắt phải kéo thương binh. Ván trượt của bọn Đức rất tiện lợi. Của chúng tôi - valenki và dây buộc bằng da mềm, còn của chúng có "kiểu Ba Tư", nghĩa là một đôi giầy ấm có đầu uốn ngược lên, đặt dưới một cái kẹp gắn vào ván trượt. Mỗi khi quay về, người ta có bố trí ôtô hay xe chó kéo ra đón chúng tôi, đưa tù binh đi hỏi cung và chở thương binh tới bệnh viện. Sự mệt mỏi của chúng tôi lúc đó đã tới tột cùng, một sự mệt mỏi ghê gớm, cùng kiệt... Nhưng chúng tôi thế vẫn còn may: chúng tôi không phải là những kẻ duy nhất phải làm việc này. Tôi được biết có đội chẳng may rơi vào ổ phục kích, và vài người bị bọn Phần Lan bắt được, mà bọn Phần Lan thì thật tàn ác. Vì thế hẳn tôi đã được nhận một món quà của số phận, món quà không ai có thể ban cho một cách hào phóng hơn - tôi vẫn CÒN SỐNG. Vậy mà tôi đáng lẽ đã phải chết, và không chỉ một lần.

Suốt mùa hè mọi chuyện đều dừng lại: cả bọn Đức lẫn chúng tôi không bên nào chịu tấn công. Chốt điện đài của chúng tôi đặt trên đỉnh một ngọn đồi, cách chiến tuyến khoảng 300 mét, ngụy trang giữa đám cây lá rậm rạp. Vâng, lúc này đang là tháng Bảy, trời nóng nên chúng tôi cởi quần áo ra và tắm nắng. Đột nhiên, không biết từ đâu một chiếc "Focke-Wulf" xuất hiện! Nó nã một tràng vào chúng tôi rồi lượn vòng và bắn một loạt nữa, và rồi bắt đầu rượt đuổi chúng tôi. Nó bay khá thấp, khoảng 10-15 mét, thậm chí chúng tôi còn thấy cả tên phi công đang cười cợt, còn chúng tôi, tay không tấc sắt, mình trần như nhộng, đang chạy tán loạn trên trảng cỏ xanh. Hắn đã bắn trượt, thật hú vía. Ngoài chuyện ấy ra, những thứ khác thật tẻ ngắt. Nhiều người xin được chuyển sang mặt trận khác, nhưng thường là không ăn thua gì: "Cứ ngồi yên đấy. Ở đây cũng có đánh nhau. Tổ quốc yêu cầu anh có mặt tại những nơi cần có anh". Bom đạn liên miên suýt làm chúng tôi thiệt mạng bởi cả hai bên đều thả bom cháy để thiêu rụi các cánh rừng. Trong thời gian yên tĩnh, người ta bắt lính tráng làm đủ chuyện. Thường thường, chúng tôi phải đi nhặt quả rừng đem tới bệnh viện: việt quất, dâu, quả lý. Chỉ tiêu của mỗi ngày: mang được về nhà bếp một hộp sắt tây đầy quả. Vâng, chúng tôi cũng tự mình tổ chức nhiều thứ: xây dựng một xưởng cưa gỗ, đào hầm trú ẩn, xây một câu lạc bộ sức chứa 200 người. Chỗ chúng tôi cũng có diễn kịch và chiếu phim. Tổ chức được vài giải thi đấu thể dục thể thao. Đôi khi có cửa hàng lưu động tới phục vụ. Tại đấy, bằng đồng lương quèn được trả chúng tôi có thể mua được thuốc bột đánh răng, nước hoa, phong bì để gửi thư. Và còn tình tang với mấy cô lính thông tin, hoặc với mấy ả nhân viên kiểm duyệt ở quân bưu trạm dã chiến. Ở đấy các cô gái xinh xắn và có học hơn.

Năm 1944, khi một chiến dịch tiến công đang được chuẩn bị, những đơn vị mới, hầu hết là cánh pháo binh, ùn ùn kéo tới. Họ được lệnh phải đột kích qua tuyến phòng thủ mà quân địch đã xây dựng trong suốt hai năm rưỡi trời. Đấy là lần đầu tiên tôi được thấy hỏa tiễn "Katiushas", nhưng tôi ấn tượng với những giàn "Andryushas" hơn bởi hình dáng to mập của quả đạn (tức giàn hỏa tiễn hạng nặng BM-31-12, chuyên dùng phá hủy hệ thống phòng thủ - LTD), nằm trong hộp chứa gỗ hình tròn để có thể dễ dàng lăn đi được. Thế rồi có lệnh xuống yêu cầu tất cả những gì đang di chuyển sau chiến tuyến quân Đức đều phải bị huỷ diệt, kể cả lũ chó. Lúc này đang là mùa hè, và đám trinh sát thông báo họ trông thấy có mấy ả gà mái trần truồng đang bơi lội trên hồ và tắm nắng, có lẽ đó là một nhà thổ di động phục vụ bọn SS (có cách nào khác để tìm thấy đàn bà trong cái đám rừng hẻo lánh như vậy?), và họ trút xuống đó một loạt "Katiusha". Giờ đây nhớ lại tôi thấy chuyện này thật dã man, nhưng vào thời điểm ấy thế là bình thường - chúng tôi đã cười cợt với nhau, thế đấy. Tất cả chúng tôi đều sẵn sàng làm thế. Các bức tranh cổ động vẽ hình một người đàn ông nhìn thẳng vào bạn và hỏi: "Anh đã giết được tên Đức nào chưa?" được treo ở khắp mọi nơi. Hay một người Slavơ đang ngồi và giơ lên trong lòng bàn tay ba cái vỏ đạn rỗng, cùng một câu thơ ghi ở dưới: "Hỏi sao không khỏi tự hào, ba viên đạn bắn ba thằng Đức tiêu!". Tinh thần chung là như vậy, trong bọn chúng tôi ai cũng từng trải qua biết bao gian khổ của thời chiến, ai cũng có người thân đã chết hoặc đang trong vùng bị địch tạm chiếm.

Cuộc tấn công bắt đầu vào mùa hè năm 1944 và chúng tôi đã tiến được tới Rovaniemi. Chúng tôi không đi ở tuyến đầu, nhưng phải vác điện đài đi cách hàng lính bộ binh chỉ khoảng hai ba trăm mét. Thế đấy, nếu như anh để bị giết thì thật là ngu xuẩn - chẳng ai thèm nhắm vào anh. Tuy nhiên vào thời điểm ấy, đám điện đài viên chúng tôi đóng vai trò rất quan trọng, do thiếu liên lạc hữu tuyến nên mọi hoạt động hiệp đồng tác chiến đều phải thực hiện thông qua điện đài. Hơn nữa, lúc này tôi đã được thăng chức trung sĩ và chỉ huy một trạm điện đài với hai nhân viên dưới quyền.

Tháng Chạp năm 1944, trung đoàn tôi được chuyển tới vùng Vologda để nghỉ ngơi, nâng cấp khí tài và bổ sung quân số. Chúng tôi tiếp nhận loại điện đài mới. Nhờ rượu vodka giúp sức tôi đổi được khẩu tiểu liên PPSh của mình lấy một khẩu PPS báng gập; tuy hay giật vào sườn trong khi bắn nhưng nó lại nhẹ và có một băng đạn hình hộp. Chúng tôi được phát 75 gram rượu cồn mỗi ngày cho từng người, nhưng do làm việc ở trạm điện đài, xa hậu cần, họ cấp hẳn một lúc khẩu phần cho 10 ngày - 750 gram, anh cứ việc mà say lử cò bợ. Hình thành một cuộc đổi chác như sau: tôi đưa một bình rượu cồn cho viên trung sĩ, còn anh ta đổi lại cho tôi khẩu tiểu liên. Thế là thuận cả đôi đàng. Bằng cách đó tôi xoay được cả giày ủng và áo khoác vải xanh của Canada (thứ này rất có giá trị ở chỗ làm toàn bằng bông nguyên chất, không như hàng trong nước của ta)... Trong kho quân đội có rất nhiều thứ hấp dẫn, nhưng anh phải biết đúng cách mới kiếm được. Và rồi giai đoạn thứ hai trong cuộc đời binh nghiệp của tôi đã bắt đầu.

Vào tháng Giêng chúng tôi được chuyển tới Mặt trận phía Tây. Chúng tôi trải qua tái huấn luyện ở Đông Ba Lan, tại thị trấn Ostrow-Mazovetski, trở thành thành phần của Phương diện quân Belorussia 1 dưới sự chỉ huy của Rokossovskiy. Nhưng ngay khi chúng tôi tới nơi, mặt trận đã có sự thay đổi. Rokossovkiy được chỉ định làm chỉ huy Phương diện quân Belorussia 2, còn Zhukov trở thành chỉ huy trưởng Phương diện quân Belorussia 1. Họ chuyển chúng tôi sang Phương diện quân Belorussia 2. Chúng tôi chỉ bắt kịp phương diện quân của mình khi đi tới tận Pomerania. Pomerania là một vựa lúa, vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất ở Đức, trồng rất nhiều khoai tây và hơn nữa là rất nhiều rượu nặng. Đây là nơi diễn ra câu chuyện mà tôi đã thuật lại trong một truyện ngắn in trên tờ Nezavisimaya Gazeta. Tại Koslin (Koszalin) chúng tôi tiến tới sát biển, rồi quay xuống phía đông, gần tới Gdynia, rồi quay lại và tiến về Swinemunde (Swinoujscie). Lúc này tôi phục vụ tại trạm radio của trung đoàn, gắn trong một chiếc "Studebaker US6x6" hay "sudar'", như chúng tôi thường gọi. Điện đài của Mỹ, loại SCR-399 một máy, gắn trên rơ moóc có cabin.

Trạm thu phát radio SCR-399. Mùa thu năm 1945.

Ngoài ra, trong chiếc xe tải còn gắn bộ dụng cụ sửa xe và một cái áo khoác da cho tài xế. Nếu bạn từng thấy cảnh tất cả các vị chỉ huy cao cấp của chúng ta diễu hành ngoài mặt trận trong bộ áo khoác da, thì đó chính là những cái áo lấy từ bộ phụ kiện đi kèm chiếc Studebaker của Mỹ. Đột nhiên vào chiều ngày mùng 9 tháng Năm chúng tôi được gọi tới Kolberg (Kolobrzeg) và nhận lệnh thu xếp lên một chiếc xà lan. Họ bảo chúng tôi được bố trí vào thành phần của một lực lượng đổ bộ. Chiếc xà lan rộng khoảng sáu mét, chúng tôi buộc chiếc Studebaker của mình vào sàn tàu và chuyển những con ngựa cùng đại bác vào trong khoang trống. Ngay khi trời vừa tối, chúng tôi bắt đầu lên đường. Hãy thử tưởng tượng xem - bộ binh mà đi ngoài biển! Chúng tôi bị nhồi lắc dễ sợ! Tệ nhất là khi một trong những sợi cáp buộc chiếc xe bị đứt. Vâng, khi đó chúng tôi đã nghĩ rằng, nếu chiếc Studebaker rơi xuống biển, tất cả chúng tôi sẽ phải ra tòa án binh. Trong đám chúng tôi có một tay thủy thủ, một điện đài viên tên là Arkashka Kucheriavyi, dân Leningrad. Anh ta trườn dọc theo mạn lườn hẹp gần sát mặt sóng, tìm được một đoạn xích sắt, và thế là chúng tôi lấy nó để ràng chặt chiếc xe tải lại. Tới sáng chúng tôi đã trông thấy đất liền, nơi ở nhà thông báo là: "Đan Mạch. Đảo Bornholm". Khi chúng tôi tiến vào gần bến cảng, lúc độ sáu giờ sáng, chúng tôi nghe có tiếng súng nổ, nhưng tới khi chiếc tàu kéo dắt chúng tôi vào thì tiếng súng ngưng, và chúng tôi lên bờ trong sự yên tĩnh tuyệt đối. Hóa ra ở đấy đang có 18 ngàn tên Đức trên đảo và sau khi chống cự một lúc, chúng mau chóng hiểu được vấn đề và đầu hàng. Lái xe ra ngoài thị trấn, tôi được quan sát cảnh sống đời thường ở đây. Ngay tại bến cảng có một cái biển đề chữ "Cafe", tôi và một anh bạn chui vào đấy, trông thấy bên trong có nhiều người Đan Mạch đang ngồi ăn kem. Chúng tôi quyết định phải mua thứ gì đó, bèn rút tiền ra (chúng tôi được cấp cho tiền mark Đức), nhưng người bán hàng lảng ra xa chúng tôi như quỉ phải mùi trầm, miệng nói câu gì đó nghe như "Nicht, Nicht" - có nghĩa là không dùng loại tiền này. Chúng tôi đành ra về tay không. Cũng trong ngày hôm đó chúng tôi được biết chiến tranh đã kết thúc. Tôi vặn bộ nhận sóng radio, bắt đài Maskva, ở đó họ cũng đang phát tin thông báo chiến thắng. Trong trường hợp này làm điện đài viên cũng có lợi: anh có thể ngồi nghe nhạc hoặc nghe tin tức; dù sao thì chúng tôi cũng vẫn phải làm việc này thường xuyên, luôn sẵn sàng để nhận tin đến. Thậm chí có lần tôi bị nêu tên trước cuộc họp đảng bộ chỉ vì đã nghe nhạc trong khi làm nhiệm vụ. Chúng tôi phải luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm, đó là những gì mà SMERSH yêu cầu: điều gì xảy ra nếu như anh đang bắt liên lạc với kẻ thù? Bằng cách đó bạn thường xuyên bị kiểm soát. Vào thời kỳ này bạn phải luôn cẩn thận với nguy cơ bị tố giác, vu cáo.

Trung sĩ Yu. Koriakin, Graiforberg
Mùng 9 tháng Năm năm 1945

Chiến tranh đã kết thúc, nhưng chúng tôi phải trải qua hai tháng nữa ở cái chốn nghỉ chân ấy. Đáng tiếc là ở đây họ có lệnh cấm, nhưng chúng tôi đã linh động đổi xăng, dây điện thoại, bóng đèn, ắc quy để lấy nước hoa. Ngày 14 tháng Sáu là sinh nhật tôi. Mọi người bảo: "Cậu nợ chúng tớ nhé. Hãy tổ chức chút cay đi, chúng tớ đã phát ngán thức ăn của bếp dã chiến rồi". Phải làm thế nào đây? Xem nào, chúng mình đang sống ngoài biển mà. Ừ thì cậu có thể đi bắt lấy mấy con cá, nhưng làm gì có lưới. Thì phải nghĩ ra cách - làm cho chúng (lũ cá) choáng. Chúng tôi có trong tay loại ắc quy cho đèn pin. Chúng rất có giá bởi mọi người, kể cả binh lính và sĩ quan, đều dùng đèn pin, nhưng theo quy định quân đội, chỉ chúng tôi mới được quản lý ắc quy. Tôi quấn rất vài bộ ắc quy quanh một cọc mìn cá nhân và một quả mìn chống tăng, và cùng với một đồng đội chèo ra biển, và rồi bằng một cuộn dây điện dã chiến, chúng tôi có được con thuyền từ một gã Đan Mạch. Chúng tôi chất mìn và dây ngòi lên thuyền và bắt đầu "buông câu" khi đã ra cách bờ khoảng nửa cây số - gắn dây ngòi vào, châm lửa và thế là xong. Còn nói về cá, khoảng nửa tiếng sau, chúng tôi chất lên đầy cả nửa chiếc thuyền! Chúng tôi quay về. Một tay lính tuần cầm tiểu liên chặn đầu chúng tôi: "Bước ra!". Gã Đan Mạch đứng cạnh anh ta. Hắn đã bán đứng chúng tôi! "Đi đều bước!". Tay trung sĩ dẫn chúng tôi về sở chỉ huy, càu nhàu: "Hãy xem này," anh ta nói - "chúng đã kiếm ra một trò mới, làm choáng cá! Chúng mày đã xé rách biết bao nhiêu lưới. Đám ngư dân đang than phiền với chỉ huy kia kìa! Khi nào về tới sở chỉ huy, tao sẽ cho chúng mày biết tay!" Tôi không cho là họ sẽ đưa chúng tôi ra tòa, nhưng chúng tôi hẳn sẽ bị khiển trách hoặc bị phạt giam. Họ đã chuẩn bị từ lâu rồi - dán thông cáo khắp nơi và tổ chức mít tinh chỉnh huấn về cách thức cư xử với cư dân địa phương. Tôi nói với tay trung sĩ: "Thôi nào, thỏa thuận về vụ đi choáng cá nhé, hôm nay là sinh nhật tớ mà! Cứ vờ như chẳng thấy gì hết: cậu thả chúng tớ ra, còn tớ sẽ đưa cho cậu một con dao Phần Lan." Tôi có một con dao Phần Lan với cái tay cầm trạm trổ rất đẹp. Anh ta nói: "Thế nếu thằng Đan Mạch đi tố chúng ta thì sao?" "Tại sao lại thế? Hắn đã có phần cá của chúng tớ rồi." "Thôi được" - anh ta nói - "đưa tớ con dao và xéo đi." Vâng, chúng tôi quay về với đồng đội, kể lại câu chuyện, đám bạn bảo: "Thôi cứ để quỷ bắt nó đi, cái mớ cá ấy, nhưng hãy kiếm về cho chúng tớ chút rượu nhé."

Trung đội chúng tôi. Bornkholm, tháng Sáu 1945
Trong ảnh Yu. Koriakin đứng đầu tiên bên phải.

Ngày hôm sau, sau khi hết phiên trực, tôi xách lấy cái ống nhòm và tới một tiệm bán thuốc để thử đổi lấy ít nước hoa. Tìm thấy một tiệm thuốc ở Ronne. Tôi bước vào, một tay cầm cái ống nhòm còn tay kia làm một động tác: ngửi ngửi lòng bàn tay rồi xoa nó lên tóc, và lặp đi lặp lại nhiều lần để diễn tả rằng tôi cần một chai nước hoa bôi tóc. Tay bán thuốc nói: "Ja, Ja", - gật gật đầu, ra vẻ là hắn đã hiểu. Tôi đưa hắn cái ống nhòm Zeiss 12x, đồ chiến lợi phẩm! Một món tuyệt vời! Trông rất oách! Còn hắn đem ra cả một chai to. Tôi giơ lên xem, đưa lên mũi ngửi - mùi rất thơm. À, tôi nghĩ, chắc hẳn là nước hoa đây rồi. Nhưng vỏ chai rất sẫm màu, nhìn không rõ bên trong, cái nút lại đậy chặt. Kéo nó ra. Chúng tôi rót đầy các cốc, uống mừng sức khoẻ của tôi, và rồi mắt mọi người lồi hẳn ra - đó là dầu thơm bôi tóc! Arkashka Kucheriavyi, người chở chúng tôi đi cấp cứu, đã bảo: "Cậu mang thứ quỉ gì về thế, đồ đần? Đây là bridăngtin, làm từ dầu thầu dầu. Các cậu còn đến khổ vì đã uống nó!" Tôi vớ lấy khẩu tiểu liên và cái chai còn thừa, quay lại chỗ tiệm thuốc. Tôi cố gắng bắt đền, nhưng hắn cứ bảo "Nicht, Nicht". Tôi nổi điên lên, tay nắm lấy khẩu súng. Hắn bèn bước khỏi quầy, cao, to hơn hẳn tôi, nắm lấy tay tôi và dúi tôi vào tường. Trên tường có dán một tấm áp phích song ngữ có chân dung vị chỉ huy phụ trách hòn đảo chúng tôi, thiếu tướng Korotkov. Tôi đọc cái thông báo cho cư dân đảo Bornholm rằng quân đội ta đã đến đây, giải phóng họ khỏi bọn Đức, và nghĩa vụ của chúng tôi là giữ gìn cho mọi người một cuộc sống yên lành. Phải ngay lập tức báo cáo lên sở chỉ huy mọi trường hợp vô kỷ luật của bất cứ quân nhân Xô viết nào. Gã Đan Mạch dúi mặt tôi vào thông cáo đó. Như một con chó bị đòn, tôi lê bước về nhà với cái chai trong tay. Quay mình lại - không có ai xung quanh. Tôi bèn ném mạnh cái chai vào bức tường, thế là lại gặp vận xui lần nữa - tôi bị nó bắn tung toé khắp người. Nhìn chung, tôi hay làm trò ngốc ở mọi nơi, nhưng tới giờ tôi vẫn còn nhớ tới chúng. Tới tháng Tám chúng tôi bắt đầu lên đường đi đánh bọn Nhật, nhưng tôi không phải tới đó. Đó là lúc chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi. Tôi phục vụ trong quân đội thêm hai năm nữa và rồi vào học ở MIFI (Học viện Vật lý và Kỹ thuật Maskva). Không ai còn quan tâm tới cha tôi nữa, thậm chí tôi còn được kết nạp Đảng. Họ đã chẳng để tôi, con trai của một kẻ thù nhân dân, lọt vào sau phòng tuyến quân địch đấy thôi?

* Tên gọi các thành phố được cố gắng viết theo tên đúng trước năm 1945. Trong trường hợp có đổi tên, tên gọi mới được chú thích đằng sau tên cũ.

Ghi âm và hiệu đính: Artem Drabkin
Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Yurii Koriakin
Mặt trái của Chiến thắng

...Ấn tượng của mặt trận rất khác lạ và sâu sắc đối với chúng tôi, những người tới từ vùng địa cực. Sự hoang vắng, những vách đá, rừng rậm và đầm lầy bị thay thế bởi những đám hoang tàn ngún khói, những hố bom, những thành phố với phố phường bốc cháy, các xác chết nằm ngổn ngang, những nơi ở chen chúc, những ngôi nhà to lớn đẹp đẽ trông lạ lẫm đối với chúng tôi, mái ngói của các dinh thự và nhà thờ cùng các xa lộ thẳng tắp mà trước đây chúng tôi chưa từng được thấy ...

...Trên hết tất cả, vừa rời vùng Vologda đói khổ, giá rét và tuyết phủ, chúng tôi đột ngột lọt giữa cái mùa xuân tới sớm tràn ngập ánh nắng. Trái ngược với khung cảnh ấy, những chiếc áo khoác lông cừu, mũ lông và valenki (ủng nỉ dùng để chống rét) bì bõm trong vũng bùn trông thật ngớ ngẩn, kỳ cục, làm thường dân Đức sợ hãi và gây nên những trận cười cùng những lời chế nhạo từ lính tráng của các đơn vị khác...

...Một liên lạc viên chạy tới, vẫy tay với tôi, hét lên: "Đồng chí trung sĩ, lên gặp đại đội trưởng!" Tôi vội làm theo. Đại đội trưởng, tay bận cài khóa chiếc cặp bản đồ, ngắt lời báo cáo của tôi: "Có trông thấy ký hiệu này không? Con đường này dẫn từ đây tới một cụm nhà, thấy không? Anh hãy bố trí trạm điện đài của mình ở đấy và mau chóng quay lại đây. Sở chỉ huy" - anh ta hất đầu về phía một ngôi nhà - "sẽ đóng tại đây. Rõ chưa?" Sau vài phút, tôi cùng anh bạn Dimka đã tiến được tới chỗ cái bảng chỉ đường có ghi chữ "Aikfir". Chúng tôi bước tới ngôi nhà đầu tiên trong làng. Tôi xem xét xung quanh. Dường như chẳng còn ma nào trong làng. Căn nhà rất đồ sộ, có hai tầng và một gác mái. Một cái cây cao mọc cạnh đó, bạn có thể chạm vào nó nếu đứng từ mái nhà. Nếu ta leo lên cao trên cây, gắn cái ăng ten vào đấy và đưa dây vào căn phòng áp mái thì sẽ có được một trạm truyền phát tin lý tưởng. Nhưng chúng tôi cần vào xem bên trong nhà trước. Ba năm ngoài mặt trận đã dạy cho chúng tôi phải hết sức cẩn thận. Tiểu liên sẵn sàng nhả đạn, theo sát từng vết chân của nhau (do đôi ủng nỉ còn đang ướt), chúng tôi leo vào hiên nhà, buộc một sợi thừng vào quả đấm cửa, rút lui, và khi đã nấp kỹ sau một cái cây, ra tay kéo mạnh. Cái cửa mở tung ra. Đã vững tâm hơn, chúng tôi quan sát bên trong: một cái sảnh nhỏ, trống rỗng, và một ô cửa ở bên trái. Một lần nữa chúng tôi dùng cách trên kéo nắm cửa. Và cuối cùng, nện thình thịch đôi ủng nỉ ướt bết đầy đất cát dưới đế, chúng tôi xuất hiện ở ngưỡng cửa với tất cả bộ dạng đẹp đẽ tới từ vùng Địa cực của mình, tay lăm lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn.

Suốt quãng đời còn lại tôi sẽ không bao giờ quên tiếng thét the thé, man dại của một cô gái nhỏ bé chừng 15-16 tuổi, từ sau một cái bàn nằm giữa căn phòng rộng bài trí rất đẹp ùa tới chúng tôi với đôi tay giơ cao. Thoáng cái cô gái đã lao tới dùng nắm tay đập vào ngực tôi, đấm vào tà áo da cừu cáu bẩn, miệng không ngừng lặp lại: "Ich bin krank! Ich bin syphilis!" Nắm lấy tay và gạt cô bé sang một bên, tôi quay sang Dimka: "Cô ta bị sao vậy? Cậu có hiểu chuyện gì không?" Anh chàng Dimka nhe răng cười: "Hiểu quá đi chứ". Và lập tức tôi tự hiểu ra mọi chuyện. Giữ chặt cô gái đang điên dại khóc lóc, tôi ngẫm nghĩ: "Mình cần quái gì cái con bé đang sụt sùi này trong khi lại phải leo lên tầng gác mái? Nếu mình thả nó ra - chỉ có quỉ mới biết nó sẽ làm bậy chuyện gì." Trò chuyện với cô ta - cả tôi lẫn Dimka đều chỉ biết chút ít tiếng Đức. Tát cô ta chăng, để cô ta đừng quẩn chân chúng tôi - tôi không thể bắt mình làm chuyện đó được: cô ta chỉ là một cô gái ngớ ngẩn. Bối rối, tôi nhìn quanh, thử tìm buồng cầu thang. Chẳng thấy đâu cả. Dimka đã phát hiện ra trước tôi: "Cái cửa!" Nó nằm đằng sau lưng tôi, gần cái cửa mà từ đó chúng tôi đã bước vào. Tôi dợm bước về cái cửa đó; cô gái vùng khỏi tay tôi và chạy ra trước mặt tôi, tựa lưng mình vào cánh cửa và lại lần nữa hét lên một cách tuyệt vọng: "Nicht, nicht" Và cô ta bật ra: "Ich bin..." Tôi bắt đầu thấy nghi ngờ. Gặt phắt cô ta sang một bên, tôi hét lớn với Dimka: "Giữ lấy nó!" - và tay lăm lăm tiểu liên sẵn sàng nhả đạn, tôi giơ chân đá tung cánh cửa, trong chớp mắt nhận ra nó đang mở vào trong. Trong cảnh tranh tối tranh sáng của căn kho xép chỉ có một cái cửa sổ nhỏ, tôi nghe có tiếng rên rỉ, than vãn và tiếng trẻ em khóc. Tôi nhìn vào trong. Chúa Mẹ ôi! Lố nhố những người đang ngồi trên băng ghế và trên sàn nhà. Tôi quan sát kỹ hơn: họ gồm một ông già, ba người phụ nữ và bốn đứa trẻ. Tất cả bọn họ đều than vãn rên rỉ, đặt trên đầu gối và cạnh người những chiếc giỏ đầy chứa vật dụng cá nhân. Có vẻ như họ đang chuẩn bị để bỏ đi đâu đó. Vâng, thử tưởng tượng nếu tôi lại nã một loạt đạn vào đây? Ối anh em ơi!...

Điếng người, tôi quay về chỗ người đồng đội, anh ta đang giữ chặt cô gái. Đúng lúc ấy chúng tôi nghe tiếng động của một chiếc xe đang tới gần. Cả hai chúng tôi đồng thanh hét lên: "Bọn Đức, nằm xuống!" Tôi nhào xuống ngay chỗ ngưỡng cửa, còn Dimka dúi cô gái xuống và bịt lấy miệng cô ta, mắt nhìn về cái cửa sổ phía có tiếng động vọng lại. Gia đình ở trong cái kho xép lập tức im bặt. Chiếc xe tắt máy, lúc này đã có thể nghe thấy tiếng người nói nhưng chúng tôi vẫn chưa xác định được là phe nào. Lặng lẽ, chúng tôi hạ thấp mình xuống. Như trong Ngày Phán xét, thình lình cái chuông của chiếc đồng hồ cũ kỹ trong phòng kêu vang lên. Tôi dò tay mình xuống phía dưới thắt lưng, rút quả lựu đạn ra. Cô gái nhìn thấy thế liền bắt đầu than khóc trở lại. Miệng lầm bầm chửi, Dimka giúi mũi cô ta xuống tấm thảm trải sàn. Rồi cậu ấy trườn về phía cửa sổ, tay vẫn không rời vũ khí. Nước mắt sụt sùi, cô gái bò theo sau. Từ góc cái cửa sổ, người "kỵ sĩ hộ vệ" của cô ta thận trọng nhìn ra ngoài và ngập ngừng lẩm bẩm: "Có vẻ như quân ta." Tôi bảo cậu ấy: "Có vẻ như! Thế nếu không phải thì sao?" "Không" - cậu ta nói, mắt vẫn quan sát, - "dứt khoát là dân Slavơ" - và đứng thẳng dậy. Cô gái cũng làm theo. Giọng nói đã gần hơn, chúng tôi nghe thấy khẩu lệnh "Vào vị trí, tuốt lưỡi lê". Phù, chúng tôi cảm thấy nhẹ người... Dimka xoay mặt cô gái về phía căn phòng kho, giúi vào phía sau đầu gối cô ta và bảo: "Quay lại chỗ họ hàng cô đi, đồ ngốc, chỗ cô trước ở đâu." Cô ta vùng chạy: cô ấy đã phải chịu đựng thế là quá đủ rồi.

Chúng tôi bước ra ngoài hiên. Nhiều người lính lập tức quay về phía chúng tôi. Họ hét lớn: "Các anh là ai? Giơ tay lên!" Từ thời điểm đó chúng tôi, tay cầm vũ khí giơ cao qua vai, ngay lập tức như cất được gánh nặng khỏi lồng ngực, theo cách nói của người Nga. Dựa theo loại súng trường cắm lưỡi lê đã lỗi thời từ lâu mà họ phô trương ra một cách ngu ngốc, cùng với những bộ quân phục kiểu mới, có thể xác định những người lính này rõ ràng thuộc lực lượng NKVD: mũ lưỡi trai có dải băng, áo choàng vạt dài làm bằng vải Canada màu lam xám (chúng rất có giá ngoài mặt trận) với những cầu vai sạch bóng, điệu đà cùng với loại ủng mới và không dùng loại xà cạp như đám lính chuyên bò sát đất chúng tôi thường đeo. Một đại úy nhảy xuống phía sau chiếc xe tải: "Sao lại ở đây! Các anh là ai?" Chúng tôi bèn giải thích. Anh ta lại gần, châm điếu "Belomor", tay chìa bao thuốc cho chúng tôi. Anh ta hạ giọng, như thể mình cũng tới từ mặt trận, nói vẻ thân mật với chúng tôi: "Ở đây là thế này, các bạn ạ, sẽ có nhiều chuyến xe tải sớm tới đây, chúng tôi sẽ xua dân làng đi. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ phía này. Các anh có hai giờ để làm chuyện của mình". Anh ta khẽ mỉm cười. "Nhưng tôi khuyên các anh không nên ở đây lâu, các anh không cần biết những gì sẽ xảy ra ở đây. Các anh đã nghe về Hội nghị Yalta chứ? Thế đấy. Người ta đã chuyển giao nơi này cho người Ba Lan." Anh ta hất đầu về phía ngôi nhà, hít vào một hơi: "Nhưng ở đây bọn họ sống tốt thật, giá như ở vùng Riazan chúng tớ cũng được vậy". Đột nhiên, như thể vừa tỉnh lại, anh ta cáu bẳn ngắt lời: "Tốt nhất là hãy xéo khỏi đây và về báo cáo lại với cấp trên các anh". Chúng tôi đồng loạt gật đầu: "Thưa vâng!", - và mau chóng, chúng tôi bỏ đi cho xa...

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Yurii Koriakin
NHỮNG BỨC THƯ

Thư ngày 22 tháng Tám, 1942

Shurik thân mến!*

Em đã nhận được bưu thiếp anh gửi và rất vui khi biết anh đang ở nhà, bởi em cứ nghĩ anh đã nhập ngũ. Hóa ra anh đang ở đấy, cùng những người sành sỏi, anh hãy khéo léo bám lấy Vaiyentorg (hệ thống cửa hàng phục vụ quân đội) như thế nhé. Đám Vaiyentorg cũng đôi khi tới chỗ bọn em, họ bán, như đúng tên gọi của mình, sôcôla bột, bánh mì con, đôi lúc có cả sushki, bubliki, baranki (các loại bánh nướng của Nga). Em sẽ kể kĩ hơn trong lá thư tới. Anh hỏi em hiện sống thế nào, em đã kể chuyện này trong thư gửi dì Tônhia, hãy tới lấy và đọc nó nhé, nhưng em sẽ viết riêng cho anh thêm một số chi tiết khác. Em không kể những chuyện này cho mẹ và dì Tônhia; không kể cho mẹ, bởi mẹ sẽ khóc cho xem, và không kể cho dì Tônhia bởi thể nào dì cũng kể lại cho mẹ, và kết quả cũng y hệt. Chuyện là không lâu trước đây em được gửi đi thực hiện một nhiệm vụ với một máy điện đài loại nhỏ, tất nhiên là không đi một mình mà cùng một nhóm chiến sĩ khác, và trên đường đi chúng em bị tấn công, khắp túi xà cột của em lỗ chỗ vết đạn, may sao em lại không bị dính, em đã chuẩn bị nói lời từ giã cuộc đời, dù những gì thường xảy ra với lính tập sự, như Erich Maria Remarque đã viết, không xảy đến với em. Chúng nã đạn cối vào bọn em, một mảnh đạn văng vào cuốn sổ tay và găm lại ở đấy. Hiện giờ người ta đã thay cho em cái xà cột bằng một chiếc balô.

Mẹ em cho rằng do là điện đài viên nên em sẽ được ngồi ở sở chỉ huy, nhưng không phải lúc nào cũng như thế vì bây giờ người ta luôn đi trinh sát cùng máy điện đài. Để làm gì? - Dễ hiểu thôi. Tóm lại, cứ để mẹ hiểu như thế. Rất có thể em sắp đi làm một nhiệm vụ nữa. Nhiệm sở chính của bọn em nằm cách chiến tuyến khoảng 10 đến 15 km, đôi khi đang đứng gác, nếu trời yên tĩnh, anh có thể nghe thấy tiếng đại liên, còn tiếng đại bác thì có thể nghe rõ suốt cả ngày lẫn đêm.

Em đã trông thấy những tên Đức bị bắt - chúng có hai đứa (bọn em bắt được lính Đức chứ không phải lính Phần Lan, trong khu vực bọn em phụ trách), một đứa trông không có gì đặc biệt, nhưng tên kia trông rất giống anh, cao, gầy nhom, có cái mũi nhọn hoắt. Lúc này ở đây trời đã lạnh, nên người ta cho hắn một đôi găng lông, hắn xỏ vào và nói: "ồ, gut, gut", và không hề có ý định trả chúng lại, thằng quỉ sứ ấy siết chặt chúng vào người. Nhưng hắn vẫn quen đeo đôi găng trẻ con, chắc cái thằng cặn bã ấy đã ăn cắp được ở đâu đó. Giầy của hắn phải tới cỡ 50, không ít hơn, đóng đế gỗ, và hắn luôn run rẩy trong tấm áo khoác của mình. Chúng em cho chúng một con cá hun khói, và chúng ngấu nghiến tận xương con cá cho tới hết, cái lũ quỉ đói ấy.

Các bạn trong đội của em rất tuyệt, có một người trong họ đã từng tham gia chiến đấu, tiểu đoàn mà anh ấy phục vụ bị tiêu diệt gần hết, chỉ còn 21 người sống sót, gồm cả anh ấy và máy điện đài, và trong suốt nhiều ngày anh ta kéo chiếc điện đài theo mình, có gắng mang nó về an toàn, dù nó không nhẹ chút nào, đúng ra là thiết kế cho hai người khiêng. Do bảo vệ được khí tài quân sự, anh ấy đã được đề nghị thưởng huân chương. Thôi, em dừng đây. Hãy viết cho em về sinh hoạt và công tác của anh nhé.

YuraK
22.08.42 (22 tháng Tám, 1942)
Tái bút: Anh viết cho em theo địa chỉ nào vậy?! Khi thì là 1140th p/y.
Khi lại là 114-O.P.S. (Trung đoàn Thông tin Độc lập)
Trạm Bưu điện dã chiến 389
Đại đội điện đài của Trung đoàn thông tin 114 **

Chú thích của Yuri Koriakin
* Anh họ của tôi, Aleksandr Aleksandrovich Gusev, thành viên khoa Vật lý tại Đại học Quốc gia Maskva năm 1941, sau đó nhập ngũ và trải qua nhiều tháng tại mặt trận vùng Voronezh, và sau khi giải ngũ do bị loét tá tràng, quay lại học tiếp đại học.

** Tôi phục vụ trong Trung đoàn Thông tin Độc lập số 114, được biên chế trực tiếp với Sở chỉ huy của Tập đoàn quân 19. Trung đoàn này thực hiện tất cả các hoạt động thông tin vô tuyến của tập đoàn quân. Những trạm thông tin di động như SRC-399 thường liên lạc trực tiếp với Sở chỉ huy mặt trận hoặc với Maskva, còn những nhóm công tác cấp thấp có nhiệm vụ khá linh hoạt. Nhân viên của trung đoàn, mà tôi là thành viên, thường được chọn đi thực hiện những hoạt động trinh sát và nghi binh khác nhau đằng sau phòng tuyến địch để cung cấp thông tin.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 10 tháng Mười, 1942

Chào Shurik!

Trước tiên, xin hãy giữ gìn cẩn thận những tờ giấy em viết. Chúng đã trải qua chiến trận, em phải tiết kiệm chúng, nhưng đã xảy tình trạng khan hiếm giấy viết và em quyết định đem chúng ra dùng. Đây là một vết mảnh đạn Đức ở dưới tờ giấy này. *

Em đã nhận được thư anh viết ngày 25 tháng Chín. Rất cám ơn anh vì đã thường xuyên trả lời các bức thư của em.

Em đang viết cho anh, Shurka, trong một tâm trạng cực kỳ ghê tởm. Em đã viết cho anh là đời em đang ... và em [không thể] ở mãi trong tình trạng này ... lâu hơn, ngồi mãi một chỗ, tại một nơi mà chỉ có Chúa mới biết ở đâu, trong khi có biết bao sự kiện trọng đại đang diễn ra quanh ta. Vậy mà, chuyện của em chỉ liên quan tới phái đẹp.

Vấn đề là trong suốt quãng đời ngắn ngủi của mình em luôn tìm cách tránh né các cô gái và không có bất cứ mối quan hệ thân mật nào với họ. Nhưng ngay trước khi nổ ra chiến tranh em bắt đầu quan tâm tới một cô gái rất xinh xắn học cùng trường em. Không, em không phải đã phải lòng cô ta, ... (đoạn bị tác giả tẩy xóa) Em chỉ đơn giản rất thích cô ta như là một học sinh giỏi, rất tiến bộ, và, tất nhiên, có bề ngoài không đến nỗi tệ. Cô ấy cũng đối xử khá cởi mở đối với em, và tới lượt em, giúp đỡ cô ấy viết các bài luận văn, giải các bài toán khó. Nói chung, mối quan hệ của chúng em rất tốt, rất Xô viết, và, hãy tin em, em không có bất cứ ý định thô lỗ nào đối với cô ta.

Và thế là, khi em gia nhập quân đội, ban đầu cô ấy có hồi âm cho em, viết nhiều bức thư, nhưng trong thời gian qua, khoảng một tháng hay lâu hơn, ... thư tới cho em, và từ khi đó ... [không] một lời một câu nào. Em đã gửi cho cô ta nhiều [lá] thư, không thể có chuyện cô ấy không nhận được chúng, nhưng cô ta không hề đáp lại. Do chuyện này mà em đang trong một tâm trạng đáng tởm. Nghe có vẻ thật nhu nhược khi chúng ta đang sống trong thời kỳ có biết bao sự kiện vĩ đại xảy ra, thật sai lầm khi tập trung vào những chuyện thế này như em, nhưng nó vẫn luôn quấy rầy tâm trí em, bởi cô ấy đối xử quá tệ với em, đồ đàn bà hư hỏng, ồ vâng - kệ mẹ cô ta, em sẽ vẫn sống được mà không cần có cô ấy. Tất cả chuyện này làm em thấy mình cần phải làm một điều gì đó chứ không chỉ ngồi mãi một chỗ. Và rồi, em đã quyết định. Quỉ bắt những thứ máy móc khốn khiếp ở trạm thông tin đi! Em muốn được phục vụ trong một đơn vị trinh sát với một máy điện đài cá nhân, nhất là vào lúc này. Em cũng đã có kinh nghiệm, nên em sẽ viết một đề nghị lên cấp trên, trong đó em sẽ nói thẳng là dù đã là năm thứ hai của cuộc chiến tranh, em vẫn hoàn toàn không thể trả lời câu hỏi: "Anh đã làm được gì để góp phần tiêu diệt quân xâm lược Đức?", và yêu cầu được gửi ra tiền tuyến, nhất là khi đã có tin đồn rằng người ta muốn phái nhiều người đi làm điện đài viên trong các đội du kích. Ở đấy mới là sống chứ! Tóm lại, sắp tới chắc chắn em sẽ viết về những tiến triển tốt đẹp.

Vâng, đã tới lúc dừng bút rồi. Hãy viết cho em, em đang chờ đấy. Có lẽ vẫn còn thời gian để chờ thư anh. Ồ quên, cám ơn vì đã gửi quà tới, em sẽ để dành chúng cho những ngày u ám.

Yurka 03.10.42 (ngày 10 tháng Mười, 1942)
Xin lỗi vì em viết chữ xấu. Cây bút rất tồi, nhưng em không còn thứ nào khá hơn.

Chú thích của Yuri Koriakin
* Tôi không còn nhớ những đoạn bị mảnh đạn xé rách. Tôi chỉ nhớ rằng cái xà cột bị rách nát khắp nơi, nhưng tôi không bị một vết xước nào. Vâng, kể từ khi thường xuyên khan hiếm giấy viết ngoài mặt trận, tôi đã phải sử dụng đến những tờ giấy này.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 23 tháng Chín, 1944

Anh thân mến!

Chỉ tới lúc này em mới có thời gian rỗi để viết cho anh một bức thư. Em sẽ mô tả những ấn tượng của em trên đường đi. Chắc anh cũng biết chuyện gì đang xảy ra với bọn em rồi, bọn em đang hành quân về phía tây. Bọn em di chuyển dọc một tuyến đường sắt và một xa lộ dẫn về phía tây. Tất cả những ai còn sống ở đây đều tụ tập lại quanh những con đường như thế này. Trước chiến tranh ở những nhà ga địa phương quanh đây vẫn có những cộng đồng dân cư sinh sống, nhưng hiện không ai còn ở lại. Kể từ khi bọn Đức, chứ không phải Phần Lan, đối đầu với chúng em, chúng em luôn phải chiến đấu với Tập đoàn quân 20 của Đức. Hiển nhiên là bọn Đức đang cố gắng làm xáo trộn mọi thứ lên càng nhiều càng tốt. Với một sự chính xác hoàn toàn theo kiểu Đức, những tuyến đường sắt bị cho nổ tung có kiểm soát cứ từng đoạn 10-15 mét một chỗ. Mọi loại cầu cống, cột điện thoại, đường xá, nhà cửa, tất cả đều bị cho nổ tung. Nhìn chung, cảnh này trông thật không vui tí nào. Dây điện lòng thòng trên những cột trụ nghiêng ngả, các nhà ga và làng mạc chỉ còn là đống đổ nát, những khu rừng bốc cháy ngùn ngụt. Nhưng cái đáng sợ nhất, luôn thực sự đe dọa mọi người, đó là mìn. Mìn có ở mọi nơi, rải khắp các đường lộ và lối mòn, ở hai bên đường và dưới các cây cầu, trong các căn nhà và trên đường phố. Không có đủ lính công binh, do đó không thể kiểm tra mọi nơi được. Có rất nhiều thứ hấp dẫn bỏ lại trong các ngôi nhà, thật nguy hiểm khi sờ vào bất cứ thứ gì, nhưng anh cũng biết lính tráng là thế nào rồi đấy - "Kệ mẹ nó," - và cắp lấy món đồ. Chúng em cũng tìm thấy vài thứ hữu dụng cho cánh lính thông tin chúng em. Hôm qua em tìm thấy nhiều hộp cá trích trong một căn nhà, bên ngoài có dán nhãn Na Uy. Một món khá. Nhân đây, cái tờ giấy mà em đang viết đây cũng là một chiến lợi phẩm, ở đây thứ này có rất nhiều.

Đêm qua em suýt nữa đã phải trả giá bằng cuộc đời mình. Ở trạm của em có một đường điện thoại bị hỏng, em phải đi để kiểm tra, dò dẫm một hồi và cuối cùng tìm ra chỗ bị đứt. Ngày hôm sau vì một chuyện gì đó em đi ngang qua đây và ngay tại chỗ mình đã đứng, chính xác là cách 30 cm, đám công binh đã tìm thấy một quả mìn. Lập tức em nổi cả da gà da vịt. Thật không dễ chịu chút nào. Bọn Đức gài mìn bẫy có ngòi nổ chậm trong nhiều ngày. Hôm nay có một người quen bảo em: họ tới ngủ trong một căn nhà, anh ta thức dậy lúc nửa đêm, châm một điếu thuốc, và khi vừa nằm xuống chuẩn bị ngủ lại, anh ta nghe thấy tiếng tíc tắc của một chiếc đồng hồ. Anh ấy lắng tai nghe kỹ - đúng là nó. Lập tức anh ta toát mồ hôi lạnh. Anh biết đấy - ngủ trên một quả bom nổ chậm thật là ... không dễ chịu. Cùng lúc, tại chỗ này hoặc chỗ khác, có những căn nhà bị nổ tung. Mới đây có một nhà kho lớn đã phát nổ, nó bị bọn Đức bỏ lại từ lâu và hầu như chưa được ai nhòm tới.

Ở đây có rất nhiều tù binh. Hôm qua em đã nói chuyện với một đứa. Hắn giải thích - "dựa theo một thỏa ước, đáng ra chúng tôi đã được về nhà, nhưng "bọn Nga" không để chúng tôi yên." Trong hầu hết các trường hợp bọn chúng đều rất hoảng sợ, chúng sợ nhà tù của Nga. Một tên cai nói rằng binh lính của chúng thà chết còn hơn đầu hàng. Chúng đã thực sự bị tẩy não, cái lũ cặn bã ấy, mặc dù chúng trông có vẻ tử tế.

Những cô gái chỗ em làm việc vất vả tại trạm. Em phải tự làm hầu hết mọi chuyện. Anh biết đấy, bọn họ không có kinh nghiệm, chẳng biết gì cả. Đôi lúc em phát khóc lên được, nhưng làm thế nào được bây giờ? Em đành chờ mọi chuyện qua đi vậy.

Em dừng bút đây. Anh có thể thấy qua bức thư là em đang rất vội. Em vẫn chưa nhận được thư anh và có lẽ sẽ không nhận được chúng trong một thời gian dài nữa bởi hiện em đang phải tách khỏi đơn vị. Em được bố trí sang một hướng khác, nhưng anh vẫn viết cho em nhé. Sớm hay muộn gì thì em cũng sẽ nhận được. Chào nhé. Em trai của anh.

Yu.K.
Hãy gửi lời chào của em tới Zôia. Cô ấy có khỏe không?
23.9.44 (23 tháng Chín, 1944)

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 31 tháng Chạp, 1944

Em vừa nhận được lá thư của anh và lập tức quyết định phải viết thư trả lời. Mục đích để nói lên sự thật là em không tin vào giả thiết của anh về số phận của chúng ta, không phải nói về những chặng đường dài còn chờ chúng ta phía trước, mà về chuyện chúng ta sẽ không phải thoả hiệp với bọn Đức. Em không biết có phải do thực tế là sau dịp Năm Mới người ta chuẩn bị đổi cho chúng em quân phục mùa hè - lấy đi valenki (ủng nỉ), áo khoác da cừu, v.v. - có thể là bằng chứng của chuyện đó hay không. Cũng có thể và hợp lý để cho là người ta không cần đến Nam Tư hay phía bên kia sông Vistula. Nhưng tất cả đều chỉ là giả thiết và suy tính - một đặc điểm không thể chấp nhận được ở một người lính. Hầu như sự thể luôn luôn không xảy ra như chúng ta nghĩ. Tóm lại: nếu chúng ta còn sống - chúng ta sẽ biết được sự thật. Và cuộc đời luôn không quá tệ. Thức nhắm luôn có đủ, còn điều kiện sinh hoạt thì - không tệ lắm.

Em đang bắt tay vào học kỹ thuật vô tuyến. Anh biết đấy, em càng lao sâu vào chúng thì càng thấy thích. Cũng không phải là chuyện dở, đáng để ta bỏ công sức và khá hữu ích. Anh thấy thế nào? Em cũng đang muốn hỏi anh đây. Nếu anh kiếm được cuốn nào về kỹ thuật điện hay vô tuyến, xin hãy gửi cho em. Ta chỉ có thể kiếm chúng ở Maskva, chứ không phải ở đây. Tất nhiên là để nhắm làm sinh viên khoa vô tuyến của Học viện Truyền thông Bauman ở Maskva, chứ không phải là Thạc sĩ hay Tiến sĩ Vật lý và Toán. Khoảng khoảng vậy đó. Và hy vọng là, không phải loại sách kiến thức chung chung, mà là những tính toán thực tế trong từng trường hợp cụ thể khác nhau, v.v. Và khi nào có tiền, em sẽ gửi cho anh. Tha thiết đấy.

Như người ta vẫn nói: "Còn nhiều thời gian để lao động, hãy dành một tiếng để giải trí". Do vậy em dùng một tiếng đó để làm nhiều trò dại dột, như anh vẫn thường nói. Em đang ốm. Ốm vì cứ luôn phải làm một chàng trai tử tế. Em đang giao du lăng nhăng với đám gái hư (vâng, vâng, chính xác là thế) và tiêu phí thời gian rảnh của mình ở đại đội của họ *, chỉ luôn có một ý nghĩ thô bỉ trong đầu, - làm thế nào mình biết được, rất có thể bọn chúng sẽ hạ được mình ở đâu đó, thật đáng tiếc nếu chết mà không có được kinh nghiệm những chuyện kia. Em biết như thế là tầm thường, nhưng kệ mẹ nó. Xin đừng nghĩ là em đang lung lạc, không đâu. Em cảm thấy mình rất quyết tâm. Trong vụ này bọn em, bốn trung sĩ, huấn luyện viên của trường vô tuyến **, hành xử như Paul Baumer và các bạn mình. Còn nhớ chuyện họ tới cái quán rượu rẻ tiền và chuốc xỉn Tjaden không?
Thêm chút nữa về các bạn của em. Một trong bốn người vẫn chưa học hết lớp 5 ở Học viện Đường sắt Rostov. Một tay có học, khá tiến bộ và thông minh. Người thứ hai - trước kia làm nhân viên trực điện đài dân sự, tới từ Hải đoàn Vận tải Viễn Đông, người thứ ba cũng vậy - một thầy giáo vừa tốt nghiệp học viện sư phạm. Thuộc dân tộc Tatar, nhưng là một người đọc rất nhiều và có học thức, và thứ tư là em. Em thì anh biết rồi.

Công việc ở trường này rất thú vị. Em thích nó. Điều quan trọng nhất là nó hữu ích cho bản thân. Anh chuẩn bị đứng lớp, vì thế phải tự soạn bài cho kỹ, nếu không thì thật ê mặt. Trong số học viên cũng có những người có trình độ hơn em, cho nên em không thể nói vòng vo khi có vấn đề mình không hiểu rõ. Thôi em dừng đây. Chờ tới lá thư sau nhé. Viết cho em về chuyện chỗ các anh đón Giao Thừa thế nào nhé. Em cũng gửi kèm đây một bức ảnh. Bức ảnh được chụp tại đây. Nhân tiện xin kể, em đang viết trên loại giấy Na Uy, và gửi bức thư trong một phong bì Kirki. Thôi - em xin bắt tay anh. Em của anh.

Yu.K. 31.12.44 (31 tháng Chạp, 1944)

Chú thích của Yuri Koriakin
* Vâng, tất nhiên, đấy chỉ là trò tỏ vẻ. Một trò làm bộ anh hùng kiểu trẻ con. Do đó chúng tôi uống vào chút rượu rồi ôm chặt lấy họ. Họ rất sợ hãi và hét toáng lên. Chúng tôi suýt nữa đã cưỡng hiếp họ và nếu vậy chắc cũng chẳng bị sao, nhưng rồi cô ta kêu thét, cố gắng vùng vẫy, khóc lóc nên tôi đã không thể làm gì tiếp.

** Vào tháng Giêng năm 45 tại Vologda, nơi trung đoàn chúng tôi được chuyển tới, một trường quân sự dành cho các điện đài viên được tổ chức. Lúc ấy trình độ lớp 9 của tôi được đánh giá không tệ, bởi đôi khi chúng tôi tuyển cả những người mù chữ, hoặc những người mới lần đầu trông thấy cái đường sắt. Chuyện này không phải là cường điệu - một người chỉ huy dẫn một nhóm những tân học viên như thế tới bảo chúng tôi là anh ta chật vật lắm mới dồn được họ vào toa xe lửa. Có lần chúng tôi được tặng mấy quả quýt, nhưng số quả lại ít hơn số người trong tiểu đội, do đó chúng tôi tổ chức một cuộc thi: chúng tôi bị bịt mắt, tay cầm một chiếc kéo, và mỗi quả quýt được treo trên một sợi dây để cách mặt đất một mét. Anh phải dò dẫm cắt được sợi dây. Thế là một anh chàng vùng Buriatia cắt được một quả và hỏi: "Không biết ăn cái quả này như thế nào nhỉ?". Và các đồng đội khuyên anh ta: "Trước tiên hãy thử ăn lớp vỏ, rồi sau đó, nếu cái vị nếm thấy được, thì cậu ăn đến phần bên trong." Anh ta cắn nó như cắn một quả táo và bảo: "Ăn cũng ngon đấy chứ," Và thế là anh ta ăn hết quả quýt. Vâng, tôi đã là một điện đài viên có nhiều kinh nghiệm khá ấn tượng, do đó tôi được cử tới trường này để làm hướng dẫn viên. Đấy là nơi tôi đã giảng dạy và điều hành các khóa học. Mỗi lớp kéo dài không lâu - từ 2 tới 3 tuần.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 16 tháng Giêng, 1945

Chào Sashka! (Trong tiếng Nga, Sashka là tên thân mật của Aleksandr, ở đây là anh họ Aleksandr Aleksandrovich Gusev của tác giả - L.T.D.)

Ngay khi vừa nhận được thư anh, em lập tức ngồi xuống viết thư trả lời. Trong lá thư trước mà em vừa nhận được, em đã hiểu rõ anh muốn nói gì, nhưng ... em vẫn giữ nguyên ý kiến của mình. Anh đã nghĩ sai chỗ rồi. Người ta đã bảo với bọn em là chúng em sẽ chuyển tới Kandalaksha, nhưng hiện theo em thấy thì chúng em không phải đang đi tới đó, mà theo hướng ngược lại. Một số trong bọn em đã lên đường, còn em sẽ đi trong ngày mai hay ngày kia. Em sẽ chờ thư đến trên đường hành quân. Lúc đó anh sẽ thấy ai trong chúng ta là đúng. Nếu chúng ta có dịp gặp riêng nhau, em sẽ kể cho anh nghe rất nhiều chuyện hay, nhưng đó là tùy anh đấy. Chúng em di chuyển một cách có văn hóa trên các toa xe lửa. Chúng em lắp đặt các máy điện đài. Bật chế độ nhận tin lên, cắm loa và ampli, và rồi ngồi nghe các bản hòa nhạc. Kể từ khi bọn em được giữ một số lượng lớn ắc quy, bọn em luôn có điện để thắp sáng.

Về các lời khiển trách của anh, chúng đối với em luôn rất quan trọng. Chưa có ai nói với em về ba lời khuyên đó. Em sẽ cố gắng ghi nhớ chúng và luôn cố tuân theo. Và chúng đúng đắn kỳ lạ. Chỉ riêng về điều thứ ba thì em có chút bất đồng. Bọn em lần nào cũng vi phạm nó, mặc dù trong phần lớn các trường hợp bọn em không đạt được mong muốn. Bởi vì trong mọi chuyện đều gồm những chuỗi hành động thiết yếu mà anh không thể hoàn tất mà thiếu đi một giai đoạn nào, ít nhất em luôn làm chuyện đó, thật khó mà thiếu nó được, hầu như là không thể. Và khi anh làm điều ấy, tất cả những chuyện đạo đức đều tuột đi mất và anh chỉ còn biết có một mục đích, và tất cả phương pháp đều tốt nếu giúp đạt được mục đích. Và em cũng không quá câu nệ bất cứ phương kế nào.*

Bọn em tổ chức Lễ Giao thừa chung với các bạn cùng đại đội. Chúng em không đến nỗi gàn dở, và đã làm quen được với các cô gái làm việc trong tiệm cà phê, và hiển nhiên là bọn em tổ chức Lễ Giao thừa theo một cách khá đứng đắn. Cả nhóm có tám người, và trong một đêm bọn em đã uống hết 7 lít vodka và khoảng 40 lít bia. Đó là một lượng khá đáng kể, nhưng chúng em vẫn không việc gì. Hoàn toàn trái với suy nghĩ khi mới bắt đầu uống (anh thấy đấy, em không có dự định uống rượu vang) là em sẽ dễ dàng gục khi uống rượu nặng. Xét cho cùng thì em cũng chưa tập thế bao giờ. Nhưng kết quả hoàn toàn ngược lại! Em uống như một bợm rượu mà không say chút nào, ít nhất là uống cỡ nào em cũng không hề mất tự chủ. Cứ như đổ vào cái thùng rỗng vậy. Có lẽ là do cơ thể em khỏe mạnh. Và anh cũng phải biết thêm là chỉ có mấy thằng em uống thôi, bốn đứa đàn ông. Đám con gái gần như không uống chút gì, cho nên bọn em nốc là chính. Nhưng nói như thế là đủ rồi.

Hôm nay em quyết định không đi đâu cả. Em ngồi đây nghe máy điện đài, viết và suy nghĩ. Điều gì đang chờ em ở phía trước, rốt cuộc em gần như chưa thực sự được thấy chiến tranh. Chắc chắn là nó không như ở đây - nó ác liệt hơn nhiều và có trời mà biết được... Nhưng em cho là số phận đã bảo vệ em trong suốt ba năm qua, và nó sẽ không bỏ rơi em, còn nếu không như vậy - em sẽ không là người xung phong đầu tiên mà cũng không là người tụt lại sau cùng, nhưng bây giờ em dừng bút đây. Em sẽ viết tiếp trên đường đi. Gắng chờ nhé.

Cách đây không lâu em đã chụp một tấm ảnh, bây giờ em sẽ gửi nó cho anh. Cũng chờ anh làm điều tương tự. Dù anh có thích hay không, vẫn cứ nó gửi cho em. Hãy viết cho em. Em đang chờ đây, mặc dù đang hành quân, và trong một thời gian em sẽ không nhận được thư, chỉ tới khi em quay về đây. Viết đi!

Yu.K. 16.1.45 (16 tháng Giêng, 1945)

Chú thích của Yuri Koriakin
* Tôi không nhớ đó là về chuyện gì. Có lẽ có liên quan tới cuốn sách của Remarque "Mặt trận Miền Tây vẫn yên tĩnh". Cả anh ấy lẫn tôi đều đặc biệt thích cuốn tiểu thuyết này, và tôi chịu ảnh hưởng mạnh từ nó. Thậm chí tôi còn đem cuốn sách ấy ra mặt trận, và luôn mang nó theo bên mình.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 2 tháng Hai, 1945

Chào Sashka!

Em vẫn chưa nhận được thư nào của anh cả, điều này có thể giải thích bằng việc bưu trạm dã chiến chỗ em vẫn chưa chuyển tới bố trí tại điểm đóng quân mới. Tình trạng sức khỏe của em hiện nói chung là tốt, dường như em đã hồi phục sức khỏe, tạ ơn Trời. Nhân tiện kể thêm, rất nhiều người chỗ em cũng đã bị bệnh. Có lẽ sự thay đổi thời tiết là nguyên nhân chính. Hầu hết mọi người đều bị cảm lạnh. Hiện thời ngoài trời ấm áp đến nỗi khó mà tưởng tượng được lúc này mới đang còn là đầu tháng Hai. Mưa dầm dề như thác đổ, trong khi bọn em vẫn còn phải đi valenki (ủng nỉ), anh không tưởng tượng ra bọn em nguyền rủa chuyện này thế nào đâu. Không lâu trước đây bọn em còn tắm trong banya (nhà tắm kiểu Nga), hay một thứ nào đó từa tựa banya. Trong làng ở đây, người Ba Lan không tắm trong banya, họ chỉ lau rửa thân trên vào mùa đông và tắm trên sông vào mùa hè (văn hóa Do Thái chăng!!) Còn nhà tắm của chúng ta - hãy tưởng tượng ra một căn nhà gỗ trong đó có một cái hố lớn nơi ta để cái lò sắt và cứ thế mà vào tắm rửa. Anh sẽ run rẩy như một con chó, nhưng được tắm sạch. Về chuyện ăn uống thì ở đây không tồi, chúng em được cho ăn đầy đủ, ngoài ra chúng em cũng khá tháo vát. Dạo gần đây người hùng Slavơ của chúng ta (tức Yurii Koriakin - LTD) còn được tặng cả một thùng thịt hộp của Mỹ. Một món tuyệt. Em mong sớm nhận được thư anh.

Chào chân thành, Yu.K. 2.2.45

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 7 tháng Hai, 1945

Chào anh thân mến!

Hiện giờ chúng em đã đi được khá xa. Đâu đó ở tận Danzig. Mọi thứ nơi đây đều có vẻ xa lạ, những ngôi nhà với mái cao kiểu Gothic, những cái cây, cái thì thấp và um tùm, cái lại cao và cành lá cứ vươn thẳng lên trời, còn đường phố lát bằng những viên đá nhỏ thì thẳng tắp và nhẵn bóng, có vỉa hè lát gạch ở hai bên, và con người thì - người Ba Lan - những người không bao giờ thèm nói chuyện với bọn em, thậm chí ngay đến không khí cũng là thứ không khí ẩm thấp mù sương vùng Baltic. Có biết bao những thành phố bị phá hủy ở nơi đây. Bọn em đi xe dọc theo những thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại những đống đổ nát, hay, trong trường hợp khá nhất, thì là những ngôi nhà cong queo và bị hư hại, đầy vết đạn bắn, phòng ốc lộn xộn, ngổn ngang sách vở, cùng những chậu hoa, bình thủy tinh, quần áo, đồ đạc - tất cả đều bị xáo trộn. Tại một trong những thị trấn như thế bọn em đã có dịp uống đầy một bụng bia ở một xưởng sản xuất bia. Không còn một cư dân nào, hoặc là còn rất ít. Đôi khi bọn em tìm được một thị trấn còn hoàn toàn nguyên vẹn, một trong những nơi đó là chỗ mà hiện bọn em đang đóng quân. Nhiều ngôi nhà ở đây trước kia là nơi ở của bọn sĩ quan Gestapo. Giá mà anh được trông thấy những căn phòng sang trọng đó, sạch sẽ, sáng sủa và đầy đủ tiện nghi. Tất cả những thứ đồ đạc đó còn lại nguyên trong phòng, thậm chí còn có cả thức ăn, rất nhiều sách thuộc đủ loại. Rất nhiều cuốn Mein Kampf của Hitler loại khổ nhỏ, thật thú vị nếu đọc được chúng, nhưng đáng tiếc tiếng Đức của em không tốt lắm. Nhiều loại tạp chí sặc sỡ khác nhau, in ảnh Hitler chụp ở mọi góc độ, tư thế và địa điểm, rất nhiều tác phẩm văn học thuộc đủ thể loại, mà em cho là mình sẽ đọc một cách thích thú.

Chúng em ăn uống rất tốt. Ngoài sân của những căn nhà ở đây có trồng rất nhiều loại rau củ, hôm qua một người lính đã đem tới đây một con bò cái, và hơn nữa, chúng em vẫn có quyền, hay gần gần như thế, tự tiếp phẩm từ các nguồn lương thực tại địa phương, là điều mà chúng em vẫn luôn làm. Em hiện vẫn chưa nhận được thư của anh hay của mẹ. Những chuyện mà em đã hỏi anh hiện thế nào rồi, và cả cuộc sống ở chỗ anh nữa? Có tin tức gì mới ở Maskva không?

Yu.K. 7.2.45 (7 tháng Hai, 1945)

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân

Thư ngày 3 tháng Ba, 1945

Chào anh thân mến,

Thật tuyệt khi được nhận một bức thư thú vị từ Maskva. Anh đã lao vào một nhiệm vụ khá khó khăn, liên quan tới tá tràng, hãy đừng thất bại nhé. Em đang có nhiều tin mới khủng khiếp, không thể kể lại hết tất cả bởi không có đủ thời gian, em sẽ kể khi nào về đến nhà.

Cứ mỗi ngày trôi qua chúng em lại càng tiến sâu vào lãnh thổ nước Đức. Em không biết chính xác hiện mình đang ở đâu, nhưng có lẽ tại một nơi nào đó cạnh bờ biển Baltic, thành phố Stettin (Szczecin) đang trên đường tiến quân của chúng em và vài thành phố khác cũng nằm quanh đây.

Hầu như không còn ai ở lại trong các thị trấn và thành phố quanh đây, nhưng họ để lại rất nhiều tài sản. Hàng đàn gà và ngỗng, thỏ và dê, lợn và cừu, bò và ngựa lang thang khắp nơi mà không có người chăn dắt. Lũ bò kêu rống, chúng cần được vắt sữa, nhưng ai mà thèm quan tâm? Chúng em đã ăn biết bao nhiêu thứ - tất cả các loại, bắt đầu là món khoai tây và kết thúc là sôcôla, cà phê và lợn sữa. Và xung quanh vẫn còn biết bao nhiêu. Không thể đếm được. Vâng. Người Đức sống thật sung túc. Những ai còn lại cũng lấy một ít, các cô gái Đức, các bà già và cả đàn ông. Chúng em cũng không cần ý tứ lắm. Không thể viết lại tất cả. Có lẽ anh cũng đã nghe chuyện này rồi.*

Nhưng tất cả đều là rác rưởi. Cái chính vẫn là công việc. Ôi, biết bao nhiêu công việc phải làm. Đã bốn ngày nay em không được ngủ, và cũng không dám ngủ. Vất vả lắm, Sashka ạ, không có thời gian để kiếm chiến lợi phẩm nữa. Tất cả chuyện có thể làm là bảo quản chúng cho tới khi anh chuyển tới một địa điểm mới, triển khai khí tài và nhận lệnh thiết lập một tuyến liên lạc. Biết bao nhiêu lần em bị ngã xuống từ mái nhà trong khi đang đi mắc ăng ten,** sườn và khuỷu tay trầy trụa bầm tím, suốt một tuần rưỡi nay chưa cạo râu, không tắm rửa - thật ra, em đã mệt mỏi cùng cực rồi. Hãy tin em, dù thật khó tin, - không có cả thời gian để chạy theo tiếng gọi của tự nhiên, bởi vì anh không thể bỏ mặc trạm vô tuyến trong lúc đang nhận phát tin. Em đã cố gắng, em chưa từng sống kiểu này bao giờ - dù tinh thần em không đến nỗi tệ, luôn luôn mẫn cán, và hăng say làm việc.

Cách đây không lâu chúng em có đi ngang qua một nhà máy rượu, do đó đoàn xe dừng lại, ở đấy cũng có lính gác, nhưng bọn em đã "thay gác" họ (sao thế nhỉ, họ có vẻ miễn cưỡng lắm) và bắt tay vào hưởng thụ cuộc đời. May là em không uống nhiều lắm, em vẫn nhớ là mình còn phải làm việc, nếu không em sẽ bị xử lý. Cứ thử thao tác trên điện đài trong khi trăm con quỉ đang quay cuồng trước mắt mà xem. Vâng, anh thân mến, em dừng đây. Không có thời gian. Cũng không biết lúc nào em sẽ viết được cho anh nữa. Hãy viết cho em. Em đang chờ đây. Em của anh.

Yu.K. 3.3.45 (mùng 3 tháng Ba, 1945)

Chú thích của Yuri Koriakin
* Trên chuyến tàu đi tới Ba Lan, chúng tôi được chỉ dẫn cách thức cư xử với cộng đồng dân cư địa phương. Họ nói rằng người Ba Lan là một dân tộc Slavơ anh em đã cùng chiến đấu chống lại bọn phát xít. Yêu cầu chúng tôi hãy giữ gìn thanh danh của Hồng quân. Đe dọa sẽ trừng phạt những trường hợp vi phạm kỷ luật. Dù vậy, vẫn có chuyện xảy đến trước mắt tôi. Tôi đang ngồi trên xe tải, loay hoay với chiếc điện đài. Đột nhiên, có tiếng gõ trên cửa xe. Tôi mở, một ông già Ba Lan xuất hiện ngay ngưỡng cửa, ông ta liếng thoắng điều gì đấy bằng tiếng Ba Lan, nắm lấy ống tay áo của tôi và kéo tôi đi. Tôi chỉ kịp hiểu là đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái ông ta. Chúng tôi đi vào căn nhà của ông ta nằm gần đó và tôi trông thấy một tay lính xe tăng đang cố gắng cưỡng hiếp cô gái, có lẽ đó là con gái của người Ba Lan này. Tôi kéo hắn ra, nhưng hắn đang xỉn quắc cần câu. Một viên đại úy, ngực đeo đầy huân huy chương. Tạ ơn Trời, hắn ta đã tỉnh lại. Hắn bảo: "Trung sĩ, hãy cùng tới chỗ cậu uống chút gì đi." Chúng tôi đi. Hắn rút ra một cái chai. Chúng tôi rót cho nhau. Tôi uống vào và lập tức mắt tôi lồi ra - đó là dầu xăng! Tôi bảo hắn: "Cậu rót cái gì vậy?!" Hắn nói: "Uống đi, rượu đấy. Cậu xem, chúng tớ đi ngang một nhà máy làm rượu, nhưng chẳng có gì trong tay để trút rượu vào cả. Chúng tớ có một cái thùng xăng rỗng, chỉ còn chút dầu ở đáy, thế là chúng tớ đổ rượu vào đấy."

Trước khi vượt biên giới nước Đức tại vùng Bromberg (Bydgoszcz), chính trị viên đại đội tổ chức một buổi mít tinh và thông báo những điều sau đây: "Chúng ta đang tiến vào lãnh thổ nước Đức. Chúng ta đều biết là người Đức đã mang vô vàn bầy quỉ dữ tới đất nước chúng ta, đó là lý do tại sao chúng ta đang tiến vào lãnh thổ của chúng, để trừng phạt người Đức. Tôi yêu cầu các anh không được quan hệ với cộng đồng địa phương, nhằm sao cho các anh không phải gặp bất cứ rắc rối nào, và không được đi một mình. Vâng, còn đề cập tới vấn đề đàn bà, các anh có thể tự do cư xử đối với phụ nữ Đức, nhưng sao cho đừng ra vẻ là có tổ chức. Một hay hai người tới, làm những gì mình cần (chính xác đó là những gì anh ta nói: "những gì mình cần"), rồi quay trở về, thế thôi. Bất cứ hành động xâm phạm không cần thiết nào tới đàn ông và phụ nữ Đức cũng đều không được chấp nhận và sẽ bị trừng phạt." Lời phát biểu này làm chúng tôi cảm thấy ngay anh ta cũng không biết chính xác tiêu chuẩn đáng giá mức độ cư xử thế nào là phù hợp. Tất nhiên, tất cả chúng tôi đều chịu ảnh hưởng mạnh của sự tuyên truyền, vào thời kỳ đó đã không phân biệt giữa người Đức và bọn Hitler. Đó là lý do tôi được biết cả đống những trường hợp phụ nữ Đức bị cưỡng hiếp nhưng không bị giết chết. Cách đối xử với phụ nữ Đức (hầu như chúng tôi không gặp đàn ông) là hoàn toàn buông thả, thậm chí còn như để trút hận. Ở trung đoàn chúng tôi, viên trung sĩ trong đội quân nhu đã lập nên hẳn một cái hậu cung. Hắn nắm trong tay một lượng thực phẩm dồi dào. Do đó có nhiều phụ nữ Đức đến sống với hắn, hắn sử dụng họ và chia sẻ họ với những người khác. Có đôi lần, khi bước vào một căn nhà, tôi trông thấy những người lớn tuổi bị giết. Một lần, khi vừa bước vào nhà, chúng tôi trông thấy có ai đó đang nằm trên giường. Tôi kéo chiếc chăn lên và trông thấy một người phụ nữ với cái lưỡi lê cắm vào ngực. Chuyện gì đã xảy ra? Tôi cũng không biết nữa. Chúng tôi bỏ đi mà không thắc mắc gì cả. Nhưng mọi chuyện đã hoàn toàn thay đổi sau ngày Chiến thắng, vào khoảng 12-14 tháng Năm, một bài báo của Viện sĩ Aleksandrov mang tựa đề "Ilya Erenburg quá đơn giản hóa vấn đề" được đăng trên tờ Sự Thật. Trong bài viết tác giả tuyên bố rằng người Đức và bọn Hitler là khác nhau. Đó là lúc mọi việc đã đổi khác, khi công cuộc tái thiết thời bình bắt đầu. Thế rồi người ta bắt đầu siết chặt kỷ luật, trừng phạt mọi hành vi phạm tội. Đã có lần tại hòn đảo Bornholm, một trung sĩ lấy cái đồng hồ của một người Đan Mạch - đơn giản là lấy đi bằng vũ lực - và lột miếng da bọc bộ thiết bị thể thao của một trường học để sửa đôi giày của mình. Vì chuyện đó anh ta bị kết tội xử bắn, nhưng Rokossovskiy (chỉ huy trưởng Phương diện quân lúc đấy) đã không phê chuẩn bản án.

Trong một vụ khác một tay lính hay hạ sĩ gì đó đã hôn hay ôm lấy một phụ nữ Đan Mạch, một người Đan trông thấy và gọi lên sở chỉ huy, tay lính kia lập tức bị bắt, người ta chuẩn bị đưa anh ta ra tòa án binh vì tội hiếp dâm. Nhưng khi cô gái kia hiểu ra người ta muốn làm gì tay lính, cô ta chủ động chạy tới người chỉ huy và kể rằng anh ta không hề có ý định cưỡng hiếp mình. Dù vậy, vào năm 95 khi Chính phủ Đan Mạch mời chúng tôi tới Bornholm dự lễ kỉ niệm 50 năm Chiến thắng, họ nói rằng sau khi quân ta rút đi năm 46, khoảng 100 trẻ em sinh ngoài giá thú được khai báo. Có lẽ chuyện này liên quan tới đám sĩ quan của chúng tôi, những người mà, không như cánh binh lính, sống tự do trong các căn hộ cá nhân.

** Tôi có dưới tay rất nhiều máy điện đài do nhiệm vụ đòi hỏi. Ví dụ như chúng tôi có một máy radio nhỏ hiệu "Sever" để liên lạc với du kích. Chúng tôi cũng có máy V-100 và RP-6, những loại cũ nhất và ít phổ biến nhất. Về sau chúng tôi có thêm loại nội địa RSB (Radio gọi oanh kích khẩn cấp). Theo quy định quân đội, chúng tôi có trong tay những ống nhôm để nối dài cần ăng ten, nhưng khi dừng lại đóng quân ở địa điểm mới, chúng tôi chỉ cần lắp ăng ten lên cao hơn, thế thôi.

Dịch từ Nga sang Anh: Oleg Sheremet
Dịch từ Anh sang Việt: Lý Thế Dân
Hồi ức của lính pháo binh.
Vasily F. Davidenko

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lich