Những Vết Khắc Trong Tim

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ôi trí nhớ thảm sầu của óc

Người mạnh sao bằng ký ức trái tim người Batiushkov

Độc giảthường hỏi những người cầm bút xem họkiếm chất liệu cho việc xây dựng tác phẩm nhưthếnào, lâu hay mau. Và thườngđộc giả rất ngạc nhiên nghe các nhà văn trảlời rằng không có và không thểcó một sự cố ý sưu tầm chất liệu nào hết.

Điều nói trên tất nhiên không liên quan tới việc nghiên cứu những tài liệu khoa học và những tài liệu bồi bổcho kiến thức mà nhà văn cầnđến cho việc viết cuốn này hay cuốn khác.Đây chỉnói vềviệc quan sát cuộc sống đang diễn ra.

Chất liệu vềcuộc sống là tất cảnhững gì màĐostoevsky gọi là "những chi tiết vụn vặt của cuộc sốngđang chảy trôi". Chất liệuấy không phải là cáiđểmà nghiên cứu.Đơn giản là nhà văn sống trong lòng chất liệu ấy, nếu ta có thểnói nhưthế, anh ta sống,đau khổ, suy nghĩ, vui sướng, tham dựvào những sựkiện lớn và nhỏ, và tất nhiên cuộc sống bao giờ cũng để lại những dấu, những vết khắc trong trí nhớ và trong tim họ.

Cần phải xóa bỏtrongđầu óc bạnđọc (và nhân thể đây cũng cần phải nói là cả ởtrong một sốnhà văn trẻnữa) cái quan niệm nhà văn là một người lang thangđâyđó, tay lúc nào cũng cầm cuốn sổghi, nhưmột "nhà ghi chép" chuyên nghiệp hay một tên mật thám của cuộc đời.

Người nào buộc mình phải tích lũy những quan sát và loay hoay với những ghi chép ("kẻo rồi quên mất") ngườiđó, tất nhiên, sẽthuđược mộtđống những quan sát không lựa chọn và những cáiđó sẽchẳng có sinh khí. Nói cách khác, nếu những quan sátấyđược chuyển từcuốn sổ ghi thành văn xuôi sốngđộng thì hầu nhưbao giờchúng cũng mấtđi sức biểu hiện và sẽ giống như những mẩu văn lạc loài.

Không bao giờnên nghĩrằng cái bụi thanh lương trà này hay cái anh đánh trống trong dàn nhạc kia rồiđây sẽ được tôi cầnđến trong một truyện ngắn và vì thếmà tôi phảiđặc biệt chú ý, có khi còn phải quan sát một cách hơi lên gân nữa là khác.Đó là sựquan sát, nhưngười ta thường nói, "theo công vụ", thuần túy do công việc thúc ép.

Không bao giờnên cốnhét nhữngđiều quan sátđược vào văn, cho dù chúng là những quan sát rất trúngđi nữa. Khi cần, chúng sẽ đi vào tác phẩm vàđứng vàođúng vịtrí của chúng. Nhà văn thường sửng sốt khi thấy một chuyện xảy rađã lâu ngày,đã quên bẵng, hay một chi tiết nào đó bỗng nhiên nổi bật lên trong trí nhớ đúng vào lúc chúng cầnđến cho tác phẩm.

Một trong những yếu tố cơ bản để viết văn là trí nhớ tốt.

Có lẽnhững ý nghĩtrênđây sẽsáng tỏhơn nếu tôi kểcác bạn nghe chuyện tôi viết truyện ngắn "Bức điện" như thế nào.

°

° °

Vào cuối thu tôi dờiđến một làng quêởRiazan. Tôiởtrong nhà của một nghệsĩkhắc gỗnổi danh một thời là Pozhalostin.Ở đó còn bà lão già yếu và hiền hậu tên là Katerina Ivanovna, con gái nhàđiêu khắc. Bà lão đã gầnđất xa trời. Cô con gáiđộc nhất của bà là NastiaởLeningrađ đã quên hẳn mẹ. Nàng chỉ gửi tiền về cho bà lão, hai tháng một lần.

Tôi thuê một căn phòng trong ngôi nhà lớn, dội âm, tường gỗghépđã sạmđen. Bà lãoởtrong một căn phòng khác. Muốn tới phòng bà lão phảiđi qua mấy gian thờbỏkhông và mấy phòng lát ván, bụi bặm và kêu cọt kẹt.

Ngoài bà lão và tôi ra, không còn ai khác trong nhà. Ngôi nhà của bà

được xếp hạng nhà lưu niệm.

Đằng sau sân và những gian xép cũkỹlà một khu vườnẩm thấp và giá lạnh xào xạc trước gió. Nó cũng rộng lớn và hoang phếchẳng khác gì ngôi nhà.

Tôi tớiđâyđểlàm việc và thời gianđầu tôi ngồi viết trong phòng từ sángđến tối. Trờiở đây tối sớm. Mới năm giờchiều tôiđã phảiđốt cây

đèn dầu hỏa có chao hình hoa tuy-lip bằng kính mờ.

Sau tôi chuyển sang làm việc buổi tối. Giữa lúc có thểlang thang trong rừng, trên nhữngđồng cỏ đã sẵn sàng chờ đón tiếtđông, mà lại ngồi trong phòng vào những giờ ban ngày ít ỏi thì thật là tiếc.

Tôi lang thang rất lâu và trông thấy nhiều dấu hiệu của mùa thu. Sáng sáng,ởnhững vũng nước, bên dưới lớp vỏbăng trong suốt nhưthủy tinh, trông rõ những bọt khí.Đôi khi trong những bọt khíấy, giống như trong khoảng trống của một quảcầu pha lê, có một chiếc lá liễu hoàn diệp hoặc bạch dương màuđỏtím hoặc vàng chanh. Tôi thích phá lớp băngđểnhặt những chiếc lá chết cóngấy mang vềnhà. Chẳng bao lâu sau trên bậc cửa sổphòng tôiđã có mộtđống những chiếc lá nhưthế.

Chúng được sưởi ấm và bốc lên thoang thoảng mùi rượu.

Thú hơn cảlàởtrong rừng. Gió thổi trênđồng cỏ, nhưng trong rừng vẫn có cái tịch mịchảmđạm trong suốt nhưbăng mỏng. Cũng có thểlà vì nhữngđám mây tối mà trong rừngđặc biệt yên lặng. Mây lửng lơsát đất, đến nỗi những ngọn thông như vương vất sương mù.

Thỉnh thoảng tôiđi câuởnhững nhánh sông Ôka.Ở đó, trong những bụi rậm, mùi chát của lá liễu dường nhưlàm da mặt săn lại. Nước sông màu đen thoảng ánh lam. Trong tiết thu cá thận trọng và ít cắn câu.

Rồiđến lượt mưa rơi, vườn tược tơi tả, cỏúađen nằm rạp xuống tận

đất. Trong không khí có mùi tuyết ướt.

Mùa thu có rất nhiềuđặcđiểm, nhưng tôi không chú ý ghi nhớ. Tôi chỉ biết chắc mộtđiều là không bao giờtôi có thểquênđược nỗi buồn thu ấy, nó gắn bó kỳlạvới cái thanh thản trong tâm hồn và những ý nghĩ giản dị.

Mâyđen càng sầu thảm, thứmâyđen lê lết những vạt áo rách rưới lòa xòa trên mặtđất, mưa càng lạnh thì tâm hồn càng tươi mát và những chữ hình như cũng tự nằm xuống mặt giấy dễ dàng hơn.

Điều quan trọng là cảm thấy mùa thu, là dòng tình cảm và ý nghĩmà mùa thu gợi lên. Và tất cảnhững gì ta gọi là chất liệu - người, sựviệc, nhữngđiểm cá biệt và chi tiết - thì kinh nghiệm cho tôi biết rằng tất cả những cáiđó nấp kínởmột nơi nàođó bên trong cái cảm giác vềmùa thu kia trong một thời gian nhấtđịnh. Và hễtôi trởlại với cảm giácấy

trong một truyện ngắn nàođó, thì ngay lập tức, tất cảnhững cái nói trên

đã hiện lên trong trí nhớ và chuyển xuống mặt giấy.

Tôi không nghiên cứu ngôi nhà cũkỹnọnhưtìm một chất liệu cho cuốn truyện. Tôi chỉyêu nó, thếthôi, vì vẻphiền muộn và cái yên lặng của nó, vì tiếng tích tắc vô vịcủa chiếcđồng hồcổ, vì mùi khói bạch dương ám trong lò sưởi, vì những tranh khắc gỗtreo trên tường (chúng còn lại rất ít, bởi hầu hết tranh khắc gỗcủa bà Katerinađã bịviện bảo tàngđịa phương lấyđi): bản "TựHọa" của Bryulov, "Rước Thánh Giá","Người Đánh Bẫy Chim" của Perov và chân dung của Polina Vyardo.

Kính trong những khung cửa sổ đã cũvà cong. Chúng lóng lánh màu sắc cầu vồng và ngọn lửa của cây nến không hiểu sao lại phản chiếu trong kính hai lần.

Tất cả đồvật trong nhà - những cáiđi-văng, bàn và ghế-đều làm bằng gỗmàu sáng. Thời gian làm cho chúng bóng lên và có mùi trắc bá như là những trang thờ.

Trong nhà có nhiềuđồvật buồn cười: những câyđènđêm hình bóđuốc, nhữngổkhóa mật, những chiếc lọsứnhỏxíu to bụng, trongđó kem xoa mặtđã cứng lại như đá, với chữ"Paris" trên nhãn hiệu, một bó hoa làm bằng sápđầy bụi (người ta treo nó trên một cái chạc lớnđã han rỉ), một bàn chải nhỏhình tròn dùngđểxóa vết phấn ghi sốquân thua trên bàn chơi bài lá.

Còn có ba quyển lịch dày của những năm 1848, 1850 và 1852. Trong danh bạnhững phu nhân quý tộc tôi thấy có tên Natalya Nikolaevna Lanskaya, vợcủa Pushkin và Elizaveta Ksaverevna Vorontzova, người đàn bà gắn bó với nhà thơtrong một cuộc tình. Và không hiểu sao, tôi đâm buồn vì chuyệnđó.Đến nay tôi vẫn không hiểu vì lẽgì? Có thểvì ngôi nhà này vắng lặng quá. Ngoài xa kia, trên sông Ôka, gầnđập Kuzminsky một con tàuđang kêu lớn, và không thểnào không nhớ đến những vần thơ:

Một ngày mưa đã lụi, và đêm đen mịt mùng Như tấm áo chì phủ trời mênh mông

Vầng trăng sương - một bóng ma mờ tỏ Cất mình lên sau một rừng thông.

Tối tối tôi lại phòng bà Katerina uống trà.

Mắt bà lãođã không còn trông rõ. Mỗi ngày vài ba lần, cô bé hàng xóm tên là Niurka tính tình cau có và bực mình với mọi sựchạyđến giúp bà lão những việc vặt trong nhà.

Niurkađặtấm samovar lênđun nước, cùng uống trà với chúng tôi và xì xụp hút nước chè trongđĩa.Đáp lại những câu nói khẽkhàng của bà lão, Niurka chỉ trả lời có độc một câu:

- Lại còn thế nữa kia! Sao mà bà bịa ra lắm chuyện làm vậy! Tôi quở nó nhưng nó vặc cả với tôi.

- Lại còn thếnữa! Cứlàm nhưcháu chẳng biết gìấy, cứnhưlà cháu ngốc lắm ấy!

Thực ra, Niurka lại là người duy nhất yêu mến bà lão. Cũng hoàn toàn chẳng phải vì thỉnh thoảng bà cho nó lúc thì một cái mũnhung cũcó gắn hình một con chim kalibri sặc sỡ, lúc thì một cái mạng tóc bằng cườm hoặc một chiếc khăn san cũ đã ngả vàng.

Bà Katerinađã có thời gianởParis cùng với ông cụthân sinh, bà quen biết Turgenev,đã dự đám tang Victor Hugo. Bà kểcho tôi nghe những câu chuyện ấy, còn Niurka thì nói:

- Lại còn thế nữa kia! Sao mà bà bịa ra lắm chuyện thế.

Nhưng Niurka thường không ngồi lâu. Nó phải còn phải vềnhàđể đặt "lũ nhóc" ngủ.

Bà Katerina không lúc nào rời một cái ví nhỏcũkỹbằng lụa bóng. Tất cảcủa cải của bà cất trongđó: những bức thưcủa Nastia, một ít tiền, giấy thông hành, bứcảnh cũng của Nastia - một thiếu phụxinhđẹp với đôi lông mày thanh tú gãy khúc và cái nhìn mơmộng - và một bứcảnh của chính bà khi bà còn là một thiếu nữ. Lúcđó bà là hiện thân của sự dịu dàng và trong sạch.

Bà lão chẳng bao giờta thánđiều gì, trừnhững lời phàn nàn vềtuổi già sức yếu. Nhưng bà con lối xóm và ông Ivan Dmitrievich coi chòi cứu hỏa, một ông già tốt bụng và vô tích sự, kểcho tôi biết rằngđời bà Katerina thuần một vịcayđắng. Nastiađã bốn năm không vềvới mẹ, có

nghĩa là côđã quên mất người mẹ đã gầnđất xa trời. Bà lão có thểchết bất kỳlúc nào mà khôngđược gặp con, khôngđược âu yếm con; không được ve vuốt làn tóc màu sáng của con, làn tóc "đẹp tuyệt trần" (nhưbà lão thường khoe).

Nastia có gửi tiền cho mẹ, nhưng thất thường. Không biết bà lão sinh sống bằng cách nào trong những ngày con gái không gửi tiền về.

Một hôm bà Katerina nhờtôiđưa ra thăm vườn. Từ đầu xuân bà chưa bước chân tới đây. Sức khỏe kém sút giữ rịt bà trong phòng.

- Ông này, - bà lão nói, - ôngđừng giận bà lão nhá! Tôi muốnđược trông thấy mảnh vườn lần cuối. Lúc còn con gái,ở đây tôiđã say mê đọc Turgenev. Một số cây trong vườn này do chính tay tôi trồng.

Bà lão mặc quần áo rất lâu. Bà vận chiếc áo choàngấmđã cũ, quấn chiếc khăn len dày rồi nắm chặt tay tôi, lần bước xuống thềm.

Trờiđã sẩm tối. Khu vườn trụi lá. Lá rụng cản bướcđi. Chúng kêu lên khe khẽvàđộngđậy dưới chân. Bầu trời hoàng hônđang chuyển sang màu lá cây, một ngôi sao bừng sáng. Ngoài xa kia trăng lưỡi liềm treo lơ lửng bên trên khu rừng.

Bà Katerina dừng lại bên cây bồ đềbịgió vặt hết lá, vịn vào nó và oà khóc.

Tôi phải giữchặt cho bà khỏi ngã. Nhưnhững người già lão, bà khóc không xấu hổ vì những giọt nước mắt của mình.

Bà nói với tôi:

- Cầu trờiđừng bắt ông phải sốngđến cái tuổi già côđộc nhưthếnày, ông bạn thân mến ạ!

Tôi nhẹnhàngđưa bà vềnhà và nghĩ: tôi sẽhạnh phúc biết bao nếu tôi

được có một người mẹ như bà.

Buổi tối, bà lãođưa tôiđọc một tập thưvàng úa màu thời gian của cụ thân sinh để lại.

Trongđó có thưcủa họa sĩKramskoy và nhà khắc gỗJordanởLa Mã, Jordan viết vềtình bạn của ông với nhàđiêu khắcĐan Mạch Thorvaldsen, về những bức tượng đá kỳ diệu ở Lateral.

Cũng nhưmọi khi, tôiđọc những bức thư ấy banđêm. Bên kia bức tường, những cơn gió phóng ào ào qua những bụi cây khẳng khiu và ẩmướt, ngọnđèn lép bép nói chuyện một mình vì buồn chán. Không hiểu vì sao, nhưng chínhở đây, trong cáiđêm mưa này, nghe người gác nông trang gõ mõởcổng làng, tôiđọc những bức thưtừRôm gửi tới với một cảm giác thật là lạ lùng và thích thú.

Tôi bắtđầu chú ý tới Thorvaldsen và rồi sau nàyởMoskva tôiđãđi kiếm tất cảnhững tài liệu có nói vềông vàđược biết thêm vềtình bạn của ông với nhà viết truyện cổtích Andersen. Vài năm sau tôi viết một truyện ngắn vềAndersen. Cũng nhờngôi nhà cũkỹnơi thôn dãđó mà tôi đã viết được truyện ngắn ấy.

Mấy ngày sau bà lão Katerina nằm xuống và từ đó không dậy nữa. Bà lão không bị đau gì. Bà chỉ kêu mệt.

Tôi gửi một bứcđiệnđi Leningrađcho Nastia. Niurka sangởvới bà lão phòng khi có chuyện gì thì đã có mặt ngay.

Một hôm,đangđêm Niurkađập mạnh vào tường phòng tôi và gọi tôi, giọng sợ hãi:

- Ông lại ngay đi! Bà cháu đang hấp hối!

Bà lão nằm mê mệt và thởrất khẽ. Tôi xem mạch bà, thấy mạch không

đập mà run rẩy, mỏng manh như tơ nhện.

Tôi mặc quần áo,đốtđèn lên vàđi tới bệnh xá trong làng tìm thầy thuốc. Bệnh xáởmãi sâu trong rừng. Cơn gió tối mang theo mùi mạt cưa từcây cối bị đẵn trộm.Đêmđã khuya,đến nỗi không còn cảtiếng chó sủa.

Bác sĩtiêm cho bà mộtống long não, ông thởdài và bỏ đi sau khi cho tôi hay rằng đó là cơn hấp hối, nhưng nó sẽ kéo dài vì tim bà lão còn khỏe.

Gần sáng, bà lão quađời. Tôi phải vuốt mắt cho bà. Chắc chắn không bao giờtôi có thểquên cái cảm giác khi tôi thận trọng vuốtđôi mắt hé mở của bà lão và bất thần từ trong đôi mắt ấy rơi ra một giọt lệ đục.

Niurka khóc tức tưởi, đưa cho tôi một chiếc phong bì nhàu nát và bảo:

- Trong này bà cháuđã dặn phải mặc cho bà quần áo gì khiđem bàđi

chôn.

Tôi mởphong bì vàđọc mấy dòng chữdo bàn tay run rẩy của tuổi già viết.Đó là lệnh bà lão dặn phải mặc cho bà quần áo gì khi bà quađời. Tôiđưa nó cho các bàđến nhà bà lão sáng hômấyđểsửa soạn cho bàđi tới nơi yên nghỉ cuối cùng.

Sauđó tôi ra nghĩa trang chọn huyệt. Khi tôi trởvềthì người tađã thay quần áo cho bà lão. Bà Katerina nằm trên bàn và tôi dừng lại, sửng sốt đến cực độ.

Bà nằmđó, nhỏnhắn nhưmột thiếu nữtrong bộáo vũhội tha thướt, màu vàng óng. Vạt áo lỏng lẻo quấn quanh chân bà. Dưới lần vải áo còn nhìn rõđôi giàyđen nhỏnhắn bằng da thuần lộc. Mộtđôi găng da mềm mại, trắng toát, bó chặtđến khuỷuđôi tay cầm nến. Một bó hồngđỏ thắm bằng lụa được gài trên ngực áo.

Mặt bà lão phủmạng và nếu nhưkhông cóđôi khuỷu tay khô xác và nhăn nheo hiện rõ giữa tay áo vàđôi găng trắng, ta có thểnghĩrằng người nằm đấy là một thiếu phụ trẻ, vóc dáng cân đối.

Nastia vềchậm mất ba ngày. Khi nàng tới nơi thìđám tang bà lãođã xong.

Tất cảnhững gì tôi kểtrên chính là cái chất liệu cuộc sống mà nhà văn có được, từ đó tác phẩm nảy sinh.

Đặc biệt là mọi hoàn cảnh, mọi chi tiết, cả đến cảnh ngôi nhà vùng quê và mùa thuđều thíchứng hoàn toàn với tâm trạng của bà lão Katerina, với tấm thảm kịch trong tâm hồn mà bàđã phải chịuđựng trong những ngày cuối cùng của đời mình.

Nhưng tất nhiên, không phải tất cảnhững gì tôiđã thấy vàđã suyđi nghĩlại lúcấyđềuđượcđưa vào "Bứcđiện". Rất nhiều cái còn nằm ngoài lề truyện ngắn. Chuyện đó thường xảy ra.

Nói theo ngôn ngữnhà văn thì thường muốn viết một truyện ngắn không lớn lắm nhà văn vẫn phải "khai thác" sốchất liệu lớn hơnđểchọn lựa trong đó những gì quý giá nhất.

Tôiđã có dịp quan sát công việc của những diễn viên giỏi khi họ đóng những vai phụ. Nhân vật mà anh ta thủvai chỉnói cóđôi ba câu trong

suốt vởkịch, nhưng diễn viênđã vặnđi vặn lại tác giảkhông riêng về tính cách và hình dạng bềngoài của nhân vật, mà còn cảtiểu sửcủa nhân vật, môi trường đã sản sinh ra nhân vật ấy.

Sựhiểu biết chính xácấy là cần thiết cho diễn viên cốtđểanh ta nói cho

đâu ra đó chỉ vài ba câu của mình.

Với các nhà văn cũng vậy. Nguồn chất liệu dựtrữphải lớn hơn nhiều so với số lượng chất liệu cần dùng cho một truyện ngắn.

°

° °

Tôiđã kểlại chuyện "Bứcđiện". Mỗi truyện ngắn có lịch sửcủa nó và chất liệu của nó.

Có một lần, vào mùađông, tôiởYanta. Khi tôi mởcửa sổthì những chiếc lá sồi khô lảtảbay vào phòng. Gió làm cho những chiếc lá lăn trên mặt sàn và kêu lạo xạo.Đó không phải là những cây sồi bách niên mà là lá của thứsồi con thấp lè tè mọcđầy trên nhữngđồng cỏthoai thoải miền đồi núi ở Krym.

Đêmđêm gió lạnh thổi từtrên những ngọn núi phủ đầy tuyết. Tuyết lấp lánh huyền ảo trong ánh sáng của những vì sao lung linh.

Nhà thơAseevởcạnh phòng tôiđang viết những bài thơvềnước Tây Ban Nha anh hùng (lúcđó là lúcđang xảy ra những biến cố ởTây Ban Nha), về "bầu trời cổ kính Barcelona".

Nhà thơVlađimir Lugovskoy hát bằng giọng trầm và khỏe những bài hát của thủy thủ Anh:

Vĩnh biệt đất liền! Tàu ra khơi Và vết hải âu còn sau lái...

Tối tối chúng tôi quây quần bên máy thu thanh nghe tin chiến sựTây Ban Nha.

Chúng tôiđáp xeđếnđài thiên văn Simeiz. Một nhà thiên vănđầu bạc phơchỉcho chúng tôi xem bầu trời sao, ánh sáng tỏa ra từnhữngđốm lửa hiếm hoi và xa lơ xa lắc trong những vực thẳm bao la của trời.

Thỉnh thoảng tiếng súng tập trận của những chiếc tàu chiến thuộc hạm đội Hắc hải vangđến tận Yanta. Khi tiếng súng dộiđến, nước trong những bình thủy tinh rùng mình, một tiếng rền khẽchạy quađồng cỏ, quanh quẩn trong đám lá thông rồi câm bặt.

Ban đêm những chiếc máy bay vô hình ầm ì trên trời.

Tôiđọc một cuốn sách của Franco nói vềCervantes. Sách chẳng có mấy vì thế tôi đọc đi đọc lại cuốn đó mấy lần.

Vào thời kỳnày cây thập ngoặc bốn chân bắtđầu bò rất nhanh trên châu Âu. Những con người cao quý của nướcĐức - Heinrich Mann, Einstein, Remarque, Stephan Zweig -đã rời bỏquê hương, không muốn trở thànhđồng lõa với "nạn dịch hạch nâu" và tên vô lạiđiên khùng Hitler. Những người lưu vong nơiđất khách vẫn mang theo nơi tim niềm tin bất di bất dịch ở thắng lợi của chủ nghĩa nhân đạo.

Gaidar mang vềcho ngôi nhà chúng tôiởmột con chó béc-giê lộc ngộc lông xù có đôi mắt vàng ươm. Anh bảo nó là chó chăn cừu miền núi.

Hồiđó Gaidarđang viết truyện ngắn tuyệt diệu của anh - truyện "Cái Chén Màu Thiên Thanh". Và vờnhưkhông biết tí gì vềvăn học. Nói chung, anh hay giả bộ ngớ ngẩn.

Đêmđêm Hắc hảiầm ì buồn thảm. Nóầm ì cảban ngày, nhưng ban ngày thì không nghe rõđến thế. Có tiếngầm ì của biển viết cũng dễ hơn.

Đấy là một loạt những chi tiết của "cuộc sốngđang chảy trôi" lúcđó. Từ những chi tiếtđó truyện ngắn "Chòm Sao Chó Săn" hình thành. Trong truyện ngắnấy các bạn sẽthấy hầu hết những gì tôi nóiđếnởtrên: những cái lá sồi khô héo, nhà thiên vănđầu bạc, tiếng rền của những loạtđại bác, nhà văn Cervantes, những con người tin tưởng sắtđá vào thắng lợi của chủnghĩa nhânđạo, con chó béc-giê vùng sơn cước, chuyến bay đêm và nhiều thứ khác nữa.

Tất cảnhững cáiđó tất nhiênđãđược nhào nặn trong một tương quan khác và được đặt vào trong một chủ đề nhất định.

Khi tôi viết truyện ngắn này, lúc nào tôi cũng gắng giữcho tôi cái cảm xúc trước cơn gió lạnh thổi từnhững núiđêm xuống. Cáiđó cũng giống

như một chủ điệu của truyện ngắn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro