Ông lão trong quán điểm tâm ngoài ga

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ông lão gầy còm, râu tua tủa, ngồiởmột xó trong quánđiểm tâm của nhà ga Mayori. Những ngọn cuồng phong mùađông kéo thành dải ríu rít, ào ào chạy qua vịnh Riga. Băngđóng dày ven bờbiển. Qua bức màn tuyết còn nghe tiếng sóng ầm ầm đập vào màng băng rắn chắc bên bờ.

Ông lão rẽvào quán có vẻchỉ đểsưởi. Ông không gọi món gì, chỉngồi trên cáiđi-văng gỗ, vẻphiền muộn, thủtay trong tay áo chiếc va-rơi cộc của dân chài được vá víu một cách vụng về.

Một con chó trắng nhỏ, lông rũrượi,đi theo ông lão. Nó ngồi nép dưới chân ông, run lập cập.

Ngay cạnhđấy mộtđám thanh niên gáyđỏgay, gân nổi lên,ầmĩuống bia. Tuyết trên mũhọ đang tan. Nước tuyết tan chảy từng giọt xuống những cốc bia và những miếng bánh mì cặp xúc xích sấy. Họkhôngđể ý tới những giọt tuyết tan vì còn mải tranh cãi về một trận bóng đá..

Đến khi một gã trong bọn cầm lấy bánh và cắn một miếng hết nửa cái thì con chó không chịu nổi nữa. Nóđi vềphía bàn củađám thanh niên vàđứng lên bằng hai chân sau, nhìn vào mồm gã kia với một vẻxu nịnh.

- Pơti!

[1]

- ông già gọi khẽ, - Mày không biết xấu hổà, hảPơti? Sao lạiđến quấy rầy người ta?

Nhưng Pơti vẫnđứng. Chỉcóđôi chân trước của nó luôn luôn run rẩy và thỉnh thoảng lại hạxuống vì mệt. Khiđôi chân chạm vào cái bụng ướt, con chó lại chợt nhớ ra và giơ chúng lên.

Đám trai tráng khôngđểýđến nó. Họ đang mải nói chuyện và thỉnh

thoảng lại rót thêm bia lạnh vào cốc.

Tuyết bịt kín cửa kính và ta phải rùng mình khi trông thấy những con người trong lúc tiết trời giá rét thếnày mà lạiđi uống bia lạnh toát như băng.

- Pơti! - Ông lão lại gọi - Kìa Pơti! Lại đây!

Con chó vẫyđuôi rất nhanh vài lần nhưmuốn nóiđểông lão biết rằng nó có nghe thấy ông nóiđấy, nó xin lỗi ông, nhưng nó không cưỡng lại được nó nữa rồi. Nó không nhìn ông lão và còn quay hẳnđi chỗkhác. Nhưthểnó muốn nói: "Chính con cũng biết thếlà xấuđấy chứ, ôngơi.

Nhưng ông có mua nổi cho con một kẹp bánh như thế đâu!".

- Ôi, Pơti, Pơti! - ông lão thì thào và giọng ông run run vì buồn phiền.

Pơti một lần nữa ve vẩyđuôi cho qua chuyện, cầu khẩn nhìn ông lão. Nó nhưmuốn cầu xin ông lão thôiđừng gọi nó nữa vàđừng mắng mỏ nó, bởi chính nó cũngđang khổtâm lắm, bởi vì nếu không bịrơi vào tình cảnh quá khốn quẫn nhưbây giờthì, tất nhiên, nó cũng chẳng bao giờ đi xin ăn người ngoài.

Cuối cùng một gã trongđám thanh niên, gò má cao,đội mũmàu xanh lá cây, trông thấy con chó.

- Mày xin ăn ư, đồ khốn? - gã hỏi - Thế chủ mày đâu?

Pơti vui mừng ve vẩy đuôi, nhìn ông lão, thậm chí nó còn kêu ư ử. Gã trẻ tuổi nói:

- Sao lại thế, hảông công dân?Đã nuôi chó thì phải cho nóăn chứ! Như thếnày thật chẳng có văn hóa tí nào. Chó của ôngđi xin của bốthí. Mà ở nước ta luật pháp cấm ăn xin đấy.

Đám thanh niên phá lên cười.

- Vanka, mày nói thế làm gì!

Một gã trong bọn nói lớn và ném cho con chó một mẩu xúc xích.

- Pơti, không được đụng vào!

Ông lão hét lên. Da mặt sạm nắng gió và cái cổgầy guộc, nổi gân,đỏ

ửng lên.

Con chó rúm lại,đuôi cụp xuống, bò vềphía ông lão, thậm chí không dám nhìn đến mẩu xúc xích..

- Không được đụng đến một mẩu bánh của họ! - ông nói.

Ông lập cập lục trong các túi, lấy ra một sốtiền xu vàđặt lên lòng bàn tay màđếm, vừađếm vừa thổi rác bụi bám vào nhữngđồng tiền.

Những ngón tay ông run run.

- Lại còn mếch lòng nữa cơ đấy! - gã gò má cao nói. - Gớm chưa, sĩra phết!

- Thôi đi, mặc ông lão! Ông ta có đụng gì đến mày đâu. Một gã trong bọn vừa rót bia cho các bạn vừa dàn hòa.

Ông lão không trảlời. Ôngđiđến bên quầy vàđểcả đống tiền xu lên mặt bàn ướt.

- Một bánh kẹp thịt! Ông khàn khàn nói.

Con chó nhỏ đứng cạnh ông, đuôi cụp lại.

Cô bán hàng đưa cho ông lão một đĩa trên có hai kẹp.

- Một thôi.

Ông lão nói.

- Cụcầm lấy. - cô bán hàng nói khẽ, - Không vì thếmà cháu phá sản

đâu...

- Cảm ơn cô! - ông lão nói. - Cảm ơn!

Ông cầm lấy hai miếng bánh kẹp thịt vàđi ra ngoài sân ga. Ngoàiđó không còn một bóng người. Một cơn gió giậtđã qua, cơn nữa sắpđến nhưng còn xa,ởmãi chân trời, thậm chí còn một vệt nắng rơi xuống khu rừng trắng xóa bên kia sông Lyelup.

Ông lão ngồi xuống ghếdài, cho Pơti một kẹp còn kẹp kia ông lấy chiếc

khăn tay xám bọc lại và nhét vào túi.

Con chó cạp lấy cạp để, còn ông lão thì nhìn nó mà nói:

- Chao ơi Pơti, Pơti! Mày là một con chó ngốc ơi là ngốc.

Nhưng con chó không nghe ông. Nó bậnăn. Ông lão nhìn nó và lấyống tay áo lau mắt - gió làm nước mắt ông ràn rụa.

Đấy là toàn bộcâu chuyện nhỏ đã xảy raởnhà ga Mayori thuộc vùng duyên hải Riga.

Tôi kể câu chuyện đó làm gì?

Khi bắtđầu viết câu chuyệnấy, tôi nghĩ đến một chuyện khác hẳn. Kể cũng lạ, nhưng khi nghĩ đến ý nghĩa của những chi tiết trong văn xuôi, tôi chợt nhớ đến câu chuyện trên và quảquyết rằng khi miêu tảcâu chuyện mà không có một chi tiết chính, không có chuyện con chó bằng tất cảhình hài của nó tỏý xin lỗi ông chủ, không có cái cửchỉ ấy của con chó nhỏ - thì câu chuyện sẽ trở thành thô hơn so với sự thực.

Nhưng giảsửta bỏ đi những chi tiết khác nhưchiếc áo va-rơi vá vụng vềchứng tỏmột cuộc sống góa bụa hoặc côđơn, những giọt tuyết tan chảy từtrên mũxuống, những cốc bia lạnh buốt, nhữngđồng tiền lẻvới những vụn rác trong túi dính vào, cả đến những ngọn cuồng phong mùađông làm thành những bức tường trắng từbiển kéo vào thì truyện ngắn nọ sẽ còn khô khan hơn nữa và nhợt nhạt hơn nữa.

Trong những năm gầnđây, chi tiết bắtđầu biến mất trong văn xuôi của chúng ta, đặc biệt trong sáng tác của những nhà văn trẻ.

Không có chi tiết thì tác phẩm không sốngđược. Bất cứtruyện ngắn nào cũng sẽbiến thành một cái que khô khốc dùngđểxâu cá hồi sấy mà Chekhovđã có lần nói tới. Cá hồi chẳng thấyđâu, chỉthấy trần xì một cái que.

Ý nghĩa của những chi tiết làởchỗ, theo lời Pushkin, sao cho cái vặt vãnh không dễnhận thấy lại trởthành to lớn, lấp lánh trước mặt mọi người.

Mặt khác, lại có những nhà văn mắc bệnh quan sát khô khan vàđáng ngán. Các vịnày nhồi nhét vào tác phẩm của họhàngđống chi tiết

không lựa chọn, không hiểu rằng chi tiết chỉcó quyền tồn tại, không có nó không xong, trong trường hợp nó thật làđặc sắc, nếu nhưnó có thể tức khắc lôi một người hay một hiện tượng bất kỳtừtrong bóng tối ra ngoài, như một tia sáng.

Chẳng hạn ta muốn tạo hình tượng một cơn mưa mới bắtđầu, ta chỉcần viết rằng những hạtđầu tiên của nó rơi lộpđộp trên một tờbáo lăn lóc dưới đất, bên cửa sổ.

Hoặc muốn cho ngườiđọc có cảm giác rùng rợn trước cái chết của một

đứa trẻmới sinh, ta chỉcần nói vềchuyệnđó nhưAleksey Tolstoyđã nói trong cuốn "Con đường đau khổ" của ông:

"Mệtđến rã rời, Dasha ngủthiếpđi và khi nàng tỉnh dậy thìđứa conđã chết. Những sợi tóc tơ của nó dựng ngược lên.

- Khi em ngủthì con chết... - Dasha vừa nói với Telegin vừa khóc - Anh

ơi tóc nó dựng ngược lên... Một mình nó vật vã đau đớn... Em thì ngủ.

Không có lời khuyên giải nào có thểlàm cho nàng quênđược cái cảnh tượng thằng bé một mình vật lộn với thần chết".

Chi tiếtấy (những sợi tóc tơcủađứa bé dựng ngược lên), ngang giá với rất nhiều trang giấy tả cái chết chính xác nhất.

Cảhai chi tiếtđóđều rấtđắt. Chỉcó cái chi tiết quyếtđịnh nổi toàn cục, hơn nữa, nhất thiết phải có, mới là chi tiết.

Trong bản thảo của một nhà văn trẻtôiđã vấp phải mộtđoạnđối thoại như thế này:

- Chào côạ, cô Pasa! - Aleksey nói và bước vào (Trướcđoạn này tác giả nói rằng Aleksey lấy tay mởcửa phòng bà Pasa, nhưthểcó thểlấyđầu mà mở được).

- Chào anh, Aliôsa. - bà Pasa niềm nởkêu lên, ngừng tay khâu và nhìn Aleksey. - Sao lâu nay anh không lại chơi?

- Chả có thì giờ nào nữa. Họp suốt cả tuần lễ.

- Anh nói suốt một tuần cơ à?

- Đúng như vậy, cô Pasa à! Suốt một tuần. Vôlốtka không có nhà ư?

Aleksey hỏi, đưa mắt nhìn quanh gian phòng trống.

- Không. Nó đang ở nhà máy.

- Thế thì cháu đi vậy. Chào cô, cô Pasa! Chúc cô khỏe.

- Chào anh, Aliôsa. - bà Pasa trả lời - Chúc anh khỏe!

Alekseyđi vềphía cửa, mởcửa và bước ra. Bà Pasa nhìn theo anh ta, lắc

đầu:

- Anh chàng mới hoạt bát làm sao! Y như một cái máy nổ".

Cả đoạn này, không kểlối viếtẩu và lộn xộn, gồm toàn những chuyện hoàn toàn không cần thiết và rỗng tuếch (những chữnghiêng). Tất cả những cáiđó là những chi tiết khôngđặc sắc, không cần thiết và không xác định điều gì.

Trong việc tìm tòi và sử dụng chi tiết cần phải lựa chọn hết sức chặt chẽ.

Chi tiết có liên quan rất khăng khít với hiện tượng mà chúng ta gọi là trực giác.

Tôi hình dung trực giác là tài căn cứvào từng phần cá biệt, vào một chi tiết, vào một tính chất của một vật nàođó mà dựng lạiđược bức tranh của toàn cục.

Trực giác giúp cho những nhà văn chuyên viết truyện lịch sửtái tạo được không riêng cảnh thật về đời sống của những thờiđạiđã qua mà còn cảkhông khí, tâm trạng những con người, tâm lý họ(mà tâm lý của họ so với tâm lý của chúng ta tất nhiên có hơi khác).

Trực giác giúp Pushkin, người chưa từngđến Tây Ban Nha và Anh, viết nên những vần thơTây Ban Nha tuyệt diệu, viếtđược "Người Khách BằngĐá", và trong "Yến Tiệc Giữa Mùa Dịch Hạch" ôngđã vẽlên cảnh nước Anh chẳng kém gì Wanter Scott

[2]

hay Burns

[3], những người gốc rễ ở đất nước sương mù, nếu nhưhọcũng viết về chuyện đó.

Một chi tiết tốt còn gợi lên cho ngườiđọc hình tượng trực giác màđúng đắn vềtoàn cục - hoặc vềmột con người với tâm tình của anh ta, hoặc về một sự kiện, hoặc hơn thế nữa, về cả một thời đại.

Chú thích:

[1]

Petit, tiếng Pháp nghĩa là "bé con", "nhóc". [2]

Walter Scott (1771-1832), nhà văn Scotland [3]

Robert Burns (1759-1796), nhà văn và nhà thơ Scotland

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro