5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Fukuchi hơi nghiêng mắt, phàn nàn với Nikolai rất lâu trước khi cả ba lên xe (cùng vẻ mặt ngán ngẩm như kiểu chuyện-hằng-ngày-mà-sao-cứ-mãi-bàn-cãi-thế của tay quản lý Casino), rằng: có nhất thiết phải đưa theo Oksana đến một nơi kinh khủng và không hề phù hợp với môi trường giáo dục trẻ nhỏ như vậy không? Gã hề người Ukraina chỉ cười cười, không trực tiếp đáp lời ông, lại hướng mắt về phía Oksana rồi nhún nhún vai, sau một hồi như thể đã ngẫm nghĩ rất lâu mới có được câu trả lời, trẻ con thì nên đi hít không khí trong lành nhiều hơn một chút, đằng này tôi nghĩ bố cô bé cũng sốt ruột lắm rồi, cần phải cho gia đình đoàn tụ thôi - cùng một tiếng "Hả" rất rõ ràng của Sigma nối tiếp những lời than phiền lúc nãy của anh về việc chỉ cần dịch chuyển giữa hai vùng không gian là được mà, tại sao nhất thiết phải tốc hành trên đường bộ; "Loại trừ trường hợp về cái người đang ở tầng dưới cùng của cái nhà tù kia và chắc hắn đang thảnh thơi nghĩ cách thống trị thế giới - vì đó là suy nghĩ ngớ ngẩn nhất trần đời này, thì rốt cuộc Oksana có bố từ bao giờ?"

Nikolai ồ lên một tiếng, đáp rằng tôi đã sử dụng hẳn ba mươi chín phút để suy nghĩ đấy, tại sao ư? Vì một số lẻ kỳ quặc lúc nào cũng sẽ khiến câu nói trông có vẻ đáng tin hơn chứ sao nữa~

Oksana ôm bình nước cách nhiệt trong lòng, lén lút nhìn Fukuchi, biết được ngài cảnh sát rõ ràng đang lo lắng cho mình. Và có lẽ đó cũng là điều rõ ràng nhất mà Oksana có thể đọc hiểu được trong tình huống trước mặt, khi đầu con bé con ong ong bập bùng chữ "bố" không xác định, chen giữa những tiếng tranh cãi của hai người ngồi trước, và Sigma có vẻ như lại cũng là đang phàn nàn về vụ nếu "bố" của Oksana đúng là người đó, thì anh ta sẽ gọi lên trung tâm chăm sóc trẻ em để báo cáo vụ việc lạm dụng và phá hoại tâm trí thiếu niên trước mắt - dù cho, Nikolai đảo mắt rồi cười ha ha, cảnh sát Nhật không thể bắt giữ người ngoại quốc (mà ở đây là chính anh) với tốc độ nhanh hơn cách anh có thể bay khỏi Yokohama với vận tốc vượt cả âm thanh như thường lệ đâu, vô nghĩa thôi, мій любий друже (1).

Con bé quan sát tình hình, len lén cách ly mình khỏi cuộc tranh cãi trong xe, cuối cùng cũng đưa mắt nhìn vị cảnh sát đứng ngoài, bắt gặp cặp mày kiếm còn nhăn hơn khi nãy, khuôn mặt đã phảng phát độ tuổi trung niên cũng không giấu đi sự nghi hoặc rõ ràng trong ánh mắt ngài. Fukuchi khoanh tay, ngán ngẩm nhìn mớ hỗn độn trong xe, vô tình bắt gặp Oksana đang chăm chú nhìn mình, nên ông cũng chỉ thở dài mà buông thõng tay, đôi chân đi bốt quân đội rướn lên đôi chút để tay có thể đưa qua được lớp kính chuyên dụng của chiếc xe jeep màu bạc, vò rối đầu con bé, lầm bầm những từ ngữ tiếng Nhật mà Oksana chỉ loáng thoáng thấy quen tai chứ không rõ về mặt chữ, sau cùng lại cố gắng cười một cái. Một nụ cười đặc trưng của Fukuchi ở trong các tình huống cần thiết, con bé âm thầm ghi nhớ, không phải một nửa sự thật mà là một trăm phần trăm sự thật.

Nếu có khác ở đâu, thì sẽ có khác biệt ở việc sự thật này sau cùng đã được xoay góc quay về hướng nhìn cố định, theo như Sigma đã từng nhận xét. Không phải góc nghiêng Hà Lan (2) đâu, lúc đó (Nikolai vừa nói vừa cười ha hả rồi vỗ bôm bốp vào vai Sigma), nếu đó là Kamui, nhất định sẽ là góc quay trên cao, hoặc thậm chí là góc quay trên không.

Vì từ rất lâu rồi; giọng Fyodor lại mờ mờ nhạt nhạt hiện ra trong tâm trí Oksana, ánh mắt không xa không gần thay thế con bé nhìn nhận người trước mắt; Kamui đã không còn coi bản thân là một phần của thế giới này nữa.

"... Ta cũng không muốn để cháu đi cùng bọn họ lắm, hoặc là," Viên cảnh sát thở hắt, dài như một con sóng chập chờn xô đến tận chân trời, "... Hoặc là, đáng lý ra, trẻ con thì không nên dính vào những chuyện rắc rối như thế này."

Tiếng ông trầm xuống, rành mạch bên tai Oksana. "Nên hãy giữ an toàn, nhé. Bây giờ trời vẫn sáng, nhưng chút nữa ánh sáng sẽ không đủ. Nếu không may có chuyện không ổn, thì hãy cứ trốn vào áo của cậu người Ukraina kia. Chắc là sẽ... không có mùi gì đâu. Ta vẫn nhớ mình chưa từng nôn vào đó."

Oksana chỉ gật gật đầu kịch liệt như mình đã hiểu. Lúc chiếc xe rời đi, cô bé hãy còn vẫy vẫy tay chào tạm biệt bóng hình viên cảnh sát, sau đó lại lúi húi rụt tay lại ngay trước khi bị Sigma nhắc nhở.

Giờ đây, Oksana âm thầm nghĩ, trực giác của những người làm trong lực lượng vũ trang chuyên nghiệp thật tốt. Vì tình huống trước mắt con bé cơ bản cũng không khác đi lắm dự đoán của ông Fukuchi, khi Oksana chỉ có thể loáng thoáng thấy được ánh sáng từ chiếc đèn âm trần cài trên cao mãi mới tràn được vào "vết xé" của chiếc áo choàng, khiến những hình ảnh trước mắt giờ đây đã được chuyển hóa thành những hình thái sắc nét hơn, rành mạch hơn, lại quen thuộc hơn. Không biết là do vô ý hay là chủ ý của chủ nhân chiếc áo (Oksana sẽ mạnh dạn tin vào vế sau), mà từ nãy tới giờ ánh sáng đều như tắt khỏi phần không gian được vạch riêng với thế giới thực, phải đến hiện tại mới bỗng dưng sáng lên như một thói quen đã bỏ giờ đây lại trở về. Cô bé nhăn mắt và hơi quơ quơ tay, lại thấy mình giống một người mù lần đầu được thấy và cảm nhận ánh sáng bằng mọi giác quan còn "sống", biết rằng hốc mắt sẽ tổn thương và nước mắt sẽ đầy ứ, nhưng vẫn không cách nào quay đi được.

Con bé muốn được nhìn thấy hình thái của Fyodor trước mặt của người khác chứ không phải dáng hình luôn được tươm tất bày ra trước mắt bản thân. Chuyến đi có lẽ sẽ ít nhiều giải đáp về nguồn gốc của cô bé nhỏ, vì Oksana biết sẽ chẳng bao giờ có chuyện Nikolai bỗng nhiên lại cất công mang theo Sigma đến nhà tù Meursault. Xét về phương diện nào đó, Oksana tự biết mình và người anh đã được ba năm tuổi kia đều sở hữu vài nét tương đồng, đặc biệt là về xuất thân. Và ít ra con bé cũng sẽ nhận được điều gì đó, có lẽ, ví dụ như có khả năng cảm nhận được ánh sáng đau rát chân thật, chứ không còn mãi mãi mù mờ trong đêm, hoặc bị chính tiếng đàn ngày nào nhẹ nhàng chôn vùi tất thảy.

Quang cảnh bỗng chốc được mở rộng trong chốc lát, chẳng còn những ấm trà reo vang, gợi lên hình dáng Fyodor trong gian phòng và chậm rãi gửi đi những hình ảnh ấy đến tầm mắt của Oksana như con bé vừa lơ đễnh. Và bất chấp sự thiếu hụt của lượng ánh sáng cần thiết để võng mạc có thể nhận được thông tin một cách trọn vẹn nhất trong hoàn cảnh ấy, Oksana vẫn chớp mắt, cố để bản thân có thể nhìn rõ ràng hơn, rồi cuối cùng cũng thấy được dáng người quen thuộc đang đứng ở một góc - với làn da nhợt nhạt đã luôn phảng phất hơi thở của mùa đông nước Nga trong suốt những thế kỷ qua, của một mùa đông đã sớm làm héo mòn cả thảm thiên nhiên trù phú trong vạn niên đằng đẵng, cùng một nụ cười thường trực trên môi mà bất cứ ai cũng không thể đọc ra ý tứ đằng sau. Con bé nghiêng đầu, hơi ngẩn người, cảm thấy Fyodor đúng là vẫn y nguyên, hệt như những ngày anh vẫn còn ở nhà chính, dáng hình từ trong quá khứ đặt về hiện tại lại gần như chưa hề đổi khác - trừ sự khác biệt loáng thoáng lộ ra trên gương mặt vốn luôn có đường viền cằm rõ rệt vì bệnh án dài chừng độ mấy thước. Có vẻ nhà tù đã giam cầm thân xác anh, nhưng không cách nào trói buộc tâm hồn anh. Và Oksana lại nghĩ đến lời của Nikolai khi anh từng nói Fyodor vốn chưa bao giờ đặt bản thân xa hơn khỏi xã hội đại chúng, bảo rằng Dostoy vốn đã luôn bao hàm cậu ta vào mọi người, và mọi người trên thế giới này; trong ánh mắt của Dostoy; đều nên được nhận sự đối đãi bình đẳng.

Trong cảm quan của cậu ta, ai cũng có giá trị (3). Và trong suy nghĩ của cậu ta - bất kể ai được trao nhận giá trị vượt trội hơn đồng bạn, thì đó là hình phạt từ Đức Chúa Trời (4).

Dù có lẽ Chúa chưa từng tồn tại trong thế giới của anh ấy, Oksana lặng lẽ tự giả định, và có lẽ Chúa cũng chưa từng tồn tại trong thế giới của một chú chim đã sớm vượt được khỏi chiếc lồng vật chất để bành trướng tâm trí của chính mình lên bất cứ ai mà nó gặp gỡ trên tuyến đường của ngày mai đang tới, nên thật kì lạ khi Nikolai lại sử dụng kiểu so sánh như vậy.

Nhưng tâm trí của Fyodor thì vốn luôn mờ mịt song hành với những động thái không ai hiểu được song song với những đường ray chạy loạn trong đầu Nikolai. Điều này được thể hiện rất rõ ở cả trong bản chất lẫn thể chất của anh - khi con bé có thể dễ dàng thấy được phần tóc mái lâu ngày chưa cắt đã luôn rũ xuống và che đi màu tím ban nhàn nhạt trong ánh mắt của người thanh niên nước Nga. Và có lẽ Fyodor cũng chưa từng nghĩ đến việc bỏ đi lớp rèm của tâm trí ấy để bản thân có thể tiếp tục truy cầu mặt trời. Nên Oksana nghiêng mắt để suy nghĩ sâu thêm một chút, bất chợt nhận ra hình như hành vi không chịu cắt tóc ấy của anh có lẽ nào là một kiểu đại biểu cho việc Fyodor dường như chưa bao giờ có ý định mở rộng tầm nhìn của mình để nhận lấy ánh sáng của thế giới này không, và hình như là, anh cũng chẳng có nhu cầu để suy tính tới chuyện ấy dù chỉ một lần. Nên con bé chau mày như muốn nhìn kĩ hơn khuôn mặt ấy và rồi lại bắt được viễn cảnh mà Oksana đã được nghe Nikolai thao thao bất tuyệt về trong mấy tiếng di chuyển vừa rồi, rằng Dostoy sẽ chẳng khác gì so với ngày cậu ấy rời đi đâu, anh thề với em luôn, vì thực chất Dostoy vốn chưa từng rời đi, nên cậu ta cũng chẳng cần trở về.

Oksana chống má nhìn người kia, âm thầm nhận định rằng Nikolai đã nói rất đúng. Bỏ lại khoảng kí ức của con bé về những ngày đã ở lại khi trước để trở thành một bản nhân thể số hai của thực tại - Oksana đã thấy hoàng hôn vẫn cứ tiếp tục tắt mãi trong đáy mắt anh (như vẫn luôn luôn), và những gì duy nhất còn sót lại trong đáy đồng tử luôn lấp lánh ý cười kia, có chẳng chỉ là chút tro tàn rực rỡ của dạ mịch, sớm đại biểu cho việc sẽ không còn chút ánh sáng nào ở lại. Đúng là anh chưa từng thay đổi bao giờ, mặc định ở mọi thời gian, và có lẽ là cũng mặc định ở mọi không gian, mọi vũ trụ quan.

Nên Oksana lặng lẽ hướng mắt về góc phòng còn lại như bản năng tự nhiên của một cá thể hướng theo mặt trời khi hoàng hôn đang tắt dần ánh nắng và cuối cùng cũng thấy một hình dáng quen thuộc khác. Oksana hình như đã gặp người này vô số lần trong tâm trí nhưng chưa từng đối mặt ở thực tại, lại càng chưa từng được biết thế nào là khi ánh sáng cuối cùng cũng quay về được với vùng đất tưởng như đã chìm vào bóng đêm vĩnh hằng, dù chỉ là le lói chập chờn, dù chỉ là mong manh mà dễ dàng tắt ngúm.

Dazai Osamu, Oksana lẩm nhẩm khi nhớ lại những cụm dữ liệu trong đầu, lòng không khỏi tò mò về đôi mắt kiến quang nằm trên khuôn mặt có những lọn tóc nâu xoăn lòa xòa ấy. Là Dazai Osamu đã từng thuộc về Mafia Cảng, là Dazai Osama đến từ Trụ sở thám tử vũ trang. Là Dazai Osamu đã gián tiếp giết chết đêm diệu kỳ ở miền Đông nước Mỹ (5) và đánh chìm con cá voi nhà táng nằm giữa biển xanh thuộc về lời hiệu triệu của không trung (6), là người duy nhất lang thang giữa ranh giới của việc có tội hay vô tội (7) chiếu theo hình ảnh "món quà từ Chúa" dựa trên lời tường thuật của Fyodor.

Là Dazai Osamu đã xuất hiện vô số lần trong các cuộc trò chuyện của Thiên Nhân Ngũ Suy và trong những tập tài liệu của kẻ đã giam linh hồn mình ở nơi nhà tù khuất sau rặng đông của dãy Ural, chốn mà quanh năm chỉ có gió lớn và bão tuyết, chốn mà quanh năm không thấy được mặt trời (8). Và từ những dữ kiện của quá khứ ấy, hình bóng Dazai vốn vẫn luôn thấp thoáng mờ mịt qua ánh mắt Oksana lại bất ngờ mà dần dần trở nên rõ ràng hơn trong tâm tưởng con bé; và cuối cùng lại khiến Oksana thấy được một điều khác biệt vô cùng tận khi tìm kiếm ánh sáng ở nơi đồng tử ấy - rằng Oksana có làm sao cũng không cảm nhận được cái lạnh cực hình trong ánh mắt của Dazai, và ánh sáng trong mắt anh lại mang cả một ngọn lửa hằng nhiệt từ những cụm chênh lệch áp suất không khí, dấy lên một cơn bão lớn làm buốt rát da thịt, và xa cách hoàn toàn với vùng viễn đông xa xôi đã mãi mãi thường trực ở trong tâm hồn của Fyodor mà con bé quen thuộc.

Càng ở gần Dazai, Oksana lại càng chỉ duy nhất thấy được mùi gió mằn mặn chờn vờn bên cánh mũi bản thân, chở đi tâm tưởng của biển khơi vạn thước không thể thấy đáy. Oksana bỗng thấy đại dương và các mảng tuyết trắng vốn trôi nổi riêng biệt ở hai cực của địa cầu giờ đây bỗng nhiên lại có chung vô số những điểm giao cắt đến gần như biến hóa thành một bản thể tương đồng; và trong phút chốc khiến con bé tự hỏi; bởi vì cả hai vốn tương đồng đến vậy, vậy thì là tuyết trắng có thể chôn đi mùi máu bằng sự buốt rét đến đông cứng tâm hồn nhanh hơn, hay là biển khơi với những cảm xúc chôn sâu lại cứ cố cùng tìm cách theo đuổi ánh sáng có thể che đi vết hoại tử đã nồng mùi xú uế tràn vào tâm tưởng một cách trọn vẹn hơn, và hòa hợp với xã hội đương đại hơn.

Oksana nghĩ ngợi một lúc, làm thế nào cũng không tìm được cho bản thân một câu trả lời. Chính người anh Sigma của con bé cũng từng nói hai người kia như thể một quả bom nguyên tử sinh ra từ sự điên cuồng âm trầm của con người nay lại bị cắt ra làm đôi, một nửa cho nổ Bắc bán cầu, nửa còn lại thổi bay Nam bán cầu chỉ bằng cái nhấn nút, lặng lẽ hủy diệt cả thế giới mà không cho người ta kịp nhận thức chuyện gì đang diễn ra. Điều này vốn khó hiểu, và Oksana cũng tự biết việc rút ra một câu trả lời là không thể. Nên khi ánh mắt của cả hai vô tình lướt về phía Nikolai, Oksana giật mình và bất chợt thấy cảm giác lạnh lẽo như cánh tay ai rất xa lạ. Bàn tay ấy bỗng bắt được phần gáy lộ ra từ những mảng tóc nhạt màu của con bé, làm nổi lên những đợt gió lặng làm khuấy đảo cả vùng không khí trong gian phòng kín không thể lọt nổi một tia xạ quang bình thường. Làm sao cô bé lại loáng thoáng hiểu được lời khi nãy của Sigma, và cũng tự nghĩ có khi chỉ có mỗi mình và người quản lý là những cá thể bớt bất thường nhất trong căn phòng này. Đặc biệt là khi ở đằng kia - cuộc trò chuyện của đã trở về những khoản điều lệ đang được phổ biến của trò chơi sắp tới, với biểu cảm rất mãn nhãn nổi bật trên khuôn mặt của Dazai và Fyodor. Oksana cảm thấy họ đang hài lòng, và con bé cũng biết với phong cách của Nikolai, chắc chắn sẽ có người phải chết.

Hoặc tệ hơn, mà có khi là "tuyệt vời hơn" ấy chứ, ai biết được, tiếng Sigma chờn vờn bên tai con bé, tất cả chết hết.

"Ồ, hiểu rồi." Fyodor nghiêng đầu, lắng nghe chăm chú, song lại để ánh mắt lướt qua Dazai và rồi nhận lấy câu trả lời nối tiếp chuỗi từ ngữ dùng để xác minh thực tại ấy của gã người Nga.

"Chà. Một trò chơi của bạn ngươi. Ra là thế nhỉ." Dazai cong môi, một chút thất vọng cũng không thể nhìn ra trong đáy đồng tử nâu sẫm phản chiếu ánh sáng từ trên cao ấy.

Nên Oksana cúi mặt và không cảm thấy bất ngờ khi ván bài bị lật tẩy ngay lập tức. Việc này gần như đã trở thành một cơ chế sinh hóa trong cơ thể của cả hai cá thể đang đứng trước mặt con bé - rằng phải tự tìm lấy mặt trời, tự trở thành mặt trời hay tự giết chết mặt trời để phục vụ cho con đường mà họ đi. Đúng là khác biệt tiệm cận gốc của trục tọa độ, hoặc nói một cách đơn thuần hơn, Oksana lại thấy được rất sống động việc hai người ngấp nghé ở rìa tương đồng đến đáng kinh ngạc đang bày ra ngay trước mắt, dù cho bản thân cũng chỉ mới được nghe kể về người thám tử kia một lần duy nhất, và vừa khéo thay, lần duy nhất ấy lại chính là lần thuộc về thời điểm ở thì hiện tại.

Chính sự chủ quan hóa về cách nhìn nhận người thám tử ấy đã khiến Oksana lại thấp thoáng nhớ đến một quyển sách viết về đại dương mà bản thân đã đọc được. Con bé nhớ rằng tác giả đã viết, rằng ở dưới đáy vực sâu kia, không có một tiếng hát nào của tiên cá có thể chạm đến nơi không có mặt trời (và hóa ra anh Nikolai lại nói dối), lại cũng không có chút ánh sáng nào đủ mạnh mẽ để đẩy đi vương quốc bóng đêm có chăng đã tồn tại ngàn năm với Atlantis chảy ra huyết lam cùng những mảnh xác nát của một con tàu vốn từng mải miết đi tìm một chốn kinh đô đã chết. Ở nơi tận cùng xuyên suốt của khối địa chất Mariana, thứ duy nhất người ta có thể tìm thấy là tảo xanh đã luôn luôn chìm trong đêm đen và bị tước đoạt đi tất thảy quyển được nhìn thấy ánh sáng trong một lề thói vô lý đến ngỡ ngàng dù cho cùng chung số phận rằng đều là một loại thực vật, và còn tệ hơn, tảo xanh thậm chí còn luôn bị nhăm nhe mang mạng sống của chính mình vào những ngày tàn lụi cuối đời để rồi bị biến thành những thứ đồ ăn cho sinh vật xung quanh, mà cuối cùng chẳng thể chạm tới thái dương một lần sau cùng trong đời.

Với một số phận thảm thương và đầy rẫy bất công như vậy, Oksana đã sớm thấy tiếc nuối với số phận của sinh vật biển ấy thông qua tư cách người đọc. Nhưng con bé cũng đủ tỉnh táo để đoán rằng có trái với sự ủy mị của bản thân, những miếng tảo ấy sau cùng cũng chẳng quá bận tâm mấy về số phận, hoặc thậm chí còn chưa từng nhìn nhận cuộc đời bản thân thông qua một phương diện như vậy. Vì gã người Nga đằng kia trong suốt thời gian Oksana biết đều chưa từng buồn gạt phần tóc mái đang che mắt bản thân qua một bên, và điều ấy có chăng lại là một ví dụ hình họa xác đáng nhất cho lời khẳng định với ý nghĩa hai tầng này; rằng hình như để đạt tới một cảm quan sâu sắc nhất và để vạch định ra một tuyến đường đúng đắn nhất để đi tới chân ý của bản thân - thì bóng đêm, áp suất hay môi trường chưa bao giờ là thứ cần bị e ngại. Việc tự chấp nhận bản chất của chính mình bất kể là thiện lương hay bất lương đều là cần thiết để khiến mình hòa hợp với thời đại, và với Fyodor - Oksana đã biết anh sẽ luôn đặt nhu cầu của thời đại lên vị trí cao nhất, cho dù việc theo đuổi điều ấy có thể sẽ khiến anh rơi xuống tận cùng của đại dương sâu hoắm không nhìn thấy được điểm kết, hoặc tệ hại hơn, có lẽ anh sẽ trở thành vật hiến tế cuối cùng để chấm dứt sự hỗn loạn của mọi thứ mà khiến vạn vật mất đi tính bình đẳng ban đầu (9).

Anh Nikolai từng nói, "Dostoy không tin vào Phật giáo, không tin vào kiếp sau. Nên cậu ta có lẽ sẽ không tin vào luân hồi. Hoặc có lẽ cậu ta càng chưa từng muốn đi vào luân hồi", anh ngân giọng trong sự hào hứng quen thuộc. "vì hành vi ấy thể hiện sự ảo tưởng về một tự do giả dối giam cầm trong chính tâm hồn của những con người tham lam một điều có thể trường tồn mãi mãi."

"Nhưng rốt cuộc trên thế giới này chẳng có gì là tồn tại mãi mãi, và sự thay đổi là thiết yếu. Nên thay vì truy cầu ánh sáng bất diệt như vậy, Dostoy đã quyết định gửi cuộc đời mình vào một sự thay đổi chí cốt, và sẽ chết sau khi đã thành công hiện thực hóa sự thay đổi ấy. Đúng là phong cách của cậu ấy mà, ha ha ha!"

Oksana lại chau mày, thấy mình trong quá khứ mờ mịt không hiểu, bấy giờ cũng lại cố gắng quan sát xem Fyodor hoặc Dazai có đang thắc mắc gì về tính "triết học" nằm trong vấn đề mà anh Nikolai đang thao thao bất tuyệt như bản thân ngày xưa không, vì cơ bản mỗi lần con bé nhớ lại những lời phân tích ấy, Oksana thấy mình luôn như đang đi trên một lớp băng mỏng cùng với vô số người khác. Con bé thấy mình chạm được vào bề ngoài của lời nói nơi anh, nhưng khi cố gắng cúi xuống để xem điều gì được giấu ở bên trong, lại chỉ thấy một lớp kính trong với những hơi lạnh mờ mịt, như một dấu hiệu nhắc nhở rằng con bé đã đi sai hướng, tìm sai đối tượng, và cũng hỏi sai vấn đề. Lớp băng phản chiếu hình dáng Oksana và phản chiếu cả những người đi cùng, làm con bé nheo nheo mày như cố gắng nhìn rõ hơn, tự hỏi xem rốt cuộc với một người sống ở biển khơi, và với một người sống ở núi tuyết, có ai đã từng nghe được tiếng bồ câu gù khi thực sự chạm tay đến tự do chưa.

Con bé tò mò liệu tồn tại một khả năng chứa đựng khoảnh khắc như vậy, khi thế giới của "nhân loại" trong tầm mắt anh Nikolai là vô cùng tận với cả trăm bản thể - có thể là chứa cả trăm kiểu thần linh nên đã trùng điệp lên một tính-thống-nhất-vĩnh-cửu để bó hẹp tâm tưởng của một người đến cùng cực như vậy, hoặc cũng có thể là xuất hiện trong một hình thái đơn giản hơn là cái lồng sắt giam, cầm tù vô số cá thể vốn có những bộ não có thể được kiến tạo từ vô vàn con số viết đầy trên một khối đa giác với số cạnh là vô hạn, nhưng cuối cùng lại chọn cách chịu thua trước thời cuộc hay không? Mãi đến về sau, Oksana mới nghe được Sigma loáng thoáng nói, anh Nikolai sống trong chủ nghĩa duy vật nhưng lại vẫn truy cầu một tuyến đường duy tâm hoàn toàn tự do về thể xác, và càng không có nhu cầu tự chôn mình trở thành cái chết giả dạng sự sống với tâm tưởng bị giới hạn như tay thư ký kia (10); nên thắc mắc của Oksana sẽ vĩnh viễn không có lời giải đáp - trừ khi con bé thực sự được phép bước vào đầu Nikolai và phân tích xem bên trong hộp sọ ấy luẩn quẩn điều chi.

Và dù đã nghe được như vậy, nhưng cuối cùng Oksana cũng chỉ thấy được lớp băng mỏng trong đầu mình phản chiếu vài ba chú gấu trắng đã bắt đầu tập bơi vì sự nóng lên toàn cầu chứ chẳng có bóng dáng của Fyodor hay Dazai. Nhưng Oksana thấy bản thân có vẻ kiên quyết hơn mình tưởng, khi những ngày mùa thu tháng trước đã trôi qua với việc con bé luôn cố gắng tiếp thu tư tưởng của Nikolai, và Oksana mím môi, vì mình cũng khó khăn đến vậy, nên có lẽ Dazai và Fyodor chắc rằng rồi cũng sẽ cần một quãng thời nhất định để tiếp thu được lượng thông tin vẫn luôn được phát triển trong tâm trí Nikolai một cách không giới hạn như thế - một kiểu phát triển mà khi thì nghịch biến, khi thì đồng biến, lúc thì dừng lại và khi lại ngắt quãng, lúc thì phi nước đại để truy cầu một tầm nhìn mờ mịt trong anh rồi bỗng phanh gấp để quay về điểm khởi phát mà không có lí do. Chính Oksana cũng đã thấy những suy nghĩ của Nikolai đã ít nhiều đổi khác đi về mặt hình thái (như cách anh bắt đầu lồng ghép những thuật ngữ triết học vào chẳng hạn), nên chắc Fyodor ít nhiều cũng sẽ phải từ từ mới nắm bắt được mặt bản chất được giấu sau vô số bộ mặt và hình thái của người đồng hương mà thôi, chứ đừng nói đến Dazai chỉ mới nhìn Nikolai qua màn hình vô tuyến với nửa cái xác anh lăn lóc trên mặt đất, mày còn hơi nhăn nhăn lại vì âm ngữ Nga - Nhật của đối phương.

Nhưng chỉ sau vài tích tắc, câu trả lời cho nghi vấn của Oksana đã quá rõ ràng khi cuối cùng Fyodor chỉ khép hờ mắt và nở một ý cười còn vương trên ánh mắt, thấy hình ảnh của chính mình phản chiếu trong ánh mắt Dazai, rõ ràng, rành mạch, nhưng lại không nhận được ánh sáng.

Họ đều biết cả.

"... Nhằm chứng minh ý chí tự do của Homo Sapiens." Anh dịu giọng khi đã xác nhận đối phương đang dần dần tiệm cận đến tâm trí của bản thân, và Oksana có thể nhìn ra được sự phấn khích đang tồn tại rất sắc nét trong ngôn từ quen thuộc ấy dù cho ánh mắt anh vẫn đang nằm trong góc chết của con bé. Oksana thấp thoáng thấy được cái nhìn quen thuộc của Fyodor như những kiến thức về anh mà con bé đã chắt góp được trong những tháng vừa qua, và thấy được cả cách Dazai quan sát mọi thứ với sự bất ngờ được hạ xuống đến cột mốc cực tiểu như một minh chứng rõ ràng nhất cho việc họ vẫn luôn biết mọi thứ vốn từng đã rất khác. Oksana ngẫm nghĩ, thấy có lẽ là vì dù có đổi qua bao nhiêu chiếc áo choàng khoác ngoài thì việc che giấu hoàn toàn bản chất của tư tưởng nằm trong mà đã luôn luôn gắn sâu vào tư duy của một cá nhân chính là bất khả thi, bởi bản chất thì luôn thuộc về tâm hồn, còn vật chất chỉ là vỏ bọc phục tùng thứ vô hình và khó định nghĩa như "linh hồn" hay "đặc tính từng cá thể"; mà Fyodor lại luôn hiểu quá rõ thứ anh hằng truy cầu là gì. Giọng nói đặc chất Đông Âu sau cùng lại đều đều vang lên, hoài nguyên, quen thuộc, lại xao động trong không khí của nhà chính mỗi ngày – hệt như mọi chuyện Oksana từng thấy mới chỉ xảy vào hôm qua, khi bộ dao dĩa bạc mới được soạn ra và Bram thì liên tục phàn nàn những thứ đồ đó toàn mùi dầu lửa xém thịt và dây thừng bện da.

Chiếc áo choàng, Oksana nhìn Nikolai, có lẽ chính là chiếc áo choàng này.

"Tôi đã phải nghĩ ra trăm vạn những cách để giải phóng ý chỉ của bản thân thông qua việc giết Dos-kun, nhưng cũng đã rất đau đầu để tìm ra phương pháp giữ vững mối quan hệ mật thiết của tôi với thể xác của chính mình đó."

Giọng anh du dương như một bản nhạc, lại phảng phất tiếng cung kéo đàn quen thuộc của chiếc cello đã dính bụi từ rất lâu nằm trong thư phòng anh mà Oksana đã từng thấy qua rất nhiều lần. Những chồng tài liệu ấy giờ đây lại quay về cùng với giọng nói quen thuộc lạc trong tiếng nhạc nằm dưới ánh trăng ngày đó - khéo léo làm sao lại giúp tái hiện lại một câu chuyện kể về cách năm luồng tư tưởng đã giao cắt cùng một chỗ thế nào, và cùng khoác lên một chiếc áo choàng ra sao. Một câu chuyện đồ sộ, chặt chẽ và gần như không có kẽ hở hiện ra trong tâm trí của Oksana; là một câu chuyện được viết ra để có thể giúp thế giới chuyển hóa thành một nơi tốt đẹp hơn, tự do hơn, đúng đắn hơn, có ý nghĩa hơn và tràn đầy công lý hơn. Trên trang giấy dần dần hiện ra hình thù từ những dòng chữ đã được suy tính kỹ càng để tìm cách giải thoát cho nhân loại vốn đang kẹt tắc trong vũng bùn tâm trí. Bắt nguồn từ tiền đề của cách Ảnh Sư phẫn nộ trước lần trốn tránh "công lý" ấy của Ngân Lang, hay lại là khi công tước bóng đêm nhìn đồng loại bị thiêu đốt trên những lưỡi lê bóng loáng của giáo xứ và những ngọn lửa đen đặc mùi xú uế của xác thịt bị trực tiếp thiêu đốt; hoặc xa hơn, hoặc gần hơn; Oksana còn thấy cách một tâm trí rỗng tuếch tìm về một ngôi nhà vốn bay lên không trung bằng sợi dây mảnh của con diều thời vụ chỉ chực chờ ngày đứt đoạn, và cũng là cách một chú chim muốn thoát khỏi lồng vàng nhưng chưa từng chối bỏ thân phận của mình - luôn luôn tìm cách phóng tầm mắt ấy ra một khoảng không cao hơn, xanh hơn và tồn tại ở một cao độ đúng đắn về bản chất hơn theo "chủ ý" của nó. Và cuối cùng, Oksana lại thấy một hình ảnh sau cuối vẫn luôn lang thang trong tâm trí mình, chính xác là người đã sản sinh ra ý thức của con bé, chính là người đã vun đắp lên tư duy độc lập của con bé, và cũng chính là người vốn chưa từng rời khỏi triền kí ức chẳng biết đã tồn tại từ bao giờ của Oksana.

Oksana thấy một thanh niên người Nga ở vùng Moska đầy tuyết trắng đã luôn luôn bao hàm cả bản thân vào những điều cần bị bỏ đi trên thế giới này, không khoan nhượng và cũng không tìm cách né tránh trước cái kết mà chính anh đã định sẵn cho chính anh ở tương lai khi nhận ra bản thân cũng chính là một kẻ lạc loài mặc định. Tim con bé rung lên một nhịp lạ kỳ với tầm nhìn vẫn mờ mịt như thường nhưng giờ còn loáng thoáng những bông hoa tuyết đầu mùa. Oksana nhìn anh chuyên chú trong tâm trí mình và lồng ghép dáng hình ấy với thực tại trước mắt, tự hỏi rằng nếu nước Nga ấm áp hơn, vậy thì có thể nào tồn tại một loài hoa nào khác ngoài những bông hướng dương rồi cũng úa héo khi mùa thu qua đi không.

"Vì Dos-kun thân quý của tôi ơi, anh biết mà..." Lưng Nikolai bỗng khom xuống như một dấu hỏi lơ lửng đáp lại lời nghi vấn của Oksana, với một độ cong hoàn hảo hệt cách một nghệ sĩ chân chính cúi chào khán giả trước khi kéo tấm lụa mềm xuống để mở màn màn cho suất diễn đầu tiên, vừa khéo lại che khuất cả nguồn gốc cho những suy nghĩ bất chợt sinh ra từ tiềm thức xa lạ ấy của cô bé, "Cái giá của sự tự do vốn nằm ở tâm hồn, chứ không phải nằm ở thể xác."

Oksana làm sao lại bất giác nghĩ đến Bram và Fukuchi.

Kamui? Không phải đó là cái tên thuộc về vị Thần trấn giữ Ainu à?

Oksana nghiêng đầu để tầm mắt bản thân lướt qua được chỗ Sigma vẫn đang hơi chau mày vì bị quá tải thông tin, và giọng nói của anh ngày ấy lại từ tốn vang vọng để trở về tâm trí của nó. Người cùng một danh hiệu với vị Thần của truyền thuyết từng trấn thủ tại phía bắc của Nhật Bản - Ochi "Kamui" Fukuchi - trong trí nhớ của Oksana, chưa bao giờ kể quá nhiều về bản thân, và những lần ông xuất hiện trong trí nhớ của nó cũng đều chỉ là những đoạn ký ức láng lướt, có thể là ẩn mình bàn bạc với Fyodor trong thư phòng, lại cũng có thể là đang say xỉn và nghĩ ra rất nhiều trò chơi kì quặc mà có vô số điểm giao cắt với tầm suy nghĩ của anh Nikolai, hoặc có thể là mua kẹo cho con bé và nói đừng ăn nhiều quá, sâu răng đấy. Có lẽ vì những lời nói ấy đều thuộc về mặt hình thái bên ngoài, nên dù cho Oksana có thể cảm nhận được rất rõ ràng sự quan tâm từ ông - thì những gì con bé "thực sự" được biết về viên cảnh sát ấy đều chỉ gói gọn trong chuỗi thông tin mà Sigma có được từ năng lực của anh, và những trang sử ít ỏi sót còn sót lại về một sư đoàn bất tử trong một cuộc chiến "vô tử" vốn chưa từng tồn tại một dấu chấm gọn gàng sau cuối để kết thúc tất cả mọi thứ (11).

Kamui chưa từng có được tự do, Sigma vào khi ấy đã khoanh tay nhìn bóng lưng đối phương đang khuất dần vì đi ngược ánh sáng, nhẹ nhàng nhận định, ông ta truy cầu những thứ bản thân không có được, và cùng với Fyodor, ông ta chắc chắn đang tìm lấy tự do xa tầm ấy. Chỉ khác rằng Fyodor sẵn sàng hủy hoại bản thân cho viễn cảnh lí tưởng trong đầu anh ta, còn Kamui... ông ta sẽ tráo đổi cả thế giới với chân ý trong tâm trí của bản thân.

Điển hình là, anh thở hắt - một nhịp thở rất dài và lại mang theo những ý tứ chán ghét cực kì rõ ràng như cá tính đặc trưng của Sigma, Bram.

Trong một chốc lát, Oksana lại gần như hiểu được tại sao Thiên Nhân Ngũ Suy có thể tìm tới nhau giữa xấp xỉ tám tỉ khả năng tồn tại trên thế giới này. Thay vì các cuộc đảo chính diễn ra liên tục bởi sự hỗn loạn xoay vần trong những tháng Hoa, tháng quả, tháng Đồng Cỏ và tạm thời đặt dấu kết ở tháng Sương Mù (12), tư tưởng của họ vốn chưa từng phân chia rạch ròi, chỉ khác biệt duy nhất ở tình huống nó được phát triển để chuyển hóa thành lí tưởng cá nhân, và cũng chỉ khác ở việc họ quyết định tuyến đi dẫn tới lí tưởng chân chính ấy được định hướng thế nào để có thể trở thành một thực tại được tồn tại dưới dạng vật chất chứ không phải ý niệm nguyên sơ. Giống như tảo xanh dưới rãnh Mariana khi chết đi cũng chưa từng chối bỏ bản chất của mình và cũng chưa từng tìm cách chối bỏ cả bóng tối đen đặc vẫn luôn chùng xuống, chúng chấp nhận bản thân là một phần của bóng tối, và chúng chấp nhận hy sinh những thứ thuộc về bóng tối để đẩy mọi thứ lên cao độ của ánh sáng. Nên Oksana chớp mắt rồi thở nhẹ một nhịp, là vì họ là Thiên Nhân Ngũ Suy, là vì họ vẫn luôn kẹt trong năm tướng thoái mòn của người trời, sâu hơn cả biển khơi không thể thấy đáy, và có lẽ là vì họ vẫn luôn kẹt trong áo miện, chìm trong xiêm hoa, không thể bỏ rơi thân thể tràn đầy dịch hạ và xú uế, nên họ chưa từng tìm cách thoát khỏi những thân xác đã sớm thoái hoại ấy, và cũng chưa từng tìm cách để cứu mình thoát khỏi những gì thuộc về thể chất tồn tại ở dạng có thể nhìn thấy.

Thanh kiếm này giam cầm thân xác ta, nhưng ý chí của ta thuộc về bóng đêm.

Tự do nằm ở ngoài chiếc lồng vàng, và một con chim cả đời chôn mình trong chiếc lồng ấy sẽ mãi mãi không hiểu được tự do thuần túy có hình dạng thế nào.

... Dù cho cả thế giới này có sụp đổ, cũng không được phép để nó rơi xuống.

Không phải trả thù. Ngươi không thể thấy được tương lai. Vì ta sẽ là người quyết định tương lai.

Ồ, ý Oksana là tội ác sao? Tôi lại cho rằng đó là phần thưởng của Chúa, miễn là... Chúa không thực sự tồn tại. Nên tôi sẽ tuân mệnh tự nhiên, dù thể xác này có mang hình dạng thế nào, và bản chất tôi... nó sẽ mãi mãi như vậy, mãi mãi không đổi thay và mãi mãi thuộc về con đường dẫn đến lý tưởng của tôi.

Hiện tại trở về, và Oksana nghe được giọng Nikolai đè lên giọng Fyodor, âm tiết đặc thù của người con vùng đất Slavic lại vang lên, đều đều dội vào tâm trí nó. "Đồng hồ đã điểm."

Vì thời gian không thể bị suy yếu bởi trời, không thể bị suy yếu bởi đất, không thể bị suy yếu bởi gió, không thể bị suy yếu bởi nước, và càng không thể bị suy yếu bởi con người. Thời gian là bất hoại. Và đối với không gian trong tâm trí của anh, chỉ có thời gian là thứ duy nhất có thể mang ánh sáng đến trong những giấc mơ cứ tưởng như sẽ kéo dài mãi mãi ấy. (13)

Và bóng đêm tràn xuống ánh mắt của Oksana dù không gian vẫn luôn bừng sáng vào khoảnh khắc Fyodor cầm lên tấm thẻ an ninh, khiến con bé bất giác thấy được trong đáy mắt gã một hình ảnh quen thuộc, một dấu mốc của đích đến đã được định sẵn trong trí óc của một cá thể chưa từng có ai đọc thấu được, vẫn vẹn nguyên và chưa từng rơi rụng một phần nào. Từng suy nghĩ một vẫn chặt chẽ trong tư duy của gã, nó cảm nhận được điều ấy, và Fyodor càng chưa từng đánh mất một thời khắc nào nào để bất cứ một suy nghĩ riêng khác của gã có cơ hội để rời khỏi nơi chốn và ngang ngạnh đòi tự phát triển để có thể mang một tư duy độc lập phản chủ - như một chiếc mũi tinh quái tìm cách sống một cuộc đời riêng biệt với chủ thể nguyên gốc (14), Dostoy đã luôn sống cố định với lý tưởng của mình như vậy đó, chán chết. Chính Nikolai đã kể câu chuyện này với Oksana, không biết là khen hay lại chỉ đơn thuần tìm cách trêu chọc Fyodor khi ấy vẫn kẹt ở trong ngục giam mà không ai biết được gã có còn "nguyên vẹn" về hình hài hay không.

Và cô bé thấy trọng lực dừng lại rồi chùng xuống.

Đồng hồ đã điểm.

"Trò chơi của Nikolai Gogol..."

Cuối cùng cũng bắt đầu rồi.


--------------------------------------------------


Chú thích:

(1) "Bạn thân yêu của tôi" trong tiếng Ukraina.

(2) Dutch Angle shot.

(3) Đây là một chi tiết nhỏ đã xuất hiện trong tác phẩm "Tội ác và trừng phạt" của văn hào Fyodor ngoài đời thật, khi nhân vật chính - Raskolnikov đã tin rằng những cá nhân tài năng và xuất chúng như mình có quyền phạm tội giết người để đạt được mục tiêu cao cả hơn, và đặc biệt việc giết một người không có giá trị thực sự, như Alyona, một bà cụ tham lam và ích kỷ, sẽ không gây ảnh hưởng lớn đến xã hội. Đối với Raskolnikov, đó là một hình thức "tội phạm tương đối" nhằm mục đích cao cả hơn, và đó cũng những phần tử mà Fyodor trong manga cho rằng cần phải bị trừ diệt (như siêu năng lực gia tự cho bản thân đặc quyền). Fyodor đã sớm thoát ly khỏi những suy nghĩ nông cạn như vậy, nên chính vì thế anh ta cũng đã không rơi vào bước đường của Raskolnikov - bị ám ảnh với chính tội ác của mình và bị ám ảnh bởi chính những khái niệm anh ta đã đặt ra để cắt nghĩa bản thân.

(4) Gogol đang nói về việc Fyodor muốn thanh trừng tội ác của siêu năng lực gia vì họ nhận được đặc quyền, và Fyodor lại càng chưa bao giờ tách bản thân ra khỏi "nhóm người" như thế.

(5) Là nơi ở của nhân vật Gatsby trong "Gatsby vĩ đại" (năng lực của Francis) - chốn mà anh ta đã xây dựng lên một kinh đô của những tư tưởng méo mó để có lại được người tình năm xưa, ám chỉ việc Dazai chính là tuyến não đã đứng đằng sau để chỉ đạo phá tan âm mưu lấy quyển sách của Francis để hồi sinh người con gái quá cố.

(6) Là "Moby Dick" của Herman Melville đã rơi xuống giữa bầu trời Yokohama trong sự kiện ấy.

(7) Ám chỉ việc năng lực của Dazai là vô hiệu hóa siêu năng lực, tức là giúp bình đẳng hóa tình huống giữa siêu năng lực gia và người thường.

(8) Ám chỉ đến thuật ngữ "Rats in the House of the Dead" trong tác phẩm "House of the Dead", tác phẩm mà xoay quanh về việc người tù bị nhốt phải đấu tranh với các nhà tù Siberia, cố gắng làm sao để bản thân dù có trở thành lũ chuột cũng không mất đi bản chất. Dãy Ural nằm ở Siberia.

(9) Ám chỉ việc Fyodor sẵn sàng tiêu diệt cả chính mình để thanh trừng toàn bộ siêu năng lực gia trên thế giới.

(10) Đây là tư tưởng của Gogol về "tự do" mà Gogol hằng truy cầu, một tự do mà những con chim trong lồng chưa từng được chạm lấy, hoặc thậm chí là chưa từng được biết đến khi so sánh với vỏ bọc "thư ký của Thứ trưởng Bộ Tư pháp".

(11) Nói đến trận chiến ở bán đảo năm xưa với "binh đoàn bất diệt" là tổ đội 356.

(12) Thứ mà Thiên Nhân Ngũ Suy nhắm đến trong việc thống trị thế giới là một cuộc Đảo chính quân sự giống như cuộc đảo chính D'etat, xuất phát từ những tháng Hoa, tháng Quả, tháng Đồng Cỏ và kết thúc ở tháng Sương Mù. Việc phân nhánh ra nhiều tháng triển khai khác biệt như vậy là vì tư tưởng không giao thoa giữa các lãnh đạo.

(13) Đây là lời Gogol đã nói với Oksana về khái niệm thời gian với một người dễ dàng khống chế không gian như Gogol. Năm ý trên thuộc về khái niệm "thiên nhân ngũ suy", còn văn hào Gogol ngoài đời thực vốn gặp rất nhiều vấn đề với thời gian - khi hầu hết ông sử dụng thời gian của mình để viết lên những tác phẩm nửa mơ nửa tỉnh, luôn tìm cách phá tung không gian nhưng vẫn chịu xiềng xích của thời gian. Đối với Gogol, đây là một biểu hiện chứng tỏ tính "người" của anh, và cũng là chứng tỏ việc Gogol truy cầu tự do nhưng chưa từng lạc loài, càng chưa từng thoát ly khỏi thực tại.

(14) Ám chỉ truyện ngắn "Chiếc mũi" của Gogol, khi mà chiếc mũi lúc thấy chủ nhân mình lung lay về ý niệm định hình bản thân thì quyết định bỏ rơi người đó và đòi có một cuộc sống riêng, một tư duy độc lập riêng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro