Không Tên Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Trong cuộc đời luôn có những lựa chọn,

Biết nắm bắt sẽ dẫn đến thành công,

Bỏ qua nó, vậy điều gì còn lại

Chỉ dẫn đến mông lung và đau khổ.

Trên dòng đời chúng ta đang sống,

Nắm lấy ngay khi cơ hội đến

Hoặc mất đi nuối tiếc về sau.

MỞ ĐẦU

I

Câu lạc bộ nào cũng có một kẻ phá đám. Câu lạc bộ Đăng Quang cũng không ngoại lệ, và thực tế là ngay cả khi cuộc tập kính trên không diễn ra thì nó cũng không ảnh hưởng mấy đến thói quen thông thường. Thiếu tá Porter, cựu chiến binh ở Ấn, lật tờ báo của ông và hắng giọng. Tất cả mọi người tránh đi ánh mắt của ông ta, nhưng không có tác dụng mấy.

"Tôi thấy họ đã nhận được thông báo về cái chết của Gordon Cloade trên Thời báo.", ông nói. "Một cách kín đáo, hiển nhiên. Vào ngày 5 tháng 10, kết quả hành động của kẻ thù. Không có địa chỉ nào được đưa ra. Mà thực tế thì nó nằm ngay gần nơi ở khiêm tốn của tôi đây. Một trong những căn nhà lớn phía trên khu Campden Hill. Phải nói rằng điều đó làm tôi rùng mình một chút. Tôi là người Giám sát, các ông biết đấy. Cloade vừa mới trở về từ Mỹ. Anh ta vừa kết thúc công việc giao dịch với Chính phủ. Lập gia đình khi đang ở đó. Một góa phụ trẻ - đủ trẻ để trở thành con gái của cậu ấy. Quí cô Underhay. Mà thực tế là, tôi biết người chồng đầu tiên của cô ấy ở Nigeria."

Thiếu tá Porter ngừng lại. Không ai thể hiện sự quan tâm hay yêu cầu ông ta tiếp tục. Mấy tờ báo được đưa lên mặt như thể chúng rất hấp dẫn, nhưng phải mất nhiều hơn thế để làm nản lòng Thiếu tá Porter. Ông luôn có rất nhiều chủ đề liên quan với nhau, chủ yếu là về những người mà chả ai biết.

"Thật thú vị," Thiếu tá Porter nói, một cách chắc nịch, đôi mắt lơ đãng nhìn vào một đôi giày da bóng mũi nhọn tự thiết kế - một loại giày mà ông vô cùng không tán thành. "Như tôi đã nói, tôi là một người Giám sát. Có gì đó rất lạ ở vụ nổ này. Không bao giờ biết nó sẽ gây ra điều gì. Thổi tung tầng hầm và xé toạc mái nhà. Tầng một gần như không hề hấn gì. Sáu người ở trong nhà. Ba người hầu, cặp vợ chồng và một người giúp việc, Gordon Cloade, bà vợ và người anh vợ. Tất cả bọn họ đều ở dưới tầng hầm ngoại trừ anh trai của bà vợ - một cựu lính biệt kích - anh ta thích căn phòng ngủ thoải mái của mình ở tầng một - và thề có Chúa - anh ta thoát ra mà chỉ bị trầy vài vết. Cả ba người hầu đều chết bởi vụ nổ, Gordon Cloade thì bị chôn vùi, họ đã đào được anh ta ra nhưng anh ta chết trên đường đến bệnh viện. Vợ anh ta bị ảnh hưởng bởi vụ nổ, không có một miếng vải nào ở trên người! Nhưng cô ấy còn sống. Họ nghĩ là cô ấy sẽ vượt qua. Cô ấy sẽ là một góa phụ giàu có - Gordon Cloade hẳn là người đàn ông với gia tài bạc triệu."

Một lần nữa Thiếu tá Porter dừng lại. Đôi mắt ông ta nhìn lên từ đôi giày da tự chế - quần sọc - áo khoác đen - đầu hình quả trứng và ria mép khổng lồ.

Người ngoại quốc, dĩ nhiên! Điều đó giải thích cho đôi giày như thế. "Thật là," Thiếu tá Porter nghĩ, "Câu lạc bộ đang thành cái gì đây? Ngay cả chỗ này cũng không tránh được bọn ngoại quốc." Mạch suy nghĩ riêng lẻ này chạy dọc trong đầu của ông ta.

Cho dù người ngoại quốc đang được nhắc đến kia có vẻ hoàn toàn gây được sự chú ý của ông cũng không làm giảm đi định kiến của Thiếu tá Porter một chút nào.

"Cô ấy chắc cũng chỉ tầm hai mươi lăm," ông ta tiếp tục. "Và là một goá phụ thêm lần nữa. Mà cũng có thể, đó là điều cô ta nghĩ vậy thôi..."

Ông ta ngưng lại, trông chờ một sự tò mò, hay một câu bình luận. Khi thấy không có phản ứng, ông ta vẫn cứ tiếp tục kiên trì:

"Thực ra thì tôi đã có một vài suy luận về việc đó rồi. Âm mưu cả. Tôi có bảo là tôi biết người chồng trước của cô ta, Underhay. Chàng trai tốt - Uỷ viên quận tại Nigeria thời điểm đó. Làm việc cực kì nghiêm túc - một người có năng lực. Cưới cô gái này ở Capetown. Cô ta lúc này đang tham gia cùng một công ty du lịch. Một người đang gặp khó khăn, rất xinh đẹp và không nơi nương tựa rồi những thứ khác. Khi nghe cậu chàng Underhay tội nghiệp giới thiệu về hạt của anh ta và những vùng đất trống rộng lớn - cô ta đã thốt lên "Chẳng phải rất tuyệt sao?" và việc cô ta muốn 'rời bỏ khỏi mọi thứ' như thế nào. Chà, cô ta đã cưới cậu ấy và thoát khỏi đó. Cậu ta hoàn toàn sa vào lưới tình - chàng trai tội nghiệp, nhưng mọi chuyện cũng chẳng tốt đẹp lúc đầu. Cô ta ghét sự hoang sơ, khiếp đảm với dân bản địa và buồn chán đến chết. Cuộc sống lí tưởng của cô ta là đi dạo vòng quanh địa phương, gia nhập đám đông nhộn nhịp và mua sắm. Sống tách biệt trong rừng như vậy không phải là niềm yêu thích của cô ta. Mà thực ra, tôi cũng chưa từng gặp mặt cô ta - tôi chỉ nghe kể lại những điều này từ Underhay tội nghiệp. Nó khiến anh ta cảm thấy sốc. Anh ta đã làm một việc đứng đắn, đưa cô ta quay về nhà và đồng ý li dị. Tôi gặp anh ta thời gian sau đó không lâu. Anh ta đang chơi vơi và cảm giác cần tâm sự. Anh ta là một người hài hước theo kiểu truyền thống - một R.Q, và cậu ta cũng chẳng quan tâm đến việc li dị. Cậu ta nói với tôi 'Có những cách khác nhau để cho một người phụ nữ sự tự do.' 'Khoan đã chàng trai,' tôi nói 'Đừng có làm điều gì ngu ngốc. Không có một người phụ nữ nào trên đời này xứng đáng để chúng ta tự sát cả.'"

"Cậu ta bảo là mình không hề có ý tưởng đó. 'Nhưng tôi là người cô đơn,' Cậu ta bảo 'Chẳng có người bà con nào bận tâm đến tôi. Nếu có giấy báo tử về tôi gửi về, Rosaleen sẽ trở thành goá phụ, đó là điều mà cô ấy muốn'. 'Vậy còn cậu?' Tôi hỏi. 'Chà,' cậu ta đáp 'Có thể sẽ có một quí ông Enoch Arden nào đó xuất hiện ở nơi xó xỉnh nào và bắt đầu cuộc sống mới.' 'Điều đó có thể khiến cô ấy khó xử.' Tôi cảnh báo cậu ta 'Ô không.' cậu ta bảo, 'Tôi sẽ làm điều đó, Robert Underhay sẽ phải biến mất khỏi đây.'

"Chà, tôi đã không nghĩ gì thêm về nó, nhưng sáu tháng sau tôi nghe tin Underhay đã chết vì sốt ở nơi khỉ ho cò gáy nào đó. Mấy người địa phương chỗ cậu ta rất đáng tin cậy và họ đã đưa ra câu chuyện về tình huống đó cùng vài dòng trăn trối cuối cùng được viết nguệch ngoạc bằng chữ của Underhay nói rằng họ đã làm tất cả những gì có thể cho cậu ta, và cậu ta sợ rằng cậu ta đang hấp hối rồi, và ca ngợi người trợ thủ. Người đàn ông đó đã hết lòng vì cậu ta và những người khác cũng vậy. Dù cậu ta bắt họ thề cái gì thì họ sẽ giữ lời thề đó. Vậy là thế đó... Có thể Underhay đã được chôn cất ở đâu đó giữa vùng xích đạo Châu Phi hoặc có lẽ là không - và nếu như không phải thì Quí bà Gordon Cloade có thể bị sốc một ngày nào đó. Và đáng đời cô ta, nếu tôi phải nói vậy. Tôi chưa bao giờ gặp cô ấy, nhưng tôi biết một kẻ đào mỏ trông như thế nào! Cô ta đã làm tan nát cậu Underhay tội nghiệp đó. Một câu chuyện thú vị."

Thiếu tá Porter nhìn quanh với vẻ háo hức như muốn có ai xác nhận về suy luận của mình. Ông ta bắt gặp hai ánh mắt buồn chán và nghi ngờ, cái nhìn nửa vời từ cậu Mellon trẻ và sự chú tâm lịch sự từ ông Hercule Poirot.

Sau đó, tiếng lật báo loạt soạt và một người đàn ông mặc đồ xám với khuôn mặt bướng bỉnh kỳ dị lặng lẽ đứng dậy từ chiếc ghế bành bên lò sưởi và đi ra ngoài.

Thiếu tá Porter há hốc mồm, và cậu Mellon trẻ thì khe khẽ huýt sáo.

"Giờ thì ông tiêu tùng rồi!" Cậu ta nhận xét "Có biết đó là ai không?"

"Lạy Chúa cứu rỗi." Thiếu tá Porter nói trong sự lo lắng "Tất nhiên. Tôi không biết cậu ấy đủ thân thiết nhưng chúng tôi quen nhau... Jeremy Cloade, phải không, anh trai của Gordon Cloade? Xem tôi này, thật là không may chút nào! Nếu tôi biết thế -"

"Anh ta là luật sư," Cậu Mellon nói. "Tôi cá là anh ta sẽ kiện ngài vì tội vu khống hoặc phỉ báng nhân cách hoặc điều gì đó tương tự."

Cậu chàng Mellon có vẻ rất thưởng thức việc tạo ra sự cảnh báo và tuyệt vọng ở những nơi như vậy vì nó không bị cấm bởi Đạo luật Quốc phòng của Vương quốc.

Thiếu tá Porter vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại trong lo lắng

"Thật không may. Thật không may!"

"Nó sẽ lan truyền khắp Warmsley Heath trong chiều nay." Mellon nói "Đó là nơi nhà Cloade thường hay lui tới. Họ sẽ ngồi lại và quyết định xem nên làm gì."

Nhưng ngay lúc đó, tiếng Đã Xong vang lên, và cậu Mellon trẻ tuổi đã thôi tỏ vẻ cộc cằn, cậu từ tốn dẫn dắt người bạn Hercule Poirot của mình đi ra phố.

"Mấy câu lạc bộ này bầu không khí thật khủng khiếp." Anh ta lên tiếng "Nơi sưu tập những chuyện phiếm cũ rích nhàm chán. Porter là người tệ hại nhất trong đó. Mô tả của ông ta về trò kĩ xảo bằng dây ở Ấn Độ mất 3/4 giờ và ông ta biết tất cả những người có mẹ từng đi qua Poona!"

Những điều này là vào mùa Thu năm 1944. Cho đến cuối Xuân năm 1946, thì Hercule Poirot nhận được một chuyến viếng thăm.

II

Hercule Poirot đang ngồi trên bàn viết ngăn nắp của mình vào một buổi sáng tháng Năm dễ chịu khi người hầu của ông, George tiến đến và thì thầm một cách thận trọng:

"Có một quí bà muốn gặp ngài, thưa ngài."

"Quí bà như thế nào?" Poirot nghi hoặc hỏi.

Ông luôn thích thú trước sự mô tả tỉ mỉ từ George.

"Bà ấy trong khoảng bốn mươi đến năm mươi, theo tôi thấy, thưa ngài. Ngoại hình không gọn gàng và có vẻ điệu đà. Giày đi bộ tốt, quần dài. Một chiếc áo khoác vải và váy - nhưng lại mặc áo ren phía trong. Một chuỗi hạt không chắc là từ Ai Cập và một chiếc khăn voan màu xanh."

Poirot bất giác run nhẹ.

"Tôi không nghĩ," Ông nói, "Tôi muốn gặp bà ấy."

"Thưa ngài, tôi có nên bảo bà ấy rằng ngài đang khó chịu?"

Poirot đăm chiêu nhìn cậu ta.

"Tôi đoán là cậu đã nói với bà ta tôi đang có việc quan trọng và không thể bị làm phiền?"

George ho lần nữa.

"Bà ấy nói, thưa ngài, rằng bà ấy lặn lội từ nông thôn đến, bà ấy không ngại phải chờ bao lâu."

Poirot thở dài.

"Con người ta không thể trốn tránh những điều không tránh khỏi." Ông nói. "Nếu một người phụ nữ trung niên đeo chuỗi hạt Ai Cập giả quyết định đến gặp Hercule Poirot nổi tiếng, và lặn lội từ nông thôn đến tận đây, thì không điều gì có thể ngăn cản được bà ấy. Bà ấy sẽ ngồi trong sảnh cho đến khi đạt được mục đích của mình. Mời bà ấy vào, George."

George lui ra, quay trở lại để trang trọng thông báo chính thức:

"Quí bà Cloade."

Bóng dáng trong trang phục đã sờn và chiếc khăn bồng bềnh đi vào với khuôn mặt rạng rỡ. Bà ta tiến đến Poirot với cánh tay duỗi ra, chuỗi hạt của bà đung đưa và phát ra tiếng leng keng.

"Ông Poirot." Bà nói, "Tôi đến tìm ông dưới sự dẫn dắt của thần linh."

Poirot chớp mắt.

"Vâng, thưa bà. Có lẽ bà nên ngồi xuống và kể cho tôi -"

Ông bị cắt ngang.

"Cả hai cách, ông Poirot. Với bút tiên và với bản cầu cơ. Vào đêm hôm trước, quí bà Elvary (một người phụ nữ tuyệt vời, vâng) và tôi đang dùng bàn cầu cơ. Chúng tôi nhận được chữ viết tắt lặp đi lặp lại. H.P, H.P, H.P. Dĩ nhiên tôi không hiểu được ý nghĩ thật sự ngay lập tức. Nó cần, ông biết đấy, một ít thời gian. Không ai ở trên hành tinh này có thể nhìn thấu mọi việc. Tôi đã vắt óc thật lâu nghĩ xem ai có tên phù hợp với chữ cái đó. Tôi biết là nó có liên kết với buổi gọi hồn trước, quả thật là buổi chua chát nhất, đó là trước khi tôi thực hiện được. Và rồi tôi mua một cuốn Picture Post (Linh hồn dẫn lối nữa đấy, vì thường tôi chỉ mua New Statesman), và ông xuất hiện - có bức hình của ông, có ghi chú, và tóm tắt những gì mà ông đã làm trước đây. Nó thật tuyệt vời, phải không ông Poirot, khi mọi việc đều có mục đích của nó? Chắc chắc ông là người được chỉ định bởi Đấng Trên để làm sáng tỏ vấn đề này."

Poirot cẩn thận quan sát bà ta.

Điều kì lạ là thứ thật sự hấp dẫn lực chú ý của ông là đôi mắt màu xanh nhạt đầy sắc sảo đó. Chúng đưa ra quan điểm cho phương pháp tiếp cận lan man của bà ấy.

"Và điều gì, Quí bà Cloade - có phải không?" Ông nhíu mày. "Hình như tôi đã nghe cái tên này trước đây -"

Bà ta gật đầu kịch liệt.

"Người anh chồng tội nghiệp của tôi, Gordon. Một người cự kì giàu có và thường được báo chí nhắc đến. Anh ấy bị giết ở Blitz hơn một năm trước, một cú sốc với tất cả chúng tôi. Chồng tôi là em trai của anh ấy. Anh ấy là bác sĩ. Bác sĩ Lionel Cloade... Dĩ nhiên," bà ta nói thêm, hạ giọng xuống, "Anh ấy không biết là tôi tìm ông để tư vấn. Anh ấy sẽ không đồng ý. Các bác sĩ, theo tôi thấy, đều có vẻ duy vật. Các linh hồn thường hay giấu mình khỏi họ. Họ đặt niềm tin vào Khoa Học, thế nhưng tôi muốn nói là... Khoa Học là gì, nó thì có thể làm gì?"

Dường như, đối với Hercule Poirot, không có câu trả lời nào cho câu hỏi ấy ngoài sự mô tả tỉ mỉ và chi tiết thành tựu của Pasteur, Lister, đèn an toàn của Humphrey Davy - sự tiện lợi của đồ điện trong nhà và hàng trăm vật dụng khác. Nhưng đó, lẽ dĩ nhiên, không phải là câu trả lời mà quí bà Lionel Cloade muốn. Trong thực tế, câu hỏi của bà ấy, giống như rất nhiều câu hỏi khác, thực sự không phải là một câu hỏi. Đó chỉ là một câu nói tu từ thôi.

Hercule Poirot kiềm chế lại ý muốn đáp trả bằng hành động thực tế:

"Tôi có thể giúp bà bằng cách nào, thưa bà Cloade?"

"Ông có tin vào sự hiện hữu của thế giới tâm linh không, ông Poirot?"

"Tôi là một con chiên ngoan đạo." Poirot nói thận trọng.

Bà Cloade gạt phắt niềm tin vào Thiên Chúa bằng nụ cười thương hại.

"Ngớ ngẩn! Giáo hội là lũ ngớ ngẩn - định kiến, ngu xuẩn - không chấp nhận thực tế và vẻ đẹp của thế giới đằng sau nó."

"Lúc 12 giờ," Poirot nói, "Tôi còn một cuộc hẹn quan trọng."

Đó là câu nhắc nhở đúng lúc. Bà Cloade rướn người tới.

"Tôi phải vào trọng điểm ngay vậy. Nếu như được, ông Poirot, ông có thể tìm người đang mất tích chứ?"

Poirot nhướng mày.

"Điều đó có thể - vâng," Ông trả lời thận trọng, "Nhưng các cảnh sát, bà Cloade thân mến, còn có thể làm điều đó dễ dàng hơn tôi nhiều. Họ có tất cả phương tiện cần thiết."

Bà Cloade lại gạt phắt ý tưởng về cảnh sát như đã làm với Giáo hội Công giáo.

"Không, ông Poirot, chính ông là người tôi được dẫn đến, bởi Đấng trên cao. Nghe này. Ông anh Gordon của tôi đã kết hôn vài tuần trước khi mất, một goá phụ trẻ, cô Underhay. Người chồng đầu tiên của cô ấy (tội nghiệp, cổ rất đau khổ) được báo đã chết ở Châu Phi. Một đất nước bí ẩn, Châu Phi ấy."

"Một lục địa bí ẩn," Poirot sửa lại, "Có thể. Điều gì -"

Bà ta cắt ngang.

"Trung Phi. Nơi của Vu thuật, của cương thi -"

"Cương thi là ở Tây Ấn."

Bà Cloade tiếp tục:

"- của ma thuật đen - của những phép thuật kì lạ và bí mật - một đất nước mà con người có thể biến mất và không được nghe nhắc đến nữa."

"Có thể, có thể," Poirot nói, "Nhưng mà ở gánh xiếc Piccadilly người ta cũng làm được."

Bà Cloade bỏ qua gánh xiếc Piccadilly.

"Hai lần gần đây, ông Poirot, một cuộc tiếp xúc đã diễn ra thông qua một linh hồn tên Robert. Và tin nhắn mỗi lần đều giống nhau. Không phải người chết... Chúng tôi thấy khó hiểu, chúng tôi không biết ai tên Robert. Khi hỏi về chỉ dẫn cụ thể hơn thì chúng tôi nhận được. 'R.U. R.U. R.U'- rồi 'Nói R. Nói R' 'Nói Robert?' Chúng tôi hỏi. 'Không, từ Robert. R.U' 'Từ U mang nghĩa gì?' Và rồi, ông Poirot, câu trả lời thích hợp nhất xuất hiện. 'Cậu bé xanh. Cậu bé xanh.' Hahaha. Ông hiểu không?"

"Không," Poirot nói, "Tôi không hiểu."

Bà ấy nhìn ông vẻ thương hại.

"Bài đồng dao Cậu bé xanh. 'Say ngủ dưới đống rơm'. (Under the haycock fast asleep) - Underhay - thấy không?"

Poirot gật đầu. Ông kiềm lại ước muốn hỏi tại sao, nếu cái tên Robert đã được đánh vần hẳn ra, thì sao tên Underhay lại không được làm giống vậy, và tại sao lại phải sử dụng cái kiểu như ngôn ngữ gián điệp rẻ tiền trong Cơ quan Mật vụ như thế.

"Và chị dâu của tôi tên là Rosaleen" Quý bà Cloade kết thúc một cách đắc ý.

"Ngài thấy không? Những chữ R có thể gây nhầm lẫn. Nhưng ý nghĩa lại rất đơn giản. 'Nói với Rosaleen là Robert Underhay vẫn còn sống.'"

"Ồ, thế bà đã nói với cô ấy chưa?"

Quí bà Cloade có vẻ khựng lại.

"Ơ - chà - không. Ông thấy đấy. Ý tôi là, con người hay đa nghi, tôi chắc là Rosaleen cũng như thế. Và rồi, cô gái tội nghiệp, nó sẽ khiến cô ấy - thắc mắc, hiểu không, rằng anh ấy ở đâu - anh ấy đang làm gì."

"Ngoài việc phát ra giọng mình từ nơi vô định? Chắc vậy. Hẳn là một cách thức kỳ lạ để thông báo về an nguy của mình?"

"Chà, ông Poirot, ông đâu phải là người trong cuộc. Làm sao mà chúng ta biết được tình huống là gì? Đại uý Underhay khốn khổ (hay là Thiếu tá Underhay nhỉ) có thể đang là tù nhân ở một nơi tối tăm nào đó của Châu Phi. Nhưng nếu có thể tìm thấy anh ta, ông Poirot. Nếu anh ta được trở về bên Rosaleen trẻ trung yêu dấu. Hãy nghĩ đến niềm hạnh phúc của cô ấy! Ôi, ông Poirot, tôi đã được phái đến bên ông, chắc chắn, chắc chắn là ông sẽ không từ chối lời kêu gọi từ thế giới tâm linh chứ."

Poirot sâu kín nhìn bà Cloade.

"Mức phí của tôi," ông nói nhẹ nhàng, "Nó rất đắt. Tôi dám nói rằng chúng tốn cả gia tài! Và yêu cầu bà đưa ra không hề dễ dàng chút nào."

"Ôi trời ơi - nhưng chắc là - thật đáng tiếc. Tôi và chồng tôi đang gặp khó khăn - thực sự rất tồi tệ. Thực ra hoàn cảnh của tôi còn tệ hơn cả những gì người chồng thân yêu của tôi biết. Tôi đã mua một số cổ phiếu - theo hướng dẫn thần linh - và cho đến nay nó đã tỏ ra rất đáng thất vọng - thực tế là, khá đáng báo động. Chúng đã rớt giá và giờ đây, theo tôi đoán, hoàn toàn không thể bán ra được."

Bà ta nhìn ông với đôi mắt xanh đầy hoảng hốt.

"Tôi vẫn chưa dám nói với chồng tôi. Tôi chỉ muốn giải thích cho ông hiểu tôi đang ở trong hoàn cảnh nào. Nhưng hẳn là, ông Poirot thân mến, việc đoàn tụ một đôi vợ chồng trẻ tuổi - đó chắc là một nhiệm vụ cao cả -"

"Sự cao thượng, thưa phu nhân, không thể nào chi trả cho phí tàu thuỷ, tàu hoả, và phương tiện trên không được. Thậm chí nó không thể đủ cho những bức điện tín đường dài rồi điện qua đại dương, và dò hỏi thông tin từ các nhân chứng."

"Nhưng nếu anh ta được tìm thấy - nếu Đại uý Underhay vẫn còn sống và khoẻ mạnh - chà - thì, tôi đồ chừng là, nếu việc đó được thành công, đó - đó hẳn là sẽ không khó khăn gì cho việc - eh - hoàn trả lại ông."

"À, vậy Đại uý Underhay này chắc là giàu có nhỉ?"

"Không, chà, không... Nhưng tôi chắc với ông - và tôi đảm bảo điều đó - rằng - rằng vấn đề tiền bạc không phải là trở ngại gì cả."

Poirot chậm rãi lắc đầu.

"Tôi xin lỗi, thưa bà. Câu trả lời là không."

Ông hơi khó khăn trong việc khiến bà ta chấp nhận câu trả lời đó.

Khi bà ấy rời khỏi. Ông đứng chìm trong suy nghĩ, mày nhíu lại.

Giờ ông đã nhớ ra vì sao cái tên Cloade lại quen thuộc tới vậy. Cuộc đối thoại trong câu lạc bộ vào ngày Không Kích quay trở lại trong đầu. Cái giọng điệu buồn chán của Thiếu tá Porter, liên tục dai dẳng, kể câu chuyện mà chẳng ai muốn nghe.

Ông đã nhớ ra tiếng lật báo và biểu cảm hấp háy cùng cái há hốc mồm của Thiếu tá Porter.

Nhưng điều khiến ông lo lắng là sự quyết định về người phụ nữ trung niên hăng hái vừa rời khỏi đây. Người theo chủ nghĩa tâm linh, sự mơ hồ, chiếc khăn quàng, dây chuyền và bùa hộ mệnh đeo lủng lẳng quanh cổ bà ta - và cuối cùng, hơi bất đồng với tất cả những điều này, sự sắc sảo bất ngờ lóe lên trong đôi mắt màu xanh nhạt.

"Rốt cuộc thì tại sao bà ta đến tìm mình?", ông tự hỏi, "Và mình băn khoăn là cái gì đang diễn ra -" ông nhìn xuống tấm danh thiếp trên bàn - "Warmsley Vale."

Chính xác là 5 ngày sau ông nhìn thấy một dòng tin nhắn trên báo chiều - nó liên quan đến cái chết của một người đàn ông tên Enoch Arden - ở Warmsley Vale - một ngôi làng cũ cách sân gôn Warmsley Health khoảng ba dặm.

Hercule Poirot lại tự hỏi lần nữa: "Rốt cuộc thì cái gì đang diễn ra ở Warmsley Vale vậy..."

QUYỂN I

Chương 1

Warmsley Health bao gồm một sân gôn, hai khách sạn, vài căn biệt thự hiện đại mắc tiền thuộc về sân gôn, và một dãy nơi mà, trước chiến tranh, từng có những cửa hàng xa xỉ và một trạm tàu hoả.

Bước ra từ ga tàu - một con đường trục lớn chạy thẳng tắp đến London bên tay trái - còn bên tay phải là khúc đường nhỏ băng qua cánh đồng có biển treo Foothpath đến Warmsley Vale.

Warmsley Vale, nằm lọt thỏm giữa những ngọn đồi, là một nơi hoàn toàn trái ngược với Warmsley Health. Về bản chất, đây là một thị trấn cổ kính siêu nhỏ giờ đã thoái hóa thành một ngôi làng. Nó có một con đường chính gồm những ngôi nhà kiến trúc Georgian, một số quán rượu, một vài cửa hàng lỗi mốt và một bầu không khí như tách biệt cả một trăm năm mươi dặm khỏi London thay vì hai tám dặm.

Tất cả dân địa phương đều đồng lòng khinh thường cái sự phát triển nhanh như nấm mọc của Warmsley Health.

Ở phía ngoài rìa là những ngôi nhà xinh xắn với những khu vườn kiến trúc cũ dễ chịu. Chính trong những căn nhà này, căn White House, mà Lynn Marchmont đã trở về vào đầu xuân năm 1946 khi cô ấy xuất ngũ từ Lực Lượng Nữ Hải Quân Hoàng Gia.

Vào buổi sáng thứ ba cô nhìn ra từ cửa sổ phòng ngủ của mình, băng qua bãi cỏ lộn xộn đến những cây du ở đồng cỏ xa hơn, hít lấy không khí một cách hạnh phúc. Đó là một buổi sáng màu xám dịu dàng với mùi đất ướt mềm. Mùi hương mà cô luôn hoài niệm suốt hai năm rưỡi qua.

Thật tuyệt vời khi được trở về nhà một lần nữa, thật tuyệt vời khi được ở đây trong phòng ngủ nhỏ của chính mình mà cô đã nghĩ đến rất thường xuyên và luyến tiếc trong khi cô ở nước ngoài. Thật tuyệt vời khi được thoát khỏi bộ đồng phục, để có thể mặc váy vải tuýt và áo khoác - dù rằng thể loại này có vẻ hơi công nghiệp hoá suốt những năm chiến tranh!

Thật tốt khi được ra khỏi đội hải quân Hoàng gia và thành người phụ nữ tự do một lần nữa, mặc dù cô thực sự rất thích công tác ở nước ngoài của mình. Công việc khá thú vị, đã có những bữa tiệc, rất nhiều niềm vui, nhưng cũng có những vòng lặp chán chường và cảm giác bị dồn nén cùng với những người bạn đồng hành đôi khi khiến cô cảm thấy tuyệt vọng muốn trốn thoát.

Chính vào lúc đó, trong suốt mùa hè dài thiêu đốt ở phía Đông, cô đã khao khát nghĩ về Warmsley Vale và ngôi nhà dễ chịu mát mẻ tồi tàn, và về bà mẹ thân yêu.

Lynn vừa yêu cũng vừa khó chịu với mẹ của mình. Lúc xa nhà, cô vẫn yêu bà và quên đi sự khó chịu, hay thỉnh thoảng nghĩ về nó khi cơn nhớ nhà trỗi dậy. Mẹ yêu dấu, người phụ nữ điên rồ! Còn gì mà cô có thể đánh đổi để được nghe những lời sáo rỗng trong cái giọng than vãn ngọt ngào của mẹ. Ôi, có thể trở về lần nữa, và không bao giờ, không bao giờ lại phải rời đi!

Và giờ cô ở đây, xuất ngũ, tự do, và trở về lại White House.

Cô đã trở lại ba ngày. Và đã có một sự bồn chồn bất mãn kì lạ đang len lỏi trong cô. Tất cả đều vẫn thế - hầu như quá giống nhau - ngôi nhà và bà mẹ và Rowley cùng trang trại và gia đình. Điều khác biệt và không nên khác biệt là chính cô...

"Con yêu..." Tiếng kêu khẽ của bà Marchmont vọng lên lầu, "Mẹ đem bữa sáng ngon lành lên giường cho cô gái của mẹ nhé?"

Lynn đáp lại thẳng thừng:

"Đừng. Con sẽ xuống lầu."

"Mà tại sao," cô nghĩ, "bà lại bảo 'cô gái của mẹ' chứ. Thật ngớ ngẩn!"

Cô chạy xuống cầu thang và vào phòng ăn. Đó không phải là một bữa ăn sáng tốt cho lắm. Lynn đã nhận ra tỷ lệ không đáng có giữa thời gian và sự quan tâm trong việc tìm kiếm thức ăn. Ngoại trừ một người phụ nữ trông không mấy tin cậy đến bốn buổi sáng một tuần, bà Marchmont chỉ có một mình trong nhà, phải vật lộn với nấu ăn và dọn dẹp. Bà đã gần bốn mươi tuổi khi Lynn chào đời và sức khỏe không được tốt. Ngoài ra Lynn nhận ra với một sự thất vọng rằng tình hình tài chính của họ đã thay đổi như thế nào. Khoản thu nhập nhỏ cố định nhưng đủ cho họ sống thoải mái trước chiến tranh giờ đã gần như giảm một nửa do thuế. Lãi suất, chi phí, tiền công đã tăng lên.

"Ôi, nhân danh thế giới mới," Lynn lo lắng nghĩ. Mắt cô dừng lại ở mấy mục trong tờ thời báo.

"Cựu - W.A.A.F., tìm kiếm những vị trí mà tính tích cực và có nghị lực được đánh giá cao."

"Từng gia nhập W.R.E.N., tìm kiếm những vị trí cần khả năng tổ chức và biết cách lên kế hoạch."

Doanh nghiệp, sáng kiến, chỉ huy, đó là những tiêu chuẩn được mời gọi. Nhưng thật sự là gì? Những người có thể nấu ăn và dọn dẹp, hoặc viết tốc ký tốt. Biết một kĩ năng và có thể cung cấp dịch vụ thỏa đáng. Những người lao động có thể làm việc vặt và phục vụ tốt.

Chà, nó chả liên quan đến cô. Con đường phía trước của cô đã có sẵn. Kết hôn với anh họ Rowley Cloade. Họ đã đính hôn cách đây bảy năm, trước khi chiến tranh nổ ra. Cho đến khi cô có trí nhớ, cô đã được định là phải lấy Rowley. Cuộc sống trang trại mà anh chọn đã được cô ngầm thừa nhận. Một cuộc sống tốt đẹp - không thú vị lắm, mà công việc thì cực nhọc, nhưng họ đều thích không khí thoáng đãng và chăm sóc cho các con vật.

Viễn cảnh đó không hẳn là những gì mà họ đã có – Cậu Gordon đã từng hứa...

Giọng bà Marchmont cắt ngang phía đối diện:

"Nó là nỗi đau khủng khiếp cho tất cả chúng ta, Lynn yêu dấu, như mẹ đã viết cho con. Gordon chỉ mới sang Anh có hai ngày. Chúng ta thậm chí còn chưa gặp anh ấy. Giá mà anh ấy đừng ở London. Giá mà anh ấy về thẳng đây."

"Vâng, giá mà..."

Ở phương xa, Lynn đã sốc và đau buồn khi nghe tin cái chết của ông cậu, nhưng đến tận lúc này điều đó mới thật sự ngấm vào người cô.

Từ rất lâu khi cô có thể nhớ, cuộc sống của cô, tất cả cuộc sống của bọn họ, đã bị Gordon Cloade cai quản. Người đàn ông giàu có, hiếm muộn đã bảo hộ toàn bộ người thân của mình dưới đôi cánh của ông.

Ngay cả Rowley... Rowley và bạn của anh Johnnie Vavasour bắt đầu hợp tác trên trang trại. Vốn của họ rất ít, nhưng họ có rất nhiều hy vọng và năng lượng. Và Gordon Cloade đã chấp thuận. Bác ấy nói rất nhiều với cô.

"Cháu không thể có được bất cứ điều gì trong nông nghiệp mà không có vốn. Nhưng điều đầu tiên cần tìm hiểu là liệu những chàng trai này có thực sự có ý chí và năng lực để thực hiện nó hay không. Nếu cậu hỗ trợ chúng bây giờ, cậu có thể sẽ không thể biết điều đó - có thể là trong nhiều năm. Nếu họ thiết lập mọi thứ ổn thoả, nếu cậu hài lòng rằng công việc của họ là ổn, vậy thì, Lynn, cháu không cần phải lo lắng. Cậu sẽ đầu tư cho chúng ở quy mô vừa phải. Vì vậy, đừng quá bi quan về tương lai của mình, cô gái. Cháu chính là người vợ Rowley cần. Nhưng hãy giữ những gì cậu đã nói trong đầu cháu thôi."

Chà, cô đã làm vậy, nhưng chính Rowley đã cảm nhận được sự quan tâm tử tế của bác mình. Còn lại tùy thuộc vào anh ấy để chứng minh cho người bác già rằng Rowley và Johnnie là một khoản đầu tư hiệu quả.

Phải, tất cả họ đã phụ thuộc vào Gordon Cloade. Thực ra không phải bất cứ ai trong gia đình cũng là loại ăn bám hay lười biếng. Jeremy Cloade là đối tác cao cấp trong một công ty luật, Lionel Cloade đang hành nghề với tư cách là một bác sỹ.

Nhưng đằng sau cuộc sống thường ngày là nền tảng đảm bảo an toàn về tiền bạc. Họ không bao giờ có bất kỳ nhu cầu về hạn chế chi tiêu hay để tiết kiệm. Tương lai đã được đảm bảo. Gordon Cloade, một người góa vợ không con, sẽ làm việc đó. Ông đã nói với tất cả họ, hơn một lần, rằng chính là như vậy.

Em gái quả phụ của ông, Adela Marchmont, đã sống ở White House khi mà đáng lẽ, có thể, bà đã chuyển đến một ngôi nhà nhỏ hơn, tiết kiệm sức lao động hơn. Lynn đã được gửi đến trường học chất lượng tốt. Nếu chiến tranh không xảy ra, cô đã có thể tham gia bất kì loại đào tạo đắt tiền nào mà cô ấy thấy hài lòng. Chi phiếu từ cậu Gordon gửi về đều đặn đủ thoải mái để cung cấp cuộc sống xa xỉ.

Mọi thứ đã thật hài hòa, thật chắc chắn.

Cho đến khi diễn ra cuộc hôn nhân bất ngờ của Gordon.

"Tất nhiên con yêu," Adela tiếp tục, "Tất cả chúng ta đều nao núng. Nếu có một điều có vẻ khá chắc chắn, đó là Gordon sẽ không bao giờ kết hôn lần nữa. Con thấy đấy, cũng đâu phải anh ấy thiếu thốn quan hệ gia đình đâu."

Phải, nhiều thật, Lynn nghĩ. Mà có khi, là hơi quá nhiều gia đình?

"Anh ấy vẫn luôn tốt bụng," bà Marchmont nói tiếp, "Dù có lẽ anh ấy đôi lúc có chút xíu xiu độc đoán. Gordon chưa bao giờ ưa dùng bữa trên mấy cái bàn đánh bóng. Luôn khăng khăng bám vào mấy cái khăn trải bàn kiểu cũ. Mà thực ra là anh ấy đã gửi cho mẹ mấy cái làm từ ren kiểu Venice rất đẹp khi đến Ý."

"Quả thật đáng giá khi chiều theo ý thích của cậu," Lynn nói khô khan. Cô hỏi thêm với sự tò mò, "Cậu đã gặp cô ấy như thế nào - cô vợ mới ấy? Mẹ chẳng bao giờ nhắc đến trong thư cả."

"Ôi, con à, trên tàu hay máy bay hay đại loại thế. Đi từ Nam Mỹ đến New York, mẹ nghĩ thế. Sau ngần ấy năm! Và sau tất cả các thư kí, người đánh máy, và hầu gái và mọi thứ."

Lynn cười. Theo như cô nhớ, mấy cô thư kí, hầu gái và nhân viên của Gordon Cloade luôn là những đối tượng thuộc diện tình nghi và xem xét.

Cô tò mò hỏi, "Con đoán cô ấy rất đẹp?"

"À," Adela nói, "Theo như mẹ nghĩ thì cô ta trông khá buồn cười."

"Mẹ đâu phải là đàn ông."

"Dĩ nhiên," bà Marchmont nói tiếp, "Cô gái đáng thương bị choáng váng và bị sốc vì vụ nổ và thực sự bị bệnh nặng và tất cả, và theo ý mẹ, cô ấy chưa bao giờ thực sự hồi phục. Cô ấy như một khối thần kinh ấy, con hiểu ý mẹ không. Và thực sự, đôi khi, cô ấy trông khá ngờ nghệch. Mẹ không cảm thấy cô ấy có thể làm bạn đồng hành với Gordon tội nghiệp."

Lynn mỉm cười. Cô nghi ngờ liệu Gordon Cloade có chọn kết hôn với một người phụ nữ trẻ hơn mình nhiều tuổi chỉ vì sự đồng hành trí tuệ của cô ta không.

"Và con à," bà Marchmont thấp giọng, "Mẹ ghét phải nói điều này, nhưng cô ấy hẳn nhiên không phải là một quý cô!"

"Xem thái độ kìa, mẹ! Thời buổi này điều đó đâu quan trọng."

"Ở trong nước mình thì vẫn còn đó, con à," Adela điềm tĩnh nói, "Mẹ chỉ có ý là cô ấy không phải giống như chúng ta."

"Con quỷ nhỏ đáng thương!"

"Lynn à, mẹ không hiểu con đang nói gì hết. Tất cả chúng ta đều cẩn thận để trở nên tốt bụng và lịch sự và chào đón cô ấy trở thành người nhà vì lợi ích của Gordon."

"Vậy là cô ấy đang ở Furrowbank?" Lynn thắc mắc.

"Ừ, tất nhiên. Cô ấy còn có thể ở đâu sau khi ra khỏi nhà thương? Các bác sĩ bảo cô ấy cần phải rời khỏi London. Giờ cô ấy đang ở Furrowbank với anh trai."

"Anh ta thế nào?" Lynn hỏi.

"Một tên trai trẻ đáng sợ," bà Marchmont ngừng lại, rồi thêm vào như muốn nhấn mạnh, "Thô lỗ."

Một phút đồng cảm thoáng qua trong tâm trí của Lynn. Cô nghĩ, "Mình chắc cũng vậy nếu là anh ta!"

Cô hỏi, "Anh ta tên gì?"

"Hunter. David Hunter. Người Ai-Len, hình như vậy. Mà họ cũng không phải người có tiếng tăm cho lắm. Cô ấy là một góa phụ - quí bà Underhay. Dù không muốn tỏ ra thất lễ, nhưng người ta không thể không tự hỏi - Một goá phụ như thế nào mà lại đi từ Nam Mỹ đến chiến trường? Nó làm người ta thấy, con biết đó, cô ta chỉ muốn kiếm một ông chồng giàu có."

"Dù sao thì, cô ấy đã không thất bại." Lynn tổng kết.

Bà Marchmont thở dài.

"Điều đó có vẻ rất phi thường. Gordon luôn là một người đàn ông sắc sảo. Và ý mẹ là, cũng không phải chưa có người phụ nữ nào thử qua. Cái cô thư kí lần trước chẳng hạn. Thực sự khá trắng trợn. Cô ấy đã thành công, mẹ tin vậy, nhưng Gordon đã phải cắt đứt với những người khác."

Lynn nói mơ hồ, "Con cho là luôn có trường hợp ngoại lệ."

"Sáu mươi hai," bà Marchmont nói, "Cái tuổi nguy hiểm. Mà trong chiến tranh thì rất khó đoán. Con không biết mẹ đã sốc cỡ nào khi nhận được thư của cậu từ New York."

"Chính xác thì nó nói gì?"

"Anh ấy viết cho Frances - mẹ không biết vì sao. Có lẽ anh ấy nghĩ rằng với môi trường lớn lên của chị ấy thì chị có thể thông cảm hơn. Anh ấy nói rằng có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên khi biết rằng anh ấy đã kết hôn. Tất cả đều khá bất ngờ, nhưng anh ấy chắc chắn rằng tất cả chúng ta sẽ rất thích Rosaleen (một cái tên như nghệ danh kịch ấy, con thấy vậy không, ý mẹ là nghe nó không thật cho lắm). Cô ấy đã có một cuộc đời rất buồn, anh ấy nói thế, và đã trải qua rất nhiều mặc dù cô còn quá trẻ. Thực sự là lòng can đảm tuyệt vời, cách mà cô ấy đã đứng lên với cuộc sống."

"Thật là bài mở đầu thường thấy." Lynn rầm rì.

"Ôi mẹ biết chứ. Mẹ cũng đồng ý. Người ta nghe mấy câu chuyện đó quá nhiều rồi. Khi mà ai cũng nghĩ với một người dày kinh nghiệm như Gordon - vậy mà kết quả là thế đấy. Cô ta có cặp mắt rất to - xanh sẫm và cái mà người ta hay gọi là làn sương trong mắt.

"Có đẹp không?"

"À, có, quả thật là đẹp. Không phải là kiểu đẹp mẹ thích."

"Hẳn là không bao giờ." Lynn nói với nụ cười khan.

"Không, con à. Thiệt tình, đàn ông - nhưng mà, cũng không thể nào đánh giá hết nam giới được! Ngay cả những người nhìn chuẩn mực nhất đôi khi cũng hay làm những điều điên rồ! Thư của Gordon liên tiếp bảo là chúng ta không nên nghĩ rằng điều này có nghĩa là cậu sẽ cắt đứt mọi liên hệ lúc trước. Cậu vẫn xem chúng ta là trách nhiệm đặc biệt của mình."

"Nhưng cậu ấy," Lynn bảo, "vẫn chưa sửa lại di chúc sau kết hôn à?"

Bà Marchmont lắc đầu.

"Di chúc cũ anh ấy làm là từ năm 1940 rồi. Mẹ không biết chi tiết, nhưng anh ấy đã nói rõ là nếu có chuyện gì xảy ra với mình thì chúng ta vẫn được bảo trợ theo di nguyện. Tờ di chúc, hiển nhiên, đã bị vô hiệu bởi cuộc hôn nhân của cậu ấy. Mẹ đồ là Gordon đã định lập di chúc mới sau khi trở về, nhưng đã không có cơ hội. Anh ấy đã chết ngay sau cái ngày vừa đặt chân về nước."

"Vậy là cô ấy - Rosaleen - sẽ được hưởng tất cả?"

"Đúng vậy. Bản di chúc cũ không có hiệu lực bởi cuộc hôn nhân của cậu con."

Lynn im lặng. Cô không hám lợi như hầu hết mọi người, nhưng cô sẽ không phải là con người nếu không thấy phẫn nộ với tình trạng mới này. Cô cảm giác đó không phải là tất cả những gì bản thân Gordon Cloade đã dự tính. Phần lớn tài sản của cậu có thể để lại cho người vợ trẻ, nhưng có một số điều khoản nhất định mà cậu ấy chắc chắn phải làm cho cái gia đình mà cậu đã khuyến khích phụ thuộc vào mình. Lần này qua lần khác, cậu đã thúc giục họ đừng tiết kiệm, không cần dự phòng cho tương lai. Cô đã nghe cậu nói với Jeremy: "Anh sẽ là một người đàn ông giàu có khi tôi chết." Đối với mẹ cô, bác thường nói: 'Đừng lo lắng, Adela. Anh sẽ luôn chăm sóc Lynn - em biết điều đó và anh ghét khi em rời khỏi ngôi nhà này - đó là nhà của các em. Gửi tất cả các hóa đơn sửa chữa cho anh.' Với Rowley bác đã khuyến khích việc phát triển nông trại. Với Antony, con trai của Jeremy, bác ấy khăng khăng giới thiệu vô đội cận vệ và luôn đưa cho nó một khoản chi tiêu rất khá. Lionel Cloade đã được khuyến khích theo sát một số ý tưởng nghiên cứu y học dù không mang lại lợi nhuận ngay lập tức và để cho việc thực nghiệm của chú ấy được tiến hành.

Những suy nghĩ của Lynn bị vỡ vụn.

Một cách kịch tính, và với đôi môi run rẩy, bà Marchmont đẩy ra một xấp hóa đơn.

"Nhìn những cái này đi," bà than vãn, "Mẹ phải làm gì đây? Mẹ phải làm cái gì đây, Lynn? Người quản lí ngân hàng mới viết cho mẹ sáng nay rằng mẹ đã rút tiền vượt mức. Mẹ không hiểu sao lại thành thế này cả. Mẹ đã rất cẩn thận. Nhưng có vẻ như các khoản đầu tư của mẹ không tạo ra lợi nhuận như trước đây. Tăng thuế, ông ấy nói. Và nhìn mấy gạch vàng này xem. Bảo hiểm thiệt hại chiến tranh hay gì đó đại loại thế - người ta phải trả cho họ dù muốn hay không."

Lynn lấy mấy hóa đơn và liếc qua chúng. Không có ghi nhận gì về sự hoang phí trong số đó. Nó bao gồm việc lắp các phiến đá thay thế trên mái nhà, sửa chữa hàng rào, thay thế nồi hơi nhà bếp bị mòn - một ống nước chính mới. Chúng đã lên tới một khoản đáng kể.

Bà Marchmont nói một cách đáng thương:

"Mẹ cho là phải bắt đầu chuyển nhà thôi. Nhưng ta có thể đi đâu? Xung quanh đây chẳng có một căn nhà nào nhỏ cả - hoàn toàn không có. Mẹ không muốn con phải lo lắng mấy việc này, Lynn. Không khi con chỉ vừa mới trở về. Nhưng mẹ không biết phải làm gì cả. Mẹ thật sự không biết."

Lynn nhìn mẹ. Bà đã ngoài sáu mươi. Bà chưa bao giờ là một người phụ nữ mạnh mẽ cả. Trong chiến tranh, bà đã giúp đỡ người di tản từ London, nấu ăn và dọn dẹp cho họ, đã làm việc với W.V.S., làm mứt, giúp đỡ trong các bữa ăn ở trường. Bà đã làm việc mười bốn giờ một ngày trái ngược với một cuộc sống dễ chịu trước khi chiến tranh. Bà ấy bây giờ, như Lynn thấy, đã gần như kiệt quệ. Mệt mỏi và sợ hãi về tương lai.

Một cơn nóng giận lặng lẽ nhen nhóm trong Lynn. Cô nói chậm rãi:

"Không lẽ cô Rosaleen này - không giúp đỡ à?"

Bà Marchmont bối rối.

"Chúng ta làm gì có quyền. Chẳng có gì cả."

Lynn phản bác.

"Con nghĩ về mặt đạo lí chúng ta vẫn có chứ. Cậu Gordon luôn giúp đỡ mà."

"Vậy thì không tốt lắm đâu, con à, khi phải cầu cạnh - nhất là từ những người vốn không thích gì nhau. Hơn nữa người anh đó của cô ta sẽ không bao giờ để cô ấy chìa ra một xu đâu."

Bà nói thêm, chủ nghĩa anh hùng lúc nãy thay thế bằng sự khinh miệt thuần tuý: "Ấy là nếu như hắn thật sự là anh của cô ta kìa!"

Chương 2

Frances Cloade đăm chiêu nhìn chồng bà qua bàn ăn.

Frances đã bốn mươi tám. Bà chính là kiểu phụ nữ mảnh mai rất hợp với loại vải tuýt. Bà có một vẻ đẹp kiêu kì đã phần nào tàn phai trên gương mặt không trang điểm trừ chút son môi được bôi qua quít. Jeremy Cloade là người đàn ông sáu mươi ba tuổi với đầu bạc lưa thưa, và gương mặt vô cảm khô khan. Thậm chí nó còn vô cảm hơn vào buổi tối nay.

Vợ ông xác nhận sự thật đó với một ánh nhìn thoáng qua.

Một cô gái mười lăm tuổi vòng quanh bàn, bưng ra bát đĩa. Cái nhìn lo lắng của cô dán chặt vào Frances. Nếu Frances nhăn mày, cô suýt đánh rơi thứ gì đó, còn nếu là cái nhìn hài lòng sẽ khiến cô vui vẻ.

Có một lưu ý đáng ghen tị ở Warmsley Vale là nếu như người nào có kẻ hầu thì đó là Frances Cloade. Bà không mua chuộc họ bằng khoản lương hấp dẫn, và đánh giá bằng hiệu suất công việc - nhưng sự chấp thuận nồng nhiệt của bà cho sự nỗ lực và năng lượng truyền nhiễm của bà ấy làm cho công việc phục vụ trở thành cái gì đó sáng tạo và cá nhân.

Bà đã quá quen với việc được hầu hạ cả cuộc đời mình đến nỗi bà coi đó là điều hiển nhiên mà không có ý thức về bản thân, và bà có cùng sự yêu cầu cao về một đầu bếp giỏi hoặc một người hầu gái tốt giống như bà sẽ có cho một nghệ sĩ piano giỏi.

Frances Cloade là con gái độc nhất của Ngài Edward Trenton, người đã cho đàn ngựa của mình được huấn luyện ở khu vực lân cận Warmsley Vale. Sự phá sản cuối cùng của Ngài Edward đã được những người trong cuộc biết đến như là một lối thoát nhẹ nhàng khỏi những điều tồi tệ hơn. Đã có những tin đồn về những con ngựa không thể sống sót vào những lúc không ngờ đến, những tin đồn khác về các cuộc điều tra của những người quản lí ở câu lạc bộ Jockey. Nhưng Ngài Edward đã trốn thoát với danh tiếng của mình chỉ bị mờ nhạt chút đỉnh và đã đạt được một thỏa thuận với các chủ nợ của mình, cho phép ông ta sống cực kỳ thoải mái ở miền Nam nước Pháp. Và để có những may mắn bất ngờ này, ông phải cảm ơn sự sắc sảo và những nỗ lực đặc biệt của luật sư của mình, Jeremy Cloade. Cloade đã thực hiện một thỏa thuận tốt hơn một luật sư thường làm cho một khách hàng, và thậm chí còn có những đảm bảo nâng cao của chính mình. Anh ta đã nói rõ rằng anh ta rất ngưỡng mộ Frances Trenton, và dĩ nhiên, khi công việc của cha cô được giải quyết thỏa đáng, Frances trở thành bà Jeremy Cloade.

Không ai biết được bà cảm thấy thế nào về điều này. Tất cả những gì có thể nói là bà ấy đã giữ cho mình một món hời đáng ngưỡng mộ. Bà đã là một người vợ tận tuỵ và trung thành với Jeremy, một người mẹ ân cần với con trai ông, đã chuyển tiếp lợi ích của Jeremy bằng mọi cách và chưa bao giờ đề nghị bằng lời nói hay hành động rằng cuộc hôn nhân này là bất cứ điều gì ngoài việc nó là mong muốn tự nguyện từ phía bà.

Đáp lại, gia đình Cloade đã dành sự tôn trọng và ngưỡng mộ rất lớn cho Frances.

Họ tự hào về bà, họ tiếp thu ý kiến của bà - nhưng họ chưa bao giờ cảm thấy thực sự khá thân thiết với nhau.

Những gì Jeremy Cloade nghĩ về cuộc hôn nhân của mình không ai biết, bởi vì không ai từng biết Jeremy Cloade nghĩ gì hay cảm thấy gì. "Một khúc cây khô" là những gì mọi người nói về Jeremy. Danh tiếng của ông ấy với tư cách một quí ông và một luật sư là rất cao. Cloade, Brunskill và Cloade chưa bao giờ chạm vào bất kỳ hoạt động kinh doanh bất hợp pháp nào. Họ không được cho là xuất sắc nhưng được coi là có danh tiếng. Công ty phát triển thịnh vượng và Jeremy Cloades sống trong một ngôi nhà đẹp đẽ kiến trúc George ngay gần khu buôn bán, với một khu vườn treo tường cổ kính phía sau nó, nơi những cây lê vào mùa xuân nở rộ biển hoa trắng.

Đó là một căn phòng nhìn ra khu vườn phía sau ngôi nhà mà vợ chồng họ đã đến khi họ rời bàn ăn tối. Edna, mười lăm tuổi, mang cà phê, thở ra một cách hào hứng và thích thú.

Frances rót một ít cà phê vào cốc. Rất đặc và nóng. Cô nói với Edna, sắc sảo và tán thưởng:

"Tuyệt lắm, Edna."

Edna đỏ mặt lên vì vui sướng rồi đi ra, lấy làm kì lạ về sở thích của một số người. Cà phê, theo ý kiến của Edna, phải là một màu kem nhạt, ngọt ngào, với rất nhiều sữa!

Trong căn phòng nhìn ra vườn, nhà Cloade uống cà phê của họ, đen và không đường. Họ đã có cuộc nói chuyện rời rạc trong bữa tối, về những người quen gặp nhau, về sự trở lại của Lynn, về triển vọng của nghề nông trong tương lai gần, nhưng bây giờ, khi chỉ một mình, họ im lặng.

Frances dựa lưng vào ghế, mắt nhìn chồng. Ông tỏ ra không để ý đến cái nhìn của vợ. Tay phải ông vuốt ve môi trên. Mặc dù Jeremy Cloade không biết nhưng cử chỉ đó là hành động riêng của ông thể hiện tâm trạng nhiễu loạn bên trong. Frances đã không quan sát nó thường xuyên. Một lần khi Antony, con trai của họ bị ốm nặng khi còn nhỏ, một lần là khi chờ đợi bồi thẩm đoàn xem xét phán quyết của họ, khi chiến tranh bùng nổ, chờ nghe những lời không thể chối bỏ qua vô tuyến, vào đêm trước khi Antony khởi hành rời đi.

Frances suy nghĩ một lúc trước khi mở miệng. Cuộc sống hôn nhân của họ khá hạnh phúc, nhưng không bao giờ quá thân mật đến mức có thể nói thẳng thắn. Bà tôn trọng sự kín đáo của Jeremy và ông cũng làm điều tương tự. Ngay cả khi bức điện tín thông báo về cái chết của Antony đến, cả hai đều không ngã quỵ.

Ông đã mở ra xem, rồi nhìn vào vợ. Bà nói, "Có phải-?"

Ông cúi đầu, rồi bước đến và đặt bức điện tín vào bàn tay đang vươn ra của bà.

Họ đã đứng trong im lặng một lúc lâu. Rồi Jeremy nói:

"Anh ước có thể làm gì đó cho em, em yêu."

Và bà đã trả lời, giọng nói đều đều, nước mắt không ngừng rơi, chỉ còn ý thức về sự trống rỗng và đau đớn khủng khiếp: "Đó cũng là nỗi đau của anh mà."

Ông vỗ vào vai bà.

"Phải," ông nói, "Phải..." Rồi ông tiến về phía cánh cửa, bước đi hơi lúng túng, nhưng cứng nhắc, đột nhiên trở nên như ông già... ngay cả lúc nói cũng vậy, "Đã không còn có gì để nói nữa - không còn gì để nói nữa..."

Bà đã biết ơn chồng mình, biết ơn sâu sắc, vì sự thấu hiểu ấy, và đã bị cắn rứt vì thương hại, khi thấy ông đột nhiên biến thành một ông già. Với sự mất mát của con trai, một thứ gì đó đã cứng lại trong bà - lòng tốt thông thường đã khô cạn. Bà có năng lực hơn, mạnh mẽ hơn bao giờ hết - mọi người có đôi khi hơi sợ thói thường vô cảm của bà.

Ngón tay của Jeremy Cloade di chuyển dọc theo môi trên của ông một lần nữa - không theo qui luật, tìm kiếm.

Từ bên kia phòng, Frances cất lên tiếng nói giòn giã.

"Có chuyện gì sao, Jeremy?"

Ông giật mình. Cốc cà phê gần như tuột khỏi tay ông. Ông tỉnh táo lại, đặt nó xuống khay. Rồi nhìn vợ.

"Em muốn nói gì, Frances?"

"Em đang hỏi là có chuyện gì hay không?"

"Có thể có chuyện gì?"

"Nếu như đoán mò thì thật ngu ngốc. Em hi vọng chính anh sẽ nói hơn."

Bà cất giọng không chút cảm xúc như đang bàn chuyện làm ăn.

Ông nói không được thuyết phục lắm:

"Không có gì xảy ra cả -"

Bà không trả lời. Bà chỉ đơn thuần chờ đợi. Dường như sự phủ nhận của ông bị bà gạt sang bên một cách không đáng kể. Ông nhìn vợ không chắc lắm.

Và chỉ trong chốc lát, lớp mặt nạ không thể che giấu trên khuôn mặt xám xịt của ông tuột ra, bà thoáng thấy nỗi đau đớn hỗn loạn đến nỗi bà gần như thốt lên thành tiếng. Dù chỉ trong chốc lát nhưng không nghi ngờ những gì mình đã thấy.

Bà nói nhỏ nhẹ và vô cảm:

"Em nghĩ tốt nhất anh nên nói ra đi -"

Ông thở dài - cái thở dài sâu không mấy vui vẻ.

"Em rồi sẽ biết thôi, dĩ nhiên," ông nói, "không sớm thì muộn."

Và ông nói thêm một câu làm bà kinh ngạc.

"Anh e rằng em vừa vướng vào một việc rất khó khăn, Frances."

Bà bỏ qua đoạn ám chỉ mà mình không hiểu kia rồi đi thẳng vào vấn đề.

"Chuyện gì thế," bà hỏi, "liên quan đến tiền?"

Bà cũng không hiểu tại sao mình lại cân nhắc đến tiền đầu tiên. Không hề có dấu hiệu bất thường nào liên quan đến rắc rối tài chính ngoài vài sự việc hiển nhiên. Họ đang trong lúc thiếu nhân lực với hàng đống công việc không đếm xuể, nhưng đó là việc ai cũng gặp phải và trong tháng trước họ đã thuê lại vài nhân viên cũ vừa được cho xuất ngũ. Cũng có khả năng đó là căn bệnh nào đó chồng mình đang cố giấu - sắc mặt của ông gần đây không tốt lắm, ông đang làm việc quá tải và quá mệt mỏi. Dẫu vậy linh tính của Frances vẫn thiên về tiền bạc, và có vẻ bà đã đúng.

Chồng của bà gật đầu.

"Vậy à."

Bà im lặng trong chốc lát, suy tư. Bản thân bà thật ra không quan tâm đến tiền bạc cho lắm - nhưng bà biết Jeremy không thể nào nhận ra điều đó. Tiền là một thứ tồn tại vững chắc trong suy nghĩ của Jeremy ổn định - nghĩa vụ - một vị trí và địa vị nhất định trong cuộc sống.

Tiền đối bà giống như một món đồ chơi quăng vào người để tiêu khiển. Bà đã được sinh ra và lớn lên trong môi trường bất ổn về tài chính. Đã có những khoảng thời gian tuyệt vời khi những con ngựa đã làm những gì được mong đợi ở chúng. Đã có những thời điểm khó khăn khi các thương nhân không cung cấp đủ tiền công và Ngài Edward đã bị buộc phải vượt qua những khó khăn để tránh những người bảo lãnh khi họ đến trước cửa. Có lần họ đã sống bằng bánh mì khô trong một tuần và gửi tất cả những người hầu đi. Họ đã có những người bảo lãnh trong nhà trong ba tuần một lần khi Frances còn nhỏ. Bà phát hiện một trong số họ rất dễ chịu để chơi và đầy những câu chuyện về cô con gái của chính họ.

Nếu một người không có tiền, người ta chỉ đơn giản là ăn cắp, hoặc ra nước ngoài, hoặc sống nhờ bạn bè và các mối quan hệ một chút. Hoặc ai đó có thể cho bạn vay tiền ...

Nhưng nhìn qua chồng, Frances nhận ra rằng trong thế giới nhà Cloade, bạn không thể làm điều đó. Bạn sẽ không cầu xin hoặc mượn hoặc sống nhờ người khác. (Và ngược lại, bạn không mong đợi họ cầu xin hoặc mượn hoặc sống nhờ bạn!)

Frances cảm thấy vô cùng tiếc cho Jeremy và có chút tội lỗi về việc bản thân không bị xáo trộn. Bà gần như không còn quan tâm đến thế tục.

"Chúng ta có cần rao bán mọi thứ không? Công ty sẽ phá sản à?"

Jeremy Cloade nhăn mặt, và bà nhận ra mình có hơi quá thực tế.

"Mình à," bà dịu giọng, "Nói em nghe đi. Em không thể cứ đoán mãi được."

Cloade nói cứng nhắc: "Chúng đã đã trải qua một cuộc khủng hoảng tồi tệ cách đây hai năm. Cậu Williams trẻ ấy, em nhớ chứ, đã bỏ trốn. Chúng ta lại rơi khó khăn một lần nữa. Sau đó, có một số rắc rối phát sinh từ vị trí ở Viễn Đông sau Singapore -"

Bà cắt ngang.

"Đừng bận tâm giải thích lí do - chúng không quan trọng. Anh đang khó xử. Mà anh vẫn chưa tìm được cách giải quyết?"

Ông trả lời, "Anh đã phụ thuộc vào Gordon. Gordon hẳn sẽ biết nên xử lí như thế nào."

Frances thở dài thiếu kiên nhẫn.

"Tất nhiên. Em không muốn đổ lỗi cho người đàn ông tội nghiệp đó - sau tất cả, đó chỉ là bản chất của con người khi đánh mất lí trí trước một người phụ nữ xinh đẹp. Và tại sao anh ta không nên kết hôn lần nữa nếu anh ta muốn? Nhưng thật không may anh ta đã bị giết trong cuộc không kích đó trước khi anh ta giải quyết bất cứ điều gì hoặc chỉnh sửa lại di chúc hoặc điều chỉnh công việc của anh ta. Sự thật là người ta không bao giờ tin được bất kể lúc nào, dù bạn gặp nguy hiểm gì, thì chính bạn sẽ là người bị giết. Bom luôn bắn trúng người khác!"

"Ngoài sự mất mát của đó ra, anh đã rất thích Gordon - và cũng tự hào về chú ấy", anh trai của Gordon Cloade nói, "cái chết của chú ấy là một thảm họa đối với anh. Nó đến ngay lúc đó -"

Ông ngừng lại.

"Chúng ta sẽ phá sản phải không?" Frances hỏi với sự quan tâm thông thái.

Jeremy Cloade nhìn bà gần như tuyệt vọng. Mặc dù bà không nhận ra điều đó, nhưng ông có thể đối phó tốt hơn với nước mắt và sợ hãi. Sự quan tâm đầy thực tế này đã đánh bại ông ta hoàn toàn.

Ông nói gay gắt: "Mọi việc có thể còn tệ hơn nữa..."

Ông nhìn bà lẳng lặng ngồi ở đó, chìm trong suy nghĩ. Ông tự nói với mình, "Trong một chốc nữa mình sẽ phải nói với cô ấy. Cô ấy sẽ biết mình là gì... Cô ấy sẽ phải biết. Có lẽ lúc đầu cô ấy sẽ không tin."

Frances Cloade thở dài và đứng dậy từ cái ghế dựa to của bà.

"Em hiểu rồi," bà nói. "Tham ô. Hoặc nếu đó không phải là từ đúng, thì đó là điều... Giống như Williams đã làm."

"Phải, nhưng lần này - em không hiểu - Anh phải có trách nhiệm. Anh đã sử dụng các quĩ ủy thác cam kết với khoản phí của mình. Cho đến nay, anh đã xóa bỏ mọi dấu vết -"

"Nhưng lần này chúng sắp sửa bị lộ ra?"

"Trừ phi anh có một số tiền cần thiết - ngay lập tức."

Nỗi xấu hổ mà ông cảm thấy là điều tồi tệ nhất ông từng biết trong đời. Làm thế nào cô ấy sẽ chấp nhận nó?

Hiện tại bà vẫn đang tỏ ra bình tĩnh. Thế nhưng, Jeremy nghĩ, Frances chưa bao giờ làm quá lên. Không bao giờ trách móc hay sợ hãi.

Bà đưa tay lên má, mày nhăn lại.

"Thật ngớ ngẩn," bà nói, "em chẳng hề có số tiền nào của riêng mình cả..."

Ông nói cứng nhắc, "Có tiền hồi môn của em, nhưng- "

Bà nói lơ đãng, "Em đoán là chúng cũng hết sạch rồi."

Ông im lặng. Rồi ông mở miệng một cách khó khăn, bằng tông giọng khô khan, "Anh xin lỗi, Frances. Hơn cả những gì anh có thể nói. Em đã vướng vào một vụ khó khăn rồi."

Bà nhìn lên sắc bén.

"Anh đã nói điều đó rồi. Chúng nghĩa là gì?"

Jeremy trả lời cứng nhắc:

"Khi em đủ tốt để kết hôn với anh, em có quyền được mong đợi - à, sự chính trực - và một cuộc sống không có những lo lắng bẩn thỉu."

Bà nhìn ông trong sự sửng sốt.

"Thật á, Jeremy! Rốt cục anh nghĩ em cưới anh vì điều gì?"

Ông hơi nở nụ cười.

"Em luôn là người vợ chung thủy và tận tụy nhất, em yêu. Nhưng anh khó có thể tự nhủ rằng em sẽ chấp nhận anh trong những - eh - hoàn cảnh khác nhau."

Bà nhìn ông chằm chằm rồi đột nhiên phá lên cười.

"Cái khúc củi ngớ ngẩn này! Không ngờ anh lại có trí tưởng tượng đầy thơ văn như vậy sau vẻ ngoài đứng đắn như thế! Anh thật sự nghĩ em lấy anh như cái giá phải trả vì đã cứu bố em khỏi bầy sói đó - hay bọn quản lí của câu lạc bộ Jockey, hoặc đại loại vậy à?"

"Em rất yêu quí bố mình, Frances."

"Em đã hết lòng với bố! Ông ấy có sức hút khủng khiếp và là niềm vui lớn khi sống cùng! Nhưng em luôn biết ông là một sự rắc rối. Và nếu anh nghĩ rằng em sẽ bán mình cho luật sư của gia đình để cứu ông ấy khỏi những gì sẽ đến với ông, thì anh đã không hề hiểu gì về em rồi. Không bao giờ!"

Bà nhìn ông chằm chằm. Thật phi thường, bà nghĩ, khi kết hôn với ai đó trong hơn hai mươi năm mà không biết chuyện gì đang xảy ra trong tâm trí họ. Nhưng làm thế nào người ta có thể biết khi nó là một tâm trí quá khác biệt so với của chính mình? Một tâm trí lãng mạn, tất nhiên, được ngụy trang tốt, nhưng về cơ bản là lãng mạn. Bà nghĩ: "Tất cả tuyển tập Stanley Weymans cũ trong phòng ngủ của anh ấy. Mình đáng ra có thể đã biết từ đó! Chồng yêu ngốc nghếch tội nghiệp!"

Bà nói to:

"Em lấy anh vì em yêu anh, tất nhiên rồi."

"Anh á? Em thấy gì ở anh chứ?"

"Nếu anh hỏi em điều đó, Jeremy, em thực sự không biết. Anh thật là một sự thay đổi quá khác biệt so với tất cả những kẻ hùa theo của bố. Anh không bao giờ nói về ngựa chẳng hạn. Anh không biết em đã chán ngấy như thế nào về những con ngựa - và tỷ lệ cược có thể xảy ra ở giải Newmarket! Anh đến ăn tối một đêm - anh có nhớ không? - và em ngồi cạnh anh và hỏi lưỡng kim là gì, và anh giải thích cho em - thực sự đã trả lời em! Phải mất toàn bộ bữa tối - sáu món ăn - hồi đó nhà em vẫn tiền và có hẳn một đầu bếp người Pháp!"

"Chắc hẳn là rất buồn chán." Jeremy nói.

"Nó thật tuyệt vời! Chưa có ai đối xử nghiêm túc như thế với em. Anh rất lịch sự nhưng chưa bao giờ nhìn thẳng vào em hay nghĩ rằng em tốt bụng hay xinh đẹp đại loại thế. Nó gợi lên sự nhiệt tình trong em. Em đã thề là phải khiến anh chú ý đến mình."

Jeremy Cloade lên tiếng ỉu xìu: "Anh có chú ý đến em. Tối đó khi về nhà anh đã không thể chợp mắt. Em mặc chiếc đầm xanh với hoa ngô..."

Có một thoáng im lặng, rồi Jeremy hắng giọng.

"À thì - chuyện đã qua lâu rồi..."

Bà tinh ý giúp ông thoát khỏi sự xấu hổ.

"Giờ thì chúng ta là cặp vợ chồng trung niên gặp khó khăn, và đang tìm cách giải quyết."

"Sau tất cả những gì em vừa nói, Frances, nó khiến cho mọi việc tệ hơn gấp ngàn lần - nỗi ô nhục này -"

Bà cắt ngang.

"Chúng ta hãy làm rõ vài điều trước đã. Anh đang hối lỗi vì vi phạm vào pháp luật. Anh có thể bị xét xử - bị đi tù," (ông nhăn mặt) "Em không muốn xảy ra điều đó. Em sẽ chống lại bất cứ điều gì để ngăn nó lại - nhưng đừng có nói với em cái gì mà luân thường đạo lí. Chúng ta cũng chẳng phải gia đình kiểu mẫu gì, đúng chứ. Bố em, dù rằng là người rất có sức hút, nhưng lại sống như kẻ lừa đảo. Và rồi còn có Charles - cậu em họ em. Cả nhà đã che giấu để nó không bị truy tố, và đẩy nó đi trốn ở thuộc địa. Còn cậu em họ nữa Gerald - nó đã làm giả mấy tờ séc khi ở Oxford. Nhưng nó đã đi lính và nhận được huân chương cho sự dũng cảm và tận tụy với đất nước của mình và sức chịu đựng siêu phàm. Ý của em là con người là vậy - không tốt cũng chẳng xấu. Em cho rằng bản thân mình cũng chẳng đặc biệt ngay thẳng - mặc dù đó là vì không có sự cám dỗ nào khác. Nhưng những gì em có được là rất nhiều can đảm và -" (bà cười với ông) "lòng trung thành!"

"Em yêu!" Ông đứng dậy và đi về phía vợ. Ông dừng đó và đặt môi mình lên tóc bà.

"Giờ thì," Con gái của Ngài Edward Trenton lên tiếng, mỉm cười, "Chúng ta làm gì đây? Kiếm tiền bằng cách nào đó à?"

Mặt của Jeremy cứng lại.

"Anh không biết cách nào."

"Thế chấp nhà này. Ồ, em hiểu rồi," bà rất nhanh, "Nó đã xong rồi. Em thật ngu ngốc. Tất nhiên anh đã làm tất cả những điều có thể. Câu hỏi được đặt ra là, người để liên lạc thì sao? Chúng ta có thể liên hệ với ai? Em cho rằng chỉ có một khả năng. Góa phụ của Gordon - Rosaleen mờ ám đó!"

Jeremy lắc đầu quầy quậy.

"Nó là khoản vay rất lớn... và không thể rút ra từ vốn gốc. Số tiền đó chỉ dùng để chi trả cho cuộc sống của cô ấy."

"Em không nghĩ đến điều đó. Em tưởng cô ấy thừa hưởng tất cả. Nếu như cô ấy chết thì thế nào?"

"Nó sẽ truyền cho người thân tiếp theo của Gordon. Điều đó có nghĩa là nó được phân chia giữa anh, Lionel, Adela và con trai của Maurice, Rowley."

"Nó sẽ tới chúng ta..." Frances chầm chậm nói.

Có điều gì đó dường như lướt qua căn phòng - một không khí lạnh - một ý nghĩ mơ hồ.

Frances nói: "Anh không kể với em điều đó... em nghĩ cô ấy được thừa kế nó - cô ấy có thể cho bất cứ ai cô ấy thích?"

"Không. Theo như qui chế liên quan đến huyết thống năm 1925..."

Không rõ liệu Frances có nghe lời giải thích của chồng không. Bà nói khi giọng ông dừng lại:

"Nếu vậy thì nó chả có liên quan gì đến ta nữa. Chúng ta sẽ chết và được chôn cất cả trước khi cô ta bước sang tuổi trung niên. Cô ấy bao nhiêu tuổi? Hai lăm - hai sáu? Cô ta chắc phải sống đến tận bảy mươi."

Jeremy ngờ vực nói:

"Mình có thể hỏi cô ấy một khoản vay - đặt nó trên cơ sở gia đình? Cô ấy có thể là một cô gái có đầu óc hào phóng - thực sự chúng ta biết rất ít về cô ấy -"

Frances nói: "Dù sao tới bây giờ chúng ta vẫn khá tử tế với cô ấy - không ẩm ương như Adale. Cô ấy có thể đồng ý đấy."

Chồng bà cảnh báo:

"Đừng đưa ra gợi ý gì về - ờ - tính khẩn cấp ở đây."

Frances không kiên nhẫn: "Đương nhiên! Vấn đề ở đây là chúng ta không phải đối phó với cô ta. Cô ấy hoàn toàn chịu sự quản thúc của người anh trai đó."

"Một chàng trai thiếu sức hút," Jeremy Cloade nói.

Frances chợt nở nụ cười.

"Không đâu." bà nói, "Anh ta hấp dẫn. Rất hấp dẫn là đằng khác. Khá thiếu tinh tế, em cho là vậy. Nhưng sau tất cả, em cũng không phải người tinh tế gì!"

Nụ cười của bà cứng lại. Bà ngước nhìn chồng.

"Chúng ta sẽ không bị đánh bại, Jeremy," bà nói, "Chắc chắn phải có cách nào đó... Cho dù em có phải đi cướp nhà băng!"

Chương 3

"Tiền!" Lynn nói.

Rowley Cloade gật đầu. Anh ta là một người đàn ông to con vạm vỡ với nước da đỏ gạch, đôi mắt xanh dương sâu thẳm và mái tóc dày. Anh ta có một sự chậm chạp dường như có mục đích hơn là tính bẩm sinh. Anh sử dụng sự cân nhắc khi trả lời như những người khác sử dụng sự nhanh chóng của họ.

"Ừ," anh nói, "Dường như mọi thứ đều được qui về tiền dạo gần đây."

"Em tưởng người làm nông kiếm được rất khá dạo chiến tranh nổ ra chứ?"

"Ồ, đúng là thế - nhưng điều đó không làm ta ổn định lâu dài. Trong một năm chúng ta sẽ trở lại nơi chúng ta bắt đầu - với tiền lương tăng, công nhân không muốn làm, mọi người không hài lòng và không ai biết họ đang ở đâu. Trừ khi, tất nhiên, em có thể hoạt động trang trại theo một cách thực sự lớn. Gordon già biết. Đó là nơi bác ấy đang chuẩn bị đầu tư vào."

"Và giờ thì -" Lynn hỏi.

Rowley cười toe toét.

"Và giờ thì quí bà Gordon chạy đến London, chi vài ngàn bảng để mua một cái áo lông chồn đẹp."

"Th - Thật độc ác!"

"Ồ không," anh dừng lại rồi mở miệng, "Anh thà đưa cho em cái áo lông chồn đó hơn, Lynn -"

"Cô ấy như thế nào, Rowley?" Cô muốn có một hình dung nhất định.

"Em sẽ thấy cô ấy tối nay. Ở bữa tiệc của chú Lionel và dì Kathie."

"Phải, em biết. Nhưng em muốn anh kể cho em. Mẹ bảo là cô ấy có vẻ khờ khạo?"

Rowley trầm tư.

"Chà - Anh không cam đoan cô ấy là người thông thái. Nhưng anh nghĩ cô ấy có vẻ ngoài như thế là vì cô ấy cực kì cẩn trọng."

"Cẩn trọng á? Về cái gì?"

"À thì, là thế thôi. Có thể phần nhiều là do chất giọng của cô ấy - cô ấy là đề tài bàn tán quanh đây mà, em biết đấy, còn không thì do mấy tin tức ba phải, hay mấy ám chỉ trừu tượng nào đó lởn vởn xung quanh."

"Nếu vậy thì cô ấy - hơi - chà, thiếu giáo dục?"

Rowley cười.

"Ô, cô ấy không phải là một quí cô, nếu ý em là vậy. Cô ấy có đôi mắt rất đẹp, và nước da rất tuyệt - anh đoán đó là lí do Gordon già rơi vào lưới tình, với một bầu không khí phi thường đơn thuần bao quanh cô ấy. Anh không nghĩ nó hợp với nhau - dĩ nhiên em không thể biết được. Cô ấy chỉ đứng một chỗ như một con ngốc và để David dắt mũi."

"David?"

"Ông anh trai. Anh đồ là không có hành vi quỉ quyệt nào mà hắn ta không biết cả!" Rowley thêm vào, "Hắn không có thiện cảm với bất cứ ai trong chúng ta."

"Sao hắn có thể?" Lynn nói chắc nịch, rồi thêm vào khi anh nhìn cô, thoáng kinh ngạc, "Anh cũng không thích anh ta."

"Chắc chắn là không. Em cũng sẽ thế thôi. Hắn không như chúng ta."

"Anh làm sao biết em thích hay không thích người như thế nào, Rowley! Em đã trải qua nhiều thứ trên thế giới này suốt ba năm qua. Em - Em nghĩ là tầm nhìn của mình đã rộng hơn trước."

"Em chắc chắn là có nhiều trải nghiệm hơn anh, hẳn nhiên."

Rowley thì thầm đáp lại, nhưng Lynn nhạy bén nhìn lên.

Có một điều gì đó - ẩn sau tông giọng đều đều ấy.

Anh cũng đáp trả lại cái nhìn của Lynn, gương mặt không biểu lộ cảm xúc. Lynn chợt nhớ ra, từ trước nay cô không thể biết được chính xác Rowley nghĩ gì.

Thật là một thế giới đảo lộn, Lynn nghĩ thế. Trước đây thường là đàn ông ra trận, còn đàn bà sẽ ở lại trông nhà. Còn bây giờ vị trí lại đảo ngược.

Giữa hai người đàn ông, Rowley và Johnnie, một người bắt buộc phải ở lại trông chừng trang trại. Họ đã tung đồng xu và Johnnie Vavasour là người phải ra đi.

Cậu ấy đã chết gần như ngay sau đó - ở Na Uy. Suốt những năm chiến tranh Rowley không hề rời xa khỏi nơi ở của mình quá một hay hai dặm.

Còn Lynn, cô đã đi qua Ai Cập, Bắc Phi, rồi Sicily. Cô đã nằm dưới lửa đạn hơn một lần.

Một bên là Lynn Con-người-chiến-tranh, còn một bên là Rowley Con-người-tại-gia.

Lynn bỗng thắc mắc, liệu anh có để ý không...

Cô đưa ra một nụ cười bối rối.

"Có vài việc đôi khi có vẻ ngược ngạo, nhỉ?"

"Ô, không hẳn đâu." Rowley nhìn đăm đăm ra phía ngoài vùng nông thôn. "Điều đó còn tuỳ."

"Rowley," cô ngập ngừng, "Anh có để tâm - ý em là - Johnnie -"

Ánh mắt lạnh lùng của anh ném về phía cô.

"Đừng lôi Johnnie vào đây! Chiến tranh kết thúc rồi - và anh đã gặp may."

"May mắn, ý anh là -" cô ngập ngừng - "không phải đi - đi lính?"

"Vận may tuyệt vời, em không thấy vậy à?"

Cô không biết phải tiếp nhận câu đó như thế nào.

Giọng anh tuy êm ái nhưng lại đầy gai nhọn.

Anh nói thêm với một nụ cười, "Lẽ dĩ nhiên, mấy cô gái quân nhân như em chắc không muốn ổn định ở một chỗ đâu ha."

Cô nói gắt gỏng, "Đừng có ngu ngốc thế, Rowley."

(Nhưng tại sao lại bực bội? Có lẽ nào - những lời nói đó của anh đã chạm trúng chỗ nào trong tâm trí.)

"À thì," Rowley nói, "Anh nghĩ là chúng ta nên tính đến chuyện kết hôn đi nhỉ. Trừ phi em muốn đổi ý?"

"Dĩ nhiên là em không đổi ý rồi. Làm sao được chứ?"

Anh nói mơ hồ:

"Ai biết được."

"Ý anh là anh nghĩ em -" Lynn ngừng lại "- thay đổi?"

"Không hẳn."

"Không lẽ anh đã đổi ý?"

"Không, anh không đổi. Nông trại cũng đâu thay đổi nhiều lắm, em thấy đó."

"Vậy được rồi," Lynn nói - trong nhận thức, bằng cách nào đó, chống lại bầu không khí dâng cao này, "hãy làm đám cưới thôi. Anh muốn khi nào?"

"Tháng sáu hay gần đó?"

"Vâng."

Họ rơi vào im lặng. Nó đã được quyết định. Dù trong thâm tâm, Lynn cảm thấy vô cùng buồn bực.

Nhưng Rowley vẫn là Rowley - như trước nay vẫn thế. Đáng mến, không bộc lộ cảm xúc, luôn đưa ra những nhận xét như thể chúng không quan trọng.

Họ quí nhau. Họ đã luôn luôn yêu quí nhau. Họ không thường xuyên nói về tình cảm của mình cho lắm - nên làm sao họ có thể bắt đầu bây giờ?

Họ sẽ kết hôn vào tháng sáu và sống ở Long Willows (một cái tên đẹp, cô luôn nghĩ thế) và cô sẽ không bao giờ đi đâu nữa. Rời đi, đó là, theo cách nào đó là những từ luôn ở trong cô. Sự phấn khích của các tấm ván gỗ được kéo lên, cuộc đua về cánh quạt của một con tàu, sự hồi hộp khi một chiếc máy bay bay lên không trung và bay vút lên trên mặt đất bên dưới. Xem một đường bờ biển kỳ lạ hình thành và biến dạng. Mùi của bụi nóng, và parafin, và tỏi - tiếng kêu lách tách của tiếng nước ngoài. Những bông hoa kỳ lạ, trạng nguyên đỏ mọc lên đầy kiêu hãnh từ một khu vườn bụi bặm... Đóng gói, dỡ đồ - tiếp theo đi đâu?

Tất cả điều đó đã kết thúc. Chiến tranh đã kết thúc.

Lynn Marchmont đã trở về. Căn nhà là người thủy thủ, trở về từ biển cả... Nhưng mình không phải là Lynn người đã ra đi đó, Lynn nghĩ.

Cô ngẩng lên và thấy Rowley đang nhìn mình.

Chương 4

Mấy bữa tiệc của dì Kathie vẫn như thế. Chúng có dư vị nghiệp dư khá ngột ngạt thể hiện đặc trưng tính cách của vị chủ nhà. Bác sĩ Cloade toả ra một bầu không khí khó khăn trong việc kiềm nén sự khó chịu của mình. Ông luôn lịch sự với khách của mình - nhưng họ ý thức được phép lịch sự của ông là một nỗ lực.

Xét về diện mạo Lionel Cloade hoàn toàn khác với ông anh Jeremy. Ông có vẻ gầy gò với mái tóc xám - nhưng ông không có sự điềm đạm như của người anh luật sư. Phong cách của ông là lỗ mãng và thiếu kiên nhẫn - và sự cáu kỉnh lo lắng của ông khi đối mặt với nhiều bệnh nhân của mình đã khiến họ bỏ qua việc nhìn nhận kĩ năng và lòng tốt thực sự của ông. Hứng thú thực sự của ông nằm trong nghiên cứu và sở thích của ông là việc sử dụng dược liệu đã có trong suốt lịch sử. Ông có một tư duy thực tế và thấy khó mà kiên nhẫn với những điều mơ hồ của vợ.

Dù Lynn và Rowley luôn gọi bà Jeremy Cloade là "Frances", bà Lionel Cloade vẫn được gọi là "dì Kathie". Họ quí bà nhưng luôn nghĩ bà khá kì quặc.

Cái "bữa tiệc" này, được sắp xếp một cách phô trương để chào đón Lynn trở về, chỉ đơn thuần là công việc gia đình.

Dì Kathie tiếp đứa cháu của mình một cách trìu mến:

"Cháu trông thật tuyệt và rám nắng, cháu yêu. Ta đoán là ở Ai Cập. Cháu đã đọc quyển sách mà ta gửi về những kim tự tháp tiên tri chưa? Nó thật thú vị. Giải thích về tất cả mọi thứ, nhỉ?"

Lynn được thoát khỏi việc trả lời bằng sự xuất hiện của bà Gordon Cloade và anh của bà David.

"Đây là cháu tôi, Lynn Marchmont, Rosaleen."

Lynn đánh giá goá phụ của Gordon Cloade với sự tò mò được che giấu.

Phải, cô ấy rất xinh, người phụ nữ đã cưới Gordon Cloade vì tiền của ông.

Và Rowley đã nói đúng, cô ấy có vẻ ngoài ngây thơ. Tóc đen, thả lượn sóng, cặp mắt Ai-Len xanh biếc sâu thẳm - đôi môi hơi hé mở.

Phần còn lại của cô chủ yếu là sự xa xỉ. Đầm, trang sức, móng được cắt giũa, áo choàng lông. Dáng người khá tốt, nhưng cô thực sự không biết mặc quần áo đắt tiền. Không thể mặc chúng như Lynn Marchmont có thể đã mặc chúng, cho dù có nửa cơ hội! (Nhưng cô sẽ không bao giờ có cơ hội, một giọng nói trong não cô lên tiếng.)

"Hân hạnh," Rosaleen Cloade nói.

Cô ngập ngừng quay đầu về người đàn ông đứng sau mình.

Cô giới thiệu: "Đây - đây là anh tôi."

"Hân hạnh được gặp." David Hunter lên tiếng.

Anh ta là một chàng trai trẻ gầy gò với mái tóc đen và đôi mắt đen. Khuôn mặt anh ta trông không vui, đầy khiêu khích và hơi xấc xược.

Lynn nhận ra ngay lập tức tại sao toàn bộ người nhà Cloade đều không ưa anh ta. Cô đã gặp kiểu người đàn ông như vậy ở nước ngoài. Những người đàn ông liều lĩnh và hơi nguy hiểm. Loại đàn ông mà bạn không thể phụ thuộc vào. Những người đàn ông tự đưa ra luật lệ của riêng họ và làm đảo lộn vũ trụ. Những người đàn ông đánh giá cú đẩy của họ được tính bằng vàng - và người đã lái C.O.s của họ để đánh lạc hướng ra khỏi đường bắn!

Lynn trò chuyện xã giao với Rosaleen:

"Cô thấy cuộc sống ở Furrowbank thế nào?"

"Tôi nghĩ đó là căn nhà tuyệt vời." Rosaleen đáp.

David Hunter khẽ cười chế nhạo.

"Gordon già nua tội nghiệp đã làm rất tốt," anh ta nói, "không có chi phí dư thừa nào cả."

Điều đó hoàn toàn là sự thật. Khi Gordon quyết định định cư ở Warmsley Vale - hay đúng hơn là quyết định dành một phần nhỏ cuộc sống bận rộn của mình ở đó, ông đã chọn xây dựng. Ông ta là một người theo chủ nghĩa cá nhân quá quan tâm đến một ngôi nhà thấm đẫm lịch sử của người khác.

Ông đã thuê một kiến trúc sư trẻ hiện đại và cho anh ta tự do thiết kế. Một nửa Warmsley nghĩ rằng Furrowbank là một ngôi nhà khủng khiếp, họ không thích màu trắng thừa thãi của nó, phần nội thất kèm theo, cửa trượt và bàn ghế kính. Phần duy nhất mà họ thực sự ngưỡng mộ hết lòng là phòng tắm.

Có một sự kinh hãi trong câu "Một căn nhà tuyệt vời," của Rosaleen. Nụ cười của David khiến cô bối rối.

"Cô là lính hải quân xuất ngũ, đúng không?" David hỏi Lynn.

"Vâng."

Đôi mắt của anh ta lướt qua cô như đang đánh giá - và vì lí do nào đó cô bỗng đỏ mặt.

Dì Kathie đột ngột xuất hiện lại.

Bà ấy có bí quyết để như hiện ra từ không khí. Có lẽ bà đã nắm được mánh khóe của nó từ những sự kiện tâm linh mà bà tham dự.

"Bữa ăn," dì nói, có vẻ hụt hơi, rồi thêm vào, như để bổ sung, "Ta nghĩ có lẽ tốt hơn nên gọi nó là bữa tối. Đừng nên trông mong gì quá. Mọi thứ có vẻ khó khăn, phải không? Mary Lewis nói với dì là nó phải hối lội người bán cá mười shilling mấy tuần trước. Thật vô đạo đức."

Bác sĩ Lionel Cloade đang trưng ra nụ cười căng thẳng khó chịu của ông khi nói chuyện với Frances Cloade.

"Ôi, thôi mà Frances," ông nói, "Chị sẽ không trông đợi là em sẽ tin chị thật sự nghĩ thế đâu - vào trong thôi."

Họ đi vào căn phòng ăn trông tồi tàn và khá xấu xí. Jeremy và Frances, Lionel và Katherine, Adela, Lynn và Rowley. Một bữa tiệc gia đình của nhà Cloade - với hai người ngoài. Đối với Rosaleen Cloade, mặc dù cô mang cái tên đó, nhưng lại không trở thành một Cloade như Frances và Katherine.

Cô là người xa lạ, không tự nhiên, hồi hộp.

Còn David - David là kẻ ngoài vòng pháp luật.

Do sự cần thiết, nhưng cũng bởi sự lựa chọn, Lynn đã suy nghĩ những điều này khi cô ngồi vào bàn.

Cảm giác có những làn sóng trong không khí - một sóng điện mạnh mẽ của - cái gì nhỉ? Căm ghét? Có đúng là nó không? Thứ mà kết quả nói chung là - sự huỷ diệt.

Lynn chợt nghĩ: "Nhưng đó là vấn đề ở khắp mọi nơi. Mình đã nhận thấy nó kể từ khi về nhà. Đó là hậu quả chiến tranh đã để lại. Ý nghĩ tiêu cực. Cảm giác tiêu cực. Nó ở khắp mọi nơi. Trên tàu điện rồi xe buýt rồi các cửa hàng và trong các nhân viên văn phòng và thậm chí cả lao động nông nghiệp. Và mình thì cho rằng nó tồi tệ hơn trong các khu mỏ và nhà máy. Ý nghĩ tiêu cực. Nhưng ở đây còn hơn thế nữa. Ở đây nó rất cụ thể. Nó mạnh mẽ."

Cô bàng hoàng nghĩ, "Chúng ta ghét họ đến vậy sao? Những người lạ mặt đã lấy đi những gì vốn thuộc về chúng ta?"

Rồi là - "Không, không hẳn. Có thể - nhưng chưa đâu. Không, chính họ mới ghét chúng ta."

Dường như nó là một phát hiện quá lớn đến nỗi cô ngồi im lặng suy nghĩ về nó và quên đi việc nói chuyện với David Hunter, người đang ngồi bên cạnh cô.

Trong chốc lát anh ta hỏi: "Đang nghĩ ra gì à?"

Giọng anh ta khá dễ chịu, hơi thích thú, nhưng cô cảm thấy lương tâm bị tổn thương. Anh ta có thể nghĩ rằng cô đang cố gắng để trở nên xấu tính.

Cô nói: "Xin lỗi. Tôi đang mải nghĩ về tình hình thế giới."

Anh ta nói mát: "Quả là đề tài vô cùng nhàm chán!"

"Vâng, có lẽ. Hiện tại tất cả chúng ta đều rất nghiêm túc làm việc. Và dường như nó cũng không làm được gì nhiều."

"Thông thường ý muốn gây hại lại dễ dàng thực hiện hơn. Chúng ta đã nghĩ ra một vài cải tiến khá thiết thực về mặt đó trong vài năm qua - bao gồm cả cái món tuyệt diệu nọ, bom nguyên tử."

"Đó chính là điều mà tôi đang nghĩ tới - à, ý tôi không phải là bom nguyên tử. Là suy nghĩ tiêu cực. Loại suy nghĩ gây hại."

David bình tĩnh nói:

"Có suy nghĩ xấu là một chuyện - nhưng tôi thấy vấn đề là việc thực hiện nó kìa. Thời Trung cổ họ còn thực hiện nó nhiều hơn nữa."

"Như thế nào cơ?"

"Đại khái như là hắc thuật. Các lời nguyền. Tượng sáp. Mấy câu thần chú có thể che đi mặt trăng. Giết gia súc của hàng xóm nhà họ. Hay giết chính hàng xóm của họ."

"Anh thật sự tin là có cái gọi là hắc thuật á?" Lynn hỏi một cách không thể tin được.

"Có thể là không. Nhưng dù sao thì người ta cũng đã thử. Còn ngày nay, chà -" anh ta nhún vai, "với tất cả những ý tưởng xấu xa trên thế giới này thì cô và gia đình cô cũng đâu thể làm gì Rosaleen và tôi, phải không?"

Lynn xoay đầu lại. Bỗng nhiên cô cảm thấy thú vị với điều này.

"Có vẻ như hơi quá trễ rồi nhỉ," cô đáp lịch sự.

David Hunter mỉm cười. Anh ta trông cũng có vẻ như đang tận hưởng việc này.

"Nghĩa là chúng tôi được an toàn với chiến lợi phẩm của mình hả? À, vậy thì chúng ta đang khá là hòa hợp đấy."

"Và anh thấy thích thú quá nhỉ!"

"Vì có nhiều tiền á? Thế thì cũng đáng thật."

"Không chỉ là về tiền đâu. Ý tôi là về chúng tôi nữa."

"Vì đã loại các người ra? Ừ, có thể. Các người đã khá là tự mãn và kiêu ngạo về đống tiền của lão già ấy nhỉ. Trông chừng nó như thể nó đã thuộc về các người rồi."

Lynn nói:

"Anh nên nhớ là chúng tôi đã được dạy để nghĩ thế trong nhiều năm. Rằng không cần phải dành dụm, không cần nghĩ về tương lai - được khuyến khích làm tất cả những dự án hay kế hoạch mình muốn."

(Cô nghĩ đến Rowley, và trang trại của anh)

"Ngoại trừ. Có một điều, mà các cô chưa được dạy," David thoải mái nói.

"Điều gì?"

"Không có gì là đảm bảo."

"Lynn," dì Katherine kêu lên, rướn người về phía trước từ bên kia bàn ăn, "Một trong những hồn ma bà Lester gọi về là một thầy tế của Vương triều tứ tư. Ông ta kể cho bọn dì nghe những điều tuyệt vời. Dì và cháu cần phải có một cuộc nói chuyện dài đấy, Lynn. Ai Cập, theo dì thấy, đã ảnh hưởng đến cháu về thể chất."

Bác sĩ Cloade nói sắc bén:

"Lynn có những việc khác đáng làm hơn là mấy cái mê tín dị đoan đó."

"Anh thật là thiên vị, Lionel," vợ ông nói.

Lynn mỉm cười với dì - rồi ngồi im lặng với những lời David đã nói lẩn quẩn trong đầu.

"Không có gì là đảm bảo..."

Có những người sống trong một thế giới như vậy - những người mà mọi thứ đối với họ đều nguy hiểm. David Hunter là một người như vậy... Đó không phải là thế giới mà Lynn được nuôi dưỡng - nhưng đó là một thế giới có sức hấp dẫn đối với cô.

Daivd vẫn tiếp tục nói với giọng thích thú:

"Chúng ta vẫn tiếp tục câu chuyện chứ?"

"Ồ, vâng."

"Tốt. Vậy cô có còn ác cảm với Rosaleen và tôi khi chúng tôi tiếp cận số tài sản đó?"

"Có," Lynn nói đầy hăng hái.

"Tuyệt vời. Thế cô định làm gì nào?"

"Mua ít sáp ong và luyện hắc thuật."

Anh ta bật cười.

"Không, cô sẽ không làm thế đâu. Cô không phải loại người dựa dẫm vào mấy cách thức cổ lỗ sĩ đó. Cô hẳn là sẽ thực hiện theo kiểu hiện đại và hiệu quả kìa. Nhưng dù vậy thì cũng không thắng được đâu."

"Điều gì khiến anh nghĩ rằng là một cuộc chiến vậy? Chẳng phải chúng tôi đã chấp nhận điều không thể tránh khỏi sao?"

"Tất cả các người đều hành xử quá xuất sắc. Thật là thú vị."

"Tại sao," Lynn hỏi, giọng nhỏ xuống, "Anh lại ghét chúng tôi?"

Có gì đó thấp thoáng trong đôi mắt đen khó dò của anh ta.

"Tôi không thể nói cho cô hiểu được đâu."

"Tôi nghĩ anh có thể đấy," Lynn nói.

David im lặng khoảng một hay hai phút, rồi sau đó anh ta lên tiếng một cách nhẹ nhàng:

"Tại sao cô lại quyết định lấy Rowley Cloade? Hắn ta là một kẻ vô dụng."

Cô gay gắt đáp:

"Anh không biết gì về điều đó - hay về anh ấy. Anh không thể hiểu được đâu."

David hỏi dù chả có sự thay đổi gì về bầu không khí trong cuộc đối thoại:

"Cô nghĩ sao về Rosaleen?"

"Cô ấy rất đáng yêu."

"Còn gì nữa?"

"Có vẻ như cô ấy không hào hứng cho lắm."

"Gần như thế," David nói, "Rosaleen có hơi ngờ nghệch. Nó sợ hãi. Nó vẫn luôn hay sợ hãi. Nó dễ bị cuốn vào mọi thứ rồi không biết tất cả những gì về nó. Tôi có nên kể về Rosaleen cho cô không?"

"Nếu anh muốn," Lynn trả lời lịch sự.

"Chắc chắn rồi. Nó bắt đầu từ việc con bé hứng thú làm diễn viên và bị lôi kéo lên sân khấu. Nó cũng không giỏi đâu, dĩ nhiên. Rồi nó vướng vào một công ty du lịch hạng ba đang chuẩn bị đi Nam Phi. Con bé thích cái nơi Nam Phi ấy. Công ty ấy bị giữ lại ở Cape Town. Sau đó nó lại kết hôn với một quan chức chính phủ ở Nigeria. Nó không thích Nigeria - mà tôi nghĩ con bé cũng không thích chồng của nó lắm. Nếu anh ta là kẻ bê tha nhậu nhẹt và đánh đập nó, thì mọi chuyện đã ổn. Nhưng anh ta lại là một thành phần trí thức có nguyên một cái thư viện lớn giữa nơi đồng hoang và thích nói chuyện siêu hình học. Thế là con bé lại vòng trở về Cape Town lần nữa. Anh chàng đó cư xử rất tốt và cho nó một khoản trợ cấp đầy đủ. Anh ta có thể đã cho con bé đơn ly hôn, mà rồi lại không vì anh ta là người Công giáo, nhưng dù sao may mắn hơn là anh ta đã chết vì sốt, và Rosaleen có một khoản tiền cấp dưỡng nho nhỏ. Rồi chiến tranh nổ ra và con bé chạy lên con tàu hướng về Nam Mỹ. Nó không hợp với Nam Mỹ lắm, nên nó lại nhảy lên con tàu khác rồi gặp Gordon Cloade ở đó và kể cho ông ta nghe về cuộc đời hẩm hiu của mình. Thế là họ kết hôn ở New York và sống hạnh phúc trong hai tuần lễ, không lâu sau ông ta bị giết bởi một quả bom và con bé được để lại một căn nhà lớn, rất nhiều trang sức đắt tiền, và nguồn thu nhập to lớn."

"Thật vui là câu chuyện kết thúc có hậu," Lynn nói.

"Phải," David Hunter trả lời, "Dù không sở hữu trí thông minh, Rosaleen vẫn luôn là đứa may mắn - điều đó cũng tốt. Gordon Cloade là một ông già mạnh mẽ. Ông ta đã sáu mươi hai. Đáng lí ông ta đã có thể sống thêm hai mươi năm nữa. Thậm chí lâu hơn thế. Điều đó cũng không hẳn là tốt đối với Rosaleen, đúng không? Con bé mới hai mươi tư khi lập gia đình. Giờ nó cũng chỉ hai mươi sáu."

"Cô ấy trông còn trẻ hơn thế," Lynn bảo.

David nhìn qua phía bàn ăn. Rosaleen Cloade đang bẻ vụn bánh mì. Cô ấy trông như một đứa trẻ nhút nhát.

"Phải," David nói sâu xa, "đúng nhỉ. Tôi đồ rằng nó hoàn toàn không có suy nghĩ gì."

"Tội nghiệp," Lynn bỗng nói.

David cau mày.

"Sao lại tỏ ra thương cảm như vậy?" Anh ta nói sắc bén. "Tôi sẽ là người chăm sóc cho Rosaleen."

"Tôi chắc là anh sẽ."

Anh ta cau có.

"Bất cứ ai cố gắng hạ bệ Rosaleen đều phải bước qua tôi! Và tôi biết rất nhiều cách để gây chiến - một số trong số đó có thể không hoàn toàn chính thống."

"Bây giờ tôi phải nghe đến tiểu sử của anh à?" Lynn lạnh lùng hỏi.

"Nó là một phiên bản rút gọn đấy," anh ta cười. "Khi chiến tranh bùng nổ tôi thấy không có lí do gì để chiến đấu cho nước Anh cả. Tôi là người Ai-Len. Nhưng như những người Ai-Len khác, tôi thích đánh nhau. Mấy vị chỉ huy có một niềm đam mê không thể cưỡng lại đối với tôi. Tôi đã có thời gian vui vẻ nhưng không may tôi bị đánh gục với một vết thương ở chân. Sau đó tôi đến Canada và làm việc huấn luyện mấy tay ở đó. Ngay khi tôi đang cảm thấy vô vị thì tôi nhận được cuộc gọi của Rosaleen từ New York nói rằng nó đã kết hôn! Nó không nói thẳng rằng đó là một đám rất hời, nhưng tôi khá nhạy bén về mấy việc này. Tôi bay sang đó, gửi lời chúc phúc đến cặp đôi hạnh phúc, và trở về London cùng họ. Sau đó thì -" anh ta mỉm cười xấc xược với cô - "Ngôi nhà là thủy thủ, trở về từ biển cả. Đó là cô! Và nhà Hunter đã trở về từ nơi xa. Chuyện gì thế?"

"Không có gì," Lynn nói.

Cô đứng lên cùng những người khác. Khi họ đi vào phòng khách, Rowley nói với cô: "Em có vẻ thân thiết với David Hunter nhỉ. Hai người đã nói gì thế?"

"Không có gì đặc biệt," Lynn trả lời.

Chương 5

"David, chừng nào thì chúng ta sẽ trở về London? Khi nào chúng ta sẽ đi Mỹ?"

Từ phía bên kia bàn ăn, David Hunter quẳng cho Rosaleen ánh nhìn kinh ngạc.

"Đâu có gì phải vội, đúng không? Nơi này có gì không tốt?"

Anh ta đưa ra một cái nhìn nhanh chóng quanh căn phòng nơi họ đang ăn sáng.

Furrowbank được xây dựng bên sườn đồi và từ cửa sổ, người ta có một bức tranh toàn cảnh về vùng quê nước Anh như đang say ngủ. Trên sườn dốc của bãi cỏ, hàng ngàn hoa thủy tiên đã được trồng. Bây giờ chúng đã gần hết, nhưng một dãy hoa vàng vẫn còn.

Bóp vụn bánh mì nướng trên đĩa của mình, Rosaleen lẩm bẩm:

"Anh nói mình sẽ đi Mỹ - lập tức. Ngay khi chúng ta xoay sở được."

"Phải - nhưng thật ra mọi chuyện không dễ giải quyết đến thế. Luôn có ưu tiên trước sau. Cả em và anh đều không có bất kì lí do hợp lí nào để đưa ra. Mọi thứ luôn khó khăn sau chiến tranh."

Anh ta cảm thấy hơi khó chịu với chính mình khi nói xong câu đó. Những lí do anh ta đưa ra, mặc dù đủ chính đáng, nhưng đều có vẻ như đang biện hộ. Anh ta tự hỏi liệu chúng cũng nghe như thế đối với cô gái ngồi đối diện. Và tại sao con bé đột nhiên muốn đi Mỹ đến thế?

Rosaleen lẩm bẩm: "Anh nói chúng ta chỉ ở đây một thời gian. Anh đâu có nhắc gì đến việc sống ở đây."

"Có gì không tốt ở Warmleys Vale - và Furrowbank nữa? Coi nào?"

"Không có. Chỉ là họ - tất cả bọn họ."

"Nhà Cloade?"

"Vâng."

"Đấy chính là điều anh muốn nói đấy," David nói, "Anh thích nhìn những gương mặt tự mãn của bọn họ bị gặm nhấm bởi ganh tị và ác ý. Em không thể tước đi niềm vui đó của anh được, Rosaleen."

Cô trả lời giọng bối rối:

"Em ước gì anh đã không nghĩ như thế. Em không thích điều này."

"Tươi tắn lên nào, bé con. Chúng ta đã bị xoay vòng đủ rồi, cả anh và em. Nhà Cloade đã có một cuộc sống thật dễ chịu. Dựa dẫm vào ông anh Gordon. Một bọn bọ chét kí sinh. Anh ghét loại người như bọn họ - luôn luôn ghét."

Cô ngỡ ngàng:

"Em không thích ghét một ai cả. Điều đó thật xấu xa."

"Em không nghĩ là họ ghét em à? Có bao giờ em thấy họ đối xử tốt với em không - kiểu thân thiện ấy?"

Cô nói nghi hoặc:

"Họ không hẳn không tốt. Họ không làm hại gì đến em cả."

"Nhưng họ muốn lắm đấy, nhóc con. Bọn họ rất muốn." Anh ta cười vang. "Nếu không phải vì bọn họ không có gan trốn tội, có khi em sẽ thấy mình bị đâm sau lưng lúc nào không biết đấy."

Rosaleen run người.

"Đừng có nói những điều xúi quẩy ấy."

"À - có thể không hẳn là dao. Strychnine bỏ trong súp chẳng hạn."

Cô nhìn anh ta trân trối, khóe môi run rẩy.

"Anh đang nói giỡn..."

Anh ta trở nên nghiêm túc.

"Đừng lo, Rosaleen. Anh sẽ trông chừng em. Bọn họ phải đối phó với anh trước đã."

Cô nói, lắp bắp câu chữ, "Nếu đúng như anh nói - là họ ghét chúng ta - ghét em - sao mình không trở lại London? Chúng ta sẽ an toàn ở đó - thoát khỏi bọn họ."

"Cuộc sống ở nông thôn rất hợp với em, em gái. Em biết là em sẽ trở bệnh khi ở London mà."

"Đó là khi có những trái bom ở đó - bom đấy." Cô run rẩy, mắt nhắm chặt. "Em sẽ không bao giờ quên được - không bao giờ..."

"Em sẽ quên." Anh ta nhẹ nhàng nắm lấy bờ vai cô, khẽ lay. "Tỉnh lại đi, Rosaleen. Em đã bị sốc dữ dội, nhưng mọi chuyện đã qua rồi. Không còn quả bom nào nữa. Đừng nghĩ về nó. Đừng nhớ về nó. Bác sĩ đã bảo là không khí và cuộc sống ở thôn quê rất tốt cho em. Đấy là lí do vì sao anh không muốn em trở về London."

"Có đúng là lí do đấy không? Hả, David? Em đã nghĩ - có lẽ -"

"Em đã nghĩ gì?"

Rosaleen từ tốn trả lời:

"Em nghĩ là vì cô ấy nên anh mới muốn ở lại đây..."

"Cô ấy?"

"Anh biết em nói ai mà. Cô gái hôm nọ ấy. Người từng phục vụ trong hải quân."

Gương mặt anh ta bỗng trở nên đen lại và nghiêm nghị.

"Lynn? Lynn Marchmont?"

"Cô ấy rất đặc biệt với anh, David."

"Lynn Marchmont? Cô ấy là người phụ nữ của Rowley. Cái gã chỉ biết ru rú trong nhà Rowley đấy. Hắn chỉ như con bò mộng đẹp mã chậm chạp ngốc nghếch."

"Em đã thấy anh nói chuyện với cô ấy hôm trước."

"Ôi, vì Chúa, Rosaleen."

"Anh có gặp lại cô ấy, đúng không?"

"Anh gặp lại cô ấy ở trang trại sáng hôm trước khi đang đi cưỡi ngựa."

"Và anh sẽ còn gặp cô ấy nữa."

"Đương nhiên là anh sẽ còn gặp! Cái chỗ này đâu có lớn. Em không thể bước đi hai bước mà không chạm mặt một người nhà Cloade. Nhưng nếu em nghĩ là anh có ý gì với Lynn Marchmont, thì em nhầm rồi. Cô ta là một người khó chịu đầy kiêu ngạo nói chuyện không có tí văn minh nào trong đầu. Anh hi vọng Rowley có thể hạnh phúc với cô ta. Không, Rosaleen, em à, cô ấy không phải tuýp người của anh."

Cô nghi ngờ hỏi, "Anh chắc chứ, David?"

"Đương nhiên là chắc."

Cô rụt rè nói:

"Em biết là anh không thích em xem những lá bài... Nhưng chúng đều đúng đấy, tất cả mọi thứ. Có một cô gái mang đến rắc rối và đau khổ - một cô gái đến từ biển cả. Sẽ có một kẻ lạ mặt hắc ám nữa sẽ xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta, đem nguy hiểm theo cùng hắn. Có một lá bài tử, và -"

"Em và mấy kẻ lạ mặt hắc ám!" David cười. "Em đúng là người mê tín quá đấy. Vậy thì chớ có dây vào tên lạ mặt hắc ám nào, đó là lời khuyên cho em đấy."

Anh ta vừa ra khỏi nhà vừa cười, nhưng khi đã đi xa, mặt anh ta đăm chiêu đi rồi anh ta cau mày và thì thầm một mình:

"Thật xui xẻo cho cô, Lynn. Vừa trở về từ nước ngoài đã làm đảo lộn mọi việc rồi."

Vì anh nhận ra rằng ngay lúc này, anh đang cố tình bước qua quãng đường mà anh hy vọng có thể được gặp cô gái mà anh vừa cố tình phủ nhận một cách kịch liệt.

Rosaleen nhìn anh đi băng qua khu vườn và qua cánh cổng nhỏ mở ra lối đi bộ công cộng trên các cánh đồng. Rồi cô đi lên phòng ngủ và nhìn qua quần áo trong tủ quần áo của mình. Cô luôn thích chạm vào và cảm nhận chiếc áo khoác lông chồn mới của mình. Ai mà nghĩ được có một ngày cô có thể sở hữu một chiếc áo khoác như vậy - cô vẫn chưa thể hoàn toàn tiêu hoá được sự thay đổi tuyệt diệu này. Cô đang ở trong phòng ngủ thì người hầu gái đến và nói với cô rằng bà Marchmont đã gọi.

Adela đang ngồi trong phòng khách với đôi môi mím chặt và trái tim bà đập với tốc độ gấp đôi bình thường. Bà đã tự rèn luyện bản thân trong nhiều ngày để đưa ra một lời nài xin giúp đỡ với Rosaleen nhưng bản chất cũ trỗi dậy khiến bà chần chừ đến giờ.

Bà cũng đã hoang mang khi thấy rằng thái độ của Lynn đã thay đổi một cách không thể tin được và giờ đây cô đã quả quyết phản đối việc mẹ mình tìm kiếm sự giải thoát khỏi những lo lắng của bản thân bằng cách hỏi vay tiền góa phụ của Gordon.

Tuy nhiên, một bức thư khác từ Giám đốc Ngân hàng sáng hôm đó đã khiến bà Marchmont quyết định hành động. Bà không thể trì hoãn được nữa. Lynn đã đi ra ngoài sớm, và bà Marchmont đã bắt gặp David Hunter đi dọc theo lối đi bộ - vậy là không còn vật cản nào cả. Bà đặc biệt muốn gặp được Rosaleen một mình, mà không có David, cho rằng Rosaleen khi một mình sẽ đàm phán dễ dàng hơn nhiều.

Mặc dù vậy bà vẫn thấy hồi hộp kinh khủng khi ngồi đợi trong phòng khách đầy nắng, nhưng bà cảm thấy khá hơn khi Rosaleen bước vào với gương mặt mà bà Marchmont luôn nghĩ là "ngơ ngác" thậm chí còn nhiều hơn bình thường.

"Không biết," Adela nghĩ trong đầu, "là vụ nổ khiến cô ta như vậy hay cô ta vẫn luôn thế nhỉ?"

Rosaleen lắp bắp.

"À, c-c-ch-chào buổi sáng. Có việc gì thế? Xin mời ngồi."

"Quả là buổi sáng tốt lành," bà Marchmont hứng khởi nói. "Mấy cây tulip của tôi đã nở hết rồi. Còn cô?"

Cô nhìn bà với ánh mắt trống rỗng.

"Tôi không biết."

Người ta phải làm gì, Adela nghĩ, với một người không nói chuyện làm vườn hay về chó - những cuộc trao đổi thông thường.

Bà nói to, không kiềm được sự chua chát len lỏi trong giọng điệu của mình:

"Dĩ nhiên là cô có nhiều người làm vườn - họ đều lãnh công việc đó rồi."

"Tôi nghĩ là chúng tôi đang thiếu người. Mullard già nói là ông muốn có thêm hai người nữa. Nhưng dường như việc thiếu hụt nguồn lao động đang rất nghiêm trọng."

Câu chữ tuôn ra như một con vẹt tập nói - hay đúng hơn là như một đứa nhỏ lặp lại những gì mà nó nghe được từ người lớn.

Phải rồi, như một đứa trẻ. Adela tự hỏi, liệu đó có phải là điểm thu hút của cô ấy? Có phải đó là điều đã hấp dẫn người doanh nhân cứng đầu đầy tính toán, Gordon Cloade, khiến ông mù quáng trước sự ngu ngốc và xuất thân thấp kém của cô ta? Dù gì đi nữa, không thể chỉ có mỗi nhan sắc được. Đã có nhiều người phụ nữ xinh đẹp hơn thất bại trong việc quyến rũ ông.

Nhưng tính trẻ con, đối với người đàn ông sáu mươi hai, có thể có sức hấp dẫn nào đó. Có thể nào, liệu điều đó, là sự thật - hay chỉ là lớp vỏ bọc - một vỏ bọc đã được trả tiền và trở thành bản năng thứ hai?

Rosaleen mở miệng, "Tôi e là, David đã ra ngoài...", những từ đó đã kéo bà Marchmont trở lại thực tại. David có thể sẽ quay lại. Bây giờ là cơ hội của bà và bà không thể để mất nó được. Từ ngữ bị mắc trong cổ họng nhưng bà vẫn xoay sở để mở lời.

"Tôi tự hỏi là - cô có thể giúp tôi không?"

"Giúp bà?"

Rosaleen trông có vẻ kinh ngạc, không rõ bà đang nói gì.

"Tôi - mọi thứ đang khó khăn - cô thấy đó, cái chết của Gordon ảnh hưởng rất lớn đến tất cả chúng tôi."

"Cô gái khờ khạo ngốc nghếch này," bà nghĩ. "Sao cô cứ nhìn tôi như thế hả? Cô hiểu ý của tôi mà! Cô phải hiểu điều đó chứ. Dù gì thì, cô cũng từng nghèo khó mà..."

Bà ghét Rosaleen ngay giây phút đó. Ghét cô ta bởi vì bà, Adela Marchmont, đang phải ngồi đây và kêu ca về tiền. Bà nghĩ, "Mình không làm được - mình không thể làm được rồi."

Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tất cả những giờ dài suy nghĩ và lo lắng và những kế hoạch mơ hồ lại xuất hiện trong đầu bà.

Bán căn nhà - (Nhưng chuyển đi đâu? Không có bất kỳ ngôi nhà nhỏ nào được rao bán cả trên thị trường - chắc chắn không phải là bất kỳ ngôi nhà giá rẻ nào). Mở nhà trọ - (Nhưng không thể kiếm được người làm - và bà đơn giản là không thể - không thể giải quyết tất cả các công việc nấu nướng và việc nhà. Nếu Lynn giúp đỡ - nhưng Lynn sẽ kết hôn với Rowley). Sống với Rowley và Lynn? (Không, bà sẽ không bao giờ làm điều đó!) Tìm một công việc. Việc gì? Ai muốn nhận một người phụ nữ trung niên mệt mỏi không được đào tạo chứ?

Bà nghe thấy nội tâm mình, chúng đang tranh đấu với nhau vì bà cảm thấy chán ghét chính bản thân mình.

"Ý tôi là tiền," bà nói.

"Tiền?" Rosaleen hỏi.

Cô có vẻ ngạc nhiên một cách thành thực, như thể tiền là thứ cuối cùng cô mong đợi được đề cập đến.

"Tôi đang rút tiền vượt mức tại ngân hàng và tôi nợ các hóa đơn - để sửa chữa nhà - và các loại chi tiêu chưa được thanh toán. Cô thấy đấy, mọi thứ đều giảm một nửa - ý tôi là thu nhập của tôi. Tôi cho rằng đó là thuế. Gordon, như cô thấy thấy, vẫn hay giúp đỡ chúng tôi. Với ngôi nhà, ý tôi là. Anh ấy đã làm tất cả các sửa chữa và mái nhà và sơn và những thứ như thế. Và một khoản phụ cấp định kì. Anh ấy đã gửi vào ngân hàng mỗi quí. Anh ấy luôn nói với tôi là không cần phải lo lắng và tôi đã làm thế. Nghĩa là, lúc anh ấy còn sống thì không sao, nhưng giờ -"

Adela ngừng lại. Bà cảm thấy hổ thẹn - nhưng đồng thời cũng thấy thoải mái. Sau tất cả, điều tệ nhất đã xong. Nếu cô ta muốn từ chối, thì cô ta sẽ từ chối, vậy thôi.

Rosaleen trông có vẻ không thoải mái.

"Ôi trời," cô nói. "Tôi đã không biết. Tôi chưa từng nghĩ... Tôi - à, dĩ nhiên, tôi sẽ hỏi David..."

Nắm chặt hai bên sườn ghế, Adela nói, một cách tuyệt vọng:

"Cô không thể đưa tôi tờ séc hay gì sao - bây giờ ấy..."

"Vâng - vâng, tôi nghĩ là được." Rosaleen, giật mình, đứng phắt dậy, và tiến về cái bàn. Cô lục tìm trong đống hỗn độn đó và cuối cùng lôi ra được một cuốn sổ ghi séc. "Giờ thì - bao nhiêu ạ?"

"Năm - năm trăm bảng thì -"

Giọng Adela vỡ ra.

"Năm trăm bảng à." Rosaleen ngoan ngoãn viết vào.

Như có một gánh nặng được trút khỏi lưng của Adela. Rốt cuộc, thật là dễ dàng! Bà cảm thấy mất tinh thần khi nhận ra rằng nhiều hơn sự biết ơn là cảm giác khinh miệt mờ nhạt đối với chiến thắng dễ dàng của mình! Rosaleen chắc chắn là người đơn giản một cách kì lạ.

Cô gái đứng dậy từ bàn viết và tiến về phía bà. Cô lúng túng chìa tờ séc ra. Sự bối rối dường như hoàn toàn đứng về phía cô.

"Tôi hi vọng việc này sẽ ổn. Tôi thật sự xin lỗi -"

Adela nhận lấy tờ séc. Nét chữ trẻ con xiên xẹo không định hình trên tờ giấy màu hồng. Bà Marchmont. Năm trăm bảng Anh. Rosaleen Cloade.

"Cô thật là tốt, Rosaleen. Cảm ơn."

"Ôi làm ơn - ý tôi là - đáng lí tôi nên nghĩ đến -"

"Thật sự rất tốt, cô gái thân mến."

Với tờ chi phiếu trong túi xách Adela Marchmont cảm thấy như mình đã trở thành một người khác. Cô gái ấy đã thật dễ chịu về việc đó. Sẽ thật là xấu hổ nếu cuộc tra hỏi đó kéo dài hơn. Bà nói tạm biệt và rời đi.

Bà đi ngang qua David trên đường đi, nói "Chào buổi sáng" một cách thích thú và nhanh chóng cất bước đi.

Chương 6

"Người phụ nữ nhà Marchmont đó tới đây làm gì?" David tra hỏi ngay khi vừa bước vào nhà.

"Ôi, David. Bà ấy đang rất rất cần tiền. Em đã không nghĩ đến -"

"Và anh đoán, là em đã đưa cho bà ta."

Anh nhìn cô bất đắc dĩ.

"Em không thể nào ở một mình được rồi, Rosaleen."

"Ôi David, em không thể từ chối. Sau cùng thì -"

"Sau cùng - cái gì? Bao nhiêu?"

Rosaleen thì thầm với tông giọng nhỏ nhất có thể, "Năm trăm bảng."

Cô nhẹ nhõm khi thấy David cười.

"Chỉ như một vết bọ cắn thôi!"

"David à, đó là một số tiền lớn đấy."

"Không phải với chúng ta hiện tại, Rosaleen. Có vẻ như em vẫn chưa nhận thức được mình là người phụ nữ giàu có thế nào. Cũng như bà ta hỏi xin năm trăm rồi thỏa mãn rời đi chỉ với hai trăm rưỡi. Em hãy học cách hiểu thế nào là vay mượn đi!"

Cô rì rầm, "Em xin lỗi, David."

"Em gái yêu quí! Sau tất cả, đó đều là tiền của em mà."

"Không đâu. Không hẳn vậy."

"Đừng có lại bắt đầu điệp khúc đó nữa đấy. Gordon Cloade đã chết trước khi kịp lập di chúc. Cái đó gọi là chó ngáp phải ruồi. Chúng ta đã thắng, anh và em. Những người còn lại - đều thua cả."

"Điều đó thật sự không - đúng."

"Thôi nào, cô em gái xinh đẹp Rosaleen của anh, em không thấy tận hưởng chút nào sao? Một căn nhà lớn, những người hầu - trang sức? Đây chẳng phải là giấc mơ thành sự thật sao? Đúng không? Chúa giúp chúng ta, có đôi khi anh đã nghĩ mình sẽ tỉnh dậy và phát hiện đây chỉ là một giấc mơ."

Cô cười với anh, và nhìn cô như vậy, anh cảm thấy hài lòng. Anh biết làm thế nào để đối phó với Rosaleen của mình. Anh đã nghĩ, thật bất tiện khi cho rằng cô nên có lương tâm, nhưng nó đã ở đó.

"Nó thật đúng đấy, David, như một giấc mơ vậy - hoặc đại loại như trên mấy bức tranh. Em cũng rất thích cảm giác này. Thật sự."

"Nhưng ta phải biết giữ thứ của mình," Anh cảnh báo. "Đừng đưa tặng gì cho nhà Cloade nữa, Rosaleen. Tất cả bọn họ đều có nhiều tiền hơn những gì mà anh và em từng có."

"Vâng, em cho là vậy."

"Sáng nay Lynn đã ở đâu vậy?" Anh hỏi.

"Em nghĩ là cô ấy đến Long Willows."

Đến Long Willows - để gặp Rowley - cái kẻ chậm chạp - tên vụng về đó! Khiếu hài hước của anh bay mất. Vậy là cô xác định cưới cái gã đó rồi nhỉ?

Anh trầm mặc đi ra khỏi nhà, qua những cây đỗ quyên ồ ạt và qua cánh cổng nhỏ trên đỉnh đồi. Từ đó có lối đi bộ xuống đồi đến trang trại của Rowley.

Khi David đứng đó, anh thấy Lynn Marchmont đi ra từ trang trại. Anh hơi ngập ngừng một chút, sau đó cắn răng đi xuống con dốc để gặp cô. Họ chạm mặt nhau ở ngay cái cọc giữa lưng chừng đồi.

"Chào buổi sáng," David lên tiếng. "Khi nào thì đám cưới diễn ra?"

"Anh đã hỏi câu đó rồi," Lynn đáp trả. "Anh cũng đã biết. Vào tháng Sáu."

"Cô định cưới thật à?"

"Tôi không hiểu ý anh, David."

"Có, cô biết đấy." Anh tuôn ra tràng cười khinh miệt. "Rowley. Rowley là cái thá gì?"

"Một người đàn ông tốt hơn anh - anh dám động vào anh ấy xem." Lynn hờ hững nói.

"Tôi không nghi ngờ gì hắn ta là một người tốt hơn tôi - nhưng tôi dám đấy. Anh có thể thách thức mọi thứ vì em, Lynn"

Cô rơi vào im lặng khoảng một lúc. Cuối cùng cô nói:

"Anh không hiểu là tôi yêu Rowley à."

"Thật vậy à."

Cô nhấn mạnh kịch liệt:

"Tôi chắc chắn đấy. Tôi yêu anh ấy."

Anh nhìn cô thăm dò.

"Chúng ta luôn mường tượng ra viễn cảnh của mình - về con người mà chúng ta muốn trở thành. Em cảm thấy bản thân mình yêu Rowley, kết hôn với Rowley, bằng lòng chung sống ở đây cùng Rowley, không bao giờ muốn rời đi nữa. Nhưng đó không phải con người thật của em, đúng không, Lynn?"

"Ôi, con người thật của tôi cái gì? Nếu thế thì con người thật của anh thì sao? Anh muốn gì?"

"Anh có thể sẽ nói rằng mình muốn an toàn, bình yên sau cơn bão, ổn định sau cơn biến động. Nhưng anh không biết. Có đôi khi anh nghi ngờ là, cả anh và em, Lynn, chúng ta muốn - rắc rối." Anh thêm vào đầy tâm trạng, "Anh ước gì em đã không xuất hiện ở đây. Anh đã rất hạnh phúc cho tới khi em đến."

"Bây giờ anh không hạnh phúc sao?"

Anh nhìn cô. Cô cảm thấy sự phấn khích dâng trào trong mình. Hơi thở của cô trở nên nhanh hơn. Chưa bao giờ cô cảm thấy tâm trạng u sầu của David lại gây hấp dẫn mạnh mẽ đến thế. Anh đưa tay ra, nắm lấy vai cô, xoay tròn.

Rồi đột nhiên cô cảm thấy tay anh chùng xuống. Anh đang nhìn chằm chằm qua vai cô lên phía đồi. Cô quay đầu lại để xem thứ gì đã thu hút sự chú ý của anh.

Một người phụ nữ vừa bước qua cánh cổng nhỏ lên Furrowbank. David lên giọng hỏi "Đó là ai?"

Lynn đáp:

"Trông có vẻ như là Frances."

"Frances?" Anh cau mày.

"Frances muốn làm gì nhỉ?"

"Lynn yêu quí! Chỉ có những ai muốn một thứ gì đó mới ghé thăm Rosaleen thôi. Mẹ của em vừa có chuyến viếng thăm vào sáng nay đấy."

"Mẹ á?" Lynn lùi lại. Cô nhíu mày. "Bà muốn thứ gì?"

"Em không biết à? Tiền!"

"Tiền?" Cô cứng người lại.

"Bà ấy đã có được nó," David nói. Anh ta đang đang nở nụ cười lạnh lùng tàn nhẫn rất hợp với khuôn mặt của mình.

Họ đã ở rất gần nhau vài phút trước, giờ thì họ như cách xa cả dặm, bị chia cắt bởi một sự đối lặp mạnh mẽ.

Lynn rên lên, "Ôi, không, không, không!"

Anh nhại lại cô.

"Có, có, có!"

"Thật không tin được! Bao nhiêu tiền?"

"Năm trăm bảng."

Cô hít một ngụm khí.

David thích thú trả lời:

"Anh tự hỏi lần này Frances sẽ đòi bao nhiêu đây? Thật không yên tâm khi để Rosaleen một mình dù chỉ năm phút mà! Con bé khốn khổ không biết làm thế nào để từ chối."

"Từ lúc đó - còn ai nữa?"

David cười châm biếm.

"Dì Kathie đang phải gánh chịu một số khoản nợ nhất định - ồ, không có gì nhiều, chỉ có hai trăm năm mươi bảng hết thảy thôi - nhưng bà sợ nó có thể đến tai vị bác sĩ! Vì họ đã được thanh toán một khoản kha khá, ông ta có thể sẽ không đồng ý. Dĩ nhiên, bà không biết là," David nói thêm, "rằng chính ông bác sĩ đã tự mình hỏi một khoản vay."

Lynn thấp giọng nói, "Anh sẽ nghĩ gì về chúng tôi - anh sẽ nghĩ gì về chúng tôi!"

Và rồi, trong sự kinh ngạc của anh, cô xoay người chạy trối chết xuống đồi hướng đến trang trại.

Anh cau mày khi nhìn cô đi. Cô sẽ đến với Rowley, bay đến đó như một chú chim bồ câu đang bay về tổ, và sự thật đó ảnh hưởng đến anh nhiều hơn mức anh có thể thừa nhận.

Anh nhìn lên ngọn đồi lần nữa và nhăn mặt.

"Không, Frances," anh thì thầm. "Tôi không nghĩ vậy đâu. Bà đã chọn một ngày rất tệ đấy." và anh rảo bước thẳng lên đồi.

Anh ta đi qua cổng và xuyên qua vườn hoa đỗ quyên - băng qua bãi cỏ, và lặng lẽ đi ngang cửa sổ phòng khách ngay lúc Frances Cloade đang nói:

"- tôi ước gì mình có thể nói rõ hơn. Nhưng cô thấy đó, Rosaleen. Nó thật sự rất khó khăn để giải thích -"

Một giọng nói phía sau bà trả lời:

"Thật vậy sao?"

Frances Cloade quay ngoắt lại. Không như Adela Marchmont bà không cố tình tìm Rosaleen nói chuyện một mình. Số tiền bà cần có quá lớn để Rosaleen có thể chấp nhận mà không phải bàn bạc với anh trai của cô.

Thực ra thì, Frances cảm thấy thà là cứ thảo luận việc này với cả David và Rosaleen, còn hơn là để David nghĩ rằng bà cố tình muốn lừa tiền của Rosaleen khi anh ta đang vắng nhà.

Bà không nghe thấy anh ta đi qua cửa sổ, khi đang mải mê trình bày lí do cho trường hợp của mình. Sự gián đoạn làm bà giật mình và bà cũng nhận ra rằng David Hunter, vì lí do nào đó, đang trong một tâm trạng đặc biệt khó ở.

"Ôi, David," bà nhanh nhẹn nói, "Tôi mừng là cậu đã tới. Tôi chỉ đang vừa nói chuyện với Rosaleen. Sự ra đi của Gordon đã khiến cho Jeremy rơi vào khó khăn vô tận, và tôi tự hỏi không biết là cô ấy có thể ra tay cứu trợ được không. Nó là thế này -"

Bà giải thích rất trôi chảy - số tiền lớn liên quan - sự ủng hộ của Gordon - lời hứa qua miệng - hạn chế của chính phủ - thế chấp -

Có một sự ngưỡng mộ nhất định khuấy động trong góc tối nơi tâm trí David. Thật là một kẻ nói dối tốt đến chết tiệt, người phụ nữ này! Toàn bộ câu chuyện thật quá phù hợp. Nhưng không phải sự thật. Không, anh có thể thề với điều đó. Không phải sự thật! Điều gì, anh tự hỏi, là sự thật? Jeremy bị cuốn vào khó khăn tài chính à? Đó chắc hẳn là một điều gì đó khá nghiêm trọng, nếu ông ta cho phép Frances đến và thử trò lừa đảo này. Bà ấy cũng là một người phụ nữ kiêu ngạo -

Anh nói: "Mười ngàn?"

Rosaleen lẩm nhẩm bằng giọng điệu kinh hãi:

"Đó là một số tiền rất lớn đấy."

Frances nói nhanh chóng:

"Ô, tôi biết chứ. Tôi cũng sẽ không đến nhờ hai người nếu đó không phải là một khoản vay quá lớn. Jerremy sẽ không rơi vào hoàn cảnh này nếu như không có sự thúc đẩy của Gordon. Thật là hết sức không may khi Gordon lại ra đi đột ngột như vậy -"

"Và bỏ rơi các người một thân một mình à?" Giọng David không mấy dễ chịu. "Sau cái cuộc sống được chở che dưới đôi cánh của ông ấy."

Có một tia sáng mờ nhạt loé lên trong mắt Frances khi bà nói:

"Cậu đã tô vẽ mọi thứ hơi quá đấy!"

"Rosaleen không thể động vào phần vốn gốc được, bà biết đấy. Chỉ có phần lợi tức thôi. Và nó phải trả mười chín và sáu bảng Anh thuế thu nhập nữa."

"Ôi, tôi hiểu. Thuế má dạo này thật là khủng khiếp. Nhưng mà vẫn có thể xoay sở được đúng không? Tôi sẽ hoàn lại -"

Anh cắt ngang:

"Hẳn là có thể xoay sở được. Nhưng nó sẽ không xảy ra đâu!"

Frances quay sang Rosaleen:

"Rosaleen, cô là một người tốt -"

David lên tiếng đánh gãy lời nói của bà.

"Nhà Cloade các người nghĩ Rosaleen là gì vậy - bò sữa à? Trước mặt nó thì tất cả các người ám chỉ, hỏi han, van xin. Còn sau lưng nó thì sao? Khinh bỉ nó, phán xét, oán giận, căm ghét nó, ước gì nó chết đi -"

"Không phải như thế," Frances rên lên.

"Vậy ư? Nói cho bà biết tôi đã chán ngấy các người rồi! Con bé đã chán ngấy các người rồi. Các người sẽ không nhận một xu nào từ chúng tôi đâu, vậy nên đừng có tiếp tục đến đây và kêu ca nữa? Hiểu chưa?"

Mặt của anh đen đi vì giận dữ.

Frances đứng dậy. Khuôn mặt bà như khúc gỗ và vô cảm. Bà lơ đãng đeo găng tay da đã được giặt sạch, nhưng với sự chú ý, như thể đó là một hành động quan trọng mang ý nào đó.

"Cậu đã đưa ra quan điểm của mình khá rõ ràng, David," bà nói.

Rosaleen lẩm bẩm:

"Tôi xin lỗi. Tôi thật sự xin lỗi..."

Frances không để ý đến cô ấy. Như thể Rosaleen không có mặt trong căn phòng.

Bà bước một bước lên trước cửa sổ và ngừng lại, đối mặt với David.

"Cậu đã nói là tôi oán giận Rosaleen. Điều đó không đúng. Tôi không oán giận Rosaleen - nhưng tôi có giận - chính cậu!"

"Ý bà là gì?"

Anh cau mặt với bà.

"Phụ nữ phải sống. Rosaleen đã lấy một người đàn ông rất giàu có, lớn tuổi hơn cô rất nhiều. Tại sao không chứ? Nhưng cậu! Cậu sống dựa vào em gái mình, dựa trên mảnh đất màu mỡ này, sống một cách nhẹ nhàng - nhờ cô ấy."

"Tôi đứng giữa nó và những kẻ tham lam."

Họ đứng nhìn nhau. Anh nhận thức được sự tức giận của bà và ý nghĩ thoáng qua anh rằng Frances Cloade là một kẻ thù nguy hiểm, một kẻ có thể vừa vô đạo đức vừa liều lĩnh.

Khi bà mở miệng nói, anh thậm chí còn cảm thấy e ngại. Nhưng những gì bà ấy nói chỉ là một câu không mấy phổ biến.

"Tôi sẽ nhớ những gì mà cậu đã nói, David."

Ngang qua anh, bà rời khỏi bệ cửa sổ.

Không hiểu sao anh có cảm giác rất mạnh mẽ rằng lời nói đó chính là một lời đe doạ.

Rosaleen đang khóc.

"Ôi, David, David - lẽ ra anh không nên nói như thế với bà ấy. Bà ấy là một trong số những người đối xử với em tốt nhất."

Anh giận dữ nói: "Im đi, đồ đần. Em muốn bọn họ chà đạp lên em và bắt em vắt từng xu một ra à?"

"Nhưng số tiền ấy - nếu - nếu nó không phải thuộc về em -"

Cô run rẩy trước ánh mắt của anh.

"Em - em không có ý đó, David."

"Anh mong là không."

Lương tâm, anh nghĩ, mới chính là quỷ!

Anh ta đã không nghĩ đến thứ gọi là lương tâm của Rosaleen. Nó sẽ làm cho mọi thứ trở nên khó xử trong tương lai.

Tương lai? Anh cau mày khi nhìn cô và để suy nghĩ chạy trong tâm trí. Tương lai của Rosaleen... Của anh... Anh vẫn luôn luôn biết mình muốn gì... Anh đã biết... Nhưng còn Rosaleen? Có tương lai nào dành cho Rosaleen?

Khi gương mặt của anh tối lại, cô khóc lên - bất chợ rùng mình:

"Ôi! Có ai đó đang bước qua mộ của em."

Anh nhìn cô thắc mắc:

"Vậy là em đã nhận ra sẽ có chuyện đó à?"

"Ý anh là gì, David?"

"Ý anh là có năm - sáu - bảy người có đủ lí do để tiễn em xuống mồ trước khi em có thể sống thọ ở đây!"

"Anh đừng nói là - ám sát -" Giọng của cô đầy kinh hoảng. "Anh nghĩ là những người này sẽ ra tay giết người à - không phải những người tốt như nhà Cloade."

"Anh không chắc là không chỉ những người tốt như nhà Cloade sẽ ra tay giết người. Nhưng bọn họ sẽ không thể giết được em nếu như có anh ở đây bảo vệ. Họ sẽ phải giải quyết anh trước. Mà nếu như họ có thể xử lí được anh rồi - chà - em tự bảo trọng!"

"David - đừng nói điềm gở như vậy."

"Nghe này," Anh siết chặt tay cô. "Nếu như có lúc nào anh không ở bên, em hãy tự chăm sóc chính mình, Rosaleen. Cuộc sống này không an toàn đâu, nhớ đấy - nó rất nguy hiểm, nguy hiểm một cách chết tiệt. Và anh có cảm giác là nó đặc biệt nguy hiểm với em."

Chương 7

"Rowley, anh có thể cho em mượn năm trăm bảng được không?"

Rowley nhìn Lynn chăm chăm. Cô đứng đó, hụt hơi vì chạy, mặt tái đi, miệng đanh lại.

Anh nói nhẹ nhàng như thể đang trò chuyện với ngựa của mình:

"Nào, nào, bình tĩnh, cô gái. Có chuyện gì thế?"

"Em muốn năm trăm bảng Anh."

"Nếu có anh đã xài cho mình rồi."

"Nhưng Rowley, chuyện này nghiêm túc đấy. Anh không thể cho em mượn năm trăm bảng à?"

"Anh đang bị thâm hụt rồi. Cái xe kéo mới đấy -"

"Vâng, vâng -" cô bỏ ngoài tai mấy chi tiết về nông trại. "Nhưng anh vẫn có thể kiếm ra tiền - nếu anh phải làm thế, đúng không?"

"Em muốn nó để làm gì, Lynn? Em đang bị kẹt nợ à?"

"Em muốn nó cho anh ta -" cô hất đầu ra phía sau hướng về căn nhà vuông to ở trên đồi.

"Hunter? Làm sao mà -"

"Là mẹ. Bà ấy mượn tiền từ anh ta. Bà - bà ấy đang mắc kẹt chuyện tiền nong."

"Ừ, anh đoán là vậy." Rowley nói cảm thông. "Quả là con đường khó khăn chết tiệt với bà ấy. Anh ước là mình có thể giúp ích chút gì đó - nhưng anh không thể."

"Em không thể chịu được việc mượn tiền từ David."

"Chậm đã, cô gái. Chính Rosaleen mới là người phải trích tiền ra đấy chứ. Mà dù sao thì, tại sao không?"

"Tại sao không á? Anh nói là "tại sao không" hả, Rowley?"

"Anh không thấy lí do vì sao Rosaleen không thể thỉnh thoảng ra tay cứu giúp cả. Gordon già đã đẩy chúng ta vào tình thế này khi ra đi mà không để lại di chúc. Nếu như vai trò được xác định giao cho Rosaleen thì bản thân cô ta phải biết rằng việc hỗ trợ chúng ta là điều nên làm."

"Anh vẫn chưa mượn tiền cô ấy à?"

"Không - chà - cái đó khác. Anh không thể cứ đến và mượn tiền một người phụ nữ được. Kiểu như có một số điều em cảm thấy không thích làm vậy."

"Chẳng lẽ anh không thấy là em không muốn mang - mắc nợ David Hunter sao?"

"Nhưng em đâu có. Nó không phải là tiền của anh ta."

"Thật ra thì, nó vốn là như vậy đấy. Rosaleen hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của anh ta."

"À, anh chắn hẳn là vậy rồi. Nhưng trên pháp luật thì nó không phải."

"Và anh sẽ không, anh không thể - cho em mượn tiền à?"

"Nghe này, Lynn - nếu như em thật sự túng thiếu - bị tống tiền hay thiếu nợ gì đó - anh có thể bán vài mảnh đất hay đàn gia súc - nhưng đó sẽ là một việc rất tuyệt vọng đấy. Anh chỉ đang cố giữ cho mình có thể có đường lui. Và với việc không biết cái Chính phủ này sẽ làm gì tiếp theo - bị cản trở ở mọi ngã rẽ - có đôi khi thậm chí còn có tuyết rơi đầy đến nửa đêm - nó quá mức chịu đựng đối với một người đàn ông."

Lynn cay đắng nói:

"Ôi, em biết! Nếu như Johnnie không bị giết -"

Anh la lớn:

"Đừng lôi Johnnie vào đây! Đừng nói về nó nữa!"

Cô nhìn anh chằm chằm, đầy kinh ngạc. Mặt anh đỏ lên và như bị sung huyết. Anh dường như mất đi lí trí với cơn thịnh nộ.

Lynn quay đi và chầm chậm trở về White House.

"Mẹ không thể trả nó lại sao?"

"Ôi, Lynn yêu dấu! Mẹ đã mang nó đến thẳng ngân hàng rồi. Và rồi mẹ đã trả cho Arthurs và Bodgham và Knebworth. Knebworth đang trở nên khá là cộc cằn đấy. Ôi, con à, thật là nhẹ nhõm! Mẹ đã không thể ngủ yên trong nhiều ngày rồi. Thật đấy, Rosaleen quả thật rất thấu hiểu và có lòng về việc đó."

Lynn cay đắng nói:

"Và con đồ rằng mẹ vẫn sẽ tiếp tục đến đó nữa nhỉ."

"Mẹ hy vọng là sẽ không cần thiết nữa, con à. Mẹ sẽ cố gắng tiết kiệm hơn, con biết mà. Nhưng dĩ nhiên mọi thứ gần đây thật đắt đỏ. Và nó càng ngày càng tệ hơn."

"Phải, và chúng ta cũng sẽ càng ngày càng tệ hơn. Trong việc đi xin xỏ."

Adela đỏ mặt.

"Mẹ không nghĩ đó là cách nói thích hợp đâu, Lynn. Như mẹ đã giải thích cho Rosaleen, chúng ta vẫn luôn dựa dẫm vào Gordon."

"Nhưng chúng ta không nên. Đó là vấn đề đấy, chúng ta không nên làm thế." Lynn thêm vào, "Anh ta đã đúng khi căm ghét chúng ta."

"Ai ghét chúng ta?"

"Tên David Hunter đáng ghét đó."

"Thật là," bà Marchmont nói một cách trịnh trọng, "mẹ thấy việc David Hunter nghĩ gì là chuyện không đáng quan tâm nhất ở đây. May mắn là hắn ta không ở Furrowbank vào sáng nay - nếu không mẹ dám khẳng định hắn ta sẽ gây ảnh hưởng đến Rosaleen. Cô ấy hoàn toàn chịu sự kiểm soát của hắn, hiển nhiên."

Lynn chuyển cái nhìn từ chân này sang chân khác.

"Ý của mẹ là gì, khi mẹ nói - vào buổi sáng đầu tiên con về nhà - 'nếu cậu ta là anh cô ấy' đấy?"

"A, cái đó," bà Marchmont trông hơi xấu hổ. "Chà, đã có một vài tin đồn lan ra mà, con thấy đấy."

Lynn chỉ ở đó chờ đợi. Bà Marchmont đằng hắng.

"Loại phụ nữ trẻ như vậy - dạng phụ nữ táo bạo ấy (dĩ nhiên Gordon tội nghiệp đã hoàn toàn bị cho vào tròng) bọn họ thường có một - à, người đàn ông trẻ trung nào đó đằng sau lưng đấy. Giả sử như cô ấy nói với Gordon là đó là anh trai mình - liên lạc với anh ta ở Canada hay bất cứ nơi quái quỉ nào đó. Có một người bỗng xuất hiện. Làm sao Gordon biết được đó có đúng là anh trai cô ta hay không? Gordon đáng thương, hoàn toàn không nghi ngờ gì cả, và tin vào mọi điều cô gái nói. Và người 'anh trai' này cùng đến Anh với họ - Gordon tội nghiệp chẳng có lấy một lời thắc mắc."

Lynn giận dữ nói:

"Con không tin đâu. Con không tin đâu!"

Bà Marchmont nhướn mày.

"Ôi chà, con yêu -"

"Anh ấy không phải như vậy. Và cô ấy - cô ấy cũng không. Có lẽ cô ấy là một kẻ ngốc, nhưng cô ấy rất đáng yêu - phải, rất đáng yêu. Đó chỉ là suy nghĩ xấu xa của người khác. Con chắc chắn với mẹ, con không tin điều ấy."

Bà Marchmont nghiêm trang nói:

"Đâu cần phải hét lên như thế"

Chương 8

Phải đến một tuần sau đó khi chuyến tàu 5.20 đến ga Warmsley Health và có một người đàn ông cao to với nước da màu đồng bước ra với chiếc ba lô.

Trên sân ga đối diện, một nhóm người chơi gôn đang đợi để lên tàu. Người đàn ông cao có râu với chiếc ba lô đã bỏ vé và đi ra khỏi nhà ga.

Anh ta đứng đó lưỡng lự trong một hoặc hai phút - sau đó anh ta nhìn thấy biển chỉ dẫn: Lối đi bộ đến Warmsley Vale - bước chân của anh ta hướng đến đó với quyết tâm nhanh chóng.

Tại Long Willow Rowley Cloade vừa mới pha xong cho mình một tách trà thì một chiếc bóng rơi xuống bàn bếp khiến anh ngẩng đầu lên.

Nếu chỉ trong một khoảnh khắc anh nghĩ cô gái đứng ngay bên trong cánh cửa là Lynn, thì sự thất vọng của anh chuyển sang ngạc nhiên khi anh thấy đó là Rosaleen Cloade.

Cô ta đang mặc một chiếc áo dài bằng chất liệu dân gian với các sọc màu cam và xanh lá cây rộng - sự đơn giản đó lại tốn nhiều tiền hơn con số mà Rowley có thể tưởng tượng được.

Cho đến bây giờ, anh luôn thấy cô mặc những bộ quần áo đắt tiền và có kiểu hơi thành thị mà trông chúng có phần không hợp với cô - nhiều đến nỗi anh đã nghĩ, trông như một người nộm được đưa ra để trưng bày những chiếc váy không thuộc về cô mà là của công ty đã thuê cô.

Chiều nay trong bộ áo sọc thổ cẩm rộng màu trung tính, anh dường như thấy được một Rosaleen Cloade khác. Đặc điểm gốc Ai-len của cô dễ thấy rõ hơn, tóc xoăn màu sẫm và đôi mắt xanh biếc trong veo. Giọng nói của cô ấy cũng có âm thanh kiểu Ai-len nhẹ nhàng hơn thay vì chất giọng uốn lưỡi mà cô thường dùng.

"Thật là một buổi chiều dễ chịu," cô nói. "Nên tôi định đi dạo."

Cô thêm vào:

"David đã đi London rồi."

Cô nói một cách gần như tội lỗi, rồi đỏ mặt và lấy hộp thuốc lá ra khỏi túi xách.

Cô mời Rowley một điếu, người đã lắc đầu từ chối, sau đó tìm kiếm diêm xung quanh để châm lửa thuốc lá cho Rosaleen. Nhưng cô đang cố gắng mở không thành công một cái bật lửa màu vàng trông rất đắt tiền. Rowley lấy nó từ cô và với một cú chạm nhanh ngọn lửa được bật lên. Khi cô cúi người xuống trước mặt anh để châm thuốc lá anh nhận ra cặp lông mi của cô dài và dày như thế nào khi chúng như phủ trên má cô và anh tự nhủ:

"Gordon già biết mình đang làm gì..."

Rosaleen lùi lại một khoảng cách và nói một cách ngưỡng mộ:

"Anh có một đàn bò cái ấn tượng ở cánh đồng phía trên đấy."

Kinh ngạc về hứng thú của cô, Rowley bắt đầu nói với Rosaleen về nông trại. Sở thích của cô khiến anh ngạc nhiên, nhưng nó rất chân thật chứ không phải giả bộ, khiến anh bất ngờ hơn là cô có vẻ rất hiểu biết về công việc trang trại. Cách làm bơ và những sản phẩm từ sữa được cô nói ra như rất quen thuộc.

"Chà, cô có thể thành vợ của một nông dân được đấy, Rosaleen," Anh cười nói.

Sự sống động chợt tắt trên khuôn mặt cô.

Cô nói:

"Chúng tôi từng có một trang trại - ở Ai-len - trước khi tôi đến đây - trước khi -"

"Trước khi cô trở thành diễn viên?"

Cô nói một cách đăm chiêu và vụn vặt, và anh cảm thấy, cũng có chút tội lỗi:

"Chuyện ấy như xảy ra mới đây mà thôi... Tôi vẫn còn nhớ chúng rất rõ." cô thêm vào với một chút hứng khởi, "Tôi có thể vắt sữa đàn bò cho anh Rowley, ngay bây giờ."

Đây quả là một Rosaleen mới mẻ. Liệu David Hunter có đồng ý cho những đề cập thoải mái liên quan đến một quá khứ làm nông không? Rowley không nghĩ vậy. Hình ảnh mà David muốn thể hiện ra ngoài chính là một quí tộc truyền thống người Ai-len. Phiên bản của Rosaleen, theo anh thấy, gần với thực tế hơn nhiều. Cuộc sống nông trại nguyên bản, sau đó là sự lôi cuốn của sân khấu, công ty lưu diễn đến Nam Phi, hôn nhân - cô lập ở Trung Phi - trốn thoát - ở ẩn - và cuối cùng là kết hôn với một triệu phú ở New York...

Đúng vậy, Rosaleen Hunter đã trải qua một quãng đường dài từ khi còn vắt sữa bò Kerry. Vậy mà khi nhìn vào cô, anh khó lòng tin được là cô còn có khởi đầu như vậy. Gương mặt cô có một vẻ ngây thơ, thể hiện sự vô tư lự, như một tờ giấy trắng không chút nhiễm bụi nào. Và cô còn nhìn rất trẻ - trẻ hơn so với độ tuổi hai mươi sáu của mình.

Có điều gì đó hấp dẫn về cô ấy, cô ấy có kiểu tội nghiệp như những con bê nhỏ mà anh đã chuyển cho người bán thịt sáng hôm đó. Anh nhìn cô như khi anh nhìn chúng. Những con quỷ nhỏ đáng thương, anh đã nghĩ, thật đáng tiếc là chúng phải bị giết ...

Có một ánh nhìn báo động trên mắt Rosaleen. Cô dè dặt hỏi, "Anh đang nghĩ gì vậy, Rowley?"

"Cô có muốn nhìn xung quanh trang trại và khu làm bơ sữa không?"

"Ồ, vâng, tôi muốn chứ."

Thích thú với sự quan tâm của cô, anh đưa cô đi khắp trang trại. Nhưng cuối cùng khi anh đề nghị pha cho cô một tách trà, một biểu hiện hoảng hốt hiện lên trong mắt cô.

"Ôi, không - cảm ơn, Rowley - Tốt nhất là tôi nên về nhà." Cô nhìn xuống đồng hồ. "Ôi trời! Đã muộn thế này! David sẽ trở lại vào chuyến tàu 5.20. Anh ấy sẽ thắc mắc tôi ở đâu. Tôi - tôi phải đi thôi." cô ngượng ngùng thêm vào, "Tôi đã rất vui vẻ, Rowley."

Và anh nghĩ điều đó là thật. Cô đã rất vui vẻ. Cô đã trở nên tự nhiên hơn - trở về là một người không hề có tính toán gì cả. Cô ấy rõ ràng là sợ người anh trai của mình, David. David là người thông thái trong gia đình. Chà, ít ra thì cô cũng có một buổi trưa được ra ngoài - phải, chính là thế, như một người hầu được phép ra ngoài nghỉ trưa vậy.

Phu nhân Gordon Cloade giàu có!

Anh mỉm cười chế giễu khi đứng cạnh cổng nhìn cô vội vã lên đồi về phía Furrowbank. Ngay trước khi cô đến được chỗ cọc đứng, một người đàn ông đã đi qua nó - Rowley tự hỏi liệu đó có phải là David không nhưng đó là một người đàn ông to hơn, nặng hơn. Rosaleen lùi lại để cho anh ta vượt qua, sau đó lướt nhẹ qua cái cọc, tốc độ của cô ấy gần như chạy thục mạng.

Phải, cô đã có một buổi chiều nghỉ ngơi - và anh, Rowley, đã lãng phí hơn một giờ thời gian quí giá! Chà, có lẽ nó đã không bị lãng phí lắm. Rosaleen, anh nghĩ, dường như đã thích anh. Điều đó có thể có ích. Một điều khá hay - đúng vậy, và những con bê sáng nay thật là... những con quỷ nhỏ đáng thương.

Khi đang đứng đó chìm trong suy nghĩ, anh bị giật mình bởi một giọng nói, và ngẩng phắt đầu dậy.

Một người đàn ông to lớn trong chiếc mũ phớt rộng với một gói đeo ngang vai đang đứng trên lối đi bộ ở phía bên kia của cánh cổng.

"Đây là lối đến Warmsley Vale phải không?"

Anh ta lặp lại câu hỏi khi Rowley nhìn chăm chú. Rowley nỗ lực kéo suy nghĩ của mình lại và trả lời:

"Vâng, cứ đi theo hướng này, băng qua cánh đồng tiếp theo. Quẹo qua trái khi anh đến đường cái và anh sẽ đến ngôi làng trong khoảng ba phút."

Chúng đều là những từ anh đã dùng để trả lời cho câu hỏi đặc biệt đó hàng trăm lần. Mọi người hay đi theo lối ra khỏi nhà ga, theo nó lên ngọn đồi và thoái chí khi họ đi xuống phía bên kia và không thấy dấu hiệu nào về đích của họ, vì Blackwell Copse che mờ hướng về Warmsley Vale. Nó được giấu trong một cái thung lũng ở đó chỉ với phần chóp của tháp nhà thờ được nhô ra.

Câu hỏi tiếp theo không thường thấy cho lắm, nhưng anh vẫn trả lời mà không suy nghĩ nhiều.

"Có quán Stag hoặc Bells Và Motley. Stag cũng là một lựa chọn tốt. Chúng đều có điểm tốt xấu như nhau cả. Tôi nghĩ anh có thể dễ dàng kiếm một căn phòng ở đó."

Câu hỏi đó khiến anh quan sát người đối thoại với mình kĩ hơn. Thời buổi bây giờ người ta hay đặt phòng trước khi đến bất kì đâu.

Người đàn ông cao lớn, với khuôn mặt rám nắng, râu ria và đôi mắt rất xanh. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi và không có vẻ ngoài xấu tính theo kiểu cứng rắn mà giống như người thích mạo hiểm liều lĩnh. Nhìn tổng thể mà nói thì cũng không phải gương mặt hiền lành gì cho lắm.

Chắc là đến từ đâu đó ở nước ngoài, Rowley đoán vậy. Trong giọng nói của anh ta không biết có phải là có chút thuộc về nuóc thuộc địa không nhỉ? Điều tò mò là khuôn mặt đó lại có chút quen thuộc... Anh ta đã nhìn thấy khuôn mặt đó ở đâu, hay khuôn mặt rất giống nó trước đây nhỉ?

Trong khi anh đang vắt óc suy nghĩ vấn đề nan giải này, người lạ mặt đó khiến anh giật mình bằng câu hỏi:

"Anh có thể cho tôi biết về căn nhà tên Furrowbank gần đây không?"

Rowley chầm chậm trả lời:

"À, được. Ở phía trên đồi đấy. Có thể là anh đã đi qua nó rồi - ấy là nếu như anh đi dọc theo con đường từ hướng nhà ga."

"Phải, tôi đã làm thế," anh ta xoay người, nhìn lên đồi. "vậy ra là nó, cái căn nhà trắng nhìn mới toanh đó."

"Phải, chính nó đấy."

"Một căn nhà thật lớn để điều hành," anh ta nói.

"Hẳn là phải tốn rất nhiều tiền để lo cho nó?"

Cả gia tài chứ ít gì, Rowley nghĩ thế. Và tiền của chúng tôi nữa... Một cơn giận khuấy động lên làm anh quên mất một lúc mình đang đứng nơi đâu...

Khi định thần lại, anh quay đầu và thấy người lạ mặt nhìn lên ngọn đồi với ánh mắt tràn đầy tò mò.

"Ai sống ở đó thế?" Anh ta hỏi. "Có phải - là phu nhân Cloade?"

"Đúng vậy," Rowley nói, "Phu nhân Gordon Cloade."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#saas