Phần Không Tên 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người lạ đó nhướn một bên mày. Anh ta trông có vẻ khá là thích thú.

"Ô," anh ta nói, "Phu nhân Gordon Cloade à. Thật tốt cho cô ấy!"

Rồi anh ta gật đầu một cái.

"Cảm ơn, anh bạn," anh ta nói, rồi chỉnh lại cái túi mình mang theo và sải bước đến Warmsley Vale.

Rowley chậm rãi trở lại vào trang trại. Tâm trí anh vẫn còn hoang mang về một điều.

Rốt cuộc là anh đã gặp cái gã đó ở đâu mới được?

Khoảng chín giờ ba mươi tối hôm đó, Rowley đẩy ra một đống các loại giấy tờ đang vung vãi trên bàn bếp và đứng dậy. Anh lơ đãng nhìn bức ảnh của Lynn đang đứng trên bệ lò sưởi, rồi anh cau mày và đi ra khỏi nhà.

Mười phút sau, anh đẩy cánh cửa của quán bar Stag Saloon. Beatrice Lippincott, đang đứng đằng sau quầy bar, mỉm cười chào đón anh. Quí ông Rowley Cloade, theo cô nghĩ, quả là một người đàn ông điển trai.

Với một ly bia trong tay Rowley trao đổi những đối thoại thông thường với những người hiện diện ở đây, bình luận bất lợi được đưa ra về Chính phủ, thời tiết và các loại cây trồng đặc biệt gì đó.

Dần dần, nhích lên một chút, Rowley đã có thể nói chuyện với Beatrice bằng một giọng thì thầm:

"Có người lạ mặt nào ở đây không? Cao to? Mũ cao bồi?"

"Có đấy, anh Rowley. Đến đây vào khoảng sáu giờ. Đó là người anh nói đến phải không?"

Rowley gật đầu.

"Anh ta đi ngang qua tôi. Hỏi đường."

"Đúng vậy. Có vẻ là người ngoài."

"Tôi thắc mắc," Rowley nói, "anh ta là ai nhỉ."

Anh nhìn Beatrice và mỉm cười. Beatrice cười lại:

"Dễ thôi mà, anh Rowley, nếu như anh muốn biết."

Cô chúi xuống dưới quầy bar và trở ra với một quyển sổ da nặng trịch trong đó ghi tên những khách đăng kí ở đây.

Cô mở trang giấy và chỉ ra lượt đăng kí gần nhất. Phần cuối cùng ghi như sau:

Enoch Arden. Cape Town. Người Anh.

Chương 9

Một buổi sáng đẹp trời. Bầy chim đang hót, và Rosaleen cảm thấy rất vui vẻ khi đi xuống lầu ăn sáng trong chiếc váy dân dã đắt tiền của mình.

Những nghi ngờ và sợ hãi đè nén trong cô gần đây dường như đã biến mất. David có tâm trạng rất tốt, cười và trêu chọc cô. Chuyến viếng thăm của anh đến London vào ngày hôm trước có vẻ thuận lợi. Bữa sáng được nấu rất ngon và dọn ra hoàn hảo. Họ vừa dùng bữa xong thì có bưu thiếp đến.

Có khoảng bảy tám lá thư được gửi đến cho Rosaleen. Hoá đơn, công tác từ thiện, vài lời mời dự tiệc trong làng - không có gì đặc biệt.

David gạt một vài tờ hoá đơn nhỏ sang một bên và mở phong bì thứ ba. Phần nội dung, cũng giống như bên ngoài phong thư, được viết bằng chữ in.

Gửi ông Hunter,

Tôi nghĩ tốt hơn hết là nên mở lời với ông hơn em gái ông, "phu nhân Cloade", phòng trường hợp những gì trong lá thư này có thể mang lại cú sốc đối với cô ấy. Tóm gọn lại là, tôi có tin tức từ Đại úy Robert Underhay, mà cô ấy có thể vui lòng được nghe. Tôi đang ở trọ tại Stag và nếu như ông đến đó vào chiều nay, tôi sẽ rất sẵn lòng bàn bạc vấn đề này với ông.

Kính thư,

Enoch Arden.

Có một âm thanh tắc nghẹn phát ra từ cổ họng của David. Rosaleen ngẩng lên mỉm cười, rồi khuôn mặt cô chuyển sang vẻ mặt phòng bị.

"David - Daivd - chuyện gì thế?"

Anh im lặng đưa lá thư cho cô.

Cô cầm lấy nó và đọc.

"Nhưng - David - em không hiểu - thế này là sao?"

"Em biết đọc mà, phải không?"

Cô quẳng anh một cái liếc mắt.

"David - như thế này - chúng ta phải làm sao đây?"

David nhăn mày - đầu óc nhìn xa trông rộng của anh nhanh chóng lên kế hoạch.

"Không có gì, Rosaleen, đừng lo lắng về nó. Anh sẽ giải quyết việc này-"

"Nhưng như thế có phải là -"

"Đừng lo lắng, em gái à. Cứ để cho anh. Nghe này, đây là điều em cần phải làm đây. Thu dọn hành lí ngay lập tức và lên London đi. Đến chỗ căn hộ - và ở đó cho tới khi nghe tin của anh? Hiểu chưa?"

"Vâng, vâng, đương nhiên là em hiểu, nhưng David -"

"Cứ làm theo lời anh, Rosaleen." David nở nụ cười với cô. Anh nhẹ nhàng trấn an. "Lên dọn hành lí đi. Anh sẽ chở em đến nhà ga. Em có thể bắt chuyến 10.32. Nói với người giữ cửa là em không muốn gặp ai hết. Nếu có ai gọi tới hay đòi gặp em, bảo là em đã ra khỏi thành phố rồi. Đưa hắn ta một bảng Anh. Rõ chưa? Hắn không được để ai thấy em ngoài anh hết."

"Ôi." Cô đưa hai tay lên má. Rosaleen nhìn anh với đôi mắt đáng yêu nhuốm sợ hãi.

"Không sao đâu, Rosaleen - nhưng có hơi phức tạp một chút. Mà em thì không giỏi lắm với mấy việc phức tạp này. Đó là điểm chết của anh. Anh muốn em ra khỏi nơi này để anh có thể rảnh tay lo liệu, vậy thôi."

"Em không thể ở lại được sao, David?"

"Không, đương nhiên là không rồi, Rosaleen. Hãy ý thức chút nào. Anh cần được rảnh tay để giải quyết cái kẻ ngoài kia dù hắn ta là ai -"

"Anh có nghĩ là đó là - đó là -"

Anh nhấn mạnh:

"Anh không nghĩ gì bây giờ cả. Điều đầu tiên là phải đưa em ra khỏi đây đã. Vậy thì anh mới tìm hiểu được tình huống của chúng ta. Coi nào - đừng cãi, vậy mới ngoan chứ."

Cô xoay người lại và đi ra khỏi phòng.

David cau mày nhìn bức thư trên tay.

Không nhấn mạnh gì cả - lịch sự - trọng điểm đúng chỗ - có thể mang rất nhiều nghĩa. Có thể chỉ đơn thuần là sự quan tâm trong tình huống khó xử. Hoặc là mối đe dọa được che giấu. Anh ghép các câu chữ lại lần lượt với nhau - "Tôi có tin của Đại úy Robert Underhay..." "Tốt nhất là liên hệ ông..." "Tôi sẽ rất sẵn lòng bàn bạc vấn đề này với ông ..." "Phu nhân Cloade". Anh nhìn vào chữ kí. Enoch Arden. Có cái gì đó nảy ra trong tâm trí anh - kí ức về thơ ca... một dòng thơ.

Khi David đi vào sảnh của Stag chiều hôm đó, như mọi khi, chẳng có mấy người ở đây. Cánh cửa bên trái đánh dấu phòng Cà phê, cánh cửa bên phải đánh dấu phòng nghỉ. Một cánh cửa xa hơn được đánh dấu đè lên "Chỉ dành cho khách trọ". Có một hướng đi phía bên phải dẫn đến quầy bar, từ nơi đó có thể nghe thấy những giọng nói rì rầm. Một phòng nhỏ bọc kính được dán nhãn lễ tân và có chuông đẩy được đặt thuận tiện ở bên cạnh cửa sổ trượt của nó.

Đôi khi, theo như kinh nghiệm của David, bạn phải gọi bốn hoặc năm lần trước khi bất kỳ ai xuất hiện và nhận yêu cầu của bạn. Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn vào giờ dùng bữa, hội trường của Stag vắng tanh không khác gì hòn đảo của Robinson Crusoe.

Lần này, tiếng chuông lần thứ ba của David đã đưa cô Beatrice Lippencott tới từ dọc theo lối đi phía quầy bar, tay cô vuốt mái tóc vàng óng của mình vào vị trí. Cô trượt vào hộp kính và chào anh với một nụ cười duyên dáng.

"Chào buổi tối, anh Hunter. Thời tiết khoảng thời gian này lạnh thật nhỉ?"

"Vâng - tôi cũng thấy thế. Ở đây có ai tên Arden trọ lại không?"

"Để tôi xem nào," Lippincott nói, làm ra vẻ như mình không rõ lắm, đây là cách cô ta hay làm để làm nâng cao tầm quan trọng của Stag. "Ồ, vâng. Ngài Enoch Arden. Phòng số 5. Ở lầu một. Anh không thể bỏ lỡ nó được đâu, anh Hunter. Lên cầu thang, nhưng đừng dọc theo hành lang mà vòng qua trái và đi xuống ba bước."

Làm theo lời chỉ dẫn loằng ngoằng đó, David gõ cửa phòng số 5 và một giọng nói phát ra, "Mời vào."

Anh bước vào, đóng cánh cửa phía sau lại.

Đi ra khỏi lễ tân, Beatrice Lippincott gọi, "Lily." Một cô gái với điệu cười như giọng mũi và đôi mắt màu mận gai nhạt đáp lại lời gọi.

"Em có thể trực một lát không, Lily? Chị định đi xem mấy ga giường."

Lily nói, "Ô, được chứ, chị Lippincott," cười khúc khích và thêm vào, với tiếng thở dài hớn hở: "Em phải công nhận cậu Hunter ấy thật là đẹp trai, chị thấy vậy không?"

"À, chị đã thấy loại người như anh ta vào thời chiến nhiều rồi," Lippincott nói, với bầu không khí mệt mỏi. "Những gã phi công trẻ hay tương tự vậy từ trại lính. Không bao giờ đảm bảo về tiền của mình. Họ thường có cách riêng khiến chúng ta điêu đứng và quẳng đi lí trí của bản thân. Đương nhiên, chị buồn cười thế đấy Lily, cái chị thích là phong độ. Nó luôn khiến chị thấy đẳng cấp. Ý chị là một quí ông sẽ luôn là quí ông dù anh ta có lái một chiếc xe kéo đi nữa."

Với lời tuyên bố bí ẩn như vậy, Beatrice để Lily lại và đi lên cầu thang.

Phía trong căn phòng số 5, David Hunter ngừng lại sau cánh cửa và nhìn người đàn ông đã xưng tên mình là Enoch Arden.

Khoảng bốn mươi, có hơi sõi đời, chính là dạng đã đi qua nhiều nơi trên thế giới, trên tổng thể là một người khó khăn. Đó là kết luận của David. Ngoài ra, có vẻ không dễ ăn đây. Một kẻ khó chơi.

Arden nói:

"Xin chào - anh là Hunter? Tốt. Ngồi đi. Anh muốn gì? Whiskey không?"

Hắn ta có vẻ thoải mái, David để ý vậy. Một số lượng khiêm tốn các loại rượu - lò sưởi đang cháy trong buổi tối mùa xuân lạnh lẽo. Trang phục không phải từ Anh, nhưng lại được mặc đúng kiểu người Anh kinh điển.

Người đàn ông cũng có vẻ đúng tuổi...

"Cảm ơn," David nói, "Cho tôi chút Whiskey."

"Nói khi nào nhé."

"Được rồi. Đừng cho quá nhiều soda."

Bọn họ hơi giống một đàn chó, di động vào vị trí - vòng tròn với nhau, lưng cứng ngắc, đi lòng vòng, sẵn sàng để thân thiện hoặc sẵn sàng để gầm gừ và lao vào nhau.

"Chúc sức khoẻ," Arden nói.

"Chúc sức khoẻ."

Họ đặt ly xuống, hơi thả lỏng. Vòng một đã kết thúc.

Người gọi là Enoch Arden lên tiếng:

"Anh đã ngạc nhiên khi nhận thư của tôi?"

"Thú thật," David nói, "Tôi không hiểu gì cả."

"Kh-không kh-không, chà, chắc là không rồi."

David nói:

"Tôi hiểu là anh biết chồng trước của em tôi - Robert Underhay."

"Đúng vậy, tôi biết Robert rất rõ." Arden mỉm cười, nhả từng ngụm khói vào không khí, "Chắc có lẽ cũng như những ai từng biết cậu ấy. Anh chưa bao giờ gặp cậu ta đúng không, Hunter?"

"Chưa."

"À, chắc là cả điều đó nữa."

"Ý anh là gì?" David đốp chát lại.

Arden từ tốn nói:

"Anh bạn à, nó khiến cho mọi thứ dễ hơn nhiều - chỉ thế thôi. Tôi xin lỗi vì đã gọi anh đến đây, nhưng tôi nghĩ tốt nhất là nên giữ -" hắn ngừng lại - "Rosaleen khỏi chuyện này. Không cần phải đem đến cho cô ấy nỗi đau như vậy."

"Anh có thể nói trọng điểm được chưa?"

"Tất nhiên, tất nhiên. Giờ thì - anh có bao giờ nghi ngờ - nói sao nhỉ - rằng có gì đó - chà - đáng nghi - về cái chết của Underhay chưa?"

"Anh đang nói cái quái gì vậy?"

"Chà, Underhay có những ý tưởng khá kỳ dị, anh biết đấy. Nó có thể là cử chỉ hào hiệp - hoặc có thể chỉ vì một lí do hoàn toàn khác - nhưng giả sử nhé, tại một thời điểm cụ thể nào đó vài năm trước, có mối lợi ích được đưa ra cho cái chết của Underhay. Cậu ấy có tài quản lí người bản xứ - luôn luôn như vậy. Chẳng có gì khó khăn cho cậu ta nếu muốn bịa ra một câu chuyện vòng vo với bất kì chi tiết nào đó cậu ta muốn. Tất cả những gì Underhay phải làm là xuất hiện ở đâu đó cách xa cả ngàn dặm - với một cái tên mới."

"Nghe có vẻ là một giả thiết tuyệt vời đấy," David nói.

"Đúng không? Đúng không?" Arden cười. Hắn rướn người về trước và vỗ đầu gối của David. "Có thấy có khả năng không, Hunter? Sao? Anh thấy sao?"

"Tôi cần bằng chứng thiết thực hơn."

"Vậy á? Chà, dĩ nhiên là không có bằng chứng thực sự thuyết phục rồi. Underhay có thể đã xuất hiện ở đây - tại Warmsley Vale này. Anh thấy bằng chứng này thế nào?"

"Thế thì nó cần xác định cái đã," David khô khan đáp.

"À, phải, xác thực - nhưng sẽ hơi xấu hổ đây - ý tôi là phu nhân Gordon Cloade ấy mà. Bởi vì như vậy, hiển nhiên là cô ấy sẽ không còn là phu nhân Gordon Cloade nữa. Khó xử đấy. Anh phải công nhận là có hơi khó xử nhỉ?"

"Em gái tôi," David nói, "đã tái hôn một cách hợp pháp."

"Dĩ nhiên rồi, anh bạn à. Dĩ nhiên là vậy. Tôi không nghi ngờ gì về điều đó. Bất kì vị thẩm phán nào cũng sẽ nói như thế. Đâu có bất kì tội nào có thể đổ lên cô ấy."

"Thẩm phán?" David gay gắt nói.

Người đối diện nói với vẻ hối lỗi.

"Tôi đang nghĩ đến tội trùng hôn."

"Rốt cuộc anh đang hướng đến điều gì?" David hoàn toàn nổi cơn điên.

"Nào đừng như vậy chứ, chàng trai. Chúng ta cần phải bình tĩnh và suy xét đến hướng giải quyết tốt nhất chứ nhỉ - phải nói là tốt nhất cho em gái của anh. Đâu có ai muốn vết nhơ của mình bị đem ra ngoài ánh sáng chứ. Underhay - chà, Underhay là một anh chàng trượng nghĩa," hắn ngừng lại. "Cậu ấy vẫn thế..."

"Vẫn thế?" David nhạy bén hỏi lại.

"Tôi nói thế mà."

"Anh nói là Robert Underhay còn sống á. Anh ta đang ở đâu?"

Arden ngả người về trước, giọng của hắn trở nên tự tin hơn.

"Anh thực sự muốn biết sao Hunter? Chẳng phải không biết thì tốt hơn sao? Hãy cho là theo những gì anh biết, hay những gì Rosaleen biết, Underhay đã chết ở Châu Phi rồi. Chuyện tốt, và nếu Underhay còn sống, cậu ta lại không biết vợ mình đã tái hôn, cậu ta không biết chút gì cả. Dĩ nhiên nếu mà biết thì cậu ta đã đến đây rồi... Anh thấy đấy, Rosaleen đã thừa hưởng một khoản tiền kếch xù từ người chồng sau. À, đương nhiên là cô ấy không được thụ hưởng số tiền đó đâu... Underhay là một người có tính danh dự cao. Cậu ấy sẽ không muốn vợ mình nhận khoản tiền theo cách gian dối như vậy đâu." Hắn ta dừng lại, "Nhưng tất nhiên cũng có thể là Underhay không biết chút gì về vụ tái hôn của vợ mình cả. Cậu ấy đang rất khổ sở - anh chàng tội nghiệp - rất khổ sở đấy."

"Ý của anh là gì?"

Arden lắc đầu một cách nghiêm trọng.

"Bị bệnh rất nặng. Cậu ấy cần chữa trị - điều trị đặc biệt - mà không may là lại rất tốn kém."

Dòng cuối cùng rơi vào một cách tinh tế như thể nó trở thành một thể loại riêng vậy. Đó là những từ mà David Hunter đã vô thức chờ đợi.

Anh nói:

"Mắc tiền à?"

"Phải - không may là mọi thứ đều cần đến tiền. Underhay khốn khổ đã gần như cạn kiệt rồi." Hắn thêm vào, "Cậu ấy hầu như chẳng còn lại gì ngoài lí tưởng của mình."

Trong chốc lát mắt David lang thang khắp căn phòng. Anh chú ý thấy cái túi đeo mắc trên ghế. Không có chiếc vali nào xung quanh.

"Tôi hơi nghi ngờ," David nói, giọng không được thân thiện lắm, "Robert Underhay mà anh đã mô tả liệu có đúng là một quí ông hào hiệp như vậy không."

"Cậu ấy đã từng," đối phương khẳng định, "Nhưng mà cuộc sống có thể khiến cho người ta trở nên đa nghi." Hắn ta ngừng một chút rồi nhẹ nhàng thêm vào, "Gordon Cloade là một người cực giàu có. Sự giàu có quá mức thường hay khiến cho lòng tham của một người trỗi dậy."

David Hunter đứng bật dậy.

"Tao có câu trả lời cho mày đây. Cút xuống địa ngục đi."

Arden vẫn mỉm cười, không chút nao núng.

"À, tôi biết anh sẽ nói thế mà."

"Mày là tên tống tiền khốn kiếp, không hơn không kém. Tao thấy mày chỉ đang bịp bợm thôi."

"Đưa tin mà bị nguyền rủa à? Nỗ lực đáng khen đó. Nhưng mày sẽ không thích khi tao thực sự "đăng tin" đâu. Tao cũng không cần. Nếu mày không chịu, sẽ có người khác giao dịch thôi."

"Có ý gì?"

"Nhà Cloade. Chắc tao sẽ tới chỗ họ. 'Xin lỗi, nhưng các vị có hứng thú muốn nghe tin Robert Underhay quá cố đang còn sống nhăn răng không?' Trời, chắc bọn họ sẽ nhảy cẫng lên mất."

David khinh bỉ:

"Mày chẳng kiếm được gì từ bọn chúng đâu. Toàn là một lũ nghèo túng cả."

"A, nhưng có một thứ gọi là thoả thuận công việc. Sẽ có rất nhiều tiền được đổ ra vào cái ngày mà Underhay được chứng minh là còn sống, rằng phu nhân Gordon Cloade vẫn là phu nhân Robert Underhay, và kết quả là di chúc mà Gordon Cloade lập trước hôn nhân lại có hiệu lực trước pháp luật..."

David ngồi im lặng trong vài phút, rồi anh hỏi thẳng thừng:

"Bao nhiêu?"

Câu trả lời thẳng thừng không kém:

"Hai mươi ngàn."

"Không có khả năng! Em gái tôi không thể động vào vốn gốc được, nó chỉ có lợi tức cá nhân."

"Mười ngàn vậy. Cô ấy có thể kiếm nó dễ dàng mà. Còn trang sức nữa phải không?"

David ngồi bất động, rồi đột ngột nói:

"Được rồi."

Trong một khắc hắn ta có vẻ như bị đứng hình. Như thể chiến thắng quá dễ dàng khiến hắn ngạc nhiên.

"Không séc," hắn nói, "phải trả bằng hối phiếu!"

"Anh phải cho chúng tôi thời gian - để gom đủ số tiền."

"Tôi cho các người bốn mươi tám tiếng."

"Thứ Ba tới đi."

"Được rồi. Cậu phải đem tiền tới đây." Hắn thêm vào trước khi David có thể lên tiếng, "Tôi sẽ không gặp cậu ở bụi rậm, hay bờ sông trống trải nào đó đâu, nên đừng nghĩ tới điều đó. Mang số tiền đó đến đây - tới Stag - lúc chín giờ tối thứ Ba tuần sau."

"Cũng đa nghi đấy nhỉ?"

"Tôi biết cách làm việc thế nào. Và tôi biết những người như cậu."

"Như anh nói vậy."

David đi ra khỏi phòng và xuống cầu thang. Khuôn mặt đen kịt vì giận dữ.

Beatrice Lippincott đi ra khỏi căn phòng ghi số 4. Có một cánh cửa liên thông giữa 4 và 5, dù vậy chả mấy khách trọ phòng 5 để ý điều này vì có cái tủ quần áo chặn ngay trước cửa.

Má Lippincott hồng lên và đôi mắt thì sáng rực vì niềm phấn khích tột độ.

Cô vuốt lại mái tóc bồng bềnh của mình với bàn tay đang kích động.

Chương 10

Khu Shepherd, Mayfair, là một dãy nhà lớn gồm các căn hộ dịch vụ sang trọng. Dù không bị hư hại nhiều do sự đánh phá nghiêm trọng của kẻ thù, chúng cũng không giữ được chất lượng tiêu chuẩn được đưa ra từ trước chiến tranh.

Ở đó cũng có phục vụ, dù không được tốt cho lắm. Ngày xưa nơi ấy có hai người đứng giữ cửa mặc đồng phục thì giờ chỉ còn lại một. Nhà hàng vẫn phục vụ bữa ăn, nhưng ngoại trừ bữa sáng, thì các bữa còn lại không được đem đến tận nơi nữa.

Căn hộ được thuê bởi phu nhân Gordon Cloade nằm ở tầng thứ ba. Nó bao gồm phòng khách với quầy bar ngay bên trong, hai phòng ngủ với tủ âm tường, và một phòng tắm thiết kế tuyệt vời, sáng bóng bởi sàn gạch và chất chromium.

Trong phòng khách, David Hunter đang sải bước lên xuống trong khi Rosaleen ngồi trên ghế sô pha lớn hình vuông nhìn theo hướng anh. Cô trông tái nhợt và sợ hãi.

"Tống tiền!" Anh lẩm bẩm, "Tống tiền! Chúa ơi, trông anh giống loại người sẽ bị tống tiền lắm sao?"

Cô lắc đầu, mắt mở lớn, bồn chồn.

"Nếu anh biết," anh vẫn nói, "nếu như anh mà biết -"

Có một tiếng nức nở nhẹ đến từ Rosaleen.

Anh tiếp tục:

"Chính là cái hoạt động trong bóng tối như vậy - thủ thuật che mắt -" bỗng dưng anh xoay người lại. "Em đã đem mấy viên ngọc bích tới phố Bond cho lão Greatorex chưa?"

"Vâng."

"Bao nhiêu?"

Giọng của Rosaleen vẫn run rẩy khi cô nói:

"Bốn ngàn. Bốn ngàn bảng. Ông ta nói nếu ta không bán chúng đi thì đã có thể tái bảo hiểm rồi."

"Ừ - đá quí có thể tăng gấp đôi giá trị. Thôi vậy, chúng ta có thể kiếm lại tiền. Nhưng nếu như thế, đó chỉ là khởi đầu thôi - nó nghĩ là chúng ta sẽ bị vắt kiệt tới chết - vắt kiệt đấy, Rosaleen, cho đến tận cùng."

Cô nấc lên:

"Ôi, hãy rời nước Anh đi mà - hãy đi nơi khác xem chúng ta không thể đến Ai-len - Mỹ - hay đâu đó được à?"

Anh quay lại nhìn cô.

"Em không phải người tranh đấu lắm nhỉ, Rosaleen? Vứt bỏ và chạy là tiêu chí của em à."

Cô rên rỉ, "Chúng ta sai rồi - tất cả những điều này đã sai rồi - rất tệ hại."

"Đừng có nói chuyện đạo đức với anh lúc này! Anh không thể chịu được. Chúng ta đang rất tốt đẹp, Rosaleen. Lần đầu tiên trong cuộc đời này anh đang cảm thấy rất tuyệt vời - và anh sẽ không để cho tất cả vuột mất đâu, em nghe không? Nếu như không phải do việc gây sự chết tiệt trong bóng tối này. Em hiểu mà đúng không, tất cả những chuyện này có thể chỉ là bịp bợm - không gì ngoài nói dóc? Underhay giờ này chắc vẫn đang được chôn cất an toàn ở Châu Phi như chúng ta vẫn luôn nghĩ thế."

Cô run rẩy.

"Đừng, David. Anh làm em sợ đấy."

Anh nhìn em gái mình, thấy rõ sự sợ hãi trên mặt cô, anh lập tức thay đổi thái độ. Anh đi đến bên Rosaleen, ngồi xuống, cầm bàn tay lạnh lẽo của cô vào tay mình.

"Em không nên lo lắng," David nói, "Hãy để mọi thứ cho anh - và làm theo những gì anh bảo? Em có thể lo liệu được mà, đúng không? Chỉ cần làm theo anh nói thôi."

"Em luôn vậy mà, David."

Anh cười, "Phải, em luôn thế. Chúng ta sẽ thoát khỏi vụ này, đừng sợ gì cả. Anh sẽ tìm cách ngăn chặn gã Enoch Arden này."

"Chẳng phải có một bài thơ sao, David - nói gì đó về người đàn ông quay trở lại -"

"Ừ," anh chặn ngang cô, "Đó là điều anh lo lắng đây... Anh sẽ tìm hiểu đến cùng chuyện này, đừng sợ gì cả."

Cô nói:

"Có phải vào thứ Ba - anh sẽ đem tiền tới cho hắn?"

David gật đầu.

"Năm ngàn. Anh sẽ nói cho hắn là chúng ta không thể lấy hết một lần được. Nhưng anh phải ngăn hắn đến nhà Cloade. Anh nghĩ đó chỉ là lời đe doạ thôi, nhưng không thể chắc được."

Anh ngừng lại, đôi mắt trở nên mơ màng, xa xăm. Đằng sau đó là những suy nghĩ không ngừng hoạt động, xem xét và loại bỏ các khả năng.

Rồi anh bật cười. Đó là một nụ cười tự hào liều lĩnh. Đầu tiên là những người đó, giờ là đến cái chết, ai có thể ngờ được chứ...

Đó là tiếng cười của một người đàn ông đang chuẩn bị hành động trong một kế hoạch nguy hiểm và may rủi. Có cả sự thích thú và thách thức trong đó.

"Anh có thể tin em, Rosaleen," anh nói, "Cảm ơn trời anh có thể tin tưởng vào em hoàn toàn!"

"Tin em?" Cô ngước đôi mắt to đầy tò mò lên. "Làm gì cơ?"

Anh lại cười, "Làm chính xác những gì em được dặn. Đó là bí mật, Rosaleen, để có một chiến dịch thành công."

Anh bật cười:

"Chiến dịch Enoch Arden."

Chương 11

Rowley mở phong bì màu hoa cà lớn với một sự bất ngờ. Anh tự hỏi là người quái quỉ phương nào lại viết thư cho anh mà sử dụng loại văn phòng phẩm này - và làm thế nào họ có thể xoay sở để có được nó. Những dòng sản phẩm xa xỉ này hẳn đã phải biến mất trong chiến tranh rồi chứ.

"Thân gửi anh Rowley," anh đọc

"Tôi hy vọng anh sẽ không nghĩ rằng tôi đã tự ý quyết định viết thư cho anh theo cách này, nhưng nếu anh có thể bỏ qua cho tôi, tôi nghĩ có những điều đang diễn ra mà anh nên biết."

Anh nhìn dòng gạch dưới với vẻ mờ mịt.

"Liên quan đến cuộc trò chuyện của chúng ta vào tối hôm trước khi anh đến hỏi về một người nào đó. Nếu anh có thể đến Stag, tôi sẽ rất vui mừng kể cho anh tất cả về nó. Tất cả chúng tôi ở đây đều cảm thấy hụt hẫng ra sao về sự ra đi của bác anh và tiền của ông trở thành thế này."

"Hi vọng anh sẽ không tức giận, nhưng tôi thực sự nghĩ rằng anh nên biết điều này.

"Trân trọng,

"Beatrice Lippincott."

Rowley nhìn chằm chằm lá thư, tâm trí anh xoay mòng trong suy nghĩ. Cái quái quỉ gì đây? Cô Bee này. Anh đã biết Beatrice cả đời mình. Mua thuốc lá từ cửa hàng của bố cô và dành thời gian chơi với cô phía sau quầy. Cô ấy là một cô gái rất dễ mến. Anh còn nhớ lúc còn nhỏ có một lời đồn về cô khi cô vắng mặt ở Warmsley Vale. Cô đã rời đi khoảng một năm và mọi người đều nói rằng Beatrice đã trốn đi để sinh con ngoài giá thú. Có thể đúng, cũng có thể sai. Nhưng hiện tại cô là người phụ nữ rất được kính trọng và tinh tế. Dù hơi chỉ trỏ sau lưng và cười khúc khích quá nhiều, nhưng lại hợp tình hợp lí đến đáng sợ.

Rowley liếc nhìn đồng hồ. Anh phải đến Stag ngay bây giờ. Ba cái thứ dài dòng vớ vẩn. Anh muốn biết chuyện mà Beatrice gấp gáp muốn nói cho anh là gì.

Lúc anh đẩy cửa vô quầy bar thì đã hơn tám giờ một chút.

Những lời chào như thường lệ, những cái gật đầu, "Chào buổi tối, thưa anh." Rowley tiến đến bên quầy và gọi một ly Guinness.

Beatrice mỉm cười với anh.

"Thật vui được gặp anh, Rowley."

"Chào buổi tối, Beatrice. Cảm ơn vì lời nhắn."

Cô đánh mắt sang anh.

"Chờ tôi một lát, anh Rowley."

Anh gật đầu - và từ từ uống ly rượu của mình trong khi nhìn Beatrice hoàn tất việc phục vụ. Cô gọi với qua vai và cô bé Lily có mặt để hỗ trợ công việc. Beatrice thì thầm, "Anh có thể theo tôi một lát không, Rowley?"

Cô dẫn anh đi dọc theo một lối đi và qua một cánh cửa được đánh dấu Phòng Riêng. Bên trong nó rất nhỏ và bị quá tải với những chiếc ghế bành sang trọng, một chiếc radio to, rất nhiều đồ trang trí bằng sứ và một con búp bê chú hề trông khá tơi tả bị ném trên lưng ghế.

Beatrice Lippincott tắt chiếc radio và chỉ về cái ghế bành.

"Tôi rất vui vì anh đã đến, Rowley, hi vọng là anh không thấy phiền về lá thư đó - nhưng nó cứ lẩn quẩn trong tâm trí tôi suốt cả cuối tuần rồi - và như đã nói tôi nghĩ anh nên biết về điều đó."

Cô ấy trông rất vui vẻ và trịnh trọng, hẳn nhiên là rất hài lòng về bản thân mình.

Rowley hỏi với một chút tò mò:

"Có chuyện gì thế?"

"Chà, Rowley à, anh biết cái vị đang ở trọ tại đây - Ông Arden, người mà anh đã đến hỏi ấy."

"Vâng?"

"Ngay tối hôm sau anh Hunter đã đến và hỏi về ông ấy."

"Hunter?"

Rowley thích thú ngồi dậy.

"Phải, Rowley, tôi nói phòng số 5, và cậu Hunter ấy gật đầu rồi đi thẳng lên. Phải công nhận là tôi rất bất ngờ, cái vị Arden này không hề nói mình quen biết ai ở Warmsley Vale cả nên tôi cứ cho rằng ông ấy chỉ là một người lạ và không biết một ai hết. Anh Hunter có vẻ rất giận dữ, có vẻ như điều gì đó đã làm phật ý anh ấy nhưng tôi lại chẳng đoán ra được gì cả."

Cô ngừng lại để lấy hơi. Rowley không nói gì cả, chỉ ngồi lắng nghe. Anh không bao giờ hối thúc một ai. Nếu họ muốn từ từ thì anh cũng không có ý kiến.

Beatrice tiếp tục một cách đường hoàng:

"Phải một lúc sau đó tôi mới có dịp đi lên phòng số 4 để kiểm tra khăn và ga giường. Ở bên cạnh phòng số 5 - mà trùng hợp là có một cánh cửa liên thông - thực ra thì từ phòng số 5 anh cũng chẳng biết được vì có tủ đồ to chặn phía trước rồi, nên anh không thể phát hiện ra cái cửa ở đó. Dĩ nhiên là nó luôn được đóng chặt nhưng vào lúc đó nó lại bị hé ra một tí - còn ai là người mở nó ra thì tôi lại không biết, tôi đảm bảo!"

Một lần nữa Rowley vẫn không nói gì hết, chỉ gật đầu thôi.

Anh nghĩ, hẳn Beatrice là người đã mở nó. Cô ấy đã cảm thấy tò mò và quyết định đi đến phòng số 4 xem mình có thể tìm hiểu được gì.

"Và như anh thấy đấy, Rowley, tôi tình cờ nghe được chuyện gì đã xảy ra. Thật đấy, anh không biết tôi ngạc nhiên thế nào đâu -"

Rowley nghĩ, chắc là một sự ngạc nhiên lớn lắm.

Anh lắng nghe, với khuôn mặt không cảm xúc, gần như trì độn, về câu chuyện ngắn gọn của Beatrice đối với cuộc đối thoại mà cô đã nghe được.

Khi Beatrice kết thúc, cô ngồi đó mong đợi.

Phải mất đến vài phút thì Rowley mới thoát khỏi trạng thái nửa tỉnh nửa mê đó. Rồi anh đứng dậy.

"Cảm ơn, Beatrice," anh nói, "Cảm ơn rất nhiều."

Với câu nói đó anh đi thẳng ra khỏi phòng. Beatrice cảm thấy thất vọng. Cô đã thực sự nghĩ, cô tự nhủ, rằng Rowley có thể sẽ nói gì đó.

Chương 12

Khi Rowley rời khỏi Stag, bước chân của anh tự động hướng về phía nhà, nhưng sau khi đi được vài trăm thước, anh rút ngắn lại khoảng cách và lùi bước.

Tâm trí anh tiếp nhận mọi thứ một cách chậm chạp và sự ngạc nhiên lúc đầu của anh đối với những tiết lộ của Beatrice chỉ mới bắt đầu nhường chỗ cho sự đánh giá đúng về tầm quan trọng của vấn đề.

Nếu phiên bản mà Beatrice nghe được là chính xác, và anh không nghi ngờ gì về tính xác thực nó là như vậy, thì một tình huống đã xảy ra có liên quan mật thiết đến mọi thành viên trong gia đình Cloade. Người phù hợp nhất để giải quyết vấn đề này rõ ràng là chú Jeremy của Rowley. Là một luật sư, Jeremy Cloade sẽ biết cách sử dụng tốt nhất có thể mẩu thông tin đáng ngạc nhiên này, và chính xác những gì cần được thực hiện.

Mặc dù Rowley muốn tự mình giải quyết nếu có thể, anh miễn cưỡng nhận ra rằng sẽ tốt hơn nhiều nếu đặt vấn đề này trước một luật sư nhạy bén và giàu kinh nghiệm. Jeremy càng sớm sở hữu thông tin này thì càng tốt, vì lẽ đó Rowley bước thẳng đến nhà của Jeremy ở High Street.

Người giúp việc nhỏ nhắn mở cửa thông báo với anh rằng ông bà Cloade vẫn ở bàn ăn tối. Cô ấy có thể dẫn anh đến đó, nhưng Rowley đã từ chối điều này và nói rằng anh sẽ đợi trong thư phòng của Jeremy cho đến khi họ kết thúc. Anh không đặc biệt muốn lôi kéo Frances vào cuộc thảo luận. Thật vậy, càng ít người biết về nó thì càng tốt, cho đến khi họ có thể xác định được quá trình hành động chắc chắn.

Anh lang thang không ngừng lên xuống trong thư phòng của Jeremy. Trên bàn làm việc phẳng lì là một hộp công văn bằng thiếc có nhãn Ngài William Jessamy Decained. Phía trên kệ chứa một bộ sưu tập sách pháp luật. Có một bức ảnh cũ của Frances trong trang phục dạ hội và một trong bức ảnh cha của cô, Ngài Edward Trenton, trong bộ đồ cưỡi ngựa. Trên bàn là hình ảnh một chàng trai mặc đồng phục - con trai của Jeremy, Antony, người đã hi sinh trong chiến tranh.

Rowley nhăn mặt và quay đi. Thay vào đó, anh ngồi xuống ghế và nhìn chằm chằm vào Ngài Edward Trenton.

Tại phòng ăn Frances hỏi chồng mình:

"Không biết Rowley cần gì nhỉ?"

Jeremy mệt mỏi trả lời:

"Chắc là có việc gì với những quy định của Chính phủ. Không có người nông dân nào có thể hiểu quá một phần tư các mẫu đơn từ họ phải điền. Rowley là một người tận tuỵ. Nó sẽ lo lắng."

"Nó thật tốt," Frances nói, "Nhưng lại quá chậm tiêu. Anh biết không, em cảm thấy hình như chuyện giữa nó với Lynn không được ổn cho lắm."

Jeremy lẩm bẩm vô thức:

"Lynn - ô, dĩ nhiên, chắc thế. Xin lỗi, anh - anh không được tập trung lắm. Sự căng thẳng ấy -"

Frances nói nhanh:

"Đừng nghĩ về nó nữa. Mọi chuyện sẽ ổn thôi, em đảm bảo."

"Có đôi khi em khiến anh thấy sợ đấy, Frances. Em quá liều lĩnh. Em không nhận ra là -"

"Em biết mọi thứ chứ. Em không sợ đâu. Thật đấy, Jeremy, anh biết không, em thậm chí còn thấy thú vị nữa cơ -"

"Đó, em yêu," Jeremy nói, "chính là điều làm anh thấy lo lắng đấy."

Bà mỉm cười.

"Đi nào," bà nói, "Anh không nên để chàng trai dân dã ấy chờ quá lâu đâu. Đi mà giúp cậu ấy điền mẫu đơn một ngàn một trăm và chín mươi chín, hay gì đó đại loại thế."

Nhưng khi họ ra khỏi phòng ăn, cửa trước đóng sầm lại. Edna đến nói với họ rằng Rowley đã bảo rằng cậu ấy sẽ không chờ nữa và đó không phải là vấn đề gì thực sự quan trọng.

Chương 13

Vào buổi trưa thứ Ba đó, Lynn Marchmont đã đi bộ một quãng dài. Ý thức về sự bồn chồn ngày càng tăng và sự bất mãn với bản thân, cô cảm thấy cần phải suy nghĩ mọi chuyện.

Cô đã không gặp Rowley mấy ngày nay. Sau cuộc chia tay có phần dữ dội của họ vào buổi sáng khi cô đã yêu cầu anh cho cô mượn năm trăm bảng họ đã gặp lại nhau như bình thường. Lynn nhận ra rằng nhu cầu của cô thật không hợp lí và Rowley có mọi quyền trong việc từ chối. Tuy nhiên tính hợp lí chưa bao giờ là một chất lượng thu hút giữa những người yêu nhau. Bề ngoài mọi thứ có vẻ bình thường giữa cô và Rowley, bên trong cô không chắc lắm. Vài ngày qua, cô thấy đơn điệu đến khó chịu, nhưng hầu như không muốn thừa nhận với bản thân rằng việc David Hunter đột ngột đến London với em gái có thể có liên quan đến sự đơn điệu của đó. David, cô thừa nhận một cách cay đắng, là một người thú vị...

Về các mối quan hệ của cô, hiện tại cô thấy tất cả đều gắng gượng không chịu nổi.

Mẹ cô đã rất có tinh thần dạo gần đây và đã làm Lynn khó chịu vào bữa trưa ngày hôm đó bằng cách thông báo rằng bà sẽ cố gắng tìm một người làm vườn thứ hai. "Ông Tom thực sự không thể theo kịp với mọi thứ ở đây."

"Nhưng mẹ yêu à, chúng ta không thể lo liệu được đâu," Lynn la lên.

"Vớ vẩn Lynn, mẹ thật sự nghĩ là Gordon sẽ thất vọng ghê lắm nếu anh ấy thấy tình trạng xuống cấp bây giờ của khu vườn. Anh ấy vẫn đặc biệt để ý đến mớ đường viền cây, cỏ luôn được cắt tỉa, còn lối đi phải luôn đâu ra đấy - vậy mà nhìn nó đi. Mẹ nghĩ Gordon sẽ muốn nó được tươm tất như trước."

"Kể cả khi chúng ta phải mượn tiền từ goá phụ của bác ấy để chi trả à."

"Mẹ đã bảo rồi, Lynn, Rosaleen tỏ ra rất dễ chịu về điều ấy. Mẹ nghĩ cô ấy cũng có cái nhìn giống mẹ. Hiện thời mẹ đang có số dư tài khoản khá đẹp sau khi trả hết các hoá đơn. Và thêm một người làm vườn nữa sẽ rất hợp lí. Cứ nghĩ đến số rau củ mà chúng ta có thêm mà xem."

"Chúng ta có thể mua thêm rất nhiều rau củ với cái giá hời hơn phải trả ba bảng cho mỗi tuần."

"Chúng ta có thể kiếm thêm một người rẻ hơn thế mà. Có rất nhiều người kết thúc nghĩa vụ đang kiếm việc làm mà. Trên báo nói vậy đấy."

Lynn khô khan nói, "Con nghi ngờ việc mình có thể thuê được ai ở Warmsley Vale này đấy - hay thậm chí là Warmsley Heath."

Dù cuộc nói chuyện đã bỏ dở như thế, cái chiều hướng mẹ cô trở nên dựa dẫm vào Rosaleen nhiều hơn như một nguồn viện trợ thường xuyên cứ ám ảnh Lynn. Nó khiến cô nhớ lại ký ức về lời nói kháy của David.

Vì vậy, cảm thấy bất mãn và mất bình tĩnh, cô bắt đầu ra ngoài để loại bỏ tâm trạng đen tối của mình.

Cơn giận của cô không khá hơn là bao bởi cuộc gặp với dì Kathie ngoài bưu điện. Dì ấy trông rất phấn chấn.

"Lynn cháu à, dì nghĩ chúng ta sắp có tin tốt rồi."

"Ý dì là sao, Kathie?"

Bà Cloade mỉm cười gật đầu và trông đầy uyên bác.

"Dì vừa có một cuộc trò chuyện đáng kinh ngạc - phải nó là kinh ngạc nhất. Một kết thúc có hậu cho tất cả nỗi lo của chúng ta. Dì gặp thất bại một lần, nhưng sau đó dì nhận được những tin nhắn bảo hãy Thử thử thử lại lần nữa. Nếu không thể thành công lúc đầu vân vân... Dì sẽ không tiết lộ bí mật nào đâu, Lynn, và điều cuối cùng dì muốn làm là tạo ra một hi vọng thiếu thực tế nào đó, nhưng dì có niềm tin mạnh mẽ rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Và rất đúng lúc nữa. Dì rất lo lắng về chú của con. Ông ấy đã làm việc quá vất vả suốt chiến tranh. Ông ấy nên về hưu và dành toàn bộ sức lực cho nghiên cứu chuyên môn của mình - mà cái đó thì lại cần có thu nhập ổn định. Đôi khi thần kinh ông ấy không bình thường chút nào. Dì rất lo lắng về điều đó. Ông ấy rất kì lạ."

Lynn gật gù. Sự thay đổi trong Lionel Cloade đã không qua được mắt cô, cũng như tâm trạng thất thường khó hiểu của chú ấy. Lynn ngờ rằng đôi khi chú ấy đã phải dùng đến thuốc để ổn định bản thân, và cô tự hỏi liệu việc đó đã đến mức bị nghiện chưa. Điều đó giải thích cho sự rối loạn thần kinh của chú ấy.

Cô tự hỏi không biết dì Kathie đã biết hay đoán được bao nhiêu. Lynn nghĩ dì Kathie không phải là một kẻ ngốc như bề ngoài của bà ấy.

Đi xuống dưới đường High, cô thấy bóng dáng của chú Jeremy đang bước vào cổng nhà. Lynn thấy chú ấy có vẻ trở nên già hơn trong ba tuần qua.

Cô sải bước nhanh hơn. Cô muốn đi ra khỏi Warmsley Vale, lên phía ngọn đồi và khoảng không gian trống. Đặt ra tốc độ nhanh, cô sớm cảm thấy tốt hơn. Cô có thể đi lang thang một quãng chừng sáu hoặc bảy dặm - và thực sự nghĩ thông suốt những điều trên. Luôn luôn, cả đời này, cô là một người sáng suốt kiên quyết. Cô đã biết mình muốn gì và không muốn gì. Chưa bao giờ, cho đến hiện tại, cô thấy hài lòng buông xuôi theo mọi chuyện...

Đúng, chính là như vậy! Buông xuôi! Một cách sống vô nghĩa, không mục đích. Kể từ khi cô xuất ngũ. Một làn sóng thân thuộc đưa cô trở về tháng ngày chiến tranh. Những ngày mà nhiệm vụ được làm rõ ràng, cuộc sống có kế hoạch và trật tự - khi sức nặng của những quyết định cá nhân đã được dỡ bỏ khỏi cô. Nhưng ngay cả khi cô hình thành ý tưởng đó, cô cảm thấy sợ hãi bản thân mình. Đó có đúng là những gì mà người ta cảm thấy từ sâu trong thâm tâm không? Đó có phải là những gì chiến tranh đã gây ra cho mình? Đó không phải hiểm nguy từ thể xác - mìn dưới biển, bom rơi trên không, tiếng súng nổ giòn giã của một viên đạn súng trường khi lái xe trên đường ray sa mạc. Không, nó là sự nguy hiểm về tâm linh khi biết được rằng cuộc sống dễ dàng biết bao khi bạn không cần phải nghĩ... Cô, Lynn Marchmont, không còn là cô gái nhạy bén, thông minh kiên quyết trong quân ngũ nữa. Trí thông minh của cô đã được chuyên môn hóa, hướng vào những kênh được xác định rõ. Bây giờ khi làm chủ bản thân và cuộc sống của cô một lần nữa, cô đã kinh hoàng trước sự chán ghét của tâm trí mình khi phải nắm bắt và vật lộn với các vấn đề cá nhân.

Với một nụ cười châm biếm bất chợt, Lynn nghĩ thầm: Thật lạ khi cái nhân vật "bà nội trợ" của báo chí ấy đã thực sự được tin cậy trong suốt thời chiến. Những người phụ nữ, bị cản trở bởi vô số điều "không được", đã không được giúp đỡ bởi bất kỳ cái "được" nào. Những người phụ nữ phải lên kế hoạch và suy nghĩ và ứng biến, họ phải tận dụng từng tấc sự khéo léo mà họ được ban tặng, và phải phát triển sự khéo léo mà họ không biết là họ đã có! Giờ thì Lynn nghĩ, một mình họ có thể đứng thẳng mà không cần nạng, để chịu trách nhiệm cho bản thân và những người khác.

Còn cô, Lynn Marchmont, có học thức, thông minh, đã làm một công việc cần đến trí óc và áp dụng chặt chẽ, giờ lại mất phương hướng, thiếu quyết đoán - ừ, cái từ đáng ghét: buông xuôi...

Những người đã không nhập ngũ như Rowley chẳng hạn.

Nhưng ngay lập tức tâm trí của Lynn rơi từ những điều chung chung mơ hồ đến một cá nhân.

Cô và Rowley. Đó là vấn đề, vấn đề thật sự - vấn đề duy nhất.

Liệu cô có thật sự muốn lấy Rowley không?

Dần dần những cái bóng kéo dài đến chạng vạng và hoàng hôn. Lynn ngồi bất động, cằm cô chống trên hai tay ở một bụi cây nhỏ trên sườn đồi phía ngoại ô, nhìn xuống thung lũng. Cô đã mất rất nhiều thời gian, nhưng cô biết rằng mình thấy miễn cưỡng một cách kỳ lạ khi trở về White House.

Ở phía dưới phía bên trái cô là Long Willows. Long Willows, nhà của cô nếu kết hôn với Rowley.

Nếu! Nó quay lại giả định nếu - nếu - nếu!

Một con chim bay ra khỏi rừng với tiếng kêu thảng thốt như tiếng khóc của một đứa trẻ giận dỗi.

Một làn khói từ một đoàn tàu bốc lên trên bầu trời hình thành như một dấu hỏi khổng lồ:

Mình có nên lấy Rowley? Mình có muốn lấy Rowley không? Có lúc nào mình muốn kết hôn không? Mình có thể chịu đựng được việc không kết hôn với Rowley?

Con tàu chạy qua thung lũng, khói run rẩy và phân tán. Nhưng dấu chấm hỏi không phai mờ trong tâm trí của Lynn.

Cô đã yêu Rowley trước khi rời đi. "Nhưng mình đã thay đổi khi về nhà," cô nghĩ, "không còn là Lynn trước kia nữa." Một dòng thơ vụt qua tâm trí cô. "Cuộc sống và thế giới và bản thân tôi đã thay đổi..."

Còn Rowley? Rowley vẫn như thế.

Phải, chính là vậy. Rowley không thay đổi gi cả. Rowley vẫn ở đó như khi cô rời đi bốn năm trước.

Cô có muốn cưới Rowley không? Nếu không thì là gì?

Cành cây gãy trong bụi rậm phía sau cô và giọng nói của một người đàn ông chửi rủa khi anh ta đi qua.

Cô thốt lên, "David!"

"Lynn!" Anh trông kinh ngạc khi băng qua chỗ lùm cây. "Cô làm cái quỉ gì ở đây vậy?"

Anh đang chạy và có vẻ hụt hơi.

"Tôi không biết. Chỉ nghĩ thôi - ngồi đây và nghĩ ngợi." Cô cười không chắc lắm. "Tôi đoán - trời đã muộn lắm rồi."

"Cô không có khái niệm thời gian à?"

Cô mơ hồ nhìn xuống đồng hồ đeo tay.

"Nó ngừng lại rồi. Tôi đã không chỉnh đồng hồ."

"Không phải chỉ đồng hồ!" David nói. "Đó là nguồn điện trong cô. Sức sống. Nguồn sống."

Anh đi đến bên cạnh, và hơi bất mãn, cô nhanh chóng đứng dậy.

"Trời tối lắm rồi. Tôi phải đi về thôi. Mấy giờ rồi, David?"

"Chính giờ mười lăm. Tôi chắc phải chạy như thỏ đây. Tôi cần bắt kịp chuyến tàu 9.20 tới London."

"Tôi không biết anh đã trở lại!"

"Tôi phải lấy vài món ở Furrowbank. Nhưng tôi phải đi chuyến tàu này. Rosaleen đang ở một mình - nó luôn cảm thấy bồn chồn khi ở một mình vào ban đêm ở London."

"Trong một căn hộ dịch vụ á?" Giọng Lynn có chút khinh thường.

David sắc bén đáp:

"Nỗi sợ không cần phải hợp lí. Khi mà cô chịu sang chấn từ vụ nổ -"

Lynn bỗng thấy xấu hổ - hối hận.

Cô nói:

"Xin lỗi. Tôi đã quên."

David than vãn với chút cay đắng:

"Phải, rồi nó sẽ bị quên lãng thôi - tất cả. Lại an toàn! Lại nhạt nhẽo! Trở lại với vị trí của chúng ta khi mà cái thứ chết tiệt này mới bắt đầu! Chui vào trong cái hố thối nát đó và giả vờ là mọi chuyện vẫn ổn. Cô cũng vậy, Lynn - Cô cũng giống như tất cả bọn họ!"

Cô kêu lớn, "Không có, tôi không có David. Tôi chỉ nghĩ - bây giờ - "

"Về tôi?"

Sự nhanh chóng của anh khiến cô giật mình. Tay của anh bao quanh cô, giữ cô bên người. Anh hôn cô với đôi môi nóng bỏng giận dữ.

"Về Rowley Cloade?" Anh nói, "Con bò đó à? Lạy Chúa, Lynn, em thuộc về tôi."

Rồi sau đó cũng nhanh như khi anh ôm cô, David thả tay ra, gần như đẩy cô ra khỏi anh.

"Anh sẽ lỡ chuyến tàu mất."

Anh chạy thẳng xuống dưới đồi.

"David..."

Anh quay đầu lại, gọi với:

"Anh sẽ gọi cho em khi đến London..."

Cô nhìn anh chạy qua bóng tối, nhẹ nhàng và năng động và đầy duyên dáng tự nhiên.

Rồi run rẩy, trái tim cô xao động lạ lùng, đầu óc hỗn loạn, cô bước chầm chậm về nhà.

Cô ngập ngừng một chút trước khi đi vào. Cô co rúm lại trước sự chào đón trìu mến của mẹ, những câu hỏi của bà...

Mẹ cô đã vay năm trăm bảng từ những người mà bà coi thường.

"Chúng ta không có quyền khinh ghét Rosaleen và David," Lynn nghĩ khi cô nhẹ nhàng lên cầu thang, "Chúng ta đều như nhau. Chúng ta đều làm tất cả - tất cả vì tiền."

Cô đứng trong phòng ngủ, nhìn khuôn mặt mình trong gương với sự tò mò. Cô đã nghĩ nó giống như khuôn mặt của một người xa lạ...

Và rồi, cơn giận dữ bùng lên.

"Nếu Rowley yêu mình," cô nghĩ, "Anh ấy sẽ tìm cách đưa mình năm trăm bảng. Anh ấy sẽ - sẽ làm thế. Anh ấy sẽ không làm mình bẽ mặt vì mượn tiền từ David - David - "

David đã nói là sẽ gọi cho cô khi đến London.

Cô bước xuống lầu, như bị mộng du...

Những giấc mơ, cô nghĩ, có thể là điều nguy hiểm...

Chương 14

"Ôi, con đây rồi, Lynn." Giọng Adela rất phấn khởi và nhẹ nhõm. "Mẹ không nghe tiếng con đi vào, con yêu. Con về lâu chưa?"

"À, vâng, lâu rồi. Con ở trên lầu."

"Con nên báo cho mẹ khi con về, Lynn. Mẹ luôn thấy lo lắng khi con ra ngoài một mình lúc trời tối như vậy."

"Thật là, mẹ không nghĩ con có thể tự chăm sóc bản thân được à?"

"Chà, dạo này trên báo có nhiều thứ khủng khiếp lắm. Mấy tên lính giải ngũ này - chúng tấn công các cô gái đấy."

"Đấy là do họ tự tìm đến."

Cô cười - một nụ cười vặn vẹo. Phải, là do các cô gái ấy tự tìm đến nguy hiểm... Dù sao thì ai lại muốn an toàn thật sự chứ?

"Lynn con yêu, con có nghe không?"

Lynn sực tỉnh.

Mẹ cô đang nói chuyện.

"Chuyện gì vậy mẹ?"

"Mẹ đang nói về phù dâu của con. Mẹ cho rằng họ có thể tạo thành đủ một hàng đấy. Thật may mắn cho con khi có tất cả những người bạn đã xuất ngũ. Mẹ thực sự rất tiếc cho những cô gái kết hôn ngày nay chỉ bằng những đội ngũ thông thường của họ. Ý mẹ là họ không thể có bất cứ điều gì mới cả. Ý là không phải từ bên ngoài. Với những điều về nhà nước mà tất cả đồ lót của một người ngày nay là người ta phải đi cho họ. Phải, Lynn, con thực sự may mắn đấy."

"Vâng, rất may mắn."

Cô đang đi quanh căn phòng - táy máy, nhặt đồ lên, đặt chúng xuống.

"Con có cần phải bồn chồn đến thế không? Con làm mẹ thấy chóng mặt đấy!"

"Xin lỗi, mẹ."

"Không có chuyện gì đúng không?"

"Có thể có chuyện gì?" Lynn nhạy bén hỏi.

"Đừng có nhảy vô họng mẹ, con à. Giờ thì về các phù dâu. Mẹ nghĩ con nên hỏi cô bé Macrae. Mẹ con bé là bạn thân nhất của mẹ, nhớ không, và con bé sẽ thấy tổn thương nếu -"

"Con ghét Joan Macrae và luôn luôn ghét."

"Mẹ biết, con yêu, nhưng có sao đâu nào? Mẹ chắc là Majorie sẽ buồn lắm nếu -"

"Thật là, mẹ à, đó là đám cưới của con mà?"

"Phải, mẹ biết, Lynn, nhưng -"

"Nếu như có thể có cái đám cưới đó!"

Cô không có ý nói như thế. Từ ngữ vụt ra khỏi miệng cô trước khi cô kịp suy nghĩ. Cô rất muốn rút lại, nhưng đã quá trễ rồi. Bà Marchmont đang nhìn con gái mình một cách cảnh giác.

"Lynn à, ý con là sao?"

"Không có gì thưa mẹ."

"Con và Rowley không cãi nhau chứ?"

"Không, dĩ nhiên là không. Đừng làm quá lên chứ mẹ, mọi thứ đều ổn."

Nhưng Adela đang nhìn con gái mình trong tình trạng báo động thực sự, nhạy cảm với sự hỗn loạn đằng sau vẻ ngoài cau có của Lynn.

"Mẹ luôn nghĩ rằng con sẽ ổn định hơn khi lấy Rowley," bà nói xót xa.

"Ai muốn ổn định chứ?" Lynn cau có hỏi. Cô quay ngoắt lại. "Phải chuông điện thoại không?"

"Không. Tại sao? Con đang đợi ai gọi à?"

Lynn lắc đầu. Cảm thấy mất mặt vì đợi tiếng chuông điện thoại.

Anh ta nói sẽ gọi cho mình tối nay. Nhất định thế.

"Mày điên rồi," cô tự nhủ, "Điên thật rồi."

Tại sao người đàn ông này lại thu hút cô đến vậy? Ký ức về gương mặt tăm tối không vui của anh hiện lên trước mắt cô. Cô cố xoá nó đi, thử thay thế bằng diện mạo đẹp trai sáng sủa của Rowley. Nhưng cô nghĩ, liệu Rowley có thực sự quan tâm đến cô không? Nếu thật sự quan tâm, anh hẳn đã hiểu cho việc cô đến ngày đó và cầu xin anh cho mượn năm trăm bảng. Anh nên thông cảm cho cô thay vì quá lí trí và thực tế đến phát điên như vậy.

Cưới Rowley, sống trong trang trại, không bao giờ đi đâu nữa, không bao giờ nhìn thấy bầu trời nơi đất khách, ngửi những mùi vị kì lạ - không thể có lại tự do nữa...

Tiếng chuông đinh tai vang lên. Lynn hít một hơi sâu, bước qua hành lang và nhấc ống nghe lên.

Với cú sốc như bị đánh một quyền, giọng nói của dì Kathie vang lên qua đường dây.

"Lynn? Là con à? Ôi, thật may quá. Con biết đấy, dì e là mình đã làm một cuộc hỗn chiến - về cuộc họp tại Viện -"

Giọng nói mỏng manh vang lên. Lynn lắng nghe, bình luận nội dung, trấn an, nhận được những lời cảm ơn.

"Thật là an ủi, Lynn yêu quí, con vẫn luôn tốt bụng và thực tế. Dì không hiểu được vì sao mọi thứ lại rối loạn đến như vậy."

Lynn cũng không tưởng tượng được. Năng lực của dì Kathie trong việc biến các vấn đề đơn giản nhất trở nên rối rắm đã vượt qua cảnh giới thiên tài.

"Nhưng như dì vẫn nói," dì Kathie đúc kết, "mọi thứ rối lên ngay tức khắc. Điện thoại của nhà dì bị hỏng và dì phải đi ra ngoài một hộp điện thoại, và bây giờ thậm chí dì còn không có hai hào ở đây, chỉ có nửa hào - và dì phải đi hỏi -"

Cuối cùng nó cũng tắt. Lynn gác máy và đi trở lại phòng khách.

Adela Marchmont cảnh giác hỏi: "Có phải -" và ngừng lại.

Lynn nói nhanh, "là dì Kathie."

"Chị ấy muốn gì?"

"Chỉ là mấy mớ rối rắm như mọi khi của dì thôi."

Lynn ngồi xuống một lần nữa với quyển sách trên tay, liếc nhìn phía đồng hồ. Ừ - còn quá sớm. Cô chưa thể mong đợi cuộc gọi của mình được.

Khoảng qua năm phút sau mười một giờ, điện thoại reng lần nữa. Cô chầm chậm đi về đó.

Lần này Lynn không trông đợi gì nữa - chắc vẫn là dì Kathie lại thôi...

Nhưng không. "Warmsley Vale 34? Cô Lynn Marchmont có thể nhận cuộc gọi cá nhân từ London không?"

Tim của Lynn lỡ một nhịp.

"Lynn Marchmont đang nói đây."

"Xin chờ máy."

Cô chờ - có những tiếng ồn - rồi im lặng. Đường dây điện thoại càng ngày càng tệ hơn. Cô chờ. Cuối cùng cô trút giận lên cái ống nghe. Giọng một người phụ nữ khác lên tiếng, không cảm xúc, lạnh lẽo và không quan tâm, "Xin hãy tắt máy. Cô sẽ được gọi lại sau."

Lynn ngắt máy. Cô vào phòng khách trở lại, chuông vang lên khi cô vừa đặt tay lên cửa. Cô chạy nhanh về phía điện thoại.

"Xin chào?"

Giọng một người đàn ông, "Warmsley Vale 34? Có cuộc gọi cá nhân từ London cho cô Lynn Marchmont."

"Đang nghe đây."

"Xin chờ chút." Rồi sau đó, một cách yếu ớt, "Được rồi, London, đã kết nối máy."

Và rồi, thình lình giọng của David:

"Lynn, là em à?"

"David!"

"Tôi phải nói với em điều này."

"Vâng..."

"Nghe này, Lynn, tôi phải thu dọn đây -"

"Thu dọn mọi thứ ở Anh. Ôi nó đã rất đơn giản. Tôi đã giả vờ như mọi thứ không phải là vì Rosaleen - đơn giản là vì tôi không muốn rời khỏi Warmsley Vale. Nhưng mà để được gì chứ? Em và tôi - nó sẽ không thành đâu. Em là một cô gái tốt, Lynn - còn tôi, tôi chỉ là kẻ lừa đảo, luôn luôn như thế. Đừng tự huyễn hoặc rằng tôi sẽ bỏ mọi thứ vì em. Có thể tôi có ý đó đấy - nhưng sẽ không được đâu. Không, em nên lấy gã Rowley đầu đất đó đi. Hắn ta sẽ không bao giờ khiến em phải lo lắng suốt cuộc đời này. Tôi có thể lôi em xuống địa ngục đấy."

Cô đứng đó, cầm ống nghe, không lên tiếng.

"Lynn, em vẫn ở đó chứ?"

"Tôi đây."

"Em không nói gì cả."

"Còn gì để nói nữa?"

"Lynn?"

"Ờ...?"

Thật kỳ lạ khi cô có thể cảm nhận rõ ràng tất cả khoảng cách đó, sự phấn khích của anh, sự khẩn trương trong tâm trạng anh...

Anh thầm mắng một tiếng, rồi bùng nổ, "Ôi mẹ kiếp!" rồi ngắt máy.

Bà Marchmont bước ra khỏi phòng khách hỏi, "Có phải -?"

"Lộn số thôi," Lynn trả lời và nhanh chân bước lên cầu thang.

Chương 15

Có một phong tục tại Stag là khách trọ có thể được gọi dậy vào bất cứ thời gian nào họ muốn với qui trình đơn giản là tiếng đập lớn trên cửa cùng với tiếng la về thời điểm trong ngày như "Tám giờ ba mươi thưa ông" hay "Tám giờ" bất kể trường hợp nào. Trà sớm có thể được phục vụ nếu có nhu cầu, và được gửi bằng khay sứ đặt trên tấm thảm trước cửa.

Vào buổi sáng thứ Tư hôm đó, cô gái Gladys làm theo trình tự ngoài cửa phòng số 5, hét lên "Tám giờ mười lăm, thưa ngài," và thả cả cái khay xuống bang một tiếng làm sữa đổ cả ra ngoài bình. Sau đó cô rời đi, gọi thêm nhiều khách nữa và tiếp tục với nhiệm vụ của mình.

Mãi cho đến mười giờ cô mới nhận ra là khay trà của phòng số 5 vẫn còn đặt trên tấm thảm.

Cô đập mạnh vài tiếng lên cửa, không có ai trả lời nên cô quyết định đi vào. Khách phòng 5 không phải kiểu người thường hay dậy muộn, và cô vừa mới nhớ ra rằng có một mái nhà bằng phẳng nằm ngoài cửa sổ khá thuận tiện. Điều đó chỉ có thể là, Gladys nghĩ, khách phòng số 5 đã đã quyết định bỏ trốn mà không trả hóa đơn của mình.

Nhưng người đàn ông đăng ký là Enoch Arden đã không hề bỏ trốn. Ông ta đang nằm úp mặt ở giữa phòng và dù không biết gì về y học, Gladys không nghi ngờ gì về việc ông ta đã chết.

Gladys giật bắn mình và hét lên, sau đó lao ra khỏi phòng và xuống cầu thang, vẫn còn la hét.

"Ô, cô Lippincott ơi - cô Lippincott, ô -"

Beatrice Lippincott đang ngồi trong phòng riêng của mình để bác sĩ Lionel Cloade băng bó cho bàn tay bị đứt - người đàn ông thả miếng băng xuống và xoay người khó chịu nhìn cô gái vừa xông vào.

"Ôi - ôi!"

Bác sĩ quát:

"Cái gì? Cái gì?"

"Chuyện gì thế, Gladys?" Beatrice hỏi.

"Là quí ông ở phòng số 5, thưa cô. Ông ấy đang nằm trên sàn, chết rồi."

Bác sĩ nhìn chằm chằm vào cô gái và sau đó là cô Lippincott - người sau nhìn chằm chằm vào Gladys và sau đó là bác sĩ.

Sau cùng, bác sĩ Cloade nói không chắc chắn: "Vớ vẩn."

"Chết ngắc luôn ấy," Gladys nói, rồi thêm vào như nhấn mạnh: "Không còn thở nữa rồi!"

Bác sĩ nhìn về phía Lippincott.

"Có lẽ tôi nên -"

"Vâng, làm ơn nhé bác sĩ Cloade. Thật là - tôi không nghĩ - nó nghe thật vô lí."

Họ cùng đi lên cầu thang, với Gladys dẫn đường. Bác sĩ Cloade liếc mắt một cái, quì xuống và cúi người về thân xác đang nằm.

Ông ngước nhìn Beatrice. Thái độ của ông đã thay đổi. Nó đột ngột, đầy uy thế.

"Cô nên điện cho sở cảnh sát đi," ông nói.

Beatrice Lippincott đi ra ngoài, Gladys theo sau cô.

Gladys nói bằng giọng thì thầm:

"Ôi, cô có nghĩ đây là vụ giết người không?"

Beatrice vuốt nhẹ trở lại mái tóc vàng mượt của mình với một bàn tay kích động.

"Giữ mồm lại đi, Gladys," cô nghiêm khắc nói, "Nói là một vụ giết người trước khi người ta biết đó là tội giết người và em có thể phải ra tòa vì nó đấy. Sẽ chẳng hay ho gì cho Stag khi người ta đồn ầm lên." cô thêm vào, như là sự nhượng bộ hòa hoãn: "Em nên đi và pha cho mình một tách trà ấy. Chị cá là em cần đến nó."

"Vâng, đúng đấy, thưa cô. Ruột gan bên trong em lộn tùng phèo hết rồi! Em sẽ mang thêm một tách cho cô nữa."

Beatrice không nói thêm gì sau đó.

Chương 16

Chánh thanh tra Spence nghiền ngẫm nhìn Beatrice Lippincott qua bàn làm việc của ông, người phụ nữ đang ngồi với đôi môi mím chặt lại.

"Cảm ơn, cô Lippincott," ông nói, "Đó là tất cả những gì cô nhớ? Tôi sẽ cho đánh máy lại những gì cô vừa kể và nếu cô không phiền thì có thể kí -"

"Ôi trời - hi vọng là tôi không phải đứng ra làm chứng trước tòa án cảnh sát."

Chánh thanh tra Spence cười thích thú.

"À, tôi mong là chúng ta sẽ không cần phải làm thế," ông nói bâng quơ.

"Nó có thể chỉ là vụ tự tử," cô mong mỏi gợi ý.

Spence dằn lại việc chỉ ra một vụ tự tử sẽ không làm móp hộp sọ phía sau nạn nhân bằng cái cời lửa thép. Thay vào đó, ông trả lời với tông giọng dễ chịu:

"Không nên nhảy vào kết luận quá sớm. Cảm ơn, cô Lippincott. Cô thật tốt khi đưa ra lời tuyên bố nhanh chóng đến vậy."

Khi cô rời khỏi, ông xem xét lại lời nhận định của cô trong tâm trí. Ông biết rất rõ về Beatrice Lippincott, đủ để hiểu có thể dựa trên tính chính xác của cô được bao nhiêu. Hẳn là đoạn hội thoại chỉ vô tình nghe thấy và nhớ được. Thêm một chút thêu dệt bởi vì sự phấn khích tạo nên. Và một tí thêm thắt nữa vì vụ án xảy ra ở phòng số 5. Loại bỏ những điều ngoài lề ấy đi những gì còn lại chỉ là sự xấu xa và khiêu khích.

Chánh thanh tra Spence nhìn vào cái bàn trước mắt. Một chiếc đồng hồ với mảnh thuỷ tinh bể, bật lửa vàng với những chạm khắc trên đó, một thỏi son trong giá đỡ mạ vàng, và một cặp cời lửa thép nặng, phần đầu nặng có vết ố màu nâu gỉ.

Trung sĩ Graves nhìn vô và thông báo cậu Rowley Cloade đang đợi. Spence gật đầu và trung sĩ dẫn Rowley vào.

Cũng như Beatrice Lippincott, chánh thanh tra cũng hiểu rõ về Rowley Cloade. Nếu như Rowley đến sở cảnh sát, thì đó là bởi vì Rowley có điều cần phải báo, và đó là điều chắc chắn, đáng tin cậy, không phải do tưởng tượng. Với người có tính cẩn trọng như Rowley, cần phải cho cậu ta thời gian để nói. Và không thể hối thúc loại như Rowley Cloade được. Nếu làm thế, họ sẽ trở nên kinh hãi, lặp đi lặp lại, và thường mất gấp đôi thời gian...

"Chào buổi sáng, cậu Cloade. Rất vui được gặp cậu. Có thể cho chúng tôi biết chút gì về vấn đề này được không? Về người đàn ông bị giết ở Stag."

Khiến cho Spence ngạc nhiên là, Rowley lại lên tiếng với một câu hỏi. Anh đột ngột lên tiếng:

"Ông đã xác định danh tính người đó chưa?"

"Chưa," ông chậm rãi nói, "Tôi không nghĩ là chúng tôi đã làm thế. Anh ta kí tên đăng kí là Enoch Arden. Không hề có vật sở hữu nào chứng minh anh ta là Enoch Arden cả."

Rowley cau mày:

"Chẳng phải - là hơi lạ sao?"

Quả thật là rất lạ, nhưng chánh thanh tra Spence sẽ không thảo luận với Rowley Cloade về việc ông cảm thấy kì lạ như thế nào. Thay vào đó ông nhẹ nhàng nói:

"Thôi nào, cậu Cloade, tôi mới là người đặt câu hỏi ở đây. Cậu đã đến gặp nạn nhân vào tối hôm qua. Tại sao?"

"Ông có biết Beatrice Lippincott không, thanh tra? Ở Stag ấy."

"Biết, dĩ nhiên. Và," Spence nói, với hi vọng là ông đang rút ngắn khoảng cách lại, "Tôi đã nghe câu chuyện của cô ấy. Cô ấy đã đến kể với tôi."

Rowley trông có vẻ nhẹ nhõm.

"Tốt. Tôi đã e là cô ấy sẽ làm xáo trộn việc của cảnh sát. Mấy người này có đôi khi buồn cười như vậy đấy."

Chánh thanh tra gật đầu.

"Vậy thì, Beatrice đã nói tôi là cô ấy tình cờ nghe thấy mà theo ý tôi thì - tôi không biết ông thế nào - nhưng nó thật khả nghi. Ý tôi muốn nói là - chúng ta - chà, chúng ta là những sinh vật tò mò."

Một lần nữa ngài thanh tra gật đầu. Ông vốn dĩ rất quan tâm đến tin tức về cái chết của Gordon Cloade và đồng ý với đa phần ý kiến chung là ông cảm thấy gia đình của Gordon đã bị đối xử bất công. Ông tán thành ý kiến cho rằng phu nhân Gordon Cloade "không phải là một quí cô" và anh trai của bà Gordon Cloade là một trong những tên lính biệt động choai choai dù đã tỏ vẻ hữu dụng trong thời chiến, vẫn nên được nhìn nhận lại trong thời bình này.

"Tôi cho là mình không cần phải giải thích với ông, thanh tra, rằng nếu như người chồng đầu tiên của cô Gordon còn sống, nó sẽ làm nên khác biệt rất lớn với gia đình chúng tôi. Câu chuyện của Beatrice là điều gợi ý đầu tiên cho tôi rằng tình trạng như vậy có thể tồn tại. Tôi chưa bao giờ mơ về một điều như vậy. Nghĩ rằng cô ấy chắc chắn là một góa phụ. Phải nói là nó làm tôi khá hoảng loạn. Mất một chút thời gian để nhận ra điều đó, như ông nói đấy. Tôi phải tiêu hóa toàn bộ điều đó nữa."

Spence lại gật đầu. Ông có thể hình dung được Rowley dần dần suy nghĩ về đề tài ấy, lật đi lật lại trong đầu.

"Trước tiên tôi đã nghĩ là nên báo lại cho chú của mình - người làm luật sư."

"Jeremy Cloade?"

"Phải, nên tôi đã đến đó. Chắc là khoảng hơn tám giờ. Họ vẫn còn đang ăn tối nên tôi ngồi trong phòng làm việc của chú ấy để đợi, tôi tiếp tục lật lại mọi thứ trong đầu để suy nghĩ."

"Vâng?"

"Rồi cuối cùng tôi đã kết luận là mình nên làm gì đó trước khi lôi kéo chú mình vào. Tôi cảm thấy luật sư và thanh tra đều giống nhau. Chậm rãi, cẩn trọng, và phải cân nhắc xác đáng các lập luận trước khi đưa ra hành động. Thông tin mà tôi có được là từ một nguồn bí mật - nên tôi tự hỏi không biết chú Jeremy có cảm thấy khó xử khi làm việc dựa trên đó. Tôi quyết định đi đến Stag và nhìn tận mắt gã Johnnie này."

"Và cậu đã làm thế?"

"Vâng. Tôi đi thẳng đến Stag -"

"Lúc đó là mấy giờ?"

Rowley nghiền ngẫm.

"Để xem, tôi chắc là đã đến nhà của Jeremy vào tám giờ hai mươi hay cỡ đó - năm phút - ờ, tôi không thể nói chính xác được, Spence - sau tám rưỡi - có thể là chín giờ kém hai mươi?"

"Vâng, Cloade?"

"Tôi đã biết vị trí rồi - Bee đã nói cho tôi số phòng của anh ta - nên tôi đã đi thẳng đến đó và gõ cửa và anh ta nói, 'Vào đi', và tôi bước vào."

Rowley dừng lại.

"Thực ra tôi cảm thấy mình đã không giải quyết ổn thỏa cho lắm. Tôi đã nghĩ khi bước vào là tôi là người nắm quyền. Nhưng cái gã đó lại là một kẻ già đời. Tôi không tài nào dồn ép được hắn vào điều gì cụ thể cả. Tôi tưởng mình sẽ làm cho gã sợ khi tôi gợi ý về việc tống tiền của gã, vậy mà gã chỉ cảm thấy thích thú. Gã hỏi tôi - tên láu cá đó - liệu tôi có phải người như gã không? 'Ông không thể giở trò với tôi được đâu,' tôi nói. 'Tôi không có gì phải giấu cả.' Rồi gã nói hơi ghê tởm là đó không phải ý của gã. Gã nói vấn đề là gã có thứ muốn bán và liệu tôi có muốn mua hay không? 'Ý là gì?' Tôi nói. Gã nói 'Cậu sẽ trả bao nhiêu - hay cả gia đình cậu - cho tôi với bằng chứng xác thực rằng Robert Underhay, được báo đã qua đời ở Châu Phi, vẫn còn sống nhăn răng?' Tôi hỏi rằng làm quái gì chúng tôi phải trả tiền? Rồi gã cười và nói, 'Bởi vì tôi có một khách hàng sẽ đến vào tối nay để chi trả một khoản tiền lớn cho việc đảm bảo là Robert Underhay đã chết.' Sau đó - chà, sau đó, tôi sợ là mình đã mất bình tĩnh và nói gã là gia đình chúng tôi không bao giờ làm chuyện trái phép đó. Tôi bảo, nếu Underhay thật sự còn sống, thì thực tế là rất dễ chứng minh. Lúc đó tôi bỏ đi ngay khi gã cười và nói bằng một giọng điệu bất thường, 'tôi không chắc là cậu có thể chứng minh được nếu không có tôi hỗ trợ đâu.' Cách gã ta nói nghe có vẻ buồn cười thật."

"Rồi sau đó?"

"Chà, thực ra là, tôi cảm thấy khó chịu khi về nhà. Ông biết đấy, cảm giác là mình đã làm rối tung mọi thứ. Ước gì tôi cứ để mọi việc cho chú Jeremy xử trí là xong. Ý là, sau tất cả, luật sư rất giỏi làm việc với những khách hàng lươn lẹo."

"Lúc mấy giờ thì cậu rời Stag?"

"Tôi không biết. Đợi chút. Chắc là trước chín giờ vì tôi nghe tiếng còi báo tin tức khi tôi đi ngang qua làng - qua một trong những cánh cửa sổ."

"Arden có nói là anh ta đang đợi ai không? Vị khách hàng ấy?"

"Không, nhưng tôi đồ rằng đó là David Hunter. Còn có thể là ai nữa?"

"Và anh ta có vẻ không hề hoảng hốt trước viễn cảnh đó?"

"Tôi bảo rồi cái gã ấy trông hoàn toàn tự mãn với bản thân và cảm thấy như mình là người giỏi giang nhất!"

Spence nhẹ nhàng hướng tay về cái cời thép nặng.

"Cậu có nhận thấy vật này nơi tấm lưới không, Cloade?"

"Đó á? Không - tôi không nghĩ vậy. Lửa không có được nhóm lên." Anh nhíu mày, cố gắng mường tượng lại cảnh đó. Có bộ cời lò sưởi nơi tấm lưới, tôi chắc thế, nhưng tôi không dám nói mình nhận thấy đó là cái gì." Anh thêm vào, "Chúng có phải -"

Spence gật đầu.

"Đập ngay vào sọ."

Rowley cau mày.

"Ngộ nhỉ. Hunter có vẻ hơi ốm - Arden lại là người bự con - rất mạnh."

Thanh tra nói bằng tông giọng vô cảm:

"Báo cáo xét nghiệm chỉ ra nạn nhân bị đánh từ sau lưng và những cú nện bằng đầu thép được đánh từ trên cao."

Rowley nghiền ngẫm:

"Dĩ nhiên hắn ta là một kẻ đầy tự tin - nhưng dù thế nào tôi cũng sẽ không quay lưng lại với một kẻ tôi đang định tống tiền và đã từng có thời gian đánh đấm trong chiến tranh trong một căn phòng đâu. Arden không thể nào là một người thận trọng được."

"Nếu anh ta cẩn thận hơn thì giờ này hẳn là vẫn còn sống," ngài thanh tra khô khan nói.

"Tôi ước gì hắn ta đã như thế," Rowley nói một cách hăng hái. "Vì tôi cảm thấy mình đã làm hỏng mọi thứ một cách triệt để. Nếu tôi không hưng trí nhất thời và rời đi, tôi có thể đã nắm được thứ gì đó hữu ích từ hắn ta. Tôi lẽ ra phải giả vờ rằng chúng tôi đang ở trong cuộc mua bán, nhưng điều đó thật ngớ ngẩn. Ý tôi là, chúng tôi là ai mà có thể đấu với Rosaleen và David chứ? Họ có tiền mặt. Không ai trong chúng tôi có thể kiếm năm trăm bảng trong nhà này."

Chánh thanh tra cầm bật lửa vàng lên.

"Có thấy nó bao giờ chưa?"

Có một nếp nhăn xuất hiện giữa lông mày của Rowley. Anh chậm rãi nói:

"Phải rồi, tôi đã nhìn thấy nó ở đâu đó, nhưng tôi không nhớ là chỗ nào. Mới gần đây thôi. Không - tôi không nhớ."

Spence không đưa cái bật lửa vào bàn tay đang mở ra của Rowley. Ông đặt nó xuống và cầm thỏi son lên, gỡ nó ra khỏi hộp.

"Còn cái này?"

Rowley cười.

"Cái đó không thuộc phạm vi của tôi, ngài thanh tra."

Đăm chiêu, Spence bôi một chút lên mu bàn tay. Ông nghiêng đầu vào một bên, nghiên cứu nó một cách tỉ mỉ.

"Theo tôi thấy, là màu nâu sậm," ông kết luận.

"Cảnh sát các ông biết nhiều thứ hay thật," Rowley nói. Anh đứng dậy, "Và ông không - chắc chắn xác định - biết được người chết là ai?"

"Cậu có liên tưởng nào không, Cloade?"

"Tôi chỉ tự hỏi," Rowley ngập ngừng, "Ý là - cái gã này là manh mối duy nhất về Underhay. Giờ thì hắn ta chết rồi - chà, có lẽ việc tìm kiếm Underhay cũng giống như mò kim đáy bể thôi."

"Việc này sẽ được công bố, Cloade," Spence nói, "Hãy nhớ là một lúc nào đó tất cả tin tức này sẽ được đưa lên báo chí thôi. Nếu như Underhay còn sống và nhìn thấy nó - ờ, anh ta sẽ xuất hiện thôi."

"Vâng," Rowley nghi hoặc, "Có thể lắm."

"Cậu không nghĩ như vậy?"

"Tôi nghĩ," Rowley Cloade nói, "Điều đó đã đến với David Hunter rồi."

"Có thể," Spence nói. Khi Rowley đi ra ngoài, Spence nhặt cái bật lửa lên và nhìn chữ cái D.H khắc trên đó. "Hàng đắt tiền đấy," ông nói với trung sĩ Graves, "Không phải sản xuất hàng loạt. Dễ dàng nhận diện. Chỗ Greatorex hay nơi nào đó ở phố Bond. Đi xem thử đi!"

"Vâng, thưa ngài."

Rồi ngài thanh tra nhìn vào đồng hồ đeo tay - kính đã bị bể và các kim chỉ vào chín giờ mười phút.

Ông nhìn lên trung sĩ.

"Có báo cáo gì không, Graves?"

"Dạ vâng. Dây cót chính đã bị hỏng."

"Còn cơ chế bằng tay?"

"Vẫn ổn, thưa ngài."

"Theo cậu, Graves, cái đồng hồ nói lên điều gì?"

Graves mơ hồ lẩm nhẩm, "Có vẻ như nó cho chúng ta biết thời gian xảy ra vụ án."

"À," Spence nói, "Khi mà cậu ở lâu trong ngành như tôi, cậu sẽ thấy nghi ngờ với những thứ thật thuận tiện như chiếc đồng hồ bị bể. Nó có thể là vô tình - hoặc cũng có thể là một mánh khoé cũ rích. Chỉnh giờ đồng hồ theo ý mình - đập nó - và sẽ có bằng chứng ngoại phạm xuất hiện. Nhưng cậu không thể bắt tội phạm theo cách đó được. Tôi giữ một quan điểm rất cởi mở về vấn đề thời gian án mạng này được thực hiện. Báo cáo y học là: giữa tám giờ cho đến mười một giờ."

Trung sĩ Graves hắng giọng.

"Edwards, người làm vườn thứ hai ở Furrowbank, nói rằng ông ta thấy David Hunter đi ra từ cửa sau ở đó lúc bảy giờ ba mươi. Mấy cô người hầu không biết anh ta ở đó. Họ nghĩ David đang ở London với cô Gordon. Chứng tỏ là anh ta có xuất hiện tại đây rồi."

"Ừ," Spence nói, "Tôi rất tò mò muốn nghe câu chuyện của Hunter về việc làm của anh ta."

"Có vẻ đã khá rõ ràng, thưa sếp," Graves nói, nhìn vào các kí tự trên bật lửa.

"Hừm," thanh tra lên tiếng, "vẫn còn phải tính đến vật này nữa."

Ông chỉ vào thỏi son.

"Nó đã lăn dưới rương mấy tủ kéo, thưa ngài. Có thể đã ở đó một thời gian rồi."

"Tôi đã kiểm tra," Spence nói. "Lần cuối cùng một người phụ nữ ở căn phòng đó là ba tuần trước rồi. Tôi biết là dạo này phục vụ không được tốt cho lắm - nhưng tôi cho là họ vẫn lau chùi dưới gầm tủ ít nhất ba tuần một lần chứ. Nhìn chung thì quán Stag vẫn luôn giữ vệ sinh và ngăn nắp."

"Không hề có dấu hiệu nào gợi ý có một người phụ nữ dính líu tới Arden."

"Tôi biết," thanh tra bảo, "Đó là lí do tại sao thỏi son đó là thứ tôi gọi là ẩn số."

Trung sĩ Graves kiềm chế nói "Tìm người phụ nữ ấy." Anh ta có một giọng Pháp rất hay và anh ta biết rõ hơn không nên chọc tức chánh thanh tra Spence bằng cách thu hút sự chú ý vào nó. Trung sĩ Graves là một chàng trai trẻ khéo léo.

Chương 17

Chánh thanh tra Spence nhìn lên khu nhà Shepherd, Mayfair, trước khi bước vào trong cánh cổng xinh xắn. Tọa lạc khiêm tốn trong vùng lân cận Chợ Shepherd, nó kín đáo, đắt đỏ và không dễ tìm thấy.

Bên trong, đôi chân của Spence chìm vào tấm thảm mềm, có một dãy cố định được phủ nhung và một bụi cây đầy hoa.

Một thang máy nhỏ tự động đối mặt với ông, với một dãy cầu thang nằm về một bên của nó. Bên phải hội trường là một cánh cửa được đánh dấu Văn phòng.

Spence đẩy mở ra và tiến vào.

Ông thấy mình trong một căn phòng nhỏ có quầy, phía sau là một cái bàn với một máy đánh chữ, và hai cái ghế. Một cái được đặt nơi bàn, cái còn lại, có vẻ được trang trí hơn, được đặt ở một góc với cửa sổ. Không có ai nhìn thấy.

Liếc thấy có chiếc chuông trên quầy gỗ gụ, Spence nhấn nó. Khi không có gì xảy ra, ông lại nhấn lần nữa. Một phút sau, một cánh cửa nơi bức tường phía xa được mở ra và một người mặc đồng phục xuất hiện. Ngoại hình của anh ta trông như một sĩ quan Đại tướng nước ngoài hoặc có thể là Thống soái, nhưng cách nói chuyên của anh ta lại thuộc chất London hoặc bị lai tạp với London.

"Vâng, thưa ông?"

"Phu nhân Gordon Cloade."

"Ở tầng ba ạ. Có cần tôi đánh điện trước không?"

"Cô ấy ở đây à?" Spence nói, "Tôi cứ nghĩ là cô ấy vẫn ở nông thôn cơ."

"Không ạ, cô ấy đã ở đây từ thứ Bảy trước rồi."

"Vậy còn David Hunter?"

"Ngài Hunter cũng ở đây nữa."

"Cậu ấy không rời đi à?"

"Không ạ."

"Tối qua cậu ấy có đây không?"

"Ê này," vị thống soái này bất giác trở nên gay gắt, "Chuyện này là sao đây? Điều tra đời tư người khác à?"

Spence lẳng lặng trình thẻ chứng minh ra. Vị thống soái ỉu xìu ngay lập tức và hợp tác hơn.

"Thật sự xin lỗi," anh ta nói, "làm sao tôi biết chứ, đúng không?"

"Thế thì, David Hunter có ở đây tối qua không?"

"Có thưa ông. Ít nhất là theo tôi thấy thế. Ấy là, ngài ấy không nói mình sẽ đi vắng."

"Thế anh có biết liệu cậu ta có đi đâu hay không?"

"À, thường là không. Tôi không nghĩ là mình có thể. Các quý ông và quý bà thường báo trước nếu họ không có ở đây. Để lại lời nhắn nếu có thư từ hay thông báo nếu có ai muốn gặp họ."

"Điện thoại có kết nối qua văn phòng này không?"

"Không, mỗi căn hộ đều có đường dây riêng. Có một hai căn không muốn lắp điện thoại và chúng tôi phải gửi lời nhắn qua điện thoại nội bộ để người trong nhà đi xuống và nói chuyện từ buồng trong sảnh."

"Căn hộ của cô Cloade có điện thoại riêng?"

"Phải ạ."

"Và theo anh biết thì tối hôm qua cả hai người họ đều ở đây?"

"Đúng vậy."

"Vậy còn các bữa ăn?"

"Có nhà hàng ở đây, nhưng cô Cloade và ngài Hunter thường không dùng đến. Họ đi ăn ở ngoài."

"Bữa sáng thì sao?"

"Nó được phục vụ tại nhà."

"Cậu có thể tìm hiểu xem sáng nay bữa sáng có được dọn lên đó không?"

"Được chứ. Tôi có thể kiểm tra qua dịch vụ phòng."

Spence gật đầu. "Giờ tôi đi lên đây. Hãy báo lại khi tôi trở xuống."

"Tốt thôi, thưa ông."

Spence bước vào thang máy và nhấn nút cho tầng ba. Chỉ có hai căn hộ trên mỗi tầng một. Spence bấm chuông số 9.

David Hunter mở cửa. Anh không biết đó là ngài thanh tra và anh lên tiếng một cách thô lỗ.

"Cái gì?"

"Anh Hunter?"

"Là tôi."

"Chánh thanh tra Spence thuộc cảnh sát quận Oatshire. Tôi có thể nói chuyện với cậu không?"

"Thật xin lỗi, ngài thanh tra." Anh mỉm cười, "tôi cứ tưởng ông là tên bán hàng nào đấy. Mời vào."

Anh dẫn đường vào một căn phòng hiện đại và duyên dáng. Rosaleen Cloade đang đứng bên cửa sổ và quay lại khi họ bước vào.

"Chánh thanh tra Spence, Rosaleen," Hunter nói. "Ngồi đi, thanh tra. Uống chút gì nhé?"

"Không, cảm ơn Hunter."

Rosaleen đã hơi nghiêng đầu. Cô ngồi nhanh chóng, quay lưng về phía cửa sổ, hai tay nắm chặt lại trên đùi.

"Hút không?" David chìa ra hộp xì gà.

"Cảm ơn." Spence lấy một điếu, chờ đợi... nhìn David đút tay vào túi quần, rút ra, nhíu mày, nhìn xung quanh và cầm lên một hộp diêm. Anh quẹt một que và châm lửa cho điếu thuốc của ngài thanh tra.

"Cảm ơn cậu."

"Thế," David nhẹ nhàng nói, khi châm điếu xì gà của mình, "Có chuyện gì ở Warmsley Vale à? Chẳng lẽ đầu bếp của chúng tôi đang buôn bán tại chợ đen? Bà ấy luôn dọn ra những bữa ăn rất tuyệt vời, tôi vẫn luôn thắc mắc liệu có cơ sở gì đằng sau chuyện đó không."

"Chuyện còn nghiêm trọng hơn thế," Thanh tra nói. "Một người đàn ông đã chết tại quán trọ Stag đêm qua. Có thể cậu đã xem trên báo?"

David lắc đầu.

"Không, tôi không để ý. Anh ta thì sao?"

"Anh ta không chỉ là chết. Thực tế là đầu của nạn nhân bị đập lên."

Một câu cảm thán tắc nghẹn đến từ Rosaleen. David vội nói:

"Làm ơn, ngài thanh tra, đừng có phóng đại chi tiết quá. Em gái tôi rất yếu ớt. Dù không cố ý, nhưng nếu ông nhắc đến máu hay chuyện kinh dị con bé có thể ngất đấy."

"Ô, tôi xin lỗi," chánh thanh tra bảo. "Nhưng không có chuyện gì máu me để kể cả. Mặc dù đây đúng là một vụ giết người đấy."

Ông ngừng lại. Lông mày David nhướn lên.

Anh nói nhè nhẹ:

"Ông làm tôi hứng thú đấy. Chúng tôi có liên quan gì?"

"Chúng tôi hy vọng cậu có thể nói cho chúng tôi gì đó về người đàn ông này, cậu Hunter."

"Tôi?"

"Cậu đã hẹn gặp anh ta vào tối thứ Bảy trước. Tên anh ta - hay đúng hơn là cái tên được đăng kí - là Enoch Arden."

"Phải, tất nhiên. Tôi nhớ ra rồi."

David nhỏ giọng nói, không chút ngượng ngập.

"Thế nào hả Hunter?"

"À thì, ngài thanh tra à, tôi sợ là mình không giúp được gì đâu. Tôi chả biết chút xíu gì về anh ta cả."

"Tên người đó có đúng là Enoch Arden?"

"Tôi nghi ngờ điều đó đấy."

"Tại sao cậu lại đến gặp anh ta?"

"Chỉ là mấy câu chuyện không may thôi. Anh ta nhắc đến vài nơi, kinh nghiệm chiến tranh, con người -" David nhún vai. "Chỉ là chút tác động thôi, tôi e thế. Mấy chuyện đó nghe có vẻ thật khó tin."

"Cậu có đưa tiền cho anh ta không?"

Có một khoảng dừng rồi David nói:

"Chỉ năm bảng thôi - để may mắn. Anh ta dù sao cũng đã là lính."

"Anh ta có nhắc đến những cái tên anh biết à?"

"Vâng."

"Trong đó có Robert Underhay phải không?"

Bây giờ cuối cùng ông đã có hiệu ứng mình muốn. David cứng người lại. Đằng sau anh ta, Rosaleen thở hổn hển một chút.

"Điều gì khiến ông nghĩ vậy, thanh tra?" cuối cùng David hỏi. Đôi mắt anh dè dặt, thăm dò.

"Có thông tin báo lại," Chánh thanh tra kiên quyết nói.

Có một khoảng im lặng ngắn. Ngài thanh tra nhận thức được đôi mắt của David, nghiên cứu anh ta, bao vây anh ta, cố gắng để biết... Bản thân ông thì lặng lẽ chờ đợi.

"Có biết Robert Underhay là ai không, thanh tra?" David hỏi.

"Tôi đợi cậu nói đây."

"Robert Underhay là chồng trước của em tôi. Cậu ta đã chết vài năm trước ở Châu Phi rồi."

"Cậu chắc chứ, Hunter?"

Spence hỏi nhanh.

"Chắc chắn. Đúng không hả, Rosaleen?"

Anh quay sang em gái.

"Ô, vâng." Cô nói nhanh và hụt hơi. "Robert đã mất vì sốt - bệnh sốt rét. Thật đau khổ."

"Đôi khi những câu chuyện như vậy thường không đúng đâu, cô Cloade."

Cô không nói gì cả. Cô không nhìn vào ông, mà đang nhìn anh trai mình. Sau đó một lúc, cô nói:

"Robert đã chết rồi."

"Từ thông tin mà tôi có được," Thanh tra nói, "Tôi hiểu rằng người đàn ông này, Enoch Arden, tự xưng là bạn của Robert Underhay quá cố và đồng thời báo với anh Hunter đây là Robert Underhay vẫn còn sống."

David lắc đầu.

"Vớ vẩn," anh nói, "Cực kì vớ vẩn."

"Cậu chắc chắn khẳng định rằng cái tên Robert Underhay không hề được đề cập đến?"

"Ô," David cười quyến rũ, "Nó có nhắc đến. Cái gã tội nghiệp này biết Robert Underhay."

"Không hề có nghi vấn về - tống tiền à, Hunter?"

"Tống tiền? Tôi không hiểu, thanh tra."

"Phải không, Hunter? Nhân tiện, cho đúng tiến trình, cậu đã ở đâu tối qua, khoảng, để xem, bảy đến mười một giờ?"

"Theo như tiến trình, ngài thanh tra, nếu như tôi từ chối trả lời?"

"Cậu đang cư xử như trẻ con đấy, Hunter?"

"Tôi không nghĩ vậy. Tôi không thích - tôi vẫn luôn không thích việc bắt nạt."

Ngài thanh tra nghĩ điều đó cũng đúng.

Ông đã từng gặp những nhân chứng kiểu như David Hunter trước đây. Những nhân chứng bị bế tắc vì bị cho rơi vào bế tắc, mà chẳng phải là do họ có điều che giấu. Nội việc liên tục bị hỏi về hành vi đến và đi của họ đủ khiến cho niềm kiêu hãnh đen tối và u ám trong họ tăng lên. Họ có thể dựa vào điều đó để gây cho luật pháp tất cả các rắc rối mà họ muốn.

Chánh thanh tra Spence, dù tự hào rằng mình là một người đàn ông công bằng, cũng không chủ đích đến khu Shepherd này với niềm tin rằng David Hunter là hung thủ.

Còn bây giờ, lần đầu tiên, ông thấy chắc lắm. Lối thách thức rất ấu trĩ của David đã làm dấy lên những nghi ngờ trong ông.

Spence nhìn Rosaleen Cloade. Cô phản ứng ngay lập tức.

"David, sao anh không nói với ông ấy đi?"

"Đúng vậy, cô Cloade. Chúng ta chỉ muốn mọi việc rõ ràng -"

David hung dữ cắt ngang:

"Ông ngưng chèn ép em tôi đi, nghe rõ không? Ông muốn biết tôi ở đâu làm gì, ở đây, hay Warmsley Vale hay Timbuctoo à?"

Spence cảnh cáo:

"Cậu sẽ được triệu tập cho cuộc điều tra, Hunter, và ở đó cậu sẽ phải trả lời các câu hỏi."

"Tôi sẽ chờ cuộc điều tra vậy! Còn giờ thì, thanh tra, làm ơn biến ra khỏi đây?"

"Tốt thôi." Ngài thanh tra đứng dậy, điềm tĩnh. "Nhưng tôi có điều này muốn hỏi cô Cloade đã."

"Tôi không muốn em gái lo lắng."

"Hẳn vậy. Nhưng tôi muốn cô ấy nhìn vào cái xác và xem thử cô ấy có nhận diện được không. Tôi có quyền hạn ở đây. Sớm hay muộn thì việc này cũng phải làm. Vậy sao không để cô ấy đi đến đó với tôi và giải quyết cho xong luôn? Có một nhân chứng bảo là anh Arden quá cố quen biết với Underhay - vậy nên anh ta cũng có thể quen phu nhân Underhay - vì thế phu nhân Underhay cũng có thể quen anh ta nữa. Nếu tên nạn nhân không phải là Enoch Arden, vậy ta có thể biết thực ra tên người đó là gì."

Bất ngờ là Rosaleen Cloade lại đứng dậy.

"Tôi sẽ đi, dĩ nhiên," Cô nói.

Spence tưởng rằng sẽ có cơn bùng nổ từ David, nhưng khiến ông kinh ngạc là người đó lại cười.

"Làm tốt lắm, Rosaleen," anh nói. "Thú thật là, anh cũng rất tò mò. Sau rốt thì, em cũng có thể đặt một cái tên cho gã ấy rồi."

Spence nói với cô:

"Cô không gặp anh ta ở Warmsley Vale à?"

Rosaleen lắc đầu.

"Tôi đã ở London từ thứ Bảy trước."

"Còn Arden thì đến tối thứ Sáu - đúng chứ."

Rosaleen hỏi: "Ông có muốn tôi đi cùng không?"

Cô hỏi câu hỏi với sự phục tùng như của một cô bé. Mặc dù không ngờ tới nhưng ngài thanh tra đã rất ấn tượng. Có một sự ngoan ngoãn, thiện ý về cô mà ông đã không nghĩ đến.

"Cô thật tốt vì làm thế, cô Cloade," ông nói. "Chúng ta có thể nhận định để thành lập một số cơ sở càng sớm càng tốt. Tôi e là tôi không có sẵn xe tuần tra đến đây."

David đến bên điện thoại.

"Tôi sẽ gọi dịch vụ Daimler. Nó sẽ có hơi vượt quá phí tổn một chút - nhưng tôi cho là ngài có thể lo được chứ, thanh tra."

"Tôi nghĩ cái đó có thể lo liệu được, cậu Hunter." Ông đứng dậy. "Tôi sẽ đợi ở dưới lầu."

Ông đi xuống thang máy và mở cửa văn phòng lần nữa.

Thống soái đang đợi ông.

"Thế nào?"

"Cả hai giường đã có ngủ qua, thưa ông. Bồn tắm và khăn đều được sử dụng. Bữa sáng được dọn lên căn hộ lúc chín giờ ba mươi."

"Và cậu không biết Hunter đến đây lúc mấy giờ hôm qua?"

"Tôi sợ là mình không thể nói nhiều hơn, thưa ông!"

Chà, đành vậy thôi, Spence nghĩ.

Ông tự hỏi liệu có bất cứ điều gì đằng sau việc David từ chối nói ra ngoại trừ sự thách thức thuần khiết như trẻ con. Anh ta phải nhận ra rằng một tội danh giết người đang lơ lửng trên đầu anh ta. Chắc chắn anh phải thấy rằng càng sớm kể câu chuyện của mình thì càng tốt. Đối kháng với cảnh sát chẳng bao giờ là tốt cả. Nhưng đối kháng với cảnh sát, ông nghĩ một cách vô lực, có thể là những gì David Hunter sẽ thích làm.

Họ nói chuyện rất ít trên đường đi. Khi họ đến nhà xác Rosaleen Cloade trông tái mét. Tay cô run rẩy. David có vẻ lo lắng cho cô ấy. Anh nói với cô như thể cô là một đứa trẻ nhỏ.

"Chỉ mất một hai phút thôi, Rosaleen. Không có gì đâu, không có gì. Đừng kích động. Em đi vào với ngài thanh tra và anh sẽ đợi ở đây. Và không có gì phải lo lắng cả. Anh ta sẽ trông rất bình yên và nhìn như thể đang ngủ vậy."

Cô cho anh cái gật đầu và chìa tay ra. Anh hơi siết chặt nó.

"Hãy dũng cảm lên nào, cô bé."

Khi cô đi vào với chánh thanh tra cô nói nhỏ nhẹ: "Chắc là ông đã nghĩ tôi là kẻ nhát gan tệ hại. Ngài thanh tra. Nhưng khi tất cả mọi người đều chết trong nhà - tất cả trừ ông - cái đêm đó ở London -"

Ông nhẹ nhàng nói: "Tôi hiểu, cô Cloade. Tôi biết cô đã có một kí ức kinh khủng ở Blitz khi chồng cô bị giết. Thật đấy, nó chỉ mất một hai phút thôi."

Spence ra dấu và tấm khăn trắng được lật lại. Rosaleen Cloade nhìn xuống người đàn ông tự xưng là Enoch Arden. Spence, không ngần ngại đứng sang một bên, đang thực sự quan sát cô thật kĩ càng.

Cô tò mò nhìn người đàn ông đã chết và như đang tự hỏi - cô không bắt đầu, không có dấu hiệu của cảm xúc hay sự công nhận, chỉ nhìn lâu và thắc mắc về anh ta.

Và rồi, không tiếng động, như một chuyện hiển nhiên, cô đưa tay làm dấu chữ thập.

"Cầu Chúa cứu rỗi linh hồn anh," cô nói. "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy người đàn ông này trong đời. Tôi không biết anh ta."

Spence tự nhủ:

"Hoặc cô là một diễn viên giỏi nhất mà tôi từng gặp hoặc là cô đang nói sự thật."

Sau đó, Spence cho gọi Rowley Cloade.

"Tôi đã dẫn cô góa phụ xuống," ông nói. "Cô ấy khẳng định rằng anh ta không phải Robert Underhay, và chưa gặp anh ta bao giờ. Vậy là thế đấy!"

Có một khoảng ngừng. Rồi Rowley chậm rãi nói:

"Vậy là xong à?"

"Tôi nghĩ là thẩm phán sẽ tin cô ấy - tất nhiên là nếu không có bằng chứng ngược lại."

"Vâ - vâng," Rowley nói và rời đi.

Rồi, mày nhíu lại, anh cầm lên không phải danh bạ điện thoại địa phương, mà là London. Ngón tay anh tra dần xuống chữ cái P. Và anh tìm thấy thứ mình cần kiếm.

Hết quyển 1

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#saas