Phần Không Tên 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quyển 2

Chương 1

Poirot cẩn thận gấp lại tờ báo mà ông đã nhờ George ra ngoài mua. Tin tức người ta đưa lên thật ít ỏi. Bằng chứng pháp y cho thấy rằng hộp sọ của người đàn ông bị nứt bởi một loạt các cú đánh mạnh. Cuộc điều tra đã bị hoãn lại trong một hai tuần. Bất cứ ai có thể cung cấp thông tin về người đàn ông tên Enoch Arden được cho là vừa đến Cape Town gần đây đều được yêu cầu liên lạc với cảnh sát trưởng ở Oatshire.

Poirot trải tờ báo thành một chồng ngay ngắn và rơi vào trầm tư. Ông rất hứng thú. Ông hẳn là đã bỏ qua ngay đoạn đầu tiên mà không chút chú ý nếu không phải vì chuyến viếng thăm gần đây của quý bà Lionel Cloade. Đã thế chuyến thăm ấy khiến ông nhớ lại rất rõ về sự cố xảy ra ngày đó tại câu lạc bộ trong cuộc không kích. Poirot nhớ rất rõ ràng giọng của đại tá Porter kể lại rằng, "Chắc hẳn cái cậu Enoch Arden sẽ xuất hiện ở đâu đó cách cả ngàn dặm và bắt đầu cuộc sống mới." Giờ thì ông lại cực kì muốn biết rõ hơn về người đàn ông Enoch Arden này, người được cho là đã chết một cách kinh khủng tại Warmsley Vale.

Ông nhớ là mình có chút quen biết với chánh thanh tra Spence nơi cảnh sát Oatshire, và còn cậu chàng Mellon sống ở gần Warmsley Heath, hình như cậu ta quen biết với Jeremy Cloade.

Trong lúc ông đang suy tính đến việc gọi điện thoại cho anh chàng Mellon này thì George bước vào và thông báo rằng có cậu Rowley Cloade muốn gặp ông.

"À há," Hercule Poirot vui vẻ nói. "Dẫn cậu ta vào đi."

Một thanh niên đẹp trai trông lo lắng đã xuất hiện, dường như anh không biết làm thế nào để mở lời.

"Chà, cậu Cloade," Poirot tốt bụng hỏi, "Tôi có thể giúp gì cho cậu?"

Rowley Cloade đang đánh giá Poirot đầy nghi ngờ. Bộ ria mép loè loẹt, quần áo cắt may thanh lịch, ống ôm giày màu trắng màu trắng với đôi giày da mũi nhọn, tất cả đều khiến chàng trai trẻ thiển cận trước mắt này nghi ngại một cách lộ liễu.

Poirot hoàn toàn nhận ra điều này, và phần nào cảm thấy thích thú.

Rowley Cloade mở lời nặng nề:

"Tôi cho là mình phải giải thích rằng tôi là ai hay đại loại thế. Ông không biết tên của tôi -"

Poirot cắt ngang:

"À vâng, tôi biết cậu rất rõ đấy. Chẳng là dì của cậu đã đến gặp tôi tuần trước ấy mà."

"Dì tôi?" Rowley há hốc miệng.

Anh mở to mắt nhìn Poirot đầy kinh ngạc.

Trông cậu ta có vẻ như mới nghe tin này lần đầu, khiến cho Poirot bỏ qua phỏng đoán ban đầu là hai cuộc gặp mặt này có liên quan với nhau.

Trong một lúc ông thấy việc hai thành viên của nhà Cloade đến gặp ông để nhờ tư vấn trong một khoảng thời gian ngắn như vậy thật là quá trùng hợp, nhưng sau đó ông nhận ra chẳng có sự trùng hợp nào cả - chỉ đơn thuần là một chuỗi sự kiện liên đới nhau từ một nguyên nhân ban đầu.

Poirot mở miệng:

"Tôi đoán rằng bà Lionel Cloade là dì của cậu."

Nhìn Rowley còn kinh ngạc hơn trước đó nữa.

Anh hỏi với sự hoài nghi tột độ:

"Dì Kathie? Ông có chắc - đó không phải là dì Jeremy Cloade chứ?"

Poirot lắc đầu.

"Dì Kathie làm gì mà lại -"

Poirot kín đáo lầm bầm:

"Theo tôi hiểu là, bà ấy được dẫn lối bởi các linh hồn đến đây."

"Chúa ơi!" Rowley kêu lên. Trông anh vừa nhẹ nhõm vừa thích ý. Anh nói, như muốn trấn an Poirot, "Dì ấy khá vô hại, ông thấy đấy."

"Là vậy à," ông trả lời.

"Ý ông là sao?"

"Có người nào - thật sự - là vô hại không?"

Rowley nhìn chằm chằm. Poirot thở dài.

"Cậu đến đây để hỏi tôi điều gì đó? - phải không?" Ông nhẹ nhàng nhắc nhở.

Nét lo lắng quay lại trên khuôn mặt Rowley.

"Tôi sợ rằng nó là một câu chuyện dài -"

Poirot cũng lo như thế. Ông có ý tưởng chắc chắn rằng Rowley Cloade không phải là kiểu người sẽ vào ngay trọng điểm. Ông dựa người ra sau, hơi khép mắt lại khi Rowley bắt đầu:

"Chú của tôi, ông biết đấy, là Gordon Cloade -"

"Tôi biết rất rõ mọi thứ về Gordon Cloade," Poirot nói đầy thiện chí.

"Tốt. Thế thì tôi không cần phải giải thích nữa. Chú ấy đã kết hôn vài tuần trước khi mất - một góa phụ trẻ tên Underhay. Kể từ khi chú ấy mất cô ấy đã chuyển về sống ở Warmsley Vale - cùng với ông anh trai của cô ấy. Tất cả chúng tôi đều cho là chồng trước của cô ấy đã chết vì dịch sốt ở Châu Phi. Nhưng giờ thì có vẻ như mọi chuyện lại không phải vậy."

"À," Poirot ngồi thẳng dậy, "Và điều gì khiến cậu đi đến kết luận đấy."

Rowley mô tả sự xuất hiện của ông Enoch Arden tại Warmsley Vale.

"Chắc là ông đã nhìn thấy trên báo -"

"Vâng, tôi thấy rồi," Poirot tỏ ra hữu ích lần nữa.

Rowley tiếp tục. Anh kể lại ấn tượng đầu tiên về người đàn ông Arden, chuyến ghé thăm đến Stag, lá thư anh nhận được từ Beatrice Lippincott và cuối cùng là đoạn đối thoại mà Beatrice nghe lén được.

"Dĩ nhiên," Rowley nói, "Đâu thể chắc chắn là cô ấy đã nghe thấy gì. Cô ấy có thể là hơi nói quá một tí - hay thậm chí là nhầm nữa."

"Cô ấy đã nói việc đó cho cảnh sát chưa?"

Rowley gật đầu. "Tôi đã nói là cô ấy nên thế."

"Tôi không hiểu được - xin thứ lỗi - là cậu đến tìm tôi làm gì, cậu Cloade? Cậu muốn tôi điều tra việc này - một vụ giết người? Tôi đoán nó hẳn phải là vụ giết người nhỉ."

"Lạy Chúa, không," Rowley nói, "Tôi không muốn bất kì điều gì liên quan đến đó cả. Đấy là việc của cảnh sát. Mà có vẻ hắn ta bị ngã chết mà. Không, cái tôi muốn biết là việc này. Tôi muốn tìm ra gã đó là ai."

Poirot nheo mắt lại.

"Cậu nghĩ hắn ta là ai, Cloade?"

"Chà, ý tôi là - Enoch Arden đâu phải cái tên. Ôi quên đi, nó chỉ là trò trích dẫn thôi. Thơ của Tennyson. Tôi đã kiểm tra và mò ra nó. Bài thơ về cái gã trở về nhà và nhận ra vợ mình đã cưới người khác."

"Vậy là cậu nghĩ," Poirot lẳng lặng nói, "Enoch Arden chính là Robert Underhay à?"

Rowley chậm rãi nói:

"Chậc, có thể lắm chứ - ý tôi là, độ tuổi tương đương rồi còn hình thể và những cái khác nữa. Dĩ nhiên tôi đã hỏi đi hỏi lại Beatrice nhiều lần rồi. Cô ấy không thể nhớ chính xác được những gì mà họ đã nói. Gã đó bảo Robert Underhay đã quay lại thế gian này nhưng lại đau ốm và cần tiền. Cũng có thể hắn ta đang nói về bản thân mình lắm chứ? Hắn ta đã nói gì đó về việc sẽ bất lợi cho David Hunter nếu việc Underhay xuất hiện ở Warmsley Vale lộ ra - nghe có vẻ như hắn ta đã ở đó dưới cái tên giả."

"Có bằng chứng nhân dạng gì trong cuộc điều tra không?"

Rowley lắc đầu.

"Không có gì xác định. Chỉ có mấy người ở Stag bảo rằng hắn ta đến và đăng kí với cái tên Enoch Arden."

"Vậy còn giấy tờ tuỳ thân?"

"Không có gì cả."

"Cái gì?" Poirot bật dậy ngạc nhiên, "Không có bất kì giấy tờ gì á?"

"Hoàn toàn không. Vài đôi vớ dự phòng cùng áo sơ mi với bàn chải, vân vân - nhưng không giấy tờ."

"Không hộ chiếu? Thư từ? Thậm chí là phiếu nhận lương thực?"

"Chẳng có gì hết."

"Điều đó," Poirot nói, "Thật là thú vị. Phải, rất thú vị."

Rowley tiếp tục: "David Hunter, anh trai của Rosaleen Cloade, đã hẹn gặp hắn vào buổi tối sau khi hắn đến. Anh ta khai với cảnh sát rằng mình nhận đươc thư của gã đó bảo hắn ta là bạn của Robert Underhay và đang ở dưới đây. Theo đề nghị của em gái anh ta đến gặp gã ta và đưa cho hắn một số tiền. Đấy là câu chuyện của anh ta và ông có thể chắc là anh ta sẽ bám lấy nó! Tất nhiên là cảnh sát không hé răng gì về vụ nghe lỏm của Beatrice."

"David Hunter bảo rằng không hề quen biết hắn ta trước đây?"

"Anh ta nói vậy đấy. Dù sao thì, tôi đồ là anh ta chưa bao giờ gặp Underhay."

"Còn Rosaleen Cloade?"

"Cảnh sát đã bảo cô ấy xác nhận cái xác phòng khi cô ấy quen người đó. Cô ấy bảo đó hoàn toàn là người lạ với cô ấy."

"Rất tốt," Poirot nói, "Đấy chính là đáp án cho câu hỏi của cậu đó!"

"Vậy ư?" Rowley đáp thẳng, "Tôi không nghĩ thế. Nếu người chết là Underhay, vậy thì Rosaleen không được công nhận là vợ chú tôi và cô ấy sẽ không được hưởng đồng nào từ tiền của chú ấy cả. Ông có nghĩ cô ấy sẽ thừa nhận trong trường hợp đó không?"

"Cậu không tin cô ấy?"

"Tôi không tin ai cả."

"Chắc phải có nhiều người có thể xác nhận được nạn nhân có đúng là Underhay hay không chứ?"

"Không dễ vậy đâu. Đó là việc tôi muốn ông giúp. Tìm ra ai đó biết Underhay. Có vẻ như người đó không có thân nhân nào tại đất nước này - và hắn ta vẫn luôn là kẻ cô đơn ít giao du bên ngoài. Tôi đoán hẳn phải có người hầu cũ - bạn bè - ai đó - nhưng chiến tranh đã làm mọi thứ tan nát và khiến người ta thay đổi. Tôi không biết phải làm việc đó như thế nào - dù sao thì tôi cũng không có thời gian. Tôi là một nông dân - và đang thiếu người phụ."

"Sao lại là tôi?" Poirot hỏi.

Rowley hơi xấu hổ.

Có chút lấp lánh nơi mắt của Poirot.

"Linh hồn dẫn lối à?"

"Trời ạ, không," Rowley kinh khủng nói.

"Thực ra thì," anh ngập ngừng, "Tôi có nghe một người bạn nói về ông - bảo rằng ông như ảo thuật gia trong lĩnh vực này. Tôi không biết chi phí của ông thế nào - chắc là đắt - bọn tôi thì rỗng túi, nhưng tôi dám cá là nếu chúng tôi cùng góp thì cũng được chút đỉnh. Ấy là nếu như ông nhận việc."

Hercule Poirot chậm rãi nói:

"Được rồi, tôi nghĩ là tôi có thể giúp cậu."

Trí nhớ chính xác và tuyệt đỉnh của ông, đang dần mở ra. Kẻ phá rối câu lạc bộ, tiếng tờ báo xào xạc, giọng nói đều đều.

Cái tên - ông đã nghe qua cái tên - nó sẽ xuất hiện trở lại sớm thôi. Nếu không thì ông có thể gọi hỏi Mellon... Khoan, ông đã biết rồi. Porter. Đại tá Porter.

Hercule Poirot đứng dậy.

"Cậu có thể quay trở lại vào buổi chiều chứ, Cloade?"

"Ồ - tôi không biết. Vâng, tôi nghĩ mình có thể. Nhưng ông có thể làm gì trong khoảng thời gian ngắn đó chứ?"

Anh nhìn Poirot với ánh mắt ngạc nhiên và nghi ngờ. Poirot chắc sẽ còn ít giống người hơn nếu ông có thể cưỡng lại sự cám dỗ để thể hiện. Với kí ức về một người tiền nhiệm xuất sắc trong tâm trí, ông trang trọng nói:

"Tôi có cách của mình, cậu Cloade."

Đó rõ ràng là câu trả lời đúng đắn. Thái độ của Rowley trở nên kính trọng thấy rõ.

"Vâng - dĩ nhiên - thiệt tình - tôi không hiểu được các ông làm những việc này như thế nào."

Poirot không cho cậu ta biết gì cả. Khi Rowley rời đi, ông ngồi xuống viết một mẩu tin nhắn. Đưa cho George và dặn cậu ta đem đến câu lạc bộ Đăng Quang rồi chờ câu trả lời.

Lời hồi đáp cực kì thoả mãn.

Đại tá Porter gửi lời thăm hỏi tới quý ông Poirot và rất vui lòng được gặp ông cùng bạn tại số 79 đường Edgeway, Campden Hill, vào buổi chiều lúc năm giờ.

Lúc bốn giờ ba mươi Rowley Cloade xuất hiện trở lại.

"Có gặp may tí nào không, ông Poirot?"

"Ô có đấy, Cloade, bây giờ chúng ta sẽ đến gặp một người bạn cũ của đại uý Robert Underhay ngay đây."

"Sao cơ?" Rowley há hốc mồm. Anh nhìn Poirot với sự kinh ngạc như một cậu nhóc nhìn ảo thuật gia kéo con thỏ ra từ một cái mũ. "Thật tuyệt vời! Tôi không thể hiểu được sao ông có thể làm được vậy - trời, chỉ mới có vài tiếng thôi mà."

Poirot vẫy vẫy tay và cố tỏ vẻ khiêm tốn. Ông không có ý định tiết lộ sự đơn giản trong thủ thuật lừa đảo mà ông đã thực hiện được. Sự phù phiếm trong ông rất vui khi gây ấn tượng với cậu chàng Rowley đơn thuần này.

Hai người đàn ông cùng đi ra ngoài, bắt chiếc tắc xi đến Campden Hill.

Đại tá Porter sống ở tầng một trong căn nhà nhỏ xập xệ. Họ được đón bởi một người phụ nữ có vẻ ngoài xởi lởi vui vẻ, bà dẫn họ lên lầu. Đó là căn phòng vuông với hàng kệ sách bao quanh và những tấm áp phích thể thao hơi xấu. Có hai tấm thảm trên sàn - những tấm thảm tốt với màu dịu nhẹ dễ thương nhưng đã sờn. Poirot để ý là giữa tấm thảm có một lớp véc ni dày được đánh lên gần đây trong khi lớp véc ni ngoài rìa và quanh góc thì cũ hơn và bị chà sát. Ông bỗng nhận ra đã có những tấm thảm tốt hơn cho đến gần đây - những tấm thảm đáng tiền thời buổi này. Ông nhìn lên người đàn ông đang đứng thẳng bên lò sưởi trong bộ đồ tồi tàn được cắt may kỹ lưỡng.

Poirot đoán rằng với đại tá Porter, cựu quân nhân về hưu này, cuộc sống có vẻ khá là chắt chiu. Thuế má cùng chi phí trang trải cuộc sống đã đánh nặng vào con ngựa chiến già này.

Poirot nghĩ, có những thứ ông ấy sẽ bám víu lấy cho đến cùng. Tiền đăng ký câu lạc bộ chẳng hạn.

Đại tá Porter nói nhát gừng.

"E là tôi không nhớ mình đã từng gặp ông, ông Poirot. Ông nói là ở câu lạc bộ à? Vài năm trước chăng? Tất nhiên là có nghe qua tên ông."

"Đây," Poirot nói, "Là cậu Rowland Cloade."

Đại tá gật đầu như đáp lại lời giới thiệu đó.

"Cậu thế nào?" Ông nói, "Sợ là tôi không thể mời cậu một ly sherry được rồi. Thực ra thì số rượu của tôi đã đi tong từ hồi ở Blitz. Có gin đấy. Thứ rác rưởi, tôi luôn cho là thế. Hay là làm ly bia nhé?"

Họ chấp nhận bia. Đại tá Porter đưa ra hộp xì gà.

"Hút không?" Poirot nhận một điếu. Đại tá đánh diêm để châm lửa cho điếu xì gà của Poirot.

"Cậu không hút, tôi biết," đại tá nói với Rowley, "Có phiền không nếu tôi dùng tẩu của mình?"

Ông rít ống tẩu và nhả khói ra nhiều lần.

"Giờ thì," ông đặt câu hỏi khi mấy bước chào hỏi đã hoàn thành, "Tất cả chuyện này là thế nào?"

Ông ngẩng lên nhìn từ người này sang người khác.

Poirot hỏi: "Ông có đọc tin tức trên báo về cái chết của một người đàn ông ở Warmsley Vale?"

Porter lắc đầu.

"Có thể lắm. Không biết nữa."

"Tên nạn nhân là Arden. Enoch Arden?"

Porter vẫn lắc đầu.

"Nạn nhân được tìm thấy tại Quán trọ Stag với vết đập ở sau đầu."

Porter nhíu mày.

"Để xem nào - à, có thấy tin tương tự - hình như là vài ngày trước."

"Phải, tôi có một tấm hình ở đây - nó là hình từ báo nên không rõ cho lắm, tôi e là thế! Cái chúng tôi muốn biết là, liệu ông có thấy người đàn ông này trước đây không, đại tá Porter?"

Ông đưa ra tấm hình rõ nhất của khuôn mặt người chết mà ông có thể tìm thấy được.

Đại tá Porter cầm lấy và nhăn mày.

"Đợi đã." Đại tá lấy cái kính ra, chỉnh lại trên mũi rồi nhìn tấm hình thật sát - rồi ông chợt giật nảy lên.

"Chúa ban phước lành!!" Ông nói. "Ôi, chết tiệt thật!"

"Ông biết người đó sao, đại tá?"

"Dĩ nhiên là tôi biết rồi. Là Underhay - Robert Underhay!"

"Ông chắc chắn chứ?" Có sự đắc thắng trong giọng của Rowley.

"Đương nhiên là chắc rồi. Robert Underhay! Tôi dám thề đấy."

Chương 2

Chuông điện thoại reo lên Lynn đi đến nhấc máy.

Là giọng của Rowley.

"Lynn?"

"Rowley?"

Giọng cô nghe có vẻ buồn bã. Anh hỏi:

"Em đang làm gì? Dạo này anh không thấy em."

"À, chà - việc linh tinh thôi - anh biết đấy. Cầm giỏ chạy vòng vòng, đứng đợi cá và xếp hàng để thử một cái bánh kem vị thật kinh tởm. Những chuyện như thế đấy. Cuộc sống ở nhà."

"Anh muốn gặp em. Có chuyện này phải nói cho em biết."

"Là chuyện gì?"

Anh cười khẽ.

"Chuyện tốt. Gặp ở Rolland Copse nhé. Bọn anh đang cày trên đó."

Chuyện tốt à? Lynn đặt ống nghe xuống. Đối với Rowley Cloade thì chuyện tốt có thể là gì? Tài chính? Chẳng lẽ anh ấy đã bán được con nghé nào đó với giá hời hơn mong đợi chăng?

Không, cô nghĩ có lẽ là hơn thế nữa. Khi cô đi dọc cánh đồng tới Rolland Copse, Rowley bước xuống máy cày đến gặp cô.

"Xin chào, Lynn."

"Ô, Rowley - trông anh - có vẻ hơi khác?"

Anh cười.

"Anh nghĩ có lẽ là vậy. Chúng ta sắp đổi vận rồi, Lynn!"

"Ý anh là sao?"

"Em có nhớ chú Jeremy từng đề cập đến một người tên Hercule Poirot không?"

"Hercule Poirot?" Lynn nhíu mày. "Vâng, em hình như có nhớ -"

"Cách đây lâu lắm rồi. Khi vẫn còn đang chiến tranh ấy. Họ cùng ở trong một câu lạc bộ dưới tầng hầm gì đó khi có cuộc không kích diễn ra."

"Thì sao?" Lynn mất kiên nhẫn.

"Ông ta mặc bộ đồ không phù hợp chút nào cả. Người Pháp - hoặc là Bỉ. Nhìn có vẻ không đáng tin nhưng thực ra lại rất có năng lực đấy."

Lynn nhíu chặt lông mày.

"Không phải ông ta - là thám tử sao?"

"Đúng vậy. Ờ, em biết cái người đã chết trong nhà trọ Stag ấy mà. Anh không kể với em nhưng có ý tưởng rằng hắn ta rất có thể là người chồng trước của Rosaleen Cloade."

Lynn bật cười.

"Chỉ bởi vì người đó tự xưng là Enoch Arden? Thật là ý tưởng vớ vẩn!"

"Không vớ vẩn đâu, cô gái. Ông Spence đã dẫn Rosaleen xuống nhìn mặt hắn ta. Cô ấy thề thốt chắc chắn rằng đó không phải chồng mình."

"Vậy là kết thúc rồi?"

"Có thể lắm," Rowley nói. "Ngoại trừ anh!"

"Trừ anh? Anh đã làm gì?"

"Anh đến gặp cái người tên Hercule Poirot này. Anh nói rằng mình muốn có thêm ý kiến khác nữa. Hỏi xem ông ấy có thể kiếm thêm một người khác có quen với Robert Underhay không? Lạy Chúa, ông ấy thật sự cứ như phù thuỷ ấy! Như mấy con thỏ chui ra từ nón vậy. Ông ấy tìm thấy một người là bạn thân của Underhay chỉ trong vài giờ. Một lão già tên Porter."

Rowley ngừng lại. Rồi anh bật cười lần nữa với một sự phấn khởi khiến cho Lynn giật mình kinh ngạc. "Giờ thì giữ bí mật vụ này nhé Lynn. Cảnh sát bắt anh bưng kín miệng - nhưng anh muốn em biết. Người chết chính là Robert Underhay."

"Cái gì?" Lynn bước lui ra sau. Cô thất thần nhìn Rowley.

"Đích thị là Robert Underhay. Porter hoàn toàn khẳng định thế mà. Vậy nên em thấy đó Lynn -" Giọng Rowley trở nên vui vẻ - "Chúng ta đã thắng! Sau tất cả, chúng ta đã thắng! Chúng ta đã đánh bại bọn lừa đảo chết tiệt đó!"

"Bọn lừa đảo chết tiệt nào?"

"Hunter và em gái hắn ta. Bọn họ thua rồi - thua trắng. Rosaleen sẽ không hưởng tiền của Gordon. Chúng ta sẽ có. Nó là của chúng ta! Di chúc mà Gordon lập trước khi chú ấy kết hôn vẫn giữ hiệu lực và sẽ được chia đều cho chúng ta. Anh sẽ thừa hưởng một phần tư. Thấy không? Nếu người chồng đầu tiên của Rosleen vẫn còn sống khi cô ấy kết hôn với Gordon, tức là cô ta không thể có cưới xin gì với Gordon hết!"

"Anh có - anh có chắc về những điều đó không?"

Anh nhìn cô chăm chăm, lần đầu tiên anh tỏ ra hơi khó hiểu.

"Tất nhiên là chắc rồi! Đơn giản mà. Mọi chuyện đều ổn rồi. Trở lại như những gì mà chú Gordon từng muốn. Mọi chuyện đều trở lại bình thường như thể cặp đôi kia không hề chen ngang vào."

Mọi chuyện đều như cũ. Nhưng Lynn nghĩ, họ làm sao có thể gạt bỏ hết mọi thứ đã xảy ra được. Làm sao có thể giả vờ chúng chưa từng xuất hiện chứ. Cô chậm rãi nói:

"Họ sẽ làm gì đây?"

"Hả?" Lynn nhận thấy ngay lúc đó Rowley chưa hề cân nhắc đến câu hỏi ấy.

"Anh không biết. Chắc là quay trở lại từ nơi họ đã tới. Anh nghĩ, em biết đó -" cô thấy anh đang từ từ liền mạch hơn. "Ừ. Anh thấy là chúng ta nên làm gì đó cho cô ấy. Dù sao thì cô ấy cũng hoàn toàn tin rằng mình đã cưới Gordon. Có thể cô ấy cho rằng người chồng trước của mình thật sự đã chết. Không phải lỗi của cổ. Phải, chúng ta nên làm gì đó - đưa tiền tiêu vặt chẳng hạn. Tất cả không ai nợ ai."

"Anh thích cô ấy đúng không?" Lynn hỏi.

"Ừ, phải." Rowley cân nhắc. "Theo nghĩa nào đó. Cô ấy là người tốt. Và nhận biết được một con bò như thế nào khi thấy nó."

"Em thì không," Lynn nói.

"Em sẽ học được thôi," Rowley dịu dàng nói.

"Thế còn - David?" Lynn hỏi.

Rowley nhăn nhó.

"Quỷ tha ma bắt hắn đi! Dù sao cũng chẳng phải tiền của hắn. Hắn ta chỉ bám theo để dựa hơi em gái hắn thôi."

"Không, Rowley, không phải như vậy - không đâu. Anh ta không phải là kẻ ăn bám. Có - có thể là nhà thám hiểm chẳng hạn -"

"Và một tên giết người máu lạnh!"

Cô nói hụt hơi:

"Ý anh là gì?"

"Chà, chứ em nghĩ ai đã giết Underhay?"

Cô thảng thốt:

"Em không tin! Em không tin!"

"Đương nhiên chính hắn đã giết Underhay rồi! Còn ai vào đây nữa chứ? Hắn ta đã ở đấy hôm đó. Đi xuống bằng chuyến tàu năm giờ ba mươi. Anh đang có việc ở ga lúc ấy và bắt gặp hắn từ xa."

Lynn đáp trả:

"Anh ta đã trở về Luân Đôn buổi chiều."

"Sau khi giết chết Underhay," Rowley đắc ý nói.

"Anh không nên nói những điều như thế Rowley. Underhay bị giết lúc mấy giờ?"

"À, anh không biết chính xác," Rowley chững lại - suy nghĩ. "Chúng ta sẽ không biết cho đến buổi điều tra ngày mai. Anh đoán là khoảng từ chín đến mười giờ."

"David đã bắt chuyến tàu lúc chín giờ hai mươi để về Luân Đôn."

"Làm sao mà em biết được điều đó, Lynn?"

"Em - em gặp anh ta - đang chạy để bắt tàu."

"Sao em biết là anh ta bắt kịp tàu?"

"Vì anh ta gọi cho em lúc sau từ Luân Đôn."

Rowley giận dữ nhíu mày.

"Hắn gọi cho em làm cái quái gì? Nghe này, Lynn, chết tiệt nếu anh -"

"Ôi, có liên quan gì chứ Rowley? Dù sao thì nó cho thấy anh ta đã bắt chuyến tàu đó."

"Có rất nhiều thời gian để giết Underhay rồi bắt tàu."

"Không, nếu nạn nhân chết sau chín giờ."

"À, thế thì có thể là Underhay chết trước chín giờ đấy."

Nhưng giọng của anh có vẻ nghi ngờ. Lynn khẽ khép mắt lại. Có đúng là sự thật không? Khi David thở hổn hển, chửi rủa đi ra từ bụi rậm, đó có phải là kẻ giết người vừa thực hiện tội ác của mình đã nắm lấy tay cô không? Cô nhớ lại sự tò mò phấn khởi của anh - sự liều lĩnh trong tâm trạng anh? Liệu có phải là cách vụ giết người ảnh hưởng đến anh không? Có thể lắm. Cô phải thừa nhận vậy. Liệu David và kẻ giết người có tách biệt với nhau không? Anh ấy sẽ ra tay giết một người đàn ông không làm hại gì đến mình sao - một bóng ma đến từ quá khứ? Người mà tội lỗi duy nhất là chắn giữa Rosaleen và số tiền thừa kế - giữa David và sự tận hưởng tiền của Rosaleen.

Cô lẩm bẩm:

"Sao anh ta lại giết Underhay chứ?"

"Lạy Chúa, Lynn, em còn hỏi sao? Anh vừa bảo rồi mà! Underhay còn sống đồng nghĩa với việc chúng ta mới là người nhận tiền của Gordon! Dù sao thì, Underhay đang tống tiền hắn ta."

À, cái đấy có vẻ hợp lí hơn. David có thể giết một kẻ tống tiền lắm chứ - mà thực ra, đấy chắc hẳn sẽ là cách mà anh ta đối phó với kẻ tống tiền? Phải, tất cả đều hợp lí. Sự vội vàng của David, niềm phấn khởi - cách bày tỏ tình cảm quyết liệt, gần như giận dữ của anh. Rồi sau đó, cách anh từ bỏ cô. "Tôi nên làm rõ hơn..." Phải, nó rất hợp lí.

Từ nơi nào đó xa xôi, cô nghe thấy Rowley hỏi thăm:

"Chuyện gì thế, Lynn? Em không sao đấy chứ?"

"Vâng, tất nhiên."

"Ôi, vì Chúa, đừng có rầu rĩ thế chứ." Anh xoay người, nhìn xuống ngọn đồi Long Willows. "Cảm ơn trời đất, chúng ta có thể làm cho nơi này có ích hơn một chút - lấy vài món bảo hộ lao động mang vào đi - nhớ điều chỉnh cho hợp với em đấy. Anh không muốn em lọt thỏm trong đó đâu Lynn."

Nơi đó sẽ là nhà của cô - căn nhà đó. Nhà của cô với Rowley...

Và vào một buổi sáng lúc tám giờ, David đang cảm thấy nôn nóng đến độ vò đầu bứt tai...

Chương 3

Với khuôn mặt nhợt nhạt quyết tâm và đôi mắt cảnh giác, David đặt tay lên vai Rosaleen.

"Sẽ ổn thôi, anh cam đoan với em, mọi chuyện rồi sẽ ổn. Nhưng em phải giữ bình tĩnh và làm đúng như những gì anh nói."

"Nếu họ mang anh đi thì sao? Anh đã nói mà! Anh nói họ có thể sẽ mang anh đi."

"Phải, đó là một khả năng. Nhưng sẽ không lâu đâu. Nếu như em giữ bình tĩnh."

"Em sẽ làm những gì anh bảo, David."

"Vậy mới đúng chứ! Những gì em phải làm, Rosaleen, là cứ giữ vững câu chuyện của em. Hãy khẳng định là người chết không phải chồng của em, Robert Underhay."

"Họ sẽ bẫy em nói những điều em không muốn."

"Không - họ sẽ không. Anh nói rồi, sẽ ổn cả thôi."

"Không, điều đó không đúng - mọi chuyện vốn dĩ đã sai từ đầu rồi. Giành lấy số tiền vốn không thuộc về chúng ta. Đã nhiều đêm em nằm thức nghĩ về nó, David. Giành lấy thứ không thuộc về chúng ta. Chúa đang trừng phạt chúng ta vì sự xấu xa này."

Anh nhìn cô, mày nhíu lại. Con bé đang vỡ vụn - phải, nó chắc chắn đang vỡ vụn ra rồi.

Lúc nào cũng có vệt sáng của tín ngưỡng ở đó. Lương tâm của con bé chưa bao giờ yên ổn cả. Giờ thì, trừ phi anh cực kì may mắn, nếu không con bé đã hoàn toàn suy sụp rồi. Chà, chỉ còn một việc phải làm thôi.

"Nghe này, Rosaleen," anh nhẹ nhàng nói. "Em muốn anh bị treo cổ không?"

Mắt cô mở to trong kinh hoàng.

"Ôi, David, anh sẽ không - họ không thể -"

"Chỉ có một người duy nhất có thể khiến anh treo cổ - chính là em. Nếu như em lộ ra chỉ một lần thôi, bằng ánh nhìn hay thở dài hay từ ngữ nào đó, rằng cái người đã chết có thể là Underhay, thì em đã buộc thòng lọng vô cổ anh rồi đấy! Em có hiểu không?"

Phải, điều đó đã đánh trúng vấn đề. Cô nhìn anh chăm chăm với ánh mắt mở lớn đầy sợ hãi.

"Em thật ngu ngốc, David."

"Không, không đâu. Chỉ là trong trường hợp này em chưa lanh lẹ lắm thôi. Em phải đảm bảo thề thốt là người đàn ông đã chết đó không phải là chồng của em. Em làm được không?"

Cô gật đầu.

"Ra vẻ ngớ ngẩn nếu em muốn. Nhìn như thể em không hiểu rõ người ta đang hỏi em cái gì. Việc đấy không hại gì đâu. Nhưng phải giữ lập trường những điều anh vừa nói với em đấy. Gaythorne sẽ trông chừng em. Anh ta là một luật sư hình sự có khả năng đấy - đó là lí do anh thuê anh ta. Anh ta sẽ có mặt tại buổi điều tra và sẽ bảo vệ em khỏi bất kì sự chất vấn nào. Nhưng kể cả với anh ta cứ bám lấy câu chuyện của mình. Vì Chúa đừng cố tỏ ra thông minh hay nghĩ rằng em có thể giúp anh bằng mấy câu thoại em tự nghĩ ra."

"Em sẽ làm, David. Em sẽ làm chính xác những gì anh bảo."

"Cô bé ngoan. Khi mọi chuyện kết thúc chúng ta sẽ cao chạy xa bay - đến miền Nam nước Pháp - đến Mỹ. Trong lúc này, phải giữ gìn sức khoẻ đấy. Đừng có nằm thức trắng đêm, tự bồn chồn lo lắng không đâu. Uống mấy viên an thần mà bác sỹ Cloade kê cho em ấy - bromide hay gì đấy. Uống một viên mỗi đêm đi, vui vẻ lên, và nhớ là thời gian tươi đẹp sắp tới rồi."

"Giờ thì -" anh nhìn xuống đồng hồ. "Đến giờ bắt đầu buổi điều tra rồi. Họ triệu tập lúc mười một giờ."

Anh nhìn xung quanh căn phòng khách dài đẹp đẽ. Vẻ đẹp, thoải mái, sự giàu có...

Anh đã được tận hưởng mọi thứ. Một căn nhà tuyệt vời. Furrowbank. Có lẽ đây là lời tạm biệt rồi...

David đã bị vướng vào một mớ lộn xộn - điều đó là chắc chắn. Nhưng cho đến bây giờ anh không hề hối tiếc. Còn về tương lai - chà, anh sẽ tiếp tục đón nhận cơ hội. "Nắm lấy ngay khi cơ hội đến hoặc mất đi nuối tiếc về sau." Anh nhìn Rosaleen. Cô đang nhìn anh bằng đôi mắt hấp dẫn và trực giác anh biết cô muốn gì.

"Anh không giết hắn ta, Rosaleen," anh dịu dàng nói. "Anh xin thề nhân danh tất cả các vị thánh trên tờ lịch của em!"

Chương 4

Cuộc thẩm vấn điều tra diễn ra tại Cornmarket.

Nhân viên điều tra, ông Pebmarsh, là một người đàn ông nhỏ bé đeo kính và có ý thức về sự quan trọng của bản thân.

Ngồi bên cạnh ông ta là thân hình lực lưỡng của chánh tranh tra Spence. Ở một góc khuất hơn là một người đàn ông ngoại quốc nhỏ bé với bộ ria mép đen lớn. Các thành viên nhà Cloade: gia đình Jeremy Cloade, gia đình Lionel Cloade, Rowley Cloade, bà Marchmont và Lynn - tất cả đều có mặt. Đại tá Porter ngồi một mình, trông lo lắng và không thoải mái. David cùng Rosaleen đến cuối cùng. Họ tự ngồi ở góc riêng.

Nhân viên điều tra hắng giọng và liếc quanh bồi thẩm đoàn gồm chín người địa phương, bắt đầu các thủ tục thẩm vấn.

Cảnh sát viên Peacock...

Trung sĩ Vane...

Bác sỹ Lionel Cloade...

"Ông đang có buổi khám sức khoẻ với một bệnh nhân ở Stag thì Gladys Atkin đến tìm ông. Cô ấy đã nói gì?"

"Cô ấy thông báo rằng khách trú ở phòng số 5 nằm chết trên sàn."

"Theo phản xạ ông đã lên phòng số 5?"

"Đúng thế."

"Ông có thể mô tả mình đã thấy gì không?"

Bác sỹ Cloade kể ra. Xác người đàn ông... mặt úp xuống... đầu bị thương... mặt sau hộp sọ... cái cời lửa.

"Ông cảm thấy rằng những vết thương đó được gây ra bởi cây gậy trên?"

"Có vài vết chắc chắn là vậy."

"Nghĩa là đã có vài cú đập?"

"Vâng. Tôi đã không kiểm tra chi tiết vì nghĩ rằng nên gọi cho cảnh sát đầu tiên trước khi động đến hay dịch chuyển cái xác."

"Rất tốt. Người đàn ông đã chết rồi?"

"Vâng. Đã chết được vài giờ."

"Theo ông nghĩ thì nạn nhân đã chết được bao lâu?"

"Tôi không chắc về sự chính xác tuyệt đối đâu. Ít nhất là mười một tiếng - cũng có thể là mười ba hoặc mười bốn - đặt giả thiết là khoản từ 7.30 đến 10.30 buổi tối trước đó."

"Cảm ơn, bác sỹ Cloade."

Sau đó đến bác sỹ pháp y cảnh sát - đưa ra một mô tả đầy đủ và chi tiết mô tả các vết thương. Có một sự mài mòn và sưng ở hàm dưới và năm hoặc sáu cú đánh đã được đánh vào đáy hộp sọ, một số trong đó đã được đánh thêm sau khi chết.

"Đó là một cuộc tấn công rất hung bạo?"

"Chính xác."

"Có cần phải rất khỏe để đánh được những cú như vậy không?"

"K-không, không nhất thiết là sức mạnh. Cây cời lửa đó nếu nắm chặt ở phía cán, thì có thể dễ dàng vung lên mà không mất chút sức nào. Đầu sắt nặng ở trước cây gậy có thể là vũ khí rất tốt. Một người mảnh mai cũng có thể gây ra những thương tích đó, ấy là, nếu như họ bị tác động bởi trạng thái điên cuồng."

"Cảm ơn bác sỹ."

Chi tiết về tình trạng của cơ thể nạn nhân như sau - dinh dưỡng tốt, khoẻ mạnh, tầm bốn mươi lăm tuổi. Không có dấu hiệu về bệnh tật hay triệu chứng nào - tim, phổi, vân vân, đều tốt.

Beatrice Lippincott đã đưa ra bằng chứng về sự xuất hiện của người quá cố. Ông ta đã đăng ký là Enoch Arden, Cape Town.

"Người chết có đưa ra phiếu nhận lương thực không?"

"Không, thưa ông."

"Cô có hỏi nạn nhân không?"

"Lúc đầu thì không. Tôi không biết người đó sẽ ở bao lâu."

"Nhưng cô cũng phải hỏi chứ?"

"Có ạ. Ông ta đến vào thứ Sáu thì thứ Bảy tôi đã bảo nếu ông có ý định ở lại hơn năm ngày thì có thể đưa tôi phiếu nhận lương thực của ông không."

"Ông ấy đã nói gì?"

"Nói là sẽ đưa cho tôi."

"Nhưng ông ấy không làm thế?"

"Không."

"Ông ấy không nói gì đến việc mình làm mất nó à? Hay là không có?"

"Ồ, không. Ông ấy chỉ bảo, "Tôi sẽ tìm rồi đưa nó cho cô."

"Cô Lippincott, có phải là, vào tối thứ Bảy, cô đã nghe thấy một đoạn đối thoại?"

Với rất nhiều lời giải thích công phu về sự cần thiết vì sao cô ấy lại đến xem phòng số 4, Beatrice Lippincott kể câu chuyện của mình. Nhân viên điều tra hướng dẫn cô một cách khéo léo.

"Cảm ơn. Cô có kể câu chuyện mà mình đã nghe được này cho ai khác không?"

"Vâng, tôi có kể cho Rowley Cloade."

"Tại sao lại là cậu Cloade?"

"Tôi nghĩ là anh ấy cần biết." Beatrice lúng túng.

Một người đàn ông cao gầy (ông Gaythorne) đứng dậy và xin phép được đặt câu hỏi.

"Trong suốt cuộc trò chuyện giữa nạn nhân và cậu David Hunter, nạn nhân có lúc nào khẳng định chắc chắn rằng bản thân mình là Robert Underhay không?"

"Không - không - không có."

"Vậy nghĩa là nạn nhân nói đến "Robert Underhay" giống như thể đó là một người hoàn toàn khác?"

"Vâng - vâng, đúng thế."

"Cảm ơn, điều tra viên, đó là những gì tôi muốn làm rõ."

Beatrice Lippincott ngồi xuống và Rowley Cloade được gọi lên.

Anh xác nhận rằng Beatrice đã lặp lại câu chuyện với anh và sau đó đưa lời kể của mình về cuộc trò chuyện với người đã chết.

"Lời cuối cùng của nạn nhân nói với cậu là, 'Tôi không nghĩ cậu có thể chứng minh việc đó nếu không có sự hợp tác của tôi?' 'Việc đó' - chính là việc Robert Underhay vẫn còn sống."

"Phải, ông ta đã nói như thế. Rồi ông ta cười."

"Đã cười à? Cậu tiếp nhận những lời nói đó như thế nào?"

"Chà - tôi cho là ông ta muốn tôi đưa ra đề nghị gì đó, nhưng sau đấy tôi lại nghĩ -"

"Phải, cậu Cloade - nhưng cậu nghĩ gì sau đó cũng chẳng có mấy liên quan gì cả. Chúng ta có thể hiểu là kết quả của cuộc trò chuyện đấy đã khiến cậu quyết định tìm một người quen biết với Robert Underhay quá cố? Và với sự giúp đỡ, cậu đã thành công."

Rowley gật đầu.

"Đúng vậy."

"Cậu từ biệt nạn nhân lúc mấy giờ?"

"Theo như tôi có thể nhớ là chín giờ kém năm."

"Sao cậu lại khẳng định khung giờ đó?"

"Khi tôi đi bộ ra đường tôi nghe tiếng chuông báo chín giờ qua một cửa sổ mở."

"Nạn nhân có nhắc đến việc hẹn gặp người khách đó lúc mấy giờ không?"

"Ông ta nói 'Bất kì lúc nào'."

"Không nói đến tên người nào à?"

"Không."

"David Hunter!"

Chỉ có một tiếng xì xào khẽ vang khi cư dân của Warmsley Vale ngoẹo cổ để nhìn chàng thanh niên cao gầy trông khó chịu đang đứng đối diện với người thẩm tra.

Cuộc sơ khảo diễn ra nhanh chóng. Thẩm tra viên hỏi:

"Anh đã đến gặp nạn nhân vào tối thứ Bảy?"

"Phải. Tôi nhận được thư nhờ hỗ trợ từ ông ta và khẳng định rằng ông ta biết chồng cũ của em gái tôi ở Châu Phi."

"Anh có giữ lá thư đó không?"

"Không, tôi không giữ thư từ."

"Anh đã nghe qua lời kể của Beatrice Lippincott về đoạn đối thoại giữa anh và nạn nhân. Đó có đúng là sự thật không?"

"Không hẳn. Nạn nhân kể là biết người em rể quá cố của tôi, than phiền về vận rủi của mình và việc phải hoà nhập với thế giới, van nài sự hỗ trợ tài chính mà có vẻ như ông ta tự tin chắc chắn rằng mình sẽ hoàn trả lại được."

"Ông ta có bảo là Robert Underhay còn sống không?"

David mỉm cười:

"Hiển nhiên không. Ông ta nói, 'Nếu Robert còn sống chắc chắn cậu ta sẽ giúp tôi.'"

"Điều này có vẻ hơi khác với những gì Beatrice Lippincott đã kể."

"Mấy kẻ nghe lén," David nói, "thường chỉ nghe một phần những gì đang diễn ra rồi kết luận sai mọi thứ bằng việc thoả lấp chỗ trống bị thiếu bằng trí tưởng tượng giàu có của mình."

Beatrice tức giận kêu lên, "Này, tôi không -"

Thẩm tra viên quát, "Yêu cầu trật tự."

"Giờ thì anh Hunter, anh có gặp lại nạn nhân vào đêm thứ Ba -"

"Không, không có."

"Anh có nghe Rowley Cloade nói rằng nạn nhân đang đợi một vị khách?"

"Ông ta có thể đang đợi khách. Như vậy đâu có nghĩa tôi là người đó. Tôi đã đưa tiền cho ông ta trước đó rồi. Tôi nghĩ với ông ta thế là đủ. Chẳng có bằng chứng nào cho thấy ông ta quen Robert Underhay cả. Em gái tôi, từ khi thừa kế một số tiền lớn từ chồng nó, đã trở thành mục tiêu của mọi lá thư xin xỏ và của những kẻ phá hoại trong vùng."

Mắt anh lặng lẽ liếc qua những người nhà Cloade đang có mặt.

"Anh Hunter, có thể cho chúng tôi biết anh làm gì vào tối thứ Ba không?"

"Tự tìm hiểu đi!" David nói.

"Anh Hunter!" Thẩm tra viên đập bàn. "Đó là điều ngu xuẩn và thiếu tôn trọng nhất để nói ra đấy."

"Tại sao tôi phải nói cho các người biết tôi đang ở đâu và tôi đang làm gì? Trong khi đó các người cứ cố buộc tội tôi giết người đàn ông ấy."

"Nếu anh cứ giữ thái độ đó, kết luận đấy có thể đến sớm hơn anh nghĩ. Có nhận ra cái này không, anh Hunter?"

Nghiêng người về phía trước, David cầm chiếc bật lửa vàng trong tay. Khuôn mặt anh hoang mang. Đưa nó trở lại, anh chậm rãi nói: "Vâng, nó là của tôi."

"Lần cuối anh có nó là khi nào?"

"Tôi làm mất nó khi -" anh ngừng lại.

"Sao, anh Hunter?" Giọng thẩm tra viên đầy khéo léo.

Gaythorne nhích người, có vẻ muốn nói chuyện. Nhưng Daivd lại nhanh hơn anh ta.

"Tôi có nó đến thứ Sáu trước - sáng thứ Sáu. Tôi không nhớ nhìn thấy nó sau đó nữa."

Gaythorne đứng dậy.

"Xin được phép, thưa ngài thẩm tra. Cậu đã đến thăm nạn nhân vào tối thứ Bảy. Có lẽ nào cậu đã để quên bật lửa lúc đó?"

"Có thể lắm, tôi cho là thế," David từ tốn nói. "Tôi chắc chắn là không thấy nó sau thứ Sáu -" Anh thêm vào: "Nó được tìm thấy ở đâu thế?"

Thẩm tra viên trả lời:

"Chúng ta sẽ vào chi tiết việc đó sau. Anh có thể trở về chỗ, Hunter."

David chậm rãi quay về ghế ngồi.

Anh cúi người và thì thầm với Rosaleen Cloade.

"Đại tá Porter."

Hục hặc hắng giọng một chút, đại tá Porter đứng dậy. Ông đứng thẳng, hình tượng người lính nghiêm trang, như thể đang đi diễu binh.

Có điều việc liếm môi của mình cho thấy ông đang trải qua cảm giác hồi hộp một cách cực độ.

"Ông là George Douglas Porter, cựu đại tá quân đoàn Bộ binh Hoàng gia Châu Phi?"

"Phải."

"Ông biết Robert Underhay đến mức nào?"

Trong tông giọng sang sảng như diễu binh, đại tá Porter nổ ra những địa điểm và ngày tháng.

"Ông đã nhìn xác của nạn nhân chưa?"

"Rồi."

"Ông có thể nhận diện cái xác đó không?"

"Vâng. Đó chính là Robert Underhay."

Một tràng phấn khích diễn ra trong toà án.

"Ông xác nhận một cách chắc chắn và không chút nghi ngờ nào?"

"Đúng thế."

"Không có khả năng việc ông nhầm lẫn?"

"Không."

"Cảm ơn, đại tá Porter. Mời cô Gordon Cloade."

Rosaleen đứng dậy. Cô đi qua đại tá Porter.

Ông nhìn lại cô với chút tò mò.

Cô thậm chí còn không nhìn ông.

"Cô Cloade, cô đã được cảnh sát dẫn đi nhận dạng xác của người đã chết?"

Cô run rẩy.

"Vâng."

"Cô xác định chắc chắn rằng người đàn ông đó hoàn toàn xa lạ với cô?"

"Phải."

"Đối với lời nói vừa nêu ra của đại tá Porter cô có muốn rút lại hay chỉnh sửa kết luận của mình không?"

"Không."

"Cô vẫn khẳng định rằng cái xác đó không phải là chồng của cô, Robert Underhay?"

"Đó không phải là chồng của tôi. Tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông đó trong đời mình."

"Thôi nào, cô Cloade, đại tá Porter đây vừa xác định cái xác ấy là bạn của ông Robert Underhay mà."

Rosaleen nói không cảm xúc:

"Đại tá Porter đã nhầm rồi."

"Cô không chịu lời thề nào ở phiên thẩm vấn này, cô Cloade. Thế nhưng cô sẽ phải thề ở một phiên tòa khác sớm thôi. Lúc đó cô có sẵn sàng thề rằng người đàn ông ấy không phải là chồng của cô Robert Underhay mà là một người lạ mặt khác?"

"Tôi sẵn sàng tuyên thệ rằng người đàn ông đó không phải chồng tôi mà là một người tôi không hề quen biết."

Giọng của cô rõ ràng không suy chuyển. Ánh mắt cô đụng với thẩm tra viên không hề chùn bước.

Ông lẩm bẩm: "Cô có thể lui xuống."

Sau khi tháo cặp kính xuống, ông quay qua bồi thẩm đoàn.

Họ đã ở đó để tìm hiểu làm thế nào người đàn ông này gặp cái chết. Về điều đó, có thể có ít câu hỏi đưa ra. Không hề có ý kiến gì về tai nạn hoặc tự tử. Cũng không có gợi ý bất kỳ về ngộ sát.

Chỉ còn lại một khả năng duy nhất - tội giết người có chủ ý. Đối với danh tính của người chết, điều đó vẫn không được xác định rõ ràng.

Họ đã nghe lời nói một nhân chứng, một người đàn ông có tính cách ngay thẳng với những phát biểu đáng tin, rằng cái xác là của một người bạn cũ của ông ta, Robert Underhay. Mặt khác, cái chết của Robert Underhay vì sốt ở Châu Phi đã được xác định rõ ràng với sự hài lòng của chính quyền địa phương và không có câu hỏi nào được đặt ra sau đó.

Đi ngược lại với tuyên bố của đại tá Porter, góa phụ của Robert Underhay, giờ là bà Gordon Cloade, khẳng định chắc nịch rằng cái xác đó không phải là của Robert Underhay.

Đây là những tuyên bố trái ngược nhau. Bỏ qua câu hỏi về danh tính, họ sẽ phải quyết định xem có bằng chứng nào chỉ ra hung thủ đã giết chết nạn nhân hay không. Họ có thể nghĩ rằng bằng chứng chỉ ra một người nào đó, nhưng rất nhiều bằng chứng là cần thiết trước khi một vụ án có thể được phá - bằng chứng cùng động cơ và cơ hội.

Người đó ắt phải được nhìn thấy bởi một ai đấy trong vùng lân cận vào thời điểm gây án. Nếu không có bằng chứng như vậy, bản án tốt nhất có thể đưa ra là do kẻ giết người có động cơ mà không có đủ bằng chứng để chứng minh hung thủ là ai. Một bản án như vậy sẽ để cảnh sát tự do điều tra theo các yêu cầu cần thiết.

Sau đó, ông đã giải tán họ để cân nhắc phán quyết.

Họ mất bốn mươi lăm phút.

Và quay lại với cáo buộc về tội giết người có chủ ý đối với David Hunter.

Chương 5

"Tôi đã sợ là họ sẽ làm thế mà," ngài điều tra viên tỏ vẻ bất đắc dĩ. "Lệ làng nó vậy đấy! Chỉ làm theo cảm tính thôi."

Ngài điều tra viên, chỉ huy trưởng, chánh thanh tra Spence và Hercule Poirot đang thảo luận chung sau buổi thẩm vấn.

"Ông đã cố gắng rồi," chỉ huy trưởng lên tiếng.

"Vẫn còn quá sớm để nói điều đó," Spence nhăn mày. "Và nó đang ngăn trở chúng ta. Các ông biết Hercule Poirot chứ? Ông ấy chính là người đã đưa Porter xuất hiện."

Điều tra viên biết ơn nói:

"Tôi có nghe đến ông, Poirot," Poirot thất bại trong việc cố tỏ ra khiêm tốn.

"Ông Poirot đây rất hứng thú với vụ án này," Spence cười cười.

"Vâng, thật là thế," Poirot nói, "Các ông có thể nói là tôi đã bị dính vào từ trước cả vụ án."

Và để trả lời cho những ánh mắt tò mò ông kể cho họ về cảnh tượng xảy ra trong câu lạc bộ khi ông nghe đến cái tên Robert Underhay được nhắc đến lần đầu tiên.

"Đó sẽ là một điểm cộng cho chứng cứ của Porter khi vụ án được đưa ra tòa," chỉ huy trưởng đăm chiêu. "Underhay đã thực sự lên kế hoạch giả chết - và đã nói về ý tưởng trở lại dưới cái tên Enoch Arden."

Chỉ huy trưởng lầm bầm: "Nhưng đó có được xem là chứng cứ xác thực không? Những lời nói của một người đàn ông giờ đã chết?"

"Nó có thể không đủ để làm chứng cứ," Poirot ngẫm nghĩ. "Nhưng nó chắc chắn gợi nên những ý tưởng rất thú vị và hay ho."

"Cái chúng ta cần," Spence lên tiếng, "Không phải gợi ý, mà là thông tin xác thực. Ai đó đã nhìn thấy David Hunter ở Stag hay gần đó tối thứ Ba chẳng hạn."

"Nói ra thì dễ lắm," chỉ huy trưởng nhíu mày.

"Nếu là ở nước ngoài, như quê của tôi thì dễ lắm," Poirot nói. "Ít nhiều gì cũng có mấy quán cà phê để người ta có thể đến uống vào buổi chiều - còn ở Anh á!" Ông giơ cả hai tay lên.

Chánh thanh tra gật đầu.

"Có vài người đến quán rượu, và sẽ ở đó cho đến khi đóng cửa, phần dân số còn lại thì ở trong nhà nghe tin tức lúc chín giờ. Nếu như ông đi ra đường chính ở đây khoảng từ tám giờ ba mươi đến mười giờ thì nó hoàn toàn trống không. Chả có ma nào."

"Hắn đã tính đến việc đó?" chỉ huy trưởng góp ý.

"Có thể," Spence nói. Biểu cảm của ông không vui cho lắm.

Đến hiện tại thì chỉ huy trưởng và điều tra viên đã rời đi. Spence và Poirot là những người còn lại.

"Ông không thích vụ án này, đúng không?" Poirot hỏi đầy thông cảm.

"Chàng trai trẻ đó khiến tôi lo lắng," Spence trả lời. "Cậu ta chính là loại người khiến chúng ta không thể theo kịp suy nghĩ của họ. Khi họ là những người ngây thơ vô tội, họ hành động như thể mình chính là hung thủ. Vậy mà khi họ gây tội - ông có thể thề là trông họ không khác gì thiên thần dưới ánh sáng!"

"Ông nghĩ là cậu ta có tội?" Poirot hỏi.

"Ông thì không à?" Spence đáp trả.

Poirot chìa tay ra.

"Tôi thật sự muốn biết," ông nói, "rốt cuộc ông có bao nhiêu điều chống lại cậu ta?"

"Ông không nói trên diện pháp lý? Mà theo khả năng à?"

Poirot gật đầu.

"Chiếc bật lửa là một," Spence nói.

"Ông tìm thấy nó ở đâu?"

"Dưới các xác."

"Có dấu vân tay không?"

"Không."

"À," Poirot nói.

"Phải," Spence nói, "Tôi cũng không thích điều đó lắm. Rồi thì đồng hồ của người chết dừng lại ở 9 giờ 10. Nó rất khớp với bản xét nghiệm tử thi - rồi với lời khai của Rowley Cloade là Underhay đang đợi khách hàng của mình bất cứ lúc nào - giả sử người khách đó sắp đến."

Poirot gật đầu.

"Phải - tất cả đều rất gọn."

"Và điều khiến ông không thể loại bỏ khỏi tâm trí, ông Poirot, rằng cậu ta chính là người duy nhất (ấy là cậu ta và cô em gái) có bóng dáng của động cơ rõ ràng. Hoặc là David Hunter đã giết Underhay - hoặc là Underhay đã bị giết bởi một người ngoài vốn bám theo ông ta vì một lí do nào đó chúng ta không biết - mà cái đó thiệt vô lí hết sức."

"Vâng, đồng ý, đồng ý."

"Ông thấy đấy, chẳng ai ở Warmsley Vale có thể có động cơ cả - trừ phi tình cờ ai đó sống ở đây (trừ nhà Hunter) có liên hệ với Underhay trong quá khứ. Tôi không bao giờ loại trừ tính ngẫu nhiên, nhưng cho đến hiện tại không hề có dấu hiệu hay ám chỉ gì liên quan cả. Người đàn ông đó là kẻ lạ với tất cả mọi người trừ cặp anh em kia."

Poirot gật đầu.

"Đối với nhà Cloade thì Robert Underhay chính là vị thánh sống cần được bảo vệ mọi lúc. Robert Underhay còn sống nhăn răng nghĩa là khả năng cao số tiền khổng lồ đó sẽ được chia đều cho họ."

"Một lần nữa, bạn à, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của ông. Robert Underhay còn sống chính là điều gia đình nhà Cloade cần."

"Vậy quay ngược lại - Rosaleen và David Hunter chính là hai người duy nhất có động cơ. Rosaleen Cloade lúc ấy ở Luân Đôn. Nhưng David Hunter, theo ta biết, thì có mặt ở Warmsley Vale ngày ấy. Cậu ta đến ga Warmsley Vale lúc 5.30."

"Vậy là giờ ta có Động Cơ, được viết rất to và rõ ràng lúc 5.30 và sau đó vào khoảng thời gian không xác định, cậu ta ở ngay hiện trường."

"Chính thế. Giờ xét đến chuyện của Beatrice Lippincott nhé. Tôi tin câu chuyện đó. Cô ấy đã nghe lén những gì mà cô ấy nghe lén, dù có thể đã thêm mắm dặm muối chút ít, con người ai cũng thế."

"Như ông nói chỉ con người thôi."

"Ngoại trừ việc quen biết cô ấy, tôi tin cổ vì Beatrice không thể nào bịa ra những chuyện như vậy được. Chẳng hạn, cô ấy chưa hề nghe đến Robert Underhay trước đây. Vậy nên tôi tin cô ấy chứ không phải David Hunter về cuộc trao đổi giữa hai người đàn ông."

"Tôi cũng thế," Poirot nói. "Cô ấy cho tôi cảm tưởng là một nhân chứng đầy sức thuyết phục."

"Chúng ta đã có xác thực lời khai ấy là sự thật. Vậy ông nghĩ cặp anh em đó lên Luân Đôn để làm gì?"

"Đó chính là điều làm tôi thấy thú vị nhất."

"Chà, vấn đề tài chính đấy. Rosaleen Cloade chỉ được hưởng lợi tức trọn đời trên bất động sản của Gordon Cloade thôi. Cô ấy không thể động đến vốn gốc - trừ khoảng một ngàn bảng, tôi nghĩ thế. Nhưng trang sức, vân vân, đều thuộc về cô ấy. Điều đầu tiên cô ấy làm khi lên thành phố là đem những món quý giá nhất đến phố Bond và bán chúng. Cô ấy muốn nhanh chóng có số tiền mặt lớn - điều đó có nghĩa cô ấy phải trả cho một kẻ tống tiền."

"Ông cho rằng đó là chứng cứ chống lại David Hunter?"

"Ông thì sao?"

Poirot lắc đầu.

"Nếu là chứng cứ tống tiền thì đúng. Chứng cứ cho việc gây án thì không. Ông không thể chơi nước đôi được, bạn thân mến. Hoặc là người đàn ông đó chi tiền, hoặc là anh ta lên kế hoạch để giết. Ông lại đưa ra chứng cứ rằng anh ta đang chuẩn bị trả tiền đấy."

"Phải - phải, có thể lắm. Nhưng anh ta có thể đã đổi ý."

Poirot nhún vai.

"Tôi biết loại này," chánh thanh tra đăm chiêu nói. "Chính là loại làm rất tốt lúc chiến tranh. Cần tất cả lòng can đảm thể chất. Liều lĩnh và bất chấp, coi thường sự an toàn của bản thân. Người sẽ đối mặt với tất cả. Là người có thể giành được huân chương danh dự - dù thường sẽ là huân chương truy tặng. Vào thời chiến thì người đàn ông như thế có thể là anh hùng. Nhưng lúc hòa bình - chà, vào thời bình thì người như vậy chỉ có vô tù thôi. Họ thích sự phấn khích và họ không thể sống tử tế, họ đếch quan tâm đến xã hội - và cuối cùng họ chả bận tâm gì đến mạng người cả."

Poirot gật đầu.

"Tôi bảo mà," chánh thanh tra lặp lại, "Tôi hiểu cái dạng đó."

Có vài phút im lặng trôi qua.

"Tốt lắm," cuối cùng Poirot mở miệng. "Đồng ý là chúng ta đã có sẵn hình mẫu của một kẻ giết người. Nhưng chỉ thế thôi. Nó chẳng tiến xa hơn được."

Spence nhìn ông thắc mắc.

"Ông thật sự rất quan tâm đến vụ này nhỉ, Poirot?"

"Phải."

"Cho phép tôi hỏi tại sao vậy?"

"Thú thật," Poirot chìa tay ra, "Tôi cũng không rõ. Có lẽ là vì hai năm trước, tôi đang ngồi cảm thấy khó chịu trong bụng (vì tôi không thích không kích, và tôi cũng không can đảm dù tôi đã rất cố gắng tỏ ra vẻ cứng cỏi) thì, như đã nói tôi đang cảm thấy khó chịu ở đây," Poirot vỗ vô bụng mình liên tục, "trong phòng hút thuốc ở cậu lạc bộ của bạn tôi, ở đó, đang biếng nhác nơi góc trong phòng, là người phá đám câu lạc bộ, đại tá Porter tốt bụng, đang trải lòng về một lịch sử dài ngoằng chẳng ai quan tâm trừ tôi, tôi đã nghe, vì tôi ao ước được dời sự chú ý khỏi tiếng bom, và những điều ông ấy đưa ra có vẻ rất thú vị và gợi mở với tôi. Và tôi đã nghĩ rằng một ngày nào đó biết đâu sẽ xảy ra việc gì đấy liên quan đến tình huống ông ấy đưa ra thì sao. Giờ thì nó đã tới rồi đây."

"Điều không tưởng đã xảy ra, nhỉ?"

"Ngược lại chứ," Poirot sửa lại. "Chính là điều được mong đợi đã xảy ra - chính nó thôi cũng đã thật sự quá kỳ diệu rồi."

"Ông mong đợi một vụ án?" Spence hỏi kháy.

"Không, không, không! Nhưng người vợ đã tái hôn. Có khả năng người chồng trước còn sống không? Có đấy. Có thể xuất hiện không? Có luôn! Chắc hẳn đã có vụ tống tiền. Có một vụ tống tiền! Khả năng vì thế mà kẻ tống tiền bị bịt miệng? Chúa ơi - hắn bị bịt miệng thật!"

"Chà," Spence nói, nhìn Poirot đầy nghi ngờ. "Tôi cho là mấy loại này thường hay đi liền với nhau. Loại hình phạm tội phổ biến - tống tiền dẫn đến giết người."

"Ông có thể cho là nó không thú vị đấy? Thường thì, không. Nhưng trường hợp này lại rất lí thú, vì ông biết không," Poirot điềm tĩnh nói, "tất cả đều sai hết."

"Đều sai? Ý ông là sao cơ?"

"Nói sao nhỉ, chẳng có cái nào lắp đúng vị trí cả?"

Spence nhìn chăm chăm, "Thanh tra trưởng Japp," ông lên tiếng, "đã nói rằng ông có một tâm trí đầy phức tạp. Cho tôi một ví dụ điều ông bảo là sai đi?"

"Chà, ví dụ như người đã chết, đều không có chỗ nào đúng."

Spence lắc đầu.

"Ông không cảm thấy vậy à?" Poirot hỏi. "Thôi được, có lẽ tôi hơi quá tay. Vậy lấy điểm này đi. Underhay đến Stag. Viết thư cho David Hunter. Hunter nhận thư sáng hôm sau - vào bữa sáng?"

"Phải, đúng vậy. Anh ta thừa nhận đã nhận thư của Arden sau đó."

"Đó là lời thông báo đầu tiên cho sự xuất hiện của Underhay tại Warmsley Vale, đúng không? Việc đầu tiên anh ta làm là gì - tổng vội cô em gái đi Luân Đôn à?"

"Điều đó cũng dễ hiểu," Spence nói. "Anh ta muốn rảnh tay để tự mình giải quyết. Anh ta lo sợ là cô ấy sẽ trở nên yếu ớt. Anh ta là người dẫn dắt, nhớ không. Cô Cloade hoàn toàn dưới trướng của anh ta."

"Vâng, điều đó khá là rõ ràng rồi. Vậy anh ta đưa em gái tới Luân Đôn rồi cho gọi Enoch Arden này. Chúng ta đã có một lời xác thực khá rõ về cuộc đối thoại của họ từ Beartice Lippincott, điều bất thường ở đây là, như ông nói, rằng David Hunter không rõ liệu người mình đang nói chuyện có phải là Robert Underhay hay không. Anh ta nghi ngờ, nhưng lại không biết."

"Cái đó có gì lạ, ông Poirot. Rosaleen Hunter cưới Underhay ở Cape Town rồi cùng ông ấy đi thẳng đến Nigeria. Hunter và Underhay chưa gặp mặt bao giờ. Vậy nên như ông nói đấy, Hunter nghi ngờ Arden là Underhay, anh ta không thể chứng thực được - vì anh ta chưa hề gặp người đàn ông đó."

Poirot suy tư nhìn chánh thanh tra Spence.

"Vậy là không có cái gì khiến ông thấy - đặc biệt à?" Ông hỏi.

"Tôi biết ông muốn ám chỉ gì. Tại sao Underhay không nói thẳng ra mình là Underhay? Chà, cái đó cũng dễ hiểu thôi. Những người đáng kính làm chuyện trái lương tâm thường hay chừa lại mặt mũi mà. Họ thường cố làm mọi chuyện để giữ cho bản thân mình trong sạch - ông hiểu không. Không - tôi không nghĩ có gì đáng nói cả. Ông phải để bản chất con người vào nữa."

"Phải," Poirot nói. "Bản chất con người. Đó, có thể là câu trả lời cho việc vì sao tôi lại quan tâm đến vụ án này như vậy. Tôi đã nhìn khắp xung quanh phòng thẩm vấn của cuộc điều tra, nhìn tất cả mọi người, đặc biệt là nhà Cloade - tất cả bọn họ, đều có một điểm quan tâm chung, đều có khác biệt về tính cách, suy nghĩ và cảm xúc. Họ đều dựa dẫm vào một người đàn ông mạnh mẽ bao nhiêu năm qua, trụ cột của gia đình, Gordon Cloade! Tôi không có ý là trực tiếp phụ thuộc. Họ đều có ý nghĩa tồn tại khác nhau. Nhưng họ chắc chắn, chắc chắn, vô ý hay hữu ý, đều dựa vào ông ấy. Và điều gì - tôi hỏi ông nhé chánh thanh tra - điều gì xảy ra với cây thường xuân khi vòng gỗ sồi mà nó vẫn bám lên bị chặt xuống?"

"Điều đó không phải là câu hỏi thường gặp trong nghề của tôi," Spence nói.

"Ông không nghĩ vậy à? Tôi thì có đấy. Nhân cách, bạn thân mến, không hề đứng một chỗ. Nó có thể tốt lên. Nó cũng có thể tệ đi. Những gì một người thực sự thể hiện ra, chỉ rõ ràng khi khảo nghiệm đến - đó là khoảnh khắc khi bạn đứng hoặc ngã trên đôi chân của chính mình."

"Tôi không hiểu ông đang ám chỉ gì nữa, ông Poirot." Spence trợn tròn mắt. "Dù sao thì, nhà Cloade ổn cả rồi. Hoặc sẽ như thế, khi mà toàn bộ thủ tục pháp lý được thông qua."

Poirot nhắc nhở ông, điều đó sẽ mất thời gian, "Còn có lời chứng không thể lay chuyển của cô Gordon Cloade nữa. Dù sao thì, một người phụ nữ cũng phải nhận ra chồng mình khi nhìn thấy chứ?"

Ông nghiêng đầu một bên và nhìn chăm chú vào thân hình to lớn của chánh thanh tra.

"Nếu một người phụ nữ có thể nhận lại mối lợi hàng triệu bảng thì việc không nhận chồng mình có đáng gì?" Chánh thanh tra hoài nghi hỏi. "Bên cạnh đó, nếu ông ta không phải Robert Underhay, tại sao ông ta bị giết?"

"Cái đó," Poirot lẩm bẩm, "đúng là câu hỏi hay đấy."

Chương 6

Poirot vừa rời sở cảnh sát vừa nhíu mày. Bước chân ông càng lúc càng chậm hơn. Đến khu chợ thì ông ngừng lại, nhìn xung quanh. Ở đó có nhà bác sỹ Cloade với tấm bảng tên đồng đã sờn, lên chút nữa là bưu điện. Ở phía đối diện là nhà của Jeremy Cloade.

Trước mặt Poirot, lùi lại một chút, là Nhà thờ Công giáo La Mã Thăng thiên, một góc nhỏ khiêm tốn, màu tím co sát lại so với sự lấn chiếm của Thánh Mary đang đứng ngạo nghễ ở giữa quảng trường đối diện với Cornmarket, và tuyên bố sự thống trị của đạo Tin lành.

Bị thôi thúc bởi sự xúc động Poirot đi qua cổng và dọc theo con đường đến cửa của tòa nhà thờ Công giáo La Mã.

Ông bỏ mũ ra, cúi người trước bàn thờ và quỳ xuống sau một trong những chiếc ghế. Những lời cầu nguyện của ông bị gián đoạn bởi âm thanh của tiếng nức nở đau lòng.

Ông quay đầu lại. Bên kia lối đi, một người phụ nữ mặc váy tối màu đang quỳ, đầu vùi vào tay. Sau đấy cô đứng dậy và, vẫn nức nở dưới hơi thở, đi về phía cửa. Poirot mở to đôi mắt đầy thích thú, đứng dậy và đi theo cô. Ông đã nhận ra Rosaleen Cloade.

Cô đứng dưới cổng vòm, đấu tranh kiểm soát bản thân, Poirot nhẹ nhàng tiến đến nói chuyện với cô:

"Quý cô, tôi có thể giúp gì không?"

Cô không tỏ vẻ ngạc nhiên gì, thay vào đó lại trả lời theo kiểu như một đứa trẻ phụng phịu.

"Không," cô nói. "Chẳng ai giúp được tôi đâu."

"Cô đang gặp rắc rối rất lớn. Chính là điều đó, phải không?"

Cô trả lời: "Họ đã đưa David đi rồi... Chỉ còn mình tôi thôi. Họ nói anh ấy đã giết người - nhưng anh ấy không làm thế! Không phải!"

Cô nhìn Poirot rồi cất tiếng: "Ông đã ở đó ngày hôm này đúng không? Tại buổi thẩm tra, tôi đã thấy ông!"

"Phải. Nếu như có thể, thưa cô, tôi rất vui lòng được giúp cô."

"Tôi rất sợ. David nói rằng tôi sẽ an toàn chừng nào anh ấy còn ở đây để bảo vệ tôi. Nhưng giờ họ lại đưa anh ấy đi rồi - tôi sợ lắm. Anh ấy nói - họ đều muốn anh chết. Nói thế thật là khủng khiếp. Nhưng có lẽ nó lại là sự thật."

"Hãy để tôi giúp, thưa cô."

Rosaleen lắc đầu.

"Không," cô từ chối. "Không ai giúp được tôi đâu. Tôi thậm chí còn không thể đi xưng tội. Tôi phải chịu đựng gánh nặng tội lỗi này trên lưng một mình. Tôi không còn được nhận lòng xót thương của Chúa nữa."

"Không ai," Hercule Poirot lên tiếng, "là không được nhận lòng xót thương của Chúa cả. Cô biết điều đó mà, cô gái."

Cô lại ngước lên nhìn ông - bằng ánh mắt buồn bã.

"Tôi phải tự thú lỗi lầm của mình - tự thú. Nếu tôi làm thế -"

"Cô có muốn xưng tội không? Chẳng phải cô đến nhà thờ để làm thế sao?"

"Tôi đến để xin được an ủi - an ủi. Nhưng làm sao có thể chứ? Tôi là kẻ có tội."

"Tất cả chúng ta đều thế."

"Nhưng ông có thể ăn năn - tôi phải nói - phải kể -" Hai tay cô đưa lên mặt. "Ôi, những lời dối trá tôi đã nói - những lời dối trá tôi đã nói."

"Cô đã nói dối về chồng của mình? Về Robert Underhay? Người bị giết chính là Robert Underhay, đúng không?"

Cô quay ngoắt qua ông. Ánh mắt cô đầy nghi ngờ, cảnh giác. Cô khóc nấc lên:

"Tôi đã bảo là đấy không phải chồng tôi mà. Chẳng có chút gì giống anh ấy cả!"

"Người đã chết ấy hoàn toàn không giống chồng cô à?"

"Không," cô nói chắc nịch.

"Kể tôi nghe," Poirot bảo, "Chồng của cô là người thế nào?"

Đôi mắt cô nhìn ông chằm chằm. Rồi khuôn mặt cứng đờ như báo động. Mắt cô tối sầm vì sợ hãi.

Rosaleen kêu lên:

"Tôi sẽ không nói chuyện với ông nữa!"

Đi lướt qua ông, cô chạy xuống con đường băng qua cổng ra vào khu chợ.

Poirot chẳng hề muốn đuổi theo cô ấy. Thay vào đấy ông đứng đó gật đầu đầy thỏa mãn.

"A," ông nói. "Thì ra là thế!"

Ông lững thững bước vào chợ.

Sau một lúc do dự, ông đi dọc phố High cho đến khi ông đến Stag, chính là tòa nhà cuối cùng trước khi băng ra vùng quê.

Ngay cổng vào ở Stag ông chạm mặt Rowley Cloade và Lynn Marchmont.

Poirot thích thú nhìn cô gái. Một người rất dễ nhìn, ông tự nhủ, và thông minh nữa. Không phải là kiểu mà ông ngưỡng mộ. Ông thích loại nhẹ nhàng, nữ tính hơn. Ông thấy Lynn Marchmont rõ ràng là người phụ nữ hiện đại - mặc dù, nếu so sánh một cách công bằng, cô ấy cũng có thể là kiểu người như thời Elizabeth nữa. Phụ nữ biết nghĩ cho bản thân họ, những người tự do về phát ngôn, và ngưỡng mộ sự liều lĩnh táo bạo ở đàn ông.

"Chúng tôi đều rất biết ơn ông, ông Poirot," Rowley cất tiếng. "Thề luôn, nó đúng là một cú lừa ngoạn mục."

Lẽ dĩ nhiên nó chính là như thế, Poirot thầm nghĩ! Khi được hỏi một câu hỏi mà bạn biết câu trả lời, không có gì khó khăn trong việc thực hiện mánh khóe với các yếu tố cần thiết. Ông thấy biết ơn là nhờ sự đơn thuần của Rowley mà việc lôi ra một đại tá Porter từ trên trời rớt xuống, lại dễ dàng như lôi chú thỏ ra khỏi mũ của ảo thuật gia vậy.

"Làm thế nào mà ông đoán được chuyện này thì tôi chịu," Rowley nói.

Poirot cũng chẳng buồn giải thích. Cậu ta dù sao cũng chỉ là người thường. Ảo thuật gia không bao giờ kể bí kíp ngón nghề của mình cho khán giả.

"Dù sao thì, Lynn và tôi đều biết ơn vô cùng," Rowley vẫn nói tiếp.

Lynn Marchmont, theo Poirot nghĩ, thì nhìn có vẻ không biết ơn cho lắm. Có tơ máu trong mắt của cô, còn những ngón tay có dấu hiệu căng thẳng khi chúng đan xen vào nhau.

"Nó tạo nên khác biệt rất lớn cho cuộc sống hôn nhân sắp tới của chúng tôi," Rowley bảo.

Lynn đáp trả:

"Sao anh biết được? Em chắc còn hàng đống thủ tục rườm rà nữa."

"Hai người sắp kết hôn à, khi nào?" Poirot hỏi.

"Tháng Sáu."

"Thế hai người đính hôn từ lúc nào?"

"Gần sáu năm rồi," Rowley trả lời. "Lynn vừa được giải ngũ."

"Lúc tại ngũ thì không được kết hôn nhỉ?"

Lynn đáp nhanh:

"Tôi đã ở nước ngoài."

Poirot nhận thấy lông mày Rowley nhíu lại một lát. Anh vội nói:

"Đi nào, Lynn. Chúng ta phải về thôi. Anh cho là ông Poirot đây sẽ muốn quay lại thành phố."

Poirot mỉm cười:

"Nhưng tôi đâu có quay lại."

"Cái gì?"

Rowley chết đứng tại chỗ, làm cái cửa gỗ phát ra âm thanh khó nghe.

"Tôi sẽ ở trọ tại Stag đây một thời gian."

"Nhưng - nhưng tại sao?"

"Vì phong cảnh đẹp," Poirot trấn an.

Rowley bối rối:

"Vâng, tất nhiên... Nhưng chẳng phải ông, ý tôi là, rất bận sao?"

"Tôi đã kiếm đủ tiền cho mình," Poirot nở nụ cười. "Tôi không cần phải khiến bản thân bận rộn. Không, tôi có thể tận hưởng niềm vui cho mình và dành thời gian ở nơi nào đó tôi ưng ý. Và nơi đó chính là Warmsley Vale."

Ông thấy Lynn Marchmont ngẩng đầu nhìn ông chăm chú. Còn Rowley thì có vẻ khó chịu, ông nghĩ.

"Tôi đoán là ông chơi golf?" Rowley hỏi. "Có một khách sạn tốt hơn ở Warmsley Heath đó. Chỗ này chẳng đi đâu được mấy."

"Hứng thú của tôi," Poirot đáp, "hoàn toàn nằm ở Warmsley Vale."

Lynn cất tiếng:

"Đi thôi nào, Rowley."

Rowley theo sau cô, có phần chần chừ.

Tại cửa, Lynn ngừng bước rồi quay nhanh trở vào. Cô dùng chất giọng nhỏ nhất có thể hỏi Poirot.

"Họ đã bắt David Hunter sau cuộc thẩm tra. Ông có - ông có nghĩ là họ đúng không?"

"Họ không thấy khả năng nào khác. Sau bản án ấy, thưa quý cô."

"Ý tôi là - ông có nghĩ chính là anh ấy?"

"Cô thì sao?" Poirot hỏi.

Nhưng Rowley đã quay lại cạnh cô. Khuôn mặt Lynn nhanh chóng trở về không cảm xúc. Cô nói:

"Tạm biệt, ông Poirot. Hy - hy vọng chúng ta sẽ gặp lại."

"Chà, tôi tự hỏi điều ấy đấy." Poirot tự nhủ.

Lát sau, khi đã dàn xếp xong với Beatrice Pippincott về phòng trọ, ông lại ra ngoài lần nữa. Bước chân ông dẫn đến căn nhà của bác sỹ Lionel Cloade.

"Ô!" Dì Kathie, người ra mở cửa, bước lùi ra phía sau khi nhìn thấy ông. "Ông Poirot!"

"Bằng xương bằng thịt, thưa bà." Poirot cúi chào. "Tôi đến để thăm gia đình."

"Chà, tôi chắc chắn điều đó hết sức dễ thương. Phải - ơ - có lẽ tốt hơn ông nên vào nhà. Mời ngồi - tôi sẽ thỉnh quý bà Blavatsky đi (*chú thích: Madame Blavatsky là nhà thần bí học người Nga nổi tiếng, đã mất năm 1891, ở đây ám chỉ bà Cloade ngầm khoe rằng mình gọi hồn được nhân vật đã mất) - làm tách trà nhé - có điều bánh ngọt không mới lắm. Tôi đã định đến Peacocks mua, đôi khi họ có bán bánh cuộn Thuỵ Điển vào thứ Tư - nhưng cuộc điều tra thường khiến giờ giấc trong nhà đảo lộn hết cả lên, ông có nghĩ vậy không?"

Poirot đáp ông nghĩ điều đó hoàn toàn thông cảm được.

Ông đã mường tượng được là Rowley Cloade hơi khó chịu khi ông tuyên bố sẽ ở lại Warmsley Vale. Thái độ của dì Kathie thì khỏi phải bàn cãi, bà ấy không hoan nghênh chút nào. Bà nhìn ông với ánh mắt gần như là khó chịu. Bà rướn người về trước, thì thầm trong tông giọng như đang mưu mô gì đó:

"Ông sẽ không nói với chồng tôi chứ, về việc tôi đã đến nhờ ông tư vấn vụ - chà, vụ chúng ta đều biết là gì ấy?"

"Tôi sẽ kín miệng."

"Ý tôi là - lúc đó tôi đâu biết - rằng Robert Underhay, người đàn ông tội nghiệp, thật bi thảm - lại đang ở Warmsley Vale chứ. Tôi vẫn nghĩ đúng là sự trùng hợp không ngờ được!"

"Mọi chuyện sẽ đơn giản hơn," Poirot đồng ý, "nếu cái bảng cầu cơ cứ chỉ bà thẳng đến quán Stag nhỉ."

Dì Kathie có vẻ vui hơn khi nhắc đến cầu cơ.

"Những việc liên quan đến thế giới tâm linh luôn không thể dự đoán được," bà nói, "Nhưng ông Poirot à, tôi cảm thấy mọi thứ đều có nguyên nhân cả? Trong cuộc sống không phải thế sao? Luôn có nguyên nhân cho mọi việc ấy?"

"Vâng, đúng là thế, thưa bà. Thậm chí cả việc tôi ngồi trong phòng khách nhà bà, ngay lúc này, cũng có nguyên nhân đấy."

"Ô, thế à?" Bà Cloade hơi sửng sốt, "Là thế á? À, tôi cũng đoán thế... Ông đang trên đường quay lại Luân Đôn, đúng không?"

"Không phải lúc này. Tôi sẽ trọ lại Stag vài ngày."

"Ở Stag à. Ô - là quán Stag! Nhưng chỗ đó là - Ôi, ông Poirot, ông có chắc là mình còn minh mẫn không đấy?"

"Tôi đã được dẫn lối đến Stag," Poirot nói chắc nịch.

"Dẫn lối? Nghĩa là sao?"

"Dẫn lối bởi chính bà."

"Ôi, nhưng tôi đâu phải - ấy là, tôi làm sao biết được. Mọi chuyện thật là tồi tệ, ông có thấy vậy không?"

Poirot buồn bã lắc đầu, ông nói:

"Tôi có trò chuyện với cậu Rowley Cloade và cô Marchmont. Họ sẽ kết hôn đúng không, sắp tới đây nhỉ?"

Dì Kathie ngay lập tức bị xao nhãng.

"Lynn đáng mến, thật là một đứa trẻ dễ thương - cũng là một hình mẫu tuyệt vời nữa. Thật sự thì, tôi không có chút khái niệm gì về hình mẫu cả - không chút gì luôn. Có Lynn ở nhà thật là sự ban phước trời cho. Nếu mà tôi có vướng vô rắc rối gì Lynn luôn là người giúp tôi giải quyết chúng. Cô bé đáng mến, tôi hy vọng nó sẽ được hạnh phúc. Đương nhiên, Rowley là chàng trai tuyệt vời, nhưng có lẽ hơi - à, tẻ nhạt. Ý tôi là tẻ nhạt so với một cô gái đã đi khắp thế giới như Lynn ấy. Ông thấy đấy, Rowley vẫn luôn chết dí trong trang trại của mình suốt từ lúc chiến tranh - à, tất nhiên là được đặc quyền rồi - nghĩa là Chính phủ đã cho phép nó - về mặt đó thì vẫn ổn - cũng không phải là xem nhẹ hay gì như lúc ở cuộc chiến Boer - tôi muốn nói là, nó làm thằng bé có tư tưởng hơi hạn hẹp."

"Đính hôn sáu năm là cả quá trình thử thách tình cảm đấy."

"Ôi, đúng thế! Nhưng tôi thấy mấy cô gái như này, họ thường có vẻ bồn chồn khi quay về nhà - và nếu như có một người nào khác - ai đó, có thể có một cuộc sống phiêu lưu hơn-"

"Như David Hunter?"

"Chẳng có gì giữa hai người cả," dì Kathie lo lắng đáp. "Không có gì hết. Tôi chắc chắn điều đó! Sẽ thật tệ nếu như có gì đó thật, đúng không, khi mà hắn ta lại trở thành kẻ giết người? Người em rể của mình nữa! Ôi, không, ông Poirot, xin đừng nảy ra bất kì suy nghĩ nào về việc có sự thấu hiểu giữa Lynn và David. Thật ra thì, mỗi lần gặp nhau hai người đó trông có vẻ bất hòa thì đúng hơn. Tôi cảm thấy là - ôi trời, hình như chồng tôi đang đến. Ông Poirot à, ông nhớ chứ, giữ im lặng về cuộc gặp của chúng ta? Ông chồng của tôi sẽ rất khó chịu nếu ông ấy biết - ô, anh Lionel, đây chính là ông Poirot thiên tài đã dẫn đại tá Porter tới nhận diện người chết."

Bác sỹ Cloade trông có vẻ mệt mỏi và xanh xao. Đôi mắt xanh nhạt của ông, với con ngươi nhỏ, đang đảo quanh khắp căn phòng.

"Hân hạnh được gặp ông, Poirot, chuẩn bị quay lại thành phố à?"

"Lạy Chúa, lại thêm một người nữa muốn mình cuốn gói đi Luân Đôn!" Poirot thầm nghĩ.

Ông kiên nhẫn lên tiếng:

"Không, tôi sẽ trọ lại Stag thêm vài ba ngày nữa."

"Stag?" Lionel Cloade nhíu mày. "Hửm? Cảnh sát muốn ông ở lại thêm à?"

"Không, đây là lựa chọn cùa tôi."

"Vậy à?" Vị bác sỹ bỗng nở nụ cười thấu hiểu. "Ông có điều chưa hài lòng?"

"Vì sao ông lại nghĩ thế, bác sỹ Cloade?"

"Thôi nào, vậy là đúng phải không?"

Lẩm bẩm gì đó về trà, bà Cloade rời khỏi phòng. Bác sỹ tiếp tục:

"Ông có cảm giác như thế, phải không, rằng có gì đó không đúng?"

Poirot giật mình.

"Thật kì lạ khi nghe ông nói điều đó. Vậy là bản thân ông cũng cảm nhận thế?"

Cloade ngập ngừng.

"K-không. Không hẳn thế... Có lẽ chỉ là cảm giác không thực. Trong sách những kẻ tống tiền đều sẽ bị bắt. Ở ngoài đời thì sao? Dường như câu trả lời là có. Nhưng cảm giác thực không tự nhiên."

"Có dấu hiệu gì không xác đáng trong bản báo cáo xét nghiệm tử thi không? Dĩ nhiên, tôi chỉ hỏi cho biết thôi."

Bác sỹ Cloade suy ngẫm:

"Không, tôi không thấy."

"Có - có đấy. Tôi dám chắc là có gì đó."

Khi ông muốn, giọng nói của Poirot có thể mang âm lượng gần như thôi miên. Cloade hơi nhíu mày, rồi ông ngập ngừng trả lời:

"Lẽ tất nhiên, tôi không có kinh nghiệm trong mấy vụ án của cảnh sát. Dù sao thì bằng chứng y học không phải thứ bất di bất dịch như người thường hay tiểu thuyết gia hay nghĩ đâu. Chúng ta có thể lầm lẫn - y học cũng có thể lầm lẫn. Chẩn đoán là gì? Một phỏng đoán, dựa trên lượng kiến thức rất ít ỏi và một số manh mối không xác định chỉ ra nhiều hơn một hướng. Tôi có lẽ khá tự tin khi chẩn đoán bệnh sởi bởi vì, trong đời mình, tôi đã thấy hàng trăm trường hợp mắc bệnh sởi và tôi biết một sự khác biệt lớn về các dấu hiệu và triệu chứng. Ông hầu như không bao giờ biết được 'trường hợp điển hình' của bệnh sởi là thế nào trong sách vở. Nhưng tôi đã thấy vài điều kỳ quặc trong cuộc đời mình - tôi đã chứng kiến một người phụ nữ đang nằm trên bàn mổ, chờ được cắt ruột thừa - ngay lúc đó lại được chẩn đoán chỉ là nhiễm phó thương hàn thôi! Tôi đã chứng kiến một đứa trẻ gặp vấn đề da liễu được chẩn đoán là một ca thiếu vitamin trầm trọng bởi một tay bác sỹ trẻ có lương tâm, đầy nhiệt huyết - thế rồi ông thú y trong vùng đến nhà, bảo bà mẹ rằng con mèo thằng bé đang ôm bị nhiễm nấm, và thằng bé bị lây!"

"Bác sỹ, như bất kì ai, đều là nạn nhân của những định kiến. Chúng ta có một người đàn ông, rõ ràng đã bị sát hại, nằm đó với một cặp cời lửa đầy máu bên cạnh anh ta. Sẽ là vô nghĩa khi nói rằng anh ta bị đánh bằng bất cứ thứ gì khác, tuy nhiên, dựa trên sự thiếu kinh nghiệm hoàn toàn của con người với tình huống bị đập vào đầu, tôi đã nghi ngờ một điều gì đó khá khác biệt - một cái gì đó không trơn nhẵn và tròn trịa - một cái gì đó - ồ, tôi không biết, một cái gì đó góc cạnh hơn - một viên gạch, thứ gì dạng như thế."

"Ông không nói vậy ở buổi thẩm tra?"

"Không - vì tôi thật sự không rõ. Jerkins, vị pháp y ấy, đã nhận định rồi, lời của ông ấy mới có giá trị. Nhưng định kiến lại nằm ở chỗ này này - vũ khí bên cạnh cái xác. Liệu vết thương có phải bị gây ra bởi chính thứ đó? Vâng, có thể chứ. Nhưng nếu ông chỉ nhìn vào vết thương và hỏi cái gì đã tạo ra nó - chà, tôi không biết liệu ông sẽ nói thế nào đây, bởi vì nó thực sự không thuyết phục chút nào - ý tôi là giả như có hai người ở đó, một người đánh anh ta bằng cục gạch và người kia với cái cời lửa -"

Bác sỹ dừng lại, lắc đầu một cách không hài lòng.

"Có vẻ vô lý, đúng không?" Ông hỏi Poirot.

"Có thể nào nạn nhân đã ngã vào vật sắc nhọn nào đó không?"

Cloade lắc đầu.

"Anh ta ngã úp mặt xuống ngay giữa sàn - trên tấm thảm Axminster dày cũ lỗi thời ấy."

Ông ngừng lại khi vợ mình tiến vào phòng.

"Kathie mang món trà dở tệ đó đến rồi," ông khẳng định.

Dì Kathie đang bê một cái khay được phủ bằng sành sứ, một nửa ổ bánh mì và một ít mứt trông thảm thương còn sót dưới đáy của cái hũ chừng 2 lít.

"Em nghĩ là cái ấm đang sôi rồi," bà nói ngờ vực lúc giở nắp bình trà lên để nhìn vào.

Bác sỹ Cloade khịt mũi rồi lẩm bẩm: "Trà loãng quá," với những lời gay gắt đó ông rời khỏi phòng.

"Lionel tội nghiệp, tâm lý của anh ấy không được tốt cho lắm từ hồi chiến tranh. Ảnh phải làm việc quá nhiều. Mấy bác sỹ bị điều đi xa hết cả. Anh ấy chẳng nghỉ ngơi gì. Đi ra ngoài suốt từ sáng đến tối. Tôi ngạc nhiên là anh ấy chưa hoàn toàn sụp đổ. Tất nhiên là ảnh mong muốn được nghỉ hưu ngay khi hòa bình đến. Đó là chuyện đã được sắp xếp với Gordon. Sở thích của anh ấy, ông biết đấy, là thực vật học với tài liệu tham khảo đặc biệt về dược liệu trong thời trung cổ. Anh ấy đang viết một cuốn sách về nó. Lionel đã mong chờ một cuộc sống yên tĩnh và thực hiện các nghiên cứu cần thiết. Nhưng sau đó, khi Gordon chết như thế - ừm, ông biết mọi thứ ngày nay thế nào rồi đấy, ông Poirot. Thuế và mọi thứ. Anh ấy không thể nghỉ hưu và điều đó làm anh ấy rất cay đắng. Và thực sự nó có vẻ không công bằng. Gordon chết như thế, không có di chúc gì - ôi, nó thực sự làm lung lay niềm tin của tôi. Ý tôi là, tôi thực sự không thể thấy mục đích trong đó. Dường như, tôi không thể không cảm thấy, đó là một một sai lầm."

Bà thở dài, rồi tươi tỉnh hơn.

"Nhưng tôi có sự đảm bảo rất tốt từ phía bên kia. 'Can đảm cùng kiên nhẫn rồi sẽ tìm ra hướng đi.' Thật đấy, khi vị đại tá Porter kia đứng dậy ngày hôm nay và nói một cách mạnh mẽ chắc nịch người bị giết tội nghiệp ấy là Robert Underhay - chà, tôi thấy mình đã tìm ra hướng đi rồi! Thật tuyệt vời phải không, ông Poirot, khi mọi chuyện xoay chuyển để trở thành tốt đẹp hơn?"

"Kể cả vì một vụ án," Hercule Poirot nói.

Chương 7

Poirot bước vào Stag trong tâm trạng trầm ngâm, khẽ rùng mình vì cơn gió đông rét buốt. Trong sảnh vắng tanh. Ông đẩy cửa phòng khách bên phải. Nó bốc khói nghi ngút và lửa gần như tắt. Poirot nhón chân dọc theo cánh cửa ở cuối sảnh có nhãn "Chỉ dành cho khách trọ". Ở đây lửa cháy tốt, nhưng trong một chiếc ghế bành lớn, đang thoải mái sưởi ấm ngón chân, là một bà cụ to con, trừng mắt nhìn Poirot với sự hung dữ đến nỗi ông đành bỏ cuộc và rút lui xin lỗi.

Ông đứng một lúc trong sảnh nhìn từ văn phòng trống có kính bao quanh đến cánh cửa được dán nhãn theo phong cách quán cà phê kiểu cổ điển. Theo kinh nghiệm từ các khách sạn đồng quê, Poirot biết rõ rằng lần duy nhất cà phê được phục vụ trong ngày là cái giờ chỉ định là bữa sáng, và thành phần chính của nó là một lượng thừa thãi sữa nóng pha loãng. Những tách nhỏ xíu chất lỏng đặc sệt gọi là cà phê đen được phục vụ không phải trong phòng cà phê mà trong phòng khách chung. Súp Winsor, bít tết Vienna và khoai tây, cùng pút-đinh hấp trong bữa tối thì sẽ có trong phòng cà phê lúc bảy giờ đúng. Cho đến lúc đó, một sự yên tĩnh khó tả tràn ngập khu trọ của Stag.

Poirot thận trọng đi lên cầu thang. Thay vì rẽ sang trái nơi phòng riêng của mình, chỗ phòng số 11, ông quay sang phải và dừng lại trước cánh cửa số 5. Ông nhìn xung quanh. Im lặng và trống trải. Poirot mở cửa đi vào.

Cảnh sát đã xét hết căn phòng. Rõ ràng là nó đã được quét dọn và chà rửa sạch sẽ. Không có tấm thảm nào trên sàn cả. Có thể đoán rằng tấm "Axminster lỗi thời" ấy đã được đưa cho người quét dọn rồi. Mấy tấm chăn được xếp lại ngăn nắp thành chồng trên giường.

Đóng cánh cửa sau lưng lại, Poirot lượn vòng căn phòng. Nó thật sạch sẽ và kỳ lạ là hoàn toàn không có chút hơi người nào. Poirot ghi nhớ nội thất bên trong - một cái bàn viết, một cái ngăn kéo bằng gỗ gụ cổ điển, một tủ quần áo thẳng đứng (cái có lẽ đã che cửa vào phòng 4), một chiếc giường đôi bằng đồng lớn, một cái bồn rửa có vòi nước nóng, lạnh - thành tựu của kỹ thuật hiện đại và sự thiếu hụt của người phục vụ - một chiếc ghế bành lớn nhưng không êm ái, hai chiếc ghế nhỏ, một tấm vỉ lò thời Victoria cổ với que cời và một cái xẻng đồng bộ như một cặp đi chung, một cái bệ cẩm thạch nặng và một lò sưởi lát cẩm thạch rắn vuông góc.

Những thứ sau cùng kể trên khiến Poirot phải cúi xuống để xem xét. Làm ẩm ngón tay xong ông quệt nó dọc theo góc bên phải rồi kiểm tra kết quả. Ngón tay ông hơi đen. Poirot lặp lại quá trình bằng một ngón tay khác ở góc bên trái lề. Lần này ngón tay ông khá sạch.

"Phải rồi," Poirot đăm chiêu nghĩ ngợi. "Phải rồi."

Ông nhìn vào chậu rửa mặt được trang bị. Rồi sải bước đến cửa sổ. Nó hướng ra một vài đầu mối - mái nhà của ga ra để xe, ông đoán thế, và sau đó đến một con hẻm nhỏ. Một cách dễ dàng để đến và đi từ phòng số 5 mà không bị phát hiện. Thế nhưng đi lên thẳng phòng số 5 mà không bị nhìn thấy cũng đơn giản không kém. Poirot đã tự làm điều đó.

Poirot nhẹ nhàng rút lui, đóng cánh cửa phía sau lại để không gây tiếng động. Ông đi dọc trở về phòng mình. Trời thật sự lạnh. Ông lại xuống lầu lần nữa, hơi chần chừ, rồi bị thôi thúc bởi cái lạnh của buổi đêm, mạnh dạn bước vào khu "chỉ dành cho khách trọ", đến cái ghế dựa thứ hai và ngồi xuống.

Bà già đồ sộ thậm chí còn ghê gớm hơn khi nhìn ở cự ly gần. Bà ấy có mái tóc màu xám sắt, một hàng ria mép được nuôi, khi bà ấy cất tiếng, một giọng nói trầm và đầy cảm xúc.

"Phòng khách này," bà nói, "Chỉ dành riêng cho những người trọ ở khách sạn."

"Tôi là khách ở trọ tại khách sạn," Hercule Poirot đáp trả.

Bà lão ngồi yên chừng một hai phút trước khi chĩa mũi tấn công tiếp.

Bà cáo buộc:

"Ông là người ngoại quốc."

"Phải," Hercule Porot trả lời.

"Theo ý tôi," bà nọ nói, "tất cả các người nên trở về đi."

"Trở về đâu?" Poirot hỏi lại.

"Đến từ đâu thì về lại nơi đó," bà lão cứng rắn nói.

Bà thêm vào như thể nhấn mạnh, bằng giọng lẩm bẩm: "Bọn ngoại quốc!" rồi khịt mũi.

"Việc đấy," Poirot nhẹ nhàng đáp, "có vẻ hơi khó."

"Vớ vẩn." bà già nói. "Chiến tranh chính là thế chứ còn gì nữa? Để người ta có thể trở về nơi vốn dĩ của họ và sống yên ở đó."

Poirot không tham gia vào một cuộc tranh cãi. Ông đã học được rằng mỗi cá nhân có một phiên bản khác nhau của cùng chủ đề. "Chúng ta đã chiến đấu trong chiến tranh để làm gì?"

Một sự im lặng có phần thù địch bao trùm.

"Tôi thật không biết chuyện gì đang diễn ra nữa," bà lão nói. "Thật sự không. Hàng năm tôi đều đến đây và ở tại nhà trọ này. Chồng tôi đã mất ở đây mười sáu năm trước. Ông ấy được chôn cất ở đây. Mỗi năm tôi đều đến ở một tháng."

"Một chuyến hành hương ngoan đạo," Poirot lịch sự đáp.

"Và mỗi năm nó lại càng tệ hơn. Không phục vụ! Đồ ăn không chấp nhận được! Đúng là thịt Vienna đấy! Một phần bít tết thì phải là thăn nội hay phi lê - chứ không phải như miếng thịt ngựa cắt ra!"

Poirot lắc đầu buồn bã.

"Điều tốt duy nhất - là họ đã đóng cửa cái phi trường," người phụ nữ tiếp tục. "Đúng là một nỗi xấu hổ, mấy gã phi công trẻ đi tới đây cùng một đám con gái chả ra gì. Gái gú đấy! Thật không biết mẹ bọn chúng nghĩ gì bây giờ. Để mặc chúng muốn làm gì thì làm. Tôi đổ lỗi lên Chính phủ. Để mấy bà mẹ làm việc ở các nhà máy. Chỉ cho họ nghỉ khi có con nhỏ. Trẻ nhỏ, rồi mấy thứ vớ vẩn khác! Ai mà chẳng trông được một đứa bé! Trẻ em không có bám đuôi theo mấy cậu lính. Con gái từ mười bốn đến mười tám, bọn chúng mới là những đứa cần trông chừng! Phải có mẹ ở bên cạnh. Chỉ có người mẹ mới biết được con mình muốn làm gì. Lính! Phi công! Bọn chúng chỉ nghĩ được có thế. Bọn Mỹ! Bọn mọi rợ! Quân tạp chủng!"

Sự phẫn nộ vào thời điểm này khiến bà lão ho. Khi đã bình phục, bà tiếp tục nói, mở miệng một cách điên cuồng và sử dụng Poirot làm mục tiêu cho mình trút hết bất bình.

"Tại sao họ có dây thép gai quanh trại của họ? Để giữ cho những người lính không đến với các cô gái à? Không, để giữ cho các cô gái tiếp cận với những người lính! Bọn dại trai, chúng chính là vậy đó! Hãy nhìn cách chúng ăn mặc đi. Quần! Một số đứa ngốc còn mặc quần ngắn nữa - chúng sẽ không làm thế nếu biết mình trông như thế nào từ phía sau!"

"Tôi đồng ý với bà, phu nhân, tôi hoàn toàn đồng ý."

"Chúng đội cái gì trên đầu? Mũ đàng hoàng? Không, thứ đồ vặn vẹo méo mó, và khuôn mặt phủ đầy sơn và bột. Thứ bẩn thỉu, bôi dầy cộm trên mồm. Không chỉ móng đỏ - mà là móng chân đỏ!"

Bà già dừng lại một cách bùng nổ và nhìn Poirot đầy mong đợi. Ông thở dài và lắc đầu.

"Ngay cả trong nhà thờ nữa," bà già nói. "Không đội mũ gì. Lắm khi không choàng cả một cái khăn ngu ngốc lên. Chỉ để cái đầu trần tóc uốn cứng xấu xí. Tóc? Không ai biết tóc ngày nay là cái thứ gì. Tôi thậm chí có thể ngồi trên tóc mình khi còn trẻ."

Poirot liếc nhìn các dải màu xám sắt. Dường như bà già hung dữ trông như thể chưa từng trải qua tuổi trẻ!

"Một đứa trong chúng nó đã làm thế rồi, ló đầu vào đây đêm hôm trước," người phụ nữ vẫn còn nói. "Quấn quanh người bằng khăn choàng cam với sơn và phấn. Tôi nhìn cô ta. Tôi chỉ nhìn cô ta thôi! Cô ta lại chạy mất!"

"Cô ta không phải khách trọ," bà lão nói. "Mấy loại như cô ta không ai trọ ở đây cả, thiệt mừng vì điều đó! Vậy cô ta làm gì mà bước ra từ phòng một người đàn ông? Ghê tởm, chính là thế. Tôi đã nói điều đó với cô Lippincott - nhưng cô ta cũng chẳng khá hơn là bao - đều chạy theo bất cứ thứ gì mặc quần."

Có sự hứng thú mờ nhạt xuất hiện trong tâm trí Poirot.

"Bước ra từ phòng đàn ông à?" Ông hỏi lại.

Người phụ nữ liền tiếp tục đề tài với niềm say mê.

"Tôi vừa nói thế còn gì. Chính mắt tôi nhìn thấy. Phòng số 5."

"Ngày nào vậy, phu nhân?"

"Ngày trước khi xảy ra tất cả những ồn ào về một người đàn ông bị sát hại. Thật đáng tiếc khi điều đó có thể xảy ra ở đây! Đây từng là một nơi rất cổ kính. Nhưng bây giờ -"

"Vậy đó là thời gian nào trong ngày thế?"

"Ngày? Không phải ban ngày gì cả. Tối. Tối muộn ấy. Hoàn toàn thiếu đứng đắn. Sau hơn mười giờ. Tôi đi lên phòng ngủ lúc mười giờ mười lăm. Cô ta táo tợn đi ra từ phòng số 5, nhìn chằm chằm vào tôi, sau đó tránh vào trong một lần nữa, cười và nói chuyện với người đàn ông ở đó."

"Bà nghe anh ta nói?"

"Thì tôi đã nói thế mà? Cô ta quay vào trong rồi hắn ta la lên, 'Ôi, thôi mà, đi ra đi. Tôi đã chán rồi.' Cách nói chuyện với phụ nữ mới tử tế làm sao! Nhưng cũng do họ cả thôi! Bọn ranh mãnh!"

Poirot hỏi, "Bà không nói điều này với cảnh sát sao?"

Bà nhìn ông bằng ánh mắt sắc bén và đứng bật dậy khỏi ghế.

Đứng trước mặt ông, nhìn từ trên xuống, bà nói:

"Tôi không muốn dính dáng gì đến cảnh sát. Cảnh sát đấy! Tôi, ở sở cảnh sát á?"

Run rẩy với cơn thịnh nộ và với một ánh mắt ác ý cuối cùng nhìn Poirot, bà rời khỏi phòng.

Poirot ngồi trong vài phút cẩn thận vuốt ve bộ ria mép của mình, sau đó ông bèn đi tìm Beatrice Lippincott.

"Ồ, vâng, ông Poirot, ý ông là bà Leadbetter? Góa phụ của ông Canon Leadbetter. Bà ấy đến đây hàng năm, nhưng dĩ nhiên giữa chúng ta thôi nhé, bà ấy đúng là một phiền toái. Đôi khi bà ấy thực sự thô lỗ với mọi người và bà ấy không chịu hiểu rằng thời thế bây giờ đã khác rồi. Bà ấy đã gần tám mươi tuổi, tất nhiên."

"Nhưng bà ấy vẫn tỉnh táo chứ? Có nhận thức được những gì mình nói không?"

"Ồ, vâng. Bà ấy là một bà lão sắc sảo đấy - thậm chí có phần hơi quá nữa."

"Cô có biết là có một cô gái trẻ đến gặp người đàn ông bị giết đêm thứ Ba không?"

Beatrice trông kinh ngạc.

"Tôi không nhớ là có người phụ nữ nào đến gặp anh ta tại thời điểm nào cả. Trông như thế nào?"

"Cô ấy mang khăn quàng cổ màu cam và tôi đoán là đeo lớp trang điểm khá đậm. Cô ấy ở phòng số 5 nói chuyện với Arden lúc mười giờ mười lăm tối thứ Ba."

"Vậy ư, ông Poirot, tôi chẳng có khái niệm nào cả."

Poirot đăm chiêu lên đường kiếm chánh thanh tra Spence.

Spence lắng nghe câu chuyện của Poirot trong im lặng. Rồi ông ngả người ra sau ghế và chầm chậm gật đầu.

"Buồn cười nhỉ?" Ông lên tiếng. "Có bao nhiêu khả năng ông có thể quay lại với công thức cũ chứ. Tìm ra người phụ nữ."

Giọng Pháp của chánh thanh tra không tốt bằng trung sĩ Graves, nhưng ông tự hào về điều đó. Ông đứng dậy và đi qua phòng. Ông quay lại cầm thứ gì đó trong tay. Đó là một thỏi son trong hộp bìa cứng mạ vàng.

"Chúng tôi đã có giả thiết từ trước là có một người phụ nữ dính líu trong chuyện này," ông nói.

Poirot lấy thỏi son và tinh tế bôi một chút lên mu bàn tay.

"Chất lượng tốt," ông bảo. "Màu anh đào sậm - hẳn là một người tóc nâu dùng nó."

"Vâng. Nó được tìm thấy trên sàn phòng số 5. Nó lăn dưới rương ngăn kéo và dĩ nhiên là có thể nó đã ở đó một lúc lâu rồi. Không có dấu vân tay trên đó. Tất nhiên, ngày nay, không có nhiều thể loại son như ngày trước - chỉ một vài loại tiêu chuẩn được làm ra thôi."

"Và chắc hẳn là ông đã cho điều tra?"

Spence cười.

"Phải," ông trả lời, "như ông nói, chúng tôi đã điều tra dựa theo nó. Rosaleen Cloade sử dụng loại son này. Lynn Marchmont cũng vậy. Frances Cloade sử dụng màu trầm hơn. Bà Lionel Cloade hoàn toàn không sử dụng son môi. Bà Marchmont dùng màu hoa cà nhạt. Beatrice Lippincott dường như không sử dụng bất cứ thứ gì đắt tiền như thế này - cũng không thể là cô hầu phòng Gladys."

Ông ngừng lại.

"Ông đã làm rất chi tiết," Poirot nhận xét.

"Không đủ kĩ lắm. Giờ thì có vẻ như có một người ngoài bị cuốn vào vụ này - có thể là người phụ nữ nào đó Underhay quen ở Warmsley Vale."

"Vậy ai đã ở với anh ta lúc mười giờ mười lăm tối thứ Ba?"

"Phải," Spence nói. Ông thở dài thêm vào, "Vậy là phải loại Hunter ra rồi."

"Vậy á?"

"Ừ. Bên phía bảo trợ của anh ta cuối cùng đã đồng ý đưa ra xác nhận. Sau khi luật sư của anh ta giải thích cho anh ta tính chất vụ việc. Đây là báo cáo hoạt động của anh ta."

Poirot đọc bản đánh máy gọn gàng.

Rời Luân Đôn trên chuyến tàu 4.16 tới Warmsley Health. Đến nơi lúc 5.30. Đi tới Furrowbank bằng đường bộ.

"Lý do anh ta xuống đó," chánh thanh tra cắt ngang, "theo anh ta, là để lấy một số thứ anh ta để lại, thư, giấy tờ, sổ séc, và để xem mấy cái áo sơ mi đã được tiệm giặt ủi trả về chưa - mà dĩ nhiên, là chúng vẫn chưa. Thiệt sự luôn, tiệm giặt giũ hiện nay là cả một vấn đề. Bốn tuần lễ buồn tẻ kể từ khi họ đến chỗ chúng tôi - không còn một cái khăn sạch nào dư lại trong nhà, vợ tôi giờ phải tự mình giặt mọi thứ cho tôi."

Sau màn độc thoại nội tâm chánh thanh tra bèn quay trở lại với bản tường trình hoạt động của David.

"Rời khỏi Furrowbank lúc 7.25, anh ta nói rằng mình đã đi dạo vì lỡ mất chuyến tàu 7.20 và sẽ không có chuyến tàu nào cho đến 9.20."

"Cậu ta đi dạo theo hướng nào?" Poirot hỏi.

Chánh thanh tra kiểm tra giấy ghi chú.

"Theo Downe Copse thì, Bat Hills rồi đến Long Ridge."

"Tóm lại là, một cuốc vòng quanh khu White House!"

"Ái chà, ông ghi nhớ địa điểm ở đây nhanh thật đấy, ông Poirot!"

Poirot mỉm cười lắc đầu.

"Không, tôi đâu biết mấy chỗ ông vừa nêu. Tôi chỉ phỏng đoán thôi."

"A, là như thế à?" Chánh thanh tra nghiêng đầu sang một bên.

"Vậy là, theo cậu ấy nói thì khi tới Long Ridge, cậu ta nhận ra mình vẫn còn thời gian nên không vội đến ga Warmsley Heath mà đi khắp xung quanh. Cậu ta chỉ vừa kịp bắt chuyến tàu ngay sau đó, đến Victoria lúc 10.45, đi bộ đến khu Shepherd, tới nơi lúc mười một giờ, lời khai này sau đó đã được xác thực bởi phu nhân Gordon Cloade."

"Ông còn lấy được bằng chứng xác thực nào nữa không?"

"Vô cùng ít - nhưng vẫn có. Rowley Cloade cùng vài người nữa có thấy cậu ta ở Warmsley Heath. Mấy cô hầu ở Furrowbank đều đã ra ngoài (dĩ nhiên cậu ta có chìa khoá riêng rồi) nên họ không nhìn thấy ông chủ, nhưng họ đã tìm thấy mẩu tàn thuốc lá trong thư viện mà tôi thu thập được khiến họ tò mò và có một sự xáo trộn nho nhỏ trong chạn chén. Rồi thì một trong số những người làm vườn làm việc trễ lúc đó - đang đóng cửa nhà kính hay gì đó và thấy bóng dáng cậu ta. Cô Marchmont gặp cậu ta ở Mardon Wood - lúc cậu ta chạy đi cho kịp chuyến tàu."

"Có ai nhìn thấy cậu ấy lên tàu không?"

"Không - nhưng cậu ấy đã gọi điện thoại từ Luân Đôn cho cô Marchmont ngay khi vừa quay lại - vào lúc 11.05."

"Đã kiểm tra rồi à?"

"Có, chúng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra về các cuộc gọi từ số đó. Có một cuộc gọi thu phí vào lúc 11 giờ 04 tới số 36 ở Warmsley Vale. Đó là số của nhà Marchmont."

"Rất, rất thú vị," Poirot lẩm bẩm.

Nhưng Spence vẫn tiếp tục hăng say nói đều đều.

"Rowley Cloade chia tay Arden lúc chín giờ kém năm. Cậu ta khá chắc chắn là không thể sớm hơn. Khoảng 9.10 Lynn Marchmont gặp Hunter ở Mardon Wood. Giả sử David đã chạy từ Stag, liệu cậu ấy có đủ thời gian để gặp mặt Arden, cãi nhau với anh ta, giết người rồi lại đến Mardon Wood? Chúng tôi đã thử và tôi không nghĩ là nó khả thi. Tuy thế thì giờ chúng tôi đang bắt đầu lại. Khác xa với Arden bị giết lúc chín giờ, anh ta còn sống đến lúc mười giờ mười phút - đó là trừ khi bà già của ông đang mơ ngủ. Anh ta đã bị giết bởi người phụ nữ đánh rơi thỏi son, người phụ nữ trong chiếc khăn màu cam - hoặc bởi ai đó bước vào sau khi người phụ nữ đó rời đi. Dù là bất cứ ai, thì kẻ đó đã cố tình chỉnh kim đồng hồ lại thành chín giờ mười phút."

"Điều mà nếu David Hunter không tình cờ gặp Lynn Marchmont ở nơi chả ai ngờ tới thì hẳn sẽ thành tình huống khó xử với cậu ta nhỉ?" Poirot hỏi.

"Hẳn là vậy. 9.20 là chuyến tàu cuối cùng từ Warmsley Heath. Trời đã tối. Lúc nào cũng có người chơi gôn quay trở lại. Chẳng ai nhận ra Hunter được - mà đúng là người ở sân ga không thể nhận ra cậu ta chỉ qua bóng dáng. Và cậu ta cũng không bắt tắc xi khi đến nơi. Vậy nên chúng ta chỉ có sự xác nhận của cô em gái việc cậu ta đi đến khu Shepherd khi cậu ta khai như thế thôi."

Poirot rơi vào im lặng, Spence hỏi ông:

"Ông đang nghĩ gì thế, Poirot?"

Poirot nói, "Một chuyến đi bộ dài quanh White House. Một cuộc gặp ở Mardoon Wood. Cuốc điện thoại ngay sau đó... Lynn Marchmont thì đã đính hôn với Rowley Cloade... Tôi thật sự muốn biết họ đã nói những gì qua điện thoại."

"Ông lại quan tâm đến chuyện tầm thường đó à?"

"Phải," Poirot trả lời, "chính là những chuyện tầm thường đó đấy."

Chương 8

Trời đã tối hẳn, nhưng vẫn còn một người nữa Poirot muốn gặp. Ông bèn đi theo hướng đến nhà Jeremy Cloade.

Tại đó ông được dẫn đến phòng làm việc của Jeremy Cloade bởi một cô hầu phòng trông nhanh nhẹn.

Còn lại một mình, ông nhìn xung quanh. Tất cả đều theo hình thức và khô khan, Poirot nghĩ, ngay cả trong nhà của ông ta cũng thế. Có một bức chân dung lớn của Gordon Cloade trên bàn. Một bức khác hơi mờ của ngài Edward Trenton trên lưng ngựa, Poirot đang xem xét bức sau thì Jeremy Cloade bước vào.

"À, xin thứ lỗi." Poirot bối rối đặt khung hình xuống.

"Đó là bố vợ tôi," Jeremy đáp, có chút tán thưởng trong tông giọng của ông. "Đó là một trong những con ngựa giỏi nhất của ông. Chestnut Trenton. Đứng nhì ở Derby năm 1924. Ông cũng hứng thú với đua ngựa à?"

"Ôi trời, không."

"Tiêu tốn hàng đống tiền," Jeremy khô khan nói. "Ngài Edward đã gặp sự cố vì nó - và rồi phải sống ở nước ngoài. Phải, một môn thể thao xa xỉ."

Nhưng vẫn có phần tự hào trong giọng nói của ông.

Poirot đánh giá, bản thân ông nếu như đầu tư vào mấy con ngựa thì chẳng khác nào ném tiền ra đường, nhưng ông vẫn có sự tôn trọng và ngầm ngưỡng mộ những ai dám làm vậy.

Cloade nói tiếp:

"Tôi có thể giúp gì cho ông, Poirot? Có vẻ như gia đình chúng tôi đã nợ ông một ân huệ rất lớn - vì tìm ra đại tá Porter để chứng minh nhân dạng."

"Mọi người có vẻ hứng khởi về điều đó nhỉ," Poirot mở lời.

"À," Jeremy khô khốc nói. "Có vẻ khá sớm để vui mừng. Cần phải để mọi chuyện qua cầu trót lọt cái đã. Dù sao thì Underhay đã được chứng tử ở Châu Phi rồi. Phải mất rất nhiều năm mới tra lại được những việc như vậy - mà lời chứng của Rosaleen lại rất thuyết phục - cực kì thuyết phục. Cô ấy gây thiện cảm khá là tốt."

Trông có vẻ như Jeremy Cloade không muốn bỏ ra chút hứng thú nào để cải thiện thêm cái viễn cảnh của mình.

"Tôi không muốn đưa ra bất kì lời phán xét này nọ gì cả," ông nói. "Đâu thể biết được mấy trường hợp này như thế nào."

Rồi sau khi gạt mớ giấy tờ qua một bên với vẻ bực dọc xen chút mệt mỏi, ông lên tiếng:

"Ông vẫn muốn gặp tôi?"

"Tôi muốn hỏi ông Cloade đây rằng ông có chắc chắn rằng anh của mình không để lại bất kì di chúc nào không? Ý tôi là di chúc được lập sau khi ông ấy kết hôn?"

Jeremy sửng sốt.

"Tôi không nghĩ là có chuyện đó xảy ra. Anh ấy chắc chắn là không làm trước khi rời New York."

"Ông ấy lập nó trong hai ngày ở Luân Đôn thì sao."

"Gặp luật sư ở đó?"

"Hoặc tự mình viết."

"Và để nó được chứng thực? Ai chứng thực chứ?"

"Có ba người hầu ở trong căn nhà," Poirot nhắc nhở. "Ba người đã chết cùng đêm đó với ông ấy."

"Hừm - phải - nhưng giả sử như anh ấy có làm như ông đoán, chà, thế thì tờ di chúc cũng bị huỷ rồi."

"Trọng điểm chính là đó. Thời buổi này có vô số tài liệu được cho là đã bị tiêu hủy hoàn toàn lại có thể được phục chế bởi phương pháp tiên tiến. Chẳng hạn như, thiêu hủy trong két sắt gia đình, nhưng không bị phá hủy đến mức không thể đọc được."

"Chà, ông Poirot, đó quả là một ý tưởng khá là táo bạo đấy... Cực kì ấn tượng. Nhưng tôi không nghĩ thế đâu - không, tôi không nghĩ là có thứ gì ở đấy đâu. Theo như tôi biết thì chẳng có cái két sắt nào trong căn nhà phố Sheffield Terrace cả. Gordon cất tất cả giấy tờ quan trọng trong văn phòng của ảnh - mà chỗ đấy không hề có tờ di chúc nào."

"Nhưng sẽ có trường hợp ngoại lệ chứ?" Poirot nài nỉ. "Từ chỗ đội Phòng ngừa Không kích chẳng hạn? Ông có thể ủy thác cho tôi chứ?"

"Ô tất nhiên - tất nhiên. Ông thật tốt khi tình nguyện làm việc này. Nhưng tôi e là tôi chẳng có chút lòng tin nào là ông sẽ thành công cả. À - dù sao thì, cũng là một cơ hội nhỉ. Ông - ông sẽ quay lại Luân Đôn chứ?"

Poirot nheo mắt lại. Giọng điệu của Jeremy đầy chờ mong không giấu được. Quay lại Luân Đôn à... Tất cả bọn họ muốn đuổi mình đi sao?

Trước khi ông kịp đáp lời thì cánh cửa mở ra và Frances Cloade bước vào.

Poirot bị bất ngờ bởi hai điều. Điều đầu tiên, bà ấy trông cực kì yếu ớt. Điều thứ hai, chính là sự giống nhau như tạc giữa bà và người bố trong bức hình.

"Ông Hercule Poirot đây đến gặp chúng ta đấy mình à," Jeremy thốt lên một câu vô nghĩa.

Bà bắt tay cùng ông, rồi Jeremy Cloade ngay lập tức hướng bà đến gợi ý của Poirot về tờ di chúc.

Frances trông ngờ vực.

"Có vẻ là một việc bất khả thi."

"Ông Poirot sẽ đi lên Luân Đôn và có lòng tốt điều tra giúp mình."

"Theo tôi biết thì đại tá Porter là người canh chừng không kích ở quận đó."

Vẻ tò mò lướt qua khuôn mặt bà Cloade. Bà hỏi:

"Đại tá Porter là ai?"

Poirot nhún vai.

"Một sỹ quan xuất ngũ, đang sống dựa vào lương hưu."

"Ông ấy thật sự từng ở Châu Phi?"

Poirot nhìn bà thắc mắc.

"Hiển nhiên, phu nhân. Sao thế?"

Bà lơ đãng đáp, "Tôi không biết nữa. Tôi thấy ông ấy là lạ."

"Phải, bà Cloade," Poirot trả lời. "Tôi có thể hiểu điều đó."

Bà nhìn ông chăm chú. Một sự biểu hiện như sợ hãi thoáng qua mắt bà.

Frances quay sang chồng:

"Jeremy, em cảm thấy rất lo lắng cho Rosaleen. Cô ấy ở một mình tại Furrowbank và hẳn là đang cảm thấy khủng khiếp vì David bị bắt giữ. Nếu em mời cô ấy đến nhà mình ở thì anh có phản đối không?"

"Em có nghĩ là điều đó khả thi không, em yêu?" Jeremy nghi ngờ hỏi.

"Ô - khả thi à? Em không biết! Nhưng người ta dù sao cũng chỉ là người thường. Cô ấy hẳn là đang thấy tuyệt vọng lắm."

"Anh không nghĩ là cô ấy sẽ chấp nhận."

"Dù sao thì em cũng có thể thử mà."

Vị luật sư nhẹ nhàng nói: "Nếu điều đó làm em vui vẻ hơn thì đi đi."

"Vui vẻ hơn!"

Từ đấy được thốt ra với vẻ cay đắng lạ lùng. Rồi bà đánh ánh mắt bối rối sang Poirot.

Poirot trịnh trọng lầm bầm:

"Tôi xin phép rời đi."

Bà đi cùng ông đến sảnh.

"Ông sẽ lên Luân Đôn à?"

"Tôi sẽ đi lên vào ngày mai, nhưng nhiều nhất là hai mươi bốn giờ. Và sau đó tôi trở lại Stag - nơi bà sẽ tìm thấy tôi, thưa bà, nếu bà cần tôi."

Frances đanh thép hỏi:

"Sao tôi lại muốn gặp ông?"

Poirot không trả lời câu hỏi mà chỉ nói:

"Tôi sẽ ở tại Stag."

Đêm hôm đó Frances nói chuyện với chồng bà trong bóng tối.

"Em không tin rằng người đàn ông ấy sẽ đến Luân Đôn vì lý do ông ta nói. Em không tin cả những chuyện cái gì mà Gordon đã lập di chúc khác. Anh có tin không, Jeremy?"

Một giọng nói bất lực, có phần mệt mỏi trả lời bà:

"Không Frances. Không - ông ấy đi vì lí do khác."

"Lí do gì?"

"Anh không biết."

Frances nói, "Chúng ta phải làm gì đây, Jeremy? Chúng ta phải làm gì đây?"

Ông bèn đáp lại:

"Frances, anh nghĩ chỉ có một việc duy nhất chúng ta có thể làm thôi -"

Chương 9

Sau khi thu thập đủ các thông tin cần thiết từ Jeremy Cloade, Poirot đã có được giải đáp cho những thắc mắc của mình. Họ rất dứt khoát. Ngôi nhà là một đống đổ nát hoàn toàn. Có phía chỉ vừa được dọn gần đây để xây lại.

Không có ai sống sót ngoại trừ David Hunter và phu nhân Cloade. Có ba người hầu trong căn nhà: Federick Game, Elizabeth Game và Eileen Corrigan. Cả ba đều chết ngay lúc đó. Gordon Cloade vẫn còn sống khi được cứu ra, nhưng lại tắt thở trên đường đến bệnh viện mà không có dấu hiệu tỉnh lại.

Poirot lấy tên và địa chỉ người thân của ba người hầu nọ.

"Có thể," ông nói, "họ đã từng nói gì đó với bạn bè như kiểu bàn tán hay nhận xét liên quan mà lại đưa ra chỉ điểm cho thông tin mà tôi thật sự cần lúc này."

Người nhân viên đang nói chuyện với Poirot nhìn ông nghi ngờ. Nhà Game đến từ Dorset, Eileen Corrigan thì từ County Cork.

Poirot sau đó thẳng tiến đến chỗ của đại tá Porter. Ông nhớ lại lời giới thiệu của Porter về việc mình là người canh gác và tự hỏi liệu ông ta có tình cờ có ca trực vào cái đêm đó không, liệu ông ấy đã chứng kiến gì đấy từ sự cố ở Sheffiled Terrace.

Ngoài ra thì, ông còn muốn nói chuyện với Porter vì một số lí do khác nữa.

Ngay khi đang rẽ vô góc đường Edge ông giật mình khi thấy cảnh sát mặc đồng phục đang đứng ngay ngoài căn nhà mà ông định ghé thăm. Có một nhóm các cậu bé và người qua đường đứng dòm vào bên trong.

Tim Poirot chùng xuống khi ông biết các dấu hiệu đó là gì.

Có người đứng ra chặn bước đi của ông.

"Không thể vào trong được, thưa ông," anh ta nói.

"Có chuyện gì thế?"

"Ông không sống ở đây chứ?"

Poirot lắc đầu.

"Ông muốn tìm gặp ai?"

"Người tên đại tá Porter."

"Hai người là bạn?"

"Không, tôi không nghĩ bạn là từ mô tả đúng lắm. Đã có chuyện gì?"

"Theo tôi hiểu thì ông ấy đã tự bắn mình. A, ngài thanh tra đây rồi."

Cánh cửa mở, có hai người đàn ông đi ra. Một người là thanh tra chủ quản địa phương, người còn lại Poirot nhận ra là trung sỹ Graves từ Warmsley Vale. Ông ấy nhận ra Poirot và giới thiệu ông với thanh tra.

"Đi vào trong thì tốt hơn," Graves nói.

Ba người đàn ông vào lại căn nhà.

"Họ đã đánh điện tới Warmsley Vale," Graves giải thích. "Rồi chánh thanh tra Spence cử tôi đi."

"Tự tử?"

Thanh tra đáp:

"Vâng. Nhìn rất rõ ràng. Không biết có phải việc đưa ra bằng chứng trong cuộc điều tra đã ám ảnh ông ấy không. Con người đôi khi có những suy nghĩ buồn cười vậy đó, nhưng tôi thấy dạo gần đây ông ấy vốn có dấu hiệu xuống tinh thần rồi. Khó khăn tài chính và vài điều khác. Tự bắn mình bằng khẩu súng lục ổ quay của ông ấy."

Poirot hỏi: "Tôi có thể đi lên không?"

"Nếu ông muốn, Poirot. Trung sỹ, hãy đưa ông ấy lên."

"Rõ."

Graves dẫn đường đến căn phòng trên tầng một. Nó vẫn như những gì Poirot còn nhớ: tấm thảm cũ bạc màu, mấy quyển sách. Đại tá Porter ở trên chiếc ghế bành to. Tư thế của ông gần như tự nhiên, chỉ là cái đầu gục xuống phía trước. Cánh tay phải của Porter rũ xuống bên cạnh - bên dưới nó, trên tấm thảm, chính là khẩu súng lục. Vẫn còn một mùi thuốc súng cay nồng trong không khí.

"Họ đoán là nó đã xảy ra cách đây vài giờ rồi," Graves lên tiếng. "Không ai nghe thấy tiếng súng nổ cả. Người phụ nữ trong nhà đã ra ngoài mua đồ."

Poirot nhíu mày, nhìn xuống cái xác lặng lẽ với vết cháy xém nhỏ nơi thái dương bên phải.

"Có nghĩ ra lí do gì khiến ông ấy làm thế không, ông Poirot?" Graves hỏi.

Anh tỏ ra tôn trọng với Poirot là vì nhìn thấy ngài chánh thanh tra rất tôn trọng ông - dù theo ý kiến cá nhân anh thì Poirot chẳng khác nào mấy lão già hay bới lông tìm vết.

Poirot lơ đãng trả lời:

"Có - có đấy, một lí do xác đáng. Điều đấy không khó giải thích lắm."

Ánh nhìn của ông chuyển sang cái bàn nhỏ bên tay trái đại tá Porter. Từng có một cái gạt tàn thủy tinh lớn trên đó, với một cái ống và một hộp diêm. Giờ thì chẳng có gì hết. Mắt ông đảo khắp căn phòng. Sau đó ông băng qua cái bàn cuốn đang mở. Nó rất gọn gàng. Giấy tờ cuộn tròn nhỏ lại. Một giấy thấm da ở giữa, một khay bút và bút cùng bút chì, hộp chứa kẹp giấy và sách tem. Tất cả đều gọn gàng và có trật tự. Một cuộc sống bình thường và một cái chết có trật tự - tất nhiên - chính là nó - đó là những gì còn thiếu!

Poirot nói với Graves:

"Ông ấy có để lại giấy nhắn - hay thư từ gì cho nhân viên điều tra không?"

Graves lắc đầu.

"Không, không có - thường thì cựu quân nhân sẽ làm thế."

"Đúng vậy, thật là tò mò."

Với một người sống có quy tắc. Đại tá Porter lại không chết theo quy tắc lắm. Tất cả đều sai hết, Poirot nghĩ thế, khi Porter không để lại lời nhắn nào cả.

"Nhà Cloade sẽ chấn động lắm đây," Graves nói. "Việc này sẽ làm họ khó khăn chút. Họ sẽ phải kiếm một người khác có quan hệ thân thiết với Underhay."

Anh hơi bồn chồn, "Ông còn muốn kiểm tra gì nữa không, ông Poirot?"

Poirot lắc đầu rồi đi theo sau Graves.

Trên cầu thang họ gặp bà chủ nhà. Bà ấy rõ ràng đang tận hưởng trạng thái kích động của chính mình và bắt đầu một bài diễn văn không ổn định ngay lập tức. Graves tách ra một cách khéo léo và để Poirot một mình chịu trận.

"Tôi còn không kịp thở luôn ấy. Đúng là chấn động. Angina Pectoria, mẹ tôi ấy - chết vì té xuống đất khi bà đi bộ qua Chợ Calendonian. Suýt chút nữa tôi cũng như thế khi nhìn thấy ông ấy, ôi đúng là kinh hoảng! Không thể tin được hành động của ổng, dù rằng ông ấy vốn dĩ mất tinh thần từ lâu lắm rồi. Tôi nghĩ là lo lắng chuyện tiền nong, rồi thì ăn uống không đầy đủ nữa. Mà ông ấy không chịu nhận hỗ trợ từ chúng tôi. Rồi hôm qua ổng còn đòi đi xuống tận Oatshire - ở Warmsley Vale - để đưa bằng chứng điều tra gì đó. Hẳn là nó khiến ông ấy ám ảnh lắm. Lúc trở về nhìn sắc mặt rất tệ. Cứ luẩn quẩn suốt cả đêm. Đi lên rồi xuống - lên rồi xuống. Một người đàn ông bị giết, mà lại còn là bạn của ông ấy nữa. Tội nghiệp, chắc ổng buồn dữ lắm. Khi tôi ra ngoài mua đồ một lát - và phải xếp hàng thật dài chỗ bán cá, tôi đi lên hỏi xem ông ấy có muốn một tách trà không - rồi ông ấy ở ngay đó, tội nghiệp, khẩu súng rơi khỏi tay, ngả người vào ghế . Tôi hoảng cả hồn. Rồi còn cảnh sát đi vào các thứ. Thế giới bây giờ đã trở thành cái gì vậy chứ?"

Poirot chậm rãi nói:

"Một nơi rất khó để tồn tại - ngoại trừ kẻ mạnh."

Chương 10

Lúc Poirot trở về Stag thì đã hơn tám giờ tối. Ông tìm thấy tờ giấy nhắn từ Frances Cloade hỏi rằng có thể đến gặp bà không. Poirot lập tức đi ra ngoài.

Bà đang đợi trong phòng khách. Ông chưa thấy căn phòng này trước đây. Cửa sổ mở ra khu vườn với hàng cây lê nở hoa. Có những chậu tulip trên bàn. Các đồ nội thất cũ tỏa sáng với sáp ong và sự đánh bóng quá tay và thanh chắn bùn bằng đồng và thùng đựng than đang phát sáng lấp lánh.

Poirot nghĩ, thật là một căn phòng đẹp.

"Ông đã bảo là tôi sẽ cần đến ông, ông Poirot. Ông đã đúng đấy. Có một việc tôi cần phải nói ra - và tôi nghĩ ông là người lắng nghe thích hợp nhất."

"Phu nhân, nói chuyện với một người vốn biết được câu chuyện luôn là điều dễ làm hơn hẳn."

"Ông nghĩ mình biết tôi sắp nói gì?"

Poirot gật đầu.

"Từ khi nào -"

Bà để lửng câu hỏi, nhưng ông vẫn trả lời:

"Từ lúc tôi nhìn thấy tấm hình cha của phu nhân. Đặc điểm nhận dạng trong gia đình rất dễ thấy. Không thể nghi ngờ gì hai người có quan hệ huyết thống với nhau. Sự tương tự đó cũng có ở người đàn ông tự nhận là Enoch Arden."

Bà thở dài - cái thở dài không mấy vui vẻ.

"Phải - phải, ông đúng rồi - dù rằng Charles tội nghiệp còn chòm râu nữa. Cậu ấy là em họ thứ hai của tôi, ông Poirot, đại khái là con cừu đen trong gia đình. Tôi không biết cậu ấy rõ lắm, nhưng chúng tôi có chơi với nhau lúc nhỏ - và giờ thì tôi đã đẩy cậu ấy vào cái chết - một cái chết tức tưởi -"

Bà thoáng trầm mặc.

Poirot nhẹ nhàng nói:

"Bà sẽ nói cho tôi -"

Frances thẳng lưng lại.

"Vâng, câu chuyện này phải được kể thôi. Chúng tôi đang rất cần tiền - đấy là khởi đầu của mọi thứ. Chồng tôi - chồng tôi vướng phải rắc rối - rắc rối cực tồi tệ. Mất danh dự, thậm chí anh ấy có thể ngồi tù - thực ra anh ấy vẫn có thể phải ngồi tù. Ông Poirot, ông hãy hiểu cho, kế hoạch này và những gì tôi làm đều do một tay tôi cả; chồng tôi không hề liên quan gì đến việc này. Đây không phải là kế hoạch anh ấy có thể đưa ra - tính mạo hiểm quá cao. Nhưng tôi chưa bao giờ lo lắng về rủi ro.Tôi cho rằng trước giờ mình có hơi, thiếu thành thật, tôi nghĩ thế. Đầu tiên, tôi đã hỏi Rosaleen Cloade về một khoản vay. Tôi không biết nếu như được tự quyết định, thì cô ấy có cho chúng tôi vay hay không. Nhưng anh trai cô ấy xen vào. Cậu ta đã có tâm trạng tồi tệ và cậu ta, ấy là tôi thấy thế, có hơi thô lỗ quá đà. Khi nghĩ ra phi vụ này tôi đã hoàn toàn không do dự mà tiến hành nó."

"Để giải thích mọi chuyện, tôi phải nói ông nghe là chồng tôi đã kể tôi một thông tin khá thú vị từ năm ngoái khi anh ấy đang ở câu lạc bộ. Tôi tin là ông đã ở đó, nên tôi không cần phải đi vào chi tiết. Nhưng nó đưa ra giả thiết mở rằng người chồng trước của Rosaleen vẫn chưa chết - mà như vậy thì cô ấy không hề có quyền lợi nào đối với khối tài sản của Gordon. Đương nhiên, đó là một khả năng mơ hồ, nhưng nó cứ bám lấy trong tâm trí chúng tôi, như kiểu một giả thiết có thể thành sự thật vậy. Rồi trong đầu tôi nảy ra ý tưởng sử dụng chính giả thiết đó. Charles, em họ đang ở trong nước của tôi, đang gặp khó khăn. Cậu ấy đã từng ngồi tù, tôi e là thế, và cậu ấy cũng chẳng phải loại tốt đẹp gì, nhưng cậu ấy đã từng ra quân chiến đấu. Tôi đã đặt điều kiện với cậu ấy. Dĩ nhiên, chỉ đơn giản là tống tiền thôi, không hơn không kém. Nhưng chúng tôi cho rằng mình có thể qua vụ này trót lọt. Khả năng tệ nhất là David Hunter không chịu phối hợp. Tôi không nghĩ là cậu ta lại đến gặp cảnh sát - những người như David thường không thích động chạm tới cảnh sát."

Giọng bà đanh lại.

"Kế hoạch đã thành công. David đã mắc bẫy dễ hơn chúng tôi nghĩ. Charles tất nhiên là không thể giả dạng thành 'Robert Underhay' được. Rosaleen có thể nhìn ra ngay lập tức. May thay cô ấy lại lên Luân Đôn và để cho Charles cơ hội ít nhất là gợi ý cậu ấy chính là Robert Underhay. Chà, như tôi đã nói, David hoàn toàn bị lừa. Cậu ta đáng lí là sẽ đem tiền tới vào tối thứ Ba lúc chín giờ. Thay vào đó -"

Frances lạc giọng.

"Chúng tôi nên biết David là - một người nguy hiểm. Charles đã chết - bị giết - nếu không vì tôi cậu ấy có thể vẫn còn sống. Tôi đã đẩy cậu ấy vào chỗ chết."

Sau một lát giọng bà trở nên khô khan:

"Ông có thể hiểu tôi đã cảm thấy thế nào từ lúc đó."

"Dù vậy," Poirot nói, "Bà thật nhanh trí khi có thể nhìn xa hơn trong kế hoạch này đấy? Chính bà là người đã kêu đại tá Porter nhận dạng em họ mình là 'Robert underhay'?"

Nhưng bà phủ nhận kịch liệt:

"Không, tôi thề với ông, không phải. Không có chuyện đó! không ai ngạc nhiên hơn... Ngạc nhiên? Chúng tôi đã ngớ người ra, khi mà vị đại tá Porter đó đi đến và đưa ra bằng chứng rằng Charles - Charles! - lại chính là Robert Underhay. Tôi không hiểu được - tôi vẫn không thể hiểu được!"

"Nhưng có ai đó đã gặp đại tá Porter. Ai đó đã thuyết phục hoặc hối lộ ông ấy - để nhận dạng nạn nhân thành Underhay?"

Frances nói dứt khoát:

"Không phải tôi làm. Và cũng không phải là Jeremy. Hai chúng tôi không thể làm việc đó được. Tôi nghĩ là hơi khó tin với ông! Ông cho rằng người lên kế hoạch tống tiền như tôi thì chắc sẽ dễ dàng làm những trò xấu xa khác. Nhưng đối với tôi hai việc đó hoàn toàn chẳng liên quan gì cả. Ông phải hiểu là tôi đã thấy - tới giờ vẫn vậy - rằng chúng tôi có quyền được thụ hưởng một phần tài sản của Gordon. Nếu không thể giành một cách công bằng thì tôi sẵn sàng tính kế khác. Nhưng cố tình lừa đảo Rosaleen về chuyện này, bằng cách thay đổi chứng cứ rằng cô ấy không phải là vợ của Gordon - thì không, ông Poirot, tôi không bao giờ làm chuyện đó. Xin ông, hãy tin tôi."

"Ít nhất thì tôi thừa nhận," Poirot chậm rãi nói, "rằng mọi người đều có tội lỗi riêng của mình. Phải, tôi tin điều đó."

Rồi ông nhìn bà sắc bén.

"Phu nhân Cloade, bà có biết rằng đại tá Porter đã tự sát trưa nay không?"

Frances giật lùi lại, mắt mở to kinh hoàng.

"Ôi, không, ông Poirot - không!"

"Phải, thưa phu nhân. Bà thấy đấy, ông ấy là một người đàn ông chính trực và thành thật. Khả năng tài chính khiến cho ông ấy rơi vào túng thiếu, và khi cám dỗ đến ông ấy, như bao người đàn ông khác, đã không thể chống cự lại nó. Dường như với ông ấy, ông ấy có thể đã khiến mình cảm thấy, rằng cuộc sống của ông ấy gần như hợp lý về mặt đạo đức. Đại tá đã định kiến sâu sắc trong suy nghĩ của mình đối với người phụ nữ mà bạn ông Underhay đã kết hôn. Ông cho rằng cô đã đối xử với bạn mình một cách thiếu tôn trọng. Và bây giờ, người đào vàng nhỏ bé vô tâm này đã kết hôn với một triệu phú để rồi trốn thoát với số tiền bạc rủng rỉnh được đánh đổi bằng chính máu thịt của ông chồng thứ hai ấy. Nó có vẻ đã cám dỗ ông ấy xen vào việc này - để cô ấy nhận được những gì mình đáng có. Và chỉ bằng cách xác định một người đàn ông đã chết, bản thân đại tá sẽ được đảm bảo cho tương lai. Khi nhà Cloade giành lại quyền của họ, ông ấy sẽ được chia phần ... Vâng - tôi có thể thấy sự cám dỗ ... Nhưng giống như nhiều người đàn ông thuộc loại ông ấy, đó là sự thiếu hụt trí tưởng tượng. Ông ấy trông không vui, rất không vui, trong cuộc điều tra. Người ta có thể thấy điều đó. Trong tương lai gần, ông ấy sẽ phải lặp lại lời nói dối của mình. Không chỉ vậy, một người đàn ông giờ đã bị bắt, bị buộc tội giết người - và danh tính của người chết cung cấp một động lực rất mạnh mẽ cho cáo buộc đó.

"Porter quay trở về nhà và đối mặt với mọi thứ trong cái góc suy nghĩ của ông ấy. Rồi tự tay ông ấy đưa ra cách giải quyết hợp lý nhất với mình."

"Tự bắn chính mình?"

"Phải."

Frances lẩm bẩm: "Ông ấy không nói ai - ai -"

Poirot lắc đầu chậm rãi.

"Ông ấy có qui tắc của mình. Không hề có ám chỉ nào về người đã xúi giục ông ấy khai man cả."

Poirot nhìn bà. Có một ánh nhìn của sự thoải mái, hay thoát khỏi căng thẳng? Đúng vậy, nhưng điều đó có thể là bình thường trong nhiều trường hợp...

Frances đứng dậy và đi về phía cửa sổ.

Bà lên tiếng:

"Vậy là chúng ta lại quay trở về ban đầu."

Poirot tự hỏi điều gì đã nảy ra trong tâm trí bà.

Chương 11

Sáng hôm sau, chánh thanh tra Spence bắt đầu bằng câu nói gần giống của bà Frances:

"Vậy là chúng ta lại quay trở về ban đầu," ông thở dài. "Chúng ta phải điều tra xem cái gã Enoch Arden này thật sự là ai."

"Tôi có thể cho ông biết điều đó, thanh tra," Poirot nói. "Tên người dó là Charles Trenton."

"Charles Trenton!" Chánh thanh tra huýt sáo. "Hô! Người nhà Trenton à - tôi đoán là bà ấy đã kêu cậu ta làm - bà Jeremy ấy mà... Dù vậy, chúng ta cũng không thể chứng minh sự liên quan của hai người đó với nhau được. Charles Trenton? Hình như tôi nhớ -"

Poirot gật đầu.

"Vâng. Cậu ta đã có tiền án."

"Cũng đoán vậy. Nhớ không lầm thì hình như là lừa đảo khách sạn. Thường hay ghé vào khách sạn Ritz, rồi ra ngoài mua xe Rolls, phải chịu một phiên toà buổi sáng, đi lòng vòng trên chiếc Rolls đến tất cả các cửa hàng đắt tiền để mua đồ - để tôi nói ông nghe người mà có xe Rolls đậu ở bên ngoài để đợi mình mua hàng trở về Ritz thường không cần phải trả tiền liền đâu! Hơn nữa, cậu ta có vẻ ngoài và cách cư xử lịch lãm. Thường cậu ta sẽ ở khoảng một tuần, khi mà có dấu hiệu bị nghi ngờ, thì cậu ta lặng lẽ biến mất, bán lại mấy thứ mình đã mua với giá rẻ cho mấy gã đồng bọn bên ngoài. Charles Trenton. Hừmm-" ông nhìn Poirot. "Ông rất biết đào ra nhiều thứ nhỉ?"

"Vụ của ông với David Hunter tiến triển thế nào rồi?"

"Chắc sẽ phải thả cậu ta ra. Buổi tối hôm đó có một người phụ nữ xuất hiện với Arden. Mà không phải chỉ dựa vào lời của bà lão khọm ấy đâu. Jimmy Pierce đang trên đường về, sau khi bị đuổi ra khỏi Load of Hay - cãi nhau sau khi uống vài ly. Cậu ấy nhìn thấy một người phụ nữ đi ra từ Stag rồi ghé vào hộp điện thoại ngoài bưu điện - lúc ấy là sau mười giờ. Khẳ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#saas