chuan muc dao duc kiem toan vien 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nhân viên cao cấp của công ty kiểm toán có quan hệ lâu dài với khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo

Quy định chung

173. Một kiểm toán viên hoặc một thành viên Ban Giám đốc của công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ đảm bảo cho cùng một khách hàng trong một thời gian dài có thể sẽ tạo ra nguy cơ xuất phát từ sự quen thuộc. Nguy cơ này sẽ tuỳ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Độ dài thời gian mà cá nhân đó là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo;

Vai trò của cá nhân đó trong nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo;

c)

Cơ cấu tổ chức của công ty kiểm toán; và

d)

Tính chất của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo.

Nguy cơ này cần được thẩm định và, nếu nguy cơ đó rõ ràng là đáng kể, các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để giảm thiểu nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được. Những biện pháp bảo vệ gồm:

a)

Luân phiên kiểm toán viên hành nghề trong nhóm cung cấp dịch vụ bảo đảm và thành viên Ban Giám đốc tối đa là 3 năm một lần;

Tăng cường một kiểm toán viên hành nghề không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo để soát xét lại các việc đã làm hay để tham khảo ý kiến khi cần thiết; hay

c)

Tiến hành kiểm soát chất lượng một cách độc lập trong nội bộ công ty kiểm toán.

Khách hàng kiểm toán là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán

174. Khi một thành viên Ban Giám đốc và một kiểm toán viên hành nghề phụ trách hợp đồng kiểm toán kể cả người phụ trách soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ cho một khách hàng trong một thời gian dài có thể tạo ra nguy cơ xuất phát từ sự quen thuộc, đặc biệt là khi kiểm toán công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trường hợp kiểm toán công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, các biện pháp bảo vệ gồm:

a)

Thành viên Ban Giám đốc và kiểm toán viên hành nghề phụ trách hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo và người phụ trách soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ phải được luân phiên theo thời hạn quy định, tối đa không quá 3 năm; và

Thành viên Ban Giám đốc và kiểm toán viên hành nghề được luân phiên theo thời hạn quy định tại điểm (a) có thể trở lại phụ trách hợp đồng kiểm toán đó ít nhất là sau 2 năm.

Khi khách hàng kiểm toán trở thành công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì khoảng thời gian mà Thành viên Ban Giám đốc và kiểm toán viên hành nghề phụ trách hợp đồng kiểm toán và người phụ trách soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ cần được luân phiên sớm hơn quy định.

175. Khi thành viên Ban Giám đốc và kiểm toán viên hành nghề phụ trách hợp đồng kiểm toán và người phụ trách soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ được luân phiên theo hạn định, thời hạn luân phiên có thể linh hoạt tuỳ theo từng trường hợp, như:

a)

Trường hợp một thành viên Ban Giám đốc hoặc kiểm toán viên phụ trách hợp đồng kiểm toán hoặc người phụ trách soát xét quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ tiếp tục phụ trách hợp đồng đó là đặc biệt quan trọng đối với khách hàng kiểm toán, như có sự thay đổi lớn trong tổ chức khách hàng trùng với thời điểm luân phiên những người này;

Trường hợp do quy mô của công ty kiểm toán mà việc luân phiên không thể thực hiện được hay không phải là một biện pháp bảo vệ.

Trong mọi trường hợp, nếu trong 3 năm việc luân phiên chưa được thực hiện thì mọi biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để giảm thiểu nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được.

176. Khi công ty kiểm toán chỉ có 2 thành viên Ban Giám đốc thì ngoài việc phải luân phiên, biện pháp bảo vệ có thể bằng cách phải tăng cường thêm kiểm toán viên không phải là thành viên nhóm kiểm toán để soát xét lại công việc kiểm toán hoặc tham khảo ý kiến khi cần thiết.

177. Khi công ty kiểm toán chỉ có một Giám đốc phụ trách kiểm toán có đủ kinh nghiệm và kiến thức cần thiết để phụ trách hợp đồng kiểm toán công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì biện pháp bảo vệ để giảm thiểu nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được cần được thực hiện như sau:

a)

Sau 3 năm kiểm toán phải chuyển đổi khách hàng cho công ty kiểm toán khác;

Hợp tác với công ty kiểm toán khác để cùng thực hiện hợp đồng kiểm toán với điều kiện thành viên Ban Giám đốc công ty kiểm toán khác sẽ là người ký báo cáo kiểm toán.

Cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo

178. Các công ty kiểm toán thường cung cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo nhiều dịch vụ phi đảm bảo phù hợp với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của họ. Khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo sẽ coi trọng những lợi ích nhận được từ công ty, nơi có sự hiểu biết đầy đủ về hoạt động kinh doanh, mang kiến thức và kỹ năng để sinh lợi trong những lĩnh vực khác. Hơn nữa, việc cung cấp các dịch vụ phi đảm bảo sẽ giúp cho nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo có được các thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng có thể có ích cho hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo. Càng biết nhiều về hoạt động kinh doanh của khách hàng, nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo sẽ càng hiểu rõ hơn những thủ tục và cách thức kiểm soát cũng như các rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính mà khách hàng phải đương đầu. Tuy nhiên, việc cung cấp các dịch vụ phi đảm bảo cũng có thể tạo ra các nguy cơ đối với tính độc lập của công ty, mạng lưới công ty hay các thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo, đặc biệt là có thể nhận thức được các nguy cơ đe dọa tính độc lập. Do vậy, cần phải thẩm định ý nghĩa của bất kỳ nguy cơ nào nảy sinh từ việc cung cấp các dịch vụ như vậy. Trong một số trường hợp, các nguy cơ đó có thể được loại bỏ hoặc giảm thiểu bằng cách áp dụng những biện pháp bảo vệ. Trong các trường hợp khác, không có một biện pháp bảo vệ nào có thể giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được.

179. Sau đây là các hoạt động sẽ gây ra các nguy cơ tư lợi, hoặc tự kiểm tra đáng kể tới mức chỉ có cách tránh thực hiện các hoạt động đó hay từ chối thực hiện hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo thì mới có khả năng giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được:

a)

Có quyền cho phép thực hiện hay hoàn thành một giao dịch, hoặc đảm trách công việc lãnh đạo thay khách hàng, hoặc sẽ có quyền như vậy;

Có quyền quyết định xem khuyến nghị nào của công ty kiểm toán cần được thực hiện;

c)

Được báo cáo lên người phụ trách công việc quản trị với vai trò người quản lý.

180. Các ví dụ từ đoạn 186 đến đoạn 225

là các trường hợp cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng. Nguy cơ tiềm tàng đe dọa đến tính độc lập thông thường sẽ nảy sinh khi một dịch vụ phi đảm bảo được cung cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo. Các báo cáo tài chính của một đơn vị cung cấp những thông tin tài chính về hàng loạt các giao dịch và các sự kiện ảnh hưởng tới đơn vị đó. Tuy nhiên, về bản chất, thông tin liên quan đến đối tượng của các dịch vụ đảm bảo khác có thể bị giới hạn. Tuy nhiên, nguy cơ đe dọa tính độc lập vẫn có thể nảy sinh khi công ty kiểm toán cung cấp một dịch vụ phi đảm bảo liên quan đến đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán. Trong những trường hợp như vậy, nên xem xét mức độ liên quan của công ty kiểm toán với đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán, xem liệu các nguy cơ tự kiểm tra có thể nảy sinh không và liệu các nguy cơ đe dọa đến tính độc lập có thể giảm thiểu tới mức có thể chấp nhận được không khi áp dụng các biện pháp bảo vệ hay liệu có nên từ chối hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo đó không. Khi dịch vụ phi đảm bảo không liên quan đến đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán, thì nói chung các nguy cơ đối với tính độc lập sẽ là không đáng kể.

181. Các hoạt động sau cũng có thể làm nảy sinh các nguy cơ tư lợi và tự kiểm tra:

a)

Quản lý tài sản của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo;

Giám sát hoạt động thường ngày của nhân viên của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo; và

c)

Chuẩn bị tài liệu gốc dưới hình thức điện tử hay các hình thức khác, làm bằng chứng cho sự xảy ra của giao dịch (ví dụ lập hóa đơn, chứng từ cho khách hàng).

Tầm quan trọng của các nguy cơ nên được thẩm định và, nếu nguy cơ rõ ràng là đáng kể, các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để giảm thiểu nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được. Những biện pháp bảo vệ có thể gồm:

a)

Sắp xếp công việc sao cho nhân viên đang thực hiện những dịch vụ như vậy sẽ không tham gia vào hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo;

Tăng cường một kiểm toán viên hành nghề để tư vấn về các ảnh hưởng tiềm tàng của hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo đến tính độc lập của thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo hay của công ty kiểm toán;

c)

Các biện pháp bảo vệ khác tùy theo quy định.

182. Sự phát triển mới trong hoạt động kinh doanh, sự tăng trưởng của thị trường tài chính, các thay đổi nhanh chóng trong công nghệ tin học, và các hệ quả đối với công tác quản lý và kiểm soát nên không thể đưa ra một danh sách đầy đủ các tình huống có thể tạo ra nguy cơ đe dọa tính độc lập khi cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo cũng như danh sách các biện pháp bảo vệ để loại bỏ hay giảm thiểu các nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Tuy nhiên công ty kiểm toán có thể cung cấp các dịch vụ ngoài hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo đảm với điều kiện mọi nguy cơ đe doạ đến tính độc lập đã được giảm tới mức có thể chấp nhận được.

183. Các biện pháp bảo vệ sau đây đặc biệt thích hợp để giảm thiểu các nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được khi cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo:

a)

Có các chính sách hay thủ tục không cho phép kiểm toán viên hành nghề đưa ra các quyết định quản lý thay cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc nhận trách nhiệm về các dịch vụ này;

Thảo luận các vấn đề về tính độc lập liên quan đến việc cung cấp dịch vụ phi đảm bảo với những người phụ trách công việc quản trị, ví dụ tổ chức kiểm toán nội bộ;

c)

Có các chính sách đối với khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo liên quan đến trách nhiệm cung cấp dịch vụ phi đảm bảo của công ty kiểm toán;

d)

Tăng cường một kiểm toán viên hành nghề để tư vấn về các ảnh hưởng tiềm tàng của hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo đến tính độc lập của thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo hay của công ty kiểm toán;

Tăng cường thêm một kiểm toán viên hành nghề không thuộc công ty kiểm toán để cung cấp sự đảm bảo về khía cạnh riêng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo;

f)

Để khách hàng sử dung dịch vụ đảm bảo công nhận trách nhiệm của họ đối với kết quả làm việc của công ty kiểm toán;

Thông báo với bộ phận phụ trách công tác quản trị, ví dụ như tổ chức kiểm toán nội bộ, về bản chất và mức phí kiểm toán;

h)

Sắp xếp sao cho kiểm toán viên nào đang thực hiện dịch vụ phi đảm bảo sẽ không tham gia vào hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo.

184. Trước khi chấp nhận hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm, công ty nên cân nhắc liệu điều đó có làm nảy sinh các nguy cơ đe dọa đến tính độc lập của công ty hay không. Trường hợp nguy cơ nảy sinh rõ ràng là đáng kể thì nên từ chối một trong hai hợp đồng trừ khi có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ để loại bỏ hoặc giảm thiểu các nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được.

185. Việc cung cấp dịch vụ phi đảm bảo cho khách hàng kiểm toán có thể sẽ tạo ra các nguy cơ đe dọa đến tính độc lập nghiêm trọng tới mức không có một biện pháp bảo vệ nào có thể loại bỏ hoặc giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, việc cung cấp một phần hoặc toàn bộ dịch vụ phi đảm bảo cho đơn vị có liên quan, một bộ phận hoặc một phần của báo cáo tài chính cho khách hàng đó có thể được phép nếu các nguy cơ đe dọa tính độc lập của công ty có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được bằng cách để cho công ty khác kiểm toán các phần còn lại hay cung cấp lại dịch vụ phi đảm bảo trong phạm vi cần thiết để họ chịu trách nhiệm cho dịch vụ đó.

Cung cấp dịch vụ ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính cho khách hàng kiểm toán

186. Việc giúp khách hàng kiểm toán làm một số việc như ghi sổ kế toán hay lập báo cáo tài chính có thể làm nảy sinh nguy cơ tự kiểm tra khi báo cáo tài chính đó được chính công ty thực hiện kiểm toán.

187. Trách nhiệm của khách hàng là ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính mặc dù họ có thể yêu cầu công ty kiểm toán giúp đỡ. Nếu công ty, mạng lưới công ty hoặc kiểm toán viên đã trợ giúp như vậy mà lại ra các quyết định mang tính quản lý thì không một biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm nguy cơ tự kiểm tra xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ về các quyết định mang tính quản lý như sau:

a)

Định khoản hay sửa đổi các bút toán ghi sổ kế toán hay các ghi chép kế toán khác chưa có sự đồng ý của khách hàng kiểm toán;

Cho phép hoặc phê duyệt các giao dịch; và

c)

Soạn thảo hoặc thay đổi tài liệu gốc (bao gồm cả các quyết định về định giá).

188. Quy trình kiểm toán có các cuộc trao đổi giữa công ty kiểm toán và ban lãnh đạo của khách hàng. Trong quy trình này, ban lãnh đạo yêu cầu và nhận được nhiều dữ liệu liên quan đến các vấn đề như: các nguyên tắc kế toán, các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính, sự phù hợp của các thủ tục kiểm soát và cách thức tính các số liệu tài sản và công nợ. Các hỗ trợ kỹ thuật kiểu này hay tư vấn chuyên môn liên quan đến nguyên tắc kế toán là một biện pháp thích hợp để nâng cao tính trung thực của báo cáo tài chính. Việc tư vấn như vậy nói chung không de dọa đến tính độc lập của công ty. Tương tự, quy trình kiểm toán cũng có thể bao gồm việc trợ giúp khách hàng kiểm toán giải quyết các vấn đề đối chiếu tài khoản, phân tích và tập hợp thông tin báo cáo, hỗ trợ chuẩn bị báo cáo tài chính hợp nhất (bao gồm việc chuyển đổi các tài khoản của công ty con sang tài khoản của tập đoàn, hay chuyển sang một khuôn mẫu báo cáo khác), soạn thảo thông tin trình bày trên báo các tài chính, đề xuất các bút toán điều chỉnh cũng như trợ giúp và tư vấn việc lập báo cáo theo quy định của công ty con. Các dịch vụ này được coi là một phần thông thường trong quy trình kiểm toán và trong các trường hợp thông thường sẽ không đe dọa đến tính độc lập.

Quy định chung về khách hàng

189. Các ví dụ từ đoạn 190 đến đoạn 193 chỉ ra rằng nguy cơ tự kiểm tra có thể nảy sinh nếu công ty kiểm toán tham gia vào việc ghi sổ kế toán hoặc lập báo cáo tài chính và những báo cáo này sau đó lại trở thành thông tin liên quan đến đối tượng của hợp đồng kiểm toán của công ty. Quy định này cũng có thể được áp dụng tương đương trong trường hợp đối tượng chính của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo không phải là báo cáo tài chính. Ví dụ, nguy cơ tự kiểm tra có thể nảy sinh nếu công ty đã lập báo cáo tài chính và sau đó lại cung cấp dịch vụ đảm bảo chính các thông tin trong báo cáo tài chính đó. Do đó, công ty cần thẩm định tầm quan trọng của nguy cơ tự kiểm tra có thể nảy sinh từ việc cung cấp các dịch vụ như vậy. Nếu nguy cơ tự kiểm tra rõ ràng là đáng kể, các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để giảm thiểu nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được.

Khách hàng kiểm toán không phải là công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán

190. Công ty hay chi nhánh công ty kiểm toán có thể cung cấp cho khách hàng kiểm toán là các doanh nghiệp không niêm yết trên thị trường chứng khoán các dịch vụ kế toán và ghi sổ kế toán theo thủ tục thỏa thuận trước với điều kiện các nguy cơ tự kiểm tra có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ cho các dịch vụ đó như sau:

a)

Vào sổ các giao dịch mà khách hàng kiểm toán đã quyết định hoặc đã phê duyệt định khoản tài khoản thích hợp;

Ghi các giao dịch đã được định khoản vào Sổ Cái của khách hàng kiểm toán;

c)

Lập báo cáo tài chính tổng hợp dựa trên các báo cáo đã lập của các đơn vị; và

d)

Ghi nhận các bút toán đã được khách hàng kiểm toán phê duyệt vào Bảng cân đối kế toán.

Tầm quan trọng của các nguy cơ nên được thẩm định và, nếu nguy cơ rõ ràng là đáng kể, các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Những biện pháp bảo vệ có thể gồm:

a)

Sắp xếp sao cho thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không thực hiện các dịch vụ như vậy;

Thực thi các chính sách và quy trình để cấm cá nhân đang thực hiện các dịch vụ như vậy sẽ không ra bất cứ một quyết định nào mang tính điều hành trên danh nghĩa của khách hàng kiểm toán;

c)

Yêu cầu khách hàng kiểm toán tự đưa ra số liệu và định khoản cho các bút toán;

d)

Yêu cầu các số liệu giả định phải do khách hàng kiểm toán lập và phê duyệt; hoặc

Khách hàng kiểm toán phải phê duyệt mọi bút toán không có chứng từ gốc (như dự phòng, ước tính, phân bổ, chuyển sổ...) hay bất kỳ thay đổi nào ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.

Khách hàng kiểm toán là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán

191. Việc cung cấp các dịch vụ kế toán, ghi sổ kế toán, lập báo cáo tài chính hay lập các thông tin tài chính là cơ sở của báo cáo tài chính mà từ đó đưa ra báo cáo kiểm toán, với tư cách thay mặt cho khách hàng kiểm toán là công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của công ty, mạng lưới công ty hoặc ít nhất cũng là biểu hiện ảnh hưởng đến tính độc lập. Do đó, ngoài việc cấm các dịch vụ như vậy, thì không một biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được trừ khi trong trường hợp khẩn cấp và dịch vụ này thuộc phạm vi kiểm toán độc lập được phép. Vì thế, trừ các ngoại lệ rất hạn chế, công ty, mạng lưới công ty kiểm toán không được cung cấp các dịch vụ như vậy cho khách hàng kiểm toán là các công ty được niêm yết.

192. Việc cung cấp dịch vụ kế toán, ghi sổ kế toán theo cách máy móc, không có quyền quyết định cho bộ phận hay công ty con của khách hàng kiểm toán được niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ không bị coi là làm giảm tính độc lập của công ty kiểm toán đối với khách hàng kiểm toán nếu đảm bảo được các điều kiện sau:

a)

Dịch vụ không liên quan đến việc đưa ra các ý kiến, xét đoán;

Toàn bộ các bộ phận hay công ty con được cung cấp dịch vụ rõ ràng là không đáng kể đối với khách hàng kiểm toán hay toàn bộ các dịch vụ đó được coi là không đáng kể đối với công ty con hay công ty mẹ;

c)

Toàn bộ phí dịch vụ trả cho công ty, chi nhánh công ty kiểm toán rõ ràng là không đáng kể.

Nếu cung cấp các dịch vụ như vậy thì các biện pháp bảo vệ sau phải được áp dụng:

a)

Công ty, mạng lưới công ty không được đảm nhận bất kỳ vai trò quản lý nào hay ra bất kỳ quyết định nào mang tính điều hành;

Khách hàng kiểm toán được niêm yết phải chấp nhận chịu trách nhiệm cho kết quả của dịch vụ; và

c)

Cá nhân đã thực hiện dịch vụ sẽ không được tham gia vào việc kiểm toán.

Các trường hợp khẩn cấp

193. Việc cung cấp dịch vụ kế toán, ghi sổ kế toán cho khách hàng kiểm toán trong trường hợp khẩn cấp hay trong các tình huống bất thường khác khi khách hàng kiểm toán khó có thể tìm được giải pháp khác sẽ không được coi là đưa lại các nguy cơ không thể chấp nhận được về tính độc lập nếu đảm bảo các điều kiện sau:

a)

Công ty, mạng lưới công ty kiểm toán không được đảm nhận bất cứ vị trí điều hành hay được quyền ra bất cứ một quyết định mang tính điều hành nào;

Khách hàng kiểm toán chấp nhận chịu trách nhiệm đối với kết quả của dịch vụ; và

c)

Cá nhân thực hiện dịch vụ không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo.

Dịch vụ định giá cho khách hàng kiểm toán

194. Việc định giá là việc đưa ra các giá trị giả thiết trong tương lai, là việc áp dụng các phương pháp và kỹ thuật, và kết hợp cả hai yếu tố đó để tính ra một giá trị nào đó đối với một tài sản, một khoản nợ hay cho toàn bộ hoạt động kinh doanh.

195. Nguy cơ do việc tự kiểm tra có thể nảy sinh khi công ty, mạng lưới công ty kiểm toán thực hiện việc định giá cho khách hàng mà việc định giá này, được thể hiện trong báo cáo tài chính của khách hàng.

196. Nếu dịch vụ định giá bao gồm cả việc đánh giá các vấn đề trọng yếu đối với báo cáo tài chính, việc định giá có tính chủ quan đáng kể thì không một biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm nguy cơ tự kiểm tra xuống mức có thể chấp nhận được. Do đó, không nên thực hiện dịch vụ định giá hoặc nếu thực hiện thì phải rút ra khỏi hợp đồng kiểm toán.

197. Khi thực hiện dịch vụ định giá mà từng dịch vụ hay toàn bộ các dịch vụ là không trọng yếu đối với báo cáo tài chính hoặc dịch vụ đó không có tính chủ quan đáng kể, thì nguy cơ tự kiểm tra nảy sinh sẽ có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được bằng cách áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết. Các biện pháp bảo vệ đó gồm:

a)

Tăng cường một kiểm toán viên hành nghề, không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ bảo đảm để rà soát lại các việc đã làm hay để đưa ra ý kiến tư vấn khi cần thiết;

Xác nhận lại sự hiểu biết của khách hàng kiểm toán về các giả định cơ bản của việc định giá, phương pháp sử dụng và phải có được  sự đồng ý của khách hàng;

c)

Nhận được sự công nhận của khách hàng kiểm toán về các trách nhiệm của họ đối với kết quả công việc do công ty kiểm toán thực hiện;

d)

Thu xếp sao cho nhân viên nào thực hiện dịch vụ này sẽ không tham gia vào hợp đồng kiểm toán.

Để xác định liệu các biện pháp bảo vệ trên đây có hiệu quả không, cần phải cân nhắc tới các vấn đề sau:

a)

Phạm vi hiểu biết, kinh nghiệm và khả năng của khách hàng kiểm toán để đánh giá các vấn đề liên quan và mức độ tham gia của họ vào việc xác định và phê duyệt các vấn đề quan trọng cần cần nhắc;

Mức độ áp dụng các phương pháp đã thiết lập và chỉ dẫn chuyên nghiệp khi thực hiện các dịch vụ định giá đặc biệt;

c)

Mức độ chủ quan cố hữu trong các khoản mục có liên quan khi việc định giá phải sử dụng đến các chuẩn mực và phương pháp đã thiết lập;

d)

Độ tin cậy và phạm vi của số liệu cơ bản;

Mức độ phụ thuộc vào các sự kiện diễn ra trong tương lai mà về bản chất có thể tạo ra biến động đáng kể cố hữu trong các số liệu có liên quan; và

f)

Phạm vi và phân loại rõ ràng các thông tin công bố trên báo cáo tài chính.

198. Khi công ty, mạng lưới công ty kiểm toán tiến hành dịch vụ định giá cho khách hàng kiểm toán nhằm mục đích lưu vào hồ sơ hoặc để nộp cho cơ quan thuế, tính toán số thuế phải nộp của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, hoặc với mục đích lập kế hoạch thuế, phát hành cổ phiếu, sẽ không tạo ra nguy cơ đáng kể ảnh hưởng đến tính độc lập vì những định giá này thường chịu sự xem xét lại của các đối tượng bên ngoài, ví dụ cơ quan thuế, trung tâm giao dịch chứng khoán.

199. Khi công ty kiểm toán tiến hành dịch vụ định giá là một phần thông tin liên quan đến đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo không phải là hợp đồng kiểm toán, công ty cần xem xét nguy cơ tự kiểm tra, trừ khi nguy cơ này rõ ràng là không đáng kể. Các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để loại bỏ hoặc làm giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được.

Cung cấp dịch vụ thuế cho khách hàng kiểm toán

200. Công ty kiểm toán có thể được yêu cầu cung cấp dịch vụ thuế cho khách hàng kiểm toán. Dịch vụ thuế bao gồm một loạt các dịch vụ, như xem xét việc tuân thủ pháp luật về thuế, lập kế hoạch thuế, cung cấp ý kiến thuế chính thức và hỗ trợ trong việc giải quyết các tranh cãi về thuế. Những dịch vụ này nhìn chung không bị coi là tạo ra nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập, trừ trường hợp đặc biệt như mức phí tư vấn lớn làm nảy sinh nguy cơ tư lợi.

Cung cấp dịch vụ kiểm toán nội bộ cho khách hàng kiểm toán

201. Nguy cơ tự kiểm tra có thể hình thành khi công ty, mạng lưới công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán nội bộ cho khách hàng kiểm toán.

Dịch vụ kiểm toán nội bộ có thể bao gồm phạm vi rộng hơn các yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán độc lập. Khi thẩm định nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập, cần xem xét bản chất của dịch vụ kiểm toán nội bộ là không bao gồm dịch vụ kiểm toán hoạt động mà không liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống tài chính hoặc báo cáo tài chính.

202. Các dịch vụ liên quan đến việc áp dụng bổ sung các thủ tục so với chuẩn mực kiểm toán độc lập sẽ không bị coi là ảnh hưởng đến tính độc lập đối với khách hàng kiểm toán nếu nhân sự của công ty, mạng lưới công ty kiểm toán không đóng vai trò hoặc về hình thức không đóng vai trò tương đương với vị trí của thành viên ban lãnh đạo khách hàng kiểm toán.

203. Khi công ty, mạng lưới công ty kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán nội bộ hoặc một phần của dịch vụ này cho khách hàng kiểm toán độc lập, nguy cơ tự kiểm tra có thể được giảm xuống mức có thể chấp nhận được bằng cách đảm bảo có sự phân tách rõ ràng giữa các thủ tục quản lý và hoạt động kiểm soát của ban lãnh đạo khách hàng kiểm toán và bản thân hoạt động kiểm toán độc lập.

204. Việc tiến hành phần lớn các hoạt động kiểm toán nội bộ của khách hàng kiểm toán độc lập có thể tạo ra nguy cơ tự kiểm tra và công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán cần xem xét các nguy cơ một cách cẩn thận trước khi tiến hành các hoạt động này. Các biện pháp bảo vệ phù hợp cần được đặt ra và đặc biệt là công ty hoặc mạng lưới công ty cần đảm bảo rằng khách hàng kiểm toán hiểu được trách nhiệm của họ trong việc thiết lập, duy trì và điều hành hệ thống kiểm soát nội bộ.

205. Các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng trong tất cả các trường hợp để làm giảm nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được, gồm:

a)

Khách hàng kiểm toán chịu trách nhiệm đối với hoạt động kiểm toán nội bộ và họ cũng nhận thức được trách nhiệm của họ trong việc thiết lập, duy trì và điều hành hệ thống kiểm soát nội bộ;

Khách hàng kiểm toán chỉ định một nhân viên có năng lực, thông thường là nhân viên quản lý cấp cao, chịu trách nhiệm về các hoạt động kiểm toán nội bộ;

c)

Khách hàng kiểm toán (tổ chức kiểm toán nội bộ hoặc bộ phận giám sát) phê chuẩn phạm vi, rủi ro và tần số công việc kiểm toán nội bộ;

d)

Khách hàng kiểm toán chịu trách nhiệm đánh giá và xác định những góp ý nào của công ty kiểm toán nên được áp dụng;

Khách hàng kiểm toán đánh giá sự đầy đủ của các thủ tục kiểm toán nội bộ và những phát hiện sau khi tiến hành các thủ tục này bằng cách thu thập và làm việc trên các báo cáo từ công ty kiểm toán; và

f)

Các phát hiện và góp ý thu được từ các hoạt động kiểm toán nội bộ phải được báo cáo một cách hợp lý cho tổ chức kiểm toán nội bộ hoặc bộ phận giám sát.

206. Cần xem xét, bổ trí việc thực hiện các dịch vụ phi đảm bảo phải là các nhân viên không tham gia vào hợp đồng kiểm toán và phải được thông báo theo các kênh khác nhau về hoạt động này trong công ty kiểm toán.

Cung cấp dịch vụ thiết kế và cài đặt phần mềm kế toán cho khách hàng kiểm toán

207. Việc công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán cung cấp cho khách hàng kiểm toán các dịch vụ thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin tài chính (chương trình phần mềm kế toán) sử dụng để tạo ra các thông tin trên báo cáo tài chính của khách hàng có thể tạo nên nguy cơ tự kiểm tra.

208. Nguy cơ tự kiểm tra có thể sẽ rất đáng kể nếu cho phép cung cấp các dịch vụ này cho khách hàng kiểm toán trừ khi có các biện pháp bảo vệ thích hợp sau:

a)

Khách hàng kiểm toán nhận thức được trách nhiệm của họ trong việc thiết lập và điều hành hệ thống kiểm soát nội bộ;

Khách hàng kiểm toán chỉ định một nhân viên có năng lực, thường là nhân viên quản lý cấp cao, chịu trách nhiệm đưa ra các quyết định quản lý về việc thiết kế và triển khai hệ thống phần mềm kế toán và phần cứng;

c)

Khách hàng kiểm toán đưa ra các quyết định quản lý về việc thiết kế và quá trình triển khai;

d)

Khách hàng kiểm toán đánh giá sự đầy đủ và kết quả của việc thiết kế và triển khai hệ thống;

Khách hàng kiểm toán chịu trách nhiệm đối với hoạt động của hệ thống (phần cứng và phần mềm) và dữ liệu tạo ra hoặc được sử dụng bởi hệ thống.

209. Cần xem xét xem liệu việc tiến hành dịch vụ phi đảm bảo có phải chỉ được tiến hành bởi các nhân viên không tham gia vào hợp đồng kiểm toán và theo các kênh thông báo khác nhau trong công ty không.

210. Việc công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán cung cấp cho khách hàng kiểm toán các dịch vụ thiết kế và triển khai hệ thống công nghệ thông tin tài chính sử dụng để tạo ra các thông tin trên báo cáo tài chính của khách hàng cũng có thể tạo nên nguy cơ tự kiểm tra. Cần xem xét tầm quan trọng của nguy cơ trừ khi nguy cơ này rõ ràng là không đáng kể. Nếu nguy cơ tự kiểm tra là đáng kể thì các biện pháp bảo vệ cần được áp dụng để loại bỏ và làm giảm các nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được.

211. Việc cung cấp các dịch vụ liên quan đến việc đánh giá, thiết kế và triển khai các biện pháp kiểm soát công việc kế toán và kiểm soát công việc quản lý rủi ro không bị coi là tạo ra nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập với điều kiện là nhân sự của công ty hoặc mạng lưới công ty không thực hiện các chức năng quản lý.

Cử nhân viên đến làm việc tạm thời cho khách hàng kiểm toán

212. Việc công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán cử nhân viên đến làm việc tạm thời cho khách hàng kiểm toán có thể tạo ra nguy cơ tự kiểm tra khi nhân viên này đảm nhận vị trí có khả năng gây ảnh hưởng đến việc ghi sổ sách và lập báo cáo tài chính của khách hàng. Trong thực tế, sự hỗ trợ này có thể được thực hiện trong các trường hợp khẩn cấp nhưng chỉ trên cơ sở là nhân viên đó không tham gia vào việc:

a)

Đưa ra các quyết định quản lý;

Phê duyệt hoặc ký kết các thỏa thuận hay các tài liệu tương tự khác; hoặc

c)

Thực thi các thẩm quyền nhằm ràng buộc khách hàng.

Các trường hợp cụ thể cần được phân tích kỹ lưỡng nhằm xác định liệu có bất kỳ nguy cơ nào nẩy sinh và liệu các biện pháp bảo vệ thích hợp có được thực hiện hay không. Các biện pháp bảo vệ phải được áp dụng trong mọi trường hợp nhằm làm giảm các rủi ro này xuống mức có thể chấp nhận được, gồm:

a)

Các nhân viên đã được cử đến làm việc cho khách hàng không được giao trách nhiệm kiểm toán bất kỳ hoạt động nào mà họ đã thực hiện hay giám sát trong quá trình được phân công làm việc tạm thời tại khách hàng; và

Khách hàng kiểm toán phải nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc điều hành và giám sát các hoạt động của công ty, mạng lưới công ty hay nhân viên của họ.

Cung cấp dịch vụ hỗ trợ giải quyết tranh chấp pháp lý cho khách hàng kiểm toán

213. Các dịch vụ hỗ trợ giải quyết tranh chấp pháp lý có thể bao gồm các hoạt động như làm chuyên gia tư vấn (luật sư), nhân chứng, tính toán tiền bồi thường thiệt hại hoặc các khoản phải thu, phải trả do tranh chấp hay các bất đồng pháp lý khác, và hỗ trợ trong việc quản lý và thu thập tài liệu liên quan đến bất đồng hay tranh chấp pháp lý.

214. Nguy cơ tự kiểm tra có thể phát sinh khi cung cấp cho khách hàng kiểm toán các dịch vụ hỗ trợ giải quyết tranh chấp pháp lý như việc ước tính kết quả có thể đạt được làm ảnh hưởng tới các thông tin hoặc các giải trình sẽ được phản ánh trong các báo cáo tài chính. Mức độ của nguy cơ tạo ra sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Tính trọng yếu của các thông tin liên quan;

Mức độ chủ quan tiềm ẩn trong vấn đề được xử lý; và

c)

Bản chất của công việc.

Công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán cần đánh giá mức độ của nguy cơ tạo ra, và nếu nguy cơ này rõ ràng là đáng kể, cần áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết để loại trừ hoặc làm giảm nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ đó có thể gồm:

a)

Đặt ra các chính sách và quy trình ngăn cấm các cá nhân hỗ trợ khách hàng kiểm toán không đưa ra quyết định mang tính quản lý thay cho khách hàng;

Sử dụng các nhân viên chuyên nghiệp không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo để thực hiện các dịch vụ này; và

c)

Bổ sung các thành viên khác, ví dụ các chuyên gia độc lập.

215. Nếu công ty hoặc mạng lưới công ty kiểm toán đảm nhận vai trò liên quan đến việc thay mặt khách hàng kiểm toán đưa ra các quyết định quản lý, các nguy cơ tạo ra không thể giảm được xuống mức có thể chấp nhận được nhờ việc áp dụng các biện pháp bảo vệ. Do đó, công ty hoặc mạng lưới công ty không được thực hiện loại dịch vụ này cho khách hàng kiểm toán.

Cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng kiểm toán

216. Các dịch vụ pháp lý được định nghĩa là các dịch vụ mà người cung cấp dịch vụ đó phải được chấp nhận hành nghề trước các tòa án xét xử hoặc được đào tạo để hành nghề luật sư. Dịch vụ pháp lý bao gồm rất nhiều lĩnh vực (doanh nghiệp và thương mại) như hỗ trợ về ký kết hợp đồng, tư vấn và hỗ trợ về giải quyết tranh chấp, hợp nhất kinh doanh, mua lại doanh nghiệp và hỗ trợ cho bộ phận phụ trách về luật pháp của khách hàng. Việc công ty hay mạng lưới công ty cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng kiểm toán có thể gây ra cả nguy cơ tự kiểm tra và nguy cơ từ sự bào chữa.

217. Các nguy cơ đe dọa tính độc lập cần được xem xét tùy thuộc vào tính chất của dịch vụ cung cấp, liệu người cung cấp dịch vụ có tách riêng ra khỏi nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo hay không và mức độ trọng yếu của các vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính của khách hàng. Các biện pháp bảo vệ đưa ra trong đoạn 183 có thể thích hợp để giảm bất cứ nguy cơ nào đe dọa tính độc lập xuống mức có thể chấp nhận được. Trong các trường hợp mà nguy cơ đe dọa tính độc lập không thể giảm xuống mức có thể chấp nhận được, biện pháp duy nhất là từ chối cung cấp các dịch vụ đó hoặc rút khỏi hợp đồng  kiểm toán.

218. Việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng kiểm toán liên quan đến các vấn đề dự tính sẽ không có ảnh hưởng đáng kể đến báo cáo tài chính, thì không được coi là gây ra nguy cơ đe dọa tính độc lập không thể chấp nhận được.

219. Có sự khác biệt giữa sự bào chữa và tư vấn. Các dịch vụ luật pháp hỗ trợ một khách hàng kiểm toán trong việc thực hiện một giao dịch (ví dụ, hỗ trợ ký kết hợp đồng, tư vấn pháp lý, rà soát về pháp lý, và tái cơ cấu) có thể tạo ra nguy cơ tự kiểm tra; tuy nhiên, có thể có các biện pháp bảo vệ làm giảm các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Dịch vụ này thường không làm giảm tính độc lập, nếu:

a)

Các thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ bảo đảm không tham gia cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý này; và

Liên quan đến dịch vụ tư vấn đã cung cấp, trong đó khách hàng là người đưa ra quyết định cuối cùng hoặc bản chất dịch vụ tư vấn chỉ là triển khai thực hiện những gì mà khách hàng kiểm toán đã quyết định.

220. Đại diện cho khách hàng kiểm toán giải quyết bất đồng hay tranh chấp trong tình huống xử lý có liên quan đến những khoản đáng kể đối với báo cáo tài chính của khách hàng kiểm toán có thể tạo ra nguy cơ tự kiểm tra và nguy cơ từ sự bào chữa đáng kể đến mức không có biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Do đó, công ty kiểm toán không nên nhận thực hiện loại dịch vụ này cho một khách hàng kiểm toán.

221. Khi công ty kiểm toán được yêu cầu thực hiện vai trò bào chữa giải quyết cho một khách hàng kiểm toán  một bất đồng hay tranh chấp trong những tình huống liên quan đến những khoản không đáng kể đối với báo cáo tài chính của khách hàng kiểm toán, công ty kiểm toán nên đánh giá về tầm quan trọng của các nguy cơ từ sự bào chữa và nguy cơ tự kiểm tra tạo ra, và nếu nguy cơ này rõ ràng là đáng kể, cần áp dụng các biện pháp bảo vệ để loại trừ hoặc làm giảm nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ có thể gồm:

a)

Đặt ra các chính sách và quy trình ngăn cấm các cá nhân hỗ trợ khách hàng kiểm toán không đưa ra quyết định mang tính quản lý thay cho khách hàng; hoặc

Sử dụng các nhân viên chuyên nghiệp không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ bảo đảm để thực hiện các dịch vụ này.

222. Việc bổ nhiệm một thành viên Ban Giám đốc hay một nhân viên của công ty hay mạng lưới công ty kiểm toán làm trưởng bộ phận pháp lý cho một khách hàng kiểm toán sẽ tạo ra một nguy cơ tự kiểm tra và nguy cơ từ sự bào chữa đáng kể đến mức không có biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Vị trí chuyên viên tư vấn chung thường là vị trí quản lý cấp cao có trách nhiệm lớn trong các hoạt động pháp lý của một công ty và kết quả là, không một thành viên nào trong công ty hay mạng lưới công ty kiểm toán nên nhận sự bổ nhiệm vị trí này cho một khách hàng kiểm toán.

Tuyển dụng nhân viên quản lý cấp cao cho khách hàng kiểm toán

223. Việc tuyển dụng nhân viên quản lý cấp cao cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, ví dụ vị trí có thể ảnh hưởng đến thông tin liên quan đến đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo có thể tạo ra các nguy cơ hiện tại hoặc tương lai về tư lợi, về sự thân thuộc và về sự đe dọa. Mức độ trọng yếu của nguy cơ này sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Vai trò của người sẽ được tuyển; và

Bản chất của sự hỗ trợ cần đến.

Thông thường, công ty có thể cung cấp dịch vụ như rà soát bằng cấp chuyên môn của người dự tuyển và đưa ra lời khuyên về sự phù hợp của những ứng viên này với vị trí đó. Ngoài ra, công ty kiểm toán có thể đưa ra danh sách các ứng viên được sơ tuyển để dự vòng phỏng vấn, miễn là danh sách sơ tuyển này được đưa ra dựa trên các tiêu chí định trước bởi khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo.

Cần đánh giá tầm quan trọng của nguy cơ này và nếu nguy cơ này thật sự là đáng kể, cần áp dụng các biện pháp bảo vệ để giảm bớt nguy cơ xuống mức có thể chấp nhận được. Trong mọi trường hợp, công ty kiểm toán không nên đưa ra các quyết định tuyển dụng ai, và quyết định cuối cùng là tuyển ai phải do khách hàng đưa ra.

Cung cấp dịch vụ tài chính doanh nghiệp và các hoạt động tương tự cho khách hàng kiểm toán

224. Việc cung cấp dịch vụ tài chính doanh nghiệp, tư vấn hay hỗ trợ khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm có thể gây ra các nguy cơ tự kiểm tra và nguy cơ về sự bào chữa. Trường hợp cung cấp các dịch vụ tài chính doanh nghiệp nhất định, các nguy cơ đe dọa sự độc lập nảy sinh sẽ rất lớn mà không thể áp dụng biện pháp bảo vệ nào để làm giảm các nguy cơ tới mức có thể chấp nhận được. Ví dụ việc quảng bá, trao đổi hoặc bảo lãnh phát hành cổ phiếu của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo là không phù hợp với việc cung cấp dịch vụ đảm bảo. Ngoài ra, việc thay mặt khách hàng thực hiện các giao dịch của khách hàng cũng tạo ra nguy cơ đối với sự độc lập đáng kể đến mức không thể áp dụng một biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm nguy cơ này đến mức có thể chấp nhận được. Trong trường hợp là một khách hàng kiểm toán, việc cung cấp các dịch vụ tài chính doanh nghiệp đề cập ở trên của một công ty hay mạng lưới công ty kiểm toán sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự độc lập đáng kể đến mức không thể áp dụng một biện pháp bảo vệ nào có thể làm giảm nguy cơ này đến mức có thể chấp nhận được.

225. Các dịch vụ tài chính doanh nghiệp khác có thể tạo ra nguy cơ tự kiểm tra hoặc nguy cơ từ sự bào chữa; tuy nhiên, có thể có các biện pháp bảo vệ làm giảm nguy cơ này đến mức có thể chấp nhận được. Ví dụ, dịch vụ hỗ trợ khách hàng xây dựng chiến lược kinh doanh, hoặc giới thiệu khách hàng với các nguồn vốn có thể đáp ứng các tiêu chí và đặc điểm của khách hàng, và đưa ra lời khuyên về cơ cấu và hỗ trợ khách hàng phân tích các ảnh hưởng của giao dịch đề ra. Các biện pháp bảo vệ có thể gồm:

a)

Đặt ra chính sách và thủ tục ngăn cấm các cá nhân hỗ trợ khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo không thể đưa ra quyết định mang tính quản lý thay cho khách hàng;

Sử dụng nhân viên chuyên nghiệp không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo để cung cấp các dịch vụ này; và

c)

Đảm bảo là công ty kiểm toán không đưa khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo vào các cam kết với các điều khoản của một giao dịch hoặc thay mặt khách hàng thực hiện một giao dịch của khách hàng.

Phí dịch vụ kiểm toán

Mức phí khá lớn

226. Khi tổng mức phí từ một khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm chiếm một phần lớn trong tổng doanh thu của công ty kiểm toán, sự phụ thuộc vào khách hàng hay lo ngại về khả năng mất khách hàng có thể tạo ra nguy cơ tư lợi. Mức độ của nguy cơ này phụ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Cấu trúc của công ty; và

Công ty đã hoạt động quy củ hay mới thành lập.

Cần đánh giá khả năng xảy ra nguy cơ này và nếu nguy cơ này thật sự là đáng kể thì cần xem xét và áp dụng các biện pháp bảo vệ cần thiết để giảm bớt nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ có thể là:

a)

Thảo luận với Ban Giám đốc, kế toán trưởng hoặc tổ chức kiểm toán nội bộ về mức độ và bản chất của phí;

Tiến hành các bước để giảm sự phụ thuộc vào khách hàng đó;

c)

Rà soát hệ thống quản lý chất lượng do bên ngoài thực hiện; và

d)

Tham khảo ý kiến của bên thứ ba, ví dụ Hội nghề nghiệp, cơ quan quản lý chuyên ngành hoặc một kiểm toán viên hành nghề khác.

227. Nguy cơ tư lợi có thể nảy sinh khi mức phí của một khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo chiếm phần lớn trong tổng doanh thu của một thành viên Ban Giám đốc công ty. Cần đánh giá khả năng xảy ra nguy cơ này và nếu khả năng nguy cơ này thật sự là đáng kể thì cần áp dụng các biện pháp bảo vệ để giảm bớt nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ có thể là:

a)

Có các chính sách và thủ tục để kiểm soát và áp dụng biện pháp kiểm soát chất lượng các hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo; và

Yêu cầu thêm một kiểm toán viên hành nghề không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo để rà soát lại công việc đã thực hiện hoặc tham gia ý kiến tư vấn khi cần thiết.

Phí quá hạn

228. Nguy cơ tư lợi có thể nảy sinh khi số phí đến hạn cho các dịch vụ chuyên nghiệp của một khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo không được thanh toán trong một thời gian dài, đặc biệt là phần lớn mức phí không được thanh toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán của năm tiếp theo. Thông thường phí dịch vụ phải được thanh toán trước hoặc ngay sau khi phát hành báo cáo kết quả dịch vụ. Có thể áp dụng các biện pháp bảo vệ sau:

a)

Thảo luận về mức phí chưa thanh toán với Ban Giám đốc, kế toán trưởng của khách hàng; và

Yêu cầu thêm một kiểm toán viên hành nghề không phải thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo để tư vấn hoặc soát xét công việc đã thực hiện.

Công ty nên xem xét liệu số phí quá hạn có được coi là một khoản cho khách hàng vay và do độ lớn của khoản phí quá hạn, liệu có hợp lý khi công ty kiểm toán được tái bổ nhiệm cung cấp dịch vụ kiểm toán một lần nữa.

Đặt phí thấp

229. Khi công ty kiểm toán nhận một hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo với mức phí thấp hơn nhiều so với mức phí của công ty kiểm toán trước đó, hoặc so với mức phí của các công ty khác đưa ra, khả năng xảy ra nguy cơ do tư lợi là đáng kể, trừ khi:

a)

Công ty đó có thể chứng minh là họ đã cử kiểm toán viên hành nghề đủ khả năng thực hiện công việc trong một thời gian hợp lý; và

Tất cả các chuẩn mực kiểm toán (thủ tục kiểm toán) sẽ được áp dụng, các hướng dẫn và quy trình quản lý chất lượng dịch vụ sẽ được tuân thủ.

Phí chưa xác định

230. Phí chưa xác định (phí tuỳ thuộc vào kết quả) là mức phí được tính toán trên cơ sở sản phẩm, kết quả của giao dịch hoặc kết quả công việc thực hiện. Nếu mức phí là do tòa án hay cơ quan có thẩm quyền khác đưa ra thì không được coi là phí chưa xác định.

231. Phí chưa xác định cho một hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo sẽ tạo ra nguy cơ tư lợi và nguy cơ từ sự bào chữa, và không thể giảm được tới mức có thể chấp nhận được dù đã áp dụng các biện pháp bảo vệ. Một công ty kiểm toán không nên ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo trong đó khoản phí là chưa xác định mà tùy thuộc vào kết quả cung cấp dịch vụ đảm bảo.

232. Phí chưa xác định cho một dịch vụ phi đảm bảo cung cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo có thể tạo ra nguy cơ tư lợi và nguy cơ từ sự bào chữa. Nếu khoản phí cho hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo này được thỏa thuận, hoặc dự tính trong quá trình tiến hành hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo và phụ thuộc vào kết quả của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo đó, các nguy cơ này sẽ không thể giảm tới mức có thể chấp nhận được dù đã áp dụng các biện pháp bảo vệ. Cách giải quyết duy nhất chấp nhận được là không chấp nhận các dàn xếp như vậy. Đối với các dàn xếp phí chưa xác định kiểu khác, khả năng xảy ra nguy cơ sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Mức độ dao động của mức phí này;

Mức độ thay đổi mức phí;

c)

Cơ sở xác định mức phí;

d)

Sản phẩm hay kết quả của giao dịch có được rà soát lại bởi một bên thứ ba độc lập hay không; và

Ảnh hưởng của sự kiện hay giao dịch đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ kiểm toán.

Cần đánh giá khả năng xảy ra nguy cơ và nếu khả năng xảy ra nguy cơ là đáng kể thì cần áp dụng các biện pháp bảo vệ để giảm bớt nguy cơ đến mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ có thể là:

a)

Giải trình với Ban Giám đốc, kế toán trưởng hoặc tổ chức kiểm toán nội bộ của khách hàng về mức độ và bản chất của phí dịch vụ;

Mời một bên thứ ba không có liên quan rà soát hoặc xác định mức phí cuối cùng; và

c)

Áp dụng đầy đủ các chính sách và quy trình kiểm soát chất lượng.

Quà tặng và chiêu đãi

233. Việc nhận quà tặng hoặc chiêu đãi của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo có thể tạo ra nguy cơ về sự thân thuộc và tư lợi. Khi thành viên Ban lãnh đạo công ty hoặc thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo nhận quà hay nhận chiêu đãi, trừ khi giá trị là thật sự nhỏ, các nguy cơ về tính độc lập không thể giảm được tới mức có thể chấp nhận được dù đã áp dụng các biện pháp bảo vệ. Công ty hay thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được nhận quà hay chiêu đãi như vậy.

Tranh chấp hoặc nguy cơ xảy ra tranh chấp pháp lý

234. Khi tranh chấp pháp lý xảy ra hoặc có khả năng xảy ra giữa công ty kiểm toán hay một thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo với khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, có thể nảy sinh nguy cơ tư lợi hoặc nguy cơ bị đe dọa. Mối quan hệ giữa ban lãnh đạo của khách hàng và các thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo phải hoàn toàn vô tư và rõ ràng theo mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh của khách hàng. Công ty kiểm toán và ban lãnh đạo khách hàng có thể lâm vào tình thế đối nghịch nhau do tranh chấp, làm ảnh hưởng đến thiện ý của ban lãnh đạo và các giải trình, làm nảy sinh nguy cơ tư lợi. Khả năng xảy ra nguy cơ tư lợi phụ thuộc vào các yếu tố như:

a)

Mức độ trọng yếu của tranh chấp;

Bản chất của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo; và

c)

Tranh chấp có liên quan đến hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo trước đó hay không.

Khi đã đánh giá được khả năng xảy ra nguy cơ đó, nên áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây để giảm các nguy cơ này tới mức có thể chấp nhận được, nếu cần:

a)

Giải trình với Ban Giám đốc công ty kiểm toán, với Ban Giám đốc, kế toán trưởng hoặc tổ chức kiểm toán nội bộ của khách hàng về mức độ và bản chất của tranh chấp;

Nếu tranh chấp có liên quan đến thành viên nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo thì phải loại người đó ra khỏi nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo; hoặc

c)

Yêu cầu thêm một kiểm toán viên hành nghề không phải là thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo rà soát lại công việc đã thực hiện và tham gia ý kiến tư vấn khi cần thiết.

Nếu các biện pháp bảo vệ này không giảm được rủi ro đến mức hợp lý, cách tốt nhất là rút khỏi hoặc từ chối không nhận hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo này.

Khả năng chuyên môn và trách nhiệm khi sử dụng chuyên gia không phải là kiểm toán viên hành nghề

235. Các kiểm toán viên hành nghề không được nhận thực hiện các dịch vụ chuyên môn khi xét thấy không đủ năng lực thực hiện trừ khi có sự giúp đỡ để có thể tiến hành tốt các dịch vụ đó. Nếu một kiểm toán viên hành nghề không có đủ năng lực thực hiện một phần cụ thể nào đó của dịch vụ chuyên môn, họ cần tìm đến sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia như kiểm toán viên khác, các luật sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, nhà địa chất, chuyên viên định giá.

236. Trong các trường hợp này, cho dù kiểm toán viên hành nghề dựa vào năng lực kỹ thuật của chuyên gia - những người không thể ngay lập tức có được kiến thức về đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Trách nhiệm cuối cùng về chuyên môn thuộc về kiểm toán viên hành nghề, do đó họ cần phải xem xét để đảm bảo các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp phải được các chuyên gia thực hiện.

237. Khi sử dụng dịch vụ của chuyên gia không phải là kiểm toán viên hành nghề, kiểm toán viên hành nghề phải tiến hành các thủ tục để chắc chắn là các chuyên gia này biết và thực hiện các yêu cầu cơ bản về đạo đức nghề nghiệp quy định trong đoạn 36 của Chuẩn mực này. Nguyên tắc này sẽ phải áp dụng cho bất cứ công việc nào cần chuyên gia tham gia thực hiện.

238. Mức độ và quy mô cần hướng dẫn và giám sát chuyên gia thực hiện phụ thuộc vào các cá nhân tham gia công việc chuyên môn và bản chất của công việc. Ví dụ về hướng dẫn và giám sát này có thể là:

a)

Yêu cầu cá nhân chuyên gia đọc các quy định cơ bản về đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán;

Yêu cầu xác nhận bằng văn bản sự hiểu biết về các yêu cầu đạo đức nghề nghiệp; và

c)

Đưa ra lời khuyên, tư vấn khi mâu thuẫn có thể nảy sinh.

239. Kiểm toán viên hành nghề phải tỉnh táo trước các yêu cầu cụ thể về tính độc lập hoặc các rủi ro khác đặc thù đối với công việc này. Các trường hợp đều đòi hỏi sự lưu ý đặc biệt và hướng dẫn/giám sát để thấy rằng các yêu cầu về đạo đức được chuyên gia đáp ứng. Ví dụ, từ đoạn 78 đến đoạn 124 của Chuẩn mực này yêu cầu tất cả các nhân viên chuyên nghiệp tham gia vào hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phải độc lập với khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo.

240. Nếu tại một thời điểm nào đó kiểm toán viên hành nghề không thể thỏa mãn yêu cầu là các hành vi đạo đức nghề nghiệp đúng đắn được tôn trọng và đảm bảo tuân theo, thì không được nhận công việc đó; hoặc nếu công việc đã bắt đầu thì phải dừng lại.

Phí dịch vụ tư vấn

241. Các kiểm toán viên hành nghề khi cung cấp các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp cho một khách hàng phải có trách nhiệm tiến hành các dịch vụ đó với sự chính trực, khách quan và tuân theo các chuẩn mực kỹ thuật chuyên môn. Trách nhiệm đó được thực hiện khi áp dụng các kỹ năng và kiến thức nghề nghiệp mà các kiểm toán viên hành nghề đã tích lũy được thông qua đào tạo và kinh nghiệm làm việc. Đối với các dịch vụ đã cung cấp, các kiểm toán viên hành nghề đều được trả thù lao.

242. Phí tư vấn cần phản ánh hợp lý giá trị dịch vụ cung cấp cho khách hàng, trong đó có tính đến:

a)

Kỹ năng và kiến thức đòi hỏi phải có để thực hiện loại hình dịch vụ tư vấn;

Mức độ đào tạo và kinh nghiệm làm việc của những người cần tham gia thực hiện dịch vụ tư vấn này;

c)

Thời gian cần thiết cho mỗi người tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn này;

d)

Mức độ trách nhiệm mà việc thực hiện dịch vụ tư vấn đòi hỏi.

243. Phí dịch vụ tư vấn thông thường phải được tính toán dựa trên cơ sở các mức giá hợp lý cho mỗi giờ hay mỗi ngày cho mỗi người tham gia thực hiện dịch vụ tư vấn. Các mức giá phải dựa trên giả định căn bản là việc tổ chức và tiến hành công việc của các kiểm toán viên và các dịch vụ cung cấp cho khách hàng được lập kế hoạch hợp lý, kiểm soát và quản lý chặt chẽ. Các mức giá phải tính đến các yếu tố đã đề ra trong đoạn 242 và chịu ảnh hưởng của các điều kiện về luật pháp, kinh tế và xã hội của từng thời kỳ. Vì thế từng kiểm toán viên hành nghề phải xác định được các mức giá hợp lý.

244. Kiểm toán viên không được tuyên bố là các dịch vụ tư vấn cụ thể hiện tại hay trong tương lai sẽ được thực hiện với mức phí đã đưa ra hoặc phí dự tính tại thời điểm tuyên bố, nếu các mức phí này sẽ có khả năng tăng lên đáng kể và khách hàng tiềm năng không được thông báo về khả năng này.

245. Khi thực hiện các dịch vụ tư vấn cho một khách hàng, cần thiết và nhanh chóng phải thỏa thuận mức phí trước. Cần ước tính một mức phí trong đó đã tính đến các yếu tố đã quy định trong các đoạn từ 242 đến 244.

246. Không có gì là không phù hợp nếu kiểm toán viên hành nghề tính cho khách hàng mức phí thấp hơn mức phí trước đó đã tính cho dịch vụ tương tự, miễn là mức phí đó đã được tính toán theo các yếu tố đã đề cập đến trong các đoạn từ 242 đến 244.

Thực tế là để nhận được một công việc kiểm toán, kiểm toán viên cần đưa ra một mức phí thấp hơn người khác một cách hợp lý. Tuy nhiên, nếu kiểm toán viên hành nghề nhận công việc với mức phí thấp hơn nhiều so với mức phí của kiểm toán viên tiền nhiệm hay mức phí đưa ra bởi kiểm toán viên khác, phải nhận thức được là có rủi ro và nguy cơ là chất lượng dịch vụ có thể bị giảm.

Khi quyết định một mức phí dịch vụ cho khách hàng, kiểm toán viên hành nghề phải thỏa mãn rằng, với mức phí đó:

a)

Chất lượng dịch vụ không bị ảnh hưởng, đủ điều kiện áp dụng một cách thận trọng, hợp lý tất cả các chuẩn mực kiểm toán và các quy trình kiểm soát chất lượng dịch vụ đó, và

Khách hàng sẽ không bị hiểu nhầm về phạm vi của dịch vụ theo mức phí đưa ra.

247. Theo quy định tại đoạn 231: Một hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo không nên được tiến hành với mức phí chưa xác định mà còn tùy thuộc vào kết quả cung cấp dịch vụ đảm bảo. Đoạn 232 đưa ra chỉ dẫn về các nguy cơ có thể nảy sinh nếu hợp đồng cung cấp dịch vụ phi đảm bảo được cung cấp cho khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo với mức phí chưa xác định, và các biện pháp bảo vệ có thể giảm các nguy cơ này đến mức có thể chấp nhận được.

Các mức phí không được coi là chưa xác định nếu mức phí này do toà án hay cơ quan có thẩm quyền khác đưa ra. Phí được tính trên cơ sở phần trăm (%) doanh thu hay cơ sở tương tự được coi là mức phí chưa xác định, trừ khi tỷ lệ phần trăm (%) này đã được luật định hay tổ chức có thẩm quyền phê duyệt, như phí kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, hoặc phí định giá doanh nghiệp.

248. Các đoạn quy định về phí dịch vụ không bao gồm các chi phí hoàn lại. Các chi phí hoàn lại, như chi phí đi lại, ăn, ở liên quan trực tiếp đến dịch vụ của nhóm cung cấp dịch vụ cho một khách hàng cụ thể thông thường được tính cho khách hàng đó, thêm vào phí dịch vụ chuyên môn.

249. Vì lợi ích của khách hàng và kiểm toán viên, mức phí, các chi phí hoàn lại và các thỏa thuận về phát hành hóa đơn cần được xác định trước, tốt nhất là bằng văn bản trong hợp đồng kiểm toán ký, trước khi bắt đầu công việc để tránh hiểu nhầm về phí.

Hoa hồng

250. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động tư vấn, kế toán và kiểm toán độc lập không được phép trả và nhận hoa hồng.

251. Theo quy định tại đoạn 250, kiểm toán viên hành nghề và công ty kiểm toán không được trả hoa hồng để có được khách hàng; Không được nhận hoa hồng để giới thiệu khách hàng cho bên thứ ba, hoặc để giới thiệu dịch vụ của các kiểm toán viên khác.

252. Thanh toán hoặc nhận tiền phí giới thiệu của các kiểm toán viên khác khi không cung cấp dịch vụ được coi như hoa hồng theo quy định tại đoạn 251.

253. Một kiểm toán viên hành nghề có thể mua toàn bộ hoặc một bộ phận của một công ty kế toán, kiểm toán, và phải thanh toán cho các cá nhân sở hữu trước đây hoặc người thừa kế của họ. Các khoản thanh toán đó không được coi là hoa hồng theo quy định tại đoạn 251.

Các hoạt động không phù hợp với nghề nghiệp kế toán, kiểm toán

254. Một kiểm toán viên hành nghề không nên đồng thời tham gia vào hoạt động kinh doanh, nghề nghiệp hay hoạt động nào không phù hợp với nghề nghiệp kế toán, kiểm toán để có thể làm giảm tính chính trực, khách quan hay tính độc lập, hoặc danh tiếng của nghề nghiệp và do do không phù hợp với việc cung cấp dịch vụ chuyên môn.

255. Việc cung cấp hai hay nhiều loại hình dịch vụ chuyên môn cùng lúc không tự nó làm giảm tính chính trực, sự khách quan hay độc lập.

256. Việc tham gia đồng thời vào hoạt động kinh doanh, nghề nghiệp hay hoạt động không liên quan đến dịch vụ kế toán, kiểm toán có thể làm ảnh hưởng đến kiểm toán viên làm cho kiểm toán viên hành nghề tiến hành khó trôi trảy công việc chuyên môn của mình và khó tuân theo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán nên được coi là không phù hợp với thông lệ chung.

Tiền của khách hàng

257. Theo quy định của pháp luật hiện hành, kiểm toán viên hành nghề không được giữ tiền của khách hàng.

Kiểm toán viên thuộc nhóm cung cấp dịch vụ cho khách hàng cũng không nên trực tiếp nhận tiền phí dịch vụ do khách hàng trả, trừ khi được công ty kiểm toán giới thiệu bằng văn bản.

258. Một kiểm toán viên hành nghề được ủy thác nhận tiền phí dịch vụ cần:

a)

Giữ tiền đó tách riêng với tiền của cá nhân;

Không được sử dụng tiền đó cho mục đích nào khác là phải nộp ngay vào quỹ của công ty;

c)

Công ty kiểm toán phải hạch toán ngay khoản tiền này vào sổ kế toán của công ty theo quy định.

Quan hệ với kiểm toán viên hành nghề khác

Nhận các công việc mới

259. Doanh nghiệp khách hàng có thể thành lập chi nhánh ở các tỉnh, thành phố mà công ty kiểm toán hiện thời chưa có văn phòng hoạt động. Trường hợp này, kiểm toán viên hành nghề hiện tại sau khi tham khảo ý kiến của khách hàng có thể yêu cầu kiểm toán viên hành nghề tại địa phương mới thay mình cung cấp dịch vụ chuyên môn.

260. Việc giới thiệu công việc có thể phát sinh khi khách hàng có yêu cầu cung cấp các dịch vụ hoặc lĩnh vực đặc thù đòi hỏi các kỹ năng đặc biệt. Phạm vi dịch vụ kiểm toán ngày càng được mở rộng và đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu và kỹ năng đặc biệt. Vì không thông dụng nên không phải công ty kiểm toán nào cũng có bộ phận có kỹ năng đặc biệt có thể đáp ứng được yêu cầu riêng của khách hàng.

261. Kiểm toán viên hành nghề chỉ nên nhận các dịch vụ mà họ có thể hoàn thành với đầy đủ kỹ năng, trình độ nghề nghiệp. Do đó, vấn đề quan trọng đối với nghề nghiệp kế toán, kiểm toán là việc kiểm toán viên được khuyến khích sử dụng dịch vụ tư vấn từ những người có đủ khả năng cung cấp dịch vụ tư vấn.

262. Một kiểm toán viên hành nghề khi thiếu một kỹ năng nào đó có thể không sẵn lòng giới thiệu khách hàng cho một kiểm toán viên khác có kỹ năng đó, làm cho khách hàng không được hưởng lợi từ sự tư vấn mà họ có quyền được nhận.

263. Mong muốn hàng đầu của khách hàng là lựa chọn đúng chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, nhất là khi dịch vụ tư vấn cần kỹ năng đặc biệt. Do đó, kiểm toán viên hành nghề không nên tìm cách giới hạn sự lựa chọn tư vấn đặc biệt của khách hàng, và khi có thể, kiểm toán viên hành nghề nên khuyến khích khách hàng làm như vậy.

264. Dịch vụ tư vấn cần kiểm toán viên có kỹ năng đặc biệt có thể được yêu cầu bằng một trong các cách sau:

a)

Do khách hàng tự tìm;

Sau khi thảo luận hoặc hỏi ý kiến của kiểm toán viên hiện tại;

Theo yêu cầu hoặc giới thiệu của kiểm toán viên hiện tại; và

Không có sự giới thiệu của kiểm toán viên hiện tại; hoặc

Do kiểm toán viên hiện tại giới thiệu.

265. Khi một kiểm toán viên hành nghề được khách hàng yêu cầu cung cấp dịch vụ hay xin ý kiến tư vấn, kiểm toán viên cần hỏi khách hàng xem liệu khách hàng tiềm năng này đã có một kiểm toán viên nào chưa. Trường hợp đã có một kiểm toán viên hành nghề đang cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp thì kiểm toán viên hành nghề cần tuân thủ các thủ tục quy định trong các đoạn từ 266 đến 272. Nếu việc bổ nhiệm kiểm toán viên dẫn đến việc một kiểm toán viên khác bị thay thế, cần tuân thủ các thủ tục quy định trong các đoạn từ 273 đến 284.

266. Kiểm toán viên hành nghề được mời nên giới hạn các dịch vụ cung cấp đối với công việc nhận được do giới thiệu từ kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc từ khách hàng trừ khi chưa có kiểm toán viên tiền nhiệm. Kiểm toán viên được mời có nghĩa vụ tiến hành các bước hợp lý để hỗ trợ mối quan hệ đang có của kiểm toán viên tiền nhiệm với khách hàng và không nên đưa ra bất cứ phê bình nào về các dịch vụ chuyên môn của kiểm toán viên tiền nhiệm mà không tạo cơ hội cho kiểm toán viên tiền nhiệm tiếp tục cung cấp các dịch vụ có liên quan.

267. Kiểm toán viên hành nghề được khách hàng mời nhận công việc khác biệt với công việc do kiểm toán viên tiền nhiệm thực hiện hoăc khác với công việc đã chấp nhận ban đầu do giới thiệu từ kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc từ khách hàng, thì được coi là yêu cầu cung cấp dịch vụ hay tư vấn riêng rẽ. Trước khi chấp nhận công việc loại này, kiểm toán viên được mời nên thông báo cho khách hàng về nghĩa vụ nghề nghiệp phải liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm và nên làm việc này ngay, tốt nhất là bằng văn bản, thông báo về cách tiếp cận của khách hàng, bản chất chung của yêu cầu và yêu cầu kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp các thông tin có liên quan cần để thực hiện công việc (nếu có).

268. Trường hợp khách hàng nhất định không muốn thông báo với kiểm toán viên tiền nhiệm thì kiểm toán viên được mời phải xét xem liệu các lý do khách hàng đưa ra có hợp lý hay không. Trường hợp khách hàng không thích liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm thì không được coi là một lý do hợp lý.

269. Kiểm toán viên được mời nên:

a)

Tuân theo chỉ dẫn của kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc của khách hàng nếu các chỉ dẫn này không trái với quy dịnh của pháp luật hay các quy định của Hội nghề nghiệp; và

Trong điều kiện có thể cần thông báo cho kiểm toán viên tiền nhiệm nội dung và bản chất của các dịch vụ sẽ thực hiện.

270. Khi có 2 hoặc nhiều kiểm toán viên hành nghề thuộc các công ty kiểm toán khác nhau cùng cung cấp dịch vụ chuyên môn cho một khách hàng thì chỉ cần thông báo cho các kiểm toán viên có liên quan tùy theo dịch vụ cụ thể sẽ cung cấp.

271. Ngoài việc đưa ra các chỉ dẫn về công việc được giới thiệu, kiểm toán viên tiền nhiệm nên duy trì liên lạc với kiểm toán viên được mời và hợp tác với họ trong các yêu cầu cần hỗ trợ.

272. Khi có yêu cầu tham gia ý kiến của kiểm toán viên hành nghề không phải là kiểm toán viên hiện tại về việc áp dụng các chuẩn mực hay nguyên tắc kế toán, kiểm toán, báo cáo hay các nguyên tắc khác đối với các tình huống cụ thể, kiểm toán viên cần tham gia ý kiến sao cho không tạo ra sức ép không đáng có lên những đánh giá hay sự khách quan của kiểm toán viên hiện tại. Khi ý kiến của kiểm toán viên đưa ra không dựa trên thông tin đầy đủ và xác đáng có thể gây khó khăn cho kiểm toán viên được mời nếu sau đó các ý kiến này bị chất vấn hoặc kiểm toán viên được mời được khách hàng bổ nhiệm cung cấp dịch vụ. Kiểm toán viên được yêu cầu tham gia ý kiến nên tìm cách giảm thiểu nguy cơ đưa ra các hướng dẫn không phù hợp bằng cách cần tiếp cận được các thông tin liên quan. Khi được yêu cầu đưa ra ý kiến trong các tình huống trên, cần trao đổi với kiểm toán viên tiền nhiệm. Khi được khách hàng đồng ý, kiểm toán viên tiền nhiệm nên cung cấp cho kiểm toán viên được mời tất cả các thông tin có liên quan về khách hàng. Nếu được khách hàng đồng ý, kiểm toán viên được mời nên cung cấp cho kiểm toán viên tiền nhiệm một báo cáo bằng văn bản. Nếu khách hàng không đồng ý cho kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp thông tin thì kiểm toán viên được mời không nên thực hiện hợp đồng này.

Thay thế một kiểm toán viên hành nghề khác

273. Chủ doanh nghiệp có quyền lựa chọn hay thay thế chuyên gia tư vấn cho họ. Khi một kiểm toán viên hành nghề được yêu cầu thay thế bằng một kiểm toán viên hành nghề khác thì kiểm toán viên được mời cần xác định xem liệu có lý do nghề nghiệp nào để kiểm toán viên tiền nhiệm không tiếp tục công việc đó. Điều đó sẽ không thể thực hiện được nếu không trao đổi trực tiếp với kiểm toán viên tiền nhiệm. Trường hợp không có yêu cầu cụ thể, kiểm toán viên tiền nhiệm không nên tự động cung cấp thông tin về công việc kinh doanh của khách hàng.

274. Các liên hệ, trao đổi nói trên giúp cho kiểm toán viên được mời xác định rõ lý do bổ nhiệm để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận công việc này. Các liên hệ, trao đổi này còn giúp duy trì mối quan hệ hữu hảo giữa các kiểm toán viên được khách hàng nhờ tư vấn.

275. Kiểm toán viên tiền nhiệm có thể thảo luận về tình hình của khách hàng với kiểm toán viên được mời, nếu:

a)

Đã được khách hàng đồng ý; hoặc

Phù hợp với quy định của pháp luật.

276. Kiểm toán viên được mời phải bảo mật thông tin và sử dụng một cách hợp lý các thông tin do kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp.

277. Các thông tin do kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp có thể cho thấy lý do khách hàng đưa ra về sự thay đổi kiểm toán viên là không đúng với thực tế. Đề nghị thay đổi kiểm toán viên có thể do kiểm toán viên tiền nhiệm giữ ý kiến của mình và đã thực hiện đúng các trách nhiệm của một kiểm toán viên hành nghề cho dù có ý kiến khác biệt trọng yếu về nguyên tắc với khách hàng.

278. Các liên hệ, trao đổi nói trên sẽ giúp:

a)

Bảo vệ kiểm toán viên hành nghề để không nhận sự bổ nhiệm trong trường hợp không biết tất cả các thông tin liên quan;

Bảo vệ chủ sở hữu góp vốn nhỏ, người có thể không được cung cấp đầy đủ thông tin về các tình huống dẫn đến đề nghị thay đổi kiểm toán viên; và

c)

Bảo vệ quyền lợi của kiểm toán viên tiền nhiệm khi thực hiện nghiêm túc trách nhiệm của kiểm toán viên hành nghề.

279. Trước khi nhận cung cấp dịch vụ chuyên môn thay thế kiểm toán viên tiền nhiệm, kiểm toán viên được mời cần:

a)

Xác định việc khách hàng tiềm năng đã thông báo cho kiểm toán viên tiền nhiệm và đồng ý cho họ được thảo luận về tình hình của khách hàng với kiểm toán viên được mời.

Khi yêu cầu được liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm bị từ chối, kiểm toán viên được mời cần từ chối công việc trừ khi biết đầy đủ lý do chính đáng bằng cách khác.

c)

Yêu cầu kiểm toán viên tiền nhiệm, sau khi được khách hàng đồng ý, cung cấp bằng văn bản:

Lý do chuyên môn trước khi quyết định chấp nhận hay từ chối sự bổ nhiệm; và

Cung cấp các thông tin cần thiết để có thể đưa ra quyết định.

280. Khi nhận được yêu cầu trao đổi quy định ở đoạn 279(c), kiểm toán viên tiền nhiệm cần sớm:

a)

Trả lời bằng văn bản các lý do nghề nghiệp khiến kiểm toán viên tiền nhiệm không tiếp tục chấp nhận sự bổ nhiệm.

Nếu có lý do khác cần được giải thích, đảm bảo là khách hàng đã đồng ý cho cung cấp thông tin cho kiểm toán viên được mời. Nếu không được khách hàng đồng ý, kiểm toán viên tiền nhiệm nên nói rõ điều này với kiểm toán viên được mời.

c)

Khi được khách hàng đồng ý cho cung cấp thông tin cho kiểm toán viên được mời để có thể quyết định chấp nhận hay từ chối đề nghị bổ nhiệm, kiểm toán viên tiền nhiệm nên thảo luận với kiểm toán viên được mời tất cả các vấn đề có liên quan đến việc bổ nhiệm mà kiểm toán viên được mời cần biết.

281. Nếu kiểm toán viên được mời không nhận được câu trả lời của kiểm toán viên tiền nhiệm trong một thời gian hợp lý mà không có lý do chính đáng thì kiểm toán viên được mời cần cố gắng liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm bằng mọi cách. Nếu vẫn không nhân được ý kiến phản hồi thì kiểm toán viên được mời cần gửi thư nói rõ là không có lý do chuyên môn để không nhận cung cấp dịch vụ đó.

282. Việc khách hàng nợ phí dịch vụ của kiểm toán viên tiền nhiệm không phải là lý do chuyên môn để kiểm toán viên được mời từ chối sự bổ nhiệm.

283. Kiểm toán viên tiền nhiệm nên cung cấp cho kiểm toán viên được mời các sổ sách và giấy tờ của khách hàng mà họ đang giữ sau khi việc thay đổi đã có hiệu lực và nên thông báo cho khách hàng biết về việc này, trừ các giấy tờ và sổ sách thuộc quyền sở hữu của kiểm toán viên tiền nhiệm.

284. Các trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu khác cho các dịch vụ chuyên nghiệp do các kiểm toán viên cung cấp trên phương tiện thông tin công cộng thì mọi kiểm toán viên đủ điều kiện đều có quyền nộp thầu. Nếu việc trúng thầu có thể dẫn đến việc thay thế một kiểm toán viên khác thì kiểm toán viên nộp thầu nên nói rõ trong tài liệu thầu là trước khi chấp nhận, cần có cơ hội liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm để có thể hiểu rõ lý do nghề nghiệp trước khi chấp nhận sự bổ nhiệm này. Nếu hồ sơ thầu thành công, kiểm toán viên nên liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm theo quy định từ đoạn 273 đến 283.

Quảng cáo và giới thiệu

285. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán không được làm quảng cáo về kiểm toán viên, về công ty hoặc các dịch vụ của mình.

286. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán được phép trình bày, giới thiệu về kiểm toán viên, về công ty và các dịch vụ của mình một cách khách quan, đúng đắn, trung thực, xác thực, lịch sự và tinh tế.

287. Nghiêm cấm kiểm toán viên và công ty kiểm toán có các hoạt động giới thiệu:

a)

Tạo ra sự mong đợi giả tạo, có tính lừa dối hay không đúng về kết quả dịch vụ;

Ám chỉ khả năng gây ảnh hưởng đến các tòa án, hội đồng xét xử, các cơ quan luật pháp hay quan chức tương tự;

c)

Tự ca ngợi không dựa trên các thông tin có thể chứng thực được;

d)

Đưa ra sự so sánh với các kiểm toán viên hoặc các công ty kiểm toán khác;

Đưa ra những lời chứng thực hay xác nhận của tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng đáng kể;

f)

Đưa ra các tuyên bố làm người khác hiểu nhầm hoặc bị lừa; và

Đưa ra các xác nhận không chứng minh được rằng mình là chuyên gia trong một lĩnh vực dịch vụ nhất định.

288. Kiểm toán viên và công ty kiểm toán đang hoạt động ở Việt Nam không được phép quảng cáo trên báo hay tạp chí xuất bản tại các nước cho phép quảng cáo.

289. Trường hợp trong các hoạt động quốc tế, kiểm toán viên vi phạm quy định tại đoạn 288, tổ chức nghề nghiệp ở nước xảy ra vi phạm đó cần thông báo cho tổ chức nghề nghiệp ở Việt Nam để xử lý vi phạm này.

290. Để giúp công chúng biết đến các dịch vụ mà một kiểm toán viên có thể cung cấp, Hội nghề nghiệp có thể đưa thông tin này ra trước công chúng trên nguyên tắc trung thực và bình đẳng.

Hướng dẫn về ấn phẩm trình bày, giới thiệu của kiểm toán viên và công ty kiểm toán

291. Ấn phẩm giới thiệu, trình bày về kiểm toán viên và công ty kiểm toán là được chấp nhận nếu:

a)

Việc giới thiệu chỉ nhằm mục đích thông báo với công chúng về tình hình thực tế về kiểm toán viên, công ty và các dịch vụ của công ty;

Việc giới thiệu được trình bày một cách tinh tế;

c)

Việc giới thiệu là nghiêm túc, khách quan và chuyên nghiệp; và

d)

Việc giới thiệu phải tránh sự lặp đi, lặp lại thường xuyên và nổi bật thái quá đối với tên tuổi của kiểm toán viên.

292. Các ví dụ dưới đây minh họa cho các tình huống ấn phẩm tự giới thiệu được chấp nhận:

a)

Sự bổ nhiệm và khen thưởng:

Vì quyền lợi của công chúng và nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, việc bổ nhiệm hay khen thưởng ở tầm quốc gia hoặc địa phương, hay sự trao tặng danh hiệu cao quý cho một kiểm toán viên, một công ty kiểm toán nên được quảng bá. Tuy nhiên, kiểm toán viên không nên tận dụng những bổ nhiệm hay các hoạt động nêu trên cho lợi thế nghề nghiệp cá nhân.

Kiểm toán viên tìm kiếm việc làm hay công việc kinh doanh chuyên nghiệp:

Một kiểm toán viên có thể thông báo cho các bên quan tâm trên các phương tiện thông tin về việc mình đang tìm kiếm việc làm kế toán, kiểm toán hay cơ hội kinh doanh. Một kiểm toán viên có thể viết thư hay trực tiếp tiếp cận một kiểm toán viên khác khi tìm việc làm hay công việc kinh doanh chuyên nghiệp.

c)

Danh bạ công cộng:

Một kiểm toán viên có thể ghi tên của mình vào danh bạ công cộng, trừ các danh bạ có tính quảng cáo cho những tên tuổi nổi tiếng. Việc ghi tên vào danh bạ chỉ nên hạn chế với tên, địa chỉ, số điện thoại, tóm tắt nghề nghiệp và các thông tin cần thiết khác cho phép người sử dụng danh bạ liên lạc được với cá nhân hoặc doanh nghiệp ghi trên danh bạ.

d)

Sự xuất hiện trên sách báo, các cuộc phỏng vấn, bài giảng, đài phát thanh và truyền hình:

Kiểm toán viên là tác giả viết sách hay báo về các chủ đề liên quan đến nghề nghiệp có thể đưa ra tên và chứng chỉ nghề nghiệp và tên của doanh nghiệp mình làm việc nhưng không được đưa quá chi tiết về các dịch vụ mà doanh nghiệp đó cung cấp.

Các quy định hạn chế của đoạn này cũng không áp dụng cho kiểm toán viên khi giảng bài, trả lời phỏng vấn trên báo, tạp chí, đài phát thanh hoặc truyền hình về chủ đề liên quan đến nghề nghiệp. Tuy nhiên những gì kiểm toán viên viết ra hay nói ra không được mang tính quảng cáo về bản thân mình hay doanh nghiệp mình mà phải có cái nhìn khách quan về chủ đề xem xét. Các kiểm toán viên có trách nhiệm cố gắng tối đa để đảm bảo rằng những gì cuối cùng được đưa ra trước công chúng đều tuân thủ theo các quy định này.

Các khóa đào tạo, hội thảo:

Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể mời khách hàng, người quan tâm và nhân viên hoặc các kiểm toán viên khác tham dự các khóa đào tạo hoặc hội thảo. Tuy nhiên không nên tạo ra sự nổi bật thái quá cho tên tuổi của kiểm toán viên trong các cuốn sách giới thiệu hay các tài liệu phát hành liên quan tới kiểm toán viên.

f)

Sách giới thiệu và các tài liệu chứa đựng các thông tin kỹ thuật:

Sách giới thiệu và các tài liệu khác có tên của kiểm toán viên và có các thông tin kỹ thuật để hỗ trợ nhân viên hay khách hàng có thể được phát hành cho những cá nhân và tổ chức có quan tâm hay các kiểm toán viên khác.

Tuyển nhân viên:

Các vị trí thiếu nhân viên thật sự có thể được thông báo cho công chúng thông qua bất cứ phương tiện thông tin nào thường thấy các vị trí nhân viên tương tự. Việc thông báo tóm tắt về công việc hoặc về một hoặc nhiều dịch vụ mà kiểm toán viên cung cấp cho khách hàng là chấp nhận được, nhưng không nên chứa đựng các yếu tố mang tính chất quảng cáo. Không nên có bất cứ gợi ý nào rằng các dịch vụ mình cung cấp là tốt hơn các dịch vụ do kiểm toán viên và các công ty kiểm toán khác cung cấp vì bất kỳ lý do nào.

Trong các ấn phẩm xuất bản cung cấp cho các trường học, các tổ chức đào tạo khác để thông báo cho sinh viên, cá nhân đã tốt nghiệp về các cơ hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán có thể mô tả chi tiết hơn các dịch vụ cung cấp cho xã hội.

Các quy định này có thể được nới rộng hơn nếu thông báo tuyển dụng được thể hiện trong một tờ báo chuyên dành cho tuyển nhân viên.

h)

Quảng bá cho khách hàng:

Kiểm toán viên có thể tiến hành công việc quảng bá cho khách hàng nhưng phải đảm bảo mục đích quảng bá đều vì lợi ích của khách hàng.

Tờ rơi:

Kiểm toán viên và công ty kiểm toán có thể phát hành tờ giới thiệu về kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho khách hàng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện chưa phải là khách hàng:

-

Một bản tóm tắt thực tế và khách quan về các dịch vụ cung cấp; và

-

Một cuốn danh bạ đưa ra tên của các thành viên Ban Giám đốc, nhân viên cấp cao, địa chỉ văn phòng, tên và địa chỉ của các chi nhánh.

j)

Văn phòng phẩm và biển tên:

Văn phòng phẩm và giấy tờ làm việc của kiểm toán viên cần phù hợp với chuẩn mực nghề nghiệp, yêu cầu của pháp luật và tổ chức nghề nghiệp về tên công ty, tên Giám đốc và những người tham gia vào công việc; việc miêu tả về nghề nghiệp, lôgô và các chữ cái lựa chọn, các địa phương và đất nước đang hành nghề; địa chỉ đại diện cho công ty... Không được mô tả chi tiết các dịch vụ cung cấp. Biển tên của công ty cũng cần tuân theo các quy định này.

k)

Thông báo trên báo chí:

Có thể sử dụng các tờ báo hay tạp chí thích hợp để thông báo với công chúng về việc thành lập công ty hay chi nhánh mới, về sự thay đổi trong tổ chức công ty, thay đổi kiểm toán viên, thay đổi địa chỉ công ty.

Những thông báo như vậy nên hạn chế dưới dạng một giới thiệu vừa đủ đưa ra các thông tin và nên xét đến tính thích hợp của khu vực phát hành báo hay tạp chí này và số lần đăng báo.

l)

Việc đưa tên của kiểm toán viên vào tài liệu do khách hàng phát hành:

Khi khách hàng đề nghị xuất bản Báo cáo kiểm toán của một kiểm toán viên liên quan đến các hoạt động kinh doanh hiện tại của khách hàng hoặc liên quan đến sự hình thành một dịch vụ mới, kiểm toán viên cần tiến hành các bước để đảm bảo rằng bối cảnh mà báo cáo xuất bản ra sẽ không dẫn đến việc công chúng bị nhầm lẫn về bản chất và ý nghĩa của bản báo cáo. Trong trường hợp này, kiểm toán viên cần thông báo cho khách hàng biết trước khi xuất bản báo cáo này cần phải được kiểm toán viên đồng ý trước.

Điều này được thực hiện tương tự đối với các tài liệu khác do khách hàng xuất bản có tên của kiểm toán viên hoạt động với tư cách chuyên nghiệp độc lập. Việc này không loại trừ việc đưa tên của kiểm toán viên vào Báo cáo thường niên của khách hàng.

Khi các kiểm toán viên với tư cách cá nhân của mình liên kết với, hoặc làm việc ở một tổ chức cần sử dụng tên của kiểm toán viên trên văn phòng phẩm hoặc các tài liệu khác, kiểm toán viên cần đảm bảo rằng thông tin này không được sử dụng theo cách có thể khiến công chúng tin rằng có mối liên hệ khác với tổ chức này với tư cách chuyên nghiệp độc lập.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro