chuong trinh thuc te

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Theo Tỉnh lộ 26 từ thị xã Bến Tre về Ba Tri chừng 35 km, du khách sẽ gặp hai bên đường là những rừng dừa bạt ngàn xanh tốt. Qua khỏi địa phận huyện Giồng Trôm vào Ba Tri ta bắt đầu gặp những cánh đồng lúa khá rộng xen kẽ những vườn dừa, vườn sơ ri với những vạt đất giồng cao, khô ráo. Thị trấn Ba Tri đông vui, náo nhiệt, bởi nơi đây là đầu mối giao lưu, mua bán, trung chuyển hàng nông, thủy hải sản... Huyện Ba Tri có đến 24 xã.

Sau khi dạo quanh chợ Ba Tri thư giãn, chúng ta đến viếng khu lăng mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), cách thị trấn Ba Tri chừng 1 km trên đường về An Đức.

Khu lăng mộ cũ trước đây được xây dựng vào năm 1972 có quy mô nhỏ, gọn nhưng trang trọng, đến nay vẫn còn trong khuôn viên với nhiều cây cao bóng mát. Trong nhà tưởng niệm (cũ), ngoài tượng và bài vị thờ cụ Đồ Chiểu, còn có treo tranh vẽ chân dung của các vị anh hùng dân tộc như Trương Định, Thủ khoa Huân, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Phan Tòng, Lê Quang Quan... và trích đoạn những tác phẩm văn học nổi tiếng của cụ Đồ.

Năm 2000, khu di tích này được trùng tu, nâng cấp lại với quy mô hoành tráng và bề thế trên diện tích hơn 1,5 ha. Đến lăng, đầu tiên gây ấn tượng cho khách là cổng tam quan với kiến trúc mang phong cách truyền thống của các đình chùa Việt Nam. Tam quan có hai mái chồng, hình thuyền, lợp ngói âm dương màu đỏ gạch giả cổ, trên nóc và những bao lam, xiên, sà có đắp hoa văn, phù điêu ước lệ với nét dựng chân phương. Cột trụ tam quan to, vững chải, sơn màu đỏ son... Đi vào bên trong lăng là một khoảng sân rộng lót đá hở, hai bên có nhiều cây kiểng và chậu hoa kiểng như thiên tuế, vạn tuế, cà đam, bùm sụm, kim quýt... Vòng ngoài cùng là những hàng dương cao vút che chắn gió giông và tỏa bóng mát.

Tiền đình lăng là một “nhà vuông” to, gọn với hai mái chồng, lợp ngói âm dương xanh. Giữa tiền đình là một tấm bia to, kể sơ lược tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của cụ Đồ.

Chính điện lăng là một công trình kiến trúc bề thế. Không gian chính điện lăng có hình khối lăng trụ với ba tầng lợp ngói âm dương xanh, mái dốc, đầu vút cong lên, dáng cứng cỏi mà thanh thoát. Những cột trụ ở đây được sơn màu nâu đất... Bên trong chính điện là tượng bán thân của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Hai bên cột có chạm khắc hai câu thơ nổi tiếng của cụ Đồ:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”

Vòng xuống nền sàn là nhà lưu niệm, nơi giới thiệu, triển lãm một số hình ảnh của các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, cùng với các vị khách quý khác. Hàng năm, vào ngày lễ giỗ cụ Đồ (3-7) có rất nhiều khách tham quan cũng như bà con, nhân dân từ các nơi đã đến dâng hương tưởng niệm nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.

Phía sau, bên trái nhà tưởng niệm cũ là phần mộ của cụ Đồ với phu nhân. Gần bên đó là nơi yên nghỉ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái của Nguyễn Đình Chiểu, bà là một trong những nhà thơ, nhà báo rất nổi tiếng vào đầu thế kỷ trước.

Bến Tre được biết đến là xứ sở của “ba đảo dừa xanh”. Ba đảo ấy là ba cù lao Minh, Bảo và An Hóa nằm giữa bốn con sông Cổ Chiên, Hàm Luông, Ba Lai, Cửa Đại.

Ba Tri là huyện cuối cùng nằm sát biển Đông thuộc cù lao Bảo, cận ven sông Hàm Luông. Đây là vùng đất được khai phá sớm từ đầu thế kỷ 18 do những lưu dân đến từ miền Trung. 

Đất đai Ba Tri gồm những đồng ruộng, vườn dừa, xen kẽ những giồng cát do phù sa của hai con sông Ba Lai và Hàm Luông bồi đắp nên. Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, phần lớn đất Ba Tri vẫn còn là rừng hoang và đầm lầy với nhiều loài thú hoang dã như cọp, heo rừng, khỉ, trăn, rắn, cá sấu, rái cá. Về Ba Tri, thăm quê hương cụ Đồ Chiểu sẽ là chuyến đi bổ ích và thú vị.

 

thành phố Bến Tre đi qua phà Hàm Luông theo quốc lộ 57, đến thị trấn Mỏ Cày Nam, rẽ trái khoảng 4km là đến khu di tích Đồng Khởi. Hoặc có thể từ thành phố Bến Tre, vượt sông Hàm Luông theo đường sông đến tận trung tâm của cái nôi Đồng khởi. Đến nơi đây, du khách bạn sẽ được gặp những người dân hồn hậu, những con người đã "bám chặt quê hương", đã đứng lên "dựng những pháo đài" ở xã Định Thủy, cái nôi của cuộc Đồng khởi năm xưa.

Thắng lợi cuộc Đồng khởi (17/01/160) tại vùng điểm (Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh) đã mở màn, cổ vũ cho phong trào nổi dậy trong toàn tỉnh, sau đó lan ra trong toàn miền. Để bảo tồn những di tích và hình ảnh, tư liệu về sự kiện lịch sử to lớn này, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước bất khuất của người dân, và để nâng cao lòng tự hào về những chiến tích đã đạt được, lãnh đạo tỉnh Bến Tre chủ trương xây dựng tại xã Định Thủy một “Nhà truyền thống Đồng khởi”. Khu di tích này được thiết lập trên một diện tích 5.000 m2, gồm nhà bảo tàng một trệt, một lầu, có diện tích sử dụng 500 m2. Trên nóc nhà là một ngọn lửa được cách điệu bằng bê tông cốt thép cao 12 m, màu đỏ - biểu tượng của ngọn lửa Đồng khởi cháy sáng mãi trên xứ Dừa. Bên trong nhà là những gian trưng bày những hiện vật, nhân vật, hình ảnh, biểu đồ, những vũ khí tự tạo để đánh địch v.v… Chung quanh ngôi nhà là những thảm cỏ xanh, sân rộng, những bồn hoa và cây cảnh, làm tăng thêm vẻ đẹp của khu di tích.

Tại Định Thủy còn có di tích lịch sử rất độc đáo, nhưng còn ít người biết đến đó là đình Rắn với huyền thoại đầy bí ẩn.

Theo Địa chí Bến Tre, khi đình dựng xong, chức sắc của đình mới gửi sớ về triều xin phong sắc thần. Đến năm Minh Mạng thứ 5 thì đình được nhận sắc phong. Tuy đã có nơi thờ cúng nhưng vào thời đó đất đai ở đây còn hoang hóa mênh mông, đình nằm trên một khoảnh đất cao vì thế rắn độc tụ hội rất nhiều, nhiều hang ăn sâu vào giữa đình. Khi thờ cúng, các chức việc trong đình phải lấy ván bao quanh miệng hang để tránh sự cố xảy ra, từ đấy có tên Đình Rắn. Còn theo người xưa kể lại, ngày xưa nơi đây là rừng rậm, rắn, cọp, cá sấu nhiều vô kể. Ông bà mình từ Đàng ngoài trước khi vào đây phải vượt qua sông cù lao Bảo. Gặp lúc sóng to gió lớn, thuyền bè chao đảo, lúc đó có một con rắn lớn nâng bè qua sông. Cám cảnh rắn thần cứu mạng nên khi đình lập xong người dân liền “thỉnh” ông rắn về thờ. Và kể từ đây những lưu dân khai phá vùng đất này cày cấy năm nào cũng trúng mùa.

Nhiều người còn kể rằng, cũng nhờ có ông rắn mà bọn tề, ngụy, việt gian tối đến không bao giờ dám bén mảng tới nơi này. Nên kể từ sau Cách mạng tháng Tám, Đình rắn là một trong những cơ sở cách mạng bí mật để hội họp, mít tinh. Lúc bấy giờ nữ tướng Nguyễn Thị Định là một trong những người thường xuyên lui tới đây để chỉ đạo phong trào cách mạng ở Miền Nam. Đến năm 1970, cuộc chiến càng lúc lan rộng, bom đạn Mỹ đánh phá ác liệt, đình gần như bị sập hoàn toàn nên cơ sở cách mạng ở đây được chuyển đi nơi khác.

Sau ngày miền Nam được giải phóng, các cụ bắt tay tôn tạo lại ngôi đình bằng cây lá đơn sơ để thờ cúng. Đến năm 1993, Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin Trần Hoàn ký quyết định công nhận ngôi đình là di tích lịch sử Đồng Khởi. Năm 2003, Tỉnh ủy Bến Tre trực tiếp chỉ đạo đầu tư, phục dựng lại ngôi đình trông thật khang trang. Đây còn là một trong những địa chỉ dừng chân lý tưởng cho những ai có dịp về thăm quê hương Đồng Khởi.

Đến Định Thủy còn có một điểm tham quan, du lịch sinh thái hấp dẫn đó là Vàm Nước Trong, cửa ngõ đường thủy của huyện Mỏ Cày Nam nối với sông Hàm Luông. Với những vườn dừa rợp bóng, những bãi bờ hoang sơ tĩnh lặng, nơi đây đã từng ghi dấu những chiến công vang dội của những người anh hùng Việt Nam. Đến đây, du khách có dịp lai rai đặc sản mắm tép kẹp với thịt ba rọi luộc hoặc ăn với cá lóc nướng trui hay tôm, tép nướng; cá ngát nấu chua với bần dốt; bánh bột gạo rau mơ hấp; bánh xèo, bánh khọt pha với nước cốt dừa, thơm béo vô cùng.

Điều du khách không thể bỏ qua là sự chân tình, mến khách, yêu thích văn nghệ của người dân Định Thủy, du khách cùng thưởng thức đờn ca tài tử và có thể giao lưu loại hình này bên dòng Hàm Luông thơ mộng rợp bóng dừa xanh.

Đến đây, khám phá sản vật thiên nhiên du khách sẽ được thưởng thức món đuông dừa (chiên mỡ), hay trước hoặc sau mùng 5 tháng 5âl (tết Đoan ngọ) khoảng một tháng, du khách sẽ vô cùng thú vị khi thưởng thức món ăn độc đáo được chế biến từ “nấm mối” xào nước cốt dừa lá cách hay xào muối ớt; nấm mối quấn lá cách nướng, lẩu nấm mối hay canh mướp, canh rau vườn nấu với mấm mối, bánh xèo mấm mối

 

Vị trí: Cù Lao An Bình và Bình Hòa Phước nổi giữa sông Tiền, đối diện với thị xã Vĩnh Long, Cù Lao gồm bốn xã: An Bình, Bình Hoà Phước, Hoà Ninh và Ðồng Phú, thuộc huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Đặc điểm: Cù lao rộng khoảng 60km2, đất đai màu mỡ và trù phú, nước ngọt quanh năm, dân cư trồng nhiều cây ăn trái như: chôm chôm, xoài, nhãn, sầu riêng, sapôchê...

Các điểm du lịch trên cù lao này là:

Vườn cảnh Bonsai của ông Sáu Giáo tại ấp Bình Thuận xã Hoà Ninh với hàng trăm loài cây cảnh: mai vàng, mai chiếu thuỷ, lài... xung quanh nhà là vườn nhãn và ao nuôi cá tai tượng, loại cá thịt ngon.

Nhà sàn ông Mười Ðầy: nhà sàn cất bằng gỗ trên rạch Ninh Hoà, phía sau nhà là vườn nhãn, bưởi, sapôchê. Nhà ông Mười Đầy là một trong sso điểm tham quan ở cù lao này.

Ngôi nhà xưa ông Hai Hoàng được xây cất theo kiến trúc Pháp có sân rộng và phía sau là vườn chôm chôm và nhãn. Ðây là nơi ăn trưa và nghỉ đêm của du khách.

Các vườn trái cây đặc sản khác Vườn chôm chôm ông Chín Hoán, vườn chôm chôm ông Chín Cần, vườn nhãn tiêu ông Tám Hổ, và vô số các vườn trái cây khác.

Vườn bưởi trên cù lao Mỹ Hoà huyện Bình Minh, cách Vĩnh Long 30km, chuyên trồng bưởi năm roi, loại bưởi ngon nổi tiếng của vùng đồng bằng sông Cửu Long

Thành phố Vĩnh Long nằm cạnh quốc lộ 1A, bên bờ sông Cổ Chiên - một nhánh lớn của sông Tiền, cách thành phố Hồ Chí Minh 150km, cách Cần Thơ 30km có rất nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng. Nếu khách có chuyến du lịch Vĩnh Long còn được thăm làng gốm độc đáo nhất Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vui chơi giải trí ở các khu du lịch: Trường An, Vinh Sơn...

 

Từ TP.Hồ Chí Minh về, qua cầu Mỹ Thuận chừng 1km rẽ phải, du khách sẽ đến với khu du lịch Trường An. Đây là khu du lịch lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long, rộng 12ha. Ngay cổng là cặp rồng vàng trông khá ấn tượng nhuộm màu vàng rơm. Bên trái là những biệt thự xinh xắn dành cho du khách lưu trú, nghỉ dưỡng. Bên phải là hồ, du khách có thể thuê thuyền thiên nga đạp nước dạo chơi trên làn nước xanh biếc. Bên hồ có khá nhiều cây si, gừa, sộp cổ thụ buông rễ phụ đung đưa như những tấm mành rũ thướt tha. Du khách tan biến đi những mệt mỏi, căng thẳng khi đi dọc theo bờ sông dưới bóng những hàng dương xanh ngát, tận hưởng cảm giác khoan khoái từ những ngọn gió mát lành của dòng Cổ Chiên mênh mông phóng khoáng. Nếu có “gan” bạn có thể cưỡi đà điểu chạy mấy vòng trên sân cát rất thú vị. Du khách thuê tàu, ca-nô của khu du lịch để khám phá sông nước và những cù lao trên sông. Từ công viên bờ sông Cổ Chiên (Trường An) ta có thể ngắm nhìn cầu Mỹ Thuận kỳ vĩ, hiện đại in bóng sừng sững trên nền trời xanh thẳm.

Trong nội ô thành phố Vĩnh Long, có di tích “Cửa hữu thành Long Hồ” trên địa bàn phường 1. Nơi đây xưa kia là đại bản doanh của quân binh nhà Nguyễn ở phương Nam, quy mô chỉ sau thành Gia Định. Dấu vết còn lại là những mầm, tược phụ của “cây đa” đâm chồi mọc lên cao vút, sum sê bóng mát. Tại đây hiện nay có một cổng thành với nhà bia được phục dựng lại khá hoành tráng. Trong nhà bia có bia ký ghi sơ lược lịch sử hình thành dinh Long Hồ (phần lớn tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và một phần thành phố Cần Thơ ngày nay).

Đến với Văn Thánh Miếu ở phường 4, du khách sẽ được chiêm ngưỡng những kiến trúc còn khá nguyên vẹn cách đây gần 150 năm. Đền thờ Đức Khổng Tử thâm nghiêm, yên tĩnh giữa hai hàng sao thẳng tắp. Gần đó là Văn Xương Các, xưa từng là nơi họp mặt, xướng họa của các văn nhân, thi sĩ...

Qua cầu Thiềng Đức một đỗi, đi dọc theo tỉnh lộ 31. Nơi đây là “vương quốc gốm đỏ” trải dài từ thành phố Vĩnh Long, huyện Long Hồ đến huyện Mang Thít. Làng nghề gốm Vĩnh Long chỉ mới ngoài 20 tuổi so với các làng nghề gạch đã có từ lâu. Từ những mỏ đất sét đỏ đặc trưng nơi đây, các làng nghề mỗi tháng đã làm nên hàng vạn sản phẩm gốm gia dụng và nghệ thuật xuất đi nhiều nơi. Hiện nay, tại làng gốm thường xuyên có gần 3 vạn lao động làm việc ở các lò, xưởng. Dọc theo tỉnh lộ 31 người xe nhộn nhịp, công nhân khẩn trương khuân hàng lên xe tải.

Vào thăm làng gốm, du khách sẽ có dịp tận mắt nhìn những công đoạn sản xuất gốm đỏ.

Đất sét nguyên liệu chuyển từ ghe lên xưởng bằng băng chuyền để phân loại. Tùy theo yêu cầu mặt hàng mà người ta pha đất theo kỹ thuật và kinh nghiệm riêng. Đất pha xong phải nhào nặn nhiều lần cho thật mịn, chạm tay vào đất pha không dính thì mới đạt. Sau đó tới công đoạn in, “xu”, cuối cùng là nung. Công đoạn tạo mẫu phải có bàn tay của những họa sĩ, nhà điêu khắc. Các mẫu gốm được tạo tác bằng thạch cao. Những người thợ dùng đất ép vào khuôn, cuối cùng ráp nối dính lại thành sản phẩm thô. Xu là làm “bóng” sản phẩm làm các hoa văn, họa tiết của vật nung nổi rõ, sắc sảo hơn.

Quyết định sự thành bại của mẻ gốm là kỹ thuật nung. Người thợ lửa thường có rất nhiều năm kinh nghiệm. Sắp lò cũng là kỹ thuật, người thợ sắp lò biết chổ nào “lửa áp”, chỗ nào lửa yếu, chỗ nào lửa ổn định mà sắp xếp từng loại sản phẩm có kích cở khác nhau. Gốm được nung đốt trong lò 7 ngày. Bốn ngày đầu đốt lò từ từ, hun hơi nóng làm khô sản phẩm mộc, với nhiệt độ từ 100 - 2000C. Ngày thứ năm tăng lửa, ngày thứ sáu “siết lửa” để đến ngày cuối cùng đạt được nhiệt độ 9000C. Sản phẩm mộc sẽ kết khối khi đã được nung đến nhiệt độ cần thiết, người thợ lửa sẽ ngưng đốt, trám kín lò bằng đất sét và để cho lò nguội dần, rồi ra lò, tuyển chọn sản phẩm.

Đến nơi đây, nhiều du khách thích thú và thán phục khi nhìn những người thợ thao tác điêu luyện để cho ra đời những sản phẩm độc đáo và cảm nhận được giá trị của các sản phẩm qua quá trình lao động, sáng tạo của những nghệ nhân, công nhân làng nghề gốm bên dòng Cổ Chiên thơ mộng... 

Công viên nằm bên bờ sông Tiền, có cảnh quang đẹp, là nơi thư giản, hóng mát , cũng là nơi tổ chức các sự kiện văn hóa quan trọng của tỉnh. Đặc biệt, nhiều năm qua, công viên Sông Tiền luôn được chọn làm nơi tổ chức bắn pháo hoa trong đêm giao thừa Tết âm lịch của tỉnh Vĩnh Long.

Công viên nằm bên bờ sông Tiền, gần cầu Cái Cá, thuộc phường 1, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Công viên có cảnh quang đẹp, là nơi thư giản, hóng mát của người dân thành phố Vĩnh Long; cũng là nơi tổ chức các sự kiện văn hóa quan trọng của tỉnh

Bến tàu công viên Sông Tiền có các tàu nhà hàng có sức chứa tối đa 350 khách, được thiết kế trang nhã - lịch sự - thoáng mát, với đầy đủ tiện nghi tương tự như các tàu nhà hàng trên sông Sài Gòn

Các tàu nhà hàng này phục vụ các món ăn hải sản nổi tiếng như: tôm sú hấp bia, gỏi củ hủ dừa, cà-ri dê, lẩu cá ngát..., đặc biệt với các món lẩu mang đậm nét đồng quê của miền sông nước Cửu Long.

Hàng tuần vào các tối thứ bảy và chủ nhật, từ 20h - 21h30, tàu nhà hàng sẽ đưa quý khách du ngoạn trên sông Tiền, tham quan cầu Mỹ Thuận

 

(DL) - Khu Lăng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trung tâm TP. Cao Lãnh là điểm du lịch về nguồn dành cho du khách mỗi khi ghé thăm Đồng Tháp. Thuở nhỏ, Nguyễn Sinh Sắc là một cậu bé thông minh ham học, được nhà nho Hoàng Xuân Đường thương yêu nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Về sau ông tham dự kỳ thi hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Lúc này ông được cụ Hoàng gả con gái của mình là bà Hoàng Thị Loan làm vợ. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng và làm quan được một thời gian ngắn thì bị Triều đình nhà Nguyễn cách chức. Sau khi bị cách chức ông vào miền Nam và sinh sống tại làng Hòa An thuộc tỉnh Đồng Tháp để dạy học, bốc thuốc chữa bệnh giúp đỡ người nghèo và sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời.

Để tưởng nhớ công ơn của cụ, nhân dân Đồng Tháp đã xây dựng khu lăng mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc để mọi người trong và ngoài tỉnh đến viếng thăm và thắp nén hương tưởng nhớ cụ. Khu di tích cụ Phó bảng nằm cạnh chùa Hòa Long, ngay trung tâm TP. Cao Lãnh. Khu di tích được khánh thành vào cuối năm 1977. Toàn bộ khu di tích rộng khoảng 3,6ha được chia làm 3 khu vực: Khu lăng mộ cụ Nguyễn, nhà sàn Bác Hồ và ao sen. Khuôn viên lăng mộ có nhiều loại cây trái, hoa cảnh quý hiếm được bà con khắp cả nước mang về trồng tặng để tỏ lòng biết ơn. Khu di tích không những được xây dựng rất kỳ công mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Vòm mộ quay mặt về hướng Đông là một cánh hoa sen cách điệu có dáng hình bàn tay xoè úp xuống, phía trên là 9 con rồng cách tân đậm nét dân gian, vươn ra thành 9 đầu hồi, tượng trưng cho nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long luôn che chở và ôm ấp ngôi mộ người chí sĩ yêu nước.

Ngôi mộ cụ Phó bảng được ốp đá hoa cương, nấm mộ màu xám tro yên vị trên nền mộ bằng đá mài trắng hình lục giác không đều, mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Phía trước mộ là hồ sen hình ngôi sao 5 cánh, giữa hồ sừng sững một đài sen trắng cách điệu cao gần 7m, tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, lương tâm trong sáng của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Rời lăng mộ cụ Nguyễn, du khách tham quan nhà trưng bày những hình ảnh về cụ bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu của Bác Hồ và khu nhà sàn được phục chế nguyên mẫu theo tỷ lệ 1:1 như nhà sàn và ao sen của Bác ngay tại Phủ Chủ tịch ở Hà Nội. Tại đây, du khách có thể cảm nhận và hình dung được cuộc đời thanh đạm của Bác, góc làm việc, nơi nghỉ ngơi của Bác sau giờ làm việc và tại nhà sàn Người luôn dành một góc nhỏ cho các cháu thiếu nhi vui đùa… Hàng năm, cứ vào ngày 28/10 âm lịch, người dân Đồng Tháp và bà con gần xa từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long lại tề tựu về đây tổ chức lễ giỗ cụ Phó bảng trong không khí đông vui và trang nghiêm như một ngày hội lớn, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc

Nhân kỷ niệm 81 năm (1929 – 2010) ngày mất cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (28/10 âm lịch), ngày 2/12/2010, Tỉnh ủy, UBND và Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức Lễ khánh thành giai đoạn 2 công trình “Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc”. Khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được đầu tư, tôn tạo và mở rộng thêm hơn 6ha với tổng kinh phí hơn 95 tỷ đồng từ nhiều nguồn đóng góp của các tổ chức, cá nhân và công đồng xã hội. Diện tích sau khi mở rộng đã nâng toàn bộ quần thể Khu di tích lên gần 10 ha. Trong đó, có việc phục dựng lại một góc làng Hòa An – nơi lần đầu tiên cụ Nguyễn Sinh Sắc tới hoạt động cách mạng cũng như một góc hình ảnh đặc trưng của làng quê Nam Bộ

 

Cứ mỗi độ nước lên, vào khoảng từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch, về thăm Vườn Quốc gia Tràm Chim ở huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, du khách lại có dịp tham quan bằng tắc ráng (xuồng máy nhỏ) trên bao la sông nước, bao quanh rừng tràm xanh ngút ngàn cùng hệ động, thực vật phong phú.

Vườn Quốc gia Tràm Chim là khu du lịch sinh thái từ lâu đã nổi tiếng là “ốc đảo xanh” với cảnh quan thiên nhiên đặc trưng cho vùng đất trũng Đồng Tháp Mười. Nơi đây quần tụ rất nhiều loài thực vật, cùng gần 200 loài chim nước, chiếm khoảng một phần tư số loài chim ở Việt Nam, trong đó có nhiều loài chim quý hiếm trên thế giới. 

Đặc biệt, nổi tiếng nhất là sếu đầu đỏ - một trong số 15 loài sếu còn tồn tại trên thế giới đang có nguy cơ tuyệt chủng. Tràm Chim là nơi cư trú của khoảng 60% quần thể sếu đầu đỏ, được xem là loài chim cao nhất trong các loại chim bay trên thế giới. Nhiều con sếu cao đến gần 2m, bộ lông xám mượt, chân và cổ cao, đôi cánh dang rộng khi bay, dáng đi khoan thai, đủng đỉnh. Nó còn được nhận biết vì tiếng kêu to và vang xa hàng 2-3 km. Tiếng kêu độc đáo này do khí quản dài tạo nên hiện tượng cộng hưởng âm thanh, giống như những ống xoắn của kèn trompet. Theo các nhà khoa học, loài sếu đầu đỏ đã xuất hiện trên Trái Đất tròn 60 triệu năm, cùng thời với loài bò sát khổng lồ và có mặt ở mọi châu lục. Ngoài sếu đầu đỏ, Vườn Quốc gia Tràm Chim còn có một số loài chim quý như ngan cánh trắng, te vàng, bồ nông, già đãy Java.

Trong quãng thời gian từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 5, trên thảm xanh rộng lớn của rừng tràm hiện lên từng đàn sếu bay rợp trời với một cảnh tượng thật ngoạn mục. Đến đây vào thời gian này, du khách còn chứng kiến sếu đầu đỏ hòa cùng các loài chim khác bay về Tràm Chim cư trú trong không gian bao la của trời, của sông nước và rừng tràm. Trên các cành cây hay lững lờ trên mặt nước, hàng trăm loài chim nào là cò, le le, trít, diệc, vịt trời, cồng cộc luôn rộn rịp kiếm ăn.

Ngoài việc là nơi cư trú của hàng trăm loài chim, Vườn Quốc gia Tràm Chim còn lưu giữ những đặc thù thiên nhiên của vùng Đồng Tháp Mười với rừng tràm có tuổi thọ từ 10-18 năm. Các loài sen trắng, sen hồng, sen nửa trắng nửa hồng, bông súng, lúa trời, năng, lác, rau muống đồng cũng góp phần làm thiên nhiên nơi đây thêm đa dạng.

Đầu năm 1999, Tràm Chim chính thức được Chính phủ công nhận là “Vườn Quốc gia Tràm Chim”. Đây là niềm vui và tự hào lớn của nhân dân Đồng Tháp. Nhiều tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế cũng tài trợ để bảo vệ tràm chim quý hiếm này. Hàng năm, hàng ngàn lượt khách từ khắp nơi về với Tràm Chim, trong đó du khách quốc tế chiếm khoảng 30%. Tại đây, du khách sẽ được sống trong khung cảnh yên bình, ngắm những đàn sếu bay về vùng đất trũng Đồng Tháp Mười mênh mông trời nước

 

thuyết Núi Sam

Thứ Hai, 14/07/2008 20:42

Trên con đường trải rộng cách thị xã An Giang chừng 60 km về hướng Tây, một buổi chiều nắng êm ả, tết Đoan Ngọ, tôi trở lại núi Sam. Những hàng sứ trắng đầu xuân đã nhường chỗ cho phượng vĩ tràn cả lối đi. Núi Sam như bừng sáng lên giữa “đám lửa” rực rỡ của mùa phượng vĩ nở hoa.

Nơi núi Sam ngự trị

Người ta gọi là núi Sam. Núi có diện tích khoảng 280ha, với độ cao vừa phải 241m. Vào thời nhà Nguyễn, núi Sam thuộc thôn Vĩnh Tế, phủ Tuy Biên - ngày nay là xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là rặng núi lẻ loi cuối cùng của miền Nam Việt Nam. Khi đứng từ trên đỉnh cao nhất của núi Đá Dựng (cách đó khoảng 6km) ta sẽ nhìn thấy giữa cánh đồng xanh ngát là hình ảnh một con sam. Có nhiều câu chuyện truyền thuyết về loài sam từng sinh sống nơi đây.

 

Vùng đất này thật trù phú, cả một đoạn đường dài một bên là biển, bên kia là những cánh đồng lúa xanh ngát, cây cối tươi tốt quanh năm. Thỉnh thoảng, xuất hiện những ngôi chùa mang đậm nét kiến trúc Campuchia (thờ đạo Phật – phái An Tông hoặc Tiểu Thừa, tăng ni thường mặc áo vàng và sống bằng cách đi khất thực). Nơi này khí hậu ôn hòa mát mẻ vì ngoài cánh đồng, núi Sam còn được bao bọc bởi hệ thống kênh rạch

Đường lên núi Sam

Từ hai thế kỷ trước, qua ngòi bút của Thoại Ngọc Hầu (trong bia “Vĩnh Tế Sơn”) thì núi Sam đẹp như một bức tranh phong thủy. Trong vòng bán kính khoảng 10km đổ lại bên cạnh núi Sam còn có nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử văn hóa đã được Nhà nước công nhận xếp hạng như: Chùa Tây An, Miếu Bà Chúa Xứ, Lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Hang... và nhiều thắng cảnh đẹp như đồi Bạch Vân, vườn Tao Ngộ...

 

Tách khỏi dòng người đổ về viếng núi Sam trong ngày lễ, theo lời kể của một người dân địa phương, tôi men xuống sườn Đông núi Sam để tìm một ít lá giang. Nếu đã từng nhấm qua một lần cái hương vị của loại lá này, ta sẽ cảm nhận sự thú vị ở đầu lưỡi bởi vị chua thanh lẫn chút bùi bùi. Lá giang dùng nấu canh với thịt gà ăn rất ngon.

Và lạ lắm, cùng một loài này nhưng nếu mọc ở sườn núi phía Tây hay phía Đông thì hương thơm, vị ngon và độ màu cũng khác nhau. Một người dân địa phương giải thích rằng, ở sườn phía Đông núi Sam đón nhận ánh nắng đầu tiên của mặt trời nên loài cây trái nào hương vị cũng thanh hơn.

Những truyền thuyết in trên núi đá

Chuyện về loài Sam vẫn chưa kết thúc. Tôi được thầy Ngọc Minh, một tăng sư đã có 15 năm gắn bó với ngọn núi thơ mộng kể cho nghe một truyền thuyết khác. Thầy đưa tôi đến một cái miệng hang hiện đã được lấp tạm thời bằng xi măng, phía bên trái cách lối đi vào chừng khoảng 3 mét, thầy bảo đây là đường đi xuống thủy tề. Tôi ngạc nhiên, thầy tiếp tục câu chuyện của mình...

Phía bên trên miệng hang, nhìn thẳng lên vách núi dựng đứng có cái lỗ thông thiên, đường kính khoảng gần 1 mét vuông. Trước đây có một cái dây thừng thòng từ miệng hang xuống, nhưng vì du khách đến đây đu dây nhiều quá nên bị đứt một nửa. Năm 1978, Pôn Pốt tràn qua chiếm đóng vùng đất này, chính quyền địa phương đã cho lấp hang lại vì sợ chúng cất giấu vũ khí.

Truyền thuyết kể lại đây chính là nơi ở của con đại bàng, nó đã bắt cóc công chúa và đi vào hang bằng lỗ thông thiên. Trên vách đá của hang in hình người màu trắng, trên vai quàng con vật hình thù như đầu chằn tinh, tay trái dìu công chúa, khiến người ta liên tưởng đây là ông Thạch Sanh

Là chuyện từ cái hang này, sau khi Thạch Sanh giết đại bàng, giải thoát công chúa, Lý Thông muốn giành công nên gọi lính lấp miệng hang để giết Thạch Sanh. Không ra khỏi hang được, Thạch Sanh mới lần tìm lối đi khác, cuối cùng tìm ra cửa biển và gặp người có đuôi giống cá...

 

Bên cạnh cái hang được gọi là “vương địa” đại bàng, qua một lối đi lớn sẽ gặp cái hang thứ hai. Trên miệng hang có bàn thờ Thủy Tề, phía bên trong hang có 3 lối đi nhỏ. Ở dưới hang có loài đá rất lạ, không phản chiếu ánh sáng, rọi đèn vào ánh sáng bị hút hết. Chỉ có đèn dầu mới thắp sáng được dưới này, nhưng đèn dầu mà không có không khí thì không cháy. Cho đến bây giờ cái hang kỳ lạ này vẫn chưa được khám phá.

Theo thời gian, những lớp đá canxi gặp mưa nhiều hút nước trương ra tạo thành những hình thù rất kỳ lạ. Ở một nhánh cửa hang phía Nam, cạnh phiến đá Đại Hồng Chuông khá nổi tiếng là khối đá hình con sử tử từ trên trời bay xuống. Trên đầu sư tử có hình Đức Phật. Theo kinh Pháp Hoa, nhân vật cưỡi sư tử là Bồ Tát Văn Thù - người có tiếng nói êm dịu - tượng trưng cho trí tuệ, phá đêm tối của vô minh. Tôi hỏi khối đá này đã xuất hiện tự khi nào thì được biết nó đã có từ khi thạch động xuất hiện và ngày càng lớn dần them

Lại nói về Đại Hồng Chuông, nhìn kỹ sẽ thấy những khối đá rời, đá có tiếng kêu rất thanh. Nhưng đã nhiều năm trôi qua, kể từ ngày cái chui đánh chuông do người Miên khai phá mảnh đất này mang về xứ, ta có đẽo nhiều cái khác nhưng đánh vào chuông không kêu!

Và cứ thế, những câu chuyện kéo dài mãi... Những truyền thuyết sao lại ứng với tạo vật của thiên nhiên lạ thường, càng khiến cho lời kể thêm hấp dẫn hơn. Mãi nghe, tôi vô tình đưa tay chạm vào một nhũ thạch (vú đá). Vào mùa mưa từ nhũ thạch này phun lên dòng nước trong vắt, mát lành. Có người nói uống nước này có thể chữa được bệnh.

Chiều đã về rất muộn, chim yến gọi bầy quấn tổ, những du khách cuối cùng đã rời núi. Tiếng chuông chùa vọng lại xa xa. Từ biệt núi Sam, hẹn lòng sẽ quay trở lại vì còn nhiều truyền thuyết chưa kịp khám phá…

Núi Sam thuộc loại núi trẻ, có cây xanh bóng mát. Trên núi có nhiều hoa sứ và hoa phượng. Dưới chân núi là một hệ thống kênh rạch, ruộng đồng bao quanh. Những công trình kiến trúc do con người xây dựng nằm rải rác dưới chân, trên sườn, và trên đỉnh núi tạo thành một quần thể di tích độc đáo như: miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, chùa Hang....và nhiều thắng cảnh như: đồi Bạch Vân, Vườn Tao Ngộ....Toàn bộ khu di tích núi Sam đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.

Trong bia Vĩnh Tế Sơn, Thoại Ngọc Hầu đã miêu tả núi Sam như sau: “Rành rành chân núi trắng phau trơ trọi ngọn tre xanh ngắt, cảnh núi trở nên tươi đẹp, sừng sững vọt lên. Ngắm dòng nước biếc bên bờ cao, ruộng vườn bao quanh chân núi, hơi tan tuôn cuốn lẫn khói nấu cơm, chùa chiền trên trót hương tỏa mây nồng, thật không kém gì phong cảnh trung châu vậy”.

Núi Sam có hai sườn Đông và Tây: sườn Đông là nơi đầu tiên đón nhận ánh nắng mặt trời, nên cây trái ở đây xanh tốt hơn, hương vị đậm đà hơn so với ở sườn Tây. Trên núi có cây giang, lá có vị chua thanh, bùi bùi, là bí quyết chế biến nhiều món ăn độc đáo như: canh chua thịt gà lá giang, bò xào lá giang....

Chạy ôm vòng quanh chân núi Sam là một con đường nhựa dài khoảng 6 - 7 km dẫn du khách từ ngã ba Đầu Bờ đến Bến Vựa. Bến Vựa là nơi tập trung nhiều mồ mả, gọi là khu nghĩa địa. Từ bên đường, du khách có thể nhìn thấy các ngôi mộ với đủ kiểu cách, nhà giàu xây mộ có mái che, trung lưu chỉ xây bằng đá, còn nhà nghèo thì chỉ "sè sè nắm đất bên đường". Từ Bến Vựa nhìn lên khoảng hơn trăm mét là các bậc đá ngoằn ngoèo dẫn lên đồi Bạch Vân. Tại đây có những khối đá to và những cây cổ thụ che bóng mát, du khách có thể nghỉ ngơi, thư giãn trên những tảng đá này. Tiếp tục đi vòng theo chân núi gặp Bến Đá, nơi đây tập trung ghe tàu để chở đá, cát cung cấp vật liệu xây dựng cho khắp vùng miền Tây. Tiếp tục đi vòng qua Đá Chẹt cũng là nơi khai thác đá nhiều nhất ở núi này, từ đây có một con đường ngoằn ngoèo đến tận đỉnh núi, gọi là đường Tháp, ô tô và xe máy có thể lên được dễ dàng. Khu vực này có tháp ngắm cảnh được xây dựng cao hàng chục mét. Công trình này khi hoàn tất sẽ thu hút nhiều khách lưu trú vì đây là nơi có thể thư giãn, nghỉ ngơi rất tốt với không khí trong lành và những buổi hoàng hôn lãng mạn...

Nếu có thời gian, du khách có thể leo núi bằng đường mòn ngay sau lăng Thoại Ngọc Hầu. Tiếng là đường mòn nhưng con đường đã được tu sửa nhiều: những đoạn dốc cao, trơn trợt đã được cải tạo thành bậc thang cho dễ đi. Hai bên đường có nhiều chùa chiền và các quán giải khát để du khách dừng chân lễ Phật hay nghỉ ngơi. Người đi khỏe chỉ mất nửa giờ để lên tới đỉnh; đi chậm thì mất khoảng một giờ hoặc hơn. Mùa hè, hoa phượng nở đỏ rực hai bên đường, đâu đâu cũng thấy một màu đỏ của hoa.

Trước 1975, trên đỉnh núi Sam có đặt mấy khẩu pháo 155, 105 ly, để phủ hỏa lực yểm trợ cho thị xã Châu Đốc cũng như các đồn bót và vùng biên giới bên kia kênh Vĩnh Tế. Ngày nay, trên núi có đặt đài truyền tin, nhà mát. Từ trên đỉnh núi, du khách có thể phóng tầm mắt nhìn xuống cánh đồng bất tận và dòng kênh thẳng tắp. Xa xa là thị xã Châu Đốc nhấp nhô mái ngói. Nếu có ống nhòm, bạn có thể nhìn thấy dãy Thất Sơn hùng vĩ và lãnh thổ Campuchia ở cách bờ kênh Vĩnh Tế khoảng 1,5 km. Những năm lũ lớn, cả một vùng đồng lúa bao la chạy tới chân trời bị nhận chìm dưới màu nước bạc, trắng xoá, mênh mông. Lên đến đỉnh núi, khách sẽ được tìm hiểu tường tận về gốc tích của Bà Chúa Xứ. Bệ đá nơi đặt tượng Bà trước khi hạ sơn vẫn hiện diện tại đây và được bảo quản rất kỹ, gọi là nơi Bà “ngự”

Ngoài các di tích nổi tiếng như: miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An, chùa Hang, miếu Trương Gia Mô....trên triền núi Sam còn có hàng trăm am, cốc, chùa do người dân tự lập, tự tín ngưỡng và thực hiện các hoạt động bói toán, xin xâm, cho số .....Hầu hết đều tấp nập du khách từ mọi miền đất nước đến sùng bái ngưỡng vọng, vãng lai.

Trên đỉnh núi Sam có một cái hang sâu, hiện cửa hang đã bị lấp. Người ta gọi đó là hang Thủy tề. Từ miệng hang nhìn xuống, vách núi dựng đứng sâu hun hút, lác đác vài lỗ thông thiên, đường kính khoảng gần 1 m. Người ta kể lại rằng, đây chính là nơi ở của con đại bàng, nó đã bắt cóc công chúa và đi vào hang bằng lỗ thông thiên. Trên vách đá của hang in hình người màu trắng, trên vai quàng con vật hình thù như đầu chằn tinh, tay trái dìu công chúa, khiến người ta liên tưởng đến nhân vật Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Năm 1978, Pôn Pốt tràn qua chiếm đóng vùng đất này, chính quyền địa phương đã cho lấp hang lại vì sợ chúng cất giấu vũ khí.

Bàn thờ Thủy tề

 

Bên cạnh hang Thủy tề, qua một lối đi lớn sẽ gặp cái hang thứ hai. Theo lời kể trong truyện cổ tích, sau khi Thạch Sanh giết đại bàng, giải thoát công chúa, Lý Thông muốn cướp công nên gọi lính lấp miệng hang để giết Thạch Sanh. Không ra khỏi hang được, Thạch Sanh mới lần tìm lối đi khác, vô tình gặp và giải cứu con gái vua Thủy tề đang bị nhốt ở đây. Hiện trên miệng hang có bàn thờ Thủy Tề, phía bên trong hang có 3 lối đi nhỏ. Ở dưới hang có loài đá rất lạ, có khả năng hấp thụ ánh sáng, rọi đèn vào ánh sáng bị hút hết. Chỉ có đèn dầu mới thắp sáng được dưới này, nhưng đèn dầu mà không có không khí thì không cháy. Cho đến bây giờ cái hang kỳ lạ này vẫn chưa được khám phá.

Bức tượng đá kỳ lạ

 

Ở một nhánh cửa hang phía Nam, cạnh phiến đá Đại Hồng chung khá nổi tiếng là khối đá hình con sử tử từ trên trời bay xuống. Trên đầu sư tử có hình Đức Phật. Theo kinh Pháp Hoa, nhân vật cưỡi sư tử là Bồ Tát Văn Thù - người có tiếng nói êm dịu - tượng trưng cho trí tuệ, phá đêm tối của vô minh. Tương truyền khối đá có từ khi thạch động xuất hiện và ngày càng lớn dần thêm.

Đại hồng chung

 

Đại hồng chung là một cái chuông lớn bằng đá có có tiếng kêu rất thanh. Nhưng đã nhiều năm trôi qua, kể từ ngày cái dùi đánh chuông bị người Campuchia mang về xứ, ta có đẽo nhiều cái khác nhưng đánh vào chuông không kêu.

Miếu Bà Chúa Xứ là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là một di tích nổi tiếng ở khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm thu hút gần 2 triệu lượt người đến cúng bái, tham quan. Khách hành hương, du lịch đến từ khắp nơi trên cả nước, tạo nên một mùa lễ hội sôi nổi, đông đảo kéo dài suốt nhiều tháng.

Theo số liệu của Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch An Giang, nếu năm 1990 có khoảng 1 triệu du khách đến miếu Bà thì năm 2007 đã có trên 2,5 triệu lượt người đến. Sồ tiền khách thập phương hỷ cúng tại miếu mỗi năm lên đến hàng chục tỷ đồng. Nhiều dự án giao thông, trường học, trạm cấp nước phục vụ cho dân làng Vĩnh Tế đã được xây dựng từ nguồn tiền này.

Năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam được chính thức công nhận là lễ hội quốc gia. Năm 2008, lễ hội được tổ chức với tên gọi Tuần lễ quốc gia Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Lễ hội chính thức khai mạc vào tối ngày 25-05 tại Trung tâm thương mại núi Sam. Lễ khai mạc đã thu hút khoảng 10.000 lượt khách trong nước và quốc tế đến tham dự. Dịp này, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã tiến hành nghi thức trao giấy xác nhận và cúp lưu niệm kỷ lục Việt Nam đối với “Ngôi miếu lớn nhất Việt Nam” và “Tượng bà bằng đá sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam” cho đại diện Ban quản trị lăng miếu núi Sam.

Lịch sử

 

Miếu Bà có từ khi nào cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng miếu ra đời sau năm 1824. Tương truyền, lúc đầu, miếu Bà được xây dựng đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chánh điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Năm 1870, miếu được xây lại bằng đá miểng và lợp ngói. Đến năm 1972, miếu được xây dựng mới, đồ sộ và lộng lẫy theo lối kiến trúc cổ kính phương Đông. Công trình là một quần thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy Đông lang, Tây lang, chánh điện, nhà khách…theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây dựng dở dang. Mãi đến năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại.

Tương truyền, dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu giữ trọng trách trấn giữ biên giới Tây Nam, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. Mỗi lần ông xuất quân, bà chánh thất phu nhân Châu Thị Tế thường đến khấn vái, mong Bà phù hộ Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Về sau, để tạ ơn những điều ứng nghiệm, phu nhân Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại ngôi miếu to và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong 3 ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng lấy những ngày trên làm lễ Vía Bà. Nếu chi tiết này có thật, thì đây cũng là một thông tin cho biết rằng miếu Bà Chúa Xứ được xây dựng từ thời Minh Mạng.

Kiến trúc

 

Ngôi miếu có bố cục kiểu chữ  国 - Quốc, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Các hoa văn ở cổ lầu chánh điện thể hiện đậm nét nghệ thuật. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi lộng lẫy. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chánh điện gần như được giữ nguyên như cũ.

Chánh điện gồm hai lớp. Lớp trong cùng là nơi thờ Bà Chúa Xứ với tượng Bà bằng đá đặt trên bệ cao, sát hai bên là hai con hạc trắng biểu tượng cốt cách tiên thánh của Bà. Bên phải tượng Bà là một linga cũng bằng đá đặt trên một hương án thờ, gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái tượng Bà là hương án thờ một tượng gỗ chạm hình yoni, gọi là bàn thờ Cô. Lớp thứ hai là bàn thờ Hội đồng, sát liền hai tượng chim phượng. Hai bên trái, phải của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (ở bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (ở bên phải).  

Ngay lối vào chánh điện có đôi câu đối thể hiện quyền lực linh thiêng của Bà trong việc ban phúc, bảo vệ nhân dân. Nội dung như sau:

求必應試必霛夢中指示

暹可驚清可慕意外難量

Phiên âm:

Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị

Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng

Dịch nghĩa:

Cầu nhất định được, ban nhất định linh, báo cho biết trong mộng

Người Xiêm phải sợ, người Thanh phải nể, không thể tưởng tượng nổi

Những bí ẩn quanh bức tượng Bà Chúa Xứ

 

Truyền thuyết

 

Trong dân gian tương truyền rằng: cách đây gần 200 năm, núi Sam còn hoang vu, cây cối rậm rạp, nhiều thú dữ, dân cư thưa thớt, giặc biên giới thường sang quấy nhiễu. Một hôm, có một toán giặc Xiêm leo lên núi phát hiện được pho tượng cổ bằng đá rất đẹp. Động lòng tham, chúng xeo nại, tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào xê dịch được. Sau hàng giờ vất vả với pho tượng, chúng tức giận đập phá làm gãy cánh tay trái pho tượng. Sau khi chúng bỏ đi, trong làng có một bé gái đang đùa giỡn bỗng dưng ngồi lại, mặt đỏ bừng, đầu lắc lư, tự xưng là Chúa Xứ Thánh Mẫu, nói với các bô lão: “Tượng Bà đang ngự trên núi, bị giặc Xiêm phá hại, dân làng hãy đưa Bà xuống”. Dân làng kéo nhau lên núi, quả thật tượng Bà đang ngự gần trên đỉnh. Họ xúm nhau khiêng tượng xuống làng nhằm mục đích để gìn giữ và phụng thờ. Bao nhiêu tráng đinh lực điền được huy động, các lão làng tính kế để đưa tượng đi, nhưng không làm sao nhấc lên được dù pho tượng không phải là quá lớn, quá nặng. Các cụ bàn nhau chắc là chưa trúng ý Bà nên cử người cầu khấn. Quả nhiên bé gái hôm nọ lại được Bà đạp đồng mách bảo: “Hãy chọn 9 cô gái đồng trinh để đem Bà xuống núi”. Dân làng mừng rỡ tuyển chọn 9 cô gái dẫn lên núi, xin phép Bà được đưa cốt tượng xuống. Lạ thay, 9 cô gái khiêng bà đi một cách nhẹ nhàng. Xuống đến chân núi, tượng bỗng nặng trịch, các cô phải đặt xuống đất và không nhấc lên nổi nữa. Dân làng hiểu rằng Bà muốn ngự nơi đây nên tổ chức xin keo, được Bà chấp thuận và lập miếu thờ. Hôm đó là ngày 25-04 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm lễ vía Bà.

Một truyền thuyết khác kể rằng có một vị thần linh tự xưng là Bà Chúa Xứ Châu Đốc đã báo mộng cho dân làng: "Hãy chọn 9 cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam, đưa tượng ta về lập miếu thờ, ta sẽ phù hộ cho dân sống an lành và làm ăn phát đạt". Sau đó, 9 cô gái được chọn cử lên đỉnh núi tìm tượng đá và quả nhiên, họ đã gặp một tượng đá trong tư thế ngồi, mắt nhìn thẳng về phía trước, bèn khiêng về, kỳ rửa sạch sẽ và lập miếu thờ. Từ đó, hằng năm dân làng lấy ngày tượng Bà được "an vị" tại miếu làm ngày lễ Vía Bà.

Khảo cứu

 

Các nhà nghiên cứu phỏng đoán tượng Bà được tạc vào thế kỷ VI, theo mô típ tượng thần Vinus thường thấy ở các nước Lào, Campuchia, Ấn Độ. Thực chất, tượng Bà vốn là một pho tượng đá, thể hiện dáng hình một người đàn ông trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá. Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải. Tóc tượng uốn thành những búp xoăn, thả về phía sau. Trên mặt tượng có một vành ngấn, là nơi đặt mão lên đầu tượng. Trong vành ngấn này có những hoa văn hình móc câu, riêng ở phần vành nằm trước trán của tượng có một hình tròn, chung quanh là những hoa văn kiểu ngọn lửa. Trên cánh tay để trần của tượng có một vành đai, giống như cái vòng đeo tay. Toàn bộ dáng hình của pho tượng là dáng hình một người đàn ông tràn đầy sức sống, với bộ ngực căng nở và chiếc bụng phệ. Trên ngực của tượng có một vành đai như vòng kiềng, trước ngực là hình mảnh trăng lưỡi liềm khá rộng. Toàn bộ pho tượng cao chừng 1,25 m, được tạc liền một thớt đá cùng loại, với bệ tượng dày chừng 10 cm. Về trang phục, tượng được tạc trong tư thế đang vận một chiếc khố. Ở bắp cánh tay, gần bả vai của tượng, sát nách, nổi cộm một vòng đai có hình dạng như một chiếc vòng đeo tay. Ở cổ tượng nổi cộm một vòng đai hình vòng kiềng, chỗ vòng nằm ngay ngực khá to, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ xưa.

Nhà văn Sơn Nam từng viết: "Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miếu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó "Bà Chúa Xứ" là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy....."

Theo nhà khảo cổ học người Pháp, ông Malleret, trong thời gian tiến hành khai quật khu di chỉ Óc Eo từ năm 1942 đến năm 1944, ông có đến núi Sam nghiên cứu tượng Bà Chúa Xứ và cho biết rằng đây là loại tượng nam thần, được tạo theo dáng người ngồi nghỉ ngơi, vương giả, vật liệu bằng sa thạch, giá trị nghệ thuật cao. Năm 1989, một đoàn ngoại giao Ấn Độ có đến thăm vùng này, vào miếu Bà Chúa Xứ, họ rất ngạc nhiên khi được gặp tượng thần Shivalinga ở khu vực núi Sam trong danh xưng Bà Chúa Xứ.

Hàng năm, lễ hội “Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam” diễn ra từ ngày 23 đến 27-04 âm lịch. Hàng vạn người đổ về dự lễ và tham gia các trò vui như: hát bội, múa võ, ca nhạc ngũ âm, múa lân, đánh cờ...Phần lễ có những nghi lễ chính như sau:

- Lễ “Tắm Bà” (tương tự như lễ mộc dục ở ngoài Bắc): Được cử hành vào lúc 0 giờ ngày 24-04 âm lịch. Mở đầu lễ, 2 ngọn nến to được đốt sáng lên trong chánh điện. Ông lễ chánh bái nghi cùng với 2 vị bô lão, ban quản lý miếu niệm hương, dâng rượu và trà. Bức màn vải có viền ren lộng lẫy kéo ngang bệ thờ, che khuất khu vực đặt tượng, 9 cô gái trẻ được phân công trước bắt đầu vén màn tắm cho tượng Bà. Đầu tiên là cởi mũ, áo, khăn đai từ lớp ngoài vào trong để lộ toàn thân pho tượng. Những cô gái được phân công việc tắm Bà lần lượt nhúng từng chiếc khăn mới vào chậu nước thơm, vắt ráo rồi lau tượng nhiều lần. Sau đó, họ dùng nước hoa xịt khắp bức tượng rồi chọn bộ đồ mới đẹp nhất khoác lên bức tượng, thắt chặt đai, chít khăn, đội mão, gắn lại những ngọn đèn màu trang trí như cũ. Lễ tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó bức màn ngăn được kéo lên để cho khách tự do chiêm bái, dâng hương, hoặc xin lộc Bà. Phần Lễ Tắm Bà kết thúc…Nước tắm cho Bà còn lại sẽ đem hoà trong 2 thùng nước lớn để phân phát cho du khách trẩy hội.

- Lễ Thỉnh sắc: cử hành vào khoảng 16h chiều ngày 25, một đoàn người gồm các bô lão trong làng quần áo chỉnh tề, tiến từ miếu Bà sang lăng Thoại Ngọc Hầu để thỉnh sắc (thật ra, đây là lễ rước bài vị, vì sắc đã không còn). Dẫn đầu có đội múa lân, các học trò lễ tay cầm cờ phướn đi hầu phía trước và sau chiếc kiệu sơn son thiếp vàng gọi là long đình. Đến điện thờ, ông chánh bái làm lễ niệm hương, rồi thỉnh bài vị đưa lên kiệu trở về miếu Bà. Ba chiếc bài vị mang tên Thoại Ngọc Hầu và tên bà vợ chánh Châu Thị Tế, bà vợ thứ Trương Thị Miệt được đặt trên bàn thờ ở chánh điện. Bài vị thứ tư mang tên Hội đồng, ghi công lao các quan quân đã theo Thoại Ngọc Hầu xưa kia, được đặt riêng ở bàn thờ phía trước.

- Lễ Túc yết: được tổ chức lúc 0 giờ đêm 25 rạng 26-04 âm lịch, gồm có hai phần: nghi thức cúng tế và phần xây chầu. Lễ vật dâng cúng gồm có: một con heo trắng, một đĩa huyết heo có kèm theo nhúm lông nhỏ. Một mâm trái cây, trầu cau, gạo, muối. Sau ba hồi chiêng, trống, nhạc lễ nổi lên, lễ dâng hương, dâng trà bắt đầu. Nghi thức cúng tế kết thúc bằng động tác của ông chánh tế đốt bản văn tế cùng giấy vàng bạc. Tiếp theo nghi thức cúng tế là phần xây chầu được tiến hành ở nhà võ ca. Sau phần cầu nguyện của ông Chánh bái, xin cho mưa thuận gió hoà, đất đai phì nhiêu, mùa màng bội thu, dân chúng khỏe mạnh, yên vui, các loài quỷ dữ bị tiêu diệt, lễ Xây chầu bắt đầu bằng ba hồi trống lệnh. Sau đó, chiêng trống rộ lên, chương trình hát bội bắt đầu.

- Lễ Chánh tế: được tổ chức vào tờ mờ sáng ngày 27, gần giống như nghi thức cúng Túc yết.

- Lễ Hồi sắc: cử hành vào khoảng 15h ngày 27-04, đoàn hành lễ sẽ rước bài vị Thoại Ngọc Hầu và nhị vị phu nhân từ miếu trở về Sơn Lăng. Kết thúc lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.

Lăng Thoại Ngọc Hầu còn gọi là Sơn Lăng, nằm trong quần thể di tích núi Sam, trước thuộc xã Vĩnh Tế, nay thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, cách miếu Bà Chúa Xứ chỉ khoảng 10 - 15 phút đi bộ, cách trung tâm thị xã Châu Đốc khoảng 5 km. Lăng nằm tựa lưng vào núi Sam, trông ra quốc lộ 91. Đây là nơi an nghỉ của Thoại Ngọc Hầu - một danh thần văn võ song toàn thời nhà Nguyễn và cũng là một trong số ít những công trình kiến trúc tiêu biểu thời phong kiến còn lại ở tỉnh An Giang. Di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia năm 1997.

Lăng được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ XIX, trước khi Thoại Ngọc Hầu mất. Lăng do chính tay Thoại Ngọc Hầu chọn địa điểm và coi sóc việc xây dựng. Năm 1821, ông đến Châu Đốc nhận nhiệm vụ án thủ Châu Đốc đồn, kiêm quản quân vụ trấn Hà Tiên, chỉ mấy tháng sau người vợ thứ là Trương Thị Miệt qua đời, đã được ông đem an táng tại đây. Vào năm 1826, vợ chính là Châu Thị Tế mất, cũng được ông đem an táng kề cận, vị trí chính giữa ông dành cho mình.

Lăng tọa lạc trên thềm cao với 9 bậc thang xây bằng đá ong. Một loại đá phải vận chuyển bằng ghe từ Biên Hoà qua nhiều sông rạch rồi rẽ vào kênh Vĩnh Tế về núi Sam. Chỗ ghe neo lại để đưa đá lên được gọi là Bến Vựa, Nhà Neo, còn tồn tại cho đến bây giờ. Toàn bộ khu lăng tẩm kết thành một khối kiến trúc hài hòa, bao bọc xung quanh là bức tường dày khoảng 1 m. Hai cổng vào lăng có vòm cong hình bán nguyệt, cao to, cổ kính. Hai bên trụ cổng có chạm khắc câu đối.

Khu mộ

 

Bước vào cổng là một khoảng sân rộng. Trước sân, ngay giữa hai cổng là long đình. Trước long đình có tượng hai con nai và hai con hổ đắp bằng xi măng. Bên trong long đình đặt Bia Thoại Sơn - sao lại bia chính ở núi Sập. Bia làm bằng đá sa thạch có khắc 730 chữ, được dựng vào năm 1824.

Kế đến là khu mộ với nhiều hình dáng khác nhau. Ở trung tâm là 3 ngôi mộ chính bao gồm: mộ của Thoại Ngọc Hầu nằm giữa; bên phải là mộ của bà chánh thất phu nhân Châu Thị Tế; bên trái, lùi xuống một chút là mộ của bà thứ thất phu nhân Trương Thị Miệt. Trên gò mộ ông, đặt một tấm bia ghi chức Thống chế, Trấn thủ Hà Tiên, Trấn thủ Châu Đốc, Bảo hộ Cao Miên quốc, Đô thống Thoại Ngọc Hầu. Phần mộ của nhị vị phu nhân cũng có dựng bia ghi năm sinh và năm mất của các bà. Một tấm bia khác do Thoại Ngọc Hầu sai khắc bài văn tự mình thảo ra, trong đó có nói đến việc xây dựng con đường từ Châu Đốc đi núi Sam khởi đầu vào năm Bính Tuất (1826) và hoàn thành vào năm Đinh Hợi (1827). Hầu hết văn tự trên các bia đã bị phai mờ, không còn nhận rõ chữ

Bên phải 3 ngôi mộ chính là 14 ngôi mộ khác, được đúc thành 4 hàng trên dưới nối tiếp nhau. Hàng thứ nhất có 3 ngôi mộ, và chỉ 3 ngôi mộ này có bia, nhưng nay chữ không còn đọc được. Hàng thứ hai có 4 ngôi mộ. Hàng thứ ba có 5 ngôi mộ. Hàng cuối cùng có 2 ngôi mộ nhỏ. Phần lớn các mộ này có hình bầu dục, còn lại là hình voi phục, hình trái đào. Tương truyền đây là mộ của những người trong một đoàn hát bội được Thoại Ngọc Hầu nuôi trong gia đình. Sau khi ông qua đời, họ đã dùng độc dược để quyên sinh, một là để trả ơn của ngài, hai là để theo ngài về bên kia thế giới, tiếp tục phục vụ cho ngài. Hai ngôi mộ nhỏ ấy là hai đứa bé, con của đào kép hát. Do không biết rõ từng người chết, nên người xây mộ chỉ có thể dùng tư duy nghệ thuật để thể hiện, như đắp trái đào tượng trưng đó là mộ của cô đào hát chẳng hạn.

Ở sân lăng vẫn còn tượng một con ngựa chiến và một người lính hầu to bằng người thật, trong tư thế đứng chờ, sẵn sàng tung vó. Sát ngoài bức tường đá xám to cao, kiên cố của khu lăng là 50 nấm mồ vô chủ với những kiến trúc truyền thống nắp tráp, ngưu miên, voi phục, được xây dựng bằng chất liệu vôi và ô dước. Theo lời một vài bô lão trong làng, thì đây là nơi cải táng những dân công đã chết trong khi theo Thoại Ngọc Hầu khai hoang lập ấp và đào kênh Vĩnh Tế. Tương truyền, sau khi kênh Vĩnh Tế được đào xong, ông cho người đi dọc theo hai bên bờ kênh tìm kiếm những nấm mồ các binh dân tử nạn chôn tạm rồi tiến hành cải táng tập thể. Tất cả được an vị bên triền núi Sam, ngay cạnh khu đất mà ông đã chọn làm sinh phần cho mình. Sau đó, vào ngày lành tháng tốt, Thoại Ngọc Hầu đã “thừa đế linh” làm chủ tế buổi lễ tế các cô hồn tử sĩ tử nạn trong việc đào kênh. Dịp này ông đã tuyên đọc bài văn tế vô cùng thống thiết, nhan đề Tế nghĩa trủng văn.

Dưới đây là bản dịch theo thể song thất lục bát từ nguyên văn chữ Hán:

Trời xanh thẳm mồ hoang lợp lợp

Trăng soi nhoà mấy lớp bia tàn!

Mây che bao nấm đất vàng,

Sương sa sao giọi gò hang đổi dời!

Máy tạo thể trò chơi lũ trẻ,

Bóng quang âm như kẻ qua đường.

Lúc sanh, khi lớn không tường,

Là trai hay gái khó tường họ tên?

Hiền hoặc dữ, hư nên nào rõ?

Cha anh đâu, còn có cháu con?

Việc người ta biết chưa tròn,

Xưa làm chi đấy, hãy còn nghĩ suy!

Đào kinh trước mấy kỳ khó nhớ,

Khoác nhung y chống đỡ biên cương.

Bình man máu nhuộm chiến trường.

Bọc thây da ngựa gửi xương xứ này.

Quê cách trở lấy ai hộ tống,

Sống làm binh, thác chống quỷ ma.

Than ôi ai cũng người ta,

Mà sao người lại thân ra thế này!

Mồ ba thước gửi thây cõi lạ,

Lễ thanh minh ai sá quét cho,

Ai trừ gai gốc lan bò,

Gió dồn mưa dập làm cho mòn lần.

Ngày viên huyệt hú rân thê thảm,

Đêm tử quy ảm đạm khóc than,

Mênh mông đất rộng mây ngàn.

Vật vờ lửng đửng hồn an nơi nào?

Móc đỡ dạ mây bao xác ốm,

Đèn ma trơi lửa đốm lập loè,

Bờ sông đất trở trời che,

Vì ai cảnh vật cũng tê tái lòng!

Nếu không gặp được ông Tây Bá,

 Nắm xương khô tan rã khắp đồng.

Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,

Dời người an táng nằm chung chốn này.

Chọn đất tốt thi hài an ổn,

Cảnh trời thanh vui nhộn cùng nhau.

Hàng năm cúng tế dồi dào,

Tràn trề lễ trọng dám nào để vơi!

Ơn chúa rộng cho người chín suối,

Được hưởng nhờ đền buổi gian lao.

Mộ phần xa cách biết bao,

Làng quê xiêu lạc lòng nào ta an.

Mắt chạm thấy lòng càng tưởng nhớ,

Dầu đưa tay vớt đỡ được đâu.

Tỏ lòng ghi nhớ ơn sâu,

Điếu người thiên cổ mấy câu ca rằng:

Đỉnh núi Sam gió xuân thổi ngót

Triền núi Sam móc ngọt đượm nhuần

Hợp nơi mồ vắng reo mừng,

Hồn ơi! Hồn hỡi! Mưa đừng luyến xa!

Cỡi văn báo hay là xe ngựa,

Cảnh chia ly gợi ứa lệ hồng,

Phương Tây thoả dạ ruổi dong,

Núi Sam sừng sững như mong hồn về!

Đền thờ

 

Đền thờ nằm ở phía sau khu mộ, dựa lưng vào núi Sam. Muốn vào đền, phải đi lên những bậc thềm. Đền thờ có ba gian, gian giữa gồm hai phần, phía trước có hương án tôn tượng ngài. Tượng đúc bằng đồng, cao khoảng 2 m với đầy đủ lễ phục. Phía sau hương án là bàn thờ. Gian bên phải để những nghi trượng, võng lọng…Gian bên trái dành cho người chăm lo hương hỏa của đền thờ. Ngoài ngôi đền này, Thoại Ngọc Hầu còn được thờ ở một số nơi khác như: đình Vĩnh Tế, đình Châu Phú. Ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang và quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng cũng có đền thờ ông.

Hằng năm, đến ngày 06-06 âm lịch, nhân dân quanh vùng đến làm lễ tưởng niệm ông. Ngoài ra, trong chương trình lễ hội Vía Bà Chúa Xứ cũng có nghi thức thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, các vị phu nhân và tướng lĩnh từ lăng về miếu. Đoàn thỉnh sắc có đội lân đi trước, tiếp theo là chiếc kiệu sơn son thiếp vàng do 4 người khiêng. Hai hàng học trò đứng lễ tay cầm cờ phướn suốt đoạn đường lên lăng Thoại Ngọc Hầu. Lễ vật dâng cúng gồm một con heo trắng làm sẵn (chưa nấu chín), một đĩa đựng huyết, một ít lông heo gọi là “mao huyết”, một mâm xôi, một mâm trái cây – trầu cau và một đĩa gạo – muối. Đúng giờ hành lễ, ban quản trị đốt hương đèn nghi ngút, dâng tuần trà rượu và đọc văn tế, sau đó đốt đi cùng với một ít vàng mã, con heo cũng được lật trở lại. Kết thúc lễ hội Vía Bà là nghi thức rước sắc Thoại Ngọc Hầu cùng chư vị về lại lăng.

Ca dao

 

Đi ngang qua cảnh núi Sam

Thấy lăng ông lớn hai hàng lụy rơi.

Ông ngồi vì nước vì đời

Hy sinh tài sản không rời nước non.

Hay:

Nước kênh Vĩnh Tế lờ đờ

Nhớ ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an.

Chùa tọa lạc dưới chân núi Sam, phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Tây An là ngôi chùa Phật thuộc dòng thiền Lâm Tế, là nơi trụ trì của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Sau khi khai sáng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ở Long Kiến (nay là xã Long Giang, huyện Chợ Mới), thầy về tu tại đây cho đến ngày viên tịch. Hằng năm đến ngày 12-08 âm lịch là ngày giỗ Phật Thầy Tây An, dân chúng đến chùa hành hương và lễ bái đông đúc.

Sách Đại Nam thống nhất chí viết về chùa: “Ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên Tổng đốc Doãn Uẩn, vào năm Thiệu Trị 7 (1847) đã cho xây dựng ngôi chùa và đặt tên là Tây An. Chùa ở bên sườn núi, cảnh vật u tịch, cổ thụ sum suê cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy”.

Ngày nay, chùa Tây An được biết đến như là một công trình kiến trúc đẹp, đồ sộ, nổi bậc trong quần thể di tích núi Sam. Cùng với miếu Bà Chúa Xứ, lăng Thoại Ngọc Hầu, chùa Tây An là một trong ba địa điểm được tham quan nhiều nhất khi du khách đến núi Sam. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia.

Lịch sử

 

Chùa do một vị quan triều Nguyễn là Tổng đốc Nguyễn Nhật An xây dựng vào năm 1820. Khi được triều đình phái đi sứ Cao Miên, ông đã nguyện rằng nếu chuyến đi thành công, khi về ông sẽ dựng một ngôi chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Chùa được dựng bằng tre, ông thỉnh vị hoà thượng Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tịnh đến trụ trì.

Năm 1841, giặc Xiêm xâm lược nước ta, chùa bị hoả thiêu. Năm 1845, Doãn Uẩn tiến binh đánh đuổi giặc, được vua phong làm Tổng đốc An Hà. Tương truyền, sau một ngày kinh lý mỏi mệt, đêm không ngủ được, Tổng đốc đứng trên tháp canh của thành An Giang dõi mắt nhìn ra xa, thấy một vị Bồ tát cưỡi một vầng mây ngũ sắc từ chân núi bay lên. Từ đó, ông cho dựng lại chùa tại vị trí ấy. Chùa mới dựng bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói. Đến năm 1861, hoà thượng Thích Nhất Thừa cho trùng tu lại chánh điện và hậu tổ. Đến năm 1958, hoà thượng Thích Bửu Thọ (1893 - 1972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chánh điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.

Kiến trúc

 

Chùa Tây An nằm trên lưng chừng núi Sam, với lối kiến trúc độc đáo, mang phong cách Ấn Hồi, kết hợp với nghệ thuật xây dựng chùa cổ của người Việt. Chùa có ba tòa nhà, nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hoà, đẹp mắt. Du khách lên chùa phải qua 32 bậc tam cấp giữa vườn cây xanh mát. Trước chùa có 3 vọng cửa: cửa giữa kiểu Tam quan, 2 cửa bên là Đông môn và Tây hộ. Cửa Tam quan có bảng đề tên chùa bằng chữ Hán: 西安寺 - Tây An Tự, đôi câu đối trên hai cột chính của cửa có nội dung như sau:

安寺古今同讚仰

法門出入普弘通

Phiên âm:

An tự cổ kim đồng tán ngưỡng

Pháp môn xuất nhập phổ hoằng thông

Dịch nghĩa:

Nơi an tự xưa nay cùng tín ngưỡng giúp đời

Chốn pháp môn luôn rộng mở đón người qua lại

 

Trước cửa Tam quan, có tượng mẹ bồng con miêu tả tích xưa Quan Âm Thị Kính. Pho tượng diễn tả tư thế của người phụ nữ đang bồng con, nét mặt của pho tượng cho thấy đây là một phụ nữ hiền thục, đượm vẻ buồn bã, ẵm đứa bé kháu khỉnh. Đường nét chạm khắc của pho tượng mềm mại, sinh động. Theo những nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật thì loại tượng này xuất hiện ở Việt Nam tương đối muộn, niên đại vào khoảng thế kỷ XVIII hay XIX về sau. Hình thức pho tượng có thể xem là việc đổi mới của tượng Quan thế Âm Tọa Sơn, tuy nhiên, khi thờ phụng thì hai tượng được bố trí đăng đối nhau. Giữa sân chùa có một cột phướn cao 16 m. Ngay bậc thềm lên chánh điện có tượng hai con voi đen và trắng được gọi là hắc tượng và bạch tượng. Bạch tượng có 6 ngà, hắc tượng có 2 ngà.

Chánh điện

- Kiến trúc: là tòa nhà chính giữa, cao 18 m, lợp ngói đại ống, cột bằng gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Ngay mặt tiền, giữa chánh điện có một tháp cao, mái hình tròn, đỉnh nhọn mang đậm phong cách kiến trúc Ấn Hồi. Trong tháp tôn trí tượng Phật Thích Ca, hai bên là lầu chuông và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, quy, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).

- Điện thờ:

Trong chánh điện có hàng trăm bức tượng Phật, đa số được tạc bằng gỗ  quý. Mỗi tượng là một tác phẩm nghệ thuật cao có ý nghĩa thực tế trong cuộc sống và triết lý Phật giáo. Các câu đối trong chùa được sơn son thiếp vàng và chạm khắc rất công phu, lộng lẫy.

Từ ngoài cửa đi vào, các pho tượng được bài trí theo từng lớp. Chùa thờ đức Phật A Di Đà cho nên lớp trong cùng cao nhất là tượng đức A Di Đà; sau đó lần lượt là các tượng Phật khác. Ngay nơi cửa ra vào, bên trái có bàn thờ cô Hiên mà người dân trong vùng thường gọi là “Phật Cô Hai”; bên phải là bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ; ở chính giữa thờ Thất Thánh có chúa Tiên mặc áo xanh, chúa Ngọc mặc áo nâu đứng hầu.

Như thế, về phương diện tín ngưỡng, chùa Tây An là sự hỗn dung phối tự với nhiều tượng thờ của các tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Có thể thấy ngay sự hiện diện của một tín ngưỡng trong dân gian: đó là tín ngưỡng thờ Mẫu. Việc thờ Mẫu gắn liền với thờ Phật là trường hợp bình thường trong nhiều chùa chiền, phù hợp với nhu cầu tín ngưỡng bình dân. Tuy nhiên, ở chùa Tây An, tất cả tượng liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu, như bà Chúa Tiên, bà Chúa Ngọc, được thờ trong cùng một gian với các tượng Phật. Kiểu dáng bày trí này cho thấy rõ mô thức “tiền Mẫu, hậu Phật” (phía trước thờ Mẫu, phía sau thờ Phật), khác với nhiều ngôi chùa miền Bắc (tiền Phật, hậu Mẫu).

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: sự bày trí tượng thờ trong chánh điện chùa Tây An đã chứng tỏ sự hội nhập giữa tín ngưỡng thờ Mẫu đan xen giữa Đạo giáo và Phật giáo. Mặt khác, trong chánh điện còn có nhiều loại tượng. Từ tượng Thập Bát La Hán cho đến các loại tượng Tiên, tượng Thánh của Đạo giáo với đủ các chất liệu, kích cỡ khác nhau: lớn có, nhỏ có, bằng gỗ có, bằng đá có, bằng xi măng có, bằng đồng cũng có. Tính chung toàn bộ điện thờ có trên 200 pho tượng. Những nhà nghiên cứu nghệ thuật thường ca ngợi nghệ thuật tạo hình của những pho tượng gỗ của thế kỷ thứ XIX, mà không một ngôi chùa nào tại An Giang có đầy đủ những thể loại đa dạng và sinh động như thế.

Phần sau của chánh điện là nơi thờ các vị sư trụ trì đã viên tịch. Trong đó có tượng hoà thượng Thích Bửu Thọ - người có công lớn trong việc trùng tu chùa và là vị sư trụ trì lâu năm nhất - được tạc sinh động như người thật, tay cầm gậy ngồi trên bàn viết. Theo tài liệu truyền lại, các vị sư trụ trì chùa Tây An theo thứ tự là: Hải Tịnh (Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (Nguyễn Trạng Nghiêm), Thuần Hậu (Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (Ngô Văn Hòa), Bửu Thọ (Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (Hồ Thạch Hùng), Định Long (Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (Trần Văn Cung).

Các công trình khác

 

Bên phải chánh điện là chùa Địa Tạng, thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát. Sau chùa Địa Tạng là khu bảo tháp gồm 5 ngôi, nơi an táng các vị trụ trì đã viên tịch. Bên trái là dãy nhà sinh hoạt rộng rãi, khang trang, phía trước đặt tượng Quan Âm. Phía sau chùa, chếch lên triền núi có ngôi mộ Phật thầy Tây An được xây dựng khang trang, có hàng rào bao bọc và miếu thờ riêng. Mộ này không đắp nấm, không lớn, bằng mặt đất, trồng hoa cúc và hoa mười giờ. Mộ được trùng tu vào năm 1936. Năm 1957, hoà thượng Thích Bửu Thọ xây dựng long đình trên đầu ngôi mộ để thờ Phật. Năm 1985, Ban Quản Trị chùa Tây An đã xây thêm cổng tam quan trước ngôi mộ Phật thầy. Bia mộ ghi rõ năm sinh, năm mất, pháp danh, pháp hiệu, thuộc dòng Lâm Tế đời 38.

           

Miếu thờ Ông nghèTrương GiaMôtrên đỉnhnúi Sam,thịxã Châu Đốc,tỉnh AnGiang, nằm cạnh di tích Pháo Đài.

Trương Gia Mô là một nhàNho yêu nước, sinh tạitỉnh BếnTre, làm chức Thừa phái Bộ Công trong triều đình Huế. Khi Pháp xâmlược nước ta, ông dâng lên triều đình bản điều trần 5 điều cải tiến xã hội,nhưng không được chấp thuận, ông bèn cáo lão từ quan.

Theo như ghi chép củanhiều tài liệu, ông là bạn thân của Phan Chu Trinh vàNguyễn SinhSắc, có công giới thiệu Nguyễn Tất Thành vào dạy học ởtrườngDục Thanh. Năm 1910, ông cùng Nguyễn Tất Thành vàoSài Gònvà ởluôn tại đó.

Do có tư tưởngchống Pháp nên ông bị truy lùng gắt gao phải phiêu bạt khắp nơi rồi đếnnúi Sam, Châu Đốc. Bịtruy bức, ông đã lên Pháo Đài và nhảy xuống vực thẳm vào đêm ngày02-11 âm lịch năm 1929. Nhân dân đã an táng thi hài ông dưới chân núi. Năm 1994,Ban quản trị di tích Núi Sam đã dựng bia kỷ niệm và lập miếu thờ trên đỉnh núi,nơi ông nhảy xuống.

Núi Cấm

Núi Cấm (còn gọi là Thiên Cấm Sơn), một ngọn núi cao nhất, lớn nhất nằm trong dãy Thất Sơn hùng vĩ thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Cách Trung tâm TP Long Xuyên khoảng 90km theo Quốc lộ 91 rẽ qua tỉnh lộ 948. Núi Cấm uy nghi, hùng vĩ mọc lên giữa vùng Đồng bằng sông Cửu Long, núi có độ cao 710m từ trên Vồ Bồ Hong nhìn xuống chùa Phật Lớn (thuộc ấp An Bình, xã An Hảo), du khách thấy như một lòng chảo lớn bao quanh bởi các ngọn núi trập trùng thuộc Thiên Cấm Sơn như: Võ Đầu, Vồ Bò Hong, Vồ Thiên Tuế… Với độ cao và địa hình như vậy Núi Cấm được ví như một Đà Lạt của Đồng bằng sông Cửu Long. Vì nơi đây có khí hậu mát mẻ quanh năm, cũng nhiều thắng cảnh thiên nhiên độc đáo, hiếm có thu hút khách du lịch, hành hương với nhiều huyền thoại, truyền thuyết đầy lý thú và tình người.

Vì sao núi này được gọi là Núi Cấm? Có hai giả thuyết được dân gian truyền lại là: Trước kia Núi Cấm rất hiểm trở, nhiều thú dữ không ai dám tới trừ những nhân vật siêu hình được thêu dệt một cách huyền bí, ngự trị trên cao. Nên vô tình người dân quanh vùng tự cấm mình không được xâm phạm đến khu vực đó. Lại có truyền thuyết ngày xưa Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi đánh phải chạy lên núi trốn nên truyền lệnh không cho bất cứ ai lên núi và từ đó núi có tên là Núi Cấm. Dưới chân núi về phía đông là khu du lịch Lâm Viên - Núi Cấm có diện tích khoảng 100ha có các dịch vụ giải trí đa dạng, có nhà hàng Kaolin phục vụ các món ăn đặc sản Bảy Núi.

Từ Lâm Viên có lối mòn lên núi ta ghé tắm suối Thanh Long, một con suối thiên nhiên, thơ mộng, rồi tiếp tục cuộc hành trình lên đến ngã ba là du khách đã bước vào khu “Cao nguyên Núi Cấm”, ta quẹo phải khoảng 1 km là đến Vồ Thiên Tuế, tiếp theo trở về ngược hướng trái theo đường dốc lên chùa Phật Lớn, trên đường đi ta có thể ghé thăm Động Thủy Liêm, qua Ô Cát thăm Vồ Bạch Tượng (một tảng đá lớn có hình con voi trắng đứng uy nghi bên sườn núi). Tiếp đến là chùa Phật Lớn, chùa Vạn Linh, rồi đến Vồ Bò Lớn, chùa Vạn Linh, rồi đến Vồ Bò Hong đỉnh cao nhất của Núi Cấm và cũng là đỉnh cao nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tại đây nếu trời xanh ta có thể nhìn thấy tận vùng biển Hà Tiên

Khu du lịch Đồi Tức Dụp

Địa chỉ : Xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang

Điện thoại : 076. 3771003     Fax: 076. 3771061

Email : [email protected]

 Website : tucduphill.com

      Đồi Tức Dụp là một ngọn đồi của núi Cô Tô thuộc xã An Tức, huyện Tri Tôn - ngọn núi có tên gọi khá hoa mỹ "Phụng Hoàng Sơn" nằm trong dãy Thất sơn hùng vĩ.

      Đồi Tức Dụp cao 216 mét, diện tích trên 2km2, có chu vi hình cánh cung dài khoảng 3km. Trong thời kỳ kháng chiến, đồi Tức Dụp nằm ở ngã ba hành lang tuyến giao liên, hậu cần, chuyển quân của các khu 7, 8 và 9 từ Trung ương Cục miền Nam để đến miền Trung và Tây Nam bộ. Tức Dụp dựa lưng vào núi Tô, nằm nhô ra lộ làng Ô Lâm qua An Tức, cách huyện Tri Tôn 9km về phía Nam. Trước đây, nơi này địa hình rất hiểm trở, được chọn làm vị trí tiền tiêu của núi Tô từ hướng đồng tràm Hà Tiên đi lên.

      Ngọn đồi tuy nhỏ nhưng được thiên nhiên cấu trúc rất độc đáo, bao gồm hệ thống nhiều hang sâu, động lớn, ngõ ngách chằng chịt như mạng nhện bởi các tảng đá lớn/nhỏ chồng chất lên nhau, người dân địa phương gọi là Lò Ảng. Vì thế, qua hai cuộc kháng chiến chống pháp và Mỹ, Tức Dụp được sử dụng làm căn cứ địa để hoạt động đấu tranh chống giặc.

      Nơi đây, được các chiến sĩ cách mạng sử dụng để hội họp, làm việc, chiến đấu và sinh hoạt như : Hội trường C6, cơ quan Tỉnh ủy, Quân y, Phụ nữ, Mặt trận, Thông tin, Huyện đội, kho cơm khô, ... Cách đây gần 40 năm các cán bộ và chiến sĩ cách mạng đã từng sống, chiến đấu, sinh hoạt và gắn cả cuộc đời minh cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

      Chính vì thế Tức Dụp nghiểm nhiên trở thành căn cứ quân sự, khi tịnh có thể che dấu và làm nơi trú ẩn của hàng trăm chiến sĩ, khi động có thể bất thần xông ra tiêu diệt địch.

      Tức Dụp đã chiến đấu hào hùng giữ vững ngọn đồi qua từng trận đánh, đặc biệt là trận chiến đấu 128 ngày đêm liên tục vào năm 1968 - 1969, đập tan âm mưu càng quét chiếm lấy ngọn đồi của địch, tiêu diệt gần 2.700 tên, phá hủy 11 xe thiết giáp, 9 khẩu pháo loại 105 li, bắn rơi 2 máy bay ném bom, 3 trực thăng và ta tịch thu nhiều loại súng đạn. Địch đã chuốt lấy thảm bại với cái giá phải trả cho chiến dịch tại ngọn đồi này trên 2 triệu đô la mỹ, cũng từ đó cái tên "Đồi 2 triệu đô la" đã được ghi vào lịch sử.

      Tức Dụp kể từ ngày 01/4/1985 là một di tích lịch sử cách mạng do Bộ Văn hóa công nhận, một chiến tích oai hùng vẫn vẹn nguyên những dấu tích sống động, xứng đáng nhận 8 chữ vàng do chính phủ trao tặng "kiên cường bám trụ, giữ vững núi Tô".

      Đồi Tức Dụp ngày nay được giữ gìn, tôn tạo và mở rộng để trở thành danh tích du lịch đón khách đến tham quan, tìm hiểu những bí mật bên trong ngọn đồi, thư giãn cùng cảnh quan đẹp, không khí trong lành, vui chơi giải trí, leo núi dã ngoại, xem thú hoang dã, ăn uống đặc sản miền quê, nghe đờn ca tài tử...

      Đến với Tức Dụp, quý khách được ngắm nhìn hàng cây xanh tươi tốt, đồi vạn tuế xanh um, công viên hoa kiểng với nhiều loại hoa đa dạng sắc hương, lắc lư trước gió như đang vẫy tay đón chào du khách. Quý khách tham quan : Nhà truyền thống trưng bày hình ảnh, phương tiện vũ khí và những nhân chứng gắn liền với ngọn đồi; phòng Sa Bàn để nghe giới thiệu, tái hiện diễn biến trận đánh 128 ngày đêm; tham quan khu vườn thú, đặc biệt là loài Đà Điểu Châu Phi;  Đền tưởng niệm để thắp một nén hương kính dâng đến hương hồn các liệt sĩ đã quên mình để bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh đó du khách tìm cảm giác mạnh hãy đến khu giải trí thể thao quốc phòng để bắn bia bằng đạn thật.

   

      Quý khách đừng quên ghé vào Nhà hàng để thưởng thức đặc sản mang hương vị đồng quê thất sơn. Đặc biệt, vào các dịp lễ, tết du khách còn được tham gia nhiều trò chơi dân gian vui nhộn mang sắc thái văn hóa dân tộc, xem ca múa nhạc tạp kỷ, thưởng thức chương trình đờn ca tài tử Nam bộ, những tiết mục "chuyện lạ Việt Nam", biểu diễn lân sư rồng,... cùng nhiều trò vui chơi giải trí hấp dẫn khác.

      Đội ngũ nhân viên của Khu du lịch Tức Dụp với phong cách phục vụ lịch thiệp, ân cần, hy vọng sẽ mang đến cho quý khách chuyến tham quan thoải mái và bổ ích.

 

Vùng đất ấm mặn này sở hữu hệ thống hang động, đảo lớn, đảo nhỏ thuộc loại đẹp nhất nước

Về tên gọi Mũi Nai

Từ thuở hồng hoang, vùng đất này là mênh mông nước và mênh mông trời. Có một chú nai con thuộc dòng dõi nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say cảnh đẹp của biển trời Hà Tiên, chú không về kịp giờ đóng cửa rừng. Buồn bã, chú nai quay lại bờ biển, thơ thẩn đi dạo. Nhưng biển đêm không hề thơ mộng êm ả vào mùa gió chướng. Gió nổi, sóng xô ầm ầm. Chú nai con gục ngã giữa biển. Ngày nay, khi tản bộ lên đỉnh cao của phía đối diện, bạn sẽ được nhìn ngắm toàn cảnh bãi biển. Ngọn núi phía xa xa vẫn mang hình chú nai con đang uống nước.

Điểm độc đáo đầu tiên và dễ nhận ra nhất của bãi Mũi Nai là có điểm du lịch nổi tiếng khác xung quanh. Bao giờ cũng vậy, sau khi đắm mình trong làn nước mát, say nồng với làn gió biển, những người mang trong người “máu đi” lại thấy… chán. Bởi thật ra, bất kỳ bãi tắm nào cũng có chừng ấy chuyện: nước biển, cát và gió. Nhưng những ai đến Mũi Nai lại có thể tha hồ khám phá những danh thắng nằm quanh quất đâu đấy. Phía bên này là Kim Cương động (Thạch Động) huyền ảo trốn trong mây với tiếng đàn Thạch Sanh văng vẳng. Kia là Hòn Chông đá dựng, uy nghi huyền sử Hòn Phụ Tử đánh cá sấu, lung linh hệ thống thạch nhũ có hình đủ dạng. Chùa Hang cổ kính, tan tiếng chuông trong chiều lộng gió… Quá nhiều điều hấp dẫn chờ đón du khách khám phá sau khi tắm biển thỏa thích.

Cát biển Mũi Nai màu nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào cát, một màu đen nhánh hiện lên thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn. Mà bùn lại là một chất dưỡng da tuyệt hảo. Một ngày nằm đắp cát trên biển, bạn chẳng những có một làn da rám nắng cực kỳ hợp với mốt mà lại được “tắm bùn” miễn phí, tha hồ mà sảng khoái.

Bao nhiêu năm nay, Mũi Nai không phải chứng kiến sự bi thương do biển mang đến. Vì biển nơi đây thoai thoải và khá nông, rất an toàn để tắm. Đội ngũ bảo vệ cũng không cho phép những người nồng nặc mùi men rượu xuống tắm. Thêm vào đó, khu du lịch Mũi Nai đã xây dựng một công viên nước mini ngay sát biển dành cho trẻ em. Các bé sẽ tha hồ nghịch sóng, chơi cát, trượt nước mà phụ huynh chẳng phải lo ngại gì cả.

Mũi Nai luôn tự hào về vấn đề an ninh. Các gánh hàng rong, vé số hay những người ăn mày không được phép xuất hiện trong khuôn viên bãi tắm. Hành lý, tư trang của khách luôn được đặt trong tình trạng “cấm sờ vào hiện vật”. Đó là yếu tố quan trọng giúp bạn yên tâm khi tắm biển.

Cạnh bãi tắm là một cái chợ nhỏ, bán đủ sản vật biển khơi. Chúng được giữ tươi sống tuyệt đối cho đến khi khách hàng chọn mua. Nhưng thông thường, du khách thích chọn cách ngồi… chờ. Chờ đến chiều, các ghe đánh cá nho nhỏ trở về. Cá, mực, tôm, sò không nhiều lắm, nhưng rất rẻ và rất ngon. Dải đất này được sự ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên theo một cách nào đó, nên có những dòng hải sản di cư đi ngang qua. Không những vậy, Mũi Nai còn sở hữu món nước thốt nốt đặc trưng của vùng. Ngọt và thơm đến tận đáy lòng

Hoang sơ biển vắng, một sự thư giãn tuyệt vời

Mũi Nai có một đặc trưng là lạ: người địa phương "nhường" hẳn bãi tắm này cho du khách. Thêm vào đó, những người đến Hà Tiên thường không phải để… tắm biển. Chính vì thế, dù thật nên thơ, Mũi Nai vẫn vắng. Không những vắng, biển lại rất hoang sơ. Bàn tay con người cải tạo dường như không lưu lại nhiều dấu vết.

Vắng và tự nhiên, điều này trở thành một nét riêng quyến rũ những ai muốn về với thiên nhiên, đến với Mũi Nai. Nhưng muốn tận hưởng cảm giác lãng mạn của biển, bạn nên chờ đến buổi chiều. Cứ ngồi xoải chân trên cát, im lặng nghe tiếng lao xao của gió vờn trên sóng, của bầy hải âu chao lượn cuối trời mới thấy hết nét thi vị của biển. Rồi hoàng hôn xuống dần, đỏ ối một vùng trời.

Có ba sự lựa chọn cho bạn lúc này: Một là tiếp tục ngồi lặng yên, nếu là người lãng mạn. Hai là ôm thật sát người yêu vào lòng nếu đang ngồi cạnh nhau. Ba là tìm một cái... võng đu đưa. Bạn sẽ chọn cách nào?

Trái cây miền Tây: còn gì tuyệt vời hơn?

Thông thường, vùng biển thì không giàu có về các loại cây ăn trái. Hà Tiên cũng thế. Nhưng bù lại, “hàng xóm” của vùng đất này lại là một vùng trù phú hạt ngàn cây trái. Mùa nào thức ấy, Mũi Nai tuyển chọn cho những vị khách quý của mình các loại trái cây tuyệt nhất có thể có. Bạn có thế chọn hoa quả trong những chiếc xe đẩy ngay khu chợ nhỏ, hoặc gọi các loại trái cây đã được cắt gọt và ướp lạnh sẵn để dùng ngay. Một lời khuyên chân tình cho những ai “hảo” sầu riêng: “Hãy ăn bằng bàn tay vừa nghịch nước biển xong”. Một chút mằn mặn của muối biển xoa nhẹ vào cái ngọt, cái bùi của thứ trái đầy gai này sẽ tạo nên một hương vị là lạ mà có lẽ bạn chưa thưởng thức bao giờ.

Những kỷ niệm đẹp mang về trong lòng du khách

Vùng biển Hà Tiên sở hữu một món quà mà ai qua cũng phải nhớ: đồi mồi. Một chiếc lược đồi mồi nho nhỏ cẩn hai bông hoa cúc bằng xà cừ óng ánh, một cây thoa cong cong hay đơn giản là một chiếc nhẫn bé tẹo, bạn sẽ gây bất ngờ cho những người ở nhà với những món quà xinh xinh độc đáo như vậy.

Chưa hết, khi quay về thành phố, bạn còn có quá nhiều thứ để nhớ về Mũi Nai. Nhớ con đường nhỏ liêu xiêu vòng cung dẫn lên đồi phía cuối bãi để ngắm hình dáng con nai; nhớ nụ cười chân chất và đôn hậu của những người dân sống tại nơi đây; nhớ giọt nước thốt nốt thảo thơm, ngày uống mà đêm về vẫn còn nghe ngọt... Và hơn hết, bạn sẽ chẳng thể quên những chiều đón hoàng hôn, những sớm tinh mơ đón bình minh trên biển vắng. Hãy một lần đến Mũi Nai trong những ngày hè này, bạn nhé

 

 

Trong thập cảnh Hà Tiên, núi Đá Dựng có tên gọi là Châu Nham Lạc Lộ có nghĩa là “cò về núi Ngọc”. Gọi là Châu Nham (núi Ngọc) vì trong núi có các loại thạch nhũ tinh quang lấp lánh như kim cương với nhiều màu sắc đẹp tựa châu ngọc

Nham là núi cao có nhiều hang hốc. Lạc là rơi rụng la đà. Lộ là loại chim lông trắng thường sống chỗ ao đầm. Châu Nham Lạc Lộ là cảnh đàn cò trắng bay về núi Ngọc.

//

//

Cách thị xã Hà Tiên 6 km và Thạch Động 2 km về hướng Tây Bắc, núi Đá Dựng có hình thang cân, cao khoảng 100 m thư một bình phong thép của mảnh đất địa đầu Tây Nam Tổ quốc. Gọi là Đá Dựng có lẽ do vách đá dựng đứng, bên trong có nhiều ngõ ngách, hang động. Mỗi hang gắn liền với một truyền thuyết, một sự tích vừa thật vừa ảo.

Đường lên núi dài 1.049 m được chia làm hai tuyến. Tuyến 1 (đi lên) dài 772 m gồm 10 hang chính thư hang Mẹ Sanh, hang Dơi, hang Cội Hàng Da, hang Trống Ngực (đấm ngực âm thanh vang như trống), hang Khổ Qua, hang Bồng Lai...

Ngồi ở hang Kim Quy (có khối đá giống hệt con rùa) nhìn qua Campuchia ngút ngàn đồng ruộng và cây thốt nốt, gió thổi mát hơn cả máy lạnh. Tuyến 2 (đi xuống) dài 377 m, có 4 hang chính như hang Chỉ Huy, hang Biệt động... Từ hang Chỉ Huy tha hồ ngắm toàn cảnh Hà Tiên. Gặp bữa đẹp trời, dùng ống dòm có thể thấy cả Châu Đốc và Phú Quốc.

Trong hang có nhiều khối thạch nhũ giống cá đối, rồng bay, cá voi, gấu, sư tử, chó... Vách hang còn dấu vết các loại vỏ hàu, vỏ sò như cố chứng minh nguồn gốc xa xưa vốn là nơi đầm lầy nước lợ. Hàng triệu năm trước núi Đá Dựng có lẽ là hòn đảo nhỏ giữa một sân chim ven biển. Chẳng thế mà sách cổ còn gọi núi Đá Dựng là Điểu Đình.

Sau khi cầu Tám Ngàn hoàn tất vào dịp 2-9 vừa qua từ Châu Đốc đi chợ Tịnh Biên rồi về thẳng Hà Tiên đường gần hơn 80 km. Với giá vé tham quan cực rẻ: 2.000 đồng, bạn có thể tự tin khám phá và thưởng cho mình bao điều mới lạ của núi Đá Dựng. Nhớ mang theo đèn pin vì trong hang nhiều chỗ chưa có điện, trang phục gọn nhẹ, giày thể thao và đừng quên... máy ảnh

 

Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc, vì không chịu để tóc và theo một số tập tục của nhà Thanh nên đã rời bỏ đất nước để ra đi buôn bán thương mại ở một số nước Đông Nam Á. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến 8/1708, nhận thấy vị thế rất mạnh của nhà Nguyễn trong cuộc chiến mở mang bờ cõi phía Nam, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà Tiên”. Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương và 7 đời dòng họ Mạc đã đem hết công sức của mình để biến Hà Tiên thành một đầu mối giao thương của nước Đại Việt xưa với các nước trong vùng.

Khu di tích gồm phần đền thờ dòng họ Mạc và phần lăng mộ. Đền thờ nằm ở chân núi Bình San, được nhà Nguyễn cho xây dựng để tưởng nhớ công ơn khai phá mảnh đất Hà Tiên của dòng họ Mạc. Trước đền thờ là 2 ao lớn nở đầy hoa sen mà trước kia Mạc Cửu đã cho đào để lấy nước ngọt cho dân trong vùng dùng trong mùa khô hạn. Ở hai bên cổng đền thờ là 2 câu đối bằng chữ Hán Nôm do nhà Nguyễn ban tặng:

Nhất môn trung nghĩa gia thinh trọng

Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh

Tạm dịch:

Một nhà trung nghĩa danh thơm cả họ

Bảy lá giậu che, cả nước mến yêu

Bên trong cổng là một khoảng sân rộng cùng nhiều cây xanh quanh năm xào xạc tạo cho không gian đền thờ lúc nào cũng yên tĩnh và trầm mặc. Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước ông Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông. Bên trong  chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của ông Mạc Cửu và các hậu duệ của ông do những người dòng họ Mạc được coi như những tiểu vương tại Hà Tiên. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ.

Đi theo một con đường bậc thang lên núi Bình San, du khách sẽ tới phần lăng mộ với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc, khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Lăng mộ ông Mạc Cửu nằm ở vị trí cao nhất trong khu 1, có hình bán nguyệt và được khoét sâu vào núi. Mộ được xây theo thuật phong thủy, lưng tựa vào núi, mặt quay ra biển và ở 2 bên mộ có 2 vị tướng bằng đá đứng canh giữ. Khi xây lăng mộ cho cha, con trai trưởng của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích đã mang đá ở bên Malaixia về để lát.

Nằm trên đỉnh núi Bình San là đàn xã tắc, nơi hành lễ cúng tế trời đất của Hà Tiên xưa và nay. Nền đàn xã tắc có hình bát quái lớn màu đỏ, ở giữa màu đen, tâm vàng, trên đặt 1 lư hương lớn bằng đồng. Vào ngày 15/1 âm lịch hàng năm, các đàn cúng sẽ được lập nhưng mỗi năm lại khác nhau về giờ cúng.

Núi Bình San đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là thắng cảnh quốc gia vào 21/1/1989. Và để ghi nhận công lao của ông Mạc Cửu trong việc khai phá Hà Tiên cũng như kỷ niệm 300 năm vùng đất này được thành lập, UBND tỉnh Kiên Giang đã tổ chức lễ khánh thành tượng đài danh nhân Mạc Cửu cao 10m vào ngày 7/9/2008 tại quảng trường cạnh cầu Tô Châu - thị xã Hà Tiên.

 

Chùa Phù Dung tọa lạc dưới chân núi Bình San, thuộc phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Đây là một ngôi cổ tự danh tiếng, một điểm du lịch hành hương nổi tiếng ở Hà Tiên. Chùa Phù Dung hấp dẫn du khách không chỉ bởi vẻ đẹp cổ kính, hài hoà với thiên nhiên mà còn bởi những câu chuyện bí ẩn gây tranh cãi về lai lịch ngôi chùa.

Nguồn gốc ngôi chùa

 

Phù Dung có nghĩa là gì?

 

Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, Phù Dung ở đây là loài sen hồng tức thủy phù dung, tên khoa học là Nelumbo nucifera, không phải là loài phù dung thân mộc có tên khoa học Hibiscus mutabilis như người ta thường nghĩ. Còn theo tác giả sách Nghiên cứu Hà Tiên của tác giả Trương Minh Đạt, Phù Dung là cách đọc trại của từ Pù Youn, tiếng Xiêm có nghĩa là "vùng núi của người Việt". Tác giả cho biết, “Pù” tiếng Xiêm có nghĩ là núi; "Youn" là từ dùng để chỉ người Việt của các dân tộc Xiêm, Khmer, Chăm, Lào....

Chùa Phù Dung có phải là chùa Phù Cừ chăng?

 

Một số tác giả cho rằng chùa Phù Dung ngày nay còn có tên gọi là Phù Cừ, do Mạc Thiên Tứ (1706 - 1780) cho xây dựng vào cuối thế kỷ XVIII để làm nơi tu hành cho nàng thứ cơ Phù Cừ (1720 - 1761). Tương truyền thứ cơ Phù Cừ tên thật là Nguyễn Thị Xuân, thứ nữ của một di thần nhà Lê tên Nguyễn Đình. Khi nhà Mạc lên thay nhà Lê, ông cùng hai con vào cư ngụ tại Hà Tiên. Con trai tên Nguyễn Đính, giỏi kiếm thuật, ra giúp họ Mạc; con gái tên Nguyễn Thị Xuân, giỏi thơ văn, gá nghĩa cùng Mạc Thiên Tứ, sau cuộc gặp gỡ tại Tao Đàn Chiêu Anh Các.

Thứ cơ sắc đẹp và hay chữ. Mạc Lịnh Công vì mê sắc đẹp, yêu tài thơ, đã từ chỗ sủng ái mà ra thiên ái cho nên khiến bà chính thất Nguyễn phu nhân ghen giận, lập mưu hãm hại bà thứ cơ. Một hôm, nhân Mạc Lịnh Công đi duyệt binh, ở nhà, Nguyễn phu nhân (tức Thái phu nhân Nguyễn Hiếu Túc. Hiện mộ phần của bà nằm trong khu mộ dòng họ Mạc tại lưng chừng núi Bình San, Hà Tiên) đem nhốt thứ cơ vào lòng một cái chậu úp, cho ngạt mà chết. Nhưng tình cờ, vừa lúc đó, trời bỗng đổ trận mưa to. Mạc Công cũng vừa về đến, thấy trời đang mưa, mà lạ, sao chậu to không ngửa lên hứng nước mà lại để úp. Công bèn truyền lịnh giở chậu ra, thì nàng ái cơ đang thoi thóp sắp đứt hơi, nhưng may mắn thay, hãy còn cứu kịp.

Nàng thứ cơ thoát chết, trở nên chán chường thế sự, xin Mạc Công cho nàng đi tu. Trước sự tình éo le đó, Mạc Công không biết làm sao, cũng đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho thứ cơ tu hành. Bên am tự, cho đào ao, trồng hoa sen trắng, để kỷ niệm mối tình xưa. Dân chúng Hà Tiên vì thế gọi bà là bà Dì Tự. Thi sĩ Đông Hồ giải thích: Bà dì có nghĩa bà thứ, “bà Dì ở Am Tự”, nói gọn là “bà Dì Tự”. Khi thứ cơ mất, Công cho xây ngôi mộ kiên cố đẹp đẽ để tỏ lòng tưởng nhớ yêu thương người giai nhân đã vì Công mà oan khổ...

Về ngôi chùa này, sách Đại Nam nhất thống chí, phần Hà Tiên, mục Tự quán có chép: "Chùa Phù Cừ, ở chân núi Phù Cừ, xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu (huyện lỵ, tỉnh Hà Tiên). Chùa này do Mạc Thiên Tích lập ra khi trước. Trước sân đào ao, trên núi dựng chùa. Án tuệ nghiêm trang, cửa thiền tịch mịch, là một nơi danh thắng". Theo ông Trương Minh Đạt, chùa Phù Dung ngày nay không phải là ngôi chùa Phù Cừ ấy, mà nó là một ngôi chùa khác được xây dựng năm 1846 trên nền của Tao Đàn Chiêu Anh Các. Theo tác giả, ngôi chùa Phù Cừ được nhắc đến trong Gia Định thành thông chí năm 1820 của Trịnh Hoài Đức nằm tại hướng Tây Nam núi Phù Dung”; còn chùa Phù Dung hiện nay tại đầu Bắc núi Bình San, cách chùa xưa trên 500 m. Còn vì sao lại có tên gọi Phù Cừ, tác giả cho rằng, đó là do kỵ huý, nên thời Thiệu Trị chữ Phù Dung được thay đổi thành Phù Cừ. Theo tác giả, tên Phù Cừ là một tên mới, chỉ nảy sinh từ năm 1842 do lệ kiêng huý. Nó không phải là tên cố hữu của ngôi chùa tại núi Bình San hiện nay, nhất là cái tên ấy không phải do Mạc Thiên Tứ đặt. Khi tên Phù Cừ ra đời, ngôi chùa cổ không còn nữa.

Tác giả Trương Minh Đạt dẫn chứng: chỗ tương đồng của hai cuốn địa lý đời Minh Mạng và Thiệu Trị, tuần tự viết về quả núi và ngôi chùa (Phù Dung = Phù Cừ):

1. Trịnh Hoài Đức (1820) chép “Núi Phù Dung cách tấn thự về phía Tây Bắc hơn 1 dặm, hang động xanh rì, chùa Phù Dung ở phía Tây Nam núi . . .” (Gia Định thành thông chí – Nxb Giáo dục TP. HCM.1998, tr. 65)

2. Hoàn Vũ Ký của Nguyễn Thu (1847) chép “Núi Phù Cừ cách tỉnh về phía Tây Bắc hơn 1 dặm, hang động xanh rì, chân núi có chùa Phù Cừ, do đó tên núi là núi Phù Cừ”.

Theo đó, núi và chùa Phù Dung của Gia Định thành thông chí đời Minh Mạng sang đời Thiệu Trị đã đổi tên thành Phù Cừ. Lời văn có khác nhau, nhưng phương hướng và cự ly không thay đổi. Nhưng trong thực tế, trên núi Phù Dung, ngôi chùa Phù Dung cổ tự đã không còn kể từ năm 1833 nhưng do những người chép sách ở Huế, không nắm được tình hình, chỉ dựa vào sách cũ mà điều chỉnh lại.

Sự xuất hiện ngôi chùa mới ở núi Bình San

 

Trương Minh Đạt dẫn:

- Sách Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức (1865 – 1882) ghi nhận việc tạo dựng ngôi chùa Phù Anh như sau: “Chùa Phù Anh, ở địa phận xã Mỹ Đức, huyện Hà Châu, dưới chân núi Phù Anh . . . năm Triệu Trị thứ sáu, nhân dân trong tỉnh xây gạch lợp ngói, có tiếng là thắng cảnh

- Đây cần nói rõ: Núi Phù Anh ở sách Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức không phải là núi Phù Dung hay núi Phù Cừ. Bằng chứng là khi viết về núi Phù Anh, sách ghi: “Núi Phù Anh ở cách huyện Hà Châu 1 dặm về phía Bắc . . .”. đồng thời, trong cùng trang sách, khi chép về núi Bình San, sách cũng ghi: “Núi Bình San, ở cách huyện Hà Châu 1 dặm về phía Bắc.” Rõ ràng Đại Nam nhất thống chí đời Tự Đức chỉ định ngay: Núi Bình San là núi Phù Anh. Sách cũng phản ánh chính xác thời điểm tạo dựng ngôi chùa ở núi Bình San là năm Thiệu Trị thứ 6 (1846).

Theo Trương Minh Đạt, ngôi chùa này mới chính là chùa Phù Dung ngày nay. Trương Minh Đạt kết luận: chùa Phù Dung ngày nay không hề mang tên Phù Cừ. Ngôi chùa này trước sau vẫn là tên Phù Dung. Ngoại trừ sự kiện vào thời Thiệu Trị, khi nó được cất mới năm 1846, tên chùa là Phù Anh. Trụ trì đầu tiên của chùa này là hoà thượng Bửu Châu, người Trung Quốc, vân du sang vùng Hà Tiên mà được thỉnh làm trụ trì chùa năm 1846. Đến năm 1869, ngài viên tịch tại chùa.

Từ năm 1869 - 1892, hoà thượng Nhất Thừa, trụ trì chùa Tây An (thị xã Châu Đốc) cử một đệ tử là hoà thượng Diệu Lý thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 39 về trụ trì chùa Phù Dung. Sau đó, hoà thượng Diệu Lý viên tịch tại chùa Tây An và không kịp giao quyền kế thừa chùa Phù Dung cho đệ tử nên nhiều năm sau chùa không có trụ trì. Đến năm 1910, hoà thượng Hoằng Đạo (thế danh Ngô Văn Thiên) thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 39 là đệ tử của hoà thượng Nhất Thừa được cử đến trụ trì chùa. Trong thời gian trụ trì tại đây từ 1910 - 1939, Hòa thượng Hoằng Đạo đã cho xây dựng lại Phù Cừ Am Tự theo dáng vẻ ngày nay. Hoà thượng Hoằng Đạo viên tịch năm 1939. Kế thế trụ trì là hoà thượng Thiền Quang (thế danh Trần Văn Vạn) thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Trong thời gian trụ trì chùa Phù Dung từ 1947 đến 1951, hoà thượng bí mật tham gia hoạt động cách mạng. Đến năm 1951, ngài sang hành đạo tại chùa Hưng Long và tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm 1959, hoạt động bị lộ, ngài bị bắt, được trả tự do và viên tịch vào năm 1961.

Sau khi hoà thượng Hoằng Đạo sang hành đạo tại chùa Hưng Long (1951), trụ trì chùa Phù Dung là hoà thượng Phước Quang thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40. Ngài Phước Quang viên tịch tại chùa vào năm 1964. Trong suốt 11 năm sau đó, có nhiều vị về trụ trì chùa Phù Dung nhưng không vị nào trụ trì được lâu. Đến năm 1975, Mặt trận Tổ quốc thị xã Hà Tiên đã cử thượng tọa Thích Nhật Quang (thế danh Trần Nhật Quang) thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 41 về trụ trì chùa Phù Dung từ đó đến nay. Trong suốt thời gian trụ trì từ 1975 đến nay, thầy Nhật Quang đã nhiều lần cho trùng tu chùa với dáng vẻ khang trang như ngày nay.

Những bằng chứng khảo cổ học

 

Đúng như các tài liệu đã chép, trong khi đi tìm hiểu về Tao Đàn Chiêu Anh Các, người ta đã phát hiện ở hướng Tây Nam núi Phù Dung có vết tích của một ngôi chùa cổ. Nơi đây, hiện còn những tường thành bằng vật liệu phức hợp (vôi cát trộn với ô đước và đường ngào), xây cất vào thế kỷ 18 (tường cao 5 m, dày 1 m, nét cổ kính rêu phong), những phiến đá làm chân tán cột gỗ nền dài 12 m, rộng 9 m và một ngôi tháp cổ hình bát giác, có bia đá còn nguyên vẹn khắc dòng chữ Hán: “Lâm tế tam thập lục Thế ấn đàm Lão hòa thượng chi tháp”. Năm 1969, trên nền chùa xưa, nhiều vật dụng được đào lên từ lớp đất đá sâu: những lư đồng, lọ sành sứ, chum đựng gạo, đôn ngồi bằng đá... Có thể đây mới chính là ngôi chùa Phù Cừ cổ mà các tài liệu cho là do Mạc Thiên Tích xây dựng cho bà thứ cơ Phù Cừ.

Kiến trúc

 

Trong bài Đề tự cho quyển sách Nàng Ái Cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết vào năm 1960, thi sĩ Đông Hồ đã viết:"Từ chợ Hà Tiên, theo đường cái quan đi Thạch Động, độ nửa cây số ngàn, ngó về bên trái, có một ngôi am tự cheo leo trên sườn đồi. Cạnh am tự, cũng ở trên sườn núi về hướng Nam, có một ngôi mộ cổ, mặt đá rêu phong. Trước mộ, liền chỗ chân núi, có một ao nước ngọt, trong ao có trồng giống hoa sen trắng..."

Theo cách gọi "am tự", rất có thể thời gian này, chùa Phù Dung chỉ là một am tu nhỏ. Trải qua bao biến đổi, giờ đây trên nền đất cao ráo nơi chân núi Bình San, là một tự viện khá khang trang gồm một phần sân và hai phần thờ cách biệt. Phần sân có một đài cao. Trên đài là một pho tượng Phật Quan Thế Âm cao lớn bằng xi măng, tô trắng. Kế đến là ngôi Chánh điện rộng được bài trí trang nghiêm. Chính giữa là tượng Thích Ca Mâu Ni, 2 bên là 2 đại đệ tử A Nan và Ca Diếp. Ở đây còn có 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3 m, ngang 2,3 m) minh họa 4 cảnh trong cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni: đản sanh, xuất gia, thuyết pháp và nhập niết bàn. Sau lưng ngôi Chánh điện là một khoảng sân nhỏ, sau nữa là một toà điện cao có tên gọi ''Ngọc Hoàng bửu điện'', thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng hai vị Nam Tào và Bắc Đẩu.

Phía bên trái chùa có một lối đi nhỏ men theo triền núi. Đi khoảng 20 m, sẽ gặp một ngôi mộ cổ. Bên cạnh mộ, có một tấm bia đá khắc mấy dòng chữ Việt, giải thích gọn tên tuổi của người đã khuất: ''Lăng bà Phù Dung - Từ Thành Thục Nhơn - Nguyễn Thị Xuân (1720-1761) - Viên tịch rằm tháng 2 Âl - Hiệu Phù Cừ''.

Chùa Phù Dung trong thơ ca

 

Có lẽ vì những câu chuyện bí ẩn về lịch sử và tên gọi mà chùa Phù Dung từng lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho thi ca:

Ngó lên Am tự Phù Cừ

Thương cho người ngọc giã từ lầu son

Về đây nương chốn thiền môn

Tay lần chuỗi hạt cho mòn ngày xanh.

Duyên xưa chẳng bận chi tình

Bụi trần chi để vương cành hoa sen.

Nước trong chẳng lựa đánh phèn

Cửa thiền thanh tịch, não phiền sạch không.

                     (Khuyết danh, trong 'Nàng Ái Cơ trong chậu úp của nữ sĩ Mộng Tuyết, Nxb Văn hóa, 1996, tr. 120).

Chuyện tình chùa Phù Dung (trích)

Ai ngày xưa chiều chiều

Dừng cương bên sườn dốc

Dõi bóng hình người ngọc

Mắt nhìn lòng rưng rưng.

.....

Ngày xưa ai dâng hương

Bước nương thềm điện ngọc

Thổn thức thắt se lòng

Nghe vời xa tiếng nhạc...

.....

Ôi! Con người kỳ lạ

Tình yêu và nỗi đau

Và tình yêu thật lạ

Năm tháng chẳng phai màu...

                 Hà Văn Thùy

(Sáng tác năm 1982, trích trong tập Thời gian gom lại, Hội Văn nghệ và Thông tin Văn hoá Kiên Giang)

Chùa Phù Dung được nhà thơ Kiên Giang đưa vào vở cải lương "Áo cưới trước cổng chùa" năm 1959. Vở tuồng đã thu hút biết bao nhiêu khán thính giả thời bấy giờ và trở thành một vở tuồng kinh điển của cải lương Việt Nam, gắn liền với tên tuổi của nghệ sĩ Thanh Nga. Trong vở có đoạn ca từ:

Áo cưới em treo trước cổng chùa.

Tình đầu trao trả lại người xưa .

Đời em như cánh phù dung.

Rụng trước cổng chùa tầm tả gió mưa.

Đừng nói yêu đương trước cổng chùa .

Nhắc làm chi nữa mối tình xưa.

Xuân tự quay lưng vào cửa Phật.

Tô châu trở bước xuống Đông hồ.

Áo cưới vẫn treo trước cổng chùa.

Gió bay phất phới chuông chùa ngân vang.

Hết duyên hết nợ đành thôi thế!

Dù có ly tan chẳng phụ tình!..

Mộ chị Sứ nằm ở ngã ba Phùng Lương, thuộc xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, cạnh gốc cây dừa mà kẻ thù đã trói chị vào để tra tấn, khủng bố và hành hình vào ngày 9-1-1962 (cũng đúng ngày này trước đó 7 năm, học sinh Trần Văn Ơn đã ngã xuống trên đường phố Sài Gòn, mở đầu cho truyền thống đấu tranh của thanh niên, sinh viên, học sinh nước ta). Từ quốc lộ 80 rẽ vào đường đất hơn mười cây số, hai bên đường là đồng lúa với một màu xanh mênh mông tít tắp tận chân trời: Khuôn viên mộ khoảng chừng 50m2, đắp cao, có nhiều bậc cấp đi lên, hai bên có hai bức phù điêu miêu tả cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Hòn Đất. Chị nằm đầu gối vào núi, chân xuôi về ruộng lúa. Theo anh Tân, đây là mộ đã được trùng tu lần thứ tư. Khi chúng tôi đến, trời đã chiều, như sự sắp xếp của tự nhiên, những nơi khác có bóng cây che khuất, chỉ có trên mộ chị, những tia nắng chiều mong manh dát mỏng trên những hòn sỏi; trời đã sẫm tối, dường như chỉ còn nơi đây là còn có chút nắng vương đọng lại. Tôi mới nghiệm ra thổ ngơi của đất này rằng, mặt trời luôn mọc ở hướng Tây, lặn ở hướng Đông. Khoảng trời trên mộ chị cứ như một tấm thảm bằng sỏi, được bốn người cầm bốn góc nghiêng về phía đông để đón những tia nắng tháng tư cuối cùng còn sót lại trong ngày…

Mãi chúng tôi mới tìm được người thợ chụp ảnh. Khi anh đến nơi thì trời đã sẫm tối và lất phất mưa. Trong máy chỉ còn 6 kiểu ảnh. Anh thắp một cây đèn dầu, loại đèn đủ ánh sáng cho trẻ con học bài trong một căn phòng nhỏ. Anh bảo vợ cầm đèn đưa sát chúng tôi để anh đưa máy lên ngắm, lấy khẩu độ cự ly xong anh hô lên một tiếng "cất đèn”, vợ anh bưng đèn lùi ra xa, anh bấm máy. Cả 6 kiểu ảnh đều đẹp thuộc vào loại các nghệ sĩ nhiếp ảnh hiện nay phải gọi anh bằng sư phụ và có lẽ đây là lần duy nhất trong đời, tôi thấy người ta chụp ảnh bằng đèn đầu! Một khung cảnh, một không gian âm u nghi ngút khói nhang, huyền hoặc, hoang đường, tự đáy lòng tôi bỗng nhớ chút nắng ban chiều.

Vào quán uống nước. Chủ quán là chị Nguyễn Thị Lời, nhỏ thua chị Sứ một tuổi, người chứng kiến cuộc tra tấn chị Sứ kể lại, tôi mới ngẫm ra tiếc cho nhà văn Anh Đức đã bỏ sót nhiều điều chưa viết. "Nhân dân xuống đường đấu tranh - chị Lời nhăn trán cố nhớ - đòi thả, đòi chôn xác chị Sứ đều là chuyện của tác phẩm văn học, của ông Anh Đức. Còn thực tế, chúng vào từng nhà lùa dân ra, bắt đứng quanh gốc dừa xem chúng tra tấn chị, nhằm khủng bố tinh thần mọi người. Chúng lấy vỏ chai la-de (chai bia), đập vỡ cổ chai và cứ thế thọc vào cửa mình chị... Chị nấc lên, ngất xỉu, chúng đội nước cho chị tỉnh lại rồi tiếp tục - Chị Lời dừng lại, lấy ống tay áo lau nước mắt: Thấy cảnh đó, tôi quay mặt đi, không dám nhìn, thì ngay lập tức bên  tai tôi một họng súng lạnh ngắt gí vào, lạnh dọc theo xương sống, kèm theo tiếng gầm của một con thú dữ: "Có nhìn không, không nhìn tau bắn nát óc. Nhìn và nhớ lấy: Đứa nào theo cộng sản, sẽ nhận được hậu quả như con này...". Chính tôi, người đã từng đi qua chiến tranh, nghe kể lại mà nổi gai cả người, ướt đẫm cả mồ hôi, như lên một cơn sốt, bên tai vẫn lùng bùng những âm thanh ngắt quãng, vừa nói vừa khóc của chị Lời. Còn nhiều chi tiết khác nữa... Nhưng chuyện này cũng không thể trách nhà văn Anh Đức, ông viết khi nghe người ta kể lại ở Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua năm 1965, tác phẩm ra đời năm 1966, nghĩa là trước khi viết tác phẩm ông chưa về với hang Hòn, chưa thăm mộ phần và nơi chị anh dũng hy sinh.

Người dân ở đây thường gọi chị là chị Tư Phùng, nhưng trên bia mộ ghi tên thật là Phan Thị Ràng (trong cuốn Đất nước ta của các tác giả Hoàng Đạo Thúy, Huỳnh Lứa, Nguyễn Phúc Hoàng, Nxb KHXH, 1989, có hai lần nhắc đến chị ở các trang 618, 621 cũng đều ghi là Phan Thị Ràng), nhưng trong Từ điển Văn học (bộ mới, Nxb Thế giới, 2004, tr.269) lại ghi là Phan Thị Rạng. Một người anh hùng như chị mà sao người ta chóng quên thế, đến tên thật cũng không còn nhớ nữa! Quê chị ở Tri Tôn, An Giang, chị được trên cử về xây dựng tổ chức đảng ở Hòn Đất, cũng không thấy sách nào ghi, đến nỗi người ta cứ nghĩ anh hùng là cao hơn liệt sĩ, nên mãi đến tháng 12-1994, tức là 19 năm sau ngày nước nhà độc lập thống nhất chị mới được Chủ tịch nước Lê Đức Anh ký quyết định công nhận là liệt sĩ.

Mấy năm gần đây, đời sống kinh tế ở xứ "mặt trời luôn mọc ở hướng Tây" phát triển nhanh chóng, nhất là với công trình lấn biển mở rộng thị xã Rạch Giá đến hàng nghìn héc ta. Nơi trước kia là biển, nay đã mọc lên những ngôi nhà cao tầng, trở thành khu đô thị mới cao cấp hiện đại của một thành phố tương lai. Nhưng sự phát triển nhanh với tốc độ chóng mặt ấy, cũng không nhanh bằng trí nhớ bội bạc của con người. Đôi khi, có những điều chỉ nghĩ đến thôi, đã thấy chạnh lòng. Khi ngồi trầm tư về những chuyến đi, tôi nhớ lại chiều ba mươi tháng tư năm ấy, nay trôi xa đã mười mấy năm, tôi vẫn cứ thấy hiện ra trước mắt mình chút nắng chiều vàng nhạt rải đều trên tấm thảm sỏi trắng trên mộ chị, một màu trắng trong suốt như chính cuộc đời vì nền độc lập và thống nhất đất nước của chị, thử thách trước thời gian và không hề phôi pha. Đến bây giờ tôi cũng chưa có dịp thăm cảnh đẹp Hà Tiên như đã hứa, nhưng tôi rất biết ơn những người bạn đã cho tôi chuyến thăm năm ấy và nay viết những dòng này để tự nhắc nhủ mình và mong mọi người, xin hãy đừng quên.

Đến với Hòn Me hôm nay, du khách có thể được ngắm nhìn đá san hô, cây bàng trái vuông và cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa do Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam trao tặng. Nơi đây, còn lưu lại những dấu tích bom đạn một thời, những chiến công oanh liệt của chị Sứ - người con gái xứ Hòn trong tác phẩm Hòn Đất của nhà văn Anh Đức...

Tìm về lịch sử

Trong kháng chiến chống Mỹ, địa danh Ba Hòn gồm Hòn Đất, Hòn Me và Hòn Quéo là một chốt quan trọng trên tuyến đường 1C. Vì vậy, cuối tháng 8/1969, địch đã tập trung hàng chục ngàn quân, trận địa pháo, máy bay nhằm tấn công tiến chiếm Ba Hòn. Nhờ địa hình hiểm trở cộng với sự mưu trí, sáng tạo và lòng dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ mà sau 78 ngày đêm đánh nhau với địch ta đã toàn thắng.

Nhiều phương tiện chiến tranh như máy bay, pháo, đạn dược đã bị quân ta phá huỷ. Tuyến đường vận chuyển chiến lược 1C trở nên thông suốt, an toàn là điều kiện để Quân khu 9 tấn công địch tốt hơn.

Anh Trần Văn Hiền, Trưởng ban quản lý di tích cho biết: “Khu di tích lịch sử Hòn Đất được Bộ VHTTDL công nhận năm 1989. Nhà bia ghi danh 960 anh hùng liệt sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhà trưng bày giới thiệu di tích, lịch sử, thắng cảnh Ba Hòn được khánh thành năm 2009”.

Trong kháng chiến, khu căn cứ Ba Hòn chính là cơ sở hoạt động cách mạng của huyện Châu Thành A và thị xã Rạch Giá. Tất cả các cơ quan như: Huyện ủy, Tuyên huấn, Ủy ban, Huyện đội, Công an, Y tế, Phụ nữ… đều đóng tại Hòn Me và Hòn Đất để chỉ đạo phong trào cách mạng.

Căn cứ kháng chiến Ba Hòn suốt 20 năm đánh Mỹ vang dội cả nước bởi những trận đánh lịch sử, những chiến công oanh liệt, trong đó có những con người mà tên tuổi của họ sống mãi với tình cảm của nhân dân như: người nữ Anh hùng Phan Thị Ràng, Anh hùng thiếu niên Nguyễn Văn Kiến và còn biết bao con người của quê hương Hòn Đất đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc mà hai tấm bia tại khu di tích đã khắc tên 960 liệt sĩ.

Nhiều hiện vật quý về cuộc chiến tranh của quân dân Hòn Đất đã được Nhà truyền thống và khu trưng bày chứng tích chiến tranh trên đỉnh Hòn Me đã minh chứng cho một thời. Chiến tranh kết thúc, Đảng bộ và nhân dân Hòn Đất đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Cho mai sau

Khu trưng bày chứng tích chiến tranh tại Trung tâm phát sóng Hòn Me do Đài Phát thanh - Truyền hình Kiên Giang xây dựng đã được khánh thành giai đoạn I và đón khách tham quan từ tháng 9/2009.

Tại khu trưng bày chứng tích chiến tranh Hòn Me có bia tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại Ba Hòn, máy bay trực thăng, pháo 105 ly, vỏ bom, miểng đạn, súng cối và các loại vũ khí khí tài khác mà Mỹ - ngụy đã dùng trong chiến tranh Việt Nam và tại vùng Ba Hòn lịch sử. Sau hơn một năm đưa vào phục vụ, du khách tìm hiểu về Ba Hòn lịch sử ngày một đông.

Đặc biệt, ngay sau khi khánh thành giai đoạn I, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân và các đồng chí lãnh đạo tỉnh Kiên Giang đến dâng hương, tham quan khu trưng bày và đánh giá cao sự nỗ lực của Đài PTTH Kiên Giang trong việc xây dựng công trình có ý nghĩa thiết thực trong giáo dục truyền thống cho thế hệ mai sau hiểu về lịch sử.

Ở giai đoạn II, tại khu trưng bày chứng tích chiến tranh, nhà trưng bày kiên cố được xây dựng thay thế cho nhà trưng bày bằng cây lá tạm thời. Năm 2010, khu trưng bày tiếp nhận 02 hiện vật mới là xe tăng M47 và 01 máy bay phản lực A37.

Ngày 19/02/2011, khu trưng bày tiếp nhận quà từ Trường Sa là đá chủ quyền và cây bàng trái vuông được đưa về từ quần đảo Trường Sa. Trong đó, cây bàng trái vuông được trồng tại đỉnh Hòn Me. Sau 26 ngày, cây bàng đã nở hoa và đang phát triển xanh tốt. Ngày 19/06/2011, Đài PTTH Kiên Giang đã phục dựng xong cột mốc chủ quyền đảo Trường Sa tại đỉnh Hòn Me, với sự giúp đỡ của Bộ Tư lệnh Hải quân.

Ba hiện vật này là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt từ đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền biển-đảo của Việt Nam; thể hiện ý chí và quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền biển-đảo của nhân dân Việt Nam nói chung và của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng.

 

Được biết, Nhà truyền thống và khu trưng bày chứng tích chiến tranh trên đỉnh Hòn Me từ tiếp nhận quà Trường Sa - cây bàng trái vuông và đá chủ quyền, trung bình mỗi tháng thu hút trên 2.000 lượt khách, đã có nhiều trường học tổ chức cho các em đến tham quan và tìm hiểu lịch sử.

Những hiện vật trưng bày nơi đây để cho mọi người tìm về lịch sử và giáo dục thế hệ mai sau hướng về hòn đảo thân yêu, khẳng định rõ chủ quyền biển đảo của Việt Nam mà biết bao người đã hy sinh để bảo vệ Tổ quốc.

 

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro