Chương 2: Con mèo mun to đùng mập ú - Two: The big fat back cat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

"Tao thật ghét phải để mày lại một mình, cậu nhóc nói, ve vuốt cái lưng con mèo mun to đùng, mập ú.

"I really hate to leave you by yourself," the boy said, stroking /stroʊk/ the big fat black cat's back.

Rồi cậu quay lại với việc nhét đồ đạc vào balô. Cậu chọn một băng cát-sét của The Pur, một trong những thứ đồ cậu ưa thích, nhét nó vào balô, suy nghĩ, rồi lại lấy ra. Cậu không thể nào quyết định được sẽ cất nó vào balô hay để nó lại trên bàn. Thật là khó biết cái gì nên mang theo và cái gì nên để lại khi đi nghỉ mát.

Then he returned to the task of putting things in his backpack. He chose a cassette /kəˈset/ of The Pur – one of his favourites – put it in, thought about it again and took it out. He couldn't decide whether to put it in the pack or leave it on the table. It was hard to know what to take on holiday and what to leave at home.

Con mèo mun béo mập đang ngồi trên bậu cửa sổ, chỗ nó rất khoái, theo dõi cậu nhóc đầy chăm chú.

The big fat black cat sitting in the recessed /rɪˈsest/ window, his favourite place, was watching the boy closely.

"Tao đã bỏ kính bơi vào chưa ấy nhỉ? Zorba, mày có thấy cặp kính của tao đâu không? Mà không. Mày không thể biết nó là cái gì vì mày đâu có ưa nước. Mày không biết là mày đã bỏ phí cái gì đâu. Bơi lội là một trong những trò thể thao hay ho nhất đấy. Làm một miếng không?" cậu bé hỏi, nhấc hộp thức ăn Bé Mèo Măm Măm lên.

"Did I put in my swimming goggles /ˈɡɑː.ɡəlz/? Zorba, have you seen my goggles? No. You wouldn't know what they are, because you don't like water. You don't know what you're missing. Swimming is one of the most fun sports. Want a treat /triːt/?" the boy offered, picking up the box of Kitty Yum-Yums.

Cậu trút ra một phần ăn nhiều hơn cả mức hào phóng, và con mèo mun béo mập bắt đầu nhấm nháp thật khoan thoai để kéo dài sự sung sướng. Đúng là một bữa ngon, giòn và đậm đà vị cá!

He shook out a more than generous portion /ˈpɔːr.ʃən/, and the big fat black cat began chewing /tʃuː/, slowly, to prolong /prəˈlɑːŋ/ the pleasure. What delicious treats triːt/ , so crunchy /ˈkrʌn.tʃi/ and deliciously fishy!

Cậu chủ quả là tốt bụng, con mèo nghĩ, miệng đầy những mảnh vụn. Ý ta là gì ấy nhỉ, một cậu nhóc tốt bụng thôi ư? Cậu chủ phải là xịn nhất ấy chứ! Nó tự đính chính khi nuốt thức ăn.

He is a good kid, the cat thought, his mouth filled with crumbs. What do I mean, a "good kid"? He's the best! he corrected /kəˈrekt/ himself as he swallowed /ˈswɑː.loʊ/.

Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú, có lý do thích đáng cho quan điểm của mình về cậu nhóc, người không chỉ chịu xuất tiền tiêu vặt thết đãi Zorba món ngon mà còn giữ cho cái thùng nơi Zorba đi vệ sinh luôn sạch sẽ. Cậu tán chuyện với nó và dạy dỗ nó những điều quan trọng.

Zorba, the big fat black cat, had good reason for his opinion of this boy, who not only spent money from his allowance /əˈlaʊ.əns/ on delicious treats for Zorba, but always kept the litter box where Zorba relieved /rɪˈliːvd/ himself clean. And he talked to him and taught him important things.

Họ thường dành nhiều giờ ngồi ngoài ban công, ngắm cảnh giao thông rộn rịp ở cảng biển Hamburg. Rồi kế đó, cậu nhóc sẽ bắt đầu nói, kiểu như, "Mày thấy cái thuyền kia không, Zorba? Mày có biết nó từ đầu tới không? Từ Liberia đấy, một nước ở Châu Phi cực kỳ hay, do những người từng sống đời nô lệ sáng lập. Khi nào lớn, tao sẽ trở thành thuyền trưởng một tàu viễn dương lớn, rồi tao sẽ tới Liberia. Mày cũng sẽ đi cùng tao đấy, Zorba ạ. Mày sẽ là một con mèo vượt đại dương ngon lành. Tao chắc chắn đấy!"

They spent many hours together on the balcony /ˈbæl.kə.ni/, watching the bustling /ˈbʌs.lɪŋ/ traffic in the port of Hamburg. Right then, for example, the boy was saying, "You see that ship, Zorba? You know where it's from? It's from Liberia, a very interesting African country founded by people who once were slaves /sleɪv/. When I grow up I'm going


to be captain of a large sailing ship, and I will sail to Liberia. And you will come with me, Zorba. You will be a good ocean-going cat. I'm sure of it."

Giống như mọi đứa trẻ sống quanh khu cảng, cậu nhóc này cũng mơ mộng được du hành tới những đất nước xa xôi. Con mèo mun to đùng, mập ú lắng nghe, gừ gừ trong cổ. Nó có thể tưởng tượng ra mình trên boong một con tàu viễn dương khổng lồ đang chạy xuyên qua những lớp sóng.

Like all the boys around the port, this one too dreamt of voyages /ˈvɔɪ.ɪdʒ/ to distant countries. The big fat black cat listened, purring /pɝː/. He could see himself on board a sailing vessel /ˈves.əl/, cutting through the waves.

Đúng, Zorba rất yêu quý cậu nhóc và không bao giờ quên rằng nó nợ cậu mạng sống của mình.

Yes, Zorba had great affection /əˈfek.ʃən/ for the boy and never forgot that he owed his life to him.

Món nợ của Zorba bắt đầu từ ngày nó bỏ cái giỏ vốn từng là mái ấm gia đình cùng với bảy anh chị em khác.

Zorba's debt /det/ dated from the day he abandoned /əˈbæn.dənd/ the basket that had been home for him and his seven brothers and sisters.

Sữa của mèo mẹ thật ngọt ngào, ấm áp, nhưng nó cũng muốn nếm thử mấy cái đầu cá mà người ở chợ hay quẳng cho lũ mèo lớn. Nó cũng không định đi ăn mảnh một mình. Không hề. Ý định của nó là sẽ quay lại giỏ và bảo với các anh chị em khác, "Bú sữa mẹ thế này là đủ lắm rồi! Mọi người không thấy mẹ gầy đi thế nào sao? Ăn miếng cá này đi, đây là thứ mà tất cả bọn mèo ở cảng đều ăn đó."

His mother's milk was warm and sweet, but he wanted to try one of those fish heads that people in the market gave to big cats. And he wasn't planning to eat the whole thing. No. His idea was to drag /dræɡ/ it back to the basket and tell his brothers and sisters, "Enough of this nursing /ˈnɝː.sɪŋ/ from our poor mother! Don't you see how thin she's getting? Eat this fish – that's what the port cats all eat."

Vài ngày trước khi Zorba rời khỏi giỏ, mèo mẹ đã rất nghiêm khắc nói với nó, "Con đã có chân cẳng và giác quan nhanh nhạy. Mấy điều đó tốt thôi, nhưng con phải biết thận trọng mỗi khi đi đâu. Mẹ không muốn con bò ra giỏ. Mai kia thôi, con người sẽ tới và quyết định số phận của con, cũng như của các anh chị em con. Mẹ đảm bảo là họ sẽ đặt cho con cái tên hay và cho con mọi đồ ăn con muốn. Con thật may mắn vì được sinh ra ở cảng, người dân cảng thường yêu thương và bảo vệ loài mèo. Điều duy nhất họ mong đợi chúng ta là giúp xua đuổi lũ chuột. Ồ, đúng rồi, con trai. Con thật may mắn khi là một con mèo ở cảng, nhưng con vẫn phải cẩn thận. Chỉ có một điều ở con có thể gây ra rắc rối. Nhìn trong các anh chị em của con đi, con trai. Con thấy tất cả chúng nó đều lông xám rồi chứ? Và lông của chúng đều có vằn như da hổ. Còn con, ngược lại, khi sinh ra đã đen từ đầu tới chân, chỉ trừ túm lông trắng dưới cằm. Có những người còn tin là mèo đen mang tới điềm xấu. Vì vậy, con trai, mẹ không muốn con ra khỏi giỏ."

A few days before he left the basket, Zorba's mother had been very serious as she told him, "You are quick on your feet and alert /əˈlɝːt/. That's all to the good, but you must be cautious /ˈkɑː.ʃəs/ about where you go. I don't want you to get out of the basket. Tomorrow or the next day, humans will come and decide your fate /feɪt/, and your brothers' and sisters' as well. I'm sure they will give all of you nice names and you will have all the food you want. You are very lucky to have been born in a port, because in ports humans love and protect cats. The only thing they expect /ɪkˈspekt/ of us is to keep the rats /ræts/ away. Oh, yes, my son. You are very lucky to be a port cat – but you must be careful. There is one thing about you that may mean trouble. Look at your brothers and sisters, son. You see how all of them are grey? And how their fur /fɝː/ is striped /straɪpt/, like the hide of a tiger? You, on the other hand, were born entirely /ɪnˈtaɪr.li/ black, except for that little white tuft /tʌft/ under your chin /tʃɪn/. Some humans believe that black cats bring bad luck.

That's why, son, I don't want you to leave the basket."

Nhưng Zorba, lúc đó chỉ là một quả bóng lông bé xíu đen óng như than, cứ lén bò ra khỏi giỏ. Nó muốn ăn thử một cái đầu cá. Và nó cũng muốn biết thêm tí xíu về thế giới bên ngoài.

But Zorba, who at that time was a little coal-black /ˌkoʊl ˈblæk/ ball of fur, did crawl /krɑːl/ out of the basket. He wanted to try one of those fish heads. And he also wanted to see a little of the world.

Nó cũng chưa đi được xa. Khi líu ríu tìm tới chỗ quầy cá với cái đuôi dựng đứng run run, nó chạy ngang qua con chim to tướng đang gà gật, cái đầu ngoẹo sang một bên. Đó là một con chim cực kỳ xấu xí với cái bọng lớn lủng lẳng dưới mỏ. Hẫng một cái, chú mèo con cảm thấy mặt đất dưới chân biến mất và còn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra, nó đã nhận ra mình đang lộn nhào trên không. Nhớ lại một trong những lời dạy đầu tiên của mẹ, nó tìm vị trí có thể đáp xuống bằng cả bốn chân. Nhưng thay vào đó, nó thấy bên dưới con chim đang ngoác cái mỏ chờ đón.

He didn't get very far. As he was trotting /trɑːt/ towards a fish stall with histail straight up and quivering /ˈkwɪv.ɚ/, hepassed in front of a large bird dozing /doʊz/ with its head tilted /tɪlt/ to one side. It was a veryugly bird with a huge pouch /paʊtʃ/ beneath /bɪˈniːθ/ its beak. Suddenly /ˈsʌd.ən.li/, the little black kitten couldnot feel the ground beneath his feet and, without any idea of what washappening, he found himself somersaulting /ˈsʌm.ɚ.sɑːlt/ through the air. Rememberingone of his mother's first teachings, he looked for a place where he could landon all four paws. Instead, what he saw beneath him was the bird, waiting withan open beak.


Nó rơi tọt vào cái bọng, trong đó tối thui và bốc mùi phát khiếp.

He fell right into its pouch /paʊtʃ/, which was very dark and smelt terrible.

"Nhả tao ra! Nhả tao ra!" con mèo con gào lên tuyệt vọng. "ÚI... Nó biết nói," con chim lầu bầu mà không cần mở mỏ. "Mày là cái giống gì thế?"

"Let me out! Let me out!" the kitten bawled /bɑːl/ desperately /ˈdes.pɚ.ət.li/. "My... it can talk," the bird squawked /skwɑːk/ without opening its beak. "What kind of creature are you?"

"Nhả tao ra không tao cào cho bây giờ," con mèo ngao lên đe doạ.

"Let me out or I'll scratch," the kitten yowled /jaʊl/ threateningly /ˈθret.ən.ɪŋ.li/.

"Tao nghĩ mày là con ếch. Mày có phải ếch không?" con chim hỏi, kẹp thật chặt cái mỏ dài. "Ta chết ngập trong này mất thôi, con chim ngu ngốc kia!" mèo con gào lên. "Đúng rồi. Mày là ếch. Một con ếch đen. Kỳ quặc thế."

"I suspect that you're a frog. Are you a frog?" the bird asked, keeping its long bill clamped /klæmp/ tightly shut. "I'm drowning in here, you stupid bird," the little cat cried. "Yes. You are a frog. A black frog. Curious indeed."

"Tao là mèo, và tao phát điên lên rồi đây. Nhả tao ra không thì mày phải ân hận đấy!" Zorba bé bỏng đe doạ, lần mò trong cái bóng tối thui để tìm chỗ cắm móng vuốt.

"I am a cat, and am I mad! Let me out or you'll be sorry!" warned little Zorba, looking for somewhere in that dark pouch to sink his claws.

"Mày tưởng là tao không biết mèo với ếch khác chỗ nào hử? Mèo có lông, nhanh nhẹn và có mùi dép đi trong nhà. Mày là ếch. Có lần tao đã chén vài con ếch rồi, cũng không đến nỗi tệ. Nhưng chúng đều có màu xanh. Nói xem, mày không phải ếch độc chứ, hứ?" con chim rên lên, thoáng chút lo sợ.

"Do you think I can't tell the difference between a cat and a frog? Cats are furry, quick, and they smell of house slippers. You are a frog. I ate several frogs once, and they weren't bad. But they were green. Say, you wouldn't be a poisonous /ˈpɔɪ.zən.əs/ frog, would you?" the bird croaked /kroʊk/, a little worried.

"Đúng! Đúng, tao là con ếch độc, và hơn nữa, tao còn mang tai hoạ đến cho mày đấy!"

"Yes! Yes, I'm a poisonous frog – and besides, I bring bad luck!"

"Ôi, làm thế nào bây giờ? Tao từng xực nguyên con cầu gai độc (nhím biển) mà vẫn sống ngon lành. Làm thế nào bây giờ? Tao sẽ nuốt chửng mày hay nhè mày ra đây?" con chim phân vân. Bỗng nó đột nhiên ngừng lải nhải, bắt đầu nhảy lên nhảy xuống và vỗ cánh bồm bộp. Cuối cùng, nó cũng chịu há mỏ ra.

"What a dilemma /daɪˈlem.ə/! Once I swallowed /ˈswɑː.loʊ/ a poisonous sea urchin /ˈɝː.tʃɪn/ and nothing happened to me. What a dilem-ma! Shall I swallow you or spit you out?" the bird pondered /ˈpɑːn.dɚ/. Suddenly/ˈsʌd.ən.li/ it stopped squawking and started jumping up and down and flapping /flæp/ its wings. Finally it opened its beak.

Zorba bé nhỏ, người đầy nhớt dãi, cố ngoi đầu lên và nhảy ra ngoài. Rồi nó thấy cậu nhóc đang tóm lấy cổ con chim, lắc lấy lắc để.

Little Zorba, wet with slobber /ˈslɑː.bɚ/, stuck his head out and jumped to the ground. Then he saw the boy, who had the bird by the neck, shaking it.

"Mày mù rồi hả, con bồ nông đần độn này! Lại đây nào, mèo con. Tí nữa thì mày tiêu đời trong bụng con chim già xấu xí kia rồi." Cậu nhóc nói rồi bế Zorba lên tay.

"You must be blind, you numbskull /ˈnʌm.skʌl/ pelican! Come on, kitten. You almost ended up in the belly of that ugly old bird," the boy said, and took Zorba up in his arms.

Và đó là khoảnh khắc bắt đầu cho tình bạn kéo dài đã năm năm nay.

And so had begun the friendship that had lasted five years.

Nụ hôn của cậu nhóc trên trán làm phân tán những hồi tưởng của Zorba. Nó nhìn bạn mình khoác balô lên vai, đi ra cửa, và nán ở đó vẫy chào tạm biệt nó lần nữa.

The boy's kiss on his head scattered /ˈskæt̬.ɚd/ the cat's memories. He watched his friend settle /ˈset̬.əl/ the rucksack /ˈrʌk.sæk/ on his back, walk to the door and from there say goodbye one more time.

"Bọn mình sẽ không gặp nhau trong suốt bốn tuần lễ. Tao sẽ nhớ tới mày hàng ngày, Zorba ạ tao hứa đấy."

"We won't see each other for four weeks. I'll be thinking of you every day, Zorba. I promise."

"Tạm biệt, Zorba!" "Tạm biệt" Hai thằng nhóc em cũng gào lên và vẫy chào rối rít.

"Bye, Zorba!" "Bye!" The boy's two younger brothers shouted and waved their goodbyes.

Nó lắng nghe tiếng then cài cửa vang lên hai lần, rồi chạy tới cửa sổ nhìn xuống phố, quan sát gia đình chủ lái xe đi.

He listened as the two locks turned in the door, then ran to the window that overlooked the street to watch his adoptive /əˈdɑːp.tɪv/ family as they drove away.

Con mèo mun béo mập hít một hơi sâu, khoan khoái. Trong suốt bốn tuần lễ, nó đàng hoàng là chúa tể, là chủ nhân của cả căn hộ. Một người bạn của nhà chủ mỗi ngày sẽ tới mở một hộp đồ ăn mèo và dọn dẹp cái thùng vệ sinh của Zorba. Có tới những bốn tuần để nằm ườn trên ghế bành, trên giường hay vọt ra ban công, leo lên mái nhà lợp ngói, nhảy vù từ đó sang mấy cành cây dẻ già, rồi trượt theo thân cây xuống sân trong, nơi nó vẫn khoái tụ tập cùng đám mèo hàng xóm. Nó sẽ chẳng thấy chán tí nào đâu.

Không đời nào!

The big fat black cat drew a deep, contented /kənˈten.t̬ɪd/ breath. For four whole weeks he would be lord and master of the flat. A friend of the family would come every day to open a can of cat food and clean Zorba's litter box. Four weeks to laze about in the armchairs, on the beds – or to go out on the balcony /ˈbæl.kə.ni/, climb to the tile /taɪl/ roof, jump from there to the branches /ˈbræn.tʃɪz/ of the old chestnut /ˈtʃes.nʌt/ tree and slide down the trunk /trʌŋk/ to the inner /ˈɪn.ɚ/ patio /ˈpæt̬.i.oʊ/, where he liked to meet the other neighbourhood cats. He wouldn't be bored. No way.

Ít nhất đó là điều mà Zorba, con mèo mun to đùng, mập ú hình dung ra, bởi nó không thể nào biết được chuyện gì sẽ tới.


At least that's what Zorba, the big fat black cat, thought, because he had no idea what was to come.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro