58. Diều sáo

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mùa hè, chơi diều, thả diều, ngước mắt lên thấy được thảnh thơi như cái diều giữa trời lồng lộng, cả người lớn và trẻ con đều thích. Lên bảy lên tám, làm diều thùng, gấp tờ giấy hình chữ nhật. Tháo sợi tơ, giắt cho diều bay. Có khi cuốn nhanh quá, đứt dây, cái diều bay đâu cũng đành mặc kệ. Nếu thiếu giấy thì xé ở vở, ống tơ thì của nhà, mai lại gấp cái diều khác. Đến khi lớn một chút, biết vót nan, dán giấy, làm diều ông giăng, diều cánh cung, lên chợ mua hẳn cuộn chỉ Tây Hồ làm dây. Thế rồi diều được gió lên, bỗng gặp mưa thủng giấy thì diều rơi đằng diều, dây đằng dây. Lại làm cái khác.

Bây giờ, mới biết không phải chỉ vùng tôi có thú chơi diều, mà cả nước ta, cả thế giới loài người cũng chơi diều. Trên trời có gió thì có cái diều bay. Ở Quảng Đông, Quảng Tây bên Trung Quốc hàng năm tỉnh mở hội diều. Những cái diều màu rực rỡ lên như tung hoa. Ở nước Pháp có hội diều quốc tế, các nước đem diều đến thả thi. Đã hai lần diều Việt Nam được cưỡi tàu bay sang Pháp. Khi tôi viết bài này thì cụ chơi diều ở Huế đương đi thả diều ở tỉnh Li-ông miền nam nước Pháp rồi còn mang diều đi hội các nơi. Những cái diều Huế hình con long, con ly, con quy, con phượng ngũ sắc lung linh có đuôi có đầu, mõm há chân múa bay rỡn trời ngoại thành thủ đô Paris. Hàng vạn hàng triệu người các nước đến xem hội thế giới thả diều.

Quê tôi có hội diều từ lâu, khi tôi còn để chỏm đã biết. Khác hẳn diều thùng, diều ông giăng của trẻ con, cũng không con rồng, con phượng, con xanh xanh đỏ đỏ cầu vồng tung lên trời như diều Thừa Thiên. Vùng tôi chơi diều sáo. Cánh diều tương tự ngang nhau, to rộng như nhau, chỉ khác nhau, hơn nhau, ganh nhau ở tiếng sáo. Cái diều quê tôi không trọng màu sắc, cốt hình thù lực sĩ oai hùng và người ta lắng nghe thưởng thức sáo diều.

Trong làng có ông tôi và bác hương Cang chơi diều nghề nhất. Bây giờ mà còn thú chơi ấy tôi chắc cũng khó ai có công phu và đam mê bằng. Nghe nói trên Phùng, ngoài bờ sông Cái, ở Bồng Lai, Bá Giang vẫn còn hội thi thả diều. Thấy bảo hội diều mở vào tháng giêng, tôi không tin đã là thật thi diều hay là người ta cố gò thả diều vào dịp hội làng. Giêng hai chỉ có trẻ nhỏ chơi cái diều con con ngoe ngoảy lượn trong gió dưới. Còn như cái diều đại, trường khoát như hai cánh phản thì chỉ khi trời lộng gió trên, diều mới lên được. Dù cho dưới cánh đồng im ắng oi ả nóng bức, cái gió trên vẫn giữ được cánh diều và tiếng sáo lưng trời.

Cả năm, bác hương Cang và ông tôi, mỗi mùa mỗi thứ, sắm sửa cho cái diều.

Phải mày mò lên Mường Châu Lương Sơn trên Hoà Bình mới kén được cái thân diều làm bằng giống hóp đá cứng nhất. Hóp đá nhỏ con, rắn mặt, ruột đặc. Nói rõ mua hóp đá làm khung diều, người Mường mới tìm cho cây hóp chết dóc, đỏ tía, nhẹ như cái đòn tay, vác mấy cây về chọn, chẳng phí đi đâu. Cây hóp đá bửa đôi mà làm đòn gánh thì mềm và bền cố hỷ.

Cây tre, cây hóp ngả vào mùa lạnh mới chắc thớ không bao giờ mọt. Hóp đá và tre đực ngâm vào bùn trong ao cả mùa, cả năm. Vớt lên, đẽo vót qua loa rồi đem gác bếp cả bộ sườn, bộ khung. Cuối tháng giêng, dỡ xuống, thanh hóp đá và những mảnh tre cật đã được khói hun óng đỏ, dẻo như cái lạt.

Bác hương Cang lên rừng mua hóp, mua tre, ông tôi ngồi nhà vót, ngâm, gác bếp. Đến đận phiết giấy thì hai người cùng làm. Phiết giấy dán diều cũng tỉ mỉ vất vả. Bác hương hàng ngày bận dệt cửi, chỉ hôm phiên được nghỉ nửa buổi và những đêm đoạn cửi đầu hôm mới ra cặm cụi với ông tôi xếp những tờ giấy bản tháo ở sách viết phóng xin được của ông đồ Huỵch trên làng. Giấy bản có gân vỏ dó, khi seo tờ giấy lại pha gỗ mò, bền không rách được. Dán chập cả chục tờ rồi đem phết cậy. Quả cậy thì bác hương Cang vào trong Mễ Trì quảy về cả thúng. Vỏ cậy giã nhỏ, cầm cái chổi thông lấy nước cậy phiết lên giấy bản, rồi phơi hàng chục lượt, kỹ bằng mấy làm quạt thóc hay nhuộm vải nâu non, nâu già. Chẳng bao lâu, ngoài hiên đã xếp đứng những mảnh giấy to cứng bằng cái nia đại, mặt cậy lên màu nâu sẫm. Phất giấy ấy có mưa xuống như đổ nước vào mo nang, sáo diều vẫn vo vo lơ lửng giữa mưa rào.

Hai ông con cứ rỉ rả bện dây diều, tháng nào lúc nào cũng được. Cuộn thừng đay phải tháo từng dẻ ra xem bọn buôn thừng điêu toa có tráo lẫn thớ nứa vào không. Cái dây diều chỉ cần ba dẻ đay thì vừa nhẹ. Ông tôi và bác hương đánh lại, bện lại sợi thừng đay, xếp lên mỗi cuộn to bằng bắp chuối, bỏ vào nồi ba mươi, luộc suốt một ngày hai đêm.

Xong việc diều, bây giờ bác hương Cang đi sửa sáo. Các vùng ven bên sông Cái hay chơi diều. Có lẽ vì ở nơi sông nước nhiều gió. Mày mò lên đấy mới kiếm được sáo tốt, không phải sáo hàng chợ, nhưng cũng chỉ chuốc được cái lưỡi sáo và đôi miệng sáo đẽo bằng mảnh gộc tre đực.

Còn khoét ra cái thân sáo thì đi thợ tiện phố Hàng Tiện ngoài Kẻ Chợ hay về làng Nhị Khê, quê gốc nghề tiện. Gỗ thị cũng không được, chỉ có gỗ thòng mực dẻo dai mới làm nên thân sáo. Có ba thứ sáo diều: sáo còi nhỉnh hơn đốt tay cái. Sáo đẩu như ống nứa. Sáo chiêng - còn gọi là sáo tù và, to bằng đốt vầu, ống dài nửa thước, hai miệng loe, nom cái sáo to tướng mốc thếch như con trăn gió. Hôm nào gió nhỏ, lắp sáo còi; gió lửng thì chơi đẩu; có gió trên mới đóng sáo chiêng.

Người ra đồng thả diều từ đầu hạ sang cuối mùa thu, bấy giờ trời quang mà lắm gió trên. Cả xóm xúm lại xem cái diều của ông tôi và bác hương Cang đã bày ra sân. Những cuộn thừng đay bó thành vác đặt lổn nhổn như những con lợn tháu. Bác hương đã đặt sẵn cả chục vè tre đực để làm cọc. Cọc mà không đóng cẩn thận, gặp gió lớn thình lình, có thể cả tảng đất bị lôi bật. Cái diều màu cậy nâu sẫm, đồ sộ, lẫm liệt, dang hai cánh dài hai sải tay như con diều hâu, con đại bàng khổng lồ. Có đêm, hốt nhiên bị bão không cuốn kịp, đứt dây, phải cuốn theo hướng gió qua mấy cánh đồng lên tận bãi dâu ven sông Cái mới tìm được chỗ diều lao xuống. Có khi diều đâm, sạt mái nhà, đổ cả bụi chuối.

Bấy giờ, chỉ trông cái diều dựng ngoài sân tôi đã sờ sợ. Ngỡ như con quái vật ghê gớm chốc nữa bay lên đâm tít mù xa. Tiếng sáo diều văng vẳng liên hồi suốt đêm. Các cụ và trai làng ngồi bên gốc dây bàn tán, đánh cược và cho ngôi thứ cái diều nào mà tiếng sáo hay thì được đem cãi cọ trước nhất. Gió nho nhỏ, sáo còi lảnh lót trong không. Khi sáo đẩu rền rền, biết là diều sắp lên tới gió trên, tiếng đẩu chuyển gió dưới lên gió trên có êm không. Có gió, sáo chiêng mới lên tiếng và cả bộ ba chiêng, đẩu, còi trong thinh không hòa vào nhau lan ra vang lừng bầu trời. Không trông thấy diều, nhưng biết diều có lên đứng, có giỏi các tiếng sáo mới được tròn, diều không chao chát, nghiêng ngả. Giải thi diều chấm ăn thua ở cái điểm tiếng sáo bổng trầm hòa khéo vào nhau như phường bát âm ngồi trên trời.

Một người lực điền vác diều ra giữa cánh đồng, đâm diều lên. Hai bàn tay bác hương Cang thoăn thoắt tháo dây. Nghe chừng diều hết chao, lên cao dần, đến lúc vào gió, mới thong thả cánh tay. Lên đến gió trên thì coi như cái diều oai hùng đứng thảnh thơi một mình giữa trời. Đến chặp tối, cả lũ chúng tôi xúm vào kéo dây đưa diều về đồng cao, người lớn đóng cọc buộc lại cẩn thận, chắc chắn. Đêm mùa hè sáng trăng. Không nhìn thấy diều, nhưng sáo chiêng rúc đổ hồi tù và, sáo đẩu rền vang, sáo còi lanh lảnh nỉ non thì rành rõ như nức nở trong tai, đêm ngủ còn nằm mơ nghe sáo. Bây giờ cái diều lẫn bóng trăng, cả lũ đố nhau đứa nào nhìn thấy.

Chúng tôi ngồi quanh cọc dây, ngẩng đầu, cố tìm. Chỉ có trẻ con tò mò, còn ông tôi, bác hương và mấy người lớn cởi trần ra, uống rượu. Thức nhắm là một rổ ốc vặn luộc ban trưa lên hồ Tây xúc được một mẻ. Chúng tôi cũng nhể ốc ăn rồi kềnh ra nằm nghe sáo diều, có đứa ngủ trong tiếng sáo ngay trên bãi cỏ. Sáng ra trở dậy, chỉ còn trơ mấy thằng trẻ con lăn lóc. Từ gà gáy, bác hương Cang đã cuộn dây thu diều xuống. Sáng sớm ai nấy lại mỗi người một việc, vào khung cửi, đi chợ. Đến chiều đem diều ra thả, cuộc chơi lại như đêm qua trong sáng trăng.

Ông tôi và bác hương Cang mất đã lâu. Không còn ai trong làng giỏi chơi diều sáo. Nhưng tôi vẫn nhớ tiếng sáo chiêng, sáo đẩu, sáo còi đổ chiêng, đổ trống, đổ còi vi vu trên cánh đồng giữa ánh trăng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro