21->30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 21

*Note: Khuyến cáo ai đang ăn thì ăn tiếp mấy miếng cho nốt hoặc dừng lại, đoạn sau có cảnh...

Thẩm Hi chạy lung tung trên đường, gặp ai liền hỏi người ta xem có thấy một người đàn ông bị mù, trên mặt buộc mảnh vải che mắt hay không, nhưng ai cũng đã trơ lặng với cái chết, chỉ lạnh lùng lắc đầu, khiến nàng như bị đẩy vào vực sâu tuyệt vọng.

Thời gian trôi qua, rốt cuộc Thẩm Hi khóc không nổi nữa, nước mắt nàng đã chảy khô, cổ họng khàn rát, đôi mắt cũng sưng vù, mới có người hảo tâm nói cho nàng một câu, đi ra bãi tha ma ngoài thành bên cạnh trấn xem thử xem, xác chết đều bị kéo ra chỗ đó.

Thẩm Hi ngơ ngác gật đầu, theo chỉ dẫn của người nọ mà đi ra khỏi trấn.

Còn chưa đến bãi tha ma, nàng đứng ở nơi xa đã ngửi thấy một mùi hôi thối phả vào mặt. Nàngđau buồn chết lặng mà bước chậm đến bãi tha ma, chỉ mới nhìn qua đã cong người nôn đến quặn ruột.

Trên bãi tha ma là vô số thi thể, ruồi nhặng bay vù vù, giòi bọ bò đầy đất, các loại sâu giòi chui nhủi trong hốc mắt thi thể, có cái xác đã thối nát không nhìn ra hình thù, có xác máu me nhầy nhụa, có cái xác bụng căng trướng tròn vo, cảm tưởng nó sẽ nổ tung ngay lập tức... Thẩm Hi chưa từng nhìn qua cảnh tượng khủng khiếp như địa ngục trần gian như vậy, lại bị mùi hôi thối xông đầy mũi, suýt nữa ngất đi.

Nghĩ đến Người mù, nhớ đến khoảng thời gian giữa hai người, Thẩm Hi lại dũng cảm lên, nàng bắt mình nhìn lại xung quanh, từ một đống một đống thi thể cố tìm ra được hình bóng quen thuộc kia. Nàng đi một đoạn, phát hiện ra càng đi vào trong các xác chết càng phân hủy nặng, mà đống xác bên ngoài thì vẫn khá nguyên vẹn, chứng tỏ những người chết trước bị ném ở bên trong, càng đi ra ngoài là những xác chết mới được đưa đến, vì vậy Thẩm Hi lại đi vòng ra ngoài tìm kiếm, mỗi lần thấy bóng dáng áo lam nàng lại tuyệt vọng một lần.

Thẩm Hi đi quanh bãi tha ma tìm khắp một lần, cũng không thấy được thi thể Người mù, lại thấy không ít hàng xóm cùng khách quen đến ăn cháo mỗi sáng. Quách thẩm đã gầy sọp như que củi, cũng bỏ mạng trong tràng nhân họa này, khuôn mặt nàng vẫn hằn rõ nét thống khổ trước khi chết; có đứa bé đã từng đến chúc tết nhà Thẩm Hi, vẻ mặt ngơ ngác như đang muốn hỏi tại sao chuyện này lại xảy ra, sao không cho nó có cơ hội được trưởng thành; còn có chàng thư sinh Thanh Hiên, đã từng hăng hái chỉ điểm câu đối trước cửa nhà nàng hôm mùng một tết, hắn không bị đói chết, nhưng trên cổ hắn là một vết đao sâu hoắm, khuôn mặt trẻ tuổi tuấn tú đã mất đi sinh khí...

Mạng người yếu ớt, con người mấy hôm trước trông thấy còn vui vẻ cười nói, đi lại, hôm nay đã biến thành một xác chết lạnh băng, không có người chôn cất khóc than, chỉ dư lại một cái xác dần mục ruỗng...vì cái gì, vì cái gì họ phải chết như vậy?

Mỗi lần nhìn thấy một khuôn mặt quen thuộc, Thẩm Hi lại đau lòng một lần, dần dần, nàng đã đau đến chết lặng, không biết cái gì là đau đớn nữa. Dòng lệ tưởng chừng như đã cạn khô lại chảy xuống. Đến lúc đi đến chỗ sâu trong bãi tha ma, nàng mới thấy có mấy người xanh xao vàng vọt đang mệt mỏi cầm xẻng đào từng xẻng đất đem các thi thể kia chôn cất.

Thẩm Hi vội vàng chạy tới, nhưng chưa kịp đến gần đã nghe tiếng quát: “Tiểu nương tử kia đừng đến đây, cẩn thận trúng thi khí!” Nàng vội dừng bước, khàn khàn giọng hỏi: “Các ngươi đang làm gì vậy?” Người quát nàng lúc nãy trả lời: “Thời tiết nóng nực, nếu không chôn những thi thể này sợ rằng sẽ bùng phát ôn dịch. Tiểu nương tử, ngươi đến nơi này làm gì?” Thẩm Hi nức nở: “Hôm qua nhà ta bị người ta xông vào, trượng phu của ta không thấy...”

Người kia thương tình nhìn nàng: “Tiểu nương tử, không phải ta muốn ngươi từ bỏ, nhưng ta nói thật, tôn phu chỉ sợ đã dữ nhiều lành ít. Ngươi cũng đừng tìm tiếp nữa, chỗ này trở lên bọn ta đã chôn hết rồi, có muốn tìm cũng không tìm được đâu.” Nghe hắn nói, Thẩm Hi như sét đánh ngang tai, nàng xây xẩm mặt mày, ngồi bệt xuống đất, khiến ruồi muỗi chung quanh bay vù vù.

Nàng ngồi một lúc, mới chống tay đứng dậy, miễn cưỡng nói cảm ơn, mới tập tễnh rời đi. Không biết bao lâu, đến lúc nàng lấy lại tinh thần đã ngồi ngây ngẩn ở nhà, ngôi nhà đã không còn là tổ ấm như trước nữa.

Cửa hỏng, nghiêng ở một bên, cửa sổ bị chém làm hai nửa, kháng bị người đào lên, gạch đá với đệm chăn lẫn lộn một chỗ. Quần áo trong tủ không bị cướp mất, nhưng bị ném hết ra khỏi tủ, vương vãi trên nền nhà. Phòng bếp đã trống trơn, cả mấy cái bình rỗng cũng bị đập vỡ, khế ước mua bán nhà mà nàng giấu đi cũng mất, chỉ còn bản hộ tịch ghi tên Giả Như Chân và Giả Thẩm thị Tây bị ném xuống đất. Hơn mười cân gạo Thẩm Hi mới mua cùng dầu muối... đều bị cướp hết sạch, ngay cả mấy luống ra ngoài vườn cũng bị nhổ sạch.

Nhìn ngôi nhà chính tay mình gầy dựng bị phá thành như vậy, Thẩm Hi đau lòng đến không thở nổi. Nàng đứng ngơ ngác trong sân một hồi, đến lúc mệt đến đứng không vững mới đi vào nhà, cửa cũng không đóng, nằm co vào góc tường mà nửa tỉnh nửa mê.

Không biết nàng đã nằm đó bao lâu, bị tiếng động làm tỉnh lại, thấy hai bóng người gầy tóp đang lật tủ. Nàng không ra tiếng, cũng không đứng dậy đuổi người, chỉ hờ hững mà nhìn, đôi mắt tối tăm không chút ánh sáng. Hai người kia tìm thêm một lát, không có đồ nào có thể dùng bèn liếc Thẩm Hi một cái rồi bỏ đi.

Người mù đã chết, Thẩm Hi cũng như chết theo. Nàng không biết mình còn sống thêm để làm gì, ở nơi loạn thế này đã không có người nào khiến nàng để tâm nữa, nàng cũng không cần sống trong cảm xúc sợ hãi luôn bủa vây. Chẳng bằng cứ như vậy, có lẽ đến lúc mở mắt ra nàng sẽ thấy mình vẫn đang nằm trên chiếc giường Simmons êm ấm, thở ra một hơi mà nhớ về cơn ác mộng đêm qua. Thẩm Hi nghĩ như vậy, cũng nhắm mắt lại.

Trong luc mơ màng, nàng lại nghe thấy tiếng động lục đục, có lẽ là lại có người vào nhà lục lọi đồ đạc, nhìn thấy nàng đang nằm đó cũng mặc kệ, cho rằng nàng đang nằm chờ chết đói, thế nên may mắn mà không ai đụng phải nàng. Thẩm Hi cứ nằm như vậy, tỉnh rồi lại nhắm mắt lại, không ăn không uống ngày qua ngày, có lẽ qua rất lâu, hay chỉ qua mấy ngày, khi đó nàng đã sắp hôn mê, bỗng cảm giác được có người đỡ nàng dậy, mớm chút nước cho nàng.

Người mù trở lại sao?

Thẩm Hi cố hết sưc mở mắt ra nhìn, ánh vào mắt không phải khuôn mặt quen thuộc của Người mù mà là Lý lão tiên sinh đầu tóc bạc trắng. Ông thấy Thẩm Hi tỉnh, lại bưng bát đến bên miệng nàng, giọng hiền từ: “Thẩm nương tử, uống chút nước đi, chỗ ta còn có một nắm gạo, ngươi yên tâm đi không chết đói được.” Thẩm Hi lại cố sức ngoảnh đầu sang một bên, giọng thều thào: “Không,.. ta muốn đi... tìm tướng công... nhà ta...” Thời gian này Lý lão tiên sinh đã nhìn quen sinh tử, nghe nàng nói vậy cũng không ngừng lại, chỉ là khuyên tiếp: “Thẩm nương tử, ngươi đừng nghĩ vậy, thấy ngươi như bây giờ, chắc chắn tướng công nhà ngươi cũng không muốn ngươi đi tìm hắn.”

Thấy nàng vẫn nhắm mắt lại, Lý lão tiên sinh vội nói tiếp: “Chết có gì khó, nhưng ngươi đã chết, nhà tướng công ngươi cũng bị chặt đứt huyết mạch, nếu là tướng công của ngươi trên trời có linh, cũng không muốn nhà mình bị đứt hương khói.”

Huyết mạch?

Thẩm Hi giật mình, mở to mắt, nàng không dám tin: “Ta... mang thai rồi?” Lý lão tiên sinh vội đáp: “Ngươi đúng là ngốc, đang có thai mà cũng không biết, vừa nãy ta có bắt mạch qua, ngươi đã mang thai được hơn tháng rồi”.

Nàng thật có thai? Con của Người mù? Đứa bé mà mình mong đợi đã lâu đã lặng lẽ đến rồi sao?

Niềm vui đến bất ngờ, Thẩm Hi vừa vui vừa sợ, tim nàng đập thình thịch, bỗng nhiên đảo mắt, ngất đi.

Đến lúc nàng tỉnh lại trời đã tối rồi. Lý lão tiên sinh vẫn ngồi trông nàng, thấy nàng tỉnh liền đem sang một bát cháo, gọi là cháo nhưng thực chất là nước cơm, dưới đáy chỉ có một tầng gạo mỏng: “Thẩm nương tử, mau ăn cháo đi, ăn rồi mới khỏe lên được.” Thẩm Hi nghe lời, nhưng nàng đã đói lâu lắm, giờ kiệt sức, chỉ hơi nhúc nhích đã đầu váng mắt hoa. Lý lão tiên sinh thấy nàng không dậy nổi đành ngồi lại, đỡ nàng dậy rồi đưa bát đến bên miệng nàng. Lúc này Thẩm Hi như được quỳnh tương ngọc lộ, uống sạch bát cháo loãng.

Lý lão tiên sinh lại dìu nàng nằm xuống, lúc này mới nở nụ cười: “Vậy là được rồi, ngươi không muốn sống nhưng phải cố sống cho đứa nhỏ chứ. Đừng quá tuyệt vọng, không chừng qua mấy hôm sau triều đình sẽ đến đây cứu tế, ngươi cố đợi mấy ngày.” Thẩm Hi thở phào nhẹ nhõm, yếu ớt cảm tạ ông: “Lý tiên sinh, cảm ơn ngài...”

Lý lão tiên sinh cười, khuôn mặt ông gầy yếu đến má hóp lại, nụ cười có hơi đáng sợ: “Cần gì cảm tạ, ai cũng có lúc gặp rủi ro mà. Giờ được rồi, ngươi mau nghỉ ngơi đi, ta phải đi rồi, cả nhà đang đợi ta về ăn cơm, ta phải đi nhặt chút củi.” Thẩm Hi vội hỏi: “Nhà ngài ở đâu... để ta có việc còn tìm ngài...?”

Lý lão tiên sinh đáp: “Ta ở Lý gia cựu trạch (nhà cũ Lý gia) chỗ cửa thành Nam, nếu có chuyện gì hay thân thể không thoải mái thì tới tìm ta. Một ít bệnh nhỏ ta vẫn chưa được.” Nói xong, ông tập tễnh đi rồi.

Nhà cũ Lý gia phía cửa nam, Thẩm Hi nhớ đinh ninh địa chỉ vào trong lòng, chờ lúc mình khỏe lại, nhất định phải trả ơn lão nhân gia.

Lý lão tiên sinh đi rồi, Thẩm Hi lại nằm trên mặt đất đến nửa đêm, có lẽ là có bát cháo loãng vào bụng nên nàng cũng khỏe dần, tay chân cũng có chút sức. Nàng đứng dậy, chậm rãi đi sửa lại cánh cửa, nhưng mỗi việc này cũng khiến nàng mệt đến bở hơi tai, phải ngồi nghỉ chốc lát.

Nàng nghỉ xong, mới đi nhặt mấy hòn đá chèn lại vào cổng, sợ ít đá người ta đẩy được cổng, vừa nghỉ vừa chèn thêm hơn mười hòn đá mới dừng lại. Nàng mệt đến nằm bệt xuống đất, cũng chưa vội đứng lên mà còn chú ý lắng nghe động tĩnh ngoài đường xem có ai qua lại không. Đợi đến ngoài kia thật sự đã yên tĩnh rồi nàng mới đi vào trong bếp, cầm lấy cái xẻng bị gãy cán, nghĩ nghĩ, nàng lại tìm thêm một con dao với cái chậu gỗ chưa bị vỡ. Mấy thứ đồ nhỏ nhặt này không ăn được, lấy lại không có tác dụng gì nên mới không bị người ta lấy đi.

Thẩm Hi mang mấy thứ này ra vườn, tìm đến chỗ chôn gạo, ngồi xổm xuống cẩn thận đào từng nhát, sợ tiếng động quá lớn dẫn đến chú ý nên nàng đào rất chậm, cũng xúc rất nhẹ. Nàng lại đang suy yếu nên đào mấy xẻng lại dừng lại, vừa nghỉ vừa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài, không nghe thất gì nàng mới đào tiếp. Qua hơn nửa đêm Thẩm Hi mới đào được một bao gạo lên.

Nàng cầm dao cắt mở vải dầu và miệng túi, lặng lẽ đổ ra một chậu gạo, sau đó lại gói kĩ túi lại, kéo kĩ vải dầu rồi chôn lại bao gạo xuống. Vùi đất xong, Thẩm Hi cố hết sức đi cạnh giếng múc một thùng nước, xách ra chỗ chôn gạo rồi vẩy đều nước lên che dấu. Nhân lúc trời chưa sáng, Thẩm Hi vội trở vào phòng bếp nấu nửa nồi cháo.

Cháo mới nấu xong, nàng không kịp đợi nó nguội, vội vàng múc một bát ăn ngấu nghiến, nhưng sợ dạ dày bị đói lâu không tiêu hóa được nên Thẩm Hi cũng không dám ăn nhiều, bèn đặt bát xuống. Ăn xong, nàng cũng khỏe lại một chút, nàng đổ số gạo còn lại vào một túi vải, sau đó dập tắt lửa trong bếp, lại nhét túi gạo vào trong lòng cái lò chuyên để nấu cháo, để ngụy trang, nàng còn đem tro bụi rắc đầy lên túi.

Số cháo dư lại, Thẩm Hi đợi qua một lúc lại ăn tiếp hai bát, sau đó đậy kín vung nồi, nhét cả nồi vào trong lòng kháng đã bị đập phá.
CHƯƠNG 22

Đến khi trời sáng, Thẩm Hi đã khôi phục khá tốt, nàng tìm hai tấm ván gỗ, đặt tạm làm ván giường, rồi nằm đó nghỉ cho lại sức, giấc ngủ này khá tốt, có thể do cổng bị chặn nên không có người tới, lại có hi vọng nên Thẩm Hi thả lỏng thần kinh. Buổi trưa tỉnh lại, nàng lấy nồi cháo ra ăn tiếp, còn thừa lại một ít, lại để vào chỗ cũ.

Ăn mấy bữa cơm, Thẩm Hi cũng khỏe dần, nàng chợt nhớ đến nhà thúy cô, bèn trèo lên chỗ cao nhìn sang nhà bên, thi thể ba người đã không ở đó, có lẽ là bị người t a khiêng đi rồi. Nàng biết giờ nhà thúy cô không có chủ, mà tường nhà mình liền với nhà thúy cô, cũng không cao lắm nên dễ bị người từ ngoài nhảy vào được, vì vậy nàng lại mở cửa lách người ra ngoài, đóng cổng nhà thúy cô lại, lấy dây buộc chặt, trở về nàng lại nhặt thêm không ít gạch đá với gỗ vụn. Trời đã gần tối, Thẩm Hi mới vào nhà, nhặt đá chèn lại cổng. Nàng ăn hết số cháo để dành, nằm trên ván gỗ nghỉ ngơi, đến nửa đêm nàng mới dậy, vo gạo, bắc nồi lên bếp, dùng những đầu gỗ mà buổi chiều nhặt nhạnh làm củi đun, nấu cháo xong nàng múc một bát, còn thừa lại thì giấu đi như hôm qua.

Hôm sau Thẩm Hi cũng lấy lại sức, nàng ra đường nhặt được không ít đồ, giờ người chết đi nhiều, rất nhiều nhà đã biến thành vô chủ, gạch đá với đầu gỗ nơi nào cũng có. Trên đường rất vắng, cơ bản mọi người giờ ai cũng đói đến sắp suy kiệt nên không có sức lực đi lại, cũng sợ bị cướp bóc nên luôn đóng chặt cửa nhà, Thẩm Hi cũng chọn những nơi thường ít người qua lại mà đi nên không gặp nguy hiểm gì.

Nàng thấy gạch đá đã nhặt được khá nhiều, bèn trộn bùn, đắp thêm gạch lên đầu tường, đến lúc bức tường đủ độ cao khiến nàng an toàn rồi mới dừng lại. Mấy hôm sau nàng vẫn không ngừng đi nhặt thêm gỗ vụn, chân bàn ghế, song cửa sổ... về xếp đầy sân, để dành làm củi đốt, rồi mới lấy mấy khúc gỗ lớn chèn chặt cổng.

Dù làm nhiều đề phòng như vậy, Thẩm Hi vẫn không cảm thấy an toàn, mỗi khi trời tối, nàng sẽ nằm co rúm trên tấm ván giường mà sợ chuyện tối hôm trước lại xảy ra, đột nhiên có người xông vào muốn giết nàng. Khoảng thời gian này nàng thấy sống một ngày mà dài bằng một năm, chỉ đến khi đặt nhẹ tay lên bụng, cảm nhận được một sinh mạng nhỏ bé đang nằm bên trong, nàng mới tìm được dũng khí để mình sống tiếp.

Sinh mạng nhỏ này là mong nhớ hơn năm tháng của nàng, là giọt máu của Người mù để lại...

Người mù, Người mù, sao ngươi lại nhẫn tâm như vậy, bỏ lại ta cô đơn một mình tại nhân thế hiểm ác này...

Người mù...

Thẩm Hi nước mắt tuôn trào, không ngừng gọi tên hắn.

Những ngày tiếp theo, không biết có phải nơi này đã bị lục soát qua nên không ai đến chỗ nhà Thẩm Hi nữa.Hàng ngày nàng đều nửa đêm lén lút dậy nấu cơm, nhưng giờ đang vào cuối tháng bảy, trời vẫn nóng nực nên cơm để sang ngày sau sẽ thiu, Thẩm Hi không dám nấu nhiều, chỉ đủ lượng cơm một ngày ăn, đến đêm lại dậy nấu tiếp. Nàng cố gắng ăn một ngày bốn bữa cơm, cuối cùng cũng khỏe hẳn, dù người nàng nhìn vẫn rất gầy yếu, nhưng không đến mức động tí là chóng mặt thở phì phò như hôm trước.

Nàng cứ đóng cửa sống qua mấy ngày, một buổi trưa mới ăn cơm xong, Thẩm Hi bỗng nghe được tiếng đập cửa.

Thẩm Hi như chim sợ cành cong. Lại có người đến cướp lương thực?

Nàng vèo một cái nhảy xuống giường, xông đến phòng bếp cầm lấy vũ khí duy nhất trong nhà là con dao phay ra, mới nép vào sau cánh cổng, chuẩn bị nếu có người xông tới là chém một dao. Đang lúc nàng hồi hộp đến không dám thở mạnh, người ở ngoài lại gọi: “Thẩm nương tử, Thẩm nương tử có ở bên trong không? Ngươi còn sống chứ? Có tin tốt rồi, ngươi không cần trốn nữa, chiến tranh không lan đến chỗ chúng ta rồi! Trung Nhạc quốc sẽ không diệt vong, chúng ta thắng rồi! Bảy ngày trước Kiếm Thần Hoắc Trung Khê đã xuất hiện trên chiến trường, giết chết Hồng Phong. Thẩm nương tử, chúng ta không phải chịu khổ nữa rồi, triều đình đã hạ lệnh cứu trợ thiên tai, chúng ta sắp có lương thực rồi! Thẩm nương tử, ngươi có còn ở đó không?”

Nghe giọng nói, Thẩm Hi biết là Lý lão tiên sinh đến, lại nghe được ông nói về sau không có chiến tranh, Hoắc Trung Khê xuất hiện, nàng đã nhẹ cả người, sau đó là mừng đến muốn khóc. Giờ khắc này, nàng cảm thấy Hoắc Trung Khê không khác gì thần tiên giáng thế, còn vĩ đại hơn Phật Tổ Như Lai hay Ngọc Hoàng Đại đế nhiều lắm.

Nàng vui mừng hỏi lại Lý lão tiên sinh: “Thật vậy chăng tiên sinh? Chiến tranh kết thúc rồi sao?” Lý lão tiên sinh cười lớn: “Đúng vậy! Ta không lừa ngươi. Thẩm nương tử, ta thề nếu ta nói dối thì kiếp sau ta sẽ làm con trâu cho trẻ con nó cưỡi!”

Đến cả Lý lão tiên sinh cũng nói đùa, xem ra ông ấy đã vui đến sắp ngất rồi. Thẩm Hi không do dự nữa, nàng vừa lau nước mắt vừa dọn gạch đá ra khỏi cổng. Dọn một lúc lâu, rốt cuộc cánh cổng cũng mở ra, cửa vừa mở Thẩm Hi đã thấy Lý lão tiên sinh đang mỉm cười đứng trên đường, chỉ là ông đã gầy đến da bọc xương. Thẩm Hi rơi lệ, cười nói: “Lý lão tiên sinh, ngài xác định tin này là thật sao?” Lý lão tiên sinh đáp: “Là thật, tuyệt đối là vậy, ngươi xem bây giờ không phải người ta đã ra đường rồi sao?”

Thẩm Hi nhìn lại hai bên, quả thật trên đường có mấy người gầy ốm đang lung lay đi lại, trên mặt đều mang tươi cười. Lúc này nàng mới thở dài một hơi nhẹ nhõm, yên tâm trở lại. Lý lão tiên sinh báo tin cho nàng xong, cũng cáo từ: “Thẩm nương tử lát nữa ngươi vẫn đóng kín cổng lại tốt hơn, lương thực cứu tai phải mấy ngày nữa mới đến được đây, ngươi vẫn phải cẩn thận chút cho thỏa đáng.” Nói xong ông đã quay người đi, Thẩm Hi vội gọi lại, thấp giọng hỏi: “Tiên sinh, có phải nhà ngài đã cạn hết lương thực rồi không?”

Ông cười khổ: “Nhà ta sớm đã thua lỗ, chút tiền còn dư dù có mua được lương thực nhưng trong nhà đông người, lại thêm cả nhà lão bằng hữu nên có thể chống đến giờ cũng tốt lắm rồi.” Thẩm Hi nói nhỏ: “Tiên sinh, nhà ta vẫn còn chút lương thực, đến tối ngài qua đây một lát, giờ ban ngày sợ người ta thấy.” Lý lão tiên sinh quả quyết từ chối: “Không cần lo cho ta, nhà ta tùy tiện ăn cái gì lấp đầy bụng cũng được, ngươi bây giờ không phải là một người, lương thực đó ngươi để lại đi.”

Thẩm Hi kiên trì: “Tiên sinh, bản thân ta có chừng mực, ngài cứ nhận đi.” Lý lão tiên sinh biết nàng không phải người lỗ mãng, cân nhắc một lát rồi gật đầu. Ông đi rồi, Thẩm Hi lại đóng kín cổng, vui sướng chạy nửa vòng quanh sân. Trước kia khi nhắc tới vo thần, Thẩm Hi không cho là đúng, ở kiếp trước vận mệnh quốc gia đều là phụ thuộc vào quốc phòng, chưa từng tùy vào vận mệnh một con người nào đó. Dù lực lượng một người có mạnh cỡ nào cũng không thể chưởng khống được cả một quốc gia, nguyên nhân chính là võ thuật đã suy đồi, có người cả đời cũng chưa từng chân chính tiếp xúc với võ thuật, hơn nữa võ thuật ở đó chỉ là thuật, ít có võ, càng không nói đến khinh công hay nội công, những cái đó chỉ tồn tại trong tiểu thuyết. Vậy nên đối với võ học, Thẩm Hi luôn hoài nghi chứ không tin tưởng vào nó. Thế nhưng trong xã hội này, trải qua một hồi phong ba sau nàng rốt cuộc hiểu được sự quan trọng của võ lực, cũng đổi mới cái nhìn về võ thần. Con người tên là Hoắc Trung Khê này xứng đáng là một nhân vật đáng kính.

“Người mù, ngươi có nghe thấy không, không có chiến tranh nữa rồi, kết thúc rồi, Người mù...” Thẩm Hi lẩm bẩm nức nở, cười đến rơi lệ, không biết giờ nên vui hay buồn.

Buổi tối Thẩm Hi nghe ngóng xung quanh đã yên tĩnh, liền cầm cái xẻng đến trong sân lặng lẽ đào ra một túi lương thực, sau đó kéo cái túi đến bên cổng chờ Lý lão tiên sinh. Nàng đợi ở đó đến nửa đêm mới nghe tiếng bước chân đến gần, sau đó là giọng Lý lão tiên sinh vang lên khe khẽ: “Thẩm nương tử, Thẩm nương tử.” Thẩm Hi hé cửa ra nhìn, thấy đúng là ông liền nhẹ nhàng đẩy cửa ra, cũng không bảo ông tiến vào, nhanh chóng đẩy túi gạo ra rồi ý bảo ông đi mau, mới đóng kín cửa lại. Lý lão tiên sinh thấp giọng: “Thẩm nương tử, đại ân này không lời nào cảm tạ hết được”, nói xong, ông liền vác túi đi.

Lúc trước Thẩm Hi dấu rất nhiều lương thực, cả sân đều chôn kín, ăn qua mấy tháng nay cũng chưa hết một nửa, lại thêm lần trước nếu không có ông, nàng cùng đứa bé trong bụng đã mất mạng, giờ triều đình đã chuẩn bị cứu đói, số lương thực này nàng không luyến tiếc.

Lại qua hai ngày, Lý lão tiên sinh đến báo cho nàng biết triều đình đã phái người xuống, lương thực với bạc cứu nạn cũng đang trên đường, nhiều nạn dân nghe được tin cũng trở lại, ông dặn Thẩm Hi khóa cổng cẩn thận, vào lúc này không được lơ là chủ quan.

Nghe lời Lý lão tiên sinh, Thẩm Hi lập tức tìm thêm mấy khúc gỗ to chặn lại cổng, bóng tối trước bình minh dễ khiến người ta thả lỏng cảnh giác nhất, cũng dễ khiến người mất mạng nhất. Nàng một thân một mình, cẩn thận là trên hết. Thẩm Hi đếm từng ngày, chờ mong triều đình mang lương thực và bạc đến, mọi người không bị đói, mình cũng yên tâm, nhưng ba ngày sau Lý lão tiên sinh hớt hải chạy đến, đập cửa ầm ầm.

Thẩm Hi vừa đến cạnh cửa đã nghe ông gọi: “Thẩm nương tử, mau mở cửa, ta có việc gấp.” Nàng vội chạy đến, chưa kịp mở cửa đã hỏi: “Lão tiên sinh, lương thực của triều đình đến nơi rồi sao?” Lý lão tiên sinh ghé vào khe cửa, thấp giọng nói: “Thẩm nương tử, không hay rồi, có lẽ chúng ta không được cứu trợ đâu.”

Thẩm Hi giật mình, không lẽ Hoắc Trung Khê đã xảy ra chuyện, Bắc Nhạc quốc lại đánh vào sao? Nàng vội vàng hỏi: “Sao vậy? Chiến tranh lại xảy ra sao?”

Lý lão tiên sinh lắc đầu: “Không phải chuyện này.” Ông nhỏ giọng nói vào khe cửa: “Thẩm nương tử, mấy hôm nay nạn dân tràn vào trong trấn nhiều lắm, hôm trước có mấy người sốt cao đột ngột rồi thượng thổ hạ tả (nôn mửa tiêu chảy), hôm qua lại thêm gần 30 người cũng bị theo. Ta có biết sơ y thuật, nếu đoán không lầm thì nơi này đang có dịch bệnh.”

“Dịch bệnh?!” Thẩm Hi hô khẽ một tiếng, lại nhanh lấy tay bịt miệng, không để mình kêu to.

Dịch bệnh, chính là bệnh truyền nhiễm ở đời sau. Khi đó y học đã phát triển nhưng mỗi năm vẫn có người chết vì dịch cúm, sốt xuất huyết, huống chi đây là thời cổ đại, thiếu thốn thuốc thang, lại không có vacxin tiêm chủng, dịch bệnh đồng nghĩa với cái chết, hơn nữa còn là chết rất nhiều người. Thẩm Hi nhớ trong lịch sử cũng có ghi lại mấy đợt dịch bệnh lớn, chết đến mấy triệu người, hình như là dịch tả hay bệnh đen gì gì đó.

[Note: Vào khoảng từ TK XIV ở châu Á và châu Âu có xảy ra đại dịch hạch, đỉnh điểm ở châu Âu từ năm 1348 - năm 1350, giết chết từ 30 – 60% dân số châu Âu. Dịch bệnh bị lan truyền bởi cá thể trung gian là chuột, sau đó lây sang người. Các nhà sử học gọi đợt đại dịch này là Cái Chết Đen. Về sau dịch bệnh này vẫn bùng phát trở lại và đến cuối TK XIX mới biến mất]

Thẩm Hi không biết y thuật, không biết bệnh truyền nhiễm biể hiện ra sao, nhưng nàng tin lời Lý lão tiên sinh. Ở cổ đại, y học không phát triển mạnh, đại phu cũng ít nên một số người đọc sách cũng sẽ biết bắt mạch, bốc một ít thuốc trị bệnh vặt, cũng không ít người đọc sách trở thành y giả vĩ đại. Thẩm Hi biết Lý lão tiên sinh là người cổ hủ lại ngay thẳng, nếu chuyện không chắc chắn ông sẽ không nói ra.

Huống chi, từ đầu tháng sáu đã có một số người chết, đến tháng bảy dân đói càng chết như ngả rạ, hàng ngàn hàng vạn thi thể thối rữa ở bãi tha ma ngay đúng lúc tiết trời nắng nóng, rất dễ bùng phát dịch bệnh, điều này Thẩm Hi cũng tận mắt chứng kiến.
CHƯƠNG 23

Lý lão tiên sinh khuyên Thẩm Hi: “Thẩm nương tử, nếu ngươi tin ta thì mau nghe lời, sớm rời khỏi đây đi. Bây giờ bệnh dịch bùng phát, xung quanh rất nguy hiểm. Ngươi nghe lời ta, đi thật xa, đừng trở lại.” Thẩm Hi thương tâm: “Tiên sinh, ngài xem thiên hạ này còn có chỗ cho tiểu nữ tử dung thân sao? Người muốn sống mà sao khó đến vậy?”

Lý lão tiên sinh cười khổ: “Ngươi nghe cho rõ, đi ra khỏi thôn trấn này, ngươi hãy đi về phía đông đi, đừng dừng lại, đi cho đến bờ biển mới thôi. Người sống cạnh biển có lề thói đóng thuyền, nếu trên bờ xảy ra dịch bệnh, họ sẽ dong thuyền chuyển ra đảo, ở bờ biển ngươi sẽ được an toàn.”

Thẩm Hi nghe ông nói đầy bi ai, tựa hồ ông không muốn ròi khỏi, vì vậy hỏi: “Tiên sinh, ngài có đi không? Ta chỉ là một phụ nhân yếu đuối, đơn độc đi đường rất nguy hiểm, thân mình lại không tiện, nên muốn đi theo mọi người để dễ bề chăm sóc nhau.” Lý lão tiên sinh im lặng một lát, mói nói: “Cả gia tài nhà ta đều mang ra mua lương thực hết rồi, bây giờ không còn đồng nào, làm sao đi được đây. Đành ở lại đây thôi, chờ triều đình phát lương thực tiền bạc xuống rồi tính tiếp vậy.”

Thẩm Hi cũng không khuyên ông nữa, nàng nói: “Tiên sinh, đêm nay ngài lại tới đây đi, ta để lương thực dư lại cho ngài, sáng sớm mai ta sẽ rời khỏi đây.” Lý lão tiên sinh thở dài: “Sáng mai ta tới tiễn ngươi ra khỏi thành, ngươi ngàn vạn đừng đi một mình, bây giờ nạn dân trôi dạt khắp nơi, chỉ sợ sẽ có người xấu.” Thẩm Hi gật đầu.

Lý lão tiên sinh đi rồi, nàng nhặt hết đống quần áo ném lung tung dưới chân tường ra, cái nào không mặc được thì cắt ra, khâu lại thành hai cái bao đựng đồ. Vừa khâu Thẩm Hi lại không dừng được nước mắt. Cái áo này là của Người mù. Chính tay nàng kiếm được tiền, vào tiệm quần áo mua cho hắn, ngày ngày giúp hắn cởi ra giúp hắn giặt, ngay cả chỗ ống tay áo bị rách cũng là nàng lấy kim may lại, đường chỉ xộc xệch, mặt vải nhăn nhúm nhưng hắn vẫn mặc như thường. Bây giờ áo còn ở, người đã không ở đây.

Giờ Thẩm Hi đã biết vì sao Lý Thanh Chiếu viết được câu “Vật thị nhân phi sự sự hưu/ Dục ngữ lệ tiên lưu” (Vật đổi sao dời mọi việc thôi/ Chưa nói lệ tuôn rồi) tồn lại cho hậu thế, bởi vì trượng phu của hai người đều đã mất, hai người đều mất đi người quan trọng nhất của đời mình.

Nàng cố nén nước mắt, chăm chú từng mũi kim làm xong bao đựng đồ, sau đó nhặt lấy hai bộ quần áo tươm tất nhất của mình với Người mù gói lại, nghĩ đến đồ nhu yếu phẩm, Thẩm Hi lại gói thêm vào một túi muối. Đến buổi chiều, nàng đã đi đi lại lại vòng hết mấy lần quanh sân, muốn ghi khắc hết hình ảnh ngôi nhà từng cho nàng ấm áp vào tâm khảm, một ít chi tiết nhỏ cũng không bỏ sót, ở chỗ này nàng yêu một người, lại mất đi hắn...

Đến nửa đêm Lý lão tiên sinh quả nhiên đã tới. Thẩm Hi bảo ông vào nhà, đào hết mấy chỗ lương thực dầu muối còn lại để ông man đi, sau đó hẹn nhau tảng sáng ông sẽ đến đón nàng. Tiễn xong Lý lão tiên sinh Thẩm Hi mới trở vào nhà, nhào bột, ấn hơn hai mươi cái bánh bột rồi mang đi hấp. Để bánh giữ được lâu không bị hỏng, nàng không thêm chút dầu nào, chỉ thêm đủ muối. Đợi đến bánh nguội, nàng mới lấy cái áo bông dày gói lại, bảo đảm người ngoài nhìn vào không biết có bánh ở trong đó.

Làm xong, Thẩm Hi đi đến cạnh giếng, cạy bỏ mấy viên gạch, lấy hai mươi nén bạc ra, mới tìm ít bông với vải vụn gói bạc lại, cho vào một miếng vải rách rồi khâu lại, cải trang thành một cái đệm nhỏ. Nàng nhìn nhìn, từ bên ngoài cái đệm này trông có vẻ cũ nát không bắt mắt, không thấy được có gì ở trong, mới yên tâm nhét cái đệm này vào hành lý.

Còn thừa mười nén bạc, Thẩm Hi cầm một cái nhét vào trong ngực, còn chín nén kia thì lấy miếng vải gói lại. Nàng đeo thử túi đựng bánh lên lưng, còn túi quần áo thì buộc lại làm tay nải, khoác vào tay. Nàng nhìn nhìn, thấy hình tượng của mình bây giờ không kém gì một dân chạy nạn nghèo khổ.

Nàng án chừng tay nải trên tay khá nhẹ, bèn gói thêm chút bột mì nhét vào, trên đường đi có thêm lương thực càng thêm khả năng sống sót. Nghĩ đến thức ăn, nàng mới nhớ đi đường cũng phải uống nước, lại nhét thêm một cái bình nhỏ.

Hôm sau trời còn chưa sáng Lý lão tiên sinh đã tới gọi Thẩm Hi. Nhìn dáng đi khập khiễng vì đói cơm của ông, nàng áy náy: “Tiên sinh, cũng trách ta không sớm mang lược thực tới cho ngài, thật là do ta bị cướp đến sợ, nếu không phải lần trước bị lộ, tướng công nhà ta cũng...” Nhớ đến vũng máu trên kháng cùng Người mù bị chết mất xác, Thẩm Hi rơm rớm nước mắt. Lý lão tiên sinh lại rộng rãi hơn, ông khuyên Thẩm Hi: “Ngươi đã để lại nhiều lương thực như vậy cho ta, ta làm sao còn trách ngươi đây, cảm tạ còn không kịp. Về sau ngươi cố sống cho tốt, nuôi dạy đứa bé thành người, lưu lại một tia huyết mạch cho trượng phu ngươi, khiếm hắn không phải làm quỷ vô hậu cũng như không phụ hắn.”

Thẩm Hi lau nước mắt, gật đầu.

Ông giục Thẩm Hi: “Trời mau sáng rồi, chúng ta mau đi thôi, nếu không đợi đến lúc nạn dân đến đây người ta sẽ đóng lại cổng thành, muốn ra cũng không kịp rồi.” Thẩm Hi ngoái đầu nhìn lại tổ ấm ngày xưa, sau đó đi theo Lý lão tiên sinh rời khỏi nơi này. Trời còn sớm nên trên đường còn vắng người, chỉ có các nạn dân xanh xao vàng vọt co ro nằm ngủ ở dưới hiên những ngôi nhà ven đường. Lý lão tiên sinh quen thuộc địa hình, chuyên chọn những hẻm ít người qua lại mà đi nên cũng không khiến ai chú ý.

Hai người đi hơn một chén trà, mới đi ra khỏi cửa thành. Lý lão tiên tiễn Thẩm Hi ra đến gần hai dặm đường, không thấy nạn dân nào mới dừng lại, dặn nàng: “Ngươi đi theo con đường này, hướng về phía đông mà đi. Nhớ kĩ, thấy có thành trấn cũng đừng vào, tránh xa chút, bây giờ các thành trấn lớn đều đã phong tỏa cổng thành, không cho nạn dân đi vào, còn mấy trấn nhỏ đều giống nơi đây, chật ních nạn dân. Ngươi đi theo mấy con đường nhỏ vắng người, chỉ cần đi đúng hướng mặt trời mọc cuối cùng sẽ đến bờ biển.”

Thẩm Hi nhìn con đường mờ mịt trước mặt, trong lòng không khỏi sợ hãi. Lý lão tiên sinh tựa hồ nhìn ra nỗi sợ của nàng, lại dặn thêm: “Dọc theo đường đi ngươi phải cẩn thận chút, nếu thấy có người đáng nghi thì tránh cho xa vào, nếu tránh không khỏi thì mềm giọng cầu xin người ta, dù sao người ta ác cũng là do thời thế này bức bách cả, có lẽ sẽ bỏ qua phụ nhân cơ khổ như ngươi. Hơn nữa ngươi đừng rửa mặt, cả quần áo hành lí cũng lấm càng bẩn càng tốt, như vậy người ta mới không để ý. Đừng sợ, đi đi, đừng bao giờ trở lại, nếu thật có bệnh dịch bùng phát, e rằng trấn này sẽ bị san thành đất bằng!”

Nàng chăm chú nghe lời dặn tha thiết của Lý lão tiên sinh, giọng ông bình thản nhưng kiên quyết, có lẽ ông không thể rời khỏi nơi này. Thẩm Hi cúi đầu, lấy từ trong hành lý ra một gói vải không biết đựng gì, đưa cho ông: “Lão tiên sinh, từ biệt nơi đây chỉ sợ sau này không có ngày gặp lại, cảm tạ đại ân đức của ngài, tiểu nữ không có gì báo đáp ơn ngài cứu mạng hai mẹ con, chỉ đành đưa ít vật nhỏ làm kỉ niệm. Trước tiên ngài cứ giữ lấy, đợi ta đi khuất hẵng mở ra.” Lý lão tiên sinh nhận lấy cái gói, gật đầu: “Mau đi đi, sớm đi sớm đến. Nhớ kĩ, ngươi đừng vào mấy thành trấn, hiện giờ người trong thành trấn đông đúc, trời lại nóng, dịch bệnh lan rất nhanh.”

Thẩm Hi vâng dạ, lúc này mới từ biệt ông, dạm bước hướng phía đông mà đi.

Thấy Thẩm Hi đã đi xa, không còn trông thấy bóng lưng gầy yếu của nàng, ông mới duỗi bàn tay khô gầy mở các bọc ra. Ánh sáng lóe lên, trong bọc là chín nén bạc. Lý lão tiên sinh run rẩy, mắt nhòe lệ: “Thẩm nương tử, ngươi là ân nhân của cả nhà ta! Lý Trinh ta thề, tộc Lý thị chúng ta tất sẽ báo đáp đại ân của Thẩm nương tử, nếu có nuốt lời, trời đất không tha!” Ông vội trở về nhà, hối thúc mọi người thu dọn đồ đạc chuẩn bị trốn đi. Đến tối, ông dẫn con trai với lão hữu đến nhà Thẩm Hi, đào lấy lương thực dầu muối mà nàng để lại mang về, để lại cho nhà mình một phần rồi đem chia cho tộc nhân cùng nhà lão hữu. Đến lúc trời sáng, ông cùng người nhà mang theo lương thực cùng chín mươi lượng bạc Thẩm Hi đưa rời đi trấn nhỏ.

Bốn ngày sau khi nhà Lý lão tiên sinh rời đi, dịch bệnh bùng phát trong trấn, lan sang các thành trấn bên cạnh, người trong thành đa phần đều nhiễm bệnh, những người còn khỏe vội thu thập đồ đạc trốn khỏi, sau đó đổ bệnh trên đường, lây lan cơn bệnh cho càng nhiều người, dịch bệnh càng ngày càng mở rộng. Ngày thứ bảy, quân đội triều đình phái xuống đi đến nơi này, xác định tình hình dịch bệnh không thể khống chế, cuối cùng đành đóng cổng, tàn sát hàng loạt dân trong thành, đốt hết thi thể. Đúng như Lý lão tiên sinh đã nói, trấn nhỏ bị san thành đất bằng.

Cùng lúc đó, Thẩm Hi đã cách trấn nhỏ vài trăm dặm.

Nàng đi ra khỏi trấn, một đường hướng về phía đông, đói thì ăn bánh, khát thì uống nước mang trong bình hoặc múc nước trong giếng ven đường, trời tối không dám vào nhà người ta nghỉ nhờ, sợ thời buổi loạn lạc sinh giặc cướp, chỉ dám tìm một chỗ đồng không mông quạnh có đống củi hay đống rơm mà ngủ tạm một đêm. May là tiết trời chưa vào thu, buổi tối chưa có sương, Thẩm Hi trải hết mấy bộ quần áo ra quấn vào người nên không bị cảm lạnh hay trúng gió gì.

Hiện giờ mới là đầu tháng tám, đáng ra trong ruộng vườn phải đầy cây lương thực hoa màu mới phải, nhưng người đã đói đến sắp chết, không đợi đến ngày mùa mà hoa màu trong đất đều bị nhổ lên ăn sạch, cả mặt đất cũng sạch bóng cỏ dại, ruộng ngô chỉ còn những gốc trơ trọi, thân cây cũng bị bẻ đi ăn tuốt. Mấy cái cây ven đường cũng trụi lủi cành, lá cây nào ăn được là vặt hết, ngay cả vỏ cây cũng bị bóc đi từng mảng, chỉ thừa lại những thân cây khẳng khiu đứng trơ giữa nắng. Thảm trạng nạn đói tàn khốc hiện ra trước mắt Thẩm Hi.

Nàng nhớ đinh ninh lời dặn của Lý lão tiên sinh, sợ bệnh dịch bùng phát nên thấy thành trấn là đi đường vòng để tránh, chỉ dám đi đường đất ở nông thôn, không dám dừng lại quá lâu, đi đường cả ngày, cho đến khi chân mỏi không bước nổi mới dừng lại nghỉ chốc lát.Ngày đầu tiên lên đường, chân nàng đã sưng phù lên, nhưng Thẩm Hi không dám dừng lại, chịu đau đi tiếp.

Cuộc sống khổ cực như vậy, nàng chưa từng tưởng tượng đến, có nhiều lần Thẩm Hi tưởng như mệt đến không dậy nổi, bước chân nặng như chì, nhưng đến khi nằm bệt xuống, đặt tay lên bụng, nàng lại tràn đầy sức mạnh, không vì mình, chỉ vì đứa bé, nàng cũng phải cố gắng sống sót. Đây là đứa con nàng đã mong chờ hai kiếp.
CHƯƠNG 24

Thẩm Hi vốn muốn tìm xem nhà nào có con ma hay lừa gì thì mua lại một con, nhưng đang là năm đói kém, gia súc trong nhà ai cũng bị giết ăn hết rồi, còn ai giữ lại mấy miệng đói chờ ăn trong lúc cả nhà đang chịu đói. Bất đắc dĩ, nàng đành tiếp tục từng bước lên đường.

Nàng không biết Tây Cốc trấn sau khi nàng rời khỏi năm ngày đã bùng nổ dịch bệnh, bị triều đình xóa bỏ, nàng chỉ đinh ninh lời dặn của Lý lão tiên sinh, không đi đường lớn, chọn đường nhỏ vắng người mà đi. Đi được mấy hôm, Thẩm Hi đã tro bụi phờ phạc hết người, tóc không chải, mặt cũng không dám rửa, đến gần có thể ngửi được mùi chua phát ra từ người nàng, may mắn là bây giờ ai chạy nạn cũng như vậy, đường đi lại vắng nên Thẩm Hi cũng không bị ai thấy nên đường đi khá an toàn.

Những cái bánh bột kia để được khá lâu, cho dù trời nóng nực nhưng chúng chỉ cứng dần chứ không bị thiu nên mỗi khi ăn Thẩm Hi phải bẻ một góc ra ngâm vào nước mới nuốt được. Nàng không dám ăn no, mỗi ngày chỉ dám lấy một cái ăn dè, giờ đường đi hoang vắng, nếu hết bánh thì dù có tiền nàng cũng không mua được lương thực.

Một bước lại một bước, ngày qua ngày, con đường đất nứt nẻ tựa hồ kéo dài mãi mãi. Thẩm Hi dãi người dưới ánh nắng gay gắt, gian nan tiến bước. Có khi thấy người đến, nàng cũng xa xa mà tránh đi, sợ gặp phải người xấu, hại nàng với đứa con trong bụng. Dù tương lai mịt mờ nhưng nàng không dám dừng, Lý lão tiên sinh đã nói, đến bờ biển sẽ có đường sống.

Từ nhỏ đến lớn Thẩm Hi chưa từng chịu khổ như vậy, ngày đi đêm nghỉ, mệt cũng không dám dừng bước một ngày, sáng đi mà không biết tối sẽ nghỉ ở đâu. Nàng từng ngủ trong đống rơm cỏ, dưới gầm cầu, nhà hoang, cũng ngủ giữa cánh đồng, dưới gốc cây, trong núi hoang... Khiến nàng sợ hãi nhất là một lần ngủ trong nhà hoang, giữa đêm tỉnh lại nàng thấy có kẻ đang lục lọi tay nải nàng đặt cạnh người, Thẩm Hi sợ đến giọng hét sắp ra khỏi họng, nhưng nàng không dám kêu, hoảng loạn mà nhặt lên một cục gạch tối hôm trước nàng dùng làm gối đầu đập vào trán người kia, sau đó cuống cuồng nhặt lên tay nải bỏ chạy. Đây là lần đầu nàng ra tay đánh người, mặc dù biết lấy sức khỏe của mình không thể đánh chết người được nhưng vẫn khiến nàng day dứt hồi lâu. Cho đến khi thấy một tòa thành sừng sững trước mặt thì nỗi day dứt mới chuyển thành lo âu.

Tòa thành trước mắt án ngữ ở con đường độc đạo, xung quanh đều là núi cao, không thể đi vòng qua được, đến khi Thẩm Hi đến gần thành, ngoài thành đã đông nghịt nạn dân, nhưng họ chỉ dám tụ tập ở chỗ cách tường thành khoảng 100 mét, dưới chân thành là một mảng trống, không ai dám đứng ở đó.

Thẩm Hi không dám đến gần chỗ nạn dân, nàng tìm một chỗ cách xa đoàn người mà quan sát, nhìn một lúc lâu, cổng thành không mở, trên tường thành là hàng loạt binh sĩ khôi giáp gọn gàng, có cả cung tên nên mới không ai dám tới gần. Nàng tính toán đi men theo chân núi, vòng qua ngọn núi để khỏi vào thành, nhưng nhìn thế núi kéo dài, có lẽ là cả một dãy núi đằng sau dài không biết bao nhiêu dặm nên không dám sơ suất. Thẩm Hi gọi lại một đôi mẹ con trông khá hiền lành đang đi từ xa đến, nhẹ giọng hỏi: “Đại tỉ, muốn đi về phía đông nhất định phải qua tòa thành sao? Có thể đi đường vòng được không?”

Đôi mẹ con kia trông rất lam lũ, người mẹ khoảng tầm ba mươi, dìu một tiểu cô nương tầm mười tuổi, hai người vẻ mặt buồn khổ ngồi xuống tảng đá nghỉ chân, mới trả lời Thẩm Hi: “Nếu đi vòng qua được thì ta đã không ở đây rồi. Sau ngọn núi này là một dãy núi lớn, phía nam giáp Nam Nhạc, phía bắc đến Phong thành thì mới đi vòng qua được. Thêm nữa Phong thành mới bùng phát dịch bệnh, người chạy nạn ở đây không ít đều từ chỗ đó tới.”

Thẩm Hi nghe xong cũng nản lòng, ngồi xuống không nói chuyện. Người chạy nạn cũng tính hết đường, nếu có đường khác họ sẽ không đợi dưới tòa thành này mà đã tản đi lâu rồi, Phong thành đã bùng phát dịch bệnh, người của Phong thành chạy đến đây, vậy nơi này đã không an toàn. Nàng vứt bỏ mọi thứ chạy trốn tới nơi đây, tuyệt đối không thể dừng chân tại đây được, còn có đứa bé trong bụng nữa. Phải nghĩ cách vượt qua chỗ này.

Thẩm Hi đang cố gắng suy nghĩ, bỗng ngh có ngòi ở trên thành vọng xuống: “Người dưới thành nghe đây, đây là nơi quân sự trọng địa, chỉ có nhiệm vụ đánh trận thủ biên cương, ai muốn được cứu tai cứu đói thì đi phủ nha, triều đình một không cho bạc, hai không cho lương thực, chúng ta cung không có nhiều lương thực cho nhiều người như vậy. Mọi người hãy mau mau rời đi, không được vây ngoài cửa thành, bắt đầu từ bây giờ ai mà không lùi về sau ranh giới, vẫn ở trong chỗ mũi tên, vậy ấn theo luật xâm phạm biên cảnh mà xử trí.”

Nghe xong những lời này, nạn dân như nước rút mà lùi lại, nhiều người đã lùi đến chỗ Thẩm Hi đang đứng, nàng hơi sợ nên cũng lùi về sau, giữ một khoảng cách với đám người kia. Có mấy người không muốn đi, đứng ở chỗ cũ mà cầu xin, cũng có người đói đến kiệt sức, nằm yên ở đó không ra tiếng, tổng cộng hơn mười người.

Một lát sau, cửa thành mở ra, một đội binh sĩ mang cung tên ra, đứng xếp thành một hàng, lắp tên vào cung, mấy người kia đã sợ, muốn xoay người bỏ chạy nhưng không kịp, lá cờ trong tay binh sĩ đứng đầu đã phất xuống, mũi tên rời cung bắn ra, mười mấy người kia đã bị bắn thành con nhím. Mùi máu tươi bùng lên, ập thẳng vào mặt làm nhiều người không chịu nổi, cúi người nôn khan, nhìn vũng máu tươi đang tỏa ra mà ánh mắt đầy sợ hãi.

Thẩm Hi bất chấp bẩn hay không bẩn, giờ trong đầu nàng chứa đầy phẫn nộ cùng sợ hãi. Đây là tàn sát! Tàn sát người vô tội!

Không lẽ giết người không có ai quản sao? Trên đời này đã không còn công lí, cũng không có vương pháp ước thúc sao?

Nàng che mắt, tuyệt vọng.

Nếu không phải lúc này nàng nhát gan, nếu lúc nãy nàng thấy thưa người mà mạo hiểm chạy lên, có lẽ cũng như những người kia...

Thẩm Hi không dám nghĩ lại, cũng không muốn nhớ tới, giờ đang lúc thiên tai nhân họa nổ ra, xã hội này không có luật pháp chặt chẽ, lấy hoàng quyền chí thượng, sinh mạng của bình dân là thứ rẻ mạt nhất, cả con kiến hôi cũng không bằng.

Có mấy binh sĩ đi tới, kéo mấy xác chết đi như kéo xác một con vật, lại có mấy người tới vẩy lên vũng máu một tầng đất, dấu vết của mười mấy người lúc nãy vẫn còn mạch đập sinh mệnh đã biến mất khỏi thế giới này. Thẩm Hi nhìn chăm chằm vào cánh cổng thành nặng trịch đã đóng lại, trong lòng chua xót không nhấc nổi thành lời, càng thêm mờ mịt thất vọng về con đường tương lai. Nàng không biết mình sẽ đi đường nào, đi phía nam chắc chắn không vào được Nam Nhạc, phía bắc có dịch bệnh, phía tây là hướng nàng đi qua, bệnh dịch đang đuổi theo sau, chỉ có thể đi tiếp về hướng đông, nhưng cửa thành đóng chặt.

Phía trước không đường, phía sau cũng không thể lùi lại, Thẩm Hi thực sự cảm thấy cùng đường, thật sự loạn thế đã cắt đứt mọi đường sống của con người hay sao?

Bóng đêm nhanh chóng lan dần, dân chạy nạn đành nằm tạm trong bãi đất trống ngoài thành, Thẩm Hi cũng co người nằm sau một tảng đá, nàng trợn to mắt không dám ngủ, lắng nghe mọi động tĩnh xung quanh. Hướng nàng đang nằm ngẩng mặt lên là thấy cổng thành, cũng nhìn thấy đại bộ phận nạn dân đang nằm, nếu có chuyện gì xảy ra cũng dễ phát hiện.

Loạn thế sinh bạo dân, nàng sợ nếu mình ngủ quên không biết gì, chỉ sợ sẽ không an toàn. Trong đêm tối mọi thanh âm đều rõ hẳn lên, Thẩm Hi nghe được tiếng ngáy, cũng có tiếng khóc, hay tiếng ai đó đang thống khổ rên rỉ, cũng có tiếng nói mớ của ai đó...

Đột nhiên ánh mắt nàng dừng lại, nhìn chăm chú vào một chỗ tường thành, nàng hát hiện hình như có hai người bên hông treo dây thừng, đang từ trên tường trèo xuống?!

Hai người đó đang làm gì? Bí mật thăm dò? Hay là binh sĩ đào ngũ? Họ tới giết nạn dân?

Thẩm Hi tìm hết mọi lí do, tim càng lúc đập càng nhanh, sẵn sàng chạy trốn nếu họ tới đây gây hại. Nàng nhìn hai người kia đi đến chỗ nạn dân đang nằm, lâu lâu kéo một người dậy, ghé tai hỏi mấy câu, nếu người kia gật đầu, người còn lại sẽ dẫn người đó đến cửa thành, ai không gật đầu cũng bị kéo lên mang đi.

Họ đang làm cái gì? Xem ra không phải là tàn sát.

Nàng chăm chú nhìn, cố gắng lắng tai nghe họ đang nói gì. Hai người kia liên tiếp dẫn mười mấy người tới chỗ cổng, tìm người cũng càng đến gần chỗ Thẩm Hi hơn, một lúc sau nàng mới nghe theo tiếng gió thổi tới mà nghe mang máng được mấy câu mơ hồ

“...Một trăm...”

“...Không đi thì thôi...”

“...Mấy hôm nữa... đi không được...”

Ngọn lửa hi vọng trong lòng Thẩm Hi lại bùng cháy. Hai người kia có lẽ đang xếp người lén qua thành?!

Lúc nào cũng vậy, tiền tài động nhân tâm, sĩ tốt bình thường làm gì có tiền, bây giờ có một cơ hội kiếm tiền bày ngay trước mắt, mỗi người 100 lượng, mười người 1000 lượng, số bạc trong một đêm chỉ sợ cả đời họ cũng chưa mơ tới, nếu vậy bí quá hóa liều cũng là điều đương nhiên. Ở đời sau dù biết buôn bán ma túy là tội tử hình nhưng người ta vẫn như thiêu thân lao đầu vào lửa, tiếp tay cho cái ác, không phải là do lợi ích quá lớn hay sao?

Thẩm Hi đếm đếm, hai người kia lĩnh đi hơn hai mươi người xong bèn dừng lại, cùng nhau đi về.

Tận dụng thời cơ, cơ hội sinh tồn đang ở trước mắt, liều mạng!

Thẩm Hi cắn môi, đứng dậy rón rén đi theo hai người.

Hai người kia dù sao cũng là binh, tính cảnh giác rất cao, Thẩm Hi chưa đến gần đã bị phát hiện, một người quay lại quát khẽ: “Ai?”

Thẩm Hi hạ giọng: “Đại nhân, ta cũng muốn ra khỏi thành để đi về hướng đông, ngài dẫn thêm ta đi.” Người kia trong như thế nào nàng cũng không nhìn rõ, chỉ thấy hắn có bộ râu quai nón rậm rạp, cũng không mặc nhung trang (quần áo củn binh lính, có giáp), chỉ một thân quần áo vải thô nhưng cả người đều đẫm nhuệ khí, ánh mắt phong sương cũng đủ để người ta không nhìn nhầm thành dân chúng bình thường.

Râu quai nón nhìn kĩ nàng, thấy nàng ăn mặc rách rưới, lại bẩn thỉu không khác gì ăn mày, giễu cợt: “Một trăm lượng bạc, ngươi có không?” Hắn vốn tưởng nàng chỉ là kẻ nghèo khó định cầu xin thương hại, loại người này hắn đã thấy nhiều, đang nghĩ nên thả nàng trở lại hay cho một đao để bịt miệng, bỗng nghe thấy nàng nhẹ giọng: “Ta có.”

Hắn ngơ ngác một lát, vẫn không tin: “Bây giờ ngươi lấy ra, nếu có thật, lát nữa ta dẫn ngươi ra khỏi thành.”

Thẩm Hi cởi tay nải, lấy cái đệm rách đưa cho râu rậm, thản nhiên nói: “Đại nhân, ngài sờ thử, trong này vừa đủ 100 lượng bạc.” Râu rậm bán tín bán nghi, lấy tay cầm cái đệm, sờ sờ thấy có mười cục cứng cứng gì đó, hắn không tin hẳn, xé toang cái đệm ra, bên trong lộ ra hai nén bạc sáng. Hắn nhét cái đệm vào trong ngực, ý vị thâm trường nhìn Thẩm Hi: “Không ngờ ngươi cũng có chút tâm kế, đi theo ta, lát nữa ta dẫn ngươi qua thành.”

Hai người kia không lập tức đưa nàng qua thành mà để một người khác lần lượt bắt mạch cho từng người, đến lượt Thẩm Hi, người nọ kinh ngạc kêu một tiếng, râu rậm lập tức đi tới, hỏi: “Làm sao vậy, nàng ta nhiễm bệnh?” Người bắt mạch lắc đầu: “Không phải, là có thai.” Râu rậm nhìn qua Thẩm Hi, lập tức quay đi: “Có vấn đề không?” Người bắt mạch lắc đầu.

Râu rậm đến cạnh tường thành, kéo kéo sợi dây vắt ở trên thành xuống, một lát sau, cổng thành hé ra một khe nhỏ. “Mau đi vào” – hắn thúc giục, cho hơn hai mươi người xếp thành hàng lần lượt đi vào.
CHƯƠNG 25

Trong thành một mảnh tối om, không đốt đèn lồng cũng không có bó đuốc, chỉ có thể nương chút ánh trăng mờ ảo mà nhìn thấy một mảnh đường phố trong thành cùng những ngôi nhà tối om.

Có hai người từ trong chỗ tối đi ra, đi trước dẫn đường cho hàng người, râu rậm đi đằng sau thấp giọng đe dọa: “Đi theo hai người kia, không ai được phép lên tiếng, ai dám làm ồn ta lập tức cho ăn một đao.” Hơn hai mươi người bị hắn dọa đến run rẩy, dè dặt đi đường, ngay cả thở mạnh cũng không dám thở.

Thẩm Hi là người cuối cùng đưa tiền, đi theo sau cùng, râu rậm đi sau nàng, nhưng hắn cao lớn, bước chân dài, đi lại mau nên đã vượt qua nàng, lúc đi ngang qua còn quát khẽ một tiếng: “Đi nhanh lên, nếu bị phát hiện là các ngươi mất đầu ngay!” Thẩm Hi không muốn đầu rời khỏi cổ, chỉ phải cố gắng bước nhanh hơn.

Nàng không dám liếc ngang liếc dọc, huống chi đêm hôm tối tăm cũng không thấy gì, đành nhìn theo đội ngũ mà cố bước. Đang đi, bỗng người đi đầu khẽ kêu một tiếng, râu rậm nhanh chóng chạy lên trên, Thẩm Hi ở sau lương chỉ thấy hắn ngoặt một cái, một túi đồ rơi khỏi người, nghe cạch một tiếng, nhưng bị tiếng dậm chân bình bịch che mất. Thẩm Hi cúi người nhặt lên, vừa sờ thấy nàng đãbiết trong túi toàn là bạc, mà nàng vừa dừng lại, đã bị chậm lại một khoảng xa.

Râu rậm xử lí xong chuyện ở phía trước, ngoái đầu nhìn lại thấy Thẩm Hi bị tụt lại phía sau, hắn hầm hầm quay lại, vừa đến đã định tát nàng một cái, nhưng sợ tiếng đánh vang bèn sửa thành véo, bấu mạnh lên mặt nàng một cái, cò hạ giọng mắng: “Muốn chết à? Cho ngươi nhanh lên ngươi càng chậm, thích đầu ười khỏi cổ phải không?”

Hắn là người luyện võ nên lực tay rất lớn, Thẩm Hi sờ sờ, mặt nàng vừa rát vừa nóng, sưng lên một mảnh. Bị người quát nạt nàng cũng bực, muốn lên tiếng nhưng ngẫm lại làm vậy rất nguy hiểm, hắn trở tay một cái là bóp chết nàng dễ như đè chết một con kiến, còn đứa con trong bụng nữa, phải nhẫn cho qua. Nàng bấm bụng chịu bực, đưa túi bạc qua cho hắn: “Đồ của ngươi bị rơi, ta nhặt lên giúp.” Nói xong nàng nhét túi bạc vào lòng râu rậm, không thèm nhìn hắn nữa, chạy nhanh lên phía trước.

Hắn nhìn túi bạc trong ngực, lại nhìn bóng lưng nàng, một lát sau mới bước nhanh theo sau.

Có lẽ bị kẹp trong khe núi nên tòa thành này cũng không lớn lắm, Thẩm Hi cảm thấy đoàn người đi không lâu đã đến cửa đông thành. Hai người đi trước dẫn đường đến cạnh cửa thành xong lại lẩn vào bóng đêm, một lát sau lấy ra một cái bình nhỏ, đi đến cạnh then cửa đổ chai đó lên cái then, rồi mới gỡ tờ niêm phong cổng ra, lặng lẽ đẩy cửa ra. Khe cửa khá nhỏ, chỉ đủ một người qua, hai người giục: “Mau đi ra” rồi nhanh tay kéo mấy người đằng trước ra ngoài.

Hơn hai mươi người nên không quá lâu, nháy mắt đã đến lượt Thẩm Hi, nàng mới định chui ra đã bị râu rậm kéo lại, vội vàng dặn khẽ: “Ngươi ra khỏi cổng thành rồi không được đi vội, nép vào chỗ bụi cây rậm rạp nào cạnh cửa thành đợi, đến khi nào trời sáng mới được đi ra.” Nàng chưa hiểu gì đã bị hắn đẩy ra, cánh cửa sau lưng nhanh chóng khép lại.

Những người đi trước Thẩm Hi đã chạy không thấy bóng dáng, chỉ có mỗi nàng đứng đơn độc dưới cổng thành âm u, nàng cũng muốn đi ngay nhưng nhớ tới lời dặn của râu rậm, lại nghe ra hắn rất vội vàng lại nghiêm túc nên lại chần chừ không dám cất bước. Hắn tuy véo nàng một cái nhưng nàng đã trả lại bạc nên không có cơ sở hại mình, lời hắn nói có lẽ tin được. Có vẻ râu rậm đang ám chỉ con đường phía trước có nguy hiểm nên không cho nàng đi ngay?

Nghĩ đến đây, Thẩm Hi không khỏi giật mình, nàng nhanh chân chạy men theo tường thành hơn trăm mét, sau đó tìm một chỗ hơi trũng xuống mà nằm xuống trốn, sợ chỗ này không che nổi người, nàng còn định đào xuống một ít, nhưng có lẽ đất dưới chân tường thành đã được đầm qua nên rất cứng, nàng bới không nổi một tầng bụi nhỏ. Thẩm Hi đành phải nằm yên xuống, chậm lại nhịp hô hấp.

Không lâu sau, xa xa đột nhiên vang lên mấy tiếng kêu thảm thiết, ngắn ngủi, sau đó hết thải đều lắng xuống, màn đêm tĩnh mịch trở lại. Nghe thấy tiếng kêu, Thẩm Hi cũng biết được phía trước đã xảy ra chuyện, có lẽ những người đi trước nàng đã mất mạng. Nàng không dám thở mạnh, nhìn chằm chằm vào phương hướng của nhóm người kia, chỉ sợ có một nhóm người hung ác đến chỗ này lấy mạng nàng.

Bóng đêm dường như nuốt chửng mọi âm thanh, tất cả yên tĩnh đến đáng sợ, ngay cả tiếng côn trùng kêu vang cũng bị sát khí dọa đến im bặt, thấp dần rồi lặng hẳn. Thẩm Hi nghe một lúc lâu, mới nghe thấy tiếng bước chân dồn dập đi tới gần chỗ nàng, không chỉ một người mà là một nhóm người!

Nàng sợ hãi đến tay chân run rẩy, trái tim đập bịch bịch như sắp nhảy ra khỏi lồng ngực, hai tay nàng đặt lên che kín miệng, sợ mình phát ra chỉ một âm thanh thôi bọn chúng cũng nghe được.

Gần, càng gần, tiếng bước chân đã mau đến cạnh chỗ nàng đang nằm...

Thẩm Hi nghẹn thở một lát, mới dám thở nhẹ ra một hơi ngắn, rồi chậm nhịp hô hấp lại, nàng không dám ngẩng đầu lên, cũng không dám động đậy dù chỉ là nhích chân, chỉ sợ một tiếng động nhỏ thôi nhóm người kia cũng nghe được. May mắn là giờ phút này ánh trăng mờ dần, nhóm người kia lại không tra xét xung quanh một phen, nếu không chỉ sợ...

Giờ phút này Thẩm Hi đã sợ đến sắp hôn mê, tay chân cứng còng.

Mấy người kia yên lặng đi vào gần cổng thành, có một người giả tiếng chim cú kêu hai tiếng, cửa thành yên lặng mở ra, từng người lách mình đi vào, lập tức có một giọng nói từ trong truyền ra: “Hai mươi ba, đủ chưa?” Một giọng đáp lại: “Đủ rồi.” Giọng nói này Thẩm Hi đã nghe qua, là cái người râu rậm lúc nãy.

Sau đó, mọi thứ yên tĩnh.

Bên chân tường thành, Thẩm Hi biết mình vừa tránh được một kiếp cũng không dám vui mừng, giờ nàng đã hiểu chuyện “lén qua” chỉ là một hi vọng giả dối cho người chạy nạn, âm mưu làm tiền của bọn binh lính mà thôi. Thu của mỗi người 100 lượng bạc, trước tiên lấy bạc đi, sau đó để người phục sẵn giết người diệt khẩu, sợ tiết lộ ra ngoài gây bất lợi, cũng tránh cho việc bệnh dịch lây lan. Mà không giết người ở ngay trong thành, có lẽ là do sợ người bị hại phát ra âm thanh, hơn nữa thi thể để ở trong thành không dễ phi tang.

Thủ đoạn thật ác độc!

Có câu nói hỗn binh cái gì cũng dám làm, giờ nhìn lại không phải là nói suông, chả trách trong TV luôn có cảnh quân lính cổ đại nhiễu dân, giết người cũng không phải không có căn cứ.

Thẩm Hi nghĩ lại mà dựng tóc gáy, nếu không phải trùng hợp mình nhặt được bạc của râu rậm, lại trả lại cho hắn, có lẽ giờ nàng đã là một thi hai mạng người nằm đó rồi. Nàng biết giờ nguy hiểm đã qua, thở phào một hơi nhẹ nhõm, nhẹ nhàng nằm ngửa lên, mặt đất lạnh nàng không dám nằm nghiêng, sợ khí lạnh len vào bụng. Giờ phút căng thẳng đã qua, Thẩm Hi buông lỏng người, cả người nhũn ra không còn chút sức lực nào, nàng yên lặng nằm đó đợi đến lúc trời sắp sáng, chân trời chuyển màu mắt cá, thừa dịp bóng đêm đậm lại mà rón rén đứng dậy rời khỏi chân tường thành.

(Note: Khoảng 4-5 giờ sáng khi đó trăng mờ, mặt trời chưa mọc nên trời tối lại, dù đêm trước có là hôm rằm thì vào giờ đó trời cũng tối như mực, chứ k phải tgia viết nhầm)

Nàng cố đi thật nhanh, cảm thấy đã đủ xa, người ở trên tường thành không nhìn thấy mình mới dám dừng lại nghỉ một lát, sau đó nhanh chóng đi ra khỏi nơi sát sinh này. Đi được hơn một dặm, Thẩm Hi phát hiện có một chỗ ven đường mặt đất rất mới, có vết đào qua nham nhở, nàng đến cạnh bới lên nhìn, quả nhiên dưới lớp đất đó có mấy vết máu đã sẫm lại. Nàng cố kìm lại cảm giác sợ hãi đến lạnh cả gáy, nhanh chóng chạy khỏi nơi này.

Đi khỏi toàn biên thành đó, chỉ còn lại một con đường đi đến phía bờ biển, Thẩm Hi đi dọc theo con đường này, thấy có trấn nhỏ cũng không dám vào, nàng bị dọa sợ nên chỉ dám đi vòng qua một mảnh ruộng đồng, xa xa mà tránh đi thôn trấn.

Thẩm Hi cứ đi mãi, lo sợ thời thế loạn lạc nên có thôn làng cũng không dám đi vào mua đồ, đói thì gặm bánh bột, tối nghỉ giữa đồng trống hoặc dưới tàng cây, khí trời lạnh dần nhưng may là khi đi nàng có lấy hết áo bông của cả hai vợ chồng ra giấu bánh nên không phải chịu lạnh.

Vùng đồng không mông quạnh hoang vắng không một bóng người nhưng Thẩm Hi không chút sợ hãi, tính cả hai đời gộp lại nàng chưa thấy giữa người với người lại có thể tàn khốc đẫm máu như vậy. Nàng cảm giác như mình sắp mắc phải chứng sợ hãi đám đông, trong lòng nàng đã có phòng tuyến dựng lên, không thể tin tưởng ai, cũng không muốn tiếp xúc với người nào.

Chuyện xảy ra ở biên thành khiến nàng bị ám ảnh, dù nàng đã bình bình an an mà ra khỏi nơi đó nhưng giờ nghĩ lại vẫn rất day dứt, nàng quá lỗ mãng vội vàng khi tìm tới râu rậm, lúc đó sao nàng lại không nghĩ kĩ chứ? Dù là sợ ở đó lâu sẽ bị nhiễm bệnh dịch nhưng nếu liều lĩnh như vậy cũng không được. Thẩm Hi sờ bụng, quyết định về sau làm gì cũng phải suy nghĩ cẩn thận, suy trước tính sau rồi mới làm. Nàng luôn màn trời chiếu đất nên rất nhanh liền phát hiện mặt trăng dần dần tròn hơn, trời cũng quang dần, tết Trung thu sắp đến.

Kiếp trước nàng không ăn tết Trung thu, không thấy quan trọng lắm. Lúc cha mẹ còn ở, nàng chỉ mua mấy hộp bánh Trung thu biếu ông bà, sau đó ở bên nhau ăn bữa cơm đoàn viên là qua. Đến lúc nàng quản lí công ti, có thêm một việc là tham dự tiệc tối, nói chuyện mấy câu với nhân viên, sau đó cùng Triệu Dịch ăn một bữa tối ánh nến lãng mạn trong nhà hàng rồi về. Sau khi li hôn với Triệu Dịch, Thẩm Hi không ăn tết Trung Thu nữa.

Khi đó cái gì cũng có, nàng lại không biết quý trọng, còn cho là tiến bộ với thời thượng mà không ăn tết Trung thu, giờ nằm giữa đồng hoang ngắm vầng trăng sáng vằng vặc giữa trời, Thẩm Hi nhớ nhà đến day dứt, nàng nhớ cha mẹ, nhớ lại xã hội hòa bình giàu có, thậm chí nàng nhớ đến mùi vị những chiếc bánh trung thu mà nàng chưa thèm ăn đến nửa cái... Mùi vị thật thơm ngọt khó quên!

Trên môi còn mang theo nụ cười ngọt ngào cùng hoài niệm, Thẩm Hi ngủ thiếp đi dưới bầu trời đầy sao.

Đi tiếp về phía đông bảy tám ngày, Thẩm Hi phát hiện cuộc sống người dân ở đây khá giả hơn phía tây. Trên đường từ phía tây sang đây nàng thấy thi thể người chết đói nơi hoang dã, cây cối bị róc sạch vỏ, nhưng dần đến phía đông thì ngoài đồng hoa màu vẫn tươi tốt, người ở đây ăn mặc quần áo tuy hơi cũ sờn nhưng vẫ khá tươm tất, hầu như không ai phải mặc áo vá.

Có lần Thẩm Hi đi qua một thôn trang có một đứa bé năm sáu tuổi đang đứng ăn bánh bao nhìn thấy nàng, có lẽ nó tưởng nàng là người ăn mày nên hào phóng đưa cho nàng phân nửa chiếc bán bao đang ăn dở, lại chạy ù vào trong nhà lấy ra cho nàng một quả lê vàng óng, đây là lần đầu nàng cảm nhận được sự ấm áp từ người xa lạ kể từ khi bắt đầu loạn thế, hơn nữa phần tình cảm còn bắt đầu từ đứa trẻ, niềm mơ ước bấy lâu của nàng.

Thẩm Hi nhận lấy bánh bao, cảm kích đến rơi lệ, nàng rất muốn sờ đầu đứa bé, hôn nhẹ lên má nó một cái, nhưng nhìn lại cả người nàng lấm lem bụi đất nên đành đứng yên mỉm cười cảm ơn nó, lại hỏi tên nó là gì, thôn này gọi là gì, quyết tâm sau này mình có năng lực, có duyên gặp lại sẽ báo đáp thằng bé.
CHƯƠNG 26

Tạm biệt đứa trẻ, Thẩm Hi lại lên đường đi tiếp theo hướng đông, sau khi vượt qua một hòn núi nhỏ, rốt cuộc nàng ngửi thấy một hương vị mặn mòi theo gió thổi tới.

Kiếp trước nàng từng đi biển mấy lần nên không lại gì hương vị biển cả, gió biển thổi đến luôn mang theo mùi mặn mặn hơi tanh như vậy.

Nàng thực sự đã đi đến bờ biển?!? Tay nải trong tay Thẩm Hi rơi bịch xuống đất, nàng ngồi bệt xuống, hai tay bưng lấy mặt, mừng đến phát khóc. Nàng khóc một hồi lâu, nhớ đến quãng thời gian đi đường đằng đẵng khó khăn, lại nghĩ đến Người mù đã thiên nhân cách biệt, cuối cùng mới xốc lại tinh thần, tiếp tục theo con đường trước mặt mà đi.

Nàng lại đi qua một thôn trang, trong thôn trang có chừng hơn 40 hộ, nhưng không có nhà nào phơi lưới đánh cá. Thẩm Hi không dừng lại, tiếp tục đi về phía đông, đến lúc trời xẩm tối mới thấy một thôn trang, đất đai ở đây không phải là đất đen nữa mà là đất pha cát hơi tối màu, nhà nhà trong thôn trang đa số đều phơi lưới đánh cá ngoài sân, có nhà trước hiên còn treo cả cá muối.

Có lẽ nơi này đã gần bờ biển, nhưng Thẩm Hi chưa dừng lại, ở đây chưa nhìn thấy bờ biển, cũng ít nhà có thuyền. Nàng lại cất bước, hơn hai dặm sau mới thấy bóng dáng một thôn trang nhỏ. Chưa đến gần, tai nàng đã nghe văng vẳng tiếng sóng vỗ rầm rào, Thẩm Hi vui đến nhẹ cả người. Nàng đi lên phía trước, vượt ra khỏi thôn trang, hiện lên trước mắt là mặt biển mênh mông, mặt biển lấp lóe ánh trăng.

Đến bờ biển, thật sự đến biển rồi!

Thẩm Hi ngồi xuống nghỉ chân, trong lòng buồn vui lẫn lộn. Vui là nàng còn sống, đứa con trong bụng theo nàng chịu nhiều khổ như vậy vẫn bình an, buồn là giờ Người mù không còn nữa, nơi đây đất khách quê người, nàng mới đến, lạ nước lạ cái, làm gì để có thể kiếm sống?

Nàng ngồi bên bờ biển đến nửa đêm, có lúc trong đầu tràn ngập ý tưởng, có lúc lại trống không, cái gì cũng không nghĩ. Có mấy lần trong đầu nàng sẽ thoáng hiện lên hình ảnh ngôi nhà nhỏ ở Tây Cốc trấn, Người mù luôn trầm mặc ngồi trên kháng... đến khi gió biển thổi đến tay chân lạnh lẽo Thẩm Hi mới đứng dậy tìm một chỗ tránh gió. Bây giờ đã là cuối tháng, mặt trăng như lưỡi liềm cong vút treo trên bầu trời, bầu trời tối tăm, chỉ có mấy vì sao nhỏ nhấp nháy như bãi hạt vừng người ta vãi ra. Thẩm Hi sờ soạng đi tới cạnh một cồn cát, lấy bộ y phục đã rách tướp trong tay nải ra đắp lên người, dựa vào cạnh thân cây mà thiếp đi.

“Này, muội tử, sao ngươi lại nằm đây ngủ vậy, mau dậy đi mau dậy đi.” Giọng nói vang dội đánh thức Thẩm Hi tỉnh dậy, nàng mới mở mắt ra đã thấy một vị đại tẩu cao lớn đứng trước mặt. Vị đại tẩu kia thấy Thẩm Hi tỉnh, vội kéo nàng đứng dậy, liên thanh nói: “Ngươi gan lớn vậy, cũng không xem đây là chỗ nào mà ngủ được, không sợ quỷ ăn mất hồn sao?” Thẩm Hi vội vàng xem lại, thì ra cồn cát hôm qua nàng ngủ cạnh chính là một ngôi mộ, chỗ nàng dựa vào là tấm bia!

Thẩm Hi giật mình, lạnh hết cả sống lưng. Vị phụ nhân kia thấy nàng mặc một thân quần áo rách rưới, không khỏi sinh lòng thương hại, nhẹ nhàng hỏi: “Ngươi từ phía tây đến phải không? Nghe nói rất nhiều thành trấn ở phía tây nùng phát dịch bệnh, chết rất nhiều người, ngươi sao lại trốn ra được?” Thẩm Hi biết mọi người sợ bệnh dịch lây lan, không dám nói thật nên chỉ nói lảng đi: “Không phải. Ở chỗ ta không có ôn dịch, chỉ là xảy ra nạn đói, nhà ta bị người ta xông vào, tướng công cũng bị đánh chết... Ta không có đường sống nữa nên đành đi tha phương, có lão tiên sinh nói cứ đi theo hướng đông, đến bờ biển sẽ không sợ chết đói, ta đi mãi đi mãi mới đến được nơi đây.”

Phụ nhân kia thấy nàng kể đến tướng công bị hại, mắt đỏ hoe nên không dám hỏi thêm nữa, vội chuyển đề tài: “Chỗ nhà ngươi cách nơi này xa không? Muội tử, ngươi đã đi bao nhiêu ngày đường rồi?” Thẩm Hi chùi lệ, trả lời: “Ta cũng không biết xa đến đâu, nhưng đến hôm nay đã là ngày thứ hai mươi hai rồi.” Phụ nhân hào sảng vỗ vai nàng: “Được rồi, muội tử đi theo ta, vào nhà ta nghỉ tạm đã rồi tính sau, xem ngươi cả người bụi bặm, đi tắm rửa một cái rồi tỷ nấu cái gì cho ngươi ăn, lại ngủ một giấc, chờ tỉnh lại, mọi chuyền phiền não cũng nghĩ xong xuôi ấy mà.”

Thẩm Hi thấy phụ nhân này không có ý xấu, huống chi giờ nàng nhìn không khác gì một bà ăn mày, không có gì đáng giá cho người khác làm hại, bèn bái nàng một cái, luôn miệng cảm tạ: “Vậy thì đa tạ tỉ tỉ.” Người phụ nhân này tựa hồ rất nhiệt tình, cả đoạn đường dẫn Thẩm Hi vào thôn vẫn miệng không ngừng nói, giới thiệu mọi chuyện trong thôn cho Thẩm Hi biết đại khái.

Thôn trang nhỏ này có cái tên giản dị là Thượng Ngư thôn, trong thôn có 26 hộ, làm nghề đánh cá với vá lưới mà sống. Hàng ngày cá bắt được sẽ có xe ngựa tới tận bến mua, nhưng nếu bán lưới thì phải đi đến Thất Lí Phổ mới có người mua, Thất Lí Phổ là trấn lớn trong vùng, cái gì cũng có bán, người trong thôn trừ bỏ muối ăn tự làm được ra thì những đồ khác đều phải đi đến Thất Lí Phổ mua.

Thượng Ngư thôn khá nhỏ, không có chức Lý chính nên nếu có tranh chấp gì mọi người trong thôn sẽ đến nhờ người lớn tuổi nhất, đức cao vọng trọng trong thôn giải quyết. Mỗi tháng quan phủ sẽ đến thu thuế cá, tuy rằng thuế khá nặng nhưng người dân vẫn kham được, cuộc sống khá no đủ.

Về phụ nhân này, nàng bảo Thẩm Hi gọi nàng là Phương tỉ là được, trong nhà có năm người, đương gia với chú em đang ra khơi đánh cá, trong nhà chỉ còn hai đứa con trông nhà, một đứa 7 tuổi, đứa út mới lên 4. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, rất nhanh đã đi vào trong thôn.

Trên đường có mấy đứa bé 5 6 tuổi đang chơi đùa, thấy bộ dáng lôi thôi của Thẩm Hi đều chạy đến xem, còn vỗ tay hát lên: “Bà ăn mày, đi xin cơm, đi xin cơm...” Thẩm Hi cũng không giận, còn nở nụ cười. Đáng tiếc giờ nàng gầy sọp, đôi mắt trũng xuống, nụ cười này càng khiến mấy đứa trẻ sợ đến sắp khóc. Phương tỉ thấy nàng luôn nói chuyện hòa nhã, không hấp tấp muốn theo nàng về nhà, lại không giận mấy đứa trẻ nghịch ngợm, không khỏi thêm hảo cảm, nàng hét to: “Lũ trẻ hư đốn, còn dám bắt nạt người ta, xem ta có lột da các ngươi không!” Hiển nhiên lũ trẻ cũng sợ nàng, không dám nghịch nữa, chạy ù đi.

Phương tỉ dẫn Thẩm Hi đến một căn nhà mộc mạc, đẩy cổng ra, nói: “Ở đây không có bao nhiêu nhà, nhà trên xóm dưới biết nhau hết rồi nên đi đâu cũng không cần khóa cửa, nhà ai cũng vậy.” Thẩm Hi theo nàng vào nhà, đưa mắt nhìn xung quanh, thấy ngôi nhà ở đây không giống như nhà ở mấy thôn trấn mà nàng đã đi qua. Nhà trong trấn được xây bằng gạch xanh, nhà ở đây lại dùng đá hộc xây, nóc nhà không lợp ngói mà dùng tầng tầng đen sẫm như tảo biển lợp lên. Sân cũng nhỏ, từa cổng đến cửa nhà chỉ cách hơn mười bước chân, không xây tường bao mà dùng cây đan lại làm hàng rào, trong vườn không trồng rau cỏ gì mà chỉ phơi mấy tấm lưới, còn có mấy con vịt đang tung tăng tìm mồi trong đó.

Phương tỉ dẫn nàng vào nhà chính, rót cho nàng một bát nước: “Ngươi ngồi đây uống ngụm nước cho khỏe lại, ta vào bếp xem còn cái gì không để nấu cho ngươi, chỉ sợ đồ ăn đơn sơ ngươi ăn không quen.” Nói xong, nàng không đợi Thẩm Hi trả lời, sợ Thẩm Hi đói nên vội vén mành cửa đi vào bếp. Thẩm Hi uống nước, nhìn đồ vật bài trí trong nhà.

Cuộc sống của nhà Phương tỉ chắc không quá kém, đồ vật trong nhà không ít. Phía tây có một cái giường đôi kê sát tường, có tấm màn vải treo trên đầu giường, cạnh đầu giường đi lên một chút là hai cái tủ quần áo khá cao cũng được kê sát tường, phía chân giương là một ngăn tủ thấp, trên mặt tủ còn để mấy cái lược, trâm gỗ với tấm gương đồng. Hai cái ghế bành dựa vào mặt tường, đối diện với chỗ Thẩm Hi đang ngồi. Giang phòng này bày biện khá nhiều đồ, tốt hơn nhiều so với ngôi nhà cũ trống hoác của Thẩm Hi.

Không lâu sau Phương tỉ đã đi lên, bưng một chậu nước với miếng tạo giác (xà phòng thủ công ở cổ đại): “Cơm nước sắp xong rồi, muội tử ngươi rửa tay rửa mặt, rửa xong vừa kịp lúc ăn cơm.” Thẩm Hi nói cảm tạ, vội đặt tay xuống chậu nước. Trên đường đi nàng có chú ý rửa mặt, nhưng nhớ lời dặn của Lý lão tiên sinh nên chỉ dám súc miệng lau mặt qua loa, giờ nhìn lại đúng là bẩn vô cùng.

Chậu nước chuyển thành màu đen Thẩm Hi mới rửa xong, nàng giật mình nhìn ngón tay mình, móng tay nàng giờ dài ra không khác gì bàn tay của Mai Siêu Phong, hơn nữa kẽ móng tay đen thùi. Nàng vội hỏi mượn Phương tỉ cái kéo, cắt móng tay gọn gàng. Phương tỉ nhìn Thẩm Hi đã sạch sẽ tươm tất, mỉm cười trêu: “Không ngờ muội tử còn là mĩ nhân đây, tiếc là ngươi gầy quá, cằm đã sắp nhọn thành cái dùi.”

Lát sau nàng xuống bếp, bưng lên một bát cháo, hai cái bánh áp chảo, một đĩa rong biển trộn, giục Thẩm Hi: “Muội tử mau tới ăn đi, có thực mới vực được đạo, con người ta đã đói là nhũn hết tay chân, không được như ngươi có thể chịu đói được lâu như vậy, ngươi cố ăn cho khỏe.” Nghe nàng nói, Thẩm Hi vui buồn lẫn lộn, đời trước nàng chỉ là một sâu gạo, ngay cả đi đường gần cũng toàn dùng ô tô, quãng đường cả đời nàng đi có lẽ chưa bằng phân nửa con đường nàng phiêu bạt ở đây. Nếu trước kia có người phán nàng có thể đi liên tục 21 ngày đường, chắc chắn nàng sẽ xem người kia như kẻ điên, nhưng giờ thực tế đã chứng minh nàng làm được. Con người đúng là một sinh vật kì diệu, trong tuyệt cảnh mới có thể vươn lên mạnh mẽ nhất.

Thẩm Hi cảm ơn Phương tỉ, ngồi vào bàn ăn cơm. 21 ngày nay nàng chỉ có mỗi bánh bột để ăn, hết bánh rồi nàng tìm chỗ có nước lấy bột ra đổ vào cái hũ nhỏ mang theo rồi quấy thành bột sệt để ăn, lâu lắm rồi chưa có một bữa cơm tử tế nên ăn rất ngon miệng. Nàng sợ ăn một lúc no quá hại đến dạ dày đã héo rút vì thiếu đói nên chỉ ăn bát cháo với đĩa rong biển trộn, để lại hai cái bánh áp chảo.

Phương tỉ chậc lưỡi: “Không trách ngươi gầy như vậy, ăn như mèo thế này làm sao khỏe được, là ta có ăn hết cũng mới đủ lửng dạ thôi đấy.” Nói xong nàng đã nhanh nhẹn dọn bát đũa xuống bếp.

Ăn xong Thẩm Hi ngồi tán gẫu một chốc với Phương tỉ, hỏi thăm chỗ ở tạm: “Phương tỉ, ở chỗ quanh đây có nhà nào có phòng trống cho thuê không? Nhân lúc trời còn sáng ta muốn đi tìm chỗ đặt chân.” Phương tỉ ngẫm ngẫm, nói: “Thôn trang này bé như lỗ mũi, nhà ai cũng xây đủ để ở thôi, có nhà đông người còn phải chen chúc trong một phòng, làm gì có phòng trống mà cho thuê. Muội tử muốn thuê phòng thì phải lên Thất Lí Phổ, chỗ đó là thôn trấn lớn, chắc chắn không ít chỗ cho thuê.”

Thẩm Hi nói: “Vậy ta đành cáo từ tỉ vậy, giờ trời chưa tối nên đi đến Thất Lí Phổ vẫn còn kịp. Cảm ơn tỉ đã khoản đãi, đợi muội tử sắp xếp xong xuôi sẽ tới thăm tỉ.” Phương tỉ nhìn Thẩm Hi, không biết chợt nhớ ra cái gì, vội nói: “Muội tử, ngươi xem giờ ngươi mới chạy nạn tới đây, tiền bạc cũng phải tiết kiệm chút, ta giúp ngươi nghĩ cách. Chứ đi Thất Lí Phổ thuê nhà lại tốn thêm một khoản tiền, ngươi đừng tiêu xài hoang phí. Năm trước Cửu bà trong thôn mới mất, cũng không có con cái gì, giờ căn nhà của bà ấy vẫn còn trống, để ta đi hỏi Tam thúc công xem cho ngươi ở tạm chỗ kia được không.”

Ở nơi nào Thẩm Hi cũng thấy như nhau, dù sao đều là bắt đầu từ số 0, nhưng nàng không muốn từ chối ý tốt của Phương tỉ, huống chi bạc của nàng chỉ còn chừng 10 lượng, nên gật đầu: “Vậy xin làm phiền tỉ rồi.” Phương tỉ là người dứt khoát lanh lẹ, lập tức bảo nàng ngồi lại nghỉ ngơi, còn mình thì đi đến nhà Tam thúc công để hỏi.

Thẩm Hi nhìn nhìn quanh phòng, thấy cái gương trên tủ lùn bèn nhặt lên soi thử. Trong gương chỉ có một bóng người mờ mờ, nếu nàng không đủ bình tĩnh đã hét lên kêu có quỷ rồi, chỉ thấy khuôn mặt trong gương đen sạm lại, đôi mắt trũng sâu, cái cằm nhọn hoắt, thêm mái tóc bết bát rối bời dọa đến nàng không nỡ nhìn lại, vội đặt lại cái gương vào chỗ cũ.

Dù khuôn mặt biến thành xấu xí không tả, nhưng khi nàng cúi xuống nhìn vào cái bụng hơi phồng lên lại thật sự vui mừng, không có gì, nhóc con, dù có thành cái gì đi nữa, vì con mẹ cũng chịu được!
CHƯƠNG 27

Một hồi lâu sau, Phương tỉ mới dẫn một cụ già khoảng 7-80 tuổi vào nhà. Vừa vào đến trong phòng, nàng liền chỉ vào Thẩm Hi giới thiệu: “Tam thúc công, ngài xem, đây là muội tử dám ngủ qua đêm ngay cạnh mộ của Nhị thúc công, ngài nói nàng có to gan hay không, cũng dám ngủ ngay cạnh mộ.”

Cụ già đã lớn tuổi lắm rồi, trên trán trên mặt chằng chịu nếp nhăn, mí mắt cũng lỏng xuống che lại con mắt mờ đục, nghe Phương tỉ nói, ông ngẩng mặt lên nhìn Thẩm Hi, đôi mắt bị thời gian làm mờ nhưng lại thấu hiểu thế sự nhìn thẳng vào mắt nàng. Thẩm Hi thi lễ, nhẹ giọng: “Thẩm Hi gặp qua Tam thúc công.”

Tam thúc công ho một tiếng, mở lời: “Thẩm nương tử, chỗ thôn trang chúng ta dù hơi hẻo lánh một chút nhưng nếu chịu khó, cũng không lo bị đói, phía nam thôn có một gian nhà trống, trước tiên ngươi ở tạm đó đi. A Phương, ngươi dẫn nàng đi qua, rồi sang nhà ta lấy ít gạo và mì đưa qua. Có rảnh thì dạy cho nàng cách dệt lưới, ít nhất học được cái tay nghề sống qua ngày rồi nói sau.” Phương tỉ vội đồng ý, Thẩm Hi cũng nhanh chóng nói cảm tạ.

Tiễn Tam thúc công đi rồi, Phương tỉ liền dẫn Thẩm Hi ra cửa, không lâu sau đã đến chỗ căn nhà trống. Ngôi nhà này nhỏ hơn nhà cũ mà Thẩm Hi ở, chỉ có một gian phòng, ngay cả nhà bếp cũng chỉ là một gian lều nhỏ tách khỏi nhà chính. Căn nhà rách nát vô cùng, không có cổng, hàng rào cũng không, trong sân đầy cỏ dại, hố to hố nhỏ. Nhưng đã đến nước này, nàng không dám chê gì.

Phương tỉ nói: “Muội tử, ngươi ở tạm chỗ này đã, dù có nhỏ một ít nhưng cũng đủ một mình ngươi ở rồi, về sau làm ăn khấm khá, chúng ta lại xây căn nhà lớn nữa cho ngươi.” Xây nhà mới cho nàng? Câu nói của Phương tỉ hình như hơi lạ ở chỗ nào, nàng thu lưu mình đã là thiện tâm, còn làm nhà mới, Thẩm Hi không biết một người làm việc thiện còn đến mức tận thiện như vậy, nàng mới đến đây, còn chưa đến nỗi khiến Phương tỉ cảm giác vừa gặp đã quen như vậy chứ?

Thẩm Hi coi như chưa nghe được, cười nói: “Cảm tạ Phương tỉ, như vậy đã tốt lắm rồi, có thể có một chỗ an thân muội cũng đủ vui lòng.” Phương tỉ cũng cười: “Muội tử không cần khách sáo, ta là người thô kệch, không quen nghe mấy lời sáo rỗng đó. Về sau sẽ là người một nhà, không cần xa lạ.”

Người một nhà? Thẩm Hi thấy nàng càng nói càng khó hiểu, nhưng không dám hỏi thêm, xoay người mở cửa nhà. Mùi mốc ẩm với một trận bụi bay ra, phả thẳng vào mặt Thẩm Hi khiếng nàng ho sặc sụa. Phương tỉ ở đằng sau giới thiệu: “Ngôi nhà này trước đây là của Cửu bà, năm ngoái bà đi lên trấn trên bán lưới, đến nửa đường thì ngã bệnh, không về được nữa. Từ đó đến giờ ngôi nhà vẫn trống không nên hơi bụi, muội tử ngươi dọn dẹp một chút là được, ta sang bên nhà Tam thúc công lấy gạo và mì cho ngươi, lại lấy thêm ít đồ nhu yếu phẩm nữa.” Dứt lời nàng đã xoay người rời đi.

Thẩm Hi nhìn nàng đã đi xa, mới quay lại, xem xét chỗ ở của mình về sau. nhà chỉ có một gian phòng, vừa bước vào cửa đã nhìn thấy hết mọi ngóc ngách trong nhà. Góc tường kê một cái giường nhỏ, mặt trên trống trơn không có chăn chiếu gì. Bên kia là một cái tủ nhỏ, ngăn tủ cũng trống không. Một góc khác thì bày một cái bàn, một cái ghế, trên mặt bàn để mấy cái bát đĩa, hai đôi đũa, đều đã mốc meo, mặt bàn phủ một lớp bụi dày. Trong căn lều làm bếp cũng vậy, cánh cửa cũng không có, đứng ngoài cửa nhìn vào chỉ thấy một bệ bếp lò, một vại nước, còn có một cái bàn, trên bàn rỗng tuếch.

Nhìn nhà cửa mà Thẩm Hi chán đến không muốn quét dọn làm gì.Trước kia nàng mới xuyên qua còn có một Người mù đang ngồi trên kháng chờ nàng nuôi, nên Thẩm Hi không thể dứt bỏ mọi muộn phiền để tiến vào nhân vật người vợ, gánh vác trách nhiệm nuôi sống cả gia đình. Bây giờ cô độc một người, trái tim nàng đã chết từ khi Người mù bị hại, nhìn lại gian nhà rách nát như hồi xưa, nàng cuối cùng cũng không có quyết tâm như ngày đó. Nghĩ đến Người mù, Thẩm Hi lại đau lòng, nếu Người mù cũng thoát được có phải đã hạnh phúc mĩ mãn rồi không. Nước mắt Thẩm Hi nhỏ xuống, rơi trên mặt bàn làm nổi lên một tầng tro bụi.

Dù có nản lòng, cuối cùng nàng vẫn phải xốc lên tinh thần dọn dẹp, không thể vừa mới đến đã khiến người ta có ấn tượng xấu về mình, huống chi nếu nàng không dọn thì tối cũng không có chỗ ngủ lại. Thẩm Hi lau khô nước mắt, nhận mệnh mang cái thùng ra ngoài đi tới chỗ giếng nước mà Phương tỉ chỉ để múc nước vè lau dọn đồ đạc. Nơi này nguồn nước ngầm khan hiếm, cả thôn chỉ có một cái giếng ngay giữa thôn, nhưng thôn nhỏ nên nàng cũng không phải đi xa lắm.

Xách thùng nước về nhà, Thẩm Hi xé lấy một miếng vải từ tấm màn rách trên đỉnh giường làm giẻ, bắt đầu tổng vệ sinh ngôi nhà. Đợi đến lúc Phương tỉ mang đồ tới ngôi nhà lụp xụp lúc trước đã rạng rỡ hẳn lên, bát đũa được rửa sạch sẽ, bàn ghế cũng sạch bụi, vại nước được rửa sạch, bên trong đã đầy nước. Phương tỉ thấy Thẩm Hi chịu khó như vậy, không khỏi hài lòng khen ngợi: “Muội tử đúng là hiền lành chịu khó, nhìn xem ngôi nhà đã sạch sẽ như mới rồi.”

Nàng miệng nói tay làm, đặt mấy túi đồ xuống sau đó chỉ cho Thẩm Hi xem: “Gạo và mì mỗi thứ 10 cân, Tam thúc công cho ngươi, cá muối với dưa muối là của nhà ta, ngươi không chê là được rồi. Với cả hai con cá tươi với hành lá để trưa nay ngươi nấu làm thức ăn. Dầu muối nhà ta không còn nhiều nên lấy một ít sang đây, đợi ngày kia trượng phu nhà ta đi Thất Lí Phổ ta nhờ hắn mang thâm một ít về cho muội tử. À đây có một tấm trải giường, hơi cũ nhưng vẫn nằm được, ta đã giặt phơi sạch sẽ rồi, còn có bộ quần áo cũ hồi ta mới gả đến, hình thức cũ rồi, ngươi mặc tạm đừng ghét bỏ.” Thẩm Hi không phải người đòi hỏi vô cớ, luôn miệng nói cảm tạ nàng.

Phương tỉ không ở lâu, bảo là phải nấu cơm trưa nên đi về. Đợi nàng đi rồi Thẩm Hi mới dọn lấy đồ đạc, vào bếp đun một nồi nước sôi tiêu độc bát đũa rồi đi nấu cơm, đang lúc đợi cơm sôi nàng mổ hai con cá, đợi cơm nấu xong lại hấp cá với muối Phương tỉ mang đến. Nàng nấu cơm xong thì trời cũng đến trưa.

Lâu rồi chưa được ăn thịt cá nên Thẩm Hi có chút thèm, hai con cá biển chỉ hấp với dầu muối và ít hành lá, mùi tanh không khử hết nhưng nàng vẫn ăn được như thường, cơm cũng ăn được hai bát.

Không biết có phải nàng thiếu dinh dưỡng hay là đứa bé ngoan ngoãn, đã gần ba tháng nhưng Thẩm Hi chưa có biểu hiện ốm hay nghén gì, trong ba tháng này tâm trạng của nàng không ổn định, sợ hãi, đau buồn, lại đi bộ suốt ngày nên nàng rất sợ vạn nhất đứa bé có chuyện. Nàng càng nghĩ càng bất an, quyết định sáng mai sẽ đi Thất Lí Phổ tìm đại phu bắt mạch khám xem.

Ăn cơm xong, Thẩm Hi lại đun một nồi nước ấm, tắm rửa sạch sẽ, nàng đổ hai lần nước mới coi như tắm sạch bụi bẩn mang theo một đường. Quần áo của nàng cũng không ra hình, đành mặc vào bộ quần áo Phương tỉ mang cho, không nằm ngoài dự đoán nó khá rộng, nhưng vẫn tốt hơn nhiều so với bộ đồ rách rưới của nàng. Xong xuôi mọi việc Thẩm Hi đã mệt đến rã rời, không kịp đợi tóc khô đã nằm lên giường mà thiếp đi. Hơn hai mươi ngày mệt nhọc bôn ba, ngũ cũng không yên giấc nên hiện giờ đã an toàn, lại có một chỗ che thân nên Thẩm Hi vô cùng thả lỏng, ngủ một giấc tối tăm trời đất.

Giấc ngủ này làm nàng quên cả thời gian, nếu bụng không réo chắc Thẩm Hi sẽ ngủ đến hôm sau mới tỉnh, cho dù nàng cố nằm dậy, đã là mặt trăng giữa trời. Thẩm Hi đốt nến, định dậy ăn nốt cơm thừa trưa nay, mới thấy không biết chiều nay ai đã tới giúp nàng thu quần áo phơi ở ngoài sân vào, còn gấp gọn gàng đặt lên trên tủ đầu giường cho nàng. Trên mặt đất để một cái chậu gỗ đầy tôm cua và sò hến. Nàng mới vào đây nên chỉ biết hai người, trong đó tam thúc công đã già cả đi không nổi, không đoán cũng biết Phương tỉ lại đến giúp nàng đây mà.

Thẩm Hi rửa sạch số tôm cua kia, đổ hết vào trong nồi luộc chín. Nàng vớt ra, chỉ chấm muối nhưng cả chậu hải sản cũng hết sạch. Ăn xong, Thẩm Hi dọn dẹp bát đũa, rửa tay rồi thong thả nằm lại trên giường, sờ sờ cái bụng còn chưa phồng hẳn lên, mỉm cười hạnh phúc: “Bảo bảo, cần phải cố gắng ăn nhiều mới được, mẹ sẽ cố bổ sung thêm dinh dưỡng cho con.”

Sáng hôm sau nàng cố dậy sớm, nhìn ra cửa thấy mặt trời mới đang từ từ dâng lên ở phía chân trời, hít một hơi thật sâu hương vị tanh mặn đặc trưng của gió biển, Thẩm Hi cảm giác mình đã đầy năng lượng để sống tiếp. Nàng sờ bụng, nói nhỏ với đứa bé: “Bảo bảo, từ giờ trở đi mẹ sẽ không khiến con phải chịu khổ nữa, mẹ sẽ cố gắng làm việc, cho con có hoàn cảnh tốt nhất để trưởng thành.”

Ăn xong cơm sáng, Thẩm Hi mang lên 10 lượng bạc còn lại, đi nói một tiếng với Phương tỉ, sau đó chuẩn bị đi Thất Lí Phổ. Ngay lúc này nàng vô cùng may mắn lúc nhanh trí khi giấu bạc trong cái đệm, nghĩ đến việc giấu hết không tiện lấy tiền ra mua đồ hay tiêu vặt nên để ra một nén bạc, nên khi gói lại bạc cho Lý lão tiên sinh nàng cũng gói lại giấu vào người, nên giờ mới không phải tay trắng.

Phương tỉ nghe nàng nói muốn đi Thất Lí Phổ, không khỏi khuyên nhủ: “Muội tử, không cần vội, đợi ngày mai trượng phu nhà ta lên phố mua đồ hai ta hẵng đi theo, có người đi kèm vẫn tốt hơn, ngươi mới đến chưa quen thuộc, không khéo lại bị lừa mất.” Thẩm Hi từ chối, dù sao việc liên quan đến đứa bé, nàng sợ đêm dài lắm mộng nên gặng hỏi Phương tỉ đường đi Thất Lí Phổ thế nào rồi một mình lên đường.

Đường đi không gần, hai mươi lăm dặm lên Thẩm Hi đi nửa ngày mới tới. Thượng Ngư thôn ít người, dọc theo đường đi ngay cả người đi bộ cũng không thấy nên nàng cũng không tìm được xe ngựa hay xe bò để đi nhờ.

Thất Lí Phổ quả nhiên là trấn lớn, rộng hơn nhiều so với thôn trấn trước kia Thẩm Hi ở, chợ rất náo nhiệt. Nhưng giờ nàng không có tâm tư đi quan sát chung quanh, vội vàng hỏi đường đi tới y quán. Thười đại này y quán kiêm chỗ đại phu bắt mạch, viết đơn xong thuốc cũng mua ngay ở đó. Thẩm Hi theo sự chỉ dẫn của người dân bản xứ đi tới chỗ y quán, một lão đại phu béo tròn bắt mạch cho nàng, nói thai nhi khỏe mạnh, không có chuyện gì, lại dặn nàng cố ăn uống cho tốt, đứa bé sinh ra mới cứng cáp khỏe mạnh được. Nàng không nôn nghén nên hỏi đại phu xem lại giúp, nhưng ông chỉ nói: “Phụ nữ có thai không giống nhau, nên phản ứng lúc mang thai cũng khác, có người ăn gì nôn gì, nhưng có người đến tháng cuối mới nghén.”

Đại phu còn căn dặn mấy việc kiêng kị lúc mang thai, ăn uống phải kiêng cữ, nhất là chỗ này là bờ biển biên còn bảo nàng chú ý không được ăn nhiều hải sản, nhất là đồ tính hàn như cua, khiến Thẩm Hi sợ hết hồn, nồi hải sản tối qua nàng ăn còn có hai con cua to. Nàng may mắn trong lòng: Thật tốt số, đứa bé trong bụng cũng thật may mắn nó mạng lớn, có bà mẹ gà mờ như nàng đúng là làm khó nó rồi!

Có dịp đi vào thành trấn, thế nào Thẩm Hi cũng phải thăm dò một ít tin tức cho yên tâm, không biết giờ tình hình dịch bệnh ra sao rồi, còn có Bắc Nhạc quốc đã rút quân thật chưa, chỉ sợ chiến loạn lại xảy ra lần nữa.

Nàng đi vào một trà lâu, đưa cho tiểu nhị 5 văn tiền, tiêu nhị ca kia nói như rang đậu mà giũ hết mọi tin nước nắm được cho nàng nghe.

Bắc Nhạc xâm lược nên Trung Nhạc quốc rung chuyển, nhiều nơi bị đứt lương, người chết đói rất nhiều, lúc ấy đang giữa mùa hè nên nhiều xác chết không kip chôn phát thối, rất nhiều thành trấn đều bùng nổ dịch bệnh. Triều đình quyết đoán xóa sổ hàng loạt thành trấn có dịch bệnh hoành hành, đốt sạch thành quách, xác người, các thành trấn khác cũng hạ lệnh phong tỏa cửa thành, cấm thông hành, ngay cả người hồi hương cũng bị giữ lại, nhà nhà không được thu lưu người nhà từ bên ngoài đến, cuối cùng mới trấn áp được dịch bệnh.

Thẩm Hi nghe xong không khỏi chậc lưỡi, may mắn Lý lão tiên sinh dặn kĩ nàng, chính nàng cũng sợ bị truyền nhiễm nên không dám vào thành nên mới được an toàn đến đây, nếu không có lẽ nàng đã phơi thây hoang dã hay chết mất xác cũng nên.
CHƯƠNG 28

Nghe tin nhiều nơi bị tàn sát, Thẩm Hi không khỏi xen vào: “Tiểu ca, ngươi biết nơi nào bị đốt sạch sao?” Tiểu hỏa kế trả lời: “Làm nghề như bọn tađây tất nhiên là phải nắm rõ thông tin rồi. Lúc đó tám tòa thành trấn lớn nhỏ bị xóa sổ, gồm có Tu Đô, An Hòa, Hắc Nham, Song Khánh, Tây Cốc...”

Nghe tiểu nhị nói, Thẩm Hi như sét đánh ngang tai, tim đập thình thịch như sắp nhảy ra ngoài. Tây Cốc trấn... thực sự đã bùng phát dịch bệnh, giờ cả trấn chắc không còn ai sống sót, ngay cả kiến trúc cũng bị phá sạch. Những đứa bé đáng yêu, những người khách quen đến quán cháo, hai vợ chồng Tôn lão gia, nhà Vương thư lại, ngôi nhà nhỏ mà nàng cùng Người mù sinh sống... đã không còn, tất cả đều hóa thành tro tàn sau mồi lửa, vết tích tồn tại của những con người đó đã biến mất vô tung trên thế gian này, như một giọt nước bốc hơi giữa sa mạc...

Thẩm Hi lòng đau như cắt, nàng run tay cầm chén trà lên định uống, dòng nước ấm áp chảy vào dạ dày mới làm nàng không phải rùng mình khắp người... Nàng cấu lên cánh tay một cái, làm bản thân bình tĩnh lại tiếp tục nghe tiểu nhị nói chuyện. Lúc này tiểu nhị đang say sưa kể tiếp: “...Kiếm Thần với Hồng Phong đối lập rất lâu, chỉ nghe Hồng Phong nói: ‘Ngươi đúng là mạng lớn, thương nặng như vậy còn chưa chết được? Ta từ nhỏ ngộ kiếm, do sự trần mà ngộ đạo, kiếm ý đã viên mãn, hôm nay sẽ dùng ngươi thử chiêu’. Sau đó Kiếm Thần liền rút kiếm, chỉ một kiếm đã bức Hồng Phong ra mấy thước xa, Hồng Phong lúc này chĩa mũi đao xuống đất nói: ‘Kiếm ý của ngươi quả thật đã mạnh lên, ta không phải là đối thủ của ngươi. Giờ Bắc Nhạc quốc sẽ lui binh, lúc ta sinh thời tất sẽ không tái phạm’. Kiếm Thần lại nói: ‘Ngươi hại dân chúng Trung Nhạc quốc ta ngày đêm lo lắng, bá tính cơ khổ trôi dạt, ngươi không chết không hết họa, hôm nay ta quyết không tha cho ngươi!’. Dứt lời, Kiếm Thần vung kiếm, Hồng Phong không địch nổi, bị chém làm mấy khúc. Hôm đó Kiếm Thần dẫn đầu tướng sĩ tam quân, thu hồi năm trăm dặm đất bị chiếm. Uy võ của Kiếm Thần khiến Bắc Nhạc quốc sợ vỡ mật, quân địch tan tác, đến khi quân ta thu hồi hết thành trì bị mất Kiếm Thần mới rời đi. Nửa tháng sau chẳng biết tại sao Kiếm Thần lại xông vào hoàng cung Bắc Nhạc quốc, giết chết Hoàng đế, đồng thời hiệu lệnh quân sĩ tấn công, Tây Nhạc và Đông Nhạc quốc thấy vậy cũng đục nước béo cò, đồng thời lãnh binh tiến đánh. Qua nửa tháng sau, Bắc Nhạc liền diệt vong, Kiếm Thần thấy Bắc Nhạc đã diệt, liền biến mất, nghe nói là trở lại Kiếm Thần sơn để tu luyện.”

Thẩm Hi không quan tâm tiểu nhị đã nhập tâm vào làm thuyết thư tiên sinh, những thứ nàng quan tâm đã bị một mồi lửa thiêu sạch, không còn một dấu vết.

Nàng ngồi ngây ra đó, nhớ lại lúc mới đến Tây Cốc trấn, quãng thời gian chung sống cùng Người mù, nhớ lại lúc hiếm hoi hắn dịu dàng quan tâm, đau lòng đến nghẹt thở. Thì ra, không biết từ khi nào Người mù đã trở nên quan trọng với nàng như vậy, nàng còn ngốc nghếch cho rằng mình luôn là người chăm sóc hắn, thiếu nàng Người mù sẽ sống không nổi. Sau đó hiện thật đã đánh tỉnh nàng, không có Người mù, nàng không còn muốn sống nữa. Nếu không phải Lý lão tiên sinh đúng lúc đến tìm nàng, phát hiện nàng đang mang trong mình giọt máu của hắn, có lẽ giờ nàng đã gặp lại Người mù rồi.

May mắn là nàng vẫn chưa kịp theo Người mù mà đi, giờ nàng đã có hi vọng, kết tinh của hai người đang lớn lên từng ngày, giờ nhiệm vụ của nàng là sinh đứa bé ra, nuôi dạy nó thành người. Thẩm Hi ngồi ở trà lâu đến lúc qua giờ trưa mới lo lắng mà rời đi.

Vì không được nhịn đói, lại muốn thêm dinh dưỡng cho thai nhi nên nàng đi vào tửu lâu gọi hai món ăn, một thịt kho tàu, một chân giờ kho. Đã qua buổi trưa nên người trong tửu lâu khá vãn, chỉ có mấy bàn hình như đang nói chuyện làm ăn, tiếng nói cười liên tục, Thẩm Hi vừa ăn cơm vừa nghe họ nói chuyện.

Có một bàn khách uống say, lớn giọng kể lể về mụ cọp cái ở nhà. Có một bàn hai người tranh luận không ngừng về một cân 25 văn hay là 50 văn. Chỉ có một bàn dựa vào cạnh chỗ cửa sổ đang có bốn văn nhân ngồi đâng thảo luận chuyện thời sự. Thẩm Hi lặng lẽ nhích ghế sang bên, chú ý lắng nghe họ đang nói cái gì.

“Thánh nhân nói, kẻ làm vương lấy nhân trị quốc. Tiểu đệ thấy việc đồ thành quá tàn nhẫn, không phải nhân quân nên làm.” “Tử Lâm huynh nói vậy sai rồi, nếu không đồ thành, dịch bệnh sẽ lan tràn, khi đó cả thiên hạ đều gặp nạn, chỉ đồ vài thành mà cứu cả thiên hạ, ta thấy đây vẫn là việc đúng.”

“Tử Lâm huynh, Chính Thuần huynh, hai vị nói đều có lý, Thánh thượng hạ lệnh đồ thành dù có thất nhân nghĩa, nhưng lại phù hợp đạo lý. Chỉ đáng thương cho dân chúng vô tội của tám thành trấn kia thôi.” “Lời của Tiền huynh không đúng, thiên hạ này ngàn vạn thành trấn, chỗ khác không bị dịch bệnh, lại phải đúng 8 thành trấn này bị, hẳn là dân chúng 8 thành trấn này đắc tội ông trời, cho nên bị trời phạt, phàm nhân chúng ta sao có năng lực đối kháng ông trời?”

...

Bốn người vì chuyện đồ thành có dịch bệnh mà tranh cãi không ngừng, chỉ có một người cho rằng việc đồ thành không đúng, ba người kia lại cho rằng việc đó là chính xác. Thẩm Hi cũng hiểu dù là ai trong hoàn cảnh này cũng sẽ bỏ bé giữ lớn, nơi này là cổ đại, y tế lạc hậu, căn bản không thể kiểm soát được dịch bệnh, biện pháp duy nhất cũng chỉ đành làm vậy để ngăn chặn dịch bệnh lây lan. Nghĩ là nghĩ vậy nhưng khi bản thân ở vào vị trí bị tàn sát luôn sẽ oán hận hành vi này quá vô nhân tính, ngay cả dân chúng đồng tình với lệnh đồ thành cũng trở nên đáng ghét lên.

Thẩm Hi cắn mạnh cái móng giò, làm như đang gặm mấy người văn nhân kia cho bõ tức. Bàn bên mấy văn nhân kia đã đổi đề tài, lần này nhân vật chính của chủ đề là Kiếm Thần Hoắc Trung Khê.

“Lần này Kiếm Thần giết chết Hồng Phong, thật là đáng mừng. Từ giờ trở đi nước ta tất sẽ không có kẻ nào dám phạm.” “Không phải vậy, theo đệ thấy thì Kiếm Thần một mình xông vào hoàng cung, chặt bỏ đầu hoàng đế mà treo trước trận giữa hai quân mới khiến nhân tâm vui sướng.”

“Lời nói của Tiền huynh tiểu đệ tán đồng, Kiếm Thần giết chết Hồng Phong chỉ là giải cái nguy trước mắt, nếu Bắc Nhạc lại có Võ thần mới, sẽ tiếp tục xuôi nam như trước, Kiếm Thần diệt Bắc Nhạc quốc, nước ta không bị chiến hỏa đe dọa, nhân dân được yên ổn, việc này mới là phúc trạch muôn dân, lợi cập hậu bối (lợi ích đời này đến đời sau), đây mới là chuyện đáng mừng nhất.”

Một người bỗng mở cái quạt xếp che miệng cười thần bí: “Ba vị huynh đài có biết vì sao Kiếm Thần lại diệt Bắc Nhạc quốc? Tiểu đệ có manh mối đây.” Ba người vội vàng hỏi: “Bọn ta chưa biết gì, mong Minh Chương huynh nói ra.”

Vị Minh Chương huynh kia gợi đủ lòng tò mò của mọi người mới hài lòng nói: “Ta nghe một vị bằng hữu ở Kiếm Thần sơn nói nguyên nhân là do Kiếm Thần vì báo thù cho phu nhân nên mới diệt Bắc Nhạc.” Ba người kia xùy giọng: “Kiếm Thần kết hôn là việc trọng đại, sao lại không ai biết Kiếm Thần đãcó thê tử? Minh Chương huynh chắc nghe nhầm rồi.” Minh Chương thấy không ai tin hắn, không khỏi gấp lên: “Năm ngoái Kiếm Thần bị Hồng Phong với Tô Liệt đánh lén, bị thương nặng gần chết, may mắn được một vị cô nương cứu mạng, hai người lâu ngày sinh tình, kết làm phu thê, nhờ nàng kia hết lòng chăm sóc mới khỏi. Lại nghe nói lúc Bắc Nhạc mới dẫn quân đánh xuống thì Kiếm Thần chưa khỏi hẳn, về sau thế cục loạn lên Kiếm Thần mới mang thương tích tạm biệt thê tử bước lên chiến trường. Tiếc là...”

Nói đến đây, hắn dừng một hơi, thấy mọi người nghe chuyện chăm chú mới hài lòng kể tiếp: “Đáng tiếc nơi mà thê tử của Kiếm Thần cư trú chính là một trong 8 thành trấn bị triều đình đồ thành.”

Mọi người nghe vậy đều giật mình, một người thất thanh: “Kia vậy chẳng phải Kiếm Thần phu nhân đã chết rồi?” Vị Minh Chương huynh kia thở dài, giọng trầm thấp: “Đâu chỉ là chết, ngay cả thi thể cũng bị đốt thành tro, đến lúc Kiếm Thần trở lại, ngôi nhà của họ đã bị san thành đất bằng. Kiếm Thần bi thống vạn phần, chảy ra huyết lệ, chân không ngừng bước mà chạy trên vạn dặm, chét chết Bắc Nhạc đế, lại diệt Bắc Nhạc quốc nhằm báo thù sát thê.” Nói đến đây, tửu điếm đã yên lặng một mảnh, cả tiểu nhị mang đồ ăn lên cũng không dám lên tiếng mời gọi.

Người tên là Tử Lâm bỗng ra tiếng: “Nếu nói vậy việc đồ thành này khiến phu nhân mất mạng, vậy Kiếm Thần hẳn là thống hận nhất vị đương kim trên đó đi?” Nghe thấy lời này, tất cả mọi người đều cúi đầukhông dám ra tiếng nói gì thêm. Chỉ có Minh Chương huynh kia trả lời: “Chỉ lệnh đồ thành tuy là ngô hoàng hạ, nhưng nếu không phải do Bắc Nhạc quốc xuôi nam, thế cục nước ta không bị uy hiếp, tất sẽ không có cảnh dân đói khắp nơi, dịch bệnh lan tràn, vậy Kiếm Thần phu nhân sẽ không phải chết. Kiếm Thần suy nghĩ rộng rãi, cao thâm khó dò, há lại hẹp hòi như dân thường chúng ta?”

Nghe được lời này, Tử Lâm huynh kia đỏ mặt, không khỏi hổ thẹn: “Lòng dạ Kiếm Thần, ta không thể so.” Minh Chương an ủi vỗ vai hắn: “Tử Lâm huynh không nên vậy, Kiếm Thần đứng ở chỗ cao, tâm cảnh cao tuyệt tất là chúng ta không thể bì kịp.” Nói đến đây, hắn lại chuyển giọng: “Bệ hạ biết chuyện Kiếm Thần phu nhân gặp chuyện không hay, đích thân đến Kiếm Thần sơn thỉnh tội. Kiếm Thần lại nói: ‘Tình hình như thế, tất phải bỏ cái nhỏ giữ cái lớn, ngô hoàng không sai. Nếu Hoàng thượng cần chính yêu dân, để bách tính được an cư lạc nghiệp, chỉ cần một ngày ta còn sống, ta cũng bảo vệ Trung Nhạc một ngày’. Bệ hạ cảm động, muốn phong Kiếm Thần phu nhân làm Tiết liệt nghĩa Phu nhân, chiêu cáo thiên hạ. Tiến rằng Kiếm Thần nói chuyện cũ đã qua, không muốn nàng bị thế nhân đàm luận làm phiền nên xin miễn ý chỉ. Nếu không, giờ vị phu nhân này đã được thiên hạ biết đến.”

Mọi người đều yên lặng không nói, tựa hồ giật mình với tin tức của Minh Chương. Một lúc lâu, Tiền huynh kia mới vỗ tay cảm thán: “Thiện thay, Kiếm Thần, hiền tháy, ngô hoàng, đại thiện đại hiền đều tề tụ nước ta, ngày hưng thịnh của quốc gia sắp tới rồi.” Vị Chính thuần huynh im lặng hồi lâu lại cảm khái: “Chỉ đáng tiếc cho vị Kiếm Thần phu nhân thiện lương kia.”

Tiền huynh không đồng ý: “Có thể cứu được Kiếm Thần đã là may mắn của nàng, được chân tình của Kiếm Thần là phúc, được ngô hoàng thân phong thành Tiết liệt nghĩa Phu nhân là phận, tiểu đệ thấy dù nàng kia có chết vẫn là đáng vinh hạnh.” Mấy người đều gật gù: “Đã chết rồi nhưng vẫn được vinh sủng như vậy, ắt vị Kiếm Thần phu nhân này hẳn có thể mỉm cười nơi chín suối.”

Phụ nữ trong xã hội này vô giá trị thế sao? Hảo tâm cứu người bị nói là “may mắn”, yêu phải người trọng thương sắp chết bị nói là “có phúc”, bị giết chết rồi được phong cái danh hão, còn bảo là “vinh hạnh.” Mạng cũng không còn, đây là cái số gì vậy? Nếu triều đình chém chết cả nhà mấy tên thư sinh toan hủ kia, sau đó lại nói giết sai rồi, phong cho cái danh hiệu, để xem bọn họ có dàm làm không? Cả nhà đều chết sạch, được cái danh hão kia làm cái gì? Lũ cổ hủ, chỉ biết bẻm mép nói bừa!

“Tiểu nhị, tính tiền!” Thẩm Hi nghe không vào nữa, to giọng gọi tiểu nhị cắt đứt câu chuyện của bọn họ.

Có lẽ là hiếm khi có người phụ nữ nào lại dám lớn giọng ở đây, mấy văn nhân kia còn ngoái đầu nhìn nàng, nhìn xong tên Tiền huynh cổ hủ kia khinh thường nói: “Có hại phụ đức” (gần như chê là mất nết)

Thẩm Hi lười đáp trả, thanh toán tiền rồi rời đi. Nàng đã sắp ra khỏi cửa, vẫn còn nghe thấy loáng thoáng có người nói tiếp về Kiếm Thần. Vị Chính Thuần kia khó hiểu: “Trước khi rời đi sao Kiếm Thần không dàn xếp tốt cho phu nhân? Trong loạn thế này một phụ nhân yếu đuối dễ bị hại, chẳng lẽ Kiếm Thần không ngờ đến?”

Minh Chương thở dài: “Kiếm Thần mất thê, quả là do ý trời. Các vị có biết tổ chức sát thủ hàng đầu của Bắc Nhạc quốc, Trường Phong Lâuchứ?” Có người đáp lại: “Có nghe qua, nghe nói Trường Phong Lâuđông đảo cao thủ, thế lực rất lớn.”

Minh Chương nói tiếp: “TRƯỜNG PHONG LÂUcó bốn đại sát thủ, cái này không cần ta nói tỉ mỉ, mọi người đều rõ. Trong đó có nữ nhân duy nhất là Độc Linh Tiên tử, giỏi truy tung với đầu độc, nghe nói lúc trước là nàng tìm được Kiếm Thần đang bị trọng thương, nhưng về sau lại mất tích, có người đoán nàng bị Kiếm Thần giết chết. Trường Phong Lâu vận dụng hết mọi thế lực, qua hơn tám tháng mới điều tra ra lần cuối nàng xuất hiện là ở Trung Nhạc...”

Thẩm Hi đi ra khỏi tửu lâu, rẽ vào một đường khác, mọi âm thanh trong tửu lâu bị tiếng ồn ào ngoài phố nhấn chìm...
CHƯƠNG 29

Ra khỏi tửu lâu, Thẩm Hi thấy trời không còn sớm nên quyết định nhanh chóng đi mua, chút đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, không thì lát về sẽ muộn mất. Trải qua những ngày tháng ở Tây Cốc trấn, nàng đã không còn là tiểu thư chân yếu tay mềm cầm kim cũng không biết, hơn nữa vải đay giá rẻ, vải bông đắt nên giờ nàng chỉ mua hai bộ quần áo để thay mặc, còn lại thì nàng mua vải, để mang về tự cắt làm quần áo sẽ rẻ hơn. Bây giờ trời trở lạnh dần, còn cần thêm chăn mỏng và đệm giường, Thẩm Hi lại mua thêm một bộ chăn đệm, trong chăn đệm không biết được nhồi cái gì, nặng chình chịch, giá cũng rẻ, chỉ gần một lượng rưỡi bạc.

Mua vải với chăn đệm xong, Thẩm Hi lại mua thêm hai đôi giày, đôi giày nàng đi đã rách mướp đến sắp lòi cả ngón chân ra ngoài. Đi ngang qua sạp bán son phấn nàng lại mua thêm hai cây trâm gỗ, hai sợi dây buộc tóc, một cái lược gỗ, thêm một túi tạo giác. Mua xong mấy đồ linh tinh, Thẩm Hi mới vào tiệm tạp hóa mua thêm các loại gia vị, nhớ đến hương vị chân giò kho ở tửu lâu, nàng lại trở về mua hai cái, một miếng thịt, còn vào quán thịt cân hai cân thịt, nghĩ nghĩ, nàng lại mua thêm mấy loại điểm tâm.

Đồ còn chưa mua đủ nhưng Thẩm Hi sợ nhiều quá không mang hết được nên đành chờ lần sau hẵng mua tiếp, tiếc rẻ mà trở về.

Đến lúc nàng đi đến cửa thành mới thấy có mấy người kéo lại gần, hỏi ra mới biết thì ra nơi này cũng có “taxi”, nhưng tên gọi ở đây là “mã quý.” Nàng thuê một chiếc xe, lấy giá 50 văn, bảo người lái xe đánh xe đi một vòng quanh thành trấn để nàng mua nốt đồ, lần này Thẩm Hi mua thêm đồ ăn, bột mì với gạo trắng, gạo lức... mỗi thứ một túi to, lại thêm một bình dầu lớn, mấy cái chén đĩa, đũa thìa, bồn chậu... Mua xong, nàng mới bảo người xa phu đánh xe ra khỏi thành, đưa nàng về Thượng Ngư thôn.

Xe ngựa đi mau nên chẳng mấy chốc đã đến nơi. Xa phu giúp Thẩm Hi chuyển đồ mang vào nhà, nàng trả tiền xong mới nhanh chóng đánh xe về thành sợ trời tối.

Thẩm Hi vào nhà, sửa sang lại đồ đạc đã mua rồi mang hai gói điểm tâm sang nhà Phương tỉ.

Nàng đến đúng lúc cả nhà Phương tỉ đang ngồi trong sân ăn cơm, trên bàn có 5 người, hai đứa bé, Phương tỉ với hai người nam nhân. Thấy Thẩm Hi đến, Phương tỉ vội đứng dậy tiếp đón: “Muội tử ngươi về sớm thế, ta tưởng ngươi đi chậm nên chắc đến tối mời về cơ. Ngươi chưa ăn tối đúng không, mau ngồi vào bàn đi.”

Thẩm Hi cười nói: “Ta đã sớm về đến nhà rồi, đa tạ Phương tỉ. Chỗ này có hai gói điểm tâm, đề hai đứa nhỏ ăn vặt.” Phương tỉ nhận lấy túi đồ để lên bàn, thoải mái cười: “Vậy ta liền không khách khí.” Nàng lại chỉ vào hai người nam nhân, giới thiệu: “Muội tử, đây là tỉ phu của ngươi, Trương đại lang, với nhị thúc Trương nhị lang, về sau ngươi có chuyện gì nặng nhọc cứ tới tìm hai người họ, cái khác thì không biết nhưng sức lực thì hai người đầy.”

Trương đại lang là người đàn ông cao lớn, chừng 30 tuổi, khuôn mặt râu quai nón. Nhị lang trẻ hơn chút, trông khá giống đại lang, người cũng cao lớn khỏe mạnh, chỉ là mặt nhẵn nhụi không để râu, nhìn gọn gàng hơn. Thẩm Hi vội chào: “Thẩm Hi gặp qua Trương đạị ca, Trương nhị ca.”

Hai người đàn ông kia cũng vội đứng lên đáp lễ: “Thẩm gia muội tử không cần khách khí, về sau nếu có chuyện gì mệt nhọc cứ gọi chúng ta, bọn ta tuyệt đối không chối từ.” Thẩm Hi thấy người ta đang ăn cơm nên ngại ở lâu, vội vàng cáo từ: “Vậy Phương tỉ tỉ, hai vị đại ca ăn cơm đi, muội tử cũng nên về ăn cơm.”

Phương tỉ tiễn Thẩm Hi ra ngoài, hai người trò chuyện mấy câu, Thẩm Hi nhân tiện hỏi chỗ nhà Tam thúc công ở đâu, rồi mới cáo từ ra về. Về đến nhà, Thẩm Hi lấy một túi bột mì, hai gói điểm tâm còn lại đi nhà Tam thúc công, lúc nàng mới đến Tam thúc công đã cho lương thực, nàng không thể yên tâm lấy đồ của người ta rồi không có gì báo đáp, làm người không thể quá keo kiệt, quan hệ lẫn nhau cũng phải có qua có lại.

Đến nhà Tam thúc công, ông cười nhận lấy đồ của Thẩm Hi, lại khen nàng hiểu chuyện có lễ, còn dặn nàng cố gắng làm việc, sống qua ngày cần biết tiết kiệm vân vân, về sau không cần lại đưa đồ đến, cứ yên tâm làm ăn là được.

Thẩm Hi trở về nhà, lúc này mới nhào bột làm sủi cảo. Cơm tối một người ăn nên không cần làm nhiều, một lúc sau nàng đã cầm bát vớt sủi cảo ra, ngồi vào bàn ăn tối. Đang ăn, nàng nhớ đến Người mù thích ăn nhất sủi cảo nàng làm, lần nào nàng nấu hắn cũng ăn được ba bát to, giờ nhìn lại số sủi cảo ít ỏi trong bát, nhớ đến vết máu loang lổ trên kháng, Thẩm Hi lại nước mắt tràn mi.

Không có ai khuyên nhủ an ủi, nàng ngồi khóc một lúc lâu, mới lau sạch nước mắt, đè xuống nỗi nhớ Người mù, xoa xoa bụng, nàng máy móc nhét sủi cảo vào miệng, ăn không biết vị mà nuốt xuống.

Buổi tối ngủ, Thẩm Hi lại mơ đến một cảnh tượng quen thuộc, Người mù nằm yên trên cái ghế dựa trong sân, nàng gối lên đùi hắn, bàn tay Người mù nhẹ nhàng vỗ về mái tóc nàng, bầu không khí nhẹ nhàng mà ấm áp.

Thẩm Hi chảy lệ mà tỉnh lại.

Sáng hôm sau, nàng nhanh tay nấu cơm sáng, tiếp tục dọn dẹp sắp xếp ngôi nhà, đồ dùng trước đây của Cửu bà vứt được thì vứt, cái nào không cần dùng thì xếp gọn lại, đồ nào dùng đến thì lau rửa sạch sẽ. Đang lúc nàng làm việc, Phương đại tỉ dẫn em chồng – Trương nhị lang đến.

Ngôi nhà của Thẩm Hi gần như không có sân, ở trong phòng cũng nhìn hết được bên ngoài nên đã sớm thấy hai người đi đến. Nàng đi ra ngoài đón: “Phương tỉ và Nhị ca đến đây, mời vào nhà uống trà.” Phương tỉ cười nói: “Không cần đi vào, ta thấy nhà người hàng rào ngoài nhà hỏng hết rồi, củi cũng không có đúng không? Nhị lang nhà ta hôm nay không rời bến, ta bảo hắn đến giúp muội tử lấy củi với làm lại hàng rào.”

Thẩm Hi cúi người tạ lễ: “Đa tạ Phương tỉ, vậy làm phiền Trương nhị ca rồi.”

Trương nhị lang có vẻ như hơi xấu hổ, ít nói chuyện với nữ nhân nên đỏ mặt, vội vàng đáp lễ, nhanh chóng trả lời: “Không sao, Thẩm gia muội tử, vậy ta lên núi đây.” Nói dứt lời, hắn vội chạy đi.

Nhìn bóng lưng hắn, Phương tỉ cười to: “Khiến muội tử chê cười, Nhị lang nhà ta thành thật, lại ít nói, thấy nữ nhân đã đỏ mặt, nhưng là chăm chỉ chịu khó, người thường so ra kém hắn, nếu không phải trong thôn không có nữ nhân đang tuổi, giờ hài tử của Nhị lang nhà ta đã biết đi biết chạy rồi.” Thẩm Hi mỉm cười, không có tiếp lời, nàng nói sang chuyện khác: “Ta đang định mời Phương tỉ sang đây, hôm qua ta có mua mấy thước vải, định làm vỏ chăn, đang không biết cắt xén thế nào cho hợp đây, phiền Phương tỉ xem hộ.” Thực ra làm vỏ chăn không khó, chỉ cần đo kích thước ruột bông rồi cắt ra khâu lại thôi, Thẩm Hi không muốn bàn luận nam nhân khác nên lấy cớ như vậy.

Phương tỉ lại hơi ngạc nhiên: “Vỏ chăn là cái gì? Ta chưa thấy bao giờ, sợ là không giúp được muội tử.” Nàng theo Thẩm Hi vào phòng.

Thẩm Hi mang tấm vải đay ra, lại lấy ruột chăn tới, trả lời: “Vỏ chăn là khâu một cái bao ở ngoài cái chăn này, để chăn đỡ bị bẩn, nếu giặt thì chỉ cần tháo vỏ chăn ra giặt là được, tiện hơn đắp chăn trần.”

Phương tỉ nhìn nhìn, thấy căn nhà rạng rỡ hẳn lên so với trước, lại nhìn tấm vải, càng thêm hài lòng với nàng, không khỏi cười: “Muội tử đúng là tinh tế. Bọn người thô kệch như chúng ta chưa ai nghĩ đến việc làm vỏ chăn bao giờ, toàn đắp thẳng lên người. Thêm nữa làm vỏ chăn lại phải tốn thêm một tấm vải, cũng hơi lãng phí, không ai dám tiêu hoang thế này. Muội tử, nhà ngươi trước kia cũng khá giả đúng không?” Thẩm Hi nhấp môi, nụ cười miễn cưỡng: “Trước kia nhà ta cũng khá.”

Phương tỉ thấy nàng hơi âu sầu, nhanh chóng lảng sang chuyện khác, hai người tiếp tục trò chuyện, lúc sau Trương nhị lang đã gánh củi trở lại. Thẩm Hi vội rót chén nước đưa hắn, Trương nhị lang luống cuống tay chân cầm lấy, uống một hơi cạn sạch rồi đỏ mặt rời đi. Phương tỉ thấy vậy, lại cười trêu mấy câu nhưng thấy Thẩm Hi không mặn mà bèn thôi, trò chuyện linh tinh rồi giúp Thẩm Hi làm xong vỏ chăn mới rời đi.

Phương tỉ đi về, Trương nhị lang đã gánh một gánh nhánh cây khô lại đây, Thẩm Hi giúp hắn xếp củi sang một bên, Trương nhị lang không nói chuyện, chạy nhanh ròi đi.

Cả buổi sáng Trương nhị lang giúp Thẩm Hi lấy bốn gánh củi, còn gánh về thêm ba gánh nhành cây khô. Người ta tới giúp mình, không thể để người ta bụng rỗn được, nên nàng nấu cơm sớm.

Đồ ăn hôm qua mua về Thẩm Hi chưa đụng vào, miếng thịt lợn còn khá nhiều, nàng nghĩ nghĩ, bèn nấu cơm, xắt thịt xào với rau cải trắng, khoai tây xắt sợi xào, lại hâm nóng hai cái chân giò, đánh canh trứng, ba món một canh cũng khá thịnh soạn rồi. Nàng nấu cơm xong, bất ngờ là Trương nhị lang lại không chịu ngồi lại, mặc kệ nàng giữ thế nào hắn cũng đỏ mặt đi về. Thẩm Hi bất đắc dĩ, đành xẻ đồ ăn vào trong bát, mang sang nhà Phương tỉ.

Buổi chiều một mình Trương nhị lang đi qua nhà nàng, mang bát đĩa sang trả, gọi Thẩm Hi một tiếng rồi lại lên núi. Hắn gánh thêm cho nàng ba gánh nhành củi, có lẽ là sáng nay nhặt lại rồi bó sẵn nên khá nhanh. Gánh củi xong Trương nhị lang lấy cái thuổng, hỏi Thẩm Hi cần sân rộng bao nhiêu, sau đó đào hốc, chọn lấy những cành cây thẳng đóng xuống, sau đó chẻ tre đan hàng rào. Trương nhị lang nhìn bề ngoài thô kệch nhưng rất khéo tay, những nan tre cứng cáp được hắn uốn nắn đan chéo vào nhau thành hàng rào đều tăm tắp. Không đến nửa ngày, ngôi nhà nhỏ đã được bao bọc bởi dãy hàng rào còn xanh màu trúc rất đẹp mắt.

Trương nhị lang làm xong hàng rào, ngụm nước không uống đã vội rời đi, Thẩm Hi có giữ lại cũng không được.

Đúng là con người thành thật đáng tin!

Thẩm Hi cảm thán, đi vào trong bếp nhào bột, băm thịt, thêm ít hành lá làm nhân để làm bánh thịt, mang sang cho nhà Phương tỉ 6 cái. Phương tỉ chối mấy câu nhưng cũng nhận lấy, lập tức chia cho hai đứa nhỏ, hai đứa bé ăn đến khóe miệng toàn dầu, luôn miệng khen ngon. Phương tỉ nhìn lại, bánh toàn là nhân thịt, cảm giác Thẩm Hi hào phóng thoải mái nên càng thân mật hơn.

Tán gẫu mấy câu, Phương tỉ hẹn nàng sáng mai cùng đi bờ biển bắt hải sản, Thẩm Hi nghĩ dù sao mình đến đây cũng phải dung nhập vào nếp sống nơi đây nên đồng ý. Nàng về nhà, ăn hai cái bánh thịt, thấy không có chuyện gì làm nữa nên lên giường ngủ từ sớm.

Rạng sáng hôm sau Thẩm Hi mới đang ăn sáng Phương tỉ đã tới tìm nàng. Hai đứa bé cũng tới theo, mỗi người đều mang một cái giỏ, trong giỏ đựng cái cào, cái xẻng nhỏ. Thẩm Hi tò mò: “Phương tỉ, mấy cái này dùng để làm gì vậy?” Phương tỉ lấy một cái cào đưa cho nàng, giải thích: “Cái này ở đây người ta gọi là cái bới cát, trong khe đá hay có con cua chui vào, lấy cái này cào nó ra, ta đoán ngươi không có nên mang tới cho ngươi dùng tạm.” Không đợi Thẩm Hi nói thêm, nàng đã đi vào trong bếp tìm một cái giỏ cũ đưa Thẩm Hi: “Ta nhớ Cửu bà cũng có một cái giỏ nên không mang giỏ đến, chúng ta mau đi thôi, bây giờ triều xuống, đúng lúc bắt hải sản.”

Thẩm Hi nhanh tay cầm lấy cái giỏ, bỏ cái cào vào rồi theo mẹ con Phương tỉ tới bờ biển.
CHƯƠNG 30

Phía bắc Thượng Ngư thôn là dãy núi đá liên miên, trên đó toàn là bụi cây thấp, cây gỗ tạp với dây leo linh tinh, người trong thôn đều đi đến đó lấy củi. Thượng Ngư thôn thì tọa lạc ở phía nam chân núi, khá bằng phẳng, địa thế cao hơn bờ biển một chút, nên dù làng chài cách bờ biển chỉ khoảng hai dặm nhưng chưa có lần nào thủy triều dâng vào ngập thôn.

Thẩm Hi đi theo Phương tỉ xuống một con dốc đá, mới tới bờ biển. Dưới ánh nắng sớm mai nàng mới phát hiện màu nước xanh trong hơn ở hiện đại rất nhiều, chân chính là biển xanh cát vàng trời xanh mây trắng.Không cần băn khoăn, ở hiện đại sông hồ đại dương nào cũng ô nhiễm, làm sao có thể nhìn thấy màu xanh thuần túy của nước biển như ở đây. Ngay cả nước biển bị ô nhiễm thành “Biển đen” Thẩm Hi cũng được thấy qua.

Phương tỉ dẫn nàng đi xuống bãi biển, ở đó đã có bảy tám phụ nữ với lão nhân, hài tử đang nhặt nhạnh, Phương tỉ dẫn Thẩm Hi sang đó chào hỏi, giới thiệu hai bên với nhau. Chào hỏi xong, hai đứa bé của Phương tỉ cầm cái xẻng nhỏ đi đào cát, Phương tỉ thì dẫn Thẩm Hi vào một chỗ có đá ngầm, chỉ dẫn nàng: “Trên mấy tảng đá kia có nhiều ốc nhỏ bám vào, ốc này luộc lên ăn rất tươi, nhìn xem, chỗ này có nhiều. Đây là con hào, lúc bắt phải cẩn thận, vỏ nó sắc như dao cạo, lỡ là đứt tay ngay...” Đến buổi trưa. Phương tỉ dạy này cách tìm chỗ cát có sò, bắt cá trong hố nước nhỏ, cua thường ẩn dưới hòn đá, vết hải sâm bò qua trên mặt cát, những món ăn được, hay những con không ăn được, có độc...

Thẩm Hi theo lời dạy của nàng với “khẩu quyết” 5 chữ “Cào nhặt bóp kéo chộp” mà nhặt được khá nhiều sò, còn bắt được mấy con cá nhỏ, một con sứa, không ít tôm. Tài nguyên hải sản của thời đại này phong phú hơn hiện đại rất nhiều, lại không khai thác quá mức như hiện đại, cả một bãi biển dài như vậy chỉ có người trong một làng đi bắt, còn toàn chọn những con to, thứ ăn ngon mới lấy, các loại tôm cua nhãi nhép nhìn còn không thèm liếc.

Cả nhóm người nhặt không lâu giỏ cá đã đầy ự, liền rủ nhau đi về. Thẩm Hi với Phương tỉ nhặt đầy giỏ xong cũng về nhà.

Thẩm Hi mang thai, không được ăn cua nên nàng không bắt cua, mấy loại hải sản khác lại bắt không ít. Về đến nhà, nàng nấu cơm, sau đó xử lí mấy thứ đã nhặt.

Theo Phương tỉ thì những thứ này không cần phải rửa, đổ thẳng vào nồi đun lên là được, dễ làm lại ngon không kém. Thẩm Hi bèn nhặt mấy con cá nhỏ mang ra ướp đợi làm cá mắm, còn lại thì đổ hết vào trong nồi, thêm nước rồi bắc lên bếp đun, một lúc sau, nàng mở nắp, thấy tôm đã đỏ, sò hến cũng mở miệng liền vớt hết ra, mang lên bàn ăn.

Đồ ăn đánh bắt tự nhiên quả rất ngon, nàng ăn đến sắp nuốt cả đầu lưỡi, nhưng nhớ kĩ lời dặn của đại phu nên không dám ăn quá, sợ ảnh hưởng đến thai nhi.

Xế chiều Phương tỉ đến, dạy Thẩm Hi cách làm cá mắm, sơ chế con sứa vân vân rồi dạy nàng cách dệt lưới. Thẩm Hi hỏi chuyện, nghe nàng nói lưới dệt ra một phần để lại nhà mình dùng, một phần mang ra chợ bán, chỉ là nhà nào cũng có người dệt lưới, nên lưới bán không đắt, tính ra mỗi tháng chỉ thu nhập mấy trăm văn mà thôi. Thẩm Hi đang nhàn rỗi, cũng học.

Việc dệt lưới không khó lắm, không đến nửa ngày nàng đã móc ra được một mảnh. Vừa đan lưới nàng vừa nghĩ, giờ mình đã phát triển đến toàn năng mọi thứ, nữ chính vạn năng không ai khác chính là nàng, chỉ khác nữ chính người ta vạn năng bẩm sinh, còn nàng phải học từng thứ một. Nghĩ đến đây, Thẩm Hi đột nhiên hiểu được vì sao người khác xuyên qua lại giàu to, người ta đến cổ đại để sáng tạo đồ vật dẫn đầu thời đại, mà nàng lại đi theo đuôi cổ nhân mà học tập các kĩ năng của thời đại này, chênh lệch không khác đáy biển với đỉnh núi, không trách nàng phải chật vật kiếm cơm từng ngày, cả ấm no cũng không với tới. Lúc này Thẩm Hi chỉ hận sao hồi học đại học nàng không chọn khoa kĩ thuật hay gì đó tương tự mà lại đâm đầu vào khoa văn làm gì! Nếu nàng học khoa học tự nhiên, có lẽ giờ đã chế được thủy tinh hay thép rồi cũng nên!

Buồn bực bởi nguyện vọng đại học hồi xưa, Thẩm Hi ủ rũ cả ngày, ăn tối xong nàng lên giường nằm sớm, lăn lộn mãi lại không thể ngủ yên, tính toán con đường kiếm tiền. Nàng đã mang thai hơn ba tháng, bụng sẽ ngày càng to ra, đến hai tháng cuối muốn làm gì cũng không được. Sau khi sinh con còn phải chăm sóc, Thẩm Hi không muốn tìm bảo mẫu. Tính đi tính lại, nàng chỉ có mấy tháng trước mắt để kiếm tiền, hai ba năm sau chỉ đành ở nhà trông con chứ không làm được gì nữa, giờ nàng chỉ còn hơn 7 lượng bạc, muốn qua được hai ba năm là chuyện không thể nào.

Cả hai đời nàng mới có một đứa con, không thể để nó chịu đói chịu khổ. Nàng không biết mình phải làm gì để kiếm được tiền bây giờ. Đi Thất Lí Phổ thuê phòng bán cháo như trước? Không được, bán cháo phải thức khuya dậy sớm, mỗi ngày còn phải bưng bê đi lại, nàng sợ không cẩn thận sẽ bị động thai. Hay là bán tào phớ với đậu phụ?

Có thể được, không làm tào phớ nữa, chỉ làm mỗi đậu phụ là được, nàng đi Thất Lí Phổ thuê một căn nhà, mỗi ngày bán một buổi, mà lúc bán có thể ngồi một chỗ nên sẽ không đến nỗi mệt lắm. Hơn nữa bán đậu phụ chỉ cần một cái khay gỗ là được, không cần dùng đến bàn ghế linh tinh nên tiền vốn sẽ không lớn lắm. Càng nghĩ càng thấy khả thi, Thẩm Hi lập tức quyết định đợi nàng tĩnh dưỡng tốt sẽ đi Thất Lí Phổ bán đậu phụ. Nhắc đến thân thể, nàng chợt nhớ tới mình từng sắp chết đói, thân thể này có lẽ có bệnh ngầm, nếu không tĩnh dưỡng một thời gian mà lập tức lại làm việc nặng, sợ là nguy hiểm cho cả mẹ lẫn con. Băn khoăn được giải quyết, Thẩm Hi yên tâm ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau Phương tỉ lại tới gọi Thẩm Hi đi bờ biển, mang cho nàng mấy con cá lớn, nói là Trương nhị lang với Trương đại lang rời bến bắt được. Thẩm Hi biết ở đây hải sản không đáng tiền nên không từ chối. Lần này đi bờ biển Phương tỉ không dạy tiếp cho nàng mà khiến Thẩm Hi thực hành, nếu thấy cái mới hay không rõ hẵng tới hỏi, hoặc nếu có gì Phương tỉ hẵng gọi nàng sang giảng tiếp.

Vừa học vừa làm, huống chi lại không phải kiến thức khó nhằn nên mấy ngày sau Thẩm Hi đã học xong các kiến thức liên quan, hơn nữa còn nắm được quy luật thủy triều lên xuống, biết được lúc nào ra bờ biển nhặt được nhiều hải sản nhất.

Những ngày tiếp theo Thẩm Hi giống như những phụ nữ làng chài khác, ngày ngày ra bờ biển bắt hải sản, nhặt những thứ mình thích ăn về. Nhưng hải sản tính lạnh, nàng không dám ăn nhiều, còn dư lại nàng sẽ bán cho xe ngựa đến thôn mua cá, tuy giá cả không cao lắm, chừng 20 30 văn một ngày.

Thượng Ngư thôn ít người, cách THẤT LÍ PHỔ khá xa nên mỗi ngày ngư dân đánh được cá về sẽ có xe ngựa đến mua ngay tại bến, nhưng vì đến mua tại chỗ nên giá không được cao. Kể cả hải sản các phụ nhân bắt ở bờ cát cũng vậy, họ cũng không lặn lội đi hơn 25 dặm đường để bán hải sản nên hầu hết đều bán cho xe ngựa. Theo lí thuyết việc chài lưới là làm ăn không vốn, cuộc sống của ngư dân hẳn sẽ khá tốt, về sau Thẩm Hi mới biết còn phải nộp thuế ngư nghiệp. Trong thuế này chia ra mấy khoản nhỏ, gồm thuế muối, thuế cá ương (cá giống), thuế nhân khẩu... nên thu nhập của ngư dân bị triều đình thu đi gần 7 8 phần. Như trước đây quan thu thuế dễ tính, cuộc sống còn tạm ổn, còn gặp phải quan tham thì căn bản ngư dân chỉ được ấm no cơ bản. May mắn mấy năm nay quan thu thuế phụ trách chỗ này dễ tính, thích uống rượu nên chỉ cần có rượu ngon dâng lên là mọi chuyện suôn sẻ.

Theo Phương tỉ nói, ngoại lai hộ giống Thẩm Hi như vậy thì đơn giản, nếu không ai tiết lộ chuyện này cho quan phủ thì cơ bản không ai thu thuế của nàng, vì hộ tạ của nàng là chỗ khác. Nhưng nếu nàng thật sự muốn cư ngụ ở chỗ này thì cần báo hộ tạ đến quan phủ, vì mỗi năm có ba lần tra hộ tạ, nếu nguyên quán không có người ở đó, thì hộ tạ sẽ bị thủ tiêu, mà ai không có hộ tạ sẽ bị tính làm nô bộc trốn đi, có thể bị bắt cóc hay bán làm nô lệ. Thẩm Hi bị chế độ này dọa sợ, thầm than may mắn nàng mang theo hộ tạ có tên Giả Thẩm thị Tây, nếu không hộ tạ đúng là phiền toái, nếu làm lại một lần nàng cũng không chắc có thể gặp được thư lại dễ thương lượng như Vương thư lại.

Thẩm Hi suy nghĩ hơn thua, quyết định trước tiên cứ đi THẤT LÍ PHỔ kiếm tiền đã, sau đó nghĩ cách làm hộ tạ ở THẤT LÍ PHỔ. Dù sao THẤT LÍ PHỔ quy mô lớn, về sau tìm chỗ giáo dục hài tử cũng sẽ dễ dàng hơn.

Nàng tự biết lúc trước lưu vong kham khổ, dinh dưỡng không đầy đủ nên giờ tiền bạc vẫn còn, cứ mấy ngày lại lên THẤT LÍ PHỔ mua ít thịt với rau dưa tươi mới để bồi bổ. Qua hơn 10 ngày, thân thể gầy sọm lúc trước đã có da có thịt hẳn lên, khuôn mặt hồng hào, lại thêm mấy bộ quần áo mới, không ai nhận ra nàng là bà ăn mày đợt trước. Phương tỉ thấy nàng biến hóa lớn như vậy, không khỏi xuýt xoa: “Muội tử, lúc trước ngươi mới tới đây nhìn gầy guộc như thế, ta cũng thấy ngươi là mĩ nhân rồi, giờ đúng rồi đi, đảm bảo cả thôn này không ai so được ngươi.” Thẩm Hi nhìn nhìn mình trong gương, cảm giác không đúng lắm, nàng già đi, gầy đen hơn lúc ở Tây Cốc trấn rất nhiều. Nghĩ đến nơi đó, nàng không khỏi nhớ tới Người mù, niềm vui biến mất không còn.

Thấy Thẩm Hi không nói gì, Phương tỉ mỉm cười nắm tay nàng dò hỏi: “Sao vậy? Muội tử lại nhớ đến ngày tháng trước kia phải không? Không sao, những ngày khốn khó kia qua rồi, ngươi cùng tỉ tâm sự, có chọn trúng nhà ai chưa? Ngươi còn trẻ.” Thẩm Hi nước mắt trào ra: “Tướng công nhà ta mới mất mấy tháng, Phương tỉ, ta chưa nghĩ tới chuyện về sau.”

Phương tỉ miễn cưỡng mỉm cười: “Lời này cũng là có lí, lúc ngươi tới đây một thân một mình, tỉ cứ tưởng ngươi chưa hôn phối.” Về sau Phương tỉ cũng không nhắc gì đến chuyện này, chỉ thỉnh thoảng cho Trương nhị lang đưa đồ lại đây, đặc biệt là củi đun, tất cả đều là Trương nhị lang gánh tới cho nàng. Thẩm Hi rất băn khoăn, thi thoảng cầm ít đồ ăn ngon sang cho nhà Phương tỉ, không đến mức khiến người ta nói nàng chiếm tiện nghi của nhà người ta.

Đến giữa tháng 9, Thẩm Hi cảm giác mình đã khỏe hoàn toàn, chuẩn bị lên THẤT LÍ PHỔ tìm chỗ ở. Chỗ đó nàng đã đi nhiều lần, chú ý tới mấy chỗ, tất nhiên đã có chỗ vừa lòng. Lần này nàng tới còn đi xung quanh chợ một vòng, mới vào trà lâu hỏi tiểu nhị có chỗ nhà nào cho thuê không. Thời đại này dù không có chỗ chuyên môn môi giới địa ốc nhưng vẫn có người làm nghề này, chỉ là Thẩm Hi không rõ nên nàng chuyên tìm tiểu nhị, dù sao tiểu nhị nắm được tin tức, có lẽ còn kiêm làm người trung gian.

Dưới số tiền thưởng hậu hĩnh của Thẩm Hi, một tiểu nhị nhanh nhẹn giúp nàng tìm được một chỗ không tồi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro