Cẩm sắt - Lý Thương Ẩn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyên tác chữ Hán:

錦瑟

錦瑟無端五十弦,
一弦一柱思華年。
莊生曉夢迷蝴蝶,
望帝春心託杜鵑。
滄海月明珠有淚,
藍田日暖玉生煙。
此情可待成追憶,
只是當時已惘然。

Phiên âm Hán Việt:

Cẩm sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền,
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên.
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam Điền nhật noãn ngọc sinh yên.
Thử tình khả đãi thành truy ức,
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên.

Dịch thơ:

Đàn gấm

Cẩm sắt vì sao ngũ thập huyền,
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ hoa niên.
Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp,
Vọng đế lòng xuân, gửi đỗ quyên.
Trăng sáng biển xanh, châu đổ lệ,
Khói vương nắng ấm, ngọc Lam Điền.
Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ,
Là buổi đầu tiên, chút nỗi niềm.

[Bản dịch của Huỳnh Minh Đức]

----------

Chú thích:

1. Cẩm sắt: cẩm sắt nghĩa là cây đàn gấm, ý chỉ cây đàn có hoa văn đẹp như gấm, thường làm bằng gỗ cây ngô đồng. Đàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, thường sánh đôi với nhau để chỉ cảnh vợ chồng hoà hợp (sắt cầm tịnh hảo). Cẩm sắt thường được chia làm ba loại: 25 dây, 36 dây và 50 dây, cây đàn trong bài thơ có 50 dây nên còn gọi là "ngũ thập huyền cầm".

2. Trang sinh: tức Trang Tử của Đạo giáo, tên thật là Chu. Trang Chu nằm mơ thấy mình hoá thành bướm bay khắp nơi. Khi tỉnh mộng, bàng hoàng tự hỏi không biết mình là người lúc trước mơ thành bướm, hay là bướm bây giờ mơ hoá người.

3. Vọng đế: vua nước Thục thời Chiến Quốc tên là Đỗ Vũ, còn được gọi là Vọng đế. Theo truyền thuyết, khi Vọng đế mất đi, thương nước cũ, tiếc duyên xưa, hồn hoá thành chim đỗ quyên (chim cuốc). Chim cuốc thường kêu vào mùa hè, tiếng kêu đau thương, hết hè thì chết ("nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc" - Bà huyện Thanh Quan).

4. Châu hữu lệ: theo truyền thuyết, giao nhân (người cá) trong những đêm trăng sáng thường ngước nhìn về phía bờ cát mà rơi lệ, mỗi giọt nước mắt là những hạt ngọc rơi vào lòng đại dương.

5. Lam Điền: tên một ngọn núi ở huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, nơi nổi tiếng có nhiều ngọc đẹp.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro