29-01 (3)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cùng Đồ Mạt Lộ     Hôm sau, Lương Tiêu cắm cọc cách thành Tương Dương chừng hai ngàn bộ, đánh dấu vị trí xây đài. Cùng lúc, quân Tống cũng dỡ nhà lấy gỗ, chế tạo giàn nỏ Thiên Cương phá trận thứ ba để tăng uy lực tấn công. Vân Thù nhìn quân Nguyên lũ lượt chuyển đất đến đắp thì hiểu ngay mục đích của họ, lập tức cho lính đánh phá, hiềm nỗi hai bên cách nhau đến mấy dặm, thay đủ mọi loại tên đạn mà nỏ giàn đều không bắn tới nơi. Lương Tiêu còn phái kỵ binh ra khiêu khích Thiên Cương phá trận nỗ, thử xem cự ly xa nhất đến đâu thì vẽ vạch trắng ở đó, hễ thấy quân Tống vượt qua vạch là xáp lại tấn công, còn chưa thì chỉ đối kháng từ xa bằng cung nỏ.

Trong ba ngày hai bên giằng co, pháo đài cũng được cấp tốc hoàn thành, hiện lên sừng sững trên đồng trống. Đài cao bốn trượng, rộng tám trượng, bên trên còn dựng thêm một bệ gỗ cao bốn trượng, chỉ sáu trượng nữa là ngang bằng với mặt thành. Trát Mã Lỗ Đinh tháo rời Tương Dương pháo, kéo lên đài rồi ráp vào như cũ. Khẩu pháo cao mười trượng, lắp đặt xong đã vượt hẳn bờ tường Tương Dương.

Vân Thù đoán ra ý đồ của quân Nguyên, vội chạy đi báo Lữ Đức. Họ Lữ hoảng hồn dốc hết lực lượng tấn công, Lương Tiêu bèn lập trận chống trả. Hai đạo quân hò hét vang lừng. Chiến binh Khâm Sát dũng mãnh vô song, quân Tống có Vân Thù, Cận Phi và đám hào kiệt phương nam trợ giúp mà vẫn không sao lay chuyển được trận thế của họ. Vân Thù định đưa Thiên Cương phá trận nỗ ra ngoài thành, nhưng giàn nỏ quá kềnh càng, xoay ngang xoay dọc đều không lọt qua cổng. Cấu tạo của nó lại phức tạp, gá lắp rất tốn thời gian, nếu tháo rời đem xuống chân thành ráp lại, chẳng may Lương Tiêu dẫn thiết kỵ lao ập tới như lần trước thì nhất định nỏ sẽ bị phá hủy ngay tại chỗ.

Dưới đồng hai bên lăn xả vào chém giết, trên đài cao pháo đã chuẩn bị xong. Tương Dương pháo đối mặt với Tương Dương thành, vị thế hai bên hoàn toàn đảo ngược. Khẩu pháo ung dung chĩa xuống, thay vì phải ngóc lên cao như xưa.

Trát Mã Lỗ Đinh phát lệnh khai hỏa. Quân Nguyên thả một khúc gỗ nhồi đầy thuốc nổ và phết dày dầu mỡ vào lưới, châm lửa bắn. Khúc gỗ nhẹ vạch một đường sáng rực trên không, băng qua khoảng cách hai ngàn bộ, lao vù về phía thành Tương Dương. Lửa mạnh bắt dầu cháy rất nhanh, xuống gần vọng lâu, nó đã ăn qua lớp vỏ gỗ, liếm vào phần thuốc nổ bên trong. Khúc gỗ kêu “đoành” một tiếng như pháo Tết, vọng lâu bốc cháy phừng phừng.

Lữ Đức vội vã cứu hỏa, nhưng quân Nguyên liên tục bắn pháo, cứu chữa không kịp, ngược lại rất đông binh lính bị thương thêm. Chưa đến một canh giờ, mặt thành Tương Dương đã cháy ngùn ngụt như biển lửa. Ba giàn nỏ Thiên Cương phá trận đều gắn cố định tại chỗ, không di chuyển ngay được, hứng một đợt pháo hỏng mất hai. Vân Thù liều chết dỡ giàn cuối cùng xuống, nhưng phần lẫy đã bị cháy, dễ phải mất nhiều thời gian mới sửa xong.

Pháo kích liên miên mấy ngày, quân Tống thương vong nặng nề. Khi cỗ pháo thứ hai hoàn thành, Lương Tiêu đưa nó vào gần mục tiêu hơn một ngàn bộ, trong lúc đó cỗ thứ nhất vẫn tiếp tục oanh tạc, gây sức ép ngăn cản quân Tống lắp lại Thiên Cương. Với sự bảo vệ của quân Khâm Sát, một đài cao sáu trượng được đắp lên để đặt cỗ pháo mới.

Pháo mới lắp xong liền phát huy tác dụng cao độ. Hàng trăm cân đá tảng cứ tạt thẳng vào thành Tương Dương như sét đánh. Đã mấy lần Vân Thù dẫn bọn hào kiệt phương nam lao ra khỏi thành toan cướp pháo, song phương huyết chiến đến hơn chục trận, nhưng quân Tống mỗi đánh mỗi bại, không tài nào địch nổi thiết kỵ Khâm Sát.

Trước sự chống trả ngoan cường của đối phương, Lương Tiêu quyết định phải dùng biện pháp cứng rắn hơn. Gã cho thợ mộc đẽo những con lăn thật to, khoét rỗng ruột, nhồi đầy thuốc nổ, châm lửa xong bắn vào thành. Thứ đạn bắn này gọi là Mộc phích lịch[1], hễ phát nổ là hủy diệt hoàn toàn sự sống trong phạm vi ba mẫu xung quanh, uy lực khủng khiếp gấp nhiều lần Chấn thiên lôi của quân Tống.

Sau hai ngày đêm tấn công dai dẳng, sáng tinh mơ ngày thứ ba, một phát Mộc phích lịch bắn trúng kho hỏa khí của Tương Dương, đâm thủng mái kho, dẫn nổ toàn bộ quân dụng bên trong. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc làm rung chuyển cả thành trì, phá nát mọi vật xung quanh, gây chấn động đến hơn trăm dặm. Lửa được thế gió mau chóng lan rộng, cháy rừng rực khắp thành Tương Dương.

Kho hỏa khí cháy rụi hoàn toàn, kho lương thảo bị thiêu hủy gần hết. Hơn một vạn dân chúng mất nhà mất cửa, rơi vào cảnh ăn gió nằm sương, khóc gào náo loạn. Quân Nguyên thừa thế từ hai hướng tây và nam tiến công Tương Dương, quân Tống chật vật chống cự. May thay, khi bộ binh Nguyên triều sắp leo được lên mặt thành thì Vân Thù đã sửa xong Thiên Cương phá trận nỗ, vừa kịp đem bắn cản bước kẻ thù. Lúc này Dĩnh thành mới nhận được tin khẩn của Tương Dương, Trương Thế Kiệt vội tiến quân cứu viện, nhưng bị A Truật đánh lui hết lần này đến lần khác. Tương Dương lâm vào cảnh ngộ tuyệt vọng hoàn toàn.

Từ lúc thi hành biện pháp mạnh, Lương Tiêu vẫn áy náy không yên. Sau hôm tiêu diệt được kho hỏa khí, nghe tiếng dân chúng khóc than nháo nhác, gã đâm chột dạ, hạ lệnh ngừng dùng Mộc phích lịch, chỉ nạp đá tảng bình thường bắn lên đầu thành. Khổ chiến dằng dai như thế, Tương Dương tiếp tục cầm cự được thêm một tháng.

.

Mùa đông rét mướt tràn tới, thời tiết mỗi ngày một lạnh, tuyết đổ lấp xấp, bay phiêu phất trên đất Tương Phàn. Chỉ sau mấy đêm, không gian đã nhuộm một màu trắng toát. Bị cướp đi mái ấm che thân cũng như lương thực thực phẩm, vô số người chết vì đói, vì rét, nhiều người may mắn sống sót thì nghĩ quẩn, bắt đầu vật các xác chết ra nấu ăn.

Lương Tiêu đánh mãi không hạ được thành, thường băn khoăn tự hỏi không hiểu Tương Dương còn sức mạnh bí mật gì mà vẫn khăng khăng chống cự. Một hôm, gã trèo lên đỉnh pháo nhìn sang quan sát tình hình, chợt chứng kiến hành động rùng rợn đó thì choáng váng như bị sét đánh. Từ lúc hạ quyết tâm công phá tòa thành hòng bắt giết Vân Thù, gã chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ gián tiếp tạo nên một thảm cảnh như vậy. Nhất thời, Lương Tiêu đứng chết trân trên đỉnh pháo, vừa ăn năn vừa căm hờn, đồng thời không lý giải nổi vì sao đã đến nước này mà quân Tống còn ngoan cố tử thủ không hàng. Thẫn thờ hồi lâu, gã tụt xuống khỏi pháo đài, cưỡi ngựa đến gặp Bá Nhan, thỉnh cầu chiêu hàng Lữ Đức.

Bá Nhan nghe Lương Tiêu thuật lại, suy nghĩ một thoáng rồi triệu các tướng vào trướng thương nghị. Lưu Chỉnh vẫn ôm mối hận trúng tên hôm trước, cứ điều một điều hai là phải bắn tan tành Tương Dương, giết sạch dân chúng mới hả dạ. Đa số tướng lĩnh chôn chân ở đất này đã lâu, vất vả đã nhiều, cũng muốn nhân cơ xả giận nên cùng gật đầu hưởng ứng. Chỉ có Sử Thiên Trạch và A Lý Hải Nha là không nói một lời, nét mặt nặng nề.

Lương Tiêu thấy mọi người đều tán đồng Lưu Chỉnh thì rất bức xúc, lớn tiếng hỏi:

- Người sống hữu dụng hay là xác chết đây, hả? Đập vỡ bát sứ thì ai chả làm được, nhưng mấy kẻ biết nặn một cái cho ra hồn? Hủy hoại thành trì sẽ rất nhanh thôi, nhưng bao lâu mới có thể tái kiến thiết?

Các tướng nghe phân tích hợp lý, tự dưng đắn đo.

Lưu Chỉnh thực ra chỉ nói bừa cho đỡ tức, nào ngờ Lương Tiêu còn trẻ, tính tình nóng nảy nên phản ứng gay gắt, khiến họ Lưu ngượng quá hóa giận. Y đường đường là đại tướng, chiến công hiển hách, đời nào cho phép một tên tiểu tử trèo đầu cưỡi cổ mình, bèn sừng sộ mắng ngay:

- Ngươi thì hiểu cái gì? Hôm nay làm cỏ Tương Dương, ngày mai các thành trì khác đều táng đởm kinh hồn, không ai dám chọc giận đại quân ta nữa. Ngươi chẳng qua mới nhập ngũ dăm ba bữa, lập được một dúm công lao mà tưởng mình ghê gớm lắm sao? Hừ, thời lão phu thống lĩnh thiên quân vạn mã đánh đông dẹp bắc, ngươi còn bú tí mẹ kia kìa!

Lương Tiêu cười nhạt:

- Đã nói thì nói rõ hẳn ra, ông thống lĩnh thiên quân vạn mã nào? Tống hay Nguyên? Ông phản bội Đại Tống thì được, mà người khác đầu hàng Nguyên triều thì không được hay sao?

Những lời cay độc ấy làm các tướng tái mặt. Bá Nhan quát:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình, tạm thời ngừng lại. Lưu Chỉnh nhảy nhổm lên như phải bỏng, mặt mày xanh lét.

- Chỉnh này sống nửa đời người, hôm nay mới biết có thứ hậu sinh vừa nứt mắt mà miệng lưỡi đã đầy nanh nọc! Tre già măng mọc, Lưu mỗ không những già lại còn vô dụng, đành nhường thiên hạ cho người trẻ tuổi vậy! Mong Đại Nguyên soái rón tay làm phúc để thuộc hạ được về quê cày ruộng!

Lưu Chỉnh ngoài miệng nói nhún, thực chất đầy ý hăm dọa: “Hoặc là Lưu Chỉnh này đi, hoặc là Lương Tiêu bị phạt. Bá Nhan, ngươi hãy tự chọn đi!”.

Bá Nhan không trả lời thẳng, chỉ gọi:

- Na Tốc!

Một thân binh đáp lời bước ra. Bá Nhan nghiêm nghị nói:

- Lột mũ áo Lương Tiêu, đánh ba trăm hèo thật nặng rồi treo lên cổng doanh thị chúng một ngày.

Na Tốc vâng lệnh, cùng các thân binh khác chạy lên định bắt giữ. Lương Tiêu một tay chống nạnh, quát to:

- Kẻ nào dám?

Đám quân sĩ biết gã kiêu dũng tuyệt luân nên tạm thời chưa dám đến gần. Bá Nhan biến sắc, lừ lừ đứng dậy:

- Ngươi dám chống lệnh ta ư?

Tất cả đều nín thở. Chống lại quân lệnh, chỉ có một con đường chết!

Lương Tiêu cao giọng:

- Tôi chả làm gì sai cả!

A Truật thấy gã quá ương bướng, chỉ sợ tình hình xấu thêm, vội khuyên nhủ:

- Kẻ cưỡng lệnh Nguyên soái sẽ bị chém đầu, không cân nhắc nhiều.

Lương Tiêu vẫn khăng khăng:

- Tôi chả làm gì sai!

A Truật mắng:

- Ngươi ăn nói ngông cuồng, là kẻ dưới mà vô lễ với người trên, chẳng sai thì đúng vào đâu? Đã tòng quân phải trọng kỷ luật. Thổ Thổ Cáp hiểu, Lý Đình cũng hiểu, vậy mà ngươi không hiểu hay sao?

Lương Tiêu nghe giọng A Truật, hiểu ngay điều y ngầm nhắn nhủ. Gã chết là yên phận gã, nhưng còn A Tuyết và đám bạn bè đang ở trong doanh trại, tất đều bị liên đới.

Lương Tiêu cụp mắt xuống, muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu, sự hung hăng lúc trước dần dần bay biến cả. Đám thân binh chực tiến lại, gã nghiến răng bảo:

- Để ta tự làm lấy! – Đoạn bỏ mũ cởi giáp, bước ra khỏi trướng.

Binh sĩ ùa lại ấn dúi gã xuống, tiếng gậy vụt đen đét vang lên. Bá Nhan lắng nghe một lúc, chợt cau mày bảo:

- Na Tốc, mạnh tay vào, nếu không sẽ bị xử theo quân pháp!

Quả vậy, Na Tốc biết Bá Nhan và A Truật rất yêu mến Lương Tiêu nên cố ý nương nhẹ, ngờ đâu Bá Nhan là cao thủ võ học, vừa nghe đã phân biệt ngay thực giả. Na Tốc vâng lời, đành toàn lực nện xuống.

A Truật nghe tiếng gậy nặng hẳn, chỉ sợ Lương Tiêu có bề gì, vội van nài:

- Bẩm thừa tướng, bây giờ Tương Dương chưa…

Bá Nhan quát:

- Im ngay! Nếu không phải tại ngươi dung túng, tên tiểu tử ấy dám ngang ngược thế không?

A Truật nghe thét, nín thít ngồi xuống. Lưu Chỉnh thấy Bá Nhan giữ thể diện cho mình, cũng hài lòng quay lại chỗ ngồi, nghiêng tai lắng nghe, tự đắc nghĩ: “Đánh mạnh thật! Chịu đủ hình phạt xong chắc cũng thân tàn ma dại. Nhưng hắn là ái tướng tâm phúc của A Truật, chiến công lừng lẫy, rủi có mệnh hệ gì, chỉ e A Truật sẽ để bụng thù mình. Bản thân mình là hàng tướng, vốn đã thiếu bè cánh cội rễ ở triều ca, trong khi gia đình A Truật ba đời danh tướng đánh đông dẹp bắc uy chấn vạn dặm, chẳng may để y đem lòng oán hận, rắp tâm trừ diệt thì mình gay go to”.

Họ Lưu già đời từng trải, suy nghĩ chín chắn, bụng dạ thâm sâu, lập tức vuốt râu lặng lẽ đếm cho đủ một trăm hèo mới từ tốn đứng dậy, vòng tay cười nói:

- Bẩm Nguyên soái, Lương tướng quân trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, khó tránh khỏi có lúc nông nổi. Bây giờ chưa diệt được Đại Tống, còn cần nhiều sức người. Suy cho cùng Lưu Chỉnh cũng có chỗ không phải, mong Nguyên soái tha cho Lương tướng quân lần này.

Bá Nhan không muốn làm họ Lưu bẽ mặt, bèn bảo:

- Lưu đại nhân đã khoan dung độ lượng như vậy, thôi thì tha phạt đòn Lương Tiêu, nhưng nhất định phải treo hắn lên thị chúng một ngày.

Bá Nhan biết Lương Tiêu tâm cao khí ngạo, đem gã ra bêu xấu còn khiến gã khó chịu hơn bị đánh roi gấp bội, nhưng nếu không tỏ ra nghiêm khắc, cái tên cứng đầu cứng cổ coi thường thiên hạ ấy sẽ mỗi ngày một vô kỷ luật, có khi đến lúc bắt buộc phải xử hắn tội chết không chừng. Y bèn sai Na Tốc trói Lương Tiêu lên cột cờ, muốn gã chịu nhục để nhụt bớt ngạo khí đi.

Lưu Chỉnh được thỏa mãn cả hai đằng, vô cùng hả hê, vuốt râu cười nói:

- Vừa rồi quả tình tôi có hơi mất kiềm chế, nghĩ đi nghĩ lại, chiêu hàng vẫn là thượng sách.

Các tướng đều bực: “Đúng là lưỡi không xương trăm đường lắt léo, gió hướng nào lựa hướng ấy che”.

Sử Thiên Trạch lúc này mới lên tiếng, giọng ôn hòa:

- Lưu đại nhân nói rất đúng. Từ cổ chí kim, công thành là hạ sách, công tâm là thượng sách, không đánh mà khuất phục được địch thủ mới là cảnh giới tối thượng của binh gia. Hiện nay lòng người Tương Dương đang dao động, chính là thời cơ tốt để chiêu hàng.

Họ Sử tuổi tác đã cao, công lao cũng lắm, lời nói lại đầy sức thuyết phục, ai nghe cũng phải gật đầu. Lưu Chỉnh phất tay áo, cười nhạt:

- Lưu mỗ kiên quyết không đi.

Bá Nhan trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi:

- Muốn Lữ Đức tin thì phải cử một đại tướng có uy tín, ai đồng ý đi?

Sử Thiên Trạch cau mày im lặng. A Truật ngập ngừng. A Lý Hải Nha chợt đứng dậy:

- Tôi đi!

Bá Nhan nhìn sang ra ý hỏi. A Lý Hải Nha nói rành mạch:

- Lần trước tôi vào yết kiến thánh thượng, người có dạy: “Trong những kẻ chinh phục Giang Nam thì Tào Bân thời Tống Thái Tổ là viên đại tướng xuất sắc nhất. Ông ta bình định được dải đất ấy mà giết rất ít người. Nếu ngươi không tàn sát mà vẫn đoạt được Giang Nam thì ngươi cũng chính là Tào Bân của ta vậy”. Tôi nhớ nằm lòng lời thánh thượng, càng ngẫm càng thấm thía. Dân Mông Cổ, Sắc Mục chúng ta, lẽ nào không bằng người Hán?

Bá Nhan gật đầu:

- Thánh thượng dạy rất phải, nhưng chuyến đi này quả thực quá hung hiểm!

A Lý Hải Nha nói ngay:

- Tôi biết. Nhưng nếu đánh đổi sinh tử của bản thân mà cứu sống được cả một thành trì thì cũng chẳng phải công đức to lớn gì cho lắm. – Y mỉm cười. – Hơn nữa, tôi không nghĩ Lữ Đức dám nặng tay với tôi khi đang lâm vào hoàn cảnh bi đát thế kia.

Bá Nhan bóp trán suy nghĩ. A Lý Hải Nha cười:

- Nếu Nguyên soái vẫn chưa yên tâm thì phái thêm một người hộ tống, nhất định hắn sẽ đảm bảo cho tôi bình yên vô sự.

- Ai? – Bá Nhan ngẩng lên.

- Lương Tiêu.

- Thật thế ư? – Bá Nhan ngạc nhiên.

- Mạng tôi còn là nhờ Lương Tiêu vượt bao sống chết cứu khỏi tay người Tống. Với bản lĩnh của hắn, cho dù cả vạn mũi tên từ trên thành trút xuống cũng chưa chắc làm tôi sứt mẻ được.

Bá Nhan ngần ngừ:

- Hắn đang phải chịu hình phạt!

A Lý Hải Nha mỉm cười:

- Vậy thì mong Nguyên soái rón tay làm phúc!

Lưu Chỉnh toát mồ hôi, bụng bảo dạ: “Hú hồn hú vía, thiếu chút nữa là đắc tội cả với A Lý Hải Nha”. Bá Nhan phì cười:

- Ngươi vòng vèo mãi hóa ra cốt xin hộ hắn à? Được, nể mặt bách tính thành Tương Dương, ta tha cho hắn để đi hộ tống ngươi.

A Truật lầu bầu:

- Lĩnh ngần ấy hèo, chả chắc còn cưỡi ngựa nổi không!

Bá Nhan lắc đầu:

- Dăm ba roi thế thì hề hấn gì với hắn! A Lý Hải Nha, ngươi thả Lương Tiêu xuống, dẫn hắn theo sang Tương Dương.

Y bảo A Lý Hải Nha thả Lương Tiêu, ngụ ý là muốn Lương Tiêu cảm ơn đức ấy mà sẵn sàng liều chết báo đáp.

A Lý Hải Nha cưỡi ngựa ra cổng doanh, thấy binh lính đang xúm đông xúm đỏ, một số đứng gần cột cờ, chỉ chỉ trỏ trỏ. Lương Tiêu bị trói trên cao, mắt khép hờ, mặt lầm lì. A Lý Hải Nha than thầm: “Nguyên soái dùng cách này hơi quá đáng, một đại tướng bị lăng nhục trước ba quân thì mai sau làm sao để binh lính khâm phục?”. Y vội bảo thân binh giãn đám đông, tuyên lệnh Bá Nhan thả Lương Tiêu xuống.

Lương Tiêu nội lực thâm hậu, lĩnh đòn roi cũng chẳng đau đớn mấy, chỉ căm giận vì bị làm nhục. Đang lúc hờn oán ngập lòng, nghe tin Bá Nhan chấp nhận kế sách dụ hàng, gã mới cảm thấy dễ chịu đôi chút.

Hai người cưỡi ngựa sang Tương Dương. Bọn Thổ Thổ Cáp nghe nói chuyến đi đầy hung hiểm thì lẵng nhẵng đi theo, nhưng bị Lương Tiêu quát về hết. Khi Lương Tiêu và A Lý Hải Nha đến chân thành, bên trên tên nỏ đã chĩa ra tua tủa, ngắm sẵn vào bọn họ.

A Lý Hải Nha hít một hơi, định thần gọi to:

- A Lý Hải Nha, Hữu thừa Nguyên triều cầu kiến Lữ Đức đại nhân.

Lữ Đức vẫn lấy làm thắc mắc về việc quân Nguyên ngừng pháo kích. Lúc này y đang đứng lẫn trong đám sĩ tốt, nghe A Lý Hải Nha xưng danh thì cau mày, vội giơ tay ngăn Vân Thù bắn tên:

- Ta đây! Hải Nha đại nhân, ông đến dụ hàng chứ gì?

A Lý Hải Nha đáp:

- Đúng, hiện tại Tương Dương hoàn toàn trơ trọi, mọi mối liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Bách tính trong thành đói rét cùng quẫn, người người ăn thịt lẫn nhau, hoàn cảnh tuyệt vọng đến thế, tướng quân không hàng thì còn đợi tới bao giờ?

Lữ Đức trầm giọng:

- Nhà ta đời đời hưởng lộc Đại Tống, nay gánh trọng trách Thái thú Tương Dương, sẵn sàng da ngựa bọc thây, sống chết với thành để báo đáp ơn vua. Hải Nha đại nhân, ta không bắn ông. Hãy về mau đi, chỉ mong khi phá thành, đại nhân nể việc hôm nay mà nhẹ tay với bá tính, đừng giết chóc nhiều! Được thế thì Lữ mỗ cảm kích khôn cùng!

A Lý Hải Nha toan lựa lời thuyết phục thì Lương Tiêu thét lớn:

- Lữ đại nhân, ông đã muốn chết thì chết ngay đi!

Tướng sĩ trên thành nổi giận, A Lý Hải Nha sững sờ tự nhủ: “Thôi hỏng, chữa lợn lành thành lợn què rồi. Ta không nên cho hắn theo mới phải”. Vân Thù chuẩn bị bắn tên, Lữ Đức trầm giọng bảo:

- Khoan, nghe hắn lải nhải xong rồi giết cũng chưa muộn!

Lương Tiêu nói:

- Chắc ông muốn chết mà vẫn được lưu danh sử sách chứ gì? Tính toán hay lắm, ông chết thì còn thanh danh, nhưng dân chúng thành này chết rồi thì còn lại cái gì? Bặt tiếng vợ dịu dàng thủ thỉ, vắng con thơ ríu rít nô đùa, cha mẹ hiền từ mất cả, bạn bè vui vẻ không còn… Họ chết rồi thì chỉ còn xương trắng mà thôi.

Quân dân trên thành cùng biến sắc, không ai nén được nỗi thê lương.

Lữ Đức nổi giận mắng xuống:

- Đồ kẻ cướp chó má kia, ta tha chết mà ngươi lại dám cuồng ngôn để rối loạn lòng quân ta!

Y giơ tay, các cánh cung nhất loạt kéo căng. Lương Tiêu cười nhạt:

- Lòng quân cái con khỉ. Trong vòng mười ngày nữa thôi, Tương Dương sẽ bị phá. Ngươi mắng ta là cướp, nhưng có biết đâu chính bản thân ngươi cũng là một tên kẻ cướp đối với dân đen! Cướp thường chẳng qua chỉ nhằm lúc tối trời mưa gió đào tường khoét ngạch nẫng ít vàng bạc đổi lấy sự phè phỡn nhất thời, còn ngươi mồm hô khẩu hiệu trung hiếu nhân nghĩa, bụng lại rình rình ăn mòn tính mạng muôn dân để đổi lấy tiếng thơm thiên thu vạn tải của mình.

Từ lúc chứng kiến cảnh ăn thịt người gớm ghiếc, Lương Tiêu dằn vặt suốt về quyết định phá thành Tương Dương. Hôm ở núi Phục Ngưu gã đã từng thề độc diệt Tống, nay mà mủi lòng bỏ cuộc thì lại thành nuốt lời thề. Phá hay không phá? Gã đang khổ sở với nan đề ấy thì nghe Lữ Đức quyết ý tử thủ, giận quá không nhịn được bèn tuôn lời khích bác. A Lý Hải Nha tim đập chân run, bụng bảo dạ: “Thôi thôi, hắn đã cứu ta một lần, mạng này đành trả cho hắn vậy!”.

Quân Tống trên thành cũng bị Lương Tiêu tác động, bắt đầu xôn xao bàn tán. Vân Thù nóng nảy xen vào:

- Kẻ này không đáng tin. Mong Lữ đại nhân mau hạ lệnh bắn chết hắn, tránh để hắn nói năng nhăng nhít làm dao động lòng quân.

Lữ Đức thẫn thờ hạ tay xuống, trầm ngâm hồi lâu rồi nói:

- Từ thời Thành Cát Tư Hãn tới nay, quân Nguyên có thói quen cướp bóc tàn sát bằng hết sau khi hạ xong một thành trì. Các ông bị Tương Phàn cầm chân mười năm trời, hao công mất sức, thương vong vô số, ắt không khỏi ôm lòng oán hận. Hải Nha đại nhân, nếu ta đầu hàng, ông có dám đảm bảo rằng đồng đội ông sẽ không giết bất cứ một binh sĩ hay một dân lành nào của Tương Dương không?

A Lý Hải Nha thở phào, đáp:

- Thánh thượng nói hễ các ông chịu hàng, chúng ta sẽ không xâm phạm dẫu là chân tơ kẽ tóc. Lẽ ra ta có thể đưa thánh chỉ ra chứng minh, nhưng trên đường mang về đã bị người áo trắng bên cạnh ông cướp mất, ông hỏi hắn mà xem!

Lữ Đức nhìn Vân Thù. Vân Thù miễn cưỡng thừa nhận:

- Tôi xem thánh chỉ đấy rồi, Hoàng đế Thát quả tình có viết vài lời đẩy đưa xoa dịu để dụ hàng đại nhân!

Lữ Đức cau mày suy nghĩ. Lương Tiêu thấy y đã dao động, bèn rút một mũi tên ra hỏi:

- Ông có biết lời thề độc nhất của người Nguyên là gì không?

Lữ Đức nhìn xuống:

- Là bẻ tên thề!

Lương Tiêu bèn đưa mũi tên cho A Lý Hải Nha. A Lý Hải Nha gật đầu:

- Được! – Y giơ mũi tên lên cao. – A Lý Hải Nha xin thề với trời đất, chỉ cần Lữ đại nhân đầu hàng, ta dùng tính mạng mình đảm bảo sự an toàn cho tất cả quân dân thành Tương Dương. – Nói đoạn y bẻ gãy đôi mũi tên, ném xuống đất.

Lữ Đức hơi đổi sắc mặt, thở dài bảo:

- Để Lữ mỗ suy nghĩ đã, ba ngày nữa ta sẽ có câu trả lời cho đại nhân.

A Lý Hải Nha gật đầu, cùng Lương Tiêu quay ngựa về bẩm báo. Bá Nhan ra lệnh cho các tướng chuẩn bị vũ khí, nếu sau ba ngày mà Lữ Đức không đầu hàng thì dốc toàn lực tấn công, nhất quyết phá thành.

Đêm hôm đó trong thành Tương Dương, tướng lĩnh Tống tranh cãi không dứt, có kẻ cho rằng sự thể đã đến nước này, đành phải đầu hàng, có kẻ khăng khăng kiên cường đến chết để giữ tiếng thơm. Lữ Đức ngồi một mình trên lầu thành nhìn về phía nam, đập vào mắt y là đèn đuốc sáng trưng trong doanh trại quân Nguyên và thuyền chiến san sát trên sông, lòng y buồn khổ khó tả.

Từ khi búi tóc tòng quân tới nay, Lữ Đức đã khổ chiến nửa đời người, đánh từ Hợp Châu đến Tương Dương, di chuyển liên tục mấy ngàn dặm, tử thủ suốt mười năm, tuy biết khó lòng tránh được cục diện hôm nay, nhưng y luôn quyết chí tử thủ với thành. Vậy mà khi ngày ấy đến thực, y lại không biết nên xử sự thế nào. Đầu hàng thì mất tiết tháo, không đầu hàng thì coi như chôn sống hàng vạn dân chúng trong thành. Hàng hay không hàng? Hai ý nghĩ giằng xé tim y. Đột nhiên, chuyện mấy chục năm trước bỗng trở về trong trí óc, nhớ năm xưa sát cánh bên Văn Tĩnh đánh lui cường địch, giết chết đại hãn Mông Cổ dưới chân thành Hợp Châu, nhớ những buổi yến ẩm đối ca, y lại nhướng mày thở dài. Tình thế hiện tại quẫn bách quá đỗi, sống chết hai đằng đều khó quyết.

Y ngửa mặt nhìn trời, không nhịn được nghẹn ngào khóc than: “Hoài An, Hoài An, người ở đâu? Đại Tống vua hèn quan gian, phụ lòng trung của Lữ Đức, muốn báo đền nợ nước cũng chật vật biết bao. Nếu có người ở đây thì làm gì đến nỗi này? Hoài An, người ở đâu? Có nghe thấy Lữ Đức gọi không?”. Nước mắt viên tướng lã chã tuôn rơi, thấm ướt chiến bào.

Chợt có người hỏi:

- Lữ đại nhân phải không?

Lữ Đức luống cuống gạt lệ, quay ra thấy Vân Thù và Cận Phi đang đi tới. Y đứng dậy. Cận Phi vòng tay hành lễ:

- Đại nhân định thế nào?

Lữ Đức lắc đầu im lặng. Cận Phi hạ giọng:

- Đại nhân đừng để bọn chúng lung lạc.

Vân Thù tiếp lời:

- Đúng thế, quân Nguyên hung tàn vô đạo, không nên tin tưởng chúng.

Cận Phi lắc đầu:

- Điều cốt yếu không phải ở quân Nguyên, mà ở bản thân Lữ đại nhân. Người đời có câu: “Sống chết là chuyện nhỏ, tiết tháo là chuyện lớn”. Từ xưa tới nay các bậc trung liệt đều lưu danh sử xanh, những kẻ đầu hàng bị phỉ nhổ đời đời. Trương Công Tuần thời Đường tử thủ Thư Dương, tuy thành bị phá, bản thân ông ta hi sinh, nhưng ngàn năm sau vẫn còn có người tế bái. Bọn phản bội thì có kẻ nào được hậu thế nhớ tới đâu? Đại nhân sống chết với thành đến nay kể cũng đã lập công đức vô lượng cho Đại Tống, tiến một bước thì vẹn danh thơm, lui một bước thì sẽ để lại hai chữ gian thần trong sử sách. Cố gắng tới lúc này rồi, đừng để kiếm củi ba năm thiêu một giờ.

Lữ Đức liếc y, điềm tĩnh nói:

- Nhưng nếu ôm khư khư lấy bó củi ấy thì phải đốt thay bằng bao nhiêu xương máu của nhân dân toàn thành?

Cận Phi cười nhạt:

- Nếu đại nhân lùi một bước thì xương máu của bách tính hậu phương cũng sẽ bị đốt trụi. Thêm nữa, cổ nhân có câu: Khuyên người chớ nhắc chi chức tước, Một tướng danh thành vạn cốt khô[2]. Đại nhân đã là tướng tòng quân, cũng nên hiểu đạo lý này mới phải.

Mắt Cận Phi rực sáng, giọng nói mỗi lúc một gay gắt. Vân Thù siết chặt đốc kiếm, mắt đảo rất nhanh. Lữ Đức giật mình. Bao nhiêu năm ứng biến sa trường đã luyện cho y khả năng cảm nhận hết sức nhạy bén. Nhìn thần sắc hai người, y đã đoán được ba bốn phần. Quả thực, Cận Phi thấy Lữ Đức dao động nên cố ý đến dò xem ý tứ y thế nào, nếu y hé ra nửa chữ “hàng” thôi, họ Cận sẽ lập tức cùng Vân Thù uy hiếp y, buộc y tử thủ.

Lữ Đức cân nhắc rất nhanh, vụt đứng bật dậy, bước vài bước rồi nói:

- Cận Phi huynh nói đúng lắm, Lữ mỗ đã quyết! Tận trung báo quốc, ngọc vỡ còn hơn ngói lành, nhất định sẽ sống chết với Tương Dương. Chỉ có điều…

Cận Phi nghe giọng Lữ Đức dứt khoát thì rất mừng:

- Thái thú có gì khó khăn chăng?

Lữ Đức đáp:

- Thiếu thức ăn áo mặc, khí cụ công thủ cũng sắp cạn rồi. Cứ thế này mãi thì Tương Dương sớm muộn cũng bị phá, mà bị phá thì có khác gì đầu hàng đâu? Ta sở dĩ rầu rĩ không vui chính là vì việc này.

Cận Phi và Vân Thù nhìn nhau, cùng cau mày buồn bã. Lữ Đức lại nói:

- Mấy năm nay ta giữ Tương Dương, chỉ có Vân công tử và Cận môn chủ là vượt được phong tỏa vào thành, hừm… – Y ngừng lại, vẻ lưỡng lự.

Cận Phi khẳng khái nói:

- Việc nghĩa không thể từ nan, tôi cũng có ý đó. Mong Lữ đại nhân viết một bức thư cho đại tướng Dĩnh thành. Tôi và Thù nhi sẽ lập tức dẫn thủy quân ra ngoài, dùng Thủy cầm ngư long trận vận chuyển lương thảo khí giới vào tiếp viện Tương Dương.

Lữ Đức trù trừ:

- Vân công tử là trợ thủ đắc lực của ta, công tử mà đi, coi như Lữ mỗ mất một cánh tay. Vả chăng Lưu Chỉnh đã đặt thủy trận ở Phàn Thành, dòng Hán giang đang bị quân Nguyên khống chế, bơi ra không phải dễ.

Vân Thù nói:

- Thủy cầm ngư long trận biến hóa rất vi diệu, phi tôi không ai điều khiển nổi. Nếu đường thủy khó khăn thì chuyển lên bộ, chúng tôi sẽ mang ít người hơn, tận dụng bóng đêm để ra khỏi thành. Mong Thái thú gắng giữ thêm một tháng nữa, đợi tôi luyện xong trận thế.

Lữ Đức lại kê ra một số nguy hiểm khác, hai huynh đệ Thần Ưng môn vẫn kiên quyết ý định đi tìm quân tiếp viện, cuối cùng y đành đồng ý. Vì tình hình khẩn cấp, luôn đêm ấy Cận Phi triệu tập nhân thủ, cùng Vân Thù, Phương Lan thắt dây thừng vào hông, nhảy ra ngoài thành.

Lữ Đức nhìn theo toán người cho đến khi bóng họ tan nhòa trong màn đêm, bỗng thở dài quỳ xuống đất, nghẹn ngào nói:

- Vân công tử, tình thế khốn quẫn không thể cứu vãn được nữa. Lữ mỗ suy nghĩ rất lung, cuối cùng vẫn không nhẫn tâm hãm chết con dân trong thành. An nguy của hậu phương đành giao phó cho công tử vậy.

Nước mắt hai hàng, y lạy theo hướng đám hào kiệt ba lạy, đoạn đứng dậy, nói với tên thân binh đang ngơ ngác:

- Truyền ý ta: niêm phong các kho, phá hủy Thiên Cương phá trận nỗ. Ra lệnh cho ba quân: giờ ngọ ba khắc ngày mai mở cổng thành đầu hàng!

.

Lương Tiêu từ trướng soái trở về doanh trại, lồng ngực trĩu nặng, tâm trạng buồn bực khôn tả. Tiếng khóc than của bách tính Tương Dương cứ văng vẳng bên tai, hễ nhắm mắt là cảnh tượng bi thảm lại lồ lộ hiện lên trước mặt. Gã thầm nghĩ: “Đại Tống có muôn vạn thành trì, lẽ nào mỗi khi công thành đều nổ ra chiến tranh? Trên sa trường, lính đánh lính, tướng đánh tướng, một sống một chết đã đành, nhưng tại sao lại để liên lụy đến những người dân vô tội? Binh thư viết: không đánh mà khuất phục được kẻ địch là cảnh giới tối thượng của binh gia, nhưng thực tế có phương pháp nào không đánh mà thắng, bảo đảm an toàn cho bách tính không?”. Gã vò đầu bứt tai hồi lâu, vẫn không nghĩ ra kế nào toàn vẹn cả. Trong lúc khổ sở, một mối nghi ngại bỗng nhen nhóm: “Ta thề độc diệt Tống, lẽ nào là sai…”. Nhưng mối nghi ngại vừa manh nha đã tắt lịm ngay: “Mẹ thường dạy: đại trượng phu đã nói phải làm, không thể tự xéo lên lời nói của mình, ta đã bẻ cung thề, cũng như A Lý Hải Nha bẻ tên thề, đều là thề độc…”.

Gã buồn phiền, không muốn về doanh chạm mặt quân sĩ, bèn rong ngựa đến lều A Tuyết, nghe thấy bên trong vọng ra tiếng Lan Á trầm bổng, tựa hồ đang kể chuyện gì. Gã bước vào. A Tuyết nằm trên giường, mắt mở to, chăm chú nghe như uống từng lời. Trông thấy Lương Tiêu, cô cười tươi:

- Ca ca đến đúng lúc quá! Lan Á thư đang kể chuyện, nhan đề là Nghìn… nghìn mốt đêm…

Lan Á đỡ lời:

- Nghìn lẻ một đêm.

- Đúng rồi, Nghìn lẻ một đêm. – A Tuyết cười xòa.

Lương Tiêu ngắm nụ cười rạng rỡ và vẻ mặt tươi tắn của cô gái, lòng bỗng nhẹ hẳn đi:

- Lan Á, đa tạ cô đã quan tâm em ta.

Lan Á gạt đi:

- Cứ ra vẻ khách sáo làm gì thế! – Nàng xoa vai A Tuyết. – Muội đáng yêu thật, ta mến lắm.

Lương Tiêu cười méo xệch:

- Tiếc rằng dốt kinh khủng, nếu lây được chút thông minh của cô thì đỡ biết bao.

A Tuyết bĩu môi, lại thủ thỉ:

- Muội thích nghe kể chuyện, thư thư kể cho A Tuyết nghe một ngàn lẻ một buổi tối nhé.

Lan Á cười, nụ cười có phần miễn cưỡng, nàng dịu dàng nói:

- Tiếc rằng ta chỉ kể được lẻ một buổi tối thôi.

A Tuyết không hiểu. Lương Tiêu kinh ngạc ra mặt, hỏi:

- Cô định đi đâu à?

Lan Á buồn buồn thở dài:

- Tương Dương pháo đã xong, chỉ nay mai là phá được thành, ta không muốn trông thấy thảm cảnh ba ngày sau, cứ đi trước là hơn.

Lương Tiêu nói:

- Ba ngày sau họ đầu hàng chưa biết chừng.

Lan Á nhìn sâu vào mắt gã, thong thả hỏi:

- Ngươi chắc không?

Lương Tiêu máy môi, nhưng không thốt ra lời. Gã ngồi sững trên thảm một lúc rồi đứng bật dậy, loay hoay đi lại. Lan Á ngậm ngùi:

- Phá thành đồng nghĩa với chém giết, đấy là thông lệ của quân Mông Cổ. Năm xưa khi tây chinh công phá thành Bát Đa, Húc Liệt Ngột Hãn cho lính thả sức chém giết liền ba ngày, tới khi trong thành không còn tráng niên nào mới thôi. Mỗi khi nhắc lại chuyện ấy thầy ta lại đau lòng, nước mắt giàn giụa. – Giọng nàng tuy gắng giữ bình tĩnh, nhưng mắt đã đỏ hoe.

Lương Tiêu ớn lạnh:

- Thầy cô căm thù người Mông Cổ đến thế, vì sao vẫn thiết kế Hồi Hồi pháo cho họ? Vì sao cha con cô lại đến đây?

Lan Á thở dài:

- Hoàng đế Đại Nguyên thống trị cả bốn hãn quốc, một ý chỉ nhỏ nhoi của ông ta truyền xuống Y Nhĩ có thể khiến ánh sáng trí tuệ ở Mã La Gia vĩnh viễn lịm tắt. Lần này lẽ ra thầy đến, nhưng tuổi tác người đã cao, không chịu đựng được một hành trình xa xôi như vậy, cha con ta mới đi thay cho người.

Lương Tiêu lặng thinh. Lan Á nhìn gã đăm đăm, nghiêm nghị nói:

- Tương Dương pháo là cánh tay của ma quỷ, Mộc phích lịch là lửa địa ngục. Ngươi đã để ma quỷ hỏa ngục phục sinh, nếu còn tiếp tục sai lầm đó, sau này khi chết đi, linh hồn sẽ không được yên ổn đâu.

Lương Tiêu hơi giận, to tiếng:

- Cô nguyền rủa ta đấy à?

Lan Á cười buồn:

- Ngươi thông minh tuyệt đỉnh, đừng giả vờ không hiểu lời ta. Nạp Tốc La Đinh tuổi tác đã cao, người bây giờ giống như tuyết đọng trên đỉnh núi, một cơn gió to bất thần thổi qua là lả tả rớt xuống. Ngươi hãy buông thương vứt cung, cùng ta đến Mã La Gia. Ngươi là người xuất sắc nhất trong các toán gia xuất sắc hiện nay, nhất định có thể kế tục sự nghiệp của thầy ta, trở thành bậc trí tuệ của các trí tuệ.

Hai người nói chuyện bằng tiếng Hồi Hồi, A Tuyết không hiểu gì hết, chỉ thấy nét mặt họ nặng nề, bầu không khí trong trướng dường như đông cứng, khiến người ta khó thở. Cô vừa cúi đầu vê vê chéo áo vừa lén liếc mắt nhìn họ, tim đập thình thịch. Trên trán Lương Tiêu, gân xanh đập phập phồng, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, mấy lần định lên tiếng nhưng cuối cùng chẳng thốt ra được một từ. A Tuyết đang thấp thỏm theo dõi, thình lình Lan Á nhướng mày, nhoẻn cười với cô:

- Muội còn muốn nghe chuyện không?

A Tuyết gật đầu.

Lan Á lại kể hai chuyện rất hay. Đêm dần buông, A Tuyết nghe mãi, nghe mãi, đến khi mắt díp lại thì ngủ thiếp đi ngay trong lòng Lan Á. Nàng bèn đặt cô gái nằm ngay ngắn trên giường, đắp chăn thật kín. A Tuyết ngủ say, mặt vẫn vương nụ cười, tựa hồ đang đi vào thế giới kỳ ảo của Nghìn lẻ một đêm.

Lan Á biết A Tuyết chưa lâu nhưng rất mến tính hồn nhiên trong sáng của cô. Nghĩ tới lúc phải rời khỏi đây, lòng chua xót, nàng cúi xuống chạm môi lên má A Tuyết, nước mắt rớt nhẹ xuống mặt cô gái. A Tuyết khẽ ú ớ như thể linh cảm được. Lan Á vội thấm khô cho cô, xong xoay mình đi ra khỏi trướng. Lương Tiêu cũng ra theo:

- Để ta đưa cô về.

Hai người ruổi ngựa đến cổng trại Trát Mã Lỗ Đinh. Lương Tiêu mấy lần ngập ngừng muốn nói, nhưng lại thôi. Khi gã quay ngựa đi, Lan Á gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngoái đầu nhìn. Lan Á nhảy xuống ngựa, sắc mặt nàng hiện lên khổ sở dưới ánh trăng. Lương Tiêu hỏi:

- Gì vậy?

Đôi mắt xanh biếc của người thiếu nữ lấp lánh sáng, nàng lặng lẽ nhìn Lương Tiêu, chậm rãi nói:

- Bên đường cái đi về phía đông có một ngôi đình nhỏ, sáng mai ta đợi ngươi ở đó. Mong rằng ngươi thay đổi quyết định.

Tim Lương Tiêu trĩu nặng. Lan Á quay đi, chạy thật nhanh vào trại.

Lương Tiêu đưa mắt dõi theo cho đến khi bóng người thiếu nữ chìm hẳn trong đêm dày, ruột rối như tơ. Gã thốt nhớ đến cảnh cha chết thảm, đến ánh mắt não nề của mẹ lúc biệt li, lát sau lại nhớ tới dáng vẻ mềm yếu nhút nhát của Hiểu Sương, nụ cười duyên dáng của Oanh Oanh. Thời gian dần trôi, vầng trăng từ từ bò lên giữa trời, gió rét căm căm, Lương Tiêu rùng mình vì lạnh, nhận ra khóe mắt ướt nhoèn tự bao giờ. Gã nhảy lên ngựa, nhìn về phía Tương Dương, lòng buồn chán khôn tả: “Ba ngày sau, nếu quân Tống không hàng, tình hình sẽ ra sao đây? Bất kể thế nào, nếu bọn Lưu Chỉnh lạm sát người vô tội, ta chỉ còn cách cùng quân Khâm Sát chém chết chúng mà thôi”.

Ra quyết định xong, trong lòng cũng dễ chịu hơn một chút, Lương Tiêu thúc ngựa quay về đại doanh Bách Trượng sơn. Chưa đến gần đã nghe thấy âm thanh huyên náo, đoán biết trong doanh xảy ra việc lớn, gã bèn thúc ngựa phi nhanh vào. Một kỵ binh chạy ào ra đón:

- Bọn Tống tập kích!

- Có đông không? – Lương Tiêu hỏi.

- Ít thôi, nhưng thân thủ lợi hạ lắm. Thổ Thổ Cáp và mấy người nữa nổi giận, đang truy sát rồi!

Lương Tiêu nhói tim, vội hỏi:

- Đi về hướng nào?

Tên lính giơ tay trỏ về hướng đông nam.

Lương Tiêu không kịp hỏi nhiều, hấp tấp thúc ngựa đuổi theo, chưa đầy hai dặm đã gặp rất nhiều xác người ngựa ngổn ngang dưới đất, đủ cả lính Tống, lính Nguyên, có thi thể găm mười mấy mũi tên tua tủa; có kẻ đang bóp cổ một lính Khâm Sát, phần bụng bị loan đao đối phương đâm thủng, cả hai đã tắt thở, mắt lồi tướng; có kẻ bị trường mâu Khâm Sát xuyên từ người xuống ngựa, ghim cứng một chỗ. Đủ mọi kiểu chết bi thảm, chắc hẳn hai bên đã gặp nhau ở đây rồi diễn ra ác chiến.

Lương Tiêu tế ngựa phi điên cuồng, ruột nóng như lửa đốt, được một quãng thì gặp chừng hai trăm kỵ binh chầm chậm đi ngược lại, người dẫn đầu chính là Thổ Thổ Cáp, Vương Khả đang ẵm một người, thi thoảng lau nước mắt. Lương Tiêu điểm qua hàng ngũ, thấy vắng bóng Dương Giác, tức thì trái tim trĩu nặng. Mọi người vỗ ngựa chạy lại gần chủ tướng, mắt ai cũng sưng húp. Lương Tiêu nhìn người đang nằm trong lòng Vương Khả, nhận ra đúng là Dương Giác, mặt mũi xám ngoét, hẳn đã tắt thở từ lâu.

Lương Tiêu thấy trước mắt tối sầm, đầu óc trống rỗng, trong lúc lơ mơ chỉ nghe Vương Khả nghẹn ngào:

- Lương đại ca, lại… lại tên khốn kiếp đó…

Dù Vương Khả không nói, Lương Tiêu cũng nhận ra. Thanh kiếm trên người Dương Giác xuất phát từ vị trí Đại hữu, lật kính hộ tâm đâm vào huyệt Đản trung, chính là thủ pháp của Quy tàng kiếm.

Thổ Thổ Cáp dộng mạnh trường mâu, gằn giọng nói:

- Nếu không giết được tên khốn đó, Thổ Thổ Cáp này quyết không quay về quê hương.

Lý Đình, Nang Cổ Ngạt và Vương Khả đều quắc mắt, cao giọng:

- Đúng, không trả được thù này, quyết không về quê hương.

Lương Tiêu là đại tướng, không tiện tỏ thái độ yếu đuối trước mặt thuộc hạ, bèn xua xua tay, giục ngựa quay đầu. Nhưng vừa thúc ngựa, gã đã mất kiềm chế, nước mắt ròng ròng tuôn rơi.

Đang canh khuya không kịp chuẩn bị hậu sự, mọi người để tạm xác Dương Giác trong lều Lương Tiêu rồi ngồi im lìm xung quanh, đèn thắp sáng suốt đêm. Giờ ngọ hôm sau, A Tuyết sang, thương xót khóc lóc vật vã một hồi, lại thấy mọi người chưa có hột cơm nào vào bụng bèn nấu nhanh nồi cháo, không ai nỡ chối từ nên đều ăn một ít. Lương Tiêu sực nhớ lời Lan Á nói đêm qua, vội vàng lên ngựa đuổi theo. Gã tưởng nàng đã đi mất rồi, không ngờ đến gần tiểu đình vẫn thấy cha con họ ngồi đợi, bên ngoài có chừng một trăm binh sĩ đang nghỉ ngơi, áng chừng đi theo hộ tống.

Lương Tiêu tần ngần một thoáng, cuối cùng xuống ngựa lùi sang bên đường, dõi mắt quan sát. Lan Á ngồi suy tư, thình lình đứng lên đi đi lại lại. Trát Mã Lỗ Đinh cũng đứng dậy, thì thào với con gái một hồi. Lan Á xoay mặt đi, đôi vai run bần bật. Trát Mã Lỗ Đinh thở dài, lại vỗ vỗ vai nàng, an ủi vài câu. Sau một hồi thẫn thờ, Lan Á đưa tay áo lau nước mắt, nhảy lên con ngựa Ả Rập đi về hướng bắc, nhưng được mấy bước, nàng lại ngoái đầu nhìn phía sau. Cứ thế mười mấy lần cho đến khi khuất hẳn cuối con đường.

Lương Tiêu lên ngựa dướn nhìn theo, bụi vẫn chưa lắng mà bóng người đã xa, nhất thời trong lòng trống rỗng. Gã và Lan Á mới quen biết nhau nhưng ý hợp tâm đầu, cứ nhắc đến toán học là quên hết thời gian. Khổ nỗi Triệu San mất chưa lâu thì lại tới Dương Giác, oán thù mỗi ngày một sâu, gã không thể tìm đường giải thoát như nàng gợi ý. Mà chưa biết chừng, chẳng bao lâu nữa đến lượt gã cũng mất mạng nơi sa trường, vĩnh viễn nằm lặng trong cõi u minh. Nghĩ đến đây, Lương Tiêu chán nản cùng cực, ủ rũ cưỡi ngựa về doanh.

.

Giờ ngọ ngày thứ ba, cổng thành Tương Dương mở rộng, Lữ Đức mặc áo trắng, đội mũ trắng, đi bộ ra khỏi thành. Bá Nhan được tin, đích thân sang tiếp nhận đầu hàng, phong Lữ Đức làm Đô đốc Tương Phàn.

Tin bay vào nội địa, một đám mây u ám bao trùm triều đình Đại Tống, tiếng ai oán chê trách lan rộng khắp nơi. Người đương thời làm bài thơ than rằng:

Lữ tướng quân trấn thủ Tương Dương,

Xương sống mười năm giữ biên cương.

Cầu cứu viện quân không thấy đến,

Căm hờn mạt sát Giả Bình chương.

Giả Bình chương tức Giả Tự Đạo, kết tội hắn không gửi quân tiếp viện Tương Dương kể cũng chưa thỏa đáng, nhưng hắn dụng binh ngu muội, triều đình lại u mê, chẳng lần nào viện binh tới nơi, khiến cả hai thành bị vây hãm, Lữ Đức bị cô lập, chỉ biết vẫy vùng chiến đấu trong tuyệt vọng. Suy cho cùng Giả Tự Đạo lộng quyền làm loạn triều chính, là kẻ tội phạm đầu sỏ đẩy Tương Phàn vào cảnh khốn đốn, bài thơ không trách Lữ Đức dâng thành mà trách Giả Tự Đạo hại nước, đủ thấy thế nhân nhìn nhận rất công bằng.

Đất Tương Phàn xưa rày vẫn được gọi là “xương sống của thiên hạ”, một vai gánh miền nam, một vai gánh miền bắc, mặt bắc dẫn sang Hà Nam, mặt tây nối liền Ba Thục, mặt nam áp sát Hồ Quảng, mặt đông kề cận Giang Hoài. Từ cổ chí kim, trận khởi đầu của các cuộc nam bắc tương tranh đều diễn ra ở đây. Tương Phàn thất thủ làm đứt đoạn hàng phòng ngự biên giới, đất đai trăm dặm vùng Giang Hán tự nhiên phơi ra trước mũi tấn công của quân Nguyên.

.

Tuyết chảy băng tan, trời dần dần ấm lên. Năm thứ mười một nhà Nguyên, tương đương năm Hàm Thuần thứ mười ba theo lịch Tống, Hốt Tất Liệt truyền chỉ chinh thảo miền nam. Tháng ba năm ấy, Sử Thiên Trạch đi tuần doanh trại ban đêm bị cảm hàn, từ đó đổ bệnh nặng. Họ Sử tuổi tác đã cao, khí huyết suy nhược, nằm li bì hai ngày một đêm thì nhắm mắt xuôi tay. Bá Nhan và các tướng đến tế vọng, an ủi gia quyến.

Viếng xong, Lương Tiêu theo mọi người rời Sử phủ, trong lòng rầu rĩ: “Sử Thiên Trạch công toại danh thành là thế, chết đi cũng chỉ hai bàn tay trắng. Thổ Thổ Cáp và Lý Đình đang hăm hở gây dựng sự nghiệp, nhưng một mai lìa đời, liệu có mang công danh theo mình được không?”. Đang mải trầm tư, chợt nghe Bá Nhan gọi:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Cặp mắt uy nghiêm của Bá Nhan xoáy vào mặt gã:

- Cậu lại đây với ta!

Y giật mạnh cương, tế ngựa chạy thẳng ra cổng thành. Lương Tiêu không hiểu ra sao, liền vội vàng thúc ngựa chạy theo.

Bên ngoài thành là đồng ruộng bao la, nhưng chỉ lơ thơ vài nông dân bộ dạng lam lũ đang chậm chạp bước trên luống cày. Mười năm đại chiến Tương Phàn, nhà cửa ruộng vườn quanh vùng bị bỏ hoang, hàng vạn mẫu đất tốt đều biến thành chiến trường.

Đột nhiên, một con thỏ rừng nhảy phóc ra khỏi bụi cây, tung bốn chân chạy như bay, một con sói vàng cong đuôi đuổi theo, thình lình nhún móng trước xuống đất, bắn mình lên chụp lấy đầu con thỏ. Đúng lúc này, một mũi tên rít gió lao tới, cắm phập vào cổ con sói, đâm xuyên xuống cả lưng thỏ.

Bá Nhan bắn xong thở dài, định hạ cung, chợt nghe gió đưa tiếng nhạn kêu trong trẻo, y lại nghiêng người giương cung. Một bầy nhạn xếp thành mũi nhọn bay về phương bắc. Bá Nhan kéo cung hồi lâu nhưng không phát tên, đăm đăm nhìn đàn chim bay đi xa, chùng tay thở dài:

- Cậu bắn chim ưng bao giờ chưa?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan cười:

- Tế ngựa hăng chạy lồng đại mạc, Giương cung bắn tan tác chim muông. Cuộc sống ấy thực là thống khoái! Hiềm nỗi chưa diệt Tống thì chưa trở về bắc được. Không biết đánh trận bao giờ mới xong?

Lương Tiêu lúc này mới hiểu ban nãy Bá Nhan giương cung mà không bắn là vì chạnh lòng nhớ quê hương. Gã chợt xót xa:

- Thế thì đừng đánh nữa. – Vừa dứt lời, chợt cảm thấy không ổn chút nào, lại tự vấn: “Không đánh thì làm sao trả thù được đây?”.

Bá Nhan liếc mắt nhìn gã, cười hỏi:

- Lần trước ta hạ lệnh phạt cậu, còn giận ta không?

Lương Tiêu nhíu mày im lặng, Bá Nhan biết gã vẫn ấm ức chưa nguôi, bèn cười ha hả:

- Thôi, đều tại ta không tốt, nhưng cậu là tiểu tướng mà xúc phạm đại tướng, cũng quá đáng lắm. Lúc đó chỉ có hai lựa chọn, một là xử phạt, hai là xử trảm, đành chọn cách ít tổn thất nhất, nên để cậu phải chịu ấm ức.

Lương Tiêu nghe phân tích hợp tình hợp lý, cũng nguôi nguôi giận. Bá Nhan chợt trỏ roi về một tòa miếu cổ:

- Lại kia xem đi!

Khi tới gần, họ thấy tường miếu đã đổ nát, cổng vào có dựng một tấm bia. Bá Nhan xuống ngựa, cho tả hữu lui ra sau, xoa xoa mặt bia, im lặng trầm ngâm. Tấm bia chạm chi chít chữ, lốm đốm bạc màu, dựng trên lưng một con rùa đá mòn, chừng như niên đại xa xưa lắm rồi.

Bá Nhan chợt hỏi bằng tiếng Hán:

- Cậu biết lai lịch của tấm bia này không?

Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan trỏ tòa miếu đất trước mặt:

- Đây là miếu Dương Thái phó, nơi thờ Dương Cổ nhà Tấn. Dương Cổ là danh tướng người Hán. Họ Tư Mã diệt Đông Ngô và thống nhất ba nước đều xuất phát từ gợi ý của ông ta. Đáng tiếc, người này soạn kế diệt Đông Ngô mà không sống được tới ngày bình định thiên hạ, thuở sinh tiền đã mấy lần dâng biểu phạt Ngô nhưng đều bị hoàng đế bác đi, ông ta không thỏa tráng chí, mỗi khi nhìn về phương nam đều sa lệ, vì vậy tấm bia này còn gọi là Đọa lệ bi[3]. – Y nhìn Lương Tiêu, nghiêm chỉnh hỏi. – Cậu có biết vì sao trên đời cứ luôn xảy ra chiến tranh không?

Lương Tiêu thần người, cuối cùng thành thật đáp:

- Tôi không biết!

- Đơn giản lắm, cứ nhiều nước cùng tồn tại là sinh chiến sự.

- Nhiều nước cùng tồn tại ư?

Bá Nhan mỉm cười:

- Nhớ năm xưa, các bộ lạc Mông Cổ phân tranh, binh lửa ngùn ngụt ngàn năm không dứt. Mãi cho đến khi Thái Tổ xuất thế, bằng sự anh minh trời phú, cơ trí mưu lược, người đã khắc phục muôn vàn gian khổ, đầu tiên thống nhất Mông Cổ, chấm dứt nội chiến, sau đó mở rộng phạm vi chinh phạt. Chắc cậu cũng biết người Hán đánh nhau dữ dội nhất vào thời các chư hầu cát cứ, trước tiên là Xuân Thu Chiến Quốc, kế đến Tam Quốc Lưỡng Tần, sau thời Đường thì các triều đại thay nhau trị vì nhanh như thay áo, hết Ngũ đại thập quốc đến Tống Liêu giao phong, kế tiếp là chiến tranh giữa năm nước Tống, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn, chém giết vô cùng thê thảm. Hiện tại, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn đều đã bị diệt, nhưng Tống Nguyên còn đang tranh hùng. Bốn trăm năm qua liên tục loạn lạc, chưa từng có một ngày bình yên.

Lương Tiêu không kìm được hỏi:

- Tức là phải thống nhất toàn bộ thiên hạ thì mới chấm dứt được chiến tranh?

- Đúng thế! Từ cổ chí kim, những người có chí cứ thích chọc trời khuấy nước, nhưng thực chất, tứ hải một nhà mới đem lại thái bình cho thiên hạ. Dương Cổ rơi lệ không phải vì vinh nhục cá nhân mà vì dân chúng cả nước! Đại Tống hiện nay cũng tương tự Đông Ngô thuở nào, chưa diệt được nó thì chiến tranh giữa hai miền nam bắc còn dai dẳng mãi, và hứng chịu tổn thất trước tiên chính là bách tính đôi bên.

Lương Tiêu cau mày:

- Vì sao phải giết? Vì sao phải đánh? Hòa hảo chẳng tốt hơn ư?

Bá Nhan xua tay:

- Cá lớn nuốt cá bé, ấy là lẽ thường tình ở đời! Cậu đã thấy hổ nào không ăn thịt dê chưa? Dẫu chúng ta để yên cho người Hán, khi họ mạnh lên chắc gì đã tha chúng ta? Tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng nói: “Hung Nô chưa diệt, chuyện nhà đáng chi?”. Đại Hán hùng cường, kéo lên bắc tiêu diệt Hung Nô. Đại Đường hưng thịnh, cất quân chinh phạt Đột Quyết, làm cỏ Cao Ly. Ngay thời Tống đây, chẳng phải Thái Tông cũng đã từng tấn công Khiết Đan đấy ư? Chỉ tội hắn không tự lượng sức, đánh không lại người ta mà thôi.

Lương Tiêu băn khoăn:

- Tóm lại là, hễ lắm quốc gia tất chia mạnh yếu, đã có mạnh yếu tất sinh chiến tranh ư?

Bá Nhan không trả lời thẳng vào câu hỏi của gã, nói lảng sang chuyện khác:

- Nghe nói bạn cậu mất.

Lương Tiêu dàu dàu gật đầu. Bá Nhan thở dài:

- Cậu là người trọng tình cảm, cũng tốt. Nhưng tính mệnh một cá nhân so với tính mệnh ức vạn dân lành thì bên nào nặng bên nào nhẹ?

Lương Tiêu ngẩn người. Bá Nhan bước mấy bước, vụt xoay phắt lại nói to:

- Cuộc đời lắm nỗi đoạn trường, đường đường một đấng nam nhi thân cao bảy thước, nếu giương cánh cung cứng, cưỡi ngựa khỏe bình định thiên hạ thì ngàn năm nữa vẫn còn tiếng thơm lưu truyền. Nếu vì cái chết của một cá nhân mà suốt ngày đau đớn, sụt sùi khóc than rền rĩ thì thử hỏi chỉ trăm năm sau thôi, còn ai nhớ đến Lương Tiêu nữa? – Y trỏ đám nông dân. – Thế thì có khác gì đám thôn phu thô kệch kia đâu?

Lương Tiêu chưa bao giờ ôm chí lớn, làm việc đều theo cảm hứng nhất thời, hoàn toàn hững hờ với những lý tưởng như trị quốc bình thiên hạ, nay nghe những lời này, trong lòng bỗng hoang mang. Bá Nhan càng nói càng sôi nổi:

- Trống da trâu tốt, gõ khẽ là phát ra âm thanh vang rền. Một người thông minh dứt khoát không cần ta phải phân tích quá nhiều. Trong huyết quản cậu có có dòng máu của Thành Cát Tư Hãn, tài năng cậu khiến người đời đố kỵ. – Y xòe tay, cười nhạt. – Một hàng tướng nhỏ nhoi như Lưu Chỉnh thì đáng kể gì?

Lương Tiêu tuổi còn trẻ, máu nóng đương căng, nghe vậy bật thốt:

- Đại Nguyên soái… – rồi họng nghẹn lại, không thốt nên lời.

Bá Nhan xua tay cười:

- Hiểu là được, không cần phải nói ra. Sử Thiên Trạch đã chết, ta giao binh mã của ông ấy cho cậu. Dám nhận không?

Lương Tiêu đáp ngay không nghĩ ngợi:

- Càng nhiều càng tốt.

Bá Nhan cười mắng:

- Tiểu tử nhà ngươi, đúng là đại ngôn không biết ngượng mồm. – Nghĩ sao y lại đưa mắt nhìn về phương nam, buồn bã thở dài. – Chỉ mong lần này thống nhất thiên hạ để ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh nữa.

Lương Tiêu nghe dứt, bỗng rùng mình lẩm bẩm:

- … ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh.

Gã lẩm bẩm câu ấy mấy lần, giọng mỗi lúc một mong mỏi, mắt đăm đăm dõi ra đồng dã nơi xa.

[1] Sấm sét gỗ.

[2] Trích bài thơ Kỷ Hợi tuế nhị thủ của Tào Tùng thời Đường.

[3] Bia rơi lệ.

Thạch Công Sơn Đầu     Năm một ngàn hai trăm bảy mươi lăm, Tống Độ Tông Triệu Kỳ ốm chết ở Lâm An. Cùng năm đó, Giả Tự Đạo lập Triệu Hiển mới bốn tuổi lên làm vua, bản thân hắn nắm quyền nhiếp chính, bưng bít mọi tin tức nơi tiền phương. Triều đình Đại Tống mù mờ hoang mang, bấp bênh bất ổn. Bá Nhan nhận được mật báo, biết rằng thời cơ đã chín muồi, bèn dẫn hai mươi vạn quân xuôi dòng Hán Thủy di chuyển xuống nam. Cùng lúc, Cận Phi và Vân Thù cũng tổ chức nhiều đợt chiêu mộ nghĩa quân tương trợ triều đình. Các hào kiệt miền nam đều nhiệt thành xả thân, khốn nỗi Đại Tống binh hèn tướng yếu khiến công sức đóng góp của họ chỉ như muối bỏ bể, không gặt hái được kết quả gì.

Mùa thu cùng năm, quân Nguyên vượt Trường Giang, theo dòng Giáp Giang tiến vào. Nhiều trọng thần, đại tướng lũ lượt kéo nhau ra đầu hàng, dâng cống mỹ nữ để lấy lòng ngoại bang, trong số đó có Binh bộ Thượng thư Lữ Sư Quỳ và Điện tiền chỉ huy sứ Phạm Văn Hổ.

Mặc Tương Phàn thất thủ, Giả Tự Đạo vẫn cố sức dập tắt mọi lời xì xào, nhưng dần dần, khi các cứ điểm tiền phương liên tiếp bị đánh hạ thì tình hình không thể che đậy được nữa. Tin khẩn tới tấp bay về Lâm An, hoàng thất và các quan lại đều kinh hoàng, thúc ép Giả Tự Đạo thân chinh ra trận đẩy lui quân địch. Họ Giả không còn cách nào khác, đành bổ Hạ Quý làm phó soái, miễn cưỡng thống lĩnh hai mươi vạn thủy lục quân cùng ba ngàn chiến thuyền vượt sông sang tây, giao chiến với quân Nguyên ở Lỗ Cảng.

Khi hai bên giáp mặt nhau, mười vạn hùng binh Nguyên triều nhất tề gầm lên như sấm rền trên sóng, ồ ạt từ thượng lưu kéo xuống. Người Tống tuy yếu về kỵ binh nhưng rất thành thạo thủy chiến, cũng ngược dòng hăng hái tiến lên. Hai bên giao tranh hồi lâu mà không phân thắng bại, Hạ Quý phập phồng lo sợ, nhân lúc không ai để ý liền chèo thuyền trốn chạy.

Bấy giờ, Giả Tự Đạo đang lười biếng tựa vào lòng ái thiếp quan chiến, chung rượu nghiêng ngả trên tay. Hắn vốn mù tịt về chiến trận, chỉ biết hai bên giao đấu ác liệt chứ chẳng biết ai thắng ai thua, nhác thấy Hạ Quý bơi qua cạnh tàu mình, vội hỏi:

- Thắng rồi hả?

Hạ Quý hổn hển đáp:

- Không đỡ nổi!

Giả Tự Đạo xuất thân lưu manh đầu đường xó chợ, nghe vậy phát hoảng, không còn để ý đến cung cách lễ tiết gì nữa, nhảy chồm chồm rủa xả:

- Đồ mặt nạc đóm dày, sao không nói sớm? – rồi vội vàng kéo ái thiếp nhảy tót lên thuyền nhẹ đã chuẩn bị sẵn, nối đuôi Hạ Quý chèo đi rõ nhanh.

Có kẻ trông thấy chủ và phó tướng một trước một sau lủi mất thì kinh hãi báo động. Quân Tống nơi đầu sóng ngọn gió nghe tin ấy, ý chí chiến đấu lập tức tiêu tan. Tướng lĩnh giẫm đạp nhau bỏ trốn, binh sĩ mạnh ai nấy chạy, trận thế hỗn loạn rối ren. Lính Nguyên thừa cơ công kích khiến quân Tống thua liểng xiểng, số đầu hàng lên đến mười mấy vạn người, lương thảo quân dụng bị tịch thu bằng sạch.

Tin bại trận ở Lỗ Cảng truyền về Lâm An, cả triều đình cùng phẫn nộ. Tạ Thái hậu cách hết mọi chức tước của Giả Tự Đạo, truyền chỉ lưu đày Tuần Châu. Giả Tự Đạo trơ trọi một thân một mình, vai vế không còn, phe cánh tan rã, đành bó tay chịu trói, trên đường áp giải bị sai nha là Trịnh Hổ Thần sát hại tại Chương Châu.

Sau trận Lỗ Cảng, tướng sĩ vùng Giang Hoài hoàn toàn thui chột ý chí chiến đấu, phản kháng rất lẻ tẻ, còn phần lớn đào ngũ hoặc đầu hàng. Lính Nguyên chia làm ba đường hành quân, cánh Lương Tiêu tiến vào theo ngả Giang Nam. Vừa tới Kinh Khẩu, gã bỗng nhận được thư khẩn, Bá Nhan ra lệnh quay gấp về Dương Châu.

.

Tại trướng soái Dương Châu, Bá Nhan triệu tập các tướng, nặng nề thông báo:

- Thánh thượng hạ chỉ ngừng xuống nam, chuẩn bị tiễu phạt sang phía tây.

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Tại sao? Không đánh Tống nữa à?

A Truật u ám nói:

- Tây bắc có biến! Cháu nội Oa Khoát Đài là Hải Đô, hiện đang đóng ở Diệp Mật Lập, nhân lúc đại quân ta nam chinh bỏ trống mặt tây bắc đã chiêu tập phiên vương kết thành liên minh bên bờ sông Tháp Na Tư. Hắn kết tội thánh thượng đã chà đạp di huấn của Thái Tổ để thay thế bằng luật lệ của người Hán, vin cớ đó cùng các phản vương tuyển mộ hai mươi vạn thiết kỵ, vượt núi A Nhĩ Thái[2], tấn công cựu đô Hòa Lâm[3].

Bá Nhan tư lự:

- Hải Đô túc trí đa mưu lại giỏi dụng binh, xưa rày vẫn luôn kình chống thánh thượng. Hiện thánh thượng cũng chưa biết nên quyết thế nào, vừa sai tín sứ chuyển lời rằng: “Trẫm chinh thảo Đại Tống hai lần, hai lần đều thất bại quay về. Nay Bá Nhan sắp thành công thì Hải Đô lại đến sinh sự, giữa đường bỏ dở kể cũng đáng tiếc, nhưng nếu vì một dải đồng lầy nước đọng phương nam mà để mất bạt ngàn đất đai màu mỡ phương bắc thì khác nào thả con cá rô bắt con săn sắt, ngẫm thực không đáng”. Và người lệnh cho ta nghị hòa với Lâm An, hai bên vạch địa giới mà cai trị.

A Truật nói:

- Người Tống liên tục thất bại, binh sĩ rệu rã chán chường, đây chính là thời cơ để hưng binh! Nếu nghị hòa để họ lấy lại sức thì mai sau tấn công sẽ khó khăn gấp mười. Hải Đô tuy nhiều binh mã thật, nhưng các phiên vương tây bắc mỗi người một bụng, không đồng chí đồng lòng. Tôi nghĩ, chỉ cần vài vạn tinh binh là đủ chặn đứng mũi đâm thọc của chúng, tội gì phải điều động hết binh mã nam chinh sang đó?

Bá Nhan gật đầu:

- Ta cũng nghĩ như ngươi! Bây giờ ta sẽ về Đại Đô, tìm cách thuyết phục thánh thượng. Khi ta đi vắng, ngươi tạm thay trách nhiệm Chủ soái trong doanh. – Ngừng một lát, y gọi. – Lương Tiêu!

Lương Tiêu đáp lời đứng dậy, Bá Nhan nói:

- Từ lúc này, ngươi làm Tổng đô thống cả thủy và lục quân, phò tá A Truật đốc suất binh mã.

Lương Tiêu nhận lệnh. Bá Nhan lại dặn dò một hồi rồi cho các tướng lui, vội vã trở về Đại Đô ngay trong đêm.

Cùng đêm ấy, Lương Tiêu hạ trại ở Qua Châu. Vừa ổn định lều trướng, nghe báo Quách Thủ Kính cầu kiến, gã mừng rỡ ra ngoài nghênh đón. Hai người đã lâu không gặp, nắm tay nhau hàn huyên vui vẻ. Họ Quách bảo:

- Hôm nay Quách mỗ đến cáo từ đại nhân.

Lương Tiêu hỏi:

- Ông định về Đại Đô à?

- Phải. – Quách Thủ Kính đáp. – Bây giờ quân đội ngừng di chuyển, tạm thời đóng trại một chỗ, ta không cần cất trạm nước mới nữa. Vả chăng năm nay Hoàng Hà dâng cao, có thể gây lũ lụt, thánh thượng triệu ta về bắc bàn bạc cách giải quyết.

Lương Tiêu thở dài:

- Chưa hết can qua đã thủy tai xảy đến, thiên hạ chẳng lúc nào được bình yên.

Quách Thủ Kính cũng thở dài:

- Thế nên mới có câu: Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Cảnh trái ngang trên đời thường vô cùng vô tận!

Mỗi người đeo đuổi một suy tư, lặng cầm chén trà buồn bã. A Tuyết đứng bên, thấy vẻ mặt họ bỗng nhiên ảm đạm thì rất lấy làm lạ: “Vừa tươi cười hớn hở, sao đã ỉu xìu ngay được?”.

Sau một lúc trầm mặc, Quách Thủ Kính lên tiếng trước:

- Quách mỗ có một câu này, chẳng biết nên nói hay không.

- Tôi xin nghe, đại nhân đừng khách sáo!

Quách Thủ Kính vịn bàn nhỏm dậy, thở dài:

- Tướng quân là một tài năng hiếm có, đem tài năng ấy đổ vào chinh chiến sát phạt, không cảm thấy đáng tiếc lắm ư?

Lương Tiêu ngẩn người. Quách Thủ Kính đưa nhanh mắt về phía A Tuyết, vẻ ngập ngừng. Lương Tiêu xua tay:

- Ở đây toàn người nhà, đại nhân chớ ngại.

Quách Thủ Kính nghiêm nghị gật đầu:

- Tướng quân không như người khác, Quách mỗ nói thẳng ra vậy.

Y đứng hẳn lên, chắp tay sau lưng bước về phía cửa, dõi mắt nhìn bầu trời trong trẻo ngoài trướng, chậm rãi buông từng chữ:

- Thánh thượng thừa kế bá nghiệp của cha ông, chí lớn dạt dào, muốn mở mang bờ cõi ra bốn biển, tạo nên công tích ghi tạc ngàn năm. Lương tướng quân thạo phép dụng binh, hễ đánh là thắng, hễ chiếm là được, chiến công hiển hách. Chỉ hiềm, người ta thường nói: chẳng vương triều nào là vững bền mãi mãi. Dẫu Đại Nguyên thống nhất thiên hạ thì liệu sẽ duy trì được bao lâu đây? – Y ngoảnh lại, ánh mắt sáng quắc. – Thử hỏi mấy trăm năm sau, sử sách có ghi nhận tướng quân là người như thế nào không? Và tướng quân để lại được gì cho hậu thế?

Lương Tiêu không hiểu lắm, giọng nói pha chút ngạc nhiên:

- Tôi thường nghe: chết là hết. Đã nhắm mắt xuôi tay còn bận tâm nhiều thế làm gì cho mệt?

Quách Thủ Kính lắc đầu:

- Quách mỗ nghĩ nói thế không ổn. Trên đời tuy không có vương triều nào tồn tại mãi mãi, nhưng có những sự vật vẫn lưu dấu ngàn năm, chỉ cần tướng quân dồn tâm trí mình vào đó…

Lương Tiêu sực nhớ ra một chuyện, háo hức hỏi:

- Chắc ông muốn nhắc đến việc triều đình định sửa sang lịch pháp?

Quách Thủ Kính vỗ tay:

- Tướng quân tinh ý lắm. Từ khi Tổ Xung Chi làm ra lịch Đại Minh đến nay, mấy trăm năm rồi, phép tính lịch vẫn chưa cải tiến được là bao. Có hai nguyên nhân: một là do phạm vi đo đạc còn nhỏ hẹp, hai là do kiến thức toán học còn hạn chế. Sắp tới thống nhất được thiên hạ, lãnh thổ Đại Nguyên sẽ rộng lớn vượt xa thời Hán thời Đường. Thánh thượng định đặt đài thiên văn ở các nơi, quan sát nhật nguyệt hầu xây dựng nên cách tính lịch mới. – Nói đến đây, nhận ra Lương Tiêu lắng nghe chăm chú, biết gã đã dao động, họ Quách mỉm cười. – Tướng quân tinh thông toán thuật bậc nhất thời nay, nếu bằng lòng phối hợp với Quách mỗ hoàn thành bộ lịch mới thì quả là cái phúc của lê dân trăm họ, là ơn đức lưu truyền hậu thế hàng ngàn đời sau!

Dạo bị giam trong Thiên Viên Địa Phương, Lương Tiêu đã từng manh nha ý tưởng sáng tạo một bộ lịch hợp lý hơn bộ lịch của tiền nhân. Hiềm nỗi công việc quá lớn, sức một người không đảm đương nổi. Mấy năm nay tuy trải qua nhiều biến cố, nhưng ý tưởng ấy chưa một lần rời bỏ trí óc gã, thậm chí mỗi ngày một thêm cháy bỏng, nay nghe Quách Thủ Kính khơi gợi, nó lại nao nao quẫy động. Lương Tiêu đứng bật dậy đi đi lại lại, chợt thở dài rầu rĩ:

- Đáng tiếc tôi còn bận quân vụ, khó lòng phân tâm đến việc khác.

- Không gấp! Quách mỗ đã phác kế hoạch rồi. Đợt đo đạc tới đây sẽ tiến hành trên diện rộng, bắc phải đến Khâm Sát hãn quốc, tây đến Y Nhĩ hãn quốc, đông đến Cao Ly, nam đến Quỳnh Châu. Quỳnh Châu hiện vẫn thuộc phạm vi kiểm soát của Đại Tống, vì vậy một khi chưa diệt xong Đại Tống thì vẫn chưa thể bắt tay sửa lịch được. Chuyến này trở về Đại Đô, ta sẽ tâu thánh thượng cử tướng quân cai quản cục Thái Sử, giám sát việc tu chính lịch pháp, nhưng thế thì tướng quân đành phải buông hết quyền bính lớn lao cũng như cuộc sống giàu sang phú quý.

Lương Tiêu cười nhạt:

- So với việc làm lịch thì đánh trận và phú quý đáng kể gì đâu.

Quách Thủ Kính hoan hỉ tán thưởng:

- Quả nhiên ta không nhìn lầm! Lương tướng quân đúng là người được sinh ra để tinh nghiên học thuật.

Lương Tiêu nói:

- Đợi thu xếp việc quân tạm ổn, tôi sẽ lên kinh gặp đại nhân.

Quách Thủ Kính giơ tay:

- Thỏa thuận thế!

Lương Tiêu tủm tỉm đập tay ba lần với họ Quách. Cả hai cùng cười phá lên.

Đến giờ cơm tối, A Tuyết bày sáu thức nhắm và một bình rượu hoa quả. Lương Tiêu cùng Quách Thủ Kính nâng chén đàm luận hết sức ăn ý. Lương Tiêu say sưa nói:

- Muốn cải tiến lịch Đại Minh thì cần chú ý đến năm yếu tố : một là chuyển động biểu kiến của mặt trời, hai là tốc độ vận hành của mặt trăng, ba là độ lệch giữa hoàng đạo và xích đạo, bốn là hệ tọa độ của hoàng đạo và xích đạo, năm là chu kỳ của trăng để đi hết một vòng bạch đạo…

Gã càng nói càng sôi nổi, Quách Thủ Kính càng nghe càng rạng rỡ mặt mày. Hai người chấm rượu vẽ toán pháp ra bàn, mô tả các khí cụ thiên văn, trao đổi miệt mài quên cả uống rượu, A Tuyết phải nhắc, họ mới dứt ra được.

Cơm rượu xong, phấn hứng dâng cao, cả hai liền kê giường cạnh nhau trao đổi thâu đêm. Lương Tiêu trò chuyện với Quách Thủ Kính, tầm mắt được mở rộng, tư tưởng càng thêm cao xa. Tiếc nỗi đất nước đương cơn loạn lạc, thiên văn lịch pháp hay thủy lợi máy móc cũng mới dừng ở mức nói cho thỏa lòng mà thôi. Sáng hôm sau, Quách Thủ Kính cáo từ về bắc, Lương Tiêu đi tiễn một quãng đường, nhìn theo bóng họ Quách, lòng ngao ngán: “Quách đại nhân thật cương quyết, dám dứt khoát rời bỏ quân ngũ, dốc lòng chấn chỉnh thủy lợi, sửa sang lịch pháp. Còn ta vẫn phải chinh thảo Đại Tống, thật chán quá đi thôi! Mong rằng sau trận chiến này, thiên thu vạn đại không còn chiến tranh, để ta và Quách đại nhân được tự do xây dựng lịch pháp, sao vẽ sơ đồ núi non, chỉnh đốn bách nghệ, củng cố nông tang, tạo nên một thời đại thịnh vượng huy hoàng chưa từng có trong lịch sử”. Ưu tư hồi lâu, Lương Tiêu ngậm ngùi quay về doanh trại.

.

Tháng năm năm Đức Hữu đầu tiên của nhà Tống, Lâm An biết tin quân Nguyên đang vướng nội loạn ở miền tây bắc, liền cương quyết chém chết tiết sứ Nguyên triều phái đến nghị hòa. Tể tướng Trần Nghi Trung dâng sớ lên Tạ Thái hậu xin hưng binh, đảm bảo sẽ đoạt lại Lưỡng Hoài. Tạ Thái hậu cả mừng, trao ấn soái ba quân cho Trương Thế Kiệt. Họ Trương kéo một vạn chiến thuyền đến hội hợp với Cận Phi, nâng tổng số thủy lục quân lên hai mươi vạn, tiến vây Kinh Khẩu. Lý Đình Chi đốc suất năm vạn kỵ bộ kỵ binh ra Dương Châu đánh A Truật. Vào thời khắc sinh tử ấy, Đại Tống một lòng quét sạch gian nịnh, chỉnh đốn triều chính, tinh binh mãnh tướng tụ họp tại Hoài Đông, sẵn sàng cùng quân Nguyên quyết một trận tử chiến.

Thế tấn công của quân Tống vô cùng dữ dội, tướng giữ Kinh Khẩu là Thổ Thổ Cáp liên tiếp gửi cấp báo, Lương Tiêu bèn dẫn quân vượt sông sang cứu viện. Cùng tháng đó, tướng sĩ nhà Nguyên cũng lục tục kéo đến hội quân với gã. Nguyên, Tống giáp mặt tại Tiêu Sơn, mấy vạn thuyền chiến san sát trên sông làm tắc nghẽn cả dòng chảy.

Trước giờ giao chiến, hàng tướng nhà Tống là Phạm Văn Hổ đến gặp A Truật hiến kế:

- Từ đây đi tiếp lên hai mươi dặm nữa có ngọn núi Thạch Công, đứng trên ấy nhìn xuống, toàn bộ trận thế quân Tống sẽ hiện ra trong tầm mắt.

A Truật mừng lắm, lập tức dẫn các tướng lên núi Thạch Công quan sát.

Ngọn núi cao tám trăm thước, vươn lên sừng sững bên sông. Tướng lĩnh Nguyên triều trèo lên đỉnh nhìn, dưới chân đại giang trải rộng tít tắp, khói sóng mênh mang. Kim Sơn và Tiêu Sơn đứng đối mặt nhau phía xa xa, hàng ngàn hàng vạn thuyền chiến nhà Tống tiến lui liên tục giữa hai ngọn núi, tạo thành một trận thế lạ mắt, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn, cứ mười thuyền kết thành một khối vuông nhỏ, cơ cấu hết sức chặt chẽ. Sau một hồi lặng lẽ quan sát, Lương Tiêu chợt thốt:

- Gay go thật!

A Truật ngạc nhiên hỏi:

- Gay ở chỗ nào?

- Ở chỗ trận thế của chúng quá đặc biệt. – Lương Tiêu giải thích. – Trận này tên là Thiên địa huyền hoàng, cứ mười thuyền một đội, khu giữa gồm năm khối, ứng với các vị trí đông, tây, nam, bắc và trung của Ngũ Nhạc. Từ trong ra ngoài, Ngũ Nhạc còn đan xen với chín khối khác, phép sắp xếp mô phỏng Cửu Châu của Trâu Diễn[4]. Mười bốn khối này kết hợp và chuyển hóa lẫn nhau, tạo nên hình thế vững chãi bao la như mặt đất, gọi là Hậu thổ tiểu trận.

Mọi người quan sát trận thuyền theo chỉ dẫn của Lương Tiêu, quả nhiên phát hiện ra mười bốn khoảnh lờ mờ, bất giác cùng ngấm ngầm khen lạ. Lương Tiêu lại trỏ mé ngoài trận thuyền:

- Ngoài Hậu thổ còn Huyền thiên tiểu trận. Huyền thiên phân chia thành hai mươi bốn khối nhỏ, con số ứng với nhị thập tứ tiết khí trong năm. – Gã vừa thuyết minh vừa trỏ hai mươi tư vị trí. – Huyền thiên thay đổi theo thời tiết trên trời, Hậu thổ tái hiện địa hình dưới đất, muốn nắm bắt cũng không phải là rắc rối lắm, nhưng sự phức tạp sẽ nảy sinh nếu trời đất giao hòa, bởi lúc đó các biến hóa sẽ phát triển ra bất tận, khó lòng ứng phó nổi. Theo chỗ tôi biết, Thiên địa huyền hoàng vốn đã thất truyền, dạo xưa tôi cũng chỉ đọc được lỗ mỗ một vài phần mà thôi. Trong đó có câu: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến thoái dễ dàng, không tài nào phá nổi”.

A Truật đổi hẳn sắc mặt, chưa kịp hỏi gì bỗng nghe có tiếng cười vang:

- Rủi thật rủi thật, cảnh sắc tươi đẹp mà chẳng ai lên thưởng thức, ngoài một đàn chó lâu nhâu sủa bậy!

Các tướng kinh ngạc ngoảnh đầu nhìn, thấy một nho sinh quần áo lôi thôi lốc thốc ngồi trên tảng đá nhẵn bóng, mặt quay ra dòng sông bát ngát, tay cầm bầu rượu giơ cao trước gió, phong thái rất mực tiêu dao. Lương Tiêu mừng rỡ vòng tay chào:

- Công Dương tiên sinh! Xa cách đã lâu, cớ sao vừa gặp ông lại nặng lời với người ta thế?

Tướng lĩnh đều kinh ngạc: “Lương Tiêu quen lão này à? Dưới chân núi có tinh binh vây kín bốn mặt, lão lên đây bằng cách nào ấy nhỉ?”.

Công Dương Vũ thản nhiên đáp:

- Người nào? Ta nặng lời với chó đấy chứ!

Các tướng nghe giọng giễu cợt đều sinh lòng phẫn nộ. Lương Tiêu sực nghĩ ra một điều, bèn hỏi:

- Ông là sư phụ của Vân Thù phải không ạ?

- Thế thì sao?

Lương Tiêu gật đầu, mặt trắng bệch:

- Thế thì tôi hiểu rồi.

Công Dương Vũ nhếch mép:

- Hiểu cái con khỉ! – đoạn cười khà khà, dõi mắt xuống dòng sông, vỗ tay lên mặt đá, dài giọng ngâm. – Thiên hạ vốn là một, Sao nỡ cắt hai miền? Lên lầu Đa Cảnh nhìn xuống, Hận mất nước sao quên. Gần, sóng Trường Giang nổi cuộn; Xa, lẻ loi hai ngọn núi. Muốn mượn tiếng sấm rền, Muốn mượn lưỡi tầm sét, Đuổi rợ khỏi trung nguyên. Ngóng Hoài thượng, Tân Dã xứ, Ngựa mang yên. Ý trời đã định, Lương thảo binh khí cũng vừa quyên. Chỉ thiếu người như Sĩ Nhã, Chỉ thiếu người như Việt Thạch. Phải dóng trống chiêu hiền, Nổi một cơn mưa lớn, Quét sạch bụi bắc biên.[5]

A Truật chăm chú lắng nghe nhưng không hiểu, bèn hỏi nhỏ Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm:

- Lão ta hát bài gì vậy?

Trương Hoằng Phạm vốn giỏi thi từ, liền giải thích:

- Bài hát này ý nói: giang sơn tươi đẹp ơi, ta muốn được như Tổ Địch, Lưu Côn đuổi hết Hồ, Lỗ, muốn như Gia Cát Khổng Minh dẫn quân bắc chinh.

A Truật đanh mặt, dùng tiếng Hán hỏi:

- Túc hạ là ai?

Công Dương Vũ nhìn y:

- Ngươi hỏi ta là ai? Ta là kẻ: Sáng rong Nam Hải chiều Thương Ngô, Áo đựng rắn xanh, gan góc to. Lên xuống Nhạc Dương người chẳng biết, Ngâm vang bay vút Động Đình hồ.

Các thân binh không nhẫn nại nổi nữa, bèn lao bổ tới, nào ngờ mới giơ đao đã thấy toàn thân tê liệt. Câu thơ chưa ngâm dứt, mười tên thân binh đã há hốc mồm, đứng rúm một chỗ như tượng đất.

Công Dương Vũ giũ giũ tay áo:

- A Truật, theo ngươi ta là ai nào?

Bài thơ trên do Lã Động Tân làm, Công Dương Vũ nhân hứng đọc ra, ngụ ý mô tả mình có cốt cách phong lưu thần tiên. A Truật không hiểu được ý ấy, lại thấy sự việc quỷ quái lạ lùng, sống lưng ớn lạnh, y hô to:

- Mọi người hãy cẩn thận! Tên đồ gàn này biết yêu thuật đó!

Công Dương Vũ phì mũi:

- Tiên thuật rành rành ngươi lại bảo yêu thuật là sao? Chà, thế nhân vẫn chê bọn Thát ngu như lợn, quả tình không sai, nói cho ngươi nghe chẳng khác gảy đàn tai trâu! Vô vị quá sức!

A Truật gắng trấn tĩnh, chậm rãi hỏi:

- Đừng lải nhải những câu dấm dớ nữa, túc hạ tới đây có công to việc lớn gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Kẻ hèn mọn này khốn cùng quẫn bách, lấy đâu ra công to việc lớn, chẳng qua chỉ táy máy toàn trò vè của bọn hạ lưu thôi. Lý Thái Bạch từng viết: Gieo một ván thiên địa, chưa chắc quên chiến tranh. Lần này ta đến cốt muốn chơi một ván bài từ xa với tên cẩu hoàng đế Hốt Tất Liệt nhà các ngươi.

A Truật nghe lời lẽ quá sức kỳ dị, thầm nhủ: “Gặp một thích khách cao cường thế này, đành đi bước nào biết bước đó thôi. Gắng con cà con kê với lão ta để kéo dài thời gian vậy”. Y bèn hỏi:

- Được, túc hạ muốn chơi kiểu bài nào?

Công Dương Vũ xua tay:

- Bảo đàn gảy tai trâu thực chẳng oan! Gieo một ván thiên địa là gieo xúc xắc chứ cái gì nữa! Ai thắng thì được giang sơn này. Vậy là có người chơi và vật cá cược rồi đấy, chỉ còn thiếu xúc xắc thôi! – Nói đoạn ông giơ cao cái túi vẫn mang bên hông, giũ mạnh, một đầu người lông lốc lăn ra.

Nhìn rõ tướng mạo người đó, A Truật bỗng biến sắc mặt, giọng lạc đi:

- Yến Thiết Mộc Nhi!

Công Dương Vũ cười:

- Tên hắn đấy à? Ta thấy hắn diễu võ dương oai trên lưng ngựa, ngứa mắt quá bèn tiện tay ngắt đầu xuống. – Ông cười hì hì, trỏ đầu người nói oang oang. – Coi nó là con xúc xắc đầu tiên của ta. Nghe đồn hắn là Vạn phu trưởng kỵ binh, vậy tính ba chấm đi.

Yến Thiết Mộc Nhi lĩnh tước Vạn hộ hầu, dũng cảm thiện chiến, nào hay mới đó mà đầu đã lìa khỏi cổ. Các tướng đều sinh mối xót xa thương cảm. A Truật đang giữ trọng trách đại tướng, không dám tỏ ra mềm yếu, bèn lạnh lùng nói to:

- Vạn phu trưởng là xúc xắc ba chấm thì chắc bản soái được sáu chấm nhỉ!

Công Dương Vũ bật ngón cái:

- Thống soái ba quân có khác, rất biết mình biết người. Đáng tiếc chỉ có mỗi ngươi là xúc xắc sáu chấm nên không gieo được lục lục. Cũng may trời còn thương, ban cho ba vị đô thống. Tên đê tiện họ Lương là Tổng đô thống, tính năm chấm. Đô thống lục quân A Lạt Hãn tính bốn chấm, Đô đốc thủy quân Trương Hoằng Phạm tính bốn chấm. Tham nghị chính sự Đổng Văn Bỉnh không có nhiều binh lính nhưng phẩm hàm lại cao, tử tế ra cũng nên tính bốn chấm, còn Phạm Văn Hổ, cái tên bán nước cầu vinh, khốn nạn vô loài nhất trong bọn khốn nạn vô loài, tính một chấm cũng là đề cao hắn thái quá, đem ra làm xúc xắc chỉ tổ bẩn tay lão phu.

Phạm Văn Hổ bị chửi như tát nước, mặt có sắc giận nhưng trong lòng lại mừng húm, khẽ khàng nhích sang một bên.

Lúc này mặt trời chưa lên cao, dải sông tuôn dài, phía xa thoáng đãng bằng phẳng, quang cảnh rất nên thơ. Trong khi đó trên đỉnh núi Thạch Công chật hẹp, bầu không khí ngột ngạt vô cùng. Công Dương Vũ vẫn giữ nguyên vẻ cười cợt như thể họp mặt nói chuyện phiếm. Nhưng ông càng cười đùa, các tướng càng ngạt thở. Ngày thường họ điều động đến hàng ngàn hàng vạn binh mã, nắm trong tay quyền sinh quyền sát bao nhiêu con người, muốn gì được nấy, vậy mà bây giờ khác nào cá nằm trên thớt, mặc kẻ khác làm tình làm tội, chưa ai trong bọn gặp phải tình huống khóc dở mếu dở thế này bao giờ.

Công Dương Vũ vuốt râu:

- Con bạc, con bạc, được ăn cả ngã về không. Ta vừa rồi vận rủi quá, chỉ đổ được tam, xin hỏi quý vị, tiếp theo đây ta nên gieo xúc xắc mấy chấm?

Ông quét mắt khắp mặt các tướng, không ai bước ra.

Công Dương Vũ cười nhạt, đang định lên tiếng khích bác, thình lình Lương Tiêu lướt khỏi hàng, chân không chạm đất, vung tay vỗ lưng một tên thân binh. Tên này chới với khua khoắng tứ chi, huyệt đạo tức thì được giải. Lương Tiêu xuyên trái xuyên phải giữa tốp người, cử động như bướm lượn, xuất chưởng như chớp nháy, chỉ trong khoảnh khắc, hơn mười tên thân binh hoa tay múa chân lấy thăng bằng, cử động trở lại.

Lương Tiêu co mình xuống xà tấn, điềm nhiên nói:

- Công Dương tiên sinh, mời!

Nét giận thoáng qua khuôn mặt Công Dương Vũ, nhưng ông lại nhe răng cười ngay:

- Năm chấm hả, hay lắm!

Đoạn giơ chưởng phải từ từ vỗ tới ngực Lương Tiêu. Chưởng phong đặc quánh, Lương Tiêu không né được, đành phải đón đỡ, nào ngờ vừa cất tay bỗng thấy máu nóng cuộn trào trong ngực, gã mất tự chủ giật lui ba bước. Một tên thân binh không ý thức được mức độ nguy hiểm nên nhào tới đỡ chủ tướng. Vừa chạm đầu ngón tay vào lưng Lương Tiêu, thân hình hắn đã bị một luồng đại lực ùa thốc sang hất văng đi xa sáu trượng. Tên lính lộn bắn một vòng trên không rồi rơi thút xuống vực, tiếng gào thê thảm mau chóng chìm lấp dưới khoảng sâu mênh mông.

Công Dương Vũ không để Lương Tiêu đứng vững, lập tức lắc mình bay đến trên đầu gã:

- Đồ khốn, đỡ tiếp một chưởng của lão tử đây!

Lương Tiêu nào dám đấu tay không nữa, lập tức tuốt kiếm đâm thẳng tới ngực Công Dương Vũ. Ông già hừ mũi, nhuyễn kiếm Thanh Li bật ra khỏi tay áo, lưỡi thép mỏng tang, lúc duỗi lúc uốn hệt như đàn rắn quẫy trườn, mổ vào mọi chỗ yếu hại khắp mình Lương Tiêu.

Kiếm đôi bên vũ động rất nhanh, chỉ ngóc lên hụp xuống một thoáng đã trao đổi năm chiêu, xuất chiêu thần tốc nhưng không giao nhau lấy một lần, trông như thể người nào biểu diễn bài múa kiếm của riêng người nấy, nhưng thực chất toàn những sát chiêu nhăm nhăm tìm sơ hở đánh vào chỗ hiểm của nhau. Lương Tiêu tuy tiến bộ chóng mặt, nhưng vẫn kém sút rất nhiều so với Công Dương Vũ, đã mấy lần suýt lâm hiểm cảnh.

Thấy gã đỡ được liền năm sát chiêu của mình, Công Dương Vũ vừa kinh ngạc vừa buồn rầu: “Chỉ cần thời gian đủ dài, thằng bé này nhất định sẽ trở thành tông sư một phái. Tiếc thay nó kéo bè kéo cánh với quân tàn ác, võ công càng cao sẽ càng gây nhiều tai họa. Hôm nay nếu không trừ bỏ, chẳng biết mai sau nó còn dồn bao nhiêu người Tống vào chỗ chết?”. Ý nghĩ ấy khiến lòng dạ ông trở nên sắt đá. Công Dương Vũ phóng trường kiếm tới mặt Lương Tiêu, khiến gã phải luống cuống tung mình nhảy tránh. Chợt thấy dưới chân hẫng một cái, Lương Tiêu hoảng hồn than thầm: “Chết rồi! Sau lưng là vực thẳm!”. Gã toan ghìm đà lao, Công Dương Vũ đã xoáy thẳng kiếm tới mặt gã.

Đám tướng sĩ xung quanh thốt lên kinh hãi, Lương Tiêu ngã ngửa xuống vực, cùng lúc ấy, nhác thấy một cái khe trên vách đá, gã bèn vận kiếm đâm mạnh vào. Keng một tiếng, Lương Tiêu nắm đốc kiếm, người treo lửng lơ, đu đa đu đưa trên luồng gió sông ào ạt thốc lên. Công Dương Vũ không truy đuổi, vuốt râu giễu cợt:

- Ngươi sử chiêu khỉ đánh đu này hay đấy!

Lương Tiêu tự biết khó thoát chết, cũng chẳng thèm cân nhắc lời nói nữa:

- Ông giở chiêu chó ăn phân mà đâm tôi đi!

Công Dương Vũ chột dạ: “Nó đang ở dưới thấp, ta muốn đâm phải cúi xuống, bộ dạng chồm hỗm như chó hoang, chẳng hóa mắc bẫy miệng lưỡi nó sao?”. Ông già tần ngần, chợt nghe gió rít sau lưng, đám thân binh đã múa đao chạy tới. Công Dương Vũ xoay phắt lại vẫy một chưởng quét ngã bốn tên, đám còn lại khiếp đảm dừng bước. A Truật thét:

- Kẻ nào thụt lùi, chém!

Quân lệnh như sơn, không ai dám chống, đám thân binh tiếp tục hò hét liều chết xông lại. Công Dương Vũ bật cười, nhuyễn kiếm chui tọt vào tay áo:

- Binh tôm tướng tép chả bõ dính răng, chỉ tổ mất công. – Dứt lời, ông lạng đến sát mặt A Truật, tóm chặt lấy ngực áo y, cười khà khà. – Luôn mồm thúc người khác đi vào chỗ chết, còn bản thân mình thì chẳng giở ra được mấy nả sức.

Chủ soái đã bị kiềm chế, đám thuộc tướng đều tái mét mặt.

Lương Tiêu rung tay rút kiếm, tạo đà lộn ngược lên miệng vực, người chưa tiếp đất đã hét vang, vận kiếm sử Hoán kiếm đạo. Quẻ Hoán là Khảm dưới Tốn trên, tức gió đi trên nước, nước gặp gió tan. Hoán kiếm đạo vũ động tựa cuồng phong, trút bão táp xuống lưng Công Dương Vũ.

Ông già vốn cố ý thả lỏng cho Lương Tiêu lên, thấy thế cười nói:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn túm lưng A Truật, quay mặt y ra làm khiên đỡ trường kiếm Ảo Nguyên.

Lương Tiêu vẫn vận kiếm không ngừng, đâm liên tiếp sáu nhát, thân kiếm bị nội lực của gã ép mạnh đến nỗi cong lại, nhát nào nhát nấy đều lướt sát những chỗ yếu hại khắp mặt mũi A Truật. Các tướng chứng kiến mà hồn xiêu phách lạc, nhao nhao phản đối:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Lương Tiêu lẳng lặng thi triển kiếm pháp, càng sử càng dẻo tay, trông qua tưởng chừng múa máy phạt chém bừa bãi, nhưng thực chất hết sức cẩn trọng để tránh đả thương A Truật, đồng thời vòng lách qua y để ngắm đâm Công Dương Vũ. A Truật hiểu rõ ý Lương Tiêu nên rất bình tĩnh, kể cả khi mũi kiếm lướt sát trán mình, y cũng không chớp mắt, thần sắc vẫn thản nhiên như không.

Nhìn hai người, một kẻ tự tin có thừa, kiên trì xuất kiếm tấn công, một kẻ dũng cảm đối mặt, thản nhiên coi thường cái chết, Công Dương Vũ vốn tự phụ mà cũng không nén nổi cảm giác ớn lạnh: “Người Nguyên có hạng tướng soái anh dũng thế này, chả trách đánh đâu thắng đó. Kẻ đánh kiếm cố nhiên đã tài ba gan góc, nhưng kẻ hứng kiếm tỉnh bơ mặc kiếm chờn vờn quanh mình mới thực sự là bản lĩnh cao minh”.

Nghĩ tới đây, Công Dương Vũ không nén được lòng mến tài, bèn lôi A Truật sang một bên, duỗi ngón tay nắm mũi kiếm Ảo Nguyên rồi búng nhẹ. Tức thì, một luồng khí nóng chạy theo thân kiếm đẩy thẳng xuống hổ khẩu Lương Tiêu, cánh tay rát bỏng như bị lửa đốt, gã vội thu kiếm nhảy vụt ra sau.

Công Dương Vũ cười:

- Núi đá đổ xuống đầu, mãnh hổ rình sau lưng mà mặt không đổi sắc! Tên nguyên soái Thát Đát này định lực không tồi. Tốt lắm! Lương Tiêu, hai chúng ta cá cược thêm ván nữa, vật cược chính là tính mạng A Truật. Nếu ngươi thắng, ta tha chết cho hắn, nếu ngươi thua thì, chính ngươi phải tự sát.

Lương Tiêu biết không còn cách nào khác để ép Công Dương Vũ thả người, bèn nhướng mày đáp:

- Được, xin tiên sinh nói rõ!

A Truật nghe mà cảm động.

Công Dương Vũ đặt ra việc đánh cược chỉ do hứng chí nhất thời, thành thử nói xong lại hối hận ngay: “Hoàn cảnh bây giờ đã khác trước, ta mà bất cẩn là Đại Tống đi tong. Dẫu rằng năm xưa ta đã lập thệ không ngó ngàng đến sự hưng vong của nước nhà, song đó chỉ là lời lẽ lúc cả giận mất khôn. Tiểu tử Văn Tĩnh từng nói: “Tuy triều đình không đúng, nhưng nếu bọn Thát chiếm đóng Đại Tống, bách tính sẽ khốn khổ”. Hắn nói phải lắm! Lão phu quyết rồi, hôm nay nhất định không để một tên tướng Thát nào toàn mạng xuống núi”. Suy tính xong đâu đấy, ông mỉm cười hỏi:

- Được, ngươi khá đoán xem, tên A Truật trong tay ta đây sống hay chết?

Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ bụng: “Cố nhiên là sống mà”. Gã định trả lời thì sực nghĩ ra: “Không phải, sự sống chết của A Truật đang nằm cả ở tay ông già, ta làm sao thắng được? Nếu ta đoán sống, ông thúc khẽ chưởng lực là A Truật mất mạng, rồi ta phải tự tận. Nếu ta đoán chết thì dù A Truật may mắn được tha, ta vẫn cứ chết như thường”. Lương Tiêu khó xử quá, cứ đứng đực mặt hồi lâu.

Công Dương Vũ cười thầm: “Hễ nó đáp “sống” là ta phát tài, gieo xúc xắc một lượt được cả ngũ và lục. Nhưng xem chừng nó không chịu mắc lừa”. Ông bèn giục:

- Ngươi nghĩ xong chưa? Ta đếm đến ba, nếu ngươi vẫn không đoán ra thì coi như thua. Nghe đây, một…

Lương Tiêu mím môi, mặt trắng bệch. Công Dương Vũ cười:

- Hai!

Khi ông sắp sửa buông từ “Ba!” thì một giọng lạnh lùng xen vào:

- Ta đoán là sống!

Giọng nói không to nhưng rền vang như sấm, chấn động hết thảy màng nhĩ mọi người. Công Dương Vũ giật mình liếc mắt nhìn ra, thấy Tiêu Thiên Tuyệt đang đứng trên một tảng đá, tà áo đen bay phần phật. Ông hơi đổi sắc mặt, nhưng cười ngay:

- Lão quái vật, e rằng ngươi đoán sai rồi.

Đoạn nhấn tay toan đẩy chưởng lực, chợt một luồng gió tanh táp đến sau lưng, Công Dương Vũ lật tay đâm mạnh Thanh Li kiếm ra sau, tức thì nghe thấy tiếng gầm vang vọng. Đúng khoảnh khắc ông già phân tâm, Tiêu Thiên Tuyệt lạng người đến gần, chộp tay vào vai A Truật, một luồng nội lực xộc qua vai y thúc sang lòng bàn tay nhà nho. Công Dương Vũ phải đối phó cả trước lẫn sau, không kịp ứng biến, cổ tay nóng sực lên rồi bị nội kình vô song của Tiêu Thiên Tuyệt đẩy bật ra. Ông chưa kịp chộp con tin lại thì họ Tiêu đã nhấc A Truật lướt lui về sau hơn một trượng, ngạo nghễ nói:

- Ai đoán sai đây?

Công Dương Vũ hừ mũi, liếc mắt trông kẻ vừa đánh lén mình, thấy con hổ đen đang chống ba chân xuống đất, nhe nanh gầm gừ, chân còn lại cào đất toay toáy, trên chân rành rành một vết kiếm sâu, máu chảy đầm đìa. Công Dương Vũ tức giận nghĩ: “Đồ súc sinh, làm hỏng cả việc lớn của ta”. Các tướng ngỡ ngàng không hiểu người áo đen và con vật kia từ đâu chui ra, Lương Tiêu thì trừng trừng nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, bàn tay cầm kiếm run bần bật.

Lúc này, một thân binh lấy tù và ra rúc u u. Đám vệ binh ở sườn núi bắt được tín hiệu liền nhao nhao hò la đổ lên cứu viện. Công Dương Vũ cười ha hả, hai mắt sáng quắc:

- Tiêu lão quái, ngươi có một thứ bản lĩnh thuộc loại vô địch thiên hạ khiến Cùng Nho khâm phục lắm lắm.

Tiêu Thiên Tuyệt nhạt nhẽo hỏi:

- Bản lĩnh gì?

Công Dương Vũ cười hì hì:

- Công phu đón gió hít rắm ấy, đích thực là thiên hạ đệ nhất! Bất kể lão tử ở đâu, ngươi cũng ngửi được hơi gió, à không, ngửi được hơi rắm mà lần mò tìm đến!

Tiêu Thiên Tuyệt kìm giận:

- Không dám. Lão Cùng Nho cũng có một bản lĩnh đáng gọi là vô song.

Công Dương Vũ vênh mặt:

- Bản lĩnh vô song của lão tử thì nhiều chứ, chẳng hay ngươi nhắc đến bản lĩnh nào?

- Nhiều đến đâu cũng không đáng kể, chỉ đáng kể mỗi bản lĩnh né tránh trốn chạy khi chạm mặt lão phu. Bản lĩnh vắt chân lên cổ chạy tóe khói đó, Tiêu mỗ rất khâm phục.

Công Dương Vũ lắc lư đầu chế giễu:

- Lão quái vật nói sai rồi. Kinh Thi có câu: Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Thói thường nam nhân theo đuổi nữ nhân, ta là tu mi nam tử, cũng chỉ mến thục nữ, không ham nam sắc, đời nào chịu được trò đeo bám dai dẳng của ngươi… – Ý bảo Tiêu Thiên Tuyệt mắc bệnh đồng tính nam nên mới lẵng nhẵng theo mình khắp nơi cùng chốn như thế.

Ai nghe cũng ngạc nhiên, mọi con mắt đổ dồn vào Tiêu Thiên Tuyệt: “Thật không ngờ, trông lão già mặt mày lạnh lùng, hóa ra lại có đam mê khác thường đến vậy!”.

Tiêu Thiên Tuyệt nổi trận lôi đình, gắt ầm lên:

- Đánh rắm, đánh rắm!

Công Dương Vũ bịt tay áo vào mũi:

- Làm gì mà đánh liền hai phát thế? Thối quá, thối quá! – vừa nói vừa cười ha hả, thanh âm lồng lộng bầu trời.

Trong số những người trên núi, trừ Tiêu Thiên Tuyệt và Lương Tiêu, ai cũng nhức hết cả tai, đầu váng tim run, lảo đảo suýt ngã.

Tiêu Thiên Tuyệt nghe điệu cười thập phần quái dị bèn lưu tâm đề phòng. Lão liếc mắt nhìn quanh, chợt kinh ngạc nhận thấy một chiếc diều lụa hình dáng như con rết, dài chừng mười trượng tà tà bay lên khỏi trận thế quân Tống.

Công Dương Vũ chợt nhích tay, Thanh Li kiếm xé gió đâm tới Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu giật lui nửa bộ, múa tay phản kích. Hai bóng người xoay vù vù trong phạm vi mấy trượng, bàn tay và thanh kiếm liên tục giao nhau chát chát, nghe như tiếng trân châu rơi xuống khay ngọc, khó lòng phân biệt được ai nhanh ai chậm, ai trước ai sau.

Binh lính ùn lên núi càng lúc càng đông. Lương Tiêu lo lắng nghĩ thầm: “Người đời thường nói, hai đánh một chẳng chột cũng què. Công Dương Vũ tuy lợi hại, nhưng trước mặt có Tiêu Thiên Tuyệt, sau lưng có vạn mã thiên quân thì muốn thoát thân e cũng không dễ…”. Gã suy tính rất nhanh, chợt quát to:

- Lão khọm già, xem chiêu đây! – rồi cùng kiếm lao đi, vẫy một nhát đâm thẳng vào Tiêu Thiên Tuyệt. Các tướng đều thốt lên kinh ngạc, nhưng Lương Tiêu chẳng buồn bận tâm, chỉ những múa kiếm thần tốc tấn công.

Tiêu Thiên Tuyết đang ráo riết quyết phân thắng phụ, bị tập kích bất ngờ buộc phải giật lui ba bước. Công Dương Vũ bực tức mắng:

- Ai khiến đồ nhãi ranh nhà ngươi đa sự? – đoạn chuyển kiếm đâm Lương Tiêu.

Lương Tiêu không tránh kịp, tưởng chừng bị mũi kiếm mềm xuyên thủng tim đến nơi, thình lình Tiêu Thiên Tuyệt nhấp chân áp sát, vỗ ra một chưởng. Công Dương Vũ đành buông Lương Tiêu, thu binh khí về ứng phó. Lương Tiêu thở phào, tiếp tục vận kiếm đâm Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu cáu kỉnh quát:

- Đồ súc sinh, muốn chết ư?

Tuy miệng nạt nộ như vậy, nhưng thực chất một thân một mình đương cự với hai cao thủ vốn đã không đơn giản, làm sao mà đánh chết được Lương Tiêu, lão già đành tạm thời thi triển thân pháp né tránh các mũi tấn công.

Nhân lúc Tiêu Thiên Tuyệt chuyển công thành thủ, Công Dương Vũ thừa cơ vung kiếm đâm Lương Tiêu, gã trẻ tuổi đã phòng bị sẵn, xuất thủ chống trả, chỉ thoáng chốc hai bên lại trao đổi mấy chiêu. Lúc này Tiêu Thiên Tuyệt chuyển thế phi thân đến, định giở chưởng, nào ngờ Công Dương Vũ và Lương Tiêu cùng xoay kiếm ra đón lão.

Tiêu Thiên Tuyệt đành đảo người liên tục để né tránh. Thoát hiểm xong, định thần nhìn kỹ thì thấy Lương Tiêu và Công Dương Vũ đã lại xáp vào giao đấu rồi, Tiêu Thiên Tuyệt nổi giận đùng đùng, lập tức chia song chưởng tấn công cả hai. Công Dương Vũ và Lương Tiêu cũng trở kiếm về đấu với lão. Hết đợt này tới đợt khác, lúc xáp vào lúc tách ra hệt như tam quốc tranh hùng, chỉ trong nháy mắt cả ba đã chiết đến hơn trăm chiêu mà vẫn khó bề phân thắng phụ. Quân Nguyên chỉ sợ Lương Tiêu bị thương, lăm lăm đao nỏ hườm sẵn, nhưng ném chuột lại ghê cũi bát nên chưa dám vọng động.

Trong lúc ba người kịch chiến, gió đông bắc nổi lên rất mạnh, con diều lụa nương chiều gió từ từ bốc cao, lên tới khoảng tám mươi trượng, xấp xỉ đỉnh Thạch Công thì nó lững lờ ghé lại gần ngọn núi. Quân sĩ kéo lên càng lúc càng nhiều, Công Dương Vũ biết khó lòng thực hiện được ý định nữa, bèn trừng mắt nhìn Lương Tiêu, lại trừng mắt nhìn Tiêu Thiên Tuyệt, chợt quất mạnh kiếm tới trước buộc Lương Tiêu phải lùi ra xa rồi vỗ một chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu huy chưởng chống đỡ, hai chưởng xô mạnh vào nhau, Công Dương Vũ cười ha hả:

- Lão quái vật, Cùng Nho đi đây!

Tiêu Thiên Tuyệt sững sờ một thoáng, đoạn thét vang, tung mình nhảy theo. Công Dương Vũ lộn nhào một vòng, bật ra khỏi đỉnh núi, chỉ còn tiếng cười rơi tõm lại:

- Đừng tiễn nữa, Tiêu lão quái, hẹn ngày tái ngộ!

Khinh công của Công Dương Vũ vốn siêu tuyệt, lại mượn được chấn lực từ đơn chưởng của Tiêu Thiên Tuyệt, có đà băng đi xa tới hơn mười trượng. Hiềm nỗi Thạch Công sơn cao đến tám trăm thước, dù Công Dương Vũ lợi hại cách mấy, rơi xuống tới đất cũng khó bảo toàn tính mạng. Mọi người đều đoán ông ta thà chết chứ không để bị bắt nên nhảy vực tự tận. Lương Tiêu chua xót trong lòng, cơ hồ sa lệ!

Gió sông hun hút, con diều dừng lơ lửng ở lưng chừng không, kéo căng sợi dây gai nối liền mặt đất. Dưới ánh dương, sợi dây sáng lóa như bôi mỡ. Công Dương Vũ vụt phất tay phải, một dải vải trắng dài chừng mười trượng phụt ra khỏi tay áo, cuốn vào dây gai. Con diều hơi trĩu xuống, treo nhà nho đu đưa giữa không trung. Công Dương Vũ vắt dải lụa qua dây gai rồi bám lấy hai đầu lụa, thả mình tuột vun vút xuống như đứa trẻ chơi trò cầu trượt suốt dọc sợi dây dài đến trăm trượng ấy.

Trên núi ai nấy ồ à kinh ngạc. Tên bay chíu chít về phía Công Dương Vũ. Ông giơ kiếm múa tít, cuốn rơi hết những loạt tên. Nhờ dây gai có bôi mỡ, Công Dương Vũ trượt xuống nhanh như sao băng lướt ngang trời, mau chóng vượt ra ngoài tầm xạ tiễn.

Quân hai bên đóng trên sông, trông thấy cảnh tượng lạ mắt ấy đều giơ tay chỉ trỏ, xì xào kinh ngạc.

A Truật cau mày, chợt giật lấy một cánh cung, đặt tên tẩm lửa ngắm bắn dây diều. Sợi dây trét đầy mỡ, vừa chạm phải mũi tên đã bắt cháy bùng bùng, lửa theo chiều gió trùm lên nuốt chửng cánh diều. Con diều lộn nhào rơi xuống, Công Dương Vũ mất thăng bằng, cũng rớt thẳng xuống sông.

Khi còn cách mặt nước chừng mười trượng, giữa tiếng hô hoán của hàng vạn người, Công Dương Vũ búng mình lộn nửa vòng lên trên sợi dây gai, đồng thời duỗi tay trước gió để tấm áo được thổi căng phồng như quả bóng, tốc độ rơi chậm hẳn lại, chậm hơn cả dây diều nhẹ.

A Truật bật la thất thanh:

- Lão đồ nho này ghê gớm thật!

Trong lúc y la, sợi dây đã chạm nước. Công Dương Vũ hạ xuống theo, đạp lên dây mà chạy như cưỡi gió, ung dung lướt vào trận thế quân Tống, mất tăm mất dạng.

Thấy Công Dương Vũ đã thoát nạn, Lương Tiêu cũng yên yên dạ, ngoảnh đầu nhìn quanh thì không thấy bóng dáng Tiêu Thiên Tuyệt đâu nữa, gã vội vàng cầm kiếm đuổi theo. Tiêu Thiên Tuyệt cưỡi hổ vượt núi băng đèo như đi trên đất bằng. Khi Lương Tiêu chạy xuống đến chân núi, lão đã tan biến như chưa từng xuất hiện.

Lương Tiêu ngơ ngẩn hồi lâu, chợt một giọng oang oang vọng tới chỗ gã:

- Tổ sư ngươi! Vì sao lão tử không được đứng đây?

Lương Tiêu nghe giọng quen tai bèn liếc mắt nhìn thì thấy Trung Điều Ngũ Bảo đang giậm chân bình bịch đằng xa, vây xung quanh là binh lính Nguyên triều. Người vừa lớn tiếng chính là Hồ Lão Bách, tay khoanh trước ngực ngang bướng cãi cọ. Hồ Lão Thiên tiếp lời:

- Phải đó, mảnh đất rộng này là hố xí của nhà ngươi đấy à? Mà cứ coi như là hố xí nhà ngươi, cho lão tử đi nhờ một lần thì đã làm sao?

Năm huynh đệ cùng cười ha hả.

Quân Nguyên nghe hắn nói năng nhố nhăng, thảy đều tức giận, chực xúm vào quây đánh, Lương Tiêu bèn tới gần bảo:

- Khoan đã!

Nhận ra gã, binh lính đều lùi lại. Trung Điều Ngũ Bảo gặp Lương Tiêu thì hớn hở vô cùng, vây quanh gã mồm năm miệng mười tranh nhau nói. Lương Tiêu cũng vui mừng không kém:

- Năm tên lưu manh, đến đây làm gì?

Hồ Lão Vạn nói:

- Lão tử theo Tiêu đại gia mà. Tiêu đại gia đi trước, lão tử rớt lại sau, không ngờ bị bọn này vây riết, còn bị chúng đổ diệt là gian tế nữa.

Lương Tiêu cau mày, một binh sĩ bước lên phân trần:

- Bẩm tướng quân, vừa rồi trên núi xảy ra lắm việc rắc rối, dưới đây bỗng mọc đâu ra mấy tên bận trang phục miền nam này, chúng thuộc hạ sinh nghi mới tra xét, không ngờ họ lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay ngay được.

Lương Tiêu bảo:

- Họ không phải gian tế đâu, các ngươi giải tán đi!

Đám binh lính đỡ những đồng đội bị ngã dậy, cùng bái chào rồi rút lui. Hồ Lão Thiên đảo cặp mắt ti hí nhìn quanh:

- Đồ đệ của lão tử đâu rồi đại ca?

Lương Tiêu đứng sững. Hồ Lão Nhất cũng náo nức:

- Dương Tiểu Tước không đi theo đại ca ư?

Hồ Lão Thiên kêu lên:

- Lý Đình đâu? Lão tử thấy nhơ nhớ hắn!

Hồ Lão Vạn cười:

- Lão tử nghĩ ra vô khối tuyệt chiêu muốn truyền hết cho Vương Khả, bảo đảm hắn tiến bộ rất nhanh, không ai địch nổi.

Hồ Lão Nhất liếc Hồ Lão Vạn, giọng mỉa mai:

- Tuyệt chiêu đâu ra, lão tử mà chỉ vẽ cho Dương Tiểu Tước dăm ba chiêu, đảm bảo hắn cất tay là Vương Khả mềm nhũn như quả hồng.

Hồ Lão Thập nói tranh:

- Tam Cẩu Nhi thì thậm chí không cần cất tay, chỉ nhổ một bãi nước bọt cũng đủ dìm chết Vương Khả.

Hồ Lão Thiên huênh hoang:

- Thế cũng chưa là gì, Lý Đình chỉ đánh một phát rắm là đủ để thối ngã tên ranh con đấy!

Ba Bảo này bất mãn về cái câu “không ai địch nổi” nên hợp lực móc máy cho Hồ Lão Vạn biết nhục. Hồ Lão Vạn tức mình, nhưng nghĩ hai nắm đấm không địch nổi sáu cánh tay nên đành nuốt giận làm thinh. Lương Tiêu lưỡng lự một thoáng rồi nói:

- Bọn chúng đang ở Kinh Khẩu, nếu các ngươi muốn gặp thì lên ngựa đi, ta đưa về gặp.

Năm người mừng rỡ vâng lời. Lương Tiêu dắt mấy con ngựa đến, dẫn họ vào thành.

Lý Đình và Vương Khả mừng quýnh lên khi gặp sư phụ. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cũng phấn khởi tột độ, bất chấp ánh mắt tò mò của mọi người xung quanh, ôm chặt lấy hai đồ đệ vẫn đóng nguyên bộ giáp trụ, lăng đi lăng lại như nghịch với trẻ con. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập càng nhìn càng ngứa mắt. Hồ Lão Thập túm áo Lương Tiêu hỏi giật giọng:

- Tam Cẩu Nhi đâu?

- Ừ đúng, Tiểu Tước Nhi đâu? – Hồ Lão Nhất cũng thắc mắc.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Ta mệt lắm, ngươi hỏi Lý Đình sẽ biết.

Lý Đình chỉ kịp hét lên: “Lương đại ca!” là đã bị Trung Điều Ngũ Bảo túm giằng túm xé, rối rít gặng hỏi. Không còn trốn vào đâu được, gã đành cứ sự thực mà ngọn ngành kể ra.

Ngũ Bảo ngơ ngác nhìn nhau, Hồ Lão Nhất chợt gầm to:

- Ngươi dối trá, đồ súc sinh…

Dứt lời, hắn túm chặt Lý Đình, vo nắm đấm chực đánh. Hồ Lão Thiên xót đồ đệ vội giơ tay ngăn, hai anh em liền lăn xả vào vật lộn. Hồ Lão Thập đứng sững một hồi rồi cũng rống lên oa oa, đá Lý Đình chí chết. Hồ Lão Vạn giơ tay ngăn:

- Ngươi đá hắn thì có tác dụng gì?

Hồ Lão Thập liền nện nắm tay vào vai Hồ Lão Vạn, mắt đỏ hoe hoe. Hồ Lão Vạn đau thấu xương cốt, lật đật giật lui, bực bội mắng:

- Ngươi điên đấy à?

Rồi họ cũng tay đấm chân đá thình thịch. Kình khí bắn ra xung quanh, chém nát từ bộ bàn ghế bằng gỗ tử đàn đến đủ các thứ bình ngọc ấm bạc bày biện trong sảnh.

A Tuyết, Thổ Thổ Cáp và Nang Cổ Ngạt nghe tin chạy sang, nhìn cảnh ẩu đả hỗn loạn quá mức, đều sợ sệt không dám lại gần. Lương Tiêu mất kiên nhẫn đành chạy ra quát to:

- Dừng tay!

Hồ Lão Thập nghe tiếng giật mình, đầu óc cũng hơi tỉnh táo lại, túm vai Lương Tiêu hỏi:

- Đại ca, tên oắt Lý Đình lừa bọn ta, phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Hắn không lừa ai đâu, mỗi câu mỗi chữ đều là thật.

Hồ Lão Thập sững sờ thõng tay, dập đầu xuống đất binh binh, mồm lẩm nhà lẩm nhẩm. Hồ Lão Nhất vốn bị ba huynh đệ liên thủ giữ ghịt lấy, đang vẫy vùng giãy giụa, chợt nghe Hồ Lão Thập khóc mếu, hắn cũng rụng rời khóc òa lên.

Không ngờ hai tên ấy nặng tình cảm như vậy, ai trông cũng xúc động can tràng, khóe mắt hoen ướt. Hồ Lão Thiên ngơ ngẩn buông Hồ Lão Nhất ra:

- Hồ Lão Nhất đừng khóc, cùng lắm lão tử tặng Lý Đình cho ngươi là được chứ gì!

Nói đoạn kéo Lý Đình lại, ép gã dập đầu lạy Hồ Lão Nhất. Hồ Lão Vạn thấy thế cũng lôi Vương Khả đến trước mặt Hồ Lão Thập:

- Này, lão tử… – Trong lòng hắn thực ra không muốn, do dự khá lâu mới cắn răng nói. – Lão tử cũng đem đồ đệ kính tặng ngươi đây.

Hồ Lão Thập vắt mũi dãi:

- Thèm vào đồ đệ của ngươi, lão tử chỉ cần Tước Nhi của lão tử thôi!

Hồ Lão Nhất nấc nghẹn:

- Phải, lão tử cũng chỉ cần Tam Cẩu Nhi thôi!

Hai người đau lòng quá đỗi, lại khóc rống lên. Bốn huynh đệ cứ hết khuyên lơn đến chối từ, biếu đi đẩy lại đám đồ đệ tuồng như bọn chúng chỉ là đồ vật chén bát, có thể chuyển nhà đổi chủ bất cứ lúc nào. Hồ Lão Thiên và Hồ Lão Vạn cuối cùng bất lực, đành nài Lương Tiêu:

- Ngươi lắm mưu nhiều kế, mau nghĩ cách…

Lương Tiêu thở dài, chìa tay nâng cả Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập dậy:

- Đều tại ta không bảo vệ được hai tên ấy, các ngươi cứ trút giận vào ta đây.

A Tuyết vội can:

- Không được! – đoạn vòng hai tay ôm chặt Lương Tiêu, sợ Hồ gia huynh đệ đánh thật.

Hồ Lão Thập sụt sùi một lúc, lắc đầu bảo:

- Có phải lỗi của đại ca đâu, đều tại lão tử dạy dỗ Tam Cẩu Nhi chưa tới nơi tới chốn.

Hồ Lão Nhất cũng tự trách:

- Phải, Dương Tiểu Tước mà học được hết công phu rồi thì chỉ đánh thắng chứ ai giết nổi hắn?

Lương Tiêu không ngờ hai anh em họ đúc rút kết luận nhanh như vậy, nói giọng ngỡ ngàng:

- Các ngươi nghĩ thoáng ra được thế thì tốt. – Gã quay sang Vương Khả và Lý Đình. – Hai đệ là bằng hữu chí thiết với Tam Cẩu Nhi, Dương Tiểu Tước. Sư phụ của họ là sư phụ của các đệ, cha mẹ họ cũng là cha mẹ của các đệ, sau này dẫu lập được sự nghiệp to lớn thế nào cũng phải ghi nhớ điều ấy.

Hai người vâng dạ, lạy Ngũ Bảo ba lạy. Hồ Lão Nhất và Hồ Lão Thập đều thở dài, nhưng nghĩ kỹ có ít cũng còn hơn không, cuối cùng đành ngậm ngùi chấp thuận.

Đêm ấy Lương Tiêu mở tiệc tẩy trần cho năm người. Trung Điều Ngũ Bảo không vui vẻ mấy, ỉu xìu uống một lúc rồi gọi Lý Đình và Vương Khả vào vườn trong truyền dạy võ công. Họ đều nôn nóng hết sức, chỉ muốn dốc ngay toàn bộ bản lĩnh ra cho hai đồ đệ, vì vậy đôn đốc luyện tập rất khe khắt. Lý Đình và Vương Khả tuy đã làm tướng nhưng vẫn rất nhu thuận với các sư phụ, không dám chống đối mảy may.

Lương Tiêu thấy vậy cũng yên tâm, bèn về phòng nghỉ ngơi. Giữa đêm, gã choàng tỉnh vì một tiếng hú dài. Lúc đầu còn tưởng là tiếng Trung Điều Ngũ Bảo la ó dạy dỗ đệ tử, nhưng nghe kỹ, nhận ra nội lực vô song trong âm thanh, gã bàng hoàng mặc áo chạy ra.

Ngoài sân, Trung Điều Ngũ Bảo, Lý Đình và Vương Khả đang ngửa cổ nhìn lên, khuôn mặt đầy vẻ kinh hoàng. Trong đêm tối, có hai bóng người xẹt qua xẹt lại trên các mái nhà, tốc độ di chuyển quá nhanh làm phát ra tiếng gió vù vù.

Lương Tiêu chú mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt. Tướng sĩ trong phủ cũng mất giấc vì tiếng động, ai nấy theo nhau trở dậy, đèn đuốc thắp sáng trưng.

Công Dương Vũ cười ngất:

- Tiêu lão quái, ở đây toàn là đồng bọn của ngươi, có giỏi thì cùng ta ra ngoài thành đơn đả độc đấu?

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng trả lời:

- Ra thì ra, kể cả ngươi giăng bẫy ta cũng không sợ.

Hai bóng người tách lìa, song song chạy ra ngoài thành. Lương Tiêu tung mình lên mái nhà, bám sát đằng sau, Trung Điều Ngũ Bảo cũng chạy theo, luôn miệng kêu la chí chóe. Càng tiến xa, cước lực của tám người càng phân rõ cao thấp, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt chạy ngang nhau, Lương Tiêu cách họ chừng một trăm ba mươi bộ, còn Trung Điều Ngũ Bảo thì bị bỏ lại sau khá xa.

Khi Lương Tiêu đuổi đến lầu thành, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đã ở bên ngoài và đang thần tốc di chuyển về hướng nam, không hiểu họ vượt thành bằng cách nào. Hai bóng đen lao như tên bay, chỉ chớp mắt đã lẩn vào đêm tối.

Lương Tiêu băn khoăn: “Công Dương tiên sinh định đến giết ta ư? Ta phải nói chuyện với ông cho minh bạch, rốt cục là ta sai ở điểm gì, hay chính bản thân ông sai. Còn Tiêu Thiên Tuyệt, ta và lão ấy thù sâu như bể, đánh trận là chuyện nhỏ, báo thù mới là việc lớn, lần này đã gặp được nhất định không thể bỏ qua”. Gã lập tức thét mở cổng thành, lao ra đuổi theo hai người.

[1] Trên núi Thạch Công.

[2] Tức Altai, một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan.

[3] Tức Kara Korum, kinh đô của Đế quốc Mông Cổ từ thời Oa Khoát Đài đến giai đoạn đầu cai trị của Hốt Tất Liệt, trước khi ông này thiên di về Đại Đô.

[4] Theo Trâu Diễn, đất trung nguyên gồm chín châu: Thần thổ Đông nam Thần châu, Thâm thổ Chính nam Cung châu, Thao thổ Tây nam Nhung châu, Tịnh thổ Chính tây Thăng châu, Bạch thổ Chính trung Kí châu, Phì thổ Tây bắc Trụ châu, Thành thổ Bắc phương Huyền châu, Ẩn thổ Đông bắc Hàm châu, Tín thổ Chính đông Dương châu.

[5] Bài từ theo điệu Thủy điệu ca đầu của Trình Bí thời Tống.

Xà Khiếu Tước Lai

Lương Tiêu chạy một mạch, thi thoảng bắt gặp dấu vết hai người để lại, cây gãy đá nát như cuồng phong quét qua. Gã trông thấy mà kinh hoàng, tự nhủ cho dù tìm được Tiêu Thiên Tuyệt chắc mình cũng mất mạng. Ý nghĩ khiến gã bi phẫn vô cùng, biết rõ chuyến đi lành ít dữ nhiều mà chân không sao dừng được.

Đuổi về phía tây nam suốt nửa đêm vẫn không bắt kịp, dấu chân hai người càng lúc càng mờ nhạt, Lương Tiêu chạy đến sáng sớm ngày hôm sau thì mất dấu. Gã sục sạo khắp nơi hồi lâu nhưng vẫn không vớt vát được chút manh mối nào, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt y như thể đã bốc hơi.

Lương Tiêu không nản lòng, tiếp tục tiến bước, băng qua mấy thôn làng đều tịnh không gặp một người sống, khắp mặt đất vương vãi những thương gãy cung đứt, thi thể lăn lóc, phần nhiều là binh lính hai nước Tống, Nguyên, nhưng cũng có không ít dân lành, cảnh tượng thê thảm không kể xiết.

Lương Tiêu lòng dạ ngổn ngang, chạy tiếp trăm dặm cuối cùng cũng gặp một nhóm dân Tống, hỏi ra mới biết có mấy tốp lính Nguyên tăng cường đi qua vùng này, đụng độ với lính Tống. Cư dân sợ loạn quân cướp bóc, bèn bỏ lại vườn tược, nháo nhào chạy đi tránh nạn.

Nhìn nhóm dân Tống quần áo lam lũ đầu tóc rối bù, mặt mũi lem nhem sắc diện hoảng hốt, Lương Tiêu vụt nhớ đến những gì đã từng chứng kiến, nỗi hối hận trào dâng ngập lòng.

Dạo thề độc diệt Tống, gã chẳng thể ngờ rằng cứ đánh đánh giết giết là sẽ đẩy muôn dân vào cảnh lầm than. Sau khi tận mắt trông thấy thảm trạng trong thành Tương Dương, gã đã ăn năn lắm rồi, còn gắng gượng theo quân giao chiến được đến nay đều là nhờ những lời hùng hồn về một thiên hạ thống nhất hòa bình vĩnh cửu của Bá Nhan. Ngày lại ngày chinh chiến, làm chứng nhân bất đắc dĩ cho những màn tàn sát thê lương, lòng Lương Tiêu lúc nào cũng như thiêu như đốt.

Đêm nay, gặp hết làng mạc hoang vu đến dân tình li tán, gã hối hận cùng cực, bàng hoàng tự hỏi: “Cứ thế này mãi, chẳng biết còn bao nhiêu người chết, liên lụy bao nhiêu dân lành đây? Có lẽ rồi sẽ như Lan Á nói, sau chiến tranh, dầu cho thiên hạ thái bình ngàn năm, nhưng tâm hồn ta không bao giờ yên ổn được nữa”.

Lương Tiêu thẫn thờ hồi lâu, khi tỉnh táo lại, nạn dân đã đi xa. Gã nhìn theo bóng họ, lòng đau đớn như bị rắn độc cắn xé, thống khổ nghĩ: “Tiêu Thiên Tuyệt giết cha ta, cướp mẹ ta mang đi, khiến ta cô khổ phiêu bạt. Đến nay chính ta lại khiến bao nhiêu dân lành mất nhà mất cửa, tứ cố vô thân, thế này thì ta cũng có khác gì Tiêu Thiên Tuyệt đâu?”.

Lương Tiêu bất chấp tính mạng truy đuổi Tiêu Thiên Tuyệt chỉ cốt trả thù, nhưng ý nghĩ trên đã dập tắt hết mọi quyết tâm, chà cùn mọi ý định báo cừu xưa nay, gã lầm lũi tiến bước, không bận tâm đã đi bao xa, càng không biết mình đi về hướng nào.

Đêm khuya, hai chân nặng như đeo đá, Lương Tiêu rã rời ngồi xuống một gốc cây, dõi mắt về làng mạc phía xa, không gian tăm tối và lạnh lẽo như địa ngục. Đôi hồi gió rít lạnh căm lùa cành lá kêu u u, nghe như tiếng ai sầu ai thảm.

Sức lực kiệt quệ, tinh thần bải hoải, Lương Tiêu đờ đẫn chìm vào giấc ngủ. Cuối giờ dần đầu giờ mão, gã choàng tỉnh vì một tràng cười quái dị. Tiếng cười vút lên chói tai lẫn với âm thanh rin rít lạ lùng. Lương Tiêu bò dậy, tiếng cười tạm ngưng, bốn bề trở lại yên tĩnh.

Lương Tiêu nhìn về phía phát ra tiếng cười thì chỉ gặp bóng đêm dày đặc, không le lói lấy một tia sáng, người bỗng ớn lạnh.

Gã dò dẫm bước theo hướng tiếng cười đến mười mấy dặm, phía trước dần dần hiện lên bóng nhà cửa nhấp nhô, nhìn kỹ thì ra là một thôn trang. Lúc này trời sắp sáng, soi nổi dáng núi lởm chởm vươn cao phía sau ngôi làng. Thì ra con đường đã đưa Lương Tiêu tới gần địa giới Hoàng Sơn.

Nơi cổng làng ngổn ngang mười mấy xác chết của lính Nguyên. Lương Tiêu tiến đến, ngồi xổm xuống giở xem quần áo một người, trên ngực hắn in một vết đen trông giống con mắt âm hiểm nhìn trừng trừng. Lương Tiêu thót tim, khám kỹ hơn thì nhận ra toàn thân hắn mềm nhũn như bông, toàn bộ gân cốt đứt gãy từng đoạn, không còn một đoạn xương hay gân nào nguyên vẹn.

Lương Tiêu rất đỗi nghi hoặc, đoán chừng tên lính này bị đấm chết, gân cốt toàn thân đều hứng quyền kình nên gãy rời. Nhưng nếu như vậy, quyền kình của hung thủ quả là tàn độc lạ lùng, chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp tục xem sang các binh sĩ khác, trên ngực họ đều có dấu nắm đấm, gân cốt cũng gãy vụn.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đào một cái huyệt chôn tất cả xuống, xong xuôi đứng dậy thận trọng đi vào làng. Gã đoán có thể hung thủ vẫn còn ở trong trấn, bèn lập tức dồn tụ nội kình, đi bước nào cũng nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Suốt một thôi đường, thấy các nhà trong làng đều mở toang cửa lớn cửa sổ, bên trong vắng ngắt không một bóng người.

Lúc này trời tờ mờ sáng, gió lạnh căm căm thi thút xuyên qua các ô cửa, gào rít tựa tiếng quỷ khóc ban đêm. Lương Tiêu gan góc cùng mình mà cũng không khỏi phát run khi nghĩ tên sát nhân đang lẩn quất đâu đây. Thình lình có một tiếng “bình” rất to, Lương Tiêu thất thanh la lên:

- Ai? – rồi liếc mắt nhìn, phát hiện ra là một cánh cửa gỗ đang du đẩy qua lại bỗng đóng sập vào ngõng do gió thổi mạnh hơn.

Lương Tiêu thở phào, chợt thấy giữa khoảng khép mở của cánh cửa dường như thấp thoáng bóng người, gã thót tim, nhảy vọt tới lách mình vào nhà, nhưng bên trong trống hoác, không có một ai. Đang kinh ngạc thì nhận ra trên nền đất in một bóng đen dài thượt, do nắng sớm mới lên hắt vào từ ngoài cửa sổ, Lương Tiêu đạp cửa bay ra. Đập vào mắt gã là sáu người đang đứng thõng tay xếp thành hàng một, tất cả đều vận quân phục Nguyên triều.

Lương Tiêu nhướng mày hỏi:

- Các ngươi là thuộc hạ của ai?

Sáu binh sĩ vẫn bất động, bộ dạng ngây ngốc. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn lại gần vỗ vào vai người đứng cuối hàng. Sau một tiếng “bộp”, sáu tên lính cùng đổ rạp về phía trước, chồng so le lên nhau như những quân bài cửu. Lương Tiêu sửng sốt nhìn kỹ thì thấy họ đã chết lè lưỡi lồi mắt tự bao giờ rồi.

Gã cúi xuống kiểm tra. Tình trạng tử vong của nhóm này khác với đám quân Nguyên ngoài cổng làng, gân cốt tuy đứt gãy hết nhưng trên mình không có vết thương gì rõ rệt. Riêng người cuối hàng đứt ngón út bàn tay phải, người thứ năm cụt ngón út bàn tay trái. Người thứ tư thì Lương Tiêu phải khám nghiệm khá lâu mới phát hiện ra ngón út bàn chân trái của hắn đã rụng. Người thứ ba rơi đâu mất ngón út bàn chân phải. Người thứ hai khá kỳ lạ, các sợi tóc tách rời từng đoạn nhỏ, ngoài ra không có thương tích gì nữa. Lương Tiêu hoang mang xem đến người đầu tiên thì thấy gân xương tóc tai đều nguyên vẹn, gã trầm tư một lúc rồi mở áo giáp lục tìm, quả nhiên phát hiện trên ngực hắn in hình nắm đấm đen kịt.

Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, một tia sáng bỗng xẹt qua óc, gã bất giác buột miệng thốt thành tiếng. Ai đó bật cười lạnh lùng:

- Nhìn ra rồi phải không?

Lương Tiêu hoảng hốt ngước lên. Một người đang lẳng lặng đứng cách gã chừng một trượng, ăn vận trễ nải nhưng phong thái rất ung dung đường hoàng. Lương Tiêu trố mắt:

- Công Dương tiên sinh… – Đắn đo một thoáng, gã hỏi. – Những người này đều do ông giết phải không?

Công Dương Vũ hừ mũi:

- Giết hạng vô danh tiểu tốt chỉ tổ bẩn tay. – Ông nhìn Lương Tiêu từ đầu xuống chân. – Hà, nhưng nếu ngươi muốn chết thì lão phu cũng vui vẻ giúp ngươi thỏa nguyện.

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Tiêu Thiên Tuyệt đâu rồi?

Công Dương Vũ hững hờ đáp:

- Hắn gặp cố nhân, đang bịn rịn hàn huyên.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ đột nhiên xuất hiện đã kinh ngạc lắm rồi, lại nghe ông nói năng lấp lửng thì càng thêm nghi hoặc:

- Ở đây đã xảy ra chuyện gì?

- Cái thân ngươi bây giờ còn khó giữ, đừng thò mũi vào chuyện người khác nữa!

Lương Tiêu nóng mặt:

- Cứ cho là Lương Tiêu tội đáng muôn chết, lẽ nào Vân Thù chưa từng phạm lỗi?

Công Dương Vũ cau đôi mày rậm, mắt lóe lên sắc lạnh. Lương Tiêu xua tay:

- Tiên sinh khoan động thủ, sáu người này là đồng đội của tôi. Người ta thường nói nghĩa tử là nghĩa tận, tiên sinh hãy thư cho tôi ít thời gian để giúp họ yên nghỉ rồi giao đấu cũng chưa muộn.

Dứt lời, gã tuốt kiếm đào huyệt mai táng sáu binh sĩ nọ. Công Dương Vũ quan sát một lúc, lạnh lùng bảo:

- Chúng nó chết có ngươi chôn cất, chẳng biết ngươi chết rồi ai lo hậu sự cho?

Lương Tiêu ngẫm lại từ dạo tòng quân tới nay, chinh chiến liên miên, đã gặp bao cảnh thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hàng ngàn hàng vạn binh lính ngã xuống nơi sa trường đều biến thành các thi thể vô danh. Bản thân mình sống tới hôm nay thực đã may mắn lắm rồi. Càng nghĩ càng thê lương, gã lắc đầu:

- Người ta trên đời, ai mà không chết? Cùng là nhắm mắt xuôi tay, được chôn cất hay không có gì khác nhau? Lẽ nào tiên sinh đã biết mai sau ông chết có ai an táng hộ rồi chăng?

Công Dương Vũ ngẫm cảnh mình xa vợ lìa con, tấm thân cô quạnh không một bóng người thân, sợ rằng khi trăm tuổi nắm xương tàn sẽ rơi rụng trong núi hoang, chẳng ai ngó ngàng tới. Không nén được nỗi xót xa, ông thở dài sau một lúc câm lặng:

- Được, nể mặt Văn Tĩnh, lát nữa ngươi chết, lão phu sẽ tự tay an táng cho.

Trong lòng Lương Tiêu lẫn lộn biết bao cảm xúc. Gã vốn muốn tìm đến thanh minh với Công Dương Vũ, nhưng chuyến đi này khiến gã mục kích gần hơn bi kịch của binh đao, vừa hối hận vừa căm hờn, cho rằng bản thân mình gánh nặng bao tội nghiệt, chẳng màng phân trần lý lẽ nữa, chỉ nghĩ: “Hôm nay chết dưới tay ông già cũng như một sự giải thoát”, rồi lại chua xót: “Khổ nỗi thù cha chưa trả, mẹ đi đâu cũng không rõ, ta thõng tay chịu chết chẳng phải là bất hiếu lắm sao?”.

Cùng lúc ấy Công Dương Vũ bị lời lẽ của gã khơi gợi những tiếc hận bấy lâu trong tim, rầu rĩ tự nhủ: “Ta không thể quay lại Thiên Cơ cung được nữa, con cái sờ sờ ra đấy mà cũng như không, sau này về với tổ tiên, e rằng chẳng có ai hương khói tế tự ta cả. Chà, hài tử Văn Tĩnh vốn dĩ hiền lương, không may táng mạng dưới tay lão quái vật, ta nhất định báo thù cho hắn. Song hắn chỉ được một mụn con này, nếu nó chết, chẳng phải hắn sẽ tuyệt hậu hay sao?”. Khi mới biết tin Lương Tiêu tấn công quân Tống, ông đã đùng đùng nổi giận, những muốn giết ngay cho hả, nhưng đến lúc này bỗng lại ngập ngừng.

Ông già cầm râu trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu đang theo dõi với ánh mắt thắc mắc thì Công Dương Vũ chậm rãi hỏi:

- Ngươi có biết sáu tên này chết thế nào không?

Lương Tiêu cân nhắc một thoáng rồi đáp:

- Đều chết vì quyền kình. Song vì sao người thứ hai đứt tóc, bốn người đằng sau gãy ngón tay ngón chân thì thật khó hiểu.

- Đó chính là chỗ cao cường của kẻ ra tay. Nếu đấm cả sáu gãy xương đứt gân mà chết thì khó khăn gì, nhưng đây hắn chỉ đẩy quyền kình đến ngón tay hay cọng tóc nạn nhân, hoàn toàn không chạm vào các gân cốt khác. Nội lực tinh diệu tới mức có thể vận hành tùy ý rồi.

Lương Tiêu rùng mình:

- Tiêu Thiên Tuyệt chăng?

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Tiêu lão quái giết người theo kiểu chém to kho mặn, đời nào nghịch ngợm tủn mủn đến thế? Môn võ công này xuất xứ từ Thiên Trúc, tên tiếng Phạn của nó là Thấp bà Quân đồ lị[1]. Theo tín ngưỡng Bà La Môn, “thấp bà” là vị thần hủy diệt, “quân đồ lị” nghĩa là rắn, cũng là tên gọi nội lực trong Du già thuật[2]. Thấp bà Quân đồ lị do đó có thể dịch ra là Rắn của thần hủy diệt, nhưng thường được gọi là Hỏa xà. Sau khi luyện thành công phu, nội kình hệt như trăm ngàn con rắn độc trườn khắp cơ thể địch thủ, húc vỡ tim, đập nát xương hoặc băm gan chặt ruột hoàn toàn tùy tâm ý của người thi triển.

Lương Tiêu tư lự:

- Xem chừng kẻ đó đã luyện thành.

- Đúng vậy.

Lương Tiêu nhướng mày:

- Tên hắn là gì?

Công Dương Vũ lườm Lương Tiêu, cười khẩy:

- Ranh con, ngươi chết đến nơi rồi còn hỏi chi cho lắm?

Lương Tiêu bực tức nói:

- Ai bảo ông không động thủ ngay đi, toàn lảm nhảm những chuyện đẩu đâu.

Công Dương Vũ buồn bã nghĩ: “Nếu ta đủ nhẫn tâm để động thủ, hà cớ phải rườm lời thế. Khốn thay hiện tại quyết tâm của lão phu suy yếu mất rồi, phải làm sao cho ngươi khiến ta tức giận mới ra tay được”. Ông bèn gợi ý:

– Nội công của hung thủ cao cường nhỉ, ngươi có khâm phục không?

Đối với Công Dương Vũ, kẻ tu luyện môn Hỏa xà này là kẻ đại gian đại ác, Lương Tiêu chỉ cần buông một từ “có” thôi thì nhất định ông sẽ nổi giận và thừa căm phẫn để lấy mạng gã. Vì vậy vừa hỏi dứt, ông liền nhìn chăm chăm vào mặt Lương Tiêu để dò thái độ.

Lương Tiêu nhíu mày, lắc lắc đầu:

- Trên đời này, nhiều lắm là có bốn người khiến tôi khâm phục, hung thủ còn lâu mới lọt được vào danh sách ấy.

Công Dương Vũ thất vọng ê chề, tiện miệng hỏi thêm:

- Thế à, bốn người nào?

- Có một hòa thượng vô cùng nghĩa khí, dám nói dám làm. Ông ấy xếp thứ tư trong số những người Lương Tiêu khâm phục.

- Cửu Như chứ gì?

- Tiên sinh cũng quen ông ấy à?

Công Dương Vũ hừ mũi, không trả lời thẳng vào câu hỏi:

- Ai nữa?

- Người tiếp theo là Liễu Tình đạo trưởng. Tại sao thì chắc khỏi phải giải thích.

Công Dương Vũ gật đầu lia lịa, hớn hở nói:

- Tất nhiên tất nhiên, nàng xếp thứ nhất phải không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Thứ ba.

Công Dương Vũ cáu kỉnh nghĩ bụng: “Để xem ai xếp được trên nàng”. Lương Tiêu tiếp:

- Người thứ hai Lương Tiêu khâm phục là một tiểu cô nương.

Công Dương Vũ nhăn mặt nghĩ bụng: “Một đứa ranh con mà dám so đọ với Tuệ Tâm hử?”. Ông hừ mũi giận dữ. Lương Tiêu bùi ngùi:

- Tiểu cô nương này mắc bệnh nan y nhưng không bi quan buồn bực mà luôn vui vẻ giúp đỡ người khác, nhờ cô bé giúp đỡ nên mới có Lương Tiêu ngày nay.

Công Dương Vũ dịu nét mặt, khẽ gật đầu. Lương Tiêu chốt hạ:

- Còn người Lương Tiêu khâm phục nhất là một viên quan nhà Nguyên.

Mắt Công Dương Vũ lóe sáng, kình đẩy suốt xuống tay. Lương Tiêu thủng thẳng:

- Người ấy họ Quách tên Thủ Kính. Ông ta dồn hết tâm sức cũng như hứng thú vào cải tạo thủy lợi và nghiên cứu lịch pháp, công lao rỡ ràng ngàn năm, phúc đức cao dày vạn kiếp, do đó xếp đầu trong bảng bốn người Lương Tiêu khâm phục.

Công Dương Vũ nghe tới đây, cơn giận xẹp xuống, gật gù bảo:

- Nếu quả thực như ngươi kể thì bất luận hắn ta là Nguyên hay Tống đều đáng được thế nhân kính phục.

Nói thì nói vậy, nhưng thấy mình không được liệt vào hàng nhân vật khiến Lương Tiêu khâm phục, Công Dương Vũ cũng hơi tự ái. Lương Tiêu nhẩn nha tiếp:

- Ngoài ra, Lương Tiêu còn rất mến mộ võ công và tài trí của Công Dương tiên sinh, nhưng cái lối bỏ mặc vợ con và hờ hững tình thân của ông lại khiến Lương Tiêu không có thiện cảm lắm nữa.

Công Dương Vũ bừng bừng nổi giận, nhưng suy tính một hồi, nghĩ rằng nếu vì thế mà giết Lương Tiêu thì lại chứng tỏ bản thân mình nhỏ nhen, bèn nén cơn nộ hỏa, cười nhạt bảo:

- Nhóc con miệng còn hôi sữa, chả hiểu cái quái gì! – Trong bụng thì phát ớn: “Thằng ranh giảo hoạt kinh khủng, chắc đã nhìn ra toan tính của lão phu nên mới giả vờ bịa chuyện nói quanh khiến ta không nắm được thóp nó đây”. Cân nhắc một hồi lại nghĩ: “Ờ mà việc gì ta phải đích thân động thủ, để nó ngoan ngoãn tự tận chả tiện hơn ư?”.

Trầm ngâm một hồi, ông chợt bảo: “Ngươi theo ta lại đây!” rồi quay bước. Lương Tiêu đành đi theo.

Lúc này trời đã sáng bạch, bốn bề quang đãng. Đến một gốc tùng đầu làng, Công Dương Vũ xòe chưởng chặt lên thân cây, lá đổ xuống ràn rạt như mưa. Nhà nho phất tay áo rộng. Hệt như bị hút, màn lá liền tụ thành một chuỗi chui vào tay áo ông.

Thu xong đám lá, Công Dương Vũ nói:

- Nếu ta tự tay giết ngươi thì khó tránh mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu. Trên núi Thạch Công, ngươi và ta chưa cá cược xong, bây giờ tiếp tục vậy.

Lương Tiêu nhướng mắt nhìn. Công Dương Vũ lại khua tay áo, lá tùng bắn phụp phụp xuống nền đất xốp, mau chóng xếp thành một đồ hình, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn.

Công Dương Vũ hỏi:

- Ngươi nhận ra chứ?

Lương Tiêu hơi đổi sắc mặt:

- Nhận ra, đây là Thiên địa huyền hoàng. Phải chăng hôm qua chính tiên sinh đã bày trận cho quân Tống?

Công Dương Vũ không trả lời thẳng, lấp lửng bảo:

- Lúc ấy ngươi khua môi múa mép, xổ ra những gì như là: “Trận pháp này gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ một cọng cỏ, tiến lui dễ dàng, không tài nào phá nổi”, nghe chừng cũng có tí kiến thức. Bây giờ coi mỗi chẽ lá tùng là một quân sĩ, nếu ngươi phá được trận này thì ta tha chết, nhược bằng thua thì tự chặt đầu là hết nợ.

Lương Tiêu quan sát trận thế hồi lâu, đoạn lắc đầu:

- Đáng tiếc tôi không có bản lĩnh hút lá tùng, làm sao đấu với tiên sinh được?

- Khó gì, với tu vi hiện nay của ngươi, ta hướng dẫn qua loa là ngươi làm được ngay thôi.

Công Dương Vũ cho rằng Lương Tiêu khó thoát chết nên không giấu miếng, nhặt ngay một chiếc lá tùng giảng giải:

- Công phu này tên gọi Bích vi tiễn, coi lá tùng là tên, nội lực là cung, cứ thế bắn đi. – Thấy Lương Tiêu lộ vẻ ngơ ngác, ông sốt ruột. – Không hiểu à? Ta hẵng hỏi ngươi, bắn cung thế nào?

Lương Tiêu thạo thuật kỵ xạ, nắm rõ đặc tính của cung tên, bèn đáp:

- Cánh cung cứng mạnh, dây cung mềm dai. Tay trái nắm cánh cung, tay phải bật dây cung là bắn được.

- Ừ, một cây cung gồm đủ cương nhu, còn nội lực có tách bạch cương và nhu không?

Lương Tiêu hiểu ra:

- Ý tiên sinh là dùng cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, lá tùng làm tên?

Công Dương Vũ gật đầu:

- Tiểu tử khốn kiếp, cũng không đến nỗi tối dạ!

Lương Tiêu đăm chiêu:

- Xem chừng công phu này tương tự Cung huyền kình của Tiêu Thiên Tuyệt.

Công Dương Vũ trợn trắng mắt, mắng ngay:

- Láo lếu, tương tự là thế nào? Hừ, Bích vi tiễn là Bích vi tiễn, hoàn toàn không dây mơ rễ má gì với Cung huyền kình. – Nghĩ sao ông lại hừ mũi. – Dẫu có đôi chút liên quan, Cung huyền kình cũng chỉ là loại bàng môn tả đạo. Tiêu lão quái cho rằng thân mình là cung, còn ta cho rằng khí cơ là cung, gần với đạo trời hơn, cảnh giới hai bên vô cùng chênh lệch, khó lòng so sánh được. Lão Tử từng nói: “Đạo Trời như giương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù vào”; lại răn: “Muốn đóng được phải mở trước”. Yếu lĩnh của Bích vi tiễn chính là ở đó, so với nó thì thứ công phu Cung huyền kình vứt đi kia kém xa một vạn tám ngàn dặm.

Công Dương Vũ thóa mạ một hồi thì vơi tức, bắt đầu giảng giải cặn kẽ cách hướng mạch, cách vận kình. Lương Tiêu vốn nắm bắt nhanh, lại có luồng nội lực gồm đủ âm nhu nhờ trận chiến chân khí của hai đại cao thủ trên Hoa Sơn, nghe Công Dương Vũ giảng xong, gã ngắt một nhánh lá tùng, vận năm thành cương kình và năm thành nhu kình, cương kình căng ra, nhu kình kéo vào, khi hai luồng kình tương giao, chỉ nghe “sựt” một tiếng, nhánh lá tùng thụ lực bay lút xuống bùn.

Công Dương Vũ hài lòng bảo:

- Thằng bé này dạy được đấy. Nhớ cho kỹ đây, ngoài cương trong nhu là xuất, ngoài nhu trong cương là nhập.

Lương Tiêu gật đầu, nắm tay đấm lên thân cây làm lá đổ rào rào, đoạn đẩy nhu kình, hãm cương kình, chiêu thức trái hẳn lúc nãy, tư thế hệt như xoay ngược cây cung, cánh vào trong, dây ra ngoài, đảo chiều bắn của mũi tên. Màn lá tùng bị chưởng lực của Lương Tiêu hấp hút, ào ạt bay về phía gã. Lương Tiêu chụp tay áo xuống, thu gọn số lá tùng.

Công Dương Vũ lộ vẻ ưu tư:

- Kể ra, nguyên lý này không hẳn chỉ giới hạn ở việc đả thương người bằng lá tùng. Mai sau, nếu nội lực ngươi đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa thì có thể tận dụng được cả lông tơ và bụi nhỏ kia đấy. Nhưng ngươi mà may mắn đạt tới cảnh giới đó, chắc trên thế gian chẳng còn ai địch nổi ngươi nữa.

Lương Tiêu nghe giọng ông có ý tiếc hận thì mỉm cười buồn bã, chia kình làm cương và nhu bắn lá tùng ra khỏi tay áo, cũng sắp thành một hình trận, tựa tròn mà không phải tròn, tựa vuông mà không phải vuông.

Công Dương Vũ chớp mắt:

- Ngươi cũng dùng cái này?

- Thiên địa huyền hoàng là trận thế của các trận thế, không thể phá giải. Chẳng còn cách nào tốt hơn dĩ độc trị độc.

Công Dương Vũ cười nhạt:

- Kể ra cũng khá tinh tường.

Ông phẩy tay áo, lá tùng trên mặt đất như bị gió thổi, hai mươi tư khối trong Huyền thiên tiểu trận bắt đầu vần chuyển. Lập xuân nổi đùng đoàng tựa sấm, Vũ thủy như gió tạt mưa nghiêng, Xuân phân chia âm dương hai nửa, Kinh trập quẫy động tựa giao long, Lập hạ cuốn ngốn ngấu như lửa, Mang chủng tua tủa hệt lúa non, Tiểu thử – Đại thử liền một dãy, Sương giáng mịt mù tựa tuyết bay, Tiểu tuyết – Đại tuyết đảo phải trái, Hàn lộ thoắt đọng rồi thoắt tan. Cứ thế, trận hình biến hóa theo bốn mùa, lúc dàn hàng ngang lúc xếp hàng dọc, tiến hành hợp công.

Lương Tiêu cũng phất tay áo chạy trận Huyền thiên, nhưng phương vị có phần khác biệt. Đông chí đối Hạ chí của Công Dương Vũ, Thu phân đối Xuân phân, Đại tuyết đối Tiểu thử, Xử thử đối Thanh minh, Hàn lộ đối Cốc vũ. Huyền thiên ứng với sự thay đổi của hai mươi tư tiết khí, có âm dương tương khắc tương sinh, trận pháp của Công Dương Vũ bị khắc chế, tức thì chạy chậm hẳn lại.

Lương Tiêu lại phất tay áo, Thành thổ từ hướng tây bắc, Ẩn thổ từ hướng đông bắc, Thần thổ từ hướng đông nam, Thao thổ từ hướng tây nam… Chín khối của tiểu trận Hậu thổ lần lượt đánh ra từ các phương vị khác nhau.

Công Dương Vũ nhẹ nhàng khoát tay áo rộng, Huyền thiên trận tản ra hai cánh, chín khối Cửu Châu nổi lên ở giữa. Theo đúng nguyên tắc hỏa phương nam khắc kim phương tây, mộc hướng đông trấn thủy hướng bắc, ông dùng Thâm thổ chính nam đối phó Bính thổ hướng tây, Tín thổ chính đông chống cự Thành thổ hướng bắc bên trận Lương Tiêu. Bảy khối còn lại cũng bám sát vị trí tương khắc theo ngũ hành. Trận thế của Công Dương Vũ mang hình hạc trắng xòe cánh, trông dáng thanh thoát mà ẩn tàng sát cơ.

Lương Tiêu nhận ra đây là hình hạc tường, một trong chín biến của Thiên địa huyền hoàng trận, lập tức hô to:

- Hổ quỳ!

Nội kình của gã tới đâu, Hậu thổ tiểu trận thu vào tới đó, Huyền thiên tiểu trận nhô ra ngoài, hình dáng như mãnh hổ ngồi rình, làm đối trọng với bạch hạc giang cánh. Công Dương Vũ biết rõ tấn công không được bao lâu nữa, đấu được một lúc, trận thế cuốn vào trong, chuyển ra hình bí hí[3].

Bí hí là một trong chín con trai của rồng, dáng dấp giống con rùa, khi trưởng thành thì thoát mai, hóa rồng mà đi. Hình trận này ẩn công trong thủ, đường hướng biến hóa rất phong phú. Lương Tiêu tức thì dàn trận theo hình phượng bay, dễ biến thủ thành công. Công Dương Vũ lập tức đổi hình rồng vàng, hai trận Huyền thiên, Hậu thổ chốc chốc lại đảo vị trí, thế như thần long biến ảo, khó định đầu đuôi. Lương Tiêu đối phó bằng hình rùa đen, mặc rồng vàng xáp vào tấn công dữ dội đến đâu vẫn bất động như núi.

Trông bề ngoài, tưởng chừng hai bên tỉ thí nội lực thông qua việc điều khiển lá tùng, nhưng thực chất họ đang đọ mưu đọ trí. Chẳng mấy chốc, chín biến hình Thiên địa huyền hoàng đã dùng hết, Công Dương Vũ và Lương Tiêu bèn phát triển thêm kiểu trận mới, hệt như đánh cờ. Coi chín biến là dàn trận căn bản, trên nền tảng ấy họ lại tùy cơ ứng biến, lần lượt đưa ra những ý tưởng mới. Bởi đây là thi đấu trận pháp, hàm chứa đủ mọi nguyên lý về ngũ hành tương khắc, về bát quái cửu cung nên phức tạp hơn hẳn nguyên lý đánh cờ thông thường.

Công Dương Vũ càng đấu càng kinh hoàng: “Tiểu tử này còn ít tuổi mà kiến thức toán học đã sâu sắc quá! Ta nghiền ngẫm Thiên địa huyền hoàng đã bao nhiêu năm mà không chiếm nổi ưu thế so với một kẻ mới vận hành lần đầu”. Thực tế Lương Tiêu cũng bóp đầu bóp trán, suy nghĩ đến rã rượi cả người, không dám sơ ý mảy may. Thoạt tiên gã gắng gỏi cốt mong thoát chết, nhưng càng lúc càng hứng thú, dần dần chú ý đến mặt học thuật của trận thế, thậm chí còn thiết tha hơn cả mục đích cầu sinh.

Hai người đều thông tuệ mẫn tiệp, xứng đáng là kỳ phùng địch thủ của nhau trong trận đấu trí này. Lúc đầu họ chạy trận như gió táp mưa sa, nhưng lần lần, mức căng thẳng càng cao thì tốc độ biến trận càng chậm. Cứ nhăn nhó suy nghĩ một lúc, họ lại quất tay áo, trao đổi một lượt biến hóa, đến nước không khai triển được nữa thì dừng, lại chống má trầm tư cho tới lúc một tia sáng khác lóe lên trong trí.

Giao đấu miệt mài suốt hai canh giờ vẫn chưa phân thắng bại, thình lình ở mạn núi phía tây có tiếng ưng kêu lảnh lót, ngân nga mãi không dứt, Công Dương Vũ nhíu mày vẻ sốt ruột.

Tiếng ưng vang vọng hồi lâu, không hề ngắt quãng. Công Dương Vũ đứng bật dậy, giũ tay áo, hai chẽ lá tùng bắn véo về phía Lương Tiêu. Gã này đang chìm đắm trong trận pháp, không đề phòng nên bị chẽ lá găm trúng hai huyệt Đản trung và Thần phong khiến thân thể tê dại.

Công Dương Vũ cười khì khì:

- Lát nữa tỉ thí tiếp cũng không muộn, hai tên quỷ kia đấu đá đã lâu mà không biết kết quả thế nào, chúng ta đi xem cho vui.

Lương Tiêu bị xách chạy, gió rít vù vù bên tai, cảnh vật cứ ào đến trước mắt rồi lại lùi tít ra sau. Công Dương Vũ nhảy cao hụp thấp, chỉ nháy mắt đã băng đi xa đến mấy chục dặm.

Đến một sườn núi, ông nhảy phóc lên một tảng đá to, cười bảo:

- Tới nơi rồi! – nói đoạn thả Lương Tiêu xuống.

Gã thiếu niên giương mắt nhìn. Cách chỗ họ khá xa có dãy núi xanh mờ giăng ngang chân trời, mây vờn sương phủ che kín vòm không. Cạnh đó là rặng lau sậy, hoa lau rung rinh trắng như đọng tuyết. Bên rặng lau sậy có hai người, một vận đồ trắng một vận đồ đen, người áo đen chính là Tiêu Thiên Tuyệt, người áo trắng tuổi ước ngũ tuần, nhân dạng khác hẳn dân trung thổ, mũi cao mắt sâu, da trắng, mặt mày nhẵn nhụi, môi mỏng dính, tóc bạc chải mượt cuộn thành búi to trên đỉnh đầu. Còn một người khác ngồi gần chỗ hắn, mình bận quân phục Đại Nguyên, chiếc mũ lông chiên đã bỏ ra, để lộ mái tóc đen đổ xõa xuống đến thắt lưng.

Tim Lương Tiêu đập thình thịch, nếu không bị điểm huyệt, chắc gã đã hét toáng lên.

Bởi vì tên lính Nguyên đó nào phải ai xa, chính là A Tuyết! Lạ một nỗi thân hình cô thẳng đuỗn khác thường, dáng ngồi cứng đờ như đá.

Người áo trắng ngậm ngang miệng một ống tiêu dài đỏ sẫm, tiếng ưng kêu phát ra từ chính ống tiêu này.

Trên không, bảy tám con chim ưng, diều hâu vừa rít lên dữ tợn vừa mổ cào cắn xé hai con kên kên, lông vũ rụng lả tả. Đôi kên kên dũng mãnh lạ thường, mỗi lần mổ hoặc cào phát đều trúng một con diều hoặc ưng, hất nó rơi xuống đất. Lương Tiêu nhớ lại mẹ từng kể thuở nhỏ có nuôi một cặp kên kên, chắc là hai con này đây.

Tùy theo nhịp tiêu bổng hoặc trầm, từ những khe núi hang đá ở khắp bốn phương tám hướng lại có chim ưng hoặc diều hâu lồng lộn bay tới, chỉ thoáng chốc đã tập hợp đến mấy chục con, cùng xúm quanh đôi kên kên mà bươi cào xâu xé.

Lương Tiêu thầm kinh ngạc: “Không lẽ người này biết dùng âm thanh để điều khiển ưng cắt?”.

Đôi kên kên dần dần yếu thế, không địch nổi số đông, đầu và cánh bị mổ trúng, lảo đảo chao nghiêng, rền rĩ thê thảm. Tiếng tiêu chợt ré lên, bầy ưng diều liền xáp lại hai con kên kên lẻ loi, đồng loạt vươn mỏ giơ vuốt tấn công. Máu tưới ra khắp nửa vòm trời, đôi kên kên đã bị xé bung làm nhiều mảnh.

Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi giận dữ, hàng mày chữ bát nhíu thấp. Người áo trắng ngưng thổi tiêu, đắc ý nói:

- Tiêu lão quái, ngươi bảo cặp kên kên này vô địch tầng không mà? Bây giờ thua rồi đấy, còn gì để nói đây?

Dứt lời hắn cười ha hả, tiếng cười xen lẫn điệu rít rin rít lạ lùng.

Lương Tiêu nghe quen tai, sực nhớ: “Tràng cười quái dị hồi đêm chắc là của hắn”.

Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng đáp:

- Được, hiệp này coi như ta thua. Theo thỏa thuận, trước tiên chọi chim, kế đến tỉ võ. Hạ Đà La, ngươi có giỏi thì lần này đừng trốn.

Người áo trắng cười khà khà, chẳng ừ chẳng không. Thấy Tiêu Thiên Tuyệt chực xông tới, hắn vội đặt ống tiêu lên miệng, thổi một tràng lanh lảnh.

Như đáp lại, khắp trời vang vọng một bầu âm thanh hỗn tạp, hàng đàn ưng diều sà xuống, nhất tề lao bổ vào Tiêu Thiên Tuyệt. Lương Tiêu khiếp đảm: “Kẻ này có khả năng điều khiển chim ưng, chẳng rõ lai lịch hắn ra sao?”.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, múa song chưởng lên đón bầy chim. Rẹt một tiếng, tựa hồ bị một giàn đao kiếm vô hình phạt qua, đám ưng, cắt, diều hâu gãy cánh cụt đầu rơi xuống lộp độp, những con còn sống thì bay tán loạn, không dám áp sát Tiêu Thiên Tuyệt nữa.

Chỉ thoáng chốc, bầy ưng diều đông đúc đã bị đánh tan, chỉ sót một con chim ưng, nó kinh hoàng sải cánh chực bay, thình lình cùng tiếng gầm dữ dội, một con hổ đen từ vạt rừng bên cạnh phóng ra, tung mình chồm cao hơn một trượng, vồ con chim kéo xuống, di mạnh nó trên mặt đất, xem chừng không sống được nữa rồi.

Hạ Đà La cười rin rít:

- Thiên vật nhận của lão càng ngày càng sắc bén!

Tiêu Thiên Tuyệt trợn mắt:

- Đừng lải nhải nữa, đền mạng đôi kên kên cho ta.

Lão đảo người, nhoài tới gần ba trượng, Hạ Đà La không hề cử động mà thân hình bỗng lướt ngang đi xa đến hai trượng, tránh khỏi phát chưởng của Thiên Thiên Tuyệt:

- Bình tĩnh nào Tiêu lão quái, mở to mắt mà xem đây!

Hắn lại đặt ống tiêu ngang miệng, tiếp tục thổi. Lần này là âm điệu lách cha lách chách, Lương Tiêu tự hỏi: “Tiếng chim gì nhỉ, nghe quen tai lắm”.

Tiêu Thiên Tuyệt ngưng bước, cười nhạt:

- Được, lão phu gắng xem xem.

Lão đứng lại, quạt liền ba chưởng. Hạ Đà La tuy đang ở cách xa mấy trượng mà cũng phải xê xích để né tránh, cuối cùng lui hẳn ra ngoài mười trượng, mặt mày nhăn nhó, nhưng miệng vẫn thổi liên miên.

Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng rộ lên tiếng phụ họa ríu rít. Vòm trời tối sầm. Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Trên không xuất hiện vô số chim sẻ, di chuyển rất nhanh về phía này như một đám mây dày màu gai xám. “Ra là tiếng chim sẻ”, gã nghĩ.

Bầy sẻ dường nổi cơn điên, tràn tới cực nhanh rồi đổ rào rào xuống Tiêu Thiên Tuyệt như giàn tên nhọn. Tiêu Thiên Tuyệt tiếp tục phát chưởng. Chưởng phong tới đâu, xác sẻ rụng lộp độp tới đó, nhưng một đợt rơi xuống, đợt thứ hai đã đùn lên thay thế, lớp nối lớp tấn công không màng sống chết.

Tiêu Thiên Tuyệt thoạt đầu xuất chưởng còn ung dung thư thái, nhưng dần dần càng lúc càng nhanh, cuối cùng song chưởng lên xuống như chong chóng. Vậy mà đàn sẻ vẫn dồn về nườm nượp, che rợp bầu trời, phủ dày mặt đất, y như thể toàn bộ chim sẻ của dãy Hoàng Sơn đều tụ tập lại đây.

Khi đàn sẻ đã quây kín trên không, Hạ Đà La dùng tiếng tiêu tách chúng làm hai tốp. Một tốp bọc Tiêu Thiên Tuyệt bằng nhiều lớp như vỏ hành. Tốp kia xúm đến chỗ hổ đen, vươn mỏ mổ chí chát. Con hổ gầm thét giơ vuốt quất đuôi, nhưng đàn sẻ quây kín đến nỗi nước cũng không lọt, con hổ che chắn được đằng đầu thì đuôi lại sơ hở. Chẳng bao lâu, chỉ nghe một tiếng gầm khủng khiếp, hai mắt chảy máu, trong cơn kinh hoàng nó guồng chân chạy trốn. Nhưng bầy sẻ truy đuổi kỳ cùng, chuyên nhắm những chỗ con vật không với được vuốt tới mà mổ rỉa khiến máu thịt bắn tung tóe. Hổ đen phóng đi xa đến hơn hai mươi trượng thì tiếng gầm rít dữ dội đã đổi ra rên rỉ thê lương, bốn chân mềm nhũn, nó đổ vật ra đất.

Tiêu Thiên Tuyệt phổ Thiên vật nhận vào song thủ, chưởng phong thường khi sắc bén là thế mà gặp phải tình cảnh quái dị này cũng khó lòng phát huy uy lực. Se sẻ vốn là loại nhỏ bé yếu đuối hạng nhất trong các loài chim, nhưng nhờ số lượng đông đảo và tổ chức tấn công đồng loạt nên sức mạnh lại vượt xa ưng diều. Tiêu Thiên Tuyệt quạt chết một lớp thì lớp khác sà đến, đánh giết đến mức xác sẻ tích dày cả thước trên đất, còn con hổ đen đã bị đàn chim bươi vầy, rỉa sạch máu thịt, còn trơ khấc bộ xương trắng.

Lương Tiêu dày dạn và can đảm có thừa, đã từng thống lĩnh thiên quân vạn mã phi ngựa quất roi tung hoành trên sa trường, vậy mà gặp cảnh này cũng không khỏi ớn lạnh.

Tiêu Thiên Tuyệt thét vang, quạt chưởng vù vù đánh thủng một lỗ hổng giữa lớp sẻ, đoạn tung mình lao vụt ra ngoài như một vầng mây đen, lướt thẳng về phía rặng lau sậy.

Lương Tiêu theo dõi lộ khinh công của Tiêu Thiên Tuyệt với ánh mắt tán thưởng, đoán thầm: “Từ bụi lau sậy chắc lão sẽ nhảy xuống nước, muốn thoát bầy sẻ quái gở kia thì quả thực đó là cách đơn giản nhất”.

Nhưng Tiêu Thiên Tuyệt chỉ bay là là trên rặng lau rồi lướt ra xa hơn ba trăm bộ, không xuống nước mà đáp lên bờ bên kia, một cành sậy màu xanh nhạt đã nằm trong tay lão tự bao giờ.

Tiêu Thiên Tuyệt nhăn trán, ngắt bỏ hết lá nhánh, để lại một ống sậy thuôn thuôn, đoạn ngậm nó vào miệng thổi u u. Tiếng sáo sậy vốn thê lương ai oán, lại được nội lực của Tiêu Thiên Tuyệt thúc đẩy, âm thanh càng thêm thắt ruột thắt gan.

Kiến thức võ học của Lương Tiêu đã khác xa ngày xưa, vừa thấy khóe mắt cay cay, gã rợn người hiểu ra, vội vàng dùng phép Nhập định và Tẩy tâm trong Tử phủ nguyên tông để tập trung tinh thần, loại bỏ tạp niệm, chống lại tác động của tiếng sáo sậy.

Tiếng sáo vút lên, xen lẫn tiếng tiêu của Hạ Đà La. Bầy sẻ bị nhiễu âm thanh, không biết theo bên nào, đập cánh soạt soạt bay rối rít quanh xác đồng loại, kêu lên ai oán rồi tản dần đi, kết thúc trận đấu thấm đẫm máu tanh.

Lương Tiêu thở phù, cảm thấy như học thêm được một điều, bụng bảo dạ: “Cách nhổ cỏ tận rễ của Tiêu Thiên Tuyệt quả thực cao minh. Bầy sẻ bay đến vì tiếng tiêu, phá được tiếng tiêu là tức khắc đập tan mọi mũi tấn công của chúng”.

Đàn sẻ đã biến mất nhưng Tiêu Thiên Tuyệt vẫn không buông sáo, thậm chí còn đẩy thêm nội lực vào ống sậy cho nhạc điệu tăng độ bi thiết, âm thanh rầu rĩ vọng chân mây, bồi hồi quanh sơn cốc, nghe như lữ khách thở than nỗi tha hương, thiếu phụ nỉ non đêm lẻ bóng. Hạ Đà La đổi liên tục các loại tiếng chim, các cung biến điệu, từ yến oanh thỏ thẻ, vàng anh líu lo cho chí hạc kêu não nuột, quạ gào inh tai.

Nhạc âm của hai bên đều vận dụng nội lực khiến người nghe điêu đứng bàng hoàng, rất khó chống đỡ. Lương Tiêu phải dùng Tẩy tâm và Nhập định để trấn tĩnh mới thoát được nguy hiểm. Đương tập trung tinh thần, chợt nghe tiếng sụt sịt, gã thất kinh mở bừng mắt nhìn thì thấy A Tuyết nghẹn ngào vật vã như hoa lê bị gió dập mưa vùi.

Nguyên là tiếng sáo của Tiêu Thiên Tuyệt quá đỗi thảm thiết, A Tuyết nghe mà kinh tâm động phách, huyết khí dâng cao, không kiềm chế được nên bật khóc. Khổ nỗi còn bị điểm huyệt nên khí lực không đủ, cô muốn khóc to nhưng đuối sức, đành chỉ thút thít nấc nghẹn. Nỗi đau đớn bị khơi lên trong ngực do đó vô phương giải tỏa, tích lại mỗi lúc một dày, mặt A Tuyết dần dần trắng bệch, hai mắt lạc thần.

Lương Tiêu hiểu nếu cứ tiếp tục thế này, A Tuyết nhất định sẽ đau thương quá độ mà chết. Gã muốn cứu viện nhưng thân thể tê liệt, định xung khai huyệt đạo thì Bích vi tiễn quá ư lợi hại, gã thử mấy lần đều tốn công vô ích, đành tuyệt vọng nhìn A Tuyết gặp nạn.

Thình lình, Công Dương Vũ bỗng phá lên cười, tiếng cười chấn động rừng núi. Đoạn ông xếp bằng ngồi xuống, nhuyễn kiếm Thanh Li đặt ngang đầu gối, ngón co ngón búng gẩy trên thân kiếm làm phát ra âm thanh keng keng như chặt đá chặt vàng.

Công Dương Vũ bảo:

- Tiêu lão quái, Khổng Tử dạy: nhạc buồn nhưng đừng nên bi lụy. Ngươi thổi sáo bát nháo như vậy nghe chẳng lọt tai chút nào.

Dứt lời, ông dùng kiếm thay đàn, vuốt lên thành âm chủy, vũ, miết xuống tạo âm cung, thương. Giai điệu uyển chuyển, chẳng những mượt mà như đàn gỗ ngô đồng hay danh cầm cổ kim mà còn réo rắt hân hoan khiến nỗi buồn thương dịu bớt. Ông cất giọng hòa theo khúc nhạc:

Ngoài đồng hoang có con chương,

Bên nhà có một cô nàng đương xuân.

Bạch mao chàng gói thịt phần,

Đem sang dụ dỗ tấm thân ngàn vàng.

Trong rừng bộc tốc mọc hoang,

Có con hươu chết nằm lang ngoài đồng,

Chàng đem ngả thịt gói xong,

Tặng cho người ngọc những mong kết tình.

“Khoan khoan chàng hãy kìm mình,

Đừng khua chó sủa, đừng rình rờ khăn!”

Bài Dã hữu tử khuân[4] này trích trong Kinh Thi, kể chuyện nàng con gái đang tuổi xuân mơn mởn ở nơi đồng dã, có chàng trai lấy lá bạch mao gói thịt con chương, con hươu đem tặng tán tỉnh. Ý thơ linh động, tươi tắn hồn nhiên.

Công Dương Vũ hát xong, nhạc đệm thay đổi, ông lại chuyển sang bài khác:

Nàng rằng: gà gáy sáng kìa,

Chàng: ừ, trời cũng tờ mờ từ lâu.

Vậy chàng nên dậy cho mau,

Sao mai lấp lánh phương nào rồi kia.

Đeo cung rong ruổi đồng quê,

Bắn chim phù, nhạn mang về cho em.

Nhạn, phù chàng bắn, để xem,

Em làm vài món lại thêm rượu nồng

Thuận hòa tới lúc răng long,

Vui duyên cầm sắt, thỏa lòng thương yêu.

Đây là bài Nữ viết kê minh[5], cũng trích trong Kinh Thi, thuật lại chuyện đôi nam nữ tự tình đêm hôm, ý ngọt ngào âu yếm, tình nồng nàn lả lơi.

Hai bài hát cất lên, lập tức pha loãng âm giai của sáo sậy. Nỗi đau đớn đè trĩu ngực A Tuyết cũng vợi bớt, nhưng tự nhiên một cảm giác lạ lùng khác lại xâm chiếm hồn cô, khiến mặt cô đỏ ửng và đầu óc tràn ngập muôn tưởng tượng xa xôi, tất cả đều xoay quanh hình ảnh Lương Tiêu.

Hạ Đà La ngưng thổi địch, cười rin rít:

- Thì ra Công Dương huynh cũng là người đồng hội đồng thuyền với chúng ta. Kinh Thi còn có bài Thư cưu họa tiếng quan quan, Bên cồn sông vắng hót vang vui vầy. Yêu kiều thục nữ thế này, Cùng chàng quân tử sánh tày lứa đôi. Sái gia[6] trẻ trung mến người ngọc, thường ngày đều theo đuổi cái đẹp đấy.

Hắn vốn chỉ lõm bõm về thơ Hán, tự nhiên gặp đúng dịp để khoe khoang dấn vốn ít ỏi của mình thì lấy làm đắc ý lắm, cười toe toét liếc về phía A Tuyết. Lương Tiêu khinh bỉ nghĩ: “Chí ít cũng bốn năm chục tuổi đầu rồi mà còn tự xưng là trẻ trung mến người ngọc. Trơ thế không biết!”.

Công Dương Vũ mỉm cười, lại hát:

Tân Đài tráng lệ, Hoàng Hà cuộn trôi,

Tưởng lấy được chàng xinh tươi,

Ngờ đâu gá nghĩa với người hom hem.

Tân Đài chất ngất, Hoàng Hà lao xao,

Tưởng sa xuống chốn thanh cao,

Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang.

Khấp khởi quăng lưới, vớt phải cóc già,

Tưởng thân gửi gã hào hoa,

Tân hôn đêm ấy hóa ra lão còng[7].

Hạ Đà La nghe ca từ dường như ngụ ý đả kích, nhưng không hiểu rõ lắm, đang cau mày ngẫm nghĩ thì Công Dương Vũ cười hỏi:

- Hạ xú xà, ngươi có hiểu Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang nghĩa là gì không?

Hạ Đà La cười đáp:

- Ngôn từ kín đáo sâu xa thế, sái gia lỗ mỗ Hán văn, thực không hiểu nổi.

Công Dương Vũ nháy mắt:

- Tưởng sa xuống chốn thanh cao, Ngờ đâu bất hạnh rơi vào bụi hoang, nói rộng ra là chê cười sự bất cân xứng, châm biếm những con cóc ghẻ không tự lượng sức đòi ăn thịt thiên nga ấy mà.

Hạ Đà La sầm mặt:

- Huynh đài muốn chửi sái gia là cóc ghẻ?

Công Dương Vũ cười tươi:

- Ấy, chính thế! Lão phu chửi ngươi ba lần cóc ghẻ mà ngươi vẫn một mực không chịu hiểu, thực là nước đổ đầu vịt. Ha ha ha…

Hạ Đà La hầm hầm hừ một tiếng rõ to.

Trong lúc hai người đối đáp, tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt dần dần thay đổi sắc độ, ai oán sầu thương giảm bớt, tăng thêm tình ý miên man. Công Dương Vũ ngạc nhiên lắng nghe.

Tiêu Thiên Tuyệt đang thổi bài Kiêm gia, cũng thuộc Kinh Thi:

Bên sông sậy mọc xanh xanh

Móc vương trên lá rành rành tựa sương,

Người ta đêm nhớ ngày thương,

Ở bờ đối diện mà dường quá xa,

Ngược nguồn tìm lối ta qua,

Gặp đường trắc trở cùng là quanh co

Trở lui tìm lối hạ du,

Ngờ đâu người lại lửng lơ giữa dòng.

Khúc hát này kể chuyện một chàng trai từng trải muôn vàn vất vả để đeo đuổi người mình yêu thương. Công Dương Vũ vốn có tâm bệnh nên rất đồng cảm với tình cảnh nhân vật. Ông đã lặn lội cùng trời cuối đất để tìm Lâm Tuệ Tâm, chịu đựng nhiều khổ sở tới mức toàn bài Kiêm gia cũng không đủ diễn tả một phần vạn nỗi khổ đó, càng ngẫm càng thương thân, đầu óc dần dần chống chếnh mụ mẫm.

Tiêu Thiên Tuyệt thổi hết một lượt bài Kiêm gia liền thổi lại lần nữa. Âm thanh đó vây bọc mọi giác quan của Công Dương Vũ, bản đàn dưới những ngón tay ông cũng dần dần đổi theo giai điệu Kiêm gia:

Rặng lau mọc kín bờ sông

Móc trong buổi sớm ròng ròng chưa khô,

Người ta thương nhớ mong chờ,

Thoáng trông hình bóng ở bờ bên kia,

Ngược nguồn chân lựa nẻo đi,

Gập ghềnh khúc khuỷu dễ gì tiến sang,

Trở lui tìm lối xuôi đàng,

Ngờ đâu người đã chuyển sang giữa cồn.

Công Dương Vũ dùng tiếng đàn đấu với Tiêu Thiên Tuyệt nhưng lại vô tình bị cuốn theo giai điệu lung lạc của đối thủ, chỉ thoáng chốc, nhịp tim hòa với nhịp đàn, đôi mắt dần dần rực lên cuồng nhiệt. Hạ Đà La nhận thấy có thể lợi dụng được, bèn nghĩ bụng: “Võ công tài trí kẻ này đều đáng gờm, không nhân đây trừ khử hắn thì còn đợi tới khi nào?”. Hắn lập tức ghé ống tiêu lên miệng, thổi ra âm thanh của chim thư cưu.

Thư cưu là loài chim ái tình, trống mái quấn quýt bên nhau cả đời không lìa xa. Tiếng tiêu của Hạ Đà La não nuột luyến láy, hệt như châm dầu vào lửa, khiến uy lực từ cây sáo sậy tăng lên bội phần.

Công Dương Vũ nghe sáo sậy và tiếng chim đồng vọng, tâm trạng thoắt phấn khởi thoắt bi ai, thoắt vui vẻ thoắt âu sầu. Bỗng nhiên, trước mắt ông thấp thoáng hiện ra hình ảnh Liễu Tình áo trắng chân trần, tóc xanh buông dài chấm đất yêu kiều đứng giữa mây trời, mỉm cười tươi tắn.

Khí huyết bừng bừng, Công Dương Vũ trân trân dõi nhìn bằng cặp mắt ứa lệ, đôi tay cất cao, ông gọi:

- Tuệ Tâm, cơn cớ gì mà nàng trốn tránh ta, cơn cớ gì? Nàng có biết ta tìm nàng khổ sở đến nhường nào không? Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co. Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co…

Ngày thường ông vẫn than sầu oán khổ, nhưng tự trọng thân phận nên thủy chung chỉ giữ trong lòng, lúc này bị tiếng sáo và tiếng tiêu thúc đẩy tâm tư nên thổ lộ cả ra, mà đã thổ lộ là ào ạt như thác đổ, không sao kìm nén được nữa.

Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ mất hết tỉnh táo thì lo cuống, khốn nỗi hai chẽ lá tùng găm cứng các huyệt đạo đã cản trở mọi cố gắng can thiệp của gã. Trong lúc bối rối, một tia sáng thình lình lóe lên trong óc: “Ban nãy Công Dương tiên sinh chẳng đã dạy ta Bích vi tiễn đó ư? Ngoài cương trong nhu là xuất, sao ta không lấy dùng thứ kình đó mà bắn mấy chiếc lá này ra?”.

Vừa nghĩ dứt, gã đã dồn nội lực đến huyệt Đản trung, đặt cương kình bên ngoài, nhu kình bên trong rồi bật cung, sau một tiếng “phụt” nhẹ, nhánh lá tùng rời thân bay ra. Lương Tiêu hoan hỉ lặp lại cùng cách thức, đẩy nốt cả chẽ lá tùng ở huyệt Thần phong đi.

Lúc này Công Dương Vũ đã mê man thần trí, hoa chân múa tay, lẩm nhẩm mãi câu hát Ngược nguồn tìm lối ta qua, Gặp đường trắc trở cùng là quanh co, bắt đầu mấp mé bờ vực của sự điên loạn.

Lương Tiêu không kịp đắn đo nhiều, lập tức nhảy vọt tới hét vang, áp một chưởng lên huyệt Ngọc chẩm của Công Dương Vũ, đổ chân khí vào Đốc mạch rồi dồn nó chạy tới huyệt Đại chuy.

Pháp môn này bắt nguồn từ thiên Nhập định trong Tử phủ nguyên tông. Thường khi bắt đầu tập nhập định, người tu đạo vẫn còn rất nhiều tạp niệm, chỉ sơ sẩy một chút là sa vào tẩu hỏa nhập ma, vì vậy bên cạnh phải có sư tôn hỗ trợ, gọi thần trí họ quay về. Tình cảnh hiện tại của Công Dương Vũ cũng tương tự tẩu hỏa nhập ma nên cách làm của Lương Tiêu công hiệu ngay tức khắc. Công Dương Vũ rùng mình, lập tức tỉnh táo lại.

Tiêu Thiên Tuyệt căm thù Công Dương Vũđến tận xương tủy, định nhân cơ hội ngàn năm một thuở này mà dồn kình địch vào cảnh chết vì loạn trí, nào ngờ đến thời khắc quyết định lại bị Lương Tiêu phá ngang. Nhìn đôi đồng tử của Công Dương Vũ trở nên linh động, Tiêu Thiên Tuyệt hiểu rằng thế là xôi hỏng bỏng không, trong lòng tức giận vô cùng, lão gắng đẩy sức vào tiếng sáo, nhằm lúc Công Dương Vũ chưa thật tỉnh táo thì tấn công để ông trở tay không kịp. Hạ Đà La cùng chung ý nghĩ, tiếng tiêu càng thêm riết róng.

Công Dương Vũ vừa tỉnh đã gặp ngay hai mặt giáp kích, thầm than nguy hiểm, lập tức tập trung tinh thần phòng thủ. Ông xếp bằng ngồi xuống, tay trái gẩy nhuyễn kiếm tấu thật nhanh giai điệu Phong vũ thuộc Kinh Thi hầu chống lại tiếng sáo sậy của Tiêu Thiên Tuyệt, tay phải gỡ bầu rượu sơn đỏ ở thắt lưng, đập nó cồm cộp lên mặt đá theo âm cung và thương tạo tiếng cú mèo kêu để chống đỡ nhạc tiêu của Hạ Đà La. Hiềm nỗi tâm lực ông đã tiêu hao quá độ trong lúc thất thần vừa rồi, chưa kịp điều hòa hơi thở lại phải đối phó cùng lúc với hai địch thủ nên nhọc sức vô cùng. Chỉ thoáng chốc, đỉnh đầu Công Dương Vũ bốc khói trắng nghi ngút, sau vài tích tắc, bầu rượu bửa đôi, lại thêm một lát, đầu ngón tay lướt qua lưỡi kiếm đứt da bật máu.

Lương Tiêu bèn tung mình lại gần Hạ Đà La, quạt chưởng tấn công. Hạ Đà La thấy gã còn quá trẻ mà chưởng phong đã quá đỗi sắc bén thì ngạc nhiên hết sức, nhưng đang đấu đến thời khắc then chốt, hắn không muốn phân tâm đỡ đòn, bèn nhích đi xa hơn một trượng.

Lương Tiêu phát chưởng hụt mà cũng không trông thấy động tác di chuyển của Hạ Đà La nên vô cùng kinh sợ. Gã xoay bật người, lướt sang chỗ A Tuyết ôm choàng lấy cô. A Tuyết mừng mừng tủi tủi, đôi mắt đẹp long lanh lệ. Hạ Đà La không tiện di chuyển về, nhưng bộ dạng đằng đằng sát khí, hầm hầm giương mắt nhìn.

Trận đấu giữa Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La mỗi lúc một nguy hiểm. Lương Tiêu xé áo bịt hai tai A Tuyết lại, đoạn vỗ ba chưởng về phía Tiêu Thiên Tuyệt. Họ Tiêu vẫn điềm nhiên ngồi yên, đợi chưởng phong của Lương Tiêu tới gần, áo lão bỗng phồng lên rồi xẹp xuống, đón và từ từ hóa giải luồng kình.

Lương Tiêu phát hoảng, muốn tiến lên giao đấu, song không nỡ bỏ A Tuyết một mình. Gã thầm nghĩ nếu không ngăn cản Tiêu Thiên Tuyệt và Hạ Đà La thì Công Dương Vũ chắc chắn sẽ thất bại. Đang bối rối, gã chợt nghe thấy tiếng chuông boong boong vọng tới, âm thanh đầy đặn và vang vọng khắp khe khắp núi, liền đó là một giọng oang oang:

- Hai đánh một, trơ tráo quá thể…

Cùng với lời nói, tiếng chuông vẫn ngân nga, nhịp buông điểm đúng khoảng lặng giữa những nốt chuyển của cây sáo sậy.

Tiêu Thiên Tuyệt bất ngờ, suýt bị tiếng chuông làm lạc nhịp, đành buông Công Dương Vũ, thúc nội lực vào tiếng sáo để đương cự tiếng chuông.

Công Dương Vũ nhớ lại tình cảnh khốn đốn vừa rồi, hai mắt trợn tròn, trỏ tay nói lớn:

- Hạ xú xà! Lúc trước không tính, bây giờ hai ta đơn đả độc đấu lần nữa.

Ông trút hết mọi căm giận với Hạ Đà La xuống Thanh Li kiếm, dùng nó thay đàn tấu bài Ân vũ:

Mau thay oai vũ nhà Ân,

Hưng binh chém Sở khí gần Đẩu, Ngưu…

Cảm nhận rõ rệt luồng sát khí rờn rợn bốc tận chân mây, Hạ Đà La không dám trễ nải, cũng dùng tiếng hót của muôn loài chim để đáp trả.

Bỗng đâu lại một tràng cười dài. Lương Tiêu dõi mắt nhìn ra. Từ cuối khúc quanh của sơn đạo, Cửu Như đang rảo bước chạy tới, vai vác quả chuông đồng cũ mòn, nhỏ bằng một nửa chiếc chuông đại ở chùa Hàn Sơn. Lão giơ gậy gõ liên hồi lên tang chuông làm phát ra tiếng boong boong ầm ĩ.

Nhận ra Lương Tiêu, nhà sư cười vang:

- Nhóc con, đã lâu không gặp!

Lương Tiêu ôm quyền đáp:

- Đại sư vẫn phong độ như xưa, thật đáng mừng!

Cửu Như cười ha hả:

- Tiểu tử dẻo mồm! Đợi bần tăng xong việc, chúng ta sẽ đánh chén một bữa thỏa thuê, uống hẳn ba trăm chung rượu! – Không đợi Lương Tiêu đáp lời, lão đã đưa mắt nhìn sang Hạ Đà La, cười bảo. – Hạ xú xà, bần tăng gặp người quen cũ, mải kể lể hàn huyên nên đến muộn. Ha ha, ngươi tưởng ta không nhớ đấy à?

Lão vừa nói vừa đập vù cây gậy xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Gậy đập thẳng xuống, động tác không có gì đặc biệt, song Hạ Đà La xem chừng rất úy kỵ, lùi tránh đến hơn một trượng. Hắn nhét ống tiêu vào trong tay áo, mỉa mai:

- Đồ lừa trọc, ngươi cứ muốn bám nhằng nhẵng đánh chí chết thế ư?

Cửu Như cười khì khì:

- Ta chỉ đánh chí chết thôi, còn bám nhằng nhẵng là cung cách của con rắn bẩn tính nhà ngươi. Người ta bảo đánh rắn phải đánh dập đầu, dắt trâu phải xỏ lỗ mũi. Ha ha, đáng tiếc Hạ xú xà không phải đạo sĩ, bằng không bần tăng cũng tìm một sợi thừng xỏ lỗ mũi ngươi dắt đi.

Trong lúc chọc ghẹo, nhà sư vẫn múa tít cây gậy.

Hạ Đà La lắc mình lùi xa ra, trợn mắt mắng:

- Đồ lừa trọc, trời đất tuy rộng lớn nhưng không có gì thoát khỏi hai từ “lý lẽ”. Sái gia chưa từng trêu cợt ngươi lần nào, vậy mà năm xưa ngươi ráo riết đuổi đánh ta khỏi trung nguyên. Cứ cho là bỏ qua chuyện quá khứ đi, hôm nay ta mới trở lại, tại sao ngươi cũng dai dẳng bám theo suốt mấy ngàn dặm qua?

“Thịch” một tiếng, Cửu Như dộng mạnh cái chuông xuống, cắm phập cây gậy gỗ trắc bên cạnh, cười nhạt:

- Ngươi đủ trơ trẽn để nhắc đến lý lẽ à? Ngươi đột nhập trung nguyên, tàn sát hơn ba trăm mạng, cưỡng bức hơn sáu mươi dân nữ. Chẳng từ một việc ác nào, chết trăm lần chưa đủ đền tội.

Hạ Đà La nóng nảy cắt ngang:

- Lũ dân đen đó sinh ra là để sái gia luyện công, giết vài ba đứa đã ăn thua gì! Còn đám đàn bà con gái kia, được sái gia biệt đãi là phúc phận của chúng nó, vừa khoái lạc vô bờ vừa bảo toàn tính mạng, nhất cử lưỡng tiện đến thế là nhất rồi!

Cửu Như quắc mắt, chạy quanh Hạ Đà La hai vòng, phỉ nhổ:

- Con rắn đốn mạt, ta quất nát đít ngươi!

Lão khua gậy lên, Hạ Đà La uốn mình tránh, lạnh lùng đáp:

- Đã thế, hôm nay có ngươi thì không có ta.

Hắn rút trên vai ra một thứ binh khí khuôn dạng kỳ lạ, tay cầm ở giữa, từ đó xòe ra bốn phía bốn mũi dao cong lưỡi liềm dài chừng một thước hắt ánh lạnh băng, trông tổng thế giống hình chữ卐.

Thứ binh khí này tên là Bát Nhã phong, sắc bén tuyệt luân, lối phát chiêu rất kỳ dị, Cửu Như bật cười:

- Ăn cắp ở đâu ra đấy? – đoạn tay phải múa gậy vun vút, tay trái cất chuông, miệng quát to. – Chết này!

Cái chuông kêu “hù” một tiếng, chụp xuống đỉnh đầu Hạ Đà La.

Bát Nhã phong lóe lên sắc lạnh, chém đứt đôi chuông đồng. Cửu Như cười ha hả, xoáy tít cây gậy như chim xuyên rừng cây, lao qua giữa hai mảnh chuông đồng, đập thẳng xuống ngực đối thủ. Hạ Đà La uốn mình tránh, động tác mềm dẻo như người không xương, binh khí quay vù vù hệt như một vầng trăng sáng lăng về phía Cửu Như.

Công Dương Vũ bình sinh tự phụ, thấy Cửu Như ra tay thì cũng ngừng gẩy kiếm tấn công Hạ Đà La.

Ông đưa mắt sang Tiêu Thiên Tuyệt, cười khà khà:

- Hạ xú xà có hòa thượng tiếp đón rồi, chúng ta cũng nên dứt khoát một lần cho xong.

Tiêu Thiên Tuyệt ngừng thổi sáo sậy, lạnh lùng đáp:

- Đúng ý lão phu.

Chữ “phu” vừa buông, tay áo Công Dương Vũ đã bay phần phật, lưỡi nhuyễn kiếm bắn tới trước mặt Tiêu Thiên Tuyệt.

Tiêu Thiên Tuyệt hơi đảo người, song chưởng thoắt biến đao biến kiếm, biến giáo biến thương, trong khoảnh khắc mà hoán đổi chiêu thức của bảy tám loại binh khí khác nhau để chặn thế kiếm dữ dội như cuồng phong của Công Dương Vũ. Nhà nho càng đánh càng sảng khoái, cất tiếng hú dài, đường kiếm phóng khoáng như gió thổi hoa rơi, lồng lộng như trăng soi mặt sóng, thoát khỏi mọi gò bó của ý thức, nghiêng dần về hướng tự nhiên tiềm thức.

Tiêu Thiên Tuyệt thấy khó mà chống đỡ được bằng tay không, bèn lấy sáo sậy ra khỏi tay áo. Thiên vật nhận của lão vốn là nội kình, yếu lĩnh ở chỗ “vạn vật trong trời đất đều là binh khí của ta”, hễ phổ nó vào chưởng, quyền thì da thịt rắn đanh như đao, chùy; phổ nó vào giấy, cỏ thì các đồ vật ấy cứng sắc như cưa, kiếm, không gì không chém được. Vì vậy mà ống sáo tuy chỉ là một đoạn lau sậy dài năm tấc, nhưng khi nằm trong các ngón tay Tiêu Thiên Tuyệt, nó trở nên khí thế và mạnh mẽ không thua bất cứ một loại khí giới nào.

Cuộc tỉ thí giữa bốn đại cao thủ hôm nay là một dịp hiếm có, cả đời cũng khó gặp một lần. Lương Tiêu theo dõi đến hoa cả mắt: xem cặp Cửu Như – Hạ Đà La thì lại bỏ lỡ Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt, nhìn Công Dương Vũ – Tiêu Thiên Tuyệt thì lại không bao quát được Hạ Đà La và Cửu Như.

Bốn đấu thủ ra chiêu càng lúc càng dữ dội. Trong một tích tắc tránh đòn, Hạ Đà La chợt nhận ra Công Dương Vũ đang đứng đâu lưng với mình, liền sinh ác tâm, bèn tận dụng khoảnh khắc né chiêu Cửu Như mà khua Bát Nhã phong đâm lén nhà nho.

Công Dương Vũ trở lui kiếm chắn đỡ. Tiêu Thiên Tuyệt tự phụ thân phận, không muốn liên thủ với Hạ Đà La bèn ngừng tấn công. Chợt Cửu Như cười to:

- Tiêu lão quái, ba mươi năm cách mặt, bần tăng tưởng ngươi đi ngủ với giun với dế rồi kia đấy! – Dứt lời, lão múa gậy đánh tới.

Tiêu Thiên Tuyệt giơ ống sáo gạt gậy ra, hoàn trả một chưởng, lạnh lùng đáp:

- Tên sư trọc nhà ngươi sống đến hôm nay kể cũng hiếm có nhỉ!

Cửu Như xoay gậy quét ngang đập thẳng, đâm trái hất phải, hai bên giao đấu không khoan nhượng.

Chẳng bao lâu, Tiêu Thiên Tuyệt xoay sang đấu với Hạ Đà La, Cửu Như thành ra đấu với Công Dương Vũ. Thuở xưa bốn người đã từng chạm trán, nay tái ngộ sau ngần ấy năm, ai cũng muốn xem đối phương tinh tiến bao nhiêu, vì vậy cứ lát lát lại đổi đấu thủ, chú ý thăm dò căn cơ của nhau.

Lương Tiêu theo dõi một cách say sưa, bất giác tự hỏi: “Trong số này, rốt cục ai là người lợi hại nhất nhỉ?”. Gã đang băn khoăn, chợt nghe Cửu Như cười bảo:

- Lão đồ gàn, ngươi khác với Tiêu lão quái và Hạ xú xà, bần tăng vốn chẳng muốn cho ngươi một bài học làm gì, khổ nỗi ngoại hiệu của ngươi lại phạm vào điều đại kỵ của bần tăng.

Công Dương Vũ cau mày:

- Ngoại hiệu nào?

Cửu Như cười:

- Có kẻ tán dương ngươi là thiên hạ đệ nhất kiếm, chữ “kiếm” thì thôi không nói, nhưng bốn chữ “thiên hạ đệ nhất” khiến bần tăng chướng tai không chịu nổi.

Công Dương Vũ nhổ phì phì:

- Ba hoa khoác lác, làm như ngươi là thiên hạ đệ nhất không bằng!

Cửu Như bật ngón tay cái trái, cười hì hì:

- Quả nhiên là dân đọc sách, hiểu nhanh hơn hẳn người thường. Bần tăng không chỉ là thiên hạ đệ nhất mà thiên thượng cũng là đệ nhất luôn đấy!

Trước thái độ dương dương tự đắc và giọng điệu huênh hoang của nhà sư, Công Dương Vũ vừa bực mình vừa tức cười, mắng rằng:

- Chả trách người ta gọi ngươi là lừa trọc, mặt dày hơn cả da lừa!

Ông ta được Cửu Như giải vây, lòng vốn cảm kích vô cùng, trước sau xuất thủ vẫn nương nhẹ, đến lúc này bị Cửu Như nói khích mới nảy thói háo thắng, tung hết chiêu thức ra giao đấu.

Hai người đều dùng binh khí màu đen, lúc tạm ngưng trông như rắn đen quấn cành khô, lúc tấn công dữ dội thì như rồng đen cưỡi mây. Cửu Như càng đấu càng hứng khởi, hò hét vang lừng.

Nhà sư đang hò la, chợt mé ngoài núi có người thét vào:

- Lão lừa trọc đấy phải không?

Tiếng thét tựa sấm rền, vang dội khắp dãy núi. Cửu Như hơi biến sắc, buột miệng gắt:

- Ừ, chính cha ngươi đây!

Người nọ cười ha hả:

- Lại đây lại đây, chúng ta tái đấu ba trăm hiệp nữa.

Cửu Như nhăn nhó sỉ vả:

- Đấu cái con khỉ, bần tăng còn có việc hệ trọng phải làm, không rỗi mà chơi với ngươi. – Lão bỏ mặc Công Dương Vũ, quất gậy đánh vút, nện thẳng xuống đầu Hạ Đà La.

Trong số bốn người thì thì Hạ Đà La có kém sút hơn chút đỉnh, đơn đả độc đấu may ra chống đỡ được chừng sáu trăm chiêu, nhưng cứ thay đối thủ liên tục, chiêu số biến đổi quá nhiều khiến hắn khó thích ứng. Lúc này hắn đang tập trung tinh thần đón đỡ, chắn chỗ này lại hở chỗ kia, bị Cửu Như nện liền hai gậy phải luống cuống giật lui.

Chợt Cửu Như gầm lên như sấm:

- Trúng!

Một gậy của lão bay tới, nện trúng vai trái Hạ Đà La. Tên này đau thấu xương cốt, lập tức quay mình chạy trốn. Cửu Như bám sát không rời. Bên chạy bên đuổi, chớp mắt đã phóng lên tới sống núi.

Đột nhiên, một người phi thân ra chặn đường Cửu Như, miệng cười hì hì:

- Lão lừa trọc, đánh nào, đấu nào!

Kẻ đó vừa nói vừa luôn tay luôn chân đấm đá, chiêu thức tinh diệu vô cùng, Cửu Như bản lĩnh là vậy mà cũng phải dừng bước.

Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt đều ngạc nhiên. Họ vừa tỉ thí với Cửu Như, biết rõ nhà sư lợi hại đến mức nào, nay thấy lão bị một người tay không vung quyền bức lui, chẳng ai hiểu ra sao nữa. Cả hai quan sát võ công của người mới đến, mặc dù kiến thức rất rộng mà đều thắc mắc trước đường lối võ công và lai lịch chủ nhân.

Sau khi xáp vào giao đấu chớp nhoáng chừng hai mươi hiệp, Cửu Như quật một gậy đẩy lui người nọ, tung mình nhảy vọt qua sống núi.

Đối thủ bị bỏ rơi kêu oai oái:

- Chạy đi đâu? Đánh nữa, đánh nữa nào…

Vừa gọi, y vừa nhào một vòng theo Cửu Như, mất tăm dưới mé bên kia. Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt thấy người nọ nói năng cử chỉ đều kỳ cục mà võ công cao cường nhường ấy thì đều hết sức tò mò, không ai bảo ai, cùng thi triển khinh công bám sát đằng sau.

Chạy được mấy bước, Công Dương Vũ chợt dừng chân, quay lại trừng mắt với Lương Tiêu:

- Tiểu tử họ Lương, hôm nay lão phu nhận ơn cứu viện của ngươi mà còn hạ thủ giết ngươi thì thật không phải. Nhưng nếu ngươi vẫn tiếp tay cho bọn Thát thì dù mang tiếng bất nghĩa, trước sau gì lão phu cũng lấy mạng ngươi.

Lương Tiêu thoáng trầm ngâm, đoạn vòng tay đáp:

- Xin tiên sinh yên lòng, từ nay về sau, Lương Tiêu quyết không làm tổn hại đến một dân lành nào của Đại Tống nữa.

Công Dương Vũ cau mày ngắm gã từ đầu xuống chân, đoạn gật đầu, chạy như gió cuốn theo hướng Tiêu Thiên Tuyệt.

Lương Tiêu nhìn theo bóng hai người, lòng chộn rộn muôn ý nghĩ. Lát sau ngoảnh lại A Tuyết, thấy hai má cô đỏ hồng, đôi mắt long lanh, hàng mi dài còn ngân ngấn lệ, gã bèn bắt mạch thử xem.

Nhận ra hai mạch Nhâm, Đốc đều tắc, Lương Tiêu vận nội lực khai thông, nhưng vô hiệu. Gã thi triển Bích vi tiễn, cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, ngưng khí làm tên, đẩy nội lực vào cơ thể cô gái. A Tuyết nghe lồng ngực nhẹ nhõm hẳn đi, buột miệng kêu:

- Ca ca, muội nhớ huynh chết đi được!

Lương Tiêu định đả thông Đan điền cho A Tuyết, nghe vậy mắng át:

- Mở miệng ra là chết với sống, gở kinh lên được!

A Tuyết đỏ mặt, cúi đầu vò vò chéo áo. Lương Tiêu hỏi:

- Tại sao muội lại ở đây?

Mắt A Tuyết hoe đỏ:

- Nghe… Hồ Lão Vạn kể huynh đuổi theo Công Dương tiên sinh và Tiêu Thiên Tuyệt, muội lo quá, liền quất ngựa rời thành đi tìm huynh.

Lương Tiêu phát cáu:

- Hồ Lão Vạn, cái đồ lắm mồm! Về rồi ta sẽ cho mấy cái bạt tai!

A Tuyết cuống quýt nài:

- Ca ca đừng đánh hắn. Hắn mà không nói, chẳng phải muội càng lo lắng hơn ư?

Lương Tiêu lườm cô:

- Lo lắng thì có tác dụng gì? Vậy tại sao muội rơi vào tay người áo trắng? Hắn… hắn có ức hiếp muội không? – Họng nghẹn lại, gã vội lấp liếm. – Thôi, nếu không tiện trả lời, coi như ta chưa hỏi, quên câu ấy đi!

A Tuyết lắc đầu:

- Muội không rõ nguyên nhân khiến hắn bắt muội, chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao đã bị đưa đến đây rồi. Chuyện cũng chẳng có gì bất tiện, để muội kể hết cho huynh nghe.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Muội khờ của ta, chắc đã bị hắn phạm đến thân rồi, vậy mà cũng không biết chuyện gì xảy ra nữa!”. Gã gắng nén nỗi đau lòng, dịu dàng bảo. – Muội kể những chi tiết bình thường ấy, chỗ nào không vui thì tránh đi. Từ rày về sau cũng đừng bận tâm nghĩ ngợi, coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là được.

A Tuyết ngạc nhiên:

- Coi như chưa từng xảy ra chuyện gì là sao? Muội nhớ rõ cả mà. Lúc đó muội phóng ngựa ra ngoài thành, chưa xác định được là nên đi hướng nào, đang sấp ngửa chạy chợt cảm thấy mình ngựa trĩu xuống tựa hồ có người ngồi lên phía sau lưng.

Lương Tiêu buột hỏi:

- Người áo trắng phải không?

- Vâng. Muội ngoái đầu nhìn thì chẳng thấy một ai, nhưng vừa quay đầu đi thì có luồng hơi phà vào tai muội tê tê buồn buồn thế nào ấy. – Kể tới đây cô cảm thấy hổ thẹn, khuôn mặt đỏ bừng.

Lương Tiêu cau mày, ngập ngừng hỏi:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó, muội thò chưởng ra sau đẩy hắn, không ngờ đẩy hụt, khi thu chưởng về thì hắn lại thở khì vào tai muội, vừa thở vừa thì thào: “Tiểu cô nương biết võ công à, hay quá nhỉ”. Muội phát hoảng, không nhịn được bèn hỏi: “Ta mặc đồ nam mà, vì sao ngươi biết ta là tiểu cô nương?”. Hắn cười hì hì: “Sái gia tinh mắt lắm, ruồi bay qua còn phân biệt được con đực hay con cái nữa là! Ở trung nguyên này, sái gia chưa từng gặp ai vừa xinh xắn vừa biết võ công như cô nương”. Nghe cái giọng thơn thớt nói cười ấy, không hiểu sao muội cảm thấy rất nhột nhạt, bèn đuổi: “Ngươi đừng ngồi sau lưng ta nữa, kẻo nặng quá ngựa nó không chịu nổi đâu. Ngươi mà không xuống là ta đánh đó”. Hắn cười: “Được, cô đánh đi, đánh trúng là ta xuống liền”, dứt lời liền với tay lên sờ soạng mặt muội.

Kể tới đây, A Tuyết cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc chín. Lương Tiêu nặng nhọc lắc đầu:

- Thế là đủ, ta không muốn nghe nữa.

A Tuyết nhíu mày:

- Sự việc sau đó lạ lùng lắm, huynh bỏ ngang là tiếc đấy. – Không để Lương Tiêu kịp lên tiếng, cô tiếp tục. – Khi ấy muội bực lắm, bèn ngoảnh đầu lại đẩy, nhưng không thấy hắn đâu, vừa xoay mình đi thì hắn đã phà hơi vào tai muội, còn lảm nhảm nhiều câu kỳ cục, muội không hiểu lắm. Nhưng câu này thì dễ hiểu, hắn khen muội ưa nhìn… Theo huynh hắn có nói thật không? So với Liễu cô nương, với chủ nhân hay Lăng thư thư, Băng thư thư thì muội không bén gót ai cả.

Lương Tiêu nhìn khuôn mặt khả ái trắng trẻo, thở dài bảo:

- Thôi thôi, không kể nữa, chúng ta về đi!

A Tuyết thắc mắc:

- Sao cơ? Sắp tới vô khối sự lạ, muội chưa nói xong mà.

Lương Tiêu xót xa nghĩ: “Để con bé kể ra hết rồi khóc thỏa thuê một bữa thì có khi tốt hơn”. Gã bèn nghiến răng bảo:

- Được, muội thong thả kể tiếp đi, ta nghe.

A Tuyết tiếp:

- Vâng, đúng lúc muội không xua đuổi được hắn, đang lo cuống cuồng thì sau lưng bỗng vang lên tiếng chuông coong coong y hệt tiếng chuông của ông sư vừa rồi ấy. Người áo trắng “hừm” một tiếng rồi rủa: “Đồ lừa trọc chết đâm chết chém, tổ sư con… bà ngươi”. – A Tuyết ngừng lời, ngượng nghịu thanh minh. – Câu này là tên áo trắng chửi, muội chỉ thuật lại thôi.

Lương Tiêu nín lặng. A Tuyết ngắc ngứ nói:

- Hắn lầm bầm mạ lị vài ba câu nữa rồi đột nhiên điểm huyệt muội, cười hì hì bảo: “Tiểu cô nương, ta mượn tạm con ngựa”, đoạn giằng dây cương, ra roi phóng điên cuồng. Chạy hồi lâu hắn mới dừng lại nghỉ, kéo muội xuống giải huyệt. Bấy giờ muội mới nhìn rõ hắn, lo rằng lỡ việc đi tìm huynh, muội sợ hãi òa khóc. Người nọ vỗ về: “Nín nín, chúng ta tìm một chỗ êm ái, sái gia sẽ khiến cô vui thích”. Muội đáp: “Không tìm thấy ca ca thì chẳng có gì khiến ta vui cả”. Người nọ cười: “Ca với chả cốc, lát nữa cô sẽ sướng mê tơi, rối rít gọi ta là ca ca ấy”. Muội nghe kiểu nói năng kỳ cục đâm bực, bèn bảo: “Còn lâu ta mới gọi ngươi là ca ca, trên đời này ta chỉ có một ca ca mà thôi”. Người nọ vẫn nhơn nhơn: “Lát nữa cô nương sẽ chẳng tự chủ được đâu, trông xinh xắn thế kia, lại là xử nữ, lại biết võ công, làm cái đệm cho ta luyện đan thì còn gì thích hợp bằng. – A Tuyết nhíu đôi mày thanh, hỏi. – Ca ca, đệm luyện đan là cái gì?

Lương Tiêu cũng không hiểu lắm, bèn nói át đi:

- Là cái cũng chẳng hay ho gì.

- Muội cũng ngờ ngợ rằng đấy chẳng phải những lời lẽ tử tế. Người nọ vừa lải nhải vừa nhìn muội với ánh mắt kỳ lạ rồi đứng bật dậy, kéo muội chạy vào rừng. Muội vùng vẫy mà không thoát được, đang lo quýnh, chợt lại nghe tiếng chuông ngân. Tên áo trắng sững sờ tức giận: “Tiên sư con lừa trọc, toàn làm người ta nhấp nhổm”, đoạn rủa xả vô khối lời lẽ thô tục. Hừm, muội phát ngượng miệng, cách quãng đoạn này nhé ca ca?

Lương Tiêu theo dõi câu chuyện mà tim giật thột từng hồi, lúc này nghe vậy bèn bảo:

- Không chỉ cách quãng mà còn nên quên sạch những lời ấy đi.

A Tuyết gật đầu:

- Vâng. Hắn vừa chửi rủa vừa lôi muội lên ngựa phi nước đại. Mỗi lần dừng lại, nghe thấy tiếng chuông vọng tới là hắn nổi điên, mà cũng như sợ hãi, vì hễ nghe tiếng chuông là lại quất ngựa chạy ngay.

Lương Tiêu thở phào nghĩ bụng: “Có Cửu Như đại sư đuổi theo phía sau, Hạ Đà La dù bắt được A Tuyết cũng không tiện giở trò. Đại sư luôn tay gõ chuông chắc cũng để khắc chế tiếng tiêu của hắn”.

A Tuyết tiếp tục:

- Chạy như thế suốt một ngày trời, cuối cùng con ngựa kiệt sức khuỵu xuống. Người đó bỏ ngựa lại, kéo muội đi bộ. Được một thôi đường, muội gặp một toán lính Nguyên đi ngược chiều. Thấy muội vận quân phục Đại Nguyên, họ bèn nhao nhao la lối, bắt tên áo trắng buông tha muội. Tên này khủng khỉnh cười, thình lình điểm huyệt muội rồi tung mình tới trước, giáng quyền lia lịa, mỗi quyền phóng ra là một người ngã xuống.

A Tuyết kể tới đây, khuôn mặt ảm đạm. Lương Tiêu nghĩ bụng: “Thì ra đám lính Nguyên mất mạng vì muốn cứu A Tuyết, ta chôn cất họ kể cũng như báo đáp được một phần”. Biết câu chuyện đang đến hồi căng thẳng, gã giục:

- Sau đó thì sao?

- Sau đó còn sáu binh sĩ sống sót, họ rất sợ hãi, ném vũ khí đi mà ra sức chạy trốn, nhưng bị kẻ kia tóm trở lại dồn vào làng. Trong làng vắng ngơ vắng ngắt, hắn bắt sáu người chặt củi nhóm lửa, vo gạo thổi cơm. Ăn xong, hắn ra lệnh cho họ xếp hàng một rồi vung quyền đấm, sáu người không động đậy gì cả. Hắn chạy quanh họ một vòng, cười ré lên tựa như cao hứng lắm.

Lương Tiêu ngẫm nghĩ: “Bao giờ Tiêu Thiên Tuyệt mới xuất hiện đây?”.

- Cười xong, kẻ đó bảo muội: “Tốt rồi, bây giờ lão hòa thượng cũng bị ta cắt đuôi, không còn ai quấy nhiễu giấc mộng đêm lành của chúng ta nữa…”. Hắn hau háu nhìn làm muội sợ chết khiếp. Muội vùng chạy, nhưng bị hắn tóm được tay áo. Đúng lúc ấy, trên mái nhà chợt có tiếng người nói: “Lão đồ gàn, chuyện của chúng ta phải gác lại đã”. Người khác nói: “Hay hớm chưa, khéo không mất cả chì lẫn chài, lão phu không muốn ngươi chết dưới tay kẻ khác đâu”. Người đầu tiên hừ mũi: “Nói thối đếch chịu được!”. Nhận ra giọng Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh, muội vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, ngạc nhiên vì tình cờ gặp họ, vui mừng vì nghĩ họ đã ở đây thì tức là ca ca cũng ở gần đây. Còn người nọ nghe tiếng biến sắc mặt, đoạn cười phá lên: “Lão quái vật, lão đồ gàn, các ngươi đều là tông sư một phái, cơn cớ gì nấp nom thò thụt, lẵng nhẵng bám theo sái gia như vậy?”. Tiêu Thiên Tuyệt lạnh lùng nói: “Lẵng nhẵng đâu mà lẵng nhẵng? Chẳng qua lão phu muốn xem ngươi tiến bộ đến mức nào nên cất công đi thêm mấy chục dặm mà thôi. Hừ, ngươi lại còn dắt theo cả nữ nhân, chắc chê trận đòn năm xưa ở phủ Khai Phong chưa đủ độ chứ gì?”.

- Ái chà! – Lương Tiêu kêu lên. – Khoan đã, muội nói là phủ Khai Phong à?

- Vâng, muội nhớ là ông ấy bảo phủ Khai Phong.

Lương Tiêu vỡ lẽ: “Thì ra là hắn. Hừ, Hồ Lão Vạn, cái đồ xuẩn ngốc, rõ ràng là Hạ Đà La lại nhớ trẹo thành Hoạt Lạc Đà mấy chả Tử Lạc Đà”.

A Tuyết tiếp tục:

- Tên áo trắng bảo: “Được lắm, Tiêu lão quái! Thôi thì ngươi và lão đồ gàn cùng lên một lượt đi, sái gia chẳng sợ đâu”. Tiêu Thiên Tuyệt hừ mũi: “Khỏi khích tướng, mình lão phu là đủ lấy mạng chó của ngươi rồi”. Nói đoạn ông ta nhảy xuống khỏi mái nhà, phát chưởng chém liền. Người áo trắng đón đỡ, cười bảo: “Chúng ta đọ cước lực trước”. Nói xong hắn túm lấy muội, guồng chân chạy vào trong núi, Tiêu Thiên Tuyệt liền đuổi theo. Người nọ chạy lòng vòng hồi lâu, chợt dừng lại: “Tiêu lão quái, sái gia mang theo một người, chạy mất sức quá. Bây giờ giao đấu thể nào ngươi chẳng chiếm ưu thế”. Tiêu Thiên Tuyệt bèn gợi ý: “Được, tạm nghỉ chừng thời gian cạn một chén trà rồi hẵng đấu tiếp”. Người nọ tỏ vẻ chán chường: “Tẻ nhạt quá, hay nhân lúc nghỉ thì tỉ thí kiểu khác vậy. Nghe đồn lão quái có hai con kên kên hung hãn vô cùng, đúng không?”. Tiêu Thiên Tuyệt hỏi thế thì sao, người nọ bèn nói: “Ta cũng có mấy con chim ưng, hay hai bên chọi chim rồi đọ võ công sau?”. Tiêu Thiên Tuyệt cố nhiên là nhận lời, tên kia bèn lấy ra một ống tiêu đỏ sẫm như máu, bắt đầu thổi…

Nghe tới đây, Lương Tiêu ngắt lời:

- Đoạn sau ta chứng kiến cả rồi.

Gã xúc động trong lòng, nghĩ thầm chuyến này A Tuyết còn giữ được sự trinh bạch đều là nhờ Cửu Như và Tiêu Thiên Tuyệt. Cửu Như đã đành, nhưng Tiêu Thiên Tuyệt cũng ra tay trợ giúp thì thực khiến gã bối rối không biết nên nghĩ sao cho phải.

Hai huynh muội ngồi lặng nhìn nhau hồi lâu. Cuối cùng Lương Tiêu chậm rãi bảo:

- Về thôi!

- Huynh không đuổi theo Tiêu Thiên Tuyệt và Công Dương tiên sinh nữa à?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta không bỏ muội ở đây được.

Nói đoạn gã quay đi, A Tuyết ngẩn ngơ một lúc, chợt níu tay gã kêu:

- Ca ca!

- Sao?

Lương Tiêu ngoảnh lại. A Tuyết rưng rưng lệ, run rẩy nói:

- Huynh hãy hứa, bất kể thế nào cũng không bỏ rơi muội. Suốt một đêm một ngày nay, cứ nghĩ không còn được gặp huynh nữa, A Tuyết… chỉ muốn chết đi cho rảnh. – Cô nấc nghẹn, nước mắt thánh thót tuôn rơi.

Lương Tiêu ngẩn người, giơ tay vuốt gọn mái tóc cô gái, thở dài bảo:

- Nha đầu ngốc nghếch, sau này dù đi đâu, ta cũng sẽ đưa muội theo, không để muội phải lo lắng nữa.

A Tuyết nghe vậy là thỏa nguyện, bỗng nhận ra đầu ngón tay Lương Tiêu lướt đến đâu, da thịt mình tê dại đến đấy, tim cứ đập thình thịch.

Lương Tiêu dắt tay A Tuyết chực đi, chợt nghe “Ha!” một tiếng. Từ sống núi phía sau có một người chạy vòng xuống, áo trắng tóc bạc, chính là Hạ Đà La.

Số là hắn lợi dụng lúc Cửu Như bị người lạ mặt nào đó lẽo đẽo bám theo, bèn ẩn thân vào bụi cây, đợi bốn cao thủ đi khuất cả mới thò mặt ra. Hắn tự nhủ nếu bọn Cửu Như muốn truy đuổi mình thì thể nào cũng tiến lên phía trước, thực tế mình chạy lộn lại, nhất định sẽ khiến ba kẻ ấy trượt mục tiêu. Nghĩ sao làm vậy, hắn mò về đường cũ, tình cờ chạm trán Lương Tiêu và A Tuyết.

Hắn liếc Lương Tiêu, cười rin rít:

- Ca ca cô đấy phải à? Nghe cô gọi thân thiết quá, sái gia phát ghen lên. Hay cô cũng nhận cả sái gia làm ca ca có được không?

Gặp phải cường địch, trí óc Lương Tiêu bắt đầu hoạt động rất nhanh để tìm cách đối phó. A Tuyết có gã bên cạnh nên can đảm hơn lên, mai mỉa đáp trả:

- Già đầu rồi mà còn đòi làm ca ca ta, tóc ngươi bạc trắng thế kia, làm bá bá ta có khi còn thừa tuổi đấy!

Hạ Đà La sầm mặt, nhép nhép môi, cười khan:

- Ngươi chẳng hiểu cái cóc khô gì, sái gia ta tóc bạc sớm, đâu phải là già. Ha ha, cô không muốn ta làm ca ca thì nhất định ta phải làm.

A Tuyết bĩu môi:

- Ta thèm vào, trên đời này ta chỉ có một ca ca.

Hạ Đà La dịu nét mặt, cười ha hả:

- Càng dễ xử, ta giết phăng tên ca ca này của cô, thế là cô chỉ còn một ca ca là ta đây thôi.

A Tuyết nghe bắt bẻ, nhất thời không đối đáp lại được. Hạ Đà La cứ nhếch mép cười nhìn Lương Tiêu, tựa hồ cân nhắc xem nên bắt đầu ra tay thế nào. Lương Tiêu bỗng nhướng mắt cười to:

- Cửu Như đại sư, người đến đúng lúc quá!

Hạ Đà La bị Cửu Như truy đuổi suốt ngàn dặm, vốn đã hết sức cảnh giác, hệt như con chim phải cung sợ làn cây cong, nghe Lương Tiêu nói thế lập tức ngoảnh phắt đầu nhìn ra, nhưng chẳng thấy bóng dáng ai cả. Hắn biết bị mắc lừa bèn ngoảnh ngay lại. Bấy giờ Lương Tiêu đã ôm A Tuyết chạy như bay đến một ngọn núi.

Hạ Đà La tức tối, nhưng vẫn cười rin rít:

- Đệ đệ cũng biết ghẹo người đấy nhỉ? – Đoạn lắc mình, chỉ hai nhịp nhấp nhô là đã tới gần Lương Tiêu khoảng mười trượng. – Tiểu cô nương muốn ca ca cô chết kiểu gì đây? Chết toàn thây hay bằm nát? Nếu cô không chạy, ta sẽ để hắn được nguyên vẹn về với ông bà tổ tiên.

A Tuyết sợ quá, răng đánh cầm cập, không thốt nên lời.

Lương Tiêu vụt đổi hướng, chạy tọt vào một vạt rừng rậm, gọi to:

- Công Dương tiên sinh!

Hạ Đà La cười rú:

- Hảo đệ đệ lại lừa ca ca rồi! Lát nữa sái gia sẽ cứa lưỡi đệ, xem nó dài tới chừng nào…

Hắn vừa trêu chọc vừa chạy theo vào rừng.

Chợt có tiếng gió sắc lạnh rít tới gần. Hạ Đà La lướt vội lại sau, vỗ song chưởng ra, chỉ thấy mấy vật bé xíu cắm phụp phụp xuống đất, hắn nhóng mắt nhìn kỹ, nhận ra đó là mấy chẽ lá tùng xanh mướt.

Hạ Đà La phát hoảng: “Bích vi tiễn của lão Cùng Nho? Rõ ràng hắn chạy cùng đường Tiêu lão quái, sao chỉ chớp mắt đã vòng về đây được rồi? Phải chăng hắn hận ta mấy lần ám hại nên cố ý sai thằng nhóc này ra dụ ta vào đây báo thù”. Nghĩ mà toát mồ hôi hột, Hạ Đà La bèn hộc tốc chạy trở ra, cười khành khạch:

- Giấu đầu hở đuôi thật chẳng xứng mặt hảo hán. Lão đồ gàn, có gan thì ra đây đấu ba trăm hiệp với sái gia.

Đợi một lát vẫn không thấy mảy may động tĩnh, Hạ Đà La rất đỗi ngờ vực, lại thét:

- Cùng Nho!

Nhưng vạt rừng vẫn lặng ngắt. Ngẫm lại, Hạ Đà La cảm thấy mấy mũi Bích vi tiễn chứa kình đạo rất thường, khác hẳn thủ pháp xuất quỷ nhập thần, nhanh đến chóng mặt của Công Dương Vũ.

Hắn bàng hoàng sực hiểu mình lại mắc lừa lần nữa, liền vươn cổ hú dài, chạy ào vào rừng, đuổi theo dấu vết Lương Tiêu. Phóng một mạch đến hơn ba trăm dặm, hắn nghểnh đầu nhìn thì thấy Lương Tiêu cõng A Tuyết bám dây leo trèo lên một ngọn núi cao gần đấy.

Hạ Đà La cười rú rít:

- Thú quá thú quá, đệ đệ thực giảo hoạt lươn lẹo.

Lương Tiêu nghe tiếng cười, luôn miệng kêu khổ. Sau khi dùng mưu đẩy lui Hạ Đà La, gã thầm nhủ đi đường bằng nhất định không thoát nổi hạng già đời lăn lộn giang hồ như tên xú xà kia, nhác trông có một cái hang trên sườn núi, gã bèn áp dụng cách thức hành quân địa hình bò lên đó, thầm nhủ khi Hạ Đà La phát hiện ra bị lừa và đuổi theo chắc cũng chỉ biết đường đi loanh quanh ven chân núi thôi.

Nào ngờ tình hình biến đổi khác thường, người tính không bằng trời tính, Hạ Đà La đã đuổi đến nơi. Lương Tiêu đang ở lưng chừng núi, khác nào cưỡi trên hổ, không xuống được nữa, chỉ còn cách gắng gượng tiến bước.

Càng lên cao, thế núi càng cheo leo hiểm hóc, rất nhiều chỗ chỉ có một hốc nông choèn hoặc một mỏm đá cạn để đặt mũi chân. Nghe tiếng cười rin rít chói tai, Lương Tiêu cúi đầu nhìn xuống, Hạ Đà La đạp bước phi hành, đã gần đến cái hang nơi sườn núi.

A Tuyết cuống cuồng kêu:

- Ca ca, hắn đuổi tới nơi rồi!

Lương Tiêu suy tính rất nhanh, chợt giơ kiếm lên chém đứt dây leo bên dưới.

A Tuyết đang lấy làm lạ, chợt nghe tiếng kêu tức giận của Hạ Đà La bèn ngoái cổ xuống nhìn, mắt bỗng hoa lên. Lúc này, hai huynh muội đã tới chỗ cao đến trăm trượng, rừng rú đất đá dưới kia đều bé như con kiến. Hạ Đà La đang dừng ở sườn núi, tay phải bám mỏm đá, hai chân cử động ngùng ngoằng, đẩy người trườn lên. A Tuyết ngạc nhiên:

- Huynh nhìn bộ dạng leo núi của hắn kìa!

Lương Tiêu ngó theo, cũng rất lấy làm thắc mắc.

Số là Lương Tiêu chặt đứt dây leo, Hạ Đà La mất chỗ vịn, chỉ còn cách vận dụng công phu để trèo lên, không ngờ mới trèo thêm được mấy trượng thì cánh tay trái bỗng rã rời đau nhói, hắn sực nhớ lúc nãy bị Cửu Như quật gậy vào vai. Cửu Như có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, một gậy đó đủ đánh nát đá tan vàng, Hạ Đà La thi triển nội công độc môn hầu khử bớt kình lực, nhưng vẫn bị thương vào xương cốt, bây giờ phải ra công trèo lên vách đá hiểm trở, vết thương tái phát, đau đớn vô cùng. Không làm sao khác được, hắn đành dùng hai chân và một tay leo lên.

Ba người leo cao dần, gió chướng quay cuồng xô đẩy, tở tóc tai họ rối tung. Mỗi nhịp dướn giúp Lương Tiêu tiến thêm vài trượng. Qua đến đâu, gã chặt sạch dây mây và tùng bách đến đấy, không chừa một chỗ bám víu nào cho Hạ Đà La. A Tuyết nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy cảnh vật bên dưới càng lúc càng bé, tim đập thon thót, cô hãi hùng không dám liếc mắt xuống nữa, nhưng khi ngẩng mặt lên trên thì càng bàng hoàng khiếp sợ.

Bên trên họ là vách đá sừng sững trơ lì, hệt như bị lưỡi tầm sét vạt thẳng một mảng, ngoài mấy nhành tùng trơ trọi thì không còn chỗ nào để tỳ tay đặt chân. A Tuyết ngấm ngầm than khổ: “Lỡ sơ sảy thì hai ta sẽ lộn cổ xuống tan thây chứ còn gì?”. Đang kinh hoảng quá độ, cô bỗng sực nghĩ: nếu rơi xuống, coi như được chết bên Lương Tiêu, vĩnh viễn không chia lìa nữa. Vừa nghĩ thế, bao nhiêu thảng thốt trong lòng bỗng chớm quyện ý vị ngọt ngào, cô áp đầu lên vai Lương Tiêu, nghe rõ nhịp tim gã truyền tới dập dồn. A Tuyết như chìm đắm trong cơn mơ mộng, bất luận mây núi tùng bách gì đều bỗng biến thành xa vời hư ảo.

Lương Tiêu không rỗi hơi mà bận tâm xem cô gái đang nghĩ gì. Gã chỉ một lòng một dạ tìm kế thoát hiểm nên tập trung tối đa sức lực cố gắng leo cao, thậm chí hai lòng tay đã trầy hết da, rướm máu, trét lên đá, lên dây leo mà gã cũng không cảm thấy.

Hạ Đà La không tài nào áp sát được, lại thiếu mất sức một cánh tay nên càng thêm chật vật. Hắn bò một lúc, ngước mắt nhìn thì thấy mấy trăm trượng trên kia nhẵn trơ, hệt như một mặt gương, lại thấy bóng Lương Tiêu mỗi lúc một xa, hệt như nhòa vào mây trời, hắn tức bầm gan tím ruột: “Tiểu tử này là khỉ vượn thành tinh chắc? Làm sao mà trèo nhanh như vậy?”. Lại cảm thấy cánh tay trái đau nhức lên từng hồi, xối vào tận óc, thầm biết nếu không tĩnh dưỡng thì sẽ để lại di chứng, mai sau không thể phát huy hết uy lực của võ công, dẫu bắt được Lương Tiêu đi nữa thì lợi bất cập hại, hắn bèn tính toán: “Sái gia hẵng tạm náu nơi sườn núi, đợi trị thương xong lên bắt chúng nó cũng chưa muộn”.

Hai canh giờ nữa trôi qua, cuối cùng Lương Tiêu cũng trèo tới đỉnh, tứ chi rời rã, liền ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc như trâu. A Tuyết lấy khăn tay ra thấm mồ hôi cho gã, đoạn đưa mắt nhìn quanh. Đỉnh núi rộng không quá mười trượng, địa thế tương đối bằng phẳng, chính giữa có một cây tùng cổ thụ, cành lá uốn éo mềm mại, dáng dấp thanh thoát, tán tỏa bóng rợp đến nửa đỉnh, dưới gốc cây có một tảng đá lõm tích đầy nước, nước trong leo lẻo nhìn tới tận đáy, rêu mọc xanh rì.

Lương Tiêu không kịp ngó nghiêng, lập tức vươn đầu ngó xuống, dưới thấp Hạ Đà La đang dùng một tay hai chân nhúc nhắc trườn lui. Lương Tiêu thoạt tiên kinh ngạc, rồi sực đoán ra nguyên cớ, gã yên yên dạ, bảo A Tuyết:

- Tên ác ôn kia tạm thời chưa lên đây, chúng ta theo mặt sau lần xuống thôi.

Gã kéo A Tuyết vòng sang mặt bên kia, nhưng thất vọng tràn trề, bởi ba bề núi đều là vách đá cheo leo, khúc khuỷu gập ghềnh hơn hẳn mặt trước, thậm chí so với chúng thì lối hai người vừa lên có thể coi là đường lớn bằng phẳng thênh thang.

Lương Tiêu ngao ngán ngồi bịch xuống, A Tuyết cũng lặng lẽ ngồi kế bên.

Hai người trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu chợt bảo:

- Phải lột vỏ cây bện dây mà xuống.

A Tuyết bảo:

- Ca ca mệt quá rồi, nghỉ một chốc nữa cũng được.

- Chỉ sợ thời gian không đợi chờ, vết thương ở vai tên kia mà bình phục thì hắn lên đây không khó khăn gì đâu.

A Tuyết cũng vô kế khả thi, đành gật đầu.

Sau chuyến tránh nạn chật vật, hai người đều mệt rũ, bèn tựa gốc cây tùng thiếp đi. Một lát sau, Lương Tiêu choàng tỉnh trước, cảm thấy gió chướng căm căm từ phía đông cuộn tới, lạnh cắt da cắt thịt, gã bất giác so vai rụt cổ, nhìn xuống thì thấy A Tuyết vẫn chưa tỉnh, người co quắp, áng chừng rét lắm. Lương Tiêu cởi áo đắp lên mình cô rồi ngồi quay lưng ra đầu gió.

Gã ngắm người con gái, thấy hàng mày thanh nhíu khẽ như vương sầu, bất giác xót xa trong dạ: “Từ ngày theo ta đến nay, muội thường phải lo lắng sợ hãi, chẳng mấy khi được yên ổn…”.

Lương Tiêu đang tự oán trách, chợt nghe A Tuyết gọi khẽ “ca ca”, gã cúi xuống nhìn kỹ, thấy hai mắt cô vẫn nhắm nghiền, chắc là nói mớ. Lương Tiêu thương xót vô cùng, lại thấy khóe mắt cô ứa lệ, đôi môi bặm bặm, lẩm nhẩm:

- Trăng cong gợi hàng mi, Khi nào đầy ai biết, Hồng đậu chẳng dám nhìn, Sợ mắt nàng hoen ướt. Tần ngần bổ quả đào, hạt tựa tim da diết. Hai đóa hồng chia xa, rồi sẽ thôi ly biệt…

Giọng A Tuyết tuy nhỏ nhưng rất rõ, từng lời từng chữ đều gõ mạnh vào trái tim Lương Tiêu. Mấy năm trước ở Thiên Viên Địa Phương, khi đọc bài tiểu lệnh này lần đầu, gã vẫn chưa thấm thía ý vị ai sầu ẩn sâu trong từ ngữ, đến nay, sau bao nhiêu trải nghiệm và thời gian, cuối cùng gã cũng thẩm thấu được đôi chút. Khi chia xa người thương, lòng nhung nhớ khiến ta nhìn đâu cũng thấy bóng hình nàng, chẳng dám ngắm trăng, ngại trăng cong gợi nhớ hàng mi dày, chẳng dám ăn hồng đậu, ngại nhớ đôi mắt nhòa lệ ướt, chẳng dám bổ đào, ngại trông thấy nhân hạt giống trái tim thổn thức. A Tuyết theo hầu Hàn Ngưng Tử đã lâu, hẳn nghe ngâm bài từ nhiều lần đến mức ghi sâu vào tâm khảm, bình thời không nói, đến khi mơ ngủ mới thốt ra.

Có lẽ cô đang nằm mộng thấy chuyện gì thương tâm lắm, lẩm nhẩm xong bài từ thì nước mắt đã vòng quanh. Lương Tiêu ngắm A Tuyết, một nỗi ăn năn bỗng nghẹn đầy lồng ngực. Gã bẩm sinh nhạy bén, làm gì không nhận ra tâm tư của người con gái, chỉ hiềm bấy nay không sao quên lãng được hình bóng Liễu Oanh Oanh nên nửa như vô tình nửa như cố ý né tránh tình cảm của A Tuyết. Bây giờ ngẫm lại, mối si mê của thiếu nữ ngây ngô này đối với gã chẳng khác nào dây trầu không cuốn thân cau, dẫu khô vàng úa héo cũng quyết không xa lìa.

Lương Tiêu nghĩ: “Ta đánh Tống là sai, lưu luyến Liễu Oanh Oanh có lẽ cũng sai nốt. Cô ta vừa gặp Vân Thù đã xiêu lòng, cớ gì ta phải bịn rịn mãi không quên?”. Nghĩ tới đây, cái bóng xanh thướt tha trong đáy tim gã bỗng nhòa đi, Lương Tiêu cúi đầu ngắm A Tuyết, lòng chớm rung động.

Khi A Tuyết mở bừng mắt thì gặp ngay cái nhìn thiết tha của Lương Tiêu. Cô không hiểu vừa xảy ra chuyện gì, chỉ biết mặt mình nóng lên, và tim đập hồi hộp trước ánh mắt ấy. Thoáng thấy khóe mắt gã dường vương ngấn lệ, cô hốt hoảng hỏi:

- Huynh khóc đấy à?

Lương Tiêu cau mày:

- Hỏi ngốc, ta khóc hồi nào? Chính muội khóc ấy.

A Tuyết giật mình hồi tưởng những cơn mộng mị, đoạn ngượng ngùng nói lảng đi:

- A, còn phải bện dây nữa đúng không?

Lương Tiêu sực nhớ, kêu lên:

- Trời ạ, ta quên béng đi mất!

Hai người lập tức tước vỏ cây bện thừng. Cây tùng lâu đời, vỏ và cành rắn đanh, may mà Ảo Nguyên kiếm khá sắc mới róc được. Tuy vậy công việc tiến triển khá chậm chạp, đến tận chập tối, họ mới tết được đoạn dài chừng một trượng. Hai người bận rộn làm đến tận đêm khuya rồi díp mắt ngủ thiếp đi.

Gần sáng, chợt nghe có tiếng chí chóe huyên náo từ vách đá cao hơn vọng xuống, Lương Tiêu và A Tuyết bàng hoàng choàng tỉnh, ngước mắt nhìn, thảy đều biến sắc. Vô số chim sẻ đang ràn rạt bay xuống, xoay tít mù như cơn lốc trên tán cây tùng.

Tiếng cười tựa kim khí của Hạ Đà La lan đi trong không khí, vọng tới chỗ họ:

- Hảo đệ đệ, hảo muội muội, các ngươi xuống núi cho mau! Kẻo ta phát hiệu lệnh thì các ngươi sẽ thành bữa điểm tâm cho đàn sẻ đó đấy, ha ha…

Giọng hắn không to, nhưng sử dụng thủ pháp thiên lý truyền âm nên nghe rất rõ, Lương Tiêu bủn rủn cả người, vận đủ nội lực cười lớn:

- Ai làm món điểm tâm cho ai còn chưa chắc đâu!

Hạ Đà La loáng thoáng nghe thấy, thầm nhủ không hiển lộ uy phong thì khó mà đàn áp được hai kẻ cứng cổ này, bèn thổi điệu nhạc chim. Đàn sẻ theo hiệu vỗ cánh soạt soạt lao bổ xuống gốc cây.

Lương Tiêu ra dấu cho A Tuyết xích lại gần mình rồi vo nắm đấm nện vào thân cây tùng, quyền kình tới đâu, lá rụng rào rào tới đó. Lương Tiêu vỗ ra hai chưởng, chưởng trước là cương kình, chưởng sau là nhu kình, hệt như cánh cung vô hình đón lấy màn lá tùng làm tên mà bắn ra ào ạt.

Đàn sẻ bị tiếng tiêu của Hạ Đà La sai khiến, mất hết cả thần trí, chỉ biết sấn sổ lao vào, không biết né tránh. Ngay tức khắc, loạt đầu tiên bị lá tùng bắn xuyên thân, rơi lộp bộp xuống đất, những con còn sống vẫn liều lĩnh công kích. Lương Tiêu đành liên tục bắn lá tùng, chỉ một lát sau, xác sẻ đã chất dày đỉnh núi.

Hạ Đà La những tưởng Lương Tiêu và A Tuyết sẽ chết khiếp vì đàn sẻ và mau chóng van xin đầu hàng, nào ngờ tấu nhạc vi vút hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, hắn chột dạ nhớ ra một chuyện, lập tức ngừng thổi, thét to lên rằng:

- Tiểu tử kia, ngươi biết dùng Bích vi tiễn phải không?

Lương Tiêu cười vọng xuống:

- Kể cũng không đần lắm nhỉ!

Hạ Đà La tức tối vô cùng. Bích vi tiễn chính là khắc tinh của trận pháp chim sẻ, ai mà ngờ Lương Tiêu đã luyện được. Hắn càng nghĩ càng đằng đằng sát khí.

Lương Tiêu đẩy lui được đàn sẻ, lại cấp tốc bện dây thừng, tiếc nỗi vỏ cây quá ngắn, nhiều lắm cũng chỉ được chừng mười trượng, huống hồ cũng không bền và dai đến mức gánh được thể trọng của hai người. Lương Tiêu cúi nhìn bốn phía, ngẫm nghĩ nếu chỉ có một thân một mình thì gã đã mạo hiểm trèo xuống, nhưng cách ấy không thực hiện được khi mang theo A Tuyết. Xuống núi thường khó hơn lên núi, gã bóp trán, lòng đầy ưu phiền.

Giữa trưa hôm sau, Hạ Đà La bỗng lại thổi tiêu, điều động đàn sẻ đến bay vần quanh đỉnh núi. Hắn đoán được dự tính của Lương Tiêu nên bày trận sẻ để phong tỏa hết mọi đường xuống. Nếu Lương Tiêu ngồi yên trên đỉnh núi thì còn dùng được Bích vi tiễn để phá trận, nhưng nếu gã tụt xuống theo vách núi thì bầy sẻ sẽ tập kích, bản lĩnh gã cao cường đến đâu cũng chỉ còn nước ngã lộn cổ. Kế bện dây leo hạ sơn vậy là không thể thực hiện được.

A Tuyết chỉ cần ở bên Lương Tiêu là đã hân hoan, chẳng hề bận tâm tìm cách thoát thân. Thấy sẻ chất đầy đỉnh núi, cô bèn nhặt một ít làm lông, dùng nước trong hõm đá rửa sạch, lại gom cành khô đánh đá nhóm lửa, xiên mười mấy con lên quay thơm lừng.

Khi sẻ chín, cô đưa cho Lương Tiêu một xiên. Lương Tiêu nếm thử, thấy thịt mềm vừa, lại thoang thoảng mùi gỗ tùng, bất giác tán thưởng:

- Khéo tay lắm.

A Tuyết rạng rỡ mặt mày, nếm thử một con:

- Không ngờ thịt sẻ ngon thế. Nhưng các thư thư nói, ăn thịt sẻ, khi cầm bút sẽ run tay. – Nói đoạn lại dàu dàu.

Lương Tiêu cười xòa:

- Miễn là muội chế biến thì dẫu toàn thân run bần bật, ta vẫn ăn sạch bách như thường.

A Tuyết cúi mặt, hai má thấp thoáng lúm đồng tiền:

- Vậy sau này muội sẽ thường xuyên quay sẻ cho huynh ăn.

Lương Tiêu thở dài:

- Không cần đến mức “thường xuyên”, chẳng qua hôm nay hoàn cảnh bắt buộc thôi.

Quay lại tình hình khó khăn trước mắt, Lương Tiêu nhăn nhó phiền não. Hồi tưởng cảnh Công Dương Vũ dùng diều thoát hiểm trên núi Thạch Công, gã thở dài nghĩ: “Đáng tiếc ở đây không dùng được cách ấy”.

Lương Tiêu buồn bã, niềm hứng khởi của A Tuyết cũng xẹp xuống. Cô ngây dại nhìn ra ngoài vực núi, ngắm bầy chim đang bay quần quanh rất tự do tự tại, trầm ngâm nói:

- Nếu chúng ta biến được thành chim thì hay biết mấy, dẫu cao dẫu xa đến đâu cũng có thể bay tới nơi.

Lương Tiêu nghe vậy, sực nảy ra một ý, nghiền ngẫm hồi lâu, gã vỗ tay cười lớn:

- Muội nói phải lắm, vậy chúng ta sẽ biến thành chim bay đi xa, để tên ác ôn kia không tài nào đuổi kịp nữa.

A Tuyết giương mắt nhìn gã đầy thắc mắc, Lương Tiêu mỉm cười:

- Muội còn nhớ con chim tre ta làm trước đây không?

A Tuyết nhìn gã cười cũng vui lây, gật đầu:

- Muội nhớ, chỉ cần xiết dây cót thật chặt là bay được, đáng tiếc chuyến này ra đi vội vội vàng vàng nên không kịp mang theo.

Lương Tiêu cười lớn:

- Không sao, ta sẽ làm một con to hơn để nó chở mình xuống núi.

Gã liếc mắt sang cây tùng già, ước lượng:

- Cây này là đủ gỗ dùng đây. – nói đoạn tuốt kiếm, ngắm nghía hồi lâu rồi ngậm ngùi. – Ảo Nguyên ơi Ảo Nguyên, mi vốn là một thứ binh khí lợi hại, đáng tiếc chủ nhân vô năng, đành để mi tủi phận làm rìu bổ củi. – Chợt thấy A Tuyết chắp tay sì sụp lạy cây tùng, gã ngạc nhiên hỏi. – Muội làm gì vậy?

- Muội đang nói với cây rằng: đại thụ ơi đại thụ, ngươi ăn sâu bám rễ ở đây suốt mấy trăm mấy ngàn năm, đáng tiếc huynh muội ta phải tìm đường sống nên đành hi sinh ngươi vậy. Ngươi có linh thiêng thì làm chứng, sau này nhất định ta sẽ thắp hương tế bái ngươi, cầu cho ngươi phiêu diêu về miền cực lạc.

Lương Tiêu sắp bật cười, chợt nhìn lại dáng vẻ cô đơn của cây tùng, bỗng không cười được nữa, tự nhủ: “Cỏ cây còn đáng thương huống hồ dân chúng thiên hạ, ta công thành phá lũy, tàn sát bao người còn ra thể thống gì?”.

Gã càng nghĩ càng buồn rầu, gắng trấn định tâm tư để vẽ sơ đồ chặt cây. Nhờ tiếp xúc với toán học phương tây, kiến thức về thuật cơ quan của gã càng thêm phong phú, so với con chim tre chế tạo dạo nào thì con chim gỗ tùng tinh xảo hơn nhiều. Lương Tiêu miệt mài thi công, đêm xuống cũng đốt lửa để làm, không hề ngơi nghỉ.

Sáng tinh mơ ngày thứ tư, gã đã hoàn thành con chim gỗ, hình dáng như chim ưng, tổng sải cánh dài cỡ ba trượng, chiều dài dọc thân là hai trượng năm thước, dưới bụng có lắp vòng xiết, đầu đuôi và hai cánh gắn bốn chiếc chong chóng, nối truyền động với hai tay quay ở mé trên. Phần đế đặt bánh xe tròn, dưới bánh xe đặt hai trục trượt làm đà cất cánh.

Chim gỗ tuy đã làm xong, nhưng hướng gió chưa ổn định nên không tiện cất cánh ngay, Lương Tiêu càng thêm chán nản. Tự cổ chí kim chưa ai bay bằng chim gỗ, chẳng may sơ suất, gã rơi xuống đất tan xương nát thịt đã đành, nhưng nếu A Tuyết có mệnh hệ gì thì dẫu xuống suối vàng gã cũng không nguôi hối hận.

Hạ Đà La ban ngày khóa kín mọi đường xuống núi, ban đêm thì chui vào hang vận công dưỡng thương. Nội công Bà La Môn của hắn cực kỳ thâm hậu, không cần thuốc thang mà đến đêm hôm thứ ba, vết thương ở vai đã khỏi. Ghét nỗi ban đêm trèo núi nhiều rủi ro nên hắn tạm nén lòng đợi trời sáng lại.

Mấy hôm nay, hắn đã hỏi thăm vài cư dân trong vùng, biết được ngọn núi này tên là Thiên Đô, với nghĩa “thiên tiên đô hội”, là ngọn hiểm trở bậc nhất trong bảy mươi hai ngọn của rặng Hoàng Sơn, từ xưa đến nay rất ít người leo được lên tới đỉnh. Hạ Đà La nghe kể nổi lòng hiếu thắng. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hắn đã lập tức rời sơn động, nội lực sung mãn, chân tay lành lặn, do đó cũng phấn chấn tinh thần, tay bám chân đạp, trèo băng băng lên vách núi.

A Tuyết giữ nhiệm vụ cảnh giới, không may sương mù và mây phủ che lấp tầm mắt nên cô không phát giác ra Hạ Đà La từ đầu, đến khi báo động được cho Lương Tiêu thì Hạ Đà La chỉ còn cách đỉnh hơn hai mươi trượng và vẫn nhảy như bay dọc vách đá. Gã thầm rủa: “Lão tặc đi nhanh thật!”.

Gió vừa lệch về hướng tây bắc, tuy vẫn chưa thích hợp lắm để cất cánh nhưng cũng chỉ còn cách thử mà thôi, Lương Tiêu bèn đỡ A Tuyết ngồi lên con chim, vặn tay quay, bốn chiếc chong chóng bắt đầu chạy ro ro, khuấy mù bụi đất trên đỉnh núi.

Lương Tiêu vung kiếm chặt đứt dây buộc ở đằng đuôi. Con chim trượt lọc rọc theo trục gỗ. Đến lúc thoát khỏi đầu mút, thay vì lượn lên khoảng không, nó bổ nhào xuống núi.

[1] Shiva Kundalini.

[2] Tức Yoga.

[3] Theo thuyết Long sinh cửu tử, rồng có chín con trai, ngoài bí hí ra còn tù ngưu, nhai xế, trào phong, bồ lao, toan nghê, bệ ngạn, phụ tí, ly hốt.

[4] Ngoài đồng hoang có con chương chết.

[5] Nàng rằng gà gáy.

[6] Lối tự xưng của đàn ông vùng Quan Tây thời Tống, Nguyên.

[7] Bài Tân Đài, thuộc Kinh Thi. Vệ Tuyên Công vốn đa dâm hiếu sắc, muốn cướp vợ của con trai nên dựng Tân Đài bên bờ Hoàng Hà để thực hiện ý định ấy.

Sự việc xảy ra quá bất ngờ, A Tuyết hãi hùng nhắm chặt mắt, la lên thất thanh, Lương Tiêu cũng hoảng hồn tái mặt, kêu trời như bộng.

Hạ Đà La trèo lên rất nhanh, chỉ chớp mắt đã cặp đỉnh, xảy đâu gió rít mạnh trên đầu, gần như quạt hắn ngã nhào xuống núi. Tưởng Lương Tiêu thừa cơ từ điểm cao tập kích, Hạ Đà La hấp tấp vận lực đánh ra một chưởng, vì từ dưới đánh lên, để đảm bảo độ sát thương nên hắn dồn đủ mười thành nội kình. Chưởng phong mang sức nặng ngàn cân, hất đúng con chim gỗ khiến nó tà tà bốc cao. Bốn chiếc chong chóng quay ngược chiều gió, chim gỗ trĩu xuống một nhịp rồi bật lên, dừng giữa lưng chừng, cuối cùng lấy lại thăng bằng và bay đi.

Lương Tiêu thở phào nhẹ nhõm, cười vang:

- Hạ Đà La, đa tạ ngươi đã tiễn chân bọn ta!

Tên cao thủ vùng Tây Vực nằm bám vào vách đá, ngơ ngác nhìn theo hai người đang nương chiều gió bay xa dần, nét mặt sửng sốt, tay chân rụng rời, suýt nữa hắn lăn tòm xuống núi.

Từ khi cất cánh, A Tuyết vẫn nhắm nghiền mắt, mãi cho đến khi con chim thôi lắc lư cô mới định thần, hé mi nhìn ra, chỉ thấy trước mặt trập trùng những ngọn núi xanh cao vút, nắng ban mai nhuộm ánh hồng rực rỡ lên biển mây bồng bềnh. Xa xa, sông hồ lấp lóa như dát vàng khảm ngọc, uốn lượn qua muôn dãy đồi rặng núi rồi chảy tan vào biển lớn. Mấy hôm nay, tuy mắt đã quen với phong cảnh Hoàng Sơn, nhưng chưa bao giờ A Tuyết thấy vùng núi ấy tươi đẹp như lúc này.

Con chim gỗ xuôi chiều gió đưa hai người bay qua đỉnh Quang Minh, ngọn Liên Hoa, ngọn Thiên Đô và lần lượt chao qua sáu mươi chín ngọn còn lại trong dãy Hoàng Sơn. Gió mát lồng lộng thổi phồng tà áo, không gian bao la khiến tâm hồn thảnh thơi rộng mở, Lương Tiêu không kìm được lòng, liền vòng tay ôm A Tuyết. Cô gái ngả đầu vào ngực gã. Trong khoảnh khắc ấy, thân thể và trái tim họ như hòa làm một, mọi mối ưu phiền, mọi sự tranh đoạt trên đời đều nhạt nhòa tan loãng như mây khói xung quanh.

Gió nhẹ đưa chim gỗ ra khỏi vùng núi. Trải dưới đôi cánh nó lúc này là bình nguyên bao la với ruộng đồng mênh mang và đường sá bằng phẳng. Nhiều nông dân đang cày cấy, trông thấy con chim gỗ thì bỏ dở công việc, la ó chỉ trỏ hoặc chạy theo xem.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn đồng bằng, thở dài ao ước:

- Giá được bay mãi thế này thì thích biết bao nhiêu!

- Phải lắm! – A Tuyết hưởng ứng ngay.

Lương Tiêu cười buồn, khi ngước mắt lên, nhận ra Trường Giang đang lấp lánh cuộn sóng phía trước, gã liền lay động tay quay. Con chim hạ dần về phía dòng sông, cuối cùng đáp xuống nước, bập bềnh trôi xuôi hạ du.

Lương Tiêu tháo cánh chim làm mái chèo, bơi rẽ về hướng bờ sông. Khi đặt chân lên nền đất cứng, hai huynh muội còn đứng lặng nhìn theo con chim gỗ cho tới khi nó trôi xa hẳn, lòng ngập tràn cảm giác nuối tiếc. Một lúc lâu sau, Lương Tiêu thở dài, dắt tay A Tuyết:

- Đi nào!

Cô gái ngước lên, ánh mắt họ giao nhau. Nhớ lại cảnh âu yếm trên cao lúc nãy, mặt hai người cùng nóng bừng. Lương Tiêu ngoảnh đầu đi, bồi hồi nhận ra rằng trong khoảnh khắc ấy, hình ảnh A Tuyết đã xâm chiếm toàn bộ tâm hồn mình. Gã liếc mắt nhìn trộm, thấy nàng đang chau mày cúi mặt, không hiểu nghĩ ngợi những gì, cảm thấy hơi ấm nơi bàn tay nhỏ nhắn thấm dần vào da thịt mình, gã bỗng xốn xang trong dạ, chỉ muốn ngửa mặt lên trời hú vang cho thỏa niềm thống khoái.

Hai người nắm tay đi về phía đông suốt một ngày thì đến đại doanh Kinh Khẩu. Lính gác trông thấy Lương Tiêu từ xa, vội cấp báo vào doanh. Cổng lớn lập tức mở toang, ba kỵ sĩ phóng thốc ra, chính là Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt. Cả ba đều bận áo sô giáp trắng, nét mặt buồn đau.

Khi tới gần, Lý Đình nhảy xuống ngựa, ôm choàng lấy Lương Tiêu khóc lạc cả giọng. Lương Tiêu đoán hiểu tất cả, muốn nói nhưng họng nghẹn ngào, đành chỉ vỗ vỗ vai gã. A Tuyết ngạc nhiên:

- Xảy ra chuyện gì thế Lý Đình? Vương Khả đâu?

Lý Đình rùng mình, nước mắt vòng quanh, môi run run nhưng không thành tiếng. Thổ Thổ Cáp buồn bã đáp:

- Vương Khả tử trận rồi!

A Tuyết máy môi, nước mắt dâng ngập mi rồi chảy ròng ròng xuống hai má. Thổ Thổ Cáp nghiến răng kể:

- Lương Tiêu bỏ đi mà không báo một lời, A Truật đại nhân giận lắm, trách ngươi là đồ vô kỷ luật. Ta nghe chướng tai, bèn bảo dẫu thiếu ngươi thì chúng ta cũng chẳng thua được nào! A Truật nói ngay: “Việc quân không phải chuyện chơi, ngươi đã chắc chắn như vậy thì khi khai chiến, các ngươi làm tiên phong, thắng là công lao các ngươi, thua là tội của Lương Tiêu, ta sẽ nghiêm trị hắn”. Chỉ lát sau, quân Tống hạ chiến thư khiêu khích, đại nhân kéo quân ra nghênh địch. Trận pháp đối phương vô cùng lợi hại, bên ta tổn thất khá nặng. Vương Khả liền đề xuất: “Chúng ta chết cũng không sao, quyết không được để liên lụy đến Lương đại ca”. Thế là hắn rủ Lý Đình dẫn một đội thuyền chất đầy hỏa khí lao vào giữa trận quân Tống, ta và Nang Cổ Ngạt bọc quân yểm hộ hai cánh. Không may Lý Đình bị địch nhân cầm chân ngang đường, Vương Khả bèn đốt luôn thuyền hắn rồi luồn thẳng vào tâm trận địch. Hỏa khí bắt lửa phát nổ, thiêu rụi ngay mười mấy chiếc tàu lớn của quân Tống, kế đó được hướng gió đông nên liên tục lan rộng, khiến mấy trăm dặm thuyền chiến của chúng đều cháy thành than… – Thổ Thổ Cáp nấc nghẹn, chua xót kết thúc. – Quân Tống đại bại, nhưng Vương Khả không quay về nữa, ngay cả thi… thi thể cũng chẳng thấy đâu.

Lý Đình khóc đến lả cả người, khi Thổ Thổ Cáp dứt lời, qua làn nước mắt nhòe nhoẹt, gã nhìn sang Lương Tiêu, thấy gã này cũng đứng như hóa đá, bèn nói:

- Lương đại ca! Nhất định huynh phải trả thù cho Vương Khả, chính mắt đệ chứng kiến tên họ Vân đứng hò hét chỉ huy trong hàng quân Tống. Trước kia thì hắn hãm hại Triệu San, Dương Giác, hôm nay lại đến lượt Vương Khả. Đệ… đệ không đội trời chung với hắn…

Lương Tiêu bỗng rùng mình, hộc ra một ngụm máu, Lý Đình hốt hoảng:

- Huynh sao thế?

Lương Tiêu quệt máu, ngước mắt lên vòm không xám xịt, lầm bầm:

- Sinh con trai phải đâu là tốt, con gái kia mới thực cát tường…

Lý Đình nghe lời lẽ quái lạ đâm rợn người:

- Huynh vẫn tỉnh táo đấy chứ?

Lương Tiêu gạt gã ra, sải bước vào doanh, giọng thảm não:

- Gả chồng cứ chọn tiện đường, con trai đành đoạn sa trường vùi thây. Người có thấy ở miền Thanh Hải, xương chất chồng hỏi mấy ai gom. Hồn ma cũ mới khóc om, trời sầu đất thảm âm âm tiếng hờ.

Mọi người đứng sững, nhìn theo bóng gã khuất dần trong khu lều trại.

Lý Đình gắng vắt óc đoán hiểu ý nghĩa của mấy câu vừa rồi, chợt một tia hồi ức xẹt qua tâm trí. Dạo lên đường tòng chinh, Lương Tiêu đã từng đọc bài thơ này, nào ngờ lời thơ ấy ứng vào bọn họ như một câu sấm nghiệt ngã. Bốn người bạn thân háo hức cùng nhập ngũ, chưa tới Lâm An đã chỉ còn sót mỗi một người. Càng nghĩ, gã càng không cầm được nước mắt, lòng đau như dao cứa.

Trong cuộc chiến Kinh Khẩu, thủy quân Tống tổn thất hơn một vạn thuyền chiến. Lâm An được tin, cả triều đình bàng hoàng thảng thốt. Cùng lúc bên nhà Nguyên, vua quan cũng đang xôn xao tranh cãi xem có nên tiếp tục diệt Tống hay không, vừa hay tin báo tiệp ở Kinh Khẩu bay về, Bá Nhan mừng rỡ dâng biểu: “Sau chiến dịch này, Đại Tống đã hao tổn nguyên khí, cạn kiệt sức lực, phòng thủ mà không giữ được, việc lấy tiểu thành Lâm An dễ dàng khác nào lấy đồ trong túi. Trời đang phù hộ chúng ta, đất đai vạn dặm của Đại Tống chính là cơ nghiệp ngàn đời của bệ hạ”. Hốt Tất Liệt đọc xong tấu chương, bất chấp chiến sự miền tây, lập tức phong Bá Nhan làm Hữu thừa tướng, A Truật làm Tả thừa tướng, Lương Tiêu làm Bình chương chính sự, hạ chỉ cất quân xuống nam tiêu diệt Đại Tống.

Bá Nhan trở về đại doanh, ra lệnh cho A Truật tiếp tục vây hãm Dương Châu, lại cắt Lương Tiêu làm tiên phong kéo quân xuống Thường Châu.

Thường Châu vốn là căn cứ địa của Thần Ưng môn. Sau khi Kinh Khẩu thất bại, Cận Phi và Vân Thù thu thập tàn binh quay về tổng đàn. Nghe tin quân Nguyên kéo xuống nam, hai người vào thư phòng mật đàm cả ngày mà không vạch ra được kế sách nào. Vân Thù ngồi thẫn thờ hồi lâu, chợt nói:

- Huynh đệ ta tử trận nơi sa trường đã đành, nhưng mẫu thân và tỷ tỷ thì tính sao đây? Văn nhi còn nhỏ, chẳng lẽ cũng phải tuẫn nạn vì đất nước à?

Cận Phi lắc đầu than:

- Sự bất đắc dĩ thôi!

Vân Thù cau mày:

- Theo đệ, nên bảo tỷ tỷ thừa lúc đêm xuống đưa mẫu thân và Văn nhi rời khỏi thành…

Cận Phi mắng:

- Vớ vẩn, chúng ta đang giữ trọng trách bảo vệ thành trì, lúc này lại lo di chuyển gia quyến riêng thì còn ra cái thể thống gì?

Vân Thù nhợt mặt, chưa kịp đáp lời thì cửa phòng kẹt mở, ánh sáng soi lên một lão phu nhân khuôn mặt đầy đặn, mái tóc muối tiêu, mình bận đồ sô gai. Sau lưng bà là một thiếu phụ chừng ba mươi tuổi, nét mặt nhang nhác Vân Thù.

Hai huynh đệ sửng sốt nhìn ra. Họ mải bàn bạc, lòng dạ lại ngổn ngang trăm mối nên không để ý rằng ngoài cửa có người. Cận Phi đứng bật dậy, thi lễ:

- Sư nương! – đoạn nhìn sang thiếu phụ. – Tiểu Tuyền!

Vân Thù cũng đứng dậy, cúi đầu trước hai người:

- Mẫu thân! Tỷ tỷ!

Vân phu nhân thong thả nói:

- Tình cờ đi ngang qua, ta đã nghe hầu hết những điều hai con thảo luận.

Giọng bà khản đặc, nhưng lời lẽ thốt ra rất rành rọt uy nghi, ánh mắt xoáy vào mặt Vân Thù:

- Lối suy nghĩ nhỏ nhen của con chẳng khác gì phường tự tư tư lợi như Giả Tự Đạo. Chẳng lẽ bao nhiêu đạo lý cha răn dạy, con đều bỏ ngoài tai hết cả rồi ư?

Vân Thù toát mồ hôi, khuỵu xuống run rẩy thưa:

- Hài nhi gánh nạn một mình đã đành, nhưng để liên lụy đến mẫu thân và tỷ tỷ thì thật không yên lòng.

Vân phu nhân thở dài:

- Nước non loạn lạc, việc nhà đáng chi? Bọn Thát xéo nát hàng vạn dặm giang sơn Đại Tống, tàn sát vô số gia đình, thêm một nhà họ Vân thì đáng kể gì? Ta không phải hạng đàn bà tầm thường, Tiểu Tuyền cũng rất hiểu đại cục. Ở Vân gia, đâu chỉ nam nhi mới biết điều trung nghĩa!

Giọng bà điềm đạm ung dung, Vân Thù nghe mà lòng đau như cắt, nước mắt lã chã tuôn rơi. Vân phu nhân thở dài, chìa tay ra đỡ Vân Thù dậy:

- Con có biết chữ “thù” trong tên con nghĩa là gì không?

- Dạ có, đó là chữ “thù” trong “đặc thù”.

Vân phu nhân gật đầu:

- Đúng, cha đặt tên ấy là mong con nổi bật hơn người, trở thành một đại anh hùng, đại hào kiệt khác hẳn số đông! Làm gì cũng ngó trước ngó sau thì đâu phải cốt cách của trang nam tử!

Vân Thù rùng mình, cúi đầu im lặng. Vân phu nhân ngoảnh lại hỏi Vân Tuyền:

- Văn nhi đâu con?

Vân Tuyền mỉm cười:

- Cháu đang luyện võ mẹ ạ!

Dứt lời, nàng đưa mắt nhìn Cận Phi. Hai người vừa là đồng môn, vừa là phu phụ. Cận Phi ngắm nàng, cảm thấy giữa lúc gian nguy này, mỗi ánh mắt nụ cười của thê tử đều đáng quý vô ngần, nhìn bao nhiêu cũng không đủ, bỗng lại nhớ rằng trong cuộc chiến sắp tới đây, tất cả chỉ có đường chết chứ không còn lối thoát nào nữa, y đau buồn khôn tả, cụp mắt xuống thở dài. Vân Tuyền nhẹ nhàng nắm tay Cận Phi, dùng đầu ngón tay viết nhẹ vào lòng bàn tay y: “Muội không sợ”. Cận Phi giật mình ngước lên, mắt ướt nhoèn.

Vân phu nhân vừa thong thả bước ra vừa bảo:

- Muộn rồi, các con đã vất vả suốt một ngày, mau đi nghỉ đi!

Vân Thù đưa mẹ về phòng xong, định quay về phòng mình thì nghe ngoài vách có tiếng binh khí va chạm, bèn đi vòng qua ô cửa tròn ra ngoài đình. Phong Miên đang cầm kiếm gỗ giao đấu kịch liệt với một thiếu niên sử thương. Sở Uyển chắp tay sau lưng đứng xem, thấy Vân Thù đến liền nhoẻn cười:

- Vân công tử!

Phong Miên muốn hiển lộ bản lĩnh trước mặt chủ, liền nhảy vụt ra sau hai thước, giả vờ sơ hở, dụ thiếu niên nọ xuất chiêu đâm mình. Khi thương đâm tới, Phong Miên vụt nghiêng người nắm lấy cán thương, giơ cao kiếm gỗ chém bộp xuống cánh tay đối thủ. Thiếu niên nọ đành thõng tay giật lui, tức giận thốt:

- Lại thua rồi! – Liếc thấy Vân Thù đứng sau, cậu kêu lên. – Cữu cữu, tại sao con toàn thua thế?

Vân Thù gắng tỏ ra bình thường, mỉm cười nói:

- Ai bảo trước đây con nghịch ngợm ham chơi, luyện công quấy quá!

Cận Văn níu lấy gã:

- Cữu cữu dạy con một ít bản lĩnh cấp tốc để con xung trận giết bọn Thát đi! – Nói đến ba chữ “giết bọn Thát”, mắt cậu bé rực sáng.

Vân Thù thầm thở dài, nhưng ngoài mặt vẫn gượng mỉm cười:

- Cấp tốc thì ta không dạy nổi.

Cận Văn bĩu môi:

- Hừ, cữu cữu hẹp hòi thế? – Cậu quay ngoắt sang Phong Miên. – Chúng ta đấu lại!

Hai bên hò hét, tiếp tục lao vào giao đấu.

Vân Thù theo dõi một lúc rồi bảo Sở Uyển:

- Lại đây, ta có chuyện muốn nói với cô nương!

Sở Uyển theo gã đi ra khỏi đình. Hai người im lìm dạo bước giữa những lùm cây bụi hoa, thình lình Vân Thù lên tiếng:

- Cô nên về nhà thì hơn!

- Vì sao? – Sở Uyển ngạc nhiên.

- Đang lúc nước sôi…

Sở Uyển không nghe hết, lập tức ngắt lời:

- Muội biết, nhưng muội không sợ! – Cô ta đăm đăm nhìn gã, ánh mắt long lanh, giọng dịu dàng. – Có huynh ở bên, muội không sợ gì hết!

Một cái bóng xanh bất thần lướt nhanh qua tim khiến Vân Thù bàng hoàng: “Sao ta lại nhớ tới nàng?”. Gã ngắm Sở Uyển, đau khổ nghĩ: “Sở cô nương cũng là một thiếu nữ tốt, nhưng… e rằng cả đời này, ta không bao giờ quên nổi người đó”. Trước ánh mắt trân trối của gã, Sở Uyển e lệ nhìn xuống, mặt đỏ như quả bồ quân.

Hai người đang lặng lẽ đứng bên nhau, chợt một a hoàn lao tới, kéo Vân Thù gọi giật giọng:

- Công tử ơi… nguy, nguy lắm…

Vân Thù ngạc nhiên:

- Nói chậm thôi nào Thư Mi!

A hoàn nuốt khan, òa khóc:

- Lão phu nhân… treo cổ tự tận rồi…

Hệt như bị sét đánh, Vân Thù giật lui, cơ hồ ngã phệt xuống. Sở Uyển vội giơ tay đỡ, gã thiếu niên chết điếng người, quáng quàng chạy vào phòng mẹ. Xác phu nhân vẫn treo lơ lửng giữa nhà, cổ thít một dây lụa bạch trắng như tuyết. Vân Thù lính quýnh đỡ mẹ xuống, đưa tay thăm mũi thì thấy đã tắt thở. Gã đau lòng quá độ, khóe mắt cay xè, những muốn khóc rống lên mà không sao bật được thành tiếng.

Chẳng biết ngồi thẫn thờ như thế bao lâu, chợt cảm thấy có người vỗ vai mình, Vân Thù ngước nhìn thì gặp ngay đôi mắt sưng húp của Cận Phi. Họ Cận trầm giọng bảo:

- Đại địch đang ở trước mặt, đệ hãy gắng kìm nén đau thương!

Vân Thù liếc ra sau y, chột dạ hỏi:

- Tỷ tỷ đâu rồi?

Cận Phi gục đầu:

- Nàng lừa lúc ta ra ngoài… đã nuốt vàng tự tận…

Y gắng sức nén tiếng thổn thức, nhưng không cầm được hai hàng lệ lăn dài trên má.

Cùng một lúc mất đi hai người ruột thịt, Vân Thù cứ ngồi bệt ra đất, đầu óc trống rỗng, không đứng dậy nổi mà cũng không nghĩ được gì nữa. Cận Phi nhác thấy trên bàn có tờ giấy hoa tiên liền cầm xem, trên đó viết bốn chữ tiểu khải: “Thà làm ngọc nát, còn hơn ngói lành”. Nét chữ thanh tú nhưng bút lực rất mạnh, hằn xuống cả mặt trái tờ giấy, Cận Phi nhận ra thủ bút của Vân phu nhân thì xót xa quá độ, nước mắt chứa chan.

Phương Lan lặng lẽ đi vào, nhìn hai người một lát rồi thở dài:

- Bọn Thát đã đến!

Hai huynh đệ cả kinh, vội kìm nước mắt chạy ra khỏi phòng, lao lên đầu thành. Trên cao, vòm trời bao la xanh ngắt không một gợn mây, dưới thấp, quân Nguyên rục rịch tiến đến, người ngựa dày đặc trên bình nguyên, nhìn không thấy đâu là cùng.

Đột ngột, quân Nguyên ngừng bước tiến, một kỵ sĩ tách tốp phi lên. Cận Phi cười nhạt:

- Định dụ hàng chứ gì?

Y khua tay. Ở các lỗ châu mai, cung nỏ đều kéo căng, chỉ đợi người nọ đến chân thành là bắn hắn thành nhím luôn.

Kỵ sĩ kia phi ngựa rất nhanh, trong thoáng chốc đã tới gần, Vân Thù nhận ra Lương Tiêu, lòng bừng bừng căm giận. Lương Tiêu đến cách thành một ngàn bộ thì gò cương, giơ cao hoa thương, ngửa mặt nhìn lên gọi:

- Có Vân Thù ở đó không?

Vân Thù hỏi to:

- Ngươi đến chiêu hàng à?

Lương Tiêu từ tốn nói:

- Không, ta đến khiêu chiến. Mong ngươi ra đây cùng ta quyết một trận đơn đả độc đấu. Nếu ngươi chết vì tay ta thì từ nay Lương Tiêu sẽ vĩnh viễn cao chạy xa bay, rút lui khỏi mọi cuộc chinh chiến. Nếu ta chết vì tay ngươi thì càng không còn gì phải bàn nữa.

Vân Thù nghe mà nóng máu, định nhận lời ngay, Cận Phi vội can:

- Kẻ này ngụy kế đa đoan, nhất định có âm mưu gì đây, đệ đang mang trọng trách giữ thành, không được khinh suất xuống đó.

Vân Thù sững người, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu đứng đợi hồi lâu, không thấy động tĩnh gì bèn sốt ruột gọi:

- Vân Thù!

Vân Thù nhăn mặt chực lao xuống, Cận Phi nhoài theo kéo lại:

- Đừng trúng kế khích tướng của hắn!

Vân Thù đành nghiến răng nén chịu. Gọi liền ba lần mà trên thành vẫn lặng ngắt như tờ, Lương Tiêu hậm hực quay ngựa trở về, cho quân hạ trại ngoài thành, từ hôm ấy tâm trạng buồn chán, ngày nào cũng say sưa chè chén với Trung Điều Ngũ Bảo. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình không hiểu ra sao, mà cũng không dám giục gã công thành, vì hễ hỏi đến là Lương Tiêu nổi cáu. A Tuyết thấy đại ca nát rượu như thế thì buồn lắm, khổ nỗi không giỏi khuyên nhủ, cô đành an phận túc trực thường xuyên bên cạnh để lau rửa chăm sóc cho gã.

Sáu ngày sau, Bá Nhan tới Thường Châu. Chứng kiến cảnh bê tha ấy, y nổi trận lôi đình, nhưng thấy Lương Tiêu say đến nỗi thậm chí không nhận ra mình là ai, y tạm thời hoãn xử phạt, thay Lương Tiêu đích thân điều động binh mã tấn công thành trì. Thường Châu thành cao hào sâu, Vân Thù lại giỏi phòng thủ, quân Nguyên tấn công hơn mười ngày mà không có cách nào phá hạ, ngược lại còn tổn thất rất nhiều.

Triều đình Tống nghe tin liền phái viện binh tới, khốn nỗi mới đến Ngu Kiều thì đã bị quân mai phục của Thổ Thổ Cáp đánh tan tác. Tháng thứ hai, Lý Đình phá hủy được tàu bè hộ thành của Thường Châu.

Nang Cổ Ngạt đắp đài cao ngoài thành, đưa thang mây áp sát tường lũy để một vạn bộ binh Nguyên triều đột nhập Thường Châu.

Quân Tống rút vào nội thành, vừa đánh vừa lui. Vân Thù đoạn hậu, múa song kiếm tít mù. Quân Nguyên cứ ùn ùn đổ vào. Được một hồi, Cận Phi thấy tình thế khó bề cứu vãn bèn quay sang túm vai Vân Thù bảo:

- Ta ở đây đương cự, đệ dẫn binh mã phá vòng vây phía nam mà chạy đi.

Vân Thù sửng sốt:

- Huynh nói gì vậy?

Cận Phi xẵng giọng:

- Đệ đã quên phải báo thù cho sư phụ rồi sao?

Vân Thù sững người. Cận Phi nghiêm mặt nói:

- Sư phụ lẫy lừng danh hiệp một thời, cuối cùng tính mệnh tiếng tăm thảy đều bị hủy trong tay Tiêu Thiên Tuyệt, thù cha chưa báo, đệ đâu được phép chết! Tài trí võ công đệ đều trên ta gấp trăm lần, hãy bảo toàn mạng sống để mai sau tiếp tục giao chiến với quân Thát.

Vân Thù vùng khỏi tay y, tức giận phản đối:

- Đệ thà tử trận chứ không bỏ trốn.

Cận Phi kề đao vào cổ mình, trừng mắt:

- Được lắm, nếu đệ không đi, ta tự tử ngay cho đệ xem!

Vân Thù choáng váng nhìn sư huynh, hai mắt đỏ hoe. Cận Phi đâm phập đao xuống đất, nắm lấy vai gã, ôn tồn bảo:

- Sư nương dùng cái chết để gửi gắm Thường Châu lại cho chúng ta, vì vậy ta quyết phải giữ thành đến cùng, nhưng cái chí đuổi man di của sư phụ cũng không thể bỏ lửng ở đây được. Đệ phải gánh lấy cái chí ấy, còn di ý của sư mẫu ta sẽ thực hiện trọn vẹn.

Vân Thù ngơ ngẩn đưa mắt nhìn Phương Lan. Lão già vuốt râu cười lớn:

- Tiểu tử ngốc nghếch, khỏi cần bận tâm đến ta, mau đi đi!

Vân Thù nghẹn ngào:

- Phương lão tiền bối…

Phương Lan xua tay:

- Thân này sắp xuống lỗ rồi, chẳng thiết chạy đâu nữa. Nếu hôm nay con phá được vòng vây, mai sau nhớ gắng sức giết thật nhiều lính Thát thay ta là được. – nói đoạn cười ha hả, giọng cười hào sảng là thế mà vẫn không che giấu được ý vị thê lương.

Vân Thù đang nghẹn ngào, Cận Văn đã dắt ngựa ra. Vân Thù nghiến răng đón lấy dây cương, nhảy phắt lên yên, thình lình ngoái lại tóm Cận Văn kéo lên cùng. Cậu bé bị điểm vào huyệt Khí hộ ở thắt lưng, không cựa quậy gì được. Cận Phi chưa kịp ngăn cản, Vân Thù đã giật mạnh cương. Tuấn mã tung vó phóng vút đi xa. Cận Phi thẫn thờ nhìn theo sư đệ, nước mắt ướt đẫm hai má.

Vân Thù dẫn quân đánh thẳng ra ngoài thành, Lý Đình nôn nóng báo thù nên ráo riết đuổi theo, tới Ngu Kiều thì bắt kịp. Hai bên lao vào chiến đấu kịch liệt, Vân Thù đại hiển thần uy, tung hoành xông xáo giữa trận địch, chém giết vô số rồi dẫn hơn một trăm binh lính sống sót xé trùng vây lao đi.

Hai bên chạy đuổi hơn một trăm dặm nữa. Thổ Thổ Cáp cũng dẫn thiết kỵ Khâm Sát đuổi theo hỗ trợ, ngựa phóng nhanh như gió, tên tới tấp như mưa. Quân Tống ngã nghiêng ngã ngửa, khi cặp bến Bình Giang thì chỉ còn mười kỵ mã, sông sâu trước mặt, kẻ địch sau lưng, quả thực tiến thoái lưỡng nan!

Vân Thù đã trúng mấy mũi tên, máu nhuộm ướt cả giáp sắt. Khi chạm bờ sông, gã không chần chừ nhiều, ôm chặt lấy cháu rồi hú vang, giật ngựa chồm dậy, lao vút xuống sông như mũi tên. Đám tàn quân cũng nhất tề hò hét, nhảy ào ào xuống nước theo gã.

Khốn thay phần lớn bọn họ đều đã bị thương, sóng nước Bình Giang lô xô, chỉ thoáng cái đã nuốt chửng hết người này đến người khác, duy chỉ có Vân Thù nhờ nội công thâm hậu nên cắp Cận Văn gắng sức đạp sóng bơi được sang bờ bên kia.

Quân Nguyên đuổi đến bờ sông. Thổ Thổ Cáp giương cung. Tên vừa rời dây đã bị một ngọn roi quất tới cuốn lấy. Thổ Thổ Cáp ngoái đầu nhìn, kinh ngạc kêu lên:

- Lương Tiêu!

Gã Bình chương chính sự hồi sáng còn say khướt, bây giờ đã nhìn hắn bằng cặp mắt sáng quắc tỉnh táo. Thổ Thổ Cáp ngạc nhiên hỏi:

- Sao không để ta bắn?

Lý Đình cũng thắc mắc:

- Phải đó đại ca, hôm nay không báo thù, còn đợi đến bao giờ đây?

Lương Tiêu nhìn theo Vân Thù hồi lâu, lắc đầu thở dài:

- Hảo hán!

Mọi người ngơ ngác. Lương Tiêu giật ngựa quay về, vừa thả nước kiệu vừa nói to:

- Hắn thà chết không khuất phục, chẳng phải hảo hán hay sao? Hảo hán như thế, ta muốn cùng quyết bề sinh tử chốn sa trường chứ không đời nào lợi dụng cái khó của hắn mà bắn hạ bằng cung nỏ!

Bọn Thổ Thổ Cáp đều đã từng giao thủ với Vân Thù, ít nhiều đều bội phục bản lĩnh của gã, nghe Lương Tiêu nói vậy thì không phản đối, cũng không gạn hỏi gì thêm nữa.

Vừa lúc ấy, một viên Bách phu trưởng giải tù binh đến. Lương Tiêu đưa mắt nhìn, nhận ra Sở Uyển và Phong Miên, cả hai đều trúng tên, đang vịn vào nhau chệch choạc bước đi.

Bách phu trưởng nói:

- Tôi phát hiện hai đứa này bị thương núp bên đường.

Sở Uyển trừng trừng nhìn Lương Tiêu, đôi mắt đẹp bắn ra đầy oán độc. Phong Miên chu môi nhổ nước bọt vào gã, nhưng bị thương yếu sức nên chỉ nhổ được tới vó ngựa mà thôi. Một tên lính đứng bên vụt giơ đao chém tên oắt to gan. Lương Tiêu liền quất roi cuốn phăng đại đao của hắn đi. Tên lính sợ sệt lùi lại sau. Lương Tiêu dặn viên y quan:

- Trị thương cho họ, không được ngược đãi.

Y quan vâng mệnh, rút mũi tên, bôi thuốc và băng bó vết thương cho hai tù binh.

Vân Thù gắng sức vượt sông lên tới bờ, hai cậu cháu dìu nhau mà đi. Sau một trận khổ chiến, họ đều đã sức cùng lực kiệt. Chật vật đi được một quãng, Cận Văn mất máu nhiều quá, ngã vật ra đất, Vân Thù cũng bị kéo ngã theo, tuyệt vọng nghĩ: “Chẳng lẽ chúng ta lại bỏ mạng ở đây?”. Thình lình có tiếng vó ngựa lộp cộp, Vân Thù ngoái đầu nhìn thì thấy nhiều bóng người lố nhố trong đêm, không rõ là bao nhiêu người.

Vân Thù gượng dậy thét to, múa thanh kiếm đâm túi bụi về phía toán người, nào ngờ mới chạy được mấy bước đã quíu chân ngã bẹp xuống, góc trán va phải một tảng đá xanh, hai mắt tối sầm, loáng thoáng nghe thấy tiếng đàn bà kêu lên, rồi đầu óc trống rỗng, ngất lịm đi.

Lương Tiêu dẫn quân quay về Thường Châu, đi được nửa ngày đường thì trông thấy bóng vọng gác in lên nền trời. Nang Cổ Ngạt phi như bay ra đón họ, mặt mày rạng rỡ. Lương Tiêu hỏi han tình hình trong thành, Nang Cổ Ngạt hớn hở kể:

- Bá Nhan đại nhân nói Thường Châu đã làm chúng ta tổn thất rất nhiều binh tướng, phải dạy cho bọn chúng một bài học, vì vậy đại nhân hạ lệnh “đồ thành”, giết sạch từ trên xuống dưới, gà chó cũng không tha. – Hắn cười vang khoái trá, chợt nhận ra mặt Lương Tiêu trắng bệch thì lo lắng hỏi. – Ngươi bị thương ư?

Lương Tiêu vụt túm lấy ngực Nang Cổ Ngạt, nhấc bổng hắn lên khỏi yên, gằn giọng:

- Bá Nhan hạ lệnh đồ thành?

Gã túm rất chặt, Nang Cổ Ngạt tắc khí không nói được, chỉ trả lời bằng cách gật gật đầu. Lương Tiêu lăng tay một cái, Nang Cổ Ngạt ngã ngửa xuống, suýt nứt xương sống.

Lương Tiêu quất ngựa phi nước đại vào thành, chạy quanh một vòng. Không còn một người Tống nào sống sót, chỉ thấy nhiều tốp lính Nguyên mắt đỏ ké, hò hét chém giết. Bọn Thổ Thổ Cáp chạy theo sau, thấy Lương Tiêu phi ngựa lang thang đã lâu, định gọi lại thì bỗng Lương Tiêu giật ngựa quay đầu, phóng nước đại ra khỏi thành, quay về đại doanh.

Phi một mạch tới trướng soái, gã nhảy phắt xuống ngựa, sải bước chạy vào, mấy tên thân binh không ngăn cản kịp, bị gã đấm nhát một ngã nhào hết cả. Bá Nhan đang dùng bữa, ngước lên chưa kịp hỏi han gì thì Lương Tiêu đã vung chưởng phải tát thẳng vào mặt y. Bá Nhan hoảng hồn giơ tay đỡ, chợt nơi ngực tắc nghẹn, hóa ra đã bị chưởng trái của Lương Tiêu khống chế rồi.

Bá Nhan vừa sửng sốt vừa tức giận. Nhưng từng trải trận mạc đã nhiều, y không biểu lộ gì, chỉ nghiêm khắc hỏi:

- Ngươi định tạo phản à?

Lương Tiêu nghiến răng, hai mắt trợn to như muốn nứt:

- Ông hạ lệnh đồ thành?

Bá Nhan cau mày:

- Thế thì sao? Thường Châu khiến chúng ta hao binh tổn tướng quá mức, nếu không trừng trị làm gương thì các thành trì khác cũng bắt chước cứng đầu cứng cổ theo, khi nào mới đến được Lâm An?

Lương Tiêu nhổ phì phì, giọng tức giận:

- Trên chiến trường, kẻ chết người sống là sự thường. Chém chết tướng sĩ thì còn đi một nhẽ, nhưng dân chúng trong thành tay không tấc sắt, ông đuổi tận giết tuyệt như thế, thử hỏi tinh thần anh hùng ở đâu?

Bá Nhan cười nhạt:

- Người trong thiên hạ, ai chẳng là máu thịt do cha mẹ sinh ra, ai mà chẳng có anh em vợ con? Cùng là sát nhân thì giết binh tướng hay dân thường cũng có gì khác nhau? Trước đây ngươi đã tàn hại bao nhiêu người, sao hôm nay bỗng đổi dạ nhân từ như đàn bà thế? Khi đánh trận, tướng quân là nông phu, tất cả số còn lại là lúa đồng. Ai gặt lúa nhiều hơn, nhanh hơn thì kẻ đó là danh tướng!

Y nói gay gắt, sắc mặt nghiêm nghị. Mỗi lời mỗi chữ đều như dùi nhọn xoáy vào trái tim Lương Tiêu. Gã khổ sở nghĩ: “Phải, đều là giết người thì có gì khác biệt đâu?”.

Lúc ấy, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình và Nang Cổ Ngạt hớt hải kéo nhau vào trướng, thấy cảnh ấy đều kinh hãi khôn tả. Thổ Thổ Cáp thét:

- Lương Tiêu, ngươi điên rồi sao?

Nang Cổ Ngạt cũng khuyên giải:

- Mau buông Thừa tướng ra, Lương Tiêu!

Lý Đình nói như khóc:

- Lương đại ca, đừng làm chuyện dại dột!

Lương Tiêu nghe can gián, tinh thần bỗng bải hoải. Bá Nhan thừa cơ vùng ra. Lương Tiêu toan đuổi theo, nhưng Thổ Thổ Cáp đã bổ nhào đến giữ chặt gã, Lương Tiêu lấy lại tỉnh táo, thúc cùi chỏ trái vào đúng huyệt Kỳ môn của Thổ Thổ Cáp khiến tên này ngã bổ chửng. Nhưng chỉ một thoáng trùng trình đó đã đủ để Bá Nhan áp sát, vung tả chưởng chém xéo lên ngực gã. Chưởng lực hung mãnh khôn tả, đẩy Lương Tiêu bắn đi đến tám bộ. Hai gối mềm nhũn, gã ngồi phệt xuống đất, miệng ộc máu tươi, đám thân binh hò hét xông tới, ấn dúi gã xuống đất.

Bá Nhan dùng mu bàn tay lau mồ hôi trán, hỏi bằng giọng sắc lạnh:

- Ngươi biết tội chưa?

Lương Tiêu nghiến răng im lặng. Bá Nhan mắng:

- Ngươi vô lễ với thượng cấp, hành thích chủ soái, thực là tội to bằng trời. Có cho voi giày ngựa xéo cũng không quá đáng!

Thổ Thổ Cáp quỳ thụp xuống:

- Mong Thừa tướng khai ân, Thổ Thổ Cáp nguyện đem tất cả công lao đổi lấy tính mệnh Lương Tiêu.

Nang Cổ Ngạt cũng quỳ xuống:

- Tính khí Lương Tiêu xưa nay vẫn nóng nảy thẳng thắn, khẩn cầu thừa tướng cho chúng thuộc hạ đưa hắn về khuyên giải dần.

Lương Tiêu cau mày cáu kỉnh, Lý Đình hiểu rõ tâm ý của gã, bèn dập đầu van vỉ:

- Lương đại ca, đừng nói nữa, đừng nói nữa!

Gã dập đầu đến nỗi trán trợt cả máu. Lương Tiêu đâm mềm lòng, bao nhiêu lời nóng nảy đều nuốt ngược vào, ngước nhìn Bá Nhan, giọng đã hòa hoãn hơn:

- Tôi xông vào trướng uy hiếp ông là quấy! Nhưng ông hạ lệnh đồ thành là sai!

Bá Nhan vốn không nỡ xuống tay với viên ái tướng này, thấy gã biết điều ăn nói ôn hòa thì cũng ôn tồn bảo:

- Đồ thành đúng hay sai thì khoan bàn đến. Ngươi đã nhận lỗi, vậy ta hẵng nể mặt ba vị này mà tha cho ngươi một lần, lần sau còn tái phạm thì chém chết không bàn ra tán vào gì cả. – đoạn khoát tay. – Thả hắn ra!

Các thân binh vâng lệnh buông Lương Tiêu.

Lương Tiêu từ từ đứng dậy, Lý Đình định đỡ lấy gã, nhưng bị gã rảy ra. Lương Tiêu nén chịu nội thương, chậm rãi bước ra khỏi trướng. Bọn Thổ Thổ Cáp sợ gã lại gây chuyện nên đi theo xa xa đằng sau. Lương Tiêu về đến tận trướng mới ngoái đầu lại hỏi:

- Bọn tù binh đâu?

Thổ Thổ Cáp đáp ngay:

- Bọn họ được đối xử rất tốt, đúng như ngươi dặn.

Lương Tiêu bảo Lý Đình:

- Đưa họ ra đây!

Lý Đình phóng ngựa vào doanh, chỉ lát sau đã đưa bọn Sở Uyển ra. Lương Tiêu lặng im một thoáng rồi xua tay:

- Thả bọn họ!

Quân sĩ vâng lời tháo dây trói cho hai người, Sở Uyển không hiểu ra sao, hừ mũi rồi vênh mặt bước đi, Phong Miên cũng trừng mắt nhìn Lương Tiêu, nén đau tập tễnh theo sau Sở Uyển.

Lý Đình tức khí phản đối:

- Hai tên này là đồng bọn sát hại Tam Cẩu Nhi, không thả chúng được!

Lương Tiêu im lìm nhìn theo bóng Sở Uyển và Phong Miên mãi cho đến khi không còn trông thấy họ nữa mới hỏi:

- Các ngươi thử nói xem, chúng ta đánh nhau là vì cái gì?

Nang Cổ Ngạt, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp nhìn nhau ngơ ngác. Sau một lúc ngẫm nghĩ, Nang Cổ Ngạt trả lời:

- Thì cũng như Thành Cát Tư Hãn nói đó, điều khoan khoái nhất trong đời nam tử là dẹp yên loạn lạc, chiến thắng địch nhân, đoạt của cải, cướp tuấn mã, bắt lấy thê thiếp của chúng.

Thổ Thổ Cáp phụ họa:

- Đúng vậy, Thành Cát Tư Hãn đã nói thì nhất định không sai đâu.

Lý Đình ngập ngừng một thoáng rồi cũng gật đầu tán đồng.

Lương Tiêu nhìn ba người bạn, ánh mắt lúc lóe sáng lúc tối sầm, đoạn buồn rầu ngó sang thành Thường Châu:

- Tàn sát quyến thuộc, phá tan nhà nát cửa, cưỡng bức vợ con và cướp đoạt những thứ người ta yêu quý, đó là chí hướng của các ngươi phải không?

Ba người bối rối nhìn nhau, Thổ Thổ Cáp ngập ngừng:

- Hình như ngươi có gì không ổn…

Lương Tiêu cười buồn, phất tay áo rồi lững thững bỏ đi.


Thường Châu bị phá, Tô Châu và Hồ Châu trông gương tày liếp, lũ lượt treo cờ trắng đầu hàng. Mùa xuân năm sau, Thổ Thổ Cáp công phá Độc Tùng quan, mở đường cho đại quân Nguyên triều kéo vào Lâm An. Quan viên lớn nhỏ giẫm đạp lên nhau chạy trốn khỏi kinh thành. Tống đế và Tạ Thái hậu hết cách ứng phó, đành phái sứ nghị hòa nhưng bị Bá Nhan từ khước, không lâu sau cũng phải giao nộp ngọc tỉ truyền quốc, dâng biểu đầu hàng. Bá Nhan cất quân tới chân thành Lâm An, Tạ Thái hậu dắt ấu đế Triệu Hiển ra quy thuận. Vua tôi Đại Tống ngậm hờn nuốt lệ quỳ rạp trước vó câu Mông Cổ. Xảy đâu trời bỗng đổ cơn mưa phùn lắc rắc, phủ lên núi non đồng dã một tấm màn nước u ám mịt mờ. Bá Nhan xuống ngựa đỡ Triệu Hiển dậy, bất giác cảm thấy đắc ý vô cùng, không kìm được thống khoái phá lên cười ha hả. Mười vạn quân Nguyên hoan hô rầm rĩ phụ họa chủ soái. Quần thần Nam triều vừa khiếp hãi vừa thương thân, đôi hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Người đương thời là Uông Nguyên Lượng có làm bài thơ than rằng:

Núi Tây Tái mặt trời chìm lấp,

Cửa Chính Bắc mưa bụi rắc rây.

Người bắc cười người nam nhỏ lệ

Đỗ quyên, ta vái một lạy này.[2]

.

Lương Tiêu theo đại quân xuống nam, chức là Bình chương chính sự, danh là phó soái toàn quân, thực chất chỉ ngất ngưởng với rượu, ngày nào cũng say ngả say nghiêng, chẳng có lấy một phen tỉnh táo.

Sáng hôm ấy, sau một đêm túy lúy, gã thức giấc với cái đầu đau như búa bổ. A Tuyết thiết tha nài gã ra khỏi doanh trại dạo chơi cho khuây khỏa, Lương Tiêu không nỡ làm cô mếch lòng, đành miễn cưỡng ưng thuận.

Hai huynh muội lỏng cương để ngựa đi tha thẩn ven hồ Tây Tử. Trước mắt họ là mây xám nhàn nhạt, khói sóng mênh mang, đình đài lầu các vẫn vẹn nguyên cảnh cũ, chỉ khác là thiếu tiếng cầm ca réo rắt, bặt hơi đàn sáo rộn ràng, xa xa sương mù giăng kín chân trời khiến không gian ảm đạm, che mờ cả đường nét hùng vĩ của núi Tây Tái.

Lương Tiêu ngắm Tây hồ, hồi tưởng buổi đầu gặp gỡ cha con Hoa Thanh Uyên. Lúc ấy gã và Hiểu Sương còn nhỏ, chưa hiểu chuyện đời, tính tình rất đỗi hồn nhiên, ngày nay cảnh sắc vẫn y nguyên mà sao tâm hồn không thể như trước nữa.

Lương Tiêu đương bồi hồi thương cảm, chợt nghe văng vẳng tiếng hồ cầm, giai điệu thảm não thê lương, liền đó có giọng ca hòa vào:

Chim chóc bay liền cánh,

Cây cỏ mọc liền cành,

Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh,

Trên tổ uyên ương sánh,

Phố sá phồn hoa lấp lánh,

Thế gian thái bình.

Ngờ đâu nổi trận điêu linh,

Tây hồ tan vỡ mọi nhu tình.[3]

Khúc nhạc buồn nản nghẹn ngào, ngân nga hồi lâu không dứt.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Chim chóc bay liền cánh,Cây cỏ mọc liền cành, Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh, Trên tổ uyên ương sánh. Quả thực Tây hồ được tự nhiên ban cho nhiều vẻ phong lưu, dễ gợi hứng hưởng lạc. Trách nào vương công Đại Tống chẳng ham mê trác táng đến nỗi mất sạch tất cả, ngay cả Tây hồ cũng không giữ được. Giá dành một nửa thời gian vui thú xa hoa ấy vào việc trị quốc rèn thân thì làm gì đến nông nỗi này?”. Càng nghĩ càng u uất, gã tháo nậm rượu dốc một hơi cạn sạch.

Khi họ trở về doanh trại thì đã quá trưa, Bá Nhan cho người tới triệu kiến. Lương Tiêu bảo A Tuyết về trước rồi chậm chạp đi vào trung quân, mới gần tới trướng soái, đã nghe bên trong vọng ra nhiều tiếng nói cười nhộn nhạo. Trông thấy gã, Bá Nhan hồ hởi gọi:

- Đến đúng lúc lắm, mau lại chào mấy vị khách quý!

Đám người hiện diện trong trướng cùng ngoảnh ra nhìn.

Lương Tiêu đảo mắt một vòng, mặt tái hẳn đi. Người ngồi bên phải Bá Nhan là vương tử Thoát Hoan, bên trái là Hạ Đà La vận áo trắng phau. Mé dưới Thoát Hoan là một lão già tóc bạc áo vàng, chính thị Hoàng hạc Minh Quy. Mé dưới Hạ Đà La là một lạt ma áo vàng vai u thịt bắp, tướng mạo thô kệch đang xếp chân bằng tròn. Sau lưng bốn người này còn vài gương mặt khác mà phần lớn Lương Tiêu đều đã gặp qua, lần lượt là Cáp Lý Tư, Hỏa Chân Nhân, A Than tôn giả, cuối cùng là một lão già áo xanh lạ mặt, vóc người cao gầy, mặt mũi xương xẩu, thần thái ôn hòa. Lương Tiêu không ngờ những kẻ đối địch mình lại khéo chọn thời gian và địa điểm để hội tụ đến thế, bất giác tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, hơi rượu giã đi quá nửa.

Thoát Hoan nhận ra kẻ thù cũ, nét mặt thoạt kinh ngạc thoạt giận dữ, nhưng chỉ thoáng chốc đã làm ra vẻ tươi tỉnh:

- Lương Tiêu đây à? Quả là tuổi trẻ tài cao đúng như lời đồn nhỉ!

Hắn nghiến răng trèo trẹo khi nói ra bốn chữ “tuổi trẻ tài cao”, rõ ràng là thù hận chứ chẳng ngụ ý tán thưởng gì. Bá Nhan đánh mắt ra hiệu cho Lương Tiêu, đoạn vui vẻ giới thiệu:

- Vị này là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, hiện đang tiếp quản Giang Nam.

Lương Tiêu vẫn đứng như bụt mọc, Bá Nhan cau mày:

- Gặp vương gia sao không hành lễ?

Lương Tiêu nhếch mép, ngước mắt nhìn nóc lều. Bá Nhan tuy bất hòa với Thoát Hoan nhưng cũng không muốn hắn phải bẽ mặt trước đông người, đang khó xử thì Thoát Hoan phẩy tay, nói cộc lốc:

- Thôi, ta và Lương đại nhân cũng là chỗ quen biết cũ, chẳng phải quỳ lạy làm gì cho nhiêu khê!

Bá Nhan mỉm cười, tận dụng câu đó để thoát khỏi tình thế lúng túng, lại trỏ Minh Quy:

- Đây là Minh tiên sinh, quân sư mới của Trấn Nam Vương. Tiên sinh túc trí đa mưu, học nhiều hiểu rộng.

Minh Quy hơi ưỡn mình lên, phác một điệu bộ như cười với Lương Tiêu, nhưng không tỏ tiếng nhận quen. Lương Tiêu ngạc nhiên tự hỏi, không hiểu tại sao lão già kiêu ngạo này chịu khuất thân làm đầu sai cho Thoát Hoan. Bá Nhan chìa tay về phía lạt ma áo vàng:

- Đây là Đảm Ba đại sư, đại đệ tử của Đế sư[4] đương triều Bát Tư Ba.

Lương Tiêu giật mình, Đảm Ba thì gã không biết, nhưng danh tiếng Bát Tư Ba thì gã đã từng nghe đến rồi. Thiên hạ đồn rằng người này bẩm sinh mẫn tuệ, mười sáu tuổi gặp Hốt Tất Liệt là được phong ngay làm Đế sư, quyền nghiêng một cõi, thanh uy hiển hách.

Đảm Ba chắp tay chào hỏi:

- Bình chương dụng binh như thần, danh thơm vang lừng đến cả triều ca, Đảm Ba kính ngưỡng đã lâu!

Lương Tiêu cúi mình đáp lễ, giọng bình thản:

- E rằng thiên hạ đồn đại quá lời!

Thoát Hoan thấy gã bái chào Đảm Ba mà không dập đầu lạy mình, bất giác hừ mũi tức giận. Bá Nhan toan dẫn kiến tới Hạ Đà La thì lão này đã đứng bật dậy, hể hả nói tranh:

- Đúng là người nhà mà chẳng biết nhau, sái gia có mắt như mù, lỡ tay đắc tội chỗ nào thì mong Bình chương đại xá cho chỗ đó.

Ai cũng lấy làm lạ, không hiểu hai người quen nhau lúc nào và ở đâu. Lương Tiêu tự nhủ đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, lão già mặt trơ trán bóng này đã nhận lỗi mà mình còn khiêu khích báo thù thì tỏ ra quá hẹp hòi, bèn cười nhạt, quay đi định ngồi xuống, chợt nghe Cáp Lý Tư hỏi:

- Bình chương đại nhân còn nhớ tiểu nhân không nhỉ?

Nhìn cái mặt hơn hớn và ánh mắt láo liên, Lương Tiêu cảnh giác gật đầu:

- Nhớ.

Cáp Lý Tư sải bước ra giữa sảnh, cười hì hì:

- Nếu đại nhân không chê Cáp Lý Tư thấy người sang bắt quàng làm họ thì hãy tỏ tình thân mật chút nào! – Hắn chìa tay trái cho Lương Tiêu.

- Ừ thì tỏ! – Lương Tiêu đáp và giơ tay phải.

Đúng lúc tay hai người áp sát, chiếc nhẫn Xà Nhãn ma toan ở ngón giữa của Cáp Lý Tư vụt xoay mặt đá xuống hướng lòng bàn tay.

Bá Nhan trông thấy rõ mồn một, chưa kịp thét dừng thì tay hai người đã chạm vào nhau rồi buông ngay ra. Lương Tiêu quay mình bước về ghế ngồi, Cáp Lý Tư vẫn đứng đực tại chỗ, mắt nhìn xuống, mặt nhợt nhạt, thảng thốt kêu lên:

- Bình chương đại nhân, xin dừng bước!

Lương Tiêu ngoái đầu:

- Sao nào?

Cáp Lý Tư lắp bắp:

- Nhẫn… nhẫn tôi…

- Nhẫn nào? – Lương Tiêu hỏi.

Cáp Lý Tư nhìn trân trân vào mặt Lương Tiêu, mắt rực lửa. Viên kim cương Xà Nhãn là báu vật gia truyền của nhà hắn, cứng rắn dị thường, cắt đứt được cả đao kiếm bằng thép tinh, vừa rồi hắn định thừa cơ bắt tay để chọc chủng bàn tay Lương Tiêu. Nào ngờ gã thiếu niên tương kế tựu kế, thi triển ngay Như ý ảo ma thủ nhẹ nhàng tuốt chiếc nhẫn khỏi ngón tay đối phương. Khi Cáp Lý Tư phát hiện ra biến cố thì Lương Tiêu đã thu tay về rồi. Không dưng mất cả chì lẫn chài, chưa đả thương được địch thủ đã bị cướp nhẫn quý, Cáp Lý Tư vừa kinh hãi vừa tức giận khôn tả.

Lương Tiêu nghênh ngang ngồi xuống, mặt thản nhiên như không. Cáp Lý Tư đứng mãi đấy không tiện mà về chỗ cũng không xong, chực mở miệng kêu, chợt Hạ Đà La xì xà xì xồ mấy câu. Cáp Lý Tư sợ sệt lùi về sau lưng lão. Hạ Đà La nhìn thẳng vào mặt Lương Tiêu:

- Bản lĩnh của Bình chương đại nhân thật cao cường! Con trai ta có chỗ nào mạo phạm, mong đại nhân thứ lỗi cho!

Lương Tiêu liếc Cáp Lý Tư, lạnh lùng hỏi:

- Hắn là con ngươi à? Ta thấy ngươi là con hắn mới phải.

Thoát Hoan và bọn tùy tùng thảy đều biến sắc, bất bình nghĩ bụng: “Tên này nói năng hỗn hào quá!”. Không ngờ Hạ Đà La hớn hở mặt mày, bật ngón tay cái cười vang:

- Đại nhân tinh tường thực! Hạ mỗ vốn bất tài, chẳng tinh thông môn pháp nào cả, được mỗi thuật dưỡng sinh trụ nhan là tương đối có thành tựu, tuổi tác ngần này rồi nhưng so với người ngoại tam tuần thì trông vẫn trẻ hơn. – nói đoạn vênh váo nhìn quanh, vẻ dương dương tự đắc.

Lương Tiêu vốn muốn làm cho cha con hắn bẽ mặt một phen, nào ngờ Hạ Đà La không tức mà còn hí hửng, khiến gã cụt hứng, chẳng buồn ngó ngàng tới ai nữa, rót rượu ra chén uống tì tì, chỉ thoáng chốc đã cạn sạch hai bình rượu nóng rồi nằm gục xuống bàn, mụ mẫm thiếp đi.

Những người hiện diện trong trướng đều tỏ ra khinh rẻ bộ dạng nát rượu của Lương Tiêu. Bá Nhan bất bình nghĩ: “Thằng ôn này mỗi ngày một tồi tệ, sớm biết nó làm ta xấu mặt thế kia thì đã không gọi sang”. Y đành giả vờ không chú ý đến tác phong của viên ái tướng, quay lại trò chuyện với khách khứa:

- Đảm Ba đại sư phụng chỉ đến trấn yểm long mạch Đại Tống, chẳng hay phương pháp cụ thể thế nào?

Đảm Ba mỉm cười:

- Nghe trấn yểm thì to tát, thực chất tiến hành cũng không mấy phức tạp. Trước tiên cần kéo đổ hoàng cung Đại Tống, cắt lấy căn mạch địa linh của nó, sau đó đào tung lăng tẩm của Tống đế các đời, trộn lẫn tinh cốt họ với xương trâu ngựa rồi vùi xuống đất, xây tháp cao mười trượng chặn bên trên, thu thập kinh Phật, tượng Phật, chân ngôn Mật tông về cất giữ trong đó. Cứ thế, vương khí Đại Tống sẽ lụi tàn, long mạch bị cắt rời, con cháu họ Triệu vĩnh viễn không còn ngóc đầu dậy được nữa!

Lương Tiêu không muốn chuyện trò với đám người này nên cố ý giả say, nghe đến đây rùng mình nghĩ bụng: “Vậy là tên sư trọc kia tới Lâm An để đào mộ người ta? Hắn là kẻ xuất gia, đúng lẽ nên lấy việc hành thiện làm đầu, sao có thể hành động đê hèn đốn mạt đến thế?”.

Thoát Hoan góp chuyện:

- Theo ta, cắt long mạch nhà Tống vẫn chưa đủ đâu.

Đảm Ba tỏ vẻ chú ý:

- Hẳn vương gia có cao kiến, tiểu tăng xin nghe.

Thoát Hoan nói:

- Họ Triệu dứt mạng hoàng đế đã đành, nhưng khó lòng đảm bảo các họ khác không nổi lên chống phá. Chẳng làm thì thôi, đã làm thì nên mạnh tay cho triệt để, phải dò hết mộ táng của các danh gia sĩ hoạn nhà Tống mà tróc đến tận đáy, như vậy mới bảo đảm Đại Nguyên chúng ta sẽ thiên thu trường trị, nhất thống sơn hà.

Đảm Ba băn khoăn:

- Vương gia dạy cũng có phần đúng, nhưng mộ phần của người Tống nhiều như thế, đào sao cho hết?

Thoát Hoan cười hì hì:

- Thì đào được cái nào hay cái đó!

Bá Nhan gật gù:

- Vương gia nói phải lắm! Cũng như hành quân đánh trận đấy, hôm nay giết mấy trăm binh mã, ngày mai gắng lấy mạng đại tướng, khiến chúng mất cả lớn lẫn bé, cuối cùng đành tự nhận thua!

Thoát Hoan vỗ tay:

- Chẳng thẹn là danh tướng đương thời, chuyện gần chuyện xa đều xoay quanh việc đánh trận.

Mọi người cười ồ.

Lương Tiêu càng nghe càng căm giận, phẫn nộ nghĩ thầm: “Ta vào sinh ra tử tranh đoạt giang sơn, không ngờ lại phục vụ cho phường bất nhân vô liêm sỉ này”. Hơi men bốc lên, gã đập mạnh bàn, đứng bật dậy.

Trong trướng lặng ngắt. Bá Nhan nhìn mặt Lương Tiêu, biết rằng sắp có chuyện chẳng lành. Y định quát bảo để trấn áp gã phó soái nóng tính, chợt phía xa có tiếng động rất lạ vọng tới, thoắt chậm thoắt nhanh, thoắt bổng thoắt trầm khiến người ta nôn nao khó chịu. Lương Tiêu quên bẵng cả điều định nói, đưa mắt nhìn ra bên ngoài. Bá Nhan hạ lệnh cho Na Tốc đi xem tình hình, chỉ lát sau, Na Tốc đã dẫn vào một viên Bách phu trưởng bộ dạng nhớn nhác.

Bá Nhan nghiêm giọng hỏi:

- Hoảng hốt cái gì? Mới thế này đã mất vía thì lúc ra chiến trường còn quýnh quíu tới mức nào?

Bách phu trưởng nuốt ực một cái, vội vàng thi lễ:

- Khởi bẩm Thừa tướng, trong doanh trại hữu quân xuất hiện một quái vật!

Bá Nhan lạnh lùng bảo:

- Chỉ giỏi tầm xàm, ban ngày ban mặt lấy đâu ra quái vật?

Bách phu trưởng biện bạch:

- Tiểu tướng không dám nói ngoa, tiếng động vừa rồi chính do quái vật phát ra đấy.

Đám khách khứa giật mình. Bách phu trưởng kể:

- Thoạt tiên, tiếng động truyền đi từ lều của Ngột Đột Hải, một thuộc hạ của tiểu tướng. Lúc ấy chẳng mấy ai bận tâm, còn tưởng đó là tiếng ngáy của hắn. Tiểu tướng nghĩ chưa tới giờ gà lên chuồng đã chây lười đến thế thì thật không nên, bèn bảo Hô Hòa Đài đi lôi hắn dậy.

Bá Nhan nói:

- Ban ngày ban mặt dám ngủ ngáy ầm ĩ cả trại, phải phạt roi rồi treo lên cổng doanh thị chúng!

Bách phu trưởng vội vã đáp:

- Vâng vâng! Nào ngờ Hô Hòa Đài vào lều Ngột Đột Hải, chỉ kêu “ối” một tiếng là bặt tăm. Tiểu tướng lấy làm lạ, liên tiếp phái người sang xem, không ngờ đi rồi mà chẳng ai trở về, trong khi đó âm thanh quái gở nọ mỗi lúc một vang to, lúc đầu vi vút như tiếng kèn lá chuối, dần dần nổi lên ồn ã như tiếng bò rống, tiểu tướng định đích thân vào xem thì Ngột Đột Hải đi đến.

Thoát Hoan ngạc nhiên:

- Tên ấy không ở trong lều hắn à?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Hắn canh gác ngoài cổng, nghe đồn lều mình có sự lạ thì chẳng nói một lời, cắm cúi chui vào. Chỉ nghe hắn thét lên một tiếng rồi im bặt. Âm thanh quái gở kia vẫn vang vọng, mà càng lúc càng ầm ĩ, một lát sau cả đại doanh đều nghe thấy. Tướng sĩ ta từng trải nhiều chiến trận, sợ gì xông pha nơi hòn đạn mũi tên, nhưng sự việc này lạ lùng quá sức, e rằng có tà vật quỷ quái hãm hại nên người trần không thắng nổi. Nghe nói Đảm Ba tôn giả đang ở đây, tiểu tướng bèn đến cung kính mời tôn giả đi hàng phục yêu ma.

Dứt lời hắn đưa mắt sang Đảm Ba, vẻ mặt đầy thành kính. Trong lúc hắn thuật chuyện, âm thanh kỳ cục nọ biến hóa hết sức quái lạ, trầm như tiếng tiêu rủ rỉ, bổng như ngói vỡ sấm rền, giai điệu lên xuống bất thường, đổi gam không theo quy tắc gì hết.

Bá Nhan tuy không tin chuyện ma quỷ, nhưng chưa bao giờ nghe thấy sự lạ nhường ấy, trong lòng cũng hơi hoang mang. Đảm Ba trầm ngâm một thoáng rồi đứng dậy:

- Bẩm Thừa tướng, Đảm Ba xin đi một chuyến để xem yêu tà xứ nào!

Hạ Đà La cũng chậm rãi đứng lên:

- Cho phép sái gia đi với tôn giả!

Đảm Ba biết võ công Hạ Đà La cao thâm vô lượng, sư phụ Bát Tư Ba còn phải nhún nhường với hắn vài phần, liền chắp tay đáp:

- Vậy phiền tiên sinh!

Bá Nhan vốn chẳng coi phù phép Mật tông vào đâu, nhưng sĩ tốt trong doanh lại rất tin quỷ thần, nếu không khéo ứng xử thì sẽ làm dao động lòng quân, y bèn cười bảo:

- Ta cũng đi!

Đảm Ba can:

- Đâu dám phiền đến đại giá của Thừa tướng, xin hãy hâm nóng rượu chờ, Đảm Ba đi rồi về ngay.

Mọi người quay lại chỗ ngồi, trong lòng vô cùng thấp thỏm. Chỉ thoáng chốc, tiếng động lạ chậm dần, rồi im bặt. Thoát Hoan đập tay cười:

- Tôn giả thần thông quảng đại, không biết đã bắt được quái vật gì? Bản vương muốn sang xem xem.

Hắn nhỏm dậy, chợt nghe có tiếng hò hét vọng tới, đang ngờ vực chưa hiểu ra sao thì thấy viên Bách phu trưởng vừa rồi lại hớt hải chạy vào, hơi thở đứt đoạn, giọng nói rời rạc:

- Bẩm thừa tướng, không ổn rồi! Đảm Ba tôn giả bị thương.

Thoát Hoan sửng sốt:

- Bị yêu quái cắn hay sao?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không phải yêu quái, đó là một người!

Ai nấy kinh ngạc, Bá Nhan bảo:

- Ngươi thong thả kể cho ngọn ngành, đừng để sót một chi tiết nào cả!

Bách phu trưởng gắng trấn tĩnh, bắt đầu kể:

- Tôn giả đến khu doanh trại của bọn thuộc hạ, dừng ngoài lều, niệm chú một hồi rồi đột ngột đẩy mạnh hai tay ra trước. Một cơn cuồng phong cuộn lên khỏi mặt đất, thổi tốc cái lều đi.

Bá Nhan nghĩ thầm: “Pháp môn Đại thủ ấn của Mật tông đây mà”. Y hỏi:

- Trong lều có gì khác lạ không?

Bách phu trưởng trả lời:

- Nghe thì lạ đấy, chứ nhìn cũng chả có gì lạ. Lều bay đi, để lộ ra Hô Hòa Đài, Ngột Đột Hải và mấy binh sĩ nữa nằm ngã ngổn ngang. Trên giường có một kẻ đang ngủ, người ngợm bẩn thỉu quần áo rách rưới, âm thanh kỳ quái đó chính là tiếng ngáy của lão ta!

Thoát Hoan ngạc nhiên hỏi:

- Sức người mà tạo ra được âm thanh hùng hậu ấy ư?

Mặt viên Bách phu trưởng méo xệch:

- Nghe tưởng bịa, nhưng sự thực đúng thế, tiểu tướng không dám nói man.

Bá Nhan không biểu lộ gì, ôn tồn bảo:

- Được rồi, ngươi kể tiếp đi!

Bách phu trưởng vâng dạ tiếp tục:

- Đảm Ba tôn giả bèn hỏi cái kẻ đang ngủ say sưa ấy rằng: “Yêu quái phương nào dám đến tác oai ở đây?”. Giọng tôn giả như sấm rền, thuộc hạ váng cả óc, điếc cả tai.

A Than tôn giả tán thưởng:

- Đấy là tuyệt kỹ Sư tử hống của tông phái Mật tông!

- Sư tử hống à? – Bách phu trưởng lẩm bẩm. – Tiểu tướng chưa nghe đến bản lĩnh ấy bao giờ, nhưng hổ gầm chắc cũng chỉ đến thế mà thôi! Người nọ bị tiếng động đánh thức, ngồi bật dậy dụi mắt rồi lườm tôn giả: “Ngươi la ó gì vậy?”. Lão ấy để râu dài, đầu tóc rối như tổ quạ, bộ dạng điên điên dở dở nhưng rõ ràng không phải yêu quái. Đảm Ba bèn hỏi: “Các hạ…”. Chưa dứt câu, kẻ kia đã lắc mình áp sát, túm ngực tôn giả ném văng đi…

Ai nấy nghe kể đều biến sắc. Đảm Ba từ nhỏ theo học Bát Tư Ba, thụ giáo hết chân truyền của thầy, bất luận Phật pháp hay võ công đều đáng xếp hạng cao trong tông phái Mật tông, nào ngờ chỉ một chiêu đã bị địch thủ lẳng đi xa, thực khiến người ta bất ngờ.

Bách phu trưởng không nhận ra vẻ kinh ngạc của mọi người, tiếp tục kể:

- Tôn giả nương đà ném, lộn một vòng trên không rồi vững vàng đáp xuống đất. Lão già nọ khen ngợi: “Đại hòa thượng bản lĩnh khá lắm!”. Đảm Ba tôn giả lộ vẻ kinh ngạc, lập tức đính chính: “Ta là lạt ma, không phải hòa thượng[5]”. Người nọ hỉnh mũi: “Mặc kệ nạt ma hay nạt quỷ, cứ lại đây cho lão tử xem bản lĩnh của ngươi được mấy nả!”, đoạn ưỡn ngực bảo: “Nện lão tử sáu chưởng thử xem!”.

Các cao thủ trong trướng nghe đến đây đều tái mặt kinh hoàng, Bá Nhan tự nhủ: “Người này quá tự phụ, Đại thủ ấn của Đảm Ba đã đạt tới cảnh giới phi phàm, xô đổ được cả tường đồng vách sắt nữa là. E rằng ngay sư phụ ta cũng chưa chắc dám đứng yên hứng sáu chưởng liên hoàn của hắn!”.

Bách phu trưởng vẫn thao thao kể:

- Đảm Ba tôn giả tỏ rõ ngạc nhiên, chắp tay hỏi: “Các hạ từ đâu tới? Vì sao giả ma giả quỷ gây rối ở đây?”. Lão già nọ sốt ruột, xua tay nói: “Đừng rườm lời nữa, đánh hay không đây? Nếu không đánh thì ta đi vậy”. Tôn giả đang ngập ngừng thì vị áo trắng đi cùng xen vào: “Tiên sinh đây đã dạy thế, tất có bản lĩnh cao cường. Tôn giả cứ thẳng tay nện mấy chưởng, chắc cũng không đến nỗi làm ông ta sứt mẻ gì đâu!”.

Lương Tiêu cười nhạt nghĩ bụng: “Tên Hạ Đà La gian ngoan xảo quyệt, không nắm chắc phần thắng nên đứng ngoài làm thầy dùi, hô hào chọc ngoáy cho Đảm Ba xuất thủ, định giở mẹo trai cò tranh nhau ngư ông đắc lợi đây mà”.

Bách phu trưởng kể:

- Vị áo trắng nói xong, tôn giả nghe chừng xuôi xuôi, bèn bảo quái nhân nọ: “Vậy xin vô phép!”. Kẻ kia cười ha ha: “Ừ, ra tay đi!”. Tôn giả nhào tới trước mặt lão vung tay đánh một chưởng. Lão già ấy lùi ngay một bước, nhưng tôn giả giật lui đến hai bước.

- Sao, người đó bị thương chứ? – Bá Nhan hỏi.

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Không ạ!

Bá Nhan nhướng mày, mắt đầy vẻ kinh ngạc.

Bách phu trưởng tiếp tục:

- Tôn giả sững người một thoáng rồi đánh ra chưởng thứ hai, lão già lùi một bước, tôn giả lùi hai bước. Lúc này tôn giả đã động nộ, cúi mình chắp tay, xương kêu răng rắc như tiếng đậu tương nổ trong chảo rang, đoạn phóng hai tay, đánh liên hoàn bốn chưởng vào mình lão già…

Thoát Hoan chưa nghe hết đã vỗ tay khen:

- A, lão già nọ mất mạng, còn Đảm Ba bị kình lực của lão chấn ngược lại nên thụ thương phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Lão già lui liền bốn bước nhưng không hề hấn gì, trong khi đó tôn giả giật lùi đến một trượng, mặt trắng nhợt như tờ giấy.

Bá Nhan vỗ bàn đứng bật dậy quát:

- Láo lếu! Xương cốt phát ra tiếng động tức là đã vận nội kình toàn thân. Kẻ kia định dùng xác phàm chống đỡ môn pháp Đại thủ ấn chứa mười thành công lực ư?

Y quát ầm ầm như sấm, Bách phu trưởng kinh sợ quỳ mọp sát đất, khiếp đảm kêu van:

- Từng lời từng chữ của thuộc hạ đều là sự thật, không dám nói càn!

Bá Nhan cũng nhận thấy mình hơi thiếu kiềm chế, bèn nhíu mày ngồi trở lại bàn:

- Thôi, chuyện sau đó ra sao?

Bách phu trưởng nói:

- Đảm Ba tôn giả hít một hơi dài mới gượng đứng dậy được, đoạn nói: “Các hạ võ công cái thế, Đảm Ba tài mọn không sánh bằng, dám hỏi quý tính cao danh?”. Lão già gãi gãi đầu, lẩm bẩm: “Quý tính cao danh? Quý tính cao danh à?”. Lão lải nhải mấy lần câu ấy rồi vò đầu bứt tai: “Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!”. Lão liếc mắt lại, trừng trừng nhìn tôn giả: “Này Nạt ma hòa thượng, ngươi đánh ta sáu chặp, ta cũng phải đánh ngươi một chặp chứ nhỉ!”. Vừa dứt lời, lão lập tức lăng mình tới trước mặt tôn giả. Hai bên mới đứng đối mặt nhau, tôn giả đã ríu chân ngã bật ra xa, miệng ộc máu tươi.

Cử tọa nghe đến đây đều ớn lạnh: “Kẻ này lĩnh sáu chưởng của Đảm Ba mà vẫn bình an vô sự, trong khi Đảm Ba thậm chí không đỡ nổi một chưởng của hắn! Rốt cục hắn là thần thánh phương nào?”. Bách phu trưởng tiếp tục:

- Thấy tôn giả bị thương, chúng thuộc hạ chực vung gươm vung giáo lao vào thì tiên sinh áo trắng đã lắc mình tới trước mặt lão già. Hai bóng người xẹt qua xẹt lại, xoay mòng mòng trong bãi, lão già nọ cứ luôn mồm: “Khá lắm, khá lắm!”, giọng điệu dường hoan hỉ. Họ giao đấu hồi lâu nhưng không phân thắng bại.

Cáp Lý Tư nghe kể cha mình hiển lộ thần uy thì ra chiều đắc ý. Bá Nhan cũng nghĩ: “Thường nghe ngoại hiệu của Hạ Đà La là Xà ma, tung hoành Tây Vực vô đối thủ, ban đầu ta còn bán tín bán nghi, bây giờ xem chừng danh bất hư truyền! Nhưng lão già kia lai lịch thế nào nhỉ?”. Bách phu trưởng vẫn kể tiếp:

- Chúng thuộc hạ thấy tiên sinh áo trắng cũng khó bề thắng được, bèn cùng ùa đến giúp, lão quái nhân cười hà hà: “Hay lắm, chúng ta chơi trò gà con đuổi bắt diều hâu, chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông nào!”. Lão bèn bỏ ngang tiên sinh áo trắng, guồng chân chạy vòng vòng quanh trại…

Thoát Hoan thắc mắc:

- Xưa nay chỉ có diều hâu tha gà, chứ làm gì có gà con đuổi bắt diều hâu?

Bách phu trưởng nhăn nhó nói:

- Tiểu tướng đoán lão già ngụ ý rằng lão là diều hâu còn bọn tiểu tướng là gà con ấy. Tất nhiên gà con thì đuổi bắt diều hâu sao được! Quanh trại lúc đó có đến một trăm binh tướng, toàn bộ hiệp đồng truy kích lão, rõ ràng là trông thấy lão chạy sát gần mà khi cả bọn xúm vào bao vây thì thậm chí không tóm được đến bóng của cái chéo áo.

Thoát Hoan nhăn trán suy luận:

- Nhất định là lão ta nhảy lên cao, phải không?

Bách phu trưởng lắc đầu:

- Tiểu tướng đứng ngoài lược trận nên quan sát rất rõ, ba bốn mươi người cùng bủa vây lão nọ, khi vòng người đổ xô tới, lão ta không hề nhảy nhót gì cả, chỉ khẽ lắc mình xuyên qua giữa đám đông ấy như một đụn gió. Chẳng ai tóm được, thậm chí chạm đầu ngón tay cũng không luôn.

Thoát Hoan ngờ vực ra mặt. Bách phu trưởng định thề thốt, chợt một tiếng hú dài vẳng tới, nội kình rất thâm hậu, tiếng hú thứ nhất chưa dứt, tiếng thứ hai đã vút lên the thé sắc nhọn lẫn với những tràng ri ri. Bách phu trưởng tái mặt kêu:

- Đấy, đến rồi đấy…

Bá Nhan cau mày đứng bật dậy:

- Chúng ta ra xem xem thần thánh phương nào!

Y rời trướng soái trước tiên, Thoát Hoan và những người khác lục tục theo sau. Chỉ trong nháy mắt, còn trơ trọi mỗi Lương Tiêu bên bàn. Gã uống rượu như hũ chìm, lúc này đã say khướt, vừa đứng dậy bỗng thấy nôn nao trong ngực, tay chân bủn rủn, phải bám lấy vách lều, rồi cúi xuống mửa thốc mửa tháo. Thình lình có bóng người nháng lên trước mặt. Lương Tiêu hé mắt nhìn, trong trướng mới xuất hiện thêm một người, miệng rộng mũi cao, hàng mày xếch chạy thẳng lên mấn tóc, tướng mạo uy nghi, chỉ hiềm đầu tóc rối bù, quần áo vốn dĩ là tơ lụa hảo hạng nhưng lúc này đã rách tươm, lem nhem bẩn thỉu. Lão ta ngồi chềnh ềnh trên cái ghế Bá Nhan ngồi lúc nãy, tay cầm rượu tay gắp thịt, liên tục đưa lên hạ xuống ăn uống nhồm nhoàm.

Lương Tiêu nhớ lại câu chuyện của Bách phu trưởng, liền hỏi:

- Ông là ai?

Lão già ngừng ăn uống, cau cau đôi mày ra ý phiền muộn, gõ gõ trán lắc đầu:

- Chả nhớ nữa, chả nhớ nữa!

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Chả nhớ nữa là sao?

Người nọ đáp:

- Chả nhớ ta là ai ấy mà.

Lương Tiêu càng ngạc nhiên:

- Tại sao không nhớ?

Lão già trợn mắt lên toàn lòng trắng, lúng búng nói:

- Không nhớ, hễ nhớ là sai.

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Người ngợm đâu mà lạ lùng”, rồi ngoảnh ra nhìn. Đám thân binh ngoài cửa đều đứng ngây như tượng gỗ, nghe trong trướng có tiếng chuyện trò mà cũng không hề nhúc nhích. Lương Tiêu chột dạ, nắm kiếm quát:

- Các hạ làm gì vậy?

Lão già cười:

- Ăn cơm, ăn cơm! – đoạn lim dim đôi mắt, cười hì hì. – Có cơm không ăn, tiện cho hoàng đế; có cứt không ỉa, lỗi với đại vương. Lẽ nào ngươi không ăn uống bài tiết gì hay sao?

Lương Tiêu càng nghe càng kinh ngạc, chợt nhận ra ánh mắt lão già thoáng vẻ điên dại khác hẳn người thường thì dịu mặt hỏi:

- Ông từ đâu đến đây?

Lão già đáp:

- Từ ngoài biển.

Lương Tiêu hỏi:

- Chèo thuyền vào à?

Lão già trừng mắt:

- Nhăng nhít, ta dùng sào đấy!

- Thế chẳng phải chèo thuyền thì là gì?

- Vậy à? – Lão già bối rối, đang định nghĩ tiếp, chợt lắc đầu. – Không nghĩ nữa, càng nghĩ càng sai.

Lương Tiêu nhẫn nại hỏi:

- Ông chèo thuyền đến đây làm gì?

- Tìm người đánh nhau.

- Tìm ai đánh nhau?

- Tìm hòa thượng.

- Hòa thượng nào?

Lão già gãi đầu:

- Chả nhớ nữa!

Lương Tiêu cau mày:

- Không nhớ thì ông định tìm ai?

Lão già vò đầu nghĩ ngợi, chợt trừng mắt, đập bàn quát:

- Đồ khốn, làm hại ta phải suy tư buồn rầu, ta đánh chết mày…

Miệng nói tay vung, hai cây đũa xé gió bay tới nhanh khôn tả. Lương Tiêu né mình, vừa tránh được đôi đũa thì hai chiếc đĩa sứ từ hai mé trái phải lao vào gã. Thì ra lão già đã tính toán được hướng lắc tránh của Lương Tiêu nên ném đĩa khóa đường, đẩy Lương Tiêu vào vòng chắn của hai chiếc đĩa.

Lương Tiêu vội vã xòe hai tay, phẩy trúng hai chiếc đĩa sứ. Đĩa sứ cùng bay xoay vào trong, va nhau vỡ vụn ngay trước ngực Lương Tiêu sau một tiếng động khô giòn. Chiêu này là Tịch hề liêu hề của Sở Tiên Lưu, Lương Tiêu thi triển mô phỏng, chỉ một động tác đã phá được sát chước của lão già.

Quái nhân nọ ồ lên, không có vẻ tức giận mà lại ra ý vui mừng, nhét luôn tảng thịt dê vào mồm rồi tung mình bật dậy, khum năm ngón tay nhoe nhoét mỡ chụp xuống đầu Lương Tiêu.

Lương Tiêu lạng người đi. Lão già chụp hụt, tươi tỉnh reo lên:

- Ta bắt ngươi tránh, ta bắt ngươi tránh! – đoạn tung ra hai trảo nữa, thế tấn công như cuồng phong bạo vũ.

Lương Tiêu cúi đầu né được một trảo, còn trảo thứ hai áp sát quá nhanh, gã không kịp tránh đành tuốt kiếm đỡ, vận đúng chiêu thế Minh Di đâm vào vai phải lão già. Lão già hụp mình tránh được, trôi đến bên bàn, chụp lấy một cây đũa cười hì hì:

- Lại đây lại đây! Ngươi dùng kiếm đâm ta, ta dùng đũa đâm ngươi, xem ai đâm trúng ai nào. – Lão đạp chân lướt đến, giơ đũa phát chiêu, chính là đường lối Minh Di kiếm, nhưng xuất thủ thần tốc hơn Lương Tiêu nhiều.

Lương Tiêu hoảng hồn, cấp tập đổi sang Đại Hữu kiếm, lão già cũng trở tay theo đúng tư thế Đại Hữu đâm đũa ra. Lương Tiêu kinh hãi cùng cực, tung mình nhảy về sau, biến chiêu thành Tiểu Súc kiếm, lão già cũng vận dụng Tiểu Súc, xuất thủ sau mà tới điểm trước, đâm phập vào hổ khẩu Lương Tiêu khiến gã lỏng tay cầm, thanh kiếm rơi kịch xuống đất.

Lương Tiêu không kìm nổi nữa, la lên:

- Ông cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lão già cười hì hì:

- Ngươi cũng biết Quy Tàng kiếm?

Lương Tiêu cau mày, đảo chân bước theo Thập phương bộ vòng ra sau lưng lão già, khép song chưởng thi triển Tam tài quy nguyên, nhưng chưa kịp đẩy ra thì đã không thấy bóng dáng đối thủ đâu nữa. Đang tưởng mình hoa mắt thì chợt nghe mé hậu có tiếng kình phong cuộn lên ào ạt, Lương Tiêu vụt đổi chiêu Thiên toàn địa chuyển, xoay phắt người lại đánh vào ngực trái lão già. Lão già cũng xoay người tít mù, giáng chưởng vào ngực trái đối thủ, chiêu thức và tâm pháp đều giống hệt Lương Tiêu.

Chưởng lực chạm nhau, Lương Tiêu bắn vút ra xa một trượng, ngã thình xuống đất, khí huyết nhộn nhạo. Gã tự nhủ lão già này sở học uyên nguyên không kém gì Công Dương Vũ, thành thạo cả Quy Tàng kiếm và Tam tài quy nguyên chưởng, chỉ còn cách áp dụng một loại công phu ít thấy mới mong chế ngự được lão ta. Gã bèn thi triển võ công trong Huyền dịch cảnh, trước tiên vẫy hai chưởng theo chiêu thế Phục Hy vấn quải. Nào ngờ mới nhích chưởng, lão già đã đẩy ra một chiêu Phục Hy vấn quải y xì đúc. Lương Tiêu choáng váng, cấp tập đổi thành Chu Văn Vương bốc quy, thoáng cái lại sang Quỷ Cốc Tử phát khóa, tạo chuỗi hai chiêu liên hoàn. Lão già kỳ quái nọ cười lớn, cũng biến ngay ra hai chiêu này, bất luận chiêu thức hay tâm pháp đều cùng một dạng với Lương Tiêu.

Đến đây, Lương Tiêu đã kinh hãi quá độ, bởi hiện tại trên thế gian chỉ có mình gã luyện được võ học thạch trận của Thiên Cơ cung, không hiểu sao quái nhân kia cũng phát chiêu giống hệt. Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, khi chiết giải đến chiêu thứ mười ba thì chợt đoán ra nguyên nhân, buột miệng hỏi:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Gã vừa mở miệng, quái nhân cũng nói:

- Lão già kia, ngươi bắt chước võ công của ta phải không?

Hai cái miệng riêng rẽ mà cùng cất tiếng một lượt, cùng nói ra một lời.

Lương Tiêu bàng hoàng hiểu rằng bất luận gã sử chiêu nào, lão quái sẽ sử chiêu đó, không chỉ chính xác về động tác tư thế mà còn nhạy bén về thần thái tư tưởng, lại nhờ công lực cực cao nên dù ra tay sau nhưng luôn tới điểm trước để khắc chế gã. Nghĩ đến đây, gã bèn ra chiêu Môn sắt luận đạo, một chiêu bắt nguồn từ điển cố Vương Mãnh thời Bắc triều. Vương Mãnh buổi đầu tấn kiến Phù Kiên, một tay mò trong ngực bắt rận, một tay trỏ trời đất bàn việc lớn, thoát li lễ tiết mà đường hoàng ung dung. Khẩu quyết của chiêu này là, tay trái nhắm thẳng huyệt đạo đối phương, tay phải luồn vào ngực áo lấy ám khí, chẳng hạn chủy thủ hoặc đoản đao rồi bất thần tập kích. Lần này xuất thủ, Lương Tiêu thêm thắt biến hóa riêng, tay trái chĩa thẳng như khẩu quyết, nhưng tay phải thì gập vòng vỗ vào ngực mình. Lão già cũng răm rắp bắt chước, tay trái điểm dứ, tay phải vỗ ngực.

Lương Tiêu cải biến chiêu thức cốt để lão già hạ thủ tự hại bản thân, còn chính gã, trong lúc cử động thì chú ý ghìm lực, khi tay áp hẳn đến ngực thì thu luôn nội kình về. Nào ngờ lão già mô phỏng như hệt, vì vậy chẳng hề bị thương, đồng thời năm ngón tay trái vẫn lừ lừ điểm tới huyệt đạo Lương Tiêu.

Biểu hiện đó chứng tỏ lão quái không những học được động tác, tâm pháp của chiêu thức mà còn cảm nhận được cả mức độ phát kình. Lương Tiêu chưa hết sửng sốt thì đã thấy mình bị dồn vào góc lều, liền bật cao lộn nhào một vòng, đoạn từ trên không hất chân đá dập xuống ngực lão già theo chiêu thức Quảng Thành Tử đảo thích đan lô. Lão già bắt chước ngay lập tức. Một người trên cao, một người dưới thấp, khi hai bên lao qua nhau, Lương Tiêu bỗng cảm thấy đau nhói ở lưng, thì ra đã bị trúng đòn đá ngược của lão già. Ngay tức thì, khối rượu óc ách trong bụng gã cuồn cuộn dâng trào, ộc hết cả ra miệng. Lão già quá đỗi bất ngờ, mặc dù giỏi bắt chước là thế mà cũng không sao thực hiện được trò này, chưa kể lão đang trong tư thế trồng cây chuối, nếu không kịp tránh thì nhất định sẽ bị bãi nôn của Lương Tiêu bắn hết vào người. Lão tức quá kêu oai oái, ngả mình xuống như cỏ rạp trước gió, trườn ra xa một trượng.

Tận dụng khoảnh khắc đó, Lương Tiêu liền lật mình đáp xuống, đứng vững rồi ngước mắt nhìn, gặp ngay bộ mặt cáu kỉnh và cặp mắt trừng trợn của lão già:

- Đồ xấu xa, công phu phun nước đấy tên là gì vậy?

Lương Tiêu vẫn còn đau lưng, nghe vậy bực bội đáp:

- Tên là Thiên hà lơ lửng!

Lão già gãi đầu:

- Thiên hà lơ lửng, thế quái nào mà chưa nghe bao giờ? Ái chà, không nhớ được, không nhớ được!

Hai tay lão gõ đầu, vẻ mặt sốt ruột.

Lương Tiêu thầm nhủ: “Lão này điên điên khùng khùng mà võ công cao cường kỳ dị quá! Ta đánh không lại, ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”. Thình lình, một cái bóng trắng nháng hiện ngoài cửa. Hạ Đà La lướt vào, chân không chấm đất, khuôn mặt nham hiểm, trông thấy lão quái liền cười ré lên:

- Bạn thân mến ơi, tính toán giỏi thế, nấp đâu không nấp lại nấp vào đây làm sái gia tìm bở hơi tai!

Lão già trợn trắng mắt:

- Ngươi là kẻ nào? Ai là bạn thân mến của ngươi?

Hạ Đà La nghĩ bụng: “Mới giao đấu một trận dữ dội mà đã quên ta rồi sao? Hừ, chắc hắn cố ý nhục mạ ta đây”, đoạn cười nhạt, nắm song quyền đẩy ra. Lúc này hai người đang đứng cách nhau mười trượng, Lương Tiêu sửng sốt: “Lẽ nào quyền kình của tên này bắn đi xa được đến mười trượng?”. Trong lúc đó, Hạ Đà La đã băng tới gần ba trượng, thoắt một cái xòe tay thành chưởng, lại rút ngắn gần ba trượng nữa, lần này tay nắm thành quyền. Thoắt chưởng thoắt quyền như thế thêm ba lần, khoảng cách giữa hai người chỉ còn không quá năm thước.

Lão già tròn xoe mắt nhìn đôi tay của Hạ Đà La, vẻ mặt rất chăm chú.

Lương Tiêu đứng bên xem, nhác thấy song chưởng của Hạ Đà La nhích động, bất giác tự hỏi: “Hắn sắp biến quyền hay dùng chưởng đây? Ờ, phải rồi, chắc là dùng chưởng”. Không ngờ Hạ Đà La thét một tiếng, lại nắm song quyền đẩy ra. Ở bên kia, lão quái xẹt tới xuất chưởng, kình chạm kình, cuồng phong nổi lên khiến cốc đĩa nhảy tâng tâng rồi rơi xuống vỡ loảng xoảng, căn lều rộng lớn cũng nghiêng ngả lắc lư.

Sau chiêu đầu tiên, hai người cùng giật lui ba trượng, vừa hò hét inh tai vừa xuất thủ từ xa, đôi tay co duỗi khum gập nhanh như chảo chớp, thoắt chưởng thoắt quyền, thoắt trảo thoắt chỉ, hệt như trò đánh toan[6] lúc uống rượu cao hứng, chỉ khác là động tác chứa đầy kình lực, thế gian thật hiếm thấy. Ban nãy Lương Tiêu đoán sai động tác xuất thủ của Hạ Đà La, lúc này nhân dịp quan chiến ngầm tập suy luận xem họ ra nắm tay hay bàn tay, ngón tay duỗi hay khum, nào ngờ xem liền mười chiêu mà chỉ đoán trúng hai ba chiêu. Đáng ngạc nhiên là, Hạ Đà La xuất thủ rất rõ ràng gãy gọn mà lão già nọ không bắt chước nổi một chiêu một thức nào của hắn.

Lương Tiêu toàn đoán sai, trong dạ buồn bực. Hai người ra chiêu càng lúc càng chậm, nhưng chưởng phong lại dày nặng và sắc bén hơn lên. Thình lình, chưởng thế của Hạ Đà La ngưng hẳn, lão già nọ thét vang, bước lên một bước, phát chéo chưởng, đẩy chệch luồng kình của Hạ Đà La vào vách lều, cột chống gãy luôn làm ba giữa những tiếng răng rắc. Lương Tiêu chột dạ phi thân khỏi trướng, chưa đứng vững đã nghe liền một hồi rắc rắc, căn lều sụp hẳn, phủ lên Hạ Đà La và quái nhân. Hai bóng người vẫn di chuyển dưới lớp vải da trâu, thoắt tiến thoắt lui như long xà trườn quẫy. Lều đổ đã đánh động cả trại, tứ phía nhốn nháo, tướng sĩ nhốn nháo tuôn đến xem.

Nhóm Bá Nhan cũng đã quay về, định chạy lại gần, nhưng nội kình của hai đấu thủ bắn cả ra ngoài qua lớp vải lều, xem chừng có thể đả thương người. Bá Nhan khó lòng tiếp cận, bèn ra lệnh lấy cung tiễn, kéo căng cung ngắm vào hai người dưới lớp vải, nhưng họ tiến lui thần tốc, nhất thời y không phân biệt được ai với ai.

Hạ Đà La và quái nhân đấu suốt nửa canh giờ. Đám đông bên ngoài chưa biết thắng thua thế nào, đúng lúc bắt đầu sốt ruột thì nghe thấy một tiếng động lạ lùng, lớp lều da trâu thủng hai lỗ. Hai bóng người vừa hú hét vừa song song nhảy vút lên không, xuất liền bảy chưởng như chớp giật. Hạ Đà La vụt lảo đảo, ngã ngửa người ra. Lão già rú vang tung mình xáp tới, quật bốn chưởng vù vù như gió táp sóng xô. Hạ Đà La né mình tránh được ba chưởng, nhưng không né nổi chưởng thứ tư, định xòe tay chắn đỡ thì Bá Nhan vụt thả dây cung, ba mũi tên nối nhau bắn về phía lão già.

Lão già võ công tuy cao nhưng cũng không dám khinh suất, vội co mình tránh tiễn, lại thu chưởng quơ đánh, gạt rơi được hai mũi tên. Hạ Đà La thừa cơ tống một quyền trúng ngực lão. Quái nhân hú dài, bắn ngược người ra sau, thân hình như làn khói nhẹ, như chim hồng bay cao, chỉ nhấp nhô một lượt là lướt đi xa đến hơn mười trượng, vượt qua đầu toán lính, ẩn vào sau một căn lều. Hạ Đà La cũng lật mình đáp xuống đất, giật lui chừng nửa bộ mới đứng vững. Hắn hít một hơi thật sâu, bộ mặt nhợt nhạt.

Bá Nhan hạ cung tiễn, dõi mắt chăm chú nhìn vào chỗ lão già mất hút, đôi lông mày rậm cau rúm. Y đã dồn toàn lực vào ba mũi tên vừa rồi, không ngờ đều trượt đích. Lão già đó đã trúng một quyền của Hạ Đà La mà còn di chuyển nhanh nhẹn như vậy, võ công quả thực cao thâm khôn lường. Bá Nhan nghĩ nát óc cũng không đoán ra gốc gác của nhân vật này, đành hỏi Hạ Đà La:

- Tiên sinh có nhận ra lai lịch người đó không?

Hạ Đà La mím môi, lắc đầu im lặng. Một cái bóng xanh chợt nháng lên, lão già cao gầy xẹt đến trước mặt hắn, rút ra một chiếc bình ngọc trắng như mỡ dê, dốc lấy ba viên đan dược, cười khì khì bảo:

- Mạch Âm duy của đại sư hơi bị tắc, mau uống ba viên thuốc này để chữa trị.

Hạ Đà La đón lấy thuốc, hít ngửi nhưng không uống ngay, ánh mắt lướt một vòng rồi dừng lại ở Cáp Lý Tư. Tên này bắt gặp ánh nhìn của cha, cơ mặt giật nhẹ, bỗng cười hì hì tiến đến, nhón viên thuốc uống luôn. Hạ Đà La quan sát hắn chốc lát, thấy không vấn đề gì mới uống nốt phần còn lại, thở ra hít vào vài lượt xong vui vẻ khen:

- Đan dược của Thường tiên sinh quả nhiên linh nghiệm!

Bá Nhan giật mình, đưa mắt sang lão già áo xanh:

- Tiên sinh họ Thường à? Phải chăng là Tiếu Diêm vương?

Lão già áo xanh sững người một thoáng rồi tươi mặt:

- Kẻ bất tài này chính là Thường Ninh, tên tuổi hèn kém mà được Thừa tướng biết đến, thật vinh hạnh muôn phần! – Lời nói nhún nhường, nhưng vẻ mặt vô cùng đắc ý.

Bá Nhan cười nhạt, không nói gì nữa. Lương Tiêu tự nhủ: “Y thuật của lão này xem chừng không tệ, sao lại đặt ngoại hiệu là Tiếu Diêm vương?”.

Hạ Đà La đảo mắt nhìn quanh rồi dừng lại ở Minh Quy:

- Minh tiên sinh kiến văn quảng bác, chẳng hay có đoán ra thân thế của con người kỳ dị kia chăng?

Minh Quy mỉm cười:

- Minh mỗ tầm nhìn hạn hẹp, quả có thầm điểm qua vài gương mặt, nhưng ngẫm kỹ lại thấy không giống cho lắm, mong Hạ tiên sinh chỉ giáo.

Hạ Đà La nói vẻ thâm độc:

- Minh tiên sinh còn không biết, sái gia làm sao biết được. Kẻ ấy xuất thủ bát nháo khiến người ta không sao nắm bắt được đường lối võ công.

Minh Quy cười:

- Hạ tiên sinh khiêm tốn thế, bất kể kẻ đó là ai, lần sau gặp mặt cũng không dễ mà thoát khỏi tay tiên sinh đâu.

Hai kẻ trông bề ngoài thì cứ tôn xưng nhau lên, thực ra ngấm ngầm mai mỉa lẫn nhau. Hạ Đà La đấu với quái nhân nọ, rõ ràng yếu thế, thẩm hiểu dẫu mai sau còn tái đấu thì cũng chỉ đủ sức tự vệ chứ đừng mơ thắng được lão ta. Vốn là kẻ mặt dày giỏi nín nhịn, nghe giọng khích bác ngầm của Minh Quy, hắn vẫn làm ra bộ hân hoan:

- Minh tiên sinh quá khen!

Minh Quy tủm tỉm cười. Lương Tiêu thừa hiểu tính lão, nhìn lối ăn nói cử chỉ kia là đủ biết lão đã đoán ra lai lịch quái nhân nọ, nhưng vì sao không muốn tiết lộ? Trầm ngâm một lát, gã chợt hiểu ra: “Bề ngoài, lão già và Hạ Đà La cùng chung một thuyền, đều là hai cánh tay phù trợ cho Thoát Hoan, nhưng thực tế thì không được hòa thuận cho lắm. Lão họ Minh biết mà không nói, cốt để Hạ Đà La không nắm được thực lực của quái nhân, lần sau giao thủ nhẹ thì thủ hòa, nặng thì thất bại khốn đốn”.

[1] Rồng gầm Tây Tái. Tây Tái là một ngọn núi ở mặt tây nam Hồ Châu.

[2] Bài Tiền Đường ca của thi nhân – từ nhân Uông Nguyên Lượng thời Tống mạt. Câu cuối bài này mượn hình ảnh chim đỗ quyên với tiếng hót ai oán trong bài thơ Đỗ quyên của Đỗ Công Bộ để tả mối sầu vong quốc.

[3] Bài tản khúc Tây hồ xuân cảm của Lưu Chí thời Nguyên.

[4] Đế sư là chức quan đặt ra dưới triều Nguyên, dành cho vị tăng lữ cao cấp nhất trong Phật giáo Tạng truyền, vừa đảm nhiệm các vấn đề tôn giáo của cả nước vừa điều hành chính sự khu vực Tây Tạng. Bát Tư Ba (tức BLo-gros rgyal-mtshan hPhags-pa) là người đầu tiên giữ chức Đế sư, học vấn cao, được Hốt Tất Liệt rất quý trọng.

[5] Phật giáo Tây Tạng coi Lạt ma là hiện thân của Đức Phật chứ không chỉ là người tu hành kinh kệ bình thường trong thiền viện hay chùa chiền.

[6] Một trò chơi rất phổ biến ở Trung Quốc, tương tự oẳn tù tì của ta, thường chơi khi uống rượu. Có nhiều cách chơi, phổ biến nhất là hai người cùng hô những khẩu lệnh có vần điệu khác nhau đồng thời xòe các ngón tay ra để đọ, ai thua bị phạt uống rượu.


Bá Nhan sai người dựng lại trướng soái. Xong xuôi, vừa lúc y định đi vào thì một con ngựa phóng nước đại tới, người trên yên mình lấm bụi đường, vẻ mặt căng thẳng. Bá Nhan nhướng mắt nhìn. Kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, dỡ trong ngực ra một cuộn giấy màu vàng. Thoát Hoan đưa tay đón, nhưng kỵ sĩ nọ không buồn để ý, đi thẳng đến trình cho Bá Nhan. Thoát Hoan đâm ngượng, lúng túng rụt tay về.

Bá Nhan giở cuộn giấy xem lướt, sắc mặt u ám, từ từ cuốn lại như cũ, nóng nảy cất bước một lúc, chợt nói:

- Truyền lệnh ta, từ tham tướng trở lên, mau về trướng soái nghị sự!

Các thân binh vâng lệnh tỏa đi. Bá Nhan rảo chân vào trướng, ngồi xuống ghế chủ tọa, vẻ mặt kín bưng, chẳng rõ vui hay giận. Bọn Thoát Hoan không đoán được đã xảy ra chuyện gì, đành nén lòng chờ đợi.

Chỉ lát sau, các tướng đã tề tựu đủ, Bá Nhan đứng dậy đi đi lại lại, cặp mắt sáng quắc lướt khắp mặt mọi người, thận trọng thông báo:

- Đại Đô vừa gửi tin khẩn. Con trai Mông Ca là Tích Lí Cát câu kết với Hải Đô âm mưu tạo phản, bắt giữ toàn bộ tướng lĩnh tây bắc và thâu tóm mười vạn quân đang đồn trú tại đó. Hiện tại hắn và Hải Đô đã hợp nhất lực lượng, kéo vào giày xéo cố đô Hòa Lâm, chiếm lấy võ trướng[2] của Thành Cát Tư Hãn. Thánh thượng hạ chỉ cho đại quân ta hỏa tốc hồi sư tây tiến.

Các tướng tái mặt. Đối với người Mông Cổ, võ trướng Thành Cát Tư Hãn cũng quan trọng như ngọc tỷ truyền quốc đối với người Hán, đánh mất chẳng phải chuyện chơi, lại thêm vụ binh biến tây bắc và lực lượng phản loạn lên đến ba mươi vạn người do các danh tướng và phiên vương dũng mãnh như Hải Đô, Tích Lí Cát dẫn dắt, tình thế Đại Đô quả thực quá sức nguy ngập.

Bầu không khí tịch mịch bao trùm cả trướng, âm thanh duy nhất là tiếng bước chân bồn chồn của Bá Nhan. Đi lại hồi lâu, y vụt dằn bước, gọi to:

- Lương Tiêu!

Lương Tiêu giật mình bước ra khỏi hàng. Bá Nhan nói:

- Theo chỉ dụ của thánh thượng, ngươi hãy dẫn tám vạn thiết kỵ Mông Cổ, Khâm Sát và Hán tộc lên bắc trước để cứu viện Đại Đô. A Truật phá xong Dương Châu sẽ đến hiệp lực với ngươi.

Đầu óc Lương Tiêu trống rỗng, chỉ còn quay cuồng một ý nghĩ: “Lại bắt ta phải đánh trận à? Đánh hết Đại Tống đánh sang Mông Cổ, bao giờ cuộc chiến này mới chấm dứt đây? Vậy mà dám nói thiên hạ thống nhất là sẽ vĩnh viễn không còn chiến tranh, thật là rỗng tuếch!”.

Thoát Hoan chen ngang:

- Đùng đùng rút hết binh hùng tướng mạnh về bắc thì diệt Tống bằng cách nào nữa?

Bá Nhan nói:

- Việc gấp phải giải quyết trước, thế thôi. Đám tàn binh bại tướng nhà Tống hiện như cá nằm trên thớt, chẳng có gì đáng ngại. Hải Đô và Tích Lí Cát mới là cường địch kia! – nói đoạn chăm chú nhìn Lương Tiêu. – Chiến dịch lần này có tính quyết định rất cao, chỉ được phép thắng, không được phép thua!

Lương Tiêu thẫn thờ nhìn xuống. Bộ dạng uể oải ấy làm Bá Nhan phát bực, y toan trách mắng thì một Thiên phu trưởng hộc tốc chạy vào, gấp rút báo:

- Bẩm Thừa tướng, phò mã nhà Tống là Dương Trấn đã cắp Ích Vương Triệu Thị và Quảng Vương Triệu Bính trốn khỏi Lâm An chạy về phía nam rồi!

Bá Nhan đang rối ruột vì phản loạn quân sự ở Tây Bắc, nghe đến tin này thì không sao kiềm chế nổi nữa, quát lớn:

- Thế là thế nào?

Tiếng quát rền như sấm nổ khiến viên Thiên phu trưởng phát run, rủn chân khuỵu xuống. Thoát Hoan láo liên con mắt, cười hì hì:

- Thừa tướng hà tất nổi giận, giao việc này cho bản vương đi! Ta đảm bảo sẽ tóm cổ hai tên oắt con đó.

Bá Nhan đăm chiêu:

- Để hai đứa ấy chạy tuốt xuống nam thể nào cũng sinh hậu hoạn! – Y nghiến răng, chợt đập mạnh tay làm sụn cả bàn, trầm giọng thốt. – Phải dùng cách giết gà dọa khỉ, đánh phủ đầu để bọn Tống thôi nuôi vọng tưởng. Trấn Nam Vương, hễ bắt được Triệu Thị và Triệu Bính, ông hãy giết ngay tại chỗ, không được dung tha!

Thoát Hoan vỗ tay:

- Đúng rồi, phủ đầu phủ đầu, chính hợp ý ta. – Hắn cười sằng sặc, dẫn tùy tùng đi ra khỏi trướng.

Bá Nhan sắp xếp binh mã và phân công nhiệm vụ xong thì cho các tướng lui, chỉ giữ Lương Tiêu ở lại. Trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng y bảo:

- Thánh thượng vốn muốn gặp cậu từ lâu, nhưng ngại gián đoạn công cuộc nam chinh nên tạm gác lại. Chuyến này dẫn quân về bắc chính là cơ hội thích hợp để cậu yết kiến người. Lão nhân gia tuổi hạc đã cao, mà tình hình hiện thời tương đối phức tạp, bên ngoài thì có các phiên vương ngỗ ngược, hết kẻ này đến kẻ khác theo nhau nổi loạn, bên trong lại được ông thái tử hèn yếu, chẳng làm nổi việc gì cho nên hồn, vì vậy người hằng mong mỏi tìm được một đại tướng trẻ tuổi tài ba giúp mình chèo chống qua sóng gió, ổn định thể chế cục diện. Người còn mong, cho dù một mai người có đi xa, viên đại tướng ấy vẫn một lòng phò tá thái tử, trấn áp phiên vương, mở mang lãnh thổ cho thỏa di chí của Thái Tổ. Kể từ chiến dịch Tương Dương, hễ cậu đánh trận nào là thánh thượng yêu cầu ta báo cáo tỉ mỉ tình hình trận nấy. Đợt vừa rồi ta hồi triều, người liên tục nhắc đến cậu trước mặt các vương gia đại thần, nhưng không gọi thẳng tên mà gọi là “tiểu ái tướng của trẫm”, nói rằng sẽ dành cậu cho không chỉ đời con mà cả đời cháu của người. Trước đây người đã nhiều lần phá lệ thăng cấp cho cậu, còn nhớ chứ? Và lần này là chỉ đích danh, phong cậu làm soái dẫn binh lên bắc rồi đấy. Ân sủng nhường ấy xưa rày rất hiếm, cậu có phúc lắm mới gặp được đấng minh quân như vậy.

Ngừng một lát, y tiếp:

- Về mặt cầm quân đánh trận, hạng Hải Đô, Tích Lí Cát không bằng một góc của cậu, chiến thắng chúng chắc chẳng khó khăn gì. Lần này về kinh với tư thế trọng thần triều đình, lại sắp lập được công to, nhớ phải khiêm tốn nhún nhường, kiềm chế tính khí kiêu ngạo nóng nảy. Quan trường khác xa chiến trường, nơi đây tua tủa giáo mác nhưng hiển hiện ngay trước mắt, còn chốn quan trường lác đác gươm đao nhưng nhiều thuốc độc và đều ẩn rất sâu. Quan hệ giữa chúng ta có phần đặc biệt nên ta mới rộng dung cho cậu thích gì làm nấy, người khác thì chẳng độ lượng thế đâu. Huống hồ bây giờ cậu quyền cao chức trọng, thiếu gì kẻ ghen ghét muốn hạ bệ. Chẳng may khiến cả thiên hạ thù nghịch với mình thì dẫu có nghìn tay nghìn mắt cũng không ứng phó nổi! Vì vậy khi nào thẳng thừng được hãy thẳng thừng, khi nào cần nín nhịn thì nên nín nhịn, đừng khăng khăng tự phụ tài cao mà kiêu căng háo thắng. Có câu nói thế này: “Biết đâu cao quá đời ghen, Biết đâu sạch quá đời khen da mà”. Khi chinh chiến cũng vậy, đã ra sa trường là khó tránh khỏi giết chóc cướp bóc, chớ cấm đoán xét nét từng li từng tí kẻo người ta kết oán. Còn một điều nữa cậu nhất thiết phải nhớ, thiên hạ này là thiên hạ của họ Bột Nhi Chỉ Cân. Thánh thượng trọng nhất là lòng trung thành, thứ nhì mới đến bản lĩnh, cho dù cậu không nuôi dã tâm chống phá thì cũng nên thận trọng hành xử, vì lưỡi mềm độc quá đuôi ong, lời gièm pha dễ khiến lòng sinh nghi! Nói ngay chuyện hôm nay thôi, cậu vô lễ với Thoát Hoan là chuyện nhỏ, nhưng lỡ hắn để bụng trả thù, thẽ thọt sàm tấu nay một câu mai hai câu, việc bé tất xé ra to. Cái thân làm tướng như chúng ta, một khi bị định tội phản loạn thì sẽ gánh đủ voi giày ngựa xé, lăng trì xử giảo không thiếu cực hình nào. À, suýt quên, ta dặn cậu thêm một câu, đừng có hí hoáy mãi với mấy cái que tính, dạo trước Quách Thủ Kính dốc lòng tiến cử cậu về trông coi cục Thái Sử nhưng bị thánh thượng gạt phắt đi đấy! Đại Nguyên ta dùng võ công bình định thiên hạ, toán thuật lịch pháp chỉ là trò vè thêm thắt, đánh trận trị quốc mới là việc chính yếu. Thánh thượng hùng tài đại lược, không chỉ muốn ôm trọn đất đai trung nguyên mà còn muốn mở rộng ra hải ngoại, dần dần thôn tính cả Cao Ly, Nhật Bản, An Nam, Giao Chỉ, Phù Nam, Đại Tần… Cậu còn trẻ, bản lĩnh như thế lo gì không có đất dụng võ…

Bá Nhan nói một mạch, nói rất nhiều, lúc nhìn lại thì thấy Lương Tiêu bộ dạng lừ đừ, mắt nhìn đâu đâu, y nổi giận gắt:

- Hiểu chưa?

Lương Tiêu giật mình, ngao ngán thở dài rồi uể oải đáp:

- Hiểu mà!

Bá Nhan nghĩ thêm một lúc, thấy không còn gì để dặn dò nữa, bèn bảo:

- Thôi, về mà sắp xếp binh mã, hai hôm nữa là phải lên đường đấy!

Lương Tiêu vái một vái thật thấp, đoạn quay mình sải bước đi ra. Bá Nhan nhìn hút theo bóng gã, bất giác ruột gan rối bời: “Cái đồ quỷ sứ nhà giời, chẳng biết ta còn phải hao tâm tổn sức bao nhiêu nữa với con đây?”.

Lúc ấy trời đã nhọ mặt người, Lương Tiêu bơ phờ đi một quãng, chợt nghe có tiếng cười vang:

- Chúc mừng, chúc mừng!

Gã cau mày nhìn lại thì thấy Minh Quy đang vòng ra từ sau một căn lều. Vốn không muốn nói chuyện với con người này, gã lạnh lùng cắt ngang:

- Có gì mừng mà chúc?

Minh Quy cười tươi:

- Bình chương đại nhân giễu cợt Minh mỗ đấy à? Đại nhân nắm quyền to trong tay, ngày mai lại dẫn quân lên bắc, nếu thắng lợi thì nhất định sẽ được ghi danh sử sách, chẳng phải là điều mừng hay sao?

Lương Tiêu nhếch mép:

- Ông muốn gì cứ nói thẳng ra, đừng vòng vo tam quốc.

Minh Quy thì thào:

- Ân oán ngày xưa chấm dứt nhé! Nếu ngươi không chê, Minh Quy này sẵn sàng giúp ngươi một tay. Chắc ngươi cũng biết Bá Nhan đứng về phe thái tử, đối địch với Thoát Hoan, mai sau Thoát Hoan nhất định sẽ gây khó dễ cho cả ngươi nữa, nhưng nếu có lão phu làm tay trong bên cạnh hắn và bí mật thông báo tình hình thì ngươi được lợi nhiều lắm, việc dữ hóa lành, việc rủi hóa may. – Thấy Lương Tiêu ngờ vực ra mặt, lão bèn ngọt ngào. – Ngươi đừng nghi ngại, ta không có bụng dạ nào khác đâu, vì việc này tốt cho cả ta nữa mà. Hiện thời chính sự nhà Nguyên chứa đựng vô khối mâu thuẫn, ngoài cõi phiên vương phản loạn, trong triều thân vương khuynh loát, hễ Hốt Tất Liệt nằm xuống là sẽ sinh biến ngay. Lúc đó ngươi nắm binh quyền trong tay, ngoài có ta hỗ trợ, trước tiêu diệt Thoát Hoan, sau lật đổ thái tử, cuối cùng dùng quân đội trấn áp chư vương, trở tay một cái là nắm gọn giang sơn Đại Nguyên, hai ta chung hưởng phú quý chẳng phải là hay lắm sao?

Lương Tiêu nhìn bộ mặt quỷ quái, lòng chán ghét lạ lùng, lạnh nhạt hỏi:

- Ông tưởng Lương mỗ sẽ thông đồng làm bậy với ông ư?

Minh Quy sầm mặt:

- Còn giả vờ đóng vai quân tử kia à? Của đáng tội, Minh mỗ tuy có vài ba mưu mô thật, nhưng chưa đến nỗi thẳng tay tàn sát mạng người như ai đó. Ngươi chỉ khẽ trỏ búa Việt cờ mao là thây chất thành đống, máu đổ thành sông, Minh mỗ chả sánh kịp. Ha ha, bốn chữ “thông đồng làm bậy” ta xin dâng trả cho ngươi. – đoạn rũ áo bỏ đi.

Lương Tiêu chết điếng. Xưa nay gã vẫn khinh miệt những hành vi của Minh Quy, nhưng lần này bị lão đả kích đích đáng quá, không đỡ vào đâu được, khổ tâm đứng ngây ra. Chẳng biết như thế bao lâu, cuối cùng gã bò lên ngựa, vào thành Lâm An đi loanh quanh, cuối cùng mua một ít phấn son và váy áo đẹp đẽ.

Tối muộn, Lương Tiêu mới về đến trướng. A Tuyết đang lúi húi khâu vá, trông thấy ca ca thì vui mừng ra đón, giúp gã cởi bỏ giáp trụ. Lương Tiêu nhìn cô gái tươi tắn như hoa, bỗng xót xa trong dạ, ngoảnh đầu đi:

- Trung Điều Ngũ Bảo đâu?

- Họ chạy biến đằng nào từ ban ngày rồi ấy, chơi tới giờ vẫn chưa về.

Lương Tiêu thở dài:

- Vô tư thế cũng vui. Muội đang làm gì đấy?

A Tuyết hồng hồng đôi má, dịu dàng đáp:

- Muội thấy bọn Lý Đình đều có túi hương đeo trong người, mà huynh lại không có…

- Cần chi cái của rách việc thối tha ấy? – Lương Tiêu xẵng giọng, chợt thấy A Tuyết cúi gằm đầu, gã vội vỗ về. – Thôi thôi, ta nói sai, của ai khác thì thối hoắc thối hăng, nhưng túi hương A Tuyết làm thì thơm phưng thơm phức.

A Tuyết che miệng cười khúc khích. Lương Tiêu cũng cười khì, đưa một cái hộp cho cô gái:

- Muội xem gì đây này!

A Tuyết tò mò mở ra, trong hộp là một bộ váy dài màu phấn hồng thêu thùa rất tinh xảo, cô ngạc nhiên hỏi:

- Của ai đấy huynh?

- Của ta tặng muội!

A Tuyết đỏ mặt:

- Muội còn phải theo ca ca đi đánh trận, mặc y phục nữ nhi sao tiện?

Lương Tiêu thở dài:

- Từ nay về sau muội không cần vận giáp sắt nữa!

A Tuyết sửng sốt, vội hỏi:

- Huynh… định đuổi muội đi à?

- Muội đừng cả nghĩ.

A Tuyết lộ rõ vẻ hồ nghi, Lương Tiêu bèn bảo:

- Ta đã sai đun nước thơm, muội tắm rửa rồi mặc áo mới vào ta xem.

A Tuyết đi vào phòng, mặt đỏ lựng như quả bồ quân.

Một lúc lâu sau, cô bước ra trong bộ váy mới. Hơi nước nóng chưa tan vun đôi má cô đỏ hồng, nom càng thêm đáng yêu. Lương Tiêu nhìn không chớp mắt, A Tuyết đâm cuống, chân tay vụng về thừa thãi, bối rối gọi:

- Ca ca!

Lương Tiêu bừng tỉnh, mỉm cười:

- Thì ra A Tuyết xinh đẹp nhường này! Chẳng biết tên nào tốt phúc rước được em ta về dinh nhỉ?

A Tuyết nghe câu đầu tiên, lòng ngập tràn xao xuyến, nghe đến câu thứ nhì lại ấm ức tột cùng, vùng vằng đi đến ngồi trước gương, khổ nỗi lâu ngày biếng điểm trang, vấn tóc mãi vẫn không ngay ngắn. Lương Tiêu phì cười, đứng dậy lại búi tóc giúp rồi lấy hộp trang điểm, vẽ mày và đánh phấn cho cô.

A Tuyết ngẩn ngơ soi gương, mặc gã làm, thình lình nước mắt trào ra, cô hỏi nhỏ:

- Huynh trang điểm cho muội như tân nương ấy, không phải… huynh đã hứa gả A Tuyết cho ai đấy chứ?

Lương Tiêu nhăn mặt:

- Chỉ nói nhăng, làm gì có chuyện đó? – Gã nắm bàn tay thon nhỏ, kéo cô gái ra ngồi trên bậc thềm dẫn xuống sân, rủ rỉ bảo. – Ta chẳng đã nói rồi đấy ư, ta không bao giờ ép uổng muội lấy ai. Còn nếu muội ưng người nào, ta cũng quyết không ngăn cản muội!

A Tuyết cúi đầu lí nhí:

- Ngộ nhỡ A Tuyết lấy phải người chẳng ra gì, suốt ngày bị họ ức hiếp thì sao?

Lương Tiêu hừ mũi:

- Ta vặn cổ hắn ấy chứ!

A Tuyết cười khúc khích:

- Ối chà… thế chẳng phải muội sẽ thành… thành…

Cô lắp bắp mãi không thốt được hai chữ “quả phụ”. Lương Tiêu cười:

- Thôi được, nể mặt muội, ta tha cái mạng hèn cho hắn, chỉ chặt cụt hai chân mà thôi.

A Tuyết nghĩ thầm: “Huynh có thể tự chặt chân huynh chăng? Mà dầu huynh sẵn sàng làm, muội cũng đau lòng lắm lắm”. Cô nhẹ nhàng tựa má vào vai Lương Tiêu, ánh mắt êm đềm. Gã thiếu niên thẫn thờ tự nhủ: “Nếu A Tuyết lấy ai đó thật, có thể ta dám vặn cổ hắn lắm”, càng nghĩ, càng thấy lòng đầy mâu thuẫn.

Hai người tựa vào nhau, nói chuyện vu vơ. Đến nửa đêm, A Tuyết mệt rũ, mơ màng thiếp đi, khi tỉnh lại đã thấy mình nằm ngay ngắn trên giường, người đắp một cái chăn gấm mềm nhẹ và thoang thoảng thơm. Cô vùng dậy nhìn quanh. Lương Tiêu đang ngồi trước đèn, chừng như viết lách rồi đóng gói một vài thứ gì đó, đặt lên bàn.

A Tuyết dịu dàng hỏi:

- Ca ca làm gì vậy?

Lương Tiêu ngoái đầu lại:

- Muội tỉnh rồi à? – đoạn nhỏm dậy đẩy cửa, đêm đen mịt mùng in nổi chòm sáng của sao bắc đẩu. Gã đứng lặng hồi lâu rồi quay vào gần giường, nói khẽ. – Ta không đánh trận nữa đâu!

- Huynh bảo sao cơ?

Lương Tiêu đáp, sau một lúc trầm ngâm:

- Từ ngày tòng quân tới nay, ta đã tàn hại biết bao người. Những mong sau cuộc chiến này có thể từ bỏ cung mã, về Đại Đô tu đính lịch pháp, sửa sang thủy lợi, nhưng người ta không cho, cứ khăng khăng bắt ta phải sang tây chinh phạt các phiên vương Mông Cổ, cũng tức là tiếp tục giết người… – Gã thở dài. – Đã vậy, chỉ còn cách bỏ đi là ổn nhất.

A Tuyết úp mặt vào vai gã:

- Muội cũng mệt rồi. Chúng ta đi đi, đi thật xa, đến Khâm Sát, Ai Cập, và khắp mọi nơi dưới vòm trời này nhé.

Lương Tiêu cúi xuống nhìn cô gái:

- Nghe muội nói thế, ta vui lắm.

Gã sung sướng mỉm cười, A Tuyết cũng cười theo:

- Có báo cho Thổ Thổ Cáp và mấy người kia không?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Lẳng lặng mà đi thì hơn!

A Tuyết tuy thắc mắc, nhưng nghĩ đến lúc được cùng Lương Tiêu rong ruổi mọi nơi thì rạo rực quá, không bận tâm gặng hỏi thêm nữa.

Ý đã quyết, họ liền đóng gói đồ đạc, nhân đêm theo cửa bắc rời thành. Lương Tiêu cầm lệnh phù thông hành nên đi qua các trạm trót lọt, không gặp trở ngại gì cả. Nhưng vừa ra đến ngoại vi, họ trông thấy ngay một đội kỵ binh đèn đuốc gậy gộc hò hét phóng rầm rập trên đường cái. Lương Tiêu rất kinh ngạc, nhưng đã dứt khoát rời quân đội Nguyên triều nên không muốn dính dáng tìm biết gì nữa, bèn bảo A Tuyết:

- Chuyến này ta bỏ đi, nhất định Bá Nhan sẽ nổi giận, phái người đuổi theo. Ta không muốn chạm mặt đám quân sĩ kia. Để tránh bại lộ hành tung, chúng ta hẵng lên núi nghỉ chân vài ngày, đợi ồn ào lắng xuống rồi tiếp tục đăng trình.

Hai người theo hướng đông nam tiến vào vùng núi, không ngờ càng đi càng trông thấy nhiều quân Nguyên hơn. Lương Tiêu tìm đường vòng tránh né, dắt A Tuyết vào sâu trong núi. Đi được chừng nửa ngày, đến giữa trưa Lương Tiêu mới chọn được nơi dừng chân. Gã phát chưởng chặt cây, cùng A Tuyết cất một cái chòi chuẩn bị trú ngụ dài ngày, đợi sóng yên bể lặng thì sẽ đi chỗ khác.

Dựng chòi xong, Lương Tiêu toan ngồi xuống nghỉ thì nghe tiếng sột soạt trong một bụi cây cách đó chừng mười trượng. Đoán là thú rừng, gã mừng rỡ nghĩ: “May thế, có bữa tối rồi đây”, đoạn nín thở băng mình đến nơi, vung tay trái vạch bụi cây, tay phải quơ mạnh. Gã xuất chiêu rất khéo, kình lực bao trùm phạm vi một trượng, dù là hổ báo cũng khó lòng thoát được. Nào ngờ bụi cây tách ra lại phô bày một gương mặt non nớt đang khiếp đảm. Lương Tiêu cả kinh, vội vã thu kình lực, trảo thế dừng sát trên mặt đứa bé. Nó chừng bốn, năm tuổi, quần áo rách rưới, mặt mũi ngoa nguếch máu và đất cát, thấy Lương Tiêu thì hoảng hồn ngoác miệng khóc oa oa.

Đứa bé khóc làm Lương Tiêu luống cuống tay chân, không biết nên xử trí thế nào cho phải. Thình lình, sau lưng thằng bé bốn năm tuổi nhô ra một đứa lớn hơn, tay dang rộng, giọng run rẩy:

- Đừng… đừng chạm vào em ta…

Tiếng nó nói chen lẫn với âm thanh gì xè xè, Lương Tiêu cúi xuống nhìn kỹ, nhận ra thằng bé mồm nói cứng mà thực chất sợ hãi đến mức vãi cả đái, gã vừa kinh ngạc vừa buồn cười: “Rừng hoang núi vắng, mọc đâu ra hai đứa ranh con thế này?”. Nhác thấy sau lưng chúng, sâu trong bụi cây, có một người đàn ông mình vận giáp trụ nhà Tống đang nằm dài, mình mẩy bê bết máu me, gã bèn gạt hai đứa trẻ, vươn tay thăm mũi hắn. Thằng lớn hơn la lối om sòm:

- Đừng có sờ vào… – nhưng thấy Lương Tiêu không thèm đếm xỉa đến, nó sợ hãi khóc òa lên.

Người nọ đã tắt thở, có lẽ cũng khá lâu rồi. Lương Tiêu bần thần đứng dậy. A Tuyết nghe tiếng khóc chạy tới, rất lấy làm ngạc nhiên, lập tức ôm hai đứa bé vào lòng, âu yếm vỗ về. Bọn trẻ chừng như rất tủi thân, A Tuyết càng nựng nịu, chúng càng khóc dai, đứa nhỏ hơn vừa thút thít vừa kêu:

- Mẹ, mẹ ơi…

Lương Tiêu nhíu mày ngẫm nghĩ chốc lát rồi xoa đầu chúng, nhẹ nhàng hỏi:

- Các ngươi tên gì?

Hai thằng bé vẫn còn sợ gã. Đứa lớn hơn co mình lại, sợ sệt đáp:

- Ta… là Thị, nó… là Bính.

Lương Tiêu hỏi:

- Các ngươi đến đây làm gì?

Thị nhi giọt vắn giọt dài:

- Biết đâu. Ta… và đệ đệ đang ngủ, cô phụ bỗng chạy vào, bế xốc chúng ta mang lên ngựa, còn có ối người chạy theo sau, ối người chết… cô phụ… cũng chết… hu hu… cô phụ chết rồi…

Nó nói câu nọ xọ câu kia, kể chuyện không mạch lạc chút nào. Lương Tiêu lắng nghe, vẻ mặt tư lự. Một lúc lâu sau, gã cười buồn:

- Thật không ngờ lại gặp các ngươi ở đây. Hai đứa mang họ Triệu chứ gì?

Hai thằng bé trố mắt nhìn gã. Bính nhi ngây thơ hỏi:

- Vì sao… thúc thúc biết?

Lương Tiêu ngớ người: “Ối chà, lần đầu tiên trong đời có người gọi ta là thúc thúc”. Gã hiền hòa đáp:

- Đương nhiên ta biết, ta còn biết cô phụ ngươi tên là Dương Trấn, thân mẫu ngươi họ Toàn và tổ mẫu ngươi họ Tạ nữa kia.

Hai đứa trẻ càng thêm kinh ngạc, Bính nhi lộ vẻ cảnh giác, rúc sâu vào lòng A Tuyết, hỏi bằng giọng gây gổ:

- Ngươi… ngươi đến bắt ta phải không?

Lương Tiêu không nghi ngờ gì nữa, nhớ lại hôm qua Thoát Hoan đã nhận trách nhiệm truy tầm Triệu Thị và Triệu Bính, gã cau mày nhìn hai đứa trẻ, lẩn quẩn nghĩ: “Thì ra đám binh mã ngoài núi kia đang lùng sục hai tiểu vương này. Ta đâu ngờ chúng còn nhỏ thế, thậm chí chưa đầy mười tuổi”. Gã muốn lìa bỏ chiến tranh chém giết, rủi sao vừa dứt áo ra đi lại gặp ngay hoàn cảnh oái oăm, cứ lầm lì ngồi nghĩ, trong người bứt rứt.

A Tuyết lau nước mắt cho hai đứa bé, dịu dàng hỏi:

- Các ngươi có đói không?

Triệu Bính gật đầu:

- Bính nhi đói lắm, muốn ăn yến sào.

A Tuyết ngớ người:

- Lấy đâu ra yến sào!

Triệu Thị nuốt nước bọn đánh ực:

- Thế nem uyên ương ngũ trân?

A Tuyết lắc lắc đầu. Triệu Thị và Triệu Bính cùng cau mày:

- Thế canh vịt hầm?

A Tuyết thở dài:

- Cũng không có, chỉ có bánh tét thịt bò thôi.

Rồi cô mang thêm lương khô và nước suối lại. Triệu Thị, Triệu Bính lớn lên trong cảnh mâm cao cỗ đầy, quần là áo lượt, nào quen đồ ăn đạm bạc đơn sơ, khổ nỗi suốt một ngày trời chưa có miếng gì bỏ bụng, người đã đói lả, bèn vớ ngay lấy bánh tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, làm A Tuyết phải trông chừng nhắc nhở, sợ chúng bị nghẹn.

Lương Tiêu lẳng lặng đi đâu đó một lúc, khi quay về mặt mũi tái xanh, kéo riêng A Tuyết ra một góc kể rõ lai lịch hai đứa bé, trầm giọng bảo:

- Binh mã chúng ta gặp trên đường chính là đám săn đuổi bọn trẻ đấy. Ta vừa trông thấy rất nhiều quân sĩ lảng vảng ở khu phụ cận, chỉ e lát nữa chúng sẽ lần tới đây.

A Tuyết hoảng hốt:

- Vậy chúng ta mau dẫn hai đứa đi tìm nơi ẩn náu.

Lương Tiêu lắc đầu:

- Thoát Hoan đã lĩnh mệnh, nhất định sẽ dốc toàn bộ lực lượng ra lùng bắt. Hắn lắm thuộc hạ, lại nhiều trợ thủ giỏi, riêng một Hạ Đà La thôi đã khó đối phó rồi. Vùng núi này đang bị bao vây, thiên quân vạn mã sẽ lùng sục từng gốc cây ngọn cỏ, không nấp vào đâu được đâu.

A Tuyết nghe đến tên Hạ Đà La là ớn lạnh, run run hỏi:

- Làm sao bây giờ? Chẳng lẽ bỏ mặc chúng nó?

Lương Tiêu u ám bảo:

- Bá Nhan đã ra lệnh rằng hễ tìm được hai đứa là phải giết ngay tại chỗ. Quân lệnh như sơn, không thể sửa đổi được. Rời bỏ ngọn núi này, đối với muội và ta cũng không lấy gì làm khó, nhưng hai đứa kia muốn toàn mạng thì thực không dễ chút nào.

A Tuyết nhìn gã, vẻ mặt buồn thảm.

Thình lình có tiếng người vọng tới, Lương Tiêu giật mình, quay lại ôm thốc lấy hai tiểu vương, cùng A Tuyết chạy đi, đợi cho tiếng người xa hẳn mới chui vào một khe núi nghỉ tạm. Triệu Thị kinh hãi quá độ nên kiệt sức, ngủ lịm đi ngay. Triệu Bính ăn no xong vẫn còn phấn chấn, láu táu trò chuyện, gọi Lương Tiêu là thúc thúc, gọi A Tuyết là thẩm thẩm. A Tuyết nghe vừa thẹn, vừa vui. Lương Tiêu chỉ lặng lẽ ngồi uống rượu.

A Tuyết con cà con kê với Triệu Bính hồi lâu, rất mến nó láu lỉnh đáng yêu, cứ nghĩ ngoài núi đang có bao nhiêu kẻ nhăm nhăm chực lấy mạng thằng bé, cô không nén nổi xót thương. Chống má trầm ngâm một lúc, A Tuyết ghé tai Triệu Bính, vừa thì thầm vừa trỏ Lương Tiêu:

- Con dập đầu lạy ông kia, gọi ông ấy là thúc thúc đi!

Triệu Bính ngơ ngác nhìn A Tuyết bằng cặp mắt long lanh trong trẻo. A Tuyết khẽ đẩy nó, giục:

- Mau!

Triệu Bính không hiểu lắm, nhưng cũng y lời bước đến trước mặt Lương Tiêu, tới nơi lại không biết nên bắt đầu thế nào, nó cứ đứng ngây ra. Lương Tiêu đang lử thử, thấy thằng bé co ro cúm rúm thì ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi làm gì vậy?

Triệu Bính vốn sợ gã từ lúc mới gặp, đến giờ vẫn chưa xua hết ấn tượng ban đầu ấy. Lương Tiêu vừa lên tiếng, nó đã bở vía, hai chân mềm nhũn, khuỵu gối xuống dập đầu. Lương Tiêu ngạc nhiên hết sức, thấy nó còn định dập đầu nữa, vội vàng đỡ dậy:

- Nhóc con, vì sao làm thế?

Triệu Bính líu lưỡi:

- Thúc… thúc thúc…

Gọi được mấy tiếng, nó bỗng sợ hãi bật khóc. Lương Tiêu ngẩn người ra. A Tuyết chạy lại xoa đầu Triệu Bính, cười bảo:

- Nó muốn nhận huynh làm thúc phụ ấy mà!

Lương Tiêu đoán ngay ra nguồn cơn, mắng thầm: “Nha đầu ngốc, muội đánh giá ta thấp quá!”. Quay sang nhìn khuôn mặt đỏ tưng bừng của Triệu Bính, gã lại tự nhủ: “Cha nó là hoàng đế, mẹ nó là hoàng hậu, nhưng dầu sao nó vẫn là một đứa trẻ vô tội ngây thơ!”. Gã bỗng sinh lòng thương xót, chùi nước mắt cho thằng bé, mỉm cười bảo:

- Nhóc, bất kể thế nào, ta cũng sẽ bảo vệ con.

A Tuyết mừng rỡ:

- Bính nhi, thúc thúc đã hứa sẽ bảo vệ con, còn không mau lạy tạ đi?

Triệu Bính vẫn không hiểu, nhưng cũng y lời dập đầu, Lương Tiêu vội vàng giữ lại, A Tuyết ôm đứa trẻ vào lòng, dỗ nó ngủ.

Lương Tiêu nặng trĩu tâm sự, không sao chợp được mắt, đến nửa đêm, chợt nghe có tiếng kim khí xoang xoảng ở mặt bắc, gã kinh sợ vớ ngay lấy cung tên chạy ra xem. Trên đường núi phía xa lửa thắp sáng trưng, mấy chục tên lính Nguyên đang giơ đuốc múa đao đấu với bốn người Tống. Thình lình một người rú lên thê thảm rồi gục ngã, lát sau lại thêm hai người, chỉ còn một nữ nhân trụ được, người này tóc xõa phấp phới, tay khua trường kiếm loạn xạ như bị ma nhập.

Xem chừng quân Nguyên có ý bắt sống người cuối cùng, một viên Bách phu trưởng hò hét binh lính vây kín hai mặt, định chặn đứt đường lui của cô ta. Lương Tiêu động lòng trắc ẩn, nhảy ào ngay xuống, nhằm viên Bách phu trưởng bắn một phát. Hắn hự lên, máu ở cổ ồng ộc trào ra. Lương Tiêu đi lom khom, liên tục giương cung nhả tên, bách phát bách trúng. Quân Nguyên không rõ hư thực, hò nhau giãn vây. Nữ nhân nọ thừa cơ lẩn luôn vào rừng. Lương Tiêu hô khẽ: “Theo ta!”, rồi chạy thật nhanh đi trước, người kia bám sát theo sau.

Họ chạy vòng vèo qua rất nhiều ngả rẽ. Về đến chỗ nghỉ, nhờ ánh lửa bập bùng, Lương Tiêu sửng sốt nhận ra Sở Uyển. Cô ta cũng bàng hoàng vô cùng, giơ kiếm định đâm, nhưng sực nhớ mình không địch nổi Lương Tiêu nên lại hạ tay xuống, lòng băn khoăn lúng túng, chưa biết ứng xử ra sao.

Lương Tiêu nhíu mày:

- Thế quái nào mà lại là cô?

Sở Uyển cau có trả lời:

- Câu ấy lẽ ra phải ta hỏi mới đúng!

A Tuyết và hai đứa trẻ nghe động đi ra. Sở Uyển liếc nhìn, bỗng tươi mặt chạy ào tới nắm Triệu Thị và Triệu Bính, mừng rỡ hỏi:

- Thiên tuế… sao lại ở đây? Phò mã gia đâu?

Triệu Thị nức nở:

- Cô phụ chết rồi.

Sở Uyển tái mặt, tức thì cảnh giác đứng chắn trước mặt hai đứa bé, trừng trừng nhìn Lương Tiêu. Gã chán ngán nói:

- Ta mà có ý xấu thì việc gì phải đợi đến bây giờ!

Sở Uyển đỏ mặt hạ kiếm, ôm chặt hai đứa bé vào lòng, hỏi han rối rít. Số là sau khi rời Thường Châu, cô ta đến Lâm An giúp dàn xếp kế hoạch cho hai tiểu vương trốn thoát, nhưng quân Nguyên quá đông và mạnh, quân Tống chỉ có mỗi một dúm nên bị đánh cho thất điên bát đảo, phải lủi vào trong núi, Sở Uyển náu được nửa ngày thì bị truy binh phát hiện.

Lương Tiêu biết rõ rằng quân Nguyên trước sau gì cũng tìm đến đây, bèn dập lửa, lấy gỗ đá bố trí bẫy rập ở chỗ hiểm yếu bên ngoài. Sở Uyển vẫn đề phòng Lương Tiêu, cả đêm cầm kiếm canh gác cho hai tiểu vương, một bước không rời. Khốn nỗi chính cô ta cũng không tránh khỏi mệt rũ sau cuộc chiến đấu dai dẳng nên đến giờ mão thì bắt đầu gà gật. Mụ mẫm thiếp vào giấc ngủ một lúc, chợt nghe loáng thoáng có tiếng cười, Sở Uyển mở bừng mắt nhìn. Lương Tiêu đang dùng cỏ tết một con chim sẻ trông y như thật cho hai đứa bé chơi.

Sở Uyển kinh hãi quá độ, nhảy ào tới vung kiếm thét:

- Cút ngay!

Lương Tiêu giật lui nửa bộ. Triệu Bính vốn nhút nhát nên rất khiếp hãi trước bộ dạng hung hăng của Sở Uyển, bèn lao luôn vào lòng Lương Tiêu, khóc:

- Thúc thúc…

Sở Uyển hốt hoảng giục:

- Thiên tuế mau tránh ra đi, hắn chẳng phải người tử tế đâu!

Triệu Bính tròn xoe mắt nhìn Lương Tiêu, thắc mắc:

- Thúc thúc… mà không phải là người tốt ư?

Sở Uyển nóng nảy giậm chân, chực thóa mạ Lương Tiêu, gã này vội xua tay:

- Đừng tuôn những lời ấy ra trước mặt trẻ con, ta có việc muốn nhờ cô đây!

Sở Uyển thừa biết Lương Tiêu là dạng tinh quái, liền cười khẩy:

- Ngươi tài ba thế, còn phải nhờ cậy ai? Hứ, hẳn lại mưu mô xảo trá gì đây!

Lương Tiêu chẳng buồn phân trần, chỉ bảo:

- Ta đã đi thám thính chung quanh, cách đây không xa có một sơn cốc hẹp, cô dắt hai đứa này lại đó trốn.

Sở Uyển nghi ngờ hỏi:

- Tại sao ta phải đến đấy?

- Ngoài kia rất đông lính tráng sục sạo, trốn nấp thế nào cũng sẽ lộ hình tích. Muội tử ta tính tình ngây ngô, không làm nổi việc quan trọng; ta sẽ nghĩ cách đánh lạc hướng truy binh, trong lúc đó cô dẫn muội ấy và hai tiểu vương ra sơn cốc ẩn nấp chừng đôi ba ngày, đợi quân Nguyên rút lui thì lập tức tìm đến Thiên Cơ cung. – Gã vẽ sơ đồ cho Sở Uyển xem. – Đây là Thiên Cơ cung, cô hãy vào đó gặp cung chủ Hoa Thanh Uyên, chỉ cần nhắc tên ta với ông ấy, nhất định các ngươi sẽ được đón nhận.

Thái độ gã hết sức khẩn thiết, không có vẻ gì giả trá, Sở Uyển ngập ngừng:

- Ngươi… chắc chắn không âm mưu gì chứ?

Lương Tiêu cười buồn, gọi A Tuyết đến, dặn dò y như vậy. A Tuyết liền cự:

- Không, muội phải theo huynh!

Lương Tiêu cười bảo:

- Muội yên tâm, ta ở đây mấy hôm thôi, sau đó sẽ đến Thiên Cơ cung gặp muội. – đoạn tháo Ảo Nguyên kiếm đưa cho cô. – Muội cầm lấy!

A Tuyết nhận kiếm, mắt đỏ hoe, cúi đầu im lặng. Lương Tiêu gắng tỏ ra bình thản, chỉ vẽ lối dẫn đến khe núi rồi giục bốn người đi. A Tuyết đi sau cùng, chân bước như đeo đá, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại, ánh mắt chứa chan bịn rịn. Sở Uyển cũng nhìn Lương Tiêu, lòng đầy nghi hoặc. Triệu Bính hỏi:

- Thúc thúc không đi với chúng ta à?

Sở Uyển bế nó vào lòng, thở dài quay đầu đi thẳng.

Lương Tiêu đưa mắt nhìn theo cho đến khi bóng họ biến mất dưới sơn cốc, đoạn dắt ngựa ra, phóng đến chỗ gò cao gần nơi đặt cơ quan. Hầu hết cây cối ở đây đều đã bị kéo cong xuống và ghì lại bằng dây mây bền dai, bên trên đặt đá tảng và chông nhọn. Hết hàng này đến hàng khác như thế, lập thành nhiều dãy bẫy. Lương Tiêu lấy ra một bình hồn thoát chứa rượu sữa ngựa, tu một ngụm thật to. Phía xa, cây cỏ loạt xoạt chen lẫn những lời hô gọi bằng tiếng Mông Cổ.

Một lúc sau, hồn thoát đã cạn đáy, hơi men bốc phừng phừng, Lương Tiêu nằm dài ra đất tĩnh trí, tự nhủ: “Một ngày trước đây ta còn là Bình chương của Đại Nguyên, dẫn quân càn quét khắp vùng hạ lưu Trường Giang, nào ngờ hôm nay lại trở đao chống đối đồng bào”. Gã nhìn thẳng lên trời, bất giác ngây người, những đám mây trắng đang tụ lại với nhau, lờ mờ kết thành hình một khuôn mặt. Gã chớp mắt nhìn lại lần nữa thì thấy giống Lương Văn Tĩnh vô cùng, bỗng run rẩy: “Phải chăng cha ở trên trời cũng biết, cũng đang quan sát con đấy ư?”. Nhiệt huyết sôi trào, gã ngồi bật dậy, dõi mắt trông ra xa, một tốp mười binh sĩ lăm lăm giáo mác đang tiến lại gần gò cao.

Lương Tiêu thình lình chống tay nhảy lên, cất tiếng cười dài. Mấy tên lính nghe động, chưa kịp ngước trông thì hai mũi tên đã bay xuống, bắn trúng hai kẻ đi đầu khiến chúng ngã sấp.

Lương Tiêu phát tiễn liên tục, bọn lính không kịp trở tay, lại thêm bảy tên mất mạng, kẻ cuối cùng lập tức rút lui. Lương Tiêu cũng không đuổi theo, mặc hắn chạy trốn. Chừng thời gian tàn một cây nhang, bốn mặt đã lố nhố những người, hàng trăm hàng ngàn binh lính hò la rầm rĩ, giương khiên tràn tới quanh gò.

Lương Tiêu nín lặng chờ đợi cho đến khi bọn chúng bò lên tới sườn núi mới vung đao chặt đứt dây mây. Sau một hồi rầm rầm rung chuyển, đá tảng chông nhọn ầm ầm bắn xuống. Đám binh lính trở tay không kịp, hết kẻ này đến kẻ khác bị đá đè chông đâm, tiếng gào rú liên miên, máu thịt bắn tung tóe. Bẫy thả hết, quân sĩ cũng tử thương gần như toàn bộ, số còn lại rút xuống chân núi, hàng ngũ chen chúc hỗn loạn.

Lương Tiêu không đợi đối phương chấn chỉnh lực lượng, lập tức nhảy lên ngựa. Gã đã tính sẵn đường đi nước bước, xác định rằng mặt đông nam thưa cây cối, đường núi tương đối bằng phẳng, chính là chỗ để dụng võ, bèn vỗ ngựa cầm cung phóng ào xuống như cơn lốc.

Quân lính không ngăn cản nổi, trân trối nhìn gã phá trùng vây, xuyên qua một sơn cốc, men theo đường mòn phi ra khỏi vùng núi. Đám truy binh tức giận vô cùng, cũng phi ngựa đuổi bắt chặn đường. Lương Tiêu vận hết tài kỵ xạ, bắn không sai trật phát nào, xác chết ngã đầy đất. Thoát Hoan nghe báo vô cùng tức giận, triệu tập thuộc hạ, cầm cung lên ngựa hộc tốc đuổi theo.

Lương Tiêu đánh giết xuống tới chân núi thì mười túi tên bên mình đã cạn, ba cây cung đứt dây oằn cánh, không thể dùng được nữa, bèn giục ngựa quay đầu, lay trường mâu đâm chết năm tên truy binh, đoạt lấy cung tên, lao vào giữa lớp lớp binh lính, kéo căng cung, bắn liên tục sang hai bên trái phải, xông một mạch tới trước mặt viên trưởng toán. Tên này kinh hãi, cử thương lên đỡ, Lương Tiêu vươn tay tóm thương, vung giáo đâm thẳng vào mặt hắn. Tên trưởng toán đổ nhào xuống đất, Lương Tiêu thuận tay ném trường mâu đi, chuyển sang dùng hoa thương, vừa tiến vừa xoay tít mũi thương, mỗi bước tiến là mấy người gục ngã.

Lương Tiêu hết xáp vào lại tách ra khỏi đám truy binh, đánh giết như thế một mạch hơn mười dặm đường. Binh lính ùn ùn kéo đến càng lúc càng đông. Lương Tiêu lại theo kế cũ, cướp hai con chiến mã, giật cương quay đầu vào làm rối trận, len qua hàng quân lại gần viên Thiên phu trưởng, định bụng giết tướng trước rồi đập tan lính sau, đang rung thương chực đâm, kẻ đó bỗng thảng thốt kêu lên:

- Bình chương đại nhân!

Lương Tiêu ngừng thương, nhận ra là một trong các thuộc hạ của mình. Thấy hắn há hốc mồm hãi hùng, gã không nỡ xuống tay, cười bảo:

- Đi đi, về bảo Thoát Hoan, Lương Tiêu này làm phản rồi. – đoạn vung thương gạt phắt hắn lại sau lưng, tiếp tục tả xung hữu đột di chuyển ra khỏi trận.

Gã vừa đánh vừa tiến như thế thêm một lúc thì thấy cờ soái của Thoát Hoan từ từ lướt tới, quân lính nhất tề hô to:

- Bắt sống tên phản tặc Lương Tiêu!

Chắc hẳn viên Thiên phu trưởng vừa rồi đã báo tin về. Lương Tiêu phá lên cười lớn:

- Sống thì chả bắt được đâu, chết có cần không?

Gã giật ngựa lao vào phá trận, tiến đến cờ soái như thủy triều cuộn xô. Quân lính thấy gã kiêu dũng như vậy, đều xúm xít lùi lại bảo vệ Thoát Hoan. Thực chất Lương Tiêu chỉ dương đông kích tây, nhằm lúc hỗn loạn cướp lấy một con tuấn mã dông tuốt về phía đông nam.

Lương Tiêu đánh giết đến giờ ngọ thì con ngựa trúng tên khuỵu xuống. Gã bỏ ngựa chạy lên một gò nhỏ. Thiết kỵ Mông Cổ từ bốn bề ập tới, la hét dập dồn. Lương Tiêu giương cung, kéo nhưng không bắn, ngẩng đầu nhìn quanh. Núi non vây bọc trập trùng, cỏ cây vươn lên rậm rạp. Gã tự nhủ: “Vùng này phong cảnh hữu tình, vạn vật tốt tươi, vùi thây nơi đây cũng không đến nỗi nào”, nghĩ đoạn cười vang. Tất cả tướng sĩ nghe động, từ bốn mặt nhung nhúc kéo đến. Lương Tiêu đứng sừng sững trên đỉnh gò, uy phong lẫm liệt, quân lính đâm chợn, không ai dám lao lên.

Thình lình, có những tiếng hú dài vọng đến như hưởng ứng tràng cười của Lương Tiêu. Ngay sau đấy, xa xa ở phía bắc xuất hiện năm người phi ngựa ào ào. Quân Nguyên chưa ổn định trận thế, lập tức bị họ phá vỡ hàng ngũ.

Lương Tiêu kinh ngạc nhìn xuống, sững sờ nhận ra Trung Điều Ngũ Bảo. Năm huynh đệ bỏ ngựa, thoắt chạy thoắt nhảy tránh tên, băng lên gò nhanh như luồng khói. Hồ Lão Nhất gọi toáng lên từ xa:

- Đại ca định làm phản à? Trò vui thế sao không cho lão tử biết?

Bốn anh em gật đầu:

- Hồ Lão Nhất nói đúng lắm!

Lương Tiêu giận sôi:

- Vui cái con khỉ! Ai bảo các ngươi đến gây rối?

Hồ Lão Vạn cười:

- Lý Đình không cho lão tử tiết lộ!

Lương Tiêu đoán ra ngay, chắc hẳn Lý Đình nghe tin nhưng không dám tự ra mặt, đành xui năm người đến tương trợ. Một cảm giác khó tả trào lên trong lòng, gã mắng ầm ĩ:

- Năm tên khốn, không khiến các ngươi đa sự!

Gã định bụng chiến đấu rồi vùi thân ở đây, dùng cái chết chấm dứt hết mọi ân oán buồn vui, nhưng đến giờ lại không nỡ lòng bỏ rơi Trung Điều Ngũ Bảo. Mấy tên này ngây ngô bừa bãi nhưng rất có tình nghĩa, đã đến đây rồi thì dứt khoát không đời nào để gã lại một mình. Lương Tiêu đành thay đổi ý định cũ, trỏ thương về phía nam, thét:

- Được, xông ra phía kia! – đoạn gắng lấy lại tinh thần, chạy xuống trước tiên.

Trung Điều Ngũ Bảo vốn thích bới chuyện, đang yên đang lành còn gây sự được, nay gặp hoàn cảnh ồn ào phức tạp thế này lý đâu không vui, lập tức cười lớn, nhao nhao phụ họa:

- Đúng, xông ra phía kia!

Cả năm vung binh khí chạy theo Lương Tiêu, giết người phá trận, đồng tâm hiệp lực cướp lấy mấy con chiến mã, xé vây phóng đi.

Liên tục đánh giết hết chỗ này đến chỗ kia chừng nửa canh giờ, sáu người tạm thời cắt đuôi được truy binh, lao vào một vạt rừng. Lương Tiêu nghiêng tai lắng nghe tiếng vó ngựa, nhận ra số nhân mã đuổi theo đã tăng thêm gấp đôi, gã nghĩ bụng: “Lần này kinh động ba quân, hẳn Bá Nhan cũng tới chứ chẳng chơi. Ai còn tâm trí đâu để ý đến mấy đứa bé họ Triệu kia nữa?”. Nghĩ lại mưu kế thành công, gã không nhịn được phá lên cười lớn.

Hồ Lão Nhất ngạc nhiên:

- Đại ca vui vẻ cái nỗi…

Chưa dứt lời, hắn bỗng ho rũ rượi, Lương Tiêu đưa mắt nhìn. Năm huynh đệ võ công cao cường nhưng chưa từng trải chiến trận bao giờ, không giỏi che chắn cung cứng tên mạnh nên ai nấy đều thương tích cùng mình. Lương Tiêu cười bảo:

- Lão tử chém giết suốt nửa ngày trời, đột nhiên buồn tiểu, muốn đi cho nhẹ bụng!

Hồ Lão Bách cụt hứng:

- Đi đái thì vui gì đâu?

Lương Tiêu tủm tỉm đáp:

- Lão tử đái vừa cao vừa xa, phải nói là thiên hạ đệ nhất, ngẫm các ngươi không thể sánh bằng nên lão tử cao hứng thế thôi!

Trung Điều Ngũ Bảo phát bực:

- Chỉ bịa! Lại đây đọ thử!

Năm người vừa khinh suất vừa háo thắng, bất chấp truy binh đang ở sau lưng, cùng nhảy lịch bịch xuống ngựa, đứng thành một hàng tụt quần xuống. Lương Tiêu giả vờ cởi đai rồi chầm chậm dịch vòng ra sau lưng họ. Năm người say sưa thi tài. Hồ Lão Thiên nhìn độ dài vệt nước, hí hửng nói:

- Gì chứ đi tè, chẳng ai bén gót lão tử…

Chưa dứt lời, chợt thấy lưng đau tê, chân bủn rủn ngã vật xuống, Hồ Lão Thiên giương mắt nhìn, nhận ra bốn huynh đệ kia cũng đã nằm quay ra đất. Ai nấy cùng ngoác mồm mắng:

- Đại ca, ngươi ám toán người ta, không tính, không tính…

Lương Tiêu không để cho bọn họ chửi xong, vỗ vào á huyệt từng người, ném lên một chỗ um tùm trên tán cây rồi nhảy lên ngựa, thả năm con chiến mã đi trước, vung thương chặt chém cành lá hai bên đường, thét lớn:

- Lương Tiêu ở đây!

Âm thanh rền vang như sấm, quân Nguyên đang quanh quẩn ngoài rừng, chưa dám mạo hiểm đi vào, nay nghe động liền kéo đến bao vây. Lương Tiêu giương cung hò hét, lao bổ vào giữa đoàn người, xông ra hướng tây được mấy dặm thì bải hoải cả người, gục xuống lưng ngựa thở dốc. Đúng lúc ấy, đằng trước chợt có tiếng vó ngựa, mấy trăm kỵ binh đổ dồn tới, Lương Tiêu định cử thương đón thì thấy toán người đó bỗng rối loạn. Một kỵ sĩ ở đâu múa trường kiếm xông vào đấu với bọn họ.

Lương Tiêu sửng sốt nghĩ bụng: “Ngoài Trung Điều Ngũ Bảo lại còn ai nữa đây?”. Gã giương mắt nhìn kỹ, kinh hoàng suýt ngã, người đó tóc vấn áo thêu, chẳng A Tuyết thì còn ai vào đấy. Chắc A Tuyết khổ chiến đã lâu, vì mình mẩy thấm đầy những máu. Thình lình lại trúng hai mũi tên, cô chới với chao người đi. Ruột gan đau như ai cào cấu, Lương Tiêu gạt mạnh trường thương phi đến bên ngựa A Tuyết, nhoài ôm lấy cô, đoạn trở thương đâm chết tên đầu lĩnh, xé trận phóng ra. Tên bắn đuổi theo rào rào như mưa. Chưa đến mười trượng, con ngựa trúng tên, hất Lương Tiêu rơi xuống.

Lương Tiêu vốn đã kiệt lực, không hiểu sao vừa tiếp đất bỗng như lấy được sức mạnh ở đâu ra, guồng chân chạy điên cuồng. Quân lính tổn thất trầm trọng, mắt đỏ vằn máu, thấy đối thủ mất ngựa liền hùng hổ lao vào như đàn sói. Lương Tiêu đột ngột quay mình nhảy vào cánh rừng bên cạnh. Đám chiến mã đang chạy theo quán tính, bị giật cương cũng không kịp ghìm vó, vấp cây chựng lại, lớp sau ủn lớn trước, lớp trước đẩy lớp sau, ngã dồn một đống.

Ánh sáng hiếm hoi lọt xuống qua tàng lá dày, cảnh rừng có phần u ám, xa xa phía trước có tiếng gì ì oạp như nước chảy. Lương Tiêu chạy mãi chạy mãi, mặt bị gai cào xước nát cũng không biết đau. Chạy thêm một quãng thì ra khỏi rừng, không gian trở nên sáng sủa rộng rãi, một dòng sông lượn quanh đồi núi, mở rộng dần về phía biển. Nước trời mênh mang, bọt tung trắng xóa, thì ra đã tới bờ sông Tiền Đường.

Lương Tiêu bải hoải khuỵu xuống, đang gượng nhỏm dậy thì nghe A Tuyết thều thào: “Ca ca!”. Cổ thiếu nữ trúng tên, máu chảy ròng ròng không cầm lại được, khuôn mặt xanh tái loang lổ những máu, ánh mắt tươi cười đã bắt đầu mờ đi. Lương Tiêu đau lòng quá đỗi, thở hộc ra: “Đồ ngốc…”. Gã luống cuống băng bó cho cô. A Tuyết khẽ than:

- Muội ngốc nghếch… bản lĩnh lại chả ra gì… không giúp được ca ca… Nhưng đời này kiếp này, gặp được ca ca… muội… vui lắm…

Máu chảy ồ ồ như suối, ánh mắt A Tuyết mỗi lúc một tối lại. Lương Tiêu thu hết sức tàn đặt tay lên huyệt Mệnh môn của cô, nói qua hàng lệ:

- Ta nói sai, kẻ ngốc là ta, đáng lẽ ta phải hiểu ngay từ đầu là muội sẽ quay lại…

A Tuyết lướt ngón tay thon nhỏ xanh xao qua khóe mắt Lương Tiêu, mỉm cười:

- Thực ra … muội cũng không… muốn chết…

Lương Tiêu ôm chặt cô gái mà tan nát lòng, lắc đầu quầy quậy:

- Đừng nói linh tinh, muội chết sao được… Ta không cho muội chết.

Đối mặt với thiên quân vạn mã, gã vẫn nói cười như không, vậy mà lúc này, nước mắt cứ tuôn lã chã, thấm ướt cả ngực áo.

Trời dần chuyển màu u ám, mây xếp tầng tầng, hệt như một đốm mực đen lớn rớt trên nền giấy trắng. Cuồng phong nổi lên, lùa hun hút qua dãy cỏ dại lau lách dọc bờ sông, sấm nổ ùng oàng khiến trời rung đất chuyển.

Tiếng sấm nện vào tai A Tuyết, giúp cô tỉnh táo hơn đôi chút. Cảm thấy ba hồn bảy vía mình như đang bị gió rút dần đi, cô gượng đưa tay vuốt ve tóc mai Lương Tiêu, thở dài:

- Muội chết cũng không sao, chỉ hiềm… không yên tâm, vì huynh chẳng bao giờ biết thương bản thân mình. Muội đi rồi, ai sẽ lo lắng cho huynh đây… – Cô lẩm bẩm, nước mắt thánh thót rơi. – Ai cũng nói huynh mạnh mẽ lắm, thực ra… muội biết, huynh giống như ngọn lửa, đốt cháy được kẻ khác, nhưng cũng có thể thiêu rụi chính bản thân mình.

Trí óc A Tuyết bỗng sáng suốt lạ lùng, những điều bình thường không nghĩ tới, không nói ra, lúc này lại ào ạt tuôn chảy thành lời:

- Huynh giống như ngọn lửa, còn A Tuyết giống như thiêu thân… lao vào ngọn lửa… – Một tia sáng kỳ lạ lóe lên trong đôi mắt đẹp, A Tuyết thu hết sức tàn ôm lấy cánh tay Lương Tiêu, lẩm nhẩm. – muội yêu… huynh… rất… yêu… – Giọng cô nhỏ dần, cuối cùng lặng lẽ thoát đi như sợi khói.

.

Sông Tiền Đường ùng ục chảy về đông, một con thủy điểu hót lên ai oán, chớp cánh bay qua mặt nước, dông tuốt về phía tây. Trái tim Lương Tiêu cũng lạnh dần đi như tấm thân người con gái gã đang ôm trong tay. Trên cao, những lằn chớp loằng ngoằng giằng xé vầng mây mù nhưng không đâm xuyên qua được, sấm ì ùng cứ nối nhau rền mãi lên, lấp đi tiếng vó ngựa của hàng trăm hàng ngàn truy binh. Họ đổ dồn đến sau lưng Lương Tiêu mỗi lúc một đông, mỗi lúc một dày. Đột nhiên, một tia chớp ngoằn ngoèo như rắn lửa rạch ngang vòm không, hắt lên muôn ánh nhói buốt, phóng xuống Lương Tiêu tựa lưỡi rìu.

Một tên Bách phu trưởng bạo gan tuốt đao chém vào lưng gã. Quân sĩ nhất tề hô vang trợ uy. Chớp bỗng nhoằng lên, Bách phu trưởng rú thảm, ngã bật ra xa năm trượng, co giật một lúc rồi bất động. Tiếng gầm rống của toàn quân vụt lặng tắt, dải bờ sông mênh mông bỗng yên tĩnh lạ lùng.

Tiếng sấm mỗi lúc một riết róng, lác đác vài hạt mưa to tướng lẫn trong cuồng phong quất xuống mặt người rào rạo, buốt thấu vào tận xương cốt. Lương Tiêu rùng mình ngẩng đầu nhìn lên, da mặt lạnh buốt, không rõ nước mưa hay nước mắt. Phía sau chợt có tiếng quát vang lừng, rồi tiếng vô số vó ngựa chộn rộn phóng lại. Lương Tiêu cúi xuống, đăm đăm nhìn A Tuyết, trong mắt tràn ngập bi thương. Gã vén tóc cô, thì thầm:

- Hiền muội, muội đi trước vậy, ta sẽ theo ngay đây! – đoạn hất hai tay.

A Tuyết lăn tòm xuống nước, sóng trùm lên, chỉ tích tắc đã nuốt chửng cô gái.

Chớp xẹt một cái, cùng lúc một thanh trường mâu đâm vút tới. Lương Tiêu khẽ tràn người sang một bên, nắm lấy cán mâu rồi thúc mạnh cùi chỏ lại sau, kẻ tập kích ộc máu mồm, bay vù ra xa hai trượng. Lương Tiêu quay mình lại, kiếm quang loe lóe, chỉ thoáng chốc, nhiều bóng người xô tới, Lương Tiêu đâm chém như phát cuồng, máu hắt lên ràn rạt. Quân sĩ đều kinh hãi trước uy thế ấy, định dùng đến tên bắn, chợt đằng xa có tiếng cười dài, rồi một giọng u u trầm bổng vọng tới:

- Vương gia có lệnh, bắt sống kẻ đó!

Ai nấy ngoái đầu nhìn. Một tốp kỵ mã đang phóng thốc lại. Ngựa chưa tới gần, ba bóng đen đã buông cương nhảy xuống, chân không chạm đất lướt vào như bay, người đi đầu ré lên:

- Tránh ra mau! – đoạn dập dình hai tay lên xuống, tóm quân sĩ lẳng sang hai bên.

Lương Tiêu nhướng mày cười khẩy:

- Hỏa Chân Nhân! Lao đầu vào chỗ chết mà náo nức thế kia à?

Hỏa Chân Nhân hừ mũi giận dữ, nhảy phóc đến vận kiếm đâm liền. Lương Tiêu bật cao, trở tay tuốt kiếm đâm luôn xuống vai hắn. Lão đạo sĩ chặn đỡ, hai kiếm giao nhau làm lóe ra muôn vàn tia lửa. Cứ thế, hai bên xoay vòng, dịch chuyển, mũi kiếm lúc ẩn lúc hiện. Chưa được ba hiệp, ánh đỏ vãi tung, Hỏa Chân Nhân lảo đảo giật lui liền ba bước, máu theo cánh tay phải tong tong rỏ xuống, hắn trố mắt, bàng hoàng không thể tin nổi.

Lương Tiêu quát:

- Kẻ tiếp theo! – đoạn khoa trường kiếm đâm Cáp Lý Tư.

Tên này vội múa loan đao xoay mình chém xéo. Lương Tiêu chưa xuất hết chiêu đã xoạc chân dịch ngang, gẩy mũi kiếm từ dưới lên. Cáp Lý Tư vội vã thụt lùi, Lương Tiêu di chuyển cực nhanh, xẹt tới sát bên hắn, đâm ra liền ba kiếm, Cáp Lý Tư đành giật lui tiếp. Lương Tiêu liên tục ra tay trước, đều vận dụng chiêu số tấn công, xuất liền mười nhát kiếm. Cáp Lý Tư không đánh trả nổi chiêu nào, chỉ còn nước dẹo trái, vặn phải, tức giận gào rú.

Hỏa Chân Nhân không ngờ võ công Lương Tiêu tấn tới đến thế, vì khinh địch mà thảm bại nên trong lòng ảo não vô cùng. Nay thấy Cáp Lý Tư bị dồn vào thế yếu thì hí hửng được một lúc, nhưng càng theo dõi càng khiếp đảm và căm thù, bèn đổi kiếm sang tay trái, đâm vào vai Lương Tiêu. Lương Tiêu hồi kiếm cản lại. Cáp Lý Tư thở phào, cùng hợp kích với Hỏa Chân Nhân, chia nhau tấn công thượng đoạn và hạ bàn Lương Tiêu.

Quân sĩ vốn tưởng hai tùy tùng cao thủ này sẽ đơn đả độc đấu với Lương Tiêu, ngờ đâu chỉ chớp mắt đã giở trò hai đánh một, đây đó bắt đầu có những tiếng xì xào. Hỏa Chân Nhân và Cáp Lý Tư đều nghe thấy, mặt đỏ như gà chọi, nhưng nghĩ thắng bại mới quan trọng, những việc khác chỉ là tiểu tiết, lại cho rằng hễ bắt sống được Lương Tiêu thì sẽ không còn lời ong tiếng ve nào nữa, họ liền gắng bỏ ngoài tai, tiếp tục hiệp lực tấn công.

Lương Tiêu tập trung tinh thần thi triển Quy Tàng kiếm. Trước lộ kiếm pháp cao thâm khó lường, Cáp Lý Tư và Hỏa Chân Nhân dần dần lúng túng. A Than vốn vẫn trọng thân phận, đứng ngoài thản nhiên quan sát, đến đây thầm nhủ nếu hai tên kia thua thì một mình mình không thể nào là đối thủ của Lương Tiêu được, lập tức bỏ ngay kiểu làm bộ làm tịch, tuốt vòng kim cô nhảy vào tham chiến. Lương Tiêu cười nhạt:

- Đến đúng lúc lắm!

Trường kiếm vạch quanh một vòng, đón lấy hắn. Bốn bóng người lúc lên lúc xuống, nghiêng nghiêng ngả ngả như cỏ bồng trong gió, ánh kim loại chợt lóe chợt tắt, cùng lập lòe đua sáng với chớp nháng trên trời.

Hỏa Chân Nhân bị thương từ đầu, kịch chiến đã lâu nên mất khá nhiều máu, xuất chiêu dần dần chậm lại. Lương Tiêu nhận ra, liền đâm ngay vào mặt hắn. Hỏa Chân Nhân vội vã hụp đầu, chiếc mũ tử kim quan bị hất bay xuống đất, hắn đang lẩm bẩm hú hồn hú vía thì Lương Tiêu quát: “Cút này!”, rồi tung cước đá bộp vào bụng dưới hắn. Hỏa Chân Nhân ộc máu, người lộn phộc lên cao đến hơn một trượng, chân chổng ngược, đầu đâm sầm xuống đất.

.

Mấy hiệp nữa trôi qua, giữa những bóng người loáng động vụt hắt lên một ánh sáng lòa, kèm theo tiếng gầm vang phẫn nộ của Cáp Lý Tư. Từ thắt lưng đến bắp đùi hắn đã xuất hiện một đường rạch dài chừng nửa thước, thịt bửa cả ra ngoài nom gớm chết. Cáp Lý Tư đau quá vùng thoát khỏi vòng chiến, ngồi bệt xuống đất bịt vết thương, mặt mày rúm ró.

A Than hoảng hồn, múa vòng kim cô xẹt đến, Lương Tiêu khẽ khom mình xuống, trở kiếm đâm ngược. A Than liền ngoặc vòng kim cô vào thân kiếm, giằng mạnh về phía mình, trường kiếm tuột tay Lương Tiêu. A Than mừng thầm: “Để xem ngươi còn làm ăn gì được khi mất kiếm báu đây?”. Hắn dồn hết tâm trí vào việc khống chế binh khí, không ngờ bị Lương Tiêu quạt tả chưởng trúng ngay giữa ngực. Hệt như hứng một chùy nặng ngàn cân, hắn loạng choạng giật lui hai trượng, ngã ngửa xuống đất, lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo hết cả nhưng vẫn chưa cam chịu buông xuôi, lại chống hai tay, run run đứng dậy. Đúng lúc ấy, một tiếng sấm rền nổ lộng trời cao, A Than giật lên một cái, miệng phun máu tươi, hai mắt trợn tròn, thân hình to lớn đổ ầm xuống đất.

Lương Tiêu liên tiếp đả bại ba cao thủ, mắt váng mày hoa, nhưng đã mất A Tuyết, gã cũng chẳng muốn sống nữa, chỉ mong cùng chết theo cho rảnh, bèn đưa mắt quét khắp mặt tướng sĩ, hai tay chống nạnh, thét vang:

- Mông Cổ không còn hảo hán nào hay sao?

Tiếng thét cùng tiếng sấm rền cuồn cuộn truyền đi xa, mấy ngàn binh mã đều im phăng phắc.

Chợt một giọng trầm trầm vẳng đến:

- Ai bảo Mông Cổ không còn hảo hán?

Giọng nói tuy ở rất xa, nhưng vẫn vang lên rành rọt giữa hàng tràng sấm chớp. Tiếng người vừa dứt, tiếng vó ngựa đã dồn tới gần, một tốp nhân mã xuất hiện ở hướng bắc, rầm rập phi lại. Bá Nhan đi hàng đầu, uy phong lẫm liệt, sau lưng lần lượt là Thoát Hoan, Hạ Đà La, Thổ Thổ Cáp, Lý Đình, Nang Cổ Ngạt, xem chừng toàn bộ tướng lĩnh Nguyên quân đều đổ cả về đây.

Bá Nhan phóng ngựa tới nơi, binh lính lập tức giãn ra nhường đường. Đến cách Lương Tiêu ba trượng, y gò cương, trừng trừng nhìn xuống, trán nổi gân xanh chằng chịt, không nói một lời. Thoát Hoan trông bộ dạng thảm hại của ba tên thủ hạ, cảm thấy không còn tí thể diện nào, liền khoát tay:

- Bắn chết hắn cho ta!

Hạ Đà La xua tay cười vang:

- Việc gì phải phí tên thế chứ! – Hắn liếc con trai rồi nhảy xuống ngựa, nhìn Lương Tiêu bằng cặp mắt xanh biếc, cười hí hí. – Mong được thỉnh giáo cao chiêu của Bình chương đại nhân!

Bá Nhan lạnh lùng ngăn lại:

- Hắn hỏi Mông Cổ có hảo hán hay không, liên quan gì tới dân Sắc Mục nhà ngươi!

Một tia căm giận lóe lên trong cặp mắt xanh, nhưng bị dìm tắt ngay lập tức, Hạ Đà La cười ha hả, lùi sang một bên. Bá Nhan trỏ roi ngựa vào mặt Lương Tiêu, cao giọng bảo:

- Ta với ngươi đơn đả độc đấu, để ngươi đừng coi thường hảo hán Mông Cổ chúng ta!

Các tướng cả kinh, định can gián, Bá Nhan nghiêm giọng mắng át:

- Khỏi phải nhiều lời! – đoạn cởi trường bào ném xuống đất, thét lớn. – Mang chiến mã và trường cung cho hắn.

Thổ Thổ Cáp không để ai kịp thi hành mệnh lệnh, nhảy phắt xuống ngựa, dắt tới trước mặt Lương Tiêu:

- Ngươi cưỡi ngựa của ta!

Tất cả sửng sốt, Thoát Hoan mắng:

- Ngươi cũng định tạo phản phải không?

Thổ Thổ Cáp không đáp, lùi sang một bên. Lý Đình tiến đến, nâng trường thương bằng hai tay:

- Huynh dùng thương của đệ!

Nang Cổ Ngạt cũng bước lại, gỡ cung, cảm khái nói:

- Cầm lấy cung của ta đi!

Thoát Hoan sôi sục thét Bá Nhan:

- Phản rồi, phản một lũ!

Bá Nhan lắc đầu:

- Người Mông Cổ chúng ta trị thiên hạ bằng tín nghĩa, ta có thể bảo họ vứt bỏ nghĩa khí được sao?

Thoát Hoan sững người, không biết đáp lại thế nào.

Lương Tiêu thấy mình đã lâm bước đường cùng mà bằng hữu còn nặng tình như thế thì không nén được cảm động. Gã đón binh khí, đoạn dùng trường thương rạch ngang mặt đất, rành rọt bảo:

- Ta và ba ngươi vạch đất tuyệt giao, từ nay trở đi, không còn quan hệ gì với nhau nữa.

Bọn Thổ Thổ Cáp hiểu Lương Tiêu nói vậy vì sợ liên đới đến mình, nhớ lại tình nghĩa bao năm, không ai cầm được nước mắt, đều chắp tay vái một vái.

Lương Tiêu ngoảnh ngay mặt đi, nhảy lên yên giơ cao trường thương, ngửa mặt hú dài bi phẫn. Quân sĩ nghe thấy mà nhiệt huyết bừng bừng, đều giật cương ngựa, chiến mã chồm dậy, loạt vó sắt tiếp đất gõ ầm vang như trống trận. Đúng lúc này, hơi nước nổi lên mát lạnh, sau một hồi sấm chớp thị uy, mưa rào cuối cùng cũng trút xuống.

Lương Tiêu hú vang cho xả bớt u uất trong lồng ngực, đoạn giật cương phi gần vào vòng đấu. Bá Nhan tế ngựa chạy chênh chếch, dây cung “phựt” một tiếng, mũi lang nha tiễn xé mưa lao tới. Lương Tiêu cử thương đập xuống, hổ khẩu đau tê, suýt đánh rơi binh khí. Thật vậy, Bá Nhan là Mông Cổ đệ nhất thần tiễn thủ, uy danh hai mươi năm nay tất nhiên không phải xây dựng nhờ may mắn. Y bắn liên tiếp hai phát nữa. Lương Tiêu hụp mình xuống, vung trường thương gạt nhanh, một mũi tên ghim lên cán thương, mũi thứ hai lướt qua đỉnh đầu gã, kéo theo kình phong làm rối tung tóc Lương Tiêu.

Hết màn bắn đỡ, hai ngựa đã áp sát. Bá Nhan vứt cung, chuyển sang dùng trảm mã đao. Lương Tiêu đẩy thương vào mặt y. Bá Nhan hoành đao chặn lại. Lương Tiêu bèn xoáy tay vặn thật nhanh, trường thương gãy roẹt làm đôi đúng chỗ ngù thương. Bá Nhan vốn chỉ chú tâm đề phòng thương pháp linh hoạt của Lương Tiêu, nào ngờ gã giở ra chiêu thức lạ lùng ấy, tay trái cầm đoạn cán gãy làm gậy gạt trảm mã đao, tay phải dùng mũi thương làm chủy thủ đâm thẳng vào mắt chiến mã của y. Con ngựa đau buốt tận óc, tung vó rống lên thảm thiết, hất chủ ngã nhào. Bá Nhan thân pháp rất nhanh, trước khi tiếp đất còn kịp quét trường đao một vòng như gió, chặt đứt ba chân ngựa của Lương Tiêu. Hai người đổ ập xuống đất gần như đồng thời, làm nước bùn bắn lên tung tóe.

Bá Nhan nhảy nhỏm ngay dậy, chưa kịp giơ đao, Lương Tiêu đã lật người chồm tới giậm luôn hai chân lên đao, vung hai tay trái chém phải đâm, đạp thanh đao lui ra xa. Bá Nhan đành buông binh khí giật lùi, Lương Tiêu liền tiến theo, tay trái cầm cán thương múa như rồng lượn, tay phải cầm mũi thương khoa như rắn vờn, ngắn dài hỗ trợ lẫn nhau, phối hợp cả hư lẫn thực. Bá Nhan luống cuống nắm lấy cánh cung dài năm thước chém vù vù thay đơn đao. Hai bên vận dụng binh khí khác với đường lối thông thường, tướng lĩnh đứng quan chiến đều trố mắt, nghĩ bụng: “Không ngờ cung và thương còn có cách dùng như thế nữa!”.

Sấm nổ điếc tai, mưa trắng mù trời, giông bão càng lúc càng khủng khiếp. Hai người dầm chân trong nước, thoắt tiến thoắt lui. Kịch đấu hồi lâu, Bá Nhan sử cung càng lúc càng nhuyễn, ngoài đao pháp còn biến hóa thêm nhiều cách thức tinh diệu, thi thoảng chặt ngang chém dọc, thình lình dùng dây cung giằng lấy binh khí đối phương. Lương Tiêu bèn rùn người xuống, chân trái quét mạnh, hắt một vồng nước mưa lên mặt Bá Nhan, nhân lúc y mờ mắt, lại chọc ngay cán thương vào giữa hai đầu mày y. Bá Nhan nhích phần cánh cung ra chặn cán thương của Lương Tiêu, hai người đồng thời sử kình, chiếc cung bị kéo căng tròn.

Lương Tiêu lăng mạnh tay trái ném mũi thương đi, Bá Nhan nhích vai tránh, nhưng cú ném của Lương Tiêu chỉ là hư chiêu, cốt lừa y đưa cổ đến đúng đầu gậy, lúc này cung đã căng hết mức, đoạn gậy chỉ đợi buông tay là bật ra. Bá Nhan ứng biến rất thần tốc, buông tay khỏi cung, hụp đầu xuống, cán thương lướt sát qua trán y. Hai bên đều đã mất binh khí, chỉ còn tay không, bèn giở quyền cước ra đấu với nhau.

Hạ Đà La xem đến đây cũng phải gật đầu tán thưởng: “Võ công hai người tuy chưa phải là tuyệt đỉnh, nhưng biến hóa đa dạng khôn lường!”.

Trong bãi đấu, thân pháp hai bên thình lình thay đổi, Bá Nhan di chuyển thần tốc, tưởng tiến lại lui, tưởng né lại thành chống đỡ, song chưởng chuyển động rất kỳ lạ, không rõ trên dưới, không phân trái phải, Lương Tiêu thì dịch hết bên này sang bên nọ, chưởng thế giữ nguyên không đẩy ra, chỉ chạy vòng vòng. Hai người ở cách nhau chừng mấy thước, càng di chuyển càng thần tốc, hệt như hai luồng gió nhanh, vậy mà xoay liền hai mươi vòng vẫn không chạm nhau một chiêu nào.

Thoát Hoan sốt ruột hỏi:

- Hạ tiên sinh, theo ông thắng thua ra sao?

Lúc này mưa như trút nước, bốn tên thân binh dùng trường mâu chống một bộ giáp trụ che trên đầu Thoát Hoan cho đỡ ướt, nhưng cũng không ăn thua gì. Hạ Đà La lắc đầu:

- Đại nghịch tru tâm chưởng gặp Tam tài quy nguyên chưởng, thắng phụ khó nói lắm.

Thoát Hoan thắc mắc:

- Mong tiên sinh giải thích rõ hơn xem!

Hạ Đà La thủng thẳng:

- Thừa tướng thi triển lộ chưởng pháp Đại nghịch tru tâm do Tiêu Thiên Tuyệt sáng tạo. Vương gia nhìn nhé, hễ tay ông ấy chĩa sang trái thì hạ chưởng xuống lại thành bên phải, khi chĩa tay sang phải thì lại nhằm đánh xuống bên trái; vốn là hướng lên trên, lúc kết chiêu lại ra tấn công bên dưới, rõ ràng là giật lui, lúc tới điểm bỗng hóa thành tiến đến. Ý nghĩa của chữ “đại nghịch” là tiến thoái công thủ đều trái với lẽ thường. Còn “tru tâm” có nghĩa là đánh vào trái tim người ta, làm cho người ta mù mờ, không phân biệt nổi hư thực.

Thoát Hoan phì cười:

- Thế chẳng hóa đánh lừa người ta hay sao?

Hạ Đà La tủm tỉm:

- Vương gia thật sáng suốt, bí quyết của lộ công phu này chính ở hai chữ “tru tâm”, nếu đánh lừa đến mức khiến đối thủ hoang mang thì chắc chắn sẽ có cơ chiến thắng. Vì vậy, lộ võ công này có thể xếp vào loại công phu trí trá bậc nhất thiên hạ, Tiêu Thiên Tuyệt sáng tạo ra cốt để đối phó với Tam tài quy nguyên chưởng.

- Chưởng ấy thế nào?

- Tam tài quy nguyên chưởng là lộ chưởng pháp mà Lương Tiêu đang vận dụng kia kìa. Yếu lĩnh của nó nằm ở chỗ thăm dò hư thực của đối phương, luyện tới mức tuyệt đỉnh thì bách chiến bách thắng, người Hán gọi yếu lĩnh ấy là “quen tay hay việc”, cảm nhận không phải bằng thị giác nữa mà bằng thần khí, ngũ quan đã dừng nhưng tuệ tính còn tiến mãi, nhắm mắt cũng có thể tránh chỗ mạnh, lựa chỗ yếu mà đả thương kẻ thù, có thể nói là công phu đối địch bậc nhất thiên hạ.

Thoát Hoan nửa hiểu nửa không, lại hỏi:

- Nhưng vì sao mãi mà hai người kia không giao thủ?

Hạ Đà La cười:

- Công phu trí trá gặp công phu thẩm thấu, một bên dùng trăm phương ngàn kế đánh lừa đối thủ, bên kia thì cẩn thận dò xét từng điểm hư thực của địch nhân, nếu không chắc chắn hoàn toàn, họ không đời nào liều lĩnh ra tay đâu.

Thoát Hoan gật đầu:

- Bản vương hiểu rồi, chỉ cần Bá Nhan làm Lương Tiêu mắc lừa thì sẽ chiến thắng.

Hạ Đà La lắc đầu:

- Tiểu tử ấy đâu dễ vào tròng như thế? Vừa rồi Thừa tướng giăng ra vô số bẫy rập, hắn đều không mắc lừa. Hà, hai người này, không đấu thì thôi, mà đấu thì thật khó đoán ai sống ai chết!

Hắn cố ý khoe khoang nên nói từng câu từng chữ đều vang dội rành rọt, hai đấu thủ nghe thấy, cùng ngấm ngầm kinh ngạc. Loay hoay thêm ba hiệp nữa, Lương Tiêu vụt phát hiện một sơ hở ở ngực Bá Nhan, liền bổ nhào tới trước, xuất một chiêu Tam tài quy nguyên. Bá Nhan cũng đã tự mình phát hiện ra rồi, liền khép khít song chưởng chắn lên trước ngực. “Bình” một tiếng, hai người dồn toàn lực chạm một chưởng, nước mưa bị kình phong hất dạt, hệt như một màn phi tiễn nhỏ. Lương Tiêu bật ra xa hai trượng, ngã bịch xuống làm bắn tung lên bao nhiêu là bùn đất. Bá Nhan lảo đảo một hồi mới đứng vững được, hai tay run bần bật, khí huyết cuộn ngược trong ngực.

Thình lình, có tiếng động ì ầm như sấm từ đằng đông truyền tới. Lương Tiêu gắng gượng giãy giụa, nhưng không sao nhỏm dậy được, máu hòa với nước mưa chảy xuống theo khóe miệng gã. Kỳ thực, luận về võ công, gã vốn thua sút Bá Nhan, huống hồ trước trận đấu lại đã huyết chiến cả ngày trời, đầu óc mụ mẫm sức lực hao mòn, chỉ nhờ dũng khí cùng sự xuất hiện đúng lúc của Trung Điều Ngũ Bảo và A Tuyết mới gắng chèo chống được đến bây giờ. Sau chưởng vừa rồi, thực đã đến lúc sức tàn lực kiệt.

Hạ Đà La cười ha hả:

- Lương Tiêu, ngươi nhận thua chưa?

Lương Tiêu hừ mũi, gắng chống hai tay, cuối cùng cũng loạng choạng đứng dậy được. Bá Nhan nhìn gã, nói mấy câu, nhưng tiếng động đằng đông ầm ầm như núi lở, khiến tai nghe lùng bùng, làm lấp đi lời nói của y.

Lương Tiêu chật vật ưỡn thẳng lưng dậy, nhìn xuống dòng nước cuồn cuộn, cảm thấy toàn thân nhức nhối, xương cốt như muốn nứt, nhưng cũng không bằng một phần vạn nỗi đau đớn trong tim, nước mắt tuôn rơi hòa vào nước mưa, cứ ròng ròng hết nóng lại lạnh, hết lạnh lại nóng. Bá Nhan bỗng siết chặt hai nắm tay, bộ dạng hung dữ, chậm rãi tiến lại gần Lương Tiêu, bước chân chậm và nặng, làm trái tim người ta cũng trĩu xuống. Tướng sĩ xung quanh bỗng ồn ào, nhiều quân sĩ chỉ trỏ về phía đông, kinh hãi la lối. Bá Nhan đưa mắt nhìn theo. Một bức tường trắng xóa đang ùn ùn kéo đến. Y chỉ kịp nghĩ: “Sóng Tiền Đường!”.

Con sóng tràn tới rất nhanh, hất tung mọi thứ, tiêu diệt hủy hoại mọi chướng ngại cản đường. Tướng sĩ Nguyên triều tuy đã từng trải nhiều chiến trận, nhưng chưa gặp phải sự lạ như thế bao giờ, kinh hãi đến mức không kịp giật lui, lần lượt bị cuốn vào con sóng khổng lồ. Bá Nhan đang đứng ngẩn ra, Lương Tiêu đã thu hết hơi tàn lao phốc lại phía y. Bá Nhan chìa tay ngăn, nhưng chưa phát lực thì con sóng đã ồ ạt trào qua, trùm kín hai người.

Thoát Hoan và đám còn lại đứng cách bãi đấu khá xa, thấy vậy vội giục ngựa chạy đi, đợi con sóng tràn hết sang phía tây mới hoàn hồn giương mắt nhìn xem. Trên bờ sông không còn bóng ai cả. Cả bọn đang định chạy lại gần kiểm tra, chợt nghe một tiếng hú dài, Bá Nhan lật mình lên bờ. Thoát Hoan khựng lại, không giấu nổi vẻ thất vọng, hừ mũi hỏi:

- Lương Tiêu đâu?

Bá Nhan lắc đầu:

- Ta bám được một tảng đá bên sông nên mới may mắn thoát được, còn Lương Tiêu…

Y nhìn xuống dòng nước, chực nói lại thôi. Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt và Lý Đình rụng rời, nằm bẹp xuống bờ, khóc rấm rứt. Thoát Hoan cười nhạt:

- Bá Nhan Thừa tướng! Lương Tiêu là bộ thuộc của ông, nhưng ông quản lý không nghiêm, sau này trước mặt thánh thượng, bản vương đành cứ theo sự thực bẩm báo, đến lúc đó chẳng may tổn thương hòa khí thì cũng mong thừa tướng đừng oán trách.

Bá Nhan nhìn phớt qua mặt hắn, lạnh lùng nói:

- Lương Tiêu tự tung tự tác, chuốc lấy bại vong. Ta dùng người không đúng, tự khắc biết đường thỉnh tội với thánh thượng, trước mắt, việc tây tiến không thể chậm trễ. Thổ Thổ Cáp, Lý Đình!

Hai người vâng lời tiến lên, Bá Nhan trầm giọng nói:

- Hai ngươi thống lĩnh quân sĩ, thay quyền Lương Tiêu.

Thổ Thổ Cáp rùng mình, cùng Lý Đình đồng thanh vâng lệnh. Thoát Hoan biến sắc mặt, hừ một tiếng rõ to, dẫn thuộc hạ vỗ ngựa phóng vụt đi.

Bá Nhan ngước mắt lên trời thở dài, một lúc lâu sau mới nhìn xuống dòng Tiền Đường, cuối cùng lên ngựa phóng về phía bắc, quân sĩ rầm rập theo sau. Chỉ chốc lát, tiếng vó ngựa đã lan đi xa, tiếng sóng cũng lắng dần, sông Tiền Đường trở lại yên tĩnh.

[1] Nát ngọc tan vàng.

[2] Kho quân dụng dành riêng cho đế vương hoặc đại thần.


Mưa rả rích như chuỗi hạt đứt dây, mỗi rơi mỗi thưa. Ráng hồng rực rỡ kéo lên phía trời đông, núi đồi trong trẻo mát lành như mới gột. Có ba người nông dân nọ, ăn sáng xong thì dắt trâu ra khỏi nhà, vừa đi vừa chuyện gẫu. Tới gần bờ ruộng, họ gặp một người đi ngược lại, đầu tóc rũ rượi, toàn thân lấm lem những bùn sình cỏ lá, dưới mớ tóc rối là đôi mắt đờ đẫn, ánh nhìn vô hồn.

Người nông dân khô đét nhổ nước bọt đánh toẹt, bực bội thốt:

- Lại một tên khố rách áo ôm đến xin ăn.

Người lùn tịt chắc nịch đi bên hắn tỏ ý thông cảm:

- Cũng chỉ tại bọn phương bắc, từ ngày kết bè kết đảng kéo xuống đây, chúng đã gây cho dân lành biết bao tội nghiệt.

Người thứ ba thân hình cao lớn, nói giọng hằn học:

- Hôm qua lý trưởng đến báo, bọn Thát còn đòi trưng thu lương thực nữa cơ. Con mẹ nó, lão tử chỉ muốn đập chết quân chó đẻ ấy cho rảnh nợ!

Ba gã nông dân đang nhai nhải thóa mạ, kẻ lôi thôi lốc thốc nọ bỗng bổ nhào đến ôm choàng cổ con trâu đực của họ, gào khóc:

- Đừng chết, đừng chết mà!

Con trâu thất đảm, chĩa sừng ra húc, nhưng người nọ đứng vững như mọc rễ, trợn mắt thét:

- Được lắm, húc đi, mày không bao giờ đẩy ngã được tao, tao không sợ đâu!

Ba người nông dân nhìn mà phát sợ, gã lùn thốt lên:

- Ối, thằng điên!

Con trâu bị cùm chặt cổ, rống ò ọ liên hồi, chĩa sừng giãy giụa, mõm sùi bọt trắng. Người nọ sục chân vào đất sâu đến cả thước, không chịu nhúc nhích bước nào, chỉ một mực gào:

- Mày không bao giờ đẩy ngã được tao, tao không sợ đâu!

Ba người xúm lại toan gỡ hắn, kẻ ấy bỗng gầm lên một tiếng, gồng sức vặn con trâu đổ kềnh xuống đất rồi vỗ tay cười nghiêng ngả.

Dân trong làng bắt đầu tỏa ra đồng, thấy cảnh đó liền hò hét vác cuốc lao tới đánh. Người nọ duỗi tay quét một vòng, đám nông dân đều toạc hổ khẩu, cuốc bay tuột đi hết, ai nấy sợ hãi tháo chạy. Người nọ múa may quay cuồng, gọi với: “Đừng chạy nào!”, rồi đuổi theo, khua trái hất phải khiến đám nông dân lăn lông lốc. Xong xuôi, hắn chống tay vào hông, ngửa mặt cười sặc sụa.

Mấy người đàn bà nghe động chạy ra, tên nọ bèn trợn mắt quát:

- Các ngươi xông cả lại đây, ta không sợ đâu! – rồi băng mình đến trước mặt họ.

Đám nông phụ đều khiếp đảm trước bộ dạng hung ác và hành động như ma quái ấy, cùng la lên thất thanh. Người nọ nghe tiếng la bỗng giật bắn mình, quơ luôn lấy một thôn nữ, rú gào thảm thiết:

- A Tuyết, A Tuyết…

Kẻ điên dại ấy cố nhiên là Lương Tiêu. Thần trí gã không còn minh mẫn, cảm nhận về sự vật xung quanh đã khác hẳn bình thường. Cô thôn nữ bị gã ôm nghẹt, sợ đến nỗi toàn thân lạnh ngắt, cơ hồ ngất lịm, khó khăn lắm mới thở lại được. Dần dần, nghe gã khóc thảm thiết quá đỗi, nỗi sợ hãi đổi ra cảm động, cô cũng bặm môi sụt sùi.

Thình lình, một người gạt đám đông băng đến trước mặt Lương Tiêu, vỗ thật nhanh lên vai gã. Hai cánh tay Lương Tiêu bỗng dưng rời rã, không nắm vững được nữa, gã đành buông cô gái, mắt rực hung quang, quát:

- Ngươi là ai?

Người vừa xuất hiện cười nhạt:

- Đàn bà con gái mà ngươi cũng dám bắt nạt ư? Lão tử phải tát vỡ mặt ngươi ra! – Nói là làm liền, hắn vung cả hai tay đập bốp vào hai bên má Lương Tiêu.

Tuy đầu óc mụ mẫm nhưng võ công Lương Tiêu cũng còn được đến bảy phần mười, nào ngờ người kia xuất thủ nhanh đến mức gã không tránh kịp, mặt sưng vù lên, xoay đúng hai vòng thì ọe ra một cục đờm lẫn máu đen tím. Người nọ không đợi Lương Tiêu đứng vững, lập tức nhảy tới đẩy thốc một chưởng vào ức gã. Lương Tiêu bị hất lộn phộc lên không rồi rơi thình xuống đất, chưởng lực động đến hai huyệt Trung phủ và Vân môn khiến một chất lỏngnóng ran trào lên òng ọc trong cổ họng gã rồi theo đường miệng thổ ra ngoài, lại là đờm lẫn máu, nhưng cũng nhờ thế mà làm vợi khí uất tắc nghẹn trong lồng ngực. Lương Tiêu lảo đảo đứng dậy, người nọ lại nhao tới, vo nắm tay đấm một phát vào dưới mũi gã, ngay chính huyệt Nhân trung, vốn được coi là hào nước dẫn thông đến Thủ dương minh đại trường kinh và các đại huyệt ở Đốc mạch.

Cơn đau từ huyệt Nhân trung lan rộng như mạng nhện giăng khắp mặt Lương Tiêu. Đầu óc bỗng tỉnh táo hẳn ra, gã quét mắt nhìn quanh, thầm kinh ngạc: “Chỗ nào thế này?”. Mới nghĩ được thế thì đã bị người nọ khoằm tay mổ vào giữa ngực, Lương Tiêu không tránh kịp, huyệt Trung cực trúng đòn khiến toàn thân tê dại.

Người nọ cười:

- Nhận thua chưa?

Lúc này hai bên đứng đối mặt nhau, Lương Tiêu ngước nhìn, kinh ngạc thốt lên:

- Ông đấy à?

Đó chính là lão già cổ quái trà trộn vào làm loạn đại doanh quân Nguyên hôm nào. Sau khi bị thương vì hứng một chưởng của Hạ Đà La, lão trốn khỏi quân doanh, tĩnh dưỡng đến khi bình phục thì theo nạn dân Đại Tống chạy tới làng này.

Đầu óc lão không được bình thường, chuyện đã qua là quên béng, hiện giờ chẳng nhớ Lương Tiêu là ai nữa, nghe gã thốt thì kinh ngạc hỏi:

- Ngươi quen ta à? – rồi sầm mặt, lặp lại. – Nhận thua chưa?

Chỉ trong khoảnh khắc, trước cặp mắt trừng trừng của con người ấy, bao nhiêu chuyện trước kia bị đánh thức, ùn ùn kéo qua tâm trí Lương Tiêu. Dòng hồi tưởng dừng ở cảnh gã ngã xuống nước, hình như đập đầu vào vật gì răn rắn, chuyện sau đó ra sao gã không tài nào nhớ nổi nữa… Càng nghĩ, lòng càng chua xót, ý chí tranh đấu thui chột, Lương Tiêu uể oải thở dài:

- Lão gia tử, tôi nhận thua, ông buông tay ra đi!

Lão già khoái chí buông Lương Tiêu, vỗ tay cười lớn.

Lương Tiêu ngoảnh nhìn đồng rộng núi xa, cay đắng nghĩ thầm: “Vì sao A Tuyết đã chết mà ta còn sống sờ sờ ở đây? Chẳng lẽ ông trời giày vò ta chưa đủ ư?”. Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng vốn chẳng phải kẻ khư khư cố chấp, sau một trận cải tử hoàn sinh, gã cũng từ bỏ ý muốn liều thân, bèn quay mình bước đi. Lão già kỳ quái liền tóm ngay lấy huyệt Linh đài trên lưng Lương Tiêu, khiến gã vốn u uất sẵn lại thêm bực mình:

- Còn muốn gì nữa đây?

Hớn hở như tìm được đồ chơi, lão già náo nức nói:

- Ngươi ở lại, ngày ngày đánh nhau với ta chẳng vui lắm ư?

Lương Tiêu đã chán ngấy mọi thứ trên đời, chẳng lòng dạ nào mà a dua theo trò vè của lão, bèn bảo:

- Ông túm chặt thế, tôi làm sao đánh nhau với ông được?

Lão già trố mắt, rồi thả ngay tay, cười rinh rích:

- Phải, phải!

Vừa được tự do, Lương Tiêu lập tức vận khí chạy hết tốc lực, chạy liền tù tì sáu bảy dặm, kỳ bụng đói meo mới dừng chân. Gã đang định tìm thứ gì ăn uống, chợt nghe tiếng cười hì hì:

- Hay hay, chạy nhanh đấy!

Lương Tiêu giật bắn mình ngoái nhìn. Lão già kỳ quái nọ đang đứng chắp tay sau lưng gã:

- Chạy đi, sao không chạy nữa?

Lương Tiêu đã hết cả hơi sức, thấy lão già nhằng nhẵng đeo bám liền ngồi phệt ngay xuống, tức giận bảo:

- Tôi mệt rồi, không chạy nữa!

Lão già cười khanh khách:

- Không chạy được à, ta giúp ngươi! – rồi nắm lấy cánh tay gã.

Lương Tiêu gập tay điểm lên huyệt Khúc trì của lão. Lão già vừa khen: “Giỏi!”, vừa chọc ngược ngón tay vào ngực gã để ngăn cản. Lương Tiêu liền bật cao đá trả xuống thắt lưng đối phương. Lão già búng năm ngón tay, kình phong bắn vào đùi trái Lương Tiêu, khiến gã thấy tê dại. Lương Tiêu gắng lấy thăng bằng khi tiếp đất bằng chân phải, đoạn nhảy vọt ra sau.

Lão già cười:

- Tuyệt tuyệt tuyệt, ngươi là con quỷ thọt, ta là thần tiên nhảy! – rồi co chân trái, nhảy lò cò đến bên Lương Tiêu, nắm cổ tay gã. Lương Tiêu vội vàng chiết giải, nhưng lão già đã tót đi xa, lôi tuột gã theo như lôi một con diều giấy.

Lương Tiêu bị lôi xềnh xệch, cánh tay kéo theo sức nặng một trăm mấy chục cân của cơ thể, suýt nữa thì đứt, gã đành vận hết sức lực guồng chân chạy cho kịp, nhưng chỉ công toi, vì lão già chạy như sấm rung chớp giật. Lương Tiêu chưa từng gặp ai có cước lực tốc độ như vậy, gió rít ào ào bên tai gã, cảnh vật cứ tạt vào mặt rồi trôi tuột về phía sau. Ba mươi dặm đầu, gã còn gắng sức rảo chân bắt kịp, ba mươi dặm tiếp theo, hai chân gã đã mềm nhũn, nhưng lão quái vẫn chạy như ngựa, tốc độ không hề giảm sút.

Lương Tiêu ngã khuỵu xuống, đầu gối bị kéo lê suốt mấy dặm đường, vải quần bị mài thủng, da rách rớm máu, bụng bảo dạ: “Nếu còn tiếp tục thì sẽ chết mất, mà chết kiểu này thì không còn gì nực cười hơn!”. Gã bèn hét toáng:

- Lão gia tử, khinh công tôi không bằng ông… không bằng ông.

Lão già đang chạy như gió cuốn nhưng tai vẫn thính vô cùng, Lương Tiêu vừa dứt lời, lão cũng buông gã ra, cười vang:

- Tốt, tốt! Nhận thua là được rồi.

Lương Tiêu sụm xuống như một đống bùn, gượng ngồi dậy phân bua:

- Tôi vừa mệt vừa đói, không thể chạy nhanh bằng ông được.

- Nói cũng phải. – Lão già gãi gãi đầu, thình lình tóm lấy Lương Tiêu, điểm huyệt rồi vắt lên vai, chạy thêm hai dặm nữa thì gặp một dãy lều trại trắng muốt.

Nhận ra doanh trại quân Nguyên, Lương Tiêu hoảng hồn nghĩ: “Đến đây chẳng phải là chui đầu vào rọ hay sao?”, nhưng không nhúc nhích nổi nữa, đành chỉ lo lắng suông.

Lão già cất bước như bay, chạy xộc vào đại doanh. Lính gác chĩa mâu quát dừng, lão chỉ cười hi hi rồi lách trái luồn phải, tránh né các chướng ngại vật, băng qua mấy căn lều thì chợt ngửi thấy mùi thịt, bèn rảo cẳng chạy đến. Ba tên lính vừa chuyện phiếm vừa nướng một cái đùi bò to tướng, áng chừng sắp chín, thịt đã vàng ươm, mỡ sủi xèo xèo.

Lão già lướt tới chộp luôn đùi bò. Ba tên lính ngẩn ra một thoáng rồi la inh ỏi, vớ binh khí quây kín lại. Lão già nhấc đùi bò lên, thấy bỏng rãy thì hét toáng:

- Phải gió, phải gió! – đoạn bọc thịt vào tay áo rồi quai mạnh tay về phía mấy tên lính hùng hùng hổ hổ. Kẻ xông tới đầu tiên có bộ râu rậm, bị mỡ nóng bỏng hắt vào đầy mặt, phồng rộp lên bao nhiêu chỗ, hắn kêu la thảm thiết.

Lão già hứng chí múa may đùi bò như binh khí, đánh bọn lính ngã dúi ngã dụi, mỡ văng tung tóe. Lão vào trại bằng cửa nam, chạy một mạch suốt mười dặm dọc doanh trại rồi theo cửa bắc tuồn ra. Quân sĩ hò hét ầm ĩ, nhao nhao lên ngựa đuổi theo, nhưng khinh công của lão già thuộc loại thiên hạ vô đối, khẽ nhún chân là lướt êm như khói mỏng, lượn mềm như rồng bay, ước chừng thời gian tàn một cây nhang là đã cắt đuôi hoàn toàn toán truy binh phía sau.

Chứng kiến uy phong của lão, Lương Tiêu vô cùng khâm phục: “Thân pháp này thực vượt trên sức người thường, bình sinh ta cưỡi không biết bao nhiêu khoái mã, nhưng trong vòng ba mươi dặm cũng chưa con nào chạy nhanh bằng lão, e rằng chỉ có bảo mã Yên Chi của Liễu Oanh Oanh may ra đọ được!”.

Lão già chạy nhông chạy nhênh, nghiêng nghiêng ngó ngó hồi lâu, Lương Tiêu lấy làm lạ, bèn bảo:

- Bọn kia không đuổi kịp đâu, ông thả tôi xuống đi!

Lão già nghe tiếng thì dừng bước, ngạc nhiên kêu lên:

- Ối chà, ta đang tìm ngươi đó! Ngươi bò lên vai ta làm cái gì vậy, thật hư thân mất nết!

Lão rung mạnh vai, hất Lương Tiêu xuống rồi giải huyệt. Lương Tiêu phát tức:

- Ông không thèm hỏi qua một tiếng, tự động vác người ta lên vai, giờ còn ngang nhiên mắng tôi nữa ư?

Lão già gãi đầu:

- Thật hả? Ta quên bẵng mất!

Lương Tiêu lạnh lùng hỏi:

- Ông nội ông là ai, còn nhớ hay quên?

Lão già ngạc nhiên:

- Ngươi hỏi ông nội ta à?

Lương Tiêu vốn định tiện miệng bảo: “Ông ngươi là ta đây này!”, nhưng thấy lão già ngớ ngẩn, không có vẻ gì là giả trá thì thực không nỡ, bèn xé một tảng thịt bò, lẳng lặng bỏ vào mồm. Lão già cũng bắt chước ngồi ăn.

Chừng lưng lửng dạ, Lương Tiêu ra suối uống nước, vừa yên vị là thấy lão già cũng đã ở bên cạnh, đang đùa giỡn với một con bướm sặc sỡ, bắt rồi lại thả, thả rồi lại bắt. Lạ một nỗi cánh bướm mỏng tang mà bị lão nhúp vào nhả ra mấy bận liền như thế vẫn không hề hấn gì cả.

Lương Tiêu hết cách thoát thân, đành uống mấy ngụm nước, vuốt mặt rồi soi xuống lòng suối, bỗng thừ người ra. Thấp thoáng bên bóng phản chiếu của gã có một thiếu nữ mặt tròn mắt to đang cười chúm chím, bàn tay ngọc thon thon nâng mái tóc tuôn dài như suối, đang chải chuốt với làn nước. Lương Tiêu run run kêu:

- A Tuyết… A Tuyết…

Gã chìa tay ra, nhưng ngón tay chạm nước làm loang sóng, ảo ảnh vỡ tan, chỉ còn lăn tăn ánh nước.

Lương Tiêu sững sờ nhìn mặt nước hồi lâu, vụt gục xuống bờ suối khóc òa lên. Lão quái rất ngạc nhiên, chạy lại xoa đầu gã, cười ha hả:

- Con ngoan ơi ngủ mau đi, nhắm hai mắt lại, khóc chi cho nhiều…

Với cái tính nóng nảy bẩm sinh, phải hôm khác Lương Tiêu tất đã nổi trận lôi đình, nhưng lúc này ruột gan như đứt ra từng khúc, gã không nhịn được nhào luôn vào lòng lão già, khóc rưng rức như trẻ con. Lão già luống cuống, cũng để mặc gã úp mặt vào lòng mình mà không phòng bị gì cả, khuôn mặt hiền từ hẳn đi, đột nhiên ầu ơ:

- Cái ngủ mày ngủ cho say, ta mua kẹo ngọt trái cây mang về…

Người dỗ người khóc như thế không biết bao lâu. Lương Tiêu dần bình tĩnh lại, chợt nhận ra mình đang úp mặt vào lòng lão già thì ngượng nghịu hết chỗ nói, sực nảy một ý hiểm: “Ta điểm ngón tay vào chỗ nào đấy của lão là có thể thoát thân”, nhưng lập tức đổi ý ngay: “Lão hết lòng hết dạ khuyên dỗ ta, làm sao đối xử như vậy được”, nghĩ đoạn thở dài, đẩy lão già ra, ngồi cúi đầu im lặng.

Lão già cũng không nói gì nữa, chỉ thẫn thờ nhìn ra xa, dáng điệu trầm tư, một lúc sau thở dài. Lương Tiêu ngước lên:

- Vì sao ông thở dài?

Lão già cau mày:

- Nhớ bà lão ở nhà!

Lương Tiêu mỉm cười:

- Cái ông này, đến bản thân mình còn không nhớ là ai, sao lại nhớ được bà lão?

Lão già xua tay:

- Ta quên tiệt mọi thứ, nhưng bà lão thì không được phép quên, phải nhớ ngày ngày, nhớ giờ giờ, nếu không thì thật là lòng lang dạ sói, không bằng cầm thú.

- Đã nhớ bà ấy thì can gì mà không quay về mau đi?

Lão già lại xua tay:

- Không được, ta còn muốn đánh nhau! Mà hễ về nhà thì sẽ bị bà ấy giữ ghịt lấy, không thả ra nữa.

Lương Tiêu nghĩ thầm: “Chắc vợ lão là một ác phụ, bức bách đến nỗi ông chồng dở điên dở dại thế kia. Nhưng thần trí không minh mẫn mà lão ấy còn nhớ nhung vợ, đủ thấy tấm lòng dành cho bà ta sâu nặng nhường nào. Thế sự mang mang khó lường, nhiều khi nam nữ li biệt là mất luôn cơ hội tái ngộ, giống ta và A Tuyết vậy, chia tay rồi, lúc gặp lại cũng là lúc vĩnh quyết…”.

Trong lúc gã buồn thảm với ký ức triền miên, lão già nằm sấp xuống suối, ghé miệng uống nước ừng ực rồi lăn quay ra ngáy khò khò.

Lương Tiêu ngẩn người nghĩ bụng: “Tốt quá, nhân lúc lão ngủ, ta len lén bỏ đi”. Gã nhỏm dậy, bỗng lại do dự: “Ta đi cũng không sao, nhưng lão già đã tâm thần lại xa lìa thê tử, lưu lạc giang hồ, thật đáng thương quá chừng…”. Gã ngắm lão già chốc lát, tự nhủ: “Trông hình dong thì không phải dạng thiểu năng bẩm sinh, ắt hẳn mắc bệnh gì đây thôi. Chi bằng ta dỗ lão ấy đi chẩn bệnh rồi lên đường cũng không muộn”. Gã bèn lẳng lặng ngồi xuống điều tức.

Lão già ngáy mỗi lúc một to, tiếng rền như sấm động, nhịp điệu thay đổi liên tục, lúc trầm lúc bổng, lại có khả năng lay động thần hồn người nghe. Lương Tiêu mấy lần bị âm thanh ấy làm loạn hơi thở, phải thổ nạp lại theo đúng nhịp tiếng ngáy, trong lòng vô cùng kinh ngạc. Tư thế ngủ của lão già cũng rất khác thường, tay bắt chéo trước ngực, thân hình uốn éo như con giun, lông tóc toàn thân dựng lên rạp xuống theo nhịp thở, trông vô cùng quái dị.

Lương Tiêu sực hiểu: “Thì ra trong lúc ngủ, lão ấy vẫn vận công. Ghê thật, luyện công bất kể đêm ngày, hơn đứt người khác rồi còn gì?”. Gã khó lòng định thần, bèn đứng dậy đi dạo một chút cho bình tâm, vô tình bước đến cách lão già ba thước, chợt thấy thân hình lão co giật mạnh, hai tia kình phong xé gió bay đến. Lương Tiêu vội vàng lách tránh, nhưng vẫn bị một trong hai tia bắn vào bắp chân, tê dại cả đi. Gã ngước mắt nhìn, thấy lão già trở mình, tiếng ngáy càng vang dội, tức thì hiểu ra: “Lão này luyện công cả trong mơ, sợ gì ai quấy nhiễu. Bất kể người hay thú lại gần, dù đang nằm mơ, lão cũng có thể xuất thủ như thường. Hà, ngủ vẫn luyện công, khi thức đánh nhau thì còn độc đáo thế nào nữa?”.

Nhớ lại chuyện lạ trong đại doanh quân Nguyên hôm nào, gã ngấm ngầm tán thưởng: “Chẳng trách đám sĩ tốt ấy lại gần bên lão đều bị điểm huyệt hết. Kình lực vô hình vô ảnh, quả thực lợi hại”. Gã bèn tránh ra xa hơn, ngẩng mặt nhìn vầng trăng tròn sáng nơi lưng chừng trời, bỗng nhớ đến A Tuyết. Hình ảnh nàng dù khóc dù cười vẫn rõ rệt như hiển hiện ngay trước mắt. Lương Tiêu càng thêm đau lòng, hai hàng lệ lặng lẽ chảy xuống.

Đang xót xa, gã hoảng hồn nhận ra một luồng chân khí tự dưng dâng trào trong cơ thể, mà lại vần chuyển theo một đường lối chưa từng có bao giờ. Nhưng Lương Tiêu vừa bừng tỉnh thì luồng chân khí đó cũng lập tức tiêu tan. Gã định thần soát xét lại mới hiểu ra, đúng lúc đang đắm chìm trong suy tưởng, nhịp thở của gã đã bị tiếng ngáy của lão già dẫn động. Hít thở là gốc của nội công, hai người có cách hô hấp tương ứng, hướng đi của nội lực sẽ tương tự như nhau.

Lương Tiêu bản tính hiếu kỳ, nay gặp phải sự lạ đâu dễ dàng bỏ qua, bèn ngồi bắt chân bằng tròn, loại bỏ hết tạp niệm, chỉ một lát sau, nhịp thở của gã đã tương hợp với lão già, chân khí lại vần chuyển mấy vòng như ban nãy, một luồng sức mạnh vô tận nảy ra trong hai chân khiến gã ngứa ngáy muốn nhảy lên. Kiềm chế thêm một lúc, Lương Tiêu không nhịn nổi, nhảy nhổm lên thật, và trái với mong muốn, gã bắt đầu chạy vù vù không tài nào dừng lại được, hoảng hồn la thầm: “Quái thực, quái thực!”.

Cứ thế, Lương Tiêu càng chạy càng nhanh, gió rít bên tai dữ dội, cảnh vật xung quanh tan ra từng mảnh, tinh tú trên trời tựa hồ đổ ụp cả xuống, rọi vào mắt gã đau nhức. Chân khí trong Đan điền tiêu hao rất nhanh, chưa đầy hai mươi dặm Lương Tiêu đã mất sức, đôi chân tựa như không phải của mình nữa, nhưng vẫn chạy liên hồi, tựa hồ không bao giờ ngừng nghỉ. Mấy lần ghì lại đều không được, một ý nghĩa đáng sợ nảy ra trong trí gã: “Cứ thế này mãi, chẳng phải sẽ kiệt sức đến chết hay sao?”, rồi gã buồn rầu nhủ: “Ta lắm tội nghiệt, chết hàng vạn lần vẫn còn nhẹ. Mất mạng kiểu này cũng là được trời thương lắm rồi”. Gã không buồn để ý ghìm bước nữa, mặc kệ đôi chân đưa mình đi đâu thì đi.

Lại chạy thêm chừng mười dặm, đang cảm thấy mệt mỏi không thể chịu nổi, chợt nghe sau lưng có tiếng cười lớn, Lương Tiêu giật mình nhận ra là giọng lão già. Lão hỏi:

- Thằng kia, định trốn ư?

Nhoáng một cái, lão đã xẹt đến trước mặt Lương Tiêu. Hai người sắp sửa đâm sầm vào nhau thì lão già vụt thò tay xoay vai Lương Tiêu. Lương Tiêu không tự chủ được, bắt đầu chạy xoay quanh lão. Lão già thấy bộ dạng gã kỳ quặc như thế thì rất thích thú, vỗ tay cười lớn. Trong lúc lão cười, Lương Tiêu đã chạy lòng vòng mấy trăm lần liền, dần dần hai tai ù đi, hai mắt tối sầm, gã ngã vật xuống bất tỉnh.

Trong lúc mê man, cảm thấy một dòng chảy ấm áp luồn đi luồn lại trong cơ thể, Lương Tiêu chấn động tinh thần, mở choàng mắt. Lão già đang chăm chăm nhìn gã với vẻ quan tâm, thấy gã tỉnh lại rồi, ánh mắt lão bỗng mờ đi, bộ dạng trở về ngơ ngẩn như cũ. Lương Tiêu khẽ cử động, thấy hai chân đau nhức, nhớ lại tình cảnh cấp bách ban nãy mà không khỏi nhăn mặt.

Lão già cười hì hì:

- Chạy nữa thôi?

Lương Tiêu kinh sợ xua tay:

- Thôi thôi, xin miễn cho!

Lão già hí hửng:

- Được, không chạy nữa thì thi đấu, – đoạn giơ nắm tay định đấm, nhưng tới sát mặt Lương Tiêu thì dừng lại, lạ lùng hỏi. – Ngươi không hoàn thủ à?

Lương Tiêu chán nản đáp:

- Chân sưng tướng lên rồi, đứng còn không nổi nữa là đánh với đấm.

Lão già thất vọng ra mặt, bắt tay sau lưng hầm hầm đi lại. Lương Tiêu nhắm mắt dưỡng thần, tự nhủ lão già này không lúc nào chịu yên, thật đúng là khóc dở mếu dở. Một lát sau, lão già vỗ tỉnh gã, cười bảo:

- Không tỉ thí thì chơi đánh toan vậy!

Lương Tiêu bị quấy nhiễu quá mức, không sao nghỉ ngơi được nên tức đầy một bụng, lạnh lùng hỏi:

- Đánh toan có cái quái gì là vui?

Lão già cười:

- Vui quá đi chứ, ta ra hòn đá, ngươi ra chiếc lá, ta ra chiếc lá, ngươi ra cái kéo…

Lão vừa nói vừa giơ hai tay, bên xòe bên cụp, so đi đánh lại liên hồi.

Lương Tiêu không có hứng thú hưởng ứng, ngán ngẩm bảo:

- Ông già đầu rồi mà còn nghịch trò con trẻ thế à?

- A, – Lão nọ ngẩng phắt lên. – Ngươi đánh nhau với ta, ta không nghịch trò trẻ con nữa.

Cứ nhắc đến đánh nhau là mắt lão sáng rực, Lương Tiêu thầm than xúi quẩy, cân nhắc một lúc, đành chọn lấy phần việc nhẹ hơn:

- Rồi, đánh toan vậy.

Lão già mừng rỡ, xốc tay áo lên, hô hiệu lệnh. Hai người đồng thời đưa tay, đều là kéo, lại đưa tay, đều là lá, lần thứ ba đều là đá. Hai người liên tục chơi thêm mười lần nữa, kết quả giống nhau như hệt. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, lén đưa mắt quan sát. Mặt lão già đầy vẻ mưu mô toan tính, gã hơi cau mày.

Chơi thêm mấy lượt nữa, hai người vẫn ra kết quả giống nhau, Lương Tiêu sốt ruột nói:

- Khoan đã, trò đánh toan này lạ quá, hai ta trước sau toàn ra giống nhau thì làm sao phân thắng phụ?

Lão già cười:

- Ta muốn thắng ngươi thì dễ lắm, dễ lắm lắm. Nhưng ngươi muốn thắng ta thì khó kinh khủng khiếp. Tương quan nó đương nhiên như vậy rồi, nên mình cứ chơi bừa đi thôi, đừng bận tâm phân định thắng thua làm gì.

Lương Tiêu nghi ngờ, nhớ lại lúc giao thủ trong đại doanh, mỗi chiêu thức của mình đều bị lão đáp trả giống hệt, gã giật thót, chăm chú nhìn lão già, chậm rãi hỏi:

- Này, có phải ông nhìn thấu được tâm tư tôi không?

Lão già lắc đầu:

- Không đâu, bí quyết của ta là “tùy vật phù hình, vô pháp vô tướng ”.

- Thế nào là tùy vật phù hình, vô pháp vô tướng?

Lão già lộ vẻ khổ sở, gãi đầu sồn sột:

- Nói thì nói được, nhưng không biết giải thích ra sao.

Lương Tiêu thở dài thất vọng, lão già bỗng nghiêm túc nói:

- Ta không phân tích nổi lý lẽ, nhưng có thể đưa được ví dụ. Giả sử ta là nước, ngươi là bình đựng, bất kể hình thù ngươi vuông tròn ra sao, ta cũng có thể đổ đầy vào ngươi được.

Lương Tiêu thần người ra nghe, định nghiền ngẫm cho kỹ hơn thì lão già đã đánh tay đến trước mặt, gã đành giơ tay chơi tiếp.

Hai người chật vật chơi suốt đêm, mãi đến khi ánh nắng đầu tiên vừa lên, Lương Tiêu luôn mồm kêu mệt, lão già mới để gã nghỉ. Sau giấc ngủ, Lương Tiêu hồi phục tinh thần, bèn tìm một tửu quán, đặt ít rượu thịt ăn uống với lão già.

Ăn uống no say, lão già lại gạ đánh toan, Lương Tiêu nghĩ bụng: “Lão ấy đã ví mình là nước, nước chảy theo vật đựng, thay hình đổi dạng không biết đâu mà lường, dù ta là thùng gỗ, bình thủy hay bất luận vật đựng gì cũng bị lão đổ đầy. Muốn thắng lão thì phải có vật đựng to lớn như trời đất để nước biển nước sông không tài nào ngập hết được, nhưng trên đời làm gì có thùng hay lọ nào khổng lồ như vậy”. Trong lúc suy nghĩ, gã vẫn tiếp tục đánh tay với lão già, vì chơi với bộ điệu lơ đãng nhất nên vô tình chệch tay, hất đổ bình rượu bên cạnh. Gã dựng nó dậy, bỗng phá ra cười, ánh mắt ngời sáng.

Lão già vội hỏi:

- Có gì đáng cười thế?

- Lão gia tử, ông nói ông là nước, tôi là bình chứa, bất kể tôi vuông hay tròn, ông cũng đổ đầy tôi được, phải không?

Lão già vuốt râu:

- Đúng đúng.

Lương Tiêu cầm vò rượu lên, dộng mạnh xuống góc bàn đá, “rốp” một tiếng, đáy vò bị đục thủng, chút rượu còn lại chảy hết cả ra.

- Nhưng nếu đáy thủng thì sao?

Lão già ngơ ngác nhìn vò rượu, luôn tay gãi đầu, trừng mắt lên gầm gừ:

- Đáy thủng mặc kệ đáy thủng! Ví dụ vậy thôi, ngươi là người chứ đâu phải vò rượu.

Lương Tiêu điềm tĩnh nói:

- Được, chúng ta lại chơi đánh toan.

Lão già vui vẻ. Hai người giơ tay, cùng nói:

- Ra!

Lão già giơ tay phải, ra kéo, Lương Tiêu tay phải ra kéo, tay trái nắm thành nắm đấm, chậm rãi đưa ra.

- Gì đây? – Lão già hỏi.

- Ra đá đấm kéo của ông đấy.

Lão già tức tối nói:

- Có nhẽ đâu thế? Chúng ta chỉ chơi một tay, kéo đối kéo, vì sao ngươi lại ra hai tay?

Lương Tiêu cãi:

- Chúng ta chỉ nói đánh toan, chứ đâu đã thỏa thuận là đánh toan một tay.

Lão già không phản bác được, bực tức trợn mắt nhìn xoáy khắp người Lương Tiêu. Gã thiếu niên biết là không ổn rồi, bèn đứng dậy:

- Nếu muốn đánh nhau thì ra kia tỉ thí.

Lão già mừng quýnh, lót tót nhảy vù khỏi quán, rối rít vẫy tay:

- Mau lên mau lên!

Lương Tiêu dềnh dàng bước, bụng bảo dạ: “Võ công của ta phần nhiều là học của thiên hạ, tự mình chẳng có sáng kiến gì. Bây giờ chỉ có cách từ bỏ hết sở học ấy, sáng tạo ra chiêu thức khác thì mới phá nổi “tùy vật phù hình, vô pháp vô tướng” mà thôi”.

Lão già sốt ruột vì gã lề mề, lập tức khua tay đấm. Lương Tiêu vẫn chưa nghĩ ra chiêu mới, bối rối định trốn. Thấy gã chưa đánh đã chạy, lão già vô cùng tức giận, khẽ nhún chân băng mình theo. Tới sát lưng Lương Tiêu, lão vươn trảo chộp, Lương Tiêu liền thi triển Thập phương bộ vòng sang mé bên, lão già lập tức xoay phắt theo, khum trảo chộp tiếp. Lương Tiêu thấy lão không bắt chước thân pháp của mình thì rất lấy làm lạ, nhưng chỉ thoáng cái là hiểu ra. Thập phương bộ là lộ bộ pháp hoàn toàn do gã sáng tạo, chưa từng xuất hiện ở đâu, chẳng trách lão già khó bắt chước, vì thế gã liên tục dùng Thập phương bộ né tránh. Lão già nọ không tài nào bắt trúng, cứ tức giận la hét ầm ĩ.

Hai người giao đấu hồi lâu, lão già xuất thủ vô cùng thần tốc, bình sinh hiếm thấy. Để tránh được một chiêu của lão, Lương Tiêu phải dùng toàn lực nên rất mau kiệt sức, thân pháp chậm hẳn lại, cuối cùng bị lão già điểm ngã. Lão mừng rỡ vô cùng, buộc Lương Tiêu phải nhận thua mới buông tay, vuốt râu cười ha hả.

Tuy chỉ giằng co chừng mấy chục chiêu nhưng Lương Tiêu đã phải trút hết sức lực toàn thân, hơi thở dồn dập, tim đập thình thình như muốn vỡ, phải dùng cả chân lẫn tay mới di chuyển được. Nhìn sang lão già vẫn hoa chân múa tay, gã cau mày tự hỏi: “Người ta nói yếu trâu cũng bằng bò khỏe, người trẻ ăn đứt người già, ra tay vừa nhanh vừa hiểm, không ai theo kịp. Lão này tuổi tác đã cao mà sao thân thủ nhanh nhẹn đến thế? Cất tay giơ chân còn nhanh hơn ý nghĩ của kẻ khác”. Suy đoán mãi không thông, Lương Tiêu bèn nhắm mắt điều hòa hơi thở, nhưng chỉ nghỉ được một lúc, vì lão già lại nổi hứng ép gã động thủ.

Lương Tiêu nặn óc được vài chiêu mới, nhưng không hiệu quả lắm, động thủ chưa đến ba mươi chiêu đã bị khống chế. Duy có điều đáng mừng là lão già không bắt chước được những chiêu số gã vừa sáng tạo ra.

Đêm xuống, hai người đi ngủ, Lương Tiêu, vò đầu sáng tạo chiêu mới, trằn trọc không tài nào ngủ được. Ngặt một nỗi, những môn võ công gã học trước đây đều là võ học hạng nhất thiên hạ, muốn sáng tạo thêm tuyệt chiêu ngoài các môn ấy, nói thì dễ, nhưng làm quá khó. Lương Tiêu cày cục nghĩ ngợi suốt một đêm cũng nặn được ba chiêu chưởng pháp và hai chiêu cước pháp, mà chỉ là chiêu lẻ, chưa thành bộ hoàn chỉnh, chưa ăn khớp về lộ số võ công. Lục đục đến canh năm, gã mới mơ màng thiếp đi, nhưng nghỉ chưa được một canh giờ đã bị khua dậy.

Lão già ngủ no mắt nên phấn khởi sung sức, chỉ dăm ba chiêu đã dồn Lương Tiêu vào thế bí, gã đành thừa nhận thất bại. Lão già tuy ham đấu, nhưng cũng có điểm tốt là chỉ cần đối thủ nhận thua thì sẽ vui mừng, không dùng dằng đòi đánh nữa.

Lương Tiêu thua mãi, lòng háo thắng đâm sục sôi. Khi bình tĩnh lại, gã nghĩ: “Ta đánh toan thắng hoàn toàn là nhờ chơi kiểu trái với thông thường. Gặp tình thế khẩn cấp, nếu phá vỡ được quy tắc giao đấu thì có thể tìm ra cơ hội chiến thắng”. Gã đưa mắt nhìn quanh, trông thấy có một đống đá, mỗi tảng đều nặng cỡ mấy ngàn cân. Gã chợt nảy ra một ý, bèn đi đến vần đá, đặt mỗi tảng một nơi không theo thứ tự nào. Lão già theo dõi một lúc đâm ngứa ngáy tay chân, chạy lại hỏi Lương Tiêu đang làm gì. Lương Tiêu không đáp, vẫn lặng thinh tiếp tục công việc, lão già bèn xắn tay áo, hợp lực giúp gã vần đá.

Chẳng mấy chốc, đống đá đã xếp xong xuôi, tảng nào vào vị trí nấy. Lão già đang ngơ ngác nhìn, chợt nhận ra vẻ mặt lạ lùng của Lương Tiêu, tựa cười, mà không phải cười. Còn chưa kịp hỏi gì, đã thấy gã lắc mình biến mất tăm, lão già cau có thét:

- Tiểu tử đâu rồi? – đoạn vừa gọi vừa chạy, khẽ nhấc chân là đã luồn lách qua lại trong khu đá đến mười bảy mười tám vòng.

Lão già võ công tuyệt đỉnh, trực giác cũng bén nhạy vượt xa người thường. Lão cảm nhận rõ ràng sự hiện diện của Lương Tiêu ở đâu đó rất gần, nhưng bất luận thi triển khinh công tới bực nào cũng không tóm được đến cái bóng của gã, vì vậy vô cùng hoang mang, cứ guồng chân chạy loạn lên.

Chừng nửa canh giờ trôi qua, lão phát tức, giậm chân dỗi:

- Tiểu tử xấu xa kia, ta không chơi bịt mắt bắt dê với ngươi nữa, thò mặt ra đây mau!

Lão ngoác mồm nguyền rủa hồi lâu mà không nghe trả lời thì hậm hực ngồi phệt xuống, bứt mạnh râu. Đau quá, lão buột chửi đổng rồi lại bứt tiếp, khí uất đầy ngực.

Số là Lương Tiêu xếp đá làm một thạch trận. Đầu óc lão già kém tỉnh táo, không biết Lương Tiêu bày ra thế cốt kiếm chỗ ẩn thân, nói gì đến việc dò tìm nguyên tắc của trận pháp. Lương Tiêu nấp sau một tảng đá, cười ngất xem lão già nổi điên nổi dại một lúc rồi định thần, tập trung tư tưởng hình dung xem mình sẽ động thủ với lão già thế nào, biến chiêu thế nào, nghĩ ngợi một lúc, gã rời tảng đá, cười gọi:

- Lão gia tử!

Lão già hút bóng Lương Tiêu một lúc lâu, đang ngẩn ngẩn ngơ ngơ thì thấy gã xuất hiện trở lại, liền hớn hở kêu lên:

- Để xem ngươi chạy đi đâu được nữa.

Lão chồm tới gần, khum tay chộp liền. Lương Tiêu lắc mình né trảo, lại đánh trả một chưởng. Lão quái không ngờ chỉ trong thời gian ngắn mà Lương Tiêu đã tìm ra được yếu lĩnh phản kích, lòng vui mừng vô hạn, biến trảo thành chưởng, móc ngang cánh tay Lương Tiêu. Người tiến người lui, chỉ trong khoảnh khắc chiết liền hai mươi mấy chiêu. Lương Tiêu dùng hết chiêu thức thì lại trốn vào thạch trận, vắt óc tìm đối sách, mãi cho đến khi có cao chiêu thì mới ló ra.

Hai người đấu đến nửa ngày trời, lão già ù ù cạc cạc trước sự ngoắt ngoéo của thạch trận, đồng thời mất khả năng kiểm soát Lương Tiêu, thành thử gã muốn đấu thì đấu, muốn đi thì đi. Đêm xuống, Lương Tiêu thận trọng rời trận đi mua cơm tối, lặng lẽ đem về đặt cạnh lão già. Trong khi đó lão này vẫn tưởng Lương Tiêu đang ở gần bên, vốn lẩn thẩn, tự dưng thấy cơm nước mọc ra cũng chẳng bận lòng nghĩ nhiều, ăn tì tì rồi ngủ, đợi khi Lương Tiêu xuất hiện thì tiếp tục tỉ thí với gã.

Cứ như thế, hai người thi đấu đêm ngày. Lương Tiêu quên hết mọi sự bên ngoài, chuyên tâm phá bỏ những điều đã học, dồn sức sáng tạo ra chiêu thức mới. Lúc đầu, gã còn phải hình dung xong các biến hóa mới dám động thủ, nhưng dần dần đã đạt được mức tùy cơ ứng biến, lâm trận ra chiêu theo tình hình. Lão quái thi thoảng cũng mô phỏng được một hai chiêu, còn phần lớn các biến chiêu của Lương Tiêu rất khéo và lạ, không thể bắt chước nổi. Lão ta bình sinh chỉ canh cánh bên lòng chuyện phân thắng phụ, luôn mong mọi người trên đời đều võ nghệ siêu quần đặng làm đối thủ của mình, nay thấy Lương Tiêu mỗi lần xuất hiện, võ công lại tấn tới thêm một chút thì rất đỗi vui mừng, dần dần không so đo kỳ kèo gì chuyện gã thi thoảng lại nhao mình trốn vào thạch trận nữa. Đôi ba lần bắt được Lương Tiêu, lão cũng không nỡ giữ ghịt lấy, bèn thả trở vào trong trận, háo hức mong đợi lúc gã tái xuất và trở nên lợi hại thêm. Nếu Lương Tiêu không tiến bộ, lão tỏ ra bất mãn và tiếc hận, la hét chửi mắng ỏm tỏi, nào là chỉ thêu không nên gấm, nào là sắt mài không nên kim…

Ba tháng thấm thoắt trôi đi, Lương Tiêu chìm đắm trong võ học, đêm ngày giao đấu, thường xuyên sức cùng lực kiệt, chật vật vô vàn, nhưng chính sự luyện tập ấy đã giúp lòng gã nguôi ngoai đi nhiều. Thi thoảng, gã ra khỏi trận đi mua đồ ăn thức uống, nhân lúc ấy, nghe ngóng được rằng A Truật đã phá xong Dương Châu và Thái Châu. Tướng Tống là Lý Đình Chi tuẫn tiết vì đất nước, quân đội tinh nhuệ của Đại Tống coi như bị đập tan hoàn toàn. Tuy vậy chiến sự tây bắc càng lúc càng gay go, phiên vương Mông Cổ và Hốt Tất Liệt giao tranh khiến trời long đất lở, đại quân Nguyên triều nhốn nháo trở về bắc cứu viện, tàn quân Tống thừa cơ nổi lên, chỉnh đốn lực lượng tái lập uy phong mưu đồ phục quốc, có thể nói là đã tới ngày thiên hạ đại loạn. Lương Tiêu nghe tin, chán ghét cùng cực, chỉ muốn rèn luyện với lão quái bí hiểm nọ mãi mãi cho tới hết phần đời còn lại.

Một hôm, hai người chiết giải được chừng trăm chiêu thì Lương Tiêu thua. Hôm ấy đã đấu cả thảy ba trận, gã bải hoải rã rời, không còn sức trốn vào thạch trận nữa, ngã vật ngay xuống thở hồng hộc. Hai người ở bên nhau đã lâu, thân thiết hơn xưa nhiều, trước cảnh ấy lão già cũng không khống chế hay gây khó dễ gì cho Lương Tiêu, để gã nằm nghỉ, còn bản thân đi ra chỗ khác hò hét đấm đá mài giũa công lực.

Lương Tiêu thở rất lâu mới điều hòa được hô hấp. Vừa trở lại trạng thái bình thường, trong đầu gã lại lướt qua vô vàn những cảnh chiến trận thê thảm trước đây. Gã run rẩy nhắm mắt, gắng sức trấn định tinh thần, khó khăn lắm mới gạt được giáo mác ngựa nghẽo ra khỏi tâm trí thì một gương mặt tròn trặn trắng trẻo lại hiện ra thay thế, đôi mắt to nhìn gã, vừa bịn rịn vừa sầu thương.

Lương Tiêu ủ rũ đưa mắt nhìn quanh, thấy lão già đang hoa chân múa tay, mặt mày rạng rỡ như thể không biết đến ảo não buồn phiền, gã bất giác nảy lòng khao khát: “Nếu ta có thể quên sạch mọi chuyện quá khứ như lão ấy thì tốt biết bao nhiêu”. Mong là mong vậy, nhưng gã cũng hiểu xóa bỏ ký ức là việc không đơn giản, bèn thở dài thườn thượt, nghĩ sang chuyện khác: “Mấy hôm nay mải miết luyện võ, quên béng cả dự định chữa bệnh đãng trí. Ta và lão có duyên tương tụ, không thể thõng tay bàng quan nhìn lão già nua tuổi tác mà còn xa vợ lìa con, lưu lạc giang hồ”.

Ý đã quyết, gã bèn gọi lão già, vừa dỗ vừa lừa đưa lão đến một y gia nhờ thăm bệnh. Viên lang trung thấy hai người quần áo rách rưới thì cụt hứng, chỉ sợ họ quỵt tiền khám, ngần ngừ mãi mới bắt mạch cho lão già rồi phán gọn thon lỏn:

- Khí huyết sung mãn, kinh mạch điều hòa, hoàn toàn không có dấu hiệu bệnh tật gì cả.

Lương Tiêu cau mày:

- Đại phu xem kỹ hộ, ông ấy mắc bệnh đãng trí mà!

Lang trung vốn đã sốt ruột lắm rồi, bèn trừng mắt gắt gỏng:

- Đãng trí mà là bệnh à? Có tuổi ắt hay quên, làm sao tránh được. Nhớ năm xưa lão phu đọc sách, khẽ lướt mắt là thuộc ngay, bây giờ đọc sách, một trăm chữ chỉ nhớ nổi hai ba, nếu bệnh ấy mà chữa được thì ta đã mời ai đó chữa hộ ta rồi.

Lương Tiêu hiểu người này trông mặt mà bắt hình dong nên mới thô lỗ với họ như vậy. Gã đã trải qua nhiều kiếp nạn, tính tình trở nên chín chắn, không còn mừng giận thất thường như trước nữa, bèn nín nhịn quay ra, đưa lão già đến vài ba danh y khác. Ở đâu họ cũng gặp cùng một thứ thái độ, tử tế ra thì tiếp đón nhạt nhẽo, tồi tệ thì châm biếm lạnh lùng.

Lão già đi mãi đâm nóng nảy, Lương Tiêu gắng dằn lửa giận, nghĩ bụng: “Xem ra đại phu thường cũng chẳng chữa được bệnh này! Nhớ năm nào gặp Ác Hoa Đà Ngô Thường Thanh ở Thiên Cơ cung, tính tình thất thường nhưng mang danh hiệu Hoa Đà, hẳn y thuật rất cao minh. Hiểu Sương từng kể ông ấy sống ở núi Phụ Đường. Tục ngữ có câu Qua sông phải lụy lái đò, tối trời nên phải lụy cô bán dầu, ta cố nín nhịn cái thói cáu gắt vô lối của ông ấy để đến cầu may xem sao!”.

Gã lập tức bịa chuyện dỗ lão già:

- Tôi quen một tuyệt đỉnh cao thủ sống ở núi Phụ Đường, ông có muốn gặp ông ấy không?

Lão già phấn chấn reo luôn miệng:

- Hay lắm hay lắm, – rồi không hỏi cho rõ ngọn ngành, đã túm Lương Tiêu chạy về hướng nam.

Lương Tiêu vội can:

- Sai rồi, hướng bắc mới đúng, – rồi lôi lão già đi về hướng bắc.

Đi được chừng một dặm, lão già bắt đầu chê bai Lương Tiêu đi quá chậm, đoạn đặt tay vào be sườn gã, vừa đẩy vừa rảo chân thi triển khinh công. Lương Tiêu vốn không chạy nhanh bằng, đành vận dụng hết những thuật thổ nạp đã lĩnh hội được từ tiếng ngáy của lão già quái lạ. Ngay lập tức, một luồng khí lực kỳ lạ bắt đầu chớm lên trong hai chân, kích thích gã chạy. Kết hợp với sức đẩy của lão già, Lương Tiêu bắt kịp cước trình mà không phải gắng gượng gì cho lắm. Chỉ có điều hễ hành công như vậy là sẽ phải chạy đến mức đứt hơi kiệt sức, không bao giờ dừng lại được nữa.

Cứ chật vật như thế mấy lần, Lương Tiêu dần dần dò ra yếu quyết, trong lúc di chuyển gã lưu tâm quan sát cử động của lão già, dần dần phát giác ra khi chạy, lão rất chú ý đến bộ pháp, ứng dụng những bước chạy khác nhau tùy địa hình, lúc thì bước hươu, bước thỏ, lúc lại bước cáo, bước rùa. Lương Tiêu bắt chước đúng cách thức đó, di chuyển trở nên nhanh nhẹ hơn nhiều. Kế đó, gã suy luận đến cách vận hành khí huyết và hô hấp của lão rồi bắt chước theo, tự nhiên tìm ra nhiều cơ hội để lấy hơi, phục hồi thần khí, về sau không còn xuất hiện triệu chứng mất sức nữa, bất giác mừng thầm: “Hễ áp dụng phương pháp thổ nạp này, không chạy thì không sao đẩy được nội lực ra ngoài. Nhưng phải nghiên cứu xem đẩy ở mức nào là phù hợp, tương tự như khi tiền tài trút vào túi, người buôn bán giỏi khắc có cách lường thu để chi, khiến tiền đẻ ra tiền, kẻ chộp giật thì chỉ cầu sung sướng một lúc nên tiêu sạch mọi thứ, khiến tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Có điều, dùng phương pháp thổ nạp này thường bị chân lực kích thích, dễ mà trong mơ cũng vắt giò lên cổ chạy mất. Vì sao lão già vừa hít thở như thế mà vừa ngủ yên được nhỉ?”. Gã nghĩ mãi không ra, chỉ đoán rằng hẳn lão già có một bí quyết nào đó không cho người ngoài biết.

Hai người chạy thật nhanh, cho đến một hôm, đại giang hiện ra xa xa trước mặt họ, cuồn cuộn chảy về tây, cảnh sắc vô cùng đẹp đẽ. Lương Tiêu ngó nghiêng tìm thuyền vượt sông. Lão già thì nhặt đâu đó một cây sào tre cũ nát, cười hi hi, đạp thẳng ra mặt nước mà đi.

Lương Tiêu kinh hãi thét:

- Lão gia tử, mau quay lại đây…

Tiếng thét chưa dứt, đã thấy lão già xòe chưởng chặt đứt một mẩu sào tre ném chéo về phía trước. Đúng khoảnh khắc mẩu sào chạm nước, lão lắc mình, nhảy xa ra ba trượng, thân hình chao nghiêng như muốn giữ thăng bằng với sóng, đoạn điểm chân trái lên mẩu sào khiến nó hơi trĩu xuống, thuận theo thế lướt của lão trượt đi tiếp hai trượng, kéo theo một lớp bọt sủi trắng xóa.

Lão già không đợi mẩu sào chìm xuống, lại ngắt thêm một đoạn nữa từ cây sào trên tay, ném ra cùng cách thức như trước, sau đó lộn một vòng trên không, khi tiếp nước thì đã vượt đi xa thêm ba trượng. Lặp đi lặp lại như thế vài lần nữa, chưa dùng hết cây sào tre, lão đã vượt qua dòng sông, đứng trên bờ bên kia chống nạnh cười lớn. Lương Tiêu trông thú quá, cũng tìm một cây sào tre tương đối dài, học theo cách thức của lão, bẻ một khúc ném ra, bay mình nhảy lên, nào ngờ chân hụt mất mấy tấc, chưa đạp được khúc tre đã trượt một cái. Lương Tiêu ngã tùm xuống nước, tứ chi chổng lên trời, cay đắng hiểu ra bản lĩnh quyền cước chỉ chênh lệch đôi chút thôi là kết quả đã khác xa một trời một vực, gã xấu hổ quá, chỉ còn cách gắng gượng hì hục bơi qua sông.

Lão già cười lăn lộn trước bộ dạng thảm hại của gã. Lương Tiêu bò lên bờ bên kia, tức giận bảo:

- Lúc nào cũng một mình một phách, toàn nghĩ ra những trò tai quái!

Lão già cười khanh khách:

- Chỉ tại ngươi không tự lượng sức nên mới bắt chước Thừa phong đạo hải của ta.

Lương Tiêu giật mình: “Làm sao mà lão ta nghĩ ra được cụm từ mô tả thanh nhã như vậy? Hay đấy là tên gọi của môn khinh công tuyệt luân này?”. Nhớ lại hình ảnh vừa rồi, gã không khỏi ngưỡng mộ và ao ước phong thái cưỡi gió vượt biển ung dung của lão.


Sau khi vượt Trường Giang và nghỉ ngơi một đêm, hai người trổ thuật khinh công băng qua vùng Hoài Dương tìm sang địa phận Sơn Đông.

Hôm ấy, vào lúc trời tờ mờ sáng, cuối cùng họ cũng đến được một thị trấn nằm ngay chân núi Phụ Đường. Dọc đường, Lương Tiêu đan vài ba món đồ tre bán lấy mấy chục đồng tiền, tìm một tửu quán gọi mấy cân rượu và một ít thịt dê để đánh chén với lão già. Yên vị rồi, gã toan hỏi thăm tiểu nhị chỗ ở của Ngô Thường Thanh, chợt nghe ngoài quán có tiếng ngựa hí, bèn đưa mắt nhìn thì thấy chừng mười hán tử đang ầm ĩ xông vào.

Phần lớn đám này đều đeo binh khí, rõ ra dáng điệu dân anh chị giang hồ. Trong bọn có một thiếu niên mặt bầm đen, môi khô nứt nẻ, chừng như bệnh nặng lắm, được người dìu đỡ hai bên mà chân lê ì ạch như đeo đá. Vừa ngồi xuống ghế, hắn đã gục lên bàn thở hồng hộc. Những người còn lại gọi cơm rượu lẳng lặng ăn uống, thần sắc đều một vẻ xám xanh nặng nề. Một tên, xem chừng là trưởng toán, mặt phèn phẹt, cằm có mụn thịt, vẫy tiểu nhị lại:

- Xin hỏi, mấy giờ thì gặp được vị bồ tát trong núi kia?

Tiểu nhị mỉm cười tiếp chuyện:

- Chắc quý khách đến chữa bệnh phải không? Việc này khó nói lắm!

- Tức là sao? – Hán tử có mụn thịt cau mày.

Tiểu nhị đáp:

- Tháng trước ngày nào vị bồ tát ấy cũng ra, tháng này ít hẳn, nửa tháng rồi chưa thấy bóng dáng người đâu!

Hán tử sa sầm nét mặt:

- Thế sao được? Thiếu chủ chúng ta bị thương nặng lắm, không đợi nổi nữa rồi.

Tiểu nhị cười mơn:

- Người bệnh từ các nơi cũng đều đang đợi quanh đây đấy ạ! Bồ tát không ra thì biết làm sao?

Hán tử nọ hừ một tiếng, nói oang oang:

- Người đó mà không chịu ra, Nhục tu cầu[2] Thường Vọng Hải này sẽ phóng hỏa đốt trụi cánh rừng khỉ gió kia đi.

Hắn vừa dứt lời, một giọng nam khàn đặc văng vẳng vọng vào quán:

- Tiểu Thanh, ngươi xem con giun này!

Ai nấy đưa mắt trông ra. Không biết tự lúc nào trước cửa quán rượu đã mọc lên một cái bục rối tay , gió lùa tới cuốn quăn tấm trướng bằng vải dầu đen nhánh, trên đề bốn chữ đại tự bằng sơn trắng “Đại Lý Càn Khôn ”. Trên bục bày biện rất sơ sài, lơ thơ dăm bông hoa và vài ba nhánh cỏ cắm lộn xộn, có hai con rối bằng vải, một nam, một nữ đứng sánh vai nhau.

Giọng nam vừa dứt, giọng nữ the thé đáp lời:

- Xem rồi, con giun kia phải không, có gì hay ho đâu?

Giọng đàn ông hóm hỉnh:

- Con giun này nhiều tác dụng lắm. Ngươi nghe chưa nhỉ, giun còn tên khác là rồng đất, tức con rồng lẩn trong bùn đất, có thể dùng làm vị thuốc cơ đấy!

Giọng nữ ngờ vực:

- Con giun bé tí ti thế, cho dù vào tay Dược vương Bồ tát e rằng cũng không đủ để bào chế thuốc thang gì cả.

Giọng nam cười đáp:

- Nó nhỏ thật, nhưng tương đối đặc biệt. Ngươi nhìn kỹ sẽ thấy dưới cằm nó có một cái mụn thịt, vì thế dân gian gọi nó là Nhục tu cầu, được xem như loại thượng hảo hạng trong các loài giun.

Thường Vọng Hải nghe không sót một từ, mặt hết đỏ lại tái, hết tái lại đỏ, đến đây thì đứng bật dậy, hằn học chửi:

- Tổ sư quân chó má! Ngươi là cái đồ lộn giống từ xó xỉnh nào chui ra? To gan lớn mật tới đâu mà dám chọc ghẹo lão tử?

Hắn tuôn một lô một lốc những từ tục tĩu, người điều khiển rối vẫn không buồn để ý. Giọng nữ đả đớt:

- Thế, cái thứ Nhục tu cầu ấy có chỗ nào khác giun thường?

Giọng nam cười khùng khục:

- Khác nhiều lắm lắm, giun thường đều ăn đất mà sống, riêng Nhục tu cầu ăn cứt mà sống, vì thế nó thở ra toàn giọng điệu thối hoắc.

Thường Vọng Hải nhảy dựng lên, ngoác miệng rủa xả:

- Thối cái con mẹ mày!

Giọng nữ khúc khích:

- Phải phải, nghe cái giọng quả đúng là hơi thối, giống như đánh rắm…

Thường Vọng Hải không nín nhịn nổi nữa, gầm to nhảy vọt ra, vạch chân quét mạnh một đường sát đất theo chiêu thức Thiết môn hạm, cái bục rối hơi nhích lại sau, khéo léo tránh khỏi đòn cước của hắn. Giọng nữ thở dài:

- Giun gì mà tâm địa đen tối đến thế, còn biết cắn người cơ à?

Thường Vọng Hải đá hụt cũng hơi chợn, bèn nhảy vọt lên, đánh một hơi ba quyền năm cước. Nhóm đồng môn theo dõi mà hoa cả mắt, nhất loạt hoan hô khen ngợi. Cái bục rối né hết bên nọ đến bên kia, tránh lần lượt từng cước từng quyền. Giọng nam thở dài:

- Tiểu Thanh, chắc ngươi chưa biết, giun ăn bùn đất nên ruột gan thường đen tối, riêng con Nhục tu cầu ăn cứt nên lòng dạ nó không những đen mà còn thối hoắc, rất ít thấy trên đời!

Thường Vọng Hải nổi trận lôi đình, giả vờ vung tay phải tấn công, thực chất tung chân trái đá bốp vào bên dưới cái bục rối. Ngay lập tức, cổ chân hắn đau nhói như thể đạp phải bẫy, chưa kịp định thần thì cái bục đã nhảy chồm tới húc mạnh vào ngực hắn.

Thường Vọng Hải hự một tiếng, loạng choạng bật lui năm bước, máu miệng vãi tung ra. Ngực áo hắn rách bươm thành nhiều mảnh nhỏ, lả tả rụng xuống như cánh bướm, để lộ dấu vết một bàn tay đỏ rực in trên da thịt. Nhóm người đi cùng kinh hoàng đứng bật cả dậy, một hán tử áo vàng run run hỏi:

- Ngươi, ngươi là đồng bọn với tên điều khiển rối dây phải không?

Mấy kẻ còn lại nghe vậy lộ vẻ hoảng hốt, lật đật tuốt kiếm.

Cái bục rối đứng lặng giữa phố, hai con rối vải êm đềm ngả đầu vào nhau, dáng vẻ hết sức đầm ấm hồn nhiên. Giọng nam khẽ thở dài:

- Tiểu Thanh, người ta hỏi ca ca mình đấy!

Giọng nữ cười hơ hớ:

- Phải rồi, ca ca nhờ chúng ta cái gì ấy nhỉ?

Giọng nam ra chiều hí hửng:

- Nhờ chúng ta đem cho họ một món đồ.

Đám hán tử không nín nhịn nổi nữa, cùng gầm lên, huỳnh huỵch múa đao xông tới gần. Cái bục rối giật lui, đồng thời hất ra một vật đen sì, bật trúng ngực hán tử áo vàng khiến tên này ộc máu văng đi rõ xa. Ai nấy nhóng mắt nhìn xem, cùng nhận ra một cái thủ cấp.

Thiếu niên ốm yếu từ đầu tới giờ vẫn ngồi thở hồng hộc bên bàn, nhác thấy cảnh đó, bỗng tái nhợt mặt, lao bổ lại rít lên:

- Cha, cha! – Hắn ôm thủ cấp ho sù sụ một hồi rồi quắc mắt nhìn bục rối, hổn hển bảo. – Ngươi, ngươi đã giết cha ta!

Giọng nam lấp lửng:

- Đâu riêng cha ngươi!

Giọng nữ tiếp theo, xen lẫn tràng cười khanh khách đầy hoan hỉ:

- Ừ, giết kha khá đấy! Cộng với tính mạng của các ngươi, chỉ lát nữa thôi cái tên Nộ Long bang sẽ bị gạch bỏ khỏi giang hồ.

Ngạt thở trước những lời ấy, thiếu niên ngất lịm đi, hai mắt trợn trắng dã. Các hán tử vừa căm phẫn vừa bi ai, hò nhau:

- Liều mạng với hắn! – rồi khua đao múa kiếm xồng xộc chạy đến. Bục rối lẩn ngay vào đám đông, luồn qua lách lại như một bóng ma.

Núp dưới bục, người điều khiển rối nhìn thấy rất rõ chiêu thức của mấy tên Nộ Long bang, ngược lại, bọn này hoàn toàn không nắm bắt được hư thực trong tấm bạt quây. Điều cốt tử của mỗi cuộc tỉ thí là biết mình biết ta, đằng này bọn hán tử lại rơi vào tình trạng địch ở trong tối ta ở ngoài sáng, làm sao tránh khỏi thất bại, chỉ thoáng chốc đã có bốn tên ngã lăn quay.

Lương Tiêu từ đầu vẫn hờ hững trước những trò thù hằn tàn sát của bọn nhân sĩ giang hồ kia, nhưng dần dần, chứng kiến kẻ trong bục rối xuất thủ quá tàn độc, rõ ràng là muốn đuổi tận giết tuyệt, gã đâm bất nhẫn, liếc mắt nhìn lão già, thấy lão vẫn dửng dưng ngồi ăn thịt, thầm hiểu rằng thứ võ công hạng hai kia chưa đủ tầm khiến lão động tâm, đành đứng lên thở dài bảo bọn Nộ Long bang:

- Các ngươi không phải đối thủ của hắn đâu, lui xuống hết đi!

Gã vừa cất bước vừa quơ tay túm một hán tử đang xớ rớ gần đấy, hất tay lẳng hắn ra sau, khi dứt câu cũng là lúc bảy hán tử còn lại bị gã ném hết về mé sau cùng một loạt âm thanh lịch bịch.

Người múa rối áng chừng đã đánh giá được bản lĩnh của kẻ vừa xuất hiện, liền dừng chân. Giọng nam cất lên thâm hiểm:

- Ngươi là ai? Việc này liên quan gì đến ngươi mà tham gia?

Lương Tiêu thở dài, buồn bã khuyên:

- Lão huynh à, tha được ai thì tha. Ngươi hại bao nhiêu người từ nãy đến giờ cũng đủ rồi.

Giọng nữ lành lạnh:

- Tử diện long Lưu Hi Vân sát hại cha ta, hãm hiếp mẹ ta, lẽ nào ta báo thù là sai? Nếu không diệt sạch môn phái chúng, mối hận trong lòng ta làm sao nguôi ngoai được?

Lương Tiêu chột dạ nhìn sang bọn hán tử, tư lự nghĩ: “Nếu đúng thế thì những người này chết cũng chưa đền hết tội. Chà, nhưng hận thù dễ làm người ta kém tỉnh táo, dạo trước đây chẳng phải chính ta cũng mờ mắt vì hận thù, gây ra bao nhiêu sát nghiệp đấy ư?”. Trầm ngâm hồi lâu, gã trỏ cái đầu tóc bạc lăn lóc dưới đất:

- Đây là Lưu Hi Vân phải không?

- Phải! – Giọng nam đáp.

Lương Tiêu nói:

- Kẻ đầu sỏ đã bị giết, hà tất giết chóc thêm nữa?

Giọng nam bực bội:

- Hừ, ngươi nhất định nhúng mũi vào việc này phải không?

Giọng nữ mắng:

- Thế thì giết luôn cả ngươi!

Không đợi Lương Tiêu trả lời, từ dưới bục tỏa ra sáu ngọn phi đao, bay vù vù về phía gã.

Lương Tiêu cau mày, phất tay áo rộng vạch một đường vòng cung từ trên xuống dưới, sáu luồng đao quang lập tức phụt tắt. Lương Tiêu lại giũ mạnh tay áo, sáu ngọn phi đao rơi leng keng xuống đất. Cái bục rối rung nhẹ, giọng nữ thốt lên:

- Giỏi!

Trong khoảnh khắc, y như tiên nữ rắc hoa, dưới rạp rào rào bay ra ra hơn hai mươi món ám khí, nào là tam lăng tiêu, phi hoàng thạch, nào là phượng vĩ châm, thiết bồ đà, ba phần tấn công Lương Tiêu, bảy phần đánh về phía bọn hán tử. Lương Tiêu cười nhạt, chưởng trái vỗ dọc, chưởng phải khua ngang, hai luồng kình phong tràn đi như gió lớn cuốn qua con đường, chỉ nghe “keng keng” liên miên, các món ám khí rơi đầy xuống đất, không một phát nào trúng đích. Xong xuôi, Lương Tiêu cuốn tay áo đứng yên. Thấy gã chỉ dùng đúng một chiêu mà gạt được toàn bộ ám khí, mọi người đều há hốc miệng, con phố lặng hẳn đi, giọng nam trong bục rối vụt gầm gừ:

- Gia gia liều mạng với ngươi!

Cái bục kéo theo kình phong bổ nhào tới. Lương Tiêu vẫn đứng im, giọng bình thản:

- Nấp nấp nom nom thì tài cán gì? – đoạn khum tay thành trảo, lướt tới như gió.

Cùng tiếng rách roèn roẹt, tấm bạt quây bục bị Lương Tiêu xé làm đôi, một bóng người nhảy vọt ra, song chưởng áp dính lên ngực gã, xuất chiêu trúng đích là lập tức lui ngay lại sau, cười khanh khách:

- Ngươi trúng Hỏa diệm chưởng của ta rồi, không sống được bao lâu nữa đâu, hãy tự trách bản thân mình lo chuyện bao đồng đi nhé!

Đó là một thiếu nữ trẻ măng xinh đẹp, tóc xanh dày mượt, khuôn mặt hồng hào. Cử tọa đều tấm tắc khen thầm, những tưởng dưới bục có hai người điều khiển rối, không ngờ chỉ có một, mà lại là một cô gái.

Thiếu nữ nói xong, thấy Lương Tiêu mỉm cười buông tay xuống, dáng đứng vẫn ngang tàng, hoàn toàn không có vẻ gì giống bị thương hay sắp chết thì tắt ngay nụ cười, trợn tròn đôi mắt hạnh, buột miệng chửi tục rồi vỗ chưởng phóng đến. Lương Tiêu ngửa tay trái nắm lấy cổ tay cô ta. Người con gái kinh hãi tru tréo:

- Quân đểu giả, buông ta ra!

Lương Tiêu bỗng nhướng mày nhìn thẳng ra trước. Thiếu nữ đang thắc mắc, chợt nghe tiếng gỗ gõ xuống nền đá cành cạch thì giật mình la lên:

- Ca ca!

Âm thanh cành cạch ấy phát ra từ đầu phố, nơi một nam tử ăn bận như kép hát vừa xuất hiện. Chàng ta tuổi ước hai mươi, mày dài mắt thanh, da mặt ẩn hiện sắc đen, dắt theo một con rối gỗ Na Tra cao chừng ba thước. Con rối này đầu tròn mắt to, có sáu cánh tay, mỗi tay cầm một thứ binh khí như đao, thương, kiếm, kích… Ở đầu, thân, tay và chân nó đều có những sợi dây nhỏ nối sang các ngón tay của nam tử nọ.

Chàng kép hát vừa chậm rãi bước vừa nhịp nhàng cử động năm ngón tay phải. Na Tra cũng di chuyển y như người thật, đôi chân bằng gỗ đập cồm cộp trên nền đá, nhìn từ xa trông giống hệt một đứa bé chập chững đi theo người lớn. Mấy hán tử Nộ Long bang đều lộ vẻ khiếp đảm và căm hận.

Kép hát đến trước mặt Lương Tiêu, nhíu mày dằn từng tiếng:

- Thả muội tử của ta ra!

Lương Tiêu điềm tĩnh hỏi:

- Nếu ta thuận theo, ngươi sẽ thả những người này chứ?

Gã phác một cử chỉ về phía bọn Nộ Long bang. Thiếu niên bệnh tật đã tỉnh lại, hai mắt tóe lửa trợn trạo nhìn người mới đến. Chàng kép hát liếc hắn, cơ mặt giật giật, lắc đầu:

- Không được, không thể tha bất cứ một ai! – đoạn nhích tay phải.

Na Tra liền nhảy cẫng lên, sáu cánh tay cùng giơ cao, tỏa giàn binh khí bủa vây Lương Tiêu, động tác linh hoạt chẳng kém người thật. Lương Tiêu không hoàn thủ, lững lờ trôi ra xa chừng một trượng, tránh khỏi các binh khí, ngạc nhiên nghĩ bụng: “Dùng rối gỗ tấn công, quả là điều hiếm thấy xưa nay”.

Chàng kép hát đánh trượt, lòng còn ngạc nhiên hơn Lương Tiêu nhiều, lập tức nhảy tới trước vẫy ra một chưởng, kình lực nóng bỏng lạ lùng. Lương Tiêu chưa kịp giơ chưởng đón đỡ, chàng ta đã khua tiếp cánh tay phải, Na Tra bèn múa may xẹt lại như tia chớp. Cứ thế, hai cánh tay kép hát dập dình lên xuống, chưởng lực cùng con rối tấn công đồng thời, uy thế sấm sét, phối hợp bất ngờ, buộc Lương Tiêu phải lùi lại sáu bước.

Lương Tiêu phì cười:

- Thú quá, để xem con rối gỗ của ngươi hay con rối thịt của ta lợi hại hơn nào?

Kép hát nghĩ bụng: “Rối thịt? Hắn nói lăng nhăng gì thế?”, đoạn nôn nóng đánh liền ba chiêu hòng cứu muội tử. Lương Tiêu xoay nghiêng mình, thình lình thả chùng tay phải. Thiếu nữ nhận ra nội lực đã trở lại với cơ thể, không buồn nghĩ ngợi nhiều, lập tức xòe chưởng vỗ lên ngực Lương Tiêu. Đúng khoảnh khắc chưởng lực vừa chớm cạnh tay thiếu nữ, Lương Tiêu bèn tụ kình trong tay áo rồi hắt mạnh ra, đẩy thiếu nữ xoay một vòng, chưởng lực không hãm kịp, quất trúng ngay con rối gỗ. Cùng mấy tiếng “rắc rắc” đanh gọn, hai cánh tay rụng xuống, biến con rối thành Na Tra bốn tay. Thiếu nữ hoảng hốt vùng ra, nhưng Lương Tiêu đã nắm cổ tay trái cô ta ghì lại.

Chứng kiến thủ đoạn của Lương Tiêu, chàng kép hát không khỏi kinh sợ, vẩy dứ một chưởng rồi lại thả con rối tấn công. Lương Tiêu buông thiếu nữ ra, cô ta vô cùng quật cường, giở chưởng vỗ ngay vào bụng dưới Lương Tiêu. Ngờ đâu Lương Tiêu vẫn dùng thủ pháp ban nãy đẩy chệch chưởng lực đi, thiếu nữ mất thăng bằng, không kịp ghìm kình, tiếp tục quạt gãy hai cánh tay khác của Na Tra.

Cô gái khiếp vía phân trần:

- Ca ca… đừng trách, không phải tại muội!

Lương Tiêu lại tóm cổ tay thiếu nữ. Đám hán tử Nộ Long bang mừng rỡ hoan hô như sấm động. Thiếu nữ nọ hai lần liên tiếp chữa lợn lành thành lợn què, ức quá bật khóc, dặn lòng bất kể thế nào cũng sẽ không xuất chưởng nữa.

Na Tra bắt đầu múa may lung tung, chuẩn bị xáp tới lần nữa. Lương Tiêu buông tay, đúng như gã dự tính, thiếu nữ lập tức nhảy vùng đi. Gã liền băng đến chắn trước mặt cô, chưởng phải xòe ra, kình phong ùn ùn đổ tới.

Thiếu nữ gần như nghẹt thở, nhưng quyết ý thoát thân nên không đắn đo nhiều, lập tức dồn hết nội lực xuống hai tay, song chưởng xô ra mạnh mẽ hơn hẳn những lần trước, nào ngờ đánh hụt, Lương Tiêu đã thu kình và rút về chỗ cũ tự bao giờ. Chưởng lực trượt Lương Tiêu, theo quán tính phóng thẳng tới trước. Sau một tràng âm thanh trầm đục, hai cánh tay cuối cùng của Na Tra gãy rời. Chàng kép hát tê tái cả lòng, đứng sững ra giữa bãi đấu. Thiếu nữ trân trân nhìn con rối què quặt, tủi thân quá, nước mắt ầng ậng, cuối cùng khóc òa lên.

Thần sắc ủ ê tội nghiệp của người con gái khiến trái tim Lương Tiêu nhói buốt: “Vì sao cô ta cũng có cái dáng điệu ấy?”. Gã sẽ thở dài, lặng lẽ lùi lại. Chàng kép hát bỗng rùng mình, lảo đảo ngồi phệt xuống đất, mặt mũi co giật như đang phải chịu đựng một cơn đau đớn khủng khiếp lắm.

Thiếu nữ hoảng hốt ôm chầm lấy gã:

- Ca ca làm sao thế, làm sao thế?

Thiếu niên bệnh tật hớn hở reo lên:

- Ha ha, thì ra ngươi đã trúng Long tu châm của cha ta. Báo ứng, ha ha, quả là báo ứng!

Chàng kép hát cười nhạt, nén đau đứng dậy, lạnh lùng bảo:

- Lưu Tử, ngươi đừng đắc ý, dẫu trúng độc châm, ta vẫn giết được các ngươi mà chẳng khó khăn gì cả.

Lưu Tử nhăn nhở:

- Ta chết thì thôi. Còn ngươi, trước khi chết sẽ phải quằn quại vật vã đủ ba ngày ba đêm, cứ hôm sau lại đau hơn hôm trước, cuối cùng chất độc sẽ xé nát gân thịt toàn thân, ăn trụi dần từng ngón tay ngươi, ha ha ha, hay cực…

Thiếu nữ sởn da gà, run run nói:

- Ngươi… ngươi đưa thuốc giải ra đây, ta… ta sẽ tha chết cho.

Lưu Tử vênh mặt hợm hĩnh:

- Long tu châm ăn sâu vào kinh mạch, được máu đưa đi, không thuốc nào chữa nổi. Hừ, dù có giải dược ta cũng chẳng bao giờ cho ngươi.

Chàng kép hát hỏi:

- Ngươi có biết vì sao hôm kia ta không quật ngươi chết tươi không?

Lưu Tử cười khẩy. Kép hát nói:

- Ta dùng Hỏa diệm chưởng đả thương ba yếu huyệt của ngươi, trong vòng bốn ngày, ngươi sẽ bị đủ mọi cơn đau hành hạ, cuối cùng toàn thân căng trướng, huyết quản vỡ toác, da dẻ sẽ nứt bửa dần. Hừ, lão quỷ Lưu Hi Vân giết hết trẻ già nhà ta, làm sao ta cho phép ngươi về với lão ấy dễ dàng thế được!

Lưu Tử rùng mình ớn lạnh, trợn mắt nói:

- Trạng chết chúa cũng băng hà, đằng nào cũng toi cả nút! Lão tử tự kết liễu, đi trước xuống mười tám tầng địa ngục đợi nhà ngươi… – Hắn chộp lấy thanh đao của một tên trong bọn định tự tận, thình lình người bỗng nhẹ hẫng đi, tay bị ai nắm giật một cái, thanh đao rơi xuống đất đánh keng. Lưu Tử ôm ngực thở dốc. Kép hát cũng rúm ró mặt mày, ắt là rất đau, nhưng hai bên vẫn nhìn nhau với ánh mắt ngùn ngụt căm hờn, không ai nhượng ai lấy một tí.

Lương Tiêu lắc đầu: “Thế gian này chưa lúc nào vợi bớt những chuyện oán hận chém giết, thành thử nước, nhà, quân, dân cứ tàn hại lẫn nhau chẳng bao giờ ngừng!”. Gã buồn nản cùng cực, không còn tâm trí đâu để can thiệp vào chuyện thiên hạ nữa, quay lại ngồi xuống bàn, cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch, thầm nhủ dẫu trước mắt có xương trắng chất chồng, máu đỏ lênh láng cũng chả mắc mớ gì tới mình nữa.

Lúc ấy, từ đằng xa có tiếng hô:

- Bồ tát ra rồi!

Mọi người giật thót, ai nấy cùng lộ vẻ mừng rỡ. Nhục tu cầu Thường Vọng Hải ôm ngực thều thào:

- Thiếu bang chủ, người ta thường nói: cơm không ăn thời gạo còn đó. Nên trị thương trước rồi sẽ tính sổ với hai tên kia sau, hụ hụ…

Nghĩ đến thảm cảnh mà tay kép hát đã cảnh cáo, Lưu Tử cũng thấp thỏm trong dạ, vội gật đầu, quay sang phía Lương Tiêu hành lễ:

- Ơn đức cứu viện của đại hiệp, tại hạ sẽ không bao giờ quên…

Lương Tiêu xua tay cắt ngang:

- Trả ngươi hai chữ “đại hiệp”, đừng dùng lối xưng hô ấy với ta.

Lưu Tử ngẩn người, thầm nghĩ trong giang hồ có rất nhiều quái kiệt dị nhân, chắc gã này cũng thuộc hạng đó, vì vậy hắn không dám gạn hỏi thêm để tránh làm mếch lòng Lương Tiêu, bèn hấp tấp thi lễ rồi tựa vào thuộc hạ lảo đảo đi ra. Thiếu nữ nọ cũng đỡ chàng kép hát chập choạng theo sau.

Lương Tiêu uống sạch bát rượu, nghĩ bụng: “Theo lời tên họ Thường thì vị Bồ tát trong núi biết chữa trị vết thương, chắc là Ngô Thường Thanh đây!”. Gã hỏi tiểu nhị:

- Bồ tát mà người ta đang kháo nhau kia là một lão béo múp phải không?

Tiểu nhị phì cười:

- Quý khách nói gì thế, Bồ tát chùa Quan Âm mà là lão béo à?

Lương Tiêu tần ngần: “Bồ tát chùa Quan Âm? Không lẽ là nữ nhân?”. Gã vô cùng nghi hoặc, trầm ngâm một thoáng rồi kéo lão già ngây ngô đi theo huynh muội múa rối. Lúc này cơn đau đã dịu bớt, chàng kép hát định đuổi giết bọn Lưu Tử, nhưng nhác thấy Lương Tiêu đang kè kè sau lưng nên cũng hơi úy kỵ, đành tạm thời kìm nén sát ý trong lòng.

Đoàn người lục tục đi về hướng bắc. Chưa đầy năm dặm, trước mặt họ xuất hiện ba ngọn núi sừng sững, hai dòng nước chia luồng luồn qua giữa chúng, nước trong leo lẻo, in rõ những viên đá xanh biếc nằm rải rác rất mỹ thuật dưới lòng suối, bờ đông cây cối um tùm, chim hót líu lo, bờ tây là một cánh rừng hạnh trải dài tít tắp, trời đang vào độ cuối xuân, hoa nở tưng bừng, rực rỡ như một biển mây.

Lúc này, ở bìa rừng đã có chừng một trăm người đứng chen chúc. Lương Tiêu tự nhủ: “Ắt hẳn nữ Bồ tát ở giữa vòng người kia đây!”. Gã cùng lão già lội qua dòng suối, định chen vào đám đông thì chợt nghe có tiếng la thảm thiết, rồi đám đông ồn ào giãn ra.

Lương Tiêu đưa mắt nhìn kỹ thì thấy một người béo lùn mình vận áo xanh, đầu đội mũ nhỏ đang hầm hầm túm đánh một lão già. Cạnh đó là mấy người, áng chừng là con cái gia nhân của lão ta, vừa khóc lóc vừa co kéo với người béo, nhưng đều bị người này đá ngã hết.

Lương Tiêu nhăn nhó nghĩ bụng: “Nữ Bồ tát đâu ra? Chẳng phải lão béo họ Ngô xấu người xấu nết thì còn ai vào đây kia, tên tiểu nhị chỉ giỏi nhập nhèm!”. Ngô Thường Thanh vung hết tay đến chân đấm đá lia lịa vào các yếu huyệt của lão già nọ. Lão này mặt mày xanh tái, hai mắt nhắm nghiền, quyền cước trút xuống thân thể như thế mà hoàn toàn không có phản ứng gì.

Lương Tiêu thoạt tiên rất sửng sốt, nhưng dần dần, quan sát kỹ thì nhận ra thủ pháp của Ngô Thường Thanh. Nhìn bề ngoài, họ Ngô xuất quyền cực kỳ hung mãnh, thực ra không hề nặng tay, kình lực tới các huyệt vị khác nhau đều có cân nhắc mức độ nhanh chậm nặng nhẹ phù hợp. Một số huyệt vị chỉ lướt phớt qua, một số khác đánh trúng xong còn kín đáo xoa ấn.

Ngô Thường Thanh đấm đá chừng chán tay mới ném bịch lão già xuống cáng, ngực phập phồng, thở hồng hộc, hầm hầm ngồi xuống bên cái bàn vuông. Con cháu lão già tưởng ông cha mình bị đánh chết rồi, ôm lấy xác lão khóc ồ ồ. Người xung quanh đều bất bình trước cảnh bi thảm ấy, nhốn nháo hô:

- Trói lão ác độc này giải lên quan!

- Không cần giải lên quan, mọi người xúm vào nện chết lão đi!

- Chúng ta đến yết kiến Bồ tát để được xem bệnh, cớ sao lão béo này vô cớ nhảy ra hành hung?

Ngô Thường Thanh chẳng nói chẳng rằng, cầm bát uống trà.

Đám đông đang la ó, bỗng nghe lão già bệnh tật thở phào:

- Dễ chịu quá, khoan khoái quá, được nện thêm một trận nữa thì hay!

Lão chống hai tay xuống đất, chật chưỡng đứng dậy. Bầu không khí lặng hẳn đi, ai nấy trố mắt nhìn, gia quyến lão ta còn ngạc nhiên hơn nữa.

Số là lão già này đột nhiên mắc bệnh lạ, toàn thân tê liệt, chạy đôn chạy đáo rước thầy tìm thuốc mà không trị được mới đến đây để cầu may, nào ngờ vừa thò mặt vào rừng là gặp ngay Ngô Thường Thanh, chỉ một liếc mắt đã bị đấm đá tơi bời. Đám người nhà vốn tưởng gánh phải tai bay vạ gió, lão già ắt mất mạng phen này, hóa ra không chỉ bình an vô sự mà còn thuyên giảm bệnh tật, đứng dậy ngay được, quả là một việc quá sức khó tin.

Ngô Thường Thanh đặt cạch bát xuống, nước trà bắn tung tóe:

- Còn muốn nện thêm một trận nữa à? Cái đồ ăn no rồi lại nằm khoèo! Ngươi nghe cho rõ đây, nhớ ngủ ít, vận động nhiều, trong vòng nửa năm cấm ngặt sắc dục, kiêng cữ thịt cá. Khi nào ngươi rèn cho cái tấm thân nhão nhoẹt của ngươi rắn rỏi hơn lên một tí thì hẵng quay lại, lão phu nện mới sướng tay!

Đến đây đám người nhà đã hiểu ra, vị đại phu hung dữ này chỉ là “thương người đày đọa chút thân”, nghe qua thì tưởng đang chửi bới, thực ra là dặn dò những cách kiêng kỵ điều dưỡng, họ bèn ghi nhớ từng lời từng chữ và cúi đầu cảm tạ lia lịa, xong đỡ lão già đi. Nhưng lão ta lại đẩy đám người nhà ra để tự bước lấy, chỉ thoáng chốc đã đi rất xa. Bọn con cháu mừng rỡ, kẻ thì “ông ơi”, kẻ thì “cha ơi”, tíu tít chạy theo.

Những người ở lại vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, miệng lưỡi thay đổi hẳn. Kẻ khen ngợi “thần y diệu thuật”, kẻ tán tụng “thiên hạ vô song”… Ngô Thường Thanh nhổ toẹt một cái, chống hai tay vào hông, trợn tròn cặp mắt ti hí, cười nhạt:

- Thôi đừng vuốt đuôi nữa. Vừa rồi những đứa nào chửi lão phu? Đứng ra đây cho lão phu xem mặt ngang mũi dọc ra sao?

Không khí bỗng lặng ngắt như tờ, tất cả so vai rụt cổ, không ai dám nhận.

Chợt một giọng nữ vang lên:

- Sư phụ ơi, con mới vắng mặt một lúc mà thầy lại nạt nộ người ta rồi à?

Ngô Thường Thanh trợn trắng mắt, hừ một tiếng:

- Không đến lượt cái mặt ngươi dạy dỗ ta! Lấy được nước suối chưa?

Giọng nữ đáp:

- Đây rồi ạ!

Cùng với tiếng nói, từ trong rừng một nữ tử mảnh khảnh đi ra, mình bận áo trắng, tay trái xách lò nhỏ, tay phải xách siêu nước. Trông thấy người ấy, ai nấy hoan hô:

- Bồ tát đã tới!

Nữ tử vốn đang cúi đầu bước đi, nghe tiếng hoan hô, vành tai trắng trẻo đỏ dừ lên, cô ta càng gằm mặt thấp hơn nữa, ngần ngừ một lúc mới bước đến bên Ngô Thường Thanh, hạ hỏa lò và siêu nước xuống. Họ Ngô hớn hở châm lò, đun nước pha trà, chuẩn bị đâu đấy xong xuôi mới ngả mình xuống cái ghế trúc, ưỡn cái bụng núc ních mỡ, gừ gừ trong cổ họng:

Chẹp,

Chén thứ nhất thấm êm cổ họng,

Chén thứ hai gột những ưu phiền,

Chén ba trí óc nhẹ tênh,

Chỉ còn lời Đạo Đức Kinh soi lòng.

Chẹp chẹp,

Chén thứ tư áo trong đẫm ướt,

Mồ hôi tuôn cuốn hết bất bình.

Chén năm gân mạnh cốt tinh

Lại qua chén sáu thiên linh sáng bừng.

Chẹp chẹp chẹp,

Chén thứ bảy đã dâng trước án,

Hương trà thơm không cạn sao đang,

Sau vai cánh mọc hai hàng,

Hiu hiu gió thổi thênh thang lên trời.

Ngô Thường Thanh vốn mê trà, trong lúc đợi trà sôi thì say sưa ngâm bài Thất oản trà, càng ngâm càng thèm thuồng, nước dãi ròng ròng. Đám đông xung quanh đều buồn cười, nhưng nghe Bồ tát còn phải gọi lão ta là sư phụ nên không ai dám đắc tội, đành bưng miệng nén cười thành tiếng.

Nữ tử áo trắng ngồi xuống bên bàn, vẫn cúi gằm đầu, dáng vẻ ẻo lả yếu đuối. Tất cả định ùa lại, chợt có mười mấy đại hán to cao gạt sạch mọi người để chen vào, chính là đám bang chúng Nộ Long bang. Đám đông liền lu loa phản đối:

- Đến sau mà đòi chen lên trước là thế nào?

Thường Vọng Hải hắng giọng, bọn đồng môn bèn gồng tay, đao kiếm rung bần bật, xung quanh lập tức lặng ngắt như tờ. Họ Thường cười nhạt, dìu Lưu Tử đến gần bàn, vòng tay nói:

- Thưa nữ Bồ tát, xin bà xem bệnh cho thiếu bang chủ của chúng ta!

Nữ nhân áo trắng ừ hữ, chìa tay bắt mạch, bỗng có người xen vào:

- Lão tử đếm đến ba, bên bàn còn ai thì lão tử giết kẻ đó!

Thường Vọng Hải ngoắt đầu nhìn ra. Thiếu niên ăn bận kiểu kép hát đang từ từ bước tới, nét mặt lạnh băng, bang chúng Nộ Long bang rợn người nắm chặt lấy binh khí. Thiếu niên nọ bắt đầu đếm:

- Một…

Nữ nhân áo trắng không hề ngẩng đầu, bình thản chạm bàn tay trắng nõn vào mạch Lưu Tử. Ngô Thường Thanh hừ mũi rõ to:

- Không được chữa cho hắn!

- Vì sao ạ? – Nữ nhân áo trắng hỏi.

- Nhìn con rồng trên tay áo hắn đi!

Nữ nhân áo trắng liếc mắt kiểm chứng, cửa tay áo Lưu Tử quả có thêu một con rồng nhỏ bằng chỉ bạc. Ngô Thường Thanh nói:

- Đó là tiêu ký của Nộ Long bang. Bang phái ấy hoành hành vùng Thái An, chẳng có đứa nào tử tế, đừng nên cứu bọn ác đồ này!

Mấy hán tử Nộ Long bang vừa giận vừa sợ, tự nhủ nếu không phải cường địch đang ở ngay đây thì ắt đã dạy cho lão béo kia một bài học.

Chàng kép hát cười ha hả:

- Tiên sinh nói thật chí lý, xin hãy để tại hạ xuất thủ đuổi chúng đi!

Ngô Thường Thanh ngó con rối gỗ, khinh khỉnh bảo:

- Đừng ra vẻ ta đây! Ta không cứu nó, nhưng cũng không trị độc Long tu châm cho ngươi đâu! Hừ, chắc ngươi là Mộc ngẫu sát trong Quỷ Lỗi Song Sát chứ gì? – lại nhìn thiếu nữ đứng bên cạnh chàng. – Còn ngươi hẳn là Bố đới sát rồi. Hai đứa súc sinh miệng còn hôi sữa, cậy có tí bản lĩnh thối tha là giết người như ngóe, chẳng biết phân biệt thế nào là xấu thế nào là tốt! Các ngươi cũng cút hết cho ta nhờ, đừng có làm bẩn nhà cửa của lão phu.

Thoạt tiên, nghe lão già phán đoán chính xác thương thế của mình, Mộc ngẫu sát rất sửng sốt, nhưng đến đoạn sau, phải hứng đủ mọi lời lăng mạ nặng nề, chàng ta không sao kìm nổi một tia căm giận lóe lên trong mắt:

- Chả chữa thì thôi, ta cũng không hơi đâu van vỉ. Nhưng ta truyền đời báo danh cho mà biết: nếu ngươi cứu tên súc sinh họ Lưu kia thì đừng trách ta không khách khí!

Ngô Thường Thanh sửng cồ nhảy bật dậy:

- Đây, ngươi thử không khách khí ta xem!

Bố đới sát thấy hai bên làm găng, lo lắng đến độ nước mắt ràn rụa. Nghĩ rằng khẩn nài lão béo hung dữ cũng vô ích, cô ta bèn bước nhanh tới trước mặt nữ nhân áo trắng, quỳ sụp xuống dập đầu, nghẹn ngào thưa:

- Nữ Bồ tát đại từ đại bi, xin hãy cứu ca ca của tôi!

Nữ nhân áo trắng vội rời chỗ ngồi ra đỡ cô gái:

- Đứng lên, đứng lên mau! Ta… nhất định sẽ nghĩ cách cứu y.

Bố đới sát mừng rỡ quá, mắt long lanh lệ. Ngô Thường Thanh trừng trừng nhìn nữ tử áo trắng:

- Con nha đầu kia, ngươi dám trái lời ta ư? Khốn nạn, lần sau ta không cho phép ngươi ra đây nữa!

Nữ tử áo trắng cúi đầu lí nhí:

- Vết thương của họ mà phát tác thì tình trạng thê thảm lắm… con không nỡ nhìn người ta chịu khổ…

Cô vừa nói vừa run lẩy bẩy, trông như thể sắp ngã tới nơi, vội lần tay vào ngực tìm một lọ ngọc, dốc lấy hai viên thuốc uống.

Ngô Thường Thanh đăm đăm nhìn học trò một lúc, chợt giậm chân bực bội:

- Ta nói con hay, bọn này đều là kẻ ác, hiếp đáp đàn ông cưỡng đoạt đàn bà, giết người đốt nhà, chẳng từ một việc xấu xa nào. Con còn nhớ khi con bái sư ta đã nói gì không?

Nữ tử áo trắng run run cúi đầu:

- Dạ nhớ, thầy dạy làm đồ đệ của thầy thì phải có bàn tay Bồ tát và trái tim Diêm vương.

- Đúng thế. – Ngô Thường Thanh nghiêm khắc nói. – Phải trau dồi y thuật cho tinh thục, có khả năng cải tử hoàn sinh, linh diệu như phép thuật Bồ tát, nhưng phải biết phân biệt ngay gian thiện ác, cứng rắn phán xử như Diêm vương. Người tốt mắc bệnh, tất nhiên ta phải nghĩ trăm phương ngàn kế chữa chạy cho họ, kẻ xấu mắc bệnh là do ông trời trừng phạt, quyết không được giúp đỡ dẫu chỉ nửa ngón tay, vì cứu những quân hung bạo đó cầm bằng gây hại cho rất nhiều người lương thiện khác!

Nữ tử áo trắng lắc đầu thở dài:

- Nhưng trong Thiên kim phương, Tôn Tư Mạc có nói “tính mạng con người quý hơn ngàn vàng”. Đối với một đại phu, sự sống của mỗi cá nhân đều là ngàn vàng, bất kể họ nghèo hèn hay giàu sang, ngay gian hay thiện ác.

Ngô Thường Thanh nghe cãi giận quá, giọng càng thêm gay gắt:

- Bậy bạ, nhố nhăng! Đó đều là quan niệm lỗi thời cũ rích. Ngươi không nghe lời ta thì mau cuốn xéo đi cho rảnh!

Nữ tử áo trắng co rúm hai vai:

- Nhưng… con không thể thấy chết mà không cứu, không thể tụ thủ bàng quan nhìn người ta chịu đớn đau… – Càng nói, giọng cô càng nhỏ lại, hầu như không thành tiếng, nước mắt lã chã lăn qua chiếc cổ áo trắng bong, rớt xuống đất thành những đốm lấm tấm sẫm màu.

Ngô Thường Thanh gườm gườm nhìn cô một lúc, mặt xám xanh, chợt phẩy tay áo, tức giận nói:

- Lão phu mặc kệ, mặc kệ hết! Hừ, đếch thèm bận tâm đến nữa!

Nữ tử áo trắng lặng đi, chậm áo lau nước mắt rồi đặt tay bắt mạch cho Lưu Tử, trầm ngâm chốc lát rồi thở dài bảo:

- Ba huyệt Địa thương, Bỉnh phong và Hoàn khiêu của ngươi bị viêm dương độc xâm nhập. Ba huyệt này nối liền với Túc dương minh vị kinh, Thủ dương minh đại trường kinh, Thủ thái dương tiểu trường kinh và Túc thiếu dương tam tiêu kinh. Bốn đường kinh vốn đều thuộc dương mạch, nay lại ngấm viêm độc, thật chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu, có thể dẫn đến cạn kiệt tinh huyết, nứt vỡ gân da. Chà, ai xuống tay mà độc địa quá chừng!

Mộc ngẫu sát là người hạ thủ, hiểu rất rõ hậu quả trúng độc, nghe nữ nhân chẩn đoán không sai một vi một mảy thì vô cùng kinh hãi, bỗng sinh ác tâm: “Giết ả này đi, xem ai chữa trị được cho tên khốn họ Lưu kia nữa?”. Nghĩ đoạn nhúc nhích ngón tay, nhưng chưa kịp xuất chiêu thì nghe có tiếng hừ mũi, Mộc ngẫu sát ngước mắt nhìn, nhận ra Lương Tiêu đứng cách đó ba trượng, mắt sáng quắc như khoan vào mặt mình, chàng bỗng cứng đơ người, không dám động đậy gì nữa.

Lưu Tử hốt hoảng:

- Vậy thì, có cách nào chạy chữa không?

Nữ tử trả lời:

- Đã biết nguyên do thì chạy chữa cũng dễ dàng hơn.

Dứt lời, cô rút ra ba mũi kim thép, phóng tay châm ba huyệt bị thương, xuất thủ nhanh và nhận huyệt rất chính xác, những tay võ giả đang có mặt đều nức nở khen thầm. Kim châm chắc thuộc loại rỗng ruột, vì mũi kim vừa ăn vào da thịt thì ba tia máu đen ròng ròng tuôn ngay ra từ đuôi kim. Ngay lập tức, Lưu Tử cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng thư thái hẳn đi.

Khi máu đen chuyển sang đỏ và bắt đầu đông, nữ tử áo trắng rút kim ra:

- Chích huyết đã giúp xả hết dương độc. Nay ta viết thêm một bài thuốc, ngươi theo đó mà uống, trong vòng mười ngày sẽ có biến chuyển tốt.

Viết xong, cô trao đơn thuốc cho Lưu Tử. Một bóng người thình lình chớp lên, Bố đới sát đã băng tới cướp lấy. Nữ tử áo trắng kinh ngạc hỏi:

- Cô nương làm gì vậy?

Bố đới sát mỉm cười:

- Bồ tát cứu ca ca xong, ta sẽ trả bài thuốc này cho hắn!

Lưu Tử tức quá rủa xả:

- Con vô lại, con dâm phụ, ta đập…

Nữ tử áo trắng vội can:

- Ngươi… đừng nặng lời!

Lưu Tử vội cười xòa:

- Vâng, vâng, vậy mong nữ Bồ tát viết hộ một đơn thuốc khác.

- Được! – Nữ tử áo trắng đáp.

Bố đới sát ứa nước mắt:

- Bồ tát, người đã hứa là cứu ca ca ta.

Nữ tử nọ bình thản trả lời:

- Ta chưa hề nói là không cứu ca ca ngươi, phiền ngươi trả đơn thuốc lại cho y!

Bố đới sát mừng rỡ nói:

- Được, miễn là người cứu ca ca ta!

Cô ta chu môi nhổ một bãi nước bọt lên đơn thuốc rồi ném vào mặt Lưu Tử. Họ Lưu căm hận vô kể, nhét tờ giấy vào ống tay áo rồi vòng tay cười với nữ tử áo trắng:

- Đa tạ đại phu…

Hắn vừa đa tạ vừa lật cao cổ tay, một thanh chủy thủ nằm gọn trong tay hắn tự bao giờ. Nó phóng lên như tia chớp, đâm xẹt vào ngực “Bồ tát”.

Nữ tử áo trắng không hề để bụng đề phòng, cứ ngẩn ra trước tai họa giáng xuống. Bố đới sát cũng trở tay không kịp, chỉ kịp hét lên một tiếng thảng thốt.

“Cạch!”. Thình lình một viên đá nhỏ bay ra khỏi đám đông, bật lên thân chủy thủ khiến nó văng đi xa. Lưu Tử toạc hổ khẩu, kinh hãi nhảy vọt ra sau. Bố đới sát hét vang, múa chưởng đánh tới, bỗng lại “phụp” một tiếng nữa, Lưu Tử hai mắt trắng dã ngã ngửa xuống, trên trán thủng một lỗ nhỏ, máu hòa dịch não chảy ra òng ọc.

Nữ tử áo trắng bàng hoàng, buột miệng thốt lên khiếp sợ. Ngô Thường Thanh vốn chạy đến cứu viện, mới được nửa đường thì tình hình đã giải quyết xong, lão liền ngoảnh phắt về hướng viên đá xuất phát nhưng không thấy có manh mối gì, bất giác run sợ: “Gớm thật, không biết cao thủ đâu ra thế này!”. Riêng Mộc ngẫu sát đoán ngay ra là ai, chàng đưa mắt nhìn Lương Tiêu, đầu mày nhiu nhíu.

Lương Tiêu nhếch mép buồn khổ: “Lại nổi sát tính rồi, chà, ném rơi thanh chủy thủ là được, nào ngờ nóng nảy quá, đi bắn tiếp viên thứ hai!”.

Mộc ngẫu sát nhìn những bộ mặt tái xanh tái tử của bọn Nộ Long bang, lại trông thi thể Lưu Tử, cuối cùng nghĩ đến võ công ghê gớm của Lương Tiêu, lòng háo thắng tranh cường cùng chí báo thù rửa hận suốt hai mươi năm qua bỗng chốc tiêu tan. Chàng thở dài bảo bọn Nộ Long bang:

- Lưu Tử đã chết, ta cũng không gây khó dễ cho các ngươi nữa. Các ngươi không phải người nhà họ Lưu, chẳng việc gì phải bán mạng cho cha con hắn!

Chàng lần tay vào ngực, móc ra một bình sứ ném cho Nhục tu cầu Thường Vọng Hải:

- Xoa ngoài uống trong đồng thời sẽ trị được độc chất của Hỏa diệm chưởng.

Thường Vọng Hải chìa tay ra đón, chẳng nói chẳng rằng cúi xuống ôm xác Lưu Tử, dẫn đồng bọn đi ra.

Mộc ngẫu sát cũng xoay mình bỏ đi, Bố đới sát bèn chặn đường:

- Ca ca không đợi chữa bệnh à?

Mộc ngẫu sát lắc đầu:

- Ca ca nóng lòng báo thù nên mấy hôm nay đã giết hại cả những kẻ vô can, trái với dự định ban đầu. Thôi thì hãy coi Long tu châm như một sự báo ứng, hà tất khổ sở cầu cạnh người ta cứu chữa?

Chàng dợm bước, nhưng Bố đới sát nước mắt lưng tròng, nhất quyết ghì chặt không buông. Mộc ngẫu sát giãy mãi mới thoát, khuôn mặt bỗng rúm ró, thân hình chấn động mạnh, không trụ được phải ngồi phệt xuống đất.

Nữ tử áo trắng nhẹ nhàng bước tới gần:

- Ngươi đừng gắng tỏ ra cứng cỏi nữa! – Sau khi bắt mạch cho Mộc ngẫu sát, cô trầm ngâm hồi lâu rồi hỏi Ngô Thường Thanh. – Sư phụ ơi, dùng cách nào mới lấy được Long tu châm ra?

Ngô Thường Thanh cầm chén trà, mắt ngước lên trời:

- Ngươi chống đối ta hết lần này đến lần khác, còn hỏi han gì nữa? Có giỏi tự đi mà chữa!

Nữ tử áo trắng phân vân hồi lâu rồi lặng lẽ quay lại bàn, bóp trán suy nghĩ. Bố đới sát chăm chăm theo dõi từng biến đổi trên nét mặt cô, tim đập thon thót.

Cuối cùng, nữ tử áo trắng thở dài buồn bã:

- Đành mạo hiểm thử xem. – Cô mở hòm thuốc bên cạnh lấy một con dao mỏng như lá lúa và một viên đá nam châm, lẩm bẩm. – Long tu châm được máu đưa đi, di chuyển theo chiều vận hành của kinh mạch. À, xin hỏi cô nương, lệnh huynh trúng châm khi nào và vào chỗ nào?

Bố đới sát cau mày cố nhớ:

- Có lẽ là giờ dần hôm qua, trúng vào chỗ nào chỉ có ca ca ta biết.

Mộc ngẫu sát lúc này đã thở lại được, bèn đáp:

- Gần huyệt Nội quan.

Nữ tử áo trắng chăm chú quan sát bóng nắng trên đất, đoạn đặt tay trái lên mạch của Mộc ngẫu sát, tay phải bấm đốt. Đám đông lộ vẻ thắc mắc, lào xào bàn tán trước cử chỉ kỳ quặc ấy. Ngô Thường Thanh chằm chằm nhìn học trò, vẻ mặt chăm chú khác thường, cầm bát trà lên mà quên cả uống. Lão hiểu, nữ tử áo trắng đang căn cứ vào các triệu chứng của bệnh, kết hợp với mạch lý để suy đoán ra đường đi và vị trí hiện tại của Long tu châm.

Huyết khí trong cơ thể con người luôn ở trạng thái vận hành, mạnh hay yếu đều có thời khắc nhất định. Long tu châm được máu đưa đẩy, tốc độ di chuyển liên quan mật thiết với cường độ khí huyết. Thể chất mỗi người một khác nên thời điểm khí huyết mạnh yếu cũng không tương ứng nhau. Có người tỉnh táo phấn chấn ban ngày, nhưng có người đêm xuống mới sáng suốt sung sức, vì vậy rất khó đoán định vị trí của Long tu châm.

Nữ tử áo trắng lẩm nhẩm tính một hồi thì đã lần được đầu mối, miệng đọc:

- Mậu Quý Tị Ngọ thất tương nghi, Bính Tân Hợi Tí diệc thất số , – tay trái áp viên nam châm vào huyệt Cự cốt trên vai Mộc ngẫu sát, tay phải cầm con dao rạch vào da. Một vạt máu từ vết thương bắn phụt ra, hắt xuống đất.

Chừng như việc suy đoán đã lấy đi rất nhiều tâm lực của nữ tử áo trắng. Cô dùng tay áo lau mồ hôi trên trán, hơi thở dồn dập:

- Cô nương tìm hộ xem có cây châm trong máu không?

Bố đới sát xem xét kỹ càng trong vũng máu rồi nhặt lên một mũi kim nhỏ xíu như lông thỏ, chẳng hiểu làm bằng chất liệu gì mà nặng vô cùng, cầm trĩu cả tay. Thấy đại phu đã trừ được nguồn cơn căn bệnh của huynh trưởng, cô ta tươi tỉnh, mừng khôn kể xiết.

Nữ tử áo trắng nghỉ một lúc rồi quay về bàn viết đơn thuốc:

- Kim nằm trong kinh mạch quá lâu, tuy gắng gượng ép ra được nhưng kinh mạch đã bị thương tổn, ngươi hãy điều dưỡng theo đơn thuốc này để tránh di căn… – Nói đến đây, cô bỗng thở dốc, thân hình run rẩy như lá cuối thu, vội vàng móc bình ngọc dốc lấy hai viên uống.

Bố đới sát rất ngạc nhiên:

- Bồ tát không được khỏe à?

Nữ tử áo trắng thở đều trở lại:

- Không… sao đâu, bệnh kinh niên ấy mà, xưa rày đều vậy!

Mọi người nghe nói đại phu mắc bệnh thảy đều há hốc mồm ngạc nhiên.

Bố đới sát mở to mắt:

- Y thuật Bồ tát cao minh như thế, lẽ nào không tự chữa chạy được?

Nữ tử áo trắng chưa kịp trả lời, Ngô Thường Thanh đã gắt gỏng:

- Đừng lải nhải nữa, chữa xong rồi thì mau cút đi!

Bố đới sát trừng mắt nhìn lão vẻ căm ghét:

- Chẳng qua nể mặt Bồ tát, bằng không ta đã cho ngươi…

Ngô Thường Thanh cười khẩy:

- Cho ta cái gì?

Bố đới sát không tiện đắc tội với sư phụ của đại phu nên nén giận cảm tạ nữ tử áo trắng, đỡ Mộc ngẫu sát đi ra. Người bệnh khác tiếp tục tiến đến bên bàn ngồi, Ngô Thường Thanh lạnh lùng lên tiếng:

- Hôm nay đủ rồi, sau này khám tiếp!

Bệnh nhân nọ khựng lại, đang chùng người xuống mà không biết nên ngồi hay nên đứng lên như cũ.

Ngô Thường Thanh phất tay áo bảo học trò:

- Hôm nay con không được khỏe, đừng lao lực quá!

Nữ tử áo trắng không dám kháng cự, định nhỏm dậy, mọi người bèn nhao nhao la hét:

- Chúng tôi đợi đã mấy ngày rồi, xin hãy chữa cho chúng tôi!

- Phải đó, Bồ tát mà về thì chẳng biết bao giờ mới ra, bệnh chúng tôi không thể để kéo dài được nữa!

Những tiếng hò hét láo nháo vang lên. Ngô Thường Thanh nổi cáu:

- Khốn nạn, toàn đồ tự tư tự lợi! Nghĩ cho bọn lộn giống các ngươi thì ai nghĩ cho con bé đây? Bệnh nó còn khó chữa hơn bệnh các ngươi, mạng nó còn quý hơn mạng các ngươi hàng trăm lần! Cút, cút hết cho ta nhờ…

Nữ tử áo trắng thở dài:

- Dạo gần đây bệnh con tái phát mỗi ngày một thường xuyên hơn, hôm nay thế này, nhưng mai chẳng biết ra sao. Thôi thì khám thêm cho vài người nữa, vả chăng con vừa uống thuốc, vẫn chịu đựng được.

Ngô Thường Thanh giậm chân thình thịch, để rơi mình xuống ghế trúc, lầm lầm uống trà.

Nữ tử áo trắng lần lượt gọi bệnh nhân, người thì bắt mạch chẩn đoán, người thì châm cứu xoa nắn, cuối cùng viết đơn thuốc, chẳng may có chỗ nào không rõ thì hỏi Ngô Thường Thanh. Đến cuối giờ thân đầu giờ dậu, đám đông lục tục rời khỏi rừng, ai nấy đều hoan hỉ. Lương Tiêu đợi mọi người đi hết mới dắt lão già lại gần.

Nữ tử áo trắng uống thêm một viên thuốc nữa. Da mặt cô trắng nhợt, từ đầu tới cuối luôn cúi gằm đầu, không dám nhìn thẳng vào ai cả. Lương Tiêu bước đến bên bàn, mê mải ngắm cô hồi lâu. Hiện tại gã đã cao lớn vạm vỡ hơn hẳn khi xưa, lại thêm khuôn mặt dầu dãi phong sương, Ngô Thường Thanh nhất thời chưa nhận ra. Sốt ruột vì gã cứ đứng bất động mãi, lão thô bạo giục:

- Có bệnh thời khám, không bệnh thời biến!

Nữ tử áo trắng vội nói lấp:

- Mời ngồi!

Lương Tiêu y lời ngồi xuống, nữ tử áo trắng đặt tay lên mạch gã, trầm ngâm một lúc rồi hỏi bằng giọng ngạc nhiên:

- Tiên sinh có bệnh tật gì đâu?

Lương Tiêu chậm rãi nói:

- Ta có bệnh đấy, cô xem cho kỹ đi!

Nữ tử áo trắng lắc đầu:

- Tôi không phát hiện ra, thế thường ngày ông cảm thấy khó chịu ở đâu?

Lương Tiêu bỗng cay cay sống mũi, u uẩn nói:

- Thường ngày ta nặng lòng nhung nhớ một cô gái, bệnh đó gọi là bệnh tương tư!

Nữ tử áo trắng vội rụt tay về, lắc đầu thở dài:

- Tôi không… chữa được bệnh này!

Lương Tiêu thở dài:

- Cô gái ấy tốt bụng lắm, nhưng sức khỏe rất xấu. Chẳng hiểu dăm ba năm nay, bệnh tật có đỡ chút nào không?

Nữ tử áo trắng bỗng rùng mình, sắc hồng lan lên đến tận tai, cái cổ gầy nhợt thoáng chốc cũng đỏ dừ. Lương Tiêu lại tiếp:

- Hôm ta buộc phải ra đi, cô ấy khóc lóc rất thảm thiết, chẳng biết có bị thương không? Mấy năm nay cô ấy có còn cảm lạnh? Còn hay choáng váng? Và có còn uống cái thứ thuốc Kim phong ngọc lộ kia không…

Nữ tử áo trắng từ từ ngẩng đầu lên. Khuôn mặt cô hốc hác, làn da xanh trắng tới mức gần thành trong suốt, hàng lông mày nhạt như khói mỏng, hốc mắt hõm sâu càng làm nổi bật đôi mắt to tướng. Cô trân trân nhìn Lương Tiêu, lệ châu thánh thót tuôn rơi, run run gọi:

- Tiêu ca ca…

Mắt Lương Tiêu cũng đã ướt nhoèn. Gã muốn giơ tay áo lau nước mắt cho cô nhưng ngại áo quần bẩn thỉu, đành dùng tay không quệt khẽ đi. Cảm thấy như chạm vào bộ xương, gã thảng thốt buột miệng:

- Hiểu Sương, muội gầy đi nhiều quá!

Hoa Hiểu Sương mừng mừng tủi tủi, bỗng rùng mình ngã ngất. Lương Tiêu vội chạy vòng qua bàn ôm lấy cô.

Ngô Thường Thanh đang say sưa thưởng trà, không chú ý đến cuộc đối thoại của hai người. Khi Hiểu Sương ngất xỉu, lão mới vội vã chạy lại. Thấy Lương Tiêu đứng chình ình phía trước, lão không buồn nghĩ ngợi nhiều, thò tay chụp liền. Lương Tiêu rùn vai tránh khỏi trảo thế của lão, nói nhanh:

- Ngô tiên sinh, tôi là Lương Tiêu đây mà!

Ngô Thường Thanh ngớ người nhìn kỹ rồi kêu lên:

- Ngươi chưa chết à?

Lương Tiêu ngạc nhiên:

- Việc gì mà tôi phải chết?

Ngô Thường Thanh không kịp nói nhiều, xua xua tay, đón lấy Hiểu Sương cho cô uống thuốc, lại dùng kim vàng châm vào các huyệt Nhân trung và Duy hội. Một lúc lâu sau, ngực Hiểu Sương bắt đầu phập phồng, cô mở mắt, gọi ngay:

- Tiêu ca ca!

Lương Tiêu ghé lại gần. Hiểu Sương nắm chặt tay gã, nước mắt ròng ròng:

- Không phải… muội đang nằm mơ đấy chứ?

Lương Tiêu đáp:

- Mơ đâu mà mơ, không tin muội thử véo tay xem có đau không!

Hiểu Sương y lời véo thử tay, đoạn thở hắt ra:

- Đúng, không phải mơ!

Lương Tiêu phì cười. Hiểu Sương thẹn thùng đỏ mặt, cũng cười khẽ. Nụ cười của cô rất đẹp, hoa hạnh khắp rừng như mờ nhạt hẳn đi trước vẻ tươi tắn ấy.

Ngô Thường Thanh lạnh lùng đứng quan sát, chợt tức bực xen vào:

- Hừ, khóc đấy lại cười ngay được, chẳng ra cái thể thống gì! – đoạn trừng mắt lườm Lương Tiêu. – Tiểu tử khốn kiếp, ngươi chưa chết à? Hay lắm, đỡ cho con bé này phải rầu rĩ tối ngày, khóc…

Hiểu Sương cuống cuồng ngắt lời:

- Sư phụ…

Ngô Thường Thanh định nói “sướt mướt sụt sùi”, thấy Hiểu Sương ngăn bèn nén lại, đổi câu hỏi:

- Ngươi đến đây làm gì vậy?

Lương Tiêu trỏ lão già ngồi gần đấy, đang cầm cành cây chọc bới tổ kiến:

- Tôi dẫn lão đến khám bệnh.

Ngô Thường Thanh cau mày:

- Mất trí chứ gì?

- Chịu. – Lương Tiêu lắc đầu, mỉm cười nhìn Hiểu Sương. – Có Bồ tát giáng thế ở đây, đâu đến lượt hạng phàm phu tục tử như tôi chẩn đoán.

- Tiêu ca ca… – Hiểu Sương ngượng nghịu trách. – Đến huynh cũng trêu muội nữa à?

Nhìn sang lão già ngây ngô, cô bỗng nảy lòng thương xót:

- Huynh đưa ông cụ lại đây!

Lương Tiêu gật đầu, chạy ra dỗ dành một lúc mới dắt được lão già đến. Nhưng ngồi xuống rồi, lão lại giở quẻ không chịu chìa tay cho bắt mạch. Lương Tiêu đành lừa:

- Cô nương đây rất giỏi nắn xương, ông để cô ấy nắn thử xem ông có cốt tướng của thiên hạ đệ nhất cao thủ không.

Lão già phật ý:

- Cố nhiên ta là thiên hạ đệ nhất cao thủ rồi, còn cần nắn bóp gì nữa?

Lương Tiêu gắng thuyết phục:

- Ông tự phong đệ nhất cao thủ mà xong à? Phải được người đời thừa nhận mới đáng kể chứ!

Lão già nổi cơn thịnh nộ, tóm luôn lấy cổ gã mắng:

- Đứa nào dám bảo ta không phải thiên hạ đệ nhất cao thủ? Gọi nó ra đây tỉ thí xem sao!

Thấy Lương Tiêu bị bóp cổ, Hiểu Sương bàng hoàng cả người, suýt nữa lại ngất đi. Lương Tiêu thản nhiên nói:

- Tôi bảo ông không phải đấy!

Lão già trợn mắt, siết nắm tay răng rắc. Lương Tiêu dỗ:

- Nếu ông để cô nương đây nắn cốt, từ nay về sau, tôi sẽ thừa nhận ông là thiên hạ đệ nhất.

Lão già dịu nét mặt, buông cổ Lương Tiêu, mỉm cười:

- Được lắm, được lắm! – Lão xắn tay áo, giơ cánh tay nhem nhuốc và nhoe nhoét mỡ ra trước mặt Hiểu Sương, đoạn ngoái đầu hỏi. – Nắn cốt là thế quái nào?

Lương Tiêu mỉm cười:

- Tức là nắn cái hình dạng xương cốt của ông. Xương của hạng cao thủ đệ nhất và đệ nhị khác nhau nhiều lắm đó, cứ để cô nương đây nắn xong sẽ biết.

Lão già ậm ừ, trừng mắt bảo Hiểu Sương:

- Nhóc con mày nắn cho mau, nắn sao cho đúng là thiên hạ đệ nhất, cấm nắn thành thiên hạ đệ nhị nhớ!

Hiểu Sương đỏ mặt nghĩ bụng: “Tiêu ca ca lại lừa người ta rồi!”.

Xa cách đã lâu nay mới trùng phùng, cô gái hoan hỉ vô cùng, cứ miên man hồi tưởng chuyện cũ, nụ cười không ngừng chúm chím trên môi. Lão già sốt ruột giục giã:

- Cười cái khỉ gió, mau nắn đi!

Hiểu Sương xấu hổ đỏ mặt, đặt tay lên mạch lão già chăm chú thăm khám hồi lâu, đoạn ấn vào huyệt Hậu khê ở xương trụ của lão, hỏi:

- Tiên sinh có cảm giác tê ở đây không ạ?

Lão già lắc đầu. Hiểu Sương nghĩ bụng: “Theo mạch lý, khi xuất hiện triệu chứng mất trí thì huyệt Hậu khê tất có cảm ứng. Tiên sinh đây mạch tượng thông suốt, không hề tắc đọng chỗ nào, đúng ra không mắc bệnh gì mới phải!”. Cô ngoảnh sang hỏi Ngô Thường Thanh:

- Con không tìm ra bệnh, mời sư phụ đến chẩn hộ xem sao!

Ngô Thường Thanh lạnh lùng quan sát lão già từ nãy tới giờ, nghe Hiểu Sương gọi thì “ồ” lên một tiếng, gật đầu:

- Quả nhiên đúng, tiên sư nó, quả nhiên đúng!

Hiểu Sương mừng rỡ:

- Sư phụ giỏi thật, chỉ dùng mắt nhìn mà đã lần ra nguồn cơn bệnh tật rồi à?

Ngô Thường Thanh chòng chọc nhìn lão già, hỏi:

- Này Thích Thiên Phong, ngươi đang giở cái trò quỷ gì vậy?

Lão già kinh ngạc:

- Ngươi gọi ta à?

Ngô Thường Thanh trợn mắt:

- Ta gọi ngươi đó, Thích Thiên Phong. Ngươi nhận ra lão phu không?

Lương Tiêu giật mình: “Thích Thiên Phong à, quái, cái tên này ta nghe thấy ở đâu rồi thì phải. Ồ đúng, trong ngôi miếu cổ dạo nào, Cửu Như đã từng nói công phu của ta giống với Đông hải Thích Thiên Phong, khó mà đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh. Nhưng võ công lão già này cao cường như vậy, chỉ e ngay cả Cửu Như cũng chưa chắc thắng được ấy chứ!”.

Lão già ngơ ngác gãi đầu:

- Ngươi gọi ta là Thích Thiên Phong? Thích Thiên Phong là ai nhỉ?

Ngô Thường Thanh hầm hầm nhại:

- Thích – Thiên – Phong – là – ai? Hừ, là cái tên khốn kiếp tự xưng “Chí tôn Đông Hải, võ khố Linh Ngao” ấy! – Lão trừng mắt mắng. – Tên họ Thích kia, ngươi đừng giả ngô giả ngọng với lão phu nữa, ngươi chả bệnh tật gì hết!

Dứt lời, Ngô Thường Thanh phóng tay chộp lấy cánh tay lão già.

Lương Tiêu đang mải ngẫm nghĩ nên không kịp ngăn cản. Lão già hất tay, thân hình tròn xoay của Ngô Thường Thanh bật vút ra xa như một quả bóng. Lão già cười:

- Đồ béo lùn, quả cầu thịt!

Ngô Thường Thanh tức điên, khó khăn lắm mới dừng lại được, đang chống hai tay gắng sức lật mình lên thì lão già nọ đã lướt tới như gió, tung chân móc một cái. Ngô Thường Thanh lăn lông lốc đi ba trượng, lão già đuổi tới sát bên, giơ chân hẩy ngang. Ngô Thường Thanh không sao tự chủ được, tiếp tục lăn đi xa. Lần đầu tiên trong đời bị người ta dùng làm bóng chơi, lão tức giận la oai oái.

Lão già kỳ quặc tự nhiên vớ được quả cầu thịt thì vô cùng hào hứng, liên tục bay theo tung chân đá hất. Lương Tiêu đâm lo cho Ngô Thường Thanh, liền lao đến vung song chưởng chém xuống đầu lão già. Lão ta cười khanh khách:

- Đến đúng lúc lắm! – đoạn giơ chưởng chắn.

Một bên từ dưới đánh lên một bên từ trên đánh xuống, chỉ thoáng chốc đã chao qua hắt lại đến sáu bảy chục chiêu. Lương Tiêu không đỡ nổi, vừa đánh vừa lùi, rút vào rừng hạnh rồi giở kế né tránh sau những thân cây. Lão già theo sát không rời, chưởng lực chém đổ những cây hạnh thân to bằng miệng bát, kình phong xô rụng những tán hoa tươi thắm, trải một tấm thảm dày màu hồng xuống nền đất rừng.

Ngô Thường Thanh ngọ ngoạy ngồi dậy, toàn thân đau nhức. Thoạt tiên, lão vừa thẹn vừa giận, nhưng dần dần quên bẵng cả, chỉ chăm chắm theo dõi trận đấu của hai người, lòng không khỏi hãi hùng: “Thích Thiên Phong là kỳ tài trời sinh, cũng không hổ cho cái danh võ khố. Nhưng Lương Tiêu còn ít tuổi mà sao cũng luyện được bản lĩnh đáng sợ nhường kia?”. Chợt nhận ra trận tỉ thí khiến rừng hạnh tan tác cả, lão đùng đùng nổi giận:

- Hai tên xấu xa muốn đánh thì ra bãi trống, sao lại giày xéo hết cây cối của lão phu thế kia…

Rút kinh nghiệm đau thương, Ngô Thường Thanh chỉ nhướng mày trợn mắt, la lối ỏm tỏi, động khẩu chứ không dám động thủ nữa. Hiểu Sương đứng bên cạnh sư phụ, thấy Lương Tiêu yếu thế hơn thì rất lo lắng.

Chợt một giọng nói ôn hòa từ xa vẳng đến:

- Chắc là ở đây đây!

Hiểu Sương đưa mắt tìm thì thấy có hai người đang đi đến. Một bà già tóc bạc mặt đỏ, mày thanh mắt đẹp, và một trung niên hán tử cao gầy, môi mỏng mắt to.

Hai người đến gần, bà lão cười nói:

- Ngô đại phu, cuối cùng cũng gặp được ông…

Giọng bà chợt tắt lịm, mắt dõi trân trân vào rừng, trung niên hán tử nhìn theo, khuôn mặt lộ vẻ ngạc nhiên.

Ngô Thường Thanh cười ha hả:

- Tưởng ai, hóa ra Hải để lao nguyệt Thích phu nhân. Ha ha, chắc cái luồng gió họ Thích chuyên gây náo loạn thổi bà tới đây phải không? – Kèm theo câu nói, lão giơ tay trỏ lão già trong rừng.

Bà kia mừng quýnh, vui vẻ nói:

- Đúng là đi vẹt gót giày tìm không thấy, ngồi chơi xơi nước lại vào tay. Hóa ra lão chết rấp nhà ta chạy tới đây.

Lúc này Lương Tiêu đã dùng hết mọi miếng võ, thấy Thích Thiên Phong sắp vỗ tiếp chưởng, vội ngăn:

- Thôi, coi như ông thắng!

Thích Thiên Phong xuất lực rất mạnh, nhưng Lương Tiêu vừa nhận thua là lão dừng tay ngay tắp lự, chưởng thế dừng sững ngay chóp mũi Lương Tiêu. Lão cười khì:

- Tốt, nhận thua là được rồi!

Bà già le te đi lại gọi to:

- Lão đầu tử, xem tôi là ai này?

Thích Thiên Phong ngoảnh mặt ra. Nhác thấy bà già, mặt lão tái nhợt, ánh mắt kinh hoàng, cấp tập thụt lui đến một trượng. Bà già bước nhanh hơn về phía lão, nóng nảy nói:

- Không được chạy, đi về với tôi!

Thích Thiên Phong thấy bà đi đến gần, cũng thụt lui một khoảng tương ứng, trước sau vẫn hai bên vẫn cách nhau một trượng.

Bà lão bực bội tung mình bay đến. Thích Thiên Phong lập tức guồng chân thi triển môn khinh công Thừa phong đạo hải. Bà lão phát cáu, luôn mồm la gọi:

- Lão đầu tử, quay lại đây… – rồi cũng thi triển môn pháp tương tự, ngặt nỗi võ công tương đồng nhưng công lực khác biệt, chỉ một chớp mắt, khoảng cách giữa hai người đã bị kéo doãng ra ba trượng.

Trung niên hán tử cấp tốc chạy ra chặn đường:

- Cha!

Thích Thiên Phong nhoài qua người y chạy bán sống bán chết, chân không chấm đất. Trung niên hán tử và bà lão hô hoán liên hồi, gấp rút đuổi theo, chỉ chớp mắt, bóng họ đã lướt đi xa tít tắp, biến mất trong trời chiều mờ mịt.

Sự việc xoay chuyển đột ngột. Lương Tiêu chỉ kịp nhớ ra rằng hán tử cao gầy nọ chính là Thích Hải Vũ đã đấu khinh công với mình ở ngôi miếu cổ hôm nào, nhưng không hiểu vì sao hắn tới đây, và vì sao lại đuổi theo lão già.

Ngô Thường Thanh tới gần, Lương Tiêu thắc mắc:

- Chuyện gì thế Ngô tiên sinh?

Ngô Thường Thanh hừ một tiếng:

- Vợ người ta đuổi theo chồng, ngươi hỏi chi cho lắm! – Lão ngoảnh nhìn hoa hạnh phủ dày mặt đất, bất bình chửi rủa. – Ngươi phá hoại bao nhiêu cây cối của ta thế này, định đền bù kiểu gì đây?

Lương Tiêu ngớ người:

- Có gì ghê gớm đâu, trồng lại là được thôi mà!

Hiểu Sương góp lời:

- Muội giúp huynh trồng.

Ngô Thường Thanh lườm cô:

- Hừ, đúng là nữ nhi ngoại tộc, chỉ giỏi ăn cây táo rào cây sung!

Hiểu Sương đỏ mặt, sóng vai Lương Tiêu đi vào rừng. Được một lúc, cô cười bảo:

- Muội cho huynh xem hai thứ!

- Thứ gì?

Hiểu Sương huýt một tiếng, cây lá trong rừng khua xào xạc, một cái bóng vàng từ trên cây lướt xuống, kêu nhí nhách nhảy vào lòng cô, hiện nguyên hình một con khỉ nhỏ xíu.

Lương Tiêu cười vang:

- Kim Linh Nhi!

Hiểu Sương gật đầu tủm tỉm. Kim Linh Nhi láo liên đôi mắt rực lửa nhìn Lương Tiêu. Gã xoa cái đầu bé con mềm mượt như nhung ấy, nhưng nó rụt lại, rúc sâu vào lòng Hiểu Sương.

Lương Tiêu lộ vẻ chán nản:

- Con khỉ này không nhận ra ta rồi!

- Không ngại, hai ba hôm nữa là nó quen huynh thôi…

Thình lình có tiếng sủa oăng oăng, một con chó lông trắng xộc đến. Lương Tiêu ngây người, con chó nhảy cẫng lên, vui vẻ nhào vào lòng gã, sủa điếc cả tai. Lương Tiêu ôm chặt lấy nó, mắt thoáng ướt, lẩm bẩm:

- Bạch Si Nhi, Bạch Si Nhi…

Con chó lông trắng chính là con cún mà Lương Tiêu thu nhặt hồi nhỏ, bây giờ đã lớn bổng, lưng dài eo thon. Xa cách lâu là thế, bề ngoài Lương Tiêu lại khác trước rất nhiều, nhưng nhờ ghi nhớ mùi riêng nên Bạch Si Nhi vẫn nhận ra cậu chủ, rúc ngay vào lòng gã không một thoáng băn khoăn. Lương Tiêu vuốt cái đầu mượt của con chó, thở dài:

- Bắt muội nuôi nấng nó ngần ấy năm, thật vất vả cho muội!

Hiểu Sương mỉm cười:

- Không nuôi sao được? Nó là chó của huynh, muội trông thấy nó cũng như trông thấy huynh mà.

Lương Tiêu phì cười:

- Gớm chưa, muội nói kháy để mắng xéo ta là chó cún đấy à?

Hiểu Sương hoảng hồn biện bạch:

- Đâu? Muội không dám có ý đó…

Lương Tiêu vội vỗ về:

- Ta đùa với muội thôi.

Hiểu Sương nghe vậy mới bình tâm, im lặng nhìn xuống.

Lương Tiêu nhớ lại bao nhiêu chuyện đã xảy ra sau khi mình rời Thiên Cơ cung, bất giác thở dài:

- Nói cho đúng, làm Bạch Si Nhi có khi lại hay cơ đấy, vì được ở mãi bên muội, chẳng phải đi đâu hết!

Hiểu Sương vốn không hiểu nguồn cơn lời cảm thán của Lương Tiêu nên nghĩ chệch theo hướng khác. Tim đập thình thình, hai má nóng bừng, cô thở dài:

- Muội… muội cũng nghĩ như vậy. Thật may trời vẫn còn thương, phù hộ cho muội gặp lại huynh. Muội mừng lắm.

Lương Tiêu vốn định hỏi: “Muội cũng muốn ta làm chó cún ấy à?”, nhưng sợ cô ngây ngô hiểu sai ý mình, bèn mỉm cười, không nói gì thêm nữa.

[1] Thần y trong rừng hạnh.

[2] Con giun có râu bằng thịt.


Lương Tiêu và Hiểu Sương đi theo Ngô Thường Thanh, vừa chậm rãi bước vừa nói chuyện. Con đường dẫn họ xuyên qua rừng hạnh, tiến vào một sơn cốc nhỏ bé, nơi đây có một căn nhà ngói ba gian, trong nhà có hai nữ tì đang chuẩn bị cơm nước.

Cả ba ngồi chưa ấm chỗ, đằng xa chợt vẳng tới tiếng gọi lanh lảnh:

- Ngô tiên sinh!

Ngô Thường Thanh hỏi vọng ra:

- Thích phu nhân đấy à?

Thay lời đáp, bà lão tóc bạc ban nãy rẽ cây cối lướt tới, chỉ khẽ phất tay áo là đã băng vào giữa sảnh. Ngô Thường Thanh cười hỏi:

- Không đuổi kịp à?

Bà già cằn nhằn:

- Chân cẳng ông ấy nhanh nhẹn quá, tôi đành bảo Hải Vũ gắng bám theo đằng sau, tránh để mất giấu vết. – Đoạn nhìn sang Hiểu Sương và Lương Tiêu, bà mỉm cười. – Lão thân là Lăng Thủy Nguyệt, dám hỏi cao danh quý tính của hai vị?

Hiểu Sương tự giới thiệu xong, Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ mừng rỡ:

- Tình cờ thật, con gái Sương Quân đây mà!

Hiểu Sương ngạc nhiên hỏi:

- Bà quen mẹ con ạ?

Lăng Thủy Nguyệt mỉm cười:

- Ta họ Lăng, mẹ con cũng họ Lăng, liệu có quen không nào?

Hiểu Sương ngớ người, rồi sực nhớ, cô hoan hỉ nói:

- Bà… bà là cô cô của mẹ con?

Lăng Thủy Nguyệt vui vẻ gật đầu, kéo cô gái vào lòng, vung tay mô tả:

- Hồi ta gặp lần đầu, con mới bằng chừng này. Ngoảnh đi ngoảnh lại mười mấy năm, tiểu hài nhi lớn bổng thành thiếu nữ tự bao giờ rồi!

Hiểu Sương nhoẻn cười:

- Mẹ con vẫn nhắc tới bà luôn!

Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ âu sầu, chép miệng:

- Cơ khổ, mấy năm nay bận bịu con cháu đến nỗi chẳng thăm hỏi được họ hàng!

Bà lại hỏi Hiểu Sương về tình hình gần đây của cha mẹ cô, Hiểu Sương ngần ngừ một lúc rồi đáp chung chung:

- Ổn cả bà ạ!

Lăng Thủy Nguyệt hỏi thêm:

- Bà con vẫn khỏe chứ? Ông nội về chưa?

Hiểu Sương ngơ ngác:

- Ông nội con… mất lâu rồi mà bà.

Lăng Thủy Nguyệt ngớ người, nhưng mau chóng gật đầu:

- Ờ, chết cho êm chuyện.

Hiểu Sương nghĩ bụng: “Vì sao bà bà lại nói như thế nhỉ?”. Được cái tính tình dịu dàng khoan hòa, tuy không bằng lòng, cô cũng không để bụng.

Lương Tiêu nghe là hiểu Lăng Thủy Nguyệt muốn ám chỉ điều gì, bụng bảo dạ: “Chắc Hoa Vô Xuy căm giận Công Dương Vũ lắm mới nói thác rằng ông đã chết, đủ thấy phu thê tình nghĩa đến đâu cũng có khi trở mặt thành thù. May sao cha mẹ ta lại yêu thương nhau thắm thiết vô cùng. Ngẫm cho kỹ cũng là nhờ cha độ lượng, biết nhường nhịn, chứ mẹ thì tính khí thất thường, vui đấy rồi giận ngay được, nhưng mà sau mỗi lần làm lành, cha mẹ lại âu yếm hòa thuận hơn nhiều”. Gã bần thần nghĩ tới song thân, lòng không khỏi buồn rầu thương nhớ.

Lăng Thủy Nguyệt vẫn còn nhiều nghi vấn trong lòng, nhưng thấy chưa phải lúc tìm hiểu cặn kẽ bèn tạm thời gác sang một bên, vòng tay hỏi Lương Tiêu:

- Vị tiểu ca đây xưng hô thế nào nhỉ?

Lương Tiêu cũng đáp lễ thưa lên. Quần áo gã rách rưới nhem nhuốc nhưng tác phong đường hoàng ung dung, Lăng Thủy Nguyệt khen thầm: “Còn trẻ thế mà đã có thể đấu tay đôi ngang ngửa với Thiên Phong, quả thật khó tin! Ta chôn chân ngoài biển ngần ấy năm, ngờ đâu trong trung nguyên bỗng nảy ra một nhân tài nhường này!”. Bà mỉm cười:

- Thứ cho ta mạo muội, vì sao Lương tiểu ca lại động thủ với ngoại tử[1]?

Lương Tiêu hỏi:

- Bà là phu nhân của ông ấy à? Ông ấy đúng là Thích Thiên Phong chứ?

- Phải, ngoại tử chính là Thích Thiên Phong, ta và hài nhi Thích Hải Vũ vào trung nguyên chuyến này cốt để tìm ông ấy.

Lương Tiêu gật đầu, kể rõ họ gặp gỡ ra sao và cớ gì gã đưa Thích Thiên Phong đi trị bệnh, nhưng bỏ qua không nhắc đến trận đại chiến bên sông Tiền Đường và nguyên nhân phiêu bạt đó đây của mình.

Lăng Thủy Nguyệt hình dung cảnh trượng phu bộ dạng thất thểu lang thang đầu đường xó chợ, ắt là khổ lắm, phu phụ nghĩa nặng tình sâu, càng nghĩ càng thương xót, lệ châu lã chã. Hiểu Sương giở khăn tay chậm nước mắt cho bà:

- Bà đừng lo, con đã bắt mạch cho Phong công công, mạch tượng bình thường. Sư phụ cũng bảo là công công không bệnh tật gì cả.

Lăng Thủy Nguyệt yên yên dạ, nhìn Ngô Thường Thanh ra ý dò hỏi. Lão béo mân mê chòm râu ngắn, trầm ngâm nói:

- Kẻ nào thần trí bất ổn thì ánh mắt lơ láo khác hẳn mắt người thường, nhưng theo ta quan sát, ánh mắt hắn chẳng có gì khác lạ cả.

Lương Tiêu gợi ý:

- Liệu có phải bệnh đãng trí chăng?

Ngô Thường Thanh lắc đầu:

- Chỉ khi nào lao tâm lao lực quá độ hoặc thiếu ngủ dài ngày dẫn đến mệt mỏi, máu không dẫn được lên não thì người ta mới bị đãng trí. Triệu chứng là cử chỉ chậm chạp, tinh thần uể oải mệt mỏi, nói trước quên sau. – Nhớ lại mình vừa bị Thích Thiên Phong biến thành quả bóng bất đắc dĩ, lão trợn mắt căm giận. – Thích lão đầu mặt mày hồng hào, huyết khí sung mãn, tính khí lại bộc tuệch thô lỗ, lấy đâu ra cơ hội mắc thứ bệnh cao nhã như vậy…

Lăng Thủy Nguyệt thất vọng nghĩ thầm: “Đến Ác Hoa Đà cũng không nhận ra gốc bệnh của Thiên Phong, biết làm thế nào bây giờ?”. Lương Tiêu xoa cằm:

- Tôi có một giả thuyết.

Ngô Thường Thành ghé mắt trông ngang, vẻ mặt khinh bỉ. Bắt gặp cái nhìn ấy, Lương Tiêu đâm ngại. Nghĩ rằng không nên giở trò múa rìu qua mắt thợ trước bậc thần y này, gã im bặt. Hiểu Sương khuyến khích:

- Có nhận xét gì, huynh cứ nói thử xem sao!

Lương Tiêu bạo dạn trình bày:

- Theo tôi, Thích tiền bối cố ý muốn lãng quên chuyện cũ!

Lăng Thủy Nguyệt và Hoa Hiểu Sương chưa kịp hỏi rõ, Ngô Thường Thanh đã bác ngay:

- Vô lý! Chỉ phán bừa!

Lương Tiêu nói:

- Nghe qua tưởng chừng hoang đường, nhưng thực tế có trường hợp ấy đấy, vì chính bản thân tôi đã trải nghiệm rồi. Trước đây khi làm toán, tôi chẳng nghĩ gì ngoài toán hết, đôi khi còn mê mải đến mức xao lãng cả ăn uống bài tiết. Về sau luyện võ, tới lúc tập trung tinh thần cao độ thì tôi lại quên bẵng toán thuật. Nói chung, nếu quá chú tâm vào một việc gì đó, người ta thường gạt hết những việc khác ra khỏi đầu.

Ngô Thường Thanh ngẩn ngơ tự nhủ: “Hắn phân tích, kể ra không phải hoàn toàn vô lý. Trước đây học y, quả có lúc ta cũng say mê đến độ quên hết tất cả thật”.

Lăng Thủy Nguyệt cau mày:

- Giả thuyết của Lương tiểu ca gợi ta nhớ ra một điều. Đích xác có lần Thiên Phong tâm sự rằng muốn quên hẳn mọi pho võ công lĩnh hội lúc trước. Lẽ nào ông ấy đã làm được, nhưng không chỉ quên võ công mà còn quên luôn cả bản thân mình?

Lương Tiêu lắc đầu cười:

- Thích Thiên Phong từng thổ lộ với tôi: “Ta quên tiệt mọi thứ, nhưng bà lão thì không được phép quên”. Vừa rồi gặp bà, ông ấy chạy, đủ thấy ông vẫn còn nhớ bà.

Lăng Thủy Nguyệt lộ vẻ mừng, thầm nhủ: “Lão già chết rấp vẫn còn đôi chút lương tâm, không uổng công ta bôn ba tìm kiếm”. Lương Tiêu nói tiếp:

- Thích Thiên Phong còn kể, bà mà tìm ra là sẽ bắt ông ấy về, mà đã về rồi thì ông không thể đánh nhau với ai được nữa.

Lăng Thủy Nguyệt thẫn thờ hồi lâu, cuối cùng thở dài bùi ngùi:

- Đại khái là ta đã hiểu. – đoạn vòng tay nói. – Tiểu ca đối đãi tử tế với Thiên Phong, còn quan tâm đưa ông ấy đi chữa bệnh. Ơn đức này, già trẻ lớn bé của đảo Linh Ngao trọn đời không quên.

Lương Tiêu xua tay:

- Phu nhân đừng nói thế! Võ công ông ấy cao quá, lại kiềm chế gắt gao khiến tôi không sao thoát thân được. Tôi dẫn ông tới đây, coi như ích cho người mà mình cũng được lợi thôi.

Nghe giọng Lương Tiêu khảng khái, Lăng Thủy Nguyệt sinh thiện cảm: “Tuổi còn trẻ mà khí phách lạ lùng!”. Ngô Thường Thanh hỏi:

- Bà vừa nói “đã hiểu”, cụ thể thế nào? Hé lộ cho ta biết đi!

Lăng Thủy Nguyệt thở dài:

- Để cho rõ ràng, có lẽ nên bắt đầu từ chuyện ba mươi bảy năm về trước.

- Ba mươi bảy năm về trước? Chắc là cái hồi hắn chân ướt chân ráo vào trung nguyên, dạo ông bà chưa thành thân đúng không?

Lăng Thủy Nguyệt hơi đỏ mặt, lườm Ngô Thường Thanh:

- Ông nhắc đến Thiên Phong thì nói mình Thiên Phong là được rồi, cơn cớ gì ràng tôi vào đó?

Ngô Thường Thanh chỉ cười khà khà. Lăng Thủy Nguyệt kể:

- Đảo chủ các đời ở Linh Ngao đều hiếu võ, ai cũng tìm trăm phương ngàn kế góp nhặt các pho võ công khắp mọi vùng miền, vẽ thành đồ phổ đem về cất giữ trong đảo, truyền đến ngoại tử là đời thứ mười hai. Nói lại mang tiếng chồng hát vợ khen hay, nhưng quả thật trời sinh Thiên Phong thông minh dĩnh ngộ, bảo là kỳ tài chưa từng có ở đảo Linh Ngao kể cũng không quá, bất luận loại võ công nào ông ấy cũng học được, mà học đến mức uyên thâm tinh thục kia! Năm mười bảy tuổi, bản lĩnh của Thiên Phong đã hơn hẳn đảo chủ các đời, không một tiền nhân nào theo kịp. Sau khi luyện xong mọi pho võ công đang cất giữ trên đảo, ngoại tử tự xưng “Chí tôn Đông Hải, võ khố Linh Ngao”, lần lượt đánh bại cao thủ dị sĩ ở bốn mươi chín đảo khác trên biển Đông, vậy mà còn chưa thỏa mãn, lại dong buồm vượt sóng vào trung thổ, đem tài năng đi thi thố, khuất phục các anh hùng trong thiên hạ.

Lương Tiêu tán thưởng:

- Chí khí ghê gớm thật!

Lăng Thủy Nguyệt lắc đầu:

- Chí khí cũng khá, nhưng khả năng tự lượng kém lắm. Thời kỳ đầu, ngoại tử đi một mạch về phía tây, không gặp được địch thủ thì chớ, lại toàn kết giao với những hạng tiểu nhân, nghe chúng phỉnh phờ tâng bốc mãi, tuổi còn trẻ, thiếu từng trải, kết quả không tránh khỏi là càng lúc càng tự mãn. Một ngày kia, sau khi đánh bại các cao tăng Thiếu Lâm tự, Thiên Phong đi vòng sang Tây An phủ. Vùng này có một đại hiệp nổi danh về dùng kiếm, bản lĩnh xuất thần nhập hóa, được giang hồ tôn xưng là Trung Châu vô địch. Đang lứa ngựa non háu đá, nghe đến hai chữ “vô địch” đâm ngứa ngáy, Thiên Phong liền tìm đến tận nhà vị đại hiệp nọ để khiêu chiến. Nào ngờ vị ấy tuổi đã cao, hối hận về những hành động giết chóc của mình thời còn tung hoành giang hồ nên dốc lòng thờ Phật, giao phó hết việc đời cho hai con trai xử lý. Hai người con đã nghe đến danh ngoại tử từ lâu, nay gặp ông ấy thì tiếp đãi rất niềm nở kính cẩn, đoạn thưa lên rằng phụ thân họ đã rửa tay gác kiếm, không muốn giao đấu với ai nữa. Ngoại tử đời nào chấp nhận, bèn bảo: “Lão ta không đấu thì các ngươi đấu”. Rồi chẳng đợi họ phân trần điều hơn lẽ thiệt, ông lập tức bẻ hai tay con nhà người ta, cảnh cáo: “Cha các ngươi mà cứ ở tịt trong ấy, ta sẽ bẻ nốt cả hai chân”. Thuở ấy Thiên Phong còn ít tuổi, tính tình hung hăng, hành động táo tợn, đã nói là làm, thấy vị đại hiệp Trung Châu kia vẫn ru rú đằng nhà sau, ông tiếp tục bẻ gãy chân hai người con…

Lương Tiêu nóng ran cả mặt, nghĩ thầm: “Ít tuổi, tính tình hung hăng, hành động táo tợn, đã nói là làm, chẳng phải đang trách ta đấy ư?”. Càng ngẫm càng thấm thía, gã không nén được tiếng thở dài. Lăng Thủy Nguyệt tưởng Lương Tiêu bất bình với hành động của Thích Thiên Phong, cũng ngậm ngùi:

- Đại hiệp Trung Châu vẫn không lộ diện, ngoại tử sốt ruột nên sinh ác tâm, bèn dọa sẽ phóng hỏa đốt nhà. Tới lúc đó thì ông lão kia đành phải ra mặt. Thiên Phong tự đắc, sửa soạn xuất thủ. Thình lình có người rao sau lưng: “Vốn hai bàn tay trắng, chỉ trông vào hóa duyên”. Tiếng rao rền như chuông làm rung chuyển cả mái ngói. Ngoại tử giật mình ngoái đầu nhìn thì bắt gặp một nhà sư trẻ tuổi, vóc dạc cao lớn dị thường, một tay cầm hồ lô, tay kia chống cây gậy đen nhánh.

Lương Tiêu bật cười:

- Khéo nhỉ, Cửu Như đến rồi!

Lăng Thủy Nguyệt ngạc nhiên:

- Đúng, đó chính là Cửu Như thiền sư, sao túc hạ biết?

Ngô Thường Thanh lé mắt nhìn Lương Tiêu:

- Ngươi đã gặp con lừa trọc ấy rồi à?

Lương Tiêu mỉm cười:

- Không chỉ “đã gặp”, tôi còn uống rượu, ăn thịt chó với ông ta nữa kia!

Ngô Thường Thanh bực bội lẩm bẩm:

- Cái đồ lừa trọc, làm hư cả trẻ con!

Hiểu Sương bưng miệng khúc khích:

- Sư phụ ơi, Tiêu ca ca đâu còn là trẻ con!

Ngô Thường Thanh cười nhạt:

- Ngươi thì tất nhiên là mong hắn lớn mau lớn mau, để còn…

Hiểu Sương vội giơ tay bịt đôi môi chè bè của lão béo, cuống quýt kêu van: “Sư phụ, sư phụ!”. Ngô Thường Thanh hứ một tiếng, bỏ lửng không nói nữa.

Lăng Thủy Nguyệt nhìn từ Lương Tiêu sang Hiểu Sương một lượt là hiểu ngay sự tình, tủm tỉm cười rồi kể tiếp:

- Dứt tiếng rao khiến mọi người chấn động ấy, nhà sư bước vào sảnh, đến thẳng chỗ vị đại hiệp Trung Châu để hóa duyên. Đại hiệp già một lòng hướng Phật, đang lúc nước sôi lửa bỏng mà cũng không nề hà thoái thác, lập tức gọi người dọn cơm chay. (Lương Tiêu nghĩ bụng: “Ăn chay thì đâu phải là Cửu Như nữa!”). Nào ngờ nhà sư từ chối: “Bần tăng xưa rày chỉ ăn mặn, nếu thí chủ thu xếp được chút rượu thịt thì hay hơn”. Nghe những lời tiết mạn Phật tổ như thế, vị đại hiệp Trung Châu rất sửng sốt. Ngoại tử sốt ruột vì bị kẻ thứ ba thò mũi vào cản trở công việc của mình, bèn nhoài tới trước đập tay lên vai Cửu Như, định bảo ông ấy tránh ra. Cửu Như chẳng hề ngoái đầu, chỉ hơi rùn vai trái rồi huých ngược lên, vậy mà khiến ngoại tử chới với gần như ngã ngửa. Tung hoành trung thổ bao lâu hầu như chưa gặp địch thủ, đâu ngờ đến đây lại không đỡ nổi một cú huých vai, ngoại tử kinh hãi tới bực nào, hẳn rằng khỏi nói các vị cũng biết. Qua cơn sửng sốt ban đầu, ông ấy nôn nóng muốn ra tay, Cửu Như bèn thủng thẳng bảo: “Vội gì, đợi ta tợp ngụm rượu đã nào!”. Ngoại tử không chịu, cứ sùng sục đòi so tài cao hạ, Cửu Như cười nói: “Ta uống được chừng nào rượu thì khỏe lên chừng ấy, bây giờ trong mình chưa có nổi một nửa sức lực thông thường. Ngươi tự xưng là “chí bâu mông phải, tuột khố ho lao”, danh hiệu oai thế, đừng nên tìm cách ăn gian chiếm phần lợi thế so với bần tăng mới đúng! – Kể đến đây, Lăng Thủy Nguyệt không kìm được bật cười.

Hiểu Sương hỏi:

- Chí bâu mông phải, tuột khố ho lao là gì ạ?

Lương Tiêu cố nén cười:

- Tại Thích đảo chủ tự xưng danh hiệu “chí tôn Đông Hải, võ khố Linh Ngao” mà!

Hiểu Sương vẫn ngơ ngác, Lương Tiêu định giải thích, Lăng Thủy Nguyệt bèn đỡ lời:

- Hòa thượng chửi tục đó, con không cần hỏi kỹ! Ngoại tử kinh ngạc vô cùng, nhưng vốn tự phụ nên cũng ngừng thúc ép, để yên cho Cửu Như ăn uống. Vị Trung Châu đại hiệp từng trải chuyện đời, hiểu rằng hòa thượng cố tình muốn phá ngang dự định của Thiên Phong. Ông cũng biết bản thân mình địch không nổi kẻ thách đấu trẻ tuổi kia, nay thấy cứu viện đến thì làm gì chẳng mừng, bèn hô người nhà bưng hết mâm cao đến cỗ đầy ra khoản đãi nhà sư. Cửu Như không hề làm khách, cứ tự nhiên ăn uống nhồm nhoàm trước mặt mọi người, tu sạch ba mươi cân rượu mới ợ một cái ra ý đã no, đoạn than thở: “Bần tăng ăn thịt uống rượu, tiết mạn Phật tổ, thật không nên không phải”. Thấy nhà sư đã đánh chén chán chê mới thở ra cái giọng ấy, ai nấy đều dở khóc dở cười. Cửu Như dàu dàu nét mặt, nói với đại hiệp: “Ta hổ thẹn lắm lắm, may ra chỉ có chết mới rửa hết tội, nay muốn được vãng sinh ở chỗ thí chủ đây”. Theo ngôn ngữ Phật giáo, vãng sinh tức là chết, là viên tịch đấy. Mọi người đều ngạc nhiên, ngoại tử càng không tin, bèn châm chọc: “Muốn vãng sinh hả? Ta dùng chưởng này tiễn ngươi đi một quãng nhớ!”. Cửu Như mỉm cười: “Vãng sinh là phải tự thân giải thoát, giống như võ sĩ tuẫn tiết, làm gì có chuyện nhờ tay người ngoài. Lâu nay nghe đồn các đảo chủ Linh Ngao đều sùng tín Phật pháp, chúa đảo đời đầu còn xuống tóc làm sư, bước chân vào cửa thiền, vì vậy mới bỏ họ cũ, đặt họ theo đức Thích Ca. Tại sao thí chủ bất chấp di ý của tổ tiên, ngăn cản lý tưởng thành Phật của bần tăng?”. Trên đời ít người biết nguồn gốc của đảo Linh Ngao, và số người nói được cặn kẽ như Cửu Như lại còn hiếm hoi hơn nữa, ngoại tử cố nhiên rất kinh ngạc, không muốn thuận theo lời hòa thượng nhưng cũng không nghĩ ra câu gì để phản bác. Cửu Như quay sang hỏi vị đại hiệp già: “Ông dốc lòng hướng Phật, nhất định thuộc rất nhiều giai thoại sân thiền, dám hỏi có hòa thượng nào ngồi xếp bằng để vãng sinh không?”. Đại hiệp đáp: “Nhiều lắm!”. Cửu Như hỏi tiếp: “Thế đứng thì sao?”. Đại hiệp đáp: “Cũng kha khá!”. Cửu Như lại hỏi: “Còn trồng cây chuối?”. Đại hiệp cau trán nghĩ ngợi hồi lâu mới đáp: “Tiểu lão chưa nghe nói đến bao giờ cả!”. Cửu Như phấn khởi: “Hay lắm, vậy ta trồng cây chuối vãng sinh!”, đoạn chống hai tay xuống đất, lộn ngược chân lên trời, toàn thân thẳng đứng không cựa quậy.

Hiểu Sương ngạc nhiên hỏi:

- Tính mệnh là đáng quý, hòa thượng còn trẻ như vậy, vì sao lại nghĩ quẩn chứ?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Còn lâu ông ta mới nghĩ quẩn, giả vờ bày trò đấy thôi.

Hiểu Sương mừng rỡ nói:

- Thế thì tốt rồi! – Chừng vẫn chưa yên tâm về sự sống chết của Cửu Như, cô sốt sắng hỏi Lăng Thủy Nguyệt. – Sau đó mọi việc thế nào hở bà?

Lăng Thủy Nguyệt rất đẹp lòng: “Con bé tốt bụng thật”. Bà mỉm cười tiếp:

- Nhìn bộ dạng Cửu Như, đầu chúi xuống đất chân chổng lên trời, hai tay thọc xuống nền nhà sâu đến nửa thước như ăn khoan vào đấy, ai cũng sửng sốt, đều tưởng là y đã vãng sinh. Vị đại hiệp Trung Châu buồn bã sai gia nhân di chuyển thi thể đi chỗ khác, ngặt nỗi mọi người cùng xúm vào mà vẫn không sao làm nhà sư nhúc nhích được. Đại hiệp già kinh ngạc quá đỗi, tự tay đến đẩy cũng chỉ như chuồn chuồn lay cột đá. Đám người nhà phát hoảng, tưởng đâu Phật tổ hiển linh, ai nấy lâm râm niệm Phật rồi lũ lượt quỳ xuống. Ngoại tử ngờ vực đầy một bụng, bèn đi lại gần, vận toàn bộ công lực đẩy ra ba chưởng. Sức mạnh của ba chưởng này có thể đánh bật gốc một cây đại thụ, nào ngờ vẫn không lay chuyển nổi nhà sư. Ngoại tử kinh hãi vô cùng, sững sờ đứng lặng hồi lâu. Thình lình Cửu Như cười ha hả, lật mình xuôi lại như cũ. Chung quanh ai nấy đều ngạc nhiên, ngoại tử còn ngạc nhiên hơn hết thảy: “Con lừa trọc, ra là ngươi lừa đảo à?”. Vừa nói, vừa nhớ lại ba chưởng vô hiệu vừa rồi của mình, ông ấy đâm chợn. Vị kiếm khách già cũng trách cứ: “Đại sư giả chết làm lão phu sợ hãi quá chừng”. Cửu Như cười nói: “Chết vốn là giả, xà rầm kèo cột trong căn nhà này là giả, ngay cả ông, ta, bọn họ cho chí trời đất nhật nguyệt và chúng sinh trong thiên hạ cũng đều là hình trong gương, là mộng ảo tuốt. Thật là giả, mà giả cũng là thật, hà tất khăng khăng rạch ròi?”. Vị đại hiệp Trung Châu nghe những lời ấy bỗng dưng tỉnh ngộ, chắp tay đáp: “Thiện tai, thiện tai!”, rồi vuốt song chưởng lên đỉnh đầu, toàn bộ mái tóc bạc đều rụng hết, đoạn cười vang với Cửu Như rồi cả hai dắt tay nhau đi đâu mất hút.

Ngô Thường Thanh lầm lì nói:

- Chuyện này được lưu truyền khá rộng rãi trên giang hồ, thiên hạ cứ bàn tán xôn xao mỗi người một thuyết, hóa ra chân tướng là như vậy. Lão lừa trọc thường làm ra vẻ thần bí, nhưng kể cũng có chút bản lĩnh thần thông nhỉ!

Lăng Thủy Nguyệt gật đầu:

- Bản lĩnh của Cửu Như chính là môn công phu Đại kim cương thần lực thi triển hôm ấy đấy. Rời Tây An, Thiên Phong dẹp hẳn thói ngạo mạn, quay ngay về đảo Linh Ngao tu tập. Ông ấy tự biết căn cơ chưa đủ, vì vậy chuyên cần luyện nội công suốt tám năm ròng rã. Đó cũng là khoảng thời gian tôi bước chân vào làm dâu nhà họ Thích và sinh hạ Hải Vũ. Tám năm bền bỉ trôi qua, nhận thấy võ công tiến bộ khá nhiều, tự phụ là mình đã có thể đấu ngang ngửa với Cửu Như, Thiên Phong giấu tôi, rời đảo vượt biển sang Tây, vào trung thổ lần nữa để tìm Cửu Như tái đấu. Chỉ hiềm Cửu Như là một hòa thượng lang bạt, chùa lớn không dung, chùa nhỏ chẳng chứa, ngoại tử kiên nhẫn lùng sục suốt mấy năm trời, khó nhọc lắm mới gặp được ông ấy ở núi Thiên Trụ. Võ công Thiên Phong tuy đã chạm một ngưỡng tiến cảnh mới, nhưng Đại kim cương thần lực của Cửu Như còn tấn tới nhanh hơn. Đôi bên tỉ thí, cuối cùng ngoại tử thua, tất nhiên chưa cam khuất phục, lại quay về đảo khổ công rèn luyện, sau đó còn tìm Cửu Như khiêu chiến mấy lượt nữa, cứ khiêu chiến là thất bại, cứ thất bại lại tái đấu, tính đến nay thua cả thảy bốn lần.

Lăng Thủy Nguyệt kể tới đây, không nén nổi bùi ngùi:

- Ngoại tử tâm cao khí ngạo khác thường, làm sao chịu đựng nổi nỗi nhục nhã như thế. Sau lần thua thứ tư, ông ấy ôm cục hận trở về đảo Linh Ngao, thề độc trước dãy bài vị tổ tiên, nếu không luyện xong Vô tướng thần châm thì quyết không rời đảo nửa bước.

Lương Tiêu xen vào:

- Vô tướng thần châm là thế nào?

- Đó là một môn công phu gia truyền của đảo Linh Ngao, do một tiền bối thời trước ngắm con nhím mà nghĩ ra, vì thế còn có tên là Tiên vị công[2]. Người luyện thành công phu này có thể đẩy nội lực bắn ra từ bất kỳ huyệt đạo nào trên cơ thể, tạo thành những mũi kim vô hình để đả thương đối thủ.

Lương Tiêu hơi tái mặt:

- Võ công độc đáo tới mức ấy, có thể nói là thiên hạ vô song.

Lăng Thủy Nguyệt gật gù:

- Về lý thuyết quả đúng như vậy, nhưng trên đời này, võ công càng trác tuyệt thì càng khó luyện. Ngoài vị tiền bối sáng tạo ra nó, mấy trăm năm nay, chưa có ai trong số các cao thủ của đảo Linh Ngao luyện thành Vô tướng thần châm, thậm chí một vài người gắng gượng quá sức còn dẫn đến tán khí, mất hết công lực, biến thành phế nhân.

Hiểu Sương hãi hùng than:

- Trời, thế thì không luyện là hơn!

Lăng Thủy Nguyệt lắc đầu:

- Chuyện gì Thiên Phong còn nghe ta được, chứ riêng chuyện võ nghệ, ông ấy chẳng để lời khuyên của ai vào tai hết, cứ thế tu tập đêm ngày đến độ quên ngủ quên ăn. Các vị nên biết rằng để luyện thành Vô tướng thần châm thì phải dùng một phương pháp đặc biệt đả thông dần các huyệt đạo toàn thân. Có những điểm rất dễ thông suốt, chẳng hạn các huyệt nằm trên bàn tay, cánh tay, bàn chân, cẳng chân… nhưng cũng có những huyệt rất gian nan như Đản trung, Đan điền, Bách hội, Thiên Phong chật vật mấy năm liền vẫn không làm nó nhúc nhích được mảy may. Xem chừng không bao giờ ông ấy luyện xong Tiên vị công mất, ta bèn nghĩ: thây kệ, cùng lắm ta ở đảo bầu bạn với ông ấy cả đời là được chứ gì…

Bà rơm rớm nước mắt, Hiểu Sương cảm động, khẽ nắm tay bà bóp nhẹ. Lăng Thủy Nguyệt nhìn cô cháu vẻ cảm kích, rồi gắng kiềm chế cảm xúc, kể tiếp:

- Bỗng đâu ba năm trước, Thiên Phong xuất quan, hớn hở như trẻ con. Ông nói đã hiểu ý nghĩa thực sự của Vô tướng thần châm, lại úp mở rằng phải quên hết những pho võ công đã học trước đây đi, một khi tâm trong lòng rỗng là sẽ luyện thành môn công phu này. – Bà ngừng một chút, vừa thương thân vừa hối hận, sa lệ kết luận. – Lúc ấy ta tưởng ngoại tử vui miệng bông đùa, nào ngờ đều là lời nói thật…

Mọi người im lặng. Lương Tiêu cau mày suy nghĩ rất lung, nhưng không lần nổi yếu lĩnh của Vô tướng thần châm. Gã đã từng giao thủ với Công Dương Vũ, Tiêu Thiên Tuyệt và Cửu Như, xét ra thì bản lĩnh Thích Thiên Phong không hề thua kém họ, nếu quả thực lão đã luyện thành Vô tướng thần châm thì e rằng ba cao thủ kia chưa chắc còn địch nổi lão.

Ngô Thường Thanh vuốt râu đăm chiêu:

- Nếu chỉ vì tập võ nhiều quá hóa ngây thì may ra vẫn có cách chữa. Một là, cứ để hắn đánh bại Cửu Như cho thỏa nỗi ấm ức mãn tính kia đi, bệnh chẳng cần thuốc mà tự khỏi. Nhưng cũng phải nói thẳng rằng chưa chắc Thích Thiên Phong đã thắng được con lừa trọc nọ, bởi nguyên việc tìm ra hành tung của cái tay lang bạt đó đã khó lắm rồi. Thứ hai, bà cứ bắt lấy Thích lão đầu, áp giải về đảo, hắn còn nhớ bà, tức thị chưa quên hẳn chuyện cũ. Miễn là hắn còn mang máng một vài hồi ức, sau này hai người sớm chiều bên nhau, hắn muốn rũ bỏ quá khứ cũng chẳng được nào!

Tư lự một hồi, Lăng Thủy Nguyệt đứng dậy thi lễ:

- Đa tạ Ngô tiên sinh chỉ giáo!

Bà rũ nhẹ tay áo, chỉ chớp mắt đã lướt đi xa hai trượng. Hiểu Sương gọi với:

- Bà đi đâu đấy ạ?

Lăng Thủy Nguyệt đáp:

- Nhân lúc ông con chưa đi xa, ta chạy theo bắt ông ấy về. – Câu nói chưa dứt, bóng bà đã biến khỏi tầm nhìn của mọi người.

Lăng Thủy Nguyệt đi thì cũng đã đến giờ cơm. Mấy nữ tì sắp mâm lên. Ba người ăn xong, Lương Tiêu nhấp nhổm định hỏi Hiểu Sương bao nhiêu điều nung nấu trong lòng, ngờ đâu Ngô Thường Thanh lại giục cô gái:

- Tất bật cả ngày mệt rồi, ngủ sớm đi!

Hoa Hiểu Sương không dám trái lời, liếc nhanh Lương Tiêu rồi cúi đầu đi vào phòng. Đợi bóng cô khuất hẳn, Ngô Thường Thanh quay ra cười nhạt:

- Thằng kia lại đây, ta có mấy câu muốn hỏi!

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Việc quái gì ta phải chiều lòng lão?”. Gã nhếch mép vươn vai ngáp:

- Tôi đi đường mấy ngày trời, cũng mệt rũ rồi, muốn đi ngủ sớm.

Ngô Thường Thanh hầm hầm trợn mắt:

- Thôi vậy, ngươi làm ta chán chẳng buồn hỏi cho ra đầu ra đũa nữa. Tóm lại, cái tên xấu bụng sống dai kia, chưa chết thì nên biết đường mà đối xử với Sương nhi cho tử tế.

Lương Tiêu thầm nghĩ: “Chả cần lão phải nhắc!”. Ngô Thường Thanh gọi nữ tì lên, bảo đưa Lương Tiêu vào phòng dành cho khách.

.

Hiểu Sương nằm trên giường rồi mà không sao ngủ được, chỉ những nghĩ đến Lương Tiêu, người cứ say sưa như uống rượu, đầu óc váng vất, tâm trạng hưng phấn cao độ, liên tục tưởng tượng ngày mai gặp gã sẽ nói gì, sẽ làm gì. Băn khoăn trở mình đến tận canh ba, Hiểu Sương mới mơ màng thiếp đi, nhưng chưa được bao lâu thấy mắt choi chói như đã rạng ngày, cô lại choàng tỉnh. Trong phòng đèn đuốc sáng trưng, Lương Tiêu ngồi ghé bên mép giường, mỉm cười nhìn cô.

Hiểu Sương hồi hộp nhỏm dậy, Lương Tiêu bèn giữ lại:

- Cứ nằm yên kẻo cảm lạnh.

Hiểu Sương đành vâng lời ngả xuống như cũ, nhưng toàn thân bứt rứt quá chừng, cái chăn đắp mình tự nhiên nóng sực lên như lò lửa khiến mồ hôi cô tuôn đầm đìa, gương mặt cũng đỏ bừng, cô lắp bắp:

- Tiêu… ca ca sao lại sang đây?

Lương Tiêu nói:

- Ta còn rất nhiều điều muốn hỏi muội nên không ngủ được.

Hiểu Sương mỉm cười:

- Nói gần nói xa chẳng qua nói thật. Huynh hỏi đi, muội mà biết thì sẽ trả lời ngay.

Lương Tiêu phì cười:

- Văn vẻ quá! Muội có còn nhớ, hồi ở Thiên Cơ cung, ta đã hứa với muội điều gì không?

Hiểu Sương thừ người, chợt một tia sáng lóe lên trong trí:

- Đi ngắm mặt trời mọc?

- Muội vẫn còn nhớ? – Lương Tiêu lộ rõ phấn khởi.

Hiểu Sương im lặng tủm tỉm: “Quên sao được, mỗi lời huynh nói muội đều nhớ hết”. Lương Tiêu vui vẻ rủ:

- Đã vậy, nhân lúc trời còn chưa sáng, chúng ta lên núi thôi.

Hiểu Sương háo hức hưởng ứng:

- Được, để muội thay áo.

Lương Tiêu quay lưng lại. Hiểu Sương thay y phục xong, nói: “Ổn rồi!”, và đứng dậy. Lương Tiêu cười bảo:

- Khỏi cần! Trời lạnh sương dày, ta quấn muội trong chăn ẵm lên đó.

Hiểu Sương bối rối ngăn:

- Thôi, thế thì muội thành cái bánh trưng à?

Lương Tiêu gật đầu:

- Đúng, cái bánh trưng có nhân mỹ nữ!

Hiểu Sương cúi mặt lẩm bẩm:

- Muội thì mỹ nữ với ai?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Ta thấy đẹp, tức là mỹ nữ.

Hiểu Sương ngượng ngùng nhìn xuống, lòng tự nhiên thấy vui sướng bàng hoàng.

Lương Tiêu lấy chăn quấn Hiểu Sương thật kín, ôm ra cửa rồi thi triển Thừa phong đạo hải chạy lên đỉnh núi. Gió ù ù bên tai khiến Hiểu Sương tưởng như đang đằng vân giá vũ lên trời, tâm trạng mê man ngây ngất, quên hết tất cả, bất giác thiu thiu ngủ gật.

Đến một lúc, chợt nghe Lương Tiêu nói: “Chắc đây là nơi ngắm mặt trời mọc!”, Hiểu Sương mở choàng mắt. Dưới chân họ chính là biển Đông, mặt nước trải rộng như một tấm màn mờ xám, những ngọn sóng nhấp nhô xô đẩy mãi không ngừng.

Lương Tiêu đặt cô gái xuống. Hai người ngồi bên nhau trên một tảng đá lớn, bốn bề tịch mịch, chỉ có tiếng gió đùa hiu hiu. Mấy lần Lương Tiêu toan cất tiếng, nhưng ngại phá tan bầu không khí tĩnh lặng hiếm có nên lại thôi. Gã không nói, Hiểu Sương cũng im bặt.

Ngồi suông hồi lâu, Lương Tiêu bắt đầu uể oải. Nội công gã thâm hậu, suốt thời gian cầm quân không ăn không ngủ mà vẫn phấn chấn sung sức, lúc này cũng chẳng đến nỗi mệt mỏi mà sao mí mắt cứ trĩu mãi xuống. Gã gắng sức chống lại cơn buồn ngủ, nhưng bất lực. Lần đầu tiên trong đời mới gặp cảnh này là một, đầu óc mê man dần, mặt trời chưa mọc, gã đã thiếp đi.

Xảy đâu một cơn gió lạnh lùa tới, Lương Tiêu sởn gai ốc bừng tỉnh, kinh hoàng kêu lên:

- Hiểu Sương, Hiểu Sương…

Hoa Hiểu Sương ngạc nhiên quay sang:

- Muội đây, huynh gọi gì thế?

Trông thấy cô gái, Lương Tiêu thở phào, đưa tay sờ trán thấy nhơm nhớp toàn mồ hôi lạnh, thắc mắc tự hỏi: “Ta xưa nay vẫn cảnh giác tỉnh táo lắm, sao lần này lại sơ ý như thế nhỉ? Vừa xao lãng một cái mà ngủ ngay được”. Gã ngoảnh trông về phía chân trời, vầng thái dương đã nhô lên hơn nửa, mây đen vẫn nằng nặng chưa tan, trông như cái lòng đỏ trứng nằm giữa bát canh cá mực. Lương Tiêu cảm thấy rất vô vị, bèn quay sang ngắm Hiểu Sương. Cô gái đang dõi mắt ra xa, dáng vẻ chăm chú, gương mặt gầy gò phơn phớt một lớp sáng hồng dịu nhẹ dưới ánh triêu dương. Lương Tiêu ngắm một lúc lại nổi cơn buồn ngủ, bực quá bèn trở tay tát mạnh vào mặt mình.

Hiểu Sương nghe động giật thót:

- Huynh làm gì đấy?

Mặt Lương Tiêu đỏ bừng, nhưng được sắc nắng ngụy trang nên Hiểu Sương không nhận ra. Gã lấp liếm:

- Ta đánh muỗi!

Hiểu Sương ngạc nhiên:

- Lạnh cắt da cắt thịt thế này làm gì có muỗi?

Lương Tiêu không biết đối đáp ra sao, đành cười trừ.

Một lúc phân tâm ấy đã lấy đi mọi hứng thú ngắm mặt trời mọc của Hiểu Sương. Cô bâng quơ nhìn quanh, chợt trông thấy lẻ loi trên vách đá, một chùm tường vi đang rung rinh trong gió sớm, bất giác động lòng ngâm khẽ:

- Đường lệ chi hoa, thiên kỳ phản nhi, khải bất nhĩ tư? Thất thị viễn nhi![3]

Lương Tiêu cau mày:

- Muội nói gì thế, phản nhi viễn nhi là sao?

Hiểu Sương cười:

- Đó là lời của Khổng Tử, ý nghĩa là: đường lệ nở hoa, rung rinh trong gió, phải đâu không nhớ, chỉ hiềm quá xa… – Cô bỗng cúi đầu, khuôn mặt u ám.

- Muội nhớ nhà phải không? – Lương Tiêu hỏi.

Hiểu Sương cay cay mắt, gật đầu. Lương Tiêu nhìn cô đăm đăm:

- Từ hôm qua ta đã thắc mắc, vì sao muội rời bỏ Thiên Cơ cung đến núi Phụ Đường làm đồ đệ của Ngô Thường Thanh?

Hiểu Sương im lặng hồi lâu, cuối cùng thu hết can đảm nhìn Lương Tiêu, giọng tha thiết:

- Muội chỉ kể với mình huynh, huynh đừng nói cho ai khác biết nhé!

Lương Tiêu gật đầu. Hiểu Sương thở dài:

- Cái hôm Minh gia gia bắt huynh đi…

Lương Tiêu cau mặt ngắt lời:

- Vì sao muội vẫn gọi lão ấy là gia gia?

Hiểu Sương đỏ mặt lí nhí:

- Muội, muội quen miệng. Tóm lại là, hôm ấy rất nhiều người đuổi theo cứu huynh, cha này, Dung cô cô này, cả Tần bá bá nữa, để lại một mình muội trong cung. Muội buồn bã và lo lắng quá thể, ngày nào cũng ngong ngóng mọi người đón huynh trở lại. Chừng một tháng trôi qua, cha về, mặt mày u ám. Mặc muội gạn hỏi sự tình, cha chỉ lắc đầu thở dài suốt chứ không hé lộ gì hết. Về sau, rất lâu sau, muội mới nghe Mai Ảnh tỷ nói… huynh đã chết rồi.

Hiểu Sương kể mà nước mắt tuôn rơi. Lương Tiêu nhăn nhó:

- Tại cái lão họ Minh bịa chuyện lừa đảo cả. Ta chết bao giờ? Muội sờ thử xem, ta là người hay ma?

Hiểu Sương cười qua hàng nước mắt:

- Hễ nhớ lại ngày đó là muội muốn khóc. Từ nhỏ tới lớn, chưa bao giờ muội đau đớn đến thế, chỉ chút nữa… là tự vẫn cho xong…

Lương Tiêu cảm động rớm nước mắt, nhưng sợ cô gái trông thấy nên quay ngay mặt đi. Hiểu Sương thở dài:

- Đêm hôm ấy, muội đổ bệnh, cũng may đúng lúc sư phụ đang ở trong cung, nếu không thì bây giờ muội chẳng được gặp huynh nữa đâu. Dạo đó, cha mẹ xích mích thường xuyên, mặt ai cũng lầm lì, hỏi không buồn nói. Một hôm muội giả vờ ngủ mới biết được nguyên do. Thì ra, bà nội muốn cha mẹ sinh cho muội một đệ đệ để sau này còn làm cung chủ.

Lương Tiêu nhăn trán:

- Việc tốt đấy chứ, cớ gì mà cãi vã?

Hiểu Sương lắc đầu:

- Muội cũng không hiểu tường tận. Đại khái theo lời mẹ, cha là kẻ bạc nghĩa bạc tình, dạo mang thai muội, mẹ bị một người đàn bà đánh gần chết, cha thừa sức bắt giữ kẻ đó, nhưng không hiểu sao cuối cùng lại thả cho bà ta đi. Muội chưa bao giờ thấy mẹ phẫn uất như thế, mẹ nói hận cha đến chết, bảo rằng sẽ khiến nhà họ Hoa phải tuyệt đường tử tôn bằng bất cứ giá nào. Bà nội bảo tại mẹ không bằng lòng sinh đệ đệ làm Hoa gia neo chiếc, dẫn đến việc tạo phản của Minh gia gia. Bà dọa nếu mẹ không vâng lời thì bà sẽ phú cho mẹ về nhà ngoại để cha lấy vợ khác. Mẹ tức quá khóc òa lên, cha thì thưa với bà là cha thà chết chứ không bằng lòng lấy ai khác, cha làm khổ mẹ là quá lắm rồi, không muốn để lụy cho người đàn bà nào nữa.

Lương Tiêu đã từng nghe Minh Quy thuật lại cuộc tình duyên trắc trở giữa Hoa Thanh Uyên và Hàn Ngưng Tử nên không ngạc nhiên gì trước câu chuyện của Hiểu Sương. Gã lặng lẽ gật đầu: “Ta vẫn coi thường Hoa đại thúc ở chỗ ban đầu không cứng rắn bảo vệ hạnh phúc, nhưng lần này phải thừa nhận ông ấy có cốt khí, dám khăng khăng cưỡng lệnh mẹ, không đồng ý bỏ vợ cũ để lấy vợ mới”.

Hoa Hiểu Sương thở dài:

- Tóm lại, bà tìm đủ mọi cách từ mềm dẻo đến cứng rắn đều không thể ép cha mẹ thuận theo ý mình, cuối cùng nổi giận, vừa trỏ muội vừa bảo: “Sương Quân, cô nghe cho rõ đây, cô bướng bỉnh không chịu vâng lời, vậy ta sẽ nhốt con bé này lại, ngày nào cô chưa chịu sinh con, ngày đó cô còn chưa được nhìn thấy mặt nó…”.

Lương Tiêu uất nghẹn họng, chỉ muốn chửi thành tiếng, nhưng nể mặt Hiểu Sương nên nén lại, hậm hực nghĩ: “Mụ ấy mà không phải bà của muội, ta đến lật tung cái Thiên Cơ cung lên cho mụ biết tay”.

Hiểu Sương kể tiếp:

- Nói sao làm vậy, bà túm ngay lấy muội. Mẹ muốn bảo vệ muội, nhưng không đấu nổi bà. Vừa lúc ấy sư phụ đến, trách móc bà nội hết lời. Bà bèn nói, đây là chuyện nhà họ Hoa, không khiến người ngoài can thiệp vào. Sư phụ cự ngay: “Không thế được, nó là bệnh nhân của lão p… à, của ta, ai mà động đến bệnh nhân của lão p…, e hèm, của ta thì ta liều mạng với kẻ đó…”.

Lương Tiêu vỗ tay:

- Hả hê thật!

Gã đâm mến Ngô Thường Thanh hẳn lên, cảm thấy chỉ riêng mấy câu này cũng đủ để gã vui lòng nhún nhường với lão rồi. Hoa Hiểu Sương mặt ủ mày chau, dàu dàu kể tiếp:

- Muội thấy người lớn ầm ĩ với nhau như thế, lòng buồn khôn tả, bèn thưa với bà: “Con xin rời khỏi Thiên Cơ cung, cho con lên núi Phụ Đường lạy Ngô gia gia làm sư phụ. Mẹ không sinh em bé, con cũng không về nữa”. Thực ra đã lâu rồi muội vẫn nuôi chí học y thuật, muội mắc bệnh từ nhỏ, trong người lúc nào cũng đau yếu, mỗi lần được Ngô gia gia đến thăm bệnh, muội lại thấy nhẹ nhàng dễ chịu hơn nhiều, vì vậy muội nghĩ, trên đời có rất nhiều người bị bệnh tật hành hạ, chắc cũng sẽ vật vã như muội vậy. Nếu muội học được bản lĩnh của Ngô gia gia thì có thể giúp họ vơi bớt đau đớn. Từ khi có ý ấy, muội đọc rất nhiều sách y, chỗ nào mắc thì hỏi Ngô gia gia. Người cũng chiều lòng chỉ bảo cặn kẽ. Nhưng trước đây mỗi lần muội xin làm đồ đệ, người đều bỏ ngoài tai. – Cô mỉm cười. – Thế mà lần ấy giận bà nội quá, người đồng ý ngay tắp lự, nhận muội làm học trò rồi dẫn muội rời khỏi Thiên Cơ cung đến thẳng núi này.

Hiểu Sương kể rất sơ lược và bình tĩnh, nhưng Lương Tiêu biết cô phải gồng sức lắm mới kìm nén được đau đớn. Gã xót xa nói:

- Muội khổ quá!

Hiểu Sương lắc đầu:

- Khổ gì đâu huynh. Lúc nghe tin huynh chết, muội còn không muốn sống nữa cơ, nếu không nhờ bận học y cứu người mà vợi bớt phiền não, có lẽ muội đã lìa đời rồi. Nhưng thế thật thì nguy thay, vì đâu còn cơ hội để gặp Tiêu ca ca ở kiếp này nữa. – Đôi mắt to bỗng ứa lệ, cô rưng rưng ngước nhìn Lương Tiêu.

Khi mắt họ giao nhau, Lương Tiêu choáng váng như bị nện một chùy vào giữa ngực, gã ngoảnh mặt đi, tim đập cuồng loạn: “Vì sao ánh mắt Hiểu Sương lại giống ánh mắt A Tuyết đến thế, ta nhìn lầm hay sao?”. Gã len lén ngó lại quan sát, khuôn mặt cô gái hình trái xoan khác hẳn khuôn mặt tròn của A Tuyết trước đây, nhưng nét da diết trong mắt thì không mảy may sai khác, từng chút từng chút một, nó đâm vào lòng gã đầy nhức nhối. Gã ngoảnh nhìn vầng triêu dương ở đằng đông, im lìm hồi lâu, tim vẫn đập thình thịch.

Đến khi trời sáng hẳn, hai người mới xuống núi. Dọc đường, Lương Tiêu hái hoa rừng kết thành một cái vành rực rỡ cho Hiểu Sương đội. Cô gái thích thú soi mình xuống nước mỗi khi gặp suối chảy qua.

Rời chân núi, về gần tới rừng hạnh, họ bỗng thấy xa xa thấp thoáng bóng người loạng choạng, cùng nheo mắt nhìn thì nhận ra Quỷ Lỗi Song Sát. Mộc ngẫu sát bê bết máu, Bố đới sát mặt mũi trắng bệch, xem chừng đều bị thương rất nặng.

Bố đới sát trông thấy Lương Tiêu và Hiểu Sương ngay từ xa, bèn gọi: “Bồ tát, Bồ tát…”, rồi lả người ngã ngất. Mộc ngẫu sát đang tựa vào cô ta, cũng ngã nhào theo.

Hiểu Sương hốt hoảng chạy tới, lấy kim châm vẫn mang theo bên mình châm trị cho họ một hồi, giúp Mộc ngẫu sát cầm máu vết thương ở lưng. Bố đới sát cũng lơ mơ tỉnh lại, thều thào:

- Bồ tát… đi trốn mau, có kẻ muốn hại sư phụ người đấy!

Hiểu Sương cả kinh, mặt tái mét. Lương Tiêu điềm tĩnh bảo:

- Quân đến đã có tướng ngăn, nước tràn thì đắp đê chặn. Ngươi khỏi lo, có gì cứ thong thả nói.

Mộc ngẫu sát lắc đầu thở dài:

- Võ công ngươi tuy cao, nhưng đối phương đông lắm, chưa chắc ngươi thắng được đâu!

- Rốt cục là kẻ nào? – Lương Tiêu hỏi.

Mộc ngẫu sát nói:

- Kể ra thì hơi dài dòng. Hôm qua được Bồ tát cứu mạng, ân oán cũng đã giải quyết xong, huynh muội chúng ta tà tà đi lên hướng bắc, định bụng từ đây phiêu bạt giang hồ, dùng nghề múa rối kiếm miếng cơm ăn. Đêm xuống, chúng ta nghỉ ở một quán khách bên đường, vô tình nghe được phòng bên có kẻ bàn luận chuyện Bồ tát cứu người, một giọng ẽo ợt nói rằng Bồ tát là học trò của Ác Hoa Đà Ngô Thường Thanh, còn nói Ác Hoa Đà vi phạm môn quy, thu nạp đệ tử, nhất định là vì… chà, tóm lại toàn những lời rác rưởi của phường hạ lưu. Huynh muội chúng ta chịu đại ơn đại đức của Bồ tát, dẫu thịt nát xương tan cũng khó báo đền, đâu cho phép kẻ khác xúc phạm người như vậy, đang định xông sang thì nghe thấy một giọng eo éo hỏi: “Cuốn Thanh hạnh quyển đó chỉ dẫn phép dưỡng sinh trụ nhan thật à?”. Tên đầu tiên khẳng định: “Đúng vậy, chỉ cần ngày mai bắt lấy Ác Hoa Đà, ép lão giao nộp là được”. Huynh muội chúng ta nghe đến đây thì không nín nhịn nổi nữa, bèn lên tiếng khiêu khích. Không ngờ vừa dứt tiếng thì phòng bên có tiếng hừ mũi, rồi một luồng nội kình quái dị thấm qua vách đất tràn sang. Muội tử ta đứng ngay bên tường, bị luồng nội kình xô trúng, liền ộc máu tươi ngã nhào vào ta, nội kình cũng lập tức thấm vào mình ta, khiến lục phủ ngũ tạng nhộn nhạo cả. Ta hiểu ngay rằng đã gặp phải hạng cao thủ không thể chống cự được, bèn dìu muội tử chạy trốn. Trên ngưỡng cửa phòng bên lập tức nhô ra một đạo sĩ và một Lạt ma. Chiết được hai chiêu thì ta trúng một nhát kiếm của đạo sĩ, con rối cũng bị vòng kim cô của Lạt ma đánh vỡ. May mà trời còn phù hộ, run rủi cho chúng ta thoát được quán trọ, nhờ thông thuộc địa hình nên chạy tới đây ngay trong đêm. Bồ tát ạ, những kẻ đó ghê gớm lắm, người và sư tôn mau mau rời khỏi đây để tránh tai họa giáng xuống đầu.

Mặt Hiểu Sương trắng bệch. Lương Tiêu liếc qua, cười bảo:

- Có ta ở đây, muội sợ cái gì?

Hiểu Sương khổ sở lẩm bẩm:

- Ai mà muốn hãm hại sư phụ muội nhỉ?

Lương Tiêu đã lờ mờ đoán ra thân phận của đối phương, bụng bảo dạ: “Việc này quái lắm, có lẽ nên tạm lánh sóng gió thì hơn”. Gã bảo Quỷ Lỗi Song Sát:

- Đa tạ các ngươi đã báo tin, giờ thì đi đi.

Hai anh em nhìn nhau, Mộc ngẫu sát đề nghị:

- Đối phương bản lĩnh cao cường, chi bằng cứ để huynh muội ta ở lại hỗ trợ.

- Các ngươi đang bị thương, có nấn ná cũng vô ích. Ta sẽ bảo vệ thầy trò cô ấy, các ngươi cứ yên tâm.

Mộc ngẫu sát thở dài:

- Võ công túc hạ cao cường gấp mười lần ta, nhưng đây là hạng cao thủ biết truyền kình cách vách, tốt nhất túc hạ cũng nên cẩn thận một chút.

- Ta hiểu. – Lương Tiêu bình thản đáp.

Hoa Hiểu Sương rút ra một lọ ngọc nhỏ, dốc lấy ba viên thuốc đưa cho Bố đới sát:

- Cô nương trúng âm kình, hãy cầm ba viên Ngọc tủy đan này, mỗi ngày uống một viên với nước. Lệnh huynh tuy mất nhiều máu nhưng nhát kiếm không sâu, tĩnh dưỡng chừng một tháng là ổn thôi!

Bố đới sát tạ từ rồi hai anh em dìu nhau đi.

Lương Tiêu bỗng đảo mắt, gọi vống vào rừng hạnh:

- Mời Ngô tiên sinh ra đây thương nghị!

- Có thấy sư phụ đâu nào? – Hiểu Sương ngạc nhiên.

Trong rừng hạnh có tiếng hừ rõ to, rồi giọng Ngô Thường Thanh mắng xa xả:

- Hai đứa tạp chủng, canh ba nửa đêm dắt nhau đi đâu? Con gái mà không giữ nết, mới tí tuổi đầu đã rúc rích theo trai. Hôm nay lão phu từ mặt, tránh ngày sau ngươi làm bẩn gia phong của lão phu. Cút ngay! Cuốn xéo theo tiểu tử kia mau, đi càng xa càng tốt, đừng để lão phu trông thấy nữa. Trông thấy ngươi là lão phu giận sôi rồi!

Hoa Hiểu Sương sửng sốt, bỗng nhắm nghiền mắt, răng cắn chặt vào nhau, người mềm oặt lả xuống đất. Lương Tiêu hốt hoảng đỡ lấy. Một bóng người loáng lên trong rừng, Ngô Thường Thanh lạch bạch chạy tới, khuôn mặt ảo não, vừa châm kim phục thuốc cho Hiểu Sương vừa lẩm bẩm:

- Khốn thay, sao con ranh lại không thở được thế này?

Lương Tiêu bất bình trách:

- Tại ông mắng chửi thậm tệ quá đấy mà! Dẫu đối thủ ghê gớm tới đâu, ông cũng không nên dùng cách ấy để đuổi Hiểu Sương mới phải.

Ngô Thường Thanh bị nói trúng tim đen, mặt đỏ bừng, ngồi phịch xuống một gốc cây hạnh, vò vò đầu im lặng. Lương Tiêu chưa bao giờ thấy lão bối rối đến vậy, tự dưng chột dạ, định hỏi cho rõ chuyện thì nghe đằng xa vẳng tới tiếng cười ha hả. Sáu bóng người xuất hiện, lững thững đi lại gần. Ngô Thường Thanh tái mặt, nhảy bật dậy. Lương Tiêu quét mắt một vòng, cũng cười ha hả. Sáu người kia tức thì dừng bước, ai nấy đều lộ vẻ sửng sốt.

Lương Tiêu nhìn khắp lượt:

- Đúng là không phải oan gia không đụng độ, chạm mặt rồi mới biết toàn cố nhân. Ha ha, Hỏa Chân Nhân, Cáp Lý Tư, A Than, ba tên đê tiện các ngươi còn chưa chết ư? – đoạn nhìn lão già áo xanh. – Chắc may mắn được cứu nhờ bàn tay tài phép của Tiếu Diêm vương Thường Ninh phải không?

Bọn A Than lần này có chỗ dựa nên khá vững tâm, khoảnh khắc kinh ngạc ban đầu mau chóng trôi qua, thay vào đó là vẻ căm hờn lộ rõ. Cáp Lý Tư cười khẩy:

- Bình chương đại nhân thoát chết trong gang tấc, thật đáng chúc mừng! Chẳng biết sau hôm nay có còn may mắn thế không.

Lương Tiêu mỉm cười im lặng, dừng ánh nhìn ở người đứng cạnh Cáp Lý Tư:

- Hạ Đà La, hai lần tương kiến đều chưa tận hứng, hôm nay phải đãi đằng cho hậu hĩ nhỉ!

Hạ Đà La nhướng hàng mày bạc, cười đáp:

- Bình chương có lệnh, sái gia đâu dám không tuân?

Lương Tiêu nói kháy:

- Hay lắm, vậy ta ra lệnh cho ngươi ăn phân, ngươi có tuân không?

Hạ Đà La công phu hàm dưỡng rất cao mà cũng không khỏi biến sắc, nhất thời nín lặng. Lương Tiêu đưa mắt sang người áo vàng đứng bên Hạ Đà La:

- Minh lão đại, nghe nói ngươi phao tin giả là lão tử đã chết, khiến Hiểu Sương phải đau lòng. Hay lắm, oán mới thù cũ hôm nay gộp vào tính luôn một thể.

Minh Quy nhếch mép, mắt lóe lên, nhìn hết Lương Tiêu lại đến Hiểu Sương.

Lương Tiêu ngoài miệng nói cứng như vậy, thực ra trong lòng lo lắng vô cùng: “Hôm nay sao Thái Tuế chiếu mạng, lành ít dữ nhiều. Một Hạ Đà La đã khó ứng phó, lại thêm năm tên khốn kiếp hỗ trợ, phải làm sao đây?”. Gã suy nghĩ rất lung, vắt óc tìm đối sách.

Ngô Thường Thanh thấy Lương Tiêu đứng trước ngần ấy cường địch mà vẫn thản nhiên như không, thậm chí còn khiến đối phương thấp thỏm thất sắc thì kinh ngạc nghĩ thầm: “Cổ nhân nói chẳng sai: kẻ sĩ không gặp ba ngày đã thấy khác, ta những tưởng tiểu tử này vẫn bồng bột non nớt, nào ngờ bản lĩnh và chín chắn đến thế, một lời nói ra còn nhiều hào khí hơn hẳn thiên quân vạn mã”. Lúc này Hiểu Sương đã tỉnh lại, đoán chừng sáu người kia chính là những kẻ đến uy hiếp sư phụ mình, mặt cô xám xanh hoảng hốt.

Ngô Thường Thanh nghiến răng bảo:

- Tiểu tử họ Lương, ai khiến ngươi nhiễu sự? Ngươi dẫn con ranh biến đi, mình lão phu xử lý là đủ rồi.

Lương Tiêu không đáp. Thường Ninh cười hì hì:

- Sư huynh ơi, mấy chục năm không gặp, huynh giở giói bẳn tính như thế từ bao giờ đấy?

Ngô Thường Thanh nổi cáu:

- Tổ sư ngươi, ai là sư huynh ngươi?

Lương Tiêu vỡ lẽ: “Hóa ra là đồng môn, hèn chi cùng tinh thông y thuật!”. Thường Ninh vẫn nhơn nhơn:

- Huynh không nhận tiểu đệ, nhưng đệ vẫn nhớ mãi những chuyện năm xưa, ha ha, nhớ cái thuở huynh đệ ta cùng thờ một thầy, tình cảm thân thiết biết nhường nào.

Ngô Thường Thanh định mắng xối xả phen nữa, nhưng ngẫm chẳng gì cũng từng là huynh đệ tình thâm, lão không nỡ lòng nặng lời. Thường Ninh thở dài, làm như tiếc hận lắm:

- Huynh đệ chúng ta thương mến nhau biết mấy, tất cả chỉ tại lão già khốn kiếp ưa thói thiên vị. Kể về tư chất thì rõ ràng tiểu đệ thông minh sáng láng hơn hẳn, thế mà lão ta có mắt không tròng, khăng khăng truyền y bát cho một tên béo xấu xí vừa dữ vừa ác.

Ngô Thường Thanh nhổ toẹt một cái:

- Khốn nạn, ngươi tâm địa bất chính, ỷ có tí tài cán trong tay là lừa tiền lừa tình, truyền y bát cho ngươi mới là có mắt không tròng.

- Huynh sao thế nhỉ? Khám bệnh thu tiền là việc chính đáng, chữa trị vất vả tiện thể kiếm dăm ba ả giải khuây cho bớt buồn chán cũng là lẽ đương nhiên. Chi bằng tiểu đệ dẫn tiến vài ả tô hồng chuốt lục cho huynh, bảo đảm sư huynh sẽ nguôi cơn giận, Ác Hoa Đà biến thành Tiếu Hoa Đà như chơi.

Ngô Thường Thanh không phải dạng mồm mép, chưa biết khích bác Thường Ninh bằng lý lẽ gì cho hắn biết đau biết nhục, đành chỉ tức tối giậm chân thình thịch, lôi hết ông bà cha mẹ họ Thường ra mà chửi bới. Thường Ninh chẳng để tâm, vẫn cười rinh rích:

- Mấy năm nay sư huynh có Thiên Cơ cung chống lưng nên nghênh ngang quan dạng lắm, đã mấy lần phái bọn chó săn đến gây khó dễ cho tiểu đệ. Tiểu đệ được quan tâm quá mức như vậy nên cảm kích ghi khắc trong tim, không đời nào quên. Có điều, hết cơn bĩ cực tới tuần thái lai, bây giờ Đại Tống đã sụp đổ, tiểu đệ theo hầu Thoát Hoan đại vương, tư thế khác hẳn khi trước, lũ giẻ rách ở Thiên Cơ cung thì đáng gì! Đệ những muốn đằng thằng tính vốn lẫn lãi suốt mấy chục năm qua với sư huynh, nhưng bản tính nhân hậu, lại niệm tình cũ, chỉ cần sư huynh giao Thanh hạnh quyển ra là hai chúng ta coi như chấm dứt mọi ân oán xưa nay.

Ngô Thường Thanh cả giận gạt phắt:

- Muốn lấy Thanh hạnh quyển ư? Con mẹ ngươi, ngủ mơ giữa ban ngày à?

Thường Ninh tái mặt, láo liên ngó quanh rồi dừng lại ở Hiểu Sương mà cười rằng:

- Chắc đây là sư điệt của ta? Hi, tuy hơi gầy yếu nhưng cũng yêu kiều khả ái. Yên tâm, sư thúc con rất yêu thương lớp hậu sinh, lát nữa sẽ tận tình chăm sóc…

Ngô Thường Thanh mắng um lên:

- Câm ngay cái miệng chó của ngươi lại!

Thường Ninh cười ha hả, định chọc ghẹo thêm nữa, Lương Tiêu bèn lạnh lùng cắt ngang:

- Tên họ Thường kia, ngươi cứ cười đi, lát nữa lão tử sẽ chăm lo sao cho ngươi đau đớn đến khóc cha kêu mẹ.

Thường Ninh ngậm câm, đưa mắt cầu cứu Hạ Đà La, mặt như hóa đá. Hạ Đà La mỉm cười tiến lên một bước, hỏi to:

- Bình chương đại nhân khẩu khí khá lắm, chẳng hay quyền cước ra sao?

Lương Tiêu hừ mũi bước vào vòng đấu, Ngô Thường Thanh nóng nảy quát:

- Tiểu tử thối thây, ta bảo ngươi và con bé cút đi cơ mà!

Thường Ninh cười ha hả:

- Sư huynh bình tĩnh lại nào. Chúng ta hôm nay trùng phùng, cũng nên hòa thuận một chút!

Lão đánh mắt ra hiệu cho đồng bọn rồi lò dò đi lại gần Ngô Thường Thanh và Hoa Hiểu Sương. Lương Tiêu lo cuống, vừa rồi gã nghĩ trăm phương ngàn kế, nhưng vì đối thủ quá mạnh, mọi mưu kế đều không khả thi. Hạ Đà La nhận ra ánh mắt gã hơi rối loạn, đoán hiểu tinh thần không yên, liền giơ song quyền tựa như sắp đấm, nhưng quyền đi nửa chừng, chân trái bất chợt tung lên đá tạt nghiêng như cơn gió về phía Lương Tiêu.

Nhờ chiết chiêu đều đặn với Thích Thiên Phong nên phản ứng của Lương Tiêu bén nhạy lên rất nhiều, Hạ Đà La chưa đá tới nơi, gã đã lạng mình sang phải, chạy thẳng đến chỗ Cáp Lý Tư. Hạ Đà La cũng phải bất ngờ về thân pháp ấy: “Mấy tháng không gặp mà đã tấn tới rõ rệt!”.

Hạ Đà La đoán rằng gã muốn kiềm chế Cáp Lý Tư để uy hiếp mình, bèn lắc người một cái, biến mất, khi hiện thân trở lại thì đã đứng trước mặt Lương Tiêu, tung liên hoàn ba quyền ba cước.

Lương Tiêu vẫn biết Hạ Đà La lợi hại, nhưng chưa va chạm với lộ thân pháp quỷ quái như thế bao giờ. Gã đảo chân tránh được ba quyền hai cước, còn cước thứ ba không né nổi, đành chém thẳng chưởng phải xuống chân hắn. Ngay tắp lự, một luồng nội kình như rắn độc theo cạnh tay gã bò lên rồi luồn lách đi khắp các kinh mạch trong cơ thể. Lương Tiêu ngạt thở, lướt ra xa một trượng, vận liền ba lần nội lực mới hóa giải được thứ kình lực kỳ lạ đó. Không để cho gã kịp thở, Hạ Đà La đã trườn tới, biến mất tăm sau động tác lắc mình, khi hiện hình trở lại thì đã ở sát lưng Lương Tiêu, bắt đầu xoay tít quanh gã theo chiều từ trái sang phải như con rắn cuốn mồi, đồng thời đánh liền ba quyền.

Lương Tiêu né mình tránh được, tức tốc đánh trả một chưởng, kình lực chạm nhau, nội kình lại như độc xà luồn lên kinh mạch. Gã vội vàng đẩy nội công hóa giải, trong lúc ấy Hạ Đà La đã áp sát sau lưng, tung chân đá móc.

Lương Tiêu suýt nữa bị đá trúng, kinh hãi nghĩ bụng: “Trước đây Công Dương tiên sinh có nói với ta về nội công Hỏa xà của tên này, nay được chứng kiến, quả thực danh bất hư truyền. Còn lộ thân pháp nhanh nhẹn thế kia, chưa hiểu nguồn gốc ra sao?”.

Thân pháp của Hạ Đà La tên là Hư không động, do một thuật sĩ xứ Thiên Trúc sáng tạo ra. Nghe đồn Long Thụ thượng nhân, sư tổ phái Mật tông vốn là thuật sĩ tà môn trước khi quy y cửa Phật. Thời trẻ, lão cùng đồng bọn tu luyện thân pháp này để đột nhập hoàng cung, làm ô uế chốn triều đình. Hư không động có thể chuyển hóa toàn bộ nguyên khí trong cơ thể vào thân pháp, đến đi đều như cơn gió, khi chuyển động thì mắt người thường cũng không thể theo kịp. Nhưng cũng vì duyên cớ ấy mà khi chạy, các giác quan đều khép kín, ngưng hoạt động, thân thể yếu ớt, không còn chút sức lực nào để ứng phó với các mũi tấn công từ bên ngoài. Vệ sĩ hoàng cung được cao nhân chỉ giáo nên đã tấn công vào nhược điểm này, họ bịt mắt, chỉ dùng tai nhận tiếng gió để xác định vị trí rồi phóng binh khí tập kích, giết hết đám thích khách. Long Thụ ứng phó nhanh nên thoát được kiếp nạn. Sống sót trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, lão ngộ ra đời người chỉ là mộng ảo, chẳng mấy chốc sẽ qua, bèn bước dần vào Không môn, tham ngộ Phật pháp, trở thành tông sư võ học một thời.

Tổ tiên đời trước của Hạ Đà La làm nghề thương mãi, thời trẻ từng mua bán hương liệu ở Thiên Trúc, tình cờ vớ được một pho tượng Thấp bà bằng gỗ đàn hương, bên trong giấu bộ bí kíp Cổ Du già. Vị tổ tiên ấy bèn luyện tập theo, khi tựu thành, bề ngoài vẫn duy trì việc buôn bán, thực chất toàn dùng võ công để cướp bóc. Tới Hạ Đà La, sau khi tu luyện thành công Cổ Du già, hắn liền vào trung nguyên làm nhiều điều xằng bậy. Nào ngờ trước tiên chạm trán Tiêu Thiên Tuyệt, sau lại đụng độ Cửu Như thiền sư, cả hai lần đều thua liểng xiểng, hắn căm phẫn chạy về Tây Vực, tiếp tục khổ công rèn luyện.

Hạ Đà La nếm mật nằm gai cần cù tu tập suốt mấy chục năm, cuối cùng cũng luyện được Hư không động tới mức rất cao mà các đời trước chưa ai đạt đến. Hắn hiểu Hư không động thần tốc có thừa nhưng biến hóa không đủ linh hoạt, từ động đến tĩnh nhất định phải qua vài lần điều tức lấy hơi, chẳng may gặp tay cao thủ chắc chắn sẽ bị họ lợi dụng sơ hở chế ngự, vì vậy hắn gia giảm một số thay đổi, thứ nhất là biến khinh công đường dài thành di chuyển quãng ngắn cốt giảm bớt thời gian điều hòa hô hấp, thứ hai là phối hợp thi triển cùng Hỏa xà. Hạ Đà La đã tính sẵn, kẻ nào trúng xà kình cũng lập tức vận công hóa giải, nhân lúc đó hắn sẽ thi triển Hư không động để tập kích họ.

Lương Tiêu không biết tất cả những điều đó, đành dùng bộ pháp ứng phó. Thập phương bộ của gã gói gọn sự rộng lớn của trời đất vào một khoảng không gian hạn hẹp, khả năng biến hóa nhờ thế vô cùng phong phú, đặc biệt lại kiến hiệu ở những chỗ vòng, chỗ ngoặt. Hư không động tuy nhanh như cắt nhưng chỉ di chuyển tuyến thẳng, đổi hướng rất bất tiện, vấp phải bộ pháp chữ chi như Thập phương bộ thì khác nào gặp khắc tinh. Chính vì khả năng kiềm chế lẫn nhau của hai thứ thân pháp, trong thời gian ngắn, Lương Tiêu và Hạ Đà La chưa thể phân tài cao hạ.

Minh Quy đứng bên quan sát, lòng không khỏi kinh hãi: “Lương tiểu tử luyện được đến trình độ này tự bao giờ, mai sau khống chế hắn bằng cách nào đây?”. Lão liếc quanh, ánh mắt chợt dừng lại ở Hoa Hiểu Sương.

Trong lúc Lương Tiêu bị Hạ Đà La cầm chân, Thường Ninh hô đồng bọn tản thành hình rẻ quạt khép vòng vây lại gần Hiểu Sương và Ngô Thường Thanh. Họ Ngô bèn bảo:

- Hiểu Sương, con nấp lại sau lưng ta đi!

Hiểu Sương y lời. Minh Quy bỗng cười ré lên, nhảy vút tới như chim ưng bắt mồi, chộp thẳng vào mặt hai người. Ngô Thường Thanh dang hai tay phóng ra mười mũi kim vàng. Minh Quy biến trảo thành chưởng, gạt phăng hết làn kim châm, Hỏa Chân Nhân và Cáp Lý Tư đồng thời chồm tới, một kẻ tát Ngô Thường Thanh, một kẻ chộp Hoa Hiểu Sương.

Ngô Thường Thanh tuy giỏi y thuật nhưng võ công chỉ thường thường bậc trung. Thấy Hỏa Chân Nhân quạt chưởng tới, lão xòe hai tay đón lấy, tức thì toàn thân nóng ran, chệnh choạng ngồi phệt xuống. Hỏa Chân Nhân cười rộ, khum tay phải chụp vào huyệt Thiên đột của Ngô Thường Thanh. Lúc này Cáp Lý Tư cũng đã xáp tới gần Hoa Hiểu Sương, hai tay cùng đẩy ra, điểm vào huyệt đạo của cô. Hắn tự phụ võ công mình chắc chắn chế ngự được cô gái ốm yếu này nên cũng chẳng dồn mấy nả sức.

Hiểu Sương nhẹ nhàng múa song chưởng, hai luồng kình phong như khói như sương quét qua bả vai Cáp Lý Tư khiến cổ tay hắn tê dại. Tên này hiểu ra sai lầm của mình, bèn bỏ ngay tâm thế khinh địch, thần tốc biến chiêu, thình lình một luồng kình phong trút ào xuống lưng hắn. Cáp Lý Tư cảm thấy sống lưng đau như sắp rạn, bèn loạng choạng thoái lui năm bước, lé mắt trông lại thì thấy một bóng xanh nháng lên, Lương Tiêu đã tới.

Lương Tiêu xuất chưởng đả thương Cáp Lý Tư xong, tiếp tục tung cước trái đá xéo vào bẹn Hỏa Chân Nhân. Tên đạo sĩ hự lên, ôm đùi giật lui. Minh Quy gầm vang, phóng chưởng chém tới. Lương Tiêu hô khẽ, khuỳnh tay đỡ, lực đạo rất mạnh đổ sang người Minh Quy, một cảm giác tê dại từ cánh tay lão chạy lan đi toàn thân. Họ Minh lập tức bật người lộn một vòng ra xa, đáp xuống mà ngực trĩu nặng như đá đè. Lương Tiêu mượn chưởng lực của Minh Quy xoay tít mù, ngửa tay đón Đại nhật Như Lai ấn của A Than tôn giả. Thủ ấn va phải hợp lực của Lương Tiêu và Minh Quy, hất A Than ngã văng đi xa đến hơn một trượng, mặt cắt không còn hột máu.

Lương Tiêu dốc toàn lực đánh bại liên tiếp bốn đại cao thủ, không khỏi chống chếnh trong người, hơi thở gấp gáp, đầu óc váng vất. Đúng lúc ấy, Hạ Đà La lắc mình tới sát phía sau, song chưởng uốn éo như rắn độc chuẩn bị mổ vào lưng gã.

Hiểu Sương kinh hãi kêu lên: “Cẩn thận!”. Lương Tiêu không ngoảnh đầu, túm ngay lấy Ngô Thường Thanh đẩy ra sau làm bia chắn. Hạ Đà La hoàn toàn bất ngờ, quýnh quáng thu thế, trừng mắt kinh ngạc nhìn Lương Tiêu.

Thường Ninh nuốt nước bọt một cách khó nhọc, cười khan:

- Sao thế, Bình chương đại nhân bất chấp tính mạng của người mình cơ à?

Hiểu Sương trân trân nhìn Lương Tiêu, miệng he hé, quên cả gạn hỏi. Lương Tiêu cười nhạt:

- Lão tử bình sinh giết người vô số, hơi đâu phân biệt người của mình hay người của chúng nó! Các ngươi muốn Thanh hạnh quyển gì đó phải không? Được lắm! – Gã giơ chưởng trái, dừng cách đỉnh đầu Ngô Thường Thanh ba tấc.

Bọn kia đều tái mặt, nhớ ra rằng khi làm tướng Lương Tiêu đã tung hoành khắp nam cùng bắc, hành xử chẳng thiếu thủ đoạn nào, tàn sát không biết bao nhiêu nhân mạng. Vừa rồi chẳng nói chẳng rằng mà dám đưa Ngô Thường Thanh ra đỡ chưởng lực của Hạ Đà La, nay gã đã cảnh cáo sẽ giết lão, e rằng cũng chẳng phải dọa suông. Bọn kia đều là hạng hám lợi quên nghĩa, giỏi tật suy bụng ta ra bụng người, đều tin Lương Tiêu dám nói dám làm, nhất thời chưa biết đối phó thế nào.

Hiểu Sương nhìn Lương Tiêu, đầu óc trống rỗng, không hiểu nổi nguyên cớ vì đâu gã thình lình trở mặt như vậy, nhưng vốn dút dát nên không dám oán trách Lương Tiêu, chỉ biết đau lòng ứa lệ. Đang lúc cảnh vật trước mắt nhòe nhoẹt còn tâm trạng thì đớn đau hoảng loạn, cô thấy Lương Tiêu tóm chặt cổ tay mình, rồi giọng gã vang lên lạnh lùng:

- Vì sự sống, ta chẳng từ bất cứ một thủ đoạn nào hết. Không ăn được thì đạp đổ, hễ có kẻ dám cản đường, ta sẽ lập tức thử đao với lão béo khốn kiếp này. Ta mà mất mạng, các ngươi cũng đừng hòng chạm tay vào Thanh hạnh quyển!

Hiểu Sương chết điếng, nước mắt ròng ròng tuôn xuống, chẳng rõ bi thương hay phẫn nộ. Cô muốn vùng ra, nhưng đã bị Lương Tiêu túm chặt kéo đi.

[1] Chỉ chồng mình (khiêm tốn ngữ thời xưa).

[2] Vị là con nhím.

[3] Trích Luận Ngữ.


Họ đi đến khi phương đông hừng sáng, chợt trông thấy con đường phía trước phủ dày xác sẻ, Hiểu Sương kêu lên:

- Chuyện gì thế này?

- Chẳng có gì lạ đâu. – Lương Tiêu tư lự nói. – Trò của Hạ Đà La dùng để đối phó Thích đảo chủ đấy mà.

Hiểu Sương thở dài xót xa:

- Họ ham đấu đá cũng đành, nhưng tại sao lại để liên lụy đến lũ chim sẻ?

- Sẻ thì đáng gì? Số người chết trong khói lửa chiến tranh còn nhiều hơn sẻ gấp hàng ngàn hàng vạn lần ấy muội ạ.

Hiểu Sương giật mình, thốt nhớ tới lời Công Dương Vũ: “Ông ấy buộc tội Tiêu ca ca dẫn quân Thát đánh hạ thành trì, chiếm đoạt đất đai, tàn sát dân chúng, không hiểu là nói thật hay nói dối. Nhưng trông ông ấy dở điên dở dại, chắc là bịa đặt để lừa ta thôi”. Nhác thấy Lương Tiêu lộ vẻ âm thầm buồn bã, Hiểu Sương quên bẵng ngay Công Dương Vũ và mối băn khoăn: “Tiêu ca ca cứ rầu rĩ suốt từ nãy tới giờ, phải nghĩ cách để khiến ca ca vui lên mới được”. Ngặt nỗi cô không có khiếu hài hước, vò đầu bứt tóc mãi mà chẳng nặn được truyện cười nào để kể cho Lương Tiêu khuây khỏa.

Thình lình, tiếng ai đó la om sòm lôi họ về thực tại:

- Tên tóc bạc kia, ngươi không ra thì đúng là đồ hèn hạ khốn kiếp!

Lập tức có tiếng đáp trả:

- Lão già điên kia, ngươi mà vào thì đúng là đồ khốn kiếp hèn hạ!

Không chần chừ lấy một tích tắc, Lương Tiêu nghiêng người lướt như bay vào khu rừng bên đường. Hiểu Sương ngây mặt một lúc vì mẩu đối đáp kỳ cục rồi cũng lập cập thúc lừa chạy theo. Vượt qua mấy vạt cây cối, họ trông thấy Thích Thiên Phong đầu bù tóc rối, mặt mũi lem nhem đang ngồi trước một hang đá, tay quay xâu sẻ trên ngọn lửa bập bùng, miệng lúng búng:

- Ngươi không ra thì đúng là đồ hèn hạ khốn kiếp!

Vừa dứt lời, tiếng nói trong hang bốp chát:

- Ngươi mà vào thì đúng là đồ khốn kiếp hèn hạ!

Lương Tiêu hỏi:

- Ông làm gì vậy?

Thích Thiên Phong nheo mắt nhìn Lương Tiêu, cảm thấy quen mặt quá nhưng nhất thời không nhớ ra đã gặp ở đâu, bèn đáp:

- Tên tóc bạc trốn trong kia, hắn đe nếu ta vào thì là đồ khốn kiếp hèn hạ, đương nhiên ta không thể vào được, nhưng chính bản thân hắn lại đang ở trong hang, làm sao cho thoát cái phận khốn kiếp hèn hạ cơ chứ? Ha ha, cuối cùng lão tử vẫn thắng, – vừa nói vừa vuốt râu vẻ đắc ý.

Lương Tiêu lắc đầu, chẳng gì cũng là tông sư một phái mà đi giằng co tranh chấp với người ta từ việc nhỏ nhặt vớ vẩn đến thế, đúng là dở khóc dở cười! Thích Thiên Phong cứ cắn một miếng thịt sẻ lại chửi mắng một câu, cái hang cũng đáp trả ngay lập tức, âm thanh the thé khác hẳn giọng nói rin rít ngày thường của Hạ Đà La. Lương Tiêu rất lấy làm lạ: “Phải chăng Hạ Đà La bị thương đến nỗi mất cả giọng?”. Gã lắng tai nghe kỹ hơn, chợt biến sắc kêu: “Không phải!”, rồi nhảy dựng lên, chạy xộc vào hang. Thích Thiên Phong chòng chọc nhìn theo. Bóng gã thiếu niên vừa khuất thì giọng gã vang trở ra:

- Lão gia tử, ông vào đây xem này!

Thích Thiên Phong nhổ phì phì:

- Ngươi định lừa ta làm quân khốn kiếp hèn hạ chứ gì, đừng hòng!

Lương Tiêu kiên nhẫn gọi:

- Vậy ông thử nhắc lại lần nữa: “Ngươi không ra thì là đồ hèn hạ khốn kiếp” đi!

Thích Thiên Phong làm y lời, nhưng đợi chờ rất lâu mà không thấy ai đáp lại, lão nóng nảy quẳng xâu thịt sẻ xuống, chạy vù vào hang. Lương Tiêu đang đứng cạnh một tảng đá to, tảng đá nằm đè lên một sợi thừng mảnh, đầu sợi thừng buộc quanh một con yểng, con yểng này đang nằm trong tay Lương Tiêu.

Thích Thiên Phong ngơ ngác, nhìn hết thứ nọ đến thứ kia. Lương Tiêu buông con yểng:

- Ông thử nhắc lại câu vừa nói đi!

Thích Thiên Phong làm theo, con yểng liền ngoác mỏ rủa:

- Lão già điên kia, ngươi mà vào đây thì đúng là đồ khốn kiếp hèn hạ!

Thích Thiên Phong há hốc mồm, sững sờ một lúc mới lẩm bẩm:

- Thế tên tóc trắng đâu?

Lương Tiêu trỏ một cái hốc trên vách hang:

- Ông xem đây!

Thích Thiên Phong thò đầu vào hốc, nó nối thông với một đường hầm bề ngang rộng chừng ba thước, sâu dễ phải đến mười mấy hai mươi trượng. Lão thuỗn mặt than:

- Trốn mất rồi!

Lương Tiêu nén cười:

- Đúng vậy, hắn đã lừa ông!

Số là Hạ Đà La bị Thích Thiên Phong chàng ràng đeo bám, không sao rũ bỏ được đành chạy vào cố thủ trong hang, may sao trời chẳng tuyệt đường người, một con yểng biết nói tự dưng lần đến theo tiếng tiêu của hắn. Hạ Đà La nảy ra một kế, dạy nó hót câu “Lão già điên kia, ngươi mà vào đây thì đúng là đồ khốn kiếp hèn hạ”. Thích Thiên Phong bị câu ấy cầm chân, cố nhiên không khi nào xông vào, chỉ ngồi lì bên ngoài chửi tay đôi với con chim. Hạ Đà La nhân đó dùng Bát Nhã phong đào một đường hầm chạy trốn. Sau trận này, hắn gần như suy sụp vì kiệt sức, thoát khỏi Thích Thiên Phong một cái là cao chạy xa bay, không ngó ngàng đến việc trả thù Lương Tiêu hay bất kỳ điều gì khác nữa.

Thích Thiên Phong phát giác bị lừa, giận quá đấm ngực thùm thụp, giậm chân bình bịch, kêu gào tức tối, phi luôn vào đường hầm ráo riết đuổi theo. Lương Tiêu nhìn theo lão già, không nén nổi cười phá lên bảo Hiểu Sương:

- Lão gia tử mà không bắt kịp Hạ Đà La, e rằng sẽ quay về quấy nhiễu ta, ấy mới rầy rà. Huynh muội mình mau rời khỏi đây là hơn.

Hiểu Sương cũng sợ ông già ngớ nga ngớ ngẩn, động một tý là thượng cẳng tay hạ chẳng chân ấy, nghe vậy liền gật đầu tán đồng.

Họ đi liên tục hai đêm hai ngày rồi dừng lại nghỉ ở một thị trấn. Hiểu Sương mở sạp khám bệnh trong chợ. Dân chúng tuyền một hạng trông mặt bắt hình dong, thấy Hiểu Sương là nữ nhi, hình dung tiều tụy, mặt mũi xanh xao, chẳng ai tin cô chữa được bệnh tật gì, chỉ hiếu kỳ ngó nghiêng bàn tán chốc lát rồi ai đi đường nấy. Hiểu Sương mở sạp suốt một ngày mà chẳng ai đến khám, bản tính rụt rè nên cũng không dám ra mặt chèo kéo chào mời, vô kế khả thi đành tủi phận âm thầm sa lệ.

Lương Tiêu thương hại, bèn bảo Hiểu Sương nhìn sắc mặt khách bộ hành, đoán xem ai đang mắc bệnh. Hễ cô gái trỏ kẻ nào, Lương Tiêu liền xốc tới điệu cổ người ta vào khám y như diều hâu bắt gà. Những người đi đường, một là không quen lối khám chữa cưỡng ép, hai là không tin rằng có đại phu sẵn lòng chẩn trị miễn phí, ai cũng hoang mang nghi ngờ, nhưng sợ thái độ hùng hổ của Lương Tiêu nên đành khép nép ngồi lại cho Hiểu Sương bắt mạch trị bệnh. Hiểu Sương vốn không ưa vũ lực, nhưng thấy có bệnh để chữa thì say sưa đến nỗi quên hết tất cả, chẳng bận tâm đến hành động thô bạo của Lương Tiêu nữa.

Hiểu Sương y thuật cao cường, chữa ai khỏi nấy, được vài người thì tiếng tăm đã bắt đầu lan rộng, bệnh nhân trong thị trấn ùn ùn kéo đến. Sạp khám lúc trước còn vắng như chùa Bà Đanh, nay thì vây kín vòng trong vòng ngoài. Lương Tiêu hớn hở trải một cái chiếu bên cạnh, đan tre trúc, làm nhiều món đồ chơi như rối người rối thú, chim biết bay, chong chóng gió tự quay, đồng hồ nước biết gõ tích tắc. Gã giỏi thuật cơ quan nên chế tạo toàn những đồ vật tinh xảo, lại thêm giá cả phải chăng, thu hút ngay vài lái buôn giàu có ham đồ lạ đến mua, nhờ đó cũng kiếm được chút ít tiền bạc. Những lúc hàng họ ế ẩm, Lương Tiêu bèn bảo Kim Linh Nhi và Bạch Si Nhi diễn trò để kiếm tiền độ nhật.

Mấy tháng liền như thế, hai người đi khắp trấn nọ làng kia. Dọc đường, họ chạm trán khá nhiều thổ phỉ đạo tặc, và nhiều hơn nữa là đám lang băm bất lương. Bọn này căm hận Hiểu Sương phá ngang việc hành nghề của mình nên thuê lưu manh hãm hại hoặc móc ngoặc với quan phủ để o ép hai người, nhưng gặp Lương Tiêu thì khác nào gặp sát tinh, may nhờ lòng nhân của Hiểu Sương mà còn mạng quay về.

.

Hôm ấy, hai người đến một thị trấn, Hiểu Sương mở sạp khám chữa như thường lệ. Được nửa buổi, bệnh nhân đang đông dần lên thì phía ngoài có tiếng lào xào huyên náo. Hiểu Sương ngước mắt trông, thấy mấy hán tử ăn bận kiểu gia đinh sốt sắng rẽ hàng người tiến vào, gấp rút nói:

- Thưa đại phu, tiểu thiếu gia nhà chúng ta bị bệnh, lão gia cho mời đại phu tới chẩn trị.

Bộ dạng họ cuống quýt, đủ thấy tình trạng tiểu thiếu gia nào đó hiểm nghèo lắm. Hiểu Sương không dám ngần ngừ sợ lỡ việc, vội vàng thu dọn đi theo. Lương Tiêu cũng đứng dậy đi cùng. Nhóm người hấp tấp đưa đường, dẫn họ đến một tòa nhà nguy nga lầu son gác tía, rẽ vòng vèo qua mấy ô cửa thì tới một sương phòng, bên trong vẳng ra tiếng khóc sụt sùi đau xót.

Lương Tiêu và Hiểu Sương nhìn vào, trông thấy mấy người đàn bà ngồi vây quanh một cái sập thêu, ai cũng gục đầu nức nở. Gần đó là một trung niên hán tử râu quai nón, mặt mày buồn rầu. Khi họ tiến lại, y đứng ngay dậy, nghe gia đinh bẩm báo thì lộ vẻ hi vọng, vòng tay thi lễ với Hiểu Sương:

- Tại hạ chỉ có một đứa con trai, từ ngày ra đời vẫn ốm lên ốm xuống, lần này bệnh trở nặng lạ lùng, mong đại phu trổ hết tài phép cứu lấy cháu!

Hiểu Sương không lòng dạ nào mà đối đáp khách sáo với hắn, bèn lật đật rẽ đám đàn bà ra xem. Trên sập có một đứa bé chưa đầy tháng, mặt mày bủng beo vẩn sắc tím, đôi môi đen bầm, tứ chi co giật, chỉ hít vào không thấy thở ra. Hiểu Sương lần tìm mạch, nhận ra mạch tượng rối loạn, Tâm kinh và Tâm bao kinh đều hư nhược, cho thấy bệnh tình đang đến hồi nguy kịch, cô vội lấy kim châm ba huyệt Thiếu hải, Âm thị và Tâm du để tăng cường độ co bóp của tim, kế đó châm huyệt Quan nguyên để xả khí trong Tam tiêu kinh ra hỗ trợ.

Vê kim chốc lát, sắc tím trên mặt đứa bé nhạt dần, Hiểu Sương thở phào, quay ra viết đơn thuốc. Không ngờ mặt đứa bé bỗng lại đổi sang màu đen, thân hình co quắp, Hiểu Sương hoảng hốt chạm vào cổ tay nó thì thấy mạch tượng phập phù, lúc có lúc không như sắp ngừng đến nơi. Cô vội ấn các huyệt Thiếu phủ, Cực tuyền và Nội quan, nhưng vẫn không thấy chuyển biến tốt, đứa bé lạnh dần đi. Hiểu Sương ruột đau như cắt, mặt mày xây xẩm, suýt nữa là ngã quỵ. Lương Tiêu vội chìa tay đỡ lấy. Cô gái tội nghiệp luôn miệng lẩm bẩm:

- Sao lại thế này, sao lại thế này?

Nhà chủ đoán chừng bất ổn liền nhao tới gần, đưa tay thăm mũi đứa bé thì thấy đã tắt thở, chạm vào da thì lạnh như băng tự khi nào. Hắn trợn trạo nhìn Hiểu Sương, hai mắt tóe lửa như sắp ăn tươi nuốt sống cô gái, bộ dạng hung dữ hoàn toàn khác hình dung nho nhã và cử chỉ ôn tồn lúc nãy:

- Ngươi xem… ngươi đã gây ra tội vạ gì đây, con tiện nhân!

Việc bệnh nhi mất mạng khiến Hiểu Sương hoàn toàn suy sụp, thân hình run lẩy bẩy, cô chỉ đủ sức lắp bắp: “Ta… ta…”, chứ không biết nên trả lời thế nào. Lương Tiêu nổi giận đùng đùng, vung hai cánh tay cứng như thép bóp cổ chủ nhà:

- Ngươi chửi ai đấy?

Mặt tên chủ chuyển màu đỏ tía, hai mắt lộn ra toàn lòng trắng. Hiểu Sương đã hơi tỉnh táo, vội vã gỡ tay Lương Tiêu:

- Tiêu ca ca, đều tại muội cả…

Lương Tiêu hẩy tên đàn ông ra, lúc này mấy mụ đàn bà mới phát giác là đứa bé đã chết, bèn ngoạc mồm chửi bới hai người rồi xông vào đập đánh như điên như dại.

Lương Tiêu thở dài, kéo tay Hiểu Sương:

- Đi thôi!

Hiểu Sương nhìn đứa trẻ sơ sinh, lòng hối hận cùng cực, chỉ muốn chết theo cho rồi.

Nhà chủ vừa thở lại được là hô hoán gia đinh mang gậy gộc xông vào, gầm gừ bảo:

- Chó chết, dám giở trò lưu manh mà không buồn xem xem ta là ai à? Chúng bay mau đánh chết hai đứa khốn nạn này để an ủi vong linh con ta!

Được lệnh chủ, bọn đầy tớ liền hùng hục lao vào.

Lương Tiêu trầy trật mãi mới dẹp yên được đám đàn bà thì giàn gậy gộc của bọn gia đinh lại xô tới. Phản ứng đầu tiên của gã là xuất thủ, nhưng nghĩ kỹ, cho rằng chạy chữa đến nỗi mất mạng con nhà người ta thì về lý về tình bên mình đều sai, gã đâm chần chừ. Gậy gộc nhân lúc ấy đổ ào ào xuống đầu Hiểu Sương. Lương Tiêu nghiến răng xông tới trước, vừa giơ lưng đỡ được hai gậy vừa thét:

- Hiểu Sương, bọn này không màng đến lý lẽ gì đâu, chúng ta đi thôi!

Hiểu Sương đờ đẫn lắc đầu, lòng ngập tràn ăn năn hối hận.

Lương Tiêu đành dùng thân chịu đòn thay cô. Gậy đánh bên trái thì gã đỡ bên trái, gậy đánh bên phải gã lại nhoài sang bên phải. Đòn thù trút như mưa xuống mặt xuống đầu Lương Tiêu, nhờ có nội công nên gã chẳng hề hấn gì, nhưng nghĩ mình có lòng tốt đến chữa bệnh mà được đền đáp thế này thì gã không sao nén nổi căm giận: “Đồ chó cậy gần nhà, lão tử mà gạt nhẹ tay thì bảy tám đứa chết là ít. Được lắm, thằng tre miễu táo gan, lão tử nhớ mặt ngươi rồi! Ối, con lợn ỉ, ngươi dám thừa cơ quất trộm lão tử! Không nể mặt Hiểu Sương thì lão tử đã đập chúng mày dẹp lép rồi!”. Tuy thầm thóa mạ bằng đủ mọi ngôn từ ghê gớm nhưng trước sau Lương Tiêu không mảy may hoàn thủ, chỉ đứng che chắn cho Hiểu Sương, hứng chịu vô số đòn gộc mà không hề đánh trả một quyền một cước nào.

Hiểu Sương vừa cảm động vừa đau lòng, cuối cùng thở hắt ra:

- Đủ rồi, Tiêu ca ca, bọn mình đi thôi!

Được lời như cởi tấm lòng, Lương Tiêu khua tay gạt phăng mười mấy cây gậy, cắp Hiểu Sương chạy ào ra cửa. Nhà chủ ngày thường hống hách đã quen, thấy con mồi thoát chết thì đời nào chịu buông, bèn hò hét gia đinh đuổi theo.

Lối đeo bám dai như đỉa đói ấy khiến Lương Tiêu bừng bừng lửa giận. Nhân trước cửa có hai pho tịch tà bằng đá, mỗi pho nặng chừng bốn trăm cân, gã đặt Hiểu Sương xuống vệ đường, giơ chân gẩy một cái, kình lực hất tung con tịch tà bên phải lên cao sáu thước. Vừa lúc chủ nhà dẫn gia đinh chạy ra, Lương Tiêu bèn xuất chưởng đẩy chéo, con tịch tà đá bắn vọt lên hơn một trượng, lao đi trong không trung rồi hạ xuống đúng đỉnh đầu hắn. Đà lao của nó quá nhanh, vẫn ở tầm cao hai trượng mà kình phong đã quét rát mặt mọi người, chủ nhà ước chừng không tránh kịp, sợ quá la hét đến lạc cả giọng.

Lương Tiêu hô vang, lắc mình tới, vỗ bốp song chưởng lên khối tượng, nó ngừng rơi, đổi chiều bay chéo đi, húc thẳng vào con tịch tà bên trái. Sau một tiếng “rầm” khủng khiếp, vụn đá bốc lên mù mịt. Khi bụi đất lắng xuống, ai nấy dụi mắt nhìn kỹ, đôi tượng đã biến mất, thay vào đó là một đống đá nát. Lương Tiêu hắt xì hơi, hạ mình đáp xuống, dắt Hiểu Sương ung dung bước đi. Chủ nhà đờ đẫn nhìn hai người đi xa dần, bỗng đâu hạ thân lành lạnh, hắn mò tay sờ mới biết mình đã vãi đái ra quần tự lúc nào.

Sau sự việc ầm ĩ ấy, Lương Tiêu và Hiểu Sương cũng không còn lòng dạ nào nấn ná lại sạp chữa bệnh, bèn thu dọn đồ đạc rời khỏi trấn đi về phía tây. Lương Tiêu vô duyên vô cớ lĩnh một trận đòn, vẫn chưa nguôi giận, hầm hầm bước đằng trước.

Đi được một thôi đường, Hiểu Sương chợt than thở:

- Ngẫm cho kỹ thì bệnh tình đứa bé đó vốn dĩ không còn thuốc chữa.

Lương Tiêu gắt gỏng:

- Sao muội không nói sớm? Nếu biết trước không phải lỗi của muội thì khi bọn cẩu nô tài đó đổ xô vào, ta đã túm mỗi bên một đứa, rắc rắc rồi… – Lương Tiêu vừa nói vừa hùng hổ vung tay mô tả.

- Rắc rắc là sao?

- Là bẻ gãy cổ bọn chúng chứ sao!

Hiểu Sương giật mình lắc đầu:

- Thế thì không được!

Đã làm ơn mắc oán lại phải nghe những lời ẩm ương, Lương Tiêu chán không buồn bước nữa, quẳng hành lý xuống gốc cây, sừng sộ đi đi lại lại. Hiểu Sương cũng tụt khỏi lưng lừa, ngồi lên một tảng đá, nhíu mày trầm tư. Lương Tiêu nôn nóng bước quẩn một hồi cũng bớt giận, bèn hỏi Hiểu Sương:

- Muội nghĩ gì thế?

Hiểu Sương thở dài:

- Muội đang thắc mắc, giả sử sư phụ gặp phải bệnh này thì người sẽ xử lý ra sao?

Lương Tiêu ngồi xuống cạnh cô, nghiêm mặt bảo:

- Ta không tán thành tư tưởng ấy đâu. Thế quái nào mà động một tí lại lôi sư phụ ra? Ngô Thường Thanh là Ngô Thường Thanh. Hoa Hiểu Sương là Hoa Hiểu Sương. Ông ấy xử lý ra sao là việc của ông ấy, muội nên nghĩ xem muội xử lý ra sao mới phải kìa!

Hiểu Sương một mực lắc đầu:

- Y thuật của sư phụ cao siêu gấp hàng chục hàng trăm lần muội, suốt đời muội cũng không thể sánh kịp thầy.

- Lẽ ra là chưa chắc, – Lương Tiêu lạnh lùng nói. – Nhưng nếu cả cái ý chí vượt qua ông ta mà muội còn không có thì đúng là suốt đời cũng không sánh kịp thật!

Hiểu Sương nghe mà sửng sốt, xưa nay cô vẫn kính phục y thuật của Ngô Thường Thanh hết mức, chưa bao giờ manh nha ý muốn phấn đấu giỏi hơn sư phụ. Thẫn thờ hồi lâu, cô nói:

- Luận Ngữ có chép: Ta tin tưởng và ngưỡng mộ đạo lý của cổ nhân nên chỉ truyền dạy chứ không sáng tác. Khổng Phu tử mà còn giảng thế, đâu đến lượt muội đòi vượt tiền bối? Giỏi hơn sư phụ muội ấy hả, không thể đâu huynh ơi!

Lương Tiêu xoa cằm:

- Ta chưa đọc sách của Khổng Phu tử, chỉ nghe đồn ông là bậc thầy của các nhà vua nên tưởng cũng bản lĩnh lắm, nào ngờ lại phát ngôn thiếu tự tin như vậy. Cuộc đời là bất biến chứ có thường hằng đâu, chẳng thế mà tục ngữ nói: “Việc qua can chẳng được nào, Việc sau họa biết cách nào lần xoay”.

Hiểu Sương bưng miệng cười:

- Câu ấy không phải tục ngữ, cũng trong sách của Khổng Tử đấy ạ!

Lương Tiêu ngớ người:

- Lạ nhỉ, Khổng Tử nói thế chẳng hóa tự tát vào mặt mình hay sao?

Hiểu Sương cau trán nhớ lại rồi tư lự thừa nhận:

- Ừ đúng, không phải của Khổng Tử. Sử ký chép, Lục Tiếp Dư hát câu ấy để cảnh tỉnh Khổng Tử mà thôi.

Lương Tiêu lườm cô:

- Ta thích hai câu này lắm đó. Người chết đằng nào cũng chết rồi, chẳng tiến bộ được nữa, tại sao người sống không theo kịp họ? Xưa chưa chắc đã bằng nay, nay chưa chắc đã sánh tày mai sau. Ta học toán, cực kỳ thấm thía điều này, bây giờ mà ta ra đề kiểm tra trình độ các đại gia toán học cổ đại thì đảm bảo mười phần hết chín sẽ nộp giấy trắng. Tạm thời muội chưa bằng Ngô Thường Thanh, nhưng chỉ cần chăm chỉ học hành, đào sâu suy nghĩ, chắc gì đã thua kém ông ấy! Nói nào ngay, cái bệnh mãn tính của muội kia kìa, Ngô Thường Thanh không chữa được tức là muội cũng bó tay à?

Hiểu Sương sửng sốt trước những lý lẽ mới mẻ ấy, cứ mở to mắt nhìn Lương Tiêu, quên cả phản biện. Lương Tiêu được đà dốc ra bằng hết rồi quay lại lấy hoa quả sườn thịt cho Kim Linh Nhi và Bạch Si Nhi. Kim Linh Nhi vốn linh thông, giỏi bắt chước hơn hẳn bọn khỉ vượn đồng loại. Một hôm Lương Tiêu nảy ý, nhân lúc cho ăn thì dạy nó các chiêu thức võ công, không ngờ con khỉ nhỏ hễ học là làm được ngay, mấy tháng qua đã tích lũy khá nhiều cách thức tiến lui công thủ. Nó quấn quýt bên Lương Tiêu ngần ấy thời gian, được gã nuôi dạy, bao nhiêu hiềm khích xưa cũ đều dần dần hóa giải, hai bên trở nên thân mật vô cùng.

Cho Kim Linh Nhi ăn xong trái cây, đồng thời cũng truyền thêm cho nó được một chiêu thủ pháp, Lương Tiêu phấn khởi thả lên cành cây cho nó chạy rông một lát. Con khỉ trở lại với thiên nhiên, hào hứng nhảy nhót tung tăng. Nhìn ra thấy Hiểu Sương vẫn trầm tư mặc tưởng, gã thiếu niên phì cười:

- Sao, quyết giữ nguyên quan điểm à?

Hiểu Sương trù trừ:

- Những điều huynh vừa nói… thôi thì thử một chút… cũng được.

Lương Tiêu biết thừa chỉ vì cả nể mà cô nói vậy chứ trong lòng không dễ gì thay đổi ngay được, gã mỉm cười ngả mình xuống, gối đầu lên đống tay nải.

Màn chiều đã buông, tà dương đổ ánh vàng trên khắp rừng núi xa gần, nền trời in sẫm đường nét uyển chuyển của những rặng núi trải dài nhấp nhô. Hiểu Sương khó khăn lắm mới dứt ra được dòng suy nghĩ rối bời, ngước mắt nhìn lên bắt gặp cảnh ấy, không kìm được xúc động thốt:

- Đẹp quá!

Lương Tiêu nhìn theo ánh mắt cô, mỉm cười:

- Ta thấy núi xanh sao diễm lệ, chắc núi thấy ta chẳng kém chi![2]

Hiểu Sương ngượng nghịu trách:

- Giỏi lắm rồi đấy, đọc được mấy bài thi từ là lấy ngay ra để chọc ghẹo muội!

Chẳng là những lúc ở không nhàn rỗi, Lương Tiêu đều lục xem đống sách của Hiểu Sương, hơn một tháng trôi đi, cũng nhớ được kha khá, tiện miệng chêm vào để trêu cho cô vui.

Hai huynh muội đang dở câu chuyện, trên tàng cây bỗng có tiếng “ối chà”, rồi một người rơi bịch xuống, luôn miệng cằn nhằn:

- Gì thế, gì thế?

Lương Tiêu và Hiểu Sương cùng giật bắn mình, nhìn lại thì nhận ra đó là một chú tiểu chừng mười sáu mười bảy tuổi, người ngợm lùn tịt, vai ngang lưng rộng, mặt tròn miệng rộng mũi sư tử, đôi mắt long lanh đang liếc lên cây. Kim Linh Nhi thò cái đầu tròn ra khỏi tán lá ken dày. Chú tiểu hừ mũi, phủi đập đất bụi bám trên người, càu nhàu:

- Khỉ gió, đến mày mà cũng bắt nạt tao!

Hiểu Sương bật cười:

- Xin lỗi tiểu sư phụ!

Chú tiểu xoa cái đầu nhẵn bóng, ngớ ngẩn hỏi:

- Ngươi nói với mỗ đấy à?

Hiểu Sương gật đầu:

- Vâng, vì khỉ của ta quấy rầy tiểu sư phụ!

Chú tiểu cười:

- Ra là khỉ của ngươi! Cũng chẳng có gì, chỉ là mỗ đang ngủ thì bị nó chui vào lòng.

Hiểu Sương càng áy náy, còn định tạ lỗi thêm, nhưng chú tiểu chẳng bận tâm đến nữa. Chú ta chăm chăm nhìn Bạch Si Nhi, cổ họng cuộn lên cuộn xuống:

- Con chó này cũng của ngươi hử?

Hiểu Sương gật đầu, chú tiểu nuốt nước bọt đánh ực:

- Ngon nghẻ quá!

- Vâng, – Hiểu Sương vui vẻ đáp. – Bạch Si Nhi ngoan lắm!

Chú tiểu gật gù:

- Béo, béo ghê! Dễ cũng đủ một bữa cho mỗ!

Hiểu Sương trố mắt. Chú tiểu nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống Bạch Si Nhi, lại nuốt ực một phát nữa, bộ điệu lưu luyến lắm rồi mới quay đầu đi. Hiểu Sương vẫn đứng như trời trồng, lắp bắp:

- Tiêu ca ca, huynh nghe thấy không? Hắn nói năng mới kỳ cục sao!

Lương Tiêu gãi mũi:

- Thú vị đấy chứ!

Hiểu Sương tỏ vẻ bất bình:

- Nhưng hắn nói muốn ăn thịt Bạch Si Nhi kia mà!

Lương Tiêu khoác tay nải lên vai:

- Trên đời thiếu gì người ăn thịt chó, đâu chỉ mình hắn hả muội?

Hiểu Sương bần thần trèo lên Khoái Tuyết, lòng vẫn còn thắc mắc: “Bạch Si Nhi dễ thương như thế, sao lại có kẻ nỡ ăn thịt nó được nhỉ?”.

Hai người lững thững đi dưới bóng tịch dương một hồi, chợt nghe phía xa có tiếng đánh đập mắng mỏ. Hiểu Sương nhướng cổ trông, thấy mười mấy lái buôn xúm xít vung can lên xuống, tựa hồ đang nện cái gì đó, vừa nện vừa rủa:

- Ăn cắp này! Ăn cắp này!

Hiểu Sương hớt hải thúc lừa chạy đến gần, nhóng mắt nhìn kỹ. Trong vòng người có một thân hình co rúm, hai tay ôm đầu mặc đám can tới tấp quật xuống, chẳng rõ còn sống hay đã chết. Hiểu Sương rối rít ngăn:

- Đừng đánh nữa! Đừng đánh nữa! – rồi ngoái lại giục Lương Tiêu. – Mau cứu người ta!

Lương Tiêu trông cảnh ấy, đoán ngay ra rằng bọn lái buôn đang đánh quân trộm cắp. Gã vốn chẳng muốn dính dấp vào làm gì, nhưng mới rồi cũng bị ăn đòn tập thể, ít nhiều sinh mối đồng cảm với tên kẻ trộm không may kia, bèn sải bước chạy tới, khua hai tay gạt mạnh bọn lái buôn ra rồi cúi mình tươi cười:

- Roi song đánh đoạn thì thôi. Chắc các vị đã hả giận phần nào, đừng nên đánh chết người ta, xảy ra án mạng thì không hay lắm đâu!

Đám lái buôn vốn từng trải, giàu kinh nghiệm xử thế, thấy Lương Tiêu chỉ gạt tay mấy lượt mà bên mình đã hoa mắt lảo đảo thì biết ngay là hạng cao nhân. Một lão già có vẻ là trưởng toán hậm hực giải thích:

- Có phải tự nhiên mà chúng ta đánh hắn đâu! Cả đoàn đang nghỉ lấy sức, ăn chút lương khô, bỗng dưng kẻ này chạy tới chầu mồm. Chúng ta nghĩ tình đáng thương bèn chia cho mấy cái bánh bao nhân thịt, nào ngờ hắn tham lam vô độ, nhân lúc mọi người lơ đãng liền khoắng hết thịt bò bánh bao còn thừa. Chẳng may là tiểu ca thì tiểu ca có giận không?

Lương Tiêu moi ra bảy tám đồng tiền đưa cho lão già:

- Chừng này là đủ bồi thường chứ?

Thái độ điềm đạm và hành động biết điều ấy đã xoa dịu cơn giận của đám lái buôn. Lão già xua tay lia lịa:

- Khỏi cần, Trương Lư Nhi ta lăn lộn hơn bốn mươi năm trên giang hồ, đâu thể vô lý giận cá chém thớt, vì lỗi kẻ khác mà lấy tiền của các hạ được chứ? – đoạn khoát tay gọi bọn bạn buôn đi.

Đám lái buôn giải tán rồi, Hiểu Sương mới dám lại gần rờ xem thương thế của nạn nhân ra sao, nhưng chưa kịp cúi xuống thì kẻ đó đã nhảy bật lên. Hiểu Sương giật bắn mình thụt lui ba bước, định thần nhìn kỹ. Đó chính là chú tiểu họ vừa gặp lúc nãy, cô ngạc nhiên hỏi:

- Là ngươi ư? – đoạn nhìn từ đầu xuống chân chú ta. – Ngươi bị thương ở đâu?

- Chả ở đâu cả! – Chú tiểu lắc đầu.

Hiểu Sương ngờ chú tiểu gồng sức chịu đựng bèn túm tay kéo lại gần, cẩn thận nhìn ngó kỹ càng rồi ngỡ ngàng hỏi:

- Quái thật, họ đánh nặng tay như thế mà ngươi không bị thương à?

Chú tiểu gãi đầu nhệch miệng:

- Mỗ ngán gì gậy gộc, chỉ sợ đói bụng thôi!

Hiểu Sương nghĩ, nhất định là đói lắm con người ta mới phải đánh cắp thức ăn, liền sinh lòng thương hại mở yên lừa dỡ lương khô cho chú tiểu. Chú ta ngớ ra một thoáng rồi đón lấy nhai ngấu nghiến. Hiểu Sương hỏi:

- Tiêu ca ca, huynh còn tiền không?

Lương Tiêu dốc ra mười mấy đồng thả vào lòng bàn tay chú tiểu:

- Ngươi là người tu hành, đừng nên ăn cắp, phải đi hóa duyên mới đúng!

Chú tiểu cầm mấy đồng tiền, bỗng đỏ mắt sụt sịt:

- Mỗ không khéo miệng, lại phàm ăn, hóa duyên chẳng ai cho. Thôi thì… ăn cắp rồi không chạy, để người ta nện một trận cho đỡ tức…

Hiểu Sương ngạc nhiên:

- Vậy là ngươi cố ý mặc họ đánh đập hả?

Chú tiểu ngượng ngùng gật đầu. Lương Tiêu cười nói:

- Tiểu sư phụ bản lĩnh đấy chứ, mạnh mà không hiếp yếu, rất tốt! Nhưng cách ứng phó ấy ngốc nghếch và nhu nhược quá!

Chú tiểu lắc đầu:

- Tại sư phụ không cho phép ta động thủ với người khác.

Lương Tiêu cau mày:

- Không cho phép động thủ thì phải chạy chứ, giơ đầu ra chịu đòn thế à?

Chú tiểu tươi mặt:

- Ố, đúng quá, sao ta không nghĩ ra nhỉ?

Lương Tiêu cười bảo:

- Vậy lần sau ăn cắp thì nhớ tẩu thoát thật nhanh, đừng để bị bắt tận tay day tận trán nhé!

Chú tiểu đã hiểu, gật đầu lia lịa. Hiểu Sương nhăn mũi:

- Huynh còn vẽ đường cho hươu chạy nữa à?

Lương Tiêu dang rộng hai tay:

- Chả thế thì còn cách nào? Muội muốn người ta bị nện nhừ tử chắc?

Hiểu Sương bối rối im lặng. Lương Tiêu nhìn sang chú tiểu:

- Chúng ta giã biệt ở đây, tiểu sư phụ nhớ cẩn thận nhé! – đoạn dắt lừa, cùng Hiểu Sương đi tiếp theo đường cái quan.

Được mấy dặm, gã thình lình ngoảnh đầu ra sau. Một bóng người xẹt vào vệ đường ngay tắp lự. Hiểu Sương cũng ngoái trông nhưng không thấy ai, thắc mắc hỏi:

- Huynh nhìn gì đấy?

Lương Tiêu lắc đầu tủm tỉm, bụng bảo dạ: “Tiểu hòa thượng bám theo bọn ta làm gì nhỉ? Hà, hắn cũng khá lắm, đi trên cây suốt hai ba dặm mà ta không hề phát giác ra!”.

Tuy đã biết, nhưng gã tự tin võ công của mình nên không buồn để ý, dắt Hiểu Sương đi tìm quán trọ nghỉ qua đêm. Hôm sau họ tiếp tục lên đường, chú tiểu không lại gần cũng không bỏ cuộc, cứ lẵng nhẵng bám theo đằng xa. Lương Tiêu thi thoảng ngoảnh lại, chú ta đều lẩn tránh với bộ dạng hấp tấp, rõ là người không giỏi bám đuôi chút nào. Lương Tiêu cười thầm, muốn trêu ghẹo nên quay đầu lại thường xuyên hơn, khiến chú tiểu quýnh quáng ứng phó không kịp. Hiểu Sương chăm chú nghĩ về y thuật, không để ý đến trận đấu ngầm giữa hai người.

Hôm sau nữa, Lương Tiêu và Hiểu Sương ra đến bờ Hoàng Hà, lúc ấy nước sông cuồn cuộn dâng cao, tràn qua đê ở mấy đoạn liền, nhấn chìm nhiều khoảnh ruộng tốt. Hiểu Sương buồn bã cùng Lương Tiêu đi vào đám nạn dân, men sông tiến về hướng tây, vận hết khả năng cứu chữa mọi người. Khổ nỗi Hiểu Sương y thuật tuy cao nhưng sức yếu, lại có một thân một mình, khó lòng chăm lo được hết mọi chỗ, nhìn bệnh dịch hoành hành khiến bà con đau ốm vạ vật bên đường mà không sao cứu được, trong lòng thương xót vô cùng. Lương Tiêu thở dài, chỉ biết gắng sức nhẹ nhàng an ủi.

Suốt mấy ngày trời, họ liên tục gặp cảnh quan phủ đốc thúc dân phu vần đá khuân đất để gia cố đê điều. Bờ đê cao dần lên đến mấy trượng, dòng nước vàng mấp mé bên ngoài trông như chảy trên trời cao. Lương Tiêu thầm cảm khái: “Đại Vũ trị thủy bằng cách đào kênh dẫn nước ra biển, người nay trị thủy theo kiểu đặt đê phòng hộ khắp nơi. Sông trôi hàng vạn dặm, đê điều dài tới mức nào cho đủ? Lý lẽ đơn giản thế mà sao giới cầm quyền không hiểu nhỉ? Nhưng suy cho cùng, Hốt Tất Liệt bận dẫn quân đánh đông dẹp bắc, chiến tranh đang đến hồi quyết liệt, chắc chẳng còn hơi sức đâu chăm lo đến việc trị thủy nữa…”. Đúng lúc ấy, một tràng nhốn nháo rộ lên cắt ngang luồng suy nghĩ của gã. Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Một tảng đá khổng lồ vừa giằng đứt dây thừng, theo triền đê lục cục lăn xuống, lập tức đè bẹp dí hai người dân làm muối, đám đàn bà đưa cơm bên dưới đều trợn mắt nhìn, mồm há hốc, quên cả né tránh.

Lương Tiêu không kịp nghĩ ngợi nhiều, guồng chân chạy lên đẩy mạnh song chưởng cản tảng đá, nhưng cái vật vô tri ấy nặng ước ngàn cân, lại từ trên cao xô xuống nên uy thế vô cùng dữ dội. Lương Tiêu dồn sức vận chiêu Lập địa sinh căn, chân sục vào đất đã hơn một thước mà vẫn không giữ được nó, cánh tay tê chồn gần như đau đớn, cổ họng khô ran. Tảng đá trùng trình một thoáng rồi tiếp tục nhúc nhích, xem chừng đè bẹp Lương Tiêu tới nơi, Hiểu Sương khiếp hãi la lên thất thanh.

Đúng lúc đó, một bóng người vọt tới như tia chớp, duỗi tay xô mạnh, tảng đá dừng ngay lại, thậm chí còn nhích lên phía trên thêm mấy tấc. Lương Tiêu cảm thấy áp lực giảm bớt, bèn liếc mắt nhìn thì nhận ra đó chính là chú tiểu phàm ăn. Hai người chưa tiện nói gì, chỉ cùng gật đầu rồi đồng tâm hiệp sức đẩy ngược tảng đá lên. Sau khi đưa tảng đá trở lại mặt đê, Lương Tiêu ngồi phệt ngay xuống, hộc ra một bụm máu bầm, mặt trắng nhợt, bật cười:

- Sức lực ghê gớm làm sao!

Chú tiểu mở to đôi mắt, quan tâm hỏi:

- Ngươi… bị thương ư?

Lương Tiêu lắc đầu:

- Xây xước ngoài da, không đáng kể!

Chú tiểu tin ngay, chỉ ồ một tiếng rồi thôi, không thắc mắc hỏi han gì nữa. Lúc này Hiểu Sương đã chạy lên tới nơi, lấy đan dược đưa cho Lương Tiêu, thở phào đa tạ chú tiểu:

- Vì sao tiểu sư phụ lại ở đây? Hôm nay mà không có tiểu sư phụ thì gay go to!

Chú tiểu đỏ mặt liếc Lương Tiêu. Lương Tiêu cười xòa:

- Ngươi giúp ta đẩy đá, ta mời ngươi ăn cơm, được không nào?

Chú tiểu mừng rỡ gật đầu lia lịa.

Lương Tiêu điều tức cho hồi sức rồi cùng hai người rời bờ đê, vào thị trấn tìm một tửu quán, gọi cơm và một hộc rượu. Mới uống một hớp, nhận ra chú tiểu nuốt nước bọt ừng ực, nhìn như đóng đanh vào chén mình, gã hỏi:

- Ngươi cũng muốn uống ư?

Chú tiểu gật đầu đánh rụp, Lương Tiêu gọi thêm một vò rượu. Chú tiểu giơ tay đón lấy làm một hơi hết sạch, miệng còn chép chép ra ý thòm thèm, mắt đảo sang chén rượu của Lương Tiêu. Dạo ở Thường Châu, Lương Tiêu hay mượn rượu giải sầu, uống mãi đâm nghiện. Hiểu Sương vì mang bệnh nên không chạm môi tới một giọt rượu, thành thử dọc đường Lương Tiêu toàn uống một mình, mất đi rất nhiều hứng thú, nay gặp chú tiểu ham rượu như vậy thì sinh lòng tri kỷ, liền vui vẻ gọi thêm vò nữa, nhân tiện hỏi:

- Chẳng hay pháp hiệu của hòa thượng là gì?

Chú tiểu hớn hở ôm vò rượu vào ngực, cười toe:

- Sư phụ gọi mỗ là Hoa Sinh!

Lương Tiêu ra vẻ trầm ngâm:

- Té ra ngươi cũng họ Hoa, cùng họ với cô nương đây. Nhưng cái tên nghe hơi lạ đó! Hẳn sư phụ ngươi tên là Lão Tửu[3]?

Hiểu Sương cười mãi không thôi:

- Tiêu ca ca đừng chọc người ta nữa! Vả chăng, người xuất gia có bao giờ dùng họ như kẻ phàm tục đâu.

Hoa Sinh xoa cái đầu bóng lưỡng, nhe răng một cách ngây ngô:

- Người này nói trúng mới lạ, trong pháp hiệu của sư phụ mỗ quả thật có một chữ “tửu”.

Hiểu Sương ngạc nhiên:

- Tình cờ thật! Nhưng xem ra, Hoa Sinh ở đây không phải là lạc, không phải là thức nhắm đâu, mà là một luận lý nhà Phật.

- Lại thế nữa? – Lương Tiêu cười ngất. – Muội nói thử xem!

Hiểu Sương tủm tỉm:

- Đạt Ma sư tổ rời Thiên Trúc sang đông thuyết pháp, giải đáp khúc mắc, khai sáng một phái mới là Thiền tông. Lúc viên tịch, người nói: “Ta từ miền lạ tới, Truyền pháp cứu mê tình, Một hoa nở năm cánh, Kết quả tự nhiên sinh”. Người đã tiên đoán được rằng Thiền môn sẽ phát dương quang đại, và quả thực sau này, tông môn ấy đã tách ra làm năm chi phái lớn là Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Độn, Vân Môn và Pháp Nhãn. Đạt Ma sư tổ đi rồi, ánh sáng tâm linh của người soi rọi tới Nhị tổ Huệ Khả, Huệ Khả đại sư để lại bài kệ rằng: “Duyên vốn cần đất tốt, Có đất mới trồng nên, Nếu không chăm không bón, Chẳng khi nào hoa lên”. Sang đời thứ ba, Tam tổ Tăng Xán dạy: “Hoa trồng tuy nhờ đất, Từ đất trồng mới ra, Nhưng không người tưới bón, Chẳng có đất lẫn hoa”. Tứ tổ Đạo Tín kế thừa y bát, cũng viết bài kệ rằng: “Lẽ trồng hoa sinh trưởng, Nhờ đất mầm ra hoa, Thiếu duyên và tính hợp, Phải ra cũng không ra”. – Cô nhìn Hoa Sinh, mỉm cười nói. – Từ đó đủ thấy, chữ Hoa Sinh ở đây có nghĩa là “giác ngộ thì gặp được Phật, làm cho Thiền môn phát dương quang đại”. Hoa Sinh à, sư phụ ngươi gửi gắm rất nhiều vào ngươi đó, đừng phụ kỳ vọng của người nhé!

Hoa Sinh không để vào tai, chỉ ậm ừ, hùng hục ăn thịt uống rượu. Lương Tiêu vừa nghe các điển cố Thiền môn vừa ngắm bộ dạng phàm phu của chú ta, sực nhớ ra một chuyện, nhướng mày cười bảo:

- Ngươi luyện Đại kim cương thần lực, chả trách khỏe như vậy. Trong tên có một chữ “tửu”! Ha ha, “tửu” này không phải là rượu đâu, mà là “cửu” trong thất bát cửu thập ấy. Hoa Sinh, sư phụ ngươi tên là Cửu Như, đúng không[4]?

Hoa Sinh giật mình ngẩng đầu, cặp mắt tròn xoe:

- Sao… sao ngươi biết?

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Hóa ra toàn người quen cũ. Năm xưa hai bên hội ngộ ở khe núi có bàn cờ đá, ta đã lừa nó ăn cả một vốc gai còn gì!”. Gặp được bạn rượu, gã rất cao hứng, bèn gác chuyện ân oán thuở thiếu thời sang một bên, cứ luôn tay rót rượu, luôn mồm uống cạn, chỉ thoáng chốc đã cùng Hoa Sinh làm sạch một vò.

Hiểu Sương nhớ ra Lương Tiêu đang bị thương, thấy gã uống như hũ chìm, bèn can:

- Rượu nhiều hại thân.

Lương Tiêu bèn ngừng uống, tỉ tê hỏi chuyện Hoa Sinh:

- Sư phụ ngươi đâu?

Hoa Sinh buông chén xuống bàn, bặm bặm môi:

- Sư phụ… sư phụ đuổi mỗ rồi.

Lương Tiêu và Hiểu Sương đều kinh ngạc.

- Tại sao vậy? – Hiểu Sương hỏi.

Hoa Sinh gục đầu buồn bã:

- Mỗ cũng không hiểu! Hai thầy trò đang trải qua những ngày ăn thịt uống rượu tiêu dao khoái lạc, bỗng dưng một bữa kia, sư phụ gọi mỗ lại hỏi: “Hoa Sinh ơi, năm nay con bao nhiêu tuổi?”. Mỗ biết đâu được đấy, bèn đáp: “Sư phụ bảo bao nhiêu thì con bấy nhiêu!”. Sư phụ thở dài: “Tính sơ sơ thì cũng phải mười sáu mười bảy chứ không ít, đã đến lúc bước ra với đời cho mở mang tầm mắt rồi!”. Mỗ nghe vậy không khỏi kinh hãi, nghĩ bụng từ nhỏ đã bám lấy cà sa của sư phụ, nay hạ sơn một mình chẳng phải là đáng sợ lắm ư? Bèn níu sư phụ năn nỉ thoái thác. Sư phụ nói: “Được lắm, hôm nay ta hỏi con mấy câu, trả lời đúng thì ở lại, bằng không thì xuống núi”. Mỗ liếc vò rượu đang hâm đằng lò, mồm cứ bứt rứt thèm thuồng, bèn nói: “Có gì cần hỏi từ từ để sau cũng được, chứ rượu thì phải uống ngay lúc nóng thầy ạ”. Không ngờ sư phụ điên tiết táng mỗ một cái nảy lửa, mắng xối xả: “Tham như mõ ấy, chỉ biết uống thôi! Dỏng tai lên nghe ta hỏi, trả lời sai thì đừng hòng ăn với uống!”. Nói rồi người chìa tay: “Đây là gì?”. Mỗ vừa bị cái đấy nện cho liểng xiểng, làm gì không biết, bèn nhanh nhảu đáp: “Tay thầy!”. Sư phụ tát mỗ một cái méo mặt, mắng mỏ: “Ngu, đây là Phật thủ!”.

Chú tiểu nhìn bàn tay mình đầy thắc mắc:

- Tới tận bây giờ mỗ vẫn không hiểu, bàn tay hai thầy trò giống y như nhau, tại sao tay mỗ gọi là tay, tay sư phụ lại gọi là Phật thủ?

Hiểu Sương nhíu mày:

- Ta đọc sách, thấy nói tuyên ngôn của Thiền môn là vượt Phật hơn Tổ, duy ngã độc tôn. Theo truyền thuyết, Thích Ca Mâu Ni lúc ra đời đã đi từ đông sang tây bảy bước, lại đi từ nam sang bắc bảy bước, giơ tay trỏ trời trỏ đất mà rằng: “Trên trời dưới bể, khắp tứ duy chỉ có mình ta là lớn”. Vì vậy các đại sư của phái Thiền tông đều học theo cử chỉ này, không tín phục cả người xưa lẫn người nay, chỉ tin tưởng bản thân, nhận chân bản tính, tâm niệm rằng mình sẽ trở thành một Phật tổ duy ngã độc tôn dưới vòm trời, người ta gọi đó là “Kiến tính thành Phật”. Mà đã thành Phật rồi thì bàn tay sẽ là Phật thủ thôi.

Hoa Sinh lắc đầu:

- Mỗ không tin, một đứa nhóc mới ra đời thì đi thế quái nào được? Nhất định là cái tên Thích Ca Thích Hát ấy đã lừa người ta rồi!

Hiểu Sương sững sờ kêu lên:

- Thiện tai, thiện tai! Hoa Sinh, ngươi là hòa thượng, sao có thể nói những lời thất lễ nhường ấy về Phật tổ?

Vẻ mặt nghiêm khắc của Hiểu Sương khiến chú tiểu chột dạ, chẳng biết mình sai ở đâu, chú ta đành bối rối xoa cái đầu trọc lốc, vẻ mặt khổ sở. Lương Tiêu cười thầm: “Tên này không tin cả Thích Ca Mâu Ni, theo lý thuyết duy ngã độc tôn của Hiểu Sương thì chẳng phải đã thành một nửa Phật tổ rồi ư?”. Gã rót rượu cho chú tiểu, gợi ý:

- Thôi bỏ chuyện ấy đi, sau đó thế nào?

Hoa Sinh uống rượu, tinh thần phấn chấn, kể tiếp:

- Sau đó sư phụ tợp một ngụm cay, dạng hai chân hỏi mỗ rằng: “Được lắm, ngươi khá nói xem, đây là cái gì?”. Lần này mỗ giương mắt nhìn kỹ đâu ra đấy rồi mới cẩn thận đáp: “Chân của sư phụ”. Ngờ đâu sư phụ đá mỗ một phát, mắng: “Ngu, chân lừa!”. Các ngươi bảo có lạ không? Mỗ chưa từng trông thấy tay Phật, dẫu sư phụ có bịp thì mỗ cũng công nhận đi, nhưng chân lừa thì mỗ trông thấy rồi! Khác hẳn chân sư phụ!

Lương Tiêu cười thầm, nhưng Hiểu Sương lại hết lòng giúp Hoa Sinh giải đáp:

- Đạo Phật có câu: Chúng sinh bình đẳng. Bất kể Phật, người hay cầm thú cũng đều là sinh linh, nên có sự kính trọng lẫn nhau. Câu chuyện về bàn tay Phật và bàn chân lừa ấy nên được hiểu đơn giản thế này: chúng sinh bình đẳng, không phân quý tiện.

Hoa Sinh há hốc mồm, đầu óc rối beng, những lời Hiểu Sương nói quá ư huyền diệu, vượt quá tầm tiếp thu của chú ta, có khi vò đầu bứt tai mười năm nữa cũng chưa thẩm thấu được. Lương Tiêu thấy Hiểu Sương cứ dồn hết tâm tư để giải thích những lời lẽ lung tung bừa bãi của Cửu Như thì méo xệch mặt, không biết nên can hay mặc kệ nữa.

Hoa Sinh nghĩ ngợi hồi lâu, trù trừ hỏi:

- Vậy, vì sao người ta không mọc đuôi xoắn như lợn?

Hiểu Sương ngẩn ra không biết trả lời thế nào, Lương Tiêu vỗ tay cười:

- Hỏi hay lắm, lắt léo lắm!

Hoa Sinh thấy gã tán dương mình thì rất khoái chí, nhe răng cười hềnh hệch, chợt lại buồn thiu, thở dài:

- Tiếc thay, sư phụ không biết được cái hay của mỗ, mắng té tát một hồi rồi nói: “Ta hỏi ngươi câu cuối cùng, bình sinh việc ngươi muốn làm nhất là gì?”. Câu này quá ư đơn giản, mỗ đã từng nghiền ngẫm, cũng từng mơ mộng về nó không ít lần nên chẳng buồn nghĩ ngợi, vọt miệng đáp luôn: “Con muốn tắm rửa ngủ nghê trong ao rượu, khi tỉnh dậy là trông thấy phòng thiền treo lúc lỉu thịt chó”.

Câu trả lời thật đáng khiếp hãi. Hiểu Sương chết sững, Lương Tiêu cũng phải đổi sắc mặt, bụng bảo dạ: “Tồi bại hết mức, là thân hòa thượng mà còn tơ tưởng đến cuộc sống đắm chìm trong ao rượu rừng thịt như thế nữa!”. Gã không nhịn được, bèn hỏi:

- Lần này trả lời đúng chứ hả?

Hoa Sinh thở dài đánh sượt, lắc đầu:

- Mỗ cũng tưởng vậy là hoàn hảo lắm rồi, chẳng ngờ sư phụ buồn bã ra mặt, đờ đẫn hồi lâu thì xoa đầu mỗ mà rằng: “Hoa Sinh ơi, bao giờ cái đầu đần độn của con mới sáng sủa được một chút? Xem chừng con không phải là loại sinh ra để tham thiền ngộ đạo, đừng làm đồ đệ của ta nữa!”. Các ngươi nghĩ xem, mỗ theo sư phụ từ nhỏ, đời này kiếp này là đồ đệ của người rồi, rời sư phụ thì ai cho mỗ ăn thịt uống rượu đây? Vì thế những lời ấy làm mỗ vừa kinh ngạc vừa thất đảm, một trăm, không, phải là một nghìn một vạn lần nằng nặc không chịu, quệt nước mắt nước mũi lăn lộn như ăn vạ để níu kéo người. Sư phụ bị mỗ quấy quá, không nói năng gì nữa. Mỗ tưởng sự việc coi như xí xóa cho qua, nào ngờ… – Hoa Sinh nói đến đây thì bặm môi ôm mặt, nước mắt như mưa, sụt sịt kể nốt. – Hôm sau, khi thức dậy, mỗ không thấy sư phụ đâu, gạo mì rượu thịt cũng biến mất, mỗ đợi mấy hôm liền nhưng sư phụ không quay về, bụng đói ngấu, chẳng còn cách nào khác đành hạ sơn…

Chừng chua xót quá, Hoa Sinh gục mặt lên bàn khóc tấm tức, vừa khóc vừa gọi:

- Sư phụ ơi, thầy ở đâu? Hoa Sinh nhớ thầy quá, hu hu hu…

Tiếng khóc thảm thiết khơi gợi nỗi nhớ nhà của Hiểu Sương, khuôn mặt cô buồn thảm hẳn đi. Lương Tiêu vỗ về:

- Đừng khóc nữa Hoa Sinh! Uống rượu nào!

Hoa Sinh nghe tới chữ “rượu” thì phấn chấn trở lại, ngẩng đầu lên ôm lấy cái vò, cạn thêm mấy chung, khuôn mặt đã tươi tỉnh như thường. Lương Tiêu hỏi:

- Bây giờ ngươi có dự tính gì chưa?

Hoa Sinh lộ vẻ hoang mang, lắc lắc đầu. Lương Tiêu cau mày:

- Vậy ta hỏi ngươi, vì sao ngươi cứ nhằng nhẵng bám theo huynh muội ta?

Hiểu Sương ngạc nhiên nhìn chú tiểu. Hoa Sinh rất sửng sốt, ấp úng nói:

- Sao… sao ngươi biết?

Lương Tiêu phì cười:

- Ngươi vụng về lắm, che mắt ta sao nổi!

Hoa Sinh choáng váng, đỏ mặt lắp bắp:

- Vì… vì các ngươi tốt bụng, từ lúc hạ sơn tới giờ mỗ chưa gặp ai tử tế với mình như thế. Đi theo các ngươi mỗ cảm thấy rất vững tâm.

Hiểu Sương sinh lòng thương hại chú tiểu lưu lạc giang hồ, tính tình lại ngờ nghệch, đi tới đâu cũng bị ức hiếp. Cô ngập ngừng đưa mắt nhìn Lương Tiêu. Gã này hiểu ngay, gật đầu bảo Hoa Sinh:

- Ngươi có sức vóc, giúp ta mang vác hành lý vậy nhé?

Hoa Sinh hớn hở đáp ngay:

- Chuyện nhỏ! Được đi theo các ngươi là tốt lắm rồi!

Từ đấy trở đi, trong lòng không còn lo ngại gì nữa, chú ta nói chuyện cởi mở hẳn lên, ôm chặt vò rượu mà khề khà cho đến khi cạn trơ rồi chất các bao gói tay nải lên lưng, xoa cái đầu trọc lóc, khuôn mặt tươi tỉnh chuẩn bị lên đường. Lương Tiêu vốn ưa những người hiền lương chất phác, trông bộ dạng Hoa Sinh như vậy rất lấy làm dễ chịu, bèn vẫy tay cười:

- Vội gì, ăn cơm xong rồi đi cũng chưa muộn.

Hoa Sinh lúng túng hạ hành lý xuống, ngồi trở lại ghế nhặt bánh bao vừa cười lỏn lẻn vừa ngấu nghiến nhai.

Cơm rượu đẫy bụng, Lương Tiêu đang định gọi tính tiền, bỗng đằng cửa quán vang lên tiếng cười khanh khách rất quen tai, một hán tử áo xanh ngồi án ngữ ngay lối vào. Lương Tiêu ngạc nhiên nghĩ: “Đàn ông đàn ang mà sao cười the thé như đàn bà thế không biết?”. Người nọ đứng dậy ngoảnh đầu lại, phô ra khuôn mặt đẹp như ngọc, dáng vóc cử chỉ yêu kiều lạ thường. Lương Tiêu thấy quen mắt quá, nghĩ một lúc sực nhớ ra, cười nhạt:

- Hàn Ngưng Tử, ngươi định giả trang lừa ai thế?

Hàn Ngưng Tử nhếch mép:

- Mưu kế bại lộ rồi! – đoạn nhìn Hiểu Sương, nở nụ cười thâm độc. – Lương Tiêu, ngươi thay lòng đổi dạ nhanh thật, đầu tiên là Oanh Oanh, kế đến A Tuyết nhà ta, bây giờ lại tới tiểu cô nương… à, không biết cao danh quý tính là gì nhỉ?

Hiểu Sương định xưng tên, Lương Tiêu liền cắt ngang:

- Ngươi vô lễ quá đấy!

- Ta chỉ hỏi tên họ, có gì mà vô lễ?

Lương Tiêu vốn căm Hàn Ngưng Tử hại Lăng Sương Quân để liên lụy đến Hoa Hiểu Sương nên cố ý châm chọc cho bõ ghét:

- Ngay tên họ của bà cô ngươi mà ngươi còn phải hỏi, mất gốc như thế không phải là vô lễ hay sao?

Hàn Ngưng Tử chỉ nhếch mép, khẽ xoay mình đi, thình lình hất tay nhanh như chớp. Một cái bát sứ men hoa văng lên không lướt về phía Lương Tiêu. Lương Tiêu né người sang bên, xòe tay phải gạt phăng bát rượu trước mặt. Hai cái bát lao vút tới, va vào nhau giữa không trung. Sau một tiếng động giòn tan, bát sứ men hoa vỡ thành tám mảnh, bát rượu hoàn toàn không suy suyển, vẫn bay thẳng tới Hàn Ngưng Tử.

Họ Hàn hoảng vía khép chưởng đỡ. Lương Tiêu liền kích thêm một chưởng hầu đẩy nhanh tốc độ bát rượu. Nội kình của gã hùng hậu hơn hẳn ngày xưa, Hàn Ngưng Tử không dám đỡ chưởng lực trùng, đành nhảy tránh. Bát rượu bay vù tới, vạch một đường cong trong khoảng không rồi cắm phập vào bức vách đất dày tám tấc, rượu trong bát vẫn không văng ra ngoài lấy một giọt. Hàn Ngưng Tử tái mét mặt.

Lương Tiêu nhủ bụng, đã ra tay quyết làm cho trót, phải giết chết nữ ma đầu này đặng trừ hậu hoạn cho Hiểu Sương. Mắt tối dần vì sát khí, gã dợm đứng lên. Hàn Ngưng Tử bỗng cười khanh khách:

- Mấy năm không gặp, võ công ngươi cũng khá lên nhiều nhỉ! Xem chừng có thể cứu được Liễu Oanh Oanh đấy!

Lương Tiêu sắp sửa xuất thủ, nghe câu ấy tim bỗng thót lại, khí thế hơi nhụt đi:

- Ngươi chết tới nơi rồi, còn bịa chuyện nữa ư?

Hàn Ngưng Tử lắc đầu liếc Hiểu Sương, giọng kéo dài:

- Say bên người mới vui cười, Hay đâu người cũ lệ rơi chan hòa[5]. Liễu Oanh Oanh thật là có mắt như mù, tại sao cam chịu giam cầm hành hạ vì một kẻ bạc tình bạc nghĩa như ngươi kia chứ!

[1] Gặp tiểu Hoa Sinh.

[2] Trích bài từ theo điệu Hạ Tân Lang của Tân Khí Tật. Câu này thể hiện tâm thế gửi tình vào non nước, tìm mối tri âm với thiên nhiên của tác giả, được sáng tác với thủ pháp tương tự câu Tương khán lưỡng bất yếm (nhìn nhau không chán mắt) trong bài thơ Độc tọa Kính Đình sơn của Lý Bạch.

[3] Lão Tửu là rượu. Hoa Sinh là lạc (đậu phụng), một thức người ta thường nhắm khi uống rượu.

[4] Trong tiếng Trung, chữ “tửu” và chữ “cửu” đồng âm, đều đọc là jiu.

[5] Câu trong bài thơ Giai nhân của Đỗ Phủ.


Nghe mấy chữ “giam cầm hành hạ”, Lương Tiêu không khỏi xao động, cố gắng lắm mới giữ được giọng bình thản:

- Ngươi định giở trò quỷ gì đây?

Hàn Ngưng Tử lui nửa bước đề phòng gã tập kích, cười hí hí:

- Không tin thì thôi, việc gì phải giở bộ dạng ngáo ộp ấy ra mà nạt người? Muốn giết ta à, được lắm! Ta mà chết, ngươi cũng đừng hòng dò biết Liễu Oanh Oanh ở chốn nào.

Lương Tiêu nghẹn họng, nín lặng hồi lâu rồi lạnh lùng đáp:

- Ở chốn nào cũng chẳng dính dấp gì tới ta! Ngươi đem những lời ấy mà nhả vào tai Vân Thù.

Hàn Ngưng Tử phì cười:

- Ngươi nhỏ nhen đến mức đáng ngạc nhiên. Tội nghiệp Oanh Oanh ôm mối si tâm mà cuối cùng phải chịu cảnh bẽ bàng thế này! – Nói đoạn, thị rũ tay áo bỏ đi.

Lương Tiêu nóng nảy vỗ bàn quát:

- Hàn Ngưng Tử, ngươi mau nói cho rõ ràng, bằng không hãy bỏ cái đầu lại đây!

Hàn thị duyên dáng xoay mình lại:

- Ta chẳng hơi đâu bận tâm đến những ân oán của các ngươi, nhưng thôi, nể mối si tình của Liễu Oanh Oanh, ta cũng kể sơ qua cho ngươi nắm được sự việc. Một năm trước đây, Oanh Oanh bị Sở Tiên Lưu bắt, giam cầm trong Thiên Hương sơn trang trên núi Cửu Hoa. Chuyện sau thế nào thì ta không tường, có điều, con người khả ái mỹ miều nhường ấy mà rơi vào tay quân háo sắc già đời thế kia, chỉ e… – Nhận ra mắt Lương Tiêu rực lên từng hồi, Hàn Ngưng Tử ngừng lời, cười giòn cất bước, thong thả đi ra khỏi quán.

Lương Tiêu trừng trừng nhìn theo cho đến khi cái dáng yểu điệu ấy biến mất, mặt mỗi lúc một trắng bệch, mồ hôi rịn dần thành những hạt to rồi lộp độp nhỏ xuống. Hiểu Sương không rõ Hàn Ngưng Tử đề cập đến chuyện gì, song cũng đoán được những điều thị nói hết sức quan trọng đối với Lương Tiêu. Trông gã thần tình hoảng hốt, người cứng như hóa đá, cô lo lắng hỏi:

- Tiêu ca ca, huynh không sao chứ?

Lương Tiêu ậm ừ, móc trong túi ra một xâu tiền quẳng cho tiểu nhị, không đợi hắn trả tiền thừa đã vội vã bước ra cửa. Hiểu Sương luống cuống dắt lừa, gọi Hoa Sinh đi theo.

Lương Tiêu bước vùn vụt như gió, men rìa sông chạy một mạch về phía tây. Thình lình gã dừng bước, nặng nề ngồi xuống bờ đê, thất thần nhìn sóng nước Hoàng Hà cuồn cuộn. Hiểu Sương thắc mắc vô cùng nhưng không tiện quấy nhiễu tâm tư gã, bèn giữ Hoa Sinh ngồi mãi đằng xa quan sát. Trước khi rời quán, Hoa Sinh đã nhanh tay vơ hết thịt bò bánh bao còn thừa nhét vào đãy riêng, bây giờ lấy ra sung sướng thưởng thức, chẳng hơi đâu lên tiếng làm phiền bụng ai.

Lương Tiêu thẫn thờ ngồi nhìn dòng sông đến nửa canh giờ mới đứng dậy, ngó Hiểu Sương với ánh mắt do dự, ngập ngừng bảo:

- Có khi ta phải xuống nam một chuyến, muội chịu khó đi cùng ta nhé!

Hiểu Sương đáp ngay:

- Huynh khách sáo thế! Bất kể nam hay bắc, huynh đi đâu thì muội đi đấy. Suy cho cùng, đối với một đại phu, chữa bệnh ở miền nào cũng như nhau cả thôi.

Lương Tiêu lặng người: “Huynh đi đâu thì muội đi đấy?”. Gã lẩm nhẩm câu ấy mấy lượt, khóe miệng nhếch thành một nét cười thê thảm. Hiểu Sương nghi ngại:

- Huynh làm sao thế?

Lương Tiêu thở dài buồn bã:

- Trước đây có một người cũng nói với ta câu này, ta đã đồng ý, tiếc rằng người ấy thực hiện được mà ta thì… thất hứa.

Mắt gã nhòe đi vì đau đớn. Hiểu Sương bỗng nghe lòng chua xót lạ lùng, buột miệng hỏi:

- Người ấy… là ai?

Lương Tiêu trừng trừng nhìn cô, chợt buông thõng một câu:

- Ta là một kẻ sống thừa khốn nạn, muội đi cùng ta, chỉ tổ vấy bẩn vào thân.

Hiểu Sương sững sờ, run rẩy nói:

- Vì sao huynh lại thốt ra những lời không đâu vào đâu như vậy? Muội… không muốn nghe. – Cô nghẹn lời, hàng mi mỏng manh chớp nhẹ, hai giọt nước mắt ứa ra.

Lương Tiêu định khuyên Hiểu Sương quay về nhà, nhưng trông thấy cô rơi lệ, bao câu chực nói đều tắc ứ. Gã buồn buồn thở dài, lau mặt cho cô:

- Thôi, ta không nói thế nữa.

Ở đằng kia, Hoa Sinh ngừng nhai bánh bao nhân thịt, trố mắt ngó hai người. Hiểu Sương nín khóc, nhớ ra còn có chú ta nên đâm ngượng, lảng sang chuyện khác:

- Khởi hành thôi huynh!

Lương Tiêu gật đầu, đỡ cô lên lừa rồi dắt dây cương đi trước, Hoa Sinh cõng tay nải theo sau, cùng tiến về phương nam.

Trên đường đi, Lương Tiêu rất hiếm khi mở lời, những lúc rảnh rỗi chỉ lo luyện quyền luyện kiếm. Hiểu Sương không đoán được gã đang nghĩ gì, lòng buồn khôn tả, đành tìm khuây trong y thư. Hai người giữ mãi thái độ trầm mặc, Hoa Sinh chẳng biết trò chuyện cùng ai nên cũng ngậm câm, may thay bản tính chú ta đơn giản, hễ có rượu thịt bầu bạn là đủ hài lòng.

Đi được mấy ngày, họ vượt qua sông Trường Giang tiến vào địa giới An Huy. Giờ ngọ hôm ấy, ba người tới một quán trọ dùng cơm. Đúng lúc họ ngồi xuống, có tiếng vó ngựa dừng phắt ngoài cửa, rồi tiếng kỵ sĩ vang rền:

- Tiểu nhị! Lấy hai cân rượu và mười cân thịt bò, mau mang lên đây, các gia gia còn bận nhiều việc!

Lương Tiêu nghe giọng khàn đặc rất quen tai, chưa đoán ra ai thì một giọng khác đã tiếp luôn:

- Lôi Chấn lão đệ, cứ từ từ, con nữ tặc đó như cua bò trong giỏ, không chạy thoát được đâu!

Lương Tiêu sực nhận ra, người thứ hai chính là Cửu đầu ngoan Bạch Tam Nguyên. “Con nữ tặc” mà lão nhắc đến ắt hẳn là Liễu Oanh Oanh. Gã hồi hộp lắng tai nghe tiếp.

Lôi Chấn ngồi đánh ình xuống ghế, làu bàu tức giận:

- Lần này mọi người phải đồng tâm hiệp lực buộc Sở lão nhi giao con ranh ấy ra. Đẹp mặt thật, già khú đế mà còn chơi trống bỏi, ôm khư khư con tiểu dâm phụ không buông. Ai cho phép thế?

Bạch Tam Nguyên vỗ đùi đánh đét, hằn học phụ họa:

- Đúng! Con tiện nhân ấy đã giết ái tử của ta, lại gây ra bao nhiêu vụ tày trời, đâu thể dễ dàng bỏ qua cho ả được! Cũng may là Lôi lão đệ đến báo để Bạch mỗ có cơ rửa hận. Bất luận ra sao, hôm nay nhất định ép Sở Tiên Lưu phải giao người. Không mổ bụng moi gan con khốn đó để tế vong hồn hài nhi thì Bạch Tam Nguyên này là đồ chó đẻ!

Hai tên thi nhau rủa xả, càng lúc càng chướng tai tục tĩu, lăng nhục Liễu Oanh Oanh bằng đủ mọi lời bẩn thỉu. Chửi bới đã đời cũng vừa xong bữa, họ bèn lấy giấy dầu bọc phần thịt thừa, gọi thêm một bầu rượu nóng rồi tính tiền ra đi.

Ngựa phi khi nhanh khi chậm, dần dần, cây cối hai bên đường dày rậm hơn lên. Giữa vùng hoa đỏ lá xanh thấp thoáng nhiều mái ngói cong vút, vòng qua một vạt rừng, trước mặt họ mở ra một miền lá hoa bát ngát diễm lệ vô song. Miền lá hoa ấy ôm trọn một sơn trang rộng lớn, tường trắng ngói xanh xinh đẹp rỡ ràng. Lôi Chấn vung roi trỏ:

- Bạch huynh, đó chính là Thiên Hương sơn trang!

Bạch Tam Nguyên nhìn lên nhìn xuống, bốn bề xung quanh toàn những đóa hoa sặc sỡ, đình đài lầu các hết sức huy hoàng, lão không nén nổi một điệu cười ghen ghét:

- Tên khốn họ Sở cũng biết cách hưởng thụ lắm!

Vó ngựa đưa họ đến cổng trang. Trên bãi trống trước lối vào đang có hai tốp người đứng đối mặt nhau, ai nấy râu tóc dựng ngược, thái độ sừng sộ như sắp xô xát tới nơi. Trông thấy bọn Lôi Chấn, nhóm người đứng mé nam reo to:

- Lôi Đại lang, đến đúng lúc lắm!

Lôi Chấn nhảy xuống ngựa, vòng tay chào hỏi rồi bẩm với Lôi Hành Không:

- Trình cha, con và Bạch tiền bối bị lỡ bước trên đường nên đến muộn!

Lôi Hành Không gật đầu, túm tay họ Bạch ra chiều thân tình:

- Bạch lão đệ chịu nể mặt họ Lôi này mà tham dự, vậy là tốt quá rồi. Sở lão đại bảo chúng ta là hạng bất nghĩa, lão đệ thử đánh giá công bình xem, rốt cục chúng ta bất nghĩa hay có nghĩa?

Bạch Tam Nguyên nói lớn:

- Bất nghĩa hay có nghĩa thì trong lòng mỗi người tự biết. Năm xưa, ta phụng mệnh Cận đại hiệp ra sông bắt Bá Nhan, nào ngờ con nữ tặc họ Liễu không những câu kết với tên nguyên soái mà còn giết chết hài nhi của ta, luận công hay tư thì ta và nó cũng có mối thù bất cộng đái thiên.

Sở Cung không để lão nói hết, cười nhạt ngắt lời:

- Sau hôm ấy ngươi nhổ nước bọt vào mặt Cận Phi ngay trước đám đông, hôm nay lại xoen xoét đại hiệp tiểu hiệp gì nữa. Hừ, cả đời Sở mỗ chưa từng gặp kẻ nào lá mặt lá trái, trơ trẽn như ngươi!

Sở Cung vốn sẵn lòng khinh rẻ Bạch Tam Nguyên, muốn mọi người mất lòng tin vào lão ta bèn lật lại chuyện cũ mà châm biếm. Bạch Tam Nguyên căm giận nhưng cố sức kiềm chế, bình tĩnh nói:

- Đúng vậy, hôm ấy tiểu lão bị ma đưa lối quỷ dẫn đường, gây ra hành động thật đáng hổ thẹn. Cận đại hiệp là nhân vật đường hoàng anh hùng, độ lượng khoan dung như thần phật. Bạch Tam Nguyên thậm chí không đủ tư cách liếm chân đại hiệp. Đợt sau này, tiểu lão những mong kề vai sát cánh chống giặc với nghĩa quân, nhưng không còn mặt mũi nào đi gặp Cận đại hiệp, đành đấm ngực tự trách cơn rồ dại của mình. Mấy tháng trước, nghe tin đại hiệp tuẫn tiết vì tổ quốc, tiểu lão chỉ muốn lấy cái chết để kết liễu mọi sự, theo tạ lỗi với Cận đại hiệp dưới hoàng tuyền…

Lão vụt trở tay tát bốp vào miệng mình, ba cái răng theo đó văng ra, quanh mồm nhoe nhoét máu. Lôi Hành Không kinh ngạc nói:

- Bạch lão đệ, can gì phải thế?

Bạch Tam Nguyên khuỵu chân quỳ xuống, máu nhểu đầy áo, khóc ông ổng:

- Cái mồm này đã phỉ nhổ Cận đại hiệp, tội đáng muôn chết, có bào lưỡi cưa họng cũng không đủ bồi tội. Ngặt nỗi chưa rửa xong hận cho con trai yêu, tiểu lão không đành lòng lìa xa nhân thế. Hôm nay nếu giết được ả tiện nhân Liễu Oanh Oanh, tiểu lão lập tức tự chặt đầu mình để tế anh linh Cận đại hiệp!

Bộ dạng thảm thiết những dớt dãi, máu và nước mắt của lão già khiến toàn bộ đám võ giả có mặt ở cổng sơn trang cùng nảy lòng căm phẫn. Sục sôi vì nợ nước thù nhà, kẻ nào kẻ nấy hùng hổ gào thét đòi xông vào sơn trang. Sở Cung không ngờ mưu mẹo khích bác của mình thâm quá hóa vụng, làm bao nhiêu người điên cuồng cả lên thế kia, nhất thời lúng túng chưa biết xử lý ra sao.

Lôi Hành Không trợn mắt quát lớn, tiếng quát rền vang như sấm đè bẹp mọi lời ồn ào la ó. Không gian trở lại yên lặng, chỉ còn giọng lão oang oang:

- Có câu: vay nợ trả tiền, giết người đền mạng. Con nữ tặc họ Liễu phạm đủ mọi tội ác, gây ra toàn những trò vô liêm sỉ. Thiết Mộc kiếm của Sở Tiên Lưu tuy sắc bén nhưng chưa chắc đâm toạc nổi một chữ “lý”.

Lôi Chấn nhảy loi choi, la lối xách động:

- Sở gia bất chấp lý lẽ, chúng ta cũng không cần phân trần phải trái với họ.

Sở Cung cười nhạt:

- Đại lang, ngươi nói vậy rõ ràng có ý lấy thịt đè người tiêu diệt Thiên Hương sơn trang chúng ta phải không?

Lôi Hành Không độp lại:

- Sở lão đại, ngươi nói vậy là bất chấp lý lẽ, khăng khăng giữ nguyên chủ kiến phải không?

Sở Cung tự biết lỡ lời, chỉ hừ một tiếng, ngoảnh mặt đi.

Hai bên hậm hực như sắp lao vào nhau, bỗng một người tách ra khỏi đám đông, ôn tồn khuyên giải:

- Nước nhà đúng lúc lâm nguy, non sông đương phen tan nát, cớ sao các vị còn giằng co những chuyện nhỏ nhặt như vậy? Chi bằng đồng tâm hiệp lực, gia nhập nghĩa quân như Cận đại hiệp và Vân công tử phá giặc dữ đền nợ nước, thế chẳng hơn ư?

Mọi người ngoảnh nhìn. Kẻ vừa lên tiếng là Hà Tung Dương chứ nào phải ai xa lạ, có điều hắn nay đã gầy sọp, tóc mai lốm đốm bạc, mới mấy năm mà trông như già đi hàng chục tuổi. Hà Tung Dương nghiêm nghị bảo Sở Cung:

- Liễu Oanh Oanh chẳng qua chỉ là hạng trộm cắp giang hồ. Thiên Hương sơn trang đời đời trong sạch, hà tất trở mặt với bằng hữu thiên hạ vì một mình y thị? Chi bằng giao ả ra đây, mọi người ba mặt một lời, vạch hết tội lỗi của ả rồi mổ ruột moi tim để kết thúc mọi sự. Một là khôi phục hòa khí, xóa bỏ mắc mứu giữa các bên. Hai là nêu cao chính nghĩa giang hồ. Con khốn đó cùng một giuộc với tên ma đầu Lương Tiêu, nhân thể chúng ta đem ả ra tế cờ rồi cùng nhau lập thành nghĩa quân tiến sang bờ đông Trường Giang tử chiến với quân Thát. Chẳng nên lẵng nhẵng mãi vì một mối ân oán con con, mất cả chí khí của đại trượng phu đi!

Hà Tung Dương dứt lời, ai nấy đều tán đồng khen ngợi. Chợt có kẻ hỏi:

- Thiên hạ đồn rằng Vân Thù đại hiệp vẫn còn sống, tin ấy đích không?

Vân Thù tử thủ Tương Dương, đã mấy lần đẩy lui cường địch, không phụ kỳ vọng của người trong thiên hạ, anh hùng hào kiệt giang hồ đều khâm phục. Nghe tới tên gã, quần hào nín thở nhìn Hà Tung Dương, mắt ngời ngời niềm mong đợi. Tên cựu bộ khoái tỏ vẻ xúc động, giọng điệu cảm khái:

- Năm xưa Hà mỗ theo hầu quan phủ, phạm phải vô số lầm lỗi. Ngày nay sơn hà tan nát mới nhận chân được những sai sót xưa kia của mình, cũng may được Vân đại hiệp thu nhận vào trướng, vậy là còn cơ hội đoái công chuộc tội. Chuyến này Hà mỗ đến đây chính là theo lệnh Vân đại hiệp, mong chiêu tập các vị hào kiệt về cùng mưu chuyện khởi nghĩa. Sau trận chiến Thường Châu, Vân đại hiệp được người ta cứu, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, hiện nay đã tập hợp thuyền bè chuẩn bị hải chiến. Văn Thiên Tường thừa tướng cũng vừa thoát khỏi nanh vuốt Nguyên triều, đang chiêu mộ mấy chục vạn binh sĩ ở Giang Tây, sửa soạn quyết một trận thư hùng với quân Thát. Tình thế hiện tại rất có lợi cho chúng ta, tin rằng không đến hai năm nữa sẽ vãn hồi được giang sơn Đại Tống.

Tin Vân Thù còn sống khiến quần hào phấn khởi vô cùng, lại nghe có cơ may khôi phục non sông thì đều vui mừng múa may, nhốn nháo reo hò:

- Một ngày còn Vân đại hiệp, quân Thát đừng hòng chiến thắng!

- Đúng đúng, Vân đại hiệp võ công cái thế, thao lược gồm tài, có đại hiệp lãnh đạo, chúng ta sẽ dễ dàng xéo nát bọn Thát!

Ai nấy một bầu nhiệt huyết, càng nói càng hừng hực hào khí, nắm tay siết chặt, chỉ muốn lao ngay ra sa trường mà xung phong chém giết.

Lôi Hành Không đến đây chỉ vì Thuần Dương thiết hạp, chẳng hề hứng thú với vụ nợ nước thù nhà, nhưng tính vốn gian giảo, trước không khí ấy cũng hồ hởi góp tiếng:

- Hà lão đệ nói có lý lắm, ta hãy bắt con nữ tặc trước rồi giết bọn Thát sau để tỏ rõ uy phong của quân dân Đại Tống.

Đám hào kiệt đều đang nóng đầu, những muốn tìm nơi trút giận, nghe lão già nói thế liền đồng thanh hưởng ứng. Sở Vũ thở dài khuyên:

- Đại ca, công công nói phải đấy. Con tiện nhân đó gây nhiều tội ác, e rằng không còn cách nào bào chữa cho ả nữa. Tam thúc đức cao vọng trọng mà sao vẫn hồ đồ thế, lẽ nào người thực sự bị ả mê hoặc rồi ư?

Thị vốn rất kính trọng Sở Tiên Lưu, nhưng ngày ngày nghe nhà chồng phỉ báng, lại thêm mối căm hờn vì ngộ nhận Liễu Oanh Oanh giết con mình, lâu dần sinh niềm hoài nghi, cho rằng Sở Tiên Lưu đã già mà chưa trót đời, còn tham luyến nhan sắc của Liễu Oanh Oanh nên không muốn giao nộp ả.

Sở Cung đắn đo một thoáng rồi lắc đầu:

- Lời Tam thúc nặng tợ núi, trừ phi có kẻ thắng được Thiết Mộc kiếm, còn thì đã nói không giao Liễu Oanh Oanh là nhất định không giao!

Đám võ giả nhìn nhau ngơ ngác. Không khí lặng đi chốc lát, rồi ai đó hét to:

- Một người không thắng được, lẽ nào hai người cũng thua ư?

Lôi Hành Không hưởng ứng:

- Đúng vậy, một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Sở Tiên Lưu dẫu thần thông quảng đại đến đâu cũng chưa chắc địch nổi ngần này hảo hán.

Những tay hiếu chiến nhao nhao phụ họa. Nhà họ Sở thảy đều biến sắc, siết chặt chuôi kiếm. Việc đã đến nước này, Sở Cung đành bảo:

- Được, các vị đã có gan thì, mời! – đoạn nhích sang trái hai bước để rộng lối vào.

Nếu hắn khăng khăng ngăn cản, không chừng bọn kia sẽ ngang ngược xông vào thực, nay hắn xử sự khác với thói thường, nhượng bộ mở cửa thì đến Lôi Hành Không cũng phải phân vân, ngờ rằng có điều quái lạ: “Sở Tiên Lưu chưa xuất đầu lộ diện, trong kia lành dữ thực hư thật mù mịt, chỉ e lại có bẫy giăng nọc độc, khó tránh khỏi bị mắc lừa…”. Lôi Chấn quay ra đám đông nói lớn:

- Ngay sa trường cường địch chúng ta còn không sợ, sá gì một sơn trang nhỏ nhoi. Đây chẳng phải đầm rồng hang hổ, các huynh đệ cứ xông lên đi, đừng để người ta coi thường!

Đám hào kiệt nghe kích động, cảm thấy gan dạ hơn hẳn, cùng hò la cổ vũ nhau, chực chờ lao vào.

Sở Cung nhìn lưng Lôi Chấn, mắt bỗng sáng lên, nói mỉa:

- Lôi lão đệ, ngươi lợi hại lắm, ta đây bội phục!

Lôi Chấn quay lại cười nhạt:

- Không dám, niềm tự hào của Lôi mỗ cũng chỉ tập trung ở chút gan thỏ ấy thôi, chứ con người chẳng còn gì hay ho cả!

- Ta không khen cái sự bạo dạn của đệ, mà khen công phu viết chữ lên lưng của đệ cơ!

Lôi Chấn nghi hoặc:

- Ngươi nói năng bậy bạ gì đó?

Trong lúc ấy, mọi ánh mắt đã theo lời Sở Cung đổ dồn vào lưng Lôi Chấn. Lưng áo hắn quết đầy vết bóng, thoáng nhìn thì tưởng là những vệt dầu mỡ dây ra do sơ ý, nhưng nhìn kỹ có thể đọc được bốn chữ to tướng: “Ta là con lợn”. Chữ viết nguệch ngoạc, nét bút xiên xẹo, y như thể có người ăn cơm xong bôi luôn bàn tay nhoe nhoét mỡ màng vào đấy, ban nãy chắc mỡ chưa thấm vào áo nên nhìn không rõ, lúc này gió thổi làn áo phập phồng làm ánh bóng bắt sáng, nổi bật hẳn lên. Ai nấy nhìn rõ liền xì xào bàn tán, vừa kinh ngạc vừa buồn cười, đám người nhà Lôi Công bảo thì hầm hầm nét mặt.

Lôi Chấn nghe nhộn nhạo không hiểu ra sao, chột dạ ngoái cổ ngó nghiêng, mất hẳn bộ điệu oai phong vừa rồi. Sở Cung cười bảo:

- Lôi Đại lang, ngươi đã tự nhận mình là con lợn thì lão phu cũng không chấp ngươi nữa, vì lão phu là người mà… Ha ha! Mời! Mời! – đoạn trỏ tay về phía chuồng lợn ở góc tường.

Lôi Chấn tức sùi bọt mép:

- Ngươi mới là con lợn! – đoạn vung quyền định đấm Sở Cung.

Sở Vũ sượng mặt can:

- Đại lang, không trách được huynh ấy! Có trách thì trách áo quần của huynh thôi!

Lôi Chấn trừng mắt:

- Trách áo quần? Áo quần biết thóa mạ người ta hay sao?

Sở Vũ bối rối, không biết đáp lại thế nào. Bạch Tam Nguyên cũng thân với Lôi Chấn, liền bước lên khỏi đám đông, nói thẳng:

- Lôi lão đệ! Cởi áo khoác ra mà xem!

Lôi Chấn lột phăng áo choàng, định thần nhìn kỹ, lập tức đực mặt ra.

Bạch Tam Nguyên lúc này cũng đứng quay lưng lại quần hào, ánh mắt họ liền đổ dồn vào lưng áo lão. Có kẻ xướng lên rành rọt:

- Ta là chó ghẻ!

Hắn vừa dứt lời, xung quanh người ta cười rộ. Tên vừa đọc bối rối phân bua:

- Đâu phải nói ta, Cửu đầu ngoan mới là chó ghẻ!

Bạch Tam Nguyên nổi khùng, quay lại nhìn tận mặt kẻ sủa bậy, lạnh lùng hỏi:

- Lộc Đại Tiều, lão tử không thù không oán với ngươi, tại sao ngươi xúc phạm lão tử?

Dứt lời, lão dằn chân bước tới, mắt lộ hung quang. Lộc Đại Tiều tái mặt thanh minh:

- Ngươi viết những lời ấy lên lưng thì được, người khác đọc thành tiếng thì không được à?

Bạch Tam Nguyên biến sắc, vội vàng tuột áo xem. Quả nhiên vạt áo sau nhoe nhoét dầu mỡ, viết đúng bốn chữ mà họ Lộc vừa xướng lên. Nhìn kỹ có thể nhận ra nét chữ này cũng chính là nét chữ viết trên lưng áo Lôi Chấn.

Trước ngần ấy anh hùng hào kiệt, Lôi Hành Không cảm thấy chẳng còn chút thể diện nào, bèn điểm mặt con trai mắng:

- Đồ hậu đậu, chuyện gì thế?

Lôi Chấn quệt mồ hôi rịn đầy trên trán, run sợ đáp:

- Hài nhi hoàn toàn… không hiểu.

Quần hào thảy đều kinh hãi: “Bạch Tam Nguyên võ công bình bình, không biết ai viết lên lưng mình đã đành, nhưng Lôi Chấn là nhân vật có thứ hạng cao trong võ lâm mà cũng mù mờ như thế, chứng tỏ bản lĩnh thủ phạm cao thâm khôn lường”.

Bạch Tam Nguyên nổi trận lôi đình, hai mắt tóe lửa, quát tháo ầm ĩ:

- Rốt cục là kẻ nào? Có giỏi thì đường hoàng bước ra đấu với lão tử một trận, thò đầu rụt cổ giở trò ám toán trong bóng tối đâu phải là hảo hán!

Bọn hào kiệt im lặng, ngơ ngác nhìn nhau, không ai bước ra. Bạch Tam Nguyên càng thêm hung hăng, giậm chân định thóa mạ thật nặng nề thì một giọng rành rọt vẳng tới:

- Kẻ đưa chuyện chửi bới sau lưng nữ nhân có thể coi là hảo hán được không?

Cùng với tiếng nói, hai nam một nữ dắt theo lừa trắng ung dung xuất hiện. Một trong hai nam nhân là người xuất gia, kẻ còn lại tuổi ước hai mươi, đĩnh đạc anh tuấn, áo trắng ngời ngời, tóc đen vấn sơ thả xõa trên vai, hông giắt một thanh trường kiếm bằng tre, tay cầm bó lạt. Mấy chục sợi lạt như có linh tính, cứ lật bật nhảy múa giữa các ngón tay gã, kết thành một cái vòng tre hình thù kỳ lạ. Gã vừa bước vừa tết vòng, miệng nói nhưng mắt chẳng nhìn một ai.

Bạch Tam Nguyên và Lôi Chấn ngó nhau, sực nhớ lúc dừng chân ăn cơm quán quả có gặp ba người này. Cả hai giật mình, Bạch Tam Nguyên quát:

- Tên đan tre kia…

Thiếu niên nọ chính là Lương Tiêu, cười cười cắt ngang:

- Ta không đan tre, chuyên đan người thôi…

Bạch Tam Nguyên tức giận quát:

- Đan gì mặc kệ ngươi, những chữ này do ngươi viết phải không?

Lương Tiêu mỉm cười:

- Chữ nào cơ?

Bạch Tam Nguyên vọt miệng đáp:

- Ta là ch…

- Bạch lão đệ! – Lôi Hành Không vội nhắc.

Bạch Tam Nguyên giật mình, gắng nén lại đoạn “…ó ghẻ”, trừng mắt nhìn đối phương, hú hồn nghĩ bụng: “Tên này gian xảo thật, suýt nữa mắc lỡm của hắn!”. Lão muối mặt quá, càng nghĩ càng căm hờn, liền vung mái chèo sắt, nháy mắt ra hiệu với Lôi Chấn. Cả hai nhảy phốc tới, một trái một phải, đồng thời áp sát Lương Tiêu.

Gã thiếu niên không buồn ngước mắt, búng mạnh hai sợi lạt. Bạch Tam Nguyên và Lôi Đại lang cùng đau nhói nơi cổ tay, sợi lạt nhỏ xuyên vào huyệt Liệt khuyết và thò ra đằng huyệt Thần môn của họ. Thân trên tê dại, cả hai hoảng hốt vùng vẫy. Nội lực của Lương Tiêu bắt đầu chảy theo những sợi lạt vào cơ thể họ, luồn lách buồn buồn trong các kinh mạch. Liệt khuyết huyệt thuộc Thủ thái âm phế kinh, Thần môn huyệt thuộc Thủ thiếu âm tâm kinh, hai mạch tâm phế cùng bị khống chế một lượt gây ảnh hưởng đến toàn thân. Vừa khó thở, vừa tê liệt, Bạch Tam Nguyên đánh rơi mái chèo sắt, tay chân bải hoải không còn chút khí lực nào.

Quần hào cả kinh, định xông lại cứu. Mười ngón tay Lương Tiêu liền cử động thoăn thoắt, thắt hai sợi lạt trên cánh tay Lôi Chấn và Bạch Tam Nguyên thành vòng tròn, xỏ vào cái vòng to bằng tre cầm trong tay. Đám đông xung quanh khua binh khí, hò hét xúm lại. Lương Tiêu hừ mũi, xoay một lượt từ trái sang phải, thi triển công phu Bích vi tiễn bắn những sợi lạt nhỏ ra bốn phương tám hướng, hệt như linh xà quẫy động trong không trung, dệt thành một tấm lưới dày rộng. Chỉ thoáng chốc, bọn hào kiệt đều bị trúng hai huyệt Liệt khuyết và Thần môn, kêu gào thê thảm. Các ngón tay Lương Tiêu bật nhoay nhoáy, vừa bắn lạt mảnh vừa thắt những vòng tròn nhỏ, xỏ vào vòng tre to. Chỉ lát sau, trên vòng tre to đã buộc chùm mười mấy tráng hán. Ai nấy nghiến răng kèn kẹt nhưng không tự chủ được nữa, đành lếch thếch theo bước Lương Tiêu. Những người còn lại đều kinh hồn táng đởm, bỏ chạy tán loạn, không dám áp sát gã nữa.

Xa cách đã mấy năm, mặt mũi Lương Tiêu lại phong trần già dặn hơn nhiều, người hai nhà Lôi, Sở quan sát gã từ nãy đến giờ mà không nhận ra cố nhân. Lôi Hành Không quát:

- Tên đan tre kia, rốt cục ngươi là ai?

Lương Tiêu mỉm cười:

- Chẳng đã nói lúc trước rồi đấy ư, ta không đan tre mà chỉ đan người.

Sở Vũ tinh mắt, cuối cùng cũng nhận ra gã là ai, kinh ngạc la lên:

- Chính ngươi, ngươi đến để cứu con tiện nhân kia phải không?

Lương Tiêu nhếch mép:

- Ngươi chửi dẻo lắm, ta ghi sổ nợ nhé. Lát nữa ta sẽ thích lên mặt ngươi đủ hai chữ “tiện nhân”, không thiếu một nét nào.

Gã mỉm cười mà giọng lạnh như băng, Sở Vũ không khỏi rùng mình.

Bây giờ thì đám hào kiệt giang hồ cũng đã nhận ra Lương Tiêu. Hà Tung Dương nghiến răng trèo trẹo, quát lên dữ tợn:

- Lương Tiêu tặc tử, quả đúng là ngươi!

Trong trận chiến ở núi Phục Ngưu năm nào, Lương Tiêu từng đại triển thần oai chém giết thẳng tay, võ giả nam triều không ai không biết, nhắc lại chuyện ngày đó nhiều kẻ còn tái người kinh sợ. Hôm nay gặp tận mặt tên sát tinh, tim ai cũng nảy lên thình thịch, mắt láo liên nhìn ngó, xem xem có đại đội nhân mã Nguyên triều nào theo gã tới không.

Nhìn Lôi Chấn bị khống chế, Sở Vũ vừa xót xa vừa phẫn nộ, thình lình thét vang một tiếng, phóng kiếm đâm Lương Tiêu. Gã thiếu niên liền ngoắc vòng to lên cánh tay trái, tay phải rút kiếm tre chặt mạnh lên sống kiếm của người đàn bà. Sở Vũ cảm thấy hổ khẩu tê dại, lưỡi kiếm cũng chệch đi, nhưng thị ứng biến rất thần tốc, lập tức nhoài mình theo kiếm, xuất chiêu Hàn nha xuyên lâm, trường kiếm lao chéo như quạ bay qua rừng. Lương Tiêu cũng bắt chước đâm xéo kiếm, song tốc độ nhanh hơn nhiều, điểm ngay huyệt Khúc trì của Sở Vũ. Cánh tay người đàn bà tê dại, trường kiếm rơi đâu mất, thoắt đã thấy thanh kiếm tre của đối thủ xẹt tới chóp mũi, máu thị như đông cứng trong huyết quản, mọi giác quan tê liệt hoàn toàn, chỉ còn ý nghĩ khiếp hãi quay cuồng trong óc: “Vì sao hắn luyện kiếm pháp được đến trình độ này?”.

Lôi Chấn không thể chạy tới cứu vợ, chỉ biết tức tối rủa xả Lương Tiêu. Gã không buồn đếm xỉa, mỉm cười hỏi Sở Vũ:

- Ngươi còn nhớ ta vừa nói gì chứ?

Sở Vũ nghiến răng nín lặng. Lương Tiêu thủng thẳng:

- Ta đã nói là làm. Để cho đối xứng, trước tiên rạch lên má trái của ngươi chữ “tiện”, sau đó khắc lên má phải chữ “nhân”, và khắc thật sâu, sao cho cả đời cũng không xóa được!

Ai nấy ớn lạnh nhìn Sở Vũ, nghĩ thầm: “Sở Nhị nương mặn mà sắc sảo thế kia, nếu bị thích chữ vào mặt thì sau này còn dám gặp ai nữa!”. Người nhà họ Lôi bừng bừng căm phẫn, chửi bới thậm tệ. Sở Cung tuy ghét Sở Vũ cứ bênh nhà chồng chằm chặp, nhưng chẳng gì cũng là huynh muội ruột thịt nên không khỏi động lòng trắc ẩn, khổ nỗi em mình đang nằm trong tay kẻ địch, nhất thời chưa biết tính sao.

Lương Tiêu quyết ra uy áp đảo quần hào, nhưng vừa nhích tay thì Hiểu Sương đã ngăn:

- Đừng, Tiêu ca ca!

Lương Tiêu nhíu mày:

- Muội định cản ta?

Hiểu Sương tái mặt lắc đầu:

- Được, muội không ngăn huynh nữa. Nhưng muội nói thật, chẳng may ai đó chạm lên mặt muội những chữ sỉ nhục nhường ấy, muội chỉ muốn chết cho rồi! Huynh xử sự như vậy đối với một nữ nhân thì còn khủng khiếp hơn giết người ta nhiều. Gia đình họ tộc bà ta ngày ngày trông thấy, nhất định cũng đau xót muôn phần. Vậy là hàng bao nhiêu người khổ lụy để đem lại sự khoan khoái đắc ý cho một mình huynh… Làm như thế, huynh… đâu còn là người tốt nữa!

Lương Tiêu nghĩ bụng: “Ta chẳng bao giờ nhận mình là người tốt cả!”. Gã nhìn đi chỗ khác, nhác trông cặp mắt tròn của Lôi Chấn rưng rưng ánh lệ, bất giác mềm lòng: “Kẻ này tuy lỗ mãng nhưng lại là một nam tử rất trọng tình”. Gã bèn xoay thân kiếm tre lên, uốn cong nó rồi bật vào mặt Sở Vũ khiến hai má thị sưng tướng, căm ghét bảo:

- Cút!

Sở Vũ thoát khỏi kiếp nạn, lặng lẽ lùi lại sau. Lương Tiêu gẩy trả trường kiếm cho thị:

- Cầm lấy, Phần hương kiếm thuật chẳng qua cũng chỉ đến thế mà thôi!

Sở Vũ đón lấy kiếm, mặt trắng bợt như ngâm nước. Các cao thủ của Thiên Hương sơn trang nghe câu đó đều lộ vẻ phẫn nộ. Hiểu Sương thở phào, lại nhìn một xâu đại hán nằm trong tay Lương Tiêu, vội nài nỉ:

- Tiêu ca ca, nếu huyệt đạo bị thương tổn lâu quá thì sẽ ảnh hưởng đến tâm phế. Huynh… thả nốt họ ra đi.

Cô đặt bàn tay mảnh dẻ lên cánh tay Lương Tiêu, mắt tràn ngập nét tha thiết khẩn cầu. Lương Tiêu ngoảnh mặt tránh ánh mắt ấy. Hiểu Sương bèn lắc tay gã, giọng dịu dàng nhưng dứt khoát:

- Tiêu ca ca!

Vòng tre lớn ngoắc trên cánh tay Lương Tiêu đang lồng đầy các vòng tre nhỏ xâu qua huyệt đạo của mấy tên hào kiệt, vì vậy mỗi cái lắc của Hiểu Sương lại khiến đám võ giả đau thấu tới tận tim phổi. Hiểu Sương lắc liền ba lần, đám hảo hán cũng ba lần nhất tề rên rẩm. Cô thiếu nữ giật mình nhìn họ, lòng vô cùng áy náy, vội vàng cúi đầu:

- Ôi, ta xin lỗi!

Lương Tiêu không còn cách nào khác, đành thở ra một hơi:

- Thôi vậy! – đoạn buông vòng tre.

Vòng tre thôi bị nội kình kiềm chế, khí lực cũng trở lại với mọi người. Họ dứt đứt những sợi lạt, tuy đã thoát thân nhưng cơ thể vẫn đau nhức vì bị xuyên huyệt quá lâu, chẳng ai nghĩ đến chuyện giao đấu nữa.

Khoái cảm trả thù bị Hiểu Sương lần lượt dập tắt từng nấc một, Lương Tiêu không khỏi chán ngán, nhìn quanh quất một lúc, chợt dừng ánh mắt ở Hà Tung Dương, chậm rãi nói:

- Ngươi là thuộc hạ của Vân Thù, vì sao cứ gây khó dễ cho Liễu Oanh Oanh, chẳng lẽ ngươi không biết đến giao tình giữa họ ư?

Hà Tung Dương nhổ toẹt một cái:

- Đồ chó Thát nói thối hoắc! Vân đại hiệp trong sạch như nhật nguyệt, há dễ ràng buộc giao tình với con đàn bà đó?

Lương Tiêu nhìn như đóng đinh vào mặt hắn, cau mày hỏi:

- Ngươi nói thật ư?

Hà Tung Dương cất giọng oang oang:

- Nếu có nửa lời dối trá thì Hà mỗ chết không toàn thây.

- Toàn nói bậy, Vân Thù đã từng cứu mạng Liễu Oanh Oanh, cô ta cảm ơn đức ấy mới đem thân đền đáp. Lúc đó cả ngươi và hai nhà Lôi, Sở đều chứng kiến. Lẽ nào là giả được ư?

Cha con Lôi Hành Không và anh em Sở Cung cùng lộ rõ vẻ nghi hoặc, Hà Tung Dương lo cuống, cố gắng che đậy bằng sự tức giận:

- Nhà ngươi mới nói bậy! Vân đại hiệp một đời trong sạch, gần đây cũng đã hứa hôn. Nếu ngươi còn dám sỉ nhục thanh danh của Vân đại hiệp, Hà mỗ dẫu không đủ sức cũng nhất định quyết một trận sống mái với ngươi.

Giọng hắn chắc nịch làm Lương Tiêu hơi nao núng. Trầm ngâm một lát, gã hỏi:

- Ngươi bảo là Vân Thù đã hứa hôn?

- Đúng vậy.

- Hắn biết Liễu Oanh Oanh đang bị giam cầm ở sơn trang này chứ?

Hà Tung Dương nhướng mày nghĩ bụng: “Vân đại hiệp không biết, nhưng dẫu có biết, lẽ nào lại đi câu kết với con nữ tặc kia? Đồ chó Thát lòng lang dạ sói, rắp tâm làm vấy bẩn danh dự của Vân đại hiệp. Lão tử đâu thể để ngươi vênh vang đắc thắng!”. Hắn cứng rắn đáp:

- Cố nhiên là biết chứ, Vân đại hiệp còn khẳng định với Hà mỗ, con nữ tặc ấy sống hay chết đều chẳng liên quan đến đại hiệp.

- Hắn nói thế thật?

Hà Tung Dương thét to:

- Hoàn toàn thật!

Những người có mặt nghe xong câu ấy đều hò la khen ngợi. Lương Tiêu đanh mặt nghĩ ngợi hồi lâu, chợt bật cười. Cười dứt, gã điềm tĩnh bảo Hà Tung Dương:

- Hôm nay ta hẵng tạm lưu tính mạng của ngươi ở đấy. Về gặp Vân Thù chuyển lời này: Lương Tiêu rất khinh hắn.

Hà Tung Dương cười mũi không trả lời, bụng bảo dạ: “Vân đại hiệp là người thế nào, đồ chó Thát nhà ngươi lấy đâu ra tư cách đánh giá?”.

Lương Tiêu nghĩ ngợi rất lung, sắc mặt lúc tươi tỉnh lúc u ám. Thình lình gã hít một hơi dài, giọng quyết đoán:

- Được, Vân Thù đã không cứu thì Lương Tiêu này cứu vậy. – Ngừng một lát, gã bỗng gọi to. – Sở Tiên Lưu, vãn bối Lương Tiêu cầu kiến!

Tiếng gọi ngân dài rền như sấm động, vang rộng khắp sơn trang. Một lát sau mới có tiếng vọng âm âm vẳng lại. Ai nghe cũng khiếp đảm.

Tiếng gọi dứt, Thiên Hương sơn trang vẫn tịnh không lời đáp. Lương Tiêu cau mặt, sải bước tiến lại phía cổng. Sở Cung lắc mình chặn đường, giọng lạnh lùng:

- Khoan đã! Ngươi vừa nói năng huênh hoang xem thường Phần hương kiếm thuật, phải không?

- Đúng thế, Phần hương kiếm thuật chẳng qua cũng chỉ đến thế mà thôi!

Sở Cung trừng mắt, vung kiếm đâm thẳng tới. Lương Tiêu hất kiếm tre ra vạch khẽ, đè lên sống kiếm Sở Cung. Đường kiếm này thấm nhuần tâm pháp của Đoài kiếm đạo, quẻ Đoài tượng trưng cho đầm lầy, một trong những yếu lĩnh của nó là nội kình sinh ra lực dính, phong tỏa binh khí của đối phương. Thanh kiếm thép của Sở Cung hệt như bị hút chặt vào bùn quánh, không thể phát lực được nữa. Hắn kinh hoàng giật mạnh kiếm về. Lương Tiêu khoa chân bước tới, kiếm tre áp sát thân kiếm Sở Cung, tiến cùng tiến, lui cùng lui. Hai bên di chuyển như gió. Dù lướt ra xa đến mấy trượng, Sở Cung vẫn không tài nào giằng nổi kiếm về. Hắn bỗng nhớ ra, năm xưa Vân Thù đã từng dùng kiếm pháp lạ lùng này để đè nghiến thân kiếm của mình, bất giác tim đập loạn lên.

Thấy huynh trưởng bị áp chế trước mặt bao nhiêu người, ảnh hưởng đến thanh uy hơn trăm năm nay của gia tộc, lại nhớ rằng chính bản thân mình vừa rồi cũng bị sỉ nhục, Sở Vũ nổi mối căm hờn, phi thân tới, múa kiếm vun vút đâm vào bẹ sườn gã thiếu niên. Lương Tiêu nhún chân quay khẽ, kiếm tre xoay ngang giật Sở Cung ngã dúi, đoạn đâm mạnh vào mũi kiếm của Sở Vũ. Sở Vũ bàng hoàng, kiếm mới đi nửa đường đã biến chiêu, cố gắng đẩy chếch nó xuống chừng bốn tấc, vừa khéo đỡ ngay bên dưới lưỡi kiếm của Sở Cung. Lương Tiêu đã đoán được nước này từ trước, lập tức chém mạnh kiếm tre xuống, sau một tiếng “cạch” gọn ghẽ, kiếm tre lại hút dính kiếm thép của Sở Vũ.

Huynh muội họ Sở có danh chung là Thiên Hương song kiếm, uy thế lẫy lừng suốt ba mươi năm qua, hôm nay lại bị một kẻ hậu sinh tiểu bối dùng kiếm tre kiềm chế đến nỗi không động đậy gì được, không chỉ bọn họ mà cả đám hào kiệt vây quanh đều kinh hoàng táng đởm. Đúng khoảnh khắc lúng túng ấy, đằng cổng bỗng vẳng ra tiếng lanh lảnh:

- Cha! Vân hoành Tần lĩnh! Cô cô! Hương lan hàm tiếu, Xuân thủy doanh doanh!

Tục ngữ nói: Có bệnh vái tứ phương. Huynh muội họ Sở nghe lời nhắc là lập tức thực hiện, chẳng buồn cân nhắc liệu có kiến hiệu hay không. Sở Cung xuất kiếm theo chiêu thế Vân hoành Tần lĩnh, thân hình hơi xoay đi, trường kiếm chứa cương kình thần tốc quét ngang. Mũi kiếm của Sở Vũ lay nhẹ tựa hoa lan bừng nở, chính là chiêu thế Hương lan hàm tiếu. Lương Tiêu cảm thấy hai thanh kiếm sắp nhảy thoát, bèn dồn lực đè xuống. Sở Vũ liền uốn nhẹ hông như sóng gợn, chuyển động của hông lan lên vai, từ vai lan xuống tay, từ tay lan ra kiếm, kình lực trên kiếm chỉ trong nháy mắt chuyển biến ba lần, cùng lúc ấy, hổ khẩu Lương Tiêu cũng nóng ran, kiếm tre oằn lại.

Hiểu rằng kiếm tre sẽ gãy nếu tiếp tục ngạnh đấu, Lương Tiêu vội giảm nội kình. Sở gia huynh muội bắt đúng khoảnh khắc áp lực tiêu biến để thu binh khí về. Tiếng reo hò khen ngợi vang lên rộn ràng xung quanh.

Lương Tiêu liếc mắt về phía cổng. Một thiếu nữ áo lam yểu điệu đang đứng yên ở đó, gã thiếu niên giật mình hỏi:

- Ngươi đấy à?

Cô gái chính là Sở Uyển, khuôn mặt vẫn thanh tú kiều diễm như xưa, chỉ khác là đôi mắt trong sáng giờ vương vất nét sầu. Lương Tiêu đang định hỏi cô ta tin tức của Triệu Thị và Triệu Bính, Sở Uyển đã nhẹ nhàng nói trước:

- Tam thúc công vừa ngủ trưa dậy, sai ta ra mời các vị vào trang xơi nước!

Lương Tiêu đành nén lại những lời muốn hỏi đang đầy ứ lên trong miệng, giắt kiếm tre vào hông sải bước đến cửa. Huynh muội họ Sở tự biết không ngăn nổi gã, đành tránh sang hai bên. Đám hào kiệt đều có mục đích riêng, cũng ào ào xông vào. Cả bọn đi theo con đường nhỏ lát đá xanh, bốn bề hoa tươi nở rộ: trái rập rờn tường vi, phải rung rinh thục quỳ; mé đông tiễn xuân la, bờ tây mãn địa kiều; rào trước thập tường cẩm, giậu sau mỹ nhân anh; chấp chới khắp vườn muôn vẻ tía, trĩu trịt quanh cành vạn ánh hồng. Quang cảnh rạng ngời chan chứa mắt nhìn, hương thơm nồng nàn thấm vào phế phủ mọi người khiến tâm hồn mở rộng, thái độ hùng hổ hiếu chiến cũng dịu bớt.

Đi thêm hai dặm là hết con đường, phía trước vẳng tới tiếng nước chảy róc rách, một dòng suối xanh như ngọc bích luồn ra giữa những khe đá chen hoa trắng, bên trên là cây cầu gỗ lượn vòng xuống bờ bên kia. Nơi ấy cây lá la đà lả bóng quanh một ngôi tiểu đình bát giác mái vòm sơ sài, kèo cột cong queo, gỗ tùng làm xà còn chưa lột sạch vỏ, vẫn lởm chởm vẩy nâu.

Lương Tiêu đặt chân lên cầu, nghe thấy đầu bên kia có người khề khà ngâm:

Đời vốn như chiêm bao,

Cần chi hoài vất vả,

Tối ngày rượu nghiêng ngả,

Ngủ quên bên thềm nhà.

Tỉnh lại ngắm vườn hoa,

Oanh ríu ran đâu đó,

Nghe dịu thơm trong gió,

Phải chăng xuân đã về? [2]

- Chua loét, nghe chán cả tai!

Giọng một cô gái thình lình cắt ngang bài thơ. Cũng cái giọng lảnh lót ấy khiến tim Lương Tiêu gần như ngừng đập, bước chân chợt đông cứng.

Người ngâm thơ cười ngất, tiếng cười vang lên hào sảng:

- Mọi việc Sở mỗ làm đều chua, còn cái tên Lương Tiêu, đánh rắm chắc cũng ngọt.

Cô gái gay gắt:

- Chỉ nói nhăng!

Tim đập thình thịch, Lương Tiêu vén hoa rẽ liễu chậm rãi đi qua cầu. Sở Tiên Lưu đang bó gối ngồi trên tảng đá trước đình, vẻ uể oải biếng nhác, tay cầm chén rượu nhìn ra xa. Gần đó là một thiếu nữ áo lục đứng quay lưng lại phía cầu, hai tay bịt tai, vai so cổ rụt, tựa hồ giận dữ chưa nguôi.

Chuyện đã qua trở nên xa xăm như xảy ra tự kiếp nào. Lương Tiêu nhìn từ phía sau cô gái, định nhấc bước mà chân nặng trĩu, định cất tiếng mà họng nghẹn ngào. Người con gái nghe động cũng quay mình lại, gương mặt tuyệt thế làm không gian bừng sáng, hoa lá xung quanh bỗng nhạt hẳn màu. Nàng xoáy ánh mắt khắp người Lương Tiêu, toàn thân chấn động, vẻ mặt choáng váng, đoạn nàng thốt khẽ, nhào vào lòng gã như én nhỏ tìm ra đường về tổ. Hiểu Sương đứng ngay phía sau, trông thấy cảnh đó không khỏi sửng sốt, hai mắt mở to bàng hoàng.

[1] Tình cũ khó quên.

[2] Trích bài thơ Xuân nhật túy khởi ngôn chí (Nói khi tỉnh rượu ngày xuân) của Lý Bạch.


--131--Cựu Ái Nan Mẫn

n: http://truyen.hixx.info/truyen/truyen-kiem-hiep/1928/Con-Luan/index3.html#truyen

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro