Interlude chapter: Năm Chính Hòa thứ 19, triều đình đào được thứ khoai lạ! (1)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chú ý: 

- Hầu hết nguồn sử liệu tôi dùng là của triều Nguyễn, các sử quan của chúa Trịnh vậy nên chắc chắn sẽ có xuất hiện những thiên hướng và định kiến, nhưng tôi vẫn sẽ cố hết sức hạn chế những câu từ như vậy. 

- Niên hiệu dùng xuyên suốt trong phần Interlude này là niên hiệu của vua Lê, nếu có xuất hiện niên hiệu khác sẽ được chú thích trong ngoặc đầy đủ. 

- Mục tiêu cao nhất phần truyện này là truyền tải tri thức nhưng sẽ không tránh được những lỗi sai, mong mọi người thông cảm và góp ý. 

-----------------------------------------------------------

"Gia Định xưa nguyên là đất Thủy Chân Lạp" [1] 

Chữ "thủy" xuất hiện trong cái tên để phân biệt một xứ đất lầy, ngập nước và hoang tàn với vùng đất cao, màu mỡ khác tên Lục Chân Lạp. Người ta kháo nhau rằng, nơi Lục Chân Lạp kia kìa thực âm dương giao hòa, vạn vật sinh sôi nhiều hợp cho an cư lập nghiệp, nước Cao Miên trông thấy vậy bèn đặt kinh đô ở đấy. Còn Thủy Chân Lạp lại dương thịnh âm suy, "tứ thời câu thị hạ" [2] , lắm lúc khí dương bùng phát, khổ nỗi lại gặp thêm khí âm xông lên vô tình hóa chớp lửa, thiêu rụi mọi vật cản đường. Đông về vùng này dễ gặp sét đánh, dần dà cũng quen với thời tiết kì dị này, người và vật lại coi đó là sự thường mà thôi, chuyện may rủi. Vùng Thủy Chân Lạp xưa không chỉ có mỗi đặc sản là sét mà còn tiềm tàng nhiều ngọn gió độc. Người ta bảo rằng do dương khí tích tụ quá nhiều nên không khí thường ẩm thấp, nóng nực sinh ra nhiều luồng gió nghịch mùa, người ta dễ bị ngoại tà cảm mạo, rồi gió độc ấy nhiễm sâu, thành bệnh tê thấp, vậy bệnh là do gió mang tới. Chưa kể sông ngòi ở đây giăng như mạng nhện, thủy triều bất ổn gây ngập lụt diện rộng, đến khi triều rút thì phía Tây Bắc lại khô hạn không sao trồng trọt được. Vì lẽ đó mà Chân Lạp, sau này là Cao Miên nỡ bỏ rơi vùng này đến mức hoang tàn vậy.

Tuy nhiên, trước thời Chân Lạp và Cao Miên, vùng này lại phát triển thịnh vượng lạ lùng. Một kẻ hàng hải đế quốc tên Phù Nam đã biến nơi đây trở thành thương cảng sầm uất bậc nhất thời kỳ cổ đại, phục vụ cho giấc mộng bá vương chinh phục vạn con sóng của dân tộc này. Đáng buồn thay, Phù Nam không tránh được quy luật thịnh suy của lịch sử, cuối cùng bại dưới tay thuộc quốc của mình là Chân Lạp vào năm 550, vùng đất này hoang tàn từ ấy. Chiến tranh bận rộn muôn bề khiến Chân Lạp, sau này là Cao Miên quên mất sự hiện diện của vùng đất này, cũng phải thôi nơi này chẳng đáng bỏ công phí sức khai phá, một bãi bùn lầy đầy nguy hiểm không hơn không kém sẽ bị lãng quên. Thật bi thảm làm sao, vắng bóng sự văn minh từ hàng thế kỷ.

Đó là trước khi các chúa Nguyễn đến.

Lấy Trấn Biên (Phú Yên) làm nơi khởi hành, trải qua nhiều thăng trầm cho đến năm Chính Hòa thứ 19 [1698] (Đại Thanh Khang Hy thứ 37), lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng đến tỉnh Tiền Giang ngày nay. Gia Định thành thông chí, quyển 3 Cương vực chí chép rằng:

"Mậu Dần, Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế [Nguyễn Phúc Chu] năm thứ 8 [1698] (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), mùa xuân, triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn [Hữu Cảnh] kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên; xứ Sài Gòn đặt làm huyện Tân Bình". [3] 

Lần kinh lược này đã hành chính hóa những khu khai phá của người Hoa dâng lên cho chúa từ trước, những vùng này hoàn toàn coi như đã về tay người chủ mới.

Năm Chính Hòa thứ 19 [1698] (Đại Thanh Khang Hy thứ 37). 

Xứ Gia Định, Đàng Trong, Đại Việt.

Mưa dầm mùa thu của Gia Định cứ tầm một đến hai giờ sẽ tự tạnh, vòm trời sẽ lại khô ráo, khoe mẽ ánh nắng chói chang loang lổ trên con đường lát đá. Đất Gia Định nay lại đông vui, vẻ hoang tàn quá khứ đã buông tha cho cảnh sắc nơi đấy. Trấn thành uy nghiêm đẹp đẽ; kho tàng dư dật không lo mùa đói kém; chùa miếu nguy nga thể hiện cái hiển hách của thần tiên trên trời; làng xóm, chợ búa rôm rả đến tận ngày tàn, thầm đánh giá dân giàu của dư; cầu đường, bến bãi được trang trí chỉnh chu thì khen rằng bờ cõi vững bền. Xứ Gia Định khoát lên mình một màu áo mới, xúng xính khoe mình trước bao cặp mắt thán phục của dân buôn tứ phương đổ về trong kỷ nguyên thương mại châu Á thế kỷ 17. Chẳng phải rất đẹp hay sao?

- Vất vả cho ngài rồi, Lễ Thành hầu.

Tiết trời vừa hồi tỉnh sau cơn mưa dầm nếu như lười biếng ngồi trong gian nhà ắt sẽ cảm thấy bức rức khó chịu khi ẩm thấp, ngột ngạt không hẹn mà về. Chi bằng mời ai đó cùng đi dạo thưởng ngoạn vừa hay tranh thủ bàn thêm chút công việc cho xong để kịp mấy ngày lưu lại ngắn ngủi. Nguyễn đại nhân là một người bận rộn và mối lưu tâm của y hầu hết đều tụ về kinh thành Phú Xuân, nay lại một mực xin chúa cho vào xem qua xứ Gia Định xa xôi cách kinh thành 2.344 dặm rưỡi [4], nghĩa là mất tầm hai tháng cho lượt đi lẫn về. Gian nan, mất thì giờ là thế nhưng y vẫn muốn một lần được ngắm nhìn sự phồn vinh hiếm có này. Tại sao lại là hiếm có? Vì đây là cơ ngơi không chỉ của dân tộc Việt mà còn là gia tài của bao nhiêu dân tộc khác tụ về đây an cư lập nghiệp. Vùng đất này cũng như con người sinh sống ở nơi đây, tất cả đều đi lên từ hai bằng tay trắng.

Lễ Thành hầu cung kính cúi đầu đáp lễ Nguyễn gia rồi lại cùng y chuyện trò khi hai người vẫn còn bước đi trên con đường tuyệt đẹp thiên lý phía nam.

- Ban đầu cũng gặp chút khó khăn vướng mắc. --- Lễ Thành hầu bày tỏ. --- Chuyện định cương, ổn định dân chúng nếu không có sự hợp tác e rằng khó mà thực hiện được.

- Nhưng ngài đã làm rất tốt. --- Nguyễn gia không tiếc lời khen ngợi. --- Nhờ có ngài mà đất đai được mở thêm ngàn dặm, dân nay hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chánh về [5] . Tô thuế được định mức rõ ràng, xã thôn phường ấp được phân chia nghiêm ngặt. Ngài nói xem, không phải ai cũng làm được như ngài đâu.

- Nguyễn đại nhân quá lời. Ta đơn giản chỉ phụng mệnh Quốc chúa vào kinh lược xứ Gia Định này, đây là nhiệm vụ hiển nhiên của ta, nếu dây dưa mãi chẳng xong thì là đang có tội với chúa.

Nguyễn gia híp mắt cười, đến khi mở to đôi mắt thì có sự giàu sang dư giả của xứ Gia Định này chiều lòng ngay. Xứ này nay đã phát triển đến không ngờ, khác xa chốn đầm lầy quỷ quái trong vạn bức thư mà dân khai phá những năm đầu thay nhau trình lên. Có được viễn cảnh như vầy thật sự ngay cả phải quỳ xuống tạ ơn triều đình lẫn nhân dân cũng chẳng đủ. Phải rồi, còn Cao Miên, cũng phải cảm ơn hắn ta vì đã biết lễ nghĩa mà dâng đất đáp lại bao lần giúp đỡ của chúa Nguyễn kia. Còn lũ Xiêm La phía Tây lúc nào cũng chực chờ phá hoại cơ ngơi không chỉ của Cao Miên mà còn muốn chôn vùi cả Nam Hà, nếu như không khôn ngoan e rằng sẽ phải trả giá đắt. Thôi, không bận lòng về những chuyện binh đao khói lửa này nữa, hôm nay Nguyễn gia và Lễ Thành hầu ra đến đây là để thưởng ngoạn, cùng mơ về tương lai rực rỡ của xứ Gia Định a.

Hào hứng là thế nhưng khi cơn gió lạ thốc lên, Nguyễn gia tựa hồ như đông cứng. Lễ Thành hầu ban đầu không để ý, vô tình đi trước y vài ba bước chân nay cũng quay đầu lo lắng chưa rõ Nguyễn gia đang suy tính gì.

- Nguyễn đại nhân?

- Ngài có nghe thấy không, Lễ Thành hầu? --- Nguyễn gia hướng ánh mắt về phía đầm lầy xa xa chưa có dịp khai phá. --- Trong gió có tiếng gì đó.

- Ý đại nhân là...

- Ta muốn đi xem thử.

Hai người nhất trí cùng nhau khám phá thứ âm thanh lạ lùng mà Nguyễn gia vô tình nghe được, tựa như một lời ủy khuất ngàn năm giấu kính trong lòng, chôn vùi dưới lòng đại dương thăm thẳm như nền văn minh đã mất của nó. Một tiếng khóc ư? Tiếng khóc quá khẽ nhưng lại muốn gào lên với trời đất, hỏi rằng vì sao lại đối xử với nó như vậy, thứ gì đó muốn vùng vẫy thoát khỏi lòng biển khơi, vượt lên trên tầng bùn lầy bẩn thỉu để ngắm nhìn ánh mặt trời cao sang lần nữa. Thứ đó, không hề muốn bị quên lãng và sống lay lắt trong cô đơn.

- Nguyễn đại nhân! Đằng kia!

Lễ Thành hầu mặc dù không thể nghe thấy sự đau đớn trong gió nhưng nhanh chóng nhận ra đoạn giữa đầm có bọt nước nổi lên bất thường. Nguyễn gia thấy vậy thì vội cởi giày, túm chặt tay áo rộng lại để tiện việc duy chuyển, chuẩn bị lao mình xuống cứu người. Lễ Thành hầu thấy có sự lạ, bèn lo lắng can ngăn.

- Nguyễn đại nhân! Xin hãy suy nghĩ lại, bên dưới có thể chỉ là cá sấu thôi, nếu là người thì lẽ ra ta cũng phải nghe thấy.

- Lễ Thành hầu, giác quan của ta không hề gạt ta. Nhưng nếu ta nhảy xuống mà đó đích thị chỉ là cá sấu thì ta còn thấy yên tâm hơn nhiều. Còn nếu đó là một người bị chết đuối, ta sẽ ân hận cả đời nếu như còn chần chừ không vớt sinh mạng tội nghiệp ấy lên.

- Vậy thì để ta xuống đó, thưa đại nhân.

- Không, ngài không thể nghe thấy người đó, lặn xuống vô dụng mà thôi. Nước bên dưới có thể sâu và tối, nếu như không lần ra phương hướng e rằng chính ngài cũng sẽ gặp nguy hiểm.

Cuộc tranh cãi cũng phải dừng lại khi hai người nhận ra bọt nước đã ngừng nổi lên từ lúc nào. Nguyễn gia lập tức đến gần bờ, nhắm mắt nghe lời ngọn gió mách bảo. Giữa những tiếng rít vô nghĩa, tiếng hú của thú rừng, tiếng lạo xạo của nhành cây, y bỗng bắt được một chất giọng trong trẻo nhưng nay đã khàn đặc vì khóc lóc với sự lãng quên quá lâu. Không suy nghĩ quá một giây, Nguyễn gia lập tức lặn xuống đáy đầm lầy tìm chủ nhân tiếng khóc thê lương đó.

Gió rủ nhau ghé xuống chơi, đoạn cười đùa chỉ trỏ thứ kì lạ vừa được Nguyễn gia vớt lên bờ. Ngài Nguyễn, thân người ướt sũng thứ nước hôi hám của đầm lầy, cũng phải khẽ run rẩy vì hơi lạnh trong gió. Lễ Thành hầu nhanh chóng cởi chiếc áo choàng dài luôn phủ phía sau lưng, nhẹ nhàng choàng lên người Nguyễn gia tựa hồ như muốn giúp y tránh được phong tật. Nguyễn gia cúi đầu cảm tạ rồi cùng Lễ Thành hầu quan sát vật lạ vừa được phóng thích khỏi thủy lao ngàn năm. Đó là một thứ mềm mềm, trông khá tròn trịa, lớn hơn nắm tay người trưởng thành một chút thôi, không có lông hay tay chân gì, chỉ có một màu của bùn đất phủ khắp bề mặt rất nhẵn của nó. Tựa như một quả bóng nhỏ mà lũ trẻ vô tình đánh rơi xuống đầm lầy tăm tối nhưng lạ thay lại mang hơi ấm của sinh vật sống, nó đang thở đều đều, Lễ Thành hầu lần này nghe rõ tiếng nấc đứt đoạn thỉnh thoảng vẫn phát ra dầu cho chả thấy miệng của nó. Lạnh và sợ, nó rúc vào trong lòng Nguyễn gia, nhắm chặt đôi mắt lại như muốn trấn an bản thân rằng không có gì phải hoảng loạn. 

- Đây không phải là người. 

Lễ Thành hầu nhíu mày nhìn nó, tâm trí chợt bận bịu với bao suy nghĩ đồng loạt thoát ra. Đây là thứ gì đây? Không phải người, lại càng không giống thú, nếu bảo đây là loại thảo mộc đầm lầy thì đấy chính là kết luận quá hời hợt đi. Rất có thể, sinh vật nhỏ bé này đã tồn tại từ lâu, hồn phách đã hình thành từ khi ba ngôi trời, đất và người giao hòa mà tạo ra mọi vật. Nghĩa là nó đã sống rất lâu, trước cả hành trình Nam tiến của chúa Nguyễn, vậy là tạo vật rất xưa cũ rồi đâu phải đến tận bây giờ mới có. Chắc chắn khác với "cái mới" của người Tây Dương, thuyền buôn Tây Dương đi khắp nơi, càng đi nhiều hải đồ của họ càng mở rộng, những nơi mà họ chưa biết, nay khám phá ra sẽ gọi là tân thế giới. Nhưng chẳng phải từ lúc khai thiên lập địa, những vùng ấy đã có rồi sao? Đất đai, con người, súc vật, cây cối đã tồn tại từ trước khi có gót giày da sáng bóng cùng những con thuyền buồm khổng lồ cập bến, người Tây Dương chỉ là khách đến sau. 

Nguyễn gia đối với vật này cũng vậy, công khai hoang, công lập ấp xây thành dù to lớn nhưng kỳ thực vẫn là đoàn người hậu bối kế tục vùng đất này. Vì vậy, Nguyễn gia không lấy làm hứng thú bắt bớ thứ này đem về kinh thành, nếu như nó đã là một phần của sinh thái xứ Gia Định thì cứ để cho nó về lại nơi nó thuộc về như một cách tỏ rõ thiện chí với thần linh vùng này đi.  

- Một tiểu tinh linh. --- Nguyễn gia xoa nhẹ má của nó. --- Một tiểu tinh linh đáng thương không may gặp phải xui xẻo. Giờ ngươi không sao rồi. 

- Thứ ấy chìm xuống đáy lâu như vậy mà chẳng sao, quả là thần kỳ. --- Lễ Thành hầu vừa xoa cằm vừa nhìn về phía đầm lầy tối tăm, u uất. --- Hẳn nó đã rất cô đơn. Chúng ta phải xử trí thế nào với nó đây?

Nguyễn gia đặt nó xuống đất, thứ tròn tròn ấy ngước đôi mắt to nhìn y đầy bối rối, lưỡng lự không biết nên đi hay ở. 

- Thả nó đi vậy. --- Nguyễn gia đứng thẳng người lên. --- Nếu nó là một tinh linh rừng thì ta không nên cưỡng ép nó đem về thành, điều đó quá độc ác. 

Nói rồi Nguyễn gia nhìn về phía thứ lạ ấy, chầm chậm cúi đầu tạm biệt.

- Ngươi về đi. Đi đường cẩn thận đấy.

Sinh vật tròn nhìn theo bóng lưng hai người dần xa mà ngay lập tức cảm được sự lạnh lẽo trống vắng. Nó nhìn bốn phương đầm lầy u uất, sự ngột ngạt của bùn lầy và không gian tĩnh mịch làm mọi tri giác cảm thấy khó chịu. Vẫn chỉ có một mình nó đứng riêng lẻ dưới lưới trời mênh mông, vẫn chỉ là quả bóng nhỏ không ai chịu bầu bạn. Tồn tại như thế này có khác gì ngàn năm qua bị cầm tù dưới mực nước biển đâu cơ chứ? Nghĩ đến là sợ, nó lập tức nảy từng đợt thay cho bao bước chạy dài trên bãi lầy đi tìm hai vị ân nhân vừa rời khỏi. 

- Có vẻ như ai đó không nỡ nói lời chia ly.

Lễ Thành hầu quay đầu nhìn thứ tròn tròn lăn ra từ bãi cỏ cao, vừa thấy y, nó đã bối rối khựng lại không dám tiến tới. Nguyễn gia có hơi bất ngờ một chút, sợ rằng thứ ấy có điều gì muốn sẻ chia nên đã chủ động bước đến trò chuyện. Y kiên nhẫn nán lại một chút, mặc cho gió thổi khiến cả thân người ướt sũng lại run lên, Nguyễn gia vẫn dịu dàng ngồi trước mặt nó và hỏi chuyện.

- Còn điều gì muốn nói với ta sao? 

Thứ ấy hiểu nhưng không nói gì, cũng chẳng rõ là nó có biết nói cùng thứ ngôn ngữ giống y hay không, nên chỉ còn cách biểu hiện tâm tình qua hành động. Nó trượt đến gần rồi lại e thẹn gối đầu lên chân của Nguyễn gia. Thật đáng yêu làm sao, có vẻ như nó chẳng muốn y rời nó nửa bước và nếu y phải đi đâu đấy, dù xa đến tận chân trời gốc bể thì nó cũng muốn đi cùng. Nguyễn gia nâng nó bằng hai bàn tay của mình, nhìn nó bằng cặp mắt dịu dàng quá đỗi, trái tim trong lồng ngực đập mạnh hơn trước vẻ ngọt ngào của sinh vật mong manh như sương mai. Y nở nụ cười, nửa hạnh phúc, nửa yêu thương.

- Con muốn đi theo ta sao?

Thứ ấy gật gật rồi lại mở to đôi mắt tròn chờ đợi một câu "Được thôi" từ vị ân nhân dịu dàng ấy. Nó hồi hộp đến mức run lên, đôi mắt sau một khoảng thời gian chờ đợi cũng đã đẫm lệ. Người ta không thích nó sao? Người ta không cần nó sao? Nhưng nó thích người này mà, giờ nó phải làm sao? Nguyễn gia thấy nó đã bắt đầu xúc động thì cũng không nỡ lân la suy đi tính lại thêm, y vỗ nhẹ lên đỉnh đầu nó một cái đế giúp nó chú tâm hơn vào câu trả lời sắp tới của mình.

- Sao lại khóc rồi? Ta đã nói "không" chưa? Nếu không có nơi để về thì hãy ở cùng với ta, được không?

Lời ấy không khiến nó dứt sụt sịt được, dường như còn khiến nó mất kiểm soát hơn. Nó vui vẻ nhảy lên xuống không ngừng, rồi lại dụi đầu vào lòng bàn tay Nguyễn gia mà say sưa như một chú mèo đang ngủ. Lễ Thành hầu thấy vậy trong lòng cũng vui lây, lần xoa đầu này của y còn được thứ ấy đáp trả bằng một cái híp mắt vô cùng hạnh phúc. Lê Thành hầu với tâm tình tốt hẳn, cười cười hỏi Nguyễn gia. 

- Nguyễn đại nhân có định đặt tên cho nó không?

- Gọi nó là Khoai đi. --- Nguyễn gia nghiêng đầu nhìn bé Khoai trong tay như đang nhìn thứ kho báu vô giá của trần thế. --- Khoai à, ta và con từ bây giờ sẽ là người một nhà nhé. 

Năm Vĩnh Khánh thứ 3 [1732] (Đại Thanh Ung Chính thứ 9).

Chính dinh (Thành Phú Xuân), Đàng Trong, Đại Việt.

Từ ngày được đào lên khỏi chốn đầm lầy ẩm thấp đến nay cũng đã được hơn 3 thập kỷ, đối với Khoai đó là khoảng thời gian đáng quý khi mà nó thật sự được sống. Nó từng bảo với Nguyễn gia rằng, năm tháng bị chôn sâu dưới đáy đầm lầy tựa giấc chiêm bao thật dài và cũng thật buồn tẻ, cứ như rơi vào một dạng thức hôn mê sâu và thần trí của nó từ từ bị gặm nhấm. Tạ ơn Trời vì nó gặp được y, tạ ơn y vì đã không chút lưỡng lự mà lặn sâu xuống đáy đầm lầy bẩn thỉu để vớt nó lên. Mỗi khi nói về chuyện này, nó đều tựa vào y rất lâu và liên tục phát ra những tiếng thánh thót "Con cảm ơn! Cảm ơn rất nhiều!". 

Hơn 3 thập kỷ là quá đủ để Khoai kết giao bè bạn tại Thành Phú Xuân của họ Nguyễn Phúc. Người ta thương nó lắm, chắc là vì nó trông đáng yêu, ăn nói lại nhẹ nhàng, xử sự đời thường mang cung cách của con nhà Chúa. Phải, bài học vỡ lòng của Khoai là cách sinh hoạt sao cho thật trang nhã. Thân phận của nó giờ đã khác, lời hứa hẹn "trở thành người một nhà" của Nguyễn gia vừa hay cũng khiến nó phải đối mặt với áp lực ít nhiều. Nó buộc phải học để trở thành một quý tộc nếu không muốn lạc quẻ giữa kinh thành sa hoa và nếu nó không muốn khiến Nguyễn gia mất mặt thì nó cần chuyên tâm học hỏi nhiều hơn nữa. Ban đầu nó cảm thấy bản thân mình khó có thể hòa nhập nhưng mọi sự dần xuôi theo ý muốn của nó hơn, quả thật, lời Nguyễn gia an ủi mỗi khi nó thấy căng thẳng rằng "Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi" không phải là lừa gạt qua loa. Thành quách lộng lẫy dần thấy quen mắt hơn, những con người quyền quý đứng đầu Nam Hà nay sao thân thuộc đến lạ. Thành Phú Xuân nay là nhà của Khoai thì những con người trong họ Nguyễn Phúc cũng đã trở thành gia đình yêu quý của nó. 

- Khoai!

Nguyễn gia gọi tên nó khi ánh mắt hiền từ của y hướng ra khu vườn thượng uyển trong thành Phú Xuân. Y bắt gặp một vật tròn tròn đang hì hục nhặt nhạnh những cánh hoa rơi trên đất và cho vào chiếc giỏ nhỏ được công nữ nào đó đan tặng. Nó không có tay nhưng vẫn cố tìm cách lùa chỗ hoa tàn ấy vào chiếc giỏ đáng yêu kia, cuối cùng Khoai cũng nảy ra ý tưởng độc đáo. Nó liên tục nảy lên xuống, mỗi lần chạm xuống đất, cánh hoa sẽ bị áp lực tung mù lên và một số sẽ rơi vào chiếc giỏ gần ấy. Cả buổi sáng lao lực cuối cùng cũng khiến chiếc giỏ đầy một nửa, nó thích thú đội chiếc giỏ lên đầu và chạy đến bên chân của Nguyễn gia. 

- Cha xem này! Nhìn xem nhiều hoa đẹp chưa này!

Nó háo hức nhảy lên xuống, suýt nữa là giỏ hoa rơi và lăn vài vòng trên đất. Nguyễn gia cười ôn nhu, đặt nó lên đôi bàn tay của y và nhẹ nhàng hỏi chuyện.

- Nghĩa tử của ta đang làm gì đấy?

- Dạ, Khoai đang nhặt hoa a. --- Vừa nói nó vừa lấy đầu đẩy đẩy giỏ hoa bên cạnh. --- Khoai sẽ đem tặng cho những vị tôn thất đại thần trong thành. 

Lúc này, Nguyễn gia mới nhớ ra một vấn đề, dù không lớn, nhưng đã tồn đọng trong thành từ khi Khoai đến đây. Không hẳn tất cả mọi người đều yêu thương Khoai, một số công thần vẫn tỏ ra dè chừng sinh linh kỳ lạ này. Số thì bảo Khoai là điềm xui xẻo đến từ miền tâm linh, tốp lại khẳng định Khoai là công cụ của Bắc Hà cài cắm vào để diệt Nam Hà từ bên trong. Những lời đồn dị nghị luôn lấy lí do rằng xuất thân của Khoai có quá nhiều bí ẩn, thậm chí là mờ ám nên lo sợ cũng là điều bình thường. Tuy vậy, ý Nguyễn gia đã quyết thì khó lòng xoay chuyển, y muốn đưa Khoai vào thành và sống với y như cha và con, thực tế đã rõ ràng như ban ngày, vì vậy dù có phải cất công cả ngàn năm nữa, y vẫn sẽ đứng ra bảo vệ Khoai. Vì điều gì? Lòng tin giữa y và Khoai chính là câu trả lời đầy đủ nhất. 

Khoai cũng không ngồi yên nghe ngóng thị phi, nó cũng bỏ công hì hục nhặt hoa từ sáng sớm đem tặng cho những người không ưa nó. Không chỉ nhặt hoa, nó cũng bắt đầu học hát múa, xem công nữ đàn tấu và ghi nhớ những câu thơ, câu đối mà những nhà Nho hay bàn luận từ cổ chí kim. Nó học nhiều chỉ đơn giản là mong mỏi người ta yêu thích nó nhưng cách làm của nó không phải có chút độc hại hay sao? Nó trở thành một bé Khoai xa lạ chỉ vì niềm yêu mến của những người không hề yêu mến nó, đến khi nào nó mới nhận ra rằng nó sẽ không thể làm hài lòng tất cả mọi người. 

- Đừng quá gắng sức để rồi đổ bệnh. --- Nguyễn buồn phiền dặn dò. --- Con không cần phải nhọc lòng như vậy. Chốc nữa ta sẽ nhờ gia nhân đem gửi hộ con, Khoai bây giờ nghe lời ta đi chuẩn bị cho chuyến bộ hành sắp tới nha.

- Bộ hành... --- Nó bỗng nhớ ra điều gì đó, vội vã kêu lên. --- Bộ hành! Khoai quên mất! Khoai thật hư! Thật sự đáng trách a!

Nguyễn gia cười cười, thuận tay nhéo nhẹ một bên má nó coi như là hình phạt.

- Lần sau nhớ phải chú tâm nghe ta dặn dò, rõ chưa? 

- Dạ, Khoai nhớ rồi!

Chuyến bộ hành mà Nguyễn gia nhắc cho Khoai nhớ có liên quan đến hai nhân vật lớn ở xứ Đàng Ngoài. Từ lâu về trước Nguyễn gia cùng Trịnh gia phò tá Lê trung hưng gây dựng lại cơ nghiệp gia tộc họ Lê, dựng cờ hiệu ở Thanh Hóa, thề một lòng trung hiếu giúp người lấy lại đất Thăng Long.  Đến khi cơ sự đã thành vào năm Quang Hưng thứ 15 [1592] (Mạc Hồng Ninh năm thứ 2; Đại Minh Vạn Lịch năm thứ 21) thì giữa ba người dường như có nhiều sứt mẻ. Hết cục diện Nam - Bắc triều lại đến thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh và bắt đầu từ năm Thận Đức nguyên niên [1600] (Đại Minh Vạn Lịch năm thứ 28) đó, Nguyễn gia chỉ có thể gặp lại Trịnh gia trên chiến trường đổ máu, còn vị chân chúa tên Lê trung hưng kia thì may ra thân ảnh người chỉ thoáng qua trong giấc chiêm bao thật đẹp. 

Nhưng năm nay lại khác, tựa như vẻ oi bức mùa hè có cơn gió nhẹ thoáng qua, Lê trung hưng hẹn Nguyễn gia đến sông Gianh cốt là để gặp gỡ, nối lại ân tình xưa. Cũng chính vì chuyện này mà thành Phú Xuân có cơ hội bàn luận thâu đêm về mấy chữ: đi hay không đi. Đủ rồi, đủ rồi, không bàn nữa, Nguyễn gia sẽ đi. Từ thành Phú Xuân đến sông Gianh kỳ thực gần hơn đoạn đường xuất phát từ Thăng Long thành, chưa kể đến lãnh thổ Đàng Trong gần ngay trước mắt, nếu có bất cứ điều gì bất trắc thì quân tiếp viện sẽ đến tiếp ứng ngay. Nếu so với Đàng Ngoài thì rõ ràng Đàng Trong có hơn nhiều phần lợi thế. 

Tuy vậy, xứ Đàng Trong không có ai dám buông lơi cảnh giác. Quan văn, quan võ hơn cả trăm người đều lo lắng cho ngày gặp gỡ, vội bố trí quân túc trực trên bờ sông Gianh, ngày ngày quan sát nhất cử nhất động của quân Bắc Hà đóng ở bờ sông đối diện. Đội ngũ truyền tin hơn ba mươi người rải tai mắt khắp nơi, đồng thời thay phiên nhau chạy trạm hết trại này đến trại khác cốt giữ cho mạch thông tin từ Phú Xuân đến sông Gianh luôn được thông suốt. Danh y trong thành không ngồi yên sắc thuốc nữa, người nọ đẩy người kia dúi vào tay Nguyễn gia bao nhiêu là thuốc quý phòng cho những ngày thời tiết giở chứng hoặc không may bị địch phục kích dẫn đến thương tật.

Thế họ sẽ gặp nhau ở đâu? Không phải tại một cố cung ngàn năm trên đất Đàng Ngoài, cũng chẳng có sự xuất hiện của thương điếm xầm uất nào của Đàng Trong. Ngược lại với bao lời đoán già đoán non ấy, chiếc tàu lớn xa hoa giữa lòng Gianh đã được định sẽ trở thành nơi các vị trụ cột của hai thế lực lớn nhất Đại Việt gặp gỡ một cách đầy thiện chí và hòa bình. Đây có lẽ là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất.

Chiếc tàu quả là một kiệt tác, được chắp ghép từ loại gỗ quý và chắc chắn nhất của xứ Đàng Ngoài. Đứng trước chiếc tàu dài gần 15m, Khoai phóng tầm mắt thơ dại của mình ngắm cho thỏa sự hiếu kì, cuối cùng không kìm nổi mà òa lên một tiếng đầy thích thú. Nhìn chung, con tàu được đóng bằng 5 phần, mỗi phần được cố định với nhau bằng mộng và chốt gỗ, sau đó siết chặt hơn bằng các sợi tre. Đầu và đuôi tàu lại trạm trổ rồng, rắn lạ lùng, tô vẽ bao loại màu nổi bật như ánh nắng hè oi bức. Trên cột buồm cao nhất chính là cờ hiệu tỏ vẻ uy nghiêm nhắc nhở tàu thuyền xung quanh nên tránh xa. 

Khoai hào hứng nhảy lên xuống trên vai Nguyễn gia, miệng luyên thuyên về con tàu mà không lấy một giây thả lỏng. Nguyễn gia không hề thấy phiền, y cũng cười nói với nó một cách tự nhiên, tự nguyện giải thích cặn kẽ toàn bộ nghi vấn của nó về thế giới xung quanh.  

- Con biết không, Khoai? Đàng Trong của chúng ta cũng có thể đóng được loại tàu này đấy. 

- Thật sao ạ? 

Ánh mắt Khoai sáng lên, nó cũng muốn một lần cùng Nguyễn gia cưỡi loại tàu này lướt trên những ngọn sóng, lang thang đến miền xa lạ. 

- Đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải có bao nhiêu chiếc thế này cơ. --- Nguyễn gia xoa cằm. --- Ừ thì, thật ra chúng nhỏ hơn một chút nhưng như vậy nhanh nhẹn hơn, không phải sao? Canh chừng một vùng biển rộng lớn đâu thể nhờ vả những loại tàu cồng kềnh được. 

- Vâng! Cha nói phải! Khoai không thích chiếc tàu to này nữa! Khoai thích những chiếc tàu của chúng ta hơn!

- Thói khoác lác trước mặt trẻ con, có chết đi sống lại chắc cũng không sửa nổi.

Trịnh gia bắt chéo tay sau lưng, buông xong câu trêu ghẹo tùy hứng lại trở về khuôn mặt lạnh lùng có phần cau có thường ngày. Lê trung hưng đi trước, kẽ cười một cái trách qua loa sao vị chúa cao lãnh đây lại độc mồm với người quen như vậy. Nguyễn gia thấy người xưa đi đến, vui mừng cúi đầu chào hỏi đầy trang trọng, lễ nghi. Ấy vậy mà Lê trung hưng lại gõ vào trán y, tỏ vẻ không bằng lòng chút nào.

- Xa nhau chưa lâu mà ngươi lại thay đổi đến vậy. Có thật sự vẫn coi ta là người thân yêu của ngươi hay không? 

- Hạ thần chỉ là ... muốn tỏ lòng kính trọng người ... 

Nguyễn gia bối rối không nói nên lời, đây là lần đầu tiên Khoai thấy bộ dạng úp mở khôi hài này của cha. 

- Cậu nhóc này là? 

Ban nãy cả hai người đều tưởng rằng Nguyễn gia đang trò chuyện với cậu nhóc hầu nào đó trên thuyền, đến gần thì Lê trung hưng mới nhận ra thanh âm ngây thơ ấy phát ra từ sinh linh lạ lùng trên vai y. Thấy chủ chỉ vào khối tròn tròn màu nâu trên vai Nguyễn gia, Trịnh gia cũng không giấu nổi sự tò mò.

- Ngươi đặt cái bánh giò trên vai không thấy cổ quái à?

Bánh giò?

- Lại còn loại màu nâu nữa chứ, vô tình rơi xuống bùn sao?

Rơi xuống bùn!?

- Cái gì chớp chớp đấy? Mắt à? Ngươi cô đơn đến nỗi ám hại chiếc bánh giò thành quái nhân dị dạng để bầu bạn sớm tối à?

Quái nhân dị dạng!?!

Có phải hơi quá lời rồi không? 

Lê trung hưng vội ho khan chuyển chủ đề.

- Hai người đi đường xa chắc đã thấm mệt, chi bằng dùng bữa trưa với bọn ta. Ta cũng có rất nhiều chuyện muốn ôn lại đấy, hiếm khi nào cả ba người chúng ta có dịp ngồi cùng một bàn.

Bữa trưa hôm ấy kỳ thực giúp mọi người xua đi xa cách và ngượng ngùng sau từng ấy năm không gặp mặt. Một bên gợi chuyện, bên còn lại đối đáp hơn mười câu đầy ân tình làm bao kẻ hầu người hạ trên thuyền không dám tin bốn người họ ở hai chiến tuyến đối địch. Những câu chuyện trên bàn ăn cũng phần nào giới thiệu nguồn gốc bí ẩn của Khoai cùng cơ duyên phụ tử của nó và Nguyễn gia. Biết được mấy chuyện ấy rồi, Trịnh gia cũng thôi gọi Khoai là bánh giò này nọ nữa. Tuy nhiên, nếu tinh ý, người nghe sẽ nhận ra rằng những câu chuyện mang thiên hướng thăm dò đối phương là điều cấm kỵ, luật bất thành văn trong đối thoại của bất kỳ ai đã bước lên chiếc tàu này. Đây là ý của Lê trung hưng, ngẫm lại thì ngài cũng có lúc nhìn xa trông rộng đi. 

Thời gian nghỉ ngơi vào đầu giờ chiều được dùng vào các hoạt động mang tính cá nhân. Nguyễn gia và Trịnh gia có vài chuyện cần bàn bạc nên Khoai không muốn làm phiền y, bởi thế khi thấy Lê trung hưng đem kẹo ra dụ ngọt, nó liền lăn lại chỗ ngài với vẻ thích thú cùng khuôn mặt làm nũng vô cùng đáng yêu. Nguyễn gia đứng từ xa thấy thế thì phì cười:

- Thằng bé này, thiệt tình.

- Với bản tính như vậy thì không sớm thì muộn chúa công và nó sẽ thân thiết với nhau thôi. 

Trịnh gia đứng bên cạnh, tay khoanh trước ngực, lưng dựa vào tường đầy uy nghiêm, trái với dáng phóng khoáng, thoải mái của người bên cạnh. Giữa hai người họ khi muốn khơi chuyện để hỏi thăm nhau là rất khó vì kẻ nào cũng dè chừng người kia, nếu không có Lê trung hưng lân la hỏi chuyện thì phần nhiều cả hai sẽ im thin thít hàng giờ đồng hồ. Bởi vậy khi nghe Nguyễn gia gọi gặp riêng mình ra để trò chuyện thì Trịnh gia cũng đoán trước được rằng cuộc đối thoại này có thể sẽ không hề thoải mái. Nếu vậy thì Trịnh gia không dài dòng lê thê nữa, y hỏi thẳng:

- Gọi ta ra có chuyện gì chăng?

- Không thèm hỏi thăm ta khi nào chết sao? Tiết kiệm ngôn từ làm chi khi chẳng bao giờ thấy ngươi dùng? 

Nguyễn gia mỉm cười trêu ghẹo ấy vậy mà người bên cạnh không chút dao động.

- Không cần, trước sau gì thì ngươi cũng chết dưới tay ta thôi.

Một câu nói đùa? Một cuộc thi tranh tài cao thấp? Tất cả đều không thể hiện hết lời hai người vừa bày tỏ với nhau. Ở cuộc trò chuyện ngắn ngủi này, chết chính là chết chứ không phải lời bóng gió hù dọa nhau vào những đêm tối trời vắng trăng. Hai người họ kỳ thực chỉ có một người được sống. 

- Câu hỏi sắp tới của ta có thể sẽ phản lại lời chúa công căn dặn. Nhưng mà nếu không hỏi thì ta chẳng yên tâm. 

Nguyễn gia đan tay vào nhau, mắt nhìn về hướng Thăng Long thành đã lâu rồi chưa có dịp quay lại. Thấy người bên cạnh trầm tư, Trịnh gia giục: "Cứ nói".

- Ngai vàng ở Thăng Long, ai là người đang nắm quyền? 

Phút giây yên lặng giữa câu hỏi và câu đáp lời không kéo dài quá lâu, sau khi cơn gió nhẹ khẽ lướt trên mặt nước, sau khi từng đợt gợn sóng lăn tăn vãn dần, Trịnh gia cất câu trả lời.

- Hiển nhiên là vua Lê. Ngươi quan tâm sao? Chẳng phải chính ngươi là kẻ hùng hổ buông câu "Ta không nhận sắc" mà. Lại còn cử sứ sang Đại Thanh đòi hắn sách phong. Còn nhớ mấy chuyện xấu hổ đó không, "Quảng Nam quốc"? 

- Là ta muốn phản đối ngươi đấy chứ. Ngươi cũng đâu phải dạng gì tầm thường. --- Nguyễn gia gõ gõ đầu ngón tay lên thành gỗ. --- "An Nam phó Quốc vương", từ khi nào mà chúa Trịnh được người phương Bắc tin tưởng đến thế? 

- Ghen tị sao? 

- Không hề. Chỉ là nhắc cho ngươi nhớ địa vị của ngươi chỉ dừng lại ở việc phò tá thôi, không phải toàn quyền quyết định. 

Trịnh gia liếc nhìn người bên cạnh, tâm vẫn như vậy, không bị những lời ấy làm cho dao động.

- Đang đe dọa ta đấy à? 

- Đúng đấy. --- Nguyễn gia bây giờ mắt đối mắt với y, giọng nói bất chợt trở nên nghiêm túc. --- Ta là một phần của Đại Việt, và vua Lê là chủ nhân của Đại Việt này. Ta không dưới trướng chúa Trịnh, càng không phải là kẻ ngồi yên khi Thăng Long xảy ra chuyện thí nghịch. Ngươi nên nhớ, người Đại Thanh công nhận là chúa công, cho nên đừng tham lấy cái đỉnh [6] của nhà Lê nữa. Bị tấn công từ 2 hướng, ngươi chống nổi không?

Trịnh gia cười khẩy một cái. 

- Vậy không rõ là Nguyễn gia đây có sức mạnh kinh thiên động địa gì để giữ cho vững cổng thành Phú Xuân nhỉ? 

- Ta đây. --- Nguyễn gia cười híp cả mắt, cứ tưởng chừng như câu đùa dối trá để tâng bốc bản thân nhưng ngẫm lại thì liệu y có dám đem tính mạng họ Nguyễn Phúc ra cợt nhả như vậy? --- Ta sẽ là phòng tuyến cuối cùng của Phú Xuân. Chém được thủ cấp của ta ngươi mới có thể bước qua được bậc thềm cổng thành.

- Nghe thú vị đấy. --- Trịnh gia không hề đánh giá thấp người kia, những lời sau nói ra dường như báo trước rằng phía Đàng Ngoài đã có nhiều dự liệu. --- Mong là ngươi có thể bảo vệ được tất cả bọn họ. 

Ngọn gió lướt trên con sóng rất khẽ, tinh nghịch vờn trên y phục của hai người trong khi vẫn hiếu kì nghe người khác chuyện trò những thứ không liên quan đến mình. Được một lát, ngọn gió tỏ ra chán chường khi không khí xung quanh dường như có phần nặng nề và căng thẳng, nó lại lang thang trên con tàu gỗ cốt tìm nghe những câu chuyện nhẹ nhàng, trong sáng hơn. Ngọn gió đậu trên mái tóc Lê trung hưng nhưng lại không nghe được câu chuyện nào. Người ấy ngồi bên mạn tàu, trầm tư nhìn ra con sông Gianh, hai tay đan lại nâng niu cậu Khoai bé nhỏ vẫn đang ngoan ngoãn nghịch chiếc kẹo của mình. 

Ngồi một lát, Khoai ngước lên nhìn người đang âu yếm mình, lòng tự hỏi không biết người ấy đang có muộn phiền nào khó nói hay không.

- Chúa công, người ăn kẹo nhé?

Lê trung hưng cúi đầu nhìn nhóc con đang nằm gọn trong đôi tay mình, nó cũng nhìn ngài bằng đôi mắt to tròn quá khổ, viên kẹo bọc trong giấy được đặt trên đầu, cung kính mời ngài dùng để vơi đi nỗi khó chịu trong tim. 

- Cảm ơn con. --- Lê trung hưng đặt lại chiếc kẹo bên cạnh Khoai, sau đó lại xoa đầu nó đầy trìu mến. --- Nhưng ... ta không ăn nổi.

- Người buồn phiền chuyện gì sao? Thần có thể hát cho người nghe? 

- Con rất ngọt ngào. --- Lê trung hưng nghiêng đầu nhìn nó. --- Và còn rất dũng cảm nữa. Nói ta nghe, làm sao con dám đi theo một người xa lạ và nghĩ rằng người ấy tốt với con? 

Khoai chưa kịp trả lời thì lại bị khuôn mặt Lê trung hưng dọa cho sợ. Đến nhiều năm về sau, hẳn nó cũng không thể quên được khuôn mặt đầy thống khổ ấy. Đôi mày ngài nhăn lại đầy khó chịu cứ như người ta nhìn thẳng vào mặt trời vào buổi ban trưa, như cách người ta đã phải chịu đựng nhiều uất ức đến nổi không thể khóc hay la hét cho thỏa nỗi lòng được nữa. Ngài nghiến chặt răng, cố gắng chỉnh cho thanh âm bực tức của mình trở nên vui tươi như ngày thường. Nhưng dù có cố gắng bình tĩnh, thật sự mong muốn đôi mày có thể giãn ra đầy thoải mái và giọng nói có thể dịu dàng như thuở ban đầu, tất cả nỗ lực ấy không thể hành hiện thực. Ngài nói:

- Làm sao con có thể ... đủ dũng cảm để tự quyết định cuộc đời của mình? 

- Chúa công?

- Ta không biết nữa Khoai à. --- Lê trung hưng co ro như một kẻ yếu thế, hơi thở nặng nhọc của ngài và trái tim loạn nhịp đều được Khoai cảm nhận rõ ràng. --- Ta biết là ta nên nói ra nhưng mà liệu mọi chuyện có trở nên tồi tệ hơn hay không? Ta không chắc là quyết định của mình có thật sự khiến mọi chuyện tốt hơn một chút nào không. Ta không dám, ta không dám thử!

Tiếng tay ai gõ trên bề mặt gỗ kêu cộc cộc cách đó không xa. Người kia lên tiếng:

- Chúa công, Khoai, Nguyễn gia pha trà xong rồi, hai người cũng mau đến dùng đi. 

Là giọng Trịnh gia, vẫn nghiêm nghị, cứng rắn như thường ngày nhưng có gì đó khiến Khoai rùng mình. Đôi mắt y sắc bén như lưỡi câu, lạnh lùng như đường kiếm đang phóng đến nơi này. Đa phần, nó nhắm vào Lê trung hưng. Khoai thấy tất cả, cảm nhận tất cả sự sợ hãi trên khuôn mặt của vị chúa công ngồi đấy. Trong một khoảnh khắc, tay ngài siết lại khiến nó hơi đau, đến khi nó kêu lên trong vô thức thì Lê trung hưng cũng định thần lại. Ngài cố nở nụ cười:

- Trà của Nguyễn gia sao? Lâu rồi ta chưa được nếm qua, thật hoài niệm a. 

Rồi ngài đứng lên, mắt đối mắt với Trịnh gia vẫn đang kiên nhẫn chờ ngài đi cùng.

- Ngươi còn nhớ những ngày ở xứ Thanh Hoa (Thanh Hóa) chứ? Ba chúng ta ngồi cạnh nhau uống trà, đánh cờ, vui biết mấy ha.

Trịnh gia khoanh tay đứng nhìn ngài, một thoáng yên bình trôi nhẹ qua trong tâm trí y. Không lâu sao, y đáp lại một tiếng "Ừm" rất khẽ, rồi lại xoay người rời đi, bỏ rơi những ngày xưa ấy. 

Tâm tư phức tạp của một người, khi ấy Khoai chưa tài nào hiểu được. 

Năm Cảnh Hưng thứ 33 [1772] (Đại Thanh Càn Long năm thứ 37)

Chính phủ (Trịnh vương phủ), Đàng Ngoài, Đại Việt.  

- Ngươi biết đấy, nếu thông tin của nhà ngươi không có thực thì đừng nói là vàng bạc, ngay cả cái mạng cũng khó mà giữ được. 

Trịnh gia buông câu đe dọa khi đôi mắt vẫn chăm chú vào bao loại công văn trên bàn. Tình trạng ở Đàng Ngoài trong những năm qua đã tiêu tổn rất nhiều của cải, mạng người chỉ để dẹp yên giặc giã. Thành ra, bao năm qua triều đình chẳng làm được gì ngoài suy đi tính lại kế sách đối phó với vấn nạn ấy. Chưa hết, nạn kiêu binh cùng những xung đột giữa nhà chúa và nhà vua càng lúc càng dữ dội. Vừa qua, chuyện của Thái tử Lê Duy Vĩ lại như "thêm dầu vào lửa", khiến cho tình hình tồi tệ hơn gấp bội phần. 

"- Bỏ vua này, lập vua khác, bạo nghịch giết vua, là việc làm đã quen của nhà bay, chứ ta có tội gì đâu? Việc này đã có sử xanh chép để ngàn đời!" [7] 

Đến chết Thái tử còn không chịu trút mũ nhận tội tư thông với phủ thiếp của Trịnh Doanh mà nhà chúa gán cho. Uất ức dồn nén khi chứng kiến cảnh nhà Lê chỉ có hư danh, Thái tử đã trút hết những lời ấy ngay tại phủ chúa. Cuối cùng, chúa "Trịnh Sâm giả thác mệnh lệnh của nhà vua, truất thái tử làm thứ nhân, rồi giam vào ngục" [8] . Cũng không được bao lâu, Thái tử bị người ta thắt cổ chết. 

Những chuyện như vậy không thể giải quyết trong ngày một ngày hai, cho nên Chính phủ không rảnh rỗi tiếp trà những kẻ vì mấy thớ vải hay vài lượng vàng của nhà chúa mà buôn chuyện tầm phào. 

Tuy vậy cũng phải xét qua lai lịch của kẻ can đảm dám đem thông tin chưa rõ thực hư đi mách nhà chúa ấy. Đặng Sầm là một tay lái buôn, mỗi năm một đến hai đợt thuyền của hắn sẽ chở gạo và muối vào Nam rồi đem bán kiếm lời ở vùng cao. Mặc cho giặc cướp nổi lên vì đói kém mất mùa thời Lê mạt, những cánh lái buôn như hắn vẫn liều mạng đi vào những vùng nguy hiểm ấy. Những vùng người ta đói khổ rất dễ sinh lời, gạo và muối ở đây có thể hét giá lên tận trời mà vẫn có người mua, không bao giờ lo tồn kho. 

Đi bán buôn là thế nhưng những kẻ như Đặng Sầm vẫn không quên xứ mệnh hệ trọng mà nhà chúa giao phó. Với cương vị là tay mắt của Đàng Ngoài, bọn họ kết nối với nhau dệt thành một mạng lưới khổng lồ, họ đi khắp nơi lùng khắp chốn, moi móc mọi thông tin của Đàng Trong và bán lại chúng cho chúa Trịnh với giá cao. Tháng này, Đặng Sầm kỳ thực có một thông tin sốt dẻo.

- Hạ thần không dám gạt nhà chúa, nhà chúa cứ hỏi bọn thương lái khác mà xem! Tám chín phần, không, cả mười phần bọn họ đều sẽ nói Đàng Trong đang rất loạn. Thành Hà Tiên bị người Xiêm vây hãm, lại nghe ở vùng Tây Sơn có kẻ dấy binh phản loạn. Triều chính cũng không được yên ổn là mấy, nghe đâu Quốc phó họ Trương cũng chẳng được quan quân yêu mến, cả dân cũng ghét bỏ ông ta. Nhưng quyền hành là do ông ta nắm hết, biết làm sao được? 

- Thế Nguyễn gia đâu mà lại để tên nghịch thần đó tác oai tác quái thế?

Trịnh gia vẫn không rời mắt khỏi đống văn thư trên bàn, bàn tay vẫn kiên trì lật đi lật lại cả trăm tờ giấy vẻ chú tâm lắm. Định bụng rằng sau câu hỏi này, y sẽ cho gọi người nắm áo lôi kẻ phiền nhiễu này ra ngoài. Thông tin của hắn cũng thú vị đấy nhưng chẳng phải hơi cũ hay sao? Những lời này đâu cần đến Đặng Sầm mách thì bọn nội gián cũng bẩm báo lên hết cả rồi. Chớ xin vội vàng kết luận, chẳng phải đã đề cập ở trên là hôm nay tên lái buôn này kỳ thực mang đến một tin sốt dẻo hay sao?

- Thần cũng chẳng biết, thưa chúa thượng. Mấy năm gần đây chẳng bao giờ gặp được ngài ấy. Trước kia, dân buôn chúng thần rất hay thấy ngài ấy đến thăm mấy khu chợ và bến cảng gần Phú Xuân. Nay không hiểu sao mà tăm hơi biến đâu mất. Thế là thần đi dò la tin tức, nghe đâu ngài ấy bị tống vào ngục rồi.

Trịnh gia ngưng mân mê mấy thứ giấy tờ để tiếng sột soạt đừng át mất thông tin quan trọng này, ngay cả y cũng thấy làm ngạc nhiên. Bọn người trong đó dám nhốt Nguyễn gia sao? Chuyện hoang đường gì đây? Trịnh gia ngước đôi mắt lên nhìn tên lái buôn, miệng ra lệnh cho hắn tiếp tục câu chuyện. 

- Tôi nghe được từ mấy người khách quen trong triều. Bọn họ bảo rằng Quốc phó họ Trương ấy cáo buộc Nguyễn gia có âm mưu phản chúa nên bắt giam đợi điều tra thêm thực hư.

- Không có ai bảo vệ hắn à?

- Tất nhiên là có nhưng kẻ thì bị xử chết, kẻ thì sợ hãi bỏ trốn để rồi bị truy nã. Những người còn lại chắc chỉ có thể im lặng chờ thời.

Đoạn, Trịnh gia lấy ra một tờ giấy trắng, thấm mực vào đầu bút lông và bắt đầu viết những điều bí ẩn vào đó. 

- Ban nãy ngươi có đề cập chuyện ở vùng Tây Sơn có kẻ phản loạn đúng không? --- Trịnh gia hỏi. --- Quy mô bọn chúng thế nào rồi?

- Càng ngày càng mở rộng, thưa chúa thượng. --- Đặng Sầm khẳng định. --- "Lấy của người giàu chia cho người nghèo", dân đói khổ lâu ngày nghe được khẩu hiệu đó thì tin yêu họ lắm. Trong nay mai, thế giặc sẽ như chẻ tre, như vầy sợ là quân chúa Nguyễn sẽ cần một thời gian dài để trị bọn họ. 

Lời của Đặng Sầm vừa dứt thì Trịnh gia cũng vừa ghi chép xong xuôi. Y đóng một con dấu sau đó gấp lại tờ giấy và đưa cho kẻ hầu bên cạnh.

- Ngươi đưa cái này cho bọn trông coi kho bạc. Bảo rằng chuẩn bị tiền thưởng cho kẻ này đây theo đúng những gì đã được ta kê ra. Còn ngươi, mau đi nhận tiền đi.

Nghe vậy, hai mắt Đặng Sầm sáng bừng lên. Hắn vội vái lạy Trịnh gia rồi nhanh nhẹn theo chân kẻ hầu đến kho bạc trong phủ. Đợi cho những kẻ không liên quan đi rồi, Trịnh gia lại tiếp tục trò viết lách tiêu khiển của mình. Lần này một bức thư gửi thẳng lên chúa Trịnh Sâm, trong thư viết gì thì không ai biết nhưng nếu xét nến nụ cười đắc ý của Trịnh gia thì có vẻ ngày lành kinh lược thống nhất cõi bờ đã đến gần. Nhưng làm sao đưa quân vào Đàng Trong mà không gặp phải phản kháng từ quân đội chúa Nguyễn đây? Còn phải hỏi sao? Lấy cớ cứu giúp triều đình chúa Nguyễn trị tội tên loạn thần họ Trương hoặc mượn danh thiện chí ngỏ ý giúp đỡ diệt họa Tây Sơn, hai cách ấy đều hợp tình hợp lý cả. Ngay sau đó, mật truyền Trấn thủ Nghệ An kiêm Đốc suất Đoan Quận công Bùi Thế Đạt thường xuyên để ý và nghiên cứu tình hình của phía Đàng Trong để tâu lên. 

Năm Cảnh Hưng thứ 35 [1773] (Đại Thanh Càn Long năm thứ 38)

Chính dinh (Thành Phú Xuân), Đàng Trong, Đại Việt.

Chuyện Nguyễn gia bị tống giam vào ngục trong triều ai cũng biết rõ nhưng lại giữa kín không đồn ra vì không muốn danh dự của y bị vấy bẩn. Trung thần tin y vô tội thì nghiến răng mắng chửi tên Quốc phó bày trò vu oan gây hiềm khích trong triều, phe cánh đối lập lại cho rằng việc Nguyễn gia cả gan mưu giết Định vương là do phản đối tên Quốc phó bạo ngược, hại chết hoàng thân để lập vị chúa nhỏ tuổi nhằm dễ bề thao túng. Quan quân bao người tin hay không chuyện Nguyễn gia có mưu giết chúa thì không thể biết chính xác được, tuy nhiên ai ai cũng vuốt râu gật đầu đồng tình rằng mọi sự phiền nhiễu đều tại quan Quốc phó họ Trương.

Biết là vậy nhưng thật tình mọi người cũng chẳng rõ phải giải quyết thế nào. Kỳ thực, Trương Phúc Loan đã dự trù mọi đường phòng bị từ bên trong lẫn bên ngoài, thu mua thóc lúa vàng bạc cho đầy túi để tiện đem ra dùng ngay khi có vị quan nào lên tiếng quở trách. 

Nói đi cũng phải nói lại, trong triều không chỉ một mình Quốc phó ăn chơi. Ngay từ thời Võ Vương, triều đình Phú Xuân đã dần xuống dốc. Đến bây giờ, dân nghèo nước yếu, trong triều toàn thấy âm mưu hại chết nhau, cứ như vậy thì đến khi giặc đến há chẳng phải Phú Xuân chỉ còn cách quỳ lạy thôi sao? Thế Tây Sơn không phải chuyện chơi, tin thua trận liên tiếp báo về chính là điềm xấu mất thành, mất cơ đồ Đàng Trong hơn mấy trăm năm của họ Nguyễn. 

- Đại nhân có cao kiến gì không? 

Câu hỏi của Hàn Lâm Ngô Đình Thứ làm Nguyễn gia đau đầu, trong ngục tối chỉ mới 7 năm mà biết bao nhiêu chuyện dữ ập đến. Y lo lắng ngước nhìn ngọn đuốc lập lòe trên tay Tri phủ Trần Giai, lòng sợ hãi vì trong một phút mất kiên nhẫn tưởng rằng đó là ngọn lửa giặc châm ngòi đốt cháy cả thành Phú Xuân. Y đã mất bình tĩnh, điều mà trước giờ chưa từng xảy ra. Nguyễn gia gần đây đúng là có cảm thấy cơ thể mình xuất hiện nhiều điều lạ, y mệt mỏi hơn, đầu óc không còn minh mẫn như trước. Đây có phải là điềm dữ tiên đoán rằng trong vòng một đến hai năm nữa sẽ mất thành Phú Xuân?

- Tạm thời hai ông đừng manh động. Sẽ rất nguy hiểm, ta không muốn chuyện như vụ việc của Chưởng cơ Tôn Thất Văn lại xảy ra một lần nữa. 

Hai người nghe vậy thì im lặng không dám nói. Quả thật vào tháng 6 năm này, vì oán thán Trương Phúc Loan mà tôn thất đại thần trong triều mật sai hai người đi trộm ấn của hắn, làm mạo bức thư Quốc phó thông đồng với Tây Sơn. Cứ tưởng Định vương sẽ tin họ nhưng cuối cùng Quốc phó lại thoát nạn và thẳng tay trừ khử những người mà hắn nghi ngờ, trong đó có Chưởng cơ Tôn Thất Văn. 

Nhớ đến chuyện ấy là thấy ức, Hàn lâm Ngô Đình Thứ lên tiếng cãi:

- Nhưng nếu cứ như vậy, ta e rằng-

- Cha!

Khoai không nhịn được mà nhảy ra khỏi áo của Hàn Lâm Ngô Đình Thứ, nó chui hẳn vào song sắt và dụi đầu vào người Nguyễn gia. Hàn Lâm họ Ngô và Tri phủ họ Trần thấy vậy thì điếng người, chỉ chút nữa thôi họ đã buộc miệng kêu lên và đánh động đám lính tuần tra bên ngoài. Vì quá nhớ cha nên Khoai đã xin hai người đem nó theo, nó hứa sẽ thật ngoan và chỉ  trốn trong áo Ngô Đình Thứ để nghe giọng cha mà thôi. Không ngờ Khoai lại nhảy ra, thà sống bên Nguyễn gia trong chiếc cũi sắt còn hơn trở thành thú tiêu khiển của người. 

Hai người kia hoảng hốt là có lí do, họ không muốn Nguyễn gia gặp Khoai cũng là vì lo lắng cho cảm xúc hai người mà thôi. Sau bao năm xa cách, biểu hiện của Nguyễn gia ngày gặp lại không hề vui vẻ, Khoai cũng không nói cười mừng rỡ mà chỉ vùi mặt vào lòng y khóc nức nở. 

- Sao các ông không báo cho ta biết chuyện này?

Nâng niu Khoai trong lòng bàn tay, y cảm nhận được những vết xẹo chi chít trên làn da nhẵn bóng của nó, dưới ánh sáng lập lòe của ngọn đuốc tàn, y đau sót chứng kiến bao nhiêu vết mực vẽ bừa bãi cùng những chỗ bầm tím chắc chắn là do va đập mạnh gây ra. Nguyễn gia hoảng loạn, y ôm Khoai vào lòng và vỗ về cho đến khi cậu nhóc chìm vào giấc ngủ.  

- Làm ơn hãy nói. Ngay bây giờ!

Trần Giai đẩy vai Ngô Đình Thứ ý muốn ông giải thích cho y. Không còn cách nào khác, chuyện nay cũng không giấu nổi nữa chi bằng kể hết cho Nguyễn gia. 

- Bọn ta không dám kể cho đại nhân vì sợ ngài sẽ đau lòng nhưng thật tình là vương tử thường xuyên bị Quốc phó gọi vào chầu. Quần thần phe ta cản không được vì hắn bảo đó là lệnh chúa. Lần nào ra khỏi chỗ hắn vương tử đều bị thương hoặc mực tàu vấy bẩn cả khuôn mặt. Là bọn ta yếu hèn không bảo vệ được vương tử, xin ngài cứ trách phạt!

Ngồi im lặng sau xà lim dày, hai tay Nguyễn gia che chắn Khoai như đang bảo vệ bảo vật quý hiếm. Khác xa những lần mất bình tĩnh ban nãy, y giờ đây như trở về trạng thái trầm ngâm suy tư như những năm về trước. Nguyễn gia hé nhẹ bàn tay, ngắm đứa con trai đang ngủ ngon lành sau những ngày cực khổ bằng một đôi mắt đượm buồn. Rất nhanh, đôi mắt buồn thảm ấy nhíu lại đầy bất bình, bàn tay vội vàng che chắn đứa nhỏ. Y ngước lên và bảo với hai người kia:

- Hai ông hãy kêu mọi người chuẩn bị, đến lúc phải hạ bệ tên quỷ dữ này rồi.

Cả hai nghe thế thì mừng lắm, chăm chú lắng nghe những mưu kế mà Nguyễn gia vẽ ra để ghi nhớ tất cả nhằm quay về báo lại với các tôn thất đại thần. Trước khi bọn họ rời đi cũng không quên hỏi chuyện của Khoai, nếu cứ để Khoai ở đây thì chắc chắn Trương phúc Loan sẽ sinh nghi nhưng cả hai lại không dám mang nó về khi chưa có sự cho phép của Nguyễn gia. Y không nghĩ gì mà phán ngay:

- Ta không giao nó ra đâu. Nếu muốn thì tới đây mà lấy. 

Nguyễn gia từ xưa có một ý chí mạnh mẽ đến ngoan cường, ngay cả mệnh lệnh của chúa thượng mà cũng dám cãi lại. Có thể nói, luật lệ không trói buộc được y, kẻ này không sinh ra để tuân lệnh mà là hành động theo đúng luân thường đạo lý của các bậc tiên đế truyền dạy. Độc lập và kiên định, dám đứng ra chỉnh đốn lại từng người từ gia nhân đến chúa thượng để bảo vệ nền móng chính trị và sau cùng là an nguy của xứ Đàng Trong, một bậc trung thần ngay thẳng. Chính đức tính này đã tống y vào ngục 7 năm trước. 

- Hãy chuẩn bị cho chu toàn, chúng ta không thể mắc sai lầm lần nữa. --- Nguyễn gia trầm giọng, ánh mắt kiên định phóng thật xa ngoài xà lim cầm tù. --- Sắp tới sẽ có kẻ bị tống khỏi Phú Xuân khi mà cả thân người đang được quấn chặt trong tấm vải liệm đấy. 

Kế hoạch trung hưng vương triều chưa kịp thực hiện thì đã có sự lớn xảy ra. Tháng 5, mùa hạ năm Cảnh Hưng thứ 35 [1774] (Đại Thanh Càn Long năm thứ 39), chúa Trịnh Sâm sai lão tướng là Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc thống lĩnh đại quân tiến hành chiến dịch Bình Nam, mở màng cho cuộc chiến thứ tám và cũng là cuộc chiến cuối cùng giữa chúa Trịnh và chúa Nguyễn trong giai đoạn chia cắt Đàng Trong - Đàng Ngoài. Trong thời gian đầu, quân Trịnh tiến công rất thận trọng, chúa Trịnh Sâm còn tự tay viết lá thư gửi Quận Việp căn dặn kỹ lưỡng đủ điều. Cụ thể bức thư được Khâm Định Việt sử Thông giám cương mục ghi rõ như sau: 

Ông đến Nghệ An, nên tùy cơ mà trù tính định liệu, trước hết đưa thư cho các tướng giữ biên giới, nói thác ra rằng: "Việc hành quân này chỉ cốt phòng bị giặc Tây Sơn chạy trốn". Nói như thế để thăm dò tình hình của họ. Nếu họ đã bình định được giặc Tây Sơn, thì lại đưa thư đề đạt ý chí rồi dẫn quân về, đừng làm cho họ sinh nghi, lại gây hấn khích ở nơi biên giới". [9] 

Đến Hà Trung (thuộc Thanh Hóa ngày nay), Quận Việp cho người viết một bài hịch dài kể tội Trương Phúc Loan cốt để chính danh hóa cuộc hành quân, xoa dịu lòng dân Đàng Trong và lôi kéo họ ủng hộ quân Trịnh bằng cách ngồi im không chống cự. Sau một thời gian chia rẽ, đấu đá lẫn nhau, quân và dân Đàng Trong đâu còn mặn mà với nhau như đời các chúa trước nữa, chính vì vậy mà trong cuộc chiến chống quân Trịnh lần này không thể chắc chắn được rằng Lũy Thầy có bị xuyên thủng hay không. 

Đến lúc này thì tình hình quả là bất lợi cho phe chúa Nguyễn, khi mà quân Tây Sơn ở phía Nam vẫn chưa dẹp yên được thì phía Bắc quân Trịnh kéo quân vào với ý định thực tế không hề thiện chí. Tướng và quân bị "xé nhỏ" ra, gấp rút điều động đến cả 2 chiến trường chính chống giặc mà không sao đủ nhân lực, đến nước này chỉ có thể thả Nguyễn gia ra ngoài để y cùng sát cánh với ba quân bảo vệ Phú Xuân. 

- Quan quốc phó đã chấp nhận hắn sai lầm. --- Hàn Lâm Ngô Đình Thứ đi sau Nguyễn gia, vội vã thông báo tình hình cho y. --- Hắn bảo rằng đã cho người điều tra thực hư chuyện đại nhân mưu phản giết chúa nhưng không tìm được chứng cứ nên hạ lệnh thả ngài ra ngoài. 

- Hắn thả ta ra cũng chỉ để đẩy ta ra chiến tuyến thôi. --- Nguyễn gia vội vàng rời khỏi nhà lao để đến yết kiến chúa thượng càng nhanh càng tốt. --- Tên đó chẳng bao giờ thật sự chịu nhận sai đâu. 

- Vậy thì đại nhân đừng nên đi, đây có thể là một cái bẫy nhằm hạ sát ngài!

Nguyễn gia xoay người lại, gửi Khoai cho Hàn Lâm họ Ngô chăm sóc. Y nói:

- Dù tâm ý của Trương Phúc Loan là giả nhưng thế giặc mạnh là thật. Ta sao có thể mặc kệ mà không đi? Lần này ta đi không phải vì vâng lệnh của hắn mà là vì ý chí của ta muốn bảo vệ xứ Đàng Trong này, bảo vệ những thứ mà ta trân trọng.

Nói đến đây, Nguyễn gia hạ âm sắc giọng nói xuống khiến người ta cảm nhận rõ sự dịu dàng trong con người y. Vì vậy mà người ta càng thấy buồn, càng thấy xót xa, sợ hãi mai này y có thể không may tử trận trên sa trường. Lặng lẽ một lúc, bàn tay xoa đầu Khoai của y cũng hạ xuống, Nguyễn gia tiếp tục hỏi về tình hình chiến trận.

- Binh khí thế nào? Đủ dùng không? Bây giờ liên hệ với Bồ Đào Nha đặt hàng ngay một lượng binh khí cho ta. Bảo hắn chở gấp đến cảng thị Hội An, sẽ có người ra thanh toán.

- Thưa ngài. --- Ngô Đình Thứ ấp úng. --- Cảng thị Hội An bị Tây Sơn phá nát rồi, các đối tác Tây Dương của ta cũng không còn ghé qua nữa.

- Cái gì? --- Sự bất an chạy dọc sóng lưng Nguyễn gia, y bàng hoàng. --- Thế còn Hà Tiên? Thành Hà Tiên sao rồi?

Hàn lâm Ngô Đình Thứ lắc đầu:

- Thành Hà Tiên bị người Xiêm phá sạch hồi năm trước. Bây giờ chỉ còn là một đống đất hoang. Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ vì quá đau lòng nên vẫn ở lại Trấn Giang và giao cho Hiệp trấn Mạc Tử Hoàng trở về khắc phục. Nhưng mà trong vòng một đến hai năm tới, trấn Hà Tiên không thể cung cấp gì cho kinh thành được đâu thưa ngài. 

Nguyễn gia day trán, tình cảnh này khiến y đau đầu không thôi. Mất cảng thị Hội An sầm uất là đã mất đi nơi trao đổi buôn bán nguồn tiếp tế cho chiến tranh, nay lại mất thêm một vựa lúa của xứ Đàng Trong là trấn Hà Tiên thì lương cho quân đội phải làm sao?  

- Làm ơn hãy nói với ta rằng xứ Gia Định vẫn còn đi. 

- Vẫn giữ được, thưa đại nhân. Nhưng quân ít và yếu đi nhiều.

Một tia hi vọng sáng lên trong đầu Nguyễn gia.

- Không sao, vẫn còn nơi ấy nếu như Phú Xuân thất thủ. --- Lẩm nhẩm một mình xong xuôi, y quay sang hỏi Ngô Đình Thứ. --- Trần Giai đâu sao không thấy ông ấy? 

- Tri phủ Trần Giai được triều đình điều về Bố Chính (Bố Chánh) đón chặn quân Trịnh rồi thưa ngài. 

- Thôi được rồi, ông mau đưa Khoai về phủ hộ ta. Khoai, con nhớ là không được ra ngoài, có biết không? Không được làm phiền các tôn thất đại thần nữa, đã rõ chưa?

Khoai thấy bất an trong lòng, nó sợ hãi kêu cha nó:

- Cha đi đâu sao? Tối nay cha có về với Khoai không?

- Cha e là không, con trai ạ. --- Nguyễn gia xoa đầu nó lần nữa. --- Lần này cha có nhiều việc bận lắm, Khoai phải nghe lời cha nhé.

Dù không bằng lòng nhưng Khoai vẫn thốt ra câu "Vâng ạ" để khiến y thêm an tâm phần nào. Dặn dò xong xuôi, ba người tạm chia tay và hướng đến hai nơi khác nhau. Đến cả trăm năm về sau nữa, Khoai vẫn không thể tin được rằng đó là lần cuối nó và cha ở bên nhau.

Việc quân Trịnh lấy danh nghĩa thân thích nhiều đời nên đem quân đến giúp chúa Nguyễn diệt giặc có điều mờ ám. Tất nhiên là Định vương biết rõ Đàng Ngoài vào đây với chủ đích gì nên đã nhanh chóng cho người viết thư đáp lại, sau đó cắt cử "Tống Hữu Trường làm Thống suất đạo Lưu Đồn, Tôn Thất Tiệp làm Trấn thủ dinh Bố Chính để chống quân Trịnh". [10] . Lúc này, nhận thấy thế Tây Sơn lại mạnh hơn nên chúa đã đưa quyền trông coi việc nước cho con thứ 7 của Thế Tông Nguyễn Phúc Khoát là Chưởng dinh Tôn Thất Cảnh, còn bản thân ngự giá thân chinh. Sau đó sai Quốc phó Trương Phúc Loan luyện quân ở núi Quy Sơn.  

Sau cả trăm năm bình lặng, giờ đây cả Đàng Trong trở nên hỗn loạn. Việc quân, việc nước cứ thế chất cao như núi mà các tôn thất công thần trong triều không sao xử lý kịp. Quân lính sống trong hòa bình đã quen bỗng dưng chiến sự nổ ra bất ngờ ắt hẳn là không thể theo kịp với nhịp độ khẩn trương. Triều đình trong mấy năm qua không hề chuẩn bị kỹ lưỡng cho bất kỳ cuộc chiến quy mô lớn nào, chưa kể rằng trong nước dân lại đói khổ vì tham quan vơ vét, đối tác buôn bán thì lũ lượt rút chạy, biên giới đối mặt với họa xâm lăng, Đàng Trong đơn độc không có đồng minh giúp sức, nếu bây giờ ban lệnh tổng động viên thì cả nước không thể đáp ứng nổi. 

Vẫn có người tin rằng triều đình sẽ qua khỏi cơn nguy khốn này nếu cả xứ Đàng Trong đồng lòng như thời của các vị chúa đời trước. Chỉ cần chúng ta có nhau thì dù khó khăn đến mấy cũng vượt qua được. Đáng buồn thay đến sự đoàn kết xứ Đàng Trong này hiện tại cũng thiếu thốn, nhiều người vẫn còn oán hận tham quan, ghét bỏ triều đình vì bị tên Quốc phó dồn đến lúc lâm nguy đã sẵn sàng chạy sang quân Trịnh làm nội ứng, dẫn đường cho họ vào lãnh thổ Đàng Trong. 

Tháng 9 năm này, quân Trịnh đến Bắc Bố Chính đã ngay lập tức được nội ứng đón chờ, "Tri phủ Trần Giai chạy sang quân Hoàng Ngũ Phúc làm hướng đạo. Phúc sai Giai coi quân hậu đạo và sai thuộc hạ là Nguyễn Ngô Dao đóng trại ở xã Đại Đan để phô trương thanh thế" [11] . "Ở Đăng Xương (Quảng Trị), một thư sinh làm thơ xin yết kiến Hoàng Ngũ Phúc chỉ vẽ sở trường, sở đoản của quân Nguyễn để Trịnh quân liệu mà chế ngự" [12]

Sang đến tháng 10, đội quân của Hoàng Ngũ Phúc vượt sông Gianh và áp sát lũy Trấn Ninh. Thấy rằng ba quân cần phải hành động ngay, trấn thủ doanh Bố Chính là Tôn Thất Tiệp "sai cai đội là Quý Lộc và câu kê là Kiêm Long đến khao quân để làm cách doãn binh" [13]. Tuy nhiên, kết quả lại không đúng như vị trấn thủ dự liệu, thay vì đẩy quân Trịnh về phía kia sông Gianh, hàng tướng Kiêm Long lại bày mưu cho Quận Việp rằng: "Đường không đi thì không đến, chuông không đánh thì không kêu" [14], câu nói này chẳng khác nào tín hiệu đèn xanh báo cho quân Trịnh hãy tiến quân, khi nào đến nơi tự khắc sẽ có nội ứng ra giúp sức. Cứ như vậy, bên ngoài quân Trịnh tiếp tục hành quân đến thẳng lũy Trấn Ninh, bên trong trên dưới không cùng một lòng, nội ứng nổi lên mở đường cho quân địch, thế thì thành lũy kiên cố để làm gì nữa? 

Tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 35 [1774] (Đại Thanh Càn Long năm thứ 39), sau hơn 100 năm sừng sững bảo vệ xứ Đàng Trong, hệ thống lũy Thầy chính thức bị xuyên thủng, không phải vì gươm sắt, đại bác của quân thù mà vì nội bộ hại nhau, mở cửa đồn rước địch. 

- Trịnh đại nhân, ngài có tâm sự gì sao? 

- Thành lũy này đã bao lần ngăn cản gót ngựa của ta, đã bao nhiêu lần ta không thể nào trừng trị lũ bướng bỉnh đó chỉ vì cái lũy đáng chết này. --- Nói đến đây, Trịnh gia dịu giọng, y đưa ánh mắt tiếc nuối nhìn vị "hộ vệ" xứ Đàng Trong. --- Vậy mà bây giờ ta chinh phục được nó dễ dàng như vậy sao? 

- Dễ dàng là điều tốt, thưa ngài. --- Quận Việp lên tiếng. --- Ít ra quân ta không phải hao hơi tổn sức, cũng không có phe nào phải chứng kiến cảnh máu chảy đầu rơi.

- Việp quận công nói đúng. --- Trịnh gia đồng tình. --- Chí ít thì toán lính thời đại này không phải chứng kiến cảnh hai bên lao vào nhau đến chết như 100 năm về trước.

Nghe xong, Quận Việp chỉ tay ngược về phía cổng đồn lũy Trấn Ninh mà họ vừa đi qua, hỏi:

- Vậy còn chiến lũy này, ngài định xử trí thế nào?

- Sang phẳng nó đi.

- Rất đúng ý ta, thưa ngài. 

Tháng 11 năm này, sau khi vượt qua ải Trấn Ninh, đội quân Hoàng Ngũ Phúc đóng quân tại xã Hồ Xá (Quảng Trị) liền cho người rải hịch kể tội Trương Phúc Loan và khẳng định lại với triều đình Quảng Nam cũng như dân chúng rằng: 

"Tả tướng Trương Phúc Loan khí cục nhỏ hẹp như cái thưng cái đấu, tâm địa gian tà như quỷ ma. Vin bán khuê khổn tình thân, trộm lấy triều đình trọng chức. Tin dùng kẻ gian nịnh, hãm hại người trung lương. Ly gián người cũ người thân, chuyên kế gây bè lập đảng. Chiêu nạp thêm vây thêm cánh, tự tính mưu lợi riêng mình. Giết người nọ lập người kia, nguy hiểm như lang sói bên cạnh nách; thẳng tay làm khổ trăm họ, vẻ mũ xiêm mà hóa giống chim muông. Nặng thuế khóa nặn máu mủ dân; bớt lương quân để cắt nanh vuốt. Chính sự cấp bách như lông mày bị đốt; hình phạt nặng nề nhường con mắt bị đâm. Chuốc oán với dân, gây ra mối loạn. Đến nỗi Tây Sơn là bọn dân hèn, tụ tập như đàn ong lũ kiến, chiếm đất Quảng Nam màu mỡ, nhanh chóng như lợn sổ lang rông. Quạt lửa giặc bùng ngất trời, khiến dân biên lầm bùn đất. Vậy nay, nhân dân chúng đương mong sống lại, kéo đội quân đương sẵn sức hãng. Trước trừ đứa cường thần, sau dẹp phường nghịch tặc. Diệt kẻ tàn bạo, để giúp nạn họ hàng; nối mối giữ giềng, để bảo tồn dòng dõi. Giúp nạn thực do nghĩa cử, không phải lòng tham thừa nguy". [15] 

Trước mắt, quân Trịnh chỉ nhắc đi nhắc lại mục đích hành quân là trừ khử Trương Phúc Loan, dù tôn thất đại thần Đàng Trong ai cũng biết đây là trò bịp bợm, giao quan Quốc phó ra rồi dễ gì bọn họ rút về Thăng Long. Nói đi cũng phải nói lại, mặc dù thực tế Trương Phúc Loan không thể là con át chủ bài của Đàng Trong đem ra để ngăn bước tiến của quân Trịnh nhưng vẫn có thể lợi dụng thời cơ này để diệt trừ tên Quốc phó tàn ác bạo ngược kia. Một tay đẩy dân chúng vào cảnh đói nghèo, túng thiếu, tay còn lại giật dây chuyên quyền trong triều đình, đã đến lúc quan Quốc phó phải trả giá cho mọi tội trạng mà hắn gây ra. 

Đêm ấy, tướng Nguyễn Phước Huống cùng tướng Nguyễn Cửu Pháp ra sức thuyết phục Định vương tán thành kế hoạch vây bắt Trương Phúc Loan mà hai ông đề ra. Thấy chúa còn chần chừ, Nguyễn Cửu Pháp nhắc lại tình thế gấp rút hiện giờ.

- Dân chúng không một ai là không oán thán Trương Phúc Loan nay đọc được hịch kể tội do quân Trịnh truyền bá thì lại càng hưởng ứng hơn nữa. Nhân tâm đã bị họ thu phục, dân chúng sẽ không giúp triều đình cản bước họ đâu, thưa chúa thượng.

Định vương nhìn tấm bản đồ quân sự trải trên bàn, thấy phần lũy Trấn Ninh bị quân Trịnh xuyên thủng bất giác truyền đến một tia gai người.

- Bài hịch đó quả không sai. --- Định vương trầm ngâm. --- Cơ đồ của dòng họ ta bị tên đó một tay làm cho xiêu đổ, ta lại chỉ như con rối chẳng làm được gì. Thế nhưng việc giao hắn ra đâu thể nào ngăn quân Trịnh hành quân đến gần thành Phú Xuân được? Đó chỉ là cái cớ của họ, Đàng Ngoài đâu thực tình muốn giúp chúng ta? 

- Hạ thần cũng đồng ý với điểm đó, thưa chúa thượng. --- Nguyễn Cửu Pháp đáp. --- Nhưng đây chính là cơ hội tốt để diệt trừ Trương Phúc Loan, cứu nguy cho xứ Đàng Trong. Hắn chết và phe cánh hắn tan rã sẽ càng thuận lợi hơn cho chúng ta xây dựng lại vương triều này!

- Chúa thượng đừng lo sợ gì cả. --- Nguyễn Phước Huống lên tiếng. --- Lần thiết triều sắp tới, chỉ cần ngài gật đầu chúng thần sẽ bắt trói hắn ngay! Ít ra thì quan Quốc phó cũng phải biết hi sinh vì dân chúng, vì triều đình chứ!

Định vương suy xét một hồi thì cũng gật đầu đồng ý. Sau lại nhớ ra chuyện gì đó, vội hỏi hai viên tướng có mặt trong phòng.

- Lệnh của ta tới tai Nguyễn gia rồi chứ?

- Nguyễn đại nhân đã được gửi đi chiến trường phía Bắc chống quân Trịnh rồi, thưa chúa thượng. --- Nguyễn Cửu Pháp trả lời. --- Nay mai là sẽ giáp mặt quân Trịnh. Nếu như họ kỳ thực giữ lời chỉ cần bắt được Trương Phúc Loan là sẽ lui binh thì tốt nhưng nếu họ một mực chống lại vương triều này thì hai bên ắt sẽ có giao tranh lớn. 

Định vương lo lắng rời ghế để đến bên của sổ hòng chúc phúc Nguyễn gia lần này ra trận có thể bình yên trở về. 

Xứ Đàng Trong giao nộp Trương Phúc Loan cho Hoàng Ngũ Phúc, không ai thấy quá bất ngờ khi quân Trịnh không những không lui quân mà còn đòi hội quân tại Phú Xuân để hai dòng họ hợp lực diệt Tây Sơn. Tất nhiên Định vương không sao vui nổi với ý niệm "tốt lành" này của bọn họ, lại sai Tôn Thất Hiệp làm Thống binh và Thuộc nội cai đội Đặng quản quân cấm vệ chống giữ, lại thêm Cai đội Tuyên Chính cùng Tham mưu Thành Đức dụ quân Trịnh. Để tạo yếu tố bất ngờ, nhiễu loạn đội hình địch, chúa sai Cai đội Phẩm Bình đi dụ hào mục ở các dinh Quảng Bình, Bố Chính hưởng ứng quân triều đình, giúp ba quân quấy rối sau lưng, cắt đứt đường liên lạc giữa địch và Đàng Ngoài. Bây giờ binh hùng tướng mạnh đều được điều đi chống Tây Sơn nên chiến trường phía Bắc chỉ còn biết trông chờ vào họ. 

Nhưng dù có cố gắng thế nào, Đàng Trong lần này không thể cản nổi bước tiến của Đàng Ngoài. Cai đội Phẩm Bình vừa đến nơi đã bị quân Trịnh bắt được, đạo quân của Tôn Thất Tiệp bị tướng nhà Trịnh là Nguyễn Tiến Khoan cùng Hoàng Phùng Cơ đánh tan, những đạo quân khác sợ hãi không đánh cũng tự vỡ. Nội tả chưởng dinh là Nguyễn Văn Chính được điều đi đánh trận, binh uy có chút phấn chấn trở lại khiến quân Trịnh phải e dè phòng bị. Tuy vậy cả chiến trường phía Bắc chỉ có một mình Nguyễn Văn Chính chống đỡ, so về mưu lược cầm quân thì ông không bì kịp lão tướng Đàng Ngoài là Hoàng Ngũ Phúc nên cuối cùng cũng thất bại. 

Trên chiến trường, người ngã chết, kẻ thua chạy, duy chỉ có Nguyễn gia buộc chặt thanh kiếm vào bàn tay đã gãy nát sừng sững đứng đó, cản bước quân thù phạm vào kinh đô Phú Xuân. Thấy y muốn liều mạng đón đánh, quân Trịnh trước mặt không dám động thủ, có người lấy súng bắn y nhưng chưa kịp bóp cò đã bị ánh mắt dọa cho chết khiếp. Nguyễn gia liếc nhẹ ra phía sau, thấy  quân lính phe mình còn vài người chưa kịp chạy xa bèn chĩa kiếm về phía quân Trịnh quát lớn, kéo mọi chú ý về phía bản thân mình.

- Sao nào? Lên đánh ta đi chứ! Ta gọi ngươi đấy, Trịnh gia!

Quân lính nín thở nhìn về phía Trịnh gia, y trông cũng đã thấm mệt. Mồ hôi đổ ra ướt đẫm, mái tóc đen vì vậy bết vào nhau và dán chặt vào trán. Khuôn mặt, thân thể đầy thuốc súng và bùn lầy, hình như y bị thương hoặc do là bản thân đã chém được Nguyễn gia khi mà vết máu loang lỗ dính đầy trên y phục người ấy. 

- Cũng ngoan cố lắm, tên Nguyễn nghiệt. --- Trịnh gia lấy tay lau vết máu nơi khóe miệng. --- Ngươi có vẻ muốn tự đào huyệt chôn mình? Mà nghe này, nếu ngươi chết thì thành Phú Xuân ai trấn giữ đây?

- Nếu hãm chân các ngươi ở đây, thành Phú Xuân sẽ được yên ổn!

Nguyễn gia biết rõ một cánh quân khác của Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc đã tách đại quân để đi trước mở đường, y lại không thể phân thân mà đón chặn bọn họ. Bây giờ chỉ biết hãm chân Trịnh gia ở đây còn đạo quân của Quận Việp thì y cầu Trời khấn Phật rằng quân kinh thành đủ sức chống trả. "Phú Xuân hãy kiên trì lên" - Nguyễn gia nghĩ thầm - "Cho ta một ngày, không, chờ ta một canh giờ thôi, ta sẽ trở về với mọi người!". 

- Đừng làm ta cười, Nguyễn gia. --- Trịnh gia chân giẫm mạnh xuống đất, tay thì chĩa thẳng mũi kiếm về phía người kia. --- Vua tôi chúng bay kẻ kiêu ngạo người nhu nhược như thế, lòng dân oán thán căm phẫn như vậy, thóc lúa thì thất thu, ông trời tức giận giáng tai ương lên đất của chúng bay. Sự tồn vong chỉ trong sớm tối.

Đàng Trong của y, từ ngày nó khai sinh đến giờ cũng đã gần 200 năm. Bao khổ cực, bao niềm hạnh phúc của vùng đất này y điều thấy rõ. Ngày ngày, khi mặt trời tỏ ánh sáng đầu tiên, những lưu dân từ miền ngoài vào lại chăm chỉ khai hoang lập địa, đến khi mặt trời ở thiên đỉnh, họ trốn vào bóng râm và bắt đầu buôn những câu chuyện diệu kỳ vui tai. Ở vùng đất này, y đã gặp bao nhiêu khó khăn. Người Chiêm Thành cũng từng gây khó dễ cho y nhưng y không qua tâm, liên minh giữa Đàng Trong và Cao Miên nhiều lúc thăng trầm nhưng y cũng đã vượt qua hết, xung đột với Xiêm La không ngừng nhưng rồi mọi chuyện cũng đã lắng xuống. Biên giới sông Gianh 7 lần vừa rồi nổ ra chiến sự do Đàng Ngoài quấy nhiễu nhưng đã có hệ thống lũy Thầy của nhất đại quân sư Đào Duy Từ cản chúng lại, còn có hai danh tướng là Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật và Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến trông coi Đàng Trong cho đến khi hai vị qua đời. Thêm cả tinh thần ba quân như một, lòng dân hướng về triều đình, dù có lâm nguy, hiểm cảnh xứ Đàng Trong này đều vượt qua được cả. 

Cảng thị xinh đẹp được lập ra, thành trì vững chắc sừng sững sau bao mùa thu lá rụng tả tơi. Chợ búa nhộn nhịp tấp nập tiếng người, cánh đồng lúa trĩu nặng bông, ghe tàu từ tứ phương đổ về khen nức mũi xứ Quảng Nam xinh đẹp và diễm lệ. Rồi y gặp được Khoai, đứa con nuôi bé bỏng mang linh hồn của xứ Gia Định màu mỡ và tươi tốt tái sinh từ đống tro tàn. 

Tại sao? Tại sao bây giờ một tấc đất cũng không giữ nổi? Tại sao đến một khu chợ cũng bị tàn phá? Đến một bát cơm cũng không thể múc đầy? Nguyễn gia cứ ngỡ sẽ luôn được thấy nụ cười của mọi người mỗi ngày nhưng từ lúc bước ra từ ngục tù y chưa từng thấy bất cứ ai vui vẻ. Đây không phải là xứ Đàng Trong của y, người ta hủy hoại những gì y yêu thương mà y không hề có động thái gì đòi lại. Vì vậy nếu có chết, hãy để Nguyễn gia chết vì vùng đất này.

Từng nhát kiếm chém đinh tai không thể kéo nổi Nguyễn gia về lại thực tại tàn khốc. Y ghét hiện thực này, không hề muốn đối mặt với nó. Trọng trách của y là bảo hộ, là trông coi xứ sở này nhưng y đã làm gì? Trước mắt là quân lính nằm phơi thây với nắng gió, sau lưng là lương dân khóc lóc lầm than. Y có thật sự bảo vệ họ chưa? Mấy năm nay y cũng bị cuốn vào vòng xoáy của chính trị, tìm cách hãm hại phe kia nhưng đã lần nào y nghĩ đến nhân dân và sự sống còn của dòng họ? Nguyễn gia đã buông lỏng bản thân cả đời, đến cuối cùng nhận ra e cũng đã muộn.

Nhớ lại những ngày y vừa gặp Trịnh gia, biết tên này là một quốc kỳ như mình nhưng lại tùy tiện nhặt về ra mắt chúa công. Trái ngược với y, tên ấy coi trọng kỷ cương hơn nhiều và luôn đặt bổn phận lên trước sở thích. Khi ấy y thấy rất tức cười, bảo rằng sự nhạt nhẽo của tên đó âu cũng là một thú vui cho y ngắm nhìn. Bây giờ nhìn Trịnh gia, y mới nhận ra bản thân đã xem nhẹ hắn. Nhiều khi tính nghiêm túc thái quá của kẻ này cũng làm nên chuyện ấy chứ. Thân thủ của Trịnh gia đã hơn Nguyễn gia rồi đây này, chính quyền Đàng Ngoài cũng ổn định hơn Đàng Trong rồi đây này. Người giỏi giang như vậy chắc không thể nào chịu là tôi tớ mãi đâu.

Nguyễn gia lại nhớ đến Lê trung hưng. Khi này người đang làm gì? Trịnh gia hầu hạ người có tốt không? Lần gửi bức thư "Ta không nhận sắc" có khiến người đau lòng? Nguyễn gia vào Nam đã rất lâu nhưng ngày nào cũng nhớ về quê hương xứ Thanh Hoa (Thanh Hóa), nhớ về thành Thăng Long tráng lệ một thời. Y muốn một ngày được trở về nơi ấy thăm thú cho trọn mọi địa danh đã gắn liền với cuộc đời thăng trầm này nhưng sau đó vẫn sẽ nói lời tạm biệt để về lại Đàng Trong. 

Phải rồi, Đàng Trong. Đàng Trong chính là ngôi nhà thân thương nhất của Nguyễn gia. Kinh thành Phú Xuân chính là nơi dòng dõi họ Nguyễn cư ngụ. Nguyễn gia không thể nào rời đi mà chưa trả hết nợ cho vùng đất này!

- Ta sẽ không để ngươi đến được thành Phú Xuân đâu!

Nguyễn gia gầm lên lao đến vung những đường kiếm nhanh như ngọn gió về phía Trịnh gia. Đòn tấn công chớp nhoáng chính là vũ khí lợi hại nhất của y, vừa gây choáng quân địch vừa dứt điểm khi kẻ thù chưa kịp chống trả. Chính những đường kiếm nhanh nhẹn này mà quân lính nhà Trịnh không ai dám xông lên đối đầu với y. Trịnh gia cầm chặt thanh kiếm trên tay, đưa thanh kiếm lên quá đầu, lấy thế vung nhát chém uy lực nhất.

- Bao nhiêu năm qua, ngươi không tập luyện đúng không? Tốc độ chậm đi trông thấy.

Ngay lúc Nguyễn gia đâm thanh kiếm về hướng mình, Trịnh gia canh chuẩn thời gian chém thẳng xuống buộc người kia phải đổi cách đánh, đặt kiếm ở tư thế nằm ngang, lấy thân kiếm chống đỡ đòn tấn công nặng nề như búa tạ ấy. Đỡ lấy nhát kiếm của Trịnh gia là một bước đi nguy hiểm mà ai cũng biết rõ, Nguyễn gia đây cũng chẳng còn cách nào nên mới liều mạng đón lấy đòn tấn công kia. Áp lực cực kỳ lớn chạy dọc cả thanh kiếm ấy, các ngón tay phải đã gãy của Nguyễn gia đau điếng, ra sức lấy tay trái trụ thật vững thanh kiếm, chỉ cần thanh kiếm nghiêng thì cả thân trái của Nguyễn gia sẽ hứng trọn nhát chém này. 

Ngay lúc ấy, đằng sau Nguyễn gia xuất hiện một bóng hình quen thuộc. Tướng Hoàng Phùng Cơ quay lại tiếp viện Trịnh gia, cùng phối hợp hạ cho bằng được Nguyễn gia để cánh quân còn lại có thể tiếp tục tiến lên. Thanh kiếm của Hoàng Phùng Cơ nhắm vào cổ của Nguyễn gia mà chém tới, đòn tấn công trực diện của Trịnh gia vẫn chưa xử lý nổi, y buộc phải chọn một trong hai. Nguyễn gia chọn tránh nhát chém của Hoàng Phùng Cơ. Cơ hội này được Trịnh gia nắm bắt ngay, thanh kiếm của Trịnh gia đang chém thẳng chợt xoay ngang lướt trên thân kiếm của Nguyễn gia. 

Chưa đầy một khắc, thủ cấp của người đã rơi thẳng xuống mảnh đất thấm đẫm máu tươi. 

Trời đất bỗng dưng lặng im, quân Trịnh đứng từ xa thấy vậy cũng chẳng dám nói gì với nhau. Hoàng Phùng Cơ không dám thở mạnh, kiếm chưa an tâm mà tra vào bao. Vị tướng nhìn vào mắt Trịnh gia trước mặt, đôi mắt người ấy từng ánh lên một ý kiên định mạnh mẽ suốt gần 200 năm qua nay dường như phai nhạt rất nhiều. Nhát kiếm mà Trịnh gia chém lúc nãy đã lấy đầu Nguyễn gia, cũng cùng lúc thỏa mãn bao sự nhẫn nhịn và cố gắng của Trịnh gia gần 200 năm qua. Vậy là mọi chuyện ... đã kết thúc ... thật rồi sao?

Cái xác không đầu của Nguyễn gia dường như vẫn chưa chịu chết, thanh kiếm đang nằm ngang ở thế phòng thủ nay thẳng tay đâm tới ở thế tấn công. Trịnh gia chưa kịp hoàn hồn, không thể tránh được đòn tấn công dứt điểm đến từ địa ngục ấy. Hoàng Phùng Cơ xông đến bảo vệ y, nhát kiếm chém đứt lìa hai tay của cái xác khiến thanh kiếm rơi xuống đất khi chưa kịp đả thương kẻ địch trước mặt. Bấy giờ Trịnh gia mới lùi lại nhìn cái xác khụy xuống và hoàn toàn bất động, quay mặt về phía bên phải, cạnh đấy không xa, cái đầu của Nguyễn gia với con mắt mở to đầy căm phẫn vẫn đang nhìn thẳng về hướng bên này. 

Trịnh gia thở hắt một hơi, tra kiếm vào vỏ báo hiệu xung quanh đã thật sự an toàn. Y hỏi thật nhanh thông tin chiến trận từ Hoàng Phùng Cơ:

- Cánh quân của Quận Việp sao rồi?

Hoàng Phùng Cơ giật mình, cố gắng định thần sau chuyện kì dị vừa rồi.

- Thưa ... thưa đại nhân, quân ta đã theo đường núi qua thác Trầm Ma. Đồn thủ địch là Tường Quan và Doãn Đức đều thua chết. Cánh quân của Nguyễn Văn Chính phe họ cũng bị đánh tan, Nguyễn Văn Chính tử trận. Quân ta đang tiến thẳng về Phú Xuân, kính mong đại nhân mau đến hội quân. 

Trịnh gia lại thở mạnh một cái như trút bỏ mọi muộn phiền trong lòng đã tồn đọng như u nhọt suốt gần 200 năm qua. Trong thân tâm y vẫn không tin được mình vừa chấm dứt Nguyễn gia, vẫn lo lắng rằng cái xác kia lại đứng dậy cầm kiếm tấn công y. Nhưng mọi chuyện đã kết thúc thật rồi, Trịnh gia đã thắng, mối phiền lòng Nguyễn gia đã mãi mãi rời khỏi dương gian. 

Tháng 12 năm ấy, quân Trịnh phạm đô thành Phú Xuân.

Định vương sai Tham mưu Trung dinh là Tống Phước Đạm đem số quân còn lại của triều đình ra cửa bắc chống giữ. Tiếp tục cho người chuẩn bị ghe thuyền bỏ Thuận Hóa để vào Nam. Ngài cho hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương rời kinh thành trước, sau đó lần lượt dẫn gia quyến cùng tùy tùng qua cửa Tư Dung vào Quảng Nam. 

Ngước nhìn bóng kinh đô trong nắng tàn úa, lòng Định vương cũng như thằng nhóc Khoai đều thấy rất khó chịu. Nhưng rồi cũng phải tạm biệt cố đô để tiếp tục tranh đấu cho vận mệnh gia tộc. 

Thành Phú Xuân thất thủ. Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc chiếm giữ Thuận Hóa. 

-----------------------------------------------------------

Chú thích: 

[1] Trịnh Hoài Đức. (2019). Gia Định thành thông chí (Phạm Hoàng Quân, dịch, chú và khảo chứng.). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. (Bản gốc được hoàn thành năm 1820). tr.285

[2]  Tô Thức, hiệu Đông Pha Cư Sĩ (1037 - 1101) là nhà thơ lớn đời Tống. Ông từng viết: "Tứ thời câu thị hạ, Nhất vũ tiện thành thu" (Bốn mùa nóng như hạ, một trận mưa là thu). Hiệp trấn Gia Định Thành Trịnh Hoài Đức thấy khí hậu của xứ Gia Định cũng giống như câu thơ trên. 

[3]  Trịnh Hoài Đức, sđd, tr.289

 [4]  Trịnh Hoài Đức, sđd, tr.300

[5]  Bố Chánh châu: còn gọi là Nam Bố Chánh hoặc Nội Bố Chánh, vùng đất phía Nam sông Linh Giang (sông Gianh). Năm 1831, đổi thành huyện Bố Trạch.

[6]  Cái đỉnh của nhà Lê: ý chỉ ngôi vua của nhà Lê.

[7]  [8]  Quốc sử quán triều Nguyễn. (1998). Khâm định Việt sử Thông giám cương mục  (Viện sử học, dịch). NXB Giáo Dục. (Bản gốc hoàn thành năm 1881). tr.918

[9]  Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, tr.930

[10  [11]  Quốc sử quán triều Nguyễn. (2001). Đại Nam thực lục  - Tập một  (Viện sử học, dịch). NXB Giáo Dục. (Bản gốc hoàn thành năm 1909). tr.179

[12]  Tạ Chí Đại Trường. (2017). Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802. NXB Tri Thức. tr.64

[13]  [14]  Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, tr.933

[15]  Đại Nam thực lục - Tập một , tr.180

-----------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc sử quán triều Nguyễn. (1998). Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (Viện sử học, dịch). NXB Giáo Dục. (Bản gốc hoàn thành năm 1881). 

https://drive.google.com/file/d/0B_tgXQd77XPeS3ZVUjNnN0NGT3M/view?resourcekey=0-YUlzsAP_xVBwR47cXbEvvw

2. Quốc sử quán triều Nguyễn. (2001). Đại Nam thực lục - Tập một  (Viện sử học, dịch). NXB Giáo Dục. (Bản gốc hoàn thành năm 1909).

https://thuvienhoasen.org/images/file/vNkae_vW2QgQAH59/vn-dai-nam-thuc-luc-1.pdf

3. Trịnh Hoài Đức. (2019). Gia Định thành thông chí (Phạm Hoàng Quân, dịch, chú và khảo chứng.). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. (Bản gốc được hoàn thành năm 1820).

4. Tạ Chí Đại Trường. (2017). Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802. NXB Tri Thức.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro