1. @AuDuongNguyetCat

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

| Tên truyện : Chiếc Khăn Choàng Đỏ

Tác giả : Âu Dương Nguyệt Cát ( Hii )

Thể loại : Historical, Drama, Slice of life, Romance,...

Tình trạng : Hoàn thành |

Tôi đã đợi rất lâu, nhưng không ai đến hết, kể cả Farley.

" Chúng ta tạm thời đã an toàn rồi. Thật may mắn khi giữa rừng lại có một căn nhà bỏ hoang thế này. Nhưng Ruby à, chị nghĩ mình phải quay lại để giúp đỡ những người khác, có thể họ bị thương hay... đại loại vậy, nên rất khó để di chuyển, và cũng không ai biết ta ở đây hết. Đừng quá lo lắng, chị sẽ về ngay thôi, cùng với Caryln, Wilfred, Alden, chị Eirlys, tất cả. Ở yên đây nhé. Và hãy cử động thật nhẹ nhàng nếu không muốn vết thương trở nặng. Chị xin lỗi... "

Đó là tất cả những gì chị Andrea nói trước khi vội vã rời đi dù chính mình cũng bị thương không kém - ít nhất thì tôi nhớ được chừng ấy.

Máu từ vết đạn trên cánh tay tôi rỉ ra ngày một nhiều. Đau. Rất đau. Cảm giác còn khủng khiếp hơn cả khi bị chiếc roi da dài ngoằng của nữ quản gia nhà Bush quật vào cơ thể. Tôi cứ nghĩ nó sẽ ổn thôi, và chị Andrea cũng đã giúp dùng chiếc áo choàng trắng mà Farley tặng tôi để cầm máu. Nhưng có lẽ không phải.

Giờ thì, tôi cho rằng mình cần ngủ một lát. Mắt tôi cứ díp lại, còn cơ thể lạnh toát. Nếu đánh một giấc đã đời có lẽ sẽ ổn thôi, và biết đâu khi tỉnh dậy, mọi người đã đến rồi? A, nhưng tôi biết ăn nói với anh Farley làm sao bây giờ...

Chiến tranh đã làm cho chiếc khăn choàng trắng mà anh tặng tôi nhuốm màu đỏ tươi, một sắc đỏ bi thương của máu.

.
.
.

Tôi từ từ mở mắt. Mới đầu, khung cảnh trước mặt cứ lộn vòng vòng và lắc qua lắc lại như lăng kính vạn hoa vậy, thật khó chịu. Tạ ơn trời là một lúc sau, mọi thứ cũng dần dần rõ hơn.

Buồn ngủ quá. Đầu tôi đau nhoi nhói còn chân, tay, hông và lưng nhức nhối đến mức tôi chỉ muốn chúng rụng ngay khỏi cơ thể. Tuy nhiên, tôi không còn mơ hồ thấy thứ cảm giác lạnh buôn buốt của tuyết ở da đầu, thấm qua chiếc áo mỏng tang đến lưng rồi ngấm tận vào trong phổi nữa. Chà, dễ chịu làm sao.

Chống khuỷu tay xuống, tôi cố dùng nhiều sức nhất có thể để ngồi dậy. Cơ thể nặng nề khiến cho cái việc tưởng chừng đơn giản này mới khó khăn làm sao, nhưng cuối cùng thì tôi cũng làm được. Vậy là, giống hệt như con ếch ngu ngốc lần đầu thoát khỏi đáy giếng, tôi bắt đầu nhìn ngó xung quanh bằng cặp mắt ngờ nghệch.

Nơi tôi đang nằm là một căn phòng nhỏ hình chữ nhật, thiết kế đơn giản và số lượng đồ đạc khá ít. Bốn bức tường với lớp vôi quét mỏng màu vàng tươi nay đã bong tróc, sờn đi thấy rõ. Phần trần nhà phía trên đầu tôi có mấy vết nứt be bé, nối đuôi nhau chạy đến chỗ cái bóng đèn với thứ ánh sáng yếu ớt được treo chính giữa. Cuối phòng, ngay cạnh cánh cửa ra vào bằng gỗ đã cũ là một cái tủ nâu khá lớn – ít nhất thì hơn tất cả những đồ đạc còn lại, gồm hai cánh cùng vài ngăn phụ bên dưới. Tôi nghĩ nó dùng để đựng quần áo, vật dụng cá nhân hay thứ gì đó tương tự. Gần chiếc tủ ấy, một cái bàn, hình như cũng bằng gỗ, được kê sát tường và quay mặt vào phía trong. Trên bàn có mấy tập sổ sách, giấy tờ được sắp ngay ngắn, xếp gọn thành chồng đặt sát sang bên phải. Bộ chăn gối tôi đang sử dụng thì chỉ mang một màu trắng đơn giản, chẳng có gì đặc biệt, tuy nhiên lại rất sạch sẽ và... ừm, thơm nữa, nếu để ý kĩ.

Tất cả mọi thứ đều thật lạ lẫm. Dù không hiểu sao nhưng nơi này cho tôi cảm giác sợ hãi đến kì lạ. Không, nói chính xác thì... tôi thấy đau đớn.

Đây là đâu?

" Bịch. Bịch. "

Đột nhiên, có thứ tiếng động lạ lùng gì đó phát ra từ sau bức tường ở cuối phòng, phá tan dòng suy nghĩ của tôi. Đó là tiếng bước chân. Lạy chúa, cái tường này mỏng đến thế ư? Trong không gian yên tĩnh, âm thanh đó trở nên thật kì quái, và quan trọng hơn là... nó ngày một gần.

" Cạch. "

Cánh cửa gỗ từ từ mở ra. Chân tay tôi đã thật sự run lẩy bẩy và đầu thì cúi gằm xuống chăn cho tới khi " kẻ bí ẩn " kia lên tiếng – một giọng nói rất đỗi dịu dàng :

- Ồ, em đã tỉnh rồi ư?

Tôi vội vàng ngẩng dậy để tìm kiếm chủ nhân của câu hỏi ấy.

Ngạc nhiên làm sao, trước mặt tôi giờ đây là một chàng thanh niên cao ráo, trẻ trung và khá... điển trai. Anh sở hữu mái tóc vàng kim tuyệt đẹp cùng đôi mắt màu lam sâu thẳm như biển khơi vậy. Quả thực, tôi đã bị choáng ngợp trong chốc lát. Nhưng có lẽ thứ thu hút đứa con gái này hơn cả chính là bầu không khí xung quanh anh. Phải nói sao nhỉ, chúng khiến tôi cảm thấy an tâm, tựa như ánh mặt trời ấy, ấm áp và dễ chịu.

Tôi chưa kịp trả lời thì một người phụ nữ khác đã bước vào, trên tay cầm chiếc cốc thủy tinh đựng loại nước gì đấy màu nhàn nhạt. Dù khoảng cách chẳng gần cho lắm nhưng hình như tôi vẫn ngửi thấy mùi gì đó rất thơm và nồng đang thoang thoảng trong không khí, có lẽ từ cái cốc bí ẩn kia. Tôi biết, ấy vậy mà không nhớ nổi. Bằng cách nào đó, nó lại khiến lòng tôi quặn đau. Thật kì quặc.

Cô gái cũng còn khá trẻ, chắc chỉ tầm tuổi chàng thanh niên tóc vàng vừa rồi. Thấp hơn hắn cả cái đầu nhưng nhan sắc lại chẳng thua kém bao nhiêu, làn da cô trắng như trứng gà bóc nõn, đôi môi chúm chím đỏ hồng còn mái tóc dài màu hạt dẻ được tết lệch khéo léo, vắt sang vai trái. Khuôn mặt cô toát lên một cái gì đó rất quyến rũ, nhưng lại mong manh, dễ vỡ đến lạ. Vừa thấy tôi ngồi dậy tỉnh táo, người phụ nữ đã dúi khay nước trên tay mình cho chàng thanh niên tóc vàng bên cạnh rồi vội vàng chạy tới nắm tay cô bé lạ mặt :

- Em thấy ổn chứ? Có đau ở đâu không? Hay khó chịu chỗ nào...

- Tránh xa tôi ra!

Cô chưa kịp nói hết câu, tôi đã sợ hãi rụt tay lại, thu vào lòng và quăng cho đối phương một ánh nhìn hoang dại mà bất lực. Tựa như con nhím nhỏ trong hang nhận thấy mối nguy hiểm cận kề nhưng chẳng thể làm gì hơn vì kẻ thù lớn gấp mình cả chục lần, nó đành bất lực gồng lên bộ gai sắc nhọn để tự bảo vệ bản thân, che giấu đi lớp da thịt mỏng manh và yếu ớt phía dưới. Nếu không đủ mạnh mẽ, tôi sẽ chết – đó chính là quy luật bất thành văn của thế giới đáng sợ này. Những lời dụ dỗ ngọt ngào đến ghê tởm kia không thể nào ảnh hưởng đến tôi nữa, dù chỉ một lần.

Tôi khác xưa rồi.

- Đừng chạm vào tôi.

Tôi gằn giọng ngay khi chàng thanh niên tóc vàng định lại gần sau đó. Thấy phản ứng " lạ lùng " ấy, hai người sững sờ, im lặng nhìn nhau hồi lâu. Có thể họ bối rối vì gặp phải cô bé " kì quái " như tôi, nhưng cũng chẳng ngoại trừ khả năng chúng đang âm thầm trao đổi điều gì đó. Tôi không biết cụ thể, tuy nhiên chắc chắn rằng nó chẳng tốt đẹp chút nào đâu. Vì họ là con người.

Thế rồi, chàng thanh niên tóc vàng giơ tay ra hiệu cho nàng " Bạch Tuyết " - tôi gọi vậy bởi cô thật sự rất trắng. Tôi nghĩ hắn muốn nói với cô rằng " khoan đã " hoặc " hãy để ta lo ".

Chà, mấy người định xử lý tôi thế nào đây? Tôi mím môi, bàn tay rịn mồ hôi nắm chặt lấy mép chăn mình đang đắp, im lặng chờ đợi. Không sao hết, tôi có thể phản kháng nếu anh ta thật sự định làm gì. Tôi sẽ ổn thôi.

Anh mỉm cười nhìn tôi, có lẽ bình thường thì đó sẽ là ánh mắt trìu mến, nhưng tôi không nghĩ vậy :

- Chào mừng em đến với Trại trẻ Tình thương Lavender – nơi cưu mang những đứa trẻ cơ nhỡ do chiến tranh của thị trấn Safensoud. Anh tên Farley, còn cô gái tết tóc đứng đằng kia là Eirlys. Tình cờ thấy em nằm bất động trên bãi tuyết trước cổng nên anh đã vội vã đưa vào, thật may vì mọi thứ vẫn ổn.

Ra thế, một trại trẻ. Hoặc ít nhất đó là vẻ bề ngoài. Dù sao thì bây giờ, tôi cũng chẳng còn lựa chọn nào ngoài tin tưởng lời nói kia cả nên cứ tạm chấp nhận đi.

Như vậy, chiếc xe đã đưa tôi tới thị trấn này. Có vẻ nó rất xa với chỗ đó bởi tôi còn chưa một lần nghe qua cái tên " Safensoud ". Nhưng thế cũng tốt. Nếu thật sự may mắn, tôi thoát được rồi.

Đợi một lát, thấy tôi vẫn chẳng nói  chẳng rằng, nàng Bạch Tuyết, Eirlys, liếc nhìn Farley rồi bước tới chỗ tôi. Một cách " nữ tính ", cô ả lấy hai tay vuốt thẳng phần chân váy rồi từ từ ngồi xuống cuối giường.

- Em hẳn không phải người ở đây vì chị chưa từng thấy trước đó, vậy có thể cho bọn chị biết tên và nơi mình tới được chứ ? Tại sao em lại một mình ngất xỉu trên tuyết ở chỗ xa lạ thế này?

Vừa nghe câu hỏi ngu ngốc ấy, một đống hình ảnh hỗn tạp đã bủa vây và xâm chiếm lấy toàn bộ trí óc tôi như một cơn bão đáng sợ, thực thực mà ảo ảo. Tôi đang trở nên mất kiểm soát. Những mảnh ký ức khủng khiếp đó cứ ào ào ập tới, đâm thẳng vào phần tâm hồn nằm sâu thẳm trong tôi. Bóng tối. Xung quanh tôi chỉ còn là bóng tối. Tôi chẳng thể tìm thấy lối ra nữa.

lại xảy ra.

Chân tay bắt đầu run lên và mồ hôi thì chảy đầy cổ nhưng tôi vẫn phải tự trấn an bản thân và cố gắng giữ vẻ mặt điềm tĩnh trước hai người kia dù cho biết chắc rằng họ sẽ nhận ra điểm kỳ lạ ở mình. Quê hương, gia đình, bạn bè, phẩm giá,... tôi đã không còn mấy thứ đó từ rất lâu rồi. Còn tên ư? Tôi không biết. Rốt cuộc thì tôi là ai đây?

Tôi có thể là ai được chứ?

- Em có sao không?

Giọng nói ấy lại ấm áp vang lên, xoa dịu đi những vết thương chẳng thể nào lành trong tôi. Bằng cách nào đó mà chàng thanh niên ấy thu hút tôi một cách khó tả. Thật kỳ lạ. Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như từng gặp người như anh ở đâu rồi. Quen thuộc làm sao.

Sau khi chắc chắn rằng mình đã bình tĩnh trở lại, tôi mới ngước nhìn Farley và Eirlys, thì thào trả lời :

- Không có tên.

Tôi nghĩ mình thấy được sự thay đổi trong cái nhìn của họ, đầy cảm thông và xen lẫn chút... buồn bã. Tôi hiểu mà, bởi đó chính là ánh mắt bản thân đã dùng khi trả lời câu hỏi kia : chất chứa đầy bi thương.

Im lặng. Sự tĩnh lặng bao chùm cả không gian.

Thế rồi cuối cùng, anh Farley cũng lên tiếng và phá vỡ bầu không khí " căng thẳng " kia :

- Ồ, bây giờ anh mới nhận ra nhưng màu mắt em đẹp thật đấy, trông cứ như đá Ruby vậy... Phải rồi!

Đang nói bình thường thì anh bất chợt hô lên khiến tôi giật nảy mình. Trong một khoảnh khắc, dường như tôi đã thấy ánh mắt ánh mắt anh sáng hơn cả những vì sao mà mình vẫn ngắm lặng mỗi đêm. Thật đẹp làm sao. Đây có phải thứ mà người ta vẫn gọi là " cái nhìn biết nói "? Lần đầu tôi thấy nó đấy. Thế nhưng...

Farley có ý gì khi khen màu mắt của tôi? Thật đáng ngờ

Rồi anh tiếp :

- Chúng ta không thể cứ gọi em là " cô bé " mãi được. " Ruby " thì sao? Em thích cái tên đó chứ?

- Ruby?

Tôi bất giác hỏi lại khi nghe anh nói thế.

Họ muốn gọi tôi là Ruby ư? Đá Ruby đem lại sự tốt lành và may mắn. Không tệ chứ nhỉ? Nhưng dẫu sao đó cũng chỉ là thứ dùng để phân biệt nhau cho dễ thôi, nên sao chẳng được. Đúng vậy, chỉ là một trong rất nhiều cái tên khác mà tôi từng có.

Tôi khẽ gật đầu đồng ý. Từ giờ, tôi là " Ruby ".

Chà, tôi nóng lòng chờ xem lần này sẽ được bao lâu đây.

Sau đó, họ dặn dò tôi vài thứ rồi ra ngoài. Đại khái thì hai người đã ngỏ lời mời tôi ở lại đây, nhưng sống được hay không thì chính tôi cũng chẳng nói trược được điều gì.

Không tin tưởng họ, tất nhiên rồi. Farley kể với tôi rằng đây là một thị trấn yên bình, các giao tranh thường cách nơi này rất xa và chưa từng có binh lính nào đặt chân tới hết. Dù vô cùng khó tin nhưng sự thật thì dường như Safensoud đã hoàn toàn cách biệt khỏi cuộc chiến tranh dành lãnh thổ địa diễn ra suốt gần chục năm qua giữa Dailen và Guniviar - một vương quốc hùng mạnh. Ngoài ra thì Safensoud không phải thị trấn giàu có, nói thẳng ra là nghèo nàn, thiếu thốn nên chẳng đáng để ai chú ý. Mặt khác, nếu muốn, cánh đàn ông như Farley cũng chẳng cần liều mạng ra mặt trận.

Tuy nhiên, lòng người khó đoán, ai biết được họ sẽ để lộ bản chất thật khi nào chứ? Giả dụ như chẳng may bị dồn tới bước đường cùng, chắc chắn bất kỳ ai cũng sẽ ưu tiên bản thân trước tiên thôi, thậm chí cướp đi cả sinh mệnh quý giá của kẻ khác để mình được tồn tại. Loài người luôn tự phong chúng là sinh vật cấp cao, có tình cảm, có trái tim, nhưng kì thực chỉ cố làm vậy để che đậy sự thối rữa sau chiếc mặt nạ ghê tởm kia. Nhưng tôi cũng chẳng có tư cách phê phán mọi người, bởi bản thân còn thấy sợ hãi chính mình.

Thứ hai, nếu như Safensoud thật sự là một thị trấn yên bình, nơi chỉ tồn tại tình yêu và hạnh phúc ( dù tôi không nghĩ như vậy ), thì có lẽ tôi không có chút tư cách nào để sống ở đây. " Tâm hồn tôi đã nhuốm bẩn rồi. "

Vừa nhâm nhi cốc trà gừng nóng mà Eirlys mang tới - cái cốc bí ẩn đó đấy -  tôi vừa miên man suy nghĩ. Suy nghĩ về những ngày tháng sắp tới.

Cẩn thận xoay người lại, tôi với tay vén tầm rèm mỏng màu trắng trên tường mà mình chỉ vừa phát hiện ít lâu lên, lặng lẽ nhìn ra ngoài ô cửa sổ bằng kính.

Dưới bầu trời đêm, những bông tuyết trắng đang bay.

(...)

Khi tỉnh dậy vào hôm sau thì mọi người đã ăn sáng hết, thế nên tôi đành ngồi một mình trong phòng bếp của căn nhà. Thực ra nó cũng chẳng có vấn đề gì lắm, tôi quen rồi.

Ở đây, bếp cũng là phòng ăn : chỗ nấu ở đằng sau và một chiếc bàn gỗ khá lớn kê phía trước với khoảng chục cái ghế xung quanh. Các đồ dùng làm bếp rất đơn giản, thậm chí còn hơi cũ; mấy thứ như dao, kéo, nồi, niêu,... thì nhỏ và hoen gỉ hết cả.

Bữa sáng trại trẻ chuẩn bị cho tôi gồm một bát súp cà rốt, lát bánh mỳ nguội và lưng cốc sữa. Chị Eirlys nói rằng với một buổi sáng ở Lavender, ăn như vậy là " sang trọng " lắm. Vào giờ này, bọn trẻ bình thường chỉ được thưởng thức bánh mỳ với sữa thôi, nhưng vì nghĩ rằng tôi mới từ xa đến, rất mệt mỏi nên anh Farley đã chuẩn bị thêm. Chính xác là anh Farley – chàng thanh niên tóc vàng đấy. Có vẻ với kẻ khác, con trai biết nấu ăn khá lạ lẫm, nhưng tôi thì không. Tôi nghĩ là mình cũng từng quen một người như vậy.

Tôi tự hỏi họ đã ở đây  thế nào suốt thời gian qua vậy? Ý tôi chẳng phải họ nghèo nên không thể sống, mà là cái trại trẻ này thật sự đã chia sẻ cho nhau mọi thứ để tồn tại ư? Khó tin làm sao.

Khi tôi hớp xong ngụm sữa cuối cùng thì cũng là lúc mà chị Eirlys bước vào. Thấy tôi đã ăn uống xong xuôi, chị đề nghị :

- Thật tốt vì có vẻ như bữa sáng khá hợp khẩu vị của em, hãy nhớ cảm ơn Farley nhé. Giờ thì theo chị nào, có thứ này rất hay cho em đây.

Chị vừa nói, vừa vẫy tay tỏ ý muốn tôi đi theo. Nói thẳng thì, tôi thấy hành động kia có chút mờ ám. Trước ánh sáng, con người không bao giờ để lộ bộ mặt hiểm ác bởi lẽ chẳng ai muốn bị kẻ khác phát hiện ra bản ngã của mình cả. Nhưng trong màn đêm, mọi hành động của họ sẽ được bóng tối nuốt chửng.

Thần không biết, quỷ chẳng hay. Bản chất con người lộ diện. Kẻ mạnh thì thắng, còn người yếu thì thua. Do đó nếu muốn sống sót, ta chỉ có một con đường duy nhất : mạnh mẽ hơn. Mà muốn mạnh mẽ, còn làm được gì khác ngoài trở nến cứng cỏi và ích kỉ?

Biết đâu chị ta định hành hạ, đánh đập tôi như thú vui tiêu khiển trong thế giới nhàm chán này thì sao? Hay bắt ép tôi trở thành một con chó bẩn thỉu không hơn để phục vụ cái bệnh nữ hoàng của mình? Hoặc nhẹ nhàng hơn là lấy cắp mọi vật dụng có giá trị trên người tôi rồi vứt chủ nhân của chúng ra ngoài thị trấn, mặc dù tôi chắc chắn rằng bản thân không mang thứ gì đặc biệt cả.

Thật đáng sợ, tất cả đều có thể xảy ra, và tôi nghĩ mình đã sẵn sàng để chạy trốn và thực hiện một cuộc hành trình khác bất cứ lúc nào. Tôi không cần may mắn hay gì cả, thứ duy nhất có thể dựa dẫm là chính bản thân tôi, chỉ thế thôi. Mọi thứ vẫn nằm trong tầm kiểm soát mà, phải chứ?

Chúng tôi bước lên những bậc thang gỗ cọt kẹt và đến tầng ba. Không phải đi xa thêm nữa, điểm dừng ở căn phòng đầu tiên - nơi có cánh cửa gỗ với cái bảng có đề chữ " Eirlys " bên ngoài. Kể ra thì bây giờ tôi mới để ý, nhưng có vẻ như cửa phòng nào cũng có bảng hoặc thứ gì đó đề tên mọi người lên. Đánh dấu chăng? 

Các tấm bảng của những căn phòng nằm cuối hành lang thì đặc biệt hơn cả. Nói sao nhỉ, nếu phải dùng hai tính từ để miêu tả thì chính xác nhất là sặc sỡ và... nhắng nhít. Rất nhiều hoạ tiết đơn giản như hoa, lá, bướm, chim, sách, bút,... được trang trí lên một cách nguệch ngoạc, nhìn như nét vẽ tay của trẻ con vậy. Bên cạnh đó, tôi còn thấp thoáng thấy mấy dòng chữ " ngốc nghếch ", " mọt sách ", " bà chằn ",... viết bằng bút màu trên cửa và tường. Chà, dù chỉ một chút, nhưng có lẽ chúng cũng khiến tôi tin hơn rằng đây thật sự là một trại trẻ.

Chị Eirlys vào phòng, tôi bước theo sau.

- Chờ chị một lát nhé.

Chị nói rồi tiến đến chiếc tủ gỗ lớn màu nâu đặt trong góc tường, mở ra và lục lọi cái gì đấy. Hình như ở đây, phòng nào cũng có nội thất như nhau thì phải, chỉ là chủ nhân của chúng sắp xếp như thế nào thôi, bởi nếu tôi nhớ không nhầm thì đồ đạc trong căn phòng tôi ngủ hôm qua cũng na ná thế này.

Và không để tôi đợi lâu, chỉ một lát sau, chị Eirlys đã móc từ trong ngăn tủ ra thứ gì đó rồi giơ lên trước mặt tôi, hỏi :

- Em thấy sao?

Tôi không nhìn nhầm đâu. Đó là một chiếc váy xếp ly dài màu hồng phấn, trông rất điệu. Ở phần cổ tay và đuôi váy được may những lớp ren mỏng và cổ thì thắt ruy băng hình nơ trắng.

- Tặng em đấy, Ruby. Chị đã mặc bộ váy này khi bằng tuổi em, nhưng giờ thì không còn vừa nữa. Đừng lo, nó chẳng cũ lắm đâu. Chị định để lại cho lũ trẻ khi chúng lớn nhưng chắc chắn em mặc sẽ rất hợp.

Tôi không khỏi kinh ngạc về ý định của chị, sẵn sàng cho một cô bé xa lạ cái váy như vậy ư? Thú thực thì nếu chỉ liếc qua, tôi chẳng thể nào nhận ra rằng bộ đồ này đã được sử dụng. Và hơn hết, nếu đó là sự thật thì lẽ ra nó phải thuộc về lũ con nít ở đây, những đữa bé còn thân thiết với chị hơn tôi gấp trăm lần.

Tôi nhận sẽ ổn chứ?

Thế nhưng, tôi chưa kịp trả lời thì cánh cửa phòng vang lên những tiếng gõ, và anh Farley bước vào.

- Eirlys, em đã tặng Ruby bộ trang phục nào chưa?

Anh cất tiếng hỏi. Chị Eirlys thấy thế, khẽ hất cằm vào chiếc váy mình đang cầm trên tay, đáp :

-Tất nhiên rồi, nhưng anh qua đây làm gì vậy?

Anh liếc chị, rồi nhìn về phía tôi, nở nụ cười :

- Anh cũng có món quà tặng nhóc này đó mà.

Nói rồi, anh nhẹ nhàng đặt lên tay tôi vật gì đó mềm mềm. Là một chiếc khăn choàng trắng tinh khôi bằng len, được đan thủ công theo kiểu vặn thừng xen kẽ.

Không chỉ chị Eirlys mà anh Farley cũng muốn tặng quà cho tôi ư?

- Đừng ngại, em cứ nhận đi.

Cả hai người dịu dàng nói với tôi như vậy. Tôi không nghĩ rằng lúc này anh chị có ý đồ gì mờ ám bởi ánh mắt họ đã nói lên tất cả. Vả lại, tặng tôi những thứ này thì hai người được lợi gì chứ, chẳng phải chỉ mất tong mấy bộ đồ đẹp thôi sao?

Tôi không tài nào suy ra nổi lí do hợp lý gì hết. Vậy đây thật sự là tấm lòng của anh Farley cùng chị Eirlys? Có lẽ... họ không thực sự xấu xa giống tôi nghĩ. Nhưng dù sao thì như tôi đã luôn mặc định, lòng người rất khó lường nên cẩn thận vẫn hơn. Ai mà biết được đâu mới là bộ mặt thật của ta chứ, đúng không?

Đâu phải tôi chưa gặp chuyện này bao giờ?

Thế là, dù quyết định nhận bộ váy và chiếc khăn nhưng tôi vẫn không gỡ bỏ bức tường mà bản thân tự dựng lên quanh mình.

Sau đó, anh Farley ra ngoài chờ còn chị Eirlys ở lại giúp tôi mặc đồ. Tôi cứ nghĩ chiếc váy phải rộng hoặc chật hơn so với cỡ người tôi dù chỉ một chút, nhưng thật đáng ngạc nhiên là nó lại vừa như in. Hơn nữa mặc mới biết, bên trong váy có lót một lớp lông tuy mỏng mà rất thoải mái. " Diện vào mùa đông như này thì còn gì bằng? ". Tôi tự nhủ.

Còn về cái khăn, nó ấm, tất nhiên rồi. Nhưng ngoài ra còn thơm nữa. Nếu tôi không nhầm thì đã từng ngửi thấy mùi này ở chiếc chăn mình đắp đêm qua. Chà, có vẻ nơi tôi nằm là phòng của anh Farley nhỉ?

Nhắc mới nhớ, giả dụ như nhường phòng cho tôi thật thì anh đã nằm đâu?

- Thật tuyệt! Chị biết em mặc sẽ đẹp lắm mà. Farley, anh vào mà xem này!

Chị Eirlys vừa vỗ tay khen ngợi, vừa gọi anh Farley ngay khi tôi thay quần áo xong xuôi. Nghe thấy tên mình, anh mở cửa vào, nhìn tôi một lượt từ đầu đến cuối rồi trầm trồ :

- Đáng yêu lắm. Thật may mắn vì em hợp với chiếc khăn choàng kia. Là do mẹ tặng nên anh cứ nghĩ nó phải hơi già cơ.

" Mẹ "? Tôi nghĩ ngực mình hơi nhói lên và hơi thở bắt đầu nặng nề hẳn. Cảm xúc lấn át lý trí, và thế là một cách ngu ngốc, tôi buột miệng hỏi thứ mà lẽ ra không bao giờ được phép đề cập đến trong giai đoạn chiến tranh đẫm máu :

- Mẹ anh ở đâu?

Thoáng qua trên gương mặt Farley là chút gì đó buồn bã. Lúc ấy, tôi chắc chắn rằng mình phạm phải sai lầm ngu xuẩn kia rồi. Thật đần độn mà.

Thế nhưng chỉ ngày sau đó, nụ cười ấm áp mọi khi của anh đã xuất hiện trở lại. Ngạc nhiên làm sao, cứ như thứ cảm xúc kia bị đánh bay đi vậy.

- Cả gia đình đều đã không còn trong một cuộc tấn công khủng khiếp của quân lính Guniviar, trừ anh - người sống sót cuối cùng. Sau thời gian dài lưu lạc khắp nơi, anh tình cờ đến đây và được bác Sophia cứu giúp. À, đó là một người phụ nữ phúc hậu, nhưng bà không may qua đời vài năm trước rồi. Mọi người ở Trại trẻ Tình thương Lavender đều bắt đầu cuộc sống mới tại nơi này như vậy. Và bọn anh ở đây để tiếp tục công việc tuyệt vời đó.

Ra thế...

Dù không rõ vì sao nhưng trái tim tôi mách bảo những điều anh Farley nói đều là sự thật. Tôi tin chúng. Hoặc đúng hơn là tôi nghĩ mình nên tin.

Tuy không nhiều, nhưng tôi cho rằng bản thân có thể hiểu được cảm giác hiện tại của anh, vậy mà lại không thể kìm lòng mà ích kỉ hỏi tiếp :

- Anh chấp nhận số phận đó ư?

Tôi nhìn thấy vẻ ngạc nhiên trong mắt anh. Tất nhiên, có con bé mười bốn tuổi nào thắc mắc điều ấy sao? Phải rồi, anh Farley sẽ im lặng hoặc đáp xuề xoà để xong vì cho rằng đây chỉ là câu hỏi ngớ ngẩn của một đứa trẻ mới nứt mắt thôi, đúng không? Tôi nghĩ gì mà lại băn khoăn câu hỏi sẽ chẳng bao giờ có được lời giải đáp thế này chứ.

Thế nhưng, trái ngược hoàn toàn với mớ suy luận tiêu cực kia, anh lại xoa đầu tôi và nhẹ nhàng đáp :

- Anh không muốn, vì vậy mới làm công việc này để thay đổi nó. Giờ đây, anh chẳng phải một cậu nhóc mồ côi nữa mà là chàng trai mười chín tuổi chuyên cưu mang trẻ em gặp hoạn nạn do chiến tranh. Chỉ cần chịu mở lòng, sẽ luôn có những người sẵn sàng chào đón và yêu thương em.

Và rồi, có lẽ biết chắc rằng chủ đề này nên dừng lại tại đây, chị Eirlys nhanh mồm đề nghị trước khi tôi kịp nói thêm câu hỏi ngớ ngẩn nào nữa :

- À, Ruby này, chị Andrea định đưa lũ trẻ ra chợ chơi. Em hãy đi cùng để làm quen với mọi người nhé.

-Andrea?

- Đó là người lớn tuổi nhất ở trại trẻ này từ vài năm trước, dù mới có hai mươi bảy tuổi thôi nhé. Chị ấy tuy hơi thẳng tính, nhưng rất tốt bụng. Cứ gặp đi, và chị tin chắc rằng em sẽ quý mến Andrea ngay thôi, Ruby.

Dù chỉ một chút, nhưng tôi nghĩ tim mình đang đập nhanh hơn. Tôi thấy hồi hộp, và cả... sợ hãi nữa, như lần đầu tiên gặp anh Farley và chị Eirlys vậy. Andrea, tôi tự hỏi chị ta là người thế nào đây?

Theo chị Eirlys, tôi xuống nhà, ngồi ở bậc thềm cửa ra vào và xỏ đôi ủng đã được chuẩn bị sẵn. Đang lúi húi với nó thì cánh cửa từ từ mở ra và một người phụ nữ xuất hiện trước mắt tôi. Cô có vóc dáng vô cùng lý tưởng, làn da bánh mật khoẻ khoắn và mái tóc xoăn tự nhiên màu nâu sẫm trông hay hay.

Tôi chưa kịp nói gì thì người đó đã niềm nở :

- Ruby đúng không? Rất vui được làm quen, chị là Andrea, bọn Eirlys chắc cũng kể rồi nhỉ? Chị hay đi khắp nơi học hỏi kinh nghiệm để xây dựng thị trấn Safensoud này phát triển hơn. Em thấy đấy, nó khá nghèo nàn, về mọi mặt. Chuyến hành trình gần đây nhất vừa kết thúc và chị đã trở về vào tờ mờ sáng hôm nay. Nhưng tạm bỏ qua chuyện này đi, giờ em sẽ cùng chị và lũ trẻ ra chợ, đúng chứ? Nhanh lên nào.

Ra vậy, đó là Andrea. Có vẻ đúng như chị Eirlys miêu tả, chị Andrea là người thẳng tính, và còn xinh đẹp nữa. Rất đẹp. Tôi chắc mẩm chị đã từng làm tan nát nhiều trái tim đàn ông lắm rồi đây, với thân hình tuyệt vời đến thế.

Ít nhất thì bề ngoài, chị ta chưa có biểu hiện gì như muốn làm hại tôi cả, dù suy nghĩ một cách hợp lý thì có vẻ tôi khá đa nghi. Nhưng thiếu cảnh giác thì tuyệt đối không được. Ít nhất là... bây giờ. Tôi nghĩ vậy.

Tôi đi ra ngay sau chị Andrea. Do cơn mưa tuyết đêm qua, đất trời giờ đây phủ một màu trắng xoá, nhưng vẫn thấp thoáng thấy những dải nắng nhàn nhạt len lỏi qua hàng mây, đậu trên ngọn cây, bờ rào. Thời tiết lạnh thật đấy, nhưng chưa bằng ở Frihtend ngày đông...

" Frihtend " sao?

Thật chẳng muốn nhắc đến cái tên ấy chút nào, nhưng tôi lại bất giác so sánh rồi. Cũng phải, sao có thể quên nhanh như vậy được? Mà thôi, bỏ qua đi.

Không gian ở đây thật thoải mái. Từng nhành cây, gọng cỏ đều mang đến cho con người ta cảm giác bình yên đến lạ. Quả đúng là mảnh đất nằm ngoài vùng giao chiến, dân chúng nơi này chắc hạnh phúc lắm, nếu họ biết thế giới ngoài kia thật sự khủng khiếp thế nào.

Bỗng nhiên tôi thấy Safensoud mới may mắn làm sao, bởi nó không bị chiến tranh lấy mất đi màu " trắng " đẹp đẽ của mình. Giống như chiếc khăn choàng mà anh Farley tặng tôi vậy, một sắc trắng thuần khiết. Của hoà bình. Của tự do. Và... có thể là cả tâm hồn nữa.

Bước trên lớp tuyết lạnh xốp, qua khoảnh vườn trước mặt, và tôi tới cổng chính của trại trẻ, chiếc cổng cao có nhiều song sắt đã hoen gỉ, nơi mà chị Andrea cùng bọn nhóc đang đứng chờ.

Tôi cứ nghĩ phải có ít nhất chục đứa trẻ con, nhưng ngờ đâu chỉ vọn vẹn bốn nhóc, hai nam, hai nữ, độ tuổi xấp xỉ nhau : một cô bé lùn, khá mũm mĩm, đáng yêu; một cô bé tóc ngắn, đôi mắt đen lay láy trông rất nhanh nhẹn; một cậu nhóc tóc hung, nhìn nghịch nhợm ra trò và một chàng trai ít nói, nhưng có vẻ khá thông minh.

Trong đó, tôi ấn tượng hơn cả với cô nhóc lùn, bởi theo quan sát, chẳng lúc nào nụ cười thơ ngây kia biến mất trên đôi môi bé hết. Và hơn cả, nhóc cũng là đứa trẻ đầu tiên chạy đến bắt chuyện khi thấy tôi :

- Chị là thành viên mới của gia đình mình đúng không ạ? Em tên Jena, bảy tuổi. Từ trái qua phải lần lượt là Caryln, Alden, và Wilfred. Caryln thân với em nhất, nhưng bạn ấy cũng như chị gái vậy. Wilfred thì rất đáng ghét, suốt ngày giật tóc em thôi, tám tuổi. Còn Alden, đúng là anh cả của mấy đứa luôn í, dù cũng bằng với Caryln – chín tuổi...

Nó ba hoa nhiều lắm, còn tự nhiên như ruồi nữa, tuy chúng tôi mới chỉ gặp nhau lần đầu. Nếu chị Andrea không ngăn lại thì có lẽ cả đám sẽ đứng ở đó đến chiều luôn mất. Nhưng đại khái thì, tôi cũng nhớ rằng Jena... phải rồi, cô bé tên Jena, hỏi tên tôi ở câu cuối cùng sau một tràng pháo liên thanh mà mình bắn ra.

- Ruby. Mười bốn.

Tôi trả lời ngắn gọn như vậy khi chợt nhớ tới cái tên mà anh Farley vừa đặt. Không phải tôi lạnh lùng hay gì, chỉ là chẳng biết nên đáp sao cho hợp. Đã rất lâu rồi... thật sự đấy, tôi chưa được chào đón niềm nở thế này, vì vậy có chút... bối rối. Với cả trước đây không như vậy, nhưng giờ thì tôi chẳng thích trẻ con cho lắm. Đơn giản, bởi nó gợi cho tôi vài ký ức không hay, và một phần nhỏ, tôi cũng ghen tỵ với chúng nữa. Bởi cuộc chiến tranh vô nghĩa này mà tôi phải bộn bề lo nghĩ, chịu đủ đớn đau, trong khi đó thì lũ trẻ lại có thể hưởng thụ cuộc sống, an nhàn và hạnh phúc, được quan tâm, được thương yêu. Chẳng công bằng chút nào.

Đó là những tư tưởng nhỏ nhen, tôi biết chứ. Nhưng sự thật thì bản thân đã luôn nghĩ như vậy. Thử đặt mình vào vị trí của tôi xem, như vậy thì ích kỉ một chút cũng có là gì đâu, phải không?

" Chỉ cần chịu mở lòng, sẽ luôn có những người sẵn sàng chào đón và yêu thương em. "

Trong một khoảnh khắc, câu nói của anh Farley đã vang lên trong đầu tôi, nhưng bị gạt đi ngay sau đó.

Cuộc trò chuyện kết thúc ngày sau đó, và chúng tôi ra chợ.

Nói là chợ, chứ thực ra ở thị trấn nghèo nàn này thì có thể buôn bán được cái gì to tát. Chút thực phẩm, chút sách, chút vật dụng, chút đồ chơi, chút thuốc thang,... Mỗi loại một ít. Được cái khí thế hừng hực của người buôn kẻ bán, ừ thì dù không nhiều, nhất là vào tiết trời rét buốt, nhưng cũng đủ để cái chợ này đỡ lạnh lẽo hơn.

Đi riết rồi thành chán, tôi quyết định để mọi người tiếp tục mua sắm, còn mình thì ngồi đợi ở một quán nước nhỏ giữa chợ. Vừa nhâm nhi cốc trà nóng hổi, vừa thơ thẩn phóng tầm mắt ra xa để ngắm mây, ngắm trời, tuyệt vời làm sao. Đó chắc chắn sẽ là giây phút thư giãn đầu tiên của tôi sau khoảng thời gian dài đầy khó khăn và vất vả. Thật đáng mong chờ.

Đấy là dự định của tôi.

Và nó cũng chỉ là dự định.

Kết quả, sau một hồi chạy đuổi bắt với Wilfred, Jena vấp ngã, trật khớp chân. Chị Andrea giúp cô bé băng bó bằng đồ sơ cứu mua ngoài chợ rồi, nhưng vẫn không yên tâm để Jena lại một mình lúc bị thương thế này trong khi vẫn còn đồ cần mua. Vậy là biết tôi muốn ngồi nghỉ, chị lập tức nhờ trông giúp Jena và đi khỏi ngay sau đó.

Tôi không thích chút nào, tất nhiên, nhưng cũng chẳng quan trọng lắm. Jena đâu phải trẻ sơ sinh mà phải trông từng miếng ăn, giấc ngủ. Do đó chỉ cần nhóc ngồi im cho tới lúc chị Andrea về, vậy là đủ rồi.

Thế nhưng bọn con nít có bao giờ ngồi im được đâu, tôi biết mà. Và chỉ một lát kể từ khi chúng tôi bắt đầu chờ mọi người, Jena đã ngọ nguậy không thôi.

Cô bé loay hoay trên ghế, nhìn lên lại ngó xuống, thế nên tôi đoán rằng Jena muốn rời khỏi đây rồi chạy đi chơi tiếp. Thật là, lũ trẻ luôn thiếu suy nghĩ như vậy. Sao có thể di chuyển mạnh với cái chân kia chứ, điều đó chỉ khiến vết thương nặng và lâu lành hơn thôi.

Sau một hồi nỗ lực, cuối cùng Jena cũng tuột xuống đất và tạm giữ được thăng bằng. Nhìn khuôn mặt nhăn nhó ấy là đủ biết, hẳn nhóc đang đau lắm đây. Tuy nhiên, chỉ với chân phải làm trụ và chân trái lê trên nền đất, Jena vẫn cố đi tiếp.

Một bước, hai bước, ba bước,... cô bé đã ra khỏi quán. Tôi không hỏi, Jena cũng chẳng nói gì, dù có vẻ như cũng liếc tôi vài lần. Nhưng tôi chẳng hiểu nổi ý nghĩa của ánh nhìn đấy. Sợ sệt? Ngại ngùng? Ai biết, và bây giờ thì nó không đáng để tâm lắm.

Từ lúc nào, tôi đã bất giác đi theo Jena, nhưng vì tò mò chứ chẳng phải lo lắng. Thứ tôi băn khoăn không phải nơi nhóc đến, mà là cô bé sẽ tới đó như thế nào, bằng cái cổ chân thế kia. Dường như Jena biết rõ tôi đang đi theo, tuy nhiên không thắc mắc gì cả. Theo tôi đoán, với tính cách đó của mình, cô bé chắc chắn phải tò mò lắm khi thấy người chị mới gặp hành động kỳ lạ thế này. Thế nhưng nguyên nhân nào lại khiến Jena bỏ qua tất cả mà gắng gượng lê từng bước chân trên lớp tuyết lạnh giá như vậy? Vội vã chăng? Việc gì có thể làm một đứa trẻ bảy tuổi gấp gáp đến thế? Đồ chơi hoặc thức ăn?

Đúng, chỉ có thể là chúng thôi.

Rồi đến một lúc nào đó, khi không chịu nổi nữa, cô bé sẽ dừng lại. Và thậm chí nếu cái chân quá đau đớn để quay về, Jena phải cần đến sự giúp đỡ của tôi.

Cứ ngỡ là vậy, tuy nhiên dù đã di chuyển cả quãng đường khá dài, nhóc vẫn chưa chịu bỏ cuộc.

Nhìn hình ảnh Jena như thế, tôi lại nhớ đến bản thân trong quá khứ. Dù hoàn cảnh khác biệt rất lớn, nhưng về căn bản thì tôi và Jena giống nhau, đều là những con chim non đáng thương bị số phận nghiệt ngã cướp mất đôi cánh một cách thô bạo. Chúng muốn bay, chúng khao khát tự do, hi vọng mãnh liệt rằng ngày nào đó có thể tự mình chạm tới bầu trời xanh tuyệt đẹp ngoài kia.

Nhưng chúng không thể.

Bởi chú chim ấy... đã chẳng còn cánh nữa.

Thế rồi, trong vô thức, đôi chân tôi bước lên nhanh hơn và chỉ chốc lát đã đi song song với cô bé.

- Nhóc muốn đi đâu?

Jena ngẩng đầu nhìn tôi. Tôi thấy cơ thể cô bé khẽ khựng lại, nhưng rồi lại tiếp tục tiến lên ngay sau đó.

- Em đang vội lắm, để lát nữa chị nhé.

- Nhóc vẫn muốn đến nơi đó với đôi chân thế kia ư?

- Em đã tự hứa với bản thân, từ ngày ấy.

- Quan trọng lắm sao?

- Tất nhiên rồi ạ.

Và cuộc đối thoại kết thúc ở đấy. Tôi không hỏi thêm gì nữa, nhưng vẫn tiếp tục đi theo Jena để thoả mãn bản thân. Hơn nữa, chà, tôi nghĩ là mình khá hứng thú với cô bé này.

Chúng tôi dừng lại ở một con hẻm nhỏ và có chút tối tăm. Đây là đâu nhỉ? Tôi tự hỏi Jena đến nơi thế này để làm gì, dù nằm trong thị trấn nhưng vẫn nguy hiểm cho trẻ con lắm chứ. Hay do tôi nghĩ ngợi quá nhiều rồi?

Cô bé đứng bên một cái thùng các-tông cỡ vừa, nom cu cũ. Có lẽ vì cổ chân rất khó để ngồi xổm nên Jena đành đừng nhìn xuống từ trên cao.

- Neggy, chị đến rồi đây!

Nhóc vừa dứt lời, một chú mèo với bộ lông trắng muốt như tuyết và hơi ươn ướt liền bật nhảy ra khỏi thùng, lao vào người cô bé. Không kịp phản ứng do chân đau, Jena luống cuống suýt ngã, may sao tôi đã chạy đến đỡ đúng lúc.

- Em cảm ơn. Chị Ruby cũng là người tốt đúng không ạ?

Cô nhóc nói như vậy. Tôi không nghĩ mình xứng đáng được khen thế đâu, nhưng trong lòng vẫn thấy... cảm kích một chút. Mà dù sao thì bây giờ, có chuyện khác đang quan tâm hơn kìa.

- Neggy là sao, Jena?

Như chợt nhớ ra điều gì đó, mặt cô bé hơi tái đi, lộ rõ vẻ sợ hãi. Nhưng rồi nghĩ thế nào, Jena lại thở dài và ghé sát vào tai tôi, thì thầm :

- Chị đừng nói với ai nhé, vì mải loay hoay với cái chân đau đáng ghét này nên em quên mất, cứ để chị đi theo. Chuyện là vài tháng trước, em tìm thấy Neggy ở đây. Nó bị bỏ rơi, dù đã hỏi gần như cả thị trấn nhưng chẳng ai nhận hết, tuy nhiên trại trẻ cấm nuôi động vật nên em quyết định giữ nó cho riêng mình. Hàng ngày em luôn tới thăm và cho Neggy ăn. Có dịp nọ em quên đi, và khi đến thì nó đang nằm gục trong thùng, sợ lắm, nhưng may mà mọi chuyện vẫn ổn. Từ đó, em tự hứa với bản thân phải qua đây đều đặn, tuyệt đối không được phép mải chơi mà quên nữa. Chị biết đấy, mẹ em dạy rằng dù chỉ là một chú mèo đi chăng nữa thì cũng chẳng đáng phải chết nếu chúng không làm gì sai. Động vật, cũng như con người vậy.

Nếu bảo tôi không ngạc nhiên trước những lời nói kia của Jena thì là dối trá.

Đúng, tôi chưa từng nghĩ đến việc một đứa trẻ cũng có thể tuyệt vời đến thế.

Không phải lũ nít ranh chỉ biết ăn, chơi và hưởng thụ thôi ư?

Thật... đáng khâm phục làm sao. Trong khi tôi chỉ biết ghen ghét, đố kỵ rồi than vãn về bản thân, vẫn còn biết bao em bé như vậy. Những con người luôn tràn đầy yêu thương, dù bị vận mệnh hắt hủi cũng tuyệt đối không từ bỏ để đánh mất nhân tính. Họ bỏ qua sự bất hạnh, chỉ hướng đến niềm vui, đem lại hạnh phúc cho nhau và đoàn kết vượt qua mọi gian truân, thử thách.

Chiến tranh chẳng thể đánh bại được họ. Như tôi.

Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy hổ thẹn bởi những suy nghĩ của mình từ trước tới giờ. Tại sao chỉ vì bản thân gặp phải chuyện không hay mà tôi có thể đánh đồng mọi người với nhau và trao cho họ ánh mắt ngờ vực đầy sai lầm dù tất cả đều đang cố gắng để sưởi ấm trái tim đã đóng băng từ lâu của tôi chứ?

- Chị muốn ẵm Neggy không?

Bỗng nhiên, Jena lên tiếng làm tôi giật nảy mình thoát khỏi dòng suy nghĩ. Bế Neggy ư? Tôi không chắc lắm. Thậm chí tôi còn chưa từng chạm vào một con mèo. Nhỡ đâu chúng ghét tôi, vậy thì tôi cũng chẳng muốn động đến chúng tẹo nào.

Nhưng... một chút thôi, chắc không sao đâu nhỉ?

Nghĩ rồi, tôi hồi hộp đưa tay ra. Jena nhẹ nhàng trao Neggy vào lòng tôi. Nó mềm và ấm thật đấy, nhìn gần thì bộ lông càng đẹp hơn, trắng muốt như chiếc khăn len tôi đang choàng vậy. Trông hay hay sao đó. Nằm gọn trong vòng tay ấm áp, Neggy khẽ dụi dụi cái mũi hồng nhỏ xíu vào ngực tôi. Nhột quá, nhưng cảm giác thật thú vị.

- Ruby, chị cười đẹp thật đấy.

Jena vừa nhìn tôi, vừa trầm trồ. Ban đầu, tôi vẫn ngơ ngác, không hiểu nổi rằng em đang muốn nói tới chuyện gì. Nhưng cuối cùng thì Ruby này cũng nhận ra : trong vô thức, bản thân đã bất giác nở một nụ cười tự lúc nào.

" Chỉ cần chịu mở lòng, sẽ luôn có những người sẵn sàng chào đón và yêu thương em. "

Câu nói ấy của anh Farley lại xẹt ngang qua đầu tôi như dòng điện chạy trong não. Tuy nhiên lần này, tôi không gạt bỏ nó nữa.

Tôi tự hỏi nếu mình cởi mở hơn, dù chỉ một chút thôi, Trại trẻ Tình thương Lavender sẽ chấp nhận đứa con gái ngang ngược này chứ?

Đêm đó, tôi nằm mơ. Giấc mộng về bao ngày tháng đẹp đẽ khi bản thân còn sống cùng gia đình.

(...)

" Tôi đã từng rất vui mỗi khi màn đêm buông xuống ".

Tên thật của tôi là Green Agnes, sinh ra và lớn lên ở một thị trấn trù phú, tấp nập mang tên Frihtend. Là đứa con gái bình thường, gia đình cũng chẳng có gì đặc biệt hết, nhưng tôi luôn sống trong hạnh phúc đủ đầy với bố mẹ cùng em trai kém mình bảy năm, không bao giờ phải lo lắng hay muộn phiền điều gì cả.

Nhà tôi na ná với Trại trẻ Tình thương Lavender. Cha rất đỗi nghiêm khắc, nhưng lại hết mực ấm áp. Mẹ vô cùng dịu dàng và luôn pha trà gừng cho tôi mỗi khi đứa con gái bé bỏng bị ốm. Còn em trai thì cực kỳ kháu khỉnh, ngoan ngoãn. Quả là cuộc sống đáng ghen tỵ nhỉ? Tôi cũng nghĩ thế, và thầm cảm ơn cha mẹ vì đã cho mình chào đời.

Thế rồi một ngày kia, Dailen – quê hương của chúng tôi và Guniviar – một quốc gia hùng mạnh khác bắt đầu có xích mích về vấn đề lãnh thổ, rồi ít lâu sau, chiến tranh xảy ra. Một cuộc chiến vô nghĩa chỉ để thoả mãn sự tham lam cùng cái thứ thể diện bẩn thỉu của bọn hoàng tộc.

Vì vị trí gần những khu vực giao tranh, thị trấn Frihtend bị ảnh hưởng nặng nề về cả kinh tế lẫn chính trị. Lão thị trưởng hèn nhát không đủ khả năng khống chế tình hình, sớm từ chức và chạy trốn. Dân chúng hoang mang, dần chìm trong đói khổ, bệnh tật. Bước ngoặt cuộc đời của tôi cũng xuất hiện từ đây.

Một năm kể từ lúc chiến tranh bùng nổ, Frihtend - từ thị trấn vui vẻ, trù phú bỗng chốc tan hoang đến mức trẻ con cũng chẳng còn cái ăn. Cánh đàn ông bị bắt ép đi lính bằng nhiều thủ đoạn dã man dù họ muốn hay không, và người cha đáng kính của tôi cũng nằm trong số đó. Mẹ chẳng thể nào một mình nuôi được cả hai đứa con, đành dứt ruột bán tôi cho một gia đình quý tộc cách thị trấn rất xa để nhóc em trai có được cuộc sống tốt hơn.

Biết mình phải rời xa cả nhà, tôi buồn lắm chứ, và sợ hãi nữa. Lúc ấy, có lẽ để tôi ngoan ngoãn hơn, mẹ hứa rằng chắc chắn sẽ quay lại chuộc tôi về khi kiếm được tiền. Tôi tin mẹ và nuốt nước mắt đến gia đình quý tộc kia ở - nhà Bush.

Thấy tôi có vẻ nhanh nhẹn lại biết nhiều, họ nhận làm người hầu. Nhìn qua thì Bush là một gia đình học thức cao, tôi cứ nghĩ mọi việc sẽ ổn thôi. Nhưng không. Tất cả, tất cả chỉ là vẻ bề ngoài.

Rosalie là mụ quản gia luống tuổi ở đây, đồng thời cũng làm việc lâu năm nhất nên được gia đình Bush tin tưởng lắm. Chỉ cần mụ lên tiếng, ai nấy đều gật gù và nghe theo răm rắp. Hơn nữa, Rosalie lại luôn ở bên và chăm sóc cô chủ nhỏ sáu tuổi của họ, do đó đứa trẻ đáng thương ấy yêu quý mụ lắm. Ấy vậy mà nó đâu biết rằng, Rosalie làm thế vì chỉ muốn lợi dụng cô để có thể được nước lấn tới trong nhà Bush thôi.

Tính tình tàn bạo, ích kỉ và độc ác. Đó chính là những lời lẽ đúng đắn nhất để miêu tả Rosalie. Mụ đối xử vơi người hầu kẻ hạ như chúng tôi chẳng khác gì một con chó, à không, còn chưa bằng loài động vật thông minh ấy nữa. Mụ luôn nói thế này với mọi người mỗi khi có ai hỏi đến : " Phải dạy dỗ cẩn thận thì bọn đó mới nghe lời . ". Nực cười, không phải mụ nên xem lại bản thân thì sao?

Hàng ngày, chúng tôi phải ăn tối bằng những thứ thừa thãi của gia đình Bush vào hôm trước, rồi cũng chỉ được một nhúm, còn tệ hơn khi thị trấn Frihtend rơi vào đói nghèo. Những hôm không phải đồ thừa thì cũng ôi, thiu, chua loét, mốc xanh mốc đỏ,... Nước chỉ có độc một cốc nhỏ, mà còn bị sứt mẻ lung tung, ngửi cứ như nước cống ấy, dù màu chẳng giống lắm.

Ăn uống thì ít, nhưng làm việc lại như phận ngựa bò. Công việc của Rosalie rất nhàn hạ, đơn giản thôi, bởi mụ đã đổ hết lên đầu chúng tôi. Ngày qua ngày, mụ chẳng làm gì khác ngoài ngắm hoa, thưởng trà và đôi lúc chơi với tiểu thư. Nhưng như vậy đã tốt biết bao. Mụ luôn cầm sẵn một cái roi da dài ngoằng ngoẵng, chỉ trực sơ xảy chút là quật thẳng vào người chúng tôi, bất kể mông, đùi, chân, tay, thậm chí là đầu. Chắc để ra vẻ : " A! Ta đây đang làm việc đấy, đang trông nom bọn hầu đây! ".

Có những anh chị đáng thương bị đánh nhiều tới mức không dậy nổi nữa, nhưng chẳng ai dám nghỉ ngơi dù chỉ vài giây bởi nếu Rosalie thấy, mụ chỉ đánh thêm mà thôi. Nhiều lúc chưa kịp làm gì cũng bị đánh, vì Rosalie là quản gia, mụ thích làm gì là việc của mụ. Mụ cáu, mụ bực, mụ cứ thế chuốc vào chúng tôi thôi. Còn nguôi giận rồi, mụ lại đánh tiếp bởi chúng tôi đang đau đớn nằm lăn ra sàn nhà.

Nhân tính của mụ đã không còn nữa.

Hồi mới đầu, tôi chẳng thể chịu được cuộc sống khắc nghiệt này. Ăn có tí mà cứ nôn thốc nôn tháo, cả người ê ẩm. Mọi người ai nấy lo cho bản thân còn chưa xong, sao còn có thể quan tâm đến một đứa mới vào? Muốn sống tại nơi này, tôi cần học tính ích kỷ, nhưng quả thực nó quá khó khăn, trong khi từ trước tới giờ tôi luôn được dạy dỗ hoàn toàn ngược lại. Do quá khờ dại, những gia nhân khác gọi tôi là " Naive ".

Người hầu không có phòng riêng nên đêm về, chúng tôi tranh nhau tìm chỗ ngủ. Nếu chậm chân thì chuồng ngựa cũng chẳng còn, biết bao lần tôi phải lăn lộn bên ngoài bất kể trời nóng như thiêu hay lạnh thấu tim gan. Nhưng chẳng sao hết, thế có là gì đâu, vì lúc đó tôi không bị đánh, không phải hộc máu làm việc nữa. Do đó, tôi vẫn thích buổi đêm nhất. Và mỗi lần như vậy, tôi lại nhớ đến gia đình.

Lời hứa rằng một ngày mẹ sẽ đến đón về luôn là nguồn động lực lớn nhất trong tôi.

Một, hai, ba,... sáu năm trôi qua.

Và một ngày kia, tôi chợt nhận ra rằng mẹ sẽ không bao giờ đến đón nữa. Lời hứa kia chỉ là câu nói dối ngọt ngào nhất thời để khiến tôi mù quáng tin tưởng mà thôi.

Tôi đã bị...

...chính gia đình mình phản bội.

Đau đớn làm sao.

Ít lâu sau khi bản thân ngộ ra sự thật tàn khốc ấy, biến cố khác xảy ra và một lần nữa, cuộc sống của tôi lại có biến chuyển lớn.

Hôm ấy là ngày mùa đông đầy tuyết. Tiểu thư phát hiện ra mấy món đồ trang sức quý giá mà mình cực yêu thích đã bỗng dưng biến mất khỏi ngăn tủ. Cô nhóc bắt đầu làm loạn lên khiến tất cả đều rất nhức đầu, kể cả Rosalie cũng khó chịu ra mặt.

Thế nhưng, dù tìm khắp nơi rồi nhưng chẳng ai thấy chúng ở đâu hết, và phu nhân, mẹ của tiểu thư suy đoán rằng hẳn ai đó trong nhà đã lấy cắp và giấu đi rồi. Tất nhiên, như vậy thì đối tượng đầu tiên bị nghi ngờ sẽ là đám gia nhân. Thế là từng nơi chúng tôi hay ăn, ngủ hoặc lui đến bắt đầu bị lục lọi.

Nhiều người tỏ rõ sự lo lắng, có vẻ họ từng trộm vặt nhiều thứ. Tuy nhiên tôi chẳng quan tâm là đâu vì bản thân luôn trong sạch. Trước kia như thế, và bây giờ vẫn vậy. Tôi không tự tin nói rằng mình chẳng bị ảnh hưởng chút nào bởi hoàn cảnh, nhưng ít nhất thì chưa đến mức ăn trộm, ăn cắp hay dẫm đạp lên người khác để đứng lên. Thế nhưng...

Đống đồ bị mất của tiểu thư lại được tìm thấy ở chỗ tôi vẫn hay nằm ngủ.

Tại sao chứ?

Tôi chưa kịp thanh minh thì đồng loạt đến khó tin, tất cả người hầu kẻ hạ khác đều nói với phu nhân rằng họ đã thấy tôi lén lút giấu diếm thứ gì đó vào ngày tiểu thư mất đồ. Và mụ quản gia, đứng trước tất cả, văng cho tôi những lời lẽ thô tục, mắng nhiếc chẳng tiếc lời, cứ như tôi là tội phạm thật vậy. Không ai chịu tin tôi hết.

Đến lúc này tôi mới hiểu ra, mình quá ngây thơ rồi. Cuộc đời chẳng như mơ. Nếu không chịu chà đạp kẻ khác để bước lên, tôi sẽ chết. Đó là... một quy luật.

Cuối cùng, tôi bị đuổi khỏi nhà Bush. Nghe lời mụ quản gia chết tiệt, phu nhân hạ lệnh ném tôi vào khu rừng gần đó cho thú ăn thịt. Thật dã man.

Và tin nổi không, Rosalie đã rỉ tai tôi thế này trước khi đi : " Cảm ở mày vì đã thế chỗ tao, Angel. " Mụ gọi một cách mỉa mai, như thể tôi chính là thiên sứ " cứu rỗi " cái cuộc đời chết dẫm của mụ vậy.

Đáng ghét. Đáng ghét. Đáng ghét. Đáng ghét. Đáng ghét.

Tôi căm thù cuộc đời này.

Nhưng không được phép chết.

Tôi phải tiếp tục tồn tại để chứng minh rằng dù bị đày đoạ đến thế, bản thân vẫn có thể sống, sống mà chẳng cần đến cái bữa ăn bẩn thỉu của họ.

Lang thang trong rừng mãi, tôi tìm được lối dẫn ra đường cái, và may mắn thay, ở bìa rừng đang có một chiếc xe lớn đỗ lại. " Liệu nó sẽ đưa ta thoát khỏi nơi này chứ? ". Tôi nghĩ như vậy rồi liều mình trốn lên thùng xe, với chút hi vọng nhỏ nhoi rằng có thể đến một vùng đất mà ở nơi đó, mình có thể sống tốt hơn, rũ bỏ hoàn toàn cái quá khứ thối tha này.

Rồi cuối cùng, dường như Chúa đã nghe được lời thỉnh cầu từ tận sâu trong đáy lòng tôi.

Tình cờ đến với thị trấn Safensoud, tôi được anh Farley nhặt về và bắt đầu cuộc đời mới ở Trại trẻ Tình thương Lavender – nơi cưu mang những đứa bé gặp hoạn nạn do chiến tranh từ khắp nơi trên đất nước. Mọi người đều thật tử tế, họ đối xử tốt với tôi như ruột thịt thật sự. Nhờ họ, tôi cảm giác như cuộc sống êm đềm trước kia cùng gia đình đang dần trở về.

Thật ấm áp. Bây giờ, chỉ một chút thôi, nhưng tôi nghĩ là mình... mong Mặt Trời mau mọc hơn.

Tôi rất vui bởi ngày đó ở trong rừng, bản thân đã quyết định sống tiếp.

Cảm ơn Chúa, vì Người vẫn quan tâm đến một đứa trẻ như con.

(...)

Thấm thoát đã gần bốn tháng kể từ khi tôi đến đây. Bây giờ đang là cuối đông. Mọi việc vẫn ổn. Và dường như... tôi cười nhiều hơn trước một chút.

Chị Andrea vừa kết thúc chuyến hành trình khác, hiện đang trong thời gian nghỉ ngơi. Những lúc không giúp anh Farley và chị Eirlys công việc ở trại trẻ, tôi chơi với bốn đứa nhóc. Ngạc nhiên làm sao, chúng đều khác xa với ấn tượng đầu của tôi.

Jena đáng yêu, hoạt bát nhưng cơ thể rất yếu từ khi sinh ra nên hay ốm vặt. Caryln lanh lợi mà dễ nổi nóng, đôi lúc lại vô cùng nhạy cảm. Wilfred nghịch ngợm, cục cằn, trông vậy thôi chứ cũng biết quan tâm mọi người xung quanh lắm. Còn Alden, hẳn rồi, chuẩn kiểu anh trai mẫu mực, tuy nhiên... hết sức hậu đậu.

Trong đó, tôi vẫn ấn tượng với Jena nhất, dẫu có những lúc ốm nặng đến mức chẳng thế rời khỏi giường, cô bé vẫn cười. Đến bây giờ, tôi chưa thể hiểu lý do gì mà lúc nào Jena cũng có thể vui vẻ như thế. Nhưng vậy đâu có gì là xấu, nhìn thấy em cười, tôi cũng vui lây, một chút.

Tôi nhớ lần cuối Jena ốm là khoảng hơn một tháng trước, thế mà bây giờ nhóc lại đổ bệnh rồi. Hi vọng cô bé ổn, dù sao mùa đông cũng dễ cảm sốt kiểu này lắm. Tuy nhiên sức đề kháng của tôi khá tốt, nên gần hết mùa mà vẫn không sao.

Hôm nay đến lượt nấu cơm của tôi và anh Farley. Đã lâu rồi chưa đụng đến bếp núc nhưng may mắn là tay nghề của tôi chưa giảm sút lắm, và anh Farley cũng giúp tôi rất nhiều suốt thời gian qua nữa. Là con trai nhưng anh vừa tâm lý vừa dịu dàng, lúc trước không đâu, nhưng giờ thì tôi nhớ ra rồi : anh rất giống cha.

Nhưng có lẽ... vẫn khác một chút, tôi nghĩ vậy. Anh mang cho tôi cái cảm giác ấm áp và an toàn đến lạ lùng, tùy nhiên tôi vừa thích, vừa không muốn ở cạnh anh. Chuyện này chỉ mới xảy ra gần đây : mỗi lần bên anh, trái tim dường như bắt đầu đập nhanh hơn, tôi đổ mồ hôi và ăn nói lúng túng. Đầu óc tôi trở nên trống rỗng đến kỳ quái, không thể cư xử tự nhiên như với cha. Đến cả nhìn chiếc khăn len trắng mà anh tặng, người tôi cũng nóng bừng lên nữa, và mỗi lần dùng nó, cơ thể đều bồn chồn tới lạ. Thế nhưng, tôi vẫn rất thích và ngày nào cũng choàng.

Tôi cố hỏi cả chị Eirlys lẫn chị Andrea rằng liệu có phải mình mắc bệnh gì không, nhưng cả hai đều chỉ cười và nói rồi tự bản thân tôi sẽ biết thôi. Thế mà đến bây giờ tôi vẫn chẳng hiểu nổi. Mà dù là gì đi chăng nữa thì tôi cũng hi vọng nó mau hết. Cảm giác này thật sự rất khó chịu.

Trong khi đó, tình hình của Jena ngày càng tệ hơn.

Đấy là một đêm khắc nghiệt với cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy. Tuyết bao phủ cả đất trời, nhấn chìm toàn không gian. Ngồi trong nhà nhìn ra cửa sổ, ta sẽ chỉ thấy một sắc màu trắng xoá, trắng đến đáng sợ.

Tôi băn khoăn không biết Jena ở một mình trong phòng có lo lắng lắm không nên sang xem thử. Mà, cũng có thể cô bé đã ngủ rồi. Nhưng hoá ra em không những chưa ngủ mà còn chẳng tỏ chút sợ hãi trước tiết trời khủng khiếp. Đúng hơn là, tôi nghĩ cô nhóc đang nằm suy tư chuyện gì. Đứng từ cửa cũng có thể rõ, tay vắt ngang trán, đôi mắt Jena đang hướng lên trần nhà, tuy nhiên dường như thứ em nhìn không hề ở đó.

Thấy tôi sang, em vẫy tay và khẽ gọi :

- Chị Ruby!

- Em chưa ngủ sao?

Tôi hỏi dẫu biết chắc câu trả lời rồi đến bên giường Jena, vuốt thẳng chân váy và ngồi xuống. Nhìn gần mới thấy, khuôn mặt cô bé đã xanh xao đi nhiều, còn cơ thể thì gầy xọp hẳn.

Đôi mắt Jena lộ rõ vẻ mệt mỏi, môi khô vì thiếu nước. Vẻ năng động hoạt bát thường ngày của em đã không còn. Tình hình ngày càng tệ, ấy vậy mà cô bé vẫn cười khi trò chuyện với tôi. Tuy nhiên, nụ cười đó mới gượng gạo làm sao. Lòng tôi hơi quặn lại.

Lim dim đôi mắt, Jena nói :

- Em ước gì mình chóng khoẻ.

- Các bạn vẫn đến thăm em hàng ngày mà. Hay muốn ra ngoài chơi đây, cô nhóc hiếu động?

Tôi cố tình trả lời bằng cách tự nhiên nhất có thể, một phần vì muốn khơi gợi niềm lạc quan trong Jena.

Thế nhưng như bỏ ngoài tai câu khích lệ vụng về kia của tôi, em thều thào :

- Nếu không, chị Eirlys sẽ tiếp tục khóc mất. 

Chỉ một câu nói cũng đủ khiến tôi thấy khoé mắt mình cay cay. Có thể Jena đã thấy chị Eirlys đứng ngoài  cửa khóc bởi quá lo lắng vào hôm qua. Em nhìn, và suy ngẫm. Trong vô thức, chúng ta để lộ ra sự bồn chồn của mình, và Jena cũng bởi thế mà thấp thỏm khôn nguôi. Cô bé mong mình chóng khỏi bệnh, nhưng không phải vì bản thân, mà là cho những con người ngày đêm phiền muộn vì mình.

Em thật vĩ đại.

Tôi cố rặn ra một nụ cười để làm Jena yên lòng rồi rời đi, mang theo trong lòng biết bao cảm xúc khó tả.

-Sẽ ổn thôi, em sắp khỏi rồi. Ở đây nhé, chị Eirlys sẽ tới ngay.

Đến tận khi ngủ rồi, tôi vẫn không thể nào quên được ánh mắt Jena nhìn mình lúc cuối. Cái nhìn như muốn nói rằng : " Em biết sự thật mà ", trong khi miệng cô bé lại cười : " Ngày mai em sẽ khoẻ như vâm cho xem ".

Gần sáng hôm đó, tôi đang ngủ thì nghe thấy tiếng ồn ào ở phòng bên.

Chuyện gì xảy ra mà mọi người lại nhốn nháo vậy nhỉ?

Tò mò, tôi bèn lật đật ngồi dậy và mở cửa ra ngó. Một tiếng hét vang lên như xé tan cả không gian khiến Ruby này tỉnh cả ngủ. Chợt nhớ ra bên cạnh chính là phòng của Jena, có dự cảm chẳng lành, tôi quáng quàng chạy sang xem.

Cảnh tượng thật kinh hãi.

Caryln nằm rạp bên giường, khóc thét lên như bị ai thắt cổ. Wilfred đứng kế bên, lấy cả hai tay bưng trọn lấy mặt, còn Alden thì mắm môi mắm lợi, có lẽ để ngăn chặn những tiếng kêu như Caryln, nhưng giọt nước mắt đang giàn giụa trên khuôn mặt cậu nhóc đã nói lên tất cả. Chị Eirlys đứng phía bên kia giường, cúi người ôm chặt lấy chị Andrea mà nức nở, đôi mắt chị Andrea đã rơm rớm, nhưng vẫn cố an ủi người em gái đang run rẩy trong vòng tay mình.

Trong khi đó, Jena nằm bất động trên giường. Làn da trắng bệch, đôi lông mi cong vút rủ xuống còn cánh tay em thì buông thõng.

Chẳng nói chẳng rằng, tôi lại gần chiếc giường mà Jena đang nằm, khẽ khàng đưa bàn tay chạm lên gò má em, từ từ và cẩn thận như động vào một món bảo vật vô giá.

Lạnh toát.

Tâm trí tôi bỗng chốc trở nên rỗng tuếch. Tôi không thể suy nghĩ, cũng chẳng cảm thấy gì cả.

Chuyện gì đang diễn ra thế?

Đến lúc này, tôi mới nhận ra anh Farley đã thất thần đứng ngoài cửa từ nãy đến giờ, trên tay vẫn đang cầm túi giấy gì đó trông như gói thuốc của thị trấn kế bên.

(...)

Mặt trời mọc rồi.

Ngày mới lại bắt đầu.

Một ngày mà chúng tôi không còn Jena nữa.

Tôi mở cửa và ra vườn để tìm anh Farley. Có vẻ như anh đã đứng như trời trồng ở ngoài này suốt từ đêm qua tới giờ.

Sau cơn bão tuyết, tôi thật sự không thể tìm thấy màu gì hết ngoài sắc trắng bao phủ cả không gian. Trước kia, tôi thấy khung cảnh này mới yên bình làm sao, nhưng giờ thì vì lí do nào đó mà tôi ghét chúng.

Biết tôi đang bước đến, anh Farley hỏi, nhưng không quay mặt lại :

- Caryln sao rồi?

Tôi khựng lại một chút rồi đáp :

- Em ấy đã ngủ sau khi mệt vì khóc quá nhiều. Anh... ổn chứ?

Vừa nói, tôi vừa tiến lại, đứng song song với anh. Thế nhưng, tôi chỉ cúi đầu xuống chứ chẳng dám ngẩng lên. Tôi không nghĩ mình đủ can đảm để nhìn biểu cảm của anh lúc này.

Nghe chị Andrea kể, nửa đêm thì bệnh tình của Jena đột ngột chuyển biến xấu. Chị Eirlys định lấy thuốc, nhưng lúc đó mới phát hiện ra rằng trong nhà đã hết sạch mất rồi. Anh Farley vội vã chạy đi mua, thế nhưng trớ trêu thay, cửa hàng bán thuốc duy nhất ở Safensoud đã không còn loại ấy nữa. Vậy là trong cơn bão tuyết, anh đành khó nhọc lết từng bước chân sang thị trấn kế bên để tìm. Trời lại muộn, phải khổ sở lắm anh Farley mới thuyết phục họ mở cửa và bán thuốc cho được. Tuy nhiên, khi trở về thì đã chẳng kịp nữa.

Trong chuyện này, dù không có lỗi nhưng chắc chắn anh Farley sẽ tự dằn vặt hơn bất kỳ ai.

- Ruby, em nói xem, nếu như anh hữu dụng hơn, dù chỉ một chút... nếu anh về sớm hơn thì Jena, em ấy có...

Giọng anh bắt đầu thay đổi nên tôi tò mò liếc mắt qua xem. Đầu anh Farley đang ngửa lên trời, đôi mắt nhắm tịt còn cơ mặt co lại làm xuất hiện những vết xô trên trán. Dòng nước mắt giàn giụa chảy từ khoé mi xuống gò má rồi trôi loang ra cổ.

Lần đầu tiên, tôi thấy anh Farley khóc.

Không kìm được lòng mình, tôi vòng tay ra ôm chặt lấy anh, nói lớn :

- Không phải lỗi của anh, không phải đâu, thế nên anh đừng trách bản thân nữa. Jena... sẽ buồn lắm...

Tôi gắng gượng rặn ra từng chữ cái, nhưng chẳng thể nữa rồi. Chất giọng dần lạc đi, và lúc bấy giờ tôi mới chợt nhận ra : bản thân cũng đang khóc.

- Đừng khóc, Ruby...

Anh Farley ôm trọn cả cơ thể tôi vào vòng tay rộng lớn của mình, mặc cho những giọt nước mắt kia khiến áo anh trở nên ướt sũng. Đã bao lâu rồi tôi chưa khóc nhiều thế này? Có lẽ là lúc phải chia tay mẹ khi bị bán cho nhà Bush. Đau quá, trái tim tôi như đang bị bóp nghẹt bởi biết bao nhiêu thứ cảm xúc hỗn độn vậy.

Từ lúc nào, mọi người ở Trại trẻ Tình thương Lavender đã chiếm trong lòng tôi một vị trí quan trọng đến thế?

Chiến tranh, chiến tranh, tất cả là tại chiến tranh. Lũ vô nhân tính kia, họ nói rằng chiếm lĩnh đất đai là để giúp đời sống nhân dân tốt đẹp hơn, nhưng có ai nghĩ tới việc chúng tôi thật sự khổ sở thế nào khi họ làm vậy đâu chứ? Chết tiệt!

Jena, Jena, Jena, Jena, Jena, Jena, Jena,...

Jena, em hãy trở về đây đi...

Chiếc khăn choàng trắng mà anh Farley tặng tôi, giờ đây thấm đẫm nước mắt của hai người.

(...)

Cứ ngỡ mọi việc sẽ kết thúc ở đây, và từ giờ trở đi chúng tôi có thể sống một cuộc đời yên bình, nhưng, không.

Ngày hai mươi bảy tháng hai dương lịch, tức hơn một tháng kể từ khi Jena qua đời, mặt trận phía Bắc thất thủ, Safensoud chìm trong biển súng đạn. Chúng tôi chạy trốn trước, còn anh Farley tình nguyện ở lại để giữ chân quân Guniviar và giúp mọi người trong thị trấn.

Tôi không đồng tình, tất nhiên rồi. Nhưng còn có thể làm gì khác sao? Anh Farley là vậy, luôn tốt bụng và trách nhiệm như thế. Trong khi giãy nảy đòi ở lại cùng, tôi bị chị Andrea vừa khóc vừa tát hai cái đau điếng. " Chị không muốn có thêm người phải hi sinh vì chiến tranh. Chị không muốn bất kỳ ai ra đi như Jena nữa. ". Chị Andrea nói vậy đấy. Thật là, mỗi lời chị nói ra đều khiến con người ta phải nín lặng. Nó quá đúng.

Trước khi chúng tôi đi, anh Farley để lại cho tôi một nụ hôn trên trán và nói rằng : " Anh hứa sẽ an toàn rời khỏi đây và đến chỗ mọi  người, và lúc đó, anh nghĩ mình có điều muốn nói với em. Em sẽ lắng nghe chứ, Ruby? ".

Tôi chỉ biết gật đầu trong nước mắt.

Phải rồi, anh Farley là người biết giữ lời hứa, vì vậy nên chúng tôi sẽ gặp lại nhau sớm thôi, có chiếc khăn choàng trắng anh  tặng làm vật chứng giám.

Và thế là, tôi cùng những thành viên khác của Trại trẻ Tình thương Lavender cắm đầu cắm cổ chạy về phía khu rừng gần đó, trong khi chính bản thân cũng chẳng rõ đích đến nằm ở đâu...

Hết.

#AuDuongNguyetCat aka Hii

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro