100 trang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Thực lục về Duệ tông Hiếu định hoàng đế (thượng)

Mã số : 7X372T4

Viện khoa học xã hội việt nam

Viện sử học

Quốc sử quán triều Nguyễn

Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch

ĐẠI NAM THỰC LỤC

Tập một

(Tái bản lần thứ nhất)

Nhà Xuất Bản Giáo Dục

Phiên dịch : Nguyễn Ngọc Tỉnh

Hiệu đính : Đào Duy Anh

Lời giới thiệu

(Lần tái bản thứ nhất)

Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành, tính từ khi bắt đầu làm (1821 - Minh Mệnh năm thứ hai) đến khi hoàn thành và khắc in xong những quyển cuối cùng (1909 - Duy Tân năm thứ ba).

Đại Nam thực lục được viết theo thể biên niên, chia thành 2 phần Tiền biên và Chính biên:

- Đại Nam thực lục tiền biên (còn gọi là Liệt thánh thực lục tiền biên) ghi chép về sự nghiệp của 9 chúa Nguyễn, bắt đầu từ Nguyễn Hoàng (Thái tổ Gia Dụ hoàng đế) vào trấn thủ Thuận Hóa (1558) đến hết đời Nguyễn Phước Thuần (Duệ tông Hiếu định hoàng đế), tức là đến năm Nguyễn Phước Thuần mất (1777). Đại Nam thực lục tiền biên được khởi soạn năm 1821 (năm thứ hai niên hiệu Minh Mệnh), làm xong và hoàn thành việc khắc in năm 1844 (năm thứ tư niên hiệu Thiệu Trị). Tổng tài của sách Đại Nam thực lục tiền biên là Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.

- Đại Nam thực lục chính biên ghi chép về lịch sử triều Nguyễn, từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỷ, mỗi kỷ là một đời vua :

1. Kỷ thứ nhất - Đời Gia Long (Nguyễn Phước ánh) từ 1778 đến 1819. Biên soạn trong 27 năm (từ 1821 đến 1847). Tổng tài Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn.

2. Kỷ thứ hai - Đời Minh Mệnh (Nguyễn Phước Đảm) từ 1820 đến 1840. Biên soạn trong 20 năm (từ 1841 đến 1861). Tổng tài lần lượt có Trương Đăng Quế rồi Phan Thanh Giản.

3. Kỷ thứ ba - Đời Thiệu Trị (Nguyễn Miên Tông) từ 1841 đến 1847. Sách khắc in xong năm 1879. Tổng tài Trương Đăng Quế, Trần Tiễn Thành, Phan Thanh Giản.

4. Kỷ thứ tư - Đời Tự Đức (Nguyễn Hồng Nhiệm) từ 1847 đến 1883. Sách khắc in xong năm 1899. Tổng tài Nguyễn Hữu Độ, Phan Đình Bình, Nguyễn Trọng Hợp.

5. Kỷ thứ năm - Năm cuối đời Tự Đức và đời Kiến Phước (Nguyễn Ưng Đăng) từ 1883 đến 1885. Sách khắc in xong năm 1902. Tổng tài Trương Quang Đản.

6. Kỷ thứ sáu - Đời Hàm Nghi (Nguyễn Ưng Lịch) và Đồng Khánh (Nguyễn Ưng Xụy) từ 1885 đến 1888. Sách khắc in xong năm 1909. Tổng tài Cao Xuân Dục.

Như vậy, Đại Nam thực lục Tiền biên và Chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn là bộ sử ghi chép thực về toàn bộ lịch sử Việt Nam ở thế kỷ XIX dưới sự trị vì của vương triều Nguyễn cũng như hơn 200 năm lịch sử Đàng Trong của các chúa Nguyễn.

Vào năm 1962, Viện Sử học bắt đầu cho công bố bản dịch bộ Đại Nam thực lục, tập I, phần Tiền biên, do Nhà xuất bản Sử học xuất bản và đến năm 1978 thì in tập XXXVIII, hoàn thành công việc xuất bản trọn bộ Đại Nam thực lục với sự hợp tác của Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Viện Sử học phải mất 16 năm mới thực hiện xong kế hoạch xuất bản Đại Nam thực lục, một công trình dịch thuật đồ sộ của Tổ phiên dịch Viện Sử học mà các vị thành viên trong Tổ nay đều đã qua đời, cũng như Tổ phiên dịch và Nhà xuất bản Sử học của Viện Sử học đều không còn nữa! Bản dịch 38 tập Đại Nam thực lục đã được đông đảo độc giả hoan nghênh và đánh giá cao, nhất là giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, Viện Sử học đã nhận được nhiều thư của độc giả nói chung và của các nhà khoa học nói riêng, yêu cầu cho tái bản Đại Nam thực lục. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy, học tập về lịch sử dân tộc, Viện Sử học và Nhà xuất bản Giáo dục hợp tác cho tái bản bộ Đại Nam thực lục, là bộ sách đang nằm trong tay bạn đọc.

Trong lần tái bản này, về nội dung, chúng tôi cho in lại nguyên văn bản dịch trước. Phần Sách dẫn cũng giữ đúng như cũ. Nhưng về số tập thì có điều chỉnh lại.

Ở lần xuất bản thứ nhất, bản dịch Đại Nam thực lục được chia thành 38 tập (khổ 13 19), trong đó Tiền biên 1 tập, Chính biên 37 tập. Nay để độc giả tiện sử dụng, chúng tôi dồn lại còn 10 tập (khổ 16 24). Cụ thể phân chia như sau :

- Tập một: Tiền biên và Chính biên, Kỷ thứ nhất (từ 1558 đến 1819) ?

Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch. Đào Duy Anh hiệu đính.

- Tập hai: Kỷ thứ hai (từ 1820 đến 1829) ? Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân,

Phạm Huy Giu, Nguyễn Danh Chiên, Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Đỗ Mộng Khương dịch. Đào Duy Anh hiệu đính.

- Tập ba: Kỷ thứ hai (từ 1830 đến 1833) ? Đỗ Mộng Khương, Trần Huy Hân, Trương Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Thế Đạt, Thẩm Văn Điền, Nguyễn Trọng Hân, Phạm Huy Giu dịch.

Đào Duy Anh, Hoa Bằng hiệu đính.

- Tập bốn: Kỷ thứ hai (từ 1834 đến 1836) ? Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Nguyễn Doanh Chiên, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Đỗ Mộng Khương dịch. Hoa Bằng hiệu đính.

- Tập năm: Kỷ thứ hai (từ 1837 đến 1840) ? Đỗ Mộng Khương, Phạm Huy Giu, Nguyễn Ngọc Tỉnh, Nguyễn Mạnh Duân, Nguyễn Danh Chiên, Trương Văn Chinh dịch. Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.

- Tập sáu: Kỷ thứ ba (từ 1841 đến 1847) ? Cao Huy Giu, Trịnh Đình Rư, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân dịch. Hoa Bằng hiệu đính.

- Tập bảy: Kỷ thứ tư (từ 1848 đến 1873) ? Nguyễn Ngọc Tỉnh, Ngô Hữu Tạo, Phạm Huy Giu, Nguyễn Thế Đạt, Đỗ Mộng Khương, Trương Văn Chinh, Cao Huy Giu dịch. Nguyễn Trọng Hân, Cao Huy Giu hiệu đính.

- Tập tám: Kỷ thứ tư (từ 1877 đến 1883) ? Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Trần Huy Hân, Nguyễn Trọng Hân, Đỗ Mộng Khương dịch. Cao Huy Giu, Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.

- Tập chín: Kỷ thứ năm (từ 1883 đến 1885) ? Nguyễn Ngọc Tỉnh dịch. Nguyễn Mạnh Duân hiệu đính.

- Tập mười: Kỷ thứ sáu (từ 1885 đến 1888) ? Phạm Huy Giu, Trương Văn Chinh dịch. Nguyễn Trọng Hân hiệu đính.

Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến chỉ bảo thêm của quý độc giả để rút kinh nghiệm cho lần sau tái bản Đại Nam thực lục được tốt hơn nữa.

Hà Nội, tháng 4 năm 2001

Viện trưởng viện sử học

PGS. TS. Trần Đức Cường

Tiền biên

[Dụ]

Thiệu Trị năm thứ tư [1814], ngày 11 tháng 3, dụ rằng :

Nay cử bọn Tổng tài Sử quán là :

Thái bảo Văn minh điện đại học sĩ lĩnh Binh bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần tước Tuy thịnh tử Trương Đăng Quế.

Đông các đại học sĩ lĩnh Lại bộ thượng thư Vũ Xuân Cẩn.

Thự hiệp biện đại học sĩ lĩnh Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần Hà Duy Phiên.

Lễ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần kiêm quản Hàn lâm viện Nguyễn Trung Mậu, và bọn Toản tu là :

Hàn lâm viện trực học sĩ Đỗ Quang.

Thái bộc tự khanh Tô Trân.

Quang lộc tự khanh Phạm Hồng Nghi.

Hồng lô tự khanh Vũ Phạm Khải.

Tâu bày rằng : "Vâng lệnh soạn bộ Liệt thánh thực lục tiền biên nay đã xong, xin đem khắc in".

Xem qua tờ tâu, trẫm rất vui lòng, vì tín sử(1. Tín sử : Sử đáng tin1) của đời thanh bình là để lại chỉ bảo cho đời sau, sự thể rất là quan trọng. Nhà nước ta vâng chịu mệnh trời, đức Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng cơ nghiệp ở miền Nam, thần truyền thánh nối, hơn 200 năm, đức dày ơn sâu, thấm nhuần tất cả, mối giềng mở rộng, để Phước người sau, thực cũng sâu xa lắm. Duy lúc mới gây dựng ghi chép còn sót, niên đại đã lâu, điển tịch(2. Điển tịch : Sách sổ 2) tản mát. Sau khi Hoàng tổ Thế tổ Cao hoàng đế ta bình định thiên hạ, nhớ tới công xưa, hỏi tìm điển cũ, việc đặt Sử cục vẫn đã có ý mà chưa rỗi để làm. Hoàng khảo Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, trau giữ nếp văn, lo noi nối nghiệp võ, năm Minh Mệnh thứ 1 [1820] xuống chiếu tìm sách vở sót, năm thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan vâng chép bộ Liệt thánh thực lục, chia làm Tiền biên và Chính biên. Lại đặc biệt sai văn võ đại thần là bọn Nguyễn Văn Nhân, Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hưng, sung chức Tổng tài, soạn chép từng thời, theo năm ghi việc, tìm nhặt sử cũ, mà ý nghĩa thể lệ đều định đoạt do thánh tâm. Mấy lần sử biên chép dâng trình, vâng theo quyết định, cho nên phép tắc đã rõ rệt, điều mục đã phân minh, nhưng đã tinh còn muốn tinh hơn, đã tường còn muốn tường nữa, thánh tâm vẫn mong chờ như thế.

Trẫm nay vâng nối nghiệp xưa, noi theo phép cả, chỉ nghĩ nối được chí, theo được việc. Năm mới lên ngôi, đã cho rộng tìm sách xưa còn sót, bắt đầu mở Sử cục, kén chọn Nho thần ở quán để biên chép cho có chuyên trách; lại đặc phái các đại thần làm Tổng tài để sửa chữa, cốt cho hoàn thành. Phàm các địa phương trong ngoài có dâng sách vở gì, liền giao sang Sử quán kê cứu, để giúp việc tham đính. Tiết thứ theo bản mẫu do sử thần tiến lên, trẫm, trên theo lời Thánh dạy, dưới tìm nhặt các sách, đã châm chước sửa chữa, cốt cho chu đáo ổn thỏa. Nay bộ sách hoàn thành dâng lên, trẫm kính cẩn duyệt kỹ, nhận thấy sách này biên chép các kỷ, văn thực mà việc đúng [rõ ràng như] giềng [lưới] cất thì mắt [lưới] dăng ra. Tuy rằng trời cao đất dày cũng khó mà hình dung, nhưng mặt trời sáng, ngôi sao bày, đã là vẻ vang rực rỡ.

Kể tính từ năm Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử cục, đến năm Thiệu Trị thứ 4, trải trong khoảng 25 năm, biên soạn đã xong, đầy đủ rõ ràng được đến thế, thực đủ làm rạng rỡ công đức thần thánh lớn lao đời xưa, đã vui được lòng trẫm muốn nêu cao sự nghiệp, trông mến vinh quang. Vậy nên cho khắc vào gỗ lê gỗ táo, in để dài lâu. Rồi đến các bộ Thực lục chính biên về đời Thế tổ Cao hoàng đế và thánh tổ Nhân hoàng đế, soạn xong cũng lần lượt kính cẩn cho khắc in nộp vào kho sách, càng thêm vẻ vang cho các đời của nước Đại Nam ta, đời nào cũng thịnh, và để truyền bảo phép tắc lớn mãi mãi đến ức muôn năm sau.

Lần này, bộ sách Liệt thánh thực lục tiền biên soạn xong, được bao nhiêu quyển, nên đem khắc bản, sai ngay Thái sử chọn ngày khởi công ở quán, lại giao các viên Toản tu kiểm điểm khoản thức chữ viết, mọi việc cho chu đáo ổn thỏa; các đại thần Tổng tài cũng cần xem xét luôn cho sớm xong việc lớn, để truyền bá về sau. Có cần dùng vật liệu nhân công thì sai Hữu ty kính cẩn ứng biện. Phải kính vâng dụ này.

Dụ, Biểu

[Biểu]

Bọn thần vâng lệnh sung Tổng tài, Phó Tổng tài, Toản tu Quốc sử quán, kính cẩn tâu rằng :

Kính vâng soạn bộ sách Liệt thánh thực lục tiền biên đã xong, xin đem khắc để cho sáng tỏ việc tốt.

Bọn thần trộm nghĩ : Nước phải có sử, cốt để làm tin với đời nay mà truyền lại cho đời sau. Từ xưa, đế vương nổi dậy, công việc các đời làm ra đều ghi vào sử sách, rõ ràng có thể khảo được. Làm thực lục là gồm cả phép biên niên [ghi năm] kỷ sự [chép việc], chính sử do đấy mà ra. Lớn thay nhà nước ta, vâng chịu mệnh trời. Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng nghiệp ở miền Nam, các thánh nối theo, vẻ vang rạng rỡ. Trong khoảng ấy, lễ nhạc, chinh phạt, chế độ, văn chương, tự có thể thống quy mô lập quốc. Duy lúc đầu [như nhà Chu] mới ở Mân, Kỳ(1. Mân, Kỳ : Thái vương ở đất Mân, Văn vương ở Kỳ Sơn, sau dựng nên nghiệp đế nhà Chu (1234 (?) tr. c. ng. - 256 c. ng).1), sử văn còn thiếu. Đến khi Thế tổ Cao hoàng đế ta dựng lại cơ đồ, thống nhất bờ cõi, sau cuộc đại định, nhớ đến công xưa, tìm hỏi điển xưa, bàn lập Sử cục, đã thường lưu ý mà chưa rỗi để làm. Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, dùng văn chương ngang trời dọc đất, nhờ ơn đức gây dựng của các đời, năm đầu Minh Mệnh [1820] chiếu xuống hỏi tìm sách vở còn sót ; năm thứ 2 [1821] mở đặt Sử quán, sai quan kính soạn Thực lục ; năm thứ 14 [1833] lại sai biên soạn bộ Khâm định thực lục các kỷ, từ đời Thái tổ Gia dụ hoàng đế đến đời Duệ tông Hiệu định hoàng đế, gọi là Tiền biên, từ sau khi Thế tổ Cao hoàng đế trung hưng, gọi là Chính biên. Phàm ý nghĩa thể lệ đều vâng lệnh cân nhắc cho vừa phải, lần lượt biên soạn dâng lên để xin quyết định. Nghĩ rằng lúc mới biên soạn, cần phải khảo đính tinh tế cho được chu đáo, cho nên chậm xong, để lòng thánh đã phải chờ đợi. Nay hoàng thượng ta, vâng theo mưu trước, nối theo chí xưa, chỉ nghĩ làm cho vẻ vang sáng tỏ công nghiệp, nên năm Thiệu Trị thứ 1, bắt đầu mở Sử cục, đặc biệt sai bọn thần vâng soạn Thực lục tiền biên và chính biên. Kế đến soạn Thực lục chính biên đời Thánh tổ Nhân hoàng đế. Đã chuẩn định chương trình và giao chuyên trách, lại thường có sắc dụ dạy bảo cho được hoàn thành. Thật bởi là tín sử của đời thanh bình càng nên là rõ ràng và cẩn thận.

Bọn thần học thức nông cạn, từ lúc vâng mệnh tới nay, ngày đêm lo sợ, cùng nhau cố gắng. Trước hết, kính cẩn kiểm duyệt những nguyên bản các kỷ Tiền biên, sau xét các điển cũ và chí lục ở Sử quán, cùng sách vở các địa phương dâng lên, tìm tòi cho rõ thêm, có chỗ cần thêm cần đổi, ghi chép theo từng khoản, viết thành bản mẫu dâng trình để kính xin ngự lãm và quyết định. Trong đó, hoặc có sự tích chưa rõ, thì đã vâng sắc mà tìm thêm để bổ khuyết. Trông lên biết ý vua suy nghĩ rộng khắp kỹ càng, đã tinh còn muốn tinh thêm, thực rất chu đáo. Bọn thần kính vâng lời dạy, dốc lòng cố sức, có những khoản nên sửa chữa, đã vâng lệnh làm xong. Cúi nghĩ, từ khi nước mới gây dựng, hơn 200 năm, người trước làm, người sau nối, chứa góp bao nhiêu công đức, nguồn gốc lập nên đế nghiệp cũng đã xa lắm. Tuy niên đại đã lâu, sách vở tản mát, ở trong không khỏi có chỗ thiếu sót, duy từ đời Minh Mệnh tới nay, tiết thứ biên soạn sửa chữa theo sách vở còn lại, nghiên cứu qua nhiều năm tháng, thì những đức nghiệp vẻ vang, phép tắc lớn lao, hiện đã sáng tỏ trong sách. Xin cho khắc gỗ lê gỗ táo, in dâng vào kho sách, để nêu tiếng thơm về sau. Nay xin làm thành lập dâng tâu. Trước hết xin đem sách Liệt thánh thực lục tiền biên, chọn ngày lành khởi công khắc in. Sau đến Thực lục chính biên về các đời Thế tổ Cao hoàng đế và Thánh tổ Nhân hoàng đế, soạn xong cũng xin tiếp tục cho khắc in, đóng thành pho sách quý, để nêu rõ những sự nghiệp thịnh lớn thần truyền thánh nối, văn trị võ công của nước Đại Nam ta, mà càng tỏ rõ lòng hiếu vô cùng của hoàng thượng ta đã nối được chí, theo được việc.

Bọn thần trông ngóng không biết chừng nào ! Kính cẩn tâu lên.

Đề năm Thiệu Trị thứ 4 [1844] ngày mồng 6 tháng 3.

Thần Trương Đăng Quế

Thần Vũ Xuân Cẩn

Thần Hà Duy Phiên

Thần Nguyễn Trung Mậu

Thần Đỗ Quang

Thần Tô Trân

Thần Phạm Hồng Nghi

Thần Vũ Phạm Khải

[Biểu]

Bọn thần là Tổng tài, Phó Tổng tài, Toản tu Quốc sử quán, kính cẩn tâu:

Vâng soạn bộ Liệt thánh thực lục tiền biên, san khắc đã xong, chữ nghĩa rõ ràng, giấy tờ đẹp tốt. Bọn thần rất vui mừng kính cẩn dâng biểu tiến sách lên. Cúi nghĩ, mệnh lớn trao thêm, mãi mãi âu vàng vững chãi; Phước xưa trùm khắp, rỡ ràng sách báu nêu ra. Vẻ đẹp như tranh, ánh sáng như ngọc. Bọn thần trộm nghĩ : Đế vương được trao mối, mở mang phải có người xưa; phép tắc thánh nhân trị đời, chứng tỏ ở nền bình định. Bởi có dẫn ở trước giúp ở sau, để nên Phước lớn này, tin được lâu dài càng tỏ; cho nên chép theo việc ghi truyện thực, để truyền lại đời sau, tỏ rõ công lao từ đây.

Lớn thay nhà nước ta, đức nhà thịnh dày, Phước trời rộng lớn. Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng nền ở phương Nam, các vua thánh sửa sang nối nghiệp, đều chịu mệnh trời, mở mang đất nước.

Thánh võ mới lên, sông ái Tử có Lục y giúp sức(1. Nguyễn Hoàng đi đánh Lập Bạo nhà Mạc, qua sông ái Tử, nghe tiếng kêu. Đêm nằm mộng có người con gái bảo : Muốn đánh được giặc phải dùng kế mỹ nhân. Hoàng tỉnh dậy nghe theo, sau đánh được.1); linh uy đã mở, núi Thiên Mụ có thần mẫu báo điềm(2. Nguyễn Hoàng đến chơi núi Thiên Mụ, nghe nhân dân kể chuyện : Trước có một bà già mặc áo đỏ quần xanh đến núi này báo rằng sẽ có một vị chân nhân lại đây dựng chùa. Nguyễn Hoàng cứ vào lời ấy, mới dựng chùa ở núi đó gọi là chùa Thiên Mụ.2). Trời bảo thánh nhân dựng nước dựng ngôi, dân theo người đức nên đô nên ấp. Từ Cát Dinh dời sang Phước Yên, Kim Long, rồi tới Xuân Kinh, giữ vững được núi sông xã tắc; vượt Bi Lĩnh, lấy Thái Khang, Bình Thuận rồi đến Đông Phố, thu về cả bờ cõi bản chương. Đắp đồn lũy, lập trấn dinh, chia phủ châu, họp dân cư, quy mô bản đồ đều đủ; lập quan chức, dựng quân ngũ, đặt thuế má, định duyệt tuyển, pháp độ kinh luân rõ ràng. Truyền nhau trước làm sau theo, dốc lòng dựng, siêng năng xây, đã từ lâu lắm. Thấm thía đức dày nhân thẳm, thân người hiền vui việc lợi, lòng người không quên. Lại nghĩ, ánh sáng trước kia, đẹp lộng lẫy khó hình dung được; đến nay còn chiếu, nên biên soạn truyền đến vô cùng.

Đến Thế tổ Cao hoàng đế ta, dựng lại cơ đồ, cả vâng mệnh lớn. Đạo chuộng luân thứ, ghi thế hệ để nêu tiếng thơm; nghĩa trọng suy tôn, truy đế hiệu để rõ điển thịnh. Nước nhà mới định, muôn điều kinh hoạch, nên Sử cục chưa rỗi mà làm; sách vở tản mạn, tìm hỏi điển xưa, là thánh ý muốn sâu truyền dạy. Thánh tổ Nhân hoàng đế ta là bậc thánh trời cưng, được truyền tâm pháp; kính theo mưu trước, làm sáng tỏ thêm; mở đặt sử quan, thời thường bảo chép. Thể lệ tự lòng vua quyết định, nêu ra yếu điển trong sách xưa; ghi chép lấy tín sử làm bằng, thu góp di văn tra khảo được. Sách đã làm trọn, còn chờ sửa chữa kỹ càng; tin rằng người sau, hay theo được đạo hiếu.

Kính nghĩ, Hoàng đế bệ hạ, đạo tâm trong suốt, thánh học cao minh. Nắm cương trời xét phép trị dân, chăm chăm kính theo đạo sáng; theo phép tổ tỏ đức rạng nghiệp, tha thiết nối chí thuật làm. Từ mới kế vị cầm quyền, đã sai Sử cục biên soạn. Tham các sáng tỏ tường chu đáo, càng phải cẩn thận rộng tìm; sửa bản mẫu nhân lúc thanh nhàn, thường tiến lên trình ngự lãm. Suy nghĩ tĩnh mặc, xem xét tinh vi. Nơi bí các(1. Bí các : Nơi chứa đồ thư ở trong cung cấm. 1) quyết định sáng sâu, thể thức rõ ràng nhờ đế huấn; bản Thực lục của triều thịnh trị, vâng soạn trước là Tiền biên. Kể từ gây dựng nước nhà, hơn hai trăm năm, vẫn nhờ mưu xưa để lại; từ khi Sử quán mở đặt, hăm lăm năm chẵn, đã nêu ánh sáng thự tàng. Công việc thuật biên, trước sau đủ cả; suy tìm chế tác, lần lượt tỏ bày. Vua thánh nối nhau, đạo tâm như một; điển tịch rõ rệt, phép tắc sáng truyền. Mười hai quyển sách báu chép thành, khắc bản gỗ lê gỗ táo; nghìn muôn đời lời quý nêu yết, sáng như mặt trời mặt trăng. Đến nay kính soạn Chính biên, tỏ rạng vẻ sáng ngời của mưu mô công liệt; để cho rực rỡ sử sách, truyền rộng tiếng lừng thơm của sự nghiệp thánh minh. Thực là trời mở nước Đại Nam, một mình hưng thịnh; xét sử Việt từ đời Hồng Lạc, chưa thấy bao giờ. Sánh với Điển Mô Nhã Tụng(2. Điển Mô : Những thiên của Kinh Thư chép về Nghiêu Thuấn và Hạ Vũ Cao Dao.

Nhã Tụng : Những thiên của Kinh Thi nói về đời nhà Chu.2) cùng truyền, gồm cả văn vật thanh danh đầy đủ. Bọn thần học thức nông cạn, gặp đời thịnh minh. May được dự hàng nho thần, ra sức mài dũa; nghiêm chỉnh vâng lời chỉ giáo, thuật hết thấy nghe. Vâng mệnh thánh để biểu dương; thấy sách xong mà mừng rỡ. Cúi mong tiếng đức thường tốt, lòng kính ngày hơn. Noi theo công xưa, nghĩ việc khó để mưu việc dễ; soi xem phép sẵn, tôn sở văn mà làm sở tri. Ơn to hậu thêm, đức trước lớn thêm, rạng tỏ nền Phước mười một đời vun đắp; chịu mệnh lâu mãi, Phước lành thường mãi, làm cho cơ nghiệp ức muôn năm thịnh xương.

Bọn thần xiết bao chiêm ngưỡng, rất mực vui mừng. Kính cẩn đem 12 quyển Thục lục tiền biên, một quyển mục lục, cộng 13 quyển, đã khắc lần này, tiến lên và làm tờ biểu dâng theo.

Đề năm Thiệu Trị thứ 4 [1844], ngày mồng 7 tháng 8. [Vua phê] : Đã xem.

Thần Trương Đăng Quế

Thần Vũ Xuân Cẩn

Thần Hà Duy Phiên

Thần Nguyễn Trung Mậu

Thần Đỗ Quang

Thần Tô Trân

Thần Phạm Hồng Nghi

Thần Nguyễn Tường Vĩnh.

Tiền Biên

Phàm Lệ

Thời quốc sơ, từ Túc tông Hiếu ninh hoàng đế về trước, xưng là Công;

Từ Thế tông Hiếu võ hoàng đế về sau, xưng là Vương ;

Ngày nay theo đế chế xưng là Thượng.

Thời quốc sơ niên kỷ dùng niên hiệu nhà Lê. Nay theo sách Khâm định vạn niên thư, đều cứ năm sau năm nối ngôi mà chép làm năm đầu. Còn niên hiệu nhà Lê, nhà Minh, nhà Thanh thì chia ra chua ở dưới, để chỉ rõ thế đại và thống kỷ.

Năm lên nối ngôi mà chưa có kỷ nguyên thì những tháng còn lại của năm ấy, có làm chính sự gì, cứ theo tháng mà chép ở đầu bản kỷ.

Chép việc thì lấy tháng theo mùa, mùa theo năm. Nếu không có việc gì đáng chép, thì bỏ khuyết mùa, tháng mà chép năm; phàm việc thì không chép ngày, duy có việc lớn thì chép cẩn thận theo ngày.

Thời quốc sơ mở mang bờ cõi, từ Phú Yên vào Nam dần dần tháp nhập bản đồ. Nay phàm dùng binh tiến lấy được nơi nào, lập dinh phủ nơi nào, thì chép sơ [buổi đầu] để ghi [là việc] khi mới bắt đầu.

Trong các kỷ, ngày sinh của liệt thánh hoàng đế đều ghi cả, là để tôn hệ thống nhà vua.

Vua và hậu chầu trời, đều chép là "băng", là theo đế chế. Chỉ khi nào nhà vua còn làm hoàng tử mà hậu mất, thì chép là "hoăng"(1. Hoăng : Công hầu chết gọi là hoăng. 1), là để giữ tôn thống.

Thời quốc sơ, Nam Bắc chia đôi, các thánh của ta phù Lê chống Trịnh, cho nên phàm những việc của nhà Lê họ Trịnh có tương quan đến ta đều chép cả. Trong các kỷ, về vua nhà Lê thì đều chép "băng", về chúa họ Trịnh thì đều chép "tốt" [mất]. Duy họ Trịnh có phạm tội thí nghịch đối với nhà Lê thì chép chữ "tử" [chết] để cho xứng với tội.

Các kỷ chép việc họ Trịnh, ở đầu phải hệ thuộc vào nhà Lê, để không cho được tiếm. Duy có việc quân Bắc vào đất ta thì chuyên chép họ Trịnh, để tỏ không phải là ý vua Lê.

Thời quốc sơ, hoàng tử xưng là công tử, tôn thất đều ghi rõ họ. Nay theo tôn phả thì chép là hoàng tử, tôn thất. Duy bọn Hiệp, Trạch, Anh, Trung, Huệ, Thông đều phạm đại tội phản nghịch, đã phụ chép ở cuối tôn phả, khi tội ác của họ chưa rõ thì vẫn chép là tôn thất, đến khi phạm tội chỉ chép tên, là để răn bọn loạn thần tặc tử.

Những bản chí lục chép việc cũ, các bề tôi chỉ xưng tước hàm mà bỏ thiếu họ tên. Nay nếu xét rõ được, thì viết đủ họ tên, người nào nếu không xét được thì chép nguyên tước hiệu (như loại Dương Sơn, Xuân Sơn, v. v...).

Tiền Biên

Vâng sắc khai chép tên chức và tên các quan trong Quốc sử quán:

Tổng tài :

Thái bảo (Văn minh điện đại học sĩ, lĩnh Binh Bộ thượng thư, sung Cơ mật viện đại thần, quản lý Khâm thiên giám, kiêm lĩnh Quốc tử giám, kiêm quản Tàu chính ấn triện, tước Tuy Thịnh tử). Thần Trương Đăng Quế

Thái tử thái bảo (Đông các đại học sĩ, lĩnh Lại bộ thượng thư, kiêm quản Hình bộ ấn triện, kiêm lĩnh Quốc tử giám sự vụ). Thần Vũ Xuân Cẩn

Phó tổng tài Thư hiệp biện đại học sĩ, lĩnh Hộ bộ thượng thư. Thần Hà Duy Phiên

Lễ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần, kiêm quản Hàn lâm viện. Thần Nguyễn Trung Mậu

Nguyên thự Hình bộ thượng thư, nay bổ thụ Định Yên tổng đốc, Thần Phan Bá Đạt

Toản tu Hàn Lâm viện trực học sĩ. Thần Đỗ Quang

Thái bộc tự khanh. Thần Tô Trân

Quang lộc tự khanh. Thần Phạm Hồng Nghi

Nguyên Hồng lô tự khanh, nay cải thụ Hàn lâm viện thị độc học sĩ tham biện Nội các sự vụ. Thần Vũ Phạm Khải

Hồng lô tự khanh. Thần Nguyễn Tường Vĩnh

Tên chức, tên các quan ...

Biên tu

Hàn lâm viện thị độc học sĩ. Thần Phạm Chi Hương

Hàn lâm viện thị giảng học sĩ . Thần Nguyễn Thu

Hàn lâm viện thị độc. Thần Phạm Văn Nghị

Hàn lâm viện thị độc. Thần Hoàng Trọng Từ

Hàn lâm viện thị độc. Thần Dương Duy Thanh.

Khảo hiệu

Hàn lâm viện biên tu. Thần Đỗ Huy Diễm

Hàn lâm viện biên tu. Thần Nguyễn Huy Phan

Hàn lâm viện biên tu. Thần Phạm Lân

Hàn lâm viện kiểm thảo. Thần Tống Văn Vạn

Đằng lục

Hàn lâm viện kiểm thảo. Thần Lê Văn Huy

Hàn lâm viện kiểm thảo. Thần Nguyễn Công Thụy

Hàn lâm viện điển bạ. Thần Nguyễn Huy Hoàng

Hàn lâm viện điển bạ. Thần Hoàng Văn Xán

Hàn lâm viện đãi chiếu. Thần Bùi Văn Long

Hàn lâm viện đãi chiếu. Thần Nguyễn Văn Cẩn

Hàn lâm viện cung phụng. Thần Nguyễn Đức Hiệu

Hàn lâm viện cung phụng. Thần Lưu Đình Tăng

Thu chưởng

Hàn lâm viện điển bạ. Thần Lê Quang Linh

Hàn lâm viện cung phụng. Thần Hoàng Đức Trị

Hàn lâm viện cung phụng. Thần Nguyễn Đình Nhiễu.

Tiền biên

Tổng Mục

quyển I

Thái tổ gia dụ hoàng đế

[nguyễn hoàng]

(ở ngôi 56 năm)

Mậu ngọ, năm thứ 1 [1558] (Lê ? Đối với nhà Lê niên hiệu là Chính Trị năm 1, đối với nhà Minh, niên hiệu là Gia Tĩnh năm 39) ? Kỷ mùi ? Canh thân ? Tân dậu ? Nhâm tuất ? Quý hợi ? Giáp tý ? ất sửu ? Bính dần ? Đinh mão (Minh ? Long Khánh năm 1) [1567] ? Mậu thìn ? Kỷ tỵ ? Canh ngọ ? Tân mùi ? Nhâm thân (Nhà Lê đổi niên hiệu là Hồng Phước) [1572] ? Quý dậu (Lê ? Gia Thái năm thứ 1, Minh ? Vạn Lịch năm 1) [1573] ? Giáp tuất ? ất hợi ? Bính tý ? Đinh sửu ? Mậu dần (Nhà Lê đổi niên hiệu là Quang Hưng) [1578] ? Kỷ Mão ? Canh thìn ? Tân tỵ ? Nhâm ngọ ? Quý mùi ? Giáp thân ? ất dậu ? Bính tuất ? Đinh hợi ? Mậu tý ? Kỷ sửu ? Canh dần ? Tân mão ? Nhâm thìn ? Quý tỵ ? Giáp ngọ ? ất mùi ? Bính thân ? Đinh dậu ? Mậu tuất ? Kỷ hợi ? Canh tý (Lê ? Thận Đức năm1, tháng 10 mùa đông đổi niên hiệu là Hoằng Định) [1600] ? Tân sửu ? Nhâm dần ? Quý mão ? Giáp thìn ? ất tỵ ? Bính ngọ ? Đinh mùi ? Mậu thân ? Kỷ dậu ? Canh tuất ? Tân hợi ? Nhâm tý ? Quý sửu.

Quyển II

Hy Tông Hiếu Văn Hoàng đế

[Phước nguyên]

(ở ngôi 22 năm)

Giáp dần, năm thứ 1 [1614] ? ất mão ? Bính thìn ? Đinh tỵ ? Mậu ngọ ? Kỷ mùi ( Lê ? Vĩnh Tộ năm 1) [1619] ? Canh thân (Minh ? Thái Xương năm 1) [1620] ? Tân dậu (Minh ? Thiên Khải năm 1) [1621] ? Nhâm tuất ? Quý hợi ? Giáp tý ? ất sửu ? Bính dần ? Đinh mão ? Mậu thìn

(Minh ? Sùng Trinh năm thứ 1) [1628] ? Kỷ tỵ (nhà Lê đổi niên hiệu là Đức Long) [1629] ? Canh ngọ ? Tân mùi ? Nhâm thân ? Quý dậu ? Giáp tuất ? ất hợi (Nhà Lê đổi niên hiệu là Dương Hòa) [1635].

Quyển III

Thần Tông Hiếu chiêu hoàng đế

[Phước lan]

(ở ngôi 13 năm)

Bính tý, năm thứ 1 [1636] ? Đinh sửu ? Mậu dần ? Kỷ mão ? Canh thìn ? Tân tỵ ? Nhâm ngọ ? Quý mùi (Lê ? Phước Thái năm 1) [1643] ? Giáp thân (Thanh ? Thuận Trị năm 1) [1644] ? ất dậu ? Bính tuất ? Đinh hợi ? Mậu tý.

Quyển IV

Thái Tông Hiếu triết hoàng đế

[Phước tần]

(ở ngôi 39 năm)

Kỷ sửu, năm thứ 1 [1649] (Nhà Lê niên hiệu là Khánh Đức) ? Canh dần ? Tân mão ? Nhâm thìn ? Quý tỵ (Nhà Lê đổi niên hiệu là Thịnh Đức) [1653] ? Giáp ngọ ? ất mùi ? Bính thân ? Đinh dậu ? Mậu tuất (Nhà Lê đổi niên hiệu là Vĩnh Thọ) [1658] ? Kỷ hợi ? Canh tý ? Tân sửu ? Nhâm dần (Nhà Lê đổi niên hiệu là Vạn Khánh, Thanh ??Khang Hy năm 1) [1662]

Quyển V

thái tông hiếu triết hoàng đế

Quý mão (Lê ? Cảnh Trị năm 1) [1663] ? Giáp thìn ? ất tỵ ? Bính ngọ ? Đinh mùi ? Mậu thân ? Kỷ dậu ? Canh tuất ? Tân hợi ? Nhâm tý

(Lê ? Dương Đức năm 1) [1672] ? Quý sửu ? Giáp dần (Nhà Lê đổi niên hiệu là Đức Nguyên) [1674] ? ất mão ? Bính thìn (Lê ? Vĩnh Trị năm 1) [1676] ? Đinh tỵ ? Mậu ngọ ? Kỷ mùi ? Canh thân (Nhà Lê đổi niên hiệu là Chính Hòa) [1680] ? Tân dậu ? Nhâm tuất ? Quý hợi ? Giáp tý ? ất sửu ? Bính dần ? Đinh mão.

Quyển VI

Anh tông hiếu nghĩa hoàng đế

(Phước trăn)

(ở ngôi 4 năm)

Mậu thìn, năm thứ 1 [1688] ? Kỷ tỵ ? Canh ngọ ? Tân mùi.

Quyển VII

Hiển tông hiếu minh hoàng đế

[Phước chu]

(ở ngôi 34 năm)

Nhâm thân, năm thứ 1 [1692] ? Quý dậu ? Giáp tuất ? ất hợi ? Bính tý ? Đinh sửu ? Mậu dần ? Kỷ mão ? Canh thìn ? Tân tỵ ? Nhâm ngọ ? Quý mùi ? Giáp thân ? ất dậu (Lê ? Vĩnh Thịnh năm 1) [1705] ? Bính tuất.

Quyển VIII

hiển tông hiếu minh hoàng đế

Đinh hợi [1707] ? Mậu tý ? Kỷ sửu ? Canh dần ? Tân mão ? Nhâm thìn ? Quý tỵ ? Giáp ngọ ? ất mùi ? Bính thân ? Đinh dậu ? Mậu tuất ? Kỷ hợi ? Canh tý (Nhà Lê đổi niên hiệu là Bảo Thái) [1720] ? Tân sửu ? Nhâm dần ? Quý mão (Thanh ? Ung Chính năm 1) [1723] ? Giáp thìn ? ất tỵ.

Quyển IX

Túc tông hiếu ninh hoàng đế

[Phước chú]

(ở ngôi 13 năm)

Bính ngọ, năm thứ 1 [1726] ? Đinh mùi ? Mậu thân ? Kỷ dậu (Lê ? Vĩnh Khánh năm 1) [1729] ? Canh tuất ? Tân hợi ? Nhâm tý (Lê ?Long Đức năm 1) [1732] ? Quý sửu ? Giáp dần ? ất mão (Lê ? Vĩnh Hựu năm 1) [1735] ? Bính thìn (Thanh ? Càn Long năm 1) [1736] ? Đinh tỵ ?

Mậu ngọ.

Quyển X

Thế tông hiếu vũ hoàng đế

[Phước khoát]

(ở ngôi 27 năm)

Kỷ mùi, năm thứ 1 [1739] ? Canh thân (Lê ? Cảnh Hưng năm 1) [1740] ? Tân dậu ? Nhâm tuất ? Quý hợi ? Giáp tý ? ất sửu ? Bính dần ? Đinh mão ? Mậu thìn ? Kỷ tỵ ? Canh ngọ ? Tân mùi ? Nhâm thân ? Quý dậu ? Giáp tuất ? ất hợi ? Bính tý ? Đinh sửu ? Mậu dần ? Kỷ mão ? Canh thìn ? Tân tỵ ? Nhâm ngọ ? Quý mùi ? Giáp thân ? ất dậu.

Quyển XI

duệ tông hiếu định hoàng đế

[Phước thuần]

(ở ngôi 12 năm)

Bính tuất, năm thứ 1 [1766] ? Đinh hợi ? Mậu tý ? Kỷ sửu ? Canh dần ? Tân mão ? Nhâm thìn ? Quý tỵ ? Giáp ngọ.

Quyển XII

Duệ tông hiếu định hoàng đế

ất mùi [1775] ? Bính thân ? Đinh dậu.

Chính biên

Đệ nhất kỷ

thực lục về thế tổ cao hoàng đế

Quyển I Mậu tuất năm thứ [1778] đến Nhâm dần năm thứ 3 [1782].

Quyển II Quý mão năm thứ 4 [1783] đến Bính ngọ năm thứ 7 [1786].

Quyển III Đinh mùi năm thứ 8 [1787] đến Mậu thân năm thứ 9 [1788].

Quyển IV Tháng giêng mùa xuân năm Kỷ dậu thứ 10 [1789], đến tháng 6 mùa hạ năm Canh tuất thứ 11 [1790].

Quyển V Tháng 7 mùa thu năm Canh tuất [1790] đến tháng 12 mùa đông năm Tân hợi thứ 12 [1791].

Quyển VI Tháng giêng mùa xuân năm Nhâm tý thứ 13 [1792] đến tháng 12 mùa đông năm Quý sửu thứ 14 [1793].

Quyển VII Tháng giêng mùa xuân năm Giáp dần thứ 15 [1794] đến tháng 6 mùa hạ năm ất mão thứ 16 [1795].

Quyển VIII Tháng 7, mùa thu năm ất mão thứ 16 [1795] đến tháng 9 mùa thu năm Bính thìn thứ 17 [1796].

Quyển IX Tháng 10 mùa đông năm Bính thìn thứ 17 [1796] đến tháng chạp (12) năm Đinh tỵ thứ 18 [1797].

Quyển X Tháng giêng mùa xuân năm Mậu ngọ thứ 19 [1798] đến tháng 6 mùa hạ năm Kỷ mùi thứ 20 [1799].

Quyển XI Tháng 7 mùa thu năm Kỷ mùi thứ 20 [1799] đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XII Tháng giêng mùa xuân năm Canh thân thứ 21 [1800] đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XIII Tháng giêng mùa xuân năm Tân dậu thứ 22 [1801] đến tháng 4 mùa hạ .

Quyển XIV Tháng 5 mùa hạ năm Tân dậu thứ 22 [1801] đến tháng 7 mùa thu.

Quyển XV Tháng 8 mùa thu năm Tân dậu thứ 22 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XVI Tháng giêng mùa xuân năm Nhâm tuất thứ 23 [1802] đến tháng 4 mùa hạ.

Quyển XVII Tháng năm mùa hạ năm Nhâm tuất Gia Long thứ 1 [1802] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển XVIII Tháng 7 mùa thu năm Nhâm tuất Gia Long thứ 1 đến tháng 9.

Quyển XIX Tháng 10 mùa đông năm Nhâm tuất Gia Long thứ 1 đến tháng 12.

Quyển XX Tháng giêng mùa xuân năm Quý hợi Gia Long thứ 2 [1803] đến tháng 3.

Quyển XXI Tháng 4 mùa hạ năm Quý hợi Gia Long thứ 2 đến tháng 6.

Quyển XXII Tháng 7 mùa thu năm Quý hợi Gia Long thứ 2 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXIII Tháng giêng mùa xuân năm Giáp tý Gia Long thứ 3 [1804] đến tháng 3.

Quyển XXIV Tháng 4 mùa hạ năm Giáp tý Gia Long thứ 3 đến tháng 6.

Quyển XXV Tháng 7 mùa thu năm Giáp tý Gia Long thứ 3 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXVI Tháng giêng mùa xuân năm ất sửu Gia Long thứ 4 [1805] đến tháng 6 mùa hạ .

Quyển XXVII Tháng 7 mùa thu năm ất sửu Gia Long thứ 4 [1805] đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXVIII Tháng giêng mùa xuân năm Bính dần Gia Long thứ 5 [1806] đến tháng tư mùa hạ.

Quyển XXIX Tháng 5 mùa hạ năm Bính dần Gia Long thứ 5 đến tháng 6.

Quyển XXX Tháng 7 mùa thu năm Bính dần Gia Long thứ 5 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXXI Tháng giêng mùa xuân năm Đinh mão Gia Long thứ 6 [1807] đến tháng 4.

Quyển XXXII Tháng 4 mùa hạ năm Đinh mão Gia Long thứ 6 đến tháng 6.

Quyển XXXIII Tháng 7 mùa thu năm Đinh mão Gia Long thứ 6 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXXIV Tháng giêng mùa xuân năm Mậu thìn Gia Long thứ 7 [1808] đến tháng 3.

Quyển XXXV Tháng 4 mùa hạ năm Mậu thìn Gia Long thứ 7 đến tháng 6 nhuận.

Quyển XXXVI Tháng 7 mùa thu năm Mậu thìn Gia Long thứ 7 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XXXVII Tháng giêng mùa xuân năm Kỷ tỵ Gia Long thứ 8 [1809] đến tháng 3.

Quyển XXXVIII Tháng 4 mùa hạ năm Kỷ tỵ Gia Long thứ 8 [1809] đến tháng 6.

Quyển XXXIX Tháng 7 mùa thu năm Kỷ tỵ Gia Long thứ 8 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XL Tháng giêng mùa xuân năm Canh ngọ Gia Long thứ 9 [1810] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển XLI Tháng 7 mùa thu năm Canh ngọ Gia Long thứ 9 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XLII Tháng giêng mùa xuân năm Tân mùi Gia Long thứ 10 [1811] đến tháng 6.

Quyển XLIII Tháng 7 mùa thu năm Tân mùi Gia Long thứ 10 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XLIV Tháng giêng mùa xuân năm Nhâm thân Gia Long thứ 11 [1812] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển XLV Tháng 7 mùa thu năm Nhâm thân Gia Long thứ 11 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XLVI Tháng giêng mùa xuân năm Quý dậu Gia Long thứ 12 [1813] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển XLVII Tháng 7 mùa thu năm Quý dậu Gia Long thứ 12 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển XLVIII Tháng giêng mùa xuân năm Giáp tuất Gia Long thứ 13 [1814] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển XLIX Tháng 7 mùa thu năm Giáp tuất Gia Long thứ 13 [1814] đến tháng 12 mùa đông.

Quyển L Tháng giêng mùa xuân năm ất hợi Gia Long thứ 14 [1815] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển LI Tháng 7 mùa thu năm ất hợi Gia Long thứ 14 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển LII Tháng giêng mùa xuân năm Bính tý Gia Long thứ 15 [1816] đến tháng 3.

Quyển LIII Tháng 4 mùa hạ năm Bính tý Gia Long thứ 15 đến tháng 6 nhuận.

Quyển LIV Tháng 7 mùa thu năm Bính tý Gia Long thứ 15 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển LV Tháng giêng mùa xuân năm Đinh sửu Gia Long thứ 16 [1817] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển LVI Tháng 7 mùa thu năm Đinh sửu Gia Long thứ 16 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển LVII Tháng giêng mùa xuân năm Mậu dần Gia Long thứ 17 [1818] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển LVIII Tháng 7 mùa thu năm Mậu dần Gia Long thứ 17 đến tháng 12 mùa đông.

Quyển LIX Tháng giêng mùa xuân năm Kỷ mão Gia Long thứ 18 [1819] đến tháng 6 mùa hạ.

Quyển LX Tháng 7 mùa thu năm Kỷ mão Gia Long thứ 18 [1819] đến tháng 12 mùa đông.

Tiền biên

Quyển I

Tiền biên - Quyển I

Thực lục về Thái tổ Gia dụ hoàng đế

Thái tổ Triệu Cơ Thùy thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển Ung Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ hoàng đế, họ Nguyễn, húy Hoàng, người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa.

Sinh ngày Bính dần, tháng 8, mùa thu, năm ất dậu [1525] (Lê ? Thống Nguyên năm thứ 4, Minh ? Gia Tĩnh năm thứ 4), là con trai thứ hai của Triệu tổ Tĩnh hoàng đế ; mẹ là Tĩnh hoàng hậu Nguyễn thị (con gái

Nguyễn Minh Biện, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thự vệ sự ở triều Lê).

Tổ tiên trước là một họ có danh vọng ở Thanh Hoa.

Ông nội là Trừng quốc công, húy là [Dụ](1. Có thuyết cho rằng An Hòa bá Nguyễn Hoằng Dụ sinh ra Nguyễn Kim (Đại Việt sử ký toàn thư).1), lên 8 tuổi đã biết làm văn, 15 tuổi thông thuộc võ nghệ. Triều Hiến tông nhà Lê, làm kinh lược sứ

Đà Giang, đến khi Uy Mục đế vô đạo, về Tây Kinh giúp Lê Oanh khởi binh ở Thanh Hoa, mưu việc giữ yên xã tắc. Khi Oanh lên làm vua (tức Tương Dực đế), được phong làm thái phó Trừng quốc công.

Cha là Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế, húy [Kim], con trưởng Trừng quốc công, đầu làm quan triều Lê, chức Hữu vệ điện tiền tướng quân, [tước]

An Thanh hầu. Năm Đinh hợi [1527], Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, nhà Lê mất. Triệu Tổ giận họ Mạc tiếm nghịch, chí muốn khôi phục nhà Lê, nên dẫn con em tránh sang Ai Lao. Vua nước ấy là Sạ Đẩu cho ở

Sầm Châu. Bấy giờ thu nạp hào kiệt, quân chúng có hàng mấy nghìn người, voi có ba chục thớt, bàn mưu tìm con cháu nhà Lê để lập làm vua.

Năm Canh dần [1530], ông đem quân ra Thanh Hoa. Mạc Đăng Doanh (con trưởng Mạc Đăng Dung) sai tướng là Ngọc Trục (không rõ họ) chống cự, đánh nhau ở huyện Lôi Dương (nay là Thọ Xuân Thanh Hóa), Ngọc Trục thua chạy. Năm Tân mão [1531], ông đánh phá được tướng Mạc là Nguyễn Kính ở huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), chém hơn một nghìn đầu. Khi tiến đến đò Điềm Thủy huyện Gia Viễn (tỉnh Ninh Bình), lại đánh luôn mấy trận với tướng Mạc là Lê Bá Ly được to. Gặp trời mưa dầm, nước lụt lai láng, quân Mạc cho nhiều chiến thuyền tiếp nhau tiến đến, ông bèn rút quân về sách Sầm Hạ ở Ai Lao. Năm Quý tỵ [1533] ông đón con trai nhỏ của Lê Chiêu Tông là Ninh lập làm vua, lấy niên hiệu là Nguyên Hòa, tức là Trang Tông. (Khi nhà Lê mới mất, Trang Tông còn thơ ấu, bầy tôi là bọn Trịnh Duy Tuấn và Lê Lan rước tránh sang Ai Lao, ở trà trộn với nhân dân, không ai biết. Đến bấy giờ, Triệu Tổ tìm khắp nơi mới được, bèn lập làm vua). Do công ấy, được phong Thượng phụ thái sư Hưng quốc công chưởng nội ngoại sự. Bấy giờ có người xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phước (huyện Vĩnh Lộc bây giờ) tên là Trịnh Kiểm đến yết kiến (Kiểm sau làm tổ họ Trịnh). Triệu Tổ thấy Kiểm có vẻ lạ, mới gả con gái lớn là Ngọc Bảo cho, sai coi mã quân và xin phong cho làm tướng quân. Năm Canh tý [1540], ông đem quân đóng giữ Nghệ An, hào kiệt theo rất nhiều. Năm Nhâm dần [1542] đi tuần hành trong đất Thanh Hoa, tiếng quân lừng lẫy, xa gần đều phục. Năm Quý mão [1543] rước vua Lê tiến binh ra Tây Đô (tức là Thanh Hoa) để đánh Mạc Chính Trung (con thứ hai Mạc Đăng Dung, có tên nữa là

Đăng Xương), được tấn phong Thái tể đô tướng tiết chế các dinh thủy bộ, chia đường đều tiến, đánh đâu được đấy.

Ngày Tân tỵ, tháng 5, mùa hạ, năm ất tỵ [1545] ông bị hàng tướng Mạc [tên Trung] đầu độc. Triệu Tổ băng, thọ 78 tuổi. (Trước là nhà Mạc thấy quân nhà vua hoạt động mạnh, rất lo, ngầm sai hoạn quan là Trung (không rõ họ) trá hàng, để đầu độc vua Lê; việc không thành, nó liền ngầm cho thuốc độc vào quả dưa hấu rồi đón dâng Triệu Tổ). Vua Lê thương tiếc mãi, tặng tước Chiêu huân tĩnh công, dùng lễ hậu đem táng ở núi

Thiên Tôn (thuộc huyện Tống Sơn). Tương truyền huyệt đào trúng hàm rồng, khi đặt quan tài xuống thì cửa huyệt ngậm lại, bỗng trời đổ mưa, gió sấm sét, mọi người sợ chạy. Đến lúc tạnh trở lại tìm thì đá núi liên tiếp, cỏ cây xanh tốt, không nhận được là táng nơi nào nữa. Đến nay có việc [cúng tế] thì chỉ trông núi tế vọng thôi. Năm Minh Mệnh thứ 2, phong núi ấy là núi Triệu Tường). Thời quốc sơ chúa(1. Chữ Hán là thượng, chỉ Nguyễn Hoàng 1) tôn thụy hiệu(2. Thụy : tên đặt để thờ cúng.2) là Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương. Thế Tôn Hiếu Vũ Hoàng Đế(1. Tức là Phước Khoát (1739 – 1756) 1) lại truy tôn [Nguyễn Kim] làm Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu ý Đức phi. Gia Long năm thứ 5 lại truy tôn là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế, miếu hiệu(2. Hiệu đặt cho các vua đã chết để thờ ở tôn miếu. 2) là Triệu Tổ, lăng gọi là Trường Nguyên, và truy tôn phi là Từ Tín Chiêu ý Hoằng Nhân Thục Đức Tĩnh hoàng hậu. (Tương truyền phi hợp táng với Triệu Tổ). Chúa(3. Chúa, chỉ Nguyễn Hoàng. 3) tướng vai lân, lưng hổ, mắt phượng, trán rồng, thần thái khôi ngô, thông minh tài trí, người thức giả đều biết là bực phi thường.

Khi Triệu Tổ tránh họ Mạc, chạy sang Ai Lao thì chúa mới lên 2 tuổi, gửi nuôi ở nhà thái phó Nguyễn Ư Dĩ (tên tự là Vô Sự, bấy giờ gọi là Uy quốc công, anh ruột của Tĩnh hoàng hậu), Ư Dĩ hết lòng bảo hộ, khi đã lớn, thường đem chuyện xây dựng công nghiệp để khuyến khích. Đầu làm quan ở triều Lê, được phong là Hạ Khê hầu. Đem quân đánh Mạc Phước Hải (con trưởng Mạc Đăng Doanh), chém được tướng là Trịnh Chí ở huyện Ngọc Sơn, khi khải hoàn vua yên ủy khen rằng : "thực là cha hổ sinh con hổ".

Đến khoảng năm Thuận Bình đời Lê Trung Tông, do quân công được tiến phong Đoan quận công. Bấy giờ Hữu tướng triều Lê là Trịnh Kiểm (bấy giờ xưng là Lượng quốc công) cầm giữ binh quyền, chuyên chế mọi việc. Tả tướng là Lãng quận công Uông (con trưởng Triệu Tổ) bị Kiểm hãm hại. Kiểm lại thấy chúa công danh ngày càng cao nên rất ghét. Chúa thấy thế, trong lòng áy náy không yên, cùng bàn mưu với Nguyễn Ư Dĩ rồi cáo bệnh, cốt giữ mình kín đáo để họ Trịnh hết ngờ.

Chúa nghe tiếng Nguyễn Bỉnh Khiêm (người làng Trung Am, xứ Hải Dương, đỗ Trạng nguyên triều Mạc, làm đến chức Thái bảo về trí sĩ) giỏi nghề thuật số, nên ngầm sai người tới hỏi. Bỉnh Khiêm nhìn núi non bộ trước sân ngâm lớn rằng : "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" [nghĩa là : Một dải núi ngang có thể dung thân muôn đời được]. Sứ giả đem câu ấy về thuật lại. Chúa hiểu ý. Bấy giờ xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) và phủ huyện để cai trị, nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng. Kiểm đương lấy làm lo. Chúa mới nhờ chị là Ngọc Bảo nói với Kiểm để xin vào trấn đất Thuận Hóa. Kiểm thấy đất ấy hiểm nghèo xa xôi cho ngay. Anh Tông lên ngôi, Kiểm dâng biểu nói :

"Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và của do đấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, ví không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoan quận công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai đi trấn ở đấy, để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam". Vua Lê nghe theo và trao cho chúa trấn tiết(1. Trấn tiết : Cờ tiết vua giao cho làm huy hiệu của quyền trấn thủ1), phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi.

Mậu ngọ, năm thứ 1 [1558] (Lê ? Chính Trị năm 1, Minh ? Gia Tĩnh năm 37), mùa đông, tháng 10, chúa bắt đầu vào trấn Thuận Hóa, 34 tuổi. Những người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoa đều vui lòng theo đi. Dựng dinh ở xã ái Tử (thuộc huyện

Vũ Xương, tức nay là Đăng Xương)(2. Nay là huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị2). Phàm quan lại tam ty do nhà Lê đặt đều theo lệnh của chúa.

Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường xưng là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng lên, thực là xây nền từ đấy.

Kỷ mùi, năm thứ 2 [1559], mùa thu tháng 8, Thanh Hoa và Nghệ An bị lụt, dân lưu tán nhiều vào miền Nam.

Bấy giờ mọi việc bắt đầu. Chúa khuya sớm chăm lo, nghĩ việc củng cố căn bản. Nguyễn Ư Dĩ cùng bọn Tống Phước Trị (bấy giờ gọi là Luân quận công), Mạc Cảnh Huống cùng lòng hợp sức, quy hoạch nhiều phương, chúa đều thành thực tin dùng.

Canh thân, năm thứ 3 [1560], mùa đông, đặt đồn cửa biển giữ miền duyên hải (bấy giờ quân Mạc thường theo đường biển vào cướp Thanh Nghệ nên phải đề phòng).

Tân dậu, năm thứ 4 [1561]

Nhâm tuất, năm thứ 5 [1562]

Quý hợi, năm thứ 6 [1563], mùa thu, tháng 7, ngày Giáp thìn, sinh hoàng tử thứ sáu (tức Hy tông Hiếu Văn hoàng đế ).

Giáp tý, năm thứ 7 [1564]

ất sửu, năm thứ 8 [1565]

Bính dần, năm thứ 9 [1566]

Đinh mão, năm thứ 10 [1567] (Lê ? Chính Trị năm 10, Minh ? Long Khánh năm 1)

Mậu thìn, năm thứ 11 [1568], mùa xuân, tháng 3, Tổng trấn Quảng Nam là Bùi Tá Hán (bấy giờ xưng là Trấn quận công) chết. Vua Lê lấy Nguyễn Bá Quýnh (bấy giờ xưng là Nguyên quận công) làm Tổng binh, thay giữ đất ấy.

Kỷ tỵ, năm thứ 12 [1569], mùa thu, tháng 9, chúa đi Thanh Hoa, yết kiến vua Lê ở hành cung Khoa Trường.

Canh ngọ, năm thứ 13 [1570] mùa xuân, tháng giêng, chúa từ Tây Đô về, dời dinh sang xã Trà Bát (thuộc huyện Đăng Xương).

Vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quỳnh về trấn thủ Nghệ An. Chúa bèn kiêm lãnh hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam.

Thuận Hóa có 2 phủ, 9 huyện, 3 châu. Phủ Tiên Bình (xưa là Tân Bình), lĩnh 3 huyện : Khang Lộc, Lệ Thủy, Minh Linh, 1 châu : Bố Chánh; phủ Triệu Phong, lĩnh 6 huyện : Vũ Xương, Hải Lăng, Quảng Điền (xưa là Đan Điền), Hương Trà (xưa là Kim Trà), Phú Vang (xưa là Tư Vang), Điện Bàn, 2 châu : Thuận Bình, Sa Bồn. Quảng Nam có 3 phủ, 9 huyện. Phủ Thăng Hoa, lĩnh 3 huyện : Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang; phủ Tư Nghĩa lĩnh 3 huyện : Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang; phủ Hoài Nhân, lĩnh 3 huyện : Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn. Đeo ấn tổng trấn tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa.

Bấy giờ Mạc Mậu Hợp sai tướng là bọn Kính Điển đem quân xâm lấn Thanh Nghệ. Tướng trấn thủ Nghệ An Nguyễn Bá Quýnh nghe tin trốn chạy, thế giặc hung tợn, lòng dân xao xuyến. Chúa vốn có uy danh, nhiều mưu lược, kỷ luật rõ ràng, phòng giữ nghiêm ngặt, do đó quân giặc không dám phạm vào bờ cõi, nên riêng hai xứ Thuận Quảng được yên ổn.

Tháng 2, Trịnh Kiểm nhà Lê chết. Con thứ là Tùng (con của Ngọc Bảo) được nối. Chúa sai sứ đến viếng.

Tân mùi, năm thứ 14 [1571], mùa thu, tháng 7, người huyện Khang Lộc (tức Phong Lộc bây giờ)(1. Hiện nay là huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. 1) tên là Mỹ Lương, Văn Lan và Nghĩa Sơn (đều không rõ họ) nổi loạn, đánh dẹp yên. Trước là Mỹ Lương cùng em là Văn Lang và Nghĩa Sơn đều tiến thóc được làm quan, chuyên việc thu tô thuế có công. Nhà Lê phong Mỹ Lương làm tham đốc, Văn Lan, Nghĩa Sơn làm thự vệ. Trịnh Kiểm nhân mật sai họ đánh úp dinh Vũ Xương, hẹn nếu thành công sẽ trọng thưởng. Tới đấy, Mỹ Lương sai Văn Lang và Nghĩa Sơn đem quân phục ở huyện Minh Linh(1. Nay là huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị1) rồi tự mình dẫn quân lẻn theo đường núi đến chỗ Cầu Ngói ở Hải Lăng mai phục, định ngày giáp đánh. (có thuyết nói khi binh thuyền Mạc cướp Nghệ An thì Thuận Hóa xao xuyến, bọn

Mỹ Lương mưu đánh úp Vũ Xương để hàng Mạc). Chúa biết được mưu ấy, liền sai phó tướng Trương Trà (bấy giờ xưng là Trà quận công) đánh Nghĩa Sơn, và tự đem quân ngầm đến Cầu Ngói đánh úp Mỹ Lương và đốt trại. Mỹ Lương trốn chạy, đuổi chém được. Trà tiến quân đến xã Phước Thị, đánh nhau với giặc, bị Nghĩa Sơn bắn chết. Vợ Trà là Trần thị (người xã Diêm Trường) nghe tin nổi giận, mặc quần áo đàn ông thúc quân đánh, bắn chết Nghĩa Sơn tại trận. Quân Văn Lan thua, trốn về với Trịnh. [Thế là] dẹp hết đảng giặc. Chúa đem quân về. Phong Trần thị làm quận phu nhân.

Bấy giờ Quảng Nam cũng có bọn thổ mục nổi loạn, cướp giết lẫn nhau. Chúa sai thuộc tướng là Mai Đình Dũng dẹp yên, nhân đấy, sai ở lại giữ đất để thu phục vỗ yên tàn quân.

Nhâm thân, năm thứ 15 [1572] (Lê ??Hồng Phước năm 1, Minh ? Long Khánh 6), mùa xuân, tháng giêng, vua Lê đổi niên hiệu là Hồng Phước.

Mùa thu, tháng 7, tướng Mạc là Lập Bạo (không rõ họ, tự xưng quận công) lấy người ở châu Bắc Bố Chính (nay là huyện Bình Chính)(2. Nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình2) dẫn đường đem 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp, đóng trại từ con đường xã Hồ Xá đến đền Thanh Tương xã Lãng Uyển. Thế giặc đang mạnh. Chúa đem quân chống giữ, đóng ở sông ái Tử, đêm nghe từ lòng sông có tiếng kêu "trao trao", lấy làm lạ. Khấn rằng : "Thần sông có thiêng thì giúp ta đánh giặc". Đêm ấy, chúa ngủ mộng thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm quạt the, đến trước trình rằng : "Minh công muốn trừ giặc thì nên dùng mỹ kế dụ đến bãi cát, thiếp xin giúp sức !" Tỉnh dậy, chúa ngẫm nghĩ rằng : "Người đàn bà trong mộng báo ta nên dùng "mỹ kế", phải chăng là dùng kế mỹ nhân ?" Trong đám thị nữ có Ngô thị (tên gọi là

Ngọc Lâm, người làng Thế Lại, có tên nữa là Thị Trà) có sắc đẹp, và mưu cơ biện bác. Chúa sai nàng đem vàng lụa đi dụ Lập Bạo tới chỗ sông có tiếng kêu "trao trao" để giết. Ngô thị đến trại Lập Bạo nói rằng : "Chúa công thiếp nghe tin tướng công ở xa đến, cho thiếp mang quà mọn đến để cùng giảng hòa, đừng đánh nhau nữa". Lập Bạo thích sắc đẹp của Ngô thị, nhưng giả cách giận, nói rằng : "Người lại đây làm mồi dử ta phải chăng ?" Ngô thị uyển chuyển thưa gửi, Lập Bạo liền tin, và giữ lại trong trướng. Ngô thị nhân đấy, mời Lập Bạo đến bờ sông để cùng chúa họp thề. Lập Bạo nghe lời. Ngô thị đem việc ấy mật báo trước. Chúa lập tức dựng một ngôi đền tranh ở bên bờ sông, chỗ có tiếng kêu "trao trao", để làm nơi họp thề, và đào hầm đặt phục binh. Đến hẹn, Lập Bạo cùng Ngô thị ngồi thuyền nhỏ, chỉ vài chục người theo hầu. Khi đến bến, thấy dưới cờ chúa cũng chỉ có vài chục người thôi, Lập Bạo thản nhiên không ngờ, bèn lên bờ thong thả bước đến cửa đền. Thình lình phục binh nổi dậy. Lập Bạo sợ chạy xuống thuyền, thuyền đã xa bãi rồi. Lập Bạo nhảy theo, rơi xuống nước, quân ta bắn chết ngay, rồi thừa thắng tiến đến trại Thanh Tương. Gió to nổi lên, thuyền giặc đắm hết. Quân giặc đem nhau đầu hàng, chúa cho ở đất Cồn Tiên(1. ở gần cửa Tùng, tỉnh Quảng Trị 1) (tức tổng Bái Ân bây giờ) đặt làm 36 phường. Chúa đem quân về, thưởng công cho Ngô thị, gọi phó đoán sự vệ Thiên võ là Vũ Doãn Trung gả cho. Lại phong thần sông làm "Trảo trảo linh thu phổ trạch tướng hựu phu nhân", và lập đền thờ.

Mùa đông, tháng 11, sai sứ về Tây Đô báo tin thắng trận. Vua Lê sai Phan Công Tích (bấy giờ xưng là Lai quận công) đến ủy lạo tướng sĩ. Chúa cùng [sứ giả] yến tiệc rất vui, khi sứ về lại tặng rất hậu.

Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn.

Quý dậu, năm thứ 16 [1573] (Lê ? Gia Thái năm thứ 1, Minh ? Vạn Lịch năm 1), mùa xuân, tháng giêng, vua Lê bị Trịnh Tùng bắt phải thắt cổ chết ở Lôi Dương, lập người con thứ là Duy Đàm làm vua, đổi niên hiệu là Gia Thái, tức là Thế tông. Từ đấy Tùng ngày càng lấn quyền, vua Lê gia phong cho tước vương, sau thành thế tập.

Tháng 2, vua Lê sai sứ đem sắc tấn phong chúa làm thái phó, khiến trữ thóc để sẵn lương ở biên giới, còn số tiền sai dư(2. Tiền thuế thân, ngoài sự gánh vác sai dịch còn phải nộp2) thì hàng năm nộp thay bằng 400 cân bạc và 500 tấm lụa.

Giáp tuất, năm thứ 17 [1574]

ất hợi, năm thứ 18 [1575]

Bính tý, năm thứ 19 [1576], mùa hạ, tháng 4, hoàng tử cả là Hà mất, tặng Thái bảo Hòa quận công.

Đinh sửu, năm thứ 12 [1577], mùa đông, tháng 11, sao chổi xuất hiện ở đông nam. Vua Lê đổi niên hiệu là Quang Hưng.

Mậu dần, năm thứ 21 [1578] (Lê ? Quang Hưng năm 1, Minh ??Vạn Lịch năm 6)

Kỷ mão, năm thứ 22 [1579]

Canh thìn, năm thứ 23 [1580]

Tân tỵ, năm thứ 24 [1581]

Nhâm ngọ, năm thứ 25 [1582]

Quý mùi, năm thứ 26 [1583]

Giáp thân, năm thứ 27 [1584]

ất dậu, năm thứ 28 [1585], bấy giờ có tướng giặc nước Tây Dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù trưởng phiên, không phải là tên người) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở Cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiếc thuyền, tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy.

Chúa cả mừng nói rằng : "Con ta thực là anh kiệt", và thưởng cho rất hậu. Từ đó giặc biển im hơi.

Bính tuất, năm thứ 29 [1586], mùa xuân, tháng 3, vua Lê sai Hiến sát sứ là Nguyễn Tạo đến khám những ruộng đất hiện cày cấy để thu thuế. (Bấy giờ thuế ruộng hai xứ Thuận Quảng chưa có định ngạch, mỗi năm gặt xong, sai người chiếu theo số ruộng đất hiện cấy mà thu thuế thôi). Khi Tạo đến, chúa lấy lòng thành tiếp đãi. Tạo rất cảm phục, rồi không đi khám đạc nữa, cho các phủ huyện tự làm sổ, sổ làm xong rồi đem về.

Đinh hợi, năm thứ 30 [1587], mùa thu, tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mậu tý, năm thứ 31 [1588]

Kỷ sửu, năm thứ 32 [1589]. Bấy giờ mấy năm được mùa luôn, trăm họ giầu thịnh. Vua Lê thì liền năm đánh dẹp, quân dụng không đủ. Chúa xuống lệnh thu thuế cho đi giúp quân phí, chưa từng để thiếu thốn. Tây Đô được nhờ vào đấy.

Canh dần, năm thứ 33 [1590], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tân mão, năm thứ 34 [1591]

Nhâm thìn, năm thứ 35 [1592], mùa thu, tháng giêng, vua Lê sai Trịnh Tùng cử đại quân đi đánh Mạc Mậu Hợp (con Mạc Nguyên), lấy lại được Đông Đô (tức Hà Nội bây giờ).

Tháng 5, chúa đem binh quyền [ra Đông Đô] yết kiến. Vua Lê yên ủi rằng : "Ông trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn". Liền phong làm Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái úy Đoan quốc công.

Chúa trở về Thanh Hoa, yết cáo tôn lăng.

Bấy giờ tướng Mạc là Kiến và Nghĩa (hai người đều không rõ họ, tự xưng quận công) đều tụ họp có tới mấy vạn quân, Kiến chiếm giữ phủ Kiến Xương, đắp lũy đất ở bên sông, Nghĩa chiếm giữ huyện Thanh Lan (nay là huyện Thanh Quan), cắm cọc gỗ ở sông Hoàng Giang để chống cự nhà Lê. Tướng nhà Lê là Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên đánh không được. Chúa đốc suất tướng sĩ bản dinh, thống lãnh chiến thuyền của thủy quân các xứ nối tiến, dùng hỏa khí và đại bác đánh phá tan, chém được Kiến và Nghĩa tại trận, bắt sống, chém chết hàng vạn. Trấn Sơn Nam (nay là Nam Định) được dẹp xong. Mạc Kính Chương (tự xưng Tráng vương) lại cùng đồ đảng chiếm giữ Hải Dương. Chúa dời quân sang đánh dẹp được, bắt sống không xiết kể.

Trước kia, trong chiến dịch Sơn Nam, hoàng tử thứ hai là Hán (làm quan triều Lê, có quân công được làm Tả đô đốc Lỵ quân công) theo chúa đi đánh giặc, ra sức đánh, mất tại trận. Vua Lê truy tặng tước Lỵ Nhân công (có thuyết là Lỵ Trung công) (năm Gia Long thứ 2 cho được tòng tự ở Nguyên miếu), cho con là Hắc được tập ấm, sau làm quan đến thái phó. (Con cháu ở Thanh Hoa, dòng dõi rất phồn thịnh. Năm Gia Long thứ 1, cho hệ tính là Nguyễn Hựu).

Giáp ngọ, năm thứ 37 [1594], mùa hạ, tháng 5, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ núi Yên Tử, đánh cướp huyện Vĩnh Lại. Chúa đem thủy quân tiến đến Hải Dương đánh phá được. Ngọc Liễn thua chạy, chết ở châu Vạn Ninh.

Mùa thu, tháng 9, Mạc Kính Dụng (tự xưng Uy vương) sai người đảng là Văn và Xuân (hai người đều không rõ tên họ, tự xưng quốc công) đánh úp Thái Nguyên.

Chúa đem đại binh đánh quân Mạc ở huyện Võ Nhai, dẹp yên.

Mùa đông, tháng 10, tướng làm phản nhà Lê là Vũ Đức Cung cướp phá các huyện thuộc Sơn Tây, và lùa những cư dân hai huyện Đông Lan và Tây Lan (nay là Hùng Quan và Tây Quan) vào đất Đại Đồng. Chúa lĩnh thủy quân cùng Thái úy nhà Lê là Nguyễn Hữu Liêu dẫn bộ binh cùng tiến, thẳng tới Đại Đồng, giáp đánh phá được. Đức Cung chạy đến đất Nghĩa Đô. Chúa dẫn quân về.

ất mùi, năm thứ 38 [1595], mùa xuân, tháng 3 nhà Lê thi tiến sĩ, chúa làm đề điệu, lấy được 6 người hợp cách là bọn Nguyễn Viết Tráng.

Bính thân, năm thứ 39 [1596], mùa hạ, tháng 4, chúa theo hầu vua Lê đi Lạng Sơn. Trước là Mạc Kính Dụng chạy sang Long Châu nước Minh, vu cáo với nhà Minh rằng hiện nay người xưng là vua Lê tức là người họ Trịnh chứ không phải con cháu nhà Lê. Người Minh tin lời, sai án sát ty phó sứ Tả giang binh tuần đạo là Trần Đôn Lâm sang Trấn Nam quan, đưa thư hẹn hội khám. Vua Lê trước sai bọn thị lang Phùng Khắc Khoan đem hai quả ấn mực cũ, 100 cân vàng, 1.000 lạng bạc, cùng vài chục kỳ lão trong nước cùng đến cửa quan. Trần Đôn Lâm lại đưa điệp đòi vua Lê hẹn ngày đến cửa quan. Nhưng khi vua Lê đến thì sứ nhà Minh thác cớ không đến đúng hẹn. Chúa bèn hầu vua Lê trở về.

Đinh dậu, năm thứ 40 [1597] mùa xuân, tháng 2, nhà Minh lại sai ủy quan là Vương Kiến Lập đến cửa quan báo tin để hội khám. Chúa lại theo hầu vua Lê đến cửa quan, cùng với Vương Kiến Lập và Trấn Đôn Lâm làm lễ giao tiếp hội khám, gặp nhau rất vui vẻ. Từ đấy Bắc Nam lại thông hiếu.

Mùa đông, tháng 11, thổ phỉ Hải Dương là bọn Thủy, Lễ, Quỳnh, Thụy (đều không rõ họ, tự xưng quận công) kết bè đảng mấy nghìn, đánh úp giết tướng trấn thủ, cướp phá các huyện thủy Đường, Nghi Dương và

Tiên Minh. Hoàng tử thứ tư là Diễn (có tên nữa là Miện, làm quan triều Lê, chức Tả đô đốc Hào quận công) cùng tướng nhà Lê là Bùi Văn Khuê và Phan Ngạn lĩnh 50 binh thuyền đến đánh ở sông Hổ Mang. Diễn đem 4 chiếc binh thuyền bản bộ vào trước xông lên đánh, mất tại trận. Vua Lê truy tặng Thái phó.

Mậu tuất, năm thứ 41 [1598], mùa xuân, tháng 3, chúa đem thủy quân đánh dẹp Hải Dương, phá tan quân thổ phỉ ở dãy núi Thủy Đường, bắt được đồ đảng giặc đem về.

Kỷ hợi, năm thứ 42 [1599], mùa thu, tháng 8, vua Lê băng. Con thứ là Duy Tân lên ngôi, đổi niên hiệu là Thận Đức, tức là Kính tông. Tấn phong chúa làm Hữu tướng.

Canh tý, năm thứ 43 [1600] (Lê ??Thận Đức năm 1, mùa đông, tháng 11, đổi kỷ nguyên là Hoằng Định; Minh ? Vạn Lịch năm 28), mùa hạ, tháng 5, chúa từ Đông Đô trở về. Bấy giờ chúa đã ở Đông Đô 8 năm, đánh dẹp bốn phương đều thắng, vì có công to, nên họ Trịnh ghét. Gặp lúc bọn tướng Lê là Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê làm phản ở cửa Đại An (nay thuộc Nam Định), chúa nhân dịp đem quân tiến đánh, liền đem cả tướng sĩ thuyền ghe bản bộ, đi đường biển thẳng về Thuận Hóa, để hoàng tử thứ năm là Hải và hoàng tôn là Hắc ở lại làm con tin. Nghe tin ấy, lòng dân xao xuyến. Trịnh Tùng ngờ chúa vào chiếm Tây Đô, bèn đưa vua Lê chạy về Tây Đô, để giữ vững căn bản. Đi đến huyện An Sơn, bọn hoàng tử Hải đón đường nói rằng chúa về Thuận Hóa, chỉ nghĩ việc bảo vệ đất đai, thực không có ý gì khác. Vua Lê vỗ về, vẫn cho bọn Hải quản binh như cũ. Chẳng bao lâu vua Lê lại về Đông Đô.

Chúa đến Thuận Hóa, cho dời dinh sang phía đông dinh ái Tử (bấy giờ gọi là Dinh Cát). Vua Lê sai Thiêm đô ngự sử là Lê Nghĩa Trạch đem sắc đến phủ dụ, vẫn sai ở lại trấn thủ, hằng năm nộp thuế má. Trịnh Tùng cũng gửi kèm thư, khuyên giữ việc thuế cống. Chúa hậu đãi sứ giả và sai sứ đi tạ ơn vua Lê; lại gửi thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia.

Mùa đông, tháng 10, chúa gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả Trịnh Tùng). Từ đấy chúa không ra Đông Đô nữa. Triều thần nhà Lê thường thường nói nên xử trí, nhưng Trịnh Tùng sợ việc dùng binh, không dám đả động.

Tân sửu, năm thứ 44 [1601], mùa hạ, tháng 6 đặt kho thóc Thuận Hóa.

Bắt đầu dựng chùa Thiên Mụ. Bấy giờ chúa dạo xem hình thế núi sông, thấy trên cánh đồng bằng ở xã Hà Khê (thuộc huyện Hương Trà) giữa đồng bằng nổi lên một gò cao, như hình đầu rồng quay lại, phía trước thì nhìn ra sông lớn, phía sau thì có hồ rộng, cảnh trí rất đẹp. Nhân thế hỏi chuyện người địa phương, họ đều nói rằng gò này rất thiêng, tục truyền rằng : Xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng : "Sẽ có vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho bền long mạch". Nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ.

Mùa thu, tháng 7, ngày Tân hợi, sinh hoàng tôn (tức Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế).

Nhâm dần, năm thứ 45 [1602], mùa thu, tháng 7, sửa chùa Sùng Hóa. Chúa nhân tiết Trung nguyên đến chơi chùa Thiên Mụ, lập đàn chay làm lễ bố thí. Khi thuyền qua sông xã Triêm Ân (thuộc huyện Phú Vang), nhìn bờ sông phía đông ? bắc, cây cối um tùm, chim chóc tấp nập, xem rất thích, chúa cho dừng thuyền ngắm xem. Nhận thấy chỗ ấy có nền chùa cổ, liền sai sửa lại, gọi là chùa Sùng Hóa.

Sai hoàng tử thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam. Quảng Nam đất tốt dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp vào nhiều hơn Thuận Hóa mà số quân thì cũng bằng quá nửa. Chúa thường để ý kinh dinh đất này. Đến đây, đi chơi núi Hải Vân, thấy một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng : "Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảng". Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ. Lại dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn.

Bây giờ khám lý phủ Hoài Nhân (nay thuộc Bình Định) là Trần Đức Hòa (bấy giờ gọi là Cống quận công, là con Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân, phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết kiến, chúa đãi rất hậu. Rồi trở về Thuận Hóa.

Năm ấy nước Chiêm Thành sang thông hiếu.

Quý mão, năm thứ 46 [1603], mùa xuân, tháng 3, trong mặt trăng có ba điểm đen.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Giáp thìn, năm thứ 47 [1604], lấy huyện Điện Bàn thuộc phủ

Triệu Phong đặt làm phủ Điện Bàn, quản 5 huyện (Tân Phước, An Nông, Hòa Vang, Diên Khánh, Phú Châu), lệ thuộc vào xứ Quảng Nam. Đổi phủ Tiên Bình làm phủ Quảng Bình, phủ Tư Ngãi làm phủ Quảng Ngãi, huyện Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa (nay đổi làm Thăng Bình) làm huyện Lễ Dương, huyện Hy Giang làm huyện Duy Xuyên.

ất tỵ, năm thứ 48 [1605].

Bính ngọ, năm 49 [1606].

Đinh mùi, năm thứ 50 [1607], dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu (thuộc Quảng Nam).

Mậu thân, năm thứ 51 [1608], được mùa to, mỗi đấu gạo giá 3 đồng tiền. Bấy giờ từ Nghệ An ra Bắc bị đại hạn, giá gạo đắt, nhiều dân xiêu dạt chạy về [với chúa].

Kỷ dậu, năm thứ 52 [1609], dựng chùa Kính Thiên ở phường

Thuận Trạch (thuộc huyện Lệ Thủy, Quảng Bình; năm Minh Mệnh thứ 7 đổi làm chùa Hoằng Phước).

Canh tuất, năm thứ 53 [1610].

Tân hợi, năm thứ 54 [1611], bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bấy giờ quân Chiêm Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem quân đi đánh lấy được [đất ấy], bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy.

Nhâm tý, năm thứ 55 [1612].

Quý sửu, năm thứ 56 [1613], mùa hạ, tháng 5, ngày Mậu ngọ, chúa không được khỏe, triệu hoàng tử thứ sáu tự Quảng Nam vào hầu.

Tháng 6 ngày Canh dần, chúa yếu mệt, triệu hoàng tử thứ sáu và thân thần đến trước đền trước giường, bảo thân thần rằng : "Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp". Rồi chúa cầm tay hoàng tử thứ sáu dặn bảo rằng : "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thân yêu nhau. Mày mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì". Lại nói : "Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta". Hoàng tử thứ sáu và các thân thần khóc lạy vâng mệnh. Ngày ấy chúa băng. ở ngôi 56 năm, thọ 89 tuổi. Đầu thì yên táng ở núi Thạch Hãn (xã thuộc huyện Hải Lăng), sau cải táng ở núi

La Khê (xã thuộc huyện Hương Trà) (năm Minh Mệnh thứ 2, phong núi ấy làm núi Khải Vận). Thời quốc sơ thì dâng thụy hiệu là Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ vương. Thế tông Hiếu vũ hoàng đế truy tôn là Liệt tổ Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ thái vương và truy tôn phi là Từ Lương Quang Thục ý phi. Năm Gia Long thứ 5, truy tôn là Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ hoàng đế, miếu hiệu là Thái tổ, lăng gọi là Trường Cơ; truy tôn phi là Từ Lương Quang Thục Minh Đức ý Cung Gia dụ hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Cơ.

Tiền biên

Quyển II

Tiền biên - Quyển II

Thực lục về Hy tông Hiếu văn hoàng đế

Hy tông Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu văn hoàng đế, húy là [Phước Nguyên], sinh năm Quý hợi [1563]

(Lê ??Chính Trị năm 6, Minh ? Gia Tĩnh năm 42), là con thứ sáu của Thái tổ Gia dụ hoàng đế. Mẹ là Gia dụ hoàng hậu Nguyễn Thị.

Lúc chúa làm hoàng tử, từng đánh tướng giặc Tây Dương ở Cửa Việt, Thái tổ cho là có tài lạ, sau sai trấn thủ Quảng Nam. Bấy giờ hoàng tử cả là Hà, thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn đều mất trước. Hoàng tử thứ năm là Hải thì làm con tin ở Bắc. Chúa tuổi lớn lại giỏi, ngày thường cùng các tướng bàn luận việc binh, tính toán có nhiều việc đúng. Thái tổ biết có thể trao phó nghiệp lớn, vẫn để ý tới. Năm Quý mùi, mùa hạ tháng 6, ngày Canh dần, Thái tổ băng. Các quan vâng di mệnh tôn làm Thống lĩnh thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Thụy quận công. Bấy giờ chúa 51 tuổi.

Vua Lê sai đem sắc đến tặng Thái tổ làm Cẩn nghĩa công, và đưa phẩm vật để phúng, cho chúa trấn thủ hai xứ Thuận Hóa Quảng Nam, gia hàm Thái bảo tước quận công.

Chúa lên nối ngôi, sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục, bấy giờ người ta gọi là Chúa Phật. Từ đấy mới xưng quốc tính là họ Nguyễn Phước.

Giáp dần, năm thứ 1 [1614] (Lê ? Hoằng Định năm 15, Minh ? Vạn Lịch năm 42). Bắt đầu đặt tam ty : ở trong là Chính dinh thì [ba ty] là ty Xá sai, coi việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ, ty Tướng thần lại, coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do Cai bạ giữ, ty Lệnh sử, coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương hướng cho quân đội Chính dinh, do Nha úy giữ. Những thuộc viên thì mỗi ty có 3 câu kê, 7 cai hợp, 10 thủ hợp, 40 ty lại. Lại đặt ty Nội lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, hai Tả, Hữu lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ. Các dinh ở ngoài, có nơi chỉ đặt một ty Lệnh sử, có nơi đặt 2 ty Xá sai và Tướng thần lại, có nơi kiêm đặt 2 ty Xá sai và Lệnh sử để coi việc từ tụng của quân dân, sổ sách đinh điền và trưng thu thuế ruộng sở tại, số nhân viên thì tùy theo công việc ít nhiều mà thêm bớt.

Mùa hạ, tháng 4, thăng hoàng tử cả là chưởng cơ Kỳ là Hữu phủ chưởng phủ sự, trấn giữ dinh Quảng Nam. Kỳ tới trấn, chăm làm việc ân huệ, yêu thương quân dân, trong cõi yên vui.

ất mão, năm thứ 2 [1615], mùa xuân, tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

Bắt đầu quy chế về chức vụ của phủ huyện : Tri phủ, tri huyện giữ việc từ tụng ; thuộc viên có đề lại, thông lại chuyên việc tra khám, huấn đạo, lễ sinh chuyên việc tế tự ; còn tô thuế sở tại thì đặt quan lại khác để trưng thu.

Bính thìn, năm thứ 3 [1616], mùa đông, tháng 11, Tôn Thất Hải mất tại Đông Đô. Hải làm con tin ở triều Lê, làm đến Tả đô đốc Cẩm quận công. Khi mất vua Lê tặng Thái phó. Con cháu ở Thanh Hoa, năm Gia Long thứ 1 được cho hệ tính là Nguyễn Hựu.

Đinh tỵ, năm thứ 4 [1617], mùa xuân, tháng giêng. Mới đặt Nhà đồ(1. Nhà đồ : Nhà chứa cất đồ đạc, phẩm vật, chữ Hán là Đồ gia. 1), thu các hàng hóa phẩm, giao cho Nội lệnh sử ty giữ.

(ở xứ Thuận Hóa, nguồn Phù ẩu và núi đất ở xã Nam Phố Hạ huyện Phú Vang, là đất có vàng, hằng năm sai dân lấy để nộp. Những núi ở Quảng Nam càng sản nhiều vàng. Các hộ đãi vàng gọi là liêm hộ, người trong hộ mỗi năm nộp 3 hay 2 đồng cân vàng sống. Lại nguồn Lỗ Đông mỗi năm nộp 70 lạng, nguồn Thu Bồn mỗi năm nộp 38 lạng 3 đồng 1 phân. Đầm An Xuân huyện Quảng Điền mỗi năm nộp 80 lạng bạc. Những nguồn ở phủ Quảng Ngãi mỗi năm nộp 180 lạng. Xã Phú Bài huyện Phú Vang, trang Phước Điển châu Bố Chính, núi sản nhiều sắt, mỗi năm nộp 2.000 khối hoặc 500 khối, mỗi khối nặng 25 cân. Còn ngoài ra như dầu hương, sáp ong, ngà voi, chiếu mây, sơn, mật ong, trầm hương, sơn dầu, nhựa trám, nơi nào sản xuất thì nộp. Xứ Thuận Quảng duy không có mỏ đồng, mỗi khi những thuyền buôn Phước Kiến, Quảng Đông hay Nhật Bản, chở đồng đỏ đến bán thì nhà nước thu mua, cứ 100 cân thì trả giá 40 hay 50 quan tiền. Lại xã Mậu Tài, huyện Phú Vang làm được dây thau, dây thép. Cứ 100 cân đồng đỏ pha vào 40 cân kẽm thì làm được 90 cân dây thau, cứ 25 cân sắt thì làm được 1 cân dây thép. Ty thợ mạ vàng thì cứ 10 lạng vàng dát mỏng được 9 vạn lá vàng quỳ. Đều do các kho của nhà đồ thu trữ).

Mậu ngọ, năm thứ 5 [1618], mùa hạ, tháng 5, đạc ruộng dân(1. Ruộng dân : Ruộng công của xã dân, khác với quan điền, tức ruộng quan là ruộng công của nhà nước.1) hai xứ. Bấy giờ bọn hương lý hào hữu xâm chiếm mất nhiều ruộng công để làm lợi riêng. Đến đây sai quan đo ruộng hiện có để thu thuế, dân mới hết tranh nhau. Mọi người đều yên nghiệp.

Mùa đông, tháng 11, sao chổi xuất hiện ở phương Đông hơn một tháng mới hết.

Kỷ mùi, năm thứ 6 [1619] (Lê ??Vĩnh Tộ năm 1, Minh ? Vạn Lịch năm 47), mùa hạ, tháng 5, Trịnh Tùng nhà Lê giết vua Lê mà lập con là Duy Kỳ lên, đổi niên hiệu là Vĩnh Tộ, tức Thần tông. (Bấy giờ con Tùng là Xuân âm mưu giết Tùng để cướp ngôi. Việc phát giác, đem tra hỏi, lời khai liên can đến vua Lê, Tùng bèn sai con là Tráng cùng với nội giám Bùi Sĩ Lâm bắt vua Lê phải thắt cổ chết và truất bỏ Xuân làm dân thường).

Canh thân, năm thứ 7 [1620], (Lê ? Vĩnh Tộ năm 2, Minh ?

Thái Xương năm 1), mùa xuân, chưởng cơ là Hiệp và Trạch (con thứ 7, thứ 8 của Thái tổ) mưu nổi loạn, gửi mật thư xin họ Trịnh phát binh, tự mình làm nội ứng, hẹn khi nên việc thì chia đất này cho trấn giữ. Trịnh Tráng khiến đô đốc Nguyễn Khải đem 5.000 quân đóng ở Nhật Lệ (thuộc huyện Phong Lộc) để đợi. Hiệp và Trạch sợ chưởng cơ Tôn Thất Tuyên (con thứ 4 của Hòa quận công Tôn Thất Hà) nên chưa dám hành động. Chúa cùng các tướng bàn việc chống Trịnh, Hiệp và Trạch giả tiến mưu rằng : "Tuyên trí dũng hơn người, nếu sai cầm binh, hẳn phá được giặc!" Tuyên biết mưu nói với chúa rằng : "Nếu thần dời bỏ dinh thì sợ có nội biến". Chúa bèn sai chưởng dinh Tôn Thất Vệ (con thứ 2 Tôn Thất Hà, bấy giờ gọi là quận công) đem quân chống Khải. Hiệp và Trạch thấy mưu không xong, bèn đem quân chiếm giữ kho ái Tử, đắp lũy Cồn Cát để làm phản. Chúa sai người đến dỗ, nhưng không chịu nghe. Chúa bèn lấy Tuyên làm tiên phong, tự đem đại binh đi đánh. Hiệp và Trạch thua chạy, Tuyên đuổi bắt được đem dâng. Chúa trông thấy, chảy nước mắt nói : "Hai em sao nỡ trái bỏ luân thường?". Hiệp và Trạch cúi đầu chịu tội. Chúa muốn tha, nhưng các tướng đều cho là pháp luật không tha được. Bèn sai giam vào ngục. Hiệp và Trạch xấu hổ sinh bệnh chết. Nguyễn Khải nghe tin dẫn quân trở về.

Chúa thấy Trịnh vô cớ nổi binh, từ đấy không nộp thuế cống nữa.

Mùa hạ, tháng 6, ngày ất sửu, sinh hoàng tôn.

Tân dậu, năm thứ 8 [1621] (Lê ? Vĩnh Tộ năm 3, Minh ??Thiên Khải năm 1), mùa hạ, tháng 4, bọn thổ mục Lục Hoàn (tức Lạc Hòn) thuộc Ai Lao thả quân qua sông Hiếu sang cướp bóc dân biên thùy. Chúa sai Tôn Thất Hòa (bấy giờ gọi là quận công) đi đánh. Hòa chia quân phục ở các đường trọng yếu, khiến những lái buôn mua bán để nhử. Quả nhiên bọn người Man [Lào] đến cướp, kéo vào cửa động, phục binh nổi dậy, bắt được hết đem về. Chúa muốn lấy ân tín vỗ về người đất xa, sai cởi hết trói ra và cấp cho quần áo lương thực, răn dạy rồi thả về. Quân Man cảm phục, từ đấy không làm phản nữa.

Nhâm tuất, năm thứ 9 [1622], chúa cho rằng sông Hiếu xã Cam Lộ (thuộc huyện Đăng Xương) giáp giới với đất Ai Lao, các bộ lạc Man Lục Hoàn, Vạn Tượng, Trấn Ninh, Quy Hợp, đều có đường thông đến đấy, bèn sai đặt dinh, mộ dân chia làm 6 thuyền quân để coi giữ, gọi là dinh Ai Lao.

Quý hợi, năm thứ 10 [1623], mùa hạ, tháng 6, Trịnh Tùng nhà Lê bệnh nặng, con thứ của Tùng là Xuân nổi loạn, phóng lửa đốt Đông Đô, bức dời Tùng đến quán Thanh Xuân (ở huyện Thanh Oai). Tùng chết ở dọc đường. Con trưởng là Tráng lên nối, lập vợ là Ngọc Tú làm Tây cung. Chúa nghe tin Tùng chết, bảo các tướng rằng : "Tùng không biết có vua, Xuân không biết có cha, đạo trời báo ứng, thật chẳng lầm vậy". Rồi sai bắn 3 phát súng và kêu 3 tiếng. Văn chức là Nguyễn Hữu Dật ra khỏi ban nói rằng : "Trịnh Tùng chết, con mới lập, muốn đánh thì đánh, muốn giữ thì giữ. Nay sai nổ súng và kêu to, là sao vậy?". Chúa cười nói rằng : "Hữu Dật tuổi trẻ cậy hăng, chưa biết rõ lẽ". Nhân cho về, bảo cha Dật là Triều Văn dạy bảo. Triều Văn là người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, đương làm tham tướng. Hữu Dật 16 tuổi, vì có văn học được bổ làm văn chức. Chúa lại bảo các tướng rằng : "Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò vua Lê, nhưng đánh người trong lúc có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất võ. Huống chi ta với họ Trịnh có nghĩa thông gia, chi bằng trước hết hãy đem lễ đến phúng để xem tình hình rồi sau hãy liệu kế". Các tướng đều bái phục. Bèn sai sứ sang phúng.

Lấy Nguyễn Phước Kiều (vốn họ Nguyễn, cho theo quốc tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn Cửu) làm cai đội, coi đội Mã cơ. Kiều từ Đông Đô đem mật thư của Ngọc Tú về dâng. Chúa rất mừng, đặc trao cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc Đỉnh cho.

Giáp tý, năm thứ 11 [1624] Trịnh Tráng nhà Lê sai Công bộ thượng thư Nguyễn Duy Thì và nội giám Phạm Văn Tri đến đòi thuế đất. Chúa triệu hai người ấy bảo rằng : "Hai xứ Thuận Quảng liền mấy năm không được mùa, dân gian túng đói, vì thế không nỡ thu thuế. Khi khác được mùa sẽ chở nộp cũng chưa muộn". Sứ Trịnh không nói sao được, bèn từ biệt về.

ất sửu, năm thứ 12 [1625], mùa đông, Đào Duy Từ đến theo. Duy Từ người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, Thanh Hoa, thông suốt kinh sử, rất giỏi thiên văn thuật số. Năm ấy có khoa thi hương ở Thanh Hoa, Hiến ty cho Duy Từ là con phường chèo, tước bỏ không cho vào thi. Duy Từ buồn bực quay về. Nghe tiếng chúa yêu dân quý học trò, hào kiệt đều quy phục, quyết chí đi theo, bèn một mình vào Nam. ở huyện Vũ Xương hơn một tháng, không ai biết cả. Nghe tin khám lý Hoài Nhân Trần Đức Hòa là người có mưu trí, được chúa tin dùng, bèn vào Hoài Nhân, thác làm người ở chăn trâu cho phú ông ở xã Tùng Châu. Phú ông thấy người biết rộng nghe nhiều, nói với Đức Hòa. Đức Hòa nói chuyện với, thấy không điều gì là không thông suốt, rất quý trọng, đem con gái gả cho. Duy Từ từng ngâm bài Ngọa Long cương để ví mình [với Khổng Minh]. Đức Hòa thấy thế nói rằng : "Đào Duy Từ là Ngọa Long đời nay chăng".

Bính dần, năm thứ 14 [1626], mùa xuân, tháng 3, dời dinh đến xã Phước Yên (thuộc huyện Quảng Điền), gọi nơi chúa ngự là phủ.

Gia cho Chưởng cơ Tôn Thất Khê (con thứ 10 của Thái tổ) làm Tổng trấn Tường quận công. Bấy giờ chúa tuổi đã cao, việc quân quốc phần nhiều sai Khê quyết định, duy có án nặng tử tù, sau khi Phước xét, thì đợi chúa quyết định.

Mùa hạ, tháng 6, triệu Nguyễn Hữu Dật lại cho vào làm văn chức. Hữu Dật từ khi bị khiển trách, về nhà cố gắng sửa mình, đến đây được vào tham dự việc cơ mật, thông suốt chính thể, chúa càng yêu trọng.

Mùa thu, tháng 8, Trịnh Tráng sai Thái bảo Nguyễn Khải và Thiếu bảo Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đóng đồn ở xã Hà Trung (thuộc huyện Kỳ Anh) làm kế xâm lấn miền Nam.

Mùa đông, tháng 10, Trịnh Tráng sai Binh khoa cấp sự trung Nguyễn Hữu Bản vâng sắc dụ vua Lê đến đòi số thuế từ năm Giáp tý về sau và mời chúa đến Đông Đô. Chúa cười bảo sứ giả rằng : "Việc này là do ý riêng của họ Trịnh, chứ hoàng đế nhà Lê nhân từ, há lại quên dòng dõi công thần sao? Vả lại quân dân của cải hai xứ này so sánh với bốn trấn có là bao nhiêu, mà tham cầu như thế ! Nếu nghĩ đến công tổ tiên ta, nên cắt cả

Nghệ An cho ta nữa, huống chi là đất Thuận Quảng ?". Các tướng phần nhiều xin đánh. Nhưng chúa nói rằng : "Họ Trịnh đã quên ơn gây oán, mà ta lại lấy thân thích làm thù, e chẳng bõ để cười cho thiên hạ." Chúa quay bảo sứ giả rằng : "Các ông vì tôi nói với Trịnh Vương đừng để ý những điều hiềm nhỏ". Rồi hậu đãi sứ giả mà bảo về.

Đinh mão, năm thứ 14 [1627], mùa xuân, tháng giêng, Trịnh Tráng muốn cử quân xâm lấn miền Nam, nhưng sợ không có cớ, bèn sai Lê Đại Nhậm phụng sắc vua Lê sang dụ cho con vào chầu và đòi nộp 30 thớt voi đực, 30 chiếc thuyền đi biển để dùng vào lệ cống triều Minh. Chúa cười nói rằng : "Lệ ta sang cống triều Minh chỉ có vàng và kỳ nam thôi. Nay họ Trịnh đòi thêm ngoại ngạch, ta không dám theo mệnh. Còn con ta thì đương sắm quân khí để sửa việc biên phòng, xin vài năm nữa ra chầu cũng chưa muộn." Sứ giả tỏ ý của vợ chúa Trịnh muốn xin các con của Hiệp và Trạch. Chúa không cho. Họ Trịnh bèn phát quân.

Tháng 3, Trịnh Tráng dẫn vua Lê đi, mượn tiếng xem xét địa phương, cho quân thủy bộ đều tiến. Tướng Trịnh là Nguyễn Khải bày dinh ở bắc sông Nhật Lệ.

Chúa sai Tôn Thất Vệ làm tiết chế, văn chức Nguyễn Hữu Dật làm giám chiến, lĩnh quân bộ ra chống cự. Lại sai hoàng tử thứ tư là Trung chỉ huy quân thủy để tiếp ứng. Quân hai bên đối lũy nhau. Tiên phong của Trịnh là Lê Khuê đem kỵ quân ra cướp trận. Quân ta bắn đại bác, quân Trịnh sợ lui. Đêm ấy quân thủy ta lại thừa cơ nước triều lên bắn vào dinh Nguyễn Khải, quân Trịnh sợ, rối loạn. Trịnh Tráng tiến đến, thế binh rất mạnh. Quân ta đánh không lợi. Quân Trịnh thừa thắng tranh cướp của cải. Quân ta đem tượng binh thúc đánh chặn ngang, làm cho quân Trịnh tan vỡ, chết rất nhiều. Hữu Dật lại bàn mưu với Trương Phước Da (bấy giờ gọi là Lương quận công) sai gián điệp phao đồn rằng anh em Trịnh Gia, Trịnh Nhạc mưu nổi loạn. Tráng nghe tin lấy làm ngờ, bèn rút quân về.

Trần Đức Hòa nghe tin thắng trận, từ Hoài Nhân đến mừng.

Chúa hỏi tình hình trăm họ ở Quảng Nam sướng khổ thế nào. Hòa thưa rằng : "Chúa thượng rộng ra ân huệ, hiệu lệnh nghiêm minh, trăm họ ai chẳng an cư lạc nghiệp". Chúa vui mừng. Đức Hòa ung dung lấy bài Ngọa Long cương ngâm từ trong tay áo ra tiến, nói rằng: "Bài này do thày dạy học ở nhà tôi là Đào Duy Từ làm". Chúa xem thấy lạ, giục sai đi vời đến gặp. Sau mấy ngày thì Đức Hòa cùng Duy Từ đến ra mắt. Lúc ấy chúa mặc áo trắng đứng ở cửa nách chờ. Duy Từ nhìn thấy, đứng lại không đi. Chúa tức thì áo mũ chỉnh tề, ra vời vào. Duy Từ rảo bước vào lạy. Cùng nói chuyện. Chúa rất vui lòng nói : "Khanh sao đến muộn thế ?" Tức thì trao cho chức Nha úy nội tán, tước Lộc khê hầu, trông coi việc quân cơ trong ngoài và tham lý quốc chính. Chúa từng vời vào trong bàn bạc. Duy Từ bày tỏ hết những điều uẩn súc trong lòng, điều gì biết đều nói cả. Chúa cho Đức Hòa là biết người, bèn trọng thưởng cho.

Mậu thìn, năm thứ 15 [1628] (Lê ? Vĩnh Tộ năm 10, Minh ? Sùng Trinh năm 1), mùa thu, tháng 9, chính phi họ Trịnh là Ngọc Tú làm chùa Long Ân (năm Minh Mạng thứ 2 đổi làm chùa Sùng Ân; năm Thiệu Trị thứ 1 đổi làm chùa Hoằng Ân) ở phường Quảng Bá (thuộc phủ Hoài Đức), thuật lại công đức của Triệu Tổ và Thái Tổ ta, dựng bia để ghi.

Mộ thêm những người khỏe mạnh sung làm thân binh. Bấy giờ cầm quân từ chức chưởng dinh, chưởng cơ cho đến cai đội thì chuyên dùng người tôn thất và người Thanh Hoa, mà con cháu những người ấy lớn tuổi thì sung làm cai đội tòng quân ở các dinh. Đến đây chúa cho mộ thêm người có sức mạnh và am hiểu võ nghệ ở hai xứ Thuận Quảng bổ làm thân binh ở các cơ đội, người có công cũng được lục dụng.

Kỷ tỵ, năm thứ 16 [1629] (Lê ? Đức Long năm 1, Minh ? Sùng Trinh năm 2), mùa hạ, tháng 4, vua Lê đổi niên hiệu là Đức Long.

Mùa đông, tháng 10, Trịnh Tráng lại bàn đem đại binh xâm lược miền Nam. Bầy tôi là Nguyễn Danh Thế nói rằng : "Nay phương Nam vua tôi hòa thuận, nước giầu binh mạnh, mà ta thì hằng năm đói kém, quân nhu không đủ. Không bằng sai sứ vào tiến phong cho tước quốc công, ủy cho trấn thủ hai xứ, lại khiến đem quân ra đánh Cao Bằng. Nếu vâng mệnh mà đến thì ta lấy rất dễ. Nếu không nghe mệnh thì ta đem quân đánh là có danh nghĩa". Tráng theo lời, sai Lại bộ thượng thư Nguyễn Khắc Minh đem sắc tiến phong chúa làm Tiết chế Thuận Hóa Quảng Nam nhị xứ thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Thái phó quốc công, và giục đến Đông Đô để đi đánh Cao Bằng. Sứ giả đến. Chúa triệu quần thần họp bàn. Có người nói : Sắc mệnh của vua Lê không thể không nhận. Có người nói : Nhà nước ta có riêng bờ cõi, đời đời truyền nối, há còn đợi ai phong nữa. Đào Duy Từ thưa rằng : "Đây là họ Trịnh mượn sắc mệnh vua Lê để nhử ta, nếu ta nhận sắc mệnh mà không đến thì họ có cớ nói được, nếu ta không nhận sắc mệnh thì họ tất động binh. Việc hiềm khích ngoài biên đã gây thì không phải là Phước cho sinh dân. Huống chi thành quách ta chưa bền vững, quân sĩ chưa luyện tập, địch đến thì lấy gì mà chống ? Chi bằng hãy tạm nhận cho họ không ngờ để ta chuyên việc phòng thủ, rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì được ta nữa".

Chúa khen phải, rồi hậu đãi sứ Trịnh và bảo về.

Văn Phong ở Phú Yên dùng quân Chiêm Thành để làm phản.

Phó tướng Nguyễn Phước Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống, lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn Biên. (Khi mới mở mang, những nơi đầu địa giới đều gọi là Trấn Biên). Vì có công ấy, đặc biệt cho dùng ấn son.

Canh ngọ, năm thứ 17 [1630], mùa xuân, tháng 3, đắp lũy Trường Dục (thuộc huyện Phong Lộc, Quảng Bình). Đầu là Đào Duy Từ từng khuyên chúa đừng nộp thuế cho họ Trịnh. Chúa nói : "Tiên vương tài trí hơn đời cũng còn phải đi lại thông hiếu. Ta nay nhỏ mọn không bằng tiên vương, đất đai binh giáp lại không bằng một phần mười của Đông Đô, nếu không nộp thuế cống thì lấy gì mà giữ đất đai để nối nghiệp trước?". Duy Từ thưa rằng : "Thần nghe nói dẫu có trí tuệ, không bằng nhân thời thế. Cứ uy vũ anh hùng, mưu kế sáng suốt của tiên vương, không phải là không giữ được đất đai. Song thời bấy giờ những thuộc tướng ở ba ty đều tự họ Trịnh cất đặt. (Thời Thế tông nhà Lê, Mai Cầu làm tổng binh Thuận Hóa, thời Kính tông nhà Lê, Vũ Chân làm Hiến sát Thuận Hóa), phàm cử động việc gì cũng bị bọn họ kiềm chế, nên tiên vương phải nhẫn nại như thế. Nay chúa thượng chuyên chế một phương, quan liêu đều tự quyền cất đặt, một lời nói ra ai còn dám trái. Thần xin hiến một kế, theo kế ấy thì không phải nộp thuế, mà giữ được đất đai và có thể dựng nên nghiệp lớn". Chúa hỏi kế gì. Duy Từ thưa rằng : "Muốn mưu đồ sự nghiệp vương bá, cần phải có kế vạn toàn. Người xưa nói : Không một lần khó nhọc, thì không được nghỉ lâu dài, không phí tổn tạm thời thì không được yên ổn mãi mãi. Thần xin hiến bản vẽ, đem quân dân hai trấn đắp một cái lũy dài, trên từ chân núi Trường Dục, dưới đến bãi cát Hạc Hải, nhân thế đất mà đặt chỗ hiểm để vững biên phòng. Quân địch có đến cũng không làm gì được". Chúa theo kế ấy, bèn huy động đông quân dân đắp lũy Trường Dục, hơn một tháng thì xong.

Chúa lại hỏi Duy Từ về kế trả lại sắc. Duy Từ thưa rằng : "Nên đúc một cái mâm đồng hai đáy, giấu sắc vào trong, ngoài sắm đủ vàng bạc lễ vật, lấy tướng thần lại là Văn Khuông (không rõ họ) làm sứ đi tạ ơn. Thần xin nghĩ hơn mười câu vấn đáp để trao cho mang đi, tùy cơ ứng đối. Đem [mâm ấy] tiến cho chúa Trịnh, rồi thừa cơ mà ra về. Làm thế thì họ Trịnh mắc kế ta vậy".

Chúa theo lời, sai Văn Khuông vâng mệnh đi Đông Đô. Văn Khuông đến. Trịnh Tráng vời vào yết kiến, hỏi : "Trước đây, việc đòi nộp lễ cống nhà Minh, Nam chúa lâu không nộp là tại sao?". Văn Khuông nói : "Voi và thuyền, không phải là lệ cống nhà Minh, sợ người truyền lệnh nói không đúng cho nên không dám vâng mệnh". Hỏi : "Sao không cho con đến làm con tin?" Trả lời : "Nam Bắc nghĩa như một nhà, đã thành tín với nhau thì dùng con tin làm gì?". Hỏi : "Hoàng đế vời Nam chúa đi đánh Cao Bằng, cớ sao không đến?". Trả lời : "Giặc Cao Bằng là giặc khốn cùng, sức quân Trung Đô cũng thừa đánh. Chúa tôi vâng mệnh giữ hai xứ Thuận Quảng, phía Nam thì chống Chiêm Thành, phía bắc thì phòng giặc Mạc, chỉ sợ không giữ yên bờ cõi cho nên không dám đi xa". Hỏi : "Đắp lũy Trường Dục

ý muốn chống mệnh vua hay sao?" Trả lời : "Chịu mệnh giữ đất, cần phải phòng bị bờ cõi cho bền, sao gọi là chống mệnh được?" Hỏi : "Tướng tá ở phương Nam thế nào?" Trả lời : "Tài kiêm văn võ như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật thì chẳng kém vài chục người". Hỏi : "Người ta nói Nam chúa là bậc anh hùng hào kiệt, sao không nghĩ đến đánh giặc lập công ?" Trả lời : "Chúa tôi không mê tửu sắc, không thích đàn hát, chỉ muốn đem ân huệ vỗ về dân chúng, uy tín cảm phục người xa. ở phương Đông thì Mã Cao Lạc Già(1. Tức Ma Cao và Malăcca1) (đều là thuộc quốc của Tây Phương), ở phương Tây thì Vạn Tượng Ai Lao, không đâu là sợ phục. Nếu có những bọn Vương Mãng, Tào Tháo tiếm lạm danh nghĩa, giết hại sinh dân thì [chúa tôi] vì nghĩa mà đi đánh, xây dựng công nghiệp, không việc gì lớn hơn thế nữa". Tráng lặng yên. Quay bảo bầy tôi rằng : "Sứ Nam ứng đối như nước chảy, người Bắc không thể kịp được". Rồi tiếp đãi rất hậu.

Văn Khuông bưng mâm đồng đầy vàng bạc dâng. Tráng nhân. Văn Khuông ngay hôm ấy lẻn ra cửu đô thành, đi đường biển vượt trở về. Người Trịnh thấy cái mâm đồng hai đáy lấy làm lạ, tách ra xem thì ở trong thấy một đạo sắc và một tờ thiếp viết : "Mâu nhi vô dịch, mịch phi kiến tích. ái lạc tâm trường, lực lai tương địch" đem trình Tráng. Tráng hỏi bầy tôi, đều không ai hiểu được. Thiếu úy Phùng Khắc Khoan nói rằng : "Đó là ẩn ngữ [dư bất thụ sắc] ta chẳng nhận sắc"(2. Chữ mâu không phải nách, là chữ dư (ta)

Chữ mịch không có chữ kiến, là chữ bất (chẳng)

Chữ ái rơi mất chữ tâm thành chữ thụ (chịu)

Chữ lực chữ lai ghép lại, thành chữ sắc (sắc)

Góp lại thành câu "ta chẳng nhận sắc"2)

Tráng giận lắm, sai người đuổi bắt Văn Khuông, nhưng không kịp. tức thì muốn kéo quân vào đánh miền Nam, nhưng khi ấy ở Cao Bằng và Hải Dương đều có tin báo cấp nên thôi.

Văn Khuông về, chúa mừng, nói rằng : "Duy Từ thật là Tử Phòng(3. Tử Phòng là Trương Lương, mưu thần của Hán Cao tổ.3) và Khổng Minh(4. Khổng Minh là Gia Cát Lượng, quân sư của Lưu Bị thời Tam quốc4) ngày nay". Rồi trọng thưởng. Thăng Văn Khuông làm Cai hợp.

Mùa thu, tháng 9, bắt đầu lấy châu Nam Bố Chính (tức là huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình ngày nay). Bấy giờ tướng Trịnh là Nguyễn Khắc Kham (bấy giờ gọi là quận công) giữ châu Bắc Bố Chính. Đào Duy Từ khuyên chúa nên đánh lấy đất của Tịch trước, giữ sông Gianh cho vững cõi Nam. Chúa theo lời, bèn sai Nguyễn Đình Hùng (cháu Nguyễn Ư Dĩ, bấy giờ gọi là quận công) đem quân tập kích. Hai bên chống nhau. Đình Hùng ra sức đánh hăng, chém Tịch ở trận, rồi chiếm giữ đất, lập làm dinh Bố Chính (bấy giờ gọi là dinh Ngói), biên dân làm binh, đặt 24 đội thuyền, mà lấy Trương Phước Phấn (có tên nữa là Côn, con Trương Phước Da, bấy giờ gọi là Phấn quận công) để trấn giữ.

Mùa đông, tháng 11, ngày Giáp thân, nguyên phi [vợ cả chúa] là Nguyễn Thị Băng (con gái cả Mạc Kính Điển, trước kia Kính Điển bại vong, theo chú là Cảnh Huống ẩn ở chùa Lam Sơn, được tiến vào hầu tiềm để(1. Chỗ vua chúa ở khi chưa lên ngôi.1), được cho là họ Nguyễn), thọ 53 tuổi, tặng hiệu là Doanh Cơ, thụy là Nhã Tiết, an táng ở xã Chiêm Sơn (thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, tức là lăng Vĩnh Diễn).

Tân mùi, năm thứ 18 [1631], mùa hạ, tháng 6, hoàng tử cả là Hữu phủ chưởng phủ sự Kỳ mất. Kỳ ở Quảng Nam, ân uy đều nổi tiếng. Khi mất dân sĩ đều thương tiếc, được gia tặng Thiếu bảo Khánh quận công và được táng theo lễ tước công.

Chúa sai hoàng tử thứ ba là Anh trấn thủ Quảng Nam, hoàng tử thứ tám là Tứ làm tham tướng. Chúa lo Anh là người kiêu ngạo, phóng túng, muốn chọn một người văn thần để trông coi. Văn chức Phạm (không rõ họ) xin đi, tức thì trao chức ký lục. Bấy giờ hoàng tử thứ hai là Nhân Lộc hầu (tức Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế) vốn cùng Phạm bái biệt nói rằng : "Phạm ở đây thì minh công cứ gối cao mà nằm yên". Từ đó Anh có làm gì hay không, Nhân Lộc hầu hết đều biết cả.

Mùa thu, tháng 8, lũy Nhật Lệ (tức là trường thành Quảng Bình ngày nay) đắp xong. Đầu là chúa sai Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật đi Quảng Bình xem xét hình thế sông núi. Bọn Duy Từ đến Quảng Bình xét biết hết những hình trạng cao thấp rộng hẹp. Khi về Duy Từ nói với chúa rằng : "Thần xem từ của biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu, phía ngoài có nước khe, bùn lầy sâu đọng, nhân đó dùng làm hào rãnh; trong thì đắp lũy Trường Dục". Chúa ngại khó. Duy Từ nhân cáo ốm, thác ý vào những bài ngâm vịnh để ví, lời rất khích thiết. Chúa liền làm cho. Duy Từ cùng với Hữu Dật trông coi công việc. Duy Từ đến, tính công họp dân để khởi công đắp không lũy dài. Lũy cao 1 trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim, trong đắp đất, làm năm bực, voi ngựa đi được, dựa núi men khe, dài hơn 3.000 trượng, mỗi trượng đặt một khẩu súng quá sơn, cách 3 hoặc 5 trượng lập một pháo đài, đặt một khẩu súng nòng lớn. Thuốc đạn chứa như núi. Mấy tháng đắp xong lũy, thành một nơi ngăn chặn chia hẳn hai miền Nam Bắc. Lại đặt xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ và Minh Linh(1. Nhật Lệ là cửa Đồng Hới, Minh Linh là cửa Tùng 1).

Chúa cùng Đào Duy Từ ngày đêm mưu tính chống họ Trịnh. Duy Từ mong được người anh tài tiến dẫn giúp chúa. Một hôm Duy Từ nằm mộng thấy một con hùm đen từ phương Nam vào, liền thúc quân vây bắt, bỗng hùm mọc đôi cánh, nhảy lên không bay múa. Tỉnh dậy, Duy Từ ăn mặc chỉnh tề, ngồi chờ. Chợt có người ở xã Vân Trai huyện Ngọc Sơn xứ Thanh Hoa là Nguyễn Hữu Tiến (biểu danh là Thuận Nghĩa) từ ngoài đến, mặc áo đen, cầm quạt lông, bái yết dưới thềm. Duy Từ thấy dáng vẻ không phải người thường, hỏi thì xưng họ tên. Hỏi tuổi thì nói sinh năm Nhâm dần. Duy Từ nghe mừng thầm, cho là ám hợp với mộng, bèn giữ lại cùng bàn bạc. Hữu Tiến thông minh, khỏe mạnh, mưu lược, Duy Từ quý trọng lắm, đem con gái gả cho, rồi tiến lên, chúa cho làm đội trưởng, coi thuyền Địch cần quân Nội thủy. Hữu Tiến thường ban đêm diễn tập quân lính. Trong quân có kẻ trái luật, lập tức chém người Kỳ trưởng(2. Người cầm cờ trong đội2) để thế mệnh, cả quân đều sợ. Duy Từ nghe thấy kinh ngạc, vội vào hầu. Bấy giờ chúa đương ngồi xem Chiến quốc sách. Nhân cùng bàn đến binh pháp xưa nay, Duy Từ ung dung nói đến chuyện Tôn Võ tử dậy chiến sự ở cung vua Ngô mà chém vợ yêu của vua. Chúa rất khen vua Ngô là người quyết đoán, Tôn Võ tử là người nghiêm, cho nên mới dựng nên nghiệp bá. Duy Từ nhân đấy đem việc Hữu Tiến chém người Kỳ trưởng để xin tội. Chúa nói rằng : "Binh không đều thì giết có tội gì ?". Rồi dần thăng Hữu Tiến làm cai đội. Từ đó sĩ tốt ai cũng sợ phục.

Đặt ty Nội pháo tượng(3. Nội pháo tượng : thợ đúc súng ở trong nội3) và hai đội Tả Hữu pháo tượng. Lấy dân hai xã Phan Xá, Hoàng Giang (thuộc huyện Phong Lộc) lành nghề đúc súng sung bổ vào (ty Nội pháo tượng 1 thủ hợp, 1 ty quan, 38 người thợ; hai đội Tả Hữu pháo tượng thì 12 ty quan, 48 người thợ. Việc đúc đại bác, mỗi khẩu dùng 12 khối sắt, 10 cân gang, tiền than 3 quan 5 tiền. Đúc súng tay thì cứ 10 cây dùng 30 khối sắt, 30 cân gang, 10 quan tiền than).

Nhâm thân, năm thứ 19 [1632], mùa hạ, tháng 6, có lệnh mua hết các sản vật hồ tiêu, kỳ nam, yến sào, cho triệu Đào Duy Từ vào định giá.

Duy Từ có ý muốn can, mặc áo người buôn tiến vào, chúa hiểu ý, bèn bãi lệnh mua.

Bắt đầu thi hành phép duyệt tuyển [duyệt dân tuyển lính], theo lời

Đào Duy Từ xin. Phép ấy lược theo quy lệ đời Hồng Đức triều Lê : 6 năm một lần tuyển lớn, 3 năm một lần tuyển nhỏ. Đến kỳ tuyển thì tháng giêng sai quan khiến các tổng xã làm sổ hộ tịch, chia làm chính hộ và khách hộ, mỗi loại chia các hạng tráng, quân, dân, lão, tật, cố, cùng, đào(1. Tật : người tàn tật; cố : người làm thuê; cùng : người nghèo khốn; đào : người bỏ trốn.1), cứ đến tháng 6 thì duyệt tuyển. Ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang đặt một trường, ba huyện Vũ Xương, Hải Lăng, Minh Linh đặt một trường, hai huyện Khang Lộc, Lệ Thủy và châu Nam Bố Chính đều mỗi nơi một trường. năm phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Hoài Nhân, Phú Yên, mỗi phủ một trường. Trong một tháng tuyển xong, chiếu từng hạng định lệ thu thuế theo ngạch bực khác nhau.

(Phép thuế thì có tiền sai dư(2. Tiền sai dư : Đã chú thích ở trên. 2) : ở Thuận Hóa, về chính hộ người tráng hạng nộp 2 quan, quân hạng 1 quan 5 tiền, dân hạng 8 tiền, lão hạng 1 quan, tật hạng, cố hạng đều 5 tiền, cùng hạng 3 tiền, đào hạng 2 tiền. Về khách hộ thì tráng hạng 1 quan, quân hạng 7 tiền, dân hạng, lão hạng đều 5 tiền, các hạng cố, cùng, đào, tật đều được miễn. ở Quảng Nam, chính hộ thì tráng hạng 2 quan, quân hạng 1 quan 7 tiền, dân hạng 8 tiền, lão hạng 9 tiền; cố hạng lại chia làm 3 hạng : hạng nhất 1 quan 5 tiền, hạng nhì 1 quan, hạng ba 7 tiền; tật hạng 6 tiền, cùng hạng 3 tiền, đào hạng 2 tiền. Về khách hộ thì tráng hạng 1 quan 2 tiền, quân hạng 1 quan, dân hạng, lão hạng đều 6 tiền, tật hạng 4 tiền, các hạng cùng, đào được miễn. Lại có tiền thường tân [cơm mới], tiền tiết liệu [lễ tết], tiền thay cước mễ [gạo cước], tùy hạng mà thu, nhiều ít không giống nhau, duy hai hạng cùng, đào ở trong chính hộ và các hạng trong khách hộ thì đều được miễn. Tóm lại thuế chính hộ thì nặng, thuế khách hộ thì nhẹ. Đó là đại lược vậy).

Số binh đinh có khuyết thì chiếu trong quân hạng mà tuyển bổ. Mỗi khi đến kỳ tuyển lớn thì có lệnh cho học trò các huyện đều đến trấn dinh để khảo thí một ngày. Phép thi dùng một bài thơ, một đạo văn sách, hạn trong một ngày làm xong, lấy tri phủ tri huyện làm sơ khảo, ký lục làm Phước khảo. Người thi trúng thì cho làm nhiêu học, miễn thuế sai dư năm năm. Kỳ ấy gọi là "thi quận vào mùa xuân". Lại thi viết chữ Hoa văn [Hoa văn tự thể](3. Hoa văn : chữ Trung Hoa, tức chữ Hán 3), người nào trúng thì được bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử, Tướng thần lại. Ba ty có khuyết thì người quyên tiền nộp thóc cũng được sung bổ.

Lấy Tôn Thất Tuấn (con Tôn Thất Diễn) làm trấn thủ dinh Quảng Bình.

Mùa đông, tháng 10, Tống Phước Thông (bấy giờ làm cai cơ) trốn về với họ Trịnh. Đầu là con gái Phước Thông là Tống thị lấy hoàng tử cả là Kỳ, sinh được 3 con trai, Phước Thông mừng cho rằng sau này hẳn được vinh hiển. Kịp khi Kỳ mất, Phước Thông đại thất vọng, bèn dẫn gia quyến lẻn ra cửa Eo(1. Chữ Hán là đọc là Noãn hải khẩu hay cửa Noãn. nhưng xét cửa biển này tục gọi là cửa Eo, mà Phủ biên tạp lục có chỗ chép là Yêu môn , nên chúng tôi đoán rằng chữ có lẽ là do chữ (đọc là eo), in lầm thành.1) (nay là cửa biển Thuận An) trốn đi, duy có Tông thị ở lại.

Quý dậu, năm thứ 20 [1633], mùa xuân, tháng 3, Trịnh Tráng sai Trịnh Tạc là trấn thủ Nghệ An đem thủy quân đóng đồn ở của biển Kỳ La (thuộc huyện Kỳ Anh), Trịnh Lệ đem bộ binh đóng đồn ở châu Bắc Bố Chính.

Mùa thu, tháng 8, triệu trấn thủ Quảng Bình là Tôn Thất Tuấn về, cho Nguyễn Phước Kiều thay. Tuấn ở Quảng Bình, hiệu lệnh nghiêm minh, quan dân yên ổn. Bấy giờ Anh ở Quảng Nam ngầm có chí khác, muốn ra trấn Quảng Bình để tiện được thông với họ Trịnh, bèn mật sai người ra bàn mưu với văn chức Quảng Bình là Lý Minh (không rõ họ). Lý Minh tập hợp những bọn bất mãn ở trong hạt mình cai quản, kiện vu cho Tuấn là lấn xét hà khắc trăm họ, xin đổi Tuấn đi nơi khác để Anh ra thay. Chúa lúc đầu tin lời, bãi Tuấn mà vời Anh. Nhưng Anh đi săn xa hơn một tuần không về. Chúa giận lắm, bèn cho Kiều thay, Kiều đến trấn, yêu thương quân dân, người đều tin phục. Do đấy Anh thất vọng, lại sai người hỏi kế Lý Minh. Lý Minh mật thư báo rằng : "Nguyễn Phước Kiều mới lại, dân đương ái mộ, huống chi lại là họ ngoại [con rể] của chúa, thế khó lung lay. Nhưng là người nhút nhát nếu được quân Bắc đến bức thì hắn hẳn chạy trước, khi ấy mà mưu thì việc gì cũng được". Anh mừng, tức thì viết thư sai người đem đi xin quy thuận với họ Trịnh.

Mùa đông, tháng 12, Trịnh Tráng dẫn vua Lê đi, tự thống lĩnh đại quân thủy bộ thẳng tới cửa biển Nhật Lệ.

Chúa sai đại tướng Nguyễn Mỹ Thắng và đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đem quân chống cự. Trấn thủ Nguyễn Phước Kiều xin đóng cọc gỗ để chặn của biển. Nguyễn Hữu Dật xin đắp lũy Trường Sa để bảo vệ lũy chính. Chúa đều theo cả. Quân Trịnh bắn súng làm hiệu. Không thấy Anh đến tiếp ứng. Tráng ngờ, lui quân xa lũy để chờ. Hơn một tuần, quân Trịnh chán nản, quân ta xông ra đánh mạnh. Quân Trịnh vỡ chạy, chết quá nửa. Tráng bèn lấy Nguyễn Khắc Liệt (con Nguyễn Khắc Kham) cho giữ châu Bắc Bố chính rồi rút quân về.

Giáp tuất, năm thứ 21 [1634], mùa đông, tháng 10, nội tán Đào Duy Từ bệnh nặng, chúa thân tới thăm. Duy Từ khóc và nói rằng : "Thần gặp được thánh minh, chưa báo đền được chút đỉnh, nay bệnh ốm đến thế này, còn nói gì nữa", rồi chết, năm ấy 63 tuổi. Chúa thương tiếc không nguôi, tặng là Hiệp mưu đồng đức công thần đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, đưa về táng ở Tùng Châu. (Cha là Đào Tá Hán, mẹ là Nguyễn thị, sau đều được phong tặng). Duy Từ có tài lược văn võ, phàm đã mưu tính trù hoạch gì, hễ làm thì trúng thời cơ, giúp việc nước có 8 năm mà công nghiệp rỡ ràng, đứng hàng đầu công thần khai quốc. (Năm Gia Long thứ 5, cho tòng tự tại Thái miếu; năm Minh Mệnh thứ 12, được phong tước Hoằng quốc công. Tập sách Hổ trướng khu cơ do ông làm còn lưu truyền ở đời).

Tướng Trịnh là Nguyễn Khắc Liệt mật khiến người tâm Phước đến đưa tin hẹn phản họ Trịnh để theo về. Chúa nhận lời, hẹn Khắc Liệt đến họp. Khắc Liệt thân đến kết ước. Trở về rồi, bèn đắp thêm đồn Phật Cương, và chia quân đóng giữ Hoành Sơn. Trịnh Tráng nghe biết lo rằng đánh ngay thì sinh biến, nên hãy để yên. Khắc Liệt tự lấy làm đắc chí, ngày càng thêm kiêu ngạo càn rỡ. Vì thế chúa không tin nữa.

ất hợi, năm thứ 22 [1635] (Lê ??Dương Hòa năm 1, Minh ? Sùng Trinh năm 8), mùa đông, tháng 10, vua Lê đổi niên hiệu là Dương Hòa.

Tôn Thất Hắc mất ở Đông Đô, vua Lê tặng chức Thái tể.

Ngày Đinh hợi, chúa không khỏe, triệu thế tử Nhân Lộc hầu và

Tôn Thất Khê vào chầu, bảo Khê rằng : "Ta vâng nối nghiệp trước, chí ta cốt trên giúp nhà vua, dưới cứu sinh dân. Nay Thế tử chưa lịch duyệt, mọi việc lớn quân quốc ta ủy hết cho hiền đệ quyết định". Khê cúi đầu khóc nói: "Thần dám đâu không đem hết sức ngựa hèn để lo báo đáp". Chúa lại nói : "Khắc Liệt là tiểu nhân phản bội, trước kia ta cùng nó ước hẹn, cũng là kế chiêu nạp tạm thời. Các ngươi chớ nên quá tin nó mà lo về sau". Thế tử và Khê lạy khóc vâng mệnh. Hôm ấy chúa băng, ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi.

Thế tử nối ngôi, đem quần thần dâng thụy hiệu là Đại đô thống trấn nam phương tổng quốc chính Dực Thiện Tuy Du Thụy Dương vương. Trước táng ở núi Quảng Điền, sau cải táng ở núi Hải Cát (tên phường thuộc huyện Hương Trà). Thế tông Hiếu vũ hoàng đế truy tôn là Tuyên tổ Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu văn vương [và truy tôn] phi là Huy Cung Từ Thuận phi. Năm Gia Long thứ 5 truy tôn làm Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu văn hoàng đế, miếu hiệu là Hy tông, lăng gọi là Trường Diễn, [truy tôn] phi làm Huy Cung Từ Thận Ôn Thục Thuận Trang Hiếu văn hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Diễn.

Tiền biên

Quyển III

Tiền biên - Quyển III

Thực lục về Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế

Thần tông Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu chiêu hoàng đế, húy là [Phước Lan], sinh năm Tân sửu [1601]

(Lê - Hoằng Định năm 2, Minh ? Vạn Lịch năm 29), là con thứ hai của Hy tông Hiếu văn hoàng đế. Mẹ là Hiếu văn hoàng hậu Nguyễn thị. Đầu được phong Phó tướng Nhân Lộc hầu. Mùa hạ năm Tân mùi, hoàng tử cả là Kỳ mất, chúa được lập làm Thế tử, mở dinh Thuận Nghĩa. Năm ất hợi, mùa đông, tháng 10, ngày Đinh hợi, Hy tông Hiếu văn hoàng đế băng hà. Bấy giờ chúa 35 tuổi. Các quan vâng lời di mệnh tôn làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm tổng bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Nhân quận công. Bấy giờ gọi là Chúa Thượng. Chúa đã nắm chính quyền, lấy ơn huệ vỗ về dân chúng. Bấy giờ mưa nắng thuận hòa, nước giàu dân thịnh, có cảnh tượng thái bình rực rỡ.

Trấn thủ Quảng Nam là Anh làm phản bị giết. Đầu là Hy Tông sai Anh làm trấn thủ Quảng Nam. Anh đến trấn, ngầm mang chí khác, muốn cướp ngôi thế tử, nuôi riêng dũng sĩ vài trăm người, bí mật ghi họ tên vào sổ "đồng tâm hướng thuận". Từng viết mật thư đầu hàng họ Trịnh, nhưng công việc không thành. Đến đây nghe tin chúa lên ngôi, Anh tức thì phát binh làm phản, cùng Ký lục là Phạm mưu đắp lũy Cu Đê làm kế cố thủ và bày thủy quân ở cửa biển Đà Nẵng để chống lại quân chúa. Phạm lẻn về đem tình trạng làm phản ấy trình chúa. Chúa triệu Tôn Thất Khê vào, khóc mà bảo rằng: "Anh bất hiếu bất cung, tội không tha được. Nhưng tôi là con đương ở vào cảnh tang tóc đau thương, nay cầm dao mà đâm kẻ ruột thịt với mình, lòng tôi thực không nỡ. Vả vì một người mà làm lụy đến trăm họ, điều đó người nhân giả cũng lấy làm thương tâm. Vậy tôi muốn nhường ngôi để tắt sự tranh giành, chú nghĩ thế nào?" Khê thưa rằng: "Tội Anh tất phải giết, thần và người đều giận, lẽ nào nín náu để hại đến nghĩa lớn ư? Thần xin lấy nghĩa mà cắt đứt ơn riêng, để tỏ rõ phép nước". Chúa gạt nước mắt nghe theo. Rồi sai Bùi Hùng Lương, Tống Triều Phương lãnh thủy sư tiến đến vụng Trà Sơn; Tôn Thất Yên, Tống Văn Hùng lãnh bộ binh tiến đến lũy Cu Đê, hai đạo giáp đánh. Bấy giờ cai đội bộ binh là Dương Sơn (không rõ họ) cùng Tôn Thất Tuyên đem quân theo đường tắt, đánh thẳng vào Quảng Nam. Dương Sơn đến trước, xông vào dinh bắt được quyển sổ đồng tâm. Tuyên tiếp đến sau, phóng lửa đốt. Anh sợ chạy trốn về phía cửa biển Đại Chiêm(1. Tức Cửa Đại. 1). Tuyên đuổi theo bắt được, đóng gông giải về. Anh nằm rạp xuống sân kêu van. Chúa còn không nỡ giết. Khê và các tướng đều xin rằng: "Anh phản nghịch, tội rất lớn. Phải xử theo phép nước để răn bọn loạn tặc". Chúa bèn theo lời, sai Khê theo sổ đồng tâm mà bắt giết hết.

Chúa hậu thưởng cho Tôn Thất Tuyên. Ban yến để ủy lạo tướng sĩ, rồi thăng Bùi Hùng Lương làm Chưởng dinh trấn thủ Quảng Nam, Dương Sơn làm cai cơ, Phạm làm nội tán. Các người khác đều được thăng trật theo thứ bực khác nhau.

Chúa cho rằng Tôn Thất Khê có công lớn, thưởng cho một cỗ kiệu sơn then và một quả ấn đồng.

Tháng 12, dời công phủ sang xã Kim Long (thuộc huyện Hương Trà). Trước là Hy tông từ Dinh Cát dời sang Phước Yên, đất hơi chật hẹp, chúa cho rằng Kim Long là nơi núi sông đẹp tốt, bèn sai dựng cung thất, xây thành quách, đến bấy giờ mới dời sang đây.

Lấy Tống Hữu Đại làm trấn thủ Cựu dinh (tức là Dinh ái Tử).

Bính tý, năm thứ 1 [1636] (Lê ??Dương Hòa năm 2, Minh ? Sùng Trinh năm 9), mùa xuân, tháng giêng, sai sứ ra cáo phó với nhà Lê.

Tháng 2, vua Lê sai Lại khoa cấp sự trung là Nguyễn Quang Minh và Binh khoan cấp sự trung là Nguyễn Thật đem vàng bạc đến phúng. Bọn Quang Minh đến, sửa nghi lễ tế điếu đầy đủ, khi về, chúa tặng rất hậu.

Đinh sửu, năm thứ 2 [1637], mùa hè, Thuận Hóa đói to. Chúa sai mở kho để chẩn cấp.

Mậu dần, năm thứ 3 [1638], lấy các chức nội tả, ngoại tả, nội hữu, ngoại hữu làm tứ trụ đại thần.

Kỷ mão, năm thứ 4 [1639], mùa xuân, tháng 2, vợ lẽ cố Tôn Thất Kỳ là Tống thị vào yết kiến. Tống thị có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi [ngọc] bách hoa(1. Chuỗi ngọc nhiều sắc như trăm hoa.1) để dâng. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần có người can, nhưng chúa không nghe.

Cho Tham khám là Trần Văn Lễ một khoảnh tự điền(2. Một khoảnh là 100 mẫu.2) (ở xã Phú Kỳ, huyện Minh Linh), cho con là Trần Văn Đạo được ấm thụ làm Tri phủ.

Cấp cho Chưởng thái giám Nguyễn Đình Quý một phường dân ngụ lộc (phường Vạn Lộc, huyện Quảng Điền).

Canh thìn, năm thứ 5 [1640], mùa thu, tháng 8, quân ta lấy được châu Bắc Bố Chính, Trịnh Tráng triều Lê giết tướng là Nguyễn Khắc Liệt. Đầu là Khắc Liệt đi lại với ta, Hy tông nhân vỗ về. Đến khi chúa lên ngôi,

Khắc Liệt đem lòng nghi sợ, lại quấy rối châu Nam Bố Chính. Quan lại ở biên thùy đem việc ấy báo về, chúa giận lắm, hợp các tướng bàn,

Nguyễn Hữu Dật nói: "Khắc Liệt là kẻ tiểu nhân phản bội, Trịnh Tráng bề ngoài dù có tin dùng, nhưng bề trong vẫn ngờ ghét. Thần xin làm kế phản gián, phao thư cho họ Trịnh nói Khắc Liệt đã cùng ta giao ước là giả làm không hòa, khi quân ta đánh úp thì giả vờ thua chạy về dụ Tráng đến để giết. Làm như thế để khích thêm lòng giận của Tráng. Ta nhân cho quân ngầm vượt sông Gianh, đón Khắc Liệt đến họp, để nhắc lời ước cũ, thừa lúc không phòng bị mà đánh úp luôn, Khắc Liệt chẳng bị ta bắt cũng bị họ Trịnh giết". Chúa theo kế ấy. Trịnh Tráng được thư, quả nhiên giận lắm. Tức thì sai Thái úy Trịnh Kiều đem 5.000 quân vào Bắc Bố Chính bắt Khắc Liệt. Đến nơi thì Khắc Liệt đã bị tướng ta là Nguyễn Phước Kiều và Trương Phước Phấn đánh chạy rồi. Trịnh Kiều cho rằng Khắc Liệt giả đò thua, bắt giải về cho Trịnh Tráng giết. Quân ta bèn lấy được đất châu Bắc Bố Chính.

Chúa nghe tin cười mà nói rằng: "Họ Trịnh rơi vào mẹo của ta rồi". Liền thăng cho Hữu Dật làm giám chiến, khao các tướng sĩ, sai người đến Đông Đô để trình bày tội tham bạo của Khắc Liệt. Trịnh Tráng lại phục thư nói về tình nghĩa lâu đời, và xin trả lại đất Bắc Bố Chính. Chúa ra lệnh trả cho.

Bấy giờ chúa thấy biên cương không có việc đáng lo, thường chăm yến tiệc vui chơi, xây dựng cung thất công dịch không ngớt. Nội tán Phạm (bấy giờ gọi là Vân Hiên hầu) can rằng: "Thần nghe bực vương giả dùng người hiền làm cột, lấy đức tốt làm thành, ung dung rủ áo chắp tay(3. Truyền thuyết cho rằng những vua đời thượng cổ, ở cảnh thái bình, chỉ khoác áo chắp tay ra chầu, chứ không có việc gì phiền phức.3) mà yên vững như núi Thái. Xưa kia Nghiêu Thuấn dùng nhà cỏ tranh không xén, xà mộc không đẽo, mà chư hầu cảm nhận, bốn rợ mến đức, hà tất phải nhà cao cửa rộng mới yêu thích đâu? Nay họ Trịnh trên thì ép vua Lê, dưới thì hiếp công khanh, vốn có ý nhòm ngó ta. Chúa nên lo lắng siêng năng, xem xét thời cơ, mở mang bờ cõi, nếu không nghĩ điều ấy mà chỉ chăm việc thổ mộc, thì thần chưa biết như thế có nên không". Chúa nghe, đổi sắc mà nói: "Đấy đều là do người ta xu nịnh bày ra, thực không tự ý ta". Tức thì ra lệnh đình bãi các việc.

Tân tỵ, năm thứ 6 [1641], mùa hạ tháng 5, trời hạn, lúa khô héo, mỗi đấu gạo trị giá 60 đồng tiền, dân chết đói nhiều. Chúa trai giới khấn thầm, rồi được mưa, mùa lại được. Trăm họ đều yên nghiệp làm ăn.

Nhâm ngọ, năm thứ 7 [1642], mùa hạ, tháng 5, chúa thấy nước nhà phong phú, có chí đánh miền Bắc, từng kén chọn bộ binh, thao diễn trận pháp. Một hôm chúa ngự thuyền rồng đi chơi cửa Eo, thấy thủy quân không được chỉnh tề, bèn ra lệnh cho ba huyện Hương Trà, Quảng Điền,

Phú Vang làm trường thao diễn thủy quân ở xã Hoằng Phước (tức xã Hồng Phước, thuộc huyện Phú Vang bây giờ), đắp núi đất cao hơn 30 thước, rộng hơn 150 thước, cứ đến kỳ tháng 7 thì thao diễn phép bơi chèo và bắn súng, ai trúng thì thưởng vàng lụa. Từ đấy trở đi thủy quân đều tinh luyện.

Quý mùi, năm thứ 8 [1643] (Lê ? Phước Thái năm 1, Minh ? Sùng Trinh năm 16), mùa xuân, tháng 2, Trịnh Tráng nhà Lê sai Thái bảo Trịnh Tạc và Trịnh Đệ thống lãnh đại quân, Thị lang Nguyễn Quang Minh, Tự khanh Phạm Công Trứ và Nguyễn Danh Thọ làm tham tán quân vụ để xâm phạm châu Nam Bố Chính của ta. Thủ tướng Bùi Công Thắng cố sức đánh bị chết. Quân Trịnh bèn phạm vào cửa biển Nhật Lệ.

Tháng 3, Trịnh Tráng dẫn vua Lê đi, đến đóng quân ở xã An Bài (thuộc châu Bắc Bố Chính).

Mùa hạ, tháng 4, Trịnh Tráng sai Trịnh Đào đánh lũy Trung Hòa. Quân ta phòng thủ rất vững, Đào đánh không được. Bấy giờ trời nắng lắm, quân Trịnh nhiều người ốm chết.

Mùa đông, tháng 10, vua Lê nhường ngôi Thái tử Duy Hựu, đổi niên hiệu là Phước Thái, tức là Chân Tông. Tôn vua Lê làm Thái thượng hoàng.

Giáp thân, năm thứ 9 [1644] (Lê ? Phước Thái năm 2, Thanh ? Thế tổ Thuận Trị năm 1, Minh hậu ? Phước vương Hoằng Quang năm 1), mùa hạ, tháng 4, dựng miếu Hy Tông ở dinh cũ Phước Yên. Chúa thường đến xem.

Thế tử Dũng Lễ hầu (tức là Phước Tần, Thái tông Hiếu triết hoàng đế) đánh phá giặc Ô Lan(1. Ô Lan: Tức Hà Lan bây giờ.1) ở cửa Eo. Bấy giờ giặc Ô Lan đậu thuyền ngoài biển, cướp bóc lái buôn. Quân tuần biển báo tin. Chúa đương bàn kế đánh dẹp. Thế tử tức thì mật báo với Chưởng cơ Tôn Thất Trung (con thứ tư của Hy Tông), ước đưa thủy quân ra đánh, Trung lấy cớ chưa bẩm mệnh, ngần ngại chưa quyết. Thế tử đốc suất chiến thuyền của mình tiến thẳng ra, Trung bất đắc dĩ cũng đốc suất binh thuyền theo đi, đến cửa biển thì thuyền Thế tử đã ra ngoài khơi. Trung lấy cờ vẫy lại, nhưng Thế tử không quay lại. Trung bèn giục binh thuyền tiến theo. Chiếc thuyền trước sau lướt nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắn. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự đốt chết. Thế tử bèn thu quân về.

Chúa mới nghe tin Thế tử đi có một mình cả sợ, bèn tự đốc suất đại binh tiếp ứng, vừa tới cửa biển, xa trông khói đen bốc mù trời, kíp ra lệnh cho các quân tiến lên. Tới khi được tin thắng trận, chúa mừng lắm, kéo quân về hải đình để chờ. Thế tử đến bái yết. Chúa giận trách rằng: "Mày làm Thế tử, sao không thận trọng giữ mình?". Lại thiết trách Trung về tội không bẩm mệnh. Trung cúi đầu tạ tội giờ lâu, rồi nhân khen ngợi oai phong anh dũng của Thế tử không ai kịp được. Chúa cười nói rằng: "Trước kia tiên quân ta đã từng đánh phá giặc biển, nay con ta cũng lại như thế. Ta không lo gì nữa". Bèn trọng thưởng cho, rồi khiến xa giá về cung.

ất dậu, năm thứ 10 [1645] (Lê ? Phước Thái năm 3, Thanh ? Thuận Trị năm 2, Minh ? Hậu Đường vương Long Vũ năm 1), mùa đông, tháng 11, lấy Nguyễn Triều Văn làm tham tướng thủy dinh Quảng Bình (bấy giờ gọi là Dinh Trạm).

Bính tuất, năm thứ 11 [1646], mùa thu, tháng 7, tổng trấn Tôn Thất Khê mất. Khê là người họ thân của chúa, giúp việc chính trị trước sau 41 năm, trải quan ba triều, đức lớn công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời, khi mất 58 tuổi. Chúa thương tiếc lắm, tặng Tá lý tôn thần bình chương quân quốc đại sự Tường quận công, Thụy là Trung Nghị (năm Gia Long thứ 5 cho tòng tự ở Thái miếu; năm Minh Mệnh thứ 12 phong Nghĩa Hưng quận vương).

Định phép thi 9 năm một kỳ. Ra lệnh cho các học trò về khoa chính đồ(1. Chính đồ: Khoa thi lấy người thi đậu ra làm quan, tương tự như thi Hương thi Hội

ở Bắc.1) và khoa hoa văn(2. Hoa văn: Khoa thi lấy học trò viết chữ tốt ra làm lại. 2) đều đến công phủ để ứng thí.

Chính đồ thi 3 ngày, ngày thứ nhất thi tứ lục, ngày thứ hai thi thơ phú, ngày thứ ba thi văn sách. Lấy văn chức, tri phủ, tri huyện làm sơ khảo, cai bạ, ký lục, nha úy làm giám khảo, nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu làm giám thí. Người thi trúng thì làm danh sách để tiến lên, định làm 3 hạng giáp, ất, bính. Hạng giáp là giám sinh, bổ tri phủ tri huyện; hạng ất làm sinh đồ, bổ huấn đạo; hạng bính cũng làm sinh đồ, bổ lễ sinh hoặc cho làm nhiêu học mãn đại.

Hoa văn thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết một bài thơ. Người trúng cũng chia làm ba hạng, bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử và Tướng thần lại và cho làm nhiêu học.

Đó gọi là thu vi hội thí [thi hội mùa thu].

Đinh hợi, năm thứ 12 [1647] (Lê ? Phước Thái năm 5, Thanh ?

Thuận Trị năm 4, Minh hậu ? Vĩnh Minh vương Vĩnh Lịch năm 1), mùa thu, tháng 8, bắt đầu mở khoa thi, lấy được 7 người trúng cách về chính đồ, 24 người trúng cách về hoa văn, đều bổ dụng cả.

Được mùa to.

Mậu tý, năm thứ 13 [1648], mùa xuân, tháng giêng, quân họ Trịnh đến xâm lấn. Chúa sai Thế tử Dũng Lễ hầu đánh phá được. Trước là Tống thị đã được vào chầu cung phủ, đưa đón thỉnh thác, của cải chất đầy như núi. Chưởng cơ Tôn Thất Trung mưu giết đi. Tống thị sợ, nhân cha là

Phước Thông được Trịnh Tráng tin dùng, bèn viết mật thư và xâu một chuỗi ngọc bánh hoa bằng trân châu, sai người đem đưa cho Phước Thông để biếu họ Trịnh, lại xin Tráng cất quân, nguyện đem gia tài để giúp lương quân. Tráng nhận được thư mới bàn việc xâm lấn miền Nam. Đến đây sai đô đốc Trịnh Đào thống lãnh các đạo quân thủy bộ kéo vào xâm lấn.

Tháng 2, thủy binh của Trịnh xâm phạm cửa biển Nhật Lệ. Thủ tướng là Hoành Lễ (không rõ họ) cự chiến thua chạy, cầu viện với trấn thủ Nguyễn Phước Kiều. Kiều sai tham tướng Nguyễn Triều Văn đem chiến thuyền đến cứu viện. Triều Văn nhút nhát không tiến, đậu lại ở Hạc Hải. Quân Trịnh bèn tiến bức dinh Quảng Bình. Cai đội là Trương Triều Lương, Trương Triều Nghị đốc suất đồn binh hơn 400 người cố đánh bị chết. Ký lục là Thịnh Hội (không rõ họ) đánh không lợi, lẻn sang sông về. Quân Trịnh tiến đóng đồn ở xã Võ Xá. Trấn thủ Bố Chính là Trương Phước Phấn cùng với con là Hùng giữ lũy Trường Dục. Quân Trịnh đánh tợn mà không được, gọi là "Phấn cố trì".

Chúa nghe tin báo, sai Thế tử Dũng Lễ hầu tiết chế các dinh, sai Chưởng dinh Tôn Thất Lộc, Trấn thủ cựu dinh Tống Hữu Địa và Giám chiến Nguyễn Hữu Dật lãnh bộ binh, cùng Tham tướng Nguyễn Triều Văn lãnh thủy binh, chia đường đều tiến. Chúa thân đốc đại binh, bày trại ở xã Trung Chỉ (thuộc huyện Đăng Xương). Có một bà già đem tiến đậu đỏ dài. Chúa hỏi: "Quân ta đánh giặc có thể thắng không"? Bà già đáp: "Mười phần chắc thắng". Chúa mừng, hậu thưởng cho, nhân thế gọi tên trại ấy là trại Toàn Thắng. (Một thuyết nữa nói: Xã Lập Trạch có người đàn bà tên là Thị Thắng, thường hay dòm ngó tình hình quân Trịnh về báo cho quan quân. Nhân lúc chúng không phòng bị [quân ta] đánh, quân Trịnh thua to, nên mới đặt tên đất này là trại Toàn Thắng).

Ngày Mậu thìn, chúa không được khỏe, sai Thế tử thay làm tướng. Bấy giờ các quân tiên phong đến xã An Đại, gặp gió ngược nổi to, Tôn Thất Lộc muốn đóng quân để cố giữ. Hữu Dật ngửa trông phương nam, thấy có một đám mây đỏ như cái lọng, ánh sáng rực rỡ, phương bắc có đám mây trắng, tản mát như tuyết, mừng bảo Lộc rằng: "Nghiệm vẻ trời này là điềm phương nam đại thắng, cố giữ làm gì?" Lộc còn ngờ. Hữu Dật lại nói: "Quân nó dẫu nhiều, nhưng men núi mà đi, chưa biết địa hình khó dễ thế nào, nay ta lựa những chiến sĩ dũng cảm, chẹt nơi hiểm để xung kích, thì tất thắng được". Bèn chỉnh quân đều tiến, gặp bộ binh của Trịnh, đánh gấp phá được, thế quân rất mạnh.

Thế tử đến dinh Quảng Bình. Trấn thủ Nguyễn Phước Kiều xin giữ lũy Trường Dục để làm kế cố thủ. Ký lục Thịnh Hội nói rằng: "Quân nó đi sâu vào đất ta, kiêu ngạo không phòng bị, ta góp sức mà đánh hẳn được toàn thắng". Thế tử mừng bảo các tướng rằng: "Quân Trịnh tuy nhiều nhưng ít người đánh giỏi, quân đi không có hàng ngũ, đồn đóng không chọn địa thế. Nếu quân ta nhân đêm, đem voi xông đánh, chúng tất sợ bỏ chạy. Rồi sau đại binh đến đánh thì một trận có thể bắt được". Tức thì khiến

Triều Phương thay Triều Văn đem thủy quân phục ở bên tả sông Cẩm La. Đến đêm sai chưởng cơ Nguyễn Hữu Tiến đem hơn 100 con voi đực, đầu canh năm thẳng vào dinh địch đánh úp. Thế tử đốc các quân theo sau. Bấy giờ quân Trịnh không ngờ quân ta chợt đến, đều sợ chạy cả. Đại quân kế tiến, đánh phá tan. Bọn nào chạy về Bắc thì gặp thủy quân chặn đánh, đều chết đuối cả. Bắt sống được Gia, Lý, Mỹ (đều không rõ họ) và ba vạn tàn quân. Trịnh Đào ở đồn Nam Bố Chính nghe tin, bỏ quân chạy. Thế tử đốc đại binh đuổi đến sông Gianh thì trở về. Bèn để Hữu Tiến lãnh 3.000 quân đóng ở Võ Xá, gọi là đạo Lưa Đôn (bấy giờ gọi là Dinh Mười) để phòng bị. Từ khi Nam Bắc chia cõi đến nay, quân hai miền lần lượt khi được khi thua, chưa có trận nào thắng to bằng trận này. Thực là võ công bực nhất.

Thế tử đến hành tại làm lễ hiến phù(1. Hiến phù: Dâng chiến tù. 1). Chúa sai đặt yến. Thưởng cho Thế tử và các tướng sĩ theo thứ bực. Bọn chiến tù Trịnh là Gia và Lý đều khóc lạy xin tha, duy có Mỹ là khảng khái không chịu khuất, xin nhẩy xuống biển chết. Chúa khen mà cho ; lại sai thu lấy xác mà táng để nêu

tiết tháo.

Chúa cùng các tướng tá bàn cách khu xử những tàn quân bị bắt. Có người cho rằng quân giặc tráo trở để đấy thì sợ sinh biến, không bằng đưa họ đi ở chốn núi sâu hay nơi hải đảo để khỏi lo về sau; lại có người cho rằng giết tướng hiệu đi, còn thì thả về miền Bắc. Chúa nói: "Hiện nay từ miền Thăng (tức phủ Thăng Bình) Điện (tức phủ Điện Bàn) trở vào Nam đều là đất cũ của người Chàm, dân cư thưa thớt, nếu đem chúng an tháp vào đất ấy, cấp cho canh ngưu điền khí chia ra từng bộ từng xóm, tính nhân khẩu cấp cho lương ăn để chúng khai khẩn ruộng hoang, thời trong khoảng mấy năm, thuế má thu được có thể đủ giúp quốc dụng, và sau hai mươi năm, sinh sản ngày nhiều, có thể thêm vào quân số, có gì mà lo về sau!" Bèn tha bọn Gia, Lý và bọn tỳ tướng hơn 60 người về Bắc, rồi chia tan số binh ra cho ở các nơi, cứ 50 người làm một ấp, đều cấp cho lương ăn nửa năm. Lại ra lệnh cho nhà giầu bỏ thóc cho họ vay và cho họ được tìm lấy những lợi núi đầm mà sinh sống. Từ đó từ Thăng, Điện đến Phú Yên, làng mạc liền nhau, về sau sẽ thành hộ khẩu.

Ngày Canh dần, chúa rút quân về. Bệnh nặng.

Ngày Tân mão, về tới phá Tam Giang, băng ở thuyền ngự. ở ngôi 13 năm, thọ 48 tuổi. Thế tử khóc bảo chưởng cơ Tôn Thất Trung rằng: "Nay cha tôi về chầu trời, con không thể gánh vác việc lớn được, xin chú nối ngôi cho yên nước nhà". Trung cố từ, nói: "Cha con truyền nhau là đạo thường xưa nay. Thế tử nên vâng nối đại thống cho thuận ý trời và lòng người". Bấy giờ Thế tử mới lên ngôi, đem bầy tôi dâng tôn thụy là Đại nguyên soái thống suất Thuận Hóa Quảng Nam đẳng xứ chưởng quốc chính Uy Đoán Thần Vũ Nhân Chiêu vương. An táng ở núi An Bằng (tên xã, thuộc huyện Hương Trà).

Thế tông Hiếu võ hoàng đế truy tôn là Thần tổ Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu chiêu vương và [truy tôn] phi là Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi. Năm Gia Long thứ 5 [1806] truy tôn là Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu chiêu hoàng đế, miếu hiệu là Thần tông, lăng gọi là Trường Diên, [truy tôn] phi là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kinh Hiếu chiêu hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Diên.

Tiền Biên

Quyển IV

Tiền biên - Quyển IV

Thực lục về Thái tông Hiếu triết hoàng đế (thượng)

Thái tông Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu triết hoàng đế, húy là [Phước Tần], sinh năm Canh thân [1620] (Lê ? Vĩnh Tộ năm 2, Minh ? Vạn Lịch năm 48), là con thứ hai của Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế. Mẹ là Hiếu chiêu hoàng hậu Đoàn thị. Đầu được phong Phó tướng Dũng Lễ hầu. Từng đánh phá giặc Ô Lan ở cửa Eo, Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế rất khen. Năm Mậu tý [1648], mùa xuân, tháng 2, được tấn phong là Tiết chế chư quân, phá quân Trịnh ở sông Gianh. Ngày Tân mão, Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế băng. Bấy giờ chúa 29 tuổi, bầy tôi tôn lên làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Dũng quận công. Bấy giờ gọi là Chúa Hiền.

Lấy Chưởng cơ Tôn Thất Trung, Tôn Thất Lộc, Nguyễn Phước Kiều, Tống Hữu Đại và Tôn Thất Nghĩa làm Chưởng dinh, Cai cơ Tống Phước Khang (cháu Tống Phước Trị), Dương Sơn và Bái Kiều (hai người đều không rõ họ) làm Chưởng cơ, Nguyễn Hữu Dật làm Cai cơ lãnh ký lục dinh Bố Chính, Hoa Phong (không rõ họ) làm Cai bạ phó đoán sự. Ngoài ra các quan viên văn võ đều được thăng trật theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 5, Trịnh Tráng nhà Lê sai tướng là Trịnh Đào mở dinh Tả trấn quân, lãnh một vạn binh đóng đồn ở Hà Trung (bấy giờ gọi là Dinh Cầu, tức là phủ lỵ Hà Thanh ngày nay), Lê Hữu Đức mở dinh Hữu trấn quân, lãnh 5 nghìn binh đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Đồng(1. Tất Đồng ; Phủ biên tạp lục, sách viết tay, chép là Tất Toàn .1) làm Thủ tướng châu Bắc Bố Chính đóng ở Tam Hiệu (bấy giờ gọi là Ba Đồn) đề phòng giữ quân ta.

Mùa thu, tháng 8, triệu Tham tướng thủy dinh Quảng Bình là Nguyễn Triều Văn về. Trước là trong trận đánh ở Nhật Lệ, Triều Văn nhút nhát không dám tiến, các tướng nhiều người nói về việc ấy. Đến đây triệu về, lấy Tôn Thất Tráng (con Chưởng dinh Tôn Thất Thao, bấy giờ gọi là Vân Long hầu) thay. Tráng đến, tu sửa khí giới, huấn luyện quân sĩ, phòng bị biên cương rất nghiêm.

Kỷ sửu, năm thứ 1 [1649] (Lê ? Khánh Đức năm 1, Thanh ? Thuận Trị năm 6, Minh hậu - Vĩnh Minh vương Vĩnh Lịch năm 3), mùa thu, tháng 8, Vua Chân Tông nhà Lê băng, không có con nối ngôi.

Mùa đông, tháng 10, vua Thần tông nhà Lê trở lại ngôi, đổi niên hiệu là Khánh Đức.

Tháng 11, sai sứ ra Đông Đô. Tham tụng của Trịnh là Nguyễn Duy Thì nói với Trịnh Tráng rằng: "Chúa miền Nam cùng ta đã hai đời kết thông gia, nay nhân có sứ lại ta nên yên ủi dung nạp". Tráng bèn hậu đãi sứ ta rồi cho về.

Tháng 12, ngày Giáp thìn, hoàng tử thứ hai (tức Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế) sinh, là con của thứ phi Tống thị (con gái Chưởng cơ Tống Phước Khang).

Canh dần, năm thứ 2 [1650], mùa xuân, tháng 2, Ký lục dinh Bố Chính là Nguyễn Hữu Dật từng sai tướng sĩ giả làm áo mũ cờ xí của Bắc Hà, mưu làm rối loạn quân Trịnh, lại làm thư trá hàng gửi cho Trịnh, ước làm nội ứng. Việc ấy chưa kịp báo lên. Tham tướng Tôn Thất Tráng cùng Hữu Dật có hiềm khích, nhân đó dèm rằng: "Hữu Dật toan mưu trở về Bắc". Chúa sai bắt trói bỏ ngục. Hữu Dật bèn theo tập Anh liệt chí đời Minh, làm thành Hoa vân Cáo thị để bày tỏ chí mình, nhờ người coi ngục dâng lên. Chúa xem xong, tha cho, lại cho làm văn chức ở Chính dinh, ưu đãi vẫn như trước.

Tân mão, năm thứ 3 [1651], đổi phủ Hoài Nhân làm phủ Quy Ninh (sau đổi làm Quy Nhân).

Nhâm thìn, năm thứ 4 [1652], chúa chăm việc chính trị, không chuộng yến tiệc vui chơi. Bấy giờ có người con hát ở Nghệ An tên là Thị Thừa, nhan sắc xinh đẹp, được lấy vào cung. Chúa nhân xem sách Quốc ngữ, đến chuyện vua Ngô yêu Tây Thi, chợt tỉnh ngộ, tức thì sai Thị Thừa mang áo ngự cho Chưởng dinh Nguyễn Phước Kiều mà để thư trong dải áo ngầm sai Kiều bỏ độc giết đi(1. Chữ Hán là là dìm nước mà giết. Phủ biên tạp lục chép là trấm sát

là bỏ thuốc độc mà giết. Hẳn chỉ trầm là do chữ trấm lầm ra.1).

Quý tỵ, năm thứ 5 [1653] (Lê ? Thịnh Đức năm 1, Thanh ? Thuận Trị năm 10, Minh hậu ? Vĩnh Minh vương Vĩnh Lịch năm 7), mùa xuân,

tháng 2, vua nhà Lê đổi niên hiệu là Thịnh Đức.

Tháng 3, mở cuộc duyệt binh lớn ở xã An Cựu(1. Bây giờ là phường An Cựu, thành phố Huế.1), xét khí giới cùn sắc để định thưởng phạt.

Cơ Trung hầu 10 thuyền 300 người; Nội bộ 60 đội thuyền, hơn 3.280 người; 2 cơ Tả trung và Hữu trung, mỗi cơ 14 thuyền, đều hơn 700 người; Nội thủy 58 thuyền, 6.410 người; cơ Tả trung kiên 12 thuyền, 600 người; cơ Hữu trung kiên 10 thuyền, 500 người; 2 cơ Tả trung bộ và Hữu trung bộ, mỗi cơ 10 thuyền, đều 450 người; cơ Tiền trung bộ 12 đội, mỗi đội 5 thuyền, cộng 2.700 người; 4 cơ Tả dực, Hữu dực, Tiền dực, Hậu dực, mỗi cơ 5 thuyền, cộng hơn 1.100 người; 4 đội Tiền thủy, Hậu thủy, Tả thủy, Hữu thủy, mỗi đội 5 thuyền, đều hơn 500 người, 8 cơ Tả nội bộ, Hữu nội bộ, Tiền nội bộ, Hậu nội bộ, Tả súng, Hữu súng, Tiền súng, Hậu súng, mỗi cơ 6 thuyền, cộng hơn 2.100 người; dinh Tả bộ 10 thuyền, cộng hơn 450 người; 4 đội Tiền bính, Hậu bính, Tả bính, Hữu bính, mỗi đội 4 thuyền, đều hơn 200 người; cơ Tả thủy 5 thuyền, hơn 200 người).

Bắt đầu đặt dinh Thái Khang. Bấy giờ có vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm xâm lấn Phú Yên, sai Cai cơ Hùng Lộc (không rõ họ) làm Thống binh, Xá sai Minh Vũ (không rõ họ) làm tham mưu, lãnh 3.000 quân đi đánh. Quân đến Phú Yên, các tướng đều muốn dừng lại để dụ địch. Hùng Lộc nói: "Ra quân lúc không ngờ, đánh giặc lúc không phòng bị, là mưu hay của nhà binh. Nay quân ta từ nơi xa đến, lợi ở sự đánh chóng, cần gì phải dụ". Bèn tiến quân vượt đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, đánh thẳng vào thành, nhân đêm phóng lửa đánh gấp, cả phá được. Bà Tấm trốn chạy. Lấy được đất đến sông Phan Rang. Bà Tấm sai con là Xác Bà Ân mang thư xin hàng. Hùng Lộc đem việc báo lên. Chúa y cho, khiến lấy sông Phan Rang làm giới hạn, từ phía đông sông đến địa đầu Phú Yên chia làm hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Phủ Thái Khang có 2 huyện: Quảng Phước và Tân An; phủ Diên Ninh có 3 huyện : Phước Điền, Vĩnh Xương và Hoa Châu. Đặt dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa) cho Hùng Lộc trấn giữ. Phía tây sông Phan Rang vẫn về Chiêm Thành, bắt giữ lệ chức cống.

Mùa hạ, tháng 6, bầy tôi dâng tôn hiệu làm Thái phó quốc công, làm lễ chầu mừng xong, chúa thưởng cho theo thứ bực.

Đắp đồn Sa Chủy (ở cửa biển Nhật Lệ, bấy giờ gọi là lũy Mũi Dùi).

Giáp ngọ, năm thứ 6 [1654], mùa xuân, tháng giêng, triệu Trấn thủ dinh Bố Chính là Xuân Sơn (không rõ họ), cho sang trấn giữ Thái Khang, lấy Phù Dương (không rõ họ) thay Xuân Sơn. Phù Dương đến trấn, sửa sang thành trì, vỗ về quân sĩ, mọi người đều mến phục.

Mùa hạ, tháng 4, Chưởng dinh Trung có tội, bị hạ ngục. Trước là Tống thị bậy bạ, Trung muốn trừ đi. Tống thị sợ, bèn hết lòng chiều nịnh Trung, Trung bèn tư thông với, Tống thị nhân đấy khuyên Trung phản. Trung bèn bí mật kết bè đảng rắp mưu làm loạn. Thuộc hạ của Trung là Thắng Bố tố cáo. Bị bắt trị tội, Trung thú nhận. Chúa không nỡ giết, cho giam xuống ngục, rồi chết. Bèn giết Tống thị lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân. Thưởng cho Thắng Bố làm cai đội dinh Quảng Bình. Có người quân lại

bắt được sổ của bọn ngụy đem dâng. Chúa sai đốt đi. Mọi người đều được yên tâm.

ất mùi, năm thứ 7 [1655], mùa xuân, tháng 2, tướng Trịnh là Trịnh Đào từng sai Thủ tướng châu Bắc Bố Chính là Phạm Tất Đồng thả quân qua sông biên giới để xâm lấn cướp bóc. Trấn thủ dinh Bố Chính là Phù Dương đem việc báo lên. Chúa cả giận, bàn đi đánh miền Bắc.

Bấy giờ Nam Bắc dụng binh. Chúa nghĩ sao cho có hiền tài để ủy thác công việc biên cương. Mộng thấy thần nhân đưa cho bài thơ rằng: "Tiên kết nhân tâm thuận, Hậu thi đức hóa chiêu. Chi diệp kham tồi lạc, Căn bản dã nan dao" [Nghĩa là: Trước đoàn kết lòng người hòa thuận, sau thi hành đức hóa rõ ràng. Cành lá nọ có khi rơi gẫy, cõi gốc kia cũng khó chuyển lay]. Chúa cho rằng thơ [có chữ thuận chữ chiêu] là ứng vào Thuận Nghĩa và Chiêu Vũ (Nguyễn Hữu Tiến bấy giờ gọi là Thuận Nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Dật gọi là Chiêu Vũ hầu), cho nên phàm việc binh tất bàn mưu với hai người ấy.

Tháng 3, sai Nguyễn Hữu Dật đi tuần biên giới. Hữu Dật đến dinh Bố Chính, nắm hết được tình hình rồi về. Chúa triệu hỏi. Hữu Dật đáp rằng: "Thần có một kế, bắt Trịnh Đào dễ như trở bàn tay!" Chúa hỏi kế hoạch thế nào? Đáp rằng: "Gần đây liền năm dụng binh mà quân ta chưa từng sang miền Bắc. Nay thần xin chia quân làm ba đạo : Thượng đạo tiến trước đánh Tất Đồng, trung đạo tiếp sau làm thanh ứng(1. Đội quân này làm thanh thế hưởng ứng với đội quân khác. 1). Trịnh Đào ở Hà Trung nghe thấy chắc cho rằng quân ta lại đây chỉ để đánh Tất Đồng thôi, tất nhiên bỏ lũy không mà đi cứu viện. Quân hạ đạo nhân tiến đến Hoành Sơn, đánh úp Lê Hữu Đức, thừa hư cướp lấy dinh Hà Trung. Đó là kế "điệu hổ ra khỏi rừng, dẫn rắn vào trong lỗ"(1. Chữ Hán là: Điệu hổ xuất sơn, dẫn xà nhập huyệt.1), đánh một trận có thể thu toàn thắng". Chúa mừng nói: "Khanh bàn việc binh có vẻ mầu nhiệm bất trắc như quỷ thần, dù Tử Phòng(2. Trương Lương (tức Tử Phòng) là mưu thần của Hán Cao tổ. 2) Bá Ôn(3. Lưu Cơ (tức Bá Ôn) giúp Minh Thái tổ thống nhất thiên hạ. 3) cũng không hơn được".

Hữu Dật lại xin đặt đài hỏa hiệu ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin việc biên giới cho chóng và dựng kho Trường Dục, chở thóc đến chứa. Lại xin hạ lệnh cho tướng sĩ các dinh Quảng Bình và Bố Chính đều chỉnh bị quân nhu để đợi trưng phát. Chúa đều theo cả. Bèn cho Nguyễn Hữu Tiến làm tiết chế, Nguyễn Hữu Dật là đốc chiến.

Ngày Canh ngọ, Hữu Tiến và Hữu Dật đem quân các dinh thủy bộ qua sông Gianh. Trước sai trấn thủ Cựu dinh là Tống Hữu Đại ra chợ Lũ Đăng (tên xã) đánh đuổi Tham đốc của Trịnh là Đặng Minh Tắc để cướp lấy dinh, Phù Dương ra Phù Lưu phá dinh Tam Hiệu [Ba Đồn], Tất Đồng chạy vào Lũng Bòng [tên đất]. Trịnh Đào nghe tin Tam Hiệu thất thủ, quả nhiên đem hết quân theo đường núi đến cứu viện. Đến chiều hôm, Tống Hữu Đại lại dẫn quân trở về, đóng ở bên sông. Hữu Tiến chia sai Xuân Sơn làm hạ đạo, tiên phong Nguyễn Phước Kiều với Cai cơ Cao Bá Phước (con Đô đốc quốc công Cao Bá Hoa), Tống Uy và Nguyễn Nghĩa chia quân làm 4 đội thuộc vào. Hữu Tiến tự xuất quân Tráng tiệp làm trung đạo. Cai cơ Triều Nghĩa và Phù Tài (hai người đều không rõ họ) làm tả hữu vệ trận. Hữu Dật lãnh cơ Tiền súng tiếp sau. Ước hẹn ngày mai đều đến dinh Hà Trung.

Phù Dương làm thượng đạo, tiên phong Tống Hữu Đại tiếp ứng, đem quân đuổi đánh Tất Đồng. Ngày Tân mùi, hạ đạo là bọn Xuân Sơn sai một cánh quân lẻ ra giữ cửa Ròn để chống với thuộc tướng của Hữu Đức là

Bật Trung (không rõ họ) mà tự dẫn quân tiến thẳng đến Hoành Sơn, gặp quân Hữu Đức đánh phá được. Hữu Đức thua chạy về xã Lạc Xuyên, Xuân Sơn thu được voi ngựa khí giới rất nhiều, rồi thừa thắng thẳng đến dinh

Hà Trung. Tỳ tướng của Trịnh Đào là Trăn Bái và Kỷ Thiệu (hai người đều không rõ họ) hết sức chống đánh Xuân Sơn phải lùi về khe Bàn Thạch. Đại binh của Hữu Tiến kế đến, chém được Trăn Bái ; Kỷ Thiệu trốn chạy. Quân ta lấy được dinh Hà Trung. Thượng đạo là Phù Dương đuổi Tất Đồng tới Lũng Bông. Tất Đồng đem châu đầu hàng. Trịnh Đào thì theo phía sau núi Hoành Sơn chạy tới gò Bạch Thạch. Hữu Dật đạc chừng rằng Đào thua tất phải theo đường núi mà chạy, nên đã đem quân bản bộ mai phục ở đó trước. Kịp Đào đến đây, quay bảo thuộc hạ rằng: "Chỗ này nếu có phục binh thì bọn ta không còn đường nữa". Nói chưa dứt lời, phục binh vùng dậy. Hữu Dật chính tay bắn trúng vào cánh tay trái của Đào. Đào bèn bỏ hết voi ngựa khí giới, cùng Hữu Đức chạy về xã An Trường (nay là tỉnh lỵ Nghệ An). Hữu Dật muốn thừa thắng đuổi dài. Hữu Tiến không nghe, bèn họp quân ở Hà Trung, đem tin thắng trận báo về. Chúa mừng nói: "Hữu Tiến và Hữu Dật thật là hổ tướng". Sai tướng thần lại đến chỗ quân, thưởng lạo tướng sĩ. Lại mật dụ cho Hữu Dật đóng binh mà vỗ về quân dân để chờ cơ hội, chớ nên khinh tiến, phàm việc quân nên cùng Hữu Tiến thương nghị, không nên tự chuyên.

Bấy giờ Hữu Tiến và Hữu Dật dựng bài chiêu an để thu phục lòng người. Tham đốc của Trịnh là Đặng Minh Tắc cùng với Triều Tô, Tú Long, Toàn Võ, Ninh Lộc (4 người đều không rõ họ) đều đến cửa quân đầu hàng. Hữu Tiến chia ra cho lệ thuộc các dinh, ghi số tướng sĩ quân dân mới hàng để dâng lên. Hữu Dật lại viết thư kêu gọi Trịnh Đào đầu hàng, Đào không nghe. Tức thì mật sai Nguyễn Văn Phương và em là Nguyễn Văn Tường đem vàng bạc và tung gián điệp, lấy tình trạng Trịnh Đào bị thua muốn đầu hàng mà nhờ đô đốc của Trịnh là Sùng (không rõ họ) nói với Trịnh Tráng. Tráng tin lời, ra lệnh bắt Đào giải về. Đào bị thương nặng, chết ở đường. Việc ấy báo lên, chúa rất mừng, thưởng cho Hữu Tiến 30 lạng vàng, 100 lạng bạc, Hữu Dật 30 lạng vàng, 80 lạng bạc và thưởng thêm cho Hữu Dật một cái áo gấm, một thanh bảo kiếm. Các tướng khác cũng đều được thưởng theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 5, Trịnh Tráng sai Thái bảo Trịnh Trượng làm thống lãnh, Bồi tụng Nguyễn Văn Trạc và Cấp sự trung Nguyễn Tính làm Chánh phó đốc thị, lãnh 18 tướng để thu phục dinh Hà Trung. Võ Văn Thiêm lãnh 50 chiến thuyền, đóng ở cửa biển Kỳ La. Nguyễn Hữu Tiến nghe tin, mời Nguyễn Hữu Dật đến hỏi kế, Hữu Dật nói: "Quân họ nhiều, quân ta ít, khó chống chọi được. Ta hãy tạm lui quân về sông Gianh để tỏ rằng quân mình yếu, rồi mật khiến bộ binh phục ở Lũng Bông, thủy binh đóng ở cửa Ròn để đợi. Bọn Trượng thấy quân ta trở về Nam tất bảo rằng ta nhát, mà không phòng bị. Ta nhân thế mà tiến đánh, bọn Trượng tất bị ta bắt; Văn Thiêm thì không đánh cũng vỡ thôi". Hữu Tiến cho là phải, bèn sai cai cơ Trương Phước Hùng (con Trương Phước Phấn, bấy giờ gọi là Hùng Oai hầu) đem quân phục ở Lũng Bông, Tôn Thất Tráng lãnh chiến thuyền ra cửa Ròn, mà tự mình thì rút quân về sông Gianh. Kịp bọn Trượng đến dinh Hà Trung, còn nghi ngờ không dám tiến, triệu Văn Trạc hỏi kế. Văn Trạc nói: "Hữu Tiến, Hữu Dật là những tướng có mưu trí và sức mạnh. Từ khi sang Bắc tới nay, thừa thắng đuổi đánh xa, nhuệ khí rất hăng, nay không có cớ gì mà rút quân, hẳn là kế dử ta. Không gì bằng lui đóng ở xã Lạc Xuyên, quân thủy quân bộ tiếp nhau, rồi tùy cơ ứng biến. Đấy là binh pháp". Trượng theo lời. Lùi đóng ở xã Lạc Xuyên Hạ sai 500 quân tuần du ở dinh Hà Trung để phô thanh thế. Hữu Tiến, Hữu Dật nghe tin, dâng lời nói rằng: "Trước kia Tào Tháo có quân 100 vạn mà bị thua với Đông Ngô(1. Trận Xích Bích.1), Thích Chiêu Quân chỉ 3.000 mà chống được Gia Cát(2. Trận Kỳ Sơn.2), số quân nhiều ít không đủ kể. Nay Trịnh Trượng đem quân vào Nam, đã hơn một tháng mà chưa từng đánh một trận nào, lại bỏ đất Kỳ Hoa (tên huyện, nay cải là Kỳ Anh), lui giữ Lạc Xuyên, đó là quân tuy nhiều mà không có chí chiến đấu. Vậy bọn thần xin phát binh đi đánh, đại quân theo sau tiếp ứng. Lại bày thủy quân ở sông Gianh để làm thanh viện". Chúa y cho.

Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật sai các tướng chia đạo đều tiến: Chánh đạo là bọn Trương Phước Hùng, Phù Dương, Thuần Đức, Khuê Thắng (3 người đều không rõ họ) đốc suất quân tiên phong đánh chạy bọn du binh của Trịnh, đến thẳng Lạc Xuyên Hạ, đánh phá dinh Trịnh Trượng. Thượng đạo là bọn Tống Hữu Đại, Xuân Sơn, Phù Tài, Cống Giác (3 người đều không rõ họ), nghe tin Lạc Xuyên Hạ đã bị phá, liền tiến đánh bọn tướng Trịnh là Tài và Địch (hai người đều không rõ họ, bấy giờ gọi

là quận công) ở xã Lạc Xuyên Thượng, cũng phá được, thu được khí giới

và voi ngựa không xiết kể. Hữu Dật lãnh thủy binh vào cửa biển Kỳ La

[Cửa Nhượng], đánh Võ Văn Thiêm. Văn Thiêm lùi đóng ở cửa Nam Giới [Cửa Sót]. Tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Sắc, Lê Sĩ Hậu đều nghe hơi là chạy trốn. Trịnh Trượng cùng các tướng lùi giữ An Trường. Quân ta thừa thắng tiến đến xã Bân Xá (thuộc huyện Thiên Lộc). Bắc Hà vì đó mà rung động. Hữu Tiến sai người về dâng tin thắng trận, rồi đem quân đóng ở

Lạc Xuyên.

Tháng 9, Trịnh Tráng sai con là Tạc xuất đại binh, đóng An Trường.

Mùa đông, tháng 10, Trịnh Tráng lại khiến Trịnh Ninh (con út Trịnh Tráng, bấy giờ gọi là Quận công) làm Thống lãnh, Đào Quang Nhiêu làm đốc suất, Võ Văn Thiêm làm Đốc suất thủy quân. Quân Trịnh tiến đến

Kỳ Hoa. Quân ta lui đóng ở dinh Hà Trung.

Tháng 11, Trịnh Ninh và Đào Quang Nhiêu lại về An Trường. Trịnh Tạc trở về Bắc, để Văn Thiêm ở lại làm trấn thủ, Quang Nhiêu làm đồn thủ, Dương Hồ và Phan Hưng Tạo làm đốc thị, đều lãnh quân sở bộ đóng ở

An Trường; Thân Văn Quanh, Mẫn Văn Liên đóng ở xã Tiếp Vũ (thuộc huyện Thiên Lộc), Lại Thế Thì và Tường Trung (không rõ họ) đóng ở xã Minh Lương, Hằng và Hán (2 người đều không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công) đóng ở núi Bình Lãng (tên xã), Văn Thiêm đóng ở sông Khu Độc(1. Sông Khu Độc: Một khúc sông Lam ở dưới chân Hồng Lĩnh.1), đều lãnh hương binh để chống giữ.

Tháng 12, tướng Trịnh là bọn Tường Trung đem hương binh vào Kỳ Hoa, lùa bắt những người dân đã theo hàng ta đem về. Nguyễn Hữu Tiến họp các tướng ở chợ Vân Cát (tên xã), chia sai Lưu Diên và Thiêm Vinh

(2 người không rõ họ) làm chánh phó tiên phong, Trương Phước Hùng làm vệ trận, đem quân ra huyện Thạch Hà, đón đánh phá được. Hùng là người quả cảm đánh giỏi, người miền Bắc sợ lắm, gọi là Hùng sắt.

Bấy giờ Nguyễn Hữu Dật muốn được ngoại ứng để chia lực lượng

quân Trịnh, bèn khiến bọn Văn Tường và Hoàng Sinh đem mật thư lẻn đến các trấn Bắc Hà để chiêu dụ hào kiệt, hẹn cùng nổi lên. ở Cao Bằng thì

Mạc Kính Hoàn, ở Hải Dương thì tên Phấn (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công), ở Sơn Tây thì Phạm Hữu Lễ đều vâng mệnh, nói rằng: Hễ quân chúa qua sông Lam thì xin phát binh hưởng ứng, Hải Dương thì không nộp tô thuế để cho tuyệt lương, Cao Bằng thì tiến chiếm Đoàn Thành (nay là tỉnh lỵ Lạng Sơn) để chia thế lực, Sơn Tây thì nguyện làm nội ứng để cướp lấy thành. Bọn Văn Tường về báo, Hữu Dật mừng bảo Hữu Tiến rằng: "Lòng người như thế, xin sớm định kế hoạch, để xong công lớn".

Bính thân, năm thứ 8 [1656], mùa xuân, tháng giêng, quân ta đánh úp đồn Tiếp Vũ. Tướng Trịnh là bọn Thân Văn Quanh thua chạy. Quân Nguyễn thừa thắng đuổi đánh thủy binh Trịnh ở sông Tam Chế(2. Khúc sông Lam ở khoảng dưới cửa sông La, có bến đò Chế. Đại Nam nhất thống chí chép là sông Tam Đẳng. 2). Bấy giờ Vũ Công Quang và Lê Sĩ Hậu hợp sức cùng đánh, quân ta hơi lùi.

Tháng 2, Nguyễn Hữu Dật tiến quân đến núi Hồng Lĩnh, gặp du binh của Trịnh, đánh phá được. Vừa chiều tối phải dừng quân, nhưng Hữu Dật đốc suất kíp tiến, sáng sớm đến Mẫn Tường (tên đất), gặp tướng Trịnh là Võ Văn Thiêm đem thủy binh lên bờ. Tiên phong là Diên Lược (không rõ họ) đánh ngay. Văn Thiêm lui giữ xã Đằng Để, Hữu Dật đốc quân xung kích, bắn giết được tướng là Tường Trung. Văn Thiêm sợ lắm, chạy về An Trường. Hữu Tiến suất quân chính đạo đến Minh Lương; Tống Hữu Đại xuất quân chính đạo đến núi Bình Lãng. Đào Quang Nhiêu chia quân chống đánh. Vừa quân Trịnh bị tướng Nguyễn là Đăng Doanh (không rõ họ) đánh thua, các tướng Trịnh đều trốn di. Quang Nhiêu cũng bỏ lũy về An Trường. Hữu Tiến và Hữu Dật bèn thu quân đóng ở Vân Cát, đem tin thắng trận báo lên. Chúa sai sứ giả đem vàng lụa thưởng cho tướng sĩ theo thứ bực.

Trịnh Tráng nghe tin Đào Quang Nhiêu và Võ Văn Thiêm đều thua trận, lại sai Trịnh Ninh thống lĩnh các tướng để trấn giữ Nghệ An, bọn Quang Nhiêu và Văn Thiêm đều thống thuộc.

Tháng 3, Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây sai người đem thư đưa cho

Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật xin thi hành ba chước: một là tung phản gián cho họ Trịnh nghi lòng, hai là kết mối hòa hảo để cầu giúp đỡ, ba là dùng người hào kiệt để họ ra công. Hữu Tiến, Hữu Dật nhận được thư rất mừng. Bấy giờ lại có người ở Hải Dương là Văn Dụ (không rõ họ) đến nói rằng: Hào kiệt ở Hải Dương cũng cùng nổi dậy với hào kiệt ở Sơn Tây, Sơn Nam, đợi quân chúa sang sông Lam thì sẽ tiếp ứng.

Mùa hạ, tháng 5, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật nghe quân Trịnh đến, bèn sai bọn Hoằng Vinh, Dương Trí, Văn Thuần (3 người đều không rõ họ) đem thủy quân đến cửa Nam Giới, đánh tướng Trịnh là Xuân (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công), Trịnh Ninh sai thuộc tướng là Lý (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công) đem quân đến cứu. Hữu Dật đốc quân bắn nhau với quân Trịnh và chăng cờ làm hiệu. Dương Trí ở ngoài biển trông thấy kíp tiến vào bắn, bắt được Xuân và ba chục chiến thuyền. Lý thua chạy. Phò mã Trình (không rõ họ) đốc suất chiến thuyền đến tiếp đánh. Quân ta thừa gió thuận, bắn súng, khói tỏa mù trời, quân Trịnh thua vỡ rối loạn. Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương, Nguyễn Hữu Sắc, Thái Bá Trật đều thua, bỏ thuyền mà chạy. Ninh nghe tin cả sợ, lui giữ bến đò Điềm(1 Tức là bến đò xã An Điềm1).

Hữu Dật dẫn quân đến vây. Ninh lại rút quân về cửa Nam Giới, cùng với thủy quân của Dương Trí giúp nhau. Ninh lại ra đóng ở Đại Nại. Hữu Dật và Dương Trí đem các quân thủy lục tiến đến sông Lam. Phó tướng thủy sư là Nguyễn Phước Kiều và tham tướng Tôn Thất Tráng lại đem quân đến cửa Đan Nhai, đánh phá được thủy quân của Trịnh. Võ Văn Thiêm bỏ thuyền chạy. Tống Phước Khang và Phù Dương đem quân thượng đạo đến xã

Hương Bộc vây quân Đào Quang Nhiêu. Ninh đốc suất các quân đến cứu viện. Quân bọn Phù Dương thua lui về Hà Trung. Kiều bị thương rồi chết (tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tả quân đô đốc Nghĩa quận công, lập đền thờ ở xã Dương Xuân, cấp cho tự phu 50 người). Hữu Tiến nghe tin Ninh đến xã Tam Lộng, bèn bố trí thủy quân ở các bến Phù Thạch, Tam Kỳ [Ngã ba] và Việt Yên, sai Hoằng Tín (không rõ họ) đem chiến thuyền phục ở Minh Lương, Hữu Dật đem bộ binh phục ở xã Nam Ngạn(2. Các bến các xã ở đây đều thuộc khúc sông Lam trên dưới ngã ba sông Lam và

sông La2) để triệt đường trở về của Ninh. Ninh nghe tin Hữu Dật đóng quân ở Nam Ngạn, cười nói rằng: "Bọn quân cô đơn kia dám vào sâu trong đất ta, như cá vào lưới để cho ta và các tướng một bữa gỏi". Bèn sai tướng là Tào Nham và Diễn Thọ (2 người đều không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công) xông ra gò nổi ở xã Nam Ngạn đánh nhau với quân ta. Gặp phục binh, Tào Nham và Diễn Thọ đều bị tướng ta là Đô Tín (không rõ họ) giết chết. Ninh dẫn quân qua Bình Hồ (tên đất), Hoằng Tín suất thủy sư bắn. Quân Trịnh chết rất nhiều. Ninh bèn lui đóng ở An Trường.

Tháng 6, chúa đến Quảng Bình. Trước chúa nghe quân ta luôn luôn thắng trận, tự cầm quân ra xã Phù Lộ châu Bắc Bố Chính muốn tiếp ứng; Khi nghe các tướng đã lui về Hà Trung, bèn dừng lại ở xã An Trạch. Nguyễn Hữu Dật đến hành tại yết kiến.

Chúa hỏi về việc binh, Hữu Dật đem hết tình trạng tâu bày, nhân lại nói với chúa rằng: "Dụng binh 2 năm nay, mới lấy được 7 huyện Nghệ An. Được rất khó, mà phí cũng rất nhiều. Nay thế chưa có thể thừa được, xin đắp lũy ở phía nam sông Lam để giữ mà chờ cơ hội. Vả việc dụng binh trước hết phải bàn đến tướng. Nay những người cầm quân phần nhiều là người thân cựu [của chúa], hoặc có người không quen kỷ luật, đi đứng trái phép, cũng có người dung túng quân đi cướp bóc để mất lòng dân. Như thế đều không phải là đạo toàn thắng. Xưa kia Hàn Tín, Bành Việt và Anh Bố(1. Những người công thần đời Hán Cao tổ.1) đều lấy trí dũng mà làm tướng nhà Hán để dựng nên công nghiệp, đâu có phải đều là người ở đất Phong đất Bái ?(2. Quê hương của Hán Cao tổ. 2). Thần xin chọn kỹ các tướng có phương lược thì không kể là sơ hay thân đều cho cầm quân, còn những người họ hàng và cố cựu mà không hiểu việc binh thì hậu đãi cho bổng lộc trọn đời, chớ để cho giữ binh quyền. Như thế thì sự sai dùng đều được xứng tài, mà đánh thì tất thắng". Chúa khen là phải, cho vàng bạc và bảo kiếm, lại sai đến quân thứ.

Sai Văn Tường, Hoàng Sinh, Thế Lương (không rõ họ) lại đem mật thư đến dụ Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây, Hữu Lễ được thư, tức thì sai con là Phượng đi mật dụ các hào kiệt để hưởng ứng.

Đinh dậu, năm thứ 9, [1657], mùa xuân, tháng giêng, chúa dừng lại ở Quảng Bình.

Tháng 2, Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây sai con là Phượng cùng với bọn

Văn Tường, Hoàng Sinh đến quân thứ ở Hà Trung, Hữu Tiến và Hữu Dật sai người dẫn đến hành tại Quảng Bình bái yết. Chúa cho rất hậu, bảo trở về. Lại cho Thế Lương làm Thứ đội trưởng, Văn Tường làm Cai hợp, theo Nguyễn Hữu Dật xin.

Mùa hạ, tháng 4, Trịnh Tráng nhà Lê chết, con là Tạc lên nối.

Tháng 5, chúa đến Nghệ An, dừng lại ở xã Vân Cát (thuộc huyện Thạch Hà). Các tướng cho rằng họ Trịnh đương gặp biến cố, đều xin thừa cơ tiến đánh. Chúa không nỡ đánh người ta trong lúc đang có tang, bèn sai sứ sang điếu, rồi khiến hồi loan, lưu các tướng chia đóng đồn từ sông Lam về Nam, đắp lũy từ đầu núi đến cửa biển để làm thế phòng ngự.

Trịnh Ninh đóng quân ở xã Quảng Khuyên (thuộc huyện Thiên Lộc), sai quân đào hào đắp lũy, chia giữ các nơi hiểm yếu (lũy đá ở trên

Hoàng Sơn, tương truyền là do Trịnh Ninh đắp, bấy giờ gọi là lũy quận Ninh). Lại tung ra nhiều vàng ngọc để vỗ về tướng sĩ. Trịnh Tạc ngờ là Ninh có mưu khác, bèn triệu về, mà cho Trịnh Căn (con Tạc) thay để cầm quân. Bộ hạ của Ninh là bọn Trịnh Bàn và Trương Đắc Danh sang đầu hàng Nguyễn Hữu Tiến. Ninh về, bị thêu dệt thành tội phản nghịch và bị hạ ngục rồi chết. Bấy giờ các tướng Trịnh đều tan rã, nhiều người đến quy phục.

Tháng 6, người xã Phước Châu huyện Nghi Xuân tên là Phan Lân (không rõ họ) đến đầu hàng, nhân nói với Nguyễn Hữu Dật rằng: Tướng Trịnh là Lê Thời Hiến, Hoàng Nghĩa Giao và Đặng Thế Công hẹn đến ngày 24, chia quân làm ba đạo, sang sông Thanh Chương (tên huyện) vượt xã Nam Hoa (nay đổi làm Nam Kim) để đánh úp quân của Tống Hữu Đại. Trịnh Căn thì đốc suất đại binh tiếp ứng để chụp phía sau của ta. Hữu Dật lập tức mật báo cho Hữu Đại bày trận để chờ. Khi quân Trịnh lên bờ, đi chưa được vài dặm thì gặp quân Hữu Đại, cùng nhau giao chiến. Hữu Đại giả đò chạy, bọn Thời Hiến đuổi theo. Phục binh của Phù Dương vùng dậy. Quân Trịnh rối loạn, đều tự vỡ chạy. Quân ta đuổi đến bên sông rồi trở về. Tin thắng trận báo lên. Chúa sai đem vàng lụa thưởng các tướng sĩ theo thứ bực, cho Phan Lân làm cai đội.

Mùa thu, tháng 9, Nguyễn Hữu Dật đánh phá được lũy Đồng Hôn(1. Thuộc xã Mỹ Dụ, huyện Hưng Nguyên.1). Bấy giờ Trịnh Căn cho Thắng Nham (không rõ họ) đóng ở lũy Đồng Hôn. Chỗ ấy đất ẩm thấp, mùa thu lụt, sợ bị quân ta đánh úp, bàn đem đồn dời đóng ở dưới núi đất. Thám tử nghe tin, đem báo với Hữu Dật. Hữu Dật bảo Hữu Tiến rằng: "Tôi đã suy tính rồi, ngày 25 này là ngày Quý hợi, gặp ngày sao Chẩn(2. Sao Chẩn: Một vị sao trong nhị thập bát tú.2), hẳn có mưa gió dữ dội; lại có vệt khí đen, chạy suốt qua chỗ sao Bắc đẩu và mây trắng che cung chấn(1. Tám quẻ chỉ tám phương, quẻ chấn chỉ phương Đông. 1), như thế thì phương Tây Bắc tất có nước lụt, có thể nhân dịp ấy đánh úp đồn của Thắng Nham, tất là phá được". Đến ngày ấy, quả nhiên mưa to gió lớn, nước sông đầy tràn. Hữu Dật dẫn quân đánh thẳng vào lũy Đồng Hôn, nhân nước lụt, đánh phá được. Thắng Nham lên núi đất chạy trốn. Quân ta thu được khí giới rất nhiều. Hữu Tiến mừng bảo Hữu Dật rằng: "Ông thật là thần toán". Hữu Dật nói: "Trên nhờ uy linh của chúa thượng, dưới nhờ sức mạnh của chư tướng, chứ Hữu Dật này thì có tài năng gì?".

Mậu tuất, năm thứ 10 [1658] (Lê ? Vĩnh Thọ năm 1, Thanh ? Thuận Trị năm 15, Minh hậu ? Vĩnh Minh vương Vĩnh Lịch năm 12), mùa xuân, tháng giêng, vua nhà Lê đổi niên hiệu là Vĩnh Thọ.

Tháng 2, chúa cho rằng đường vận tải lương thực dài và cách trở, chuyển gánh khó khăn, mới lập tuyển trường(2. Tuyển trường: Trường duyệt lựa các hạng dân để thu thuế thân theo từng hạng.2) ở Nghệ An. Sai quan duyệt lấy ba hạng tráng, quân và dân, thu lấy thuế thân để phòng cấp phát. Trăm họ bảo riêng nhau rằng: "Quân chúa mới đến, chúng ta ngày mong chính sách rộng rãi mà sao bấy giờ thuế thân lại nặng hơn năm trước?". Nguyễn Hữu Dật nghe thấy, sai người đi các làng ấp dụ bảo nhân dân rằng: Nay việc quân chưa xong, tạm lấy để giúp quân nhu, chứ không có ý tăng thuế đâu. Lòng dân mới yên.

Bây giờ tướng Trịnh là bọn Đô đốc Lân, Thự vệ Chiêu Đức, Cai đội Toản Vũ, Tiềm Vân, Bật Lân, Triều Cương (6 người đều không rõ họ), đều đem quân sở bộ đến đầu hàng. Chúa yên ủi vỗ về. Từ đó tướng sĩ lại dân Bắc Hà quy phụ rất nhiều.

Mùa hạ, tháng 6, bọn Nguyễn Hữu Tiến mưu đánh úp quân Trịnh, dùng Lang Công Cận là người sách Trọng Hiệp huyện Quỳnh Lưu làm hướng đạo, theo đường núi tiến đến xã Dương Hiệp (thuộc huyện Đông Thành). Trịnh Căn đón đánh. Công Cận bị bắt, quân ta hơi lùi.

Mùa thu, tháng 7, quân ta tiến đánh xã Mỹ Dụ (thuộc huyện

Hưng Nguyên). Thủ tướng Trịnh là Nguyễn Hữu Tá bỏ trại chạy. Lê Thời Hiến đem quân đến cứu viện. Quân ta cùng giao chiến không được lợi,

bèn lùi về.

Tháng 8, quân ta lại sang sông, đóng ở xã Bạch Đường (thuộc huyện Nam Đường), chống nhau với tướng Trịnh là Đào Quang Nhiêu.

Sai lựa chọn những người tài trí văn học ở châu Bắc Bố Chính và 7 huyện Nghệ An, đặt quan chia chức, để xét bắt trộm cướp, xét xử kiện tụng. Bấy giờ các sĩ phu đều vui lòng ra giúp việc.

Sai quan thu tô ruộng thực canh(1. Ruộng thực có người cày cấy.1) ở 7 huyện Nghệ An để cấp lương cho quân. Dân đều đúng kỳ đem nộp. Từ đó quân lính mới được thừa lương.

Tháng 9, vua nước Chân Lạp (vốn tên là Cao Miên) là Nặc Ông Chân xâm lấn biên thùy. Dinh Trấn Biên báo lên. Chúa sai Phó tướng Trấn Biên là Tôn Thất Yến, Cai đội là Xuân Thắng, Tham mưu là Minh Lộc (2 người đều không rõ họ) đem 3.000 quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ gọi là Mỗi Xuy, nay thuộc huyện Phước Chính, tỉnh Biên Hòa) đánh phá được, bắt Nặc Ông Chân đưa về. Chúa tha tội cho và sai hộ tống về nước, khiến làm phiên thần, hằng năm nộp cống.

Phạm Phượng đến chỗ quân Nguyễn Hữu Tiến nói : "Năm ngoái tướng Trịnh là Thẳng Nham giữ lũy Đồng Hôn, bị đốc chiến đánh thua, Trịnh Căn sai Tham đốc là Vân Khả (không rõ họ) lãnh quân thay giữ. Vân Khả là người tham lam bạo ngược, xin kíp định kế đánh lấy". Hữu Tiến sai Phượng đến nói với Nguyễn Hữu Dật. Hữu Dật mừng nói rằng: "Mới đây ta xem thiên tượng thấy mây đen che mất sao Khôi(2. Vì sao đứng đầu trong 7 ngôi của chòm sao Bắc đẩu2), ngày 11 là ngày Mậu thìn tức là ngày lục long(3. Ngày ấy có đến 6 con rồng làm việc nên mưa nhiều.3), hẳn có mưa lụt, nhân lúc nước lớn mà đánh tất là phá được", bèn hẹn với Hữu Tiến họp quân. Đến ngày ấy quả mưa to.

Hữu Dật trước đem thủy quân kéo đến đánh lũy Đồng Hôn. Quân Trịnh sợ hãi tan vỡ. Vân Khả trốn về An trường. Hữu Dật đem quân về. Trịnh Căn lại sai tướng là Miện (không rõ họ, bấy giờ gọi là quận công) giữ lũy Đồng Hôn.

Mùa đông, tháng 12, quân ta cùng với tướng Trịnh là Đào Quang Nhiêu đánh nhau ở xã Tuần Lễ (thuộc huyện Hương Sơn), quân ta thua.

Kỷ hợi, năm thứ 11 [1659], mùa xuân, tháng giêng, người Nghệ An là Tư thiên giám Chu Hữu Tài, chiếm hậu Cổn Lương, hộ binh Tộ Long

(2 người đều không rõ họ) cùng đến đầu hàng, đều nói nhân dân Bắc Hà đương ngóng trông quân chúa. Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đem tin ấy báo lên, và xin ra đánh. Chúa trả lời rằng : "Phàm công việc ở ngoài biên đều ủy thác cho hai người, nên định ngày tiến binh, ta cũng cử đại binh đi tiếp ứng". Hữu Tiến, Hữu Dật bèn sai các tướng sửa sang chiến bị, và khiến bọn Tộ Long trở về Bắc chiêu tập [quân sĩ] để hưởng ứng.

Chu Hữu Tài dâng ba điều then chốt : Điều thứ nhất bàn về thiên thời. (Xét sách Xuân thu Tả truyện nói rằng : "Sao Tuế(1. Tuế: Sao Mộc tinh.1) ở đâu thì nước có Phước, có thể đánh được người, mà người không có thể đến đánh được mình". Xin đem việc ngoài biên để làm chứng. Giáp tý năm thứ 7, sao Tuế ở vào độ mùi đầu sao Thuần(2. Thuần: Tức là sao Tâm.2), Đinh mão năm thứ 9, sao Tuế ở độ thìn của sao Thọ(3. Thọ: Vì sao tương đương với cung Thiên xứng trong hoàng đạo.3), ất mùi năm thứ 3, sao Tuế ở cung đoài. Đó đều là hiện tượng phương nam có sao Tuế, cho nên quân Trịnh mấy lần xâm lấn bờ cõi, đều bị thua cả, đó là việc nghiệm. Nay sao Tuế hiện ra ở độ thân của sao Thực Trầm. Xét sách Cương mục(4. Sách Thông giám cương mục của Chu Hy đời Tống.4) nói: "Chỗ sao Sâm mà được sao Tuế thì hẳn có người chân nhân nổi lên ở đất ấy". Tượng trời ứng nghiệm, thực rõ ràng lắm).

Điều thứ hai bàn về địa lợi. (Đất Hồng Lĩnh núi sông như dải áo, xin đóng dinh ở đó, lấy La Sơn làm tả giác, Nghi Xuân làm hữu giác(5. Tả giác, hữu giác: Góc thành bên tả bên hữu để hộ vệ chính dinh. 5), núi

Cô Độc(6. Cũng gọi là Khu độc, ở hữu ngạn sông Lam, trước mặt thôn Đồng hôn. 6) làm tiền phong ; lại ở Thanh Chương thì đặt tả kỳ binh, La Sơn thì đặt hữu kỳ binh(7. Kỳ binh: Đạo binh lẻ ở ngoài. 7), nên tự chỗ sao Tuế ở mà đánh vào chỗ sao Tuế xung. Đó là nơi tất phải tranh lấy, không thể bỏ mất được). Điều thứ ba bàn về nhân hòa. (Nghĩa lớn vua tôi cỗi gốc ở lòng người. Nay họ Trịnh giết vua làm nghịch, thiên hạ ai cũng căm giận, nguyện làm quân Lạc Dương(8. Quân của Quang Vũ dẹp yên gian thần để khôi phục cơ nghiệp nhà Hán. 8) mà hỏi tội ở Giang Trung(9. Tội Hạng Vũ giết vua Hoài Vương nước Sở ở Giang Trung. 9), như thế thời nghịch tặc kia không trốn vào chỗ nào được). Lại nói về hai việc dùng người và lý tài. Xin lập khoa thi võ, mở khoa thi hương để thu dùng những người có học thức tài năng, chia đều đinh điền, nới rộng lệ thuế để yên lòng dân mới quy phụ.

Chúa xem rồi nói : "Người này rộng học nhiều văn, có thể dùng để bàn hỏi được". Tức thì cho làm tham chính giám hộ quân.

Mùa thu, tháng 8, Trịnh Thạc thấy quân mình thua luôn, lo lắm, mưu muốn dụ Nguyễn Hữu Dật, bèn sai người mang một gói trân châu, năm khối vàng mã đề(1. Mã đề kim: Theo Nhật dụng thường đàm là vàng sò, hình móng ngựa. 1) và mật thư đưa cho Dật để dụ hàng. Hữu Dật được thư cả giận, giả vờ trả lời rằng : "Tháng sau xin vương đem quân tiếp tôi ở

trên sông". Sứ Trịnh đi rồi, Hữu Dật tức thì đem bức thư và đồ vật của Trịnh Tạc biếu để báo lên và nói rằng : "Thần thờ chúa thượng, ơn như cha con, dám đâu có chí khác. Nay muốn tương kế tựu kế(2. Lấy kế nó làm kế mình.2) để bắt giặc, chỉ sợ ý ấy không bày tỏ thì không tội nào lớn bằng". Chúa trả lời rằng : "Ta vẫn biết khanh trung thành, của họ Trịnh tặng khanh cứ nhận lấy, đừng hiềm nghi bận lòng". Hữu Dật cả mừng.

Tháng 9, Trịnh Tạc biết Phạm Hữu Lễ âm mưu nội ứng, bắt xét hỏi và giết. Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật nghe tin ấy, thương tiếc không nguôi, lập đàn để tế. Họ Trịnh lại ngầm sai người sang sông Lam đem việc thu thuế trước đây tung phản gián ra để làm nghi hoặc lòng dân.

Mùa đông, tháng 11, Tộ Long từ Bắc Hà đến yết kiến Nguyễn Hữu Dật nói : "Người miền Bắc đều cho rằng "binh quý thần tốc"(3. Binh quý thần tốc: Việc binh quý ở mau chóng. 3), thế mà nay các tướng cứ ngờ vực không tiến, bỏ lỡ cơ hội đáng tiếc". Hữu Dật hậu đãi rồi bảo về. Rồi đến chỗ Hữu Tiến bàn việc xuất quân và thuật lại lời Tộ Long nói. Hữu Tiến hỏi : "Bây giờ Tộ Long ở đâu?". Hữu Dật trả lời : "Đã cho

về rồi". Hữu Tiến lặng im, có vẻ không bằng lòng. Bọn Tôn Thất Tráng, Tống Hữu Đại, Phù Dương đều nói rằng : "Đại binh đi chinh phạt thì lệnh ở nguyên soái, sao đốc chiến lại cho riêng Tộ Long về. Vả trước đây có mật thư gửi đến chưa biết hư thực thế nào, nay một lời nói của Tộ Long sao dễ tin được? Chi bằng hãy đóng quân để chờ thời". Hữu Tiến nói : "Phải". Hữu Dật đứng phắt dậy nói : "Tôi cùng chư tướng vâng mệnh ra quân, chí ở báo đền ơn nước. Vừa đây họ Trịnh gửi thư mật dụ tôi, tức thì tôi đã báo lên, chính muốn tương kế tựu kế để thành việc lớn, các ông không nên ngờ nhau". Hữu Tiến nói : "Bọn chúng ta chịu ơn hậu của nước nên cùng nhau ra sức báo đền chứ có ngờ gì. Nhưng các tướng nói đợi thời cũng có lý. Đốc chiến nên theo là phải". Do đó Hữu Dật uất ức không vui, bực tức thành bệnh.

Hàng tướng Phạm Tất Đồng lại mưu trở về với Trịnh, việc phát giác bị giết. Đầu là Tất Đồng về hàng, từng được sai làm tiên phong. Trịnh Tạc sai người đưa mật thư và cho ba khối vàng. Tất Đồng lại mưu trở về Bắc. Người bộ hạ lấy cắp được bức thư ấy đem cáo với Nguyễn Hữu Tiến. Tra xét biết hết tình trạng, liền bắt Tất Đồng và bọn đồng mưu hơn 20 người báo lên. Chúa ra lệnh giết hết.

Canh tí, năm thứ 12 [1660], mùa xuân, tháng 3, mở khoa thi, lấy được 5 người trúng cách về môn chính đồ và 15 người trúng cách về môn hoa văn.

Bấy giờ quân ta đóng lâu, có ý [nhớ nhà] muốn về. Quân Nghệ An mới hàng cũng nhiều người trốn đi. Nguyễn Hữu Dật thì hăng hái muốn tiến binh, mà các tướng phần nhiều không hợp ý. Nguyễn Hữu Tiến thì thấy Hữu Dật nhiều lần được khen thưởng, sinh lòng ghen ghét. Phù Dương nói với Hữu Tiến rằng : "Hữu Dật là bạch diện thư sinh, chỉ nhờ nói năng mà được tin dùng, tự ví mình với Quản Trọng(1. Người nước Tề làm tướng giúp Hoàn Công (thời Xuân Thu).1), Nhạc Nghị(2. Người nước Yên làm tướng giúp Chiêu vương (thời Chiến quốc). 2), bọn chúng tôi vẫn lấy làm xấu hổ. Lại nghe tin sứ Trịnh bí mật đi lại, sợ có ý khác chăng". Hữu Tiến giả cự ngay rằng : "Ông nói sai rồi. Đạo người làm tôi cốt lấy trung ái làm đầu, trung để thờ vua, ái để kết bạn, há lại nghi kỵ lẫn nhau mà phụ lòng ủy thác của triều đình sao?".

Mùa thu, tháng 8, Nguyễn Hữu Tiến đem quân sang sông Tam Chế, đánh tướng Trịnh là Lan (không rõ họ bấy giờ gọi là Quận công) ở xã

Do Nha. Quân Nghệ An mới hàng đều không có chí chiến đấu, nhiều người trốn đi. Hữu Tiến bèn rút quân lui về đóng ở bờ sông phía nam. Lan đem quân giữ lũy Đồng Hôn. Trước là Hữu Tiến cùng các tướng họp quân, không cho Hữu Dật biết. Kịp khi Hữu Dật nghe tiếng súng nổ, khiến người chạy đến hỏi, Hữu Tiến liền khiến Hữu Dật tiến đánh lũy Đồng Hôn.

Hữu Dật tức thì đem quân bản bộ đánh nhau với Lan. Lan thua chạy. Thủ tướng Miện lại đem quân quanh ra sau núi để đột công. Vừa Hữu Tiến đem đại binh kế đến, Miện không dám chống cự, chạy về An Trường. Bấy giờ Hữu Tiến lại đốc hết quân sang sông Lam để đóng đồn. Hữu Dật thì đóng quân từ Đồng Hôn đến xã Lãng Khê để làm thế dựa nhau, và sai quân làm cầu phao để qua bờ nam sông. Uy thế quân thêm mạnh. Trịnh Căn nghe tin cả sợ, muốn bỏ Nghệ An lui giữ Thanh Hoa, nhưng lại đạc chừng rằng quân ta hẳn không ở lâu, bèn thôi. Hữu Tiến, Hữu Dật đem tin thắng trận báo lên và xin đại binh tiếp ứng.

Chúa trả lời rằng : "Dùng binh là việc lớn, trước xét thời, thứ xem địa lợi, sau đo đắn lòng người. Nay là lúc thu đông giao nhau, mưa gió rét mướt, đó là điều bất lợi thứ nhất. Quân đóng về phía bắc sông, trước không có thành quách, sau cách trở sông lớn, đó là điều bất lợi thứ hai. Quân đi trận đã 5 năm, lòng người ai cũng mong về, nếu cất quân đánh chóng, ít không địch nổi nhiều, tình người không khỏi không sợ hãi ngờ vực, đó là điều bất lợi thứ ba. Chi bằng hãy về lũy cũ để yên lòng quân, đợi sang xuân lại cử binh cũng chửa muộn". Bấy giờ Hữu Tiến ra lệnh rỡ cầu phao và kéo quân về phía nam sông Lam đóng ở lũy cũ để cố thủ.

Tháng 9, Trịnh Căn thẹn vì Đồng Hôn thất thủ, muốn đánh báo thù, ra lệnh làm cầu phao qua sông Lam, sai đô đốc Diệu (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công) lãnh quân qua dinh Khu Độc, xông đánh vào Hoành Lũy và Thạch Hiệp, Tham đốc Hằng lãnh chiến thuyền theo đường Lãng Khê Hoành Cảng đánh úp phía sau. Nguyễn Hữu Dật biết mưu ấy, bèn sai tỳ tướng là Trương Văn Vân phục quân ở rừng Thạch Hiệp, Triệu Tô và

Tú Minh (hai người đều không rõ họ) đóng ở nơi gò cao Hoành Cảng để chống cự. Diệu ban đêm đến rừng Hoành Lũy, phục binh vùng dậy, quân Trịnh đầu cuối không đoái được nhau, bị chết rất nhiều. Sáng rõ Diệu lại đem quân còn lại chạy đến lũy Ngưu Pha. Thủ tướng ta là Trương Phước Hùng đánh không lợi, thua chạy. Tướng Trịnh là Hằng đem thủy binh đến Lãng Khê. Quân ta bắn đánh, Hằng phải bỏ thuyền chạy.

Bấy giờ quân ta cách sông cùng cầm cự với quân Trịnh. Trịnh Căn họp các tướng để hỏi chước. Trần Công Bách đáp rằng: "Lận Sơn (ở huyện

Nghi Xuân) là nơi tất phải tranh lấy. Hễ chiếm được Lận Sơn trước thì thắng". Căn nói : " Ta thường lên núi Dũng Quyết (tên xã) xem kỹ hình thế, vẫn lưu tâm ở đấy. Nay ông nói thế thật đúng ý ta". Công Bách nhân xin làm tiên phong. Căn y cho, tức thì chia binh làm hai đạo, sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Đồng qua sông ở xã Âm Công (thuộc huyện Hưng Nguyên), cùng Lê Thời Hiến do xã Tả Ao (thuộc huyện Nghi Xuân) vượt qua cửa

Hội Thống, đều phát binh vào nửa đêm. Mờ sáng Căn tự đem đại binh lên núi Dũng Quyết tiếp chiến. Tướng Trịnh là bọn Nghĩa Giao sang sông trước, đến thẳng núi An Lạc (tên xã). Trân Công Bách đi sâu vào để cướp chiếm Lận Sơn. Gặp phục binh của Hữu Dật từ trong rừng xông ra, Công Bách hết sức đánh nhau với bọn Đinh Đức Nhuận, bị chết. Thuộc tướng là bọn Vũ Bách Phước, Lê Văn Hy, Lưu Thế Canh đều nghe hơi mà chạy trốn. Quân ta bốn mặt vây lại, thanh thế rất mạnh. Căn sai Trần Tiến Triều đem hết chiến sĩ ra đánh giáp, lại cho thủy quân tiến quá bờ sông mà bắn liên tiếp sang. Quân ta bèn lùi. Bọn Thời Hiến đến Tả Ao, quân ta đánh rất hăng. Mai Văn Hiếu, Phạm Thạch, Dương Quỳnh, Trịnh Thế Khanh đều thua. Mẫn Văn Liên bị chết. Thời Hiến lại đốc quân đánh gấp, đuổi đến xã Hoa Viên. Quân ta lùi giữ Nghi Xuân.

Mùa đông, tháng 10, từ sau khi Trương Phước Hùng thua, Nguyễn Hữu Tiến dò biết rằng tướng sĩ Nghệ An mới hàng đều mang chí khác, bèn họp chư tướng lại để hỏi kế. Tống Hữu Đại nói : "Việc binh cần phải nghiêm, xin xét ở trong quân hễ có kẻ mưu phản thì giết ngay một hai tên để răn bảo kẻ khác". Tôn Tất Tráng cũng dựa theo mà khuyên như thế. Nguyễn Hữu Dật đứng ra nói rằng : "Hai ông vừa nói đó là phép hành binh thôi, chứ việc dụng binh thì cốt yếu là ở nhân hòa, hễ lòng người hòa thuận thì đánh đâu cũng được. Vậy chỉ nên lấy ơn mà kết hợp, lấy tín mà cảm phục, thì người ta tự vui theo, chém giết làm gì?". Tham mưu Võ Đình Phương nói : "Nay bọn hàng tốt thì hai lòng, mà thế địch thì còn vững, chi bằng hãy rút quân về, sẽ tính bước sau". Hữu Tiến thấy bàn bạc không thống nhất, bèn bí mật định chước rút quân. Nhưng cuối cùng vẫn giận lời nói của Hữu Dật.

Tháng 11, Trịnh Căn sai Lê Thời Hiến và Lê Sĩ Triệt do bờ biển đi

qua xã Cương Giản mà tiến, Hoàng Nghĩa Giao, Nguyễn Năng Thiệu do đường bộ đi quan hai xã Lũng Trâu và Màn Trường mà tiến. Quân ta cùng quân Trịnh đánh nhau ở hai xã An Điềm và Phù Lưu đều thua. Bấy giờ

Nguyễn Hữu Tiến bèn quyết định rút quân, nói phao là sai các tướng do đường thủy, đường bộ đều tiến, lại báo cho Nguyễn Hữu Dật đem quân tiếp ứng, hẹn trống canh ba hôm sau tới thẳng An Trường đánh phá dinh quân Trịnh, mà dặn riêng các tướng đến đêm rút về châu Nam Bố Chính, chỉ không cho một mình Nguyễn Hữu Dật biết.

Đêm ấy Hữu Dật sắp sẵn binh giáp ngồi chờ. Đến khi biết tin Hữu Tiến rút quân thì quân Trịnh đã sang sông tiến sát đến ngoài dinh rồi. Hữu Dật bèn giả vờ cho hát xướng vui vẻ mà bí mật cho quân sĩ rút lui. Trịnh Căn ở ngoài, nghe tiếng đàn sáo sinh ngờ, không dám đến gần. Hữu Dật thong thả rút quân về. Đến Hoành Sơn thì họp với quân Nguyễn Hữu Tiến. Quân Trịnh đi gấp đường đuổi kịp. Hai bên giao chiến. Quân Trịnh bị thương và chết rất nhiều. Trịnh Căn bèn lui 20 dặm để đóng đồn. Hữu Tiến cũng lui đóng ở cửa biển Nhật Lệ. Hữu Dật ở sau, bí mật sai người kéo cành cây ở trong rừng làm cho cát bụi tung bay và cho treo nhiều cờ lên ngọn cây để mà nghi binh. Tướng Trịnh là Nguyễn Đễ thấy thế, quả nhiên sinh ngờ, không dám tiến. Các tướng đem được toàn quân về châu Nam Bố Chính. Việc báo lên, chúa hạ lệnh chia quân đóng đồn ở những nơi hiểm yếu để phòng ngự. Từ đấy 7 huyện Nghệ An lại trở về Bắc Hà.

Tân sửu, năm thứ 14 [1661], mùa xuân, tháng giêng, lấy Nguyễn Hữu Dật làm Chưởng cơ, trấn thủ dinh Bố Chính. Hữu Dật đã vâng mệnh, sửa sang thành lũy, yên vỗ quân dân, sự phòng giữ biên cương càng thêm vững.

Tháng 2, Trịnh Căn rút quân về, lưu Đào Quang Nhiêu làm trấn thủ Nghệ An kiêm trấn châu Bắc Bố Chính, Lê Sĩ Triệt, Hồ Sĩ Dương,

Trịnh Thời Tế làm đốc thị, lãnh các tướng mà đóng đồn ở Kỳ Hoa.

Khi đầu giám hộ quân Chu Hữu Tài vì thông hiểu thuật số nên được dùng, đến đây bọn hàng tướng Nghệ An nhiều người làm phản, chúa mới thờ ơ. Hữu Tài bèn cùng Cổn Lương nhân đêm trốn đi.

Mùa hạ, tháng 5, ngày Tân mão, hoàng mẫu là Đoàn thị (tức là Hiếu chiêu hoàng hậu, là con gái Thạch quận công Đoàn Công Nhạn) băng, táng ở gò Cốc Hùng trên núi Chiêm Sơn (tức là lăng Vĩnh Diên).

Mùa thu, tháng 8, chúa hạ lệnh cho Nguyễn Hữu Dật dời đồn sang xã Phước Lộc, đắp lũy từ cửa An Náu (tên xã) đến núi Chu Thị (tên xã), tiếp với lũy lớn Động Hồi, dựng pháo dài, sửa đường sá làm kế phòng giữ.

Mùa đông, tháng 12, Trịnh Tạc lại dẫn vua Lê đi đến Phù Lộ, sai

Trịnh Căn đốc các quân chia làm ba đạo để xâm lấn, lấy Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, Lê Thời Hiến, Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt, Trịnh Thời Tế làm Đốc thị. Thủy binh đóng ở cửa Nhật Lệ, bộ binh sang sông Gianh đóng ở thôn Phước Tự, đối diện với lũy An Náu. Trấn thủ Nguyễn Hữu Dật sai Trương Văn Vân và Vân Trạch (không rõ họ) chia binh chống giữ. Tham mưu của Trịnh là Hoan Trung (không rõ họ) đem quân khiêng án và giương tàn lọng lên, đi về phía cửa lũy của Vân Trạch mà kêu lớn lên rằng : "Có sắc mệnh của thiên tử nhà Lê đây!" Vân Trạch đáp rằng : "Năm ngoái quân ta lui về Hoành Sơn, bọn bay đuổi đánh, lúc ấy hỏi có sắc mệnh của thiên tử nhà Lê không? Muốn đánh thì đánh, sao dám nói láo như thế ?" Nhân bắn chết Hoan Trung. Quân Trịnh bỏ án mà chạy. Quang Nhiêu giận lắm, sai Thời Hiến tung quân đánh gấp, suốt ngày không được, bèn quay về Phước Tự. Hữu Dật đem việc báo lên. Chúa cho là quân ta một mình đóng giữ cô thành, bèn hạ lệnh cho lùi vào đại lũy. Hữu Dật mới làm kế thanh dã(1. Làm cho vườn không nhà trống. 1), sai hộ vệ dân châu Nam Bố Chính vào trong lũy để cố thủ. Đào Quang Nhiêu bèn chiếm giữ dinh Bố Chính.

Nhâm dần, năm thứ 14 [1662] (Lê ? Vạn Khánh năm 1, Thanh ? Khang Hy năm 1), mùa xuân, tháng giêng, Nguyễn Hữu Dật dời quân sang đóng đồn ở Võ Xá. Chúa sai sứ đến bảo rằng : "Quân miền Bắc từ xa lại, thế không thể đóng lâu được. Quân ta cứ việc bền giữ đừng đánh, nhân lúc chúng nhọc mệt hãy đánh, đó là kế vạn toàn".

Tháng 2, quân Trịnh bày trại ở hai xã Trấn Ninh và Chính Thủy, hàng ngày khiêu chiến mấy lần. Quân ta vẫn không động. Hơn một tháng, quân Trịnh thiếu lương. Đào Quang Nhiêu đưa thư khiêu khích. Bấy giờ

Nguyễn Hữu Dật mới định kế, sai Trương Văn Vân đem quân giả trang làm quân Trịnh, nhân đêm lẻn ra khe Động Hồi (tên xã), kéo thẳng đến dinh Quang Nhiêu, bắn giết quân Trịnh hơn 100 người. Các tướng ở trong thành đều bắn không đạn và khua trống hò reo để hưởng ứng. Quang Nhiêu sợ lắm, cho rằng đại binh ụp đến, bỏ dinh chạy về miền Bắc. Sáng rõ, Hữu Dật đem quân thủy bộ đều tiến. Trịnh Căn cũng bỏ dinh chạy. Quân ta đuổi đến sông Gianh, bắt được hết voi ngựa, khí giới. Trịnh Tạc dẫn vua Lê trở về. Hữu Dật đem tin thắng trận báo lên. Chúa bảo tả hữu rằng : "Trước ta không cho xuất quân là để nuôi nhuệ khí. Nay Hữu Dật phá được giặc lớn, thật là có tướng tài, ta còn lo gì nữa ?". Sai đem vàng lụa thưởng cho

tướng sĩ.

Mùa thu, tháng 9, vua Lê đổi niên hiệu là Vạn Khánh.

Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật xin đắp lũy Trấn Ninh để chống giữ đường biển, đối với lũy Sa Phu (bấy giờ gọi là lũy Động Cát) làm thế dựa nhau. Chúa y cho. Vài tháng lũy đắp xong.

Vua Lê băng. Thái tử là Duy Vũ lên nối, đổi niên hiệu là Cảnh Trị, tức là Huyền Tông.

Tiền biên

Quyển V

Tiền biên - Quyển V

Thực lục về Thái Tông Hiếu triết hoàng đế (Hạ)

Quý mão, năm thứ 15 [1663] (Lê ? Cảnh Trị năm 1, Thanh ? Khang Hy năm 2), mùa hạ, tháng 5, chúa cho rằng trong trận đánh ở Nhật Lệ, nghề bắn của quân ta chưa được tinh, muốn bắt chước phép tập bắn của Thái Tổ, sai đắp ụ ở Hoằng Phước (chiều cao hơn 30 thước, chiều rộng hơn 130 thước), trước mặt đặt một cái xạ hầu(1. Một cái khung căng, ở giữa có cái đích để nhằm bắn. Theo Chu lễ chép, nhà vua bắn thì dùng da hổ, da gấu, da báo, chư hầu thì dùng da gấu, da báo, khanh đại phu thì dùng da nai để làm đích. 1), khiến thủy sư đi lại mà bắn thi, lấy bắn trúng hay không trúng mà định thưởng phạt. Từ đấy quân sĩ đều cố gắng, phép bắn ngày càng thêm tinh.

Mùa đông, tháng 12, gió tây bắc nổi lên, cát bay nhà đổ, người và súc vật tổn thương nhiều.

Giáp thìn, năm thứ 16 [1664], mùa hạ, tháng 6, Chưởng dinh tiết chế đạo Lưu Đồn là Nguyễn Hữu Tiến ốm, dâng biểu xin về. Chúa không biết dùng ai thay được cùng các tướng bàn định. Tôn Thất Yên thưa xin dùng Nguyễn Hữu Dật. Chúa sai triệu Hữu Tiến về trấn Cựu dinh để điều dưỡng, thăng Hữu Dật làm Chưởng dinh tiết chế đạo Lưu Đồn và lấy Trương Phước Hùng làm Chưởng cơ trấn thủ dinh Bố Chính.

Chúa thấy nước sông Vỹ Dã chảy xiết mạnh, hạ lệnh huy động dân ba huyện đắp kè đập để chắn giữ.

ất tỵ, năm thứ 17 [1665], mùa xuân, tháng 3, sai các tướng ở Chính dinh, Cựu dinh và Quảng Nam dinh cùng các quan châu, huyện, hương chỉnh bị đồ quân khí để đến tháng 4 làm đại duyệt ở phủ Đông Trì (bấy giờ gọi là Phủ Ao, nay là ấp Đông Trì Thượng). Các dinh Lưu Đồn, Quảng Bình và Bố Chính thì hội duyệt ở Chính dinh, lấy đồ binh khí cùn hay sắc để định thưởng phạt. Lại sai văn thần và các quan lại tam ty tập phép cưỡi ngựa bắn cung, người nào trúng thì được thưởng, ngựa chậm và bắn lạc thì bị phạt.

Mùa hạ, tháng 6, mưa dầm nước lụt, những kè đập ở sông Vỹ Dã bị lở, sai đắp lại.

Mùa thu, tháng 7, sửa lại chùa Thiên Mụ. Được mùa to.

Mùa đông, tháng 10, mưa gió to, kè đập sông Vỹ Dã lại hỏng, hạ lệnh thôi không đắp nữa.

Bính ngọ, năm thứ 18 [1666], mùa xuân, tháng 3, ở Hồ Xá có động đất.

Mùa hạ, tháng 4, núi Cam Lộ lở, dài 10 trượng.

Mưa máu xuống sông Thạch Hãn, nước đỏ 3 ngày mới trong.

Mùa thu, tháng 7, trấn thủ Cựu dinh là Nguyễn Hữu Tiến chết. Hữu Tiến bệnh nặng, bảo thuộc tướng rằng : "Ta chịu hậu ân của nước mà họ Trịnh chưa trừ được, đó là di hận của ta". Nói xong rồi chết, 65 tuổi. Tin buồn báo lên, chúa rất thương, tặng Hiệp mưu tá lý công thần đặc tiến Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự tiết chế Thuận quận công, cho tiền bạc gấm lụa táng theo lễ tước công. Hữu Tiến làm tướng lập được nhiều chiến công, người Bắc Hà gọi là Hổ uy đại tướng(1. Đại tướng oai cọp. 1), với Nguyễn Hữu Dật tiếng tăm ngang nhau, đều là công thần khai quốc. (Năm Gia Long thứ 5, được tòng tự ở Thái miếu, năm Minh Mệnh thứ 12, phong Anh quốc công).

Mùa đông, tháng 12, lấy Tham tướng Tôn Thất Tráng làm trấn thủ Cựu Dinh, cai cơ Tài Lễ (không rõ họ) làm Tham tướng.

Đinh mùi, năm thứ 19 [1667].

Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi, lấy được 5 người trúng cách về môn chính đồ, 14 người trúng cách về môn hoa văn, đều bổ dùng cả.

Mùa hạ, tháng 4, chúa đi chơi chùa Hòa Vinh. Trước là chúa đi chơi cửa Tư Dung (tên cũ là Tư Khách, tức nay là Tư Hiền), thấy núi Quy Sơn (nay là núi Linh Thái) phong cảnh đáng yêu, trên đỉnh núi có một cây tháp cổ, nổi tiếng linh thiêng, sai thủ bạ Trấn Đình Ân đốc suất quân dân dời cây tháp ấy đi nơi khác để lấy đất dựng chùa phật, công việc xong, gọi tên chùa là chùa Hòa Vinh. Đến đây chúa ra chơi, mở hội chùa lớn 7 ngày đêm.

Tháng 6, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa đông, tháng 10, ở kinh kỳ bị nạn châu chấu. Chúa sai dựng đàn làm lễ nhương trừ. Châu chấu ùa xuống biển chết. Mùa lại được to.

Mậu thân, năm thứ 20 [1668], mùa đông, tháng 10, khai kênh Hồ Xá. Chúa thấy kênh Hồ Xá bị lấp nghẽn, đường vận tải không tiện, muốn phỏng theo việc đào kênh ở đời Lê Hồng Đức (Hồ Hán Thương từng mở đường kênh từ Thủy Liên đến Hồ Xá, nhưng bùn cát đùn lên, vừa khơi lại lấp, làm mãi không thành. Khi Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, phát quân để đào mới thành, sau lại bồi lấp); bèn sai quan xem xét địa hình xem những nơi thấp ướt thì vẽ thành đồ bản tiến lên. Chúa thân đốc các quân và nhân dân ba huyện để khơi đào cho thông thuyền bè đi lại. Nhưng chỉ mấy tháng cát lại bồi lấp. Bèn hạ lệnh cho dân ở dọc kênh tùy thế mà khơi đào, hằng năm lấy làm lệ thường.

Đại hạn. Chúa sai đảo vũ, được một tuần thì mưa to.

Kỷ dậu, năm thứ 21 [1669], mùa xuân, tháng giêng, bắt đầu làm việc duyệt tuyển ở hai phủ Diên Ninh và Thái Khang, sai văn chức là Hồ Quang Đại đến làm.

Mùa hạ, tháng 4, đo ruộng dân để định tô thuế. Bấy giờ Ký lục Võ Phỉ Thừa dâng lời nói rằng : "Thần nghe binh và tài là chính sách lớn của nhà nước. Kho tàng đầy thì của dùng đủ, của dùng đủ thì binh giáp mạnh. Nay dân gian nhiều người chiếm canh ruộng lậu mà không chịu nộp thuế. Xin sai quan bao đạc những ruộng đất thực canh làm ruộng công để thu thuế má cung cho quốc dụng. Thế gọi là nhà nông xuất thóc để nuôi binh lính mà binh lính xuất lực để bảo vệ nhà nông, đó là chế độ đời xưa". Chúa khen phải, sai bọn văn thần Hồ Quang Đại chia nhau bao đạc những ruộng đất thực cày cấy của xã dân các huyện, định làm ba bực và chia các hạng ruộng mùa thu và đất khô để thu thóc thuế theo thứ bực. Ruộng công thì cho dân chia nhau cày để nộp tô, nếu có người khai khẩn rừng hoang mà cày thành ruộng thì cho trưng làm ruộng tư [bản bức tư điền] cho cày mãi mà nộp thuế riêng, xã dân không được tranh chiếm. Từ đó dân hết mối tranh

kiện, yên phận làm ăn. Về sau ruộng khẩn một ngày một nhiều, lại đặt ty Nông lại để coi việc thu thuế. (Ruộng nhất đẳng mỗi mẫu thu thóc 40 thăng,

gạo 8 hợp ; ruộng nhị đẳng, mỗi mẫu thu thóc 30 thăng, gạo 6 hợp ; ruộng tam đẳng mỗi mẫu thu thóc 20 thăng, gạo 4 hợp. Lại cứ 1 thăng thóc thì thu tiền phụ 3 đồng. Ruộng mùa thu và đất khô thì không chia thứ bậc, mỗi mẫu thu 3 tiền, không đủ mẫu thì thu 1 tiền. Duy quan đồn điền, quan điền trang, ruộng hoang mới khẩn và đất bãi bồi thì chia cấp làm ngụ lộc(1. Ngụ lộc: Lộc lương cấp cho các quan. 1), còn thì thu riêng nộp riêng.

Lại định phép đong lường, cứ 10 nhón tay(2. Lấy 2 hay 3 ngón tay nhón lấy được bao nhiêu, ấy là một nhón.2) là 1 vốc, 10 vốc là 1 hợp, 10 hợp là 1 thăng, 10 thăng là 1 hộc, 10 hộc là 1 thùng. Cái hộc dùng để thu thuế thì mỗi hộc có 50 thăng, lại thêm 25 thăng, thành mỗi hộc là 75 thăng. Lấy 500 thăng làm một thùng. Hộc để phát lương cho quân thì có 33 thăng 5 hợp. Hộc phát ở Nội phủ thì kém hộc phát cho quân 3 thăng ; thăng cũng giảm bớt).

Canh tuất, năm thứ 22 [1670], mùa hạ, tháng 4, các huyện Hương Trà và Quảng Điền mưa nước mặn, năm sáu ngày mới bớt.

Trịnh Tạc nhà Lê sai Lê Đắc Đồng, Trần Xuân Bảng đem thư đến cửa Nhật Lệ nói là phụng mạng vua Lê đến hỏi việc cống phú. Trấn thủ

Bố Chính là Triều Tín đem việc báo lên. Chúa bảo các tướng rằng : "Những việc lễ nhạc đánh dẹp đều không tự vua Lê ra lệnh. Đó là họ Trịnh giả mạng vua, quyết cự không nộp". Bọn Đắc Đồng trở về. Trịnh Tạc bàn muốn phát binh. Bề tôi là đô đốc Thông (không rõ họ) can rằng : "Binh pháp có nói rằng : "Biết người biết mình, trăm trận không nguy". Tôi trộm nghe ở Nam Hà, trên dưới hòa thuận, binh giáp tinh mạnh, ta chưa nên khinh động". Tạc bèn thôi.

Tháng 6, núi Ngọc Trản [Hòn Chén] lở, dài 6, 7, trượng, rộng 7 thước. Chúa sai quan cầu đảo.

Mùa thu, tháng 7, ở kinh kỳ phát hỏa, cháy lan hơn 700 nhà.

Tháng 9, ngày Nhâm thân, có khí lạ hiện ra ở phương thân(3. Tức là phương tây nam. 3) dài như tấm lụa, sắc đỏ vàng, sáng thâu đêm, đến tháng 12 mới tắt. Bấy giờ những tai dị(4. Tai dị: Những việc tai họa quái dị.4) thường hiện ra luôn, người ta bàn luận phân vân bất nhất. Chúa nói rằng : "Ta chớ nên lấy tai dị làm lo, chỉ nghĩ xét mình sửa đức để ngăn thôi".

Tân hợi, năm thứ 23 [1671].

Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tháng 9, gió bão, mưa như trút, mặt đất nước sâu tới 3 thước, người và súc vật bị tổn thương nhiều.

Mùa đông, tháng 11, vua Lê băng. Em là Duy Khoái nối ngôi, đổi niên hiệu là Dương Đức, tức là Gia Tông.

Nhâm tý, năm thứ 24 [1672], (Lê ? Dương Đức năm 1, Thanh ? Khang Hy năm 11), mùa xuân, tháng 2, ngày Canh thìn, hai mặt trời cùng mọc cọ sát vào nhau, hình như đấu chọi, một lát thì một cái biến đi, còn một cái vẫn sáng như cũ.

Mùa hạ, tháng 4, ngày 1, có nhật thực.

Tháng 6, họ Trịnh cử đại binh đến xâm lấn. Trịnh Căn làm nguyên soái thủy quân, Lê Thời Hiến làm thống suất bộ quân, lãnh quân 10 vạn, gọi lên là 18 vạn, chia đạo cùng tiến. Trịnh Tạc dẫn vua Lê đi tiếp ứng. Trấn thủ châu Bố Chính là Triều Tín báo tin lên. Chúa bảo các tướng rằng :

"Trịnh Tạc không sợ thất bại năm trước, lại tức bực mà nổi binh. Quân đã tức bực, tất bị tiêu diệt. Nay ta muốn chống được họ, trước hết phải chọn người làm nguyên soái". Các tướng đều nói : "Hoàng tử thứ tư là Hiệp (có tên nữa là Thuần, bấy giờ gọi là Chưởng cơ Hiệp Đức hầu) hùng dũng thao lược hơn đời, có thể khiến làm nguyên soái được". Chúa cho là phải, bèn cho Hiệp làm Nguyên soái, nha úy Mai Phú Lĩnh (có tên là Nhuận) và Ký lục Vũ Phi Thừa làm tham mưu, Chưởng cơ Trương Phước Cương (con Trương Phước Phấn) và Nguyễn Đức Bảo làm tả hữu tiên phong. Sai tướng thần lại đốc suất chở gạo lương ở ba kho Lai Cách, An Trạch và Trường Dục để sẵn mà cấp phát. (Đường chở có hai lối, có lối đường thủy, có lối đường bộ. Đường bộ đặt 2 đội Xa nhất và Xa nhị, mỗi đội 50 người, đặt 4 đội trưởng, cấp cho xe công 37 cỗ, trâu 74 con, mỗi xe đóng 2 trâu, mỗi người coi 7 xe, mỗi xe chở 1.200 bát gạo, chuyển vận rất là mau lẹ). Lại sai 5 cơ voi, điều động 150 thớt voi đến đóng trước ở xã Phù Tôn (nay đổi là Phù Chính).

Mùa thu, tháng 7, hoàng tử thứ tư là Nguyên soái Hiệp xuất quân. Đến phủ Tân Thắng ở Quảng Bình, các tướng họp tất, chia sai bày trại đóng

đồn. Nguyễn Hữu Dật giữ lũy Sa Phụ, Trấn thủ Quảng Bình là Nguyễn Mỹ Đức

giữ Chính lũy, Chưởng cơ Trương Phước Cương giữ lũy Trấn Ninh, Trấn thủ Bố Chính là Triều Tín giữ lũy Động Hồi, Trấn thủ Cựu Dinh là Thuận Đức (không rõ họ) giữ lũy Đâu Mâu, Cai cơ Thuận Trung (không rõ họ) giữ cầu Mỗi Nại. Tham tướng Tài Lễ đem chiến thuyền đóng cọc gỗ để ngăn cửa biển Nhật Lệ. Thủy bộ liên lạc làm thế dựa nhau. Các tướng vâng lệnh, cùng nói với nhau rằng : "Nguyên soái hiệu lệnh nghiêm minh, thật là tài làm tướng".

Tháng 8 nhuận, quân Trịnh đến châu Bắc Bố Chính, chia đạo đều tiến, để giám sát Nguyễn Sủng làm Đốc thị châu Bố Chính, khiến thu họp

hương binh. Trịnh Căn đem quân sang sông Gianh, đóng ở xã Đông Cao và Thanh Hà.

Tháng 9, Triều Tín bày lũy đối với quân Trịnh, chia binh tiến đánh không được, bèn đem dân châu vào trong lũy Động Hồi để cố thủ. Bấy giờ quân Trịnh đóng từ Chính Thủy đến Sơn Đầu, từ Phú Xá đến Trấn Ninh, lại đắp lũy từ Sơn Đầu đến bờ biển, bày một nghìn chiến thuyền ở sông Gianh và cửa Nhật Lệ, để tiếp ứng bộ binh, thanh thế vang dậy. Nguyên soái Hiệp nghe tin, sai Tham tướng Tài Lễ đem thủy quân đắp pháo đài ở lũy

Trấn Ninh. Tham mưu Đồng Giang (không rõ họ) mộ dân ven núi làm lính để giữ những đường xung yếu ở các cửa nguồn để phòng quân Trịnh thọc vào.

Chúa thấy quân Trịnh thế to, triệu bày tôi họp bàn rằng : "Quân giặc nhiều, quân ta ít, thế không địch được, các khanh đều nên trình bày xem nên đánh hay nên giữ". Cai cơ Tống Đức Minh thưa rằng : "Quân Trịnh vào sâu, lợi ở sự đánh chóng, ta cứ hào sâu lũy cao, giữ mãi để quân nó nhụt đi. Vả việc đánh thành là tai vạ của nhà binh. Quân Trịnh tiến đánh không được, lương thực không tiếp tế được, thế tất sẽ phải nhân đêm trốn đi, ta thừa thế đánh, một tiếng trống là phá được". Chúa còn cho khó. Trần Đình Ân mật thưa rằng : "Thần liệu tính quân Trịnh không có tới 10 vạn mà gọi lên 18 vạn là láo. Việc binh cần có tiếng trước rồi mới đến sự thực. Hai nước đánh nhau tất có gián điệp. Xin phao lên là quân ta có 16 vạn và tuyển thêm người cường tráng 10 vạn nữa, gọi là 26 vạn, do chúa tự làm tướng thân chinh, để cho bọn gián điệp về bảo nhau. Thế gọi là việc binh không kiêng quyền biến". Chúa cho là phải. Tức thì sai quan chia đi hai xứ để tuyển binh, và răn rằng : "Nếu chậm không kịp kỳ hạn ra quân thì lấy quân pháp trị tội".

Ngày ất mùi, Chúa thân đốc suất đại quân thủy bộ đều tiến. Sai đội Hữu bính cơ Tam thủy giữ cửa biển Tư Dung, đội Hậu thủy giữ cửa Eo, cơ Hậu thủy giữ cửa Minh Linh [cửa Tùng], huy động hết hương binh năm huyện bày đóng ở bờ biển Trường Sa. Từ đấy tiếng quân lừng lẫy, lòng người mới yên. Thuyền ngự tiến đến Kim Đôi, nhân gió nam, chạy thẳng đến Cựu Dinh, đóng lại ở phủ Toàn Thắng (trước là trại Toàn Thắng, đổi làm phủ).

Định thể lệ trạm đường thủy và đường bộ. (Trạm đường thủy cấp cho 4 cái thuyền, mỗi thuyền 6 người phụ chèo, chia làm 16 độ, độ nhất từ Bao Vinh đến Vân Khốt, độ nhì đến Cương Giản, độ ba đến Tam Giang, độ bốn đến Vân Trình, độ năm đến Tháp Quán, độ sáu đến Phương Lang, độ bảy đến Cầu Ngói, độ tám đến An Tiêm, độ chín đến Đông Giám, độ mười đến Hội Môn, độ mười một đến quán Nhĩ Hạ, độ mười hai đến An Mỹ, độ mười ba đến Câu Phụ [Cồn Câu], độ mười bốn đến Độ Thị [Chợ Đò], độ mười lăm đến Châu Thị, độ mười sáu đến

Hồ Xá thì lên đường bộ. Trạm đường bộ thì cấp cho 4 con ngựa, chia làm 17 độ. Độ thứ nhất từ Vinh Quang đến Kiều Thị [Chợ Cầu], độ nhì đến Kênh Thị

[Chợ Kênh], độ ba đến Châu Thị, độ bốn đến Hồ Xá, độ năm đến Hà Kỳ, độ sáu đến Phật Quán [Quán Bụt], độ bảy đến Liên Quán [Quán Sen], độ tám đến Cát Quán [Quán Cát], độ chín đến Ba Nguyệt, độ mười đến Dâm Hương, độ mười một đến Trà Quán [Quán Trà], độ mười hai đến Thị Quán [Quán Chợ], độ mười ba đến Bối Phụ, độ mười bốn đến Tráng Kiện, độ mười lăm đến Miếu Mít, độ mười sáu đến Cừ Hà, độ mười bảy đến lũy Sa Phụ. Bao Vinh, Vân Khốt, Cương Giản, Vân Trình, Phương Lang, An Tiêm, Đồng Giám, Hội Môn, Nhĩ Hạ, An Mỹ, Châu Thị, Hồ Xá, Vinh Quang, Hà Kỳ, Ba Nguyệt, Cừ Hà đều là tên xã thôn còn bao nhiêu là tên tục gọi các đất).

Mùa đông, tháng 10, Tham đốc thượng đạo của Trịnh là Văn Lộc (không rõ họ) từng đem quân đi lẻn quan núi Mật Cật để dò thăm Lũy Động Hồi. Triều Tín đứng trên lũy trông thấy, nói : "Đó là quân địch đến dòm ngó ta, có thể phục binh để bắt". Cai cơ Trương Văn Vân xin đi.

Triều Tín cho đi. Hoằng Phương (không rõ họ) bèn nói với Triều Tín rằng : "Phục binh là cách đánh lừa, phải giấu kín thanh tích ở rừng rậm mới được. Nay Mật Cật một quả núi trơ trọi, bốn mặt bằng phẳng, không phải là đất phục binh. Huống chi Vân lại là người chỉ có mạnh mà không có mưu, ắt lỡ việc lớn. Xin cho một nhánh quân ngầm theo sau để phòng tiếp ứng". Đêm hôm ấy Vân đóng quân ở trên núi Mật Cật. Quả nhiên, Văn Lộc dẫn quân tới vây, phóng lửa đánh gấp. Vân đánh thua chạy. Hoằng Phương đem quân đến tiếp chiến, quân Trịnh hơi lui. Vân chỉ chạy thoát được thân. Triều Tín muốn lấy quân pháp trị tội. Chúa cho rằng Vân trước ở Nghệ An có công, chỉ giáng làm cai đội cho về nhà, mỗi năm cấp cho ngụ lộc 100 quan cho trọn đời.

Trịnh sai người đến ngoài lũy Trấn Ninh mời tướng ta ra ngoài lũy nói chuyện. Nguyên soái Hiệp sai Cai hợp Tú Minh ra gặp. Sứ Trịnh hỏi rằng năm trước vua Lê có sắc mà cự tuyệt không nhận nên nay đến về việc ấy. Tú Minh trả lời : "Ông nói nhầm rồi! Trước tiên vương ta giúp nhà vua, thiên hạ ai cũng biết. Nay họ Trịnh chuyên quyền, hiệu lệnh tự mình đặt ra, những việc xảy ra đời Chính Trị(1. Đời Chính Trị (Lê Anh Tông), Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng phải xin vào trấn Thuận Hóa. 1) và đời Hoằng Định(2. Năm Hoằng Định thứ 20, Trịnh Tùng giết vua Kính Tông ở nội điện. 2) đã không nỡ nói đến . Năm trước cự sứ giả là cự họ Trịnh chứ không phải cự nhà Lê. Nay đã đề binh tới đây, muốn đánh thì đánh, còn kéo dài ngày tháng làm chi cho khổ ?". Sứ Trịnh không biện bạch được, từ biệt mà đi. Tú Minh về. Hiệp khen rằng : "Tú Minh đã biết dùng lời nói chính đáng để khuất phục người", rồi cho 20 lạng bạc. Hữu Dật nói : "Sứ Trịnh về báo, họ tất nổi giận mà động binh. Xin ra lệnh cho các tướng sửa sang binh giáp để đợi". Hiệp

theo lời.

Tháng 11, tướng Trịnh là Lê Thời Hiến đem quân đến lũy Trấn Ninh. Nguyên soái Hiệp thống suất đại binh đóng ở Cừ Hà, sai các tướng chia đóng ở đồn Sa Chủy và ở cửa Nhật Lệ để chia thế lực của giặc. Quân Trịnh đánh không được. Trịnh Tạc triệu các tướng đến quở trách. Thời Hiến lại đốc thúc 3.000 quân đến sát dưới lũy, san hào lấp rãnh, hợp sức đánh gấp. Quân ta ở trên lũy bày súng bắn xuống. Quân Trịnh bu vào đông như kiến leo lên. Quân ta chụm mác mà đâm. Quân Trịnh đào đất khoét thân lũy, hoặc thả diều giấy nhân gió mà phóng hỏa, hoặc bắn đạn lửa. Trong một ngày mà lũy sắp bị hạ ba bốn lần. Thủ tướng Trương Phước Cương xin bỏ Trấn Ninh, lui giữ lũy Mỗi Nại. Hiệp đáp rằng : "Quân ta mà lui thì địch tất thừa thế đuổi theo, ta không thể chống được. Nếu gắng sức cố giữ, ta đến cứu ngay". Bèn sai người chạy đến lũy Sa Phụ khiến Hữu Dật đem quân cứu viện Trấn Ninh. Hữu Dật nói : "Nhiệm vụ ta phải giữ Sa Phụ, Trấn Ninh không phải phận sự của ta, ta không dám đi". Dật lên trên lũy đứng trông xa thấy khói lửa mù trời, tiếng súng không dứt, biết là quân Trịnh đánh Trấn Ninh rất gấp, mới nghĩ lại rằng : "Ta nếu không đi thì nguyên soái tất phải thân đi. Có lẽ nào ta lại đùn địch cho nguyên soái đánh!" Tức thì dẫn quân đi. Lại đạc chừng rằng nguyên soái đã đi rồi, bẩm báo không kịp nữa, bèn vạch chữ ở cây đa giữa đường nói rằng : "Hữu Dật đã đến Trấn Ninh rồi, xin nguyên soái dời quân thay giữ Sa Phụ". Khi Dật đến thì lũy bị phá vỡ hơn 30 trượng, hầu như không thể chống được nữa. Bấy giờ đêm tối mò, cách nhau gang thước mà không thể nhận nhau. Hữu Dật sai bó củi và cỏ khô làm đuốc, đốt lửa soi sáng rõ như ban ngày. Quân Trịnh ngờ có phục binh, không dám tới gần. Hữu Dật kíp sai quân sĩ dựng ván làm phên, lấy sọt tre đựng đất để đắp vá những chỗ lũy vỡ lở. Sáng sớm quân Trịnh hết sức tiến đánh thì lũy đã bền vững rồi, không thể phá được.

Trước là Hiệp nghe tin Hữu Dật từ chối không đi cứu viện, tức thì thân đốc đại quân thẳng đêm đi luôn. Giữa đường nhìn thấy dấu chữ Hữu Dật vạch ở cây đa mới biết Hữu Dật đã đi, bèn dời quân đến giữ lũy Sa Phụ. Lại nghe tướng Trịnh là tham đốc Thắng (không rõ họ, bấy giờ gọi là Quận công) đem hơn 30 chiến thuyền từ cửa biển tiến vào, muốn chẹn bến sông Trấn Ninh để chặn đường viện binh của ta, tức thì sai cai cơ Kiên Lễ (không rõ họ) nhân đêm thẳng tới đồn Sa Chủy, đắp đài cát, đặt súng lớn, rình thuyền của Thắng đến thì bắn. Lại khiến Tham tướng Tài Lễ đem chiến thuyền ra cửa biển Nhật Lệ, trên dưới giáp đánh. Thủy binh của Trịnh quả bị Kiên Lễ đánh úp, mà Trấn Ninh lại có Hữu Dật đến cứu nên bộ binh của Trịnh không làm gì được. Quân ta cùng với quân Trịnh mấy ngày đánh nhau kịch liệt. Quân Trịnh chết xác chất thành đống, quân ta cũng bị thương và chết rất nhiều.

Chúa đóng ở Toàn Thắng nghe tin Trấn Ninh nguy cấp, sai sứ chạy tới quân trung hỏi tình hình binh sự. Hữu Dật nói với sứ giả rằng : "Trước kia ở Nghệ An ta đi sâu vào đất khách mà quân Trịnh còn chẳng dám làm gì, huống nay lũy cao hào sâu, ta là chủ mà Trịnh là khách, thì còn sợ gì nữa". Tức thì dâng biểu nói rằng : "Thần xin ra sức cố giữ và phá giặc để trả ơn nước. Nếu có sơ suất để xẩy ra chuyện lo, xin lấy quân pháp bắt tội thần". Sứ giả đem biểu về dâng. Chúa xem xong, nói rằng : "Hữu Dật từ lúc lên đàn làm tướng đến nay, vạch kế hiến mưu, đánh đâu được đấy. Nay lại nghe lời nói này, ta không lo nữa".

Tháng 12, Trịnh Tạc thấy đánh Trấn Ninh đã luôn mấy tháng mà không lấy được, vả ở đó đất ẩm thấp, trời rét buốt, sĩ tốt khó ở lâu được, bèn xin vua Lê về đóng ở Phù Lộ, sai Lê Thời Hiến ở lại giữ đồn

Chính Thủy. Thời Hiến bèn họp các tướng, lại đánh Trấn Ninh. Nguyên soái Hiệp sai cai cơ Ngô Thắng Lâm điều động hơn 60 thớt voi đi quanh theo bãi biển Trường Sa mà ra vào lũy Sa Phụ. Lại sai 4 chiếc binh thuyền của thủy đội chèo nhanh ra biển, đến ngang cửa Ròn, sáng đi chiều về, để làm cho quân Trịnh sinh ngờ. Thời Hiến liền ngay đánh lũy. Nguyễn Hữu Dật hết sức cố giữ, nhuệ khí gấp mười. Thời Hiến không thể đánh được. Lại nghe tin Trịnh Căn đem thủy quân đến sông Gianh thì bị cảm gió độc ốm nặng phải trở về Bắc, Thời Hiến càng sợ, nửa đêm rút quân về. Quân ta đuổi đến núi Lệ Đệ thì quân Trịnh đã sang sông rồi. Trịnh Tạc lại dẫn vua Lê về Đông Đô. Bấy giờ tướng Trịnh là Trấn thủ Nghệ An Đào Quang Nhiêu chết. Tạc lại sai Lê Thời Hiến thay đóng ở dinh Hà Trung, chia binh đóng đồn ở các đường trọng yếu châu Bắc Bố Chính phòng giữ nghiêm ngặt, lấy sông Gianh làm giới tuyến. (Phía nam sông là Nam Hà, phía bắc sông là Bắc Hà). Từ đấy Nam Bắc nghỉ binh.

Nguyên soái Hiệp dẫn quân về Thạch Xá. Tin thắng trận báo lên. Chúa sai đem vàng lụa thưởng cho tướng sĩ và ủy lạo các quân, rồi trở về phủ Lương Phước.

Quý sửu, năm thứ 25 [1673], mùa xuân, tháng 2, Nguyên soái Hiệp khải hoàn, đến phủ Lương Phước yết kiến. Chúa rất mừng, thưởng cho 100 lạng vàng, 1.000 lạng bạc, 50 tấm gấm.

Chúa ngự về phủ chính Kim Long, tế cáo trời đất tôn miếu, gia phong các vị linh thần, mở tiệc lớn khao tướng sĩ, định công mà ban thưởng theo thứ bực. Miễn 3 năm tô thuế cho nhân dân châu Bố Chính và nhân dân ở ngoài lũy. Lại miễn thuế thường tân và tiết liệu cho hai huyện Khang Lộc và Lệ Thủy. Trăm họ ai cũng vui mừng.

Mùa thu, tháng 9, bão to, nhà cửa nhân dân bị đổ, nước lụt tràn ngập, mặt đất nước sâu 3 thước.

Giáp dần, năm thứ 26 [1674], (Lê ? Đức Nguyên năm 1, Thanh ?

Khang Hy năm 14), mùa xuân, tháng 2, sai quan làm duyệt tuyển lớn, hết thảy theo như lệ cũ.

Sai cai cơ đạo Nha Trang dinh Thái Khang là Nguyễn Dương Lâm (con Quận công Nguyễn Văn Nghĩa là Thống suất dinh Quảng Bình) đem quân cứu nước Chân Lạp. Trước là Nặc Ô Đài nước Chân Lạp mưu làm phản, làm cầu phao và xích sắt, đắp thành Nam Vang, nhưng còn sợ vua là

Nặc Nộn, chưa dám hành động, bèn ngầm cầu viện nước Xiêm La, nói phao rằng vua Xiêm La đã phát 2 vạn quân bộ, 2 nghìn quân thủy, và một nghìn voi ngựa đến hỏi Nặc Nộn về tội cự mệnh. Nặc Nộn cả sợ, chạy về

Thái Khang. Dinh thần đem việc báo lên. Chúa nói rằng : "Nặc Nộn là phiên thần, có việc nguy cấp, không thể không cứu". Bèn sai Dương Lâm làm Thống binh, tướng thần lại thủ hợp là Nguyễn Diên Phái làm Tham mưu, Văn Sùng (không rõ họ) làm Thị chiến, đem quân đi đánh. Bọn Dương Lâm chia binh làm hai đạo, đương đêm đánh úp phá các lũy Sài Gòn (nay là tỉnh lỵ Gia Định) và Bích Đôi [Gò Bích], chặt cầu phao và xích sắt, thẳng tiến vây thành Nam Vang. Nặc Ô Đài hoảng sợ chạy chết, Nặc Thu đến quân môn xin hàng. Tin thắng trận báo về, triều đình bàn rằng Nặc Thu là dòng đích thì phong làm vua chính, đóng ở thành Long ức [U Đông], Nặc Nộn làm vua thứ nhì, đóng ở thành Sài Gòn, cùng coi việc nước, hằng năm triều cống. Thế là nước Chân Lạp yên.

Diên Phái và Văn Sùng chết ở trong quân. Diên Phái sau khi chết có ứng hiện linh thiêng, nhiều người cầu đảo. Chân Lạp lập đền thờ ở cửa biển Mỹ Tho (nay thuộc Định Tường).

Mùa hạ, tháng 5, ngày Quý dậu, mặt trời có quầng ba vòng.

Tháng 6, Thống binh Nguyễn Dương Lâm thắng trận khải hoàn, thăng làm Trấn thủ dinh Thái Khang, kinh lý việc biên phòng.

Mùa thu, tháng 7, mưa đá.

Mùa đông, tháng 10, vua Lê đổi niên hiệu là Đức Nguyên.

Tháng 11, ngày mồng 1, có nhật thực.

ất mão, năm thứ 27 [1675], mùa xuân, tháng 2, sao Thái bạch đi dọc trời.

Mùa hạ, tháng 4, vua Lê băng. Em là Duy Hợp nối ngôi, đổi niên hiệu là Vĩnh Trị, tức là Hy Tông.

Mở khoa thi lấy được 4 người trúng cách về môn chính đồ, 17 người trúng cách về môn hoa văn. Lại thi thám phỏng, lấy 7 người trúng cách. Phép thi thì thi một ngày, hỏi trạng binh dân và việc Lê Trịnh. Người trúng thì bổ vào Xá sai ty. Thi thám phỏng bắt đầu từ đấy.

Tháng 5, ngày Bính tý, Hoàng Tôn (tức là Hy tông Hiếu minh hoàng đế) sinh. ánh sáng điềm tốt đầy nhà. Trước là ngày Giáp tuất tháng 9 mùa thu năm Giáp dần, ở phương Tây Nam hiện ra một lỗ, mây sắc cuộn quanh, tự giữa một luồng ánh sáng tròn tỏa xuống. Người thức giả cho là điềm lành, bảo tất có chân chúa giáng sinh. Đến đây quả là có nghiệm.

Tháng 6, hoàng tử thứ tư là Nguyên soái Hiệp mất. Đầu là Hiệp vâng lệnh ra quân, dưới trướng thường dùng giáp sĩ hầu ở tả hữu. Có người Quảng Bình đem con gái mình nhan sắc tuyệt đẹp để tiến. Hiệp giận lắm, nhưng thương vì nghèo túng bèn cho tiền bảo về. Ai nghe thấy cũng đều phục đức lượng. Khi dẹp xong giặc trở về, tuyệt hẳn không cho đàn bà con gái yết kiến, dựng am nhỏ thờ Phật, thỉnh thoảng ra chơi, bàn đạo thuyết pháp để tự vui. Đến đấy bị bệnh đậu mà mất, mới 23 tuổi. Chúa rất thương nói : "Hiệp vì nước dẹp nạn, có công lớn với xã tắc, tuổi sao thọ ngắn thế!". Tặng Minh nghĩa tuyên lực công thần khai phủ phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Thiếu úy quận công. Táng ở xã Hiền Sĩ, lập đền thờ ở xã Vân Thê (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu, năm Minh Mệnh thứ 12 phong là Quốc Oai công).

Mùa thu, tháng 9, Trịnh Tạc sai tướng là Hữu đô đốc Trịnh Liễu trấn thủ Nghệ An kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Bính thìn, năm thứ 28 [1676] (Lê ? Vĩnh Trị năm 1, Thanh ?

Khang Hy năm 15), mùa xuân, tháng 2, mưa lụt, mặt đất nước sâu 4 thước. Trong kinh kỳ có nạn sâu keo, lúa má tổn hại, dân nhiều người chết đói.

Tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 8, ngày Nhâm tuất, sao chổi mọc ở phương Đông Bắc đến tháng 10 mới lặn.

Nha úy Ma Phú Lĩnh tố cáo tướng thần lại là Văn Giáo (không rõ họ) bịa đặt thơ sấm có câu rằng: "Hầu đáo kê minh hoàn thành giá, thỏ cư lam thượng mã long phi". [Nghĩa là: Khỉ đến gà gáy xe vua về, thỏ ở trên chùa ngựa rồng bay]. Văn Giáo bị giết. Chưa bao lâu thì Phú Lĩnh thổ huyết chết. Người ta cho đó là báo ứng sự vu oan giá họa. (Vợ Văn Giáo là cháu gái họ Phú Lĩnh bị Văn Giáo bỏ, vì đó gây thù oán).

Đinh tỵ, năm thứ 29 [1677], mùa xuân, tháng 2, sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 1, có nhật thực.

Được mùa to, mỗi đấu gạo giá 3 tiền.

Mùa đông, tháng 12, lấy Ký lục Vũ Phi Thừa làm Nha úy.

Mậu ngọ, năm thứ 30 [1678], mùa xuân, tháng 3, sai dân ở Cựu Dinh và hai huyện Vũ Xương, Hải Lăng làm phủ An Tiêm.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 9, Quảng Nam có sâu keo.

Kỷ mùi, năm thứ 31 [1679], mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến, Cao Lôi Liêm, Tổng binh Trấn Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà Nẵng, tự trần là bô thần(1. Bề tôi vì nước mất trốn ra ngoài. 1) nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ. Bấy giờ bàn bạc rằng : Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dung, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố (tên cổ của Gia Định) nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng, trao cho quan chức khiến đến ở đất Đông Phố. Lại cáo dụ nước Chân Lạp rằng như thế là có ý không để nước Chân Lạp ra ngoài. Bọn Ngạn Địch đến cửa khuyết tạ ơn để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến vào cửa

Lôi Lạp (nay thuộc Gia Định), đến đóng ở Bàn Lân (nay thuộc Biên Hòa). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà phong hóa Hán [phong hóa văn minh] thấm dần vào đất Đông Phố.

Tháng 2, sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Thi nhiêu học. Ra lệnh chỉ thi học trò chính đồ, học trò hoa văn không được dự. Thủ hợp Trấn Đình Ân can rằng : "Quốc triều ta thi học trò, nho và lại đều lấy, đều dùng cho nước nhà cả. Nay không cho hoa văn dự thi, sợ không phải là ý rộng nuôi nhân tài của tiên triều". Chúa không nghe.

Mùa hạ, tháng 4, núi Hải Vân lở.

Mùa đông, tháng 10, núi La Chử (tên xã) lở.

Tháng 11, lụt to.

Canh thân, năm thứ 32 [1680] (Lê ? Chính Hòa năm 1, Thanh ?

Khang Hy năm 19), mùa xuân, tháng giêng, sai nội tả Tống Đức Minh, nội hữu Trương Phước Cương kiểm tra tiền công các huyện xứ Thuận Hóa.

Tháng 3, ở Cam Lộ đất sụt.

Mùa thu, tháng 7, hai huyện Vũ Xương và Hải Lăng mưa nước mặn và mưa tro, lúa cấy khô héo.

Tháng 8, gió bão, nước lụt ngập, mặt đất sâu hơn trượng, người và súc vật bị thương và chết nhiều.

Mùa đông, tháng 10, vua Lê đổi niên hiệu là Chính Hòa.

Tháng 12, dựng hai kho ở hai xã Trường Xá và Tân An (một thuộc Đăng Xương, một thuộc Minh Linh). Bấy giờ thóc tô công điền ở các huyện do sở tại đặt kho để thu trữ. Lại có riêng quan điền trang và quan đồn điền để cấp cho huân thích quý thần(1. Những bà con của vua có công to và những bề tôi quý tộc.1) và các tướng có công làm ruộng ngụ lộc (huân thích quý thần mỗi người 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu, nội đội trưởng 3 mẫu rưỡi, ngoại đội trưởng 2 mẫu rưỡi), còn thừa đều cho dân cấy mướn, đến mùa lúa chín thu hoạch để sung việc chi dùng của Nội phủ. Đến đây chúa sai đặt kho để chứa.

Tân dậu, năm thứ 33 [1681], mùa xuân, tháng giêng, ngày Giáp tuất, ở phương Tây Nam có hai ngôi sao lay chuyển như hình chọi nhau, một lát thì lặn.

Tháng 3, Chưởng dinh tiết chế đạo Lưu Đồn là Nguyễn Hữu Dật chết, 78 tuổi, có di biểu lời rất khích thiết. Chúa xem xong, than thở. Tặng Tán trị tĩnh nạn công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Chiêu quận công. Hữu Dật là người sáng suốt, còn tài thao lược, đầu do tư cách văn chức được dùng làm giám chiến, danh vọng vốn đã rõ ràng, đến khi làm tướng thì nhiều lần dựng bày mưu lớn, đương thời lấy làm ỷ trọng, từng ví với Khổng Minh, Bá Ôn. Sau khi chết, dân Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu, năm Minh Mệnh thứ 12 phong Tĩnh quốc công).

Lấy Nội hữu chưởng cơ Trương Phước Cương cho thống suất đạo Lưu Đồn.

Mùa hạ, tháng 5, đào kênh Trung Đan. Chúa ra xem. Khi về đến quán Thanh Kệ dừng lại, ra lệnh cho các nội đội trưởng thi ngựa, cho ngựa đứng ở tây quán Triều Sơn, hễ nghe lệnh thì nhất tề phóng cương, chạy đến trường bắn xã Vạn Xuân thì dừng. Chúa bảo bề tôi theo hầu rằng : "Binh phải nhờ vào sức ngựa, ngày thường diễn tập cũng là giảng võ đấy". Bèn sai sửa chữa đường quan từ Vạn Xuân đến quán Thanh Kệ, đắp đài ngự mã, ra lệnh cho các quan văn võ và mã đội tả hữu thời thường tập tành. Do đấy quân kỵ xạ đều tài giỏi cả.

Mùa thu, tháng 8, đào kênh Mai Xá (tên xã). Bấy giờ chúa đi săn ở

Cổ Lâm (tên đất), thuyền qua kênh Thị Môn, có người địa phương nói rằng chỗ này sóng gió bất thường, thuyền buôn nhiều khi chìm đắm. Chúa muốn đào kênh mới, có người xã Mai Xá tên là Thế (không rõ họ) vẽ một bức đồ dâng lên, xin đào từ xã Mai Xá đến bến quán Nhĩ Hạ. Chúa theo lời, sai các quân và nhân dân hai huyện Vũ Xương và Hải Lăng đào, lấy ngoại hữu Hoằng Lễ (không rõ họ) trông coi công việc, một tháng thì đào xong. Khách buôn đi lại lấy làm tiện lợi. Chúa hậu thưởng cho tên Thế. Lại sai đo chỗ đất đào làm kênh hết bao nhiêu để trừ ngạch thuế cho xã Mai Xá và xã Lâm Xuân.

Nhâm tuất, năm thứ 34 [1682], mùa hạ, tháng 4, bọn thám tử từ

Đông Đô về nói rằng ngoài Bắc Hà, ở Cao Bằng và Hải Dương có biến động. Trịnh Tạc chia quân đi chống cự, Đông Đô bấy giờ bỏ không.

Chúa bàn muốn đánh Bắc Hà, rồi vì quân lương chưa đủ bèn thôi.

Tháng 6, ở xã An Ngạn đất sụt mấy chục trượng, sắc nước xanh như chàm, thường có hơi đen bốc lên, trông như khói mù, người không dám đến gần, sau 4, 5 năm mới khô.

Mùa thu, tháng 8, ngày Nhâm ngọ, có hai ngôi sao phạm vào góc mặt trăng, thường theo trăng mà đi.

Trịnh Tạc nhà Lê chết, con là Căn nối ngôi.

Quý hợi, năm thứ 35 [1683], mùa xuân, tháng 3, mở khoa thi lấy được 4 người trúng cách về chính đồ, 34 người trúng cách về hoa văn, 4 người trúng về thám phỏng.

Mùa thu, tháng 7, ngày Tân tỵ, sao yêu phạm mặt trăng, đến tháng 9 mới tắt.

Mùa đông, tháng 11, ngày Mậu dần, sao cờ hiện ở phía đông Nam, sắc nửa đỏ nửa trắng, dài ước hơn 30 thước, năm sau mới lặn.

Bệnh dịch phát, quân và dân chết rất nhiều. Chúa sai sửa lễ cầu đảo các thần kỳ mới yên.

Giáp tý, năm thứ 36 [1684], mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm ngọ, cầu vồng trắng hiện suốt trời.

Tháng 2, sai quan làm duyệt tuyển lớn. Bãi bỏ phép thi nhiêu học ở tuyển trường ; ra lệnh cho các học trò chính đồ ai có văn học thì đợi khoa thi mà ứng cử. Bầy tôi xin theo phép cũ. Chúa không nghe.

Mùa hạ, tháng 5, ngày Nhâm thân, sao Thái bạch đi dọc trời, đến tháng 6 mới lặn.

Mùa đông, tháng 10, hoàng tử cả là Diễn (lại tên là Hán) mất. Diễn được lập làm Thế tử, phong là Chưởng dinh Phước Mỹ hầu, đến nay mất, 45 tuổi. Chúa rất thương tiếc, tặng Tán lý dương võ công thần khai phủ thượng trụ quốc chưởng phủ sự thiếu sư Phước quận công. Táng ở núi Trúc Lâm (tên xã, thuộc huyện Hương Trà), lập đền thờ ở xã Thế Lại.

Tháng 11, ngày Quý hợi, có đàn quạ hơn nghìn con đậu kêu ở lầu phía nam Nội phủ, bắn cũng không tan.

Ngày Tân tỵ, nguyên phi là Chu thị băng, thọ 60 tuổi, tặng Tán quốc chính phu nhân. Táng ở núi An Ninh (tên xã, thuộc huyện Hương Trà), tức là lăng Vĩnh Hưng.

Lấy thủ hợp Trần Đình Ân làm cai hợp.

ất sửu, năm thứ 37 [1685], mùa hạ, tháng 5, ở Cam Lộ động đất.

Bấy giờ trong cõi vô sự, thóc lúa được mùa. Chúa càng sửa sang chính trị, không xây đài tạ, không gần con hát gái đẹp, bớt nhẹ dao dịch thuế má, trăm họ vui vẻ, đều khen là đời thái bình.

Tháng 6, ngày ất mùi, có sao sa từ phương đông bay sang phương tây, ánh sáng lòe ra bốn phía.

Mùa thu, tháng 8, hoàng tử thứ ba là Chưởng cơ Trăn (lại tên là Huyền) mất, tặng Thuần tín công thần Hữu quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thiếu bảo Cương quận công. Táng ở xã Thế Lại, lập đền để thờ.

Mùa đông, tháng 10, gió to, gẫy cây tốc nhà, nước lụt mênh mông, mặt đất nước sâu 4, 5 thước.

Tháng 12, núi Lương Phước lở, sai quan cầu đảo.

Bính dần, năm thứ 38 [1686], mùa xuân, tháng giêng, ngày Đinh mão, mặt trời mọc hơi khuyết một bên, một lát lại tròn. Chợt có gió to nổi lên, đá cát bay tung.

Tháng 2, nước sông Trà Khúc (tên xã) ở Quảng Ngãi cạn khô.

Đầm Dủ Dủ thuộc xã Thủy Liên, huyện Lệ Thủy, nước cạn thấy đáy, chốc lát nước lại chảy ra đầy như cũ.

Mùa thu, tháng 7, ngày Canh tý, cầu vồng trắng mọc từ phương đông sang phương Tây Nam, sắc trắng như lụa.

Tháng 8, ở xã Thượng Đô huyện Vũ Xương đất sụt.

Mùa đông, tháng 11, khai kênh Hà Kỳ. Chúa ra xem, dừng chân ở phủ cũ Tân An. Cho nơi này thế đất eo hẹp và ở kề bên sông, sai chọn đất dời đắp phủ mới, sau lại thôi.

Đinh mão, năm thứ 39 [1687], mùa xuân, tháng 3, chúa không được khỏe, ngày Đinh dậu triệu hoàng tử thứ hai là Hoằng Ân hầu đến bảo rằng: "Ta bình sinh ra vào gian hiểm để giữ nhà giữ nước. Mày nối ngôi phải sửa thêm nhân chính cho yên bờ cõi. Các quan văn võ đều do ta cất dùng, phải đem lòng tin dùng cùng mưu mọi việc, đừng để cho bọn tiểu nhân lẻn vào". Lại triệu các đại thần đến bảo rằng : "Ta với các khanh một chí khí với nhau mà công việc mưu đồ chưa trọn. Nay con ta tuổi còn nhỏ, mong nhờ các khanh đồng tâm giúp đỡ, cho công nghiệp của tổ tông được rỡ ràng. Đừng quên lời ấy". Bầy tôi đều xin làm như việc cũ của Chu Công nạp sách trong hòm kim đằng((1) Vua Vũ Vương nhà Chu ốm gần chết, triệu Chu Công vào dặn công việc nước, giao Chu Công giúp con mình là Thành Vương. Chu Công làm bản sách xin nộp mình chết thay khấn ở nhà Thái miếu. Tờ sách ấy bỏ vào trong cái hòm buộc giây vàng.1). Chúa cười nói rằng : "Các khanh yêu ta, nhưng số trời thì sao được". Nói xong thì băng.

Chúa ở ngôi 39 năm, thọ 68 tuổi.

Hoàng tử thứ hai nối ngôi, đem bầy tôi dâng thụy hiệu là Đại nguyên súy tổng quốc chính Công Cao Đức Hậu Dũng Triết vương. Táng ở núi

Hải Cát.

Thế tông hiếu vũ hoàng đế truy tôn là Nghị tổ Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chính Thành Đức Thần Công Hiếu triết vương và [truy tôn] nguyên phi là Từ Mẫn Chiêu Thánh Trang phi, thứ phi là Từ Thiên Huệ Thánh Tĩnh phi. Năm Gia Long thứ 5 truy tôn là Tuyên Uy Kiến Võ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu triết hoàng đế, miếu hiệu là Thái tông, lăng gọi là Trường Hưng, [truy tôn] nguyên phi là Từ Mẫn Chiêu Thánh Công Tĩnh Trang Thận Hiếu triết hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Hưng, thứ phi là Tứ Liên Huệ Thánh Trinh Thuận Tĩnh Nhân Hiếu triết hoàng hậu, lăng gọi là Quang Hưng.

Tiền biên

Quyển VI

Tiền biên - Quyển VI

Thực lục về Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế

Anh tông Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu nghĩa hoàng đế, húy là [Phước Trăn], sinh năm Kỷ sửu [1649] (Lê ??Khánh Đức năm 1, Thanh ??Thuận Trị năm 6), là con thứ hai của Thái tông Hiếu triết hoàng đế. Mẹ là Hiếu triết hoàng hậu Tống thị. Trước kia hoàng tử cả Diễn mất sớm, Thái tông Hiếu triết hoàng đế cho chúa là lớn tuổi và hiền đức, phong là Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Ân hầu, làm phủ đệ tại dinh Tả thủy. Năm Đinh mão, mùa xuân, tháng 3, ngày Đinh dậu, Thái tông Hiếu triết hoàng đế băng. Chúa 39 tuổi. Bầy tôi vâng di mệnh tôn chúa làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái phó Hoàng quốc công. Chúa nối ngôi, rộng hình phạt, nhẹ phú thuế, trăm họ ai cũng mừng vui. Bấy giờ gọi là Chúa Nghĩa.

Mùa hạ, tháng 4, phong sắc cho các vị linh thần trong cõi. Thưởng bạc cho các quan văn võ theo thứ bực.

Thăng Chưởng dinh trấn thủ Quảng Nam là Nguyễn Đức Bảo làm Trấn phủ, Chưởng cơ đạo Lưu Đồn là Trương Phước Cương làm Chưởng dinh, Thống suất trấn thủ Cựu Dinh là Tôn Thất Tráng, Trấn thủ Quảng Bình là Tống Hữu Thận, Chưởng cơ Tôn Thất Đạt (lại tên là Sinh, con Tôn Thất Khê), Tống Đức Minh và Bình Lộc (không rõ họ) làm Chưởng dinh, Trấn thủ Bố Chính là Nguyễn Cửu Ưng, Tôn Thất Phương, Cai cơ Ngô Thắng Lâm làm Chưởng cơ, Cai bạ Nguyễn Hữu Hợp làm Tham chính, Chánh đoán sự Nguyễn Đức Chiêu làm Tham khám, Nha úy Vũ Phi Thừa làm Tham nghị, Đô tri Nguyễn Vô Địch làm Chánh thiêm sự, Chưởng thái giám Mai Phước Hòa làm Tổng đốc, Thái giám Ngô Tân làm Chưởng thái giám, Cai hợp Trần Đình Ân làm Câu kê kiêm Tri bạ Thủ hợp Nguyễn Khoa Danh làm Cai hợp, Văn Vị (không rõ họ) làm Thủ hợp. Những người khác đều được thăng trật theo thứ bực.

Miễn một nửa thuế ruộng mới tăng cho năm Kỷ dậu. Dụ rằng : "Đạo trời trên mở máy xoay vần, rải khí dương hòa khiến mọi vật đều được thỏa thích ; đức vua cẩn từ buổi mới, rắc gieo huệ trạch để cùng dân ngày một mới thêm. Nhà nước ta, mở vận vẻ vang, lo dân tha thiết. Đời Hoàng tổ, dưới núi Kỳ vang tiếng phượng(1. Chu Văn Vương ở Kỳ Sơn dựng nghiệp nhà Chu.1), con đỏ đều tin được sáng soi ; triều Thần Tông, trong đất Thục giữ thế hùm(2. Lưu Bị mưu khôi phục nhà Hán ở đất Thục.2), dân đen đều mừng lòng trông đợi. Đã xem gương trước, lại để mưu sau. Nay tiểu tử ta, chước cả kính noi nhờ công tổ đức tông truyền lại ; mạng to vâng chịu được trời cho người thuận cùng về. Ngự lên ngôi lớn, mệnh là sắc, theo từng việc từng thời ; nói dùng cáo, khắp mọi người mọi chốn. Phàm quan trong triều ngoài quận, chớ gầy dân để nuôi béo nhà ; các chức trên phủ dưới châu, đừng bỏ ngay mà làm trái phép. Ngục tụng phải cho công chính ; thuế dịch thì nên nhẹ nhàng. Quan lại đã yên lành, nhân dân đều vui nghiệp. Phải nên suy rộng ơn huệ, để được thỏa tình nhân dân".

Lệnh ban xuống, xa gần đều rất mừng.

Lấy những người cựu thuộc là Văn Nhưng, Gia Du (đều không rõ họ) sung văn chức, Đinh Đức Tuấn sung Chiêm hậu ty, nội thư tả là Nguyễn Viết Trí và Lữ Hữu Ninh sung Tướng thần lại ty, 18 người lệnh sử sung Lệnh sử ty, 13 người phòng sai sung Xá sai ty. Lại lấy Hòa Tín (không rõ họ) là Thủ hợp dinh Quảng Nam làm văn chức ở Chính dinh.

Tháng 5, nhà quan xá của ty Tướng thần lại thất hỏa, cháy lan ra các nhà của quan và dân hơn 800 nhà.

Tháng 6, định chế độ tang phục [đối với chúa]. Người tôn thất và thân thần thì để tang 3 năm. Từ cai đội trở lên thì để tang hai tuần Trung nguyên(3. Tức trải hai lần đốt mã ở tiết Trung nguyên, rằm tháng bảy.3), các nội ngoại đội trưởng, văn chức, câu kê thì để tang đến tuần giỗ đầu, còn quân và dân thì để tang đến tiết Trung nguyên. Bấy giờ thần dân ở trong triều ngoài nội nghe tin có quốc tang, dù ở nơi núi sâu hang cùng, dù là kẻ già con trẻ, không ai là không quay chạy kêu gào ; người chài cá thì bỏ thuyền, người chặt củi thì bỏ búa, người đi cày quên bờ, người đi chăn thì buông trâu, tiếng bi thương vang khắp gần xa.

Tính chúa rất hiếu, khi cúng tế rất là thành kính, các thứ cầm thú quý lạ đều đủ hết.

Mùa thu, tháng 7, lấy phủ cũ làm miếu Thái tông, dời dựng phủ mới sang Phú Xuân (tên xã, thuộc huyện Hương Trà, tức là kinh thành bây giờ), lấy núi đằng trước (tức núi Ngự Bình) làm án ; đắp tường thành, xây cung điện, trước mặt đào hồ lớn, trồng hoa cỏ cây cối, thể chế rất tráng lệ. Lại thấy nước sông ở thượng lưu chảy xói vào phía hữu, sai xây tháp ở bờ sông để trấn áp.

Mùa đông, tháng 11, vua chính nước Chân Lạp là Nặc Thu, vua thứ hai là Nặc Nộn, sai bề tôi là ốc Nha Lịch Đa Thi Na đến dâng hương [lễ chúa trước].

Mậu thìn, năm thứ 1 [1688] (Lê ??Chính Hòa năm 9, Thanh ??Khang Hy năm 28), mùa xuân, tháng giêng, mưa gió to, nước lụt tràn ngập, mặt đất nước sâu 3 thước.

Tháng 3, Tôn Thất Tín (con Tôn Thất Dương) đi thuyền câu cá ở sông Hương, đến trước lăng núi Hải Cát (tức là lăng Trường Hưng(1. Trường Hưng lăng : Lăng Hiếu triết hoàng đế.1)) cười nói như không, bỗng nghe tiếng hét như sấm, Tín sợ run người rồi chết.

Mùa hạ, tháng 5, dựng chùa Thuận An.

Tháng 6, phó tướng Long Môn Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, tự xưng là Phấn dũng hổ oai tướng quân, thống lĩnh dư chúng Long Môn, dời đồn sang Nan Khê(2. Phủ biên tạp lục chép là Rạch Than. 2) (nay thuộc huyện Kiến Hòa, tỉnh Định Tường), thủ hiểm đắp lũy, đúc đại bác, đóng chiến thuyền, thả quân đi cướp bóc. Vua chính nước Chân Lạp là Nặc Thu oán giận, bèn mưu với bề tôi là ốc Nha Cống Sa bỏ việc triều cống và đắp ba lũy Bích Đôi [Gò Bích], Cầu Nam và Nam Vang, rồi chằng xích sắt ngăn cửa sông, làm kế cố thủ. Vua thứ nhì là Nặc Nộn biết mưu ấy, cho chạy báo với dinh Trấn Biên. Phó tướng Mai Vạn Long liền gửi trạm dâng thư [của Nặc Nộn]. Chúa giận lắm, bèn triệu các quan bàn việc xuất binh. Chưởng dinh Tống Đức Minh nói : "Nặc Thu là một tên man nhỏ ghẻ lở, không cần phiền đến đại tướng của triều đình. Cai cơ Trấn Biên là Nguyễn Thắng Long (con Nguyễn Dương Lâm) là người có mưu lược, quen biết thủy thổ Chân Lạp, nên sai làm thống binh đi đánh. Vả Hoàng Tiến giết chủ tướng nó, cầm quân ở Nan Khê, lòng hắn thế nào chưa lường được, xin sai Tiến làm tiên phong để xem nó theo hay phản. Nếu hắn hoài tâm do dự thì ta tiến quân đánh ngay. Nặc Thu ngăn đằng trước, đại binh bức đằng sau, Tiến tất bị bắt. Đã đánh được Tiến thì thừa thế ta đánh thẳng vào Chân Lạp. Đó là kế vạn toàn". Chúa theo lời. Có đội trưởng Trương Thiêm Lộc là cháu gọi Vạn Long bằng cậu là người tham lợi, biết đất Chân Lạp có nhiều của báu, muốn được Vạn Long làm tướng để mình theo đi, bèn vào triều xin với chúa. Chúa nói rằng : "Vạn Long tuổi già, ta không muốn làm nhọc vì việc quân nữa". Thiêm Lộc thưa rằng : "Xưa Mã Viện tuổi ngoài bảy chục mà còn mặc giáp cưỡi ngựa để ra trận. Nay Vạn Long tuổi chưa đến 60 mà cầm quân lại ở dưới tỳ tướng, chắc trong lòng lấy làm hổ thẹn". Chúa bèn nghe theo, lấy Vạn Long làm thống binh, Nguyễn Thắng Long và Nguyễn Tân Lễ làm tả hữu vệ trận, Thủ hợp Văn Vỵ làm tham mưu, đem quân đánh Chân Lạp. Sai Hoàng Tiến làm tiên phong, dưới quyền tiết chế của Vạn Long.

Kỷ tỵ, năm thứ 2 [1689], mùa xuân, tháng giêng, Mai Vạn Long kéo quân đến cửa biển Mỹ Tho, đóng ở Sầm Khê(1. Tức là Rạch Gầm. 1) (nay thuộc huyện Kiến Đăng tỉnh Định Tường), sai người đến Nan Khê triệu Hoàng Tiến đem quân sở bộ đến.

Tháng giêng nhuận, sai các quan văn võ làm việc duyệt tuyển. Lại ra lệnh cho các học trò chính đồ và hoa văn tới tuyển trường để ứng thí. Buổi quốc sơ thì trong kỳ duyệt tuyển thí chung chính đồ và hoa văn, gọi là nhiêu học. Đến cuối đời Thái Tông, chỉ cho học trò chính đồ thi, hoa văn thì không được dự ; đến sau lại bỏ cả. Chúa muốn bồi dưỡng nhân tài, nên lại thi hành chế độ cũ. Bấy giờ các học trò nghe tiếng, ai cũng nức lòng.

Nặc Thu nghe quân ta đến gần bờ cõi rất sợ hãi, cùng với bề tôi là Oc Nha Da Trình mưu dùng kế hoãn binh, bèn chọn một người con gái đẹp có tài biện luận tên là Chiêm Dao Luật, sai đem của báu đến dinh Hoàng Tiến nói rằng : "Tướng quân ở đất Chân Lạp đã lâu năm. Người xưa ăn một bữa cơm cũng phải báo ơn. Nay nghe tướng quân vâng mệnh đánh Chân Lạp, trộm nghĩ không khen tướng quân đâu". Tiến nói rằng : "Vạn Long ngày nay triệu ta, không phải là có thành tâm, chỉ là muốn bắt ta trước, rồi sau sẽ diệt Nặc Thu thôi. Lẽ nào ta lại bị nó đánh lừa. Về nói với chúa mày đừng ngờ !". Tiến bèn đóng quân giữ chỗ hiểm. Vạn Long giục mãi không đến, biết Tiến quả có chí khác rất lấy làm lo. Trong quân có Văn Thông (người Quảng Ngãi, không rõ họ) có tài biện luận, vốn hiểu tiếng các nước, nhân nói với Vạn Long rằng : "Thống binh như muốn bắt Tiến, nếu không làm cho hắn lìa bỏ chỗ hiểm thì không được. Tôi nghe người Long Môn có một ông già họ Trương rất có tiếng tăm, Tiến nghe tiếng vẫn hâm mộ mà chưa biết mặt. Tôi xin giả làm ông già Trương đến phân trần lợi hại để dỗ hắn tới hội. Thống binh nhân chụp đánh thì bắt được Tiến ngay". Vạn Long mừng và sai đi.

Văn Thông bèn cải trang tự xưng là Trương lão gia, đến dinh Tiến xin yết kiến. Tiến mừng, mời ngồi. Văn Thông thong thả nói : "Tôi từ khi quân Long Môn thua trận vong mệnh đến miền Nam, nhờ thiên vương cho làm cai đội, nay theo quyền điều khiển cửa thống binh Trấn Biên, cho nên lại đây gặp nhau, để bày tỏ chút tình hương lý". Tiến tin lắm. Văn Thông nhân bảo Tiến rằng : "Tướng quân chịu mệnh lệnh đi đánh Chân Lạp, cớ sao đã lâu mà không đến gặp Thống binh ?" Tiến nói : "Tôi nghĩ cái thân lưu lạc, nhờ tiên vương cho ở đất này, bao giờ dám quên ơn ? Nhưng tôi xem sự ăn mặc của tôi được nhờ đều là sản vật của Chân Lạp, nay đem quân đánh họ thì là bất nghĩa, nhưng vì Chân Lạp mà chống mệnh vua thì là bất trung, tiến thoái hai đàng đều khó. Còn muốn đóng quân tự thủ, chờ xem tình thế ra sao". Văn Thông nói : "Bất nghĩa là lỗi nhỏ, bất trung là tội lớn, tướng quân còn phải chọn gì ? Tôi nghĩ tướng quân bây giờ không gì bằng đến gặp Thống binh một lần để cởi mối ngờ, rồi sau sẽ dần tính kế, như thế tốt hơn". Tiến nói : "Tiên sinh đã dạy tôi nên gặp Thống binh, nhưng lúc gặp thì chả biết Thống binh có ra thành đón tôi không ? cùng chia ngôi tả hữu với tôi không ? có cho đem quân tới hội mà không ngờ không ?". Văn Thông nói : "Nhường chiếu để đãi kẻ sĩ, đó là bản tâm của Thống binh. Tôi về nói với Thống binh, ắt được như ước. Chỉ mong tướng quân đừng thất tín thôi". Bèn từ biệt về. Mưu sĩ của Tiến là Hoắc Sinh bảo Tiến rằng : "Tôi nghe tiếng Trương lão gia là người ít nói, nay người này ăn nói liến thoắng, có lẽ là thuyết khách của Vạn Long, xin đừng nên tin". Tiến không nghe.

Văn Thông về báo cáo với Vạn Long. Vạn Long lại sai Văn Thông đi mời Tiến, mà đặt phục binh ở chỗ hiểm yếu để chờ. Quả nhiên Tiến đi thuyền ra sông đến hội. Phục binh vùng dậy, bốn mặt đánh vào, Tiến bỏ thuyền chạy, nhắm lẩn về phía cửa biển Lôi Lạp. Vạn Long vào lũy, bắt được vợ con Tiến đều chém cả, chiêu tập dư chúng quân Long Môn, sai bộ tướng của Dương Ngạn Địch là Trần Thượng Xuyên quản lãnh để làm tiên phong. Thừa thắng, Vạn Long tiến đánh Nặc Thu, đốt đứt xích sắt ngang sông, liên tiếp lấy được ba lũy Bích Đôi, Cầu Man và Nam Vang. Nặc Thu lui giữ thành Long úc. Cai đội Nguyễn Thắng Quyền khinh địch ham tiến, bị Nặc Thu đánh bại. Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn đem quân đến cứu, xông trận đánh hăng. Nặc Thu lùi chạy vào thành cố thủ. Gặp mưa gió sấm sét nổi lớn. Vạn Long muốn đóng quân ở sông Cái, Thắng Sơn can rằng : "Chân Lạp đất nhiều rừng rú, nước sông chảy xiết, ta đóng quân ở đấy, lỡ khi quân địch kết bè ở thượng lưu thả xuống thì ta lấy gì mà chống ? Chẳng bằng rút quân về bản dinh để chứa oai nuôi sức. Họ thấy quân ta đã rút ắt sinh trễ nải, ta thừa lúc không phòng bị mà đánh một trận là diệt được". Vạn Long theo lời. Quân ta đã lùi, Nặc Thu cùng các tướng bàn mưu, bèn sai Nặc Sa đưa lễ đến dinh Vạn Long để cầu hoãn binh. Vạn Long giận bắt giam lại. Nặc Thu lại sai nữ sứ là Chiêm Dao Luật đem vàng lụa đến hiến. Vạn Long hỏi vặn rằng : "Nước mày không chịu cống hiến, lại đắp thành lũy, đóng chiến thuyền, muốn làm gì thế ?" Dao Luật nói : "Tiểu quốc ngày trước dâng cống đều bị Hoàng Tiến cướp hết. Lại khổ vì họ cướp bóc quấy phá, cho nên phải mưu giữ mình thôi, chứ có dám làm phản đâu". Vạn Long tin lời và sai Dao Luật cùng Nặc Sa đem hịch về báo với Nặc Thu, bắt phải nộp cống. Dao Luật về nước đã được hơn một tháng mà không thấy lễ cống đến. Vạn Long ngờ, họp các tướng lại bàn. Nguyễn Tân Lễ nói : "Quân chúa đi dẹp loạn, cốt yếu là bắt cho kẻ làm phản phải phục. Nay nước sông đang chảy mạnh, chiến thuyền đi ngược không tiện, chưa có thể khinh tiến được. Huống quân ta lại không quen thủy thổ. Hãy cứ đóng quân để đợi nó đến, đó là thượng sách". Vạn Long khen là phải. Thắng Sơn nói : "Chân Lạp hay phản Phước dối trá, không gì bằng đánh gấp đi, há nên ngồi đợi để cho già quân đi à ?" Vạn Long nói : "Làm tướng cốt lấy ân tín làm trọng, không phải lấy chém giết là oai. Ta muốn đem thành tín để phục người Man, họ đã hàng phục thì còn chiến đấu làm gì ?". Bấy giờ các tướng chia binh vỡ đất cày cấy, không lo phòng bị chiến tranh.

Mùa hạ, tháng 5, chúa coi chầu (bấy giờ việc quốc hiếu đã xong, làm lễ mừng), đặt yến đãi các quan văn võ ở phủ đường, thưởng bạc tiền theo thứ bực.

Gia phong các vị linh thần trong cõi.

Tháng 6, nhà quân của thuyền Minh Nhất cơ Tả thủy bị cháy.

Mùa thu, tháng 7, ngày ất tỵ, cầu vồng trắng hiện ngang trời.

Tháng 8, triệu Thống suất đạo Lưu Đồn là Trương Phước Cương về trấn Cựu Dinh, lấy Trấn thủ dinh Bố Chính là Nguyễn Cửu Ưng (con Nguyễn Phước Kiều) làm Chưởng dinh thống suất đạo Lưu Đồn, lấy Chưởng dinh Bình Lộc làm Trấn thủ dinh Bố Chính, lấy bọn Cai cơ Nguyễn Cửu Thiên, Tống Hữu Thanh, Tống Phước Trí làm Chưởng cơ.

Tham tướng thủy dinh Quảng Bình là Lê Ân Đức chết, tặng chức Chưởng dinh. Lấy Nguyễn Dương Lâm làm Chưởng cơ, lãnh chức Tham tướng thủy dinh Quảng Bình.

Lấy Tri bạ Trần Đình An làm Cai bạ phó đoán sự, lấy văn chức Lễ Tài (không rõ họ) làm Đô tri, lấy cai hợp Minh Tiến (không rõ họ) làm Câu kê kiêm tri bạ, lấy Nguyễn Khoa Danh làm Câu kê.

Bấy giờ tướng sĩ Trấn Biên ở lâu ngày không lập được công gì, vì Thống binh Mai Vạn Long lầm tin lời nói của Dao Luật đóng quân không tiến, lòng quân do đó oán giận. Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn đem tình trạng ấy báo lên. Chúa cả giận nói : "Kẻ thất phu tham lợi trái phép, tội không thể tha". Tức thì triệu quần thần chọn tướng khác thay. Chưởng cơ Hoằng Lược (không rõ họ) tiến cử Cai cơ Nguyễn Hữu Hào (con Hữu Dật) là người trí dũng có thể dùng được. Chúa bèn sai Hữu Hào làm Thống binh, văn chức Hòa Tín làm Tham mưu, thủ hợp Diệu Đức (không rõ họ) làm Thị chiến, Nguyễn Thắng Sơn làm tiên phong, kén thêm quân ở Phú Yên, Thái Khang và Phan Rí để tiến đánh Chân Lạp. Bãi Vạn Long làm thứ nhân, giáng Văn Vị làm tướng thần lại.

Mùa đông, tháng 11, trời hạn, cầu đảo các đền thần hơn tuần cũng chẳng được mưa. Chúa bèn sai các đội thuyền bơi đua. Chúa ngự một chiếc thuyền con không che tán lọng gì hết, đứng ở giữ trời thầm khấn. Ngày mai mưa xuống như trút. Chúa đứng ở giữa mưa trông lên trời mà vái, áo bào ướt hết.

Xa giá trở về, chúa sai các quan sửa lễ để tạ các đền thiêng. Năm ấy lúa má được mùa, xa gần vui vẻ.

Canh ngọ, năm thứ 3 [1690], mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý sửu, hai mặt trời cùng mọc (mặt trời ở trên sắc nhạt và khuyết, mặt trời ở dưới trọn vẹn mà sáng, một lát thì mặt trời khuyết tan mất).

Nguyễn Hữu Hào tiến quân đóng ở Bích Đôi, chia bày dinh lũy, thủy bộ tiếp nhau để làm thế dựa nhau, quân lệnh nghiêm chỉnh, chư tướng đều khen tài năng.

Mùa hạ, tháng 4, thao diễn thủy quân, định các hạng hơn kém, thưởng bạc tiền theo thứ bực.

Tháng 5, chúa sai trung sứ(1. Trung sứ : Sứ ở trong triều đi ra địa phương.1) đến dụ Nguyễn Hữu Hào rằng : "Nặc Thu nước Chân Lạp nếu muốn chuộc tội thì phải hiến 50 con voi đực, 500 lạng vàng, 2.000 lạng bạc, 50 tòa tê giác, đủ lễ vật đến tạ thì mới rút quân về. Nếu không thì phải tiến đánh gấp". Hữu Hào sai người đến bảo cho Nặc Thu. Nặc Thu lại sai Dao Luật đem dê vàng lụa đến hiến. Hữu Hào thấy thế cười rằng : "Nay mày lại muốn đến làm thuyết khách nữa ư ? Ta không phải như Vạn Long đâu ? Về nói cho Nặc Thu phải sớm cống hiến, không thì đại quân kéo đến, thành quách của chúng mày sẽ tan nát hết". Dao Luật nói : "Nước nhỏ thờ nước lớn cũng như con thờ cha, đâu dám có lòng gì khác. Bữa nọ nước tôi đương sửa soạn lễ cống thì chợt thiên sứ đến nên chưa sắm đủ thôi. Xin tướng quân rộng cho một tuần nữa, đâu dám trái lệnh". Hữu Hào muốn cho. Bọn Hòa Tín, Thắng Sơn đều nói rằng : "Chân Lạp lừa dối, nhiều mánh khóe không thể tin được, gương Vạn Long không xa. Chẳng bằng đánh đi".

Hữu Hào nói : "Họ đã về với ta mà ta lại đánh, đó là bắt chẹt người trong lúc nguy, không phải là võ. Huống chi Nặc Thu ngày nay như thỏ đã ra hầm, chim đã mắc lưới, còn lo gì nó lừa dối ?"; bèn thả cho Dao Luật về. Nặc Thu liền sai sứ là ốc Nha A Lặc Thi đem 20 thớt voi nhỏ, 100 lạng vàng, 500 lạng bạc, đến hiến. Hữu Hào thu nhận. Từ đó Nặc Thu thường khiến Dao Luật tới quân trung van lơn. Hữu Hào tin lời, thường cùng với các tướng ở trong quân say sưa hát xướng làm vui, tự cho rằng không

mất một mũi tên mà Chân Lạp tự quy phục, dù các danh tướng thời xưa cũng không hơn thế. Các tướng đều cười thầm. Thị chiến Diệu Đức nói : "Vàng bạc tê tượng đều là thổ sản của Chân Lạp, nay hiến bằng ấy, thực không phải chân tình, chi bằng cứ đánh". Hữu Hào nói : "Yên vỗ người xa, quý lễ mà không quý vật. Người xưa chỉ cống cỏ tranh, nào có phẩm vật

gì ?" Diệu Đức không trả lời nữa. Từ đó Hữu Hào cùng các tướng không được hòa hiệp.

Tháng 6, ngày Bính tý, cầu vồng trắng hiện ngang trời.

Nặc Thu lại sai Dao Luật đem 10 thớt voi nhỏ, 6 tòa tê giác, 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, đến hiến. Hữu Hào lại nhận. Hòa Tín nói : "Chúng ta ra quân, chỉ cần đánh địch. Nay tới chỗ địch mà lại không đánh, thì đợi cái

gì ?". Thắng Sơn và các tướng cũng xin trước chém Dao Luật, sau bắt Nặc Thu, không để cho họ đùa cợt. Hữu Hào quát nói rằng : "Việc ở biên khổn, trách nhiệm là ở đại tướng. Ta từ tuổi nhỏ, theo cha đánh trận kể biết bao nhiêu, nay há lại sợ bọn tiểu man này ư ? Nhưng ta đã có kế sẵn, các ngươi chớ nên hùa nhau ầm lên". Bèn sai rút quân về. Hòa Tín và Thắng Sơn ngầm đem việc báo lên. Chúa cả giận nói : "Hữu Hào cũng tội như Vạn Long, hãy đợi đem quân về sẽ hỏi tội.

Mùa thu, tháng 8, quân về tới nơi. Bọn Hòa Tín kể hết sự trạng Nguyễn Hữu Hào lần chần làm hỏng việc quân. Chúa sai tước bỏ quan chức của Hữu Hào, truất làm thứ dân.

Đổi phủ Thái Khang làm phủ Bình Khang.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, có nhật thực.

Có con chim lạ đậu ở Phủ Cam, tiếng kêu như khóc, hơn một tuần mới bay đi.

Tân mùi, năm thứ 4 [1691], mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính thân, chúa không khỏe, triệu thế tử là Tộ Trường hầu đến bảo rằng : "Ta vâng theo mối trước, vẫn mong sao nối theo được chí, làm theo được việc. Con nay kế nghiệp, nên noi công đức của tổ tông, cầu hiền đãi sĩ, yêu dân thương quân, đừng tin lời nói gièm pha, đừng bỏ những người ngay thẳng, để xây dựng nghiệp lớn, đó là điều đại hiếu". Thế tử lạy khóc vâng mệnh. Chúa lại triệu các thân thần, dặn dò về việc giúp đỡ thế tử. Hôm ấy chúa băng. ở ngôi 4 năm, thọ 43 tuổi.

Thế tử nối ngôi, đem quần thần dâng thụy hiệu là Đại nguyên soái tổng quốc chính Thiệu Hưu Toản Nghiệp Hoằng Nghĩa vương. Táng ở núi Kim Ngọc (xã Định Môn, huyện Hương Trà). Thế tông Hiếu võ hoàng đế truy tôn là Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa vương, [truy tôn] phi là Từ Tiết Tĩnh Thục Hiên phi. Năm Gia Long thứ 5 lại truy tôn là Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu nghĩa hoàng đế, miếu hiệu là Anh Tông, lăng gọi là Trường Mậu, [truy tôn] phi là Từ Tiết Tĩnh Thục Huệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu nghĩa hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Mậu.

Tiền Biên

Quyển VII

Tiền biên - Quyển VII

Thực lục về Hiển tông Hiếu minh hoàng đế (Thượng)

Hiển tông Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng đế, húy là [Phước Chu], sinh năm ất mão [1675]

(Lê ??Đức Nguyên năm 2, Thanh ??Khang Hy năm 14), là con cả của Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế, mẹ là Hiếu nghĩa hoàng hậu Tống thị. Trước kia, năm Giáp dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm thánh. Năm sau chúa đúng kỳ giáng sinh, mùi thơm nức nhà. Lớn lên học chăm chữ tốt, đủ tài lược văn võ. Đầu được phong Tả bính dinh phó tướng Tô Trường hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả bính. Năm Tân mùi, mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính thân, Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế băng. Bầy tôi vâng di mệnh tôn chúa làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Tộ quận công. Bấy giờ 17 tuổi, hiệu là Thiên túng đạo nhân. Chúa nối ngôi, vọng bái đài Kính thiên. Ngày hôm ấy trời trong mây sáng, người ta đều cho là cảnh tượng thái bình.

Tháng 3, phong các vị linh thần trong cõi.

Miễn nửa thuế ruộng năm ấy.

Thăng Trấn phủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Đức Bảo làm Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Tiến quận công, thăng Trấn thủ dinh Bố Chính là Chưởng dinh Bình Lộc làm Trấn phủ, thăng Chưởng cơ Tài Trí làm Chưởng dinh, Cai cơ Tôn Thất Nhuận (con Tôn Thất Hiệp) làm Chưởng cơ. Những văn võ quan viên khác đều được thăng trật theo thứ bực.

Ban cho Nguyễn Đức Bảo một quả ấn đồng và một cỗ kiệu đen để nêu thưởng nguyên huân. Bề tôi phụ trách biên khổn được cho ấn đồng và kiệu đen bắt đầu từ đấy.

Mùa hạ, tháng 4, dựng phủ mới. Hạ lệnh rằng xây dựng cung thất điện vũ, hết thảy đều theo quy chế cũ của Thái Tông, không được làm to lớn lộng lẫy.

Mùa thu, tháng 8, Trấn thủ dinh Quảng Bình là Tống Hữu Thận chết, lấy Trấn thủ dinh Bố Chính là Bình Lộc thay. Thăng Chưởng dinh Tài Trí làm Trấn thủ dinh Bố Chính, thăng Nội tả chưởng cơ Tống Hữu Thanh làm Chưởng dinh suất lãnh dinh Tả bộ, Cai cơ Tống Phước Tráng làm Nội tả cai cơ, Nguyễn Hữu Oai (con Nguyễn Hữu Tiến) làm Chưởng cơ phò mã, cho Cai cơ Tín Đức (không rõ họ) suất lãnh cơ Tả trung, Cai cơ Khâm Minh (không rõ họ) suất lãnh cơ Hữu Trung, khôi phục cho Nguyễn Hữu Hào làm Cai cơ, suất lãnh cơ Hữu súng.

Tháng 8 nhuận, mưa to nước lụt.

Chúa mới giữ chính quyền, chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói hay, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế mà giao dịch, bớt việc hình ngục, trăm họ không ai không vui mừng.

Nhâm thân, năm thứ 1 [1692] (Lê ? Chính Hòa năm 13, Thanh ? Khang Hy năm 31), mùa xuân, tháng giêng, sửa Văn miếu. Chúa từng ra Triều Sơn xem miếu, muốn mở rộng thêm nên sai sửa lại.

Sửa chùa núi Mỹ Am (tức núi Thúy Vân ngày nay).

Sai các quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Lấy Chưởng cơ Nguyễn Hữu Oai làm Trấn thủ dinh Bình Khang.

Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh, cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh.

Mùa đông, tháng 12, lấy Lê Hoành Giảng và Nguyễn Khoa Chiêm làm thủ hợp Chính dinh.

Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy.

Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi là Tả trà viên Kế Bà Tử với thân thuộc là Nàng mi Bà Ân đem về. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành.

Ngày ất mão, chúa coi việc chầu (việc quốc hiếu đã xong rồi làm lễ mừng), bầy tôi đến mừng, tấn tôn chúa làm Thái phó quốc công, lại dâng tôn hiệu là quốc chúa. Từ đấy sắc lệnh đều xưng là quốc chúa.

Gia phong các linh thần trong cõi.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh thìn, mây ngũ sắc hiện ở phía tây nam như cái lọng xòe.

Tháng 5, đào kênh Trung Đan.

Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Hữu Kính đến cửa khuyết dâng chiến tù Chiêm là bọn Bà Tranh. Chúa sai kể tội và giam ở núi Ngọc Trản, hàng tháng cấp cho tiền gạo vải lụa đủ dùng.

Sai Cai đội Nguyễn Trí Thắng giữ Phố Hài, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí, Cai đội Chu Kiêm Thắng giữ Phan Rang (Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang, nay đều thuộc Bình Thuận) để phòng dư đảng của Thuận Thành.

Sai sửa công phủ, những điếm quân ở các cửa trong ngoài phủ bắt đầu lợp ngói.

Tháng 8, đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, lấy Tả trà viên Kế Bà Tử làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân.

Mùa đông, tháng 10, ngày Đinh sửu, hai mặt trời cùng mọc.

Tháng 12, người Thanh là A Ban cùng với Hữu trà viên là óc Nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là A Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng óc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng tự xưng mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận Thành là Chế Vinh kêu họp dân man đi theo. Đến bấy giờ đem đồ đảng cướp Phố Hài. Cai đội Nguyễn Trí Thắng đem quân chống đánh. A Ban giả đò thua, Trí Thắng đuổi theo bị phục binh giết chết. Cai đội dinh Bà Rịa tên là Dực và thư ký là Mai (không rõ họ) đem quân đến cứu viện, đều chết cả. A Ban bèn vào Phan Rí, lo rằng cai cơ Nguyễn Tân Lễ sức mạnh, mình không chống nổi, bèn sai con gái người dân Thuận Thành bỏ thuốc độc vào quả chuối cho Tân Lễ ăn. Tân Lễ bị câm. A Ban lại tung nhiều tiền bạc để ngầm kết với quân Tân Lễ làm nội ứng. Đến khi đánh, Tân Lễ bị bọn phản binh đâm chết, dinh trại của cải bị đốt và cướp gần hết. A Ban lại kéo quân đến Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng vì quân ít không ra, đóng cửa thành tự thủ. Gặp Khám lý Kế Bà Tử vừa đến, Kiêm Thắng bắt trói ở ngoài cửa thành bảo sẽ đem chém. óc Nha Thát sợ [Kế Bà Tử] bị giết, nói với A Ban bỏ vây đi. Kiêm Thắng bèn thả Kế Bà Tử về.

Giáp tuất, năm thứ 3 [1694], mùa xuân, tháng giêng, Chưởng cơ là Huệ và Thông (con thứ ba, thứ tư của thiếu sư Tôn Thất Diễn) mưu nổi loạn. Chưởng cơ Tôn Thất Nhuận cùng tiểu sai là Đức Nhân (không rõ họ) đem sự trạng báo lên. Kíp bắt giao xuống triều đình tra hỏi, biết hết sự thực. Huệ và Thông cùng 7 người đồng mưu đều bị giết. Thưởng cho Tôn Thất Nhuận và Đức Nhân thực ấp, tiền bạc, thực phẩm, theo thứ bực.

Truy cấp tự điền và tự dân cho Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. (Hữu Tiến tự điền 19 mẫu ở 2 xã Bồ Đề và Tùng Châu, tự dân 100 người ở xã Nghĩa An ; Hữu Dật tự điền 3 mẫu ở xã Vinh Quang, tự dân 100 người ở xã Bao La).

Bà Tranh chết, cho 200, quan tiền và gấm vóc để hậu táng.

A Ban lại vây Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng báo tin gấp về dinh Bình Khang. Trấn thủ Nguyễn Hữu Oai và Lưu thủ Nhuận (không rõ họ) tiến binh theo thượng đạo để cứu viện. A Ban bèn lui về Bào Lạc. Phan Rang được giải vây. Rồi Hữu Oai bị bệnh chết.

Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Quân ta đuổi theo sát. Giặc lại chạy về Thượng Dã (tiếp địa giới Chân Lạp). Nhuận bèn về, đem việc báo lên. Chúa lại ra lệnh cho Cai cơ Nguyễn Hữu Kính, và văn chức Trinh Tường (không rõ họ) tiện nghi xử trí. Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ đem quân tiến đánh, đảng giặc dẹp yên.

Thăng Nguyễn Hữu Kính làm Chưởng cơ, lãnh Trấn thủ dinh Bình Khang.

Sai quan làm duyệt tuyển lớn. Thi nhiêu học, lấy được 133 người trúng cách về chính đồ, 92 người trúng cách về hoa văn.

Thao diễn trận voi. Sai các cơ chia phiên theo diễn trận pháp, mỗi ngày một lượt, thưởng tiền theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 7, đặt yến cho quần thần ở phủ đường, ban cho vàng lụa theo thứ bực.

Trần phủ Quảng Nam là Tả đô đốc Nguyễn Đức Bảo chết. Đức Bảo giúp đỡ các triều, vốn có trọng vọng, nay chết, chúa rất thương tiếc, tặng Tá lý công thần đặc tiến trụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ khai phủ chưởng phủ sự thiếu bảo, thụy là Thận cần. Cho bạc lụa gấm vóc để hậu táng.

Tháng 8, lại cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành.

Bấy giờ Khám lý Kế Bà Tử trình bày rằng : Từ khi vị hiệu đời trước cải cách đến giờ xảy ra nạn đói kém luôn, nhân dân chết về tật dịch rất nhiều. Chúa thương tình, bèn cho trở lại gọi là Thuận Thành trấn, vẫn cho Kế Bà Tử là Tả đô đốc để thống trị.

Ngày Quý mão, nguồn Thạch Hãn lụt, nước đỏ 3 ngày mới trong.

Ngày Mậu thân, mưa to sấm dữ, mái ngói ở phủ chính tốc hết, 3 cái cột ở góc nhà bên hữu đều gẫy. Huyện Quảng Điền(1. Thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.1) núi lở năm chỗ.

Tháng 9, sai văn chức kiểm xét số dân đinh hạng cùng hạng đào lậu tịch xứ Quảng Nam, và số tiền công ẩn lậu ở các nha phủ huyện.

Mùa đông, tháng 10, dựng thêm ở trong phủ ba tòa hành lang mỗi tòa 50 gian, sai dân các huyện xứ Thuận Hóa lấy gỗ tốt về làm.

Tháng 11, phong Kế Bà Tử làm phiên vương trấn Thuận Thành, cho vỗ về chiêu tập quân dân, hằng năm nộp cống. (Lệ cống : voi đực 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 200 tấm(2. Da cá nhám để nấu làm đồ ăn. 2), cát sủi(3. Cát sủi : Chữ là phị sa , một thứ cát có chứa chất xút, bỏ vào nước thì sôi lên, người ta dùng để gội đầu. 3) 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc). Phàm những ấn, gươm, yên, ngựa và những người trước đây bị lấy bị bắt đều được trả về hết.

ất hợi, năm thứ 4 [1695], mùa xuân, tháng giêng. Từ mồng 1 đến ngày 11 không mưa, sai quan cầu đảo, qua 2 ngày thì mưa.

Tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mở khoa thi lấy 5 người trúng cách về chính đồ làm giám sinh, 8 người làm sinh đồ, 15 người làm nhiêu học, 22 người trúng cách về hoa văn, 10 người trúng cách về thám phỏng. Giám sinh bổ văn chức và tri huyện, sinh đồ bổ huấn đạo, nhiêu học bổ lễ sinh, hoa văn bổ vào Tướng thần lại ty và Lệnh sử ty, thám phỏng bổ vào Xá sai ty.

Mùa thu, tháng 8, thi văn chức và tam ty ở sân phủ. [Thể lệ] thi văn chức thì kỳ đệ nhất tứ lục, kỳ đệ nhị thơ phú, kỳ đệ tam văn sách. Thi Xá sai ty thì hỏi về số tiền thóc xuất nhập và việc ngục tụng xử quyết trong một năm. Thi hai ty Tướng thần lại và Lệnh sử thì viết một bài thơ. Đình thí bắt đầu từ đấy.

Đặt chức từ thừa ở miếu (năm Minh Mệnh thứ 4, đổi dựng chùa Long Phước) phường An Định Nha (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị). Buổi quốc sơ, các phủ đều dựng miếu để thờ các vị thánh vương trước. Dân ba phường An Định Nha, An Hưởng và Phương Xuân thuộc tổng Bái Ân cảm nhớ công ơn Thái Tổ, dựng miếu thờ ở An Định Nha. Chúa nghe khen tốt, sai quan đem những mũ và áo bào thần ngự bày ở miếu, lại sai đặt chức từ thừa để trông coi, cho bằng son.

Tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực.

Người lái buôn ở Quảng Ngãi tên là Linh (không rõ họ) tụ đảng hơn 100 người, tự xưng là Linh Vương, tạo chiến thuyền, đúc binh khí, cùng người Quy Ninh là Quảng Phú (không rõ họ) hợp đảng, ra vào núi rừng, hoành hành cướp bóc, quan địa phương không dẹp được, nhân dân sợ hãi chạy báo lên. Chúa sai dinh Quảng Nam hợp với hai phủ Quảng Ngãi, Quy Ninh đem quân đi đánh. Khi các đạo quân xông tới sơn trại thì Linh đã chết. Quảng Phú cả sợ, trốn vào Phú Yên, dân Man [Mọi] bắt đem nộp. Chúa sai giết cùng với đồ đảng 20 người, và hậu thưởng dân Man.

Bính tý, năm thứ 5 [1696].

Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tháng 3, dựng trường pháo ở phủ sau. Triệu các quan văn võ cùng các đội trưởng, văn chức và tam ty họp nhau diễn tập, bắn trúng thì được thưởng tiền theo thứ bực, trúng luôn 3 lần thì được thưởng một tấm nhiễu hồng. Từ đấy mỗi năm theo làm lệ thường.

Ngày Mậu dần, hoàng mẫu là Tống thị (tức Hiếu nghĩa hoàng hậu,

con gái thiếu phó Tống Phước Vinh) băng, thọ 44 tuổi, truy tôn là Quốc Thái phu nhân, táng ở xã Đinh Môn (thuộc huyện Hương Trà, tức là lăng Vĩnh Mậu).

Mùa đông, tháng 12, ngày Giáp thìn, hoàng tử cả (tức là Túc tông Hiếu Ninh hoàng đế) sinh. Mùi thơm đầy nhà.

Đinh sửu ; năm thứ 6 [1697], mùa xuân, tháng giêng, miễn việc duyệt tuyển nhỏ năm ấy. Theo lệ cũ năm sửu là duyệt tuyển nhỏ, năm mão là duyệt tuyển lớn. Đến đây chúa ra lệnh sang năm là năm Mậu dần làm điển lớn cho nên bỏ [điển nhỏ năm nay].

Thăng Chưởng thái giám Nguyễn Tăng Tri làm Tổng đốc.

Tháng 3, hai nguồn Phù ẩu và Hưng Bình thuộc huyện Phú Vang có bọn ác man [Mọi] ở 5 sách A La, A Sáp, A Lộc, A Manh và A Tô Ngụ thường lẻn xuống bắn giết dân buôn, cướp bóc những dân Man nộp thuế. Chúa sai xá sai là Đăng (không rõ họ) lãnh quân 7 thuyền thuộc Kiên đi đánh. Bọn Man các sách đều chạy trốn. Hai sách A La và A Sát xin hàng và cùng nộp thuế má. Chúa sai Đặng nhận cho hàng.

Mùa thu, tháng 8, sai quân Chính dinh diễn tập pháo thủ, cho các cai bạ nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu trông nom.

Bắt đầu đặt phủ Bình Thuận, lấy đất từ Phan Rang, Phan Rí trở về

tây chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa (nay là ) cho

thuộc vào.

Mậu dần, năm thứ 7 [1698], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Trịnh Căn nhà Lê sai tướng là Trịnh Huyên làm Trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Tháng 2, sai Cai cơ thủy quân là Nguyễn Hữu Khánh và Nguyễn Cửu Vạn giữ các cửa biển.

Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương (nay là ). Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ [của ta].

Mùa hạ, tháng 5, thao diễn trận voi. Lại sai quan duyệt xét số voi công các dinh.

Mùa đông, tháng 10, gió Đông Bắc thổi to, sấm mưa dữ dội suốt một ngày đêm, nước lụt tràn ngập, mặt đất nước sâu 4,5 thước, nhà cửa, người và súc vật bị trôi chết rất nhiều.

Lấy Nguyễn Hữu Khánh làm Lưu thủ dinh Trấn Biên.

Kỷ mão, năm thứ 8 [1699], mùa thu, tháng 7, Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu (nay thuộc Vĩnh Long) đem việc báo lên.

Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính làm Thống suất, Cai bạ Phạm Cảm Long làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam, cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh.

Sai Gia Định tra bắt người theo đạo Hoa Lang(1. Đạo Hoa Lang : Đạo Thiên chúa, vì người đem đạo ấy đầu tiên vào nước ta là người Hà Lan hay Hoa Lang.1). Phàm người Tây phương đến ở lẫn đều đuổi về nước.

Tháng 12, sai quan kiểm duyệt những súng đạn khí giới ở Chính dinh và các dinh.

Canh thìn năm thứ 9 [1700], mùa xuân, tháng giêng, mở trường diễn ngựa, các nội ngoại đội trưởng, các văn chức, nội giám và mã đội tả hữu đều được thao diễn.

Tháng 2, Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê(2. Ngư Khê : Rạch Cá. 2), sai người dò xét thực hư, chia đường tiến quân.

Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân giặc đánh liên tiếp nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm (con vua thứ hai Nặc Nộn) ra hàng, Hữu Kính vào thành, yên vỗ dân chúng.

Mùa hè, tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Kính báo tin thắng trận rồi lùi quân đóng đồn ở Lao Đôi, kinh lý việc biên giới.

Lập phép diễn trận voi, Chúa ra thăm diễn trường ở xã Thọ Khang. Sai viên thống lãnh dẫn voi vào trường theo thứ tự mà bày hàng. Nhạc bộ đánh trống ba hồi, rồi gẩy đàn thổi sáo hát khúc Thái bình. Hát xong đánh ba tiếng chuông. Thống lĩnh dẫn voi tới. Chúa đến duyệt. Lại sai quan duyệt xem voi công ở ba đạo Lưu Đồn, Quảng Bình và Bố Chính.

Tháng 5, Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính chết. Đầu là Hữu Kính đóng quân ở Lao Đôi, gặp mưa to gió lớn, núi Lao Đôi lở tiếng kêu như sấm. Đêm ấy mộng thấy một người mặt đỏ mày trắng, tay cầm cái phủ việt bảo rằng : "Tướng quân nên kíp đem quân về, ở lâu đây không lợi". Hữu Kính cười nói rằng : "Mệnh ở trời, có phải ở đất này đâu ?". Khi tỉnh dậy, thân thể mỏi mệt, nhưng vẫn cười nói như thường để giữ yên lòng quân. Kịp bệnh nặng, bèn than rằng : "Ta muốn hết sức báo đền ơn nước nhưng số trời có hạn, sức người làm được gì đâu ?". Bèn kéo quân về, đi đến Sầm Khê(1. Rạch Gầm. 1) (thuộc tỉnh Định Tường) thì chết, bấy giờ 51 tuổi. Chúa nghe tin thương tiếc, tặng Hiệp tán công thần đặc tiến chưởng dinh, thụy là Trung cần. Cho vàng lụa để hậu táng. Về sau thiêng lắng, người Chân Lạp lập đền thờ (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu : Năm Minh Mệnh thứ 12, phong Vĩnh An hầu).

Mùa thu, tháng 7, bắt đầu định sắc cờ cho các thuyền vận tải, ra lệnh cho thuyền các hạt chở thuế, mỗi hạt có sắc cờ riêng : Thăng Hoa thì cờ vàng, Điện Bàn cờ xanh, Quảng Ngãi cờ đỏ, Quy Ninh cờ trên đỏ dưới trắng, Phú Yên cờ trên trắng dưới đen, còn Bình Khang, Diên Ninh, Bình Thuận, Gia Định thì cờ trên xanh dưới đỏ, để cho dễ nhận.

Tháng 8, sửa phủ cũ ở Dương Xuân, cơ Tả thủy đào đất được quả ấn đồng, có khắc chữ Trấn lỗ tướng quân chi ấn. Chúa cả mừng, gọi tên phủ này là phủ An.

Mùa đông, tháng 12, sai Cai cơ nội hữu Tống Phước Tài và văn chức Trần Đình Khánh (con Trần Đình Ân) đến Quảng Bình và Bố Chính xem xét hình thế núi sông, khi về họ xin sửa đắp thành lũy cầu cống, đặt sở tuần các nơi, giữ những đường quan yếu để vững chắc biên thùy. Chúa theo lời.

Thăng cai bạ phó đoán sự Trần Đình Ân làm Tham chính chánh đoán sự.

Tân tỵ, năm thứ 10 [1701], mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, làm lễ khánh hạ, hát khúc Thái bình làm vui.

Bàn bạc cho các quan văn võ theo thứ bực.

Sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Sai Ngoại tả chưởng dinh Tôn Thất Diệu (lại tên là Hồng, con Tôn Thất Khê), Nội hữu cai cơ Tống Phước Tài, văn chức Trần Đình Khánh, Thủ hợp Nguyễn Khoa Chiêm đi Quảng Bình trông coi các quân sửa đắp chính lũy, từ núi Đâu Mâu đến cửa biển Nhật Lệ ; lại ở hai lũy Trấn Ninh và Sa Phụ đắp thêm đài súng lớn, đặt điếm tuần thủy và bộ.

(Quân bộ binh Quảng Bình chia đặt 26 sở tuần trên chính lũy từ Ông Hồi đến Mỗi Nại : 2 thuyền Tân chí, Đại an thuộc đội Tả tiệp, 3 thuyền Phú nhị, Hậu súng, An nhất thuộc cơ Tả kiên, 4 thuyền Tả hùng, Hữu hùng, Hậu đao nhất, Hậu đao nhị, thuộc cơ Hữu kiên, 5 thuyền Tả nhất, Quảng nhất, Súng Nhị, An Nhị, Tiền kiên súng thuộc cơ Tả bộ, 5 thuyền Chí nhất, Chí nhị, Tráng súng, Kiên súng, Nhuệ súng, thuộc cơ Hữu bộ, các đao thuyền và các súng thuyền thuộc Trung cơ. Quân thủy bộ dinh Bố Chính chia đặt 36 sở tuần từ đường Phong Nha men sông và Đại Thành đến lũy Trấn Ninh : 3 thuyền Đột tam, Tiên trụ và Nhuệ súng thuộc đội Tuần bộ, đội Tả hùng, đội Tiền thắng, 3 thuyền Hữu súng, Kiên trụ, Hậu kiên đao thuộc đội Tả thắng, 3 thuyền Tân nhất, Trụ súng, Hữu cai thuộc đội Hữu thắng, 3 thuyền Tả đao, Tiền trụ, Hữu kiên thuộc đội Hậu thắng, 2 thuyền Lý ninh, An náu thuộc đội Thủy sai, thuyền Kiên nhất thuộc Trung cơ, 5 thuyền Tiền kiên, Tả kiên, Hữu kiên, Hậu kiên, Toàn kiên thuộc Tả tuần hà, 5 thuyền Tiền thắng, Tả thắng, Hữu thắng, Hậu thắng, Toàn thắng thuộc Hữu tuần hà. ? Các cửa lũy và các đường trọng yếu ở dinh Bố Chính đặt 14 sở : 12 thuyền Tiền kiên, Tả nhị, Tả trụ, Hữu trụ, Hữu đao, Hậu hùng, Chí nhất, Bố nhất, Bố nhị, Đông sơn, An mô, Kỳ hoa thuộc Trung cơ, đình phố của Mã đội thuộc Trung cơ, thuyền Hữu súng thuộc đội Tả thắng).

Lại coi khắp những hình thế đầu non cửa biển, đường sá xa gần, núi sông hiểm dễ, vẽ đồ bản dâng trình. Sau 3 tháng công việc làm xong, thưởng cho tướng sĩ 500 lạng bạc, 800 quan tiền.

Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi. Ngày thi, chúa ra đầu đề. Lấy trúng cách về chính đồ được 4 người giám sinh, 4 người sinh đồ và 5 người nhiêu học, trúng cách về hoa văn được 17 người, trúng cách về thám phỏng được 1 người. Giám sinh bổ tri phủ, sinh đồ bổ tri huyện, nhiêu học bổ huấn đạo, hoa văn và thám phỏng bổ vào ba ty.

Chúa đến thăm trường súng, xem quân thủy quân bộ thuộc nội đội diễn tập, quân thủy thi đứng trên nên được hậu thưởng.

Tháng 9, lấy văn chức Trần Đình Khánh làm cai bạ dinh Quảng Nam.

Mùa đông, tháng 11, chúa đến thăm trường bắn, triệu các tướng và các nội ngoại đội trưởng cùng tam ty thi bắn cung, chọn người bắn giỏi làm giáp bộ để luân lưu hầu diễn bắn.

Nhâm ngọ năm thứ 11 [1702], mùa xuân, tháng giêng, sai thủy quân sửa đóng chiến thuyền, chia làm 3 đội tiền hậu trung, đến cuối mùa xuân thì diễn tập thủy trận.

Sai các tướng thi ngựa, hai bên tả hữu mỗi bên đều 30 con, bên tả cầm cờ đỏ, bên hữu cầm cờ vàng, theo thứ tự chạy phi, thưởng tiền bạc theo

thứ bực.

Nhà quân Nội thủy phát hỏa, cháy lan hơn 600 nhà.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 1, có nhật thực.

Sai bọn Hoàng Thần, Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm (kỳ nam 5 cân 4 lạng, vàng sống 1 cân 13 lạng 5 đồng cân, ngà voi 2 chiếc nặng 350 cân, mây song hoa 50 cây) sang Quảng Đông để cầu phong (Thần và Triệt người Quảng Đông nước Thanh, theo hòa thượng Thạch Liêm đến yết kiến, nhân đó [chúa] sai đi. Bấy giờ thuyền đi cống của Xiêm La bị gió đậu ở hải phận ta, ta sửa sang thuyền lái và giúp đỡ lương thực cho họ, rồi sai bọn Thần Triệt đáp đi). Vua Thanh hỏi bầy tôi, đều nói rằng "Nước Quảng Nam hùng thị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. Duy nước An Nam còn có nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được. Việc [phong] bèn thôi. (Thuyền Thanh thường đến buôn ở Quảng Nam, nên gọi ta là nước Quảng Nam).

Mùa thu, tháng 8, người châu Bố Chính bắt được thám tử của họ Trịnh đem về. Thủ tướng châu Bắc Bố Chính là Trịnh Huyên gửi thư sang dinh Bố Chính trách việc ấy. Khổn thần báo lên. Chúa sai Cai bạ Trần Đình Khánh viết thư trả lời. Huyên được thư bèn thôi.

Giặc biển là người Man An Liệt(1. Tức người Anh (English).1) có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô Thích Già Thi 5 người tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban, ngũ ban(2. Tức các cấp bực quan một, quan hai v.v... 2) (mấy ban cũng như mấy bực, nguyên người Tây phương dùng những tên ấy để gọi bọn đầu mục của họ) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác. Trấn thủ dinh Trấn Biên là Trương Phước Phan (con Chưởng dinh Trương Phước Cương, lấy công chúa Ngọc Nhiễm) đem việc báo lên. Chúa sai Phước Phan tìm cách trừ bọn ấy.

Tháng 9, khai đường thủy đạo ở xã Lệ Kỳ (thuộc huyện Phong Lộc).

Quý mùi, năm thứ 12 [1703], mùa xuân, tháng giêng, lại thu thuế ruộng dân hiện cày cấy. Trước là đời Thái tông năm thứ 21, Kỷ dậu , sai đo ruộng lậu để thu thuế. Năm đầu đời Anh tông ra lệnh giảm nửa thuế cho những ruộng mới tăng. Đến đây lại thu cả theo lệ năm Kỷ dậu.

Sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Tháng 3, sai Ngoại tả chưởng dinh Tôn Thất Diệu, văn chức Trần Đình Thuận (con Trần Đình Ân) đốc suất quân lính đắp kè đập ở kênh Hà Kỳ, từ xã Lai Cách đến xã Thủy Liên, phàm 5 sở, để tiện việc vận tải. Một tháng công việc xong, thưởng bạc cho bọn Diệu theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 8, Tham chính đoán sự Trần Đình Ân 78 tuổi, xin về trí sĩ, trần thỉnh hai ba lần chúa mới cho. Khi vào tạ, chúa nhân làm bài thơ và lời tựa, viết vào lĩnh hoa trắng để cho như sau :

"Quốc chúa Thiên túng đạo nhân ngự chế thơ và tựa, sắc cho Tham tri chánh đoán sự Đông Triều hầu Trần Đình Ân từ chức về làng. Khanh trải giúp bốn triều, quốc chính triều cương, có nhiều giúp đỡ. Bề tôi siêng năng, duy khanh hơn cả. Lại tính hay nhún nhường êm dịu, vui đạo thích lành, cho nên lan quế thơm tho, một nhà vinh hiển. Tuổi gần tám chục, mà chưa suy hèn, thực là Phước thọ của nước nhà ta. Nay vì mến đạo ưa tĩnh, từ quan chức về làng, ta hai ba lần cố giữ mà cuối cùng không cản được chí. Khi từ biệt ra về, ta đặc tứ 10 mẫu ruộng và 10 lính hầu, dùng để dưỡng lão. Sợ thế chưa phỉ lòng ta, nên tặng một bài thơ thất ngôn để trọn ý ta vậy. Thơ rằng :

[Phiên âm]

Bình sinh trì thiện tính tinh thuần.

Tán phụ ngô triều tứ thế nhân.

Chính nghiệp dĩ thành từ tử thụ.

Đạo tâm hằng hiện khước hồng trần.

Hi hi hạc phát đồng Thương hạo,

Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần.

Thử khứ Quảng Bình hà sở sự,

Thanh sơn lục thủy lạc thiên chân.

[Dịch]

Suốt đời giữ thiện tính tinh thuần,

Giúp đỡ triều ta trải bốn đời.

Sự nghiệp đã thành, trả giây ấn tía,

Đạo tâm thường hiện, lánh cõi bụi hồng.

Tóc hạc phơ phơ giống bốn hạo núi Thương(1. Bốn ông già trên 80 tuổi trốn vào núi Thương Sơn để tránh loạn cuối đời Tần, sau Hán Cao tổ mời không ra. Râu mày đều bạc nên gọi là tứ hạo. 1);

Dáng tiên nghiêm chỉnh như [Trương Lương]

nhà Hán.

Nay về Quảng Bình thì làm việc gì ?

Non xanh nước biếc, vui hưởng tính trời.

Đình Ân về hưu, ở chùa Bình Trung (thuộc xã Hà Trung, huyện Minh Linh), dựng đá khắc tờ sắc thư đặt ở trước chùa, lấy thiền học làm vui.

Mùa đông, tháng 10, dẹp yên đảng An Liệt. Trước là Trấn thủ Trấn Biên Trương Phước Phan mộ 15 người Chà Và sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. ở Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban thì theo đường biên trốn đi. Phước Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp. Chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bực. Tên ngũ ban thì đóng gông giải đi, chết ở dọc đường.

Tháng 11, mưa gió to, cây gẫy nhà tốc, dân bị chết trôi nhiều.

Giáp thân, năm thứ 13 [1704], mùa xuân, tháng 3, chúa đến phủ Phù Tôn (nay là Phù Chính), xem kho Lai Cách và cửa biển Minh Linh, dừng chân ở Lương Phước năm ngày rồi trở về.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh thìn, cầu vồng trắng hiện suốt ngang trời.

Mùa thu, tháng 7, lửa bốc cháy từ chợ Phú Xuân đến phủ Đông Trì, cháy lan hơn một vạn nhà.

Tháng 8, lấy văn chức Trần Đình Thuận làm Đô tri, coi Xá sai ty, Đô tri Trịnh Tường làm Cai bạ dinh Quảng Nam, văn chức Nguyễn Hữu Khôi làm Ký lục.

Mùa đông, tháng 10, lấy Chưởng cơ Nguyễn Hữu Hào làm Trấn thủ Quảng Bình. Hào đến trấn, yêu nuôi quân sĩ, yên vỗ trăm họ, quân dân đều thân mến.

Tháng 11, ngày Giáp thìn, hai mặt trời cùng mọc.

ất dậu, năm thứ 14 [1705] (Lê ??Vĩnh Thịnh năm 1, Thanh ??Khang Hy năm 44), mùa xuân, tháng 2, Trịnh Căn nhà Lê sai tướng là Lê Thời Liêu trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Tháng 3, Tạo Vĩ ở Lục Hoàn nước Ai Lao thả quân sang quấy dân biên thùy, cướp bóc khách buôn. Tuần binh của đồn Ai Lao đem việc chạy báo. Chúa sai Cai đội Tả súng Lê Định làm Cai cơ, Nội đội trưởng Chu Nhuận Trung làm Cai đội, đem quân đi đánh. Hai người đến địa giới Ai Lao được vài tháng thì chết, bèn rút quân về.

Tháng 4, mùa hạ, vua nhà Lê truyền ngôi cho thái tử Duy Đường, đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh, tức là Dụ Tông. Tôn vua Lê làm thái thượng hoàng.

Mùa thu, tháng 7, Chưởng cơ dinh Tả bộ là Nguyễn Đức Khang (con Nguyễn Đức Bảo) dâng nỏ tốt. Chúa sai văn võ, các tướng, nội ngoại đội trưởng và tam ty, chia làm hai bộ giáp ất để tập bắn nỏ, trúng liền 5 phát thì được thưởng một tấm nhiễu hồng. Sau đó người ta tranh nhau mua nỏ, giá nỏ thành đắt. Vì thế mà bãi.

Sai Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân (con Nguyễn Cửu Dực) đánh Chân Lạp và đưa Nặc Yêm về nước. Yêm là con Nặc Nộn. Trước là Nặc Nộn chết, Nặc Thu phong Yêm làm chức Tham Đích Sá Giao Chùy, đem con gái gả cho. Sau Thu vì tuổi già, truyền ngôi cho con là Nặc Thâm. Thâm ngờ Yêm có dị chí, nổi binh đánh nhau, lại nhờ Xiêm La giúp. Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu với triều đình. Chúa bèn sai Vân lãnh quân thủy bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm. Vân đến Sầm Khê gặp quân Xiêm, đánh vỡ tan. Thâm cùng em là Nặc Tân chạy sang Xiêm. Nặc Yêm lại trở về thành La Bích. Bấy giờ Xá sai ty Phiên Trấn là Mai Công Hương làm tào vận tới sau, bị quân giặc chặn lại, lính vận tải sợ chạy. Hương bèn đục thủng thuyền làm đắm lương thực, rồi nhảy xuống sông chết. Giặc không được gì hết. Chúa nghe tin, sai phong Hương làm thần "Vị quốc tử nghĩa", dựng đền để thờ. Chân Lạp dẹp xong, Vân nhân khẩn ruộng ở Cù Ao (thuộc tỉnh Định Tường), làm gương cho quân dân noi theo. Lại vì giặc thường đến đất này quấy rối sau lưng quân ta, bèn đắp lũy dài để vững phòng ngự.

Tháng 8, có sâu keo, mùa màng không tốt, giá thóc một hộc là 1 quan 5 tiền.

Trấn thủ Quảng Bình là Chưởng dinh Nguyễn Cửu Ưng chết, tặng Khiêm cung công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Trấn quận công, thụy là Thận cần.

Bính tuất, năm thứ 15 [1706], mùa xuân, tháng giêng, Tham chính chánh đoán sự trí sĩ là Trần Đình Ân chết, tặng Đôn hậu công thần đặc tiến trụ quốc kim tử vinh lộc đại phu Đại lý tự khanh, thụy là Thuần thiện. Cho 10 người phu mộ, và miễn thuế cho 30 mẫu tư điền.

Sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Mùa hạ, tháng 4, mưa dầm nước lụt, nhiều nhà trôi mất.

Mùa thu, tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa đông, tháng 11, lấy Đô tri Trần Đình Thuận làm Cai bạ phó đoán sự coi Tướng thần lại ty, Tri bạ Lữ Hữu Ninh làm Đô tri coi Xá sai ty, Tri bạ Tống Phước Đào (lại tên là Mai, vốn họ Hồ, được cho họ Tống) làm Cai đội coi đội Tả trung bộ.

Tiền Biên

Quyển VIII

Tiền biên - Quyển VIII

Thực lục về Hiển tông Hiếu minh hoàng đế (Hạ)

Đinh hợi, năm thứ 16 [1707] (Lê ??Vĩnh Thịnh năm 3, Thanh ?

Khang Hy năm 46), mùa xuân, tháng 2, mưa dầm nước lụt.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tháng 5, trong kinh kỳ thường bị lửa bốc cháy ở những nhà không. Chúa sai quan binh trong ngoài đặt nhiều xích hậu để nghiêm phòng, hỏa hoạn mới tắt.

Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi, lấy trúng cách về chính đồ được 3 người giám sinh, trúng cách về hoa văn 3 người, trúng cách về thám phỏng 5 người.

Mùa đông, tháng 12, định thể thức duyệt tuyển, gồm 22 điều.

(Binh hạng các thuyền thuộc các cơ đội ở Chính dinh và các dinh, cùng lính chính tượng, tra xét có thực ngạch thì vẫn cho ở lại làm việc, nếu không có thực ngạch thì bổ vào hạng, - Thợ các cục, cai quản, ty quan, thủ hợp, thường ban vào thuộc lại nha môn ở Chính dinh, ai có bằng cấp thì được ở lại làm việc, không có bằng thì bổ vào hạng. Còn ở các cục Mục tượng(1. Mục tượng : Chăn voi.1), Vũ tượng(2. Vũ tượng : Tập luyện cho voi.2),Thảo mã(3. Thảo mã : Lấy cỏ cho ngựa.3) thì vẫn cho ở hạng [của mình] --- Nhân số xã nào từ 999 người [trở xuống] thì cho 18 người làm tướng thần xã trưởng, 400 người [trở xuống], cho 8 người làm tướng thần xã trưởng, từ 199 người [trở xuống], cho 2 người làm tướng thần xã trưởng, từ 70 người [trở xuống], cho một người làm tướng thần xã trưởng, thừa ra thì bổ vào tiền chức --- Các hạng nhiêu binh, nhiêu thân, tiền đề lại, tiền thứ ưu binh, tiền binh, tiền tướng thần, tiền xã trưởng, tiền thường ban và tạp lưu quan, xét thực có bằng thị và thừa bằng thì nên cho, không có bằng thì bổ vào hạng ? Những cai cơ, tham khám, tham nghị, tham chính, thiêm sự , tổng đốc, cai đội, cai bạ, ký lục, nha úy, đô tri, chưởng thái giám, thái giám, văn chức, chiêm hậu quan, câu kê và cai đội ở tam ty, tượng đội trưởng, nội giám, cai hợp và thủ hợp tam ty, đội trưởng cơ Trung tượng, nhưng tri phủ, tri huyện, huấn đạo, thuộc Nội lệnh sử phủ quan, huyện quan, giáo quan, thuộc Nội thủy phủ quan, huyện quan, Nội lương y phủ quan, huyện quan, Tăng lục đạo lục ty phủ quan, huyện quan, thuộc nội tả hữu thủ hợp, lệnh sử tàu cai hợp, thủ hợp, Chiêm hậu lại ty cai hợp, các cục tượng chính, cai quan ty quan, tiểu hầu, bản ty đội chánh ty quan, ty quan, thư ký, câu kê, văn chức cai hợp, bản phủ cai giám, khám lý, đề đốc, đề lãnh, có con cháu thì chiếu theo phẩm theo thứ nhiều hay ít, con thì bổ làm quan viên tử, cháu thì bổ làm quan viên tôn, còn con nuôi và họ ngoại thì đều bổ vào hạng ? Thứ đội trưởng các thuyền ở Chính dinh, thứ đội trưởng thuộc cơ Trung tượng, ty quan các cục tượng, thủ hợp các dinh, phủ huyện thư ký, có bằng thị thì con cháu được cho một người làm quan viên tráng, dư ra cùng con nuôi và họ ngoại thì đều bổ vào hạng ? Những người kinh ở nhà các quan viên, như có vào bạ xã nào thì chỉ cho một người, nếu vào trúng 3, 4 xã thì đều bổ vào hạng ? Học trò chính đồ và hoa văn, hơi thông văn học, am hiểu tính toán, thì cứ thượng tuần tháng 3, tề tựu phủ chính để ứng thí, ai trúng cách thì cho làm nhiêu học. ? Các xã, thôn, phường, dân chính hộ thì về quê ông quê cha, dân khác khách hộ thì về chỗ nhà mình ở. Như tráng hạng và cố hạng trốn sang xã khác mà về quê ông quê cha, và cùng hạng đào hạng trở về nhà ở thì chép làm quân hạng phụ vào xã ấy ? Những người tiền chức, cũ hay mới, theo lệ chép làm tiền chức; nếu các viên nhưng áp thì nên chép làm tiền chức; các nhiêu binh, ưu binh, tiền binh, xét có người nào gian tuổi thì đều bổ vào hạng ? Các quan viên, binh viên cùng các chức trong xã, thôn, phường, cứ theo tên trong bảng lần lượt mà chép vào sổ ? Người nào từ 56 đến 59 tuổi thì tùy dân, xem hình thể già yếu thì cho làm lão hạng ? Những quân hạng, dân hạng cũ thì chép trở về tráng hạng, nếu là người thấp nhỏ thì cứ cho làm quân hạng dân hạng như cũ ? Dân mới vào sổ, người nào nhỏ bé cao độ 3 thước trở xuống thì làm hạng nhiêu tật, hơi nặng thì cho làm hạng bất cụ(1. Bất cụ : Người không được hoàn toàn thân thể. 1). Như hạng nhiêu tật cũ, người nào khỏi tật thì trở lại làm bất cụ hay quân hạng, dân hạng ? Khách hộ ở các thôn phường thì do tráng hạng, quân hạng, dân hạng theo lệ ghi vào sổ; tên nào trốn đi từ kỳ tuyển năm Quý mùi trở lại không thấy mặt thì cho các chức xét thực trừ làm ngoại tịch. Nếu trừ bậy, xét ra thực thì phải tội. ? Về lệ tiền giữ cửa, xã lớn 100 người trở lên nộp 3 tiền, xã trung 70 người trở xuống nộp 1 tiền 30 đồng, xã tiểu 30 người trở xuống nộp 1 tiền, số tiền ấy nộp ở tuyển trường, chia làm 4 phần, các lễ ngoài đều thôi ? Lễ trình diện của các xã, thôn, phường cứ 100 người thì nộp 5 tiền: hai viên khâm sai hai lễ, các viên cai án cùng một lễ, các viên cai lại cùng một lễ. Còn tiền lễ mừng, tiền lễ sổ đều thôi. Các viên ở bản phủ bản đường thì cùng một lễ ? Người nào 60 tuổi trở lên thì chép làm lão nhiêu, thu tiền 1 tiền nộp ở tuyển trường, chia làm 4 phần ? Các nhà sư, xét đúng bản thân có quan điệp(1. Quan điệp : Độ điệp, tức giấy của quan cấp cho chứng nhận là tăng. 1) và có trai giới tu hành thì cho miễn thuế và các việc sưu sai, nếu ra ngoài mà không có quan điệp và giả mạo quan điệp thì đều bổ vào hạng.

Những tiền cai cơ, tham khám, tham nghị, tham chính, thiêm sự tổng đốc, cai đội, cai bạ, ký lục, nha úy, đô tri, chưởng thái giám, văn chức, chiêm hậu quan, câu kê, khám lý và những trí sĩ có công, thì cho đem trình bằng sắc, xét thực thì chiếu phẩm trật, có con cháu thì bổ làm quan viên tử tôn ; nếu có can việc gì thì con cháu đều bổ vào hạng. ? Những tiền khám, lý, đề đốc, phủ quan có công thì cho đem trình bằng sắc, xét thực, có con cháu thì cho làm quan viên tử tôn, đã có quan viên tử tôn rồi thì nên cho một người làm quan viên tráng).

Mậu tý, năm thứ 17 [1708], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm

duyệt tuyển lớn. Trước kia đặt tuyển trường thì ở xứ Thuận Hóa 3 huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang 1 trường, 3 huyện Vũ Xương, Hải Lăng, Minh Linh 1 trường, 3 châu huyện Khang Lộc, Lệ Thủy, Bố Chính mỗi

nơi 1 trường, ở xứ Quảng Nam 6 phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Ninh, Phú Yên, Bình Khang mỗi phủ 1 trường, đến đây đặt thêm 2 phủ Bình Thuận và Gia Định, mỗi phủ đặt 1 trường, tất cả là 13 trường.

Mùa thu, tháng 7, bọn ác man ở Lũ Bá, Bà Rịa và bọn man Nam Bàn quấy rối cướp bóc dân ở biên thùy. Sai Câu kê dinh Quảng Nam là

Hòa Đức (không rõ họ) đem quân bản dinh đi đánh.

Tháng 8, ngày mồng 1, có nhật thực.

Lấy Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên. Cửu người Lôi Châu, Quảng Đông. Nhà Minh mất, để tóc chạy sang phương Nam, đến nước Chân Lạp làm chức ốc Nha, thấy phủ Sài Mạt ở nước ấy có nhiều người buôn các nước tụ họp, bèn mở sòng gá bạc để thu thuế gọi là hoa chi, lại được hố bạc chôn nên thành giàu. Nhân chiêu tập dân xiêu dạt đến các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Gia Khê, Luống Cày, Hương úc, Cà Mau (thuộc tỉnh Hà Tiên) lập thành 7 xã thôn. Thấy ở đất ấy tương truyền có người tiên thường hay hiện ra ở trên sông nhân thế đặt tên là Hà Tiên. Đến đấy Cửu ủy cho người bộ thuộc là Trương Cầu và Lý Xã dâng thư xin làm Hà Tiên trưởng. Chúa nhận cho, trao cho chức Tổng binh. Cửu xây dựng dinh ngũ, đóng ở Phương Thành, nhân dân ngày càng đến đông.

Chưởng dinh Tôn Thất Diệu chết, tặng Tả đô đốc.

Ngày ất mão, đầy trời sắc vàng, mặt trời không có ánh sáng.

Thao diễn thủy quân : Sai thuyền hải đạo của các cơ đội : (4 thuyền Khanh Nhất, Minh Nhất, Minh Nhị, Minh Tứ cơ Tả thủy thuyền An Triền, thuyền Thạch Bình, thuyền Hiền Nhất, thuyền Trà Nhất cơ Tiền thủy, thuyền Nội Tráng, thuyền Tá, thuyền Minh Nhị, thuyền Giao Thủy, cơ Tả dực, thuyền Tả Hùng, thuyền Bạch Câu, thuyền Định Nhị, thuyền Nhuệ Nhất cơ Tiền dực, thuyền Văn Hà, thuyền Kiên Tam, thuyền Trạch Nhất, thuyền Cường Nhất đội Tả thủy, thuyền Minh Nhất, thuyền Triều Tôn, thuyền Tráng Tam, thuyền Hữu Hung đội Tiền thủy, thuyền Tráng Nhị, thuyền Tráng Nhất, thuyền Tráng Tam đội Tả bính, thuyền Cổ Liễu, thuyền Đại Nhất, thuyền An Xá đội Tiền bính, Nội Thủy nhất đội thì thuyền Kính, thuyền Tả trung kính, thuyền Nội Kiên, Nội thủy nhị đội thì thuyền Khang Nhất, thuyền Đại Nham, thuyền Trí, Nội Thủy tam đội thì thuyền Tiệp Nhất, thuyền Hải Châu, thuyền Đinh Nhất, Nội Thủy tứ đội thì thuyền

Địch Cần, thuyền Khánh Mân, thuyền An Nội, Nội Thủy ngũ đội thì thuyền

An Nhất, thuyền Kiên Nhị, thuyền Kiên Nhất, Nội Thủy lục đội thì thuyền

Tả thủy, thuyền Trung Thủy, thuyền Hữu Thủy, Nội Thủy thất đội thì thuyền

Tả Đột, thuyền Gia Nhất, thuyền Hữu Đột, Nội Thủy bát đội thì thuyền Tiệp Tam, thuyền Gia Nhị, thuyền Nghị Giang, thuyền Gia tam, Nội Thủy cửu đội thì

Tân Hầu Thủy, thuyền Kiệu, thuyền Hữu trung kính, Nội Thủy thập đội thì thuyền Tân Khang, thuyền Trung Kính, thuyền Chạo, Nội Thủy thập nhất đội thì thuyền Tiệp Nhị, thuyền Xuân, Nội Thủy thập nhị đội thì thuyền Bác Vọng nhị, thuyền Thạch Than, thuyền Nam phù, Nội Thủy thập tam đội thì thuyền Võ Nhất, thuyền Trà Nhị, thuyền Đột Nhất, thuyền Thủy Nhị, cơ Hữu Thủy thì thuyền Quảng Nhất, thuyền Thủy bạn, thuyền Tín, thuyền Minh Tam, cơ Hậu thủy thì thuyền An Tam, thuyền An Nhất, thuyền An Nhị, thuyền Phú Lương, cơ Hữu dực, thì thuyền

An Nhị, thuyền Kiên Nhị, thuyền Nội Hùng, cơ Hậu dực thì thuyền ỷ Bích, thuyền Nghĩa Nhất, thuyền Hữu Hầu, thuyền Trạch Nhị, đội Hữu Thủy thì thuyền Tả Hầu, thuyền Kiên, thuyền Nhuệ nhị, thuyền Hậu trạch, đội Hữu bính thì thuyền Thắng Nhị, thuyền Thắng Nhất, thuyền Thắng Tam, đội Hậu bính thì thuyền

Hà Lộc, thuyền Phước Kinh, thuyền Đại Lộc, dinh Hậu thủy thì thuyền Phù Nam, thuyền Quảng Nhị, thuyền Nghĩa Nhị, thuyền Hiền Nhì), theo thứ tự bày hàng từ Phủ Cam trở xuống, hễ nghe hiệu trống thì mở thuyền chèo nhanh, đến mé sông Nội Thủy thì quay về. Chúa tới xem, thưởng bạc tiền theo cấp bực.

Mùa đông, tháng 10, mưa dầm nước lụt.

Kỷ sửu, năm thứ 18 [1709], mùa xuân, tháng giêng chúa đến trường Vạn Xuân để thao diễn bộ binh. Trước kia các quân thao diễn, trời tạnh thì mặc nhung phục, trời mưa thì mặc thường phục. Hôm ấy trời sáng sủa tạnh ráo, trong quân còn có người mặc thường phục. Chúa giận là trái lệnh, phạt các chức nội tả, nội hữu và các nội ngoại đội trưởng theo thứ bực.

Sai các quan văn võ và tam ty kiểm duyệt khí giới, voi ngựa, thuốc đạn công và tư.

Nội hữu phò mã Tống Phước Thiệu (con Nội tả chưởng dinh Tống Phước Trí) mưu phản, bị miễn làm dân thường. Trước là Thiệu cùng Cai đội Nguyễn Cửu Khâm (con Nguyễn Cửu ứng) ngầm mưu làm bậy. Nhân khi Câu kê Hòa Đức lãnh quân đi đánh giặc, Thiệu ngầm sai thuộc hạ là bọn Trịnh Nghệ, Tường Vân (đều không rõ họ) vào Quảng Nam, thầm kết những tay hào kiệt, mưu đồ trước lấy Bình Khang, sau lấy Phú Yên, rồi trở về lấy Quảng Nam, cướp quân Hòa Đức, thẳng tới Chính dinh, phóng lửa nổi loạn. Tôn Thất Thận cũng dự mưu ấy, đến khi mưu tiết lộ thì đem việc cáo phát ra. Cửu Khâm, Trịnh Nghệ, Tường Vân đều bị giết. Thiệu bị bãi làm thứ dân và bị tù ở vườn Bát Khải. Thận bị cách và lui xuống làm lính.

Mùa hè, tháng 5, Trịnh Căn nhà Lê chết. Chắt là Cương lên nối.

Sai quan kiểm duyệt khí giới công và tư ở các dinh.

Quân xá ở cơ Tả trung phát hỏa, cháy lan sang chợ dinh cơ Hữu trung.

Mùa thu, tháng 7, ngày Quý tỵ, xung quanh mặt trời có năm quầng đủ năm sắc, chặp lâu mới tan.

Núi An Sinh ở Quảng Bình lở dài 30 trượng.

ở Gia Lộc ngoại châu Bố Chính có động đất.

Phiên vương Thuận Thành là Kế Bà Tử đến cống phương vật.

Mùa đông, tháng 12, ngày Nhâm dần, đúc Quốc bảo. Sai Lại bộ đồng tri là Qua Tuệ Thư coi việc chế tạo (ấn khắc chữ Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo. Năm ấy đúc xong, về sau liệt thánh truyền nhau lấy làm quốc bảo. Đến khi Duệ tông Hiếu định hoàng đế vào Nam, cũng đem ấn ấy đi theo. Duệ tông Hiếu định hoàng đế băng thì để lại cho Thế tổ Cao hoàng đế. Bấy giờ binh lửa hơn 20 năm, ấn ấy mất rồi lại tìm thấy nhiều lần. Mùa hạ năm Nhâm dần, giặc đánh Sài gòn, [Thế tổ] ra đảo Phú Quốc, điều khiển Ngô Công Quý mang ấn theo sau bị lạc. Đến khi Chu Văn Tiếp phá được giặc, rước vua hồi loan, Công Quý cũng từ Long Hồ đem ấn về hiến. Lại đến chiến dịch Ba Lai, quân giặc đuổi gấp, tòng thần(1. Người đi theo vua.1) mang ấn lội sông chạy, ấn rơi xuống nước, rồi thì người lội sau vướng chân chạm phải, lại mò lấy được, đem hiến ở hành tại. Lại khi vua lánh giặc, ra ngoài vụng đảo Thổ Châu, từ giá(2. Mẹ vua 2) và cung quyến(3. Những vợ con vua. 3) đều đến lại ở đảo, vua Xiêm sai tướng là Thát Xỉ Đa đem binh thuyền đến đón vua mới vào nước họ. Trong lúc thảng thốt, tình trạng người Xiêm chưa lường được thế nào, vua mật sai tòng thần tên là Hựu đem ấn ấy vượt biển lên bờ giấu kín. Khi vua đến thành Vọng Các,

thấy vua Xiêm đãi rất cung kính, không có ý gì khác, vua mới sai người về đảo Thổ Châu để đón từ giá và cung quyến, tên Hữu cũng mang ấn ấy đi theo. Khoảng năm Gia Long, vua từng dụ hoàng thái tử, tức Thánh tổ Nhân hoàng đế rằng : "ấn báu này các đời truyền nhau, ngày xưa đã trải nhiều phen binh lửa, người chẳng chắc còn, mà ấn này vẫn cứ giữ trọn trước sau, chiếu văn và bổ dụng quan lại đều dùng ấn này, giữ tín trong nước, ai cũng hưởng ứng. ấn này quan hệ với quốc gia không nhỏ, thực là ngôi báu trời cho vẫn có quỷ thần giúp đỡ, khiến cho ngọc bích của Triệu lại trở về(1. Triệu bích : Lạn Tương Như nước Triệu đem ngọc bích sang Tần để đổi lấy 5 thành, Tần không đổi thành, Tương Như đem bích về.1) để truyền cho con cháu. Vả lại nhà nước ta liệt thánh nối nhau, chồng chất sáng hòa, hơn 200 năm, nay nhờ yêu dấu thiêng liêng mà thống nhất cả nước, Phước chứa vốn đã lâu rồi. Kinh Thi có câu "Nhà Chu nước dù cũ mà mệnh trời thì mới"(2. Chu tuy cựu bang, kỳ mệnh duy tân. 2), sự mở mang cơ nghiệp vốn bắt đầu tự Văn vương Vũ vương, mà công gây dựng buổi đầu thực là tự Cổ công và Vương Quý. Những vật cũ đời ấy để lại như cái đỉnh cái di, người Chu cũng đều xem là đồ báu. Huống chi cái ấn quốc bảo của tổ tiên ta để lại ư ? Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi". Năm Canh thìn, Minh Mệnh năm thứ 1, tháng 2, ngày tốt, Thánh tổ Nhân hoàng đế tự tay phong kín cất đi. Đến năm Đinh dậu thứ 18 ngày 22 tháng chạp lại mở xem một lần rồi viết chữ son niêm lại để cất như cũ, dùng để truyền cho ức muôn đời).

Canh dần, năm thứ 19 [1710], mùa xuân, tháng 3, được mùa to.

Sai hai dinh Lưu Đồn và Quảng Bình sửa sang các lũy và cầu cống đường sá.

Mùa hạ, tháng 4, chúa đi Quảng Bình, đến lũy Sa Phụ xem khắp các pháo đài, lên thành Trấn Ninh, nói đến chuyện cũ năm Nhâm tý Nguyễn Hữu Dật đánh nhau với tướng Trịnh. Chúa xem khắp chiến địa, nức nở khen ngợi hồi lâu, rồi thưởng tiền gạo cho các quân tại dịch theo thứ bực.

Xa giá về qua dinh Lưu Đồn, cho thống suất Trịnh Nghị Lộc 30 lạng vàng tốt, một thanh gươm báu, một chiếc áo gấm, cho tướng sĩ 600 quan tiền.

Đúc chuông chùa Thiên Mụ (nặng 3.285 cân). Chúa thân làm bài minh khắc vào chuông.

Chưởng dinh Tôn Thất Đạt chết, tặng Tả quân đô đốc chưởng phủ sự quận công.

Tháng 5, lấy Cai án Phạm Hữu Huệ làm Cai bạ dinh Quảng Nam, Thư ký Nguyễn Đăng Đệ làm Ký lục.

Mùa thu, tháng 9, bắt đầu dùng ấn long tỷ nhỏ. (Trong ấn khắc 8 chữ Thủ tín thiên hạ văn vũ quyền hành). Bấy giờ người ở xã Tiên Nộn tên là Đạt ngụy tạo ấn son để làm bằng giả, chúa ghét thói tệ ấy, ra lệnh từ nay những bằng thị bổ thụ quan chức ở đầu giấy đều đóng ấn ấy để phòng

giả mạo.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro