2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mùa đông, tháng 11, lấy Lê Hoành Giảng và Nguyễn Khoa Chiêm làm Cai hợp kiêm Tri bạ Chính dinh.

Tháng 12, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tân mão, năm thứ 20 [1711], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Đôn vương và Nga vương ở hai rợ man Nam Bàn và Trà Lai(1. Sau gọi là Gia Lai (Jarai). 1) (giáp giới Phú Yên và Bình Định, hình như thuộc về Hỏa quốc, nhưng không lấy làm đích xác) sai sứ đến dâng sản vật địa phương và trình bày rằng dân họ không chịu đóng thuế, nên không lấy gì để cống, xin phát quân ra oai. Chúa cho rằng ký thuộc là Kiêm Đức (không rõ họ) đã từng đi chiêu dụ hai rợ Man, quen hiểu thói Man, nên cho đem thư đến hiểu dụ những tù trưởng, cho áo sa áo đoạn và đồ đồng đồ sứ, lại lấy nghĩa kẻ trên người dưới khuyên bảo dân Man, định ra thuế lệ, khiến phải nộp cho Man trưởng. Người Man không ai không theo mệnh.

Mùa hạ, tháng 4, tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn. Chúa hậu thưởng.

Sai đo bãi cát Trường Sa dài ngắn rộng hẹp bao nhiêu.

Tháng 5, Thống suất đạo Lưu Đồn là Trịnh Nghị Lộc sai người đi dò xét tình hình biên giới ở châu Bắc Bố Chính, khi qua lũy Trấn Ninh bị Trấn thủ dinh Bố Chính là Tuấn Đức (không rõ họ) bắt, do đó Nghị Lộc và

Tuấn Đức bất hòa. Chúa cho thư để hòa giải.

Sai các đường ở châu Bố Chính đều đặt đồng hồ để tính đường sá xa gần.

Tháng 6, hai người lính cơ Tuần hà dinh Bố Chính bị lính tuần của

Bắc Bố Chính bắt được. Việc báo lên. Chúa sai Trấn thủ dinh Bố Chính gửi thư cho Thủ tướng Trịnh là Lê Thời Liêu nói : "Bắc Hà bắt được 2 người ấy chẳng đủ làm công, mà Nam Hà mất hai người ấy cũng không tổn hại, duy bọn tiểu dân kia phải lìa quê hương, bỏ thân thuộc, lòng người nhân giả có điều không nỡ". Thời Liêu được thư, bèn thả hai người ấy trở về.

Nhà quân xá của cơ Tiền trung bộ phát hỏa, cháy lan đến 8, 9 thuyền.

Mùa thu, tháng 8, thuật sĩ Nguyễn Hữu Thừa và Đặng Văn Minh dâng lời nói rằng vào khoảng tháng 8 chắc có mưa to gió dữ. Chúa sai quân dân phòng bị trước. Nhưng đến ngày không mưa gió gì, chúa giận là nói xằng, bắt sung vào quân Hữu thủy.

Đầu là chúa sai Tướng thần lại ty Thuận Đức sang Chân Lạp chiêu tập những dân xiêu tán của ta, đến bấy giờ họ đã dần dần trở về. Phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Cửu Vân thường bắt họ làm việc riêng, nhiều người sinh oán. Chúa bảo trách rằng : "Khanh là con nhà tướng, chế ngữ một phương, sao không nghĩ lấy sự vỗ về làm trọng, mà chỉ mưu lợi cho mình? Những dân xiêu tán mới về kia, thất sở đã lâu, nay lại sai bắt quấy nhiễu thì họ chịu sao nổi ? Xưa Tiêu Hà(1. Bề tôi của vua Hán Cao tổ.1) giữ đất Quan Trung, Khấu Tuân(2. Bề tôi của vua Quang Vũ nhà Hậu Hán.2) giữ đất Hà Nội đều hay vỗ yên trăm họ, giúp nên đế nghiệp, khanh nên coi đó mà gắng lên". Lại ra lệnh cho hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn rằng phàm dân lưu tán mới trở về thì chia ruộng đất để thiết lập thôn phường, tha các thứ binh dao tô thuế trong 3 năm, do đó dân đều yên nghiệp làm ăn.

Mùa đông, tháng 10, Nặc Thâm nước Chân Lạp từ nước Xiêm về, cùng với ốc Nha Cao La Hâm mưu hại Nặc Yêm. Nặc Yêm sai người Ai Lao là Nặc Xuy Bồn Bột chạy báo hai dinh Trấn Biên, Phiên Trấn xin quân cứu viện. Phó tướng Nguyễn Cửu Vân và Tổng binh Trần Thượng Xuyên đem việc báo lên. Chúa cho thư trả lời rằng : "Nặc Yêm đã theo mệnh xưng thần, nên phải an ủi dung nạp. Nhưng Nặc Thâm là con Nặc Thu, mà Nặc Thu không bỏ triều cống, sao nỡ đem quân đánh được. Bọn khanh nên xét kỹ tình hình bên địch, tùy cơ ứng biến, khiến cho Nặc Thâm bỏ mối thù oán, mà Nặc Yêm cũng được bảo toàn. Đó là thượng sách".

Tháng 12, chúa muốn dời phủ sang bãi phù sa [xã] Bác Vọng. Sai ký lục Lê Quang Hiến vẽ bản đồ để tiến.

Nhâm thìn, năm thứ 21 [1712], mùa xuân, tháng giêng, dựng phủ mới ở Bác Vọng.

Lấy Tôn Thất Trinh (con thứ tư Anh tông) làm Ngoại chưởng cơ.

Tháng 2, cá voi vào sông Thai Dương. Chúa sai đem lưới to vây lấy, đo mình cá dài hơn 20 thước, lưng hơn 10 thước. Được vài ngày sai cho

ra biển.

Mùa thu, tháng 8, nhà quân xá ở cơ Trung hậu hữu bị cháy, cháy lan sang pháo đài và 3 thuyền của cơ Thủy quân. Chúa sai bắt chủ nhà bắt đầu cháy là Văn Phái (không rõ họ) giết đi, và cắt chân người vợ.

Chúa thấy nước Chân Lạp sản nhiều sơn tốt, sai người đem sang 100 lạng vàng theo giá mà mua để dùng về việc nước, và gửi thư cho phiên vương là Nặc Thu.

Tháng 9, phiên vương Thuận Thành là Kế Bà Tử xin định điển lệ cho hạt ấy. Chúa sai văn thần định 5 điều ban cho :

1) Viên nào có sự trạng gì đến cáo ở vương phủ, thì tiền đòi xét mỗi viên tả hữu trà phải nộp 20 quan, mỗi viên tả hữu phan dung phải nộp 10 quan. Đến cáo ở dinh Bình Khang thì mỗi viên tả hữu trà nộp 10 quan, mỗi viên tả hữu phan dung nộp 2 quan.

2) Phàm người kinh kiện nhau hoặc kiện với dân Thuận Thành thì do phiên vương và cai bạ ký lục xử đoán ; dân Thuận Thành kiện nhau thì một mình phiên vương xử đoán.

3) Hai trạm Kiền Kiền và Ô Cam sai quân canh giữ nghiêm mật để phòng kẻ gian, người sai đi không được bắt ép dân trạm đài đệ.

4) Khách buôn đến các sách Man để mua bán thì phải trình với người cai phái tấn sở của nguồn để cấp giấy thông hành.

5) Dân Thuận Thành xiêu tán đến dinh Phiên Trấn, đều đã thả về cho làm ăn, nên để lòng thương yêu, đừng nên bóc lột hà khắc, cho dân ở yên.

Đốt vương nước Tà Bồn sai sứ đến cống. Chúa sai Nội lệnh sử đưa thư và cho phẩm vật để ủy dụ.

Mùa đông, tháng 10, nước lụt sâu 5, 6 thước, nhà cửa dân gian bị trôi mất nhiều.

Tháng 12, lấy Thủ hợp tướng thần lại Chính Dinh là Nguyễn Kinh Thi làm Cai hợp kiêm cai đơn.

Quý tỵ năm thứ 22 [1713], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm duyệt tuyển lớn. Nhưng chỉ sai lấy sổ dâng lên, không lập tuyển trường. Chúa cho rằng tuyển trường có nhiều điều nhũng tệ, bèn trao cho quan khâm sai một cái chiêng và một cái kiếm, phàm kẻ nào lấy riêng tiền của dân thì cho chém trước rồi báo lên sau.

Nặc Thu nước Chân Lạp mưu phản, thám tử biết được tình trạng báo lên. Chúa sai đưa thư dụ, đại lược nói rằng : "Trời đất đạo công che chở, muôn vật đều được sống vui. Đế vương lượng cả bao dung, bốn bên giữ nghĩa thân mục. Duy nước Chân Lạp nhà ngươi thực là một nước phên dậu, từ triều trước đã vâng mệnh lớn, từng phen phụng cống trước sân rồng ; tới nay ta nối giữ cơ đồ, lại tới xưng thần nơi cửa ngọc. Như thế là sợ uy trời mà giữ nước, chỉ người trí giả mới hay. Ta vốn quý lòng thành mà khen việc tốt, ban cho phẩm vật, để tỏ ơn thêm. Ngươi nên thể lòng ta, đừng quên thần phục, khiến biên cảnh nhờ đó mà tắt mối can qua, cho sinh dân nhờ đó mà yên vui đồng ruộng, trong ngoài được vô sự đời đời". Nặc Thu được thư, mưu làm phản bèn thôi.

Mùa hạ, tháng 4, sâu keo. Gặp nước lụt tràn ngập, sâu chết hết.

Thi nhiêu học, lấy 97 người trúng cách về chính đồ, 41 người trúng cách về hoa văn.

Tháng 5, ngày mồng 1, có nhật thực.

Chúa truy nhớ Tôn Thất Khê có công, sai lấy 300 dân xã Nam Phố cho con cháu làm ngụ lộc.

Tháng 6, tham nghị Nguyễn Đại Hiệu chết, tặng Kính thận công thần Đại lý tự khanh, thụy là Trung thành.

Mùa thu, tháng 7, mưa gió to, núi La Chử lở dài hơn 10 trượng.

Trấn thủ dinh Quảng Bình là Nguyễn Hữu Hào chết, tặng Đôn hậu công thần trấn phủ, thụy là Nhu từ.

Tháng 8, lấy Trấn thủ Cựu dinh là Tín Đức làm Trấn thủ dinh

Quảng Bình, Tham tướng dinh Quảng Bình là Chưởng cơ Nguyễn Cửu Dực (con Nguyễn Phước Kiều) làm Chưởng dinh về trấn Cựu dinh.

Mở khoa thi. Bấy giờ học trò thi chính đồ, kỳ đệ nhị có 130 người, khảo quan bất hòa đánh hỏng cả, duy thi hoa văn và thám phỏng thì lấy trúng cách được hơn 10 người. Chúa cho rằng khảo quan quá khắc, đặc biệt ra lệnh thi lại. Chúa ra đề mục. Lấy trúng cách 1 người sinh đồ, bổ huấn đạo, 7 người nhiêu học, bổ lễ sinh, còn những người trúng hoa văn và thám phỏng thì bổ vào các ty Tướng thần lại, Lệnh sử và Xá sai.

Trấn thủ dinh Bình Khang là Diễn Phái (không rõ họ) chết, tặng Chưởng dinh, thụy là Thuần chất.

Tháng 9, trấn thủ dinh Quảng Bình là Tín Đức chết, tặng Tả đô đốc, thụy là Tiệp mẫn.

Thăng Chưởng cơ dinh Tả bộ là Nguyễn Đức Khang làm Chưởng dinh, lãnh Trấn thủ dinh Quảng Bình, thăng Cai cơ Dương Vạn (không rõ họ) làm Chưởng cơ lãnh tham tướng thủy dinh Quảng Bình, thăng Cai đội

Tống Phước Đào làm Cai cơ coi cơ Tả súng.

Chúa đi thăm các dinh Quảng Bình, Bố Chính và Lưu Đồn, xem khắp các thành lũy rồi về.

Mùa đông, tháng 12, lấy Cai cơ Trụ Lương (không rõ họ) làm Trấn thủ dinh Bình Khang.

Giáp ngọ, năm thứ 23 [1714], mùa xuân, tháng 2, bọn ác man Cam Lộ quấy rối biên thùy. Chúa sai Nội hữu Nguyễn Cửu Thế (lại tên là Võ, con Nguyễn Cửu ứng, lấy công chúa Ngọc Phượng) đem quân 5 thuyền súng đao của Cựu dinh đi đánh, bắt được trưởng là Trà Xuy và đồ đảng đem về.

Mùa hạ, tháng 6, trùng tu chùa Thiên Mụ. Sai bọn chưởng cơ Tống Đức Đại trông nom công việc. Quy chế thì bắt đầu từ cổng chùa đến điện Thiên vương, điện Ngọc hoàng, điện Đại hùng, nhà Thuyết pháp, lầu Tàng kinh, hai bên thì lầu chuông, lầu trống, điện Thập vương, nhà Vân thủy, nhà Tri vị, nhà Thiền đường, điện Đại bi, điện Dược sư và phòng tăng nhà thiền có tới vài mươi sở, mà đằng sau các nơi phương trượng trong vườn Côn Gia cũng không kém vài mươi sở, đều là rực rỡ chói lọi, làm tới một năm mới xong. Chúa thân chế bài văn bia để ghi, sai người sang nước Thanh mua kinh Đại tạng cùng luật và luận hơn nghìn bộ để ở tự viện. Đằng trước chùa kề sông, dựng đài câu. Chúa thường ra chơi. (Bấy giờ nhà sư ở Chiết Tây tên là Đại Sán, tự là Thạch Liêm, vì thiền mà được yêu dùng, sau về

Quảng Đông, lấy những gỗ quý chúa ban cho mà dựng chùa Trường Thọ, nay di tích hãy còn).

Trấn thủ Cựu dinh là Nguyễn Cửu Dực chết, tặng trấn phủ.

Mùa thu, tháng 7, mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ. Chúa ăn chay ở vườn Côn Gia một tháng, phát tiền gạo chẩn cấp cho người nghèo thiếu. Phiên vương Thuận Thành là Kế Bà Tử cũng đem con và tướng tá tới hội, chúa ban yến rất hậu, phong cho ba người con là Phù Xác, Phác Xác và Tỳ Thôn Phù tước hầu.

Tháng 8, ngày Đinh hợi, hoàng tôn (tức là Thế tông Hiếu vũ hoàng đế) sinh.

Thuyền bị nạn xứ Nghệ An đậu ở giang phận Lưu Đồn. Chúa sai cấp tiền gạo rồi cho về.

Tháng 9, sai Ngoại hữu chưởng cơ Tống Phước Diệu (con Chưởng dinh Tống Phước Thạch, dòng dõi Tống Phước Trị), Ký lục Lê Quang Hiến, Cai bạ Phạm Hữu Huệ, Đô tri Thận Đức (không rõ họ), Ký lục Nguyễn Đăng Đệ, Tri bạ Nguyễn Khoa Chiêm bàn định thể lệ vận tải và hiện trữ của các thuyền chở. Trước là từ Quảng Nam trở vào, hằng năm thường vận chuyển thóc thuế các địa phương về Chính dinh để sung chi cấp, đặt quan tào vận để coi việc ấy. Những thuyền tư của dân buôn từ châu Bố Chính đến

Gia Định đều phải khai sổ, lấy trung tâm thuyền ngang rộng bao nhiêu để định lệ thuế (như trung tâm ngang 10 thước thì tiền thuế 10 quan, 9 thước tiền thuế 9 quan, 4 thước tiền thuế 4 quan v.v...). Mỗi năm tháng 3, tháng 6 vận chở hai chuyến. Đã được miễn thuế, lại được cấp tiền tu bổ và tiền cầu gió. Nhưng đi buôn thì được nhiều lời cho nên số thuyền nhiều mà ứng chở lại ít. Chúa sai định lại điều lệ, tùy thuyền lớn nhỏ mà chia cắt vận chở và tính đường gần xa mà cấp phát tiền thuê khác nhau.

Cấp tiền thuê người và ngựa trạm các lộ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Ninh, Phú Yên, Thuận Thành).

Mùa đông, tháng 10, Nặc Thâm nước Chân Lạp cùng bầy tôi là

Cao La Hâm dấy binh vây Nặc Yêm rất gấp. Nặc Yêm cầu Xuy Bồn Bột ứng tiếp. Xuy Bồn Bột chọn trong quân của mình 2.000 người kéo về theo đường bộ. Bấy giờ số quân của Nặc Thâm có 4 vạn, mà số quân của

Nặc Yêm và Xuy Bồn Bột không đầy 1 vạn, Nặc Yêm lo quân ít, phải

cầu viện với hai dinh Phiên Trấn, Trấn Biên. Đô đốc Phiên Trấn là

Trần Thượng Xuyên phát binh qua Sài Gòn, phó tướng Trấn Biên là

Nguyễn Cửu Phú phát binh đóng ở Lôi Lạp, thủy quân thì đóng ở Mỹ Tho, để làm thanh viện ở xa. Sai người đem việc báo lên. Chúa trả lời rằng : "Việc ở ngoài biên khổn, ủy cả cho hai khanh, phải xét nên đánh hay nên giữ, sao cho yên nơi phiên phục". Nhân sai Cai cơ Tả bộ dinh Bình Khang là Nguyễn Cửu Triêm lãnh 26 thuyền quân thủy bộ của dinh Bình Khang để ứng tiếp, lấy quân 4 thuyền cơ Tả thủy dinh Quảng Nam để tiếp giữ dinh Bình Khang. Lại sai chọn các dân thuộc Nội phủ ở dinh Trấn Biên để sung binh số và dụ rằng khi xong việc lại vẫn y lệ cũ.

Phiên vương Thuận Thành là Kế Bà Tử xin lập nhà công đường. Chúa sai vẽ đồ thức tả sư hữu tướng(1. Tả sư hữu tướng : Tả văn hữu võ. 1), định thứ tự chỗ ngồi các phẩm khi làm việc công và khi xử kiện.

Tháng 11, lấy Cai cơ Trương Văn Dực làm Chưởng cơ, Ký lục Chính dinh là Lê Quang Hiến làm Nha úy, Ký lục Quảng Bình là Thanh Minh làm Ký lục Chính dinh.

Tướng sĩ hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn cùng với Xuy Bồn Bột và Nặc Yêm hợp quân vây Nặc Thâm ở thành La Bích. Cao La Hâm đã trốn đi trước. Nặc Thu đưa thư xin chịu tội, nói vì Nặc Thâm tin dùng nịnh thần Cao La Hâm mà thành anh em không hòa, gây nên mối loạn. Nay xin lập vua mới lên giữ nước, để khỏi giết hại nhân dân. Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Cửu Phú đem việc báo lên. Chúa cả mừng, bảo hai tướng rằng: "Việc ngoài biên khổn là ở tướng quân định đoạt, nên làm sao cho ra trận thì quyết thắng, chế phục được người xa, còn việc xin lập vua mới thì đợi sau sẽ bàn".

Tháng 12, lấy Chưởng thái giám là Cai đội Nguyễn Văn Lạo làm Tổng đốc kiêm Cai cơ, coi quân các thuyền Nội phủ.

ất mùi năm thứ 24 [1715], mùa xuân, tháng giêng, Nặc Thâm nước Chân Lạp ở thành La Bích, ngày thêm cùng quẫn, bèn phóng lửa đốt nhà cửa trong thành, rồi ra cửa Nam trốn đi. Nặc Thu nghe tin cũng trốn.

Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Cửu Phú đốc quân vào thành, thu hết các đồ khí giới, dò xét biết Nặc Thu sợ không dám ra, xin nhường ngôi cho Nặc Yêm. Hai tướng đem sự trạng báo lên. Chúa sai phong Nặc Yêm (lại tên là Kiều Hoa) làm vua nước Chân Lạp. Cho thư dụ Nặc Thu, đại lược rằng : "Đạo trời công che trùm muôn vật, mở hơi dương cuối lúc âm hàn. Đạo vua hay ngăn giữ man di, thi đức nhân sau khi chinh phạt. Nước Chân Lạp của ngươi là thuộc quốc của ta. Trước liệt thánh đã gia ơn nuôi nấng, nay ta lại tỏ đức vỗ về. Vừa đây ngươi đem lòng phản trắc, tối nghĩa thủy chung. Cho nên ta sai tướng vâng lời, dấy binh hỏi tội. Ngươi đã trốn vào rừng rú, không đất nương mình. Sao chẳng biết chữa lại lỗi xưa, để đón lấy điều lành sắp tới ? Mà lại cá chuối chầu sao, hãy còn thiếu lễ, chuột con chắp tay, chưa thấy thực tình. Lại nhân gia giáo không nghiêm, đến nỗi trong nhà gây loạn. Vả ta đối với Nặc Yêm, ơn sâu ấp trứng, đức rộng chở che, bất đắc dĩ phải dùng binh để bảo toàn thôi. Huống chi ngươi với Nặc Yêm, kết nghĩa nhân gia, tình như phụ tử. Vả tuổi đã già, lòng ta không nỡ. Ngươi nên trở về nước cho toàn cái ơn phụ tử, giữ được vui vẻ vợ con. Ta đã sách lập Nặc Yêm làm vua nước ngươi, ngươi nên nhường ngôi, cho yên nhà yên nước, yên cả nhân dân. Nếu hay đến chầu cửa khuyết, ta sẽ lấy lòng thành hậu đãi. Ví bằng đường sá xa xôi không thể đi được, thì cũng cho tùy thích mà thôi".

Lại thấy rằng Nặc Thâm và Cao La Hâm nhất thời trốn loạn, hoặc còn quấy rối, mật dụ cho Nặc Yêm an tập nhân dân để phòng bị.

Tháng 2, Nặc Thâm dẫn quân Xiêm đến cướp Hà Tiên. Bấy giờ Hà Tiên không có phòng bị. Quân Xiêm thình lình tới, Tổng binh là Mạc Cửu chống không được, chạy giữ đất Luống Cày. Nặc Thâm cướp hết của cải đem đi. Cửu về Hà Tiên, đắp thành đất, đặt xích hậu xa để làm kế phòng thủ.

Cai cơ Tống Phước Đào chết, tặng Chưởng cơ, rồi lại tặng thêm Chưởng dinh.

Tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

ở hai phủ Thăng Hoa và Quy Ninh động đất.

Mùa hạ, tháng 4, Xiêm La sai người đưa thư trách Nặc Yêm nước

Chân Lạp gây hấn, lại muốn phát binh để giúp Nặc Thâm. Nặc Yêm cáo cấp với hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn. Trần Thượng Xuyên và Nguyễn Cửu Phú đem việc báo lên. Chúa cho rằng việc binh ở xa khó tính, hạ lệnh cho hai tướng tùy nghi xử trí. Lại lo Nặc Yêm binh lực chẳng đủ, bèn cho tất cả khí giới bắt được và trả lại những người bị bắt. Nặc Yêm cảm tạ, hiến 6 thớt voi. Chúa sai nhận lấy.

Ai Lao đến cống phẩm vật địa phương.

Bấy giờ tù trưởng Man là Chiểu Đồn Không bị người nước là Tạo Vĩ bức bách, nên sai sứ sang cống để cầu giúp quân. Chúa sai sứ mang thư sang an ủi vỗ về và xem binh thế mạnh yếu cùng địa thế hiểm dễ thế nào ?

Sai dinh Trấn Biên dựng Văn miếu, giao cho Trấn thủ Nguyễn Phan Long, Ký lục Phạm Khánh Đức trông coi công việc (Miếu ở địa phận hai thôn Bình Thành và Tân Lại huyện Phước Chính, đằng trước kề sông Phước Giang, đằng sau gối núi Long Sơn).

Chúa rộng xem kinh sử, vui cùng bút mực, phàm trước tác đề vịnh, đều có ý tứ tự nhiên. Bấy giờ Kinh phi Nguyễn Thị mất, chúa thương nhớ không nguôi, ngự chế bốn bài thơ điệu vong viết trên tường trai phòng :

Bài thứ nhất [Phiên âm]

Vấn thiên hà sự chiết ngô phi,

Hoa tạ tam cung nguyệt yếm huy.

Bất đặc nữ trung vong khổn phạm,

Hoàn tri kỳ nội thất dung nghi.

Thời đương thất tịch ngân hà ám,

Sau ký thiên niên giới lộ hy.

Mạn đạo tiếu nhân nhi phụ thái,

Cổ kim thùy cánh thử tình vi ?

[Dịch]

Hỏi trời sao giết vợ ta,

Ba cung hoa rụng, trăng kém sáng.

Không những mất khuôn phép của giới đàn bà,

Đâu ngờ mất cả dáng điệu trong kỳ hẹn ước.

Đêm thất tịch mà sông ngân mờ tối,

Sầu nghìn thu vì móc hẹ chóng tan.

Đừng cười người ta thói đàn bà con trẻ.

Xưa nay ai không có tình này !

Bài thứ hai [Phiên âm]

Khứ niên chức nữ nhập song minh,

Khước bị trùng vân tựu địa sinh.

Chế cẩm vị hoàn ti tại trục,

Xuyên trâm tài bãi tuyến phiêu doanh.

Không hoài ngũ dạ Quỳnh lâu địch,

Khởi vọng song xuy Ngọc điện sinh.

Nhất phiến mê ly nghi thử tế,

Uyên ương tú chẩm mộng nan thành.

[Dịch]

Năm ngoái sao Chức nữ soi cửa sổ,

Nay bị mây dầy che lấp đi.

Dệt gấm chưa xong, tơ còn ở trục,

Xâu kim vừa bỏ, chỉ còn phất phơ.

Tiếng sáo Quỳnh lâu, năm canh tưởng nhớ,

Tiếng sênh Ngọc điện, khó có lứa đôi.

Tấm lòng mê mẩn ngờ như lúc ấy,

Gối thêu uyên ương, nằm mộng khó thành.

Bài thứ ba [Phiên âm]

Nội trợ tằng kinh ức ỷ ny,

Duy dư đồng nhữ lưỡng nan kỳ.

Phi nhân mộ sắc tiềm huy lệ,

Chỉ vị tôn hiền trọng phú thi.

Việt hải tuy khoan nan tái hận,

Tẩm lăng nghi cận dị quan bi.

Trường đê thả mạc tài dương liễu,

Hảo đãi thanh minh túng mục thì.

[Dịch]

Việc nội trợ vẫn nhớ dung tư yểu điệu,

Duy ta cùng mình, khó hẹn nhau.

Không phải vì mến sắc mà thầm khóc,

Chỉ quý tính nết mới làm thơ.

Biển rộng mông mênh, mà khó chở hận.

Tẩm lăng gần gũi, để dễ xem bia.

Chớ trồng dương liễu trên đê dài,

Để tiết thanh minh trông cho quang.

Bài thứ tư [Phiên âm]

Nhữ thọ tuy vi, Phước tự trường,

Nhân truyền Phước trạch Nguyễn cung hương.

Phao tư kim ngọc doanh song níp,

Lưu thử nhi tôn mãn nhất đường.

Đối cảnh kỷ hồi hàm biệt lệ,

Liên tài nhất thế động trung tràng.

Kim bằng diệu pháp không vương lực,

Tiến bạt u hồn đạt thượng phương.

[Dịch]

Mình tuổi thọ dẫu ít, nhưng Phước thì nhiều,

Người ta thường đồn Phước trạch thơm trong cung họ Nguyễn.

Vàng ngọc hai hòm đều vứt bỏ ;

Để lại con cháu đầy một nhà.

Đối cảnh bao lần ngậm nước mắt ;

Tiếc tài suốt đời động lòng thương.

Nay nhờ phép màu của đức Phật,

Tiếp dẫn linh hồn lên cõi tiên.

Mùa thu, tháng 8, Đô tri là Thận Đức bị bãi. Vì Thận Đức nhận bừa đơn kiện ở ngoài, xử kiện không được minh nên bị bãi.

Tháng 9, đổi bổ Ký lục Chính dinh là Thanh Minh làm Ký lục dinh Quảng Bình ; Ký lục dinh Quảng Bình là Lê Cảnh Đức làm Ký lục

Chính Dinh, cho Ký lục dinh Quảng Nam là Nguyễn Đăng Đệ làm Đô tri Chính Dinh coi Xá sai ty.

Mùa đông, tháng 10, sai hoàng tử cả là Đỉnh Thịnh hầu làm Chưởng cơ, hoàng tử thứ tám là Trí làm Nội hữu cai đội, hoàng tử thứ mười hai là Điền là Hữu thủy cai đội ; lấy Thống suất đạo Lưu Đồn là Trịnh Nghị Lộc làm Trấn thủ Cựu Dinh, Trấn thủ dinh Quảng Bình là Nguyễn Đức Khang làm Thống suất đạo Lưu Đồn, Trấn thủ dinh Bố Chính là Tuấn Đức làm Trấn thủ dinh Quảng Bình, Cai cơ là Chính Dinh Trương Phước Thức làm Trấn thủ dinh Bố Chính.

Tháng 11, triệu phó tướng dinh Trấn Biên là Nguyễn Cửu Phú về, lấy phó tướng Nguyễn Cửu Triêm làm Lưu thủ dinh Trấn Biên. Triêm đến

nơi, xin lấy những ruộng hạng hai hạng ba ở xứ Cù Lao do cha là

Nguyễn Cửu Vân đã khai khẩn, làm quan điền ăn riêng. Chúa tự tay phê cho, nhân gọi ruộng ấy là ruộng "châu phê" (nay là đất ở ba thôn Bình Khuê, Bình Trung và Phú Thịnh thuộc tổng Bình Cách).

Tháng 12, lấy Cai hợp Chính Dinh là Lê Hoành Giảng và Nguyễn Khoa Chiêm làm Câu kê kiêm Tri bạ.

Bính thân, năm thứ 25 [1716], mùa xuân, tháng giêng, miễn dao dịch cho cháu gọi bằng ông và cháu gọi bằng chú bác của khám lý Trần Đức Hòa

và cấp cho tự điền 10 mẫu.

Tháng 2, ngày Quý dậu, nguyên phi Tống thị (vốn họ Hồ, con gái Chưởng dinh Đào, khi nhập cung được tứ tính là Tống thị) băng, thọ 37 tuổi, tặng Minh phi Liệt phu nhân, thụy là Từ tuệ, táng ở xã Trúc Lâm (tức là lăng Vĩnh Thanh).

Mùa hạ, tháng 4, Thái thượng hoàng nhà Lê băng.

Mùa thu, tháng 8, sửa chùa Kính Thiên ở Thuận Trạch. Sai Tả phủ Trịnh Thụ (bấy giờ gọi là Lân quận công) trông coi công việc. Ban cho hoành phi câu đối ngự chế.

Bấy giờ trong nước cường thịnh, chúa muốn cử đại quân Bắc phạt. Thấy tướng Trịnh là Lê Thời Liêu trấn Nghệ An, phòng giữ nghiêm mật, bèn mật khiến người khách buôn Phước Kiến là Bình và Quý (hai người đều không rõ họ) sang Quảng Tây, theo ải Lạng Sơn mà vào để dò xem tình hình hư thực ở Bắc Hà. Bình và Quý đến Đông Đô, hỏi biết tình trạng quân quốc binh dân, ở 2 tháng, lại theo đường cũ mà về Quảng Đông.

Đinh dậu, năm thứ 26 [1717], mùa xuân, tháng 2, bọn Bình và Quý từ miền Bắc về, đều nói Bắc Hà chưa có thể thừa cơ được, việc bàn Bắc phạt bèn thôi.

Sai Đô tri Nguyễn Đăng Đệ lãnh Ký lục dinh Quảng Nam. Chúa thấy Đăng Đệ trước ở Quảng Nam, việc cai trị thanh liêm công bình, kiện tụng không có, vốn được lại dân tin phục, nên có mệnh ấy.

Mậu tuất, năm thứ 27 [1718], mùa hạ, tháng 6, lấy Nguyễn Khoa Chiêm làm Cai bạ phó đoán sự (bấy giờ gọi là Bảng Trung hầu).

Lấy nội giám Hoàng Trọng Mỹ làm thái giám.

Kỷ hợi, năm thứ 28 [1719], mùa xuân, tháng 3, chúa đi thăm dinh Quảng Nam, duyệt binh mã, rồi đến phố Hội An, nhân thấy phía tây phố có cầu, là nơi thuyền buôn tụ họp, nên đặt tên là cầu Lai Viễn, viết chữ biển vàng ban cho.

Mùa thu, tháng 9, xa giá trở về.

Canh tý, năm thứ 29 [1720] (Lê ? Bảo Thái năm 1, Thanh ? Khang Hy năm 59), sai văn chức Nguyễn Khoa Đăng (con Nguyễn Khoa Chiêm) chia lập các ấp các thuộc ở Quảng Ngãi và Phú Yên.

Mùa thu, tháng 7, vua Lê đổi niên hiệu là Bảo Thái.

Ngày Tân tỵ, nguyên phi của hoàng tử cả Đỉnh Thịnh hầu là Trương thị (tức Hiếu ninh hoàng hậu, con gái Trấn thủ chưởng cơ Trương Phước Phan) mất, thọ 22 tuổi, tặng Tu dung á phu nhân, thụy là Từ ý, xây mộ ở núi Long Hồ (tên xã, tức là lăng Vĩnh Phong).

Tân sửu, năm thứ 30 [1721], mùa xuân, tháng 2, dựng chùa

Hoàng Giác ở xã Hiền Sĩ (thuộc huyện Phong Điền). Hiền Sĩ xưa có chùa, nổi tiếng linh ứng, chúa bèn nhân nền cũ, gọi thợ xây dựng, gọi tên là chùa Hoàng Giác, chế biển vàng ban cho.

Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi, lấy trúng cách về chính đồ 2 người giám sinh.

Nhâm dần, năm thứ 31 [1722], cho Nguyễn Khoa Đăng làm nội tán (bấy giờ gọi là Diên Tường hầu), coi cả việc quân, định lại điều lệ. Bấy giờ đường đi qua rừng Hồ Xá(1. Tức truông nhà Hồ.1) thường có trộm cướp tụ họp, hành khách lấy làm lo ngại. Chúa sai Khoa Đăng đi kinh lược nơi ấy. Khoa Đăng tìm cách bắt trị, cấm trấp nghiêm minh. Từ đó trộm cướp im tắt, đường sá không bị cản trở, trăm họ đều ca tụng.

Quý mão, năm thứ 32 [1723] (Lê ? Bảo Thái năm 4, Thanh ? Thế tông Ung Chính năm 1), mùa hạ, tháng 4, thi nhiêu học, lấy trúng cách 77 người, dư luận học trò rất là sôi nổi. Chúa ra lệnh họp tất cả ở Chính Dinh để

chúa thi, tứ lục và thơ phú mỗi thể một bài. Sĩ tử không làm nổi ra về, bèn truất hết.

Trịnh Cương nhà Lê sai tướng là Tham lãnh Nguyễn Minh Châu làm Trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Giáp thìn, năm thứ 33 [1724], lấy Nguyễn Khoa Chiêm làm Tham chính chánh đoán sự. Khi Khoa Chiêm còn làm thủ hợp, Trấn Đình Ân từng nói ở trước chúa rằng người này có thể đại dụng, chúa tin dùng lắm, đến đây cất lên chức ấy.

Lấy Nguyễn Đăng Đệ làm Ký lục Chính Dinh. Đăng Đệ xin cấm các hạng tiền bằng gang, thiếc, chì, sắt không được dùng để mua bán, còn tiền đồng nếu không gãy mẻ thì không được chọn bỏ. Chúa nghe theo. Bấy giờ Nam Bắc nghỉ binh hơn 30 năm, trong cõi yên ổn, trăm họ giàu có đông đúc, người ta gọi là đời thái bình.

ất tỵ, năm thứ 34 [1725] mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu tý, chúa băng, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi, con trai con gái 146 người.

Hoàng tử cả nối ngôi, đem quần thần dâng tôn thụy là Đô nguyên soái tổng quốc chính Khoan Từ Nhân Thứ Tộ Minh vương. An táng ở núi

Kim Ngọc

Thế tông Hiếu võ hoàng đế truy tôn làm Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu minh vương, [truy tôn] phi làm Từ Huệ Cung Thục Kính phi.

Năm Gia Long thứ 5 truy tôn làm Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu minh hoàng đế, miếu hiệu là Hiển tông, lăng gọi là Trường Thanh, [truy tôn] phi làm Từ Huệ Cung Thục Y Đức Kính Mục Hiếu minh hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Thanh.

Tiền Biên

Quyển IX

Tiền biên - Quyển IX

Thực lục về Túc tông Hiếu ninh hoàng đế

Túc tông Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu ninh hoàng đế.

Tên húy là ....., lại húy là [Phước Chú], sinh năm Bính tý [1696] (Lê ? Chính Hòa năm 17, Thanh ? Khang Hy năm 35), là con cả Hiển tông Hiếu minh hoàng đế. Mẹ là Hiếu minh hoàng hậu Tống thị. Khi chúa mới sinh có hơi lành hương lạ đầy nhà. Lớn lên đủ văn võ tài lược. Đầu thì được trao chức Cai cơ Đỉnh Thịnh hầu. Năm ất mùi, thăng Chưởng cơ, làm phủ đệ tại cơ Tả súng. Năm ất tỵ, mùa hạ, tháng 4, ngày Mậu tý, Hiển tông Hiếu minh hoàng đế băng. Bầy tôi vâng di mệnh tôn chúa làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự Thái phó Đỉnh quốc công. Bấy giờ 30 tuổi, hiệu là Vân tuyền đạo nhân.

Tha 5 phần 10 tiền sai dư và 2 phần 10 thuế ruộng trong nước, lại phát tiền kho để thưởng cho quân sĩ.

Đúc thêm tiền đồng. Buổi quốc sơ thường đúc tiền đồng nhỏ (in hai chữ Thái bình), lại có tiền cũ và tiền Khang Hy nhà Thanh, dân gian vẫn thông dụng. Bấy giờ có nhiều người hủy tiền để đúc đồ dùng, số tiền cũ ngày một hao, cho nên có lệnh đúc thêm.

Sai giảm bớt số người coi việc thuế ở các phủ huyện. Bấy giờ lệ thu thuế ở các phủ huyện có chánh phó đề đốc, chánh phó đề lãnh, lại có ký lục, cai phủ, cai tri, ký phủ, thư ký, cai tổng, lục lại, danh sắc rất phiền phức. Chúa nghĩ phải giảm bớt nhân viên thừa, mới chuẩn định cho xứ Thuận Hóa mỗi phủ thì đề đốc, đề lãnh, ký lục, cai phủ, thư ký mỗi chức một người, mỗi huyện thì cai tri 3 người, thư ký 3 người, lục lại 4 người, mỗi tổng thì cai tổng 3 người, duy tổng Bái Ân thì cai tổng 1 người. Xứ Quảng Nam mỗi phủ thì chánh hộ khám lý, đề đốc, đề lãnh, ký lục, cai phủ, thư ký đều 1 người, mỗi huyện thì cai tri một người, thư ký 1 người, lục lại 2 người, mỗi tổng thì cai tổng 1 người. Còn dư thì bớt cả.

Chúa thi ơn cho người họ ngoại, đặc cách cho con cháu Chưởng dinh Tổng Phước Đào đời đời được miễn dao dịch.

Kẻ cướp giết nội tán Nguyễn Khoa Đăng. Khoa Đăng là người cứng thẳng, liêm khiết, công bình, bọn quyền thế phần nhiều ghét nên bị

chúng hại.

Mùa đông, tháng 10, cho văn chức là Nguyễn Kiêm Hành làm Ký lục dinh Bình Khang.

Bính ngọ, năm thứ 1 [1726] (Lê ? Bảo Thái năm 7, Thanh ??Ung Chính năm 4), mùa xuân, tháng giêng, ban huấn điều, đại lược rằng :

"Trời sinh dân chúng, mọi việc đều có phép tắc; vua làm cha mẹ, ban lời dạy bảo đạo thường. Từ trước tới nay, vẫn noi lối ấy. Tổ tông dựng nước, vốn trung hậu làm phép truyền gia. Ta mới lên ngôi, đoái thương dân chúng. Dẫu vua Hạ dừng xe hỏi người phạm tội, lại nhớ đến dân Nghiêu Thuấn khi xưa ; mà đời Chu ngục giam không có người nào, còn mong nền trị Thành Khang thủa trước. Nên phải sáng sớm coi chầu, nửa đêm nghĩ ngợi. Mong sao mọi nhà đều đáng khen, muôn người đều hiểu biết. Đường xá không xa, tua mũ che sao được khó nhọc; thóc tiền hằng có, áo tơi mong chăm việc cấy cầy. Khuynh gia bại sản, không còn canh đỏ canh đen; nay rượu mai chè, chớ lại chén anh chén chú. Nay bảo khắp cha con vợ chồng, phải noi theo luân thường Nghiêu Thuấn; chớ trái ta khuyên răn dạy bảo, mà sa vào lưới pháp Thành Thang(1. Lưới pháp Thành Thang : Tức là Thang võng. Sử chép rằng vua Thang thấy người đánh lưới chim, chăng cả bốn mặt, đến cởi bỏ ba mặt mà chúc rằng : Chim nào muốn bay cao thì cao, bay thấp thì thấp, bay xuôi thì xuôi, bay ngược thì ngược, chim nào không nghe mệnh ta, thì mắc lưới ta. 1). Ngày dụ văn đến, các công đường sở tại phải đưa về khắp nha môn phủ huyện để cáo thị cho dân, cho hiểu rõ ý ta là lấy đức dạy dân".

Mùa hạ, tháng 4, gió bấc, mưa dầm không ngớt.

Sai Ký lục Chính dinh là Nguyễn Đăng Đệ đi tuần xét các phủ xứ Quảng Nam, định rõ chức lệ cho các thuộc mới lập. Buổi quốc sơ mở mang bờ cõi, dựng lập phủ huyện, hễ những nơi gần núi ven biển thì lập làm thuộc, phủ Thăng Hoa 15 thuộc, phủ Điện Bàn 4 thuộc, phủ Quảng Ngãi 4 thuộc, phủ Quy Ninh 13 thuộc, phủ Phú Yên 38 thuộc, phủ Bình Khang 20 thuộc, phủ Duyên Ninh 14 thuộc, phủ Bình Thuận 20 thuộc, mỗi thuộc đều lấy những thôn, phường, nậu, man lẻ tẻ họp lại (nậu nghĩa là làm cỏ ruộng, tục gọi đám đông người là nậu, ý là hợp nhiều người để làm ruộng; man nghĩa là cỏ lan man ra, phàm những chỗ nhà ở liền nhau thì gọi là man), nhưng chưa có lệ đặt chức dịch. Đến bấy giờ chúa cho chiếu theo hộ tịch nhiều ít, phàm thuộc có 500 người trở lên thì đặt một người cai thuộc, 1 người ký thuộc, 450 người trở xuống thì đặt 1 ký thuộc, 100 người trở xuống thì đặt một tướng thần. Duy các thuộc Hoa Châu, Phú Châu, Liêm Hộ, Võng Nhi, Hà Bạc thì đặt thêm 1 đề lãnh, các thuộc khác thì thôi.

Mùa đông, tháng 12, cấm dân gian không được đánh bạc, kiện gian và trốn tránh sai dịch, ẩn lậu đinh khẩu. Đó là theo lời Nguyễn Đăng Đệ xin.

Đinh mùi, năm thứ 2 [1727], mùa đông, tháng 11, Ký lục Chính dinh là Nguyễn Đăng Đệ chết. Trước là Đăng Đệ vì bệnh mà nghỉ việc, nay chết. Ban cho tiền lụa để hậu táng.

Mậu thân, năm thứ 3 [1728] (Lê ? Vĩnh Khánh năm 1, Thanh ? Ung Chính năm 7), mùa hạ, tháng 4, vua Lê truyền ngôi cho thái tử Duy Phường, đổi niên hiệu là Vĩnh Khánh, tôn vua Lê làm Thái thượng hoàng.

Mới lập đội Mộc thán ở trường đúc, gồm 195 người, hằng năm nộp thuế than gỗ, được miễn thuế thân và dao dịch.

Mùa đông, tháng 11, Trịnh Cương triều Lê chết. Con là Trịnh Khương(1. Thực lục chép là Khương, nhưng V. S. T. G. C. M thì chép là Giang.1) lên nối.

Lấy văn chức là Lê Quang Đại (con Tham nghị Lê Quang Hiến) làm tham mưu dinh Bình Thuận.

Canh tuất, năm thứ 5 [1730], mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 1 có nhật thực.

Mùa thu, tháng 8, lụt to.

Lấy văn chức Nguyễn Đăng Thịnh làm Đô tri.

Tân hợi, năm thứ 6, [1731], mùa xuân, tháng giêng, Thái thượng hoàng nhà Lê băng.

Tháng 2, sai ba ty Tướng thần lại, Xá sai, Lệnh sử là Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn Văn Tịnh, Nguyễn Văn Diễn chia nhau đi các sở tuần ở thượng đạo, chiếu theo thời khắc đồng hồ để nghiệm xem dặm đường gần xa.

Mùa hạ, tháng 4, người Ai Lao là Sá Tốt đem quân Chân Lạp vào cướp Gia Định. Sai Thống suất Trương Phước Vĩnh điều khiển binh các đạo đi đánh. Bấy giờ các dinh ở Gia Định đều đặt thủ tướng. Chúa cho rằng việc quân ở nơi biên khổn cần phải có người thống nhiếp, cho nên sai Phước Vĩnh làm việc điều khiển, quan binh các dinh trấn đều thuộc về cả. Lại đặt riêng một nha lỵ ở phía nam dinh Phiên Trấn gọi là dinh Điều khiển. Chức Điều khiển đặt từ đấy.

Cai cơ Đạt Thành (không rõ họ) cùng giặc Lào đánh nhau ở sông Lật Giang, không được, bị chết.

Thống binh Trấn Đại Định (con Trần Thượng Xuyên) suất lĩnh các thuộc tướng Long Môn đi đánh giặc ở Phù Viên [Vườn trầu]. Giám quân Nguyễn Cửu Triêm lại do sông Lật Giang đánh nhau với giặc. Giặc lùi chạy về Cù Ao. Trương Phước Vĩnh bèn cùng Trần Đại Định và Nguyễn Cửu Triêm chia quân làm ba đường để tiến. Quân giặc thua to, chạy trốn. Đại Định tiến giữ Cầu Nam. Nặc Tha nước Chân Lạp (con Nặc Yêm, Nặc Yêm già, sai giữ việc nước) sợ chạy đến Sơn Bô (tên phủ ở Chân Lạp), đưa thư cầu hoãn binh, và xin bắt giặc để chuộc tội. Gặp lúc mưa lụt, Phước Vĩnh nhân thế thuận cho, rút quân các đạo về Gia Định.

Tháng 6, ngày mồng 1, có nhật thực.

Đặt 11 thuyền Ô Tất ở Gia Định. Đất ven rừng ở Gia Định sản xuất nhiều sơn, bèn mộ 500 dân đặt làm 11 thuyền, mỗi người quân hạng mỗi năm phải nộp 16 cân sơn. Những người [xiêu dạt] mới về và những người mới tục [vào sổ đinh] thì nộp một nửa; người đã bị trưng phát(1. Trưng phát : Bắt đi lính hay bắt làm việc khác.1) rồi thì được miễn thuế. (Mỗi năm thu sơn được 6.528 cân).

Lấy Tri đô Nguyễn Đăng Thịnh làm Cai bạ dinh Quảng Nam.

Nhâm tý, năm thứ 7 [1732] (Lê ? Long Đức năm 1, Thanh ? Ung Chính năm 10), mùa xuân, tháng giêng, giặc Lào lại hợp quân cướp phá Cầu Nam. Trương Vĩnh Phước tiến quân đánh, và trách Nặc Tha dung túng quân giặc. Nặc Tha sợ Phước Vĩnh đánh, đem nhiều của cải đút lót. Phước Vĩnh bèn lưu Trần Đại Định đóng quân bắt giặc, còn mình thì đem quân về.

Mùa hạ, tháng 4, Trần Đại Định tiến quân đến Lô Việt. Thế giặc cùng quẫn. Nặc Tha góp sức đánh bắt, bắt được giết hết. Trước là khi giặc Lào chưa bình xong chúa xuống thư quở trách. Trương Phước Vĩnh gởi mật biểu lấy việc đóng quân không tiến đổ tội cho Đại Định. Kịp Đại Định đem quân về biết việc ấy, muốn kêu với triều đình, bèn nhân đêm vượt biển đến Bút Sơn (thuộc hải phận Quảng Ngãi). Người em họ là Thạnh cho rằng Phước Vĩnh là người Thế thần(1. Thế Thần: Nhà đời đời làm quan to. 1), không thể tranh phải trái được, khuyên bỏ đi. Đại Định nói rằng : "Một nhà cha con ta chịu ơn nhà nước đã dày, nay vì cớ thống soái che giấu sự thật mà ta tự nhiên bỏ đi, chịu lấy tiếng xấu, chẳng những là làm tôi bất trung, mà làm con cũng bất hiếu". Thạnh cố can, khiến thuyền nhằm thẳng phía đông. Đại Định tuốt gươm chém Thạnh, rồi quay thuyền vào cửa biển Đà Nẵng làm biểu trần tình, do dinh thần Quảng Nam tâu lên. Bấy giờ các quan bàn muốn trị tội. Nhưng chúa còn không nỡ, sai giam Đại Định ở Quảng Nam và sai quan đi Gia Định xét hỏi. Phước Vĩnh thêu dệt buộc tội cho Đại Định, chỉ một mình Nguyễn Cửu Triêm cố cãi là oan. Bản án dâng lên, Đại Định đã bị bệnh chết ở trong ngục. Chúa rất thương, truy tặng Đô đốc đồng tri, thụy là Tương Mẫn. Phước Vĩnh bị tội vu cáo, giáng làm Cai đội.

Sai Cai cơ Nguyễn Hữu Doãn hành chức Điều khiển Gia Định.

Lấy Nguyễn Cửu Triêm thống dinh Trấn Biên. Cửu Triêm ở trong quân, người Chân Lạp sợ như cọp. Chúa nghe tiếng, nên cho mệnh ấy.

Chúa cho rằng Gia Định địa thế rộng rãi, sai khổn thần(2. Quan phụ trách việc biên khổn.2) chia đất đặt châu Định Viễn (nay là phủ Định Viễn) và dựng dinh Long Hồ (tức là tỉnh Vĩnh Long ngày nay).

Tháng 6, chúa đến cửa biển Tư Dung, xem thuyền vận tải.

Mùa thu, tháng 8, Trịnh Khương triều Lê phế vua Lê làm Hôn Đức công, lập con trưởng của Dụ Tông là Lê Duy Tường làm vua, đổi niên hiệu là Long Đức, tức là Thuần Tông.

Mùa đông, tháng 12, núi Hải Vân lở.

Trịnh Khương sai tướng là Trương Nhưng làm trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Quý sửu, năm thứ 8 [1733], mùa xuân, tháng giêng, lại đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn tấn dọc biển.

(Buổi quốc sơ phỏng theo cách thức phương Tây mà làm, gọi là tự minh chung(3. Chuông tự kêu.3), quy chế hình như cái phật đình(4. Long đình để thờ Phật, hình vuông, bốn mặt có cửa, trên có nóc, dưới có chân.4), cao chừng một thước, mặt trước là một tấm đồng, ở giữa làm vòng tròn khắc thành 12 giờ : giờ ngọ [giữa trưa] ở trên, giờ tý [nửa đêm] ở dưới, giờ mão ở phía đông, giờ dậu ở phía tây. Thời gian chia thành bát can [giáp, ất, bính, đinh, canh, tân, nhâm, quý] và tứ duy [càn, khôn, cấn, tốn]. Bắt đầu tự chữ đinh là số 1, khắc 1 vạch thẳng, mùi là số 2, khôn là số 3, cứ thuận đi đến tý là số 12. Lại bắt đầu từ chữ quý là số 1, sửu là số 2, cấn là số 3, rồi chuyển sang tả đến ngọ là số 12. Hết chung quanh là 24 giờ. Mỗi giờ 4 khắc. Quanh vòng tròn vạch 96 khắc. ở chính giữa tấm đồng mặt trước đặt hai cái kim, kim trong để chỉ giờ chỉ khắc, to mà ngắn, kim ngoài để chỉ phân chỉ khắc, nhỏ mà dài. Mặt sau là một tấm sắt. Mặt tả mặt hữu đều là tấm đồng dùng để che bụi. Bốn góc có cột bằng đồng. ở giữa có 5 trụ đồng, 15 bánh xe đồng lớn nhỏ, trong là 3 chiếc lớn đều có trục ngang và thẳng, những trục ấy đều hình răng cưa, khi chuyển xoay thì khớp cọ với nhau. ở trên có một quả chuông lớn và 6 quả chuông nhỏ, 1 dùi đồng để gõ chuông lớn và 6 dùi để gõ chuông nhỏ. ở dưới là giá cao 5 thước, đặt đồng hồ ở trên. Dùng 3 đường dây tơ cuộn vào trục lớn của 3 bánh xe mà bỏ rủ xuống, dây giữa hơi ngắn, hai dây bên hơi dài. Mỗi đầu dây buộc quả chì lớn nặng 6 cân, một đầu buộc hòn chì nhỏ nặng 1 lạng 7 đồng cân, để cho nó chuyển bánh xe máy mà xoay vần. Hễ khi thấy quả chì lớn sa xuống còn cách đất 1 thước thì phải dun nó lên ngay khiến những quả chì nhỏ đều rủ xuống gần đất, nếu không thế thì máy không chạy được Mặt sau đồng hồ lại có một quả đồng trường canh treo lủng lẳng, gọi là quả lắc, để điều tiết sự vận hành, không thế thì chuyển vận một chiều, không đúng thời khắc được. Hễ bánh xe đồng đi đến chữ đinh khắc thứ nhất thì chuông nhỏ đánh 1 tiếng, khắc thứ 2 đánh 2 tiếng, khắc thứ ba đánh 3 tiếng, khắc thứ tư đánh 4 tiếng, tới chính giờ đinh thì chuông lớn đánh 1 tiếng; lại đi đến giờ mùi khắc thứ nhất thì chuông nhỏ đánh 1 tiếng, khắc thứ hai đánh 2 tiếng, khắc thứ ba đánh 3 tiếng, khắc thứ tư đánh 4 tiếng, chính giờ mùi thì chuông lớn đánh 2 tiếng, còn các giờ khác cũng như thế cả: đúng giờ khôn thì 3 tiếng, giờ thân 4 tiếng, cho đến canh 5 tiếng, dậu 6 tiếng, tân 7 tiếng, tuất 8 tiếng, càn 9 tiếng, hợi 10 tiếng, nhâm 11 tiếng, tý 12 tiếng. Đến giờ quý lại như giờ đinh, đánh 1 tiếng, sửu 2 tiếng, cấn 3 tiếng, dần 4 tiếng, cho đến giáp 5, mão 6, ất 7, thìn 8, tốn 9, tỵ 10, bính 11, ngọ 12. Theo giờ mà đánh, mỗi ngày không sai. Trên đồng hồ lại có giá nóc, trên giá có lá sen để che. Hai mặt phía sau và bên hữu thì che bằng tấm thủy tinh, còn hai mặt phía trước và bên tả thì có cánh cửa mở ra khép lại để tiện xem. Lại có thứ đồng hồ trung, cũng theo như cách thức trên, nhưng ở trong bớt 5 bánh xe, 6 quả chuông nhỏ gõ khắc mà chỉ có chuông lớn gõ giờ. Đo bóng mặt trời mà nghiệm không chút sai lầm. lại có một kiểu nữa thực từ nước Tây đưa sang, cao một thước 5 tấc, rộng 1 thước, ở trên có hình người tiên cưỡi voi, hai bên tả hữu có hai con rồng chầu vào, dưới bốn chân đứng làm theo hình chân voi đạp đất. Đồng tốt mà chạm vẽ rất khéo. Trong rỗng mà hình vòng tròn. Mặt trước là một tấm tròn tráng men, vành ngoài khắc chữ tây từ 5 phút, 10 phút, 15 phút cho đến 60 phút, vành trong khắc số tiếng chuông của 12 giờ. Tý và ngọ cùng một vị ở trên, khắc 12 vạch, quý và đinh cùng một vị, 1 vạch, ở tây nam, thuận hành chuyển sang bên tả thì sửu và mùi cùng một vị, 2 vạch, cấn và khôn cùng một vị, 3 vạch, dần và thân cùng một vị, 4 vạch, giáp và canh cùng một vị,

5 vạch, ở tây bắc, mão và dậu cùng một vị, ở dưới, 6 vạch, ất và tân cùng một vị,

7 vạch, ở đông bắc, thìn và tuất cùng một vị, 8 vạch, tốn và càn cùng một vị, 9 vạch, tỵ và hợi cùng một vị, 10 vạch, bính và nhâm cùng một vị, 11 vạch, ở đông nam, lại đến tý và ngọ. Giữa tấm tráng men có kim trong kim ngoài cũng như kiểu trên. Kim trong đi đến giờ nào thì chuông lớn theo số giờ mà đánh. Giữa khoảng từ nhâm đến tý, tý đến quý thì đều có vạch, khi kim trong đi đến chỗ 1 vạch thì chuông đánh 1 tiếng, đến chỗ 12 vạch thì chuông đánh 12 tiếng, để phân biệt đầu giờ và cuối giờ, vòng quanh các giờ đều thế. Ngoài tấm tráng men lại có một tấm thủy tinh, có vòng đồng bọc quanh, bên tả thì có chốt để tiện mở đóng. ở trung tâm đồng hồ treo những tấm đồng dẹp và tròn, trong ngoài ba tầng đều đóng đinh làm một. Trong có 2 bánh xe lớn, 10 bánh xe nhỏ, trục ngang nhỏ đều có răng cưa xen kẽ giữa bánh xe lớn và bánh xe nhỏ. Lại trên tấm tròn tráng men mặt trước, ở bên cái trục giờ có một lỗ để chuyển phát, hễ thấy kim giờ khắc ở trục không đi thì dùng cái thìa khóa sắt xỏ vào lỗ mà vặn thì lại chạy. Khéo léo khó hình dung được. Lại ở trên đỉnh có treo một cái chuông lớn để báo giờ. Mặt sau có quả đồng trường canh lúc lắc không ngớt cho đồng hồ chạy. Mặt sau có một tấm đồng, bên tả có chốt, bên hữu có khóa, cùng dùng để mở đóng).

Giáp dần, năm thứ 9 [1734], mùa xuân, tháng 2, ngày Kỷ tỵ, sao Thiên cẩu sa, có tiếng kêu như sấm.

Mùa thu, tháng 8, ban biển ngạch cho chùa Hộ Quốc. Chùa này ở phía nam sông Phước Giang (thuộc tỉnh Biên Hòa), do thống suất Nguyễn Cửu Vân dựng khi đánh Chân Lạp. Chúa nhớ công của Vân mới đặt tên chùa ấy là chùa Hộ Quốc và viết biển ngạch ban cho (bấy giờ gọi là chùa Sắc tứ).

ất mão, năm thứ 10 [1735] (Lê ? Vĩnh Hựu năm 1, Thanh ? Ung Chính năm 13), mùa xuân, tháng 2, chúa ra trường Vạn Xuân xem thi ngựa.

Mùa hạ, tháng 4, vua Lê mất, Trịnh Khương bỏ con trưởng của vua là Duy Diêu mà lập em vua là Duy Thần, đổi niên hiệu là Vĩnh Hựu, tức là ý tông.

Tháng 5, kho lán Thọ Khang bị cháy.

Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu chết, tặng Khai trấn thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công.

Mùa thu, tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực. Trời tối đen, mưa gió nổi lớn, người và súc vật chết và bị thương nhiều, trấn Quảng Nam hại lắm.

Lấy Cai bạ dinh Quảng Nam là Nguyễn Đặng Thịnh làm Nha úy (bấy giờ gọi là Hương Danh hầu), Tham mưu dinh Bình Thuận là Lê Quang Đại làm Cai bạ dinh Quảng Nam.

Bính thìn, năm thứ 11 [1736] (Lê ? Vĩnh Hựu năm 2, Thanh ? Càn Long năm 1), mùa xuân, tháng 2, không mưa.

Lấy Mạc Thiên Tứ (con Mạc Cửu) làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Cho 3 chiếc thuyền long bài được miễn thuế, sai xuất dương tìm mua các của quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi. Thiên Tứ chia đặt nha thuộc, kén bổ quan ngũ, đắp thành lũy, mở phố chợ, khách buôn các nước đến họp đông. Lại vời những người văn học, mở Chiêu anh các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng họa, có 10 bài vịnh Hà Tiên [Hà Tiên thập vịnh] :

1 – Kim Dữ thanh đào [Sóng trong đảo Kim Dữ].

2 – Bình Sơn điệp thúy [Biếc dầy núi Bình Sơn].

3 – Tiêu Tự thần chung [Chuông sớm chùa Tiêu Tự].

4 – Giang thành dạ cổ [Tiếng trống đêm ở Giang thành].

5 – Thạch động thôn vân [Mây luồn động đá].

6 – Châu nham lạc lộ [Cò đậu núi Châu].

7 – Đông Hồ ấn nguyệt [Trăng in Đông Hồ].

8 – Nam phố trừng ba [Sóng êm Nam phố].

9 – Lộc Trĩ thôn cư [Xóm làng ở Lộc Trĩ].

10 – Lư Khê ngư bạc [Thuyền chài đậu Lư Khê].

Từ đó người Hà Tiên mới biết học hành.

Mùa thu, tháng 8, lụt to.

Tháng 9, Quảng Bình động đất.

Mùa đông, tháng 10, ngày Bính dần, nguyên phi của hoàng tử cả Hiểu Chính hầu là Trương thị (tức là Hiếu vũ hoàng hậu, con gái Chưởng cơ Trương Văn Sáng) mất, thọ 25 tuổi, tặng là Tu nghi phu nhân, táng ở núi Dương Xuân (tức là lăng Vĩnh Thái).

Nặc Yêm nước Chân Lạp chết. Nặc Tha thỉnh mệnh với triều đình. Phong cho Nặc Tha làm vua nước Chân Lạp.

Tháng 12, mưa dầm không ngớt.

Đinh tỵ, năm thứ 12 [1737], mùa thu, tháng 7, sai Tống Dĩnh Đức xem địa thế ở Lai Cách để xây riêng kho mới.

Mùa đông, tháng 10, nước Chân Lạp đến cống.

Tháng 11, giảm bớt các cục tượng.

Mậu ngọ, năm thứ 13 [ 1738], mùa xuân, tháng giêng, trời mưa đá to, gió bão, cát bay, cây gẫy, chim muông bị thương và chết nhiều.

Lấy Cai bạ Quảng Nam là Lê Quang Đại làm Cai bạ phó đoán sự

Chính dinh.

Truy cấp 50 người dân ngụ lộc (hai phường Lương Mỹ, An Nhị) cho Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Nhâm dần, chúa băng, ở ngôi 13 năm, thọ 43 tuổi.

Hoàng tử cả nối ngôi, đem bầy tôi dâng tôn thụy là Đại đô thống tổng quốc chính Tuyên Quang Thiệu Liệt Đỉnh Ninh vương, táng ở Định Môn. Giáp tý, năm thứ 6, truy tôn là Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu ninh vương [truy tôn] phi làm Từ Y Quang Thuận Thục phi. Năm Gia Long thứ 5, truy tôn làm Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc Tông, lăng gọi là Trường Phong, [truy tôn] phi làm Từ ý Quang Thuận Chiêu Hiến Thục Huệ Hiếu ninh hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Phong.

Tiền biên

Quyển X

Tiền biên - Quyển X

Thực lục về Thế tông Hiếu vũ hoàng đế

Thế tông Càn Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu vũ hoàng đế, húy là ...., lại húy là [Phước Khoát], sinh năm Giáp ngọ [1714] (Lê ? Vĩnh Thịnh năm 10, Thanh ? Khang Hy năm 53), là con cả của Túc tông Hiếu ninh hoàng đế. Mẹ là Hiếu ninh hoàng hậu Trương thị. Đầu được phong làm Chưởng dinh dinh Tiền thủy... chính hầu, làm phủ đệ tại cơ Tiền Dực ở Dương Xuân. Năm Mậu ngọ, mùa hạ, tháng 4, ngày Nhâm dần, Túc tông Hiếu ninh hoàng đế băng. Bầy tôi vâng di mệnh tôn chúa làm Tiết chế thủy bộ chư dinh kiêm Tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Hiểu quận công. Bấy giờ 25 tuổi, hiệu là Từ tế đạo nhân.

Ngày Kỷ dậu, lập phủ chính ở Phú Xuân (bên tả phủ cũ).

Lấy Cai bạ Bình Thuận là Trần Đình Hỷ (con Trần Đình Khánh) làm Tri bạ Chính dinh.

Kỷ mùi, năm thứ 1 [1739] (Lê ? Vĩnh Hựu năm 5, Thanh ? Càn Long năm 4), mùa xuân, tháng giêng, ngày Tân mùi, phủ chính hoàn thành.

Nặc Bồn nước Chân Lạp lấn Hà Tiên. Chân Lạp oán Mạc Cửu vì cớ mất đất. Cửu chết, Thiên Tứ mới lĩnh trấn tiết, Bồn bèn cử binh đến lấn. Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt, ngày đêm đánh hăng lương thực không tiếp kịp. Vợ là Nguyễn thị đốc suất vợ lính vận lương đến nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, chúa cả khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn thị làm phu nhân. Do đó Chân Lạp không dám dòm ngó Hà Tiên nữa.

Truy tặng Nội hữu chưởng dinh Nguyễn Cửu Thế làm Thiếu phó Trung Quốc công. Thế làm quan trải hai triều Hiển tông và Túc tông. Khi chúa còn ở Thanh cung(1. Cung thái tử ở, cũng như Đông cung. 1), Thế hết lòng phụ đạo , đến đây nhớ lại mà gia tặng, rồi bổ con [Thế] là Thông làm Nội tả chưởng cơ tri tào vận sự.

Mùa hạ, tháng 4, truy cấp dân ngụ lộc (bốn xã phường Vân Thê, Lương Điền, Phú Môn, Hoàng An) 200 người cho Chưởng dinh Tống Phước Đào.

Tháng 6, Cai đội Hữu Thủy là Tôn Thất Điền (con thứ 12 của Hiển tông) mất, tặng Thái bảo Dận quốc công.

Canh thân, năm thứ 2 [1740] (Lê ? Cảnh Hưng năm 1, Thanh ? Càn Long năm 5), mùa xuân, tháng giêng, Trịnh Doanh triều Lê bắt anh là Khương phải lui nhường [ngôi cho mình]. Rồi Khương chết.

Mùa hạ, tháng 5, vua Lê nhường ngôi cho cháu là Duy Diêu. Duy Diêu lên ngôi, đổi niên hiệu là Cảnh Hưng, tức là Hiển tông. Tôn vua Lê làm Thái thượng hoàng.

Tháng 6, ngày Đinh hợi, bầy tôi dâng tôn hiệu là Thái phó quốc công.

Mùa thu, tháng 8, định lại phép thi : kỳ đệ nhất thi tứ lục, ai trúng là nhiêu học, được miễn tiền sai dư 5 năm; kỳ đệ nhị thi thơ phú; kỳ đệ tam thi kinh nghĩa, ai trúng được miễn phú dịch; kỳ đệ tứ thi văn sách, ai trúng là Hương cống, được bổ tri phủ, tri huyện, huấn đạo.

Lấy Ký lục Nguyễn Thừa Tự làm Ký lục dinh Quảng Nam.

Tân dậu, năm thứ 3 [1741], sai kiểm tra những tiền thóc thuế và thuế muối (Thuận Hóa có thuế ruộng muối, mỗi năm thu được hơn 2.500 sọt; Quảng Nam có thuế người làm muối, mỗi năm đinh phải nộp 6 sọt, hay 4 sọt, 3 sọt) trong ba năm Mậu ngọ [1738], Kỷ mùi [1739], Canh thân [1740], xem đủ thiếu thế nào.

Buổi quốc sơ, tùy đất mà đặt kho (kho ở xã nào thì lấy xã ấy mà đặt tên) thu chứa tiền thóc và sản vật để tiện cho dân chở nộp. Thuận Hóa gồm có 7 kho : kho Thọ Khang huyện Phú Vang, kho Nguyệt Biều huyện Hương Trà, kho Thạch Hãn huyện Hải Lăng, kho Lai Cách huyện Minh Linh, kho An Trạch huyện Lệ Thủy, kho Trung Trinh và kho Trường Dục huyện Khang Lộc. Từ Quảng Nam trở về nam gồm có 12 kho : kho Tân An phủ Thăng Hoa, kho An Khang, kho Tư Cung phủ Quảng Ngãi, kho Phú Đăng, kho Thời Phú, kho Đạm Thủy, kho Càn Dương phủ Quy Ninh, kho An Toàn, kho Xuân Đài phủ Phú Yên, kho Phú Yên phủ Bình Khang, kho Phước Yên huyện Diên Ninh, kho Tân Định xứ Gia Định. Lại cho rằng Gia Định đất rộng, lập 9 khố trường nộp riêng chở riêng (Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Quản Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Ba Canh, Tân Thịnh), cho dân tùy tiện lập ấp vỡ ruộng cày cấy nộp thuế và đặt quan lại để trưng thu. Bọn lại theo thói quen đã lâu, hoặc có kẻ dựa thế làm gian. Chúa biết tệ ấy, sai quan chia nhau đi kiểm tra, lại ra lệnh cho các địa phương hằng năm phải chiếu số mục tiền thóc và sản vật thu được và tên những người biên thu làm sổ dâng lên, phép ấy mới được rõ ràng đầy đủ.

Lấy Nguyễn Cư Trinh làm văn chức.

Nhâm tuất, năm thứ 4 [1742], đổi phủ Quy Ninh làm phủ Quy Nhơn, phủ Diên Ninh làm phủ Diên Khánh.

Quý hợi, năm thứ 5 [1743], truy cấp dân ngụ lộc (ba xã thôn Xuân Hòa, Thượng Lỗ, Đông Dã) 200 người cho Thiếu sư Tôn Thất Diễn.

Giáp tý, năm thứ 6 [1744], mùa hạ, tháng 4. Bấy giờ có điềm tốt cây sung nở hoa, bầy tôi là bọn Nguyễn Đăng Thịnh dâng biểu xin chúa lên ngôi vương (Đại lược nói rằng : Chính danh phận khi nước buổi đầu đổi mới, sửa lễ nhạc sau khi tích đức trăm năm. Lại nói : Nghiệp bá vững bền, miền Đông Nam cờ vàng xuất hiện ; triệu vương rộng thấy, bên Vị bắc ấn ngọc rủi ngay. Bầy tôi sắp hàng mà trấn thỉnh : Các sao đã chầu về Tử vi(1. Tử vi : Một chòm sao ở bắc cực, tượng trưng ngôi vua.1); mặt trời đã lên đến Hoàng đạo(2. Hoàng đạo :Theo thiên văn xưa, là đường đi của mặt trời, ví với đạo làm vua. 2). Chỉ với 70 dặm bờ cõi, [nhà Thương] đã dựng nền huyền điểu(3. Huyền điểu : Bà Giản Địch nuốt trứng chim Huyền diệu mà đẻ ra thủy tổ nhà Thương. 3), huống hồ 3.000 dặm dư đồ, sao còn đứng địa vị hoàn khuê(4. Hoàn khuê : Cái hốt bằng ngọc khuê, tước công cầm khi chầu vua. 4)?.

Chúa nhún nhường không chịu nhận. Bầy tôi hai ba lần nài xin, chúa mới theo.

Ngày Canh tuất, đúc ấn quốc vương (Trước thì khi bổ dùng quan lại chỉ dùng chữ "thị phó", dưới kiềm dấu "Thái phó quốc công", và dùng ấn "Tổng trấn tướng quân").

Ngày Kỷ mùi, chúa lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân. Xuống chiếu đại xá trong nước. Chiếu rằng : "Trời đất thi nhân cởi mở, khắp bờ cõi đều thấm nhuần; nhà vua thuận đạo lên ngôi, mọi người vật đều đổi mới. Vàng ngọc rực rỡ, lời tơ truyền xa. Nhà nước ta, phát tích Ô châu, vâng mệnh dựng nước. Hoàng tổ một phương hùng cứ, đã có được một nửa non sông; Thần tông bảy huyện mở mang(1. Bảy huyện : Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền, Vũ Xương, Hải Lăng, Lệ Thủy, Khang Lộc.1), sắp thu cả đất đai gấm vóc. Nghiệp bá đường kinh doanh lớn ; ơn trời giúp mở rộng thêm. Minh miếu(2. Minh miếu : Hiếu minh hoàng đế.2) vũ uy, dẹp yên giặc chốn Đông Phố, hoàng khảo(3. Hoàng khảo : Người sinh ra vua, tức Hiếu ninh hoàng đế Nguyễn Phước Chu. 3) văn trị trau chuốt lòng dân miền Nam. Bốn phương nhờ ơn ; đời đời để đức. Phong thư vào ngọc kiểm(4. Ngọc kiểm : Nắp hòm sách dát ngọc, xưa nhà vua khắc đá ghi thành công, bỏ vào hòm đậy nắp như thế phong lại. 4), nguyện vọng non sông còn chờ; chưa đổi bực hoàn khuê(5. Hoàn khuê : Xem chú ở tr.150.5), tấm lòng quỳ hoắc(6. Quý hoắc : Lòng hướng về vua Lê, như hoa quỳ lá hoắc hướng về ánh mặt trời.6) giữ mãi. nay ta tuổi trẻ, vâng nối nghiệp xưa, mới cầm quyền chính bảy năm, chưa có uy quân tháng sáu(7. Tuyên vương Tĩnh nhà Chu, tháng sáu cất quân đánh giặc Nghiễm Doãn, thành công, người ta làm thơ thuật lại chiến sự, tức là bài "Lục nguyệt" trong Tiểu nhã Kinh Thi.7). Thầm nghĩ nước chưa thống nhất, giặc chưa dẹp yên, vẫn gắng noi theo tiên tổ. Ngờ đâu người đều đồng tâm, thần báo điềm tốt, ân cần khuyên giục xưng vương. Vừa rồi lớn nhỏ đều tin, thứ hàng đầy đủ. Theo hào bốn quẻ Kiền, rồng hoặc đã nhảy, còn chờ thời nên khiêm tốn; theo hào ba quẻ Khôn, ngựa lợi đi nhanh, nên tất cả đều tôn phò. Mặc dầu thoái thác ba bốn lần, khó ngăn được thần dân nguyện vọng. Ta đành buộc lòng, thuận theo ý chúng. Cho nên ngày 12 tháng 4 năm nay lên ngôi vương, đại xá trong nước, để sáng thêm ơn đức của tám đời, để tỏ lòng lợi dân trong bốn cõi. Mong thần dân các ngươi thấm nhuần mỹ hóa. Ôi ! đổi mới mệnh trời ở người có đức, để chở cơ đồ Hậu Tắc Công Lưu ; dìu dắt thiên hạ đến cõi thái bình, mong thấy cảnh đời Thành Chu Ngu Thuấn".

Khiến gọi nơi phủ ở là điện, đổi chữ "thân" làm chữ "tấu", phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê, nhưng với các thuộc quốc thì xưng là thiên vương.

Truy tôn huy hiệu các đời :

Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tỉnh vương làm Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương;

Phi là Nguyễn thị làm Từ Tín Chiêu ý Đức phi (sau thêm hai chữ Hoằng Nhân).

Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ vương làm Liệt Tổ Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia dụ Thái vương;

Phi là Nguyễn thị làm Từ Lương Quang Thục ý phi (sau thêm hai chữ Minh Đức).

Đại đô thống trấn nam phương tổng quốc chính Dực Thiện Tuy Du Thụy Dương vương làm Tuyên Tổ Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu văn vương;

Phi là Nguyễn thị làm Huy Cung Từ Thận Thuận phi (sau thêm hai chữ Ôn Thục).

Đại nguyên soái chưởng quốc chính Uy Đoán Thần Võ Nhân Chiêu vương làm Thần Tổ Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu chiêu vương;

Phi là Đoàn thị là Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi (sau thêm hai chữ Mẫn Duệ).

Đại nguyên soái Tổng quốc chính Công Cao Đức Hậu Dũng Triết vương làm Nghị Tổ Tuyên Uy Kiến Vũ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu triết vương;

Nguyên phi là Chu thị làm Từ Mẫn Chiêu Thánh Trang phi (sau thêm hai chữ Trang Liệt).

Thứ phi là Tống thị làm Từ Tiên Huệ Thánh Tĩnh phi (sau thêm hai chữ Trinh Thuận).

Đại nguyên soái tổng quốc chính Thiện Hưu Toản Nghiệp Hoằng Nghĩa vương làm Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu nghĩa vương;

Phi là Tống thị làm Từ Tiết Tĩnh Thục Hiến phi (sau thêm hai chữ Hiếu Từ).

Đô nguyên soái tổng quốc chính Khoan Từ Nhân Thứ Tô Minh vương làm Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu minh vương;

Phi là Tống thị làm Từ Huệ Cung Thục Kính phi (sau thêm hai chữ ý Đức).

Đại đô thống tổng quốc chính Tuyên Quang Thiệu Liệt Đĩnh Ninh vương làm Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu ninh vương;

Phi là Trương thị làm Từ ý Quang Thuận Thục phi (sau thêm hai chữ Chiêu Hiến).

Dựng tôn miếu. Phong những người họ gần làm quận công. Các hoàng tử vẫn xưng là công tử; con trưởng là thái công tử, sau theo thứ tự mà xưng. Lại vì sinh khó nuôi, cho nên con trai thì gọi là gái, mà con gái thì gọi là trai.

Khiến gọi thân quân là quân Vũ lâm, đổi Ký lục làm Lại bộ. Nha úy làm Lễ bộ, Đô tri làm Hình bộ, Cai bạ phó đoán sự làm Hộ bộ, đặt thêm hai bộ Binh và Công để chia chức chưởng. Đổi văn chức làm Hàn lâm viện.

Chúa cho rằng lời sấm có nói : "Tám đời trở lại Trung đô", bèn đổi y phục, thay phong tục, cùng dân đổi mới; châm chước chế độ các đời, định triều phục văn võ (văn từ chức quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo; võ từ chưởng dinh đến cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng mãng bào hoặc gấm đoạn, theo cấp bực). Thế là văn vật một phen đổi mới.

Bắt đầu khiến gọi Chính dinh là đô thành.

Buổi quốc sơ, bờ cõi một ngày một mở mang, chia đặt cả cõi làm 12 dinh : ở ái Tử gọi là Cựu dinh, ở An Trạch gọi là Quảng Bình dinh, ở Võ Xá gọi là Lưu Đồn dinh, ở Thổ Ngõa gọi là Bố Chính dinh, ở Quảng Nam gọi là Diên Khánh Bình Khang gọi là Bình Khang dinh, ở Bình Thuận gọi là Bình Thuận dinh, ở Phước Long gọi là Trấn Biên dinh, ở Tân Bình gọi là Phiên Trấn dinh, ở Định Viễn gọi là Long Hồ dinh. Các dinh đều đặt trấn thủ, cai bạ và ký lục để cai trị. Duy hai phủ Quảng Ngãi và Quy Nhơn lệ thuộc vào dinh Quảng Nam, thì đặt riêng chức tuần phủ và chức khám lý để cai trị. Hà Tiên lại biệt làm một trấn, thuộc chức đô đốc. Phú Xuân thì gọi là Chính dinh, nay chúa đã lên ngôi vương, mới đổi làm đô thành như thế.

Bấy giờ hạt Trấn Biên nước lụt, bãi Ngô Châu và bãi Tân Trào tách ra làm hai. (Bãi Ngô Châu và bãi Tân Trào đều ở phía bắc sông Phước Giang. Trước hai bãi liền nhau, đến đây mới tách làm hai, ở giữa là một giải sông con, phía đông là Ngô Châu, phía tây là Tân Trào, dân ở phía bãi Tân Trào trồng nhiều vườn trầu không, rất thơm ngon, người ta gọi là trầu Tân Trào).

Lấy Nguyễn Đăng Thịnh làm Lễ bộ kiêm Lại bộ, Lê Quang Đại làm Hộ bộ kiêm Binh bộ; lấy Nguyễn Thừa Tự làm Cai bạ dinh Quảng Nam.

ất sửu, năm thứ 7 [1745], mùa đông, tháng 12, Hộ bộ kiêm Binh bộ Lê Quang Đại chết. Tặng Chính trị thượng khanh, thụy là Trung thành.

Bính dần, năm thứ 8 [1746], lấy Nguyễn Quang Tiền làm Hàn lâm viện. Quang Tiền học rộng hiểu nhiều, rất giỏi thuật xem sao xem lịch. Những từ lệnh hồi đó phần nhiều do tay ông thảo ra. Chúa rất yêu trọng.

Bắt đầu đúc tiền kẽm trắng. Trước là Túc tông sai đúc tiền đồng, sở phí rất nhiều mà dân gian lại nhiều người phá để làm đồ dùng, số tiền đồng ngày thêm hao giảm. Đến đây người nước Thanh là họ Hoàng (không rõ tên) xin mua kẽm trắng của Tây để đúc tiền cho rộng việc tiêu dùng. Chúa nghe lời, mở cục đúc tiền ở Lương Quán. Vành tiền và giữ để theo thể thức tiền Tường Phù nhà Tống. Lại nghiêm cấm đúc riêng. Từ đó tiền của lưu thông, công tư đều tiện. Sau lại đúc thêm tiền Thiên Minh thông bảo, pha lẫn kẽm xanh, vành lại mỏng, vật giá vì đó vụt cao lên.

Dùng Hàn lâm viện Nguyễn Đăng Tiến làm Ký lục dinh Quảng Nam.

Người Man Thuận Thành [người Chàm] là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Lưu thủ dinh Trấn Biên là Nguyễn Cương đem quân đi đánh, đắp lũy Cổ Tỉnh để chống giặc, thừa lúc sơ hở đánh úp bắt được Bao Lai và Mã Lăng giết đi.

Đinh mão, năm thứ 9 [1747], mùa xuân, tháng giêng, khách buôn người Thanh là Lý Văn Quang đánh úp dinh Trấn Biên. Cai cơ Tống Phước Đại đánh dẹp được. Văn Quang người Phước Kiến sang ngụ ở bãi Đại Phố, Biên Hòa. Bấy giờ trong nước bình yên đã lâu, ít dùng binh. Văn Quang ngấm ngầm có ý dòm ngó, bèn mưu làm loạn. Hắn tụ đảng hơn 300 người, tự xưng là Đông Phố đại vương, lấy đồng đảng là Hà Huy làm quân sư, Tạ Tam, Tạ Tứ làm tả hữu đô đốc, mưu đánh úp dinh Trấn Biên. Sợ Cai bạ Nguyễn Cư Cẩn võ nghệ giỏi mạnh nên chúng mưu trừ trước. Bèn nhân tiết Nguyên đán phục quân để đâm. Cư Cẩn bị thương mà còn tự tay đâm chết được 5, 6 người, sau vì vết thương nặng mà chết. Quân bộ thuộc nghe tin tới cứu. Văn Quang chạy, chặn cầu để chống. Lưu thủ Nguyễn Cường đem binh của dinh dàn ở bờ phía bắc, gửi hịch báo Cai cơ đạo Hưng Phước là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt được Văn Quang và đồ đảng 57 người. Chúa thấy là người Thanh không giết vội, đều hạ ngục.

Mùa hạ, tháng 4, đô đốc trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ, ủy người đi thuyền long bài, đem dâng ngọc kim cương thủy hỏa, ngọc hạc đính, gà tây, chim vẹt ngũ sắc, chiếu hoa, vải tây. Chúa khen, ban bốn đạo sắc bổ nhiệm cai đội và đội trưởng làm việc ở trấn cùng gấm đoạn và đồ dùng, rồi cho về.

Mùa thu, tháng 8, giặc biển tên là Đức (không rõ họ) cướp bóc miền ngoài biển Long Xuyên. Mạc Thiên Tứ được tin báo, tức thì sai cai đội Từ Hữu Dụng đem 10 chiếc chiến thuyền, đi bắt được bọn giặc đem giết hết.

Tháng 9, lập trường súng.

Mùa đông, tháng 11, lấy Ký lục Quảng Nam là Lê Xuân Hy làm Hình bộ.

Mậu thìn năm thứ 10 [1748], mùa xuân, tháng giêng, sai Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn đi đánh Chân Lạp dẹp yên. Trước là Nặc Tha nước Chân Lạp lên ngôi vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử binh đánh. Tha chạy sang Gia Định. Thâm liền chiếm lấy đất. Đến khi Thâm chết, con là Đôn, Hiên, Yếm (tên ba người) tranh nhau làm vua. Bề tôi là Sô Liên Tốc nhân nổi lên cướp phá Mỹ Tho. Hữu Doãn đem quân tiến đánh, Sô Liên Tốc thua to. Hữu Doãn đốt hết chiến thuyền, thừa thắng đến thẳng Nam Vang. Đôn, Hiên và Yếm đều trốn chạy. Hữu Doãn báo tin thắng trận.

Sai đưa Nặc Tha về nước.

Mùa hạ, tháng 6, Nặc Nguyên nước Chân Lạp (con thứ hai Nặc Thâm) cùng Cao La Hâm và ốc Đột Lục Mân cầu viện quân Xiêm về đánh Nặc Tha. Nặc Tha lại chạy sang Gia Định, rồi bị bệnh chết. Nặc Nguyên bèn làm vua nước ấy.

Mùa đông, tháng 10, hạ lệnh cho dân gian thông dụng tiền kẽm trắng mới đúc (3 năm Bính dần, Đinh mão, Mậu thìn mới đúc tiền kẽm, được 72.396 quan). Ai chọn bỏ thì trị tội.

Bắt đầu đặt đường trạm ở Gia Định. Đất Gia Định nhiều nơi lầy lội. Khi mới mở mang, đường bộ chưa thông, hành khách đi lại vất vả, việc báo cáo về biên cương cũng không tiện. Chúa sai Hữu Doãn ngắm đo địa thế, chăng dây lấy thẳng bắt đầu từ phía bắc Tất Kiều đến địa phận Hưng Phước, tùy chỗ mà đặt trạm, gọi là đường thiên lý. Hễ gặp sông to thì sai dân sở tại đặt bến đò, cho miễn dao dịch.

Lấy Cai cơ cơ Hữu trung là Nguyễn Hữu Bác (con Hữu Khôi, dòng dõi Hữu Dật) làm Hình bộ.

Kỷ tỵ, năm thứ 11 [1749], mùa đông, tháng 11, lấy Nguyễn Thừa Tự làm Hộ bộ Kiêm Binh bộ, Cai bạ dinh Bình Thuận là Vũ Xuân Nùng làm Ký lục dinh Quảng Nam.

Canh ngọ, năm thứ 12 [1750], mùa xuân, tháng 2, sai Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ phủ Quảng Ngãi (bấy giờ gọi là Nghi Biểu hầu). Sắc nói

rằng : "Thuộc lại gian tham ngươi phải xét trị; hào cường lấn cướp ngươi phải ngăn trừ; án giam không quyết ngươi phải xét cho ra lẽ; hộ khẩu không đông người phải làm cho phồn thịnh; nhân dân ương ngạnh ngươi phải giáo hóa; kẻ gian trộm cắp ngươi phải bắt vào khuôn phép. Nhất thiết tình trạng của quân, nỗi khổ của dân, cho ngươi được tùy nghi làm việc, chỉ cần thành công, chớ có sợ nhọc".

Nặc Nguyên nước Chân Lạp xâm lấn người Côn Man. (Bấy giờ bộ lạc của tù trưởng Thuận Thành có nhiều người xiêu dạt sang ở đất Chân Lạp, gọi là Côn Man, có tên nữa là Vô Tỳ man). Thủ tướng báo lên. Chúa cùng bầy tôi bàn đi đánh, bèn sai sứ đưa thư sang cho nước Xiêm nói rằng : "Đấng vương giả dùng binh là để dẹp loạn giết bạo, cho nên vua Văn vương giận [rợ Sùng Mật] bất kính, vua Tuyên vương đánh [rợ Hiểm Doãn] chiếm đất, đó là việc bất đắc dĩ chứ không phải ưa thích chiến tranh. Nước Chân Lạp bé nhỏ kia là phiên thần của nước ta, mà dám tụ họp côn đồ, dựa thế lấn nơi biên giới. Việc làm như thế, dẫu nước Xiêm cũng phải ghét vậy. Nay sai quan võ đem quân hỏi tội, chúng tất ngóng gió mà tan chạy, gián hoặc chúng có chạy sang nước Xiêm, tức thì nên bắt giao cho quân thứ, đừng để cho kẻ bề tôi phản nghịch được trốn búa rìu".

Mùa thu, tháng 9, Hộ bộ kiêm Binh bộ là Nguyễn Thừa Tự chết, tặng Tham chính, thụy là Thận cần.

Tân mùi, năm thứ 13 [1751], mùa hạ, tháng 5, Chưởng cơ Tôn Thất Nghiễm (lại tên là Du, con thứ hai Túc tông) mất, tặng Thiếu bảo quận công.

Mùa đông, tháng 10, Nguyễn Cư Trinh dâng thư nói về tình trạng đau khổ của dân gian. Cho rằng "Dân là gốc của nước, gốc không bền vững thì nước không yên. Ngày thường chẳng dùng ơn huệ mà cố kết lòng dân, tới khi có việc thì nương tựa vào đâu ? Trộm nghĩ thói tệ chất chứa ở dân gian đã nhiều, nếu cứ thủ thường theo cũ, không tùy thời thêm bớt, lập ra kỷ cương, thì một ấp cũng chẳng làm được, huống là một nước. Nay có ba việc sinh tệ cho dân là nuôi lính, nuôi voi và nộp tiền án. Ngoài ra còn nhiều sự nhũng phí khác kể không xiết được". Lại có trình bày bốn thói tệ nữa là :

1. Phủ huyện là chức trị dân mà gần đây không giao trách nhiệm làm việc, chỉ cho khám hỏi kiện tụng. Xin từ nay trở đi, các thứ thuế ruộng và thuế sai dự, hết thảy giao cho tri huyện biên thu rồi chuyển nộp cho quan Quảng Nam, để bớt phiền nhiễu. 2. Từ trước đến nay, phủ huyện chỉ trông vào sự bắt bớ tra hỏi mà kiếm lộc, khiến của dân càng hao, tục dân càng bạc. Nay xin định cấp cho thưởng bổng và lấy liêm tham siêng lười mà thăng hay truất. 3. Dân lậu có hai hạng, có hạng trốn thuế mà đi lang thang, có hạng vì cơ hàn thiết thân mà xiêu dạt nơi khác. Nay không chia đẳng hạng, hết thảy bắt vào sổ để thu thuế thì chúng tất sợ hãi xiêu tán, lẩn lút nơi rừng rú, xã dân lại phải bồi thường thì họ chịu sao nổi. Xin xét những dân lậu còn có cách sinh nhai thì thu thuế như lệ thường, còn người nào đói rét khốn cùng thì cho miễn và tùy phương vỗ nuôi, để cứu sống dân nghèo.

4. Dân nên để cho tĩnh, không nên làm cho động, vì động thì dễ loạn, tĩnh thì dễ trị. Nay sai người đi săn bắn ở núi rừng, tìm gà đòi ngựa, bọn ấy không theo được ý tốt của bề trên mà quấy rối dân địa phương, rồi bọn giả mạo đến đâu làm náo nhiệt ở đấy, mọi người đều than oán. Xin từ nay người được sai phải có giấy tờ trình quan địa phương xét thực, kẻ nào nhiễu dân thì xét trị, ngõ hầu lòng dân được yên tĩnh, khỏi hoang mang". Sớ dâng vào không được trả lời.

Lấy Nguyễn Hữu Kính làm Cai bạ Quảng Nam. Kính là người thông suốt việc lại, từng đi xem xét các dinh, giỏi trích phát việc bậy và tài xét đoán, lại dân rất sợ phục. Chúa tin dùng. Sau đi Nha Trang, trở về thì chết. Tặng Tham nghị, thụy là Thanh hiến.

Thủy Xá, Hỏa Xá vào cống. Hai nước ở phía trên nước Nam Bàn (khi Lê Thánh Tông đánh được Chiêm Thành, dòng dõi nước ấy làm vua nước Nam Bàn, cắt cho đất từ núi Thạch Bi về phía tây), thôn lạc có hơn năm chục, giữa có núi Bà Nam rất cao, vua Thủy Xá ở phía đông núi, vua Hỏa Xá ở phía tây núi. Buổi quốc sơ, vì cớ họ giáp giới với Phú Yên, cứ 5 năm một lần sai người đến các nước ấy cho quà (áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt và chén đĩa bằng sứ). Vua hai nước ấy nhận được vật cho, tức thì sắm sửa phẩm vật địa phương (kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực) để hiến. Tới đây sai sứ sang cống. Chúa hậu tứ rồi cho về.

Nhâm thân, năm thứ 14 [1752], mùa xuân, tháng 2, lấy Cai cơ kiêm Hình bộ là Nguyễn Hữu Bác (bấy giờ gọi là Hân Đức hầu), tri bạ Chính Dinh là Trần Đình Hý (bấy giờ gọi là Thức Lượng hầu) làm Khâm sai tuần sát. Sắc rằng : "Hiện nay khí xuân nhuần thấm, ta thiết tha nghĩ việc chăm dân, nhưng còn lo các quan dinh trấn trái phép vỗ về, các quan phủ huyện ít người giỏi giang, dân tình hoặc vì đó chưa thấu đến trên, ơn chúa chưa thấm đến dưới. Tuyên bố được ý của ta là trông cậy ở bọn trung thần các ngươi. Vậy đặc mệnh các ngươi đi tuần sát ba huyện trong kinh kỳ và các châu huyện Vũ Xương, Hải Lăng, Minh Linh, Lệ Thủy, Khang Lộc, Bố Chính. Phàm quan lại bị người thưa kiện, đều được xét hỏi; võ từ cai đội, văn từ ký lục trở lên thì tâu lên để định đoạt; đội trưởng, cai án, phủ huyện trở xuống thì chiếu phép xử tội, cốt làm sao cho quan lại trong sạch, xứng với lòng ủy thác của ta".

Năm ấy đói, một phương gạo trị giá hơn 3 quan, dân nhiều người chết đói.

Quý dậu, năm thứ 15 [1753]. Mùa xuân, tháng 3, lấy Nguyễn Cư Trinh làm Ký lục dinh Bố Chính. Bấy giờ hoàng tử nhà Lê là Duy Mật giận họ Trịnh lấn tiếm, họp quân đóng giữ thành Trình Quang thuộc Trấn Ninh, mưu diệt họ Trịnh. Trịnh Doanh sai quân các đạo đi đánh, không được, muốn mượn đường ở ta, đưa thư xin theo đường Trấn Ninh (thuộc Quảng Bình) để tiến đánh. Chúa sai Cư Trinh làm thư khước từ. Doanh bèn thôi.

Định lệ kế toán hằng năm. Sai quan Chưởng thái giám Mai Văn Hoan kiểm tra số vàng bạc và tiền xuất nhập từ năm Bính dần đến năm Nhâm thân. (Có năm số tiền thu hơn 338.100 quan, số chi hơn 364.400 quan. Cũng có năm thu hơn 423.300 quan, chi mới có hơn 369.400 quan. Lượng số thu mà chi, nếu tiền không đủ thì cho dùng bạc để thay. Vàng thì thu vào có năm 830,840 lạng, có năm 880,890 lạng. Bạc giáp ngân(1. Giáp ngân : Có lẽ là bạc tốt nhất.1) có năm thu 240 lạng, có năm thu 390 lạng; bạc dung ngân(2. Dung ngân : Không rõ là bạc gì. Theo mặt chữ thì dung nghĩa là cây đa. 2), có năm thu 2.400 lạng, có năm 1.800 lạng; bạch kê ngân(3. Kê ngân : Đồng bạc con gà, có lẽ là đồng bạc Mêhicô do các tàu buôn phương Tây đem đến.3) có năm thu 10.000 đồng, có năm thu 400 đồng, có năm không được đồng nào, không có mức nhất định. Thông tính 7 năm số vàng cộng 5.768 lạng 4 đồng 8 phân 7 ly, giáp ngân 9.978 lạng, dung ngân 14.276 lạng 5 tiền, kê ngân 21.150 đồng). Từ đó cứ đến hết năm phải kiểm tra làm thành sổ, đến mồng 3 tháng giêng năm sau thì tâu lên, làm lệ vĩnh viễn.

Mùa hạ, tháng 6, Nội hữu cai đội Tôn Thất Tứ (con thứ tám Hiển tông) mất. Tứ có khí khái, rộng xem sử sách, rất giỏi thơ quốc âm. Vì có tài nên bị nhiều người ghen ghét, bèn xin nghỉ việc. Chúa làm phủ đệ cho ở Hương Cần (thuộc huyện Quảng Điền). Đến nay mất, tặng Thiếu sư Luân quốc công.

Mùa đông, tháng 11, sai Cai đội Thiện Chính (không rõ họ) làm thống suất, Ký lục Nguyễn Cư Trinh làm tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, sang đánh Chân Lạp. Họ tiến đóng quân ở Ngưu Chử [Bến Nghé], dựng dinh trại (Bấy giờ gọi là dinh Đồn, tức nay là chợ Điều Khiển, thuộc Gia Định), kén quân lính, chứa nhiều lương thực để làm kế khai thác.

Giáp tuất, năm thứ 16 [1754], mùa xuân, tháng 3, lấy Tri bạ Trần Đình Hý làm Hộ bộ kiêm Binh bộ.

Chúa đã lên ngôi vương, bắt đầu sửa sang đô ấp, dựng hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, ba gác Dao Trì, Triêu Dương, Quang Thiên và các đường [nhà] Tựu Lạo, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên, cùng là đài Sướng Xuân, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương. ở thượng lưu sông Hương lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ. Đều chạm vẽ hết sức tinh xảo. ở vườn hậu uyển thì có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vòng, thủy tạ. Tường trong, tường ngoài đều xây đắp các hình rồng, hổ, lân, phượng, hoa cỏ. Gác Triêu Dương nhìn xuống dòng sông, quy mô càng rộng rãi sáng sủa. Phía trên phía dưới đô thành đều đặt nhà quân xá và đệ trạch của các công hầu, chia ra từng ô như bàn cờ. Phía ngoài thành thì chợ phố liên tiếp, cây to um tùm, thuyền chài thuyền buôn đi lại như mắc cửi. Thực là một nơi đô hội lớn, văn vật thanh dung(1. Thanh dung : Thanh là âm thanh. chỉ đàn hát; dung là dung mạo, chỉ người đẹp.1) lừng lẫy, đời trước chưa từng có.

Chúa từng sai các quan từ thần(2. Từ thần : Quan làm việc văn chương. 2) đề vịnh. Hàn lâm Nguyễn Quang Tiền đề ở đình Giáng Hương :

[Phiên âm]

Tố nga trường quải thiên thu kính;

Vương mẫu tần xưng vạn tuế trường.

[Dịch]

Tố nga treo mãi gương nghìn thuở ;

Vương mẫu thường dâng chén vạn năm.

Trần Thiên Lộc đề ở phía đông điện Trường Lạc :

[Phiên âm]

1. Vũ lâm tiên trượng nhiễu Bồng lai

Nhất phái tiêu thiều phất thự lai.

Thần tọa cao lâm nam cực quýnh;

Lô yên bất động ngũ vân khai.

Nguyệt luân thường bão thiên thu kính;

Lộ chưởng dao thiêm vạn thọ bôi.

Tối thị thị thần vi sủng ốc,

Minh kha tận hướng Phượng trì hồi.

[Dịch]

Nghi trượng quân Vũ Lâm diễu quanh chốn Bồng lai,

Một đoàn âm nhạc dưới ánh sáng mai đi tới.

Ngôi vua nhìn xuống nơi nam cực;

Lò hương im tỏa ra năm thức mây.

Vừng trăng in mãi gương ngàn thu;

Tay tiên hứng giọt móc dâng thêm chén vạn thọ.

Nhất là cận thần được vua yêu mến,

Đều sang sảng tiếng ngọc kha [trên mình ngựa] kéo tới

chốn Phượng trì(1. Phượng trì : Ao phượng, chỉ ngôi Tể tướng.1).

[Phiên âm]

II. Phượng liễn sơ hồi tiên lộ bình,

Hổ vi triều điện thự hoa sinh.

Dao biên phong độ vân hương tế;

Phủ tọa yên phù ngọc kỷ hoành.

Liễu nhiễu văn tinh hoàn bắc cực;

Ân cần thiên ngữ hạ tây thanh.

Thư sinh kinh thuật tàm vô bổ,

Hà hạnh thanh niên thị thánh minh.

[Dịch]

Xe phượng vừa về, đường tiên phẳng.

Màn hổ điện chầu đều rực rỡ ánh sáng buổi mai.

Gió qua sách ngọc, thoảng mùi hương cỏ vân(2. Cỏ vân : Ngày xưa người ta dùng cỏ vân khô để vào chồng sách cho khỏi mọt nhậy.2);

Khói tỏa ngôi cao, nghi ngút ngang ghế ngọc.

Những văn tinh(3. Văn tinh : Sao văn, chỉ các quan văn.3) quây quần quanh bắc cực(4. Bắc cực : Nơi sao Tử vi đóng, chỉ ngôi vua.4);

Lời ân cần ban xuống chốn tây thanh(5. Tây thanh : Chỉ nơi cung cấm yên lặng. 5).

Thư sinh thẹn học thuật không gì bổ ích,

May tuổi trẻ được gặp đấng thánh minh.

[Phiên âm]

III. Thiên giai vị hứa đẳng nhàn phan,

Hốt báo truyền huyên cận thánh nhan.

Vân lý lâu đài song phượng hạ;

Đẩu gian xương hạp cửu trùng hoàn.

Nhân huân hương vụ mê hoa liễn;

Dao duệ tinh kỳ động duẩn ban.

Lâm hạnh Doanh châu sơ bộ nhật,

Đan trì khể thủ tái hô san.

[Dịch]

Thềm trời chưa dễ leo lên được,

Bỗng được tin truyền đến chầu vua.

Dưới lâu đài song phượng ở trong mây;

Nơi cửa trời chín lần khoảng Bắc đẩu.

Khói hương ngùn ngụt mờ xe hoa;

Bóng tinh kỳ phấp phới rung động hàng quan chầu.

May mắn mới bước dưới mặt trời Doanh châu,

Chốn bệ son lại dập đầu hô vạn tuế.

Chúa cho là lối chữ viết đẹp, sai khắc vào vách điện. Lại đề gác Triêu Dương rằng :

[Phiên âm]

I. Nộn liễu bích như yên,

Xuân lưu uyển chuyển diên.

Đê thùy kim kính bạn;

Tà phất ngọc kiều biên.

Mi tế ba trung họa,

Yêu khinh phong lý hoàn.

Chương đài thiên vạn thụ,

Duy nhĩ mộc ân quang.

[Dịch]

Liễu non mầu khói biếc,

Dòng xuân uốn lượn quanh.

Rủ xuống bờ nước gương;

Phất phơ bên cầu ngọc.

Mày [liễu] vẽ trong sóng,

Lưng [liễu] uốn trước gió.

Chương đài muôn ngàn cây,

Riêng ngươi được ơn gội.

[Phiên âm]

II. Thương thương tiêu chính sắc,

Viễn viễn hiệu vô nha.

Khí kết sơn hà tú;

Quang phân nhật nguyệt hoa.

[Dịch]

Xanh xanh nên sắc chính,

Bát ngát xa không bờ.

Khí tốt non sông kết;

Rực rỡ chia ánh mặt trời, mặt trăng.

[Phiên âm]

III. Thự sắc lung đan bệ,

Thiên môn nhập nhị khai.

Kim triêu trạng nguyên vũ,

Vạn lý nhất thanh lôi.

[Dịch]

ánh sớm rọi bệ son,

Mười hai cửa trời(1. Mười hai cửa thành nhà vua.1) mở.

Sớm nay được mưa trạng(2. Mưa do Uông Thời đời Tống đảo, người ta gọi là mưa trạng nguyên. 2),

Muôn dặm tiếng sấm vang.

[Phiên âm]

IV. Long lân trình thụy sắc,

Yển cái dục kình không.

Bất úy nghiêm lôi bức;

Thiên nghi tế vũ mông.

Kiên trinh khan mộc tính;

Tiêu sái dữ thùy đồng.

Thiên lại hoàn kham thính,

Sinh tiêu quý hạ phong.

[Dịch]

Vẩy rồng phô sắc quý

Lọng đứng toan chọc trời

Chẳng sợ sấm dữ bức;

Duy ưa cảnh mưa phùn.

Kiên trinh chất gỗ cứng;

Thảnh thơi ai sánh cùng ?

Nhạc trời còn nghe được,

Làm thẹn tiếng sinh tiêu.

[Phiên âm]

V. Chấn cách bàn tiêu hán,

Thanh tiêu quýnh bất quần.

Cửu cao không ngoại hưởng;

Ngọ dạ nguyệt trung văn.

[Dịch]

Cất cánh liệng ngất trời xanh.

Thanh cao khác hẳn chúng.

Tiếng kêu ngoài chín chằm(1. Chín chằm : Thơ Tiểu nhã Kinh Thi có câu : "Hạc minh vũ cửu cao", nghĩa là chim hạc kêu ở chín chằm. 1),

Nửa đêm nghe trong trăng.

[Phiên âm]

VI. Vị cách trần phân viễn,

Ưng liên khúc kính trường.

Bản kiều lưu thủy ngoại,

Biệt hữu độc thư đường.

[Dịch]

Vì cách bụi trần xa,

Nên yêu đường cong dài.

Ngoài dòng nhịp cầu ván,

Riêng có nhà đọc thư.

(Chúa sai khắc vào tường cửa gác).

Mùa hạ, tháng 6, quan quân Gia Định chia đường tiến đánh Chân Lạp. Thống suất là Thiện Chính tiến theo đường Mỹ Tho, Nguyễn Cư Trinh đem kỳ binh tiến theo đường sông Bát Đông. Cư Trinh tới đâu, giặc đều tan chạy. [Trinh] quan Tần Lê Bắc (tên đất) ra Đại Giang, hội với quân Thiện Chính ở đồn Lô Yêm. Bốn phủ Lôi Lạp, Tầm Bồn, Cầu Nam, Nam Vang đều hàng. Nặc Nguyên chạy đến Tầm Phong Thâu (tên đất). Cư Trinh bèn sai thuộc tướng đi chiêu dụ người Côn Man để làm thanh thế, gặp mưa lụt, phải đóng quân lại,

Trước là chúa nghe tin Nặc Nguyên đến cầu viện ở Nghệ An, lo họ Trịnh nhân đó động binh, bèn báo cho các trưởng tra (thổ tù Cam Lộ) Tầm Linh huyện Vũ Xương, phàm các đường núi thông sang nước Chân Lạp đều phải sai dân dò thăm tin tức báo lên.

Mùa thu, tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa sai viết thư [cám ơn]. (ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là "Vạn lý trường sa". Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba v.v... Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn, để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản).

Tháng 9, Chưởng cơ cơ Hữu dực Tôn Thất Lễ (lại tên là ái, con thứ 27 Hiển tông) mất, tặng Thiếu bảo Thạch quận công.

Mùa đông, tháng 11, ngày Quý tỵ, hoàng tử thứ 16 (tức Duệ tông Hiếu định hoàng đế) sinh.

ất hợi, năm thứ 17 [1755], mùa xuân, thống suất Thiện Chính đem quân về đồn Mỹ Tho trước, ra lệnh cho người Côn Man bỏ Kha Khâm đem bộ lạc và xe cộ đến đóng ở Bình Thanh. Đi đến Vô Tà Ơn (Kha Khâm, Bình Thanh và Vô Tà Ơn đều là tên đất) bị quân Chân Lạp hơn vạn người đuổi theo đánh úp. Người Côn Man thế bí, xếp xe lại làm lũy để chống giữ và cáo cấp. Thiện Chính bị chằm rừng ngăn trở không ứng cứu được. Cư Trinh tức thì đem năm đội tùy binh đến cứu. Quân Chân Lạp phải rút lui. [Trinh] bèn hộ vệ hơn 5.000 trai gái Côn Man về đóng ở chân núi Bà Đinh, rồi tâu hặc Thiện Chính về tội bỏ lỡ cơ hội và bỏ rơi dân mới quy phụ. Chúa giận, triệu Thiện Chính về, giáng xuống làm Cai đội. Sai Cai đội Trương Phước Du thống suất quân đội, dùng người Côn Man làm hướng đạo, sang đánh Cầu Nam, Nam Vang, giết được mấy người ốc Nha. Nặc Nguyên chạy về Hà Tiên, nương tựa đô đốc Mạc Thiên Tứ.

Mùa hạ, tháng 4, nước Xiêm sai bầy tôi là Lãng Phi Văn Khôn và Khu Sai Lũ Reo (hai tên người) đem thư đến nói rằng nước ấy thường sai người đi thuyền sang Hạ Môn, Ninh Ba và Quảng Đông mua sắm hóa vật, có khi vì bão phải ghé vào cửa biển nước ta, hữu ty đánh thuế đến nỗi lấy mất cả hàng hóa. Vậy xin chiếu tính số bạc trả lại, và xin cấp cho 10 tấm long bài kiểm điểm nhân khẩu làm bằng, khiến khi thuyền công của hai nước ghé vào cửa biển nào đều được miễn thuế. Chúa bảo các quan rằng : "Việc đánh thuế thuyền buôn buổi quốc sơ đã có định ngạch, quan sở tại chẳng qua chiếu lệ mà thu, có lẽ nào lấy cả hóa vật. Người Xiêm nói thế chỉ là muốn miễn đánh thuế mà thôi, đâu dám đòi ta phải trả lại bạc. Duy việc xin long bài thì cấp cho họ cũng không hại gì, nhưng cho một tấm cũng đủ rồi, chứ lấy nhiều làm gì". Bèn sai gửi cho một tấm long bài và viết thư trả lời.

(Thuế thuyền buôn buổi quốc sơ. Vì xứ Thuận Hóa Quảng Nam bờ biển kéo dài, người các nước đến buôn nhiều nên đặt quan cai trị để đánh thuế. Thể lệ như sau : Thuyền Thượng Hải mới đến nộp 3.000 quan, khi về nộp 300 quan; thuyền Quảng Đông mới đến nộp 3.000 quan, khi về 300 quan; thuyền Phước Kiến mới đến nộp 2.000 quan, khi về 200 quan; thuyền Hải Đông mới đến 500 quan, khi về 50 quan; thuyền Tây Dương mới đến 8.000 quan, khi về 800 quan; thuyền Mã Cao, Nhật Bản mới đến 4.000 quan, khi về 400 quan; thuyền Xiêm La, Lữ Tống mới đến 2.000 quan, khi về 200 quan. Thuyền nào giấu giếm hàng hóa thì có tội, tịch thu thuyền và hàng hóa sung công. Thuyền không có hàng hóa thì không vào cửa biển. Đại ước hằng năm số tiền thu thuế ít là không dưới một vạn quan, nhiều là hơn ba vạn quan, chia làm 10 thành, lấy 6 thành nộp kho, còn 4 thành cấp phát cho quan lại và quân nhân).

Nước Xiêm giao trả cho ta 50 người quân và dân bị bão. Trước đây quân bắt giặc và tuần biển ở Gia Định và thuyền dân đi biển bị bão dạt vào hải phận Lục Khôn, đều bị người Xiêm giữ cả . Biên thần Gia Định gửi thư trách về sự giam giữ ấy. Người Xiêm được thư, bèn cho đưa trả về.

Tháng 6, Lễ bộ Nguyễn Đăng Thịnh chết, tặng Chính trị thượng khanh tham nghị, thụy là Thận cần.

Bính tý, năm thứ 18 [1756], lập phủ Lương Quán.

Nặc Nguyên nước Chân Lạp trình bày rằng việc đánh cướp Côn Man là do tướng Chiêu Chùy ếch gây ra, nay xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp và nộp bù lễ cống còn thiếu về ba năm trước để chuộc tội. Mạc Thiên Tứ đem việc tâu lên. Chúa cùng các quan bàn, ra lệnh bắt Chiêu Chùy ếch đem nộp. Nặc Nguyên trả lời rằng ếch đã bị xử tử rồi. Khiến bắt vợ con. Nguyên lại kiếm cớ xin tha. Chúa biết là nói dối, không y lời xin. Nguyễn Cư Trinh kíp tâu rằng : "Từ xưa việc dụng binh chẳng qua là để trừ diệt bọn đầu sỏ và mở mang thêm đất đai. Nặc Nguyên nay đã biết ăn năn xin hàng nộp đất, nếu truy mãi lời nói dối ấy thì nó tất chạy trốn. Nhưng từ đồn dinh Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở mang đất đai cũng nên lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh. Nếu bỏ gần cầu xa, e rằng hình thế cách trở, binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ, mà giữ thực là khó. Khi xưa mở mang phủ Gia Định tất phải trước mở đất Hưng Phước, rồi đến đất Đồng Nai, khiến cho quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Gòn. Đó là cái kế tằm ăn dần. Nay đất cũ từ Hưng Phước đến Sài Gòn chỉ hai ngày đường, dân cư còn chưa yên ổn, quân giữ cũng chưa đủ nữa là. Huống từ Sài Gòn đến Lâm Bôn, xa sáu ngày đường, địa thế rộng rãi, dân số đến vạn người, quân chính quy đóng giữ thực sợ chẳng đủ. Thần xem người Côn Man giỏi nghề bộ chiến, người Chân Lạp cũng đã sợ lắm. Nếu cho họ đất ấy khiến họ chống giữ, "lấy người Man đánh người Man", cũng là đắc sách. Vậy xin cho Chân Lạp chuộc tội, lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt lũy đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho lệ vào châu Đinh Viễn, để thu lấy toàn khu". Chúa bèn y cho.

Mùa thu, tháng 7, Hàn lâm viện Nguyễn Quang Tiền bị bãi chức. Bấy giờ viên thiên tổng Mân Chiết [Phước Kiến và Chiết Giang] là Lê Huy Đức, thuyền bị nạn bão đậu vào hải phận nước ta. [Chúa] hậu đãi rồi cho về, nhân tiện cho đưa về Phước Kiến những người Thanh bị bắt là bọn Lý Văn Quang 16 người. Chúa sai Quang Tiền viết thư, tự xưng là An Nam quốc vương. Quang Tiền cố chấp cho là không thể viết thế. Chúa giận bãi chức. Sau rồi chúa nghĩ ra, bèn cho viết bức thư của trấn thủ cai bạ mà gửi đi.

Đinh sửu, năm thứ 19 [1757], phủ Lương Quán làm xong.

Nặc Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nặc Nhuận tạm coi việc nước. Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau mới y cho. Khi ấy xảy việc con rể Nặc Nhuận là Nặc Hinh giết Nặc Nhuận để cướp ngôi, con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống suất Trương Phước Du thừa thế tiến đánh. Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy, bị quan phiên ốc Nha Uông giết chết. Bấy giờ Mạc Thiên Tứ cũng tâu giúp cho Nặc Tôn. Chúa bèn sắc phong cho Nặc Tôn làm vua nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long. Phước Du và Cư Trinh tâu xin dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào (nay là thôn Long Hồ, tức là tỉnh lỵ Vĩnh Long). Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc ở Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp. Bấy giờ Nặc Tôn lại cắt năm phủ Hương úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt Hà Tiên, Thiên Tứ lại xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu dân cư, lập thôn ấp, làm cho địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng.

Mùa đông, tháng 11, lấy Phạm Hữu ứng làm Ký lục dinh Bình Thuận.

Mậu dần, năm thứ 20 [1758], mùa hạ, tháng 4, sai Nguyễn Khoa Trực làm Tuần phủ phủ Phú Yên, đốc thu các thứ thuế sai dư và thường tân.

Buổi quốc sơ, vì Phú Yên là đất mới khai thác, dẫu đã đặt quan lại cai trị, nhưng thuế má vẫn còn rộng rãi đơn giản (tiền thuế sai dư của chính hộ và khách hộ thuộc hai huyện thì cũng như các phủ, còn các tiền cước mễ, thường tân, tiết liệu thì ít hơn so với hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn). Đến khi các phủ Bình Khang, Diên Khánh, Bình Thuận, Gia Định dần dần mở mang, thì lệ thuế cũng như tỉnh Phú Yên. Đến đây các thuế sai dư và thường tân của Phú Yên còn khiếm nhiều cho nên sai quan đi đốc thu.

Sai chế mũ đầu hổ cấp cho các quân.

Kỷ mão, năm thứ 21 [1759], tháng 6 nhuận, thái thượng hoàng nhà Lê băng.

Canh thìn, năm thứ 22 [1760], mùa xuân, tháng 2, ngày Giáp ngọ, thế tử là Hiệu mất, tặng Thái bảo quận công, cấm hát xướng trong trăm ngày. Thế tử là người hiền hiếu, nhân từ, thông minh, ai cũng tiếc. (Năm Gia Long thứ 3, truy phong là Tuyên vương, lập đền thờ ở xã Long Hồ).

Hoàng tử thứ hai (tức là Hưng tổ Hiếu khang hoàng đế, con Nguyên phi Trương thị) 28 tuổi, khôn ngoan, thông tuệ, sáng suốt, quả quyết, chúa muốn lập làm thế tử. Sai Nội hữu cai cơ Trương Văn Hạnh làm thầy, nho học huấn đạo Lê Cao Kỷ làm thị giảng, để phụ đạo khiến cùng với các quan đại thần dự bàn việc quân việc nước.

Tân tỵ, năm thứ 23 [1761], mùa xuân, tháng 2, nước Vạn Tượng đến cống. Vạn Tượng ở vào giữa Ai Lao và Lục Hoàn. Buổi quốc sơ cho họ cùng với dân Man ở Cam Lộ qua lại buôn bán, do đó họ mến đức sợ oai, thường sai sứ đến thông hiếu, nay lại đến cống. (Cống phẩm có voi đực, sáp ong, sừng tê, khăn đỏ, nhiều ít tùy tiện, không có định hạn). Khi sứ về thì gửi cho tù trưởng gấm, vóc, sô, lụa.

Mùa hạ, tháng 4, Hộ bộ kiêm Binh bộ là Trần Đình Hy chết, tặng Tham chính, thụy là Cung thận.

Nhâm ngọ, năm thứ 24 [1762], mùa xuân, tháng giêng, ngày Kỷ dậu, hoàng tôn (tức Thế tổ Cao hoàng đế) sinh, do nguyên phi của hoàng tử thứ hai là Nguyễn thị (tức Hiếu khang hoàng hậu, con gái cai cơ Nguyễn Phước Trung, người này họ hoặc theo quốc tính, hoặc lấy Phước Trung làm tên tự, chưa xét được rõ) sinh ra.

Quý mùi, năm thứ 25 [1763].

Giáp thân, năm thứ 26 [1764], hoàng tử nhà Lê là Duy Mật sai người đến dinh Ai Lao cầu viện. Thư đại lược nói rằng : "Trước kia nhà Lê chúng ta nửa chừng suy yếu, giặc Mạc cướp quyền. Lòng người ghét nghịch Mãng, thiên hạ nhớ họ Lưu. Bấy giờ, Chiêu huân tiên công(1. Nguyễn Kim.1) chúng ta hô hào đại nghĩa, tôn phò nhà Lê, dựa oai trời, diệt họ Mạc, rước vua ở đất Ai Lao về lên ngôi ở nước Nam, công trung hưng ấy không ai hơn được. Bấy giờ họ Trịnh cũng ở dưới cờ. Từ năm Thuận Bình về sau, mưu gian càng ngày càng lớn. Đến khi tiên vương(2. Nguyễn Hoàng.2) đã vào Nam, họ Trịnh càng làm quá. Đầu thì như lửa mới bén, còn mượn tiếng Tề [Hoàn] Tấn [Văn] tôn Chu; sau như mọt đục ruột cây, chực làm như Vương [Mãng] Tào [Tháo] cướp Hán. Niên hiệu Hoằng Định, Trần Hằng giết Giản công(3. Trần Hằng giết Giản Công nước Tề, ví việc Trịnh Tùng giết vua Kính tông. 3); niên hiệu Vĩnh Khánh, Đổng Trác phế Hiếu hiến(4. Đổng Trác phế Hiến Đế nhà Hán, ví việc Trịnh Giang phế vua Duy Phương. 4); Long Đức [Thuần tông] được tôn, bỗng vô cớ mà trúng độc; Vĩnh Hựu [ý tông] được lập, chưa bao lâu mà ra cung. Nhà Lê bị quyền thần họ Trịnh hiếp chế đã lâu vậy. Mật thẹn mình là con vua, rất căm mối thù nước, nhưng thế yếu địch mạnh, nhiều lần khởi sự không xong. Nay trăm họ nước xưa đều nói rằng nhà Lê là chủ cũ của ta, họ Trịnh là quân thù của ta. Phò Lê diệt Trịnh, duy còn trông ở quân miền Nam. Vậy xin sớm định cơ nghi, chọn ngày tiến quân, cùng nhau ứng tiếp. Như thế thì giặc nước mới trừ xong, thù ta mới trả được, mà các tiên liệt cũng rạng rỡ thêm". Chúa không muốn gây hiềm khích nơi biên giới, nên hậu đãi người đưa thư, rồi cho về.

ất dậu, năm thứ 27 [1765], mùa hạ, tháng 5, ngày Giáp ngọ, chúa băng, ở ngôi 27 năm, thọ 52 tuổi. Bầy tôi hội đồng dâng thụy là Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ vương, táng ở núi La Khê.

Năm Gia Long thứ 5 [1806], truy tôn làm Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ hoàng đế, miếu hiệu là Thế tông, lăng gọi là Trường Thái; [truy tôn] phi là Ôn Thành Huy ý Trang Từ Dục Thánh Hiếu Vũ hoàng hậu, lăng gọi là Vĩnh Thái.

Tiền biên

Quyển XI

Tiền biên - Quyển XI

Thực lục về Duệ tông Hiếu định hoàng đế (thượng)

Duệ tông Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu định hoàng đế, húy là [Phước Thuần], lại húy nữa là [Hân], sinh năm Giáp tuất [1754] (Lê ? Cảnh Hưng năm 15, Thanh ? Càn Long năm 19), là con thứ 16 của Thế tông Hiếu võ hoàng đế. Mẹ là Nguyễn thị (Cuộc biến năm Giáp ngọ, Nguyễn thị đi tu, năm Gia Long thứ 3, cho hiệu là Tuệ tĩnh thánh mẫu nguyên sư). Đầu là hoàng tử thứ chín là Hiệu được yêu quý nên được lập làm thế tử, rồi mất, hoàng tôn là Dương còn thơ ấu mà hoàng tử cả là Chương lại cũng mất. Hưng tổ Hiếu khang hoàng đế khi nhỏ khôi ngô khác thường, theo vai vế thì đáng được lập. Thế tông Hiếu võ hoàng đế sai Nội hữu Trương Văn Hạnh làm thầy, muốn để cho nối ngôi. Bắt đầu cho các chức chưởng cơ, thường được tham dự triều chính. Năm ất dậu, mùa hạ, tháng 5, ngày Giáp ngọ, Thế tông Hiếu võ hoàng đế băng. Bấy giờ chúa mới 12 tuổi, quyền thần Trương Phước Loan (con Trương Phước Phan) lợi dụng chúa còn trẻ tuổi, mật cùng Thái giám Chử Đức (không rõ họ) và Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thông đổi di mệnh lập lên, hiệu là Khánh phủ đạo nhân. Hưng tổ bị Trương Phước Loan ghét, bắt giam vào lãnh thất. Nội hữu Trương Văn Hạnh, thị giảng Lê Cao Kỷ đều bị Loan giết. Hưng tổ lo buồn sinh ốm, mùa thu, tháng 9, ngày Quý mùi, về phủ đệ thì băng, thọ 33 tuổi, táng tại xã Cư Chính (thuộc huyện Hương Trà). Năm Mậu tuất, năm đầu Thế tổ lên nhiếp chính, truy tôn làm Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang vương, năm Gia Long thứ 5 truy tôn làm Nhân Minh Cẩn Hậu Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang hoàng đế. Năm thứ 7, tu sửa sơn lăng, gọi là lăng Cơ thánh. Năm Minh Mệnh thứ 2, phong núi làm núi Hưng Nghiệp, dâng miếu hiệu là Hưng tổ.

Chúa lên ngôi xuống chiếu đại xá. Chiếu rằng : "Kinh Xuân thu để muôn đời khuôn phép, dạy phải nghiêm chỉnh từ đầu ; bực vua chúa lập chế độ thái bình, càng trọng thay cũ đổi mới. Muốn đưa đời đến thịnh trị, há chỉ trông vào luân âm ! Nhà nước ta phát tích tự Ô châu, thực nhờ tiên chúa để mưu lược. Nghiệp bá giữa phương trời chót vót, đạo vương ban khắp trong cõi bờ. Các thánh truyền nối cùng nhau, giữ gìn khuôn phép một nhà, vỗ trị dư đồ nghìn thặng. Tiên khảo hoặc văn hoặc võ, mở rộng quy mô nhất đại, đặt đúng uy nghi bách vương. Vâng mãi mệnh trời, tiếng tăm to lớn. [Không ngờ] thức mây đương rực rỡ từng trời, xe phượng bỗng xa rời cõi đất. Ta đức còn non, mà tuổi còn nhỏ. Chưa biết việc cấy gặt gian nan, e không rõ vỗ yêu dân chúng. Dẫu nhờ được cả triều cùng giúp, nhiều công xoay chuyển càn khôn ; nhưng trách nhiệm muôn việc một ngày, nên hai ba lần thoái nhượng. Lịch minh(1. Lịch minh : Cây minh giáp, một thứ cỏ xưa người ta trồng ở gần thềm để xem số ngày trong một tháng.1) vừa gặp ngày tốt, khó ngăn hướng bóng lòng quỳ. Cho nên ngày tháng này ta đã lên ngôi vương. Nửa đêm thuận tình, sáng sớm lâm chính. Muốn tới được Thành Chu thịnh đức(2. Đời Thành vương nhà Chu là một đời thịnh trị.2), cần phải nhớ Hồng phạm cách ngôn(3. Thiên Hồng phạm trong Kinh Thư, nêu cửu trù để dậy phép lớn trị nước.3). Được tươi đẹp như rồng như ánh sáng, là nhờ bầy tôi hằng tháng xét mình, và quan tâm đến tình dân mong gió mong mưa mỗi người một khác. Vậy xuống lệnh đại xá, tuyên bố đức ân, để được thấm Phước lành thêm mãi, thỏa lòng mong mỏi mây trời. Mong rằng các quan trong ngoài chăm lo chức vụ, già trẻ trăm họ đều biết tôn vua thân trên, để một phen rửa sạch dơ cũ, thói tốt thấm nhuần".

Thăng Trương Phước Loan làm quốc phó, giữ việc Hộ bộ, quản cơ Trung tượng, kiêm Tàu vụ, cho thu thuế sản vật nguồn vàng Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân làm ngụ lộc. Loan sai người riêng trưng thu, Hằng năm được số vàng vô số mà nộp thuế cho nhà nước chỉ 1 ? 2 phần 10. Các thứ thuế nguồn về ngà voi, sáp ong, mật ong, mỗi năm thu bạc đến hơn 200 lạng. Của báu chất như núi. Con là Thặng và Nhạc đều lấy công chúa (Thặng lấy công chúa Ngọc Nguyện, Nhạc lấy công chúa Ngọc Đảo), làm quan đến chưởng dinh cai cơ. Cả nhà Loan sang yêu quyền thế, át cả trong ngoài. Lại đem bè đảng là bọn Thái Sinh chia giữ những bến trọng yếu. Loan ngày càng buông tuồng, người ta gọi là Trương Tần Cối.

Tháng 6, triệu tham mưu dinh Điều khiển Gia Định là Nguyễn Cư Trinh về, thăng làm Lại bộ, khởi phục Nguyễn Quang Tiền làm Hàn lâm viện. Bấy giờ Trương Phước Loan chuyên nắm quyền bính, sợ dư luận không ưa, nên đem hai người này là có danh vọng ở đương thời xin chúa cất dùng. Chúa theo lời, nên có mệnh ấy.

Lấy Thị giảng Nguyễn Hữu Tôn làm Binh bộ, vẫn kiêm chức thị giảng.

Bính tuất, năm thứ 1 [1766] (Lê ??Cảnh Hưng năm 27, Thanh ? Càn Long năm 31), mùa thu, tháng 8, bọn thám tử của Hà Tiên là Xiêm La trở về, nói vua Phung Xiêm La (vua Xiêm có bệnh phung, người nước gọi là vua Phung) đã sửa soạn chiến thuyền định ngày sang đánh Hà Tiên. Tổng binh Mạc Thiên Tứ lấy làm lo, phi báo về dinh Điều khiển Gia Định xin quân ứng viện.

Mùa đông, tháng 10, Thống suất Nguyễn Cửu Khôi [có sự nhầm lẫn của sử gia triều Nguyễn, ông này là Tống Văn Khôi (xem ghi chú của Đại Nam Liệt Truyện)] (con Chưởng dinh Nguyễn Cửu Pháp, dòng dõi Nguyễn Phước Kiều) và Tham mưu Nguyễn Thừa Mân (con Tham chính Nguyễn Thừa Tự) sai bọn Cai đội Nguyễn Cửu Siêu, Nguyễn Cửu Tự đem 3 chiếc thuyền đi biển, 20 chiếc thuyền sai và 1.000 tinh binh đóng giữ Hà Tiên để phòng ngừa giặc Xiêm.

Đinh hợi, năm thứ 2 [1767], mùa xuân, tháng giêng, Trịnh Doanh nhà Lê chết, con là Sâm lên nối.

Tháng 3, Diến Điện cử binh đánh phá Xiêm La, bắt được vua Phung và con là Chiêu Đốc Đa, lùa mấy vạn dân đem về. Con thứ vua Phung là Chiêu Xỉ Xoang chạy sang Chân Lạp, Chiêu Thúy chạy sang Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đem việc ấy báo lên, lại gửi thư cho bọn Điều khiển Nguyễn Cửu Khôi [có sự nhầm lẫn của sử gia triều Nguyễn, ông này là Tống Văn Khôi (xem ghi chú của Đại Nam Liệt Truyện)] triệt quân viện về cho khỏi khó nhọc. Thiên Tứ lại sợ quân Diến Điện thừa thế đến lấn, bèn sai thuộc tướng là Cai đội đội Thắng thủy Trần Đại Lực (con Trần Đại Định) đem binh thuyền đi trấn giữ đất Chân Bôn (đầu địa giới Xiêm La); lại sai quân đi tuần xét các hải đảo Cổ Công, Cổ Cốt và Dần Khảm. Bấy giờ có người Triều Châu nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, thấy đảo Cổ Công là nơi hiểm trở hẻo lánh, dựa làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng duyên hải, đón cướp thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm ngó Hà Tiên. Quân đi tuần thám biết tình hình. Thiên Tứ mật sai quân tinh nhuệ ngầm đến vây bắt. Hoắc Nhiên bị quân chúng giết chết, dư đảng đều tan.

Mùa hè, tháng 5, Lại bộ Nguyễn Cư Trinh chết, Cư Trinh là người có cơ trí mưu lược, giỏi quyết đoán, phàm có kiến nghị tâu bày đều là nói ngay bàn thẳng. Trong khi tham dự việc quân ở miền Nam, 11 năm mở mang đất đai, giữ yên biên giới, công lao danh vọng rỡ ràng. Lại giỏi văn chương, ưa ngâm vịnh, khi ở Gia Định, cùng với Tổng binh Hà Tiên Mạc Thiên Tứ thường lấy thơ văn tặng nhau, có tập Hà Tiên thập vịnh lưu hành. Lại làm bài Sãi vãi vấn đáp, tôn sùng chính học, bài bác mê hoặc, dùng lối văn biền ngẫu quốc âm, người đều truyền tụng. Khi chết, tặng Tá lý công thần chính trị thượng khanh, thụy là Văn Định. (Năm Minh Mệnh thứ 20 [1839] phong Tân Minh hầu, được tòng tự ở Thái miếu).

Mùa thu, tháng 8, lấy Binh bộ Nguyễn Hữu Tôn làm Lại bộ, coi việc Kinh diên. Sau lại sai kiêm Hình bộ, cai quản việc vận tải.

Mùa đông, tháng 12, lấy Ký lục dinh Quảng Nam là Nguyễn Đăng Khuông (con Nguyễn Đăng Tiến) làm Cai bạ, Hàn lâm viện thị giảng Trần Phước Thành (lại tên là Đại Tiến) làm Ký lục.

Mậu tý, năm thứ 3 [1768], mùa xuân, tháng 2, sai các dinh làm duyệt tuyển.

Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi hương. Sai Chưởng cơ lãnh Hình bộ sự là Tôn Thất Dục (lại có tên là Thường, con Tôn Thất Tứ, bấy giờ gọi là Thường quận công) làm giám thí. Lấy Lê Chính Việp, Bạch Doãn Triều đỗ đầu, người đương thời cho là xứng đáng.

Truy cấp cho Thiếu úy Tôn Thất Hiệp 300 người tự dân (xã Vân Thê) và 500 mẫu tự điền (xã Kim Đôi).

Trưởng đất Mường Tát nước Xiêm La là Trịnh Quốc Anh tự lập làm vua. Quốc Anh là người Triều Châu nước Thanh. Cha là Yển Lưu ngụ ở Xiêm La, làm trưởng đất Mường Tát, Yển chết, Quốc Anh nối chức, xưng là Phi Nhã Tân (tên quan nước Xiêm), thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm quốc vương, đòi nước Chân Lạp tiến cống. Vua Chân Lạp là Nặc Tôn cho rằng Phi Nhã Tân không phải dòng dõi Xiêm La, cự không nhận.

Kỷ sửu, năm thứ 4 [1769], mùa xuân, tháng 2, vua nước Xiêm là Tân sai tướng là Phi Nhã Sô Sĩ (tên chức quan) Bôn Ma (tên người) đem quân đưa ngụy vương nước Chân Lạp là Nặc Nộn về nước. Quân Bôn Ma đến Lô Khu, cùng Nặc Tôn đánh nhau mãi không được, bèn bắt dân đem về. Mạc Thiên Tứ được tin, càng thêm cẩn thận việc biên phòng.

Người Triều Châu là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch Mã, mưu đánh úp Hà Tiên, ngầm kết với người họ Mạc là bọn Mạc Sùng, Mạc Khoan làm nội ứng. Mạc Thiên Tứ biết rõ tình hình, liền cho mai phục, bắt được bọn Sùng, Khoan, đuổi đánh đảng chúng ở chùa Hương Sơn. Trần Thái chạy sang Xiêm La.

Làm sổ sách kế toán hằng năm. Bấy giờ được bình tĩnh đã lâu, ruộng đất ngày càng thêm mở rộng, hộ khẩu ngày càng tăng nhiều, thuế khóa về đinh điền thu vào chứa đầy kho tàng. Chúa mới lên ngôi, muốn biết rõ số mục các thứ, bèn sai sở tại đều làm bản tính thu thuế khóa đinh điền và những thuế nguồn, cửa quan, bến đò, họp thành sổ tâu lên, làm lệ thường hằng năm. (Thuận Hóa, 2 phủ, 8 huyện, 1 châu, ruộng hơn 153.180 mẫu, đinh hơn 126.850 người. Quảng Nam đến Gia Định, 9 phủ, 25 huyện, 1 châu, ruộng 270.000 mẫu khoảnh(1. ở Trung Quốc thì một khoảnh là 100 mẫu. ở đây dùng chữ mẫu khoảnh, có lẽ phần lớn là mẫu, còn những nơi mới khai thác chưa đo được chính xác thì tính là khoảnh, cũng đại loại trên dưới mẫu, chứ không phải 100 mẫu. 1), đinh hơn 165.060 người. Số thu vào trong một năm thì Thuận Hóa thóc 3.533.356 thăng, gạo 63.655 thăng, tiền 153.600 quan. Quảng Nam đến Gia Định thóc hơn 6.048.500 thăng, gạo hơn 782.000 thăng, tiền hơn 241.900 quan. Lại các thứ thuế nguồn, tấn, đầm, ao, tuần ty, chợ, đò, mỗi năm thu vào tiền hơn 76.460 quan, vàng 148 lạng, bạc 1.450 lạng. Từ Quảng Nam trở về Nam chiếm 6 phần, Thuận Hóa chiếm 4 phần. Ngoài ra các loại như lụa, nhiễu, vải trắng, ngà voi, sừng tê, sáp ong, dầu nước, dầu thơm, đường cát, mật mía, mật ong, song, mây nước, đuốc trám, đèn nến thì không ở trong số thuế này).

Sai các châu huyện lập phường chơi xuân, mỗi phường 15 người, nộp thuế 1 quan tiền.

Sao chổi mọc, chuôi tự phía đông bắc chỉ sang phía tây nam. Hàn lâm Nguyễn Quang Tiền nói với người ta rằng chỉ trong 6 năm ở Quảng Nam sẽ nổi binh.

Bấy giờ Trương Phước Loan cầm quyền, chính trị tự chuyên. Nội hữu chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm, chưởng Thủy cơ Tôn Thất Viên (đều là con Dận quốc công Tôn Thất Điền, bấy giờ người ta gọi là Nghiễm quận công) dẫu được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Loan thấy thế bèn không kiêng nể gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ. Trong khoảng 4, 5 năm, tai dị hiện ra luôn, đất động, núi lở, sao sa, nước đỏ, trăm họ đói kém, trộm cướp tứ tung. Trong nước tự đó sinh nhiều việc.

Canh dần, năm thứ 5 [1770], mùa xuân, tháng 3, làm sổ các ruộng họ ở các huyện xứ Thuận Hóa. Chúa cho rằng xứ Thuận Hóa khẩn ruộng ngày một nhiều, mà sổ sách lâu năm hư hỏng, sai chiếu số ruộng họ các xã thôn phường thuộc các huyện, làm sổ dồn thành tập. (Hương Trà 10 tổng, 222 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 8 tập. Quảng Điền 8 tổng, 137 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 4 tập. Phú Vang 6 tổng, 352 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 15 tập. Đăng Xương 5 tổng, 188 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 5 tập. Khang Lộc 6 tổng, 83 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 6 tập. Lệ Thủy 5 tổng, 73 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 4 tập. Nam Bố Chính 2 tổng, 54 xã, thôn, phường, ruộng họ quy thành 1 tập. Duy còn 1 huyện Hải Lăng, nay không khảo được.

Dời xây Văn Miếu đến xã Long Hồ. Chúa thấy địa thế Triều Sơn ẩm thấp nên sai dời đi. Chưởng cơ lĩnh Hình bộ sự là Tôn Thất Dục bị bãi. Dục học rộng, có tài lược, triều đình dựa vào xem là trọng thần. Bấy giờ Trương Phước Loan chuyên quyền, thấy Dục là bầy tôi tôn thất có tiếng đương thời, muốn kéo bè giúp mình, bèn đem con gái gả cho. Dục không vì thế mà khuất chút nào, giữ ngay thẳng, không a dua. Loan ghét, ngầm sai người vu cho Dục mưu phản. Tra xét mãi không có chứng cớ gì, đến đấy bãi về. Dục đã về nhà, tuyệt nhiên không nói gì đến việc nước nữa, chỉ ngày cùng các khách ngâm vịnh. Dục hiếu học, giỏi thơ, càng tinh về thuật số và âm nhạc, tục truyền đàn nam cầm((1) Đàn bầu. 1) là do Dục chế ra. (Có thuyết nói Dục bị Loan ghét, vu việc mưu phản không bằng chứng, bèn lấy việc làm súng riêng làm chứng, bắt giam và năm sau phát bệnh ung thư ở lưng rồi chết).

Mùa hạ, tháng 6, Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thông chết, tặng Trấn phủ Kính quận công.

Lấy Ký lục dinh Quảng Nam là Trần Phước Thành làm Cai bạ, tuần hành 5 phủ (Thăng Bình, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên), tham mưu việc dẹp giặc, điều khiển tướng sĩ binh dân của sáu đạo đồn dinh Quảng Ngãi và quân lính hai phủ Quy Nhơn và Phú Yên để đi đánh giặc ác man. Buổi quốc sơ bọn mọi ác Đá Vách ở Quảng Ngãi (vì ven núi trông lên những vách đá đứng thẳng là nhà ở của bọn mọi ác này, cho nên gọi tên là mọi Đá Vách) thường gây nạn cho dân, nên đã biên dân [Quảng Ngãi]

lập làm sáu đạo quân, chia phiên đóng giữ, dân địa phương được yên. Đến đây bọn mọi ác ấy lại xuống quấy nhiễu, mới sai Phước Thành lãnh quân đi đánh dẹp.

Mùa thu, tháng 7, lính trốn ở Hà Tiên là Phạm Lam họp đảng ở Hương úc và Cần Vọt cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là ốc Nha Kê hợp quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia

đường thủy bộ đánh úp trấn Hà Tiên. Vừa tới ngoài lũy, Mạc Thiên Tứ đem quân chống cự, đánh tan được, đâm chết Phạm Lam ở giữa sông, bắt được Lư và Kê đem chém. Bấy giờ Hà Tiên luôn gặp binh hỏa, quân lương hao tổn, lòng dân dao động, Thiên Tứ dâng sớ tự trách. Chúa ban thư tỏ lòng

khoan hồng và yên ủi. Lại sắc cho Điều khiển Gia Định rằng hễ Hà Tiên có tin báo động thì phải tiếp ứng mau.

Dật sĩ ở Thuận Hóa là Ngô Thế Lân thư bàn về tiền tệ, đại lược rằng: "Trộm nghe, khi tiên chúa mở mang, đất còn hẹp, dân còn thưa, phía nam chưa có đất Gia Định màu mỡ (Gia Định là đất tốt bậc nhất, rất hợp trồng lúa, rồi đến trồng cau. Phương ngôn có câu "Nhất thóc nhì cau"); phương Bắc còn có việc phòng giữ ở Hoành Sơn, liền năm chinh chiến, mà dân không đói kém, nhà nước thừa tiêu. Ngày nay thiên hạ bình tĩnh đã lâu, đất rộng dân đông, những đất trồng lúa đã khai khẩn hết, những nguồn lợi núi chằm đã khai thác hết. Hơn nữa, ruộng ở Phiên Trấn và Long Hồ lại không bị hạn lụt bao giờ. Thế mà từ năm Mậu tý [1768] tới nay, giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém, là cớ làm sao? Không phải là thiếu thóc mà chính vì đồng tiền kẽm gây nên vậy. Nhân tình ai cũng ưa cái bền chắc, ghét cái chóng hư. Nay lấy đồng tiền kẽm chóng hư mà thay đồng tiền đồng bền chắc, cho nên dân đua nhau chứa thóc mà không chịu chứa tiền. Tuy nhiên, cái tệ tiền kẽm đã lâu rồi, nay muốn đổi đi, thế rất là khó, mà nạn đói của dân thế lại rất gấp. Thần trộm nghĩ phương kế ngày nay, không gì bằng phỏng theo phép nhà Hán, mỗi phủ đặt một kho thường bình, đặt quan phụ trách, định giá thường bình, rồi hễ thóc rẻ thì theo giá mà đong vào, thóc đắt thì theo giá mà bán ra. Như thế thì giá thóc không đến nỗi rẻ quá để hại cho nhà nông, mà cũng không đến nỗi đắt quá để lợi cho bọn phú thương, rồi sau sẽ dần dần sửa đổi cái tệ tiền kẽm, thế là vật giá sẽ được bình ổn". Sớ dâng vào, không thấy trả lời (Sau Lân theo giặc Tây Sơn, nhận ngụy chức).

Tân mão, năm thứ 6 [1771], mùa thu, tháng 8, Mạc Thiên Tứ được tin nước Xiêm La kiểm duyệt binh giáp, định ngày đến lấn, bèn chạy hịch xin viện ở Gia Định. Điều khiển Nguyễn Cửu Khôi [có sự nhầm lẫn của sử gia triều Nguyễn, ông này là Tống Văn Khôi (xem ghi chú của Đại Nam Liệt Truyện)] cho rằng năm trước Hà Tiên đã báo hão tin biên cấp, chỉ làm mệt cho quan quân, nên không cho binh đến cứu. Bấy giờ trong thành Hà Tiên thấy ở phương Nam có 2 cái cầu vồng đỏ mọc giao nhau thành hình chữ thập, dài hơn 30 trượng ; lại ở dưới lầu Bắc đế có một cồn cát từ lâu, chợt bị cơn gió cuốn lên lưng chừng trời, làm trong thành mù tối, phút chốt cát ấy tản xuống, đánh đống thành hình chữ thập. Người thức giả cho đó là điềm đến tháng 10 thành sẽ mất.

Mùa đông, tháng 10, vua Xiêm thấy Chiêu Thùy chạy sang Hà Tiên, sợ có mối lo về sau, bèn phái hai vạn quân thủy và bộ, dùng tên giặc [núi] Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo, vây trấn Hà Tiên. Quân trấn ít ỏi, bám giữ thành cố đánh, chạy hỏa bài cáo cấp với dinh Long Hồ. Quân Xiêm đông giữ núi Tô Châu, dùng đại bác bắn vào thành, thế rất nguy cấp. Đương đêm, kho thuốc súng ở núi Ngũ Hổ phát cháy, trong thành sợ rối. Quân Xiêm từ phía sau thành chặt cửa sấn vào, phóng hỏa đốt doanh.

Thiên Tứ thân hành đốc suất binh sở thuộc chống đánh ở các ngõ. Một lát quân dân tan vỡ, thành bị hãm. Cai đội Đức Nghiệp (không rõ họ) kèm Thiên Tứ lên thuyền chạy. Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng, Mạc Tử Duyên ở đạo Châu Đốc cũng đều đem thủy quân phá vòng vây, do đường biển chạy xuống Kiên Giang, rồi qua Trấn Giang dừng lại. Chiêu khoa (tên quan) nước Xiêm là Trần Liên đuổi theo đến, vừa gặp Lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phước Hợp đem binh thuyền bản dinh đến cứu, kéo thẳng tới sông Châu Đốc để chống cự. Quân Xiêm rút lui, vào nhầm ngách sông cụt, đại binh [ta] đuổi ập tới, chém được hơn 300 đầu. Trần Liên phải bỏ thuyền, dẫn quân chạy về Hà Tiên, lại bị Cai đội đạo Đông Khẩu là Nguyễn Hữu Nhân đón đánh, quân Xiêm chết quá nửa. Vua Xiêm bèn lưu Trấn Liên ở lại giữ Hà Tiên, rồi tự đem quân thẳng sang Chân Lạp. Nặc Tôn bỏ chạy. Vua Xiêm lập Nặc Nộn làm vua Chân Lạp. Thế là quân Xiêm đóng giữ phủ Nam Vang, có ý nhòm ngó Phiên Trấn.

Tháng 11, Nguyễn Cửu Khôi [có sự nhầm lẫn của sử gia triều Nguyễn, ông này là Tống Văn Khôi (xem ghi chú của Đại Nam Liệt Truyện)] và Nguyễn Thừa Mân gửi giấy mời Thiên Tứ đến dinh để hỏi thăm yên ủi. Thiên Tứ trình bày duyên do thất thủ và dâng thư xin chờ tội. Chúa ban thư rộng miễn, lại cấp thêm lương. Hạ lệnh cho điều khiển cho quân đưa về đạo Trấn Giang, khiến chiêu dụ dân lưu vong mà tính lại việc đánh giặc.

Tháng 12, Trịnh Sâm nhà Lê thắt cổ giết Thái tử nhà Lê là Duy Vỹ. Bấy giờ Sâm chuyên quyền, tác oai tác Phước. Duy Vỹ căm nỗi nhà Lê mất quyền, khảng khái có ý muốn tự lập. Sâm rất ghét, liều thêu dệt nên tội rồi thắt cổ giết.

Lấy Cai đội dinh Phú Yên là Nguyễn Vân làm Trấn thủ dinh Bình Khang.

Núi Thạch Bi ở Phú Yên bị sét đánh, đá đen ở núi đều hóa ra trắng cả, xa trông như bia đá dựng đứng, sắc như tro trắng. Chúa sai quan làm lễ đảo.

Nhâm thìn, năm thứ 7 [1772], mùa xuân, tháng giêng, sai Chưởng cơ Tôn Thất Văn (con thứ 3 Thế tông) làm duyệt tuyển ở phủ Quy Nhơn.

Tháng 2, chúa cho rằng Điều khiển Gia Định giữ quân không đến cứu viện nên thành Hà Tiên bị hãm, bèn giáng Nguyễn Cửu Khôi [có sự nhầm lẫn của sử gia triều Nguyễn, ông này là Tống Văn Khôi (xem ghi chú của Đại Nam Liệt Truyện)] làm Cai đội và triệu Nguyễn Thừa Mân về.

Sai Chưởng cơ Nguyễn Cửu Đàm (con Nguyễn Cửu Vân) làm Khâm sai chánh thống suất đốc chiến, Cai bạ dinh Quảng Nam là Trần Phước Thành làm Khâm sai tham tán, lĩnh 10.000 quân thủy và bộ thuộc hai dinh Bình Khang và Bình Thuận và 20 chiếc thuyền chiến để hành việc điều khiển.

Mùa hạ, tháng 6, Nguyễn Cửu Đàm tiến quân theo đường Tiền Giang, cùng với Cai bạ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên lĩnh quan quân đạo Đông Khẩu tiến theo đường Kiên Giang ; Lưu thủ Tống Phước Hiệp theo đường Hậu Giang tiến đóng giữ Châu Đốc để tiếp ứng cho hai cánh quân trên. Bấy giờ Cai đội đạo Đông Khẩu là Nguyễn Hữu Nhân ốm, một mình Khoa Thuyên đem 3.000 quân và 50 thuyền, đánh nhau với quân Xiêm không được, lui về đầm Kiên Giang, rồi dùng người Chân Lạp là Nhẫm Lạch (chức quan) Tối (tên người) làm tiên phong, tiến đến Nam Vang đánh phá được quân Xiêm. Vua Xiêm chạy sang Hà Tiên. Nặc Nộn chạy đến Cầu Vọt [Quân ta] bèn thu phục các phủ Nam Vang, La Bích. Nặc Tôn trở về nước. Chân Lạp được dẹp yên. Đàm thu quân về dinh, đắp lũy Tân Hoa kéo dài 15 dặm bao quanh đồn dinh, chắn ngang đường bộ đề phòng bất trắc.

Vua Xiêm đến Hà Tiên, gởi thư cầu hòa với Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ từ chối. Vua Xiêm bèn ủy Trần Liên giữ Hà Tiên, tự mình đem quân đi bắt con trai con gái Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về, rồi giết Chiêu Thúy.

Sai quan biên thần Gia Định lập đạo Trường Đồn (nay là tỉnh Định Tường) ở xứ Mỹ Tho, đặt Cai cơ và Thư ký để làm việc. Lấy Hàn lâm viện Trần Đình Hiến (con Trần Đình Hý) làm Ký lục dinh Quảng Nam.

Quý tỵ, năm thứ 8 [1773], mùa xuân, tháng 2, chúa mật sai Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm mượn tiếng giảng hòa để dò thăm tình hình động tĩnh. Thiền Tứ cho xá nhân là Mạc Tú đưa thư và đồ lễ sang Xiêm. Vua Xiêm rất mừng, đưa trả những con trai con gái đã bắt và triệu Trần Liên về. Bấy giờ thành lũy nhà cửa ở Hà Tiên đã bị quân Xiêm tàn phá hầu hết, Thiên Tứ bèn lưu lại Trấn Giang, sai con là Hoàng về trấn trước để sửa sang.

Giặc Tây Sơn là Nguyễn Văn Nhạc nổi loạn, giữ thành Quy Nhơn. Nhạc là người thôn Tây Sơn, huyện Phù Ly (nay là Phù Cát) phủ Quy Nhơn, trước làm biện lại, tiêu mất thuế tuần, bèn cùng mưu với em là Lữ và Huệ vào núi dựa thế hiểm làm giặc, bè đảng ngày một đông, địa phương không thể ngăn giữ được. Đến đây đem đồ đảng đánh úp phủ Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ chạy. Nhạc bèn chiếm giữ lấy thành, thả tù ra, lùa dân làm binh, dựng cờ hiệu Tây Sơn và cho bè đảng chia nhau đi cướp bóc. Trăm họ náo động. Việc báo lên. Chúa sai bọn Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống (con Nguyễn Cửu Thông, lấy công chúa Ngọc Huyên), Nguyễn Cửu Sách (con Nguyễn Cửu Pháp, lấy công chúa Ngọc Anh), Cai cơ Phan Tiến, Cai đội Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ Văn Hoảng đem quân đi đánh không được. Sùng và Hoảng đều chết ở trận. Bấy giờ bình tĩnh đã lâu, tướng sĩ không quen trận mạc, khi phải đi đánh, phần nhiều thác cớ cầu miễn. Trương Phước Loan thì lại ăn hối lộ mà sai thay người khác, mọi người đều căm oán, ra trận là chạy ngay. Do đó thế giặc càng thịnh. Bọn lái buôn người Thanh là Tập Đình và Lý Tài (không rõ họ) đều hưởng ứng, Nhạc kết nạp họ để giúp mình. Tập Đình xưng là Trung nghĩa quân, Lý Tài xưng là Hòa nghĩa quân. [Nhạc] lại lấy những người thổ dân cao lớn, cho cạo đầu bím tóc, cải trang làm người Thanh, khi đánh thì uống rượu say, cởi trần, mình đeo giấy vàng bạc mà xông trận để tỏ ra là liều chết, quân ta không ai đương được.

Mùa hạ, tháng 6, Trương Phước Loan giết Chưởng cơ Tôn Thất Văn. Bấy giờ tôn thất đại thần nhiều người oán Loan, muốn hại, mật sai Hàn lâm Ngô Đình Thứ và Tri phủ Trần Giai dùng trộm ấn của Loan, làm mạo bức thư Loan thông với ngụy Nhạc, rồi bỏ ở đường. Tham mưu Tá (không rõ họ) bắt được, đem cáo với Văn. Văn nói với chúa, xin trị tội Loan. Loan cãi việc ấy là vu. Chúa không bắt tội. Loan ngờ bức thư ấy do Tá làm ra, bắt giam rồi giết. Lại vì thế mà oán Văn, giả thư của giặc nói Văn cùng giặc thông mưu, khiến người tố cáo Văn làm phản, xét trị rất gấp. Văn sợ bỏ trốn. Loan sai Cai đội Tôn Thất Hương đuổi bắt được, dìm chết ở phá Tám Giang. Người ta đều cho là oan (năm đầu Gia Long xét Văn có công nuôi nấng [chúa khi còn nhỏ], cho tự điền 30 mẫu).

Mùa đông, tháng 11, Lại bộ kiêm Hình bộ là Nguyễn Hữu Tôn chết, tặng Tham nghị.

Tháng 12, lấy Tôn Thất Hương làm tiết chế, đem nội quân và quân Tam Kỹ tiến đến núi Bích Kê (thuộc tỉnh Bình Định), bị tướng giặc là Tập Đình và Lý Tài phục binh giết chết, dư chúng đều tan vỡ. Giặc bèn giữ phủ Quảng Ngãi. Cai cơ Tôn Thất Bân (con Tôn Thất Tĩnh) chống đánh không được, đem quân về. Nhạc lại sai đồ đảng đánh cướp các phủ Diên Khánh, Bình Khang. Thế là từ Quảng Ngãi trở về Nam cho tới Bình Thuận đều bị giặc chiếm cả.

Cai đội Nguyễn Cửu Dật (con Nguyễn Cửu Pháp) đánh bại lớn quân Tây Sơn ở kho Mỹ Thị. Bấy giờ giặc lấn Quảng Nam, quân ta đánh mãi không lợi. Cửu Dật một mình đem quân sở bộ chống giặc, ban đêm cho dân phu đốt nhiều đuốc ở trong rừng để làm nghi binh, rồi đem quân đánh úp. Giặc cho là đại binh tiến đến, sợ chạy tan cả.

Giáp ngọ, năm thứ 9 [1774], mùa xuân, tháng giêng, sai Chưởng cơ Tôn Thất Thăng (con Tôn Thất Tứ) điều bát các quân đến dinh Quảng Nam đánh giặc. Thăng sợ thế giặc lớn, bỏ quân, luôn đêm chạy về.

Mùa hạ, tháng 4, Lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phước Hiệp và Cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên thống lĩnh tướng sĩ 5 dinh (tướng sĩ 5 dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, do Điều khiển Gia Định Nguyễn Cửu Đàm thống lĩnh, bấy giờ ủy cho Phước Hiệp đốc suất đi đánh giặc) và đưa hịch mộ binh ứng nghĩa các đạo, thủy lục đều tiến, đánh bại quân giặc, thu lại được 3 phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, rồi đóng quân ở Hòn Khói (thuộc tỉnh Khánh Hòa), cùng giặc chống giữ.

Mạc Thiên Tứ ở Trấn Giang nghe tin giặc Tây Sơn nổi loạn, sai thuộc hạ chở một thuyền thóc về kinh để giúp quân lương. Thuyền đến ngoài biển Quy Nhơn thì bị quân giặc đón cướp mất.

Sai Nội hữu chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm đem đại binh vào Quảng Nam, thu thập quân sót lại của các đạo để đánh giặc.

Thủ tướng Nghệ An của Trịnh là Bùi Thế Đạt dò biết Quảng Nam có loạn, báo cáo với Trịnh. Trịnh Sâm bèn bàn việc lấn miền Nam (có thuyết nói Tôn Thất Văn, con Tôn Thất Dục, oán Trương Phước Loan, lẩn ra Bắc, mách bảo việc nước [ta]. Trịnh Sâm biết nước ta trong có quyền thần, ngoài có giặc Tây Sơn, bèn quyết ý cử binh).

Tháng 5, Trịnh đem đại quân đến lấn. Sai tướng là Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng, Bùi Thế Đạt làm phó tướng, lĩnh tướng sĩ 23 dinh và binh thủy bộ các đạo Thanh Nghệ và Đông Nam, tiến đến Nghệ An để xếp đặt việc quân; bọn Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể đều thuộc quyền. Phước tiến binh đến Hà Trung, đưa thư nói lấy danh nghĩa vì thân thích nhiều đời có công nên đem quân giúp để diệt giặc. Chúa biết là dối, sai viết thư đáp lại, rồi sai Tống Hữu Trường làm Thống suất đạo Lưu Đồn, Tôn Thất Tiệp làm Trấn thủ dinh Bố Chính để chống quân Trịnh.

Mùa thu, tháng 7, chúa thấy thế quân Tây Sơn mạnh tợn, sai Chưởng dinh Tôn Thất Cảnh (con thứ 7 của Thế tông, bấy giờ gọi là Quận công) quyền coi việc nước, để ngự giá thân chinh. Thuyền đóng ở cửa biển Tư Dung. Sai Trương Phước Loan luyện quân ở núi Quy Sơn.

Tháng 8, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tháng 9, quân Trịnh đến châu Bắc Bố Chính. Tri phủ Trần Giai chạy sang quân Hoàng Ngũ Phúc làm hướng đạo. Phước sai Giai coi quân hậu đạo (Giai sau bị quân Tây Sơn bắt được, kể tội rồi giết), và sai thuộc hạ là Nguyễn Ngô Dao đóng trại ở xã Đại Đan để phô trương thanh thế. Thư ngoài biên cáo cấp. Chúa triệu Tôn Thất Nghiễm hộ giá về kinh thành và sai Nguyễn Cửu Dật làm Tả quân đại đô đốc (bấy giờ gọi là Du quận công) lĩnh quân thủy bộ ở lại chống cự quân Tây Sơn. Cửu Dật làm tướng, liệu thế địch mà tìm cách chế thắng, hơn mười trận đánh đều được. Quân giặc rất sợ.

Mùa đông, tháng 10, Thuận Hóa bị đói to, mỗi lẻ gạo trị giá một tiền, ngoài đường có xác chết đói, người nhà có khi ăn thịt nhau.

Quân Trịnh qua sông Gianh. Chúa sai Cai đội Quý Lộc (không rõ họ), Câu kê Kiêm Long (không rõ họ) đến khao quân Hoàng Ngũ Phúc và nói: Giặc cỏ Tây Sơn tất phải tự chết, không phải nhọc đến quân Trịnh. Khi bọn Kiêm Long đến, Phước sai người hỏi riêng. Kiêm Long nói: "Đường không đi không đến, chuông chẳng gõ chẳng kêu". Phước hiểu ý, bèn tiến quân đến dinh Bố Chính. Trấn thủ Tôn Thất Tiệp và Ký lục Bảo Quang (không rõ họ) lùi giữ lũy Đồng Hồi. Phước sai biệt tướng là Hoàng Đình Thể tiến sát lũy Trấn Ninh. Bọn mã quân là Hoàng Văn Bật, Lê Thập Thí tự làm nội ứng ra mở cửa thành. Quân Trịnh dóng trống reo hò tiến vào. Thủ tướng là bọn Luận Chính, Thành Tính (hai người đều không rõ họ) đều hàng. Quân Trịnh tiến giữ dinh Quảng Bình. Trấn thủ Liêm Chính (không rõ họ) cùng Tôn Thất Tiệp đều trốn chạy.

Tháng 11, Trịnh Sâm tự đem thủy quân vào Nghệ An, đóng ở dinh Hà Trung để xa làm thanh viện cho quân Hoàng Ngũ Phúc. Phúc đến đạo Lưu Đồn, Thống suất Tống Hữu Trường cùng trốn chạy. Phước tiến đóng ở Hồ Xá, truyền hịch nói rằng Trương Phước Loan che lấp tai mắt thiên hạ, hà ngược trăm họ, lần này cất quân chỉ là để trừ một tên Loan, thực không có ý xâm đoạt. Lời hịch đại lược rằng: Tả tướng Trương Phước Loan khí cục nhỏ hẹp như cái thưng cái đấu, tâm địa gian tà như quỷ như ma. Vin bán khuê khổn tình thân, trộm lấy triều đình trọng chức. Tin dùng kẻ gian nịnh, hãm hại người trung lương. Ly gián người cũ người thân, chuyên kế gây bè lập đảng. Chiêu nạp thêm vây thêm cánh, tự tính mưu lợi riêng mình. Giết người nọ lập người kia, nguy hiểm như lang sói bên cạnh nách ; thẳng tay làm khổ trăm họ, vẻ mũ xiêm mà hóa giống chim muông. Nặng thuế khóa nặn máu mủ dân; bớt lương quân để cắt nanh vuốt. Chính sự cấp bách như lông mày bị đốt; hình phạt nặng nề nhường con mắt bị đâm. Chuốc oán với dân, gây ra mối loạn. Đến nỗi Tây Sơn là bọn dân hèn, tụ tập như đàn ong lũ kiến, chiếm đất Quảng Nam màu mỡ, nhanh chóng như lợn sổ lang rông. Quạt lửa giặc bùng ngất trời, khiến dân biên lầm bùn đất. Vậy nay, nhân dân chúng đương mong sống lại, kéo đội quân đương sẵn sức hăng. Trước trừ đứa cường thần, sau dẹp phường nghịch tặc. Diệt kẻ tàn bạo, để giúp nạn họ hàng; nối mối giữ giềng, để bảo tồn dòng dõi. Giúp nạn thực do nghĩa cử, không phải lòng tham thừa nguy". Bọn Tôn Thất Huống, Nguyễn Cửu Pháp nhân thế cùng nhau bắt Loan đưa nộp cho quân Phước và giam đồng đảng là Hộ bộ Thái Sinh vào ngục. (Sau Thái Sinh chết). Phước được Loan rất mừng, ngả cờ im trống mà đi. Đến Đăng Xương, có người học trò là Trần Duy Trung đem bài thơ đến yết kiến Phước và nói rằng quân ta không quen đánh bộ, chỉ giỏi thủy chiến, quân Trịnh ở xa đến đừng nên tranh đấu về món sở trường ấy. Phước khen nói phải, lưu lại trong quân, cho làm chức Câu kê. Phước lại gửi thư nói rằng giặc Tây Sơn chưa trừ được, xin họp quân ở Phú Xuân để tiện sách ứng.

Chúa không tin, sai Tôn Thất Hiệp làm Thống binh và Thuộc nội cai đội Đặng (không rõ họ) quản quân cấm vệ để chống giữ ; rồi sai Cai đội Tuyên Chính (không rõ họ), Tham mưu Thành Đức (không rõ họ) trá hàng để dụ quân Trịnh. Lại sai Cai đội Phẩm Bình (không rõ họ) đi dụ hào mục ở các dinh Quảng Bình, Bố Chính hưởng ứng việc nghĩa, chia đóng đồn để quấy rối sau lưng địch. Thế rồi, Phẩm Bình bị quân Trịnh bắt được, Tôn Thất Tiệp lại bị biệt tướng của Trịnh là bọn Nguyễn Tiến Khoan, Hoàng Phùng Cơ đánh thua. Quân của Đặng thì không đánh mà cũng tự vỡ. Quân Trịnh tiến đóng ở Bái Đáp.

Chúa sai Tôn Thất Chí (con thứ 6 của Thế tông) tiết chế bộ binh, Tôn Thất Doanh tiết chế thủy binh, Nguyễn Đăng Trường tham tán quân cơ (bấy giờ gọi là Tỉnh Điệp hầu) lãnh 20 chiếc thuyền đi biển, chia đường chống đánh, nhưng không được.

Chúa vời Tôn Thất Chí về. Sai Nội tả chưởng dinh Nguyễn Văn Chính (bấy giờ gọi là Quận công) điều bát các dinh thủy bộ. Văn Chính đến quân thứ, hỏi tội Cai đội Đặng về việc rút lui, lập tức đem chém để cảnh cáo mọi người. Bấy giờ lòng người trong nước đều oán Trương Phước Loan chuyên quyền, mà bao nhiêu tướng giỏi quân mạnh các dinh thì đã điều vào Quảng Nam đánh giặc cả, từ sông Hiền Sĩ trở ra, binh tướng toàn là già yếu, không quen đánh trận, cho nên khi quân Trịnh đến thì chẳng ai chống giữ. Chỉ một mình Nguyễn Văn Chính đem quân sở bộ ra chống đánh, binh uy có hơi phấn chấn. Hoàng Ngũ Phúc cũng đã e sợ. Nhưng Văn Chính không biết mưu lược cầm quân, chỉ uống rượu nói suông, ngoài ra không có kế đánh giữ gì cả, rốt cuộc cũng thất bại.

Tháng 12, Hoàng Ngũ Phúc sai tướng là bọn Hoàng Đình Thể, Hoàng Nghĩa Phác theo đường núi qua thác Trầm Ma. Đồn thủ là Tường Quan và Doãn Đức (hai người đều không rõ họ) đều thua chết. Quân Trịnh bắc cầu phao qua sông, thừa lúc quân ta không phòng bị, trước sau giáp đánh. Nguyễn Văn Chính chết, các quân đều tan vỡ.

Ngày Đinh mùi, quân Trịnh phạm đô thành ta.

Chúa sai Tham mưu Trung dinh là Tống Phước Đạm đem hết số quân còn lại ra cửa bắc chống giữ và sai các đội trưởng Tả thủy, Trung thủy, Tiền thủy là Nguyễn Cốc, Vũ Di Nguy, Trương Phước Dĩnh chỉnh bị thuyền ghe để đợi. Sai hoàng tôn là Dương (con thế tử Hiệu) đi trước qua cửa

Hai Vân.

Ngày Mậu thân, chúa đi Quảng Nam, thuyền qua cửa Tư Dung. Hoàng Ngũ Phúc bèn chiếm giữ Thuận Hóa.

Tiền Biên

Quyển XII

Tiền biên - Quyển XII

Thực lục về Duệ tông Hiếu định hoàng đế (hạ)

ất mùi, năm thứ 10 [1775] (Lê ? Cảnh Hưng năm 36, Thanh ??Càn Long năm 40), mùa xuân, tháng giêng, chúa dừng chân ở Giá Tân [Bến Giá] (thuộc tỉnh Quảng Nam), triệu Tả quân Nguyễn Cửu Dật đến hành tại. Cửu Dật cùng bọn tụng quan là Ngoại tả Tôn Thất Tĩnh (con Tôn Thất Tứ, bấy giờ gọi là Quận công), Chưởng dinh Tôn Thất Kính, Chưởng cơ Tôn Thất Chí, Nội đội trưởng Nguyễn Cửu Thận (con Nguyễn Cửu Pháp) và Đỗ Thanh Nhân, Đội trưởng Trương Phước Dĩnh, dâng lời rằng: "Hoàng tôn Dương vốn có đức hiền, trong ngoài đều trông mong, xin sớm đặt làm trừ nhị để mưu đồ cuộc khôi phục". Chúa bèn lập hoàng tôn Dương làm thế tử, gọi là Đông cung, cho Trấn phủ Quảng Nam, tổng lý các công việc trong ngoài, và sai các tướng kiểm duyệt quân thủy bộ làm kế tiến thủ. Chúa ở được vài ngày thì giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc sai Tập Đình và Lý Tài đem thủy binh ra cửa biển Hiệp Hòa (tức cửa Đại áp ngày nay), bộ binh của Nhạc thì theo ven núi ra sông Thu Bồn, hai đạo đánh đến. Nguyễn Cửu Dật đánh không lợi, chạy ra Trà Sơn. Đông cung lùi về Cu Đê (tên đất). Chúa đi Liên Chử (tên đất), sai quan hầu truyền bảo Đông cung rằng : "Hiện nay đằng trước có giặc Tây Sơn, đằng sau có quân họ Trịnh, mà số quân tinh giỏi của ta không đầy một nghìn, lương thảo thiếu thốn. Vả lại Cu Đê là đất hẹp hòi, quân cô thế không có cứu viện, mà cho quân ở Gia Định thì đã lâu không tin tức gì. Đã nghị cho Nguyễn Cửu Thận là Hữu quân đại đô đốc cùng ngươi lưu giữ nơi này, còn Nguyễn Cửu Dật thì chỉnh bị chiến thuyền hộ giá đi Gia Định, thu quân về đánh Phú Yên, Quy Nhơn để chia thế giặc. Quân Cu Đê sẽ nhân đó mà hợp sức tiến đánh. Đó là cái kế đánh xa để cứu gần vậy". Đông cung vâng mệnh ở lại Cu Đê, Tôn Thất Tĩnh, Tôn Thất Chí và Tống Phước Đạm đều thuộc về.

Tháng 2, Trịnh Sâm từ Hà Trung trở về, sai Hoàng Ngũ Phúc đem quân lấn Quảng Nam.

Ngày Canh dần, thuyền chúa đi biển, gặp gió to, thuyền đi theo của Tôn Thất Kính và Nguyễn Cửu Dật đều đắm mất. Bấy giờ Thế tổ Cao hoàng đế (14 tuổi) cùng chúa ngồi một thuyền, chỉ thuyền này không việc gì. Đến Bình Khang thì bọn Tống Phước Hiệp, Nguyễn Khoa Thuyên tự Yên Cương [Hòn Khói] đến nghinh giá.

Chúa tức thì cho Phước Hiệp làm Tiết chế Kính quận công. Khoa Thuyên làm Tham chính. Bộ thuộc và quân ứng nghĩa là bọn Nguyễn Văn Nhân đều được trao chức cai đội, đội trưởng. Khoa Thuyên cùng Chưởng cơ Trương Phước Thận theo giá vào Nam. (Nguyễn Cửu Dật, năm Minh Mệnh thứ 21 [1840] được phong Thăng Hoa quận công, tòng tự ở Thái miếu, năm Thiệu Trị thứ 1 [1841] cải phong Thăng Bình quận công).

Ngày Nhâm dần, thuyền chúa đến Gia Định. Chúa dừng đóng ở Bến Nghé (tỉnh lỵ Gia Định). Mạc Thiên Tứ đem các con tới hành tại bái yết. Chúa khen và ủy lạo, gia thăng làm Đô đốc quận công, cho con là Hoàng làm Chưởng cơ, Thảng làm Cai cơ Thắng thủy, Diên làm Tham tướng Cai cơ, khiến đều về đạo Trấn Giang đóng giữ.

Đông cung đóng ở Cu Đê, Nguyễn Văn Nhạc mưu muốn đón rước Đông cung lập làm vua để mượn tiếng mà đánh lừa dân chúng, bèn sai người đảng là thống suất Diện, tiên phong chính thống bộ là Tường (đều không rõ họ) đem 2.000 quân đóng đồn ở Thúy Loan và Bồ Bản (tên đất thuộc tỉnh Quảng Nam) làm thượng đạo, Tập Đình và Lý Tài đem 2.000 quân đóng đồn ở Ba Độ (tên đất) làm trung đạo, đốc chiến Phong, hổ tướng Hãn (đều không rõ họ) đem 2.000 quân đóng ở Hà Thân (tên đất) làm hạ đạo, hẹn ai rước được Đông cung thì có trọng thưởng. Đông cung biết tin, sai mưu sĩ là Giáo Quý (không rõ họ) đến nói với tướng giặc thượng đạo là Diện và Tường rằng : "Tây Sơn dẫu một thời gian hung hăng, nhưng phía bắc có quân Trịnh, phía nam có đại binh Gia Định, trước mặt sau lưng đều bị địch, khó giữ lâu được, bọn ngươi nếu không sớm biết thời cơ, sau này không khỏi là bè đảng giặc. Chi bằng tránh chỗ tối, hướng chỗ sáng, theo ta vào Nam, ước hẹn với quân Gia Định cùng mưu đồ khôi phục, để công danh ghi sử sách, há chẳng hay ư". Bọn Diện, Tường đều vâng mệnh.

Mùa hạ, tháng 4, Đông cung do đường núi mà đi, nhân dân đi theo đông. Tập Đình và Lý Tài đem binh đuổi theo đến Ô Da, đánh phá được bọn Diện, Tường, ép mang Đông cung về phố Hội An. Tập Đình nhiều lần muốn hại, Lý Tài khuyên mãi mới thôi.

Quân của tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc qua cửa Hải Vân. Nguyễn Văn Nhạc sai đảng là Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, đón đánh ở Cẩm Sa (tên đất thuộc tỉnh Quảng Nam). Thuộc tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đem quân khinh kỵ xông vào giết quân Tập Đình rất nhiều. Nhạc và Lý Tài chạy về Bản Tân [Bến Ván] (chỗ giáp giới Quảng Nam, Quảng Ngãi), cùng mưu giết Tập Đình. Tập Đình chạy sang Quảng Đông (sau bị tổng đốc tỉnh này giết). Nhạc bèn đón Đông cung về Quy Nhơn. Phước thì đóng quân ở Quảng Nam.

Tháng 5, Tống Phước Hiệp tiến lấy được Phú Yên, quân bộ đóng ở Xuân Đài, quân thủy đóng ở Lấm úc [Vũng Lấm] (Xuân Đài, Vũng Lấm đều thuộc Phú Yên), sai Tri huyện Đồng Xuân là Bạch Doãn Triều cùng Cai đội Thạc (không biết họ) ra lệnh cho giặc rằng: "Trả Đông cung ta, nếu không thì đại binh sẽ đến, không còn đường chạy". Nhạc cả sợ, giả cách nhận lời. Bọn Doãn Triều về, Nhạc đem hết của báu cất dấu trên núi Tây Sơn, rồi dời Đông cung đến Hà Liêu, An Thái để tránh.

Có hai người ở Hải Lăng tên là Lâm và Mộc (cả hai đều không rõ họ, có thuyết là tên Chu và Mỹ) tự xưng là người tôn thất, họp quân ở các huyện Cam Lộ, Hải Lăng, Đăng Xương, Minh Linh, hào mục nhiều người theo. Trịnh Sâm sai Phạm Huy Đĩnh đóng ở Dinh Cát, cùng với Bùi Thế Đạt họp quân bắt được, giết Lâm và Mộc cùng đồ đảng vài trăm người.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc từ trận thua ở Cẩm Sa, bè đảng nhiều người ly tán. Kịp nghe quân Tống Phước Hiệp đến, Nhạc cả sợ, bèn sai thuộc hạ là bọn Phan Văn Tuế đem vàng bạc đến quân Hoàng Ngũ Phúc xin hàng, cầu làm quân tiền khu. Phước nhận cho, và cho Nhạc làm Tây Sơn trưởng hiệu Tráng biết tướng quân, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc ấn cờ kiếm trao cho. Nhạc lại mưu lập Đông cung để thu lòng dân, bèn rước Đông cung về đất Bông Giang, đem con gái là Thọ Hương gả cho. Nhiều lần xin Đông cung lên ngôi vương, Đông cung không nhận. Nhạc bèn sai quan hầu của Đông cung là Tôn Thất Tĩnh đi Quảng Ngãi phủ dụ quân dân, giao kết với các sách man [Mọi], lại sai Tôn Thất Chí vào Phú Yên lấy cái ý tôn lập Đông cung để cùng giúp xã tắc dụ Tống Phước Hiệp. Sau khi đi được vài tháng, Chí nghe tin Tĩnh bị giặc giết, bèn vào Gia Định không trở về nữa.

Mùa thu, tháng 7, Tống Phước Hiệp đánh giặc ở Phú Yên, bị thua. Bấy giờ Nguyễn Văn Nhạc sai người đến xin hàng. Phước Hiệp tin lời, không phòng bị. Nhạc sai Nguyễn Văn Huệ đánh úp phá được. Cai đội Nguyễn Văn Hiền cố sức đánh, bị chết ở trận. Huệ bắt được Cai cơ Nguyễn Khoa Kiên (con Khoa Thuyên) đem về, và lưu Lý Tài đóng ở Phú Yên. Phước Hiệp lui giữ Hòn Khói. Chưởng cơ Tống Phước Hòa giữ Ô Cam (tên đất).

Hoàng Ngũ Phúc tiến đóng ở Châu ổ (đầu địa giới Quảng Ngãi). Nguyễn Văn Nhạc lấy công Huệ đánh phá được Phú Yên xin với Phúc cho Huệ làm Tây Sơn hiệu tiền phong tướng quân. Gặp có bệnh dịch, quân Trịnh chết già nửa. Vì vậy Phúc bí mật định kế hồi binh. Văn thân của Trịnh là bọn Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Lệnh Tân đều muốn lưu quân ở Quảng Nam, đặt quan trấn thủ. Phước không nghe, kíp gửi thư cho Trịnh xin đem quân về Thuận Hóa, bỏ đất hai phủ Thăng [Hoa] và Điện [Bàn] để bước sau sẽ tính. Sâm y cho.

Mùa đông, tháng 10, Hoàng Ngũ Phúc dẫn quân về Phú Xuân. Sau bị bệnh, trở về [Bắc], chết ở giữa đường. Trịnh Sâm ủy cho Bùi Thế Đạt và Nguyễn Đình Đống lưu giữ Phú Xuân và cho bọn Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Điển, Nguyễn Lệnh Tân giúp việc.

Tháng 11, Tôn Thất Quyền (con thứ 14 của Thế tông) và Tôn Thất Xuân (con thứ 17 của Thế tông) dấy binh ở Quảng Nam, do Trương Phước Tá làm mưu chủ, lại được khách buôn người Thanh tên là Tất đem của riêng giúp cho hàng ức vạn, quân thế rất mạnh, đóng giữ hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Nguyễn Văn Nhạc muốn dùng Nguyễn Khoa Kiên làm tướng để chống cự, nhưng Khoa Kiên không chịu, lấy gươm tự tử. Nhạc bèn đem hết quân ra để chống đánh, giữ nhau hơn 2 tháng. Gặp phải năm đói, quân của Quyền thiếu lương, Nhạc thừa thế đánh tan. Quyền không biết kết cục ra sao, còn Xuân thì chạy về Gia Định. Nhạc lưu tham tướng giặc là Nguyễn Văn Duệ giữ Quảng Nam, rồi tự dẫn quân về Quy Nhơn.

Chu Văn Tiếp đem quân về theo. Chu Văn Tiếp người huyện Đồng Xuân phủ Phú Yên, dũng cảm, có tài lược, đầu thì họp quân ở Trà Lang hơn 1.000 người, nghe giặc Tây Sơn đã lập Đông cung, đã muốn đi theo. Sau thấy quân giặc tàn bạo, bèn quyết ý quy thuận. Tống Phước Hiệp đem việc báo lên. Chúa sai đem quân bản bộ đóng giữ thượng đạo, để làm thanh ứng với quân 5 dinh. Do đó, quân thế dần dần lại mạnh lên. Tướng giặc là Lý Tài đem đất Phú Yên đầu hàng. Đầu là Nguyễn Văn Nhạc muốn nhờ Lý Tài làm chỗ tựa, kịp lúc đắc chí đối đãi dần dần bạc bẽo, Lý Tài bèn có ý quay về giúp ta. Khi Tôn Thất Chí bỏ Quy Nhơn, Lý Tài đã có mật ước. Đến đây, nhân giữ Phú Yên, bèn đem hết binh mã sở thuộc đến quân của Tống Phước Hiệp đầu hàng. Việc báo lên, chúa bằng lòng nhận, cho theo quyền tiết chế của Phước Hiệp.

Tống Phước Hiệp giết tướng giặc tên là Nghĩa (không rõ họ) và đồ đảng 50 người. Nghĩa là tiền khu của giặc trong trận Phú Yên, làm tổn hại quân ta nhiều. Phước Hiệp rất lấy làm giận, nay nhân Tôn Thất Chí dụ được Nghĩa về hàng, bèn đem giết.

Sai Tham tán Trần Văn Thức đem quân giữ Phú Yên, cùng quân Tống Phước Hiệp làm thế dựa nhau để chống giặc.

Lấy Bùi Hữu Lễ làm Ký lục dinh Long Hồ.

Bính thân, năm 11 [1776], mùa xuân, tháng 2, Trịnh Sâm sai bề tôi là Lê Quý Đôn làm Tham thị Thuận Hóa, Nguyễn Mậu Dĩnh làm Phó đốc thị, cùng với Bùi Thế Đạt kinh lý việc quân; lại sai Ngô Phước Oánh làm Lưu thủ đồn Đông Hải, Phan Huy áng làm hiệp đồng.

Nguyễn Văn Nhạc bắt biên tên hết đinh tráng 3 huyện thuộc phủ Quy Nhơn làm binh, sai Nguyễn Văn Lữ làm tiết chế, đem thủy binh vào cướp Gia Định.

Chúa sai Chưởng cơ Tống Phước Hựu hộ giá đến dinh Trấn Biên, dừng chân ở Đồng Lam (nay là Hải Động). Giặc bèn giữ Sài Gòn, sai tướng là Điều khiển Hòa (không rõ họ) đánh vào dinh Long Hồ. Ký lục Bùi Hữu Lễ cự chiến, bị Hòa bắt được. Hữu Lễ mắng giặc không chịu khuất, bị giặc làm thịt ăn.

Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt mở trường đúc tiền, hủy những súng đồng và các đồ đồng nát để đúc tiền Cảnh Hưng thuận bảo hơn 30.000 quan, lại mộ người để khai lấy mỏ vàng ở núi đất Nam Phố, mấy tháng không được vàng, rồi bỏ.

Tháng 3, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc dời Đông cung đến chùa Thập Tháp, đắp thêm thành Trà Bàn, tiếm xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, bị khuyết mãi, ba lần mới thành. Nguyễn Văn Huệ xưng là Long Nhương tướng quân. Các người đảng khác đều được trao cho ngụy chức.

Mùa hạ, tháng 4, Nguyễn Văn Nhạc đánh Thủ tướng của Trịnh là Trương Công Phụng ở Quảng Nam. Phụng đầu thì theo Nhạc, sau bỏ về với Hoàng Ngũ Phúc, Phúc sai coi một cơ quân giữ núi Hải Vân. Bấy giờ, Phụng vượt núi vào Quảng Nam lấy lúa, Nhạc nhân dịp sai đồ đảng đánh. Phụng thua chạy.

Tháng 5, tướng Trịnh là Bùi Thế Đạt khiến các huyện Hương Trà, Phú Vang, Quảng Điền, Đăng Xương, Minh Linh, Hải Lăng, Lệ Thủy, Khang Lộc cùng châu Nam Bố Chính, lược khai số ruộng đất công và tư bỏ hoang và hiện chịu thuế. (8 huyện 1 châu, công tư điền thổ cộng hơn 265.507 mẫu 4 sào, trừ số bỏ hoang ra, hiện số thực nộp thuế là 153.181mẫu 5 sào).

Đỗ Thanh Nhân ở đạo Đông Sơn cả phá giặc Tây Sơn ở Sài Gòn. Bấy giờ giặc Tây Sơn vào cướp, quân ta còn yếu, chúa triệu Tống Phước Hiệp đem quân cứu viện và lưu bọn Trần Văn Thức, Chu Văn Tiếp đóng giữ các đạo Phú Yên, Bình Thuận, lại sai Đỗ Thanh Nhân truyền hịch mộ quân cần vương ở các đạo. Quân Phước Hiệp chưa đến, Thanh Nhân họp nghĩa quân ở Đông Sơn là bọn Nguyễn Hoàng Đức, Trần Búa, Đỗ Hoành, Đỗ Ky,

Vũ Nhàn, Đỗ Bảng là 3.000 người, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, từ Tam Phụ [Ba Giòng] (thuộc tỉnh Định Tường) kéo đến đánh úp Nguyễn Văn Lữ, ba hợp đều thắng, quân giặc chạy tan. Lữ cướp lấy thóc kho hơn 200 thuyền, chạy về Quy Nhơn. Thanh Nhân đánh chiếm lại Sài Gòn, bèn nghinh giá trở về hành tại ở Bến Nghé. Chúa khen công, thăng làm Chưởng dinh ngoại hữu Phương quận công ; các tướng sĩ sở bộ đều được thưởng theo thứ bậc.

Tống Phước Hiệp tự Bình Khang về, đến dinh Trấn Biên, lưu Chưởng cơ Tống Phước Hòa đóng giữ đất ấy, thân đem thuộc tướng là Lý Tài đến hành tại bái yết.

Tháng 6, Tiết chế Tống Phước Hiệp chết. Phước Hiệp là người khảng khái, có tài lược, lấy việc đánh giặc làm nhiệm vụ của mình, đương

thời xem là chỗ dựa quan trọng. Chúa thương tiếc mãi, tặng Hữu phủ

quốc công.

Hàng tướng là Lý Tài giữ núi Chiêu Thái (thuộc tỉnh Biên Hòa) để làm phản. Trước là Lý Tài theo Tống Phước Hiệp vào cứu viện, chúa muốn thu dùng, Thanh Nhân nói Lý Tài là đồ chó lợn, dùng không ích gì. Bởi thế Lý Tài và Thanh Nhân hiềm khích nhau. Đến khi Phước Hiệp chết, Lý Tài lòng càng lấy làm nguy sợ, bèn đem quân bản bộ giữ núi Chiêu Thái. Thanh Nhân đánh không được, đắp lũy ở Bến Nghé và Nghi Giang [sông Thị Nghè] để giữ.

Mùa thu, tháng 7, Trịnh Sâm ra lệnh cho nhân dân Thuận Hóa phải đổi quần áo theo tục cũ Bắc Hà. Thuộc hạ xuống làng dọa nạt quấy nhiễu, trăm họ lấy làm khổ.

Tháng 8, Trịnh Sâm vời bọn Bùi Thế Đạt, Lê Quý Đôn, Phan Trọng Phiên về. Quân cơ đội 13 hiệu cũng đều rút về cả. Sai Phạm Ngô Cầu thay giữ Phú Xuân và lưu bọn Nguyễn Lệnh Tân, Nguyễn Mậu Dĩnh để giúp việc. Đổi phái cơ hiệu đội 10 doanh đến đóng giữ.

Mùa đông, tháng 10, Đông cung đến Sài Gòn. Trong khi Đông cung đóng ở Quy Nhơn, mật bàn với gia thần rằng : "Tây Sơn mượn tiếng ta để đánh lừa dân chúng, nếu ta cứ tạm bợ cầu yên ở đây, năm dinh với các đạo nghĩa binh thấy có ta ở đây thì ném chuột sợ vỡ đồ, không dám đánh mạnh, bao giờ mới trừ được giặc nước, phục được nghiệp cũ? Chi bằng quyết kế bỏ đi, ra khỏi vòng lung lạc, để mưu đồ việc lớn". Khi ấy có người chủ thuyền tên là Tiến đậu thuyền ở Hổ Ky (cửa biển Thị Nại). Đông cung ngầm sai bọn mưu sĩ Quý ra ước hẹn sắp sẵn thuyền để chờ. Ngày Quý mão, Đông cung cùng với Trương Phước Dĩnh và bọn mưu sĩ Quý ban đêm đi thuyền. Người lái thuyền nói : "Gió ngược đi làm sao?". Đông cung nói : "Cứ đi thì rồi gió thuận". Khi thuyền đi, quả nhiên gió thuận, thuyền đi như tên. Ngày ất tỵ, thuyền đến hải phận Vị Nê (thuộc tỉnh Bình Thuận) thì Tôn Thất Xuân từ Quảng Nam đi thuyền vừa tới, bèn cùng vượt biển vào Nam. Xuân vào trước tâu chúa. Chúa sai quan ra đón về hành tại. Đông cung xin chúa sai Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đi dụ Lý Tài. Lý Tài lấy làm ngờ, giữ Khoáng ở trong quân, rồi đem hết quân bản bộ xuống thẳng Sài Gòn. Quân của Thanh Nhân thấy, trông bóng mà vỡ chạy. Chúa ra lệnh đưa xa giá lánh đi. Lý Tài chia quân làm bốn đạo, thúc trống tiến lên. Đông cung sai người mở cờ làm hiệu, cờ có sáu chữ: "Đông cung phụng mệnh chiêu an". Quân Lý Tài trông thấy, bỏ súng lạy rạp, tiếng hoan hô như sấm, rồi rước Đông cung về Dầu Mít. ở vài ngày, Đông cung sai Nội tả Nguyễn Mẫn đi Sài Gòn úy dụ quan quân, chiêu an dân chúng.

Quân ta đi đánh Chân Lạp về.

Bấy giờ nước Chân Lạp khổ vì quân Xiêm cướp phá, trong nước túng thiếu. Nặc Tôn nhường ngôi cho em là Nặc Vinh làm vua chính mà tự mình làm vua thứ hai. Nặc Vinh nhận thấy nước ta hữu sự, không nộp cống. Thế tổ((1) Nguyễn ánh, tức Gia Long.1) ta vâng mệnh chúa, đem bọn Phó tiết chế Nguyễn Cửu Tuấn, Chưởng cơ Trương Phước Thuận, cầm quân đi đánh giặc. Nặc Vinh xin hàng.

Tháng 11, ngày Kỷ tỵ, Lý Tài rước Đông cung về Sài Gòn, sai Trương Phước Thận tâu xin ngự giá về chùa Kim Chương (ở ngoài tỉnh thành Gia Định). Lý Tài rước Đông cung đến hành tại làm lễ mừng. Ngày Nhâm thân, chúa đại hội các quan văn võ, nhường ngôi cho Đông cung. Đông cung cho rằng sự thế đương ngặt nghèo, bất đắc dĩ phải vâng mệnh, xưng là Tân Chính vương, tôn chúa làm Thái thượng vương. Rồi thăng Tôn Thất Chí làm Thiếu phó, Tôn Thất Xuân là Chưởng cơ, Lý Tài làm Bảo Giá đại tướng quân. Ngoài ra đều cho thăng trật theo thứ bực. Duy có Đỗ Thanh Nhân cùng với Lý Tài bất hợp, không chịu đến dự hội. [Tân Chính vương] bèn lấy Phạm Công Lý thay [Nhân] làm Ngoại hữu. Lại sai Chưởng cơ Tống Phước Hòa và Thiêm Lộc (không rõ họ) giữ Long Hồ để đề phòng. Bấy giờ Thế tổ ta biết Lý Tài là người kiêu ngạo ngang ngược, khó kiềm chế, nói với chúa xin đi Tam Phụ chiêu phủ miền Đông Sơn để mưu đồ khôi phục. Lý Tài nghe tin, đem quân đón ép chúa đi Dầu Mít. Tân Chính vương không thể ngăn được, bèn khiến Trương Phước Dĩnh theo hộ giá. Ngày hôm sau lại rước giá trở về Sài Gòn.

Đội trưởng võ Di Nguy và Tô Văn Đoài cùng hơn 200 quân sĩ từ Quy Nhơn đến, yết kiến ở hành tại.

Lấy Tống Phước Đạm làm Giám quân, Trần Văn Hòa làm Tham mưu, sai cùng với Đô thống sứ Đặng Văn Phong, Chiêu thảo sứ Nguyễn Văn Đổng (đều là người Quảng Ngãi) lẻn về Quảng Ngãi, chiêu tập nghĩa binh. Bọn Đạm đến Bồ Đề, giặc Tây Sơn dò biết, đánh đuổi chạy.

Đinh dậu, năm thứ 12 [1777], mùa xuân, tháng giêng, Trịnh Sâm cho giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ tuyên úy đại sứ. Bấy giờ Nhạc đã chiếm giữ Quảng Nam, xin trấn đất ấy. Sâm sợ phải dùng binh, bằng lòng cho. Nhạc đắc chí, sắm binh khí, chứa lương thực, thế càng hung dữ. Nguyễn Lệnh Tân muốn sớm trừ Nhạc, nhưng bị Phạm Ngô Cầu ngăn cản, bèn gửi mật thư cho Sâm rằng: "Cầu là người nhút nhát, vô mưu, Thuận Quảng tất mất ở tay Cầu. Xin chém Cầu để cử tướng khác, ngõ hầu Thuận Quảng mới có thể giữ được". Sâm không nghe, rồi triệu Lệnh Tân về.

Trịnh Sâm sai bọn Phạm Ngô Cầu châm chước sửa định ngạch thuế ngạch binh xứ Thuận Hóa, thuế điền giảm 2 phần 10, binh giảm 1 phần 3. Lại mở khoa thi Hương, lấy đỗ hương cống và sinh đồ để thu dùng những người văn học.

Tháng 3, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ đem quân thủy bộ vào cướp. Tân chính vương lưu Lý Tài lại giữ Sài Gòn, rồi tự đem quân tiến đóng ở Trấn Biên. Bộ binh giặc lẻn vào miền thượng đạo, Phó tiết chế Nguyễn Cửu Tuấn, Chưởng Trường đà Nguyễn Đại Lữ đều chết trận. Lý Tài ở Sài Gòn nhiều lần đánh với thủy binh của giặc cũng không lợi. Tân Chính vương họp bàn các tướng. Tham tán Nguyễn Đăng Trường cho rằng quân giặc nhiều quân ta ít, khó mà địch nổi, chi bằng lui về Sài Gòn để tính kế đánh giữ. Vương theo lời, bèn lưu Chưởng cơ Tống Phước Lương đóng ở Trấn Biên rồi dẫn quân về Sài Gòn. Được vài ngày thì quân giặc đến. Vương sai Lý Tài đem Nghĩa Hòa quân ra Hóc Môn (tên đất thuộc Gia Định) cự chiến, chém được tuần sát địch là Tuyên (không rõ họ), quân giặc phải hơi lui. Bấy giờ vừa Trương Phước Thận từ Cần Vọt đem quân đến cứu. Lý Tài xa thấy bóng cờ, ngờ là quân Đông Sơn đến đánh úp mình, tự rút quân về.

Giặc thừa thế đuổi theo. Quân Lý Tài chạy rối loạn đến Tam Phụ, bị quân Đông Sơn giết hết. Tân Chính vương được thêm quân Phước Thận, bèn lui giữ Tranh Giang (thuộc tỉnh Gia Định).

Chúa đến Đăng Giang (thuộc tỉnh Định Tường). Thế tổ ta đem 4.000 quân Đông Sơn đến cứu viện. Chúa bèn dựng cờ Đông Sơn thượng tướng quân rồi đem quân đến Tài Phụ [Giòng Tài](1. Tài Phụ: Giòng Tài, một trong ba giòng. 1) (thuộc tỉnh Gia Định).

Chúa bảo Tân Chính vương rằng: "Phía sau Tranh Giang vương tự đương lấy, phía trước Tài Phụ thì ta cáng đáng", rồi sai các quân quay lưng về phía sông mà bày trận để chờ.

Mùa hạ, tháng 4, quân giặc đánh Tài Phụ. Chúa đi Long Hưng (tên đất thuộc tỉnh Định Tường). Gặp mưa to, giặc đuổi không kịp. Đỗ Thanh Nhân từ Giá Khê dẫn quân lại. Chúa lại đi Cần Thơ (tên đất, tức thủ sở đạo Trấn Giang, Mạc Thiên Tứ từ khi thất thủ Hà Tiên lui đóng ở đấy), hợp quân với Mạc Thiên Tứ. Chúa thấy binh lực của Thiên Tứ ít và yếu, khó chống được giặc, bèn sai Đỗ Thanh Nhân cùng thuộc hạ là Cai đội Nguyễn Quân lẻn đi Bình Thuận gọi Chu Văn Tiếp và Trần Văn Thức vào cứu.

Quân giặc đánh Tranh Giang. Tân Chính vương lùi giữ Trà Tân (tên xã thuộc tỉnh Định Tường). Chưởng cơ Thiêm Lộc đem thủy binh đón đến Ba Việt. Vương sai Tống Phước Hựu giữ Mỹ Lung, Thiêm Lộc giữ Hương Đôi (Ba Việt, Mỹ Lung, Hương Đôi đều là tên đất, thuộc tỉnh Vĩnh Long). Tống Phước Hòa quản lĩnh các quân hộ vệ mặt trận để chống giặc.

Giặc Nguyễn Văn Huệ giữ Sài Gòn, giết tham tán Nguyễn Đăng Trường. Trước kia trong cuộc biến năm Giáp ngọ, Đăng Trường theo xa giá không kịp, bèn mang mẹ đến lánh ở Quy Nhơn. Khi đến thì Tân Chính vương đã vào Gia Định. Huệ gặp, đối đãi như bực khách và thầy. Đăng Trường không chịu, từ đi. Huệ nói rằng: "Tiên sinh đi lần này, ý muốn kéo lại trời đất được chăng? Tôi sợ ngày khác ăn năn không kịp". Đăng Trường nói : "Đại trượng phu ở đời, trung hiếu làm đầu, ta nay dắt mẹ đi tìm vua, điều nghĩa rõ ràng, còn việc cùng thông được mất là mệnh thôi, việc gì mà hối". Huệ khen giỏi cho đi. Đến đây Đăng Trường lại bị Huệ bắt được. Huệ hỏi rằng : "Ngày nay thì tiên sinh thế nào ?" Đăng Trường trả lời : "Ngày nay có chết mà thôi, hà tất phải hỏi". Huệ sai giết. Đăng Trường đến chợ, quay mặt về phương Bắc lạy rồi chịu chết (năm Minh Mệnh thứ 3 tặng Binh bộ thượng thư). Có người võ sĩ tên là Điển Nghệ (không rõ họ) ở dưới quyền Tân Chính vương, trong trận Tranh Giang thất lạc không tìm thấy vương, nay nghe tin Đăng Trường chết, cũng gieo mình xuống giếng chết.

Mùa thu, tháng 7, Tham tán Trần Văn Thức từ Phú Yên vào cứu viện, quân đến Bình Thuận, cùng với giặc đánh nhau không được mà chết. Quân giặc phạm Ba Việt. Thiếu phó Tôn Thất Chí, Nội tả Nguyễn Mẫn, Chưởng cơ Tống Phước Hựu đều bị bệnh chết, độc còn Chưởng cơ Tống Phước Hòa chống nhau với giặc, đánh nhiều trận đều thắng, giặc lấy làm sợ.

Tháng 8, giặc Nguyễn Văn Huệ thêm quân đánh Hương Đôi. Chưởng cơ Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt. Tân Chính vương thấy quân ít lương hết, bàn kế chạy về Bình Thuận cùng Chu Văn Tiếp họp quân, rốt cục không xong. Các tướng đều tản mát. Chưởng cơ Tống Phước Hòa than rằng: "Chúa lo thì tôi phải chết, nghĩa không thể tránh được", rồi tự tử.

Ngày Tân hợi, Tân Chính vương bị hại chết (năm Gia Long thứ 8 [1809] truy tặng làm Mục vương, hợp tự ở miếu Tuyên vương), 18 người quan theo hầu đều bị giặc hại cả.

Chúa đi Long Xuyên.

Tháng 9, giặc Nguyễn Văn Huệ sai Chưởng cơ giặc là Thành (không rõ họ) phạm Long Xuyên.

Ngày Canh thìn, chúa băng. Tôn Thất Đồng (con thứ hai của Hưng tổ) cũng chết theo (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu ; năm Minh Mệnh thứ 12[1831] phong Hải Đông quận vương). Cha con Chưởng cơ Trương Phước Thận, Lưu thủ Lương (không rõ họ) và Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đều chết cả.

Chúa ở ngôi 12 năm, thọ 24 tuổi, không có con nối. Đầu thì táng ở đất huyện Bình Dương. Năm Mậu tuất [1778], năm đầu Thế tổ lên nhiếp chính, truy dâng tôn thụy là Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu định vương ; năm Gia Long thứ 5 [1806] truy tôn làm Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu định hoàng đế, miếu hiệu là Duệ tông ; năm Gia Long thứ 8 [1809] cải táng ở núi La Khê, lăng gọi là Trường Thiệu.

Chính biên

Đệ Nhất kỷ

[Dụ]

Tự Đức năm thứ 1 [1848], tháng 12, ngày 22, nhà vua dụ rằng :

Nay cử bọn Sử quán tổng tài là Cố mệnh lương thần phụ chính đại thần Thái bảo Cần chính điện đại học sĩ lãnh Binh bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần kiêm lý Khâm thiên giám kiêm lãnh Quốc tử giám sự vụ Tuy Thịnh quận công Trương Đăng Quế, Ngự tiền đại thần Thái tử thái bảo Đông các đại học sĩ quản lý Lại bộ sự vụ kiêm quản Quốc tử giám sự vụ, kiêm quân Tào chính ấn vụ Vũ Xuân Cẩn, Thái tử Thiếu bảo hiệp biện đại học sĩ lãnh Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần Hà Duy Phiên, bọn Toản tu là thự Lễ bộ hữu tham tri Đỗ Quang, thự Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ Tô Trân, thự Thiêm sự phủ thiêm sự Phạm Hữu Nghi, thự Hồng lô tự khanh Trần Trứ tâu bày rằng : Kính soạn Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã xong, xin đem khắc in, xem lời tâu rất thỏa lòng. Vả chăng nước có chính sử, là để tỏ rõ thể thống kỷ cương và truyền bảo cho đời sau, từ xưa đế vương dấy lên, sửa sang xây dựng, không có việc nào lớn bằng việc ấy.

Nhà nước ta, vâng chịu mệnh trời, cõi Nam mở nghiệp, thần truyền thánh kế, hơn hai trăm năm, xây nền Thương dấy nghiệp Chu, nguyên lai kế đã xa lắm.

Kính nghĩ Thế tổ Cao hoàng đế, đức so ngang Thang Võ(1. Thang Võ : Thành Thang nhà Thương, Võ Vương nhà Chu.1), mưu lớn hơn Cao Quang(2. Cao Quang : Hán Cao tổ và Hán Quang Vũ. 2), đương buổi trời gây mây sấm, dấn mình trăm trận can qua. Ba thiêng(3. Ba thiêng : Chỉ trời, đất và người.3) giúp sức, mọi chốn theo về ; lấy được cựu kinh, thống nhất

toàn quốc. Nước Chu tuy cũ, đổi mới mệnh trời. Sáng tỏ nền gây dựng của Liệt thánh hoàng đế ; mở rộng dòng chính thống của Đinh, Lý, Trần, Lê. Trải mười tám năm, thiên hạ đã yên, nghỉ ngơi an dưỡng. Những chế độ kỷ cương, nhân nghĩa đạo đức, dùng để dạy bảo người sau, đầy đủ không thiếu; cơ nghiệp lâu dài ức muôn năm của nước nhà là gốc ở đó. Vì cuộc xây dựng gian nan, nên việc mưu tính về sau lại càng xa rộng ; nên quy mô kế hoạch ắt phải lớn lao. Xét trong đế vương từ xưa, đã trung hưng lại kiêm sáng nghiệp, chưa có khó nhọc mà lâu dài, đã tường tất lại đầy đủ đến như thế.

Hoàng tổ ta là Thánh tổ Nhân hoàng đế, ngửa trông công trước, tỏ rõ phép đời, năm Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan soạn sách Liệt thánh thực lục, chia ra từng kỷ, từ Thái tổ Gia dụ hoàng đế đến Hiếu định hoàng đế làm Tiền biên, tỏ rõ nguyên ủy của đức nhà ; từ Thế tổ Cao hoàng đế trung hưng về sau làm Chính biên, để nêu lớn cái nghĩa nhất thống. Cân nhắc thể lệ, quyết định tự ý trên, thật là cách đúng đắn của nghìn xưa, để làm phép cho muôn đời noi theo vậy.

Hoàng khảo ta là Hiến tổ Chương hoàng đế, xa noi lòng hiếu, lo rạng gương xưa, khi mới lên ngôi, rộng tìm sách cũ, đầu mở Sử cục, sai nho thần vào quán biên chép cho có chuyên trách, các tổng tài đại thần qua lại sửa chữa cho chóng thành công. Mấy lần đã soạn dạng bản dâng trình, và kính vâng sửa định càng được tinh tế.

Thiệu Trị năm thứ 4 [1844], sách Liệt thánh thực lục tiền biên hoàn thành. Sai đem khắc in, đóng thành từng quyển, đã đem chứa vào kho sách Hoàng sử rồi. Duy bộ Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã hai ba lần sắc bảo, gia công cứu xét nhuận chính, để đợi in tiếp. Tính từ năm Minh Mệnh thứ 2 cho đến năm Triệu Trị thứ 7, trải 27 năm, mấy lần soạn chép mới được thành biên, nay đã hoàn bị. Nhận thấy thánh nhân lưu ý việc soạn chép sử sách, thực là thận trọng đến thế ! Nay ta đức mỏng gánh chịu nghiệp to, nghĩ công sách nghiệp đã khó khăn, lo việc thủ thành cũng không dễ. Kính nghĩ, bộ sử này trải từ hoàng tổ và hoàng khảo ta trước sau xét định, đối với bao nhiêu mối lớn phép lớn trong sự sáng nghiệp, bao nhiêu công đức thần thánh rất cao rất dày của Thế tổ Cao hoàng đế ta, thực đã rõ như trăng sao, vang lừng trời đất, cần phải khắc in để rạng rỡ mãi mãi, ngõ hầu thỏa chút lòng hiếu thảo của ta. Gần đây bộ Thực lục về Hoàng tổ Thánh tổ Nhân hoàng đế và Hoàng khảo Hiến tổ Chương hoàng đế biên soạn đã xong, lần lượt kính đem khắc in, để vào kho sách, dùng để sáng tỏ thêm những văn mô võ liệt của nước Đại Nam ta tới muôn muôn đời không cùng.

Lần này Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế thành bao nhiêu quyển, nên đem khắc in ; phải do Thái sử chọn ngày tốt, mở cục ở Sử quán để bắt đầu làm, lại giao những viên toản tu kiểm xét nét chữ và khoản thức, cho được thỏa đáng tất cả. Các viên tổng tài đại thần cũng nên gia công kiểm xét, cho chóng xong bộ sử lớn để truyền bá cho đời sau. Còn như

cần dùng vật liệu nhân công bao nhiều, thì do hữu ty kính cẩn ứng biện. Khâm thử.

[Biểu]

Bọn thần phụng sung làm Tổng tài, Phó tổng tài và Toản tu Quốc sử quán kính cẩn tâu rằng:

Vâng soạn bộ sách Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã xong, xin đem khắc in, dùng để sáng tỏ việc lớn. Trộm nghĩ từ xưa những vị đế vương nối trời dựng nước, đời nào cũng có chế tác, đều có sử riêng đời ấy, mà sử thì có chính biên để nêu cái nghĩa lớn nhất thống vậy.

Trời sai chim Huyền điều ứng điềm xuống sinh nhà Thương, từ Tiết về sau, truyền được 13 đời, đến Thành Thang chịu đế mệnh, yên định bốn phương, đó là bắt đầu chính thống của nhà Thương.

Nhà Chu từ Hậu Tắc, Công Lưu, Thái vương, Vương Quý(1. Tên các ông tổ có công gây dựng nhà Chu. 1) siêng năng gây dựng, một nghìn mấy trăm năm, đến đời Văn Vương chịu mệnh trời, mới có võ công ấy ; Võ Vương thay nhà Thương mà có thiên hạ, đó là bắt đầu chính thống của nhà Chu.

Nước Việt Nam ta từ Đinh, Lý, Trần, Lê dấy lên, không triều nào là không có sách ghi chép, nhưng tìm được công lao gây dựng ở trước, sự nghiệp rạng rỡ ở sau, để nối dòng chính thống, so sánh thịnh vượng với nhà Thương nhà Chu, thực chưa có triều nào tốt đẹp bằng triều này. Nhà nước ta chịu mệnh trời cho, Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng nghiệp cõi Nam, thần truyền thánh kế hơn 200 năm, chứa đức chồng nhân kể đã lâu lắm. Từ thuở Tây Sơn nổi loạn, nhà Lê mất ngôi, thì trời mở đường cho thánh nhân dấy lên. Kính nghĩ, Thế tổ Cao hoàng đế ta, ứng mệnh trời thuận lòng người, dẹp tắt mối loạn, xoay lại đường chính, khôi phục kinh cũ, thống nhất nước nhà, dư đồ nhất thống, quy mô rộng xa, vừa trung hưng vừa sáng nghiệp, tỏ công trước để về sau, cơ nghiệp lâu dài hàng ức muôn năm của nước Đại Nam ta gây nền từ đó, đẹp tốt biết chừng nào !

Đến Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, kính noi công trước, cầu kế đức nhà, năm Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan soạn sách Thực lục, khâm định các kỷ, từ Thái tổ Gia dụ hoàng đế đến Duệ tông Hiếu định hoàng đế làm Tiền biên, từ Thế tổ Cao hoàng đế trung hưng về sau làm Chính biên, nghĩa lệ chỉ ý, đều vâng cân nhắc mà chiết trung ; nhưng còn nới cho ngày tháng, khiến còn hỏi rộng tìm xa để cho rõ ràng tín sử, cho nên có chậm cáo thành là bởi cớ ấy. Kịp đến Hiến tổ Chương hoàng đế ta, trọng đạo noi theo, dốc lòng nêu tỏ, năm Thiệu Trị thứ 1, đầu mở Sử cục, đặc mệnh cho bọn thần kính soạn Thực lục tiền biên và chính biên, lại kế soạn Thực lục chính biên về Thánh tổ Nhân hoàng đế, chuẩn định chương trình, đinh ninh sắc bảo, là bởi rất xem trọng công việc mà mong chóng hoàn thành vậy. Bọn thần vâng mệnh, theo thứ tự biên soạn, đến năm Thiệu Trị thứ 4 thì sách Liệt thánh thực lục tiền biên soạn xong, dâng tâu lên, đã chuẩn cho khắc vào bản in, để vào kho sách.

Kính chiếu Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế, nguyên dạng bản gồm 60 quyển. Bọn thần vâng xét sách vở điển cũ ở quán, và chí lục của các địa phương dâng lên, kỹ càng lượm nhặt, có chỗ nào cần bổ thêm hay sửa chữa thì theo khoản mà ghi chép, làm thành dạng bản, kính dâng ngự xem. Đã có sắc xuống rằng : "Bộ sách này trẫm đã kính duyệt, xét trong ấy thứ tự đều đã liên tiếp, sự tích cũng được rõ ràng đầy đủ, duy là tín sử của triều ta thì cần nên khảo cứu kỹ càng chu đáo, trẫm sẽ cho khắc in. Khâm thử !".

Ngửa thấy nhà vua chú ý việc soạn thuật, thận trọng là thế. Bọn thần kính cẩn hết lòng nghiên cứu, có khoản nào nên nhuận đính cũng đã bổ thêm mà tiếp tục dâng lên.

Lại nghĩ khi mới gây dựng, võ công đánh dẹp, trong khoảng 23 năm, từ thuở đất một thành(1. Đất vuông 10 dặm là một thành.1) quân một lữ(2. Quân có 500 người là một lữ. 2), cho đến lúc có cả thiên hạ, các bậc đế vương thời xưa, dựng nghiệp trung hưng, chưa có bao giờ lại khó nhọc mà lâu dài như thế. Thiên hạ đã yên, 18 năm xếp đặt thi thố, chế định khuôn phép giềng mối để dạy bảo người sau, đầy đủ không thiếu, các bực đế vương thời xưa, vừa sáng nghiệp vừa thủ thành cũng chưa có ai tươm tất như thế. Duy tự năm Nhâm tuất kỷ nguyên về sau, mọi việc đều có sách vở, còn từ năm Tân dậu về trước, trong khoảng binh cách, ghi chép không còn được mấy, trong ấy không khỏi có chỗ thiếu sót. Kể từ năm Minh Mệnh thứ 2 đến nay là 27 năm, lần lượt soạn biên, dâng lên xét định, những việc sáng nghiệp thùy thống của thánh nhân, những thần công thánh đức tỏ bày trong phương sách, vốn đã sáng tỏ như sao và mặt trời. Vâng nay Hoàng thượng mới lên ngôi, nối giữ nghiệp lớn, gióng giả việc làm, xin nên noi theo thánh ý, đem dạng bản Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã soạn xong, cho chọn ngày tốt khởi công khắc in, rồi đến Thực lục chính biên về Thánh tổ Nhân hoàng đế cũng biên soạn xong rồi, cũng cho khắc in để xong việc lớn. Rồi sẽ biên soạn Thực lục chính biên về Hiến tổ Chương hoàng đế, để tỏ Phước tốt mà nối việc hay, để thấy nghiệp đức văn công võ, và lòng hiếu trước làm sau noi, đều bảo rõ về sau mãi mãi. Bọn thần bao xiết trông mong. Kính tâu.

Năm Tự Đức thứ 1, tháng 2, ngày 21 đề

Thần Trương Đăng Quế

Thần Võ Xuân Cẩn.

Thần Hà Duy Phiên.

Thần Đỗ Quang.

Thần Tô Trân.

Thần Phạm Hữu Nghị.

Thần Trần Trứ.

*

* *

Bọn thần phụng sung làm Tổng tài, Phó tổng tài và Toản tu Quốc sử quán, kính cẩn tâu rằng: Soạn Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế, khắc in đã hoàn thành.

Thẻ ngọc phô đẹp, hòm báu mở điềm, bọn thần thực vui thực mừng, xin phụng biểu dâng theo lên.

Cúi nghĩ : Trời mở ngôi cao, vững bền như đá bàn núi Thái ; mây phô sách quý rực rỡ thay ngọc báu đồ thư.

Điển lớn rỡ ràng ;

Gương sáng chói lọi.

Bọn thần trộm nghĩ, đế vương nổi lên, có thể thống quy mô dựng nước; sách vở ghi chép, lấy văn chương cương kỷ truyền đời. Nên Nghiêu điển để đầu Thượng thư, mà Đế kỷ đặt trước chính sử.

Nhà nước ta, thần truyền thánh kế, ơn rộng nhân sâu Hai trăm năm dấu chúa gây nền, đức sáng kể đã xa lắm ; bốn bảy(1. Bốn lần bảy là 28, nói đời Quang Vũ nhà Đông Hán cách đời Cao Tổ nhà Tây Hán 280 năm ; thì ngày nay đời Gia Long cách đời Gia Dụ cũng khoảng 280 năm.1) chục vận trời mở hội, nước cũ nhưng mệnh mới rồi.

Lớn thay Thế tổ Cao hoàng đế ta ! Sáng suốt tư trời, anh hùng chí khí. Đức vua đủ thánh thần văn võ, trời ban Phước dài lâu ; hào Càn(2. Hào Càn: Quẻ Càn trong Kinh Dịch là tượng vua, các hào 1, 2, 4, 5 của quẻ Càn dùng để tượng rồng từ khi ẩn đến khi bay lên trời, tức từ khi vua còn là ẩn đến khi lên ngôi. 2) khi ẩn hiện nhảy bay, muôn vật trông nhìn động tác. Đương khi Tây Sơn gây biến, nhà Lê mất ngôi, đã gặp hồi vận nước gian truân, lại tuổi trẻ cảnh nhà tang tóc. Cờ thúy hoa vào Nam, Hòn Khói(3. Thuộc tỉnh Khánh Hòa.3) không sóng giữ tung trời ; cờ súy tiết dạo Đông, Sông Khoa(4. Thuộc tỉnh Long Xuyên.4) có ngạc ngư cản mũi. Mệnh trời đã chọn, lòng dân đâu đấy cũng tôn yêu ; ngôi báu về tay, ấn nước truyền cho làm phù hiệu. Long Xuyên cờ mở, tiếng quân lẫy lừng ; Đồng Nai múa gươm, giặc trời phải giết. áo nhung nón chiến, gập ghềnh từng trải bước phong trần ; ngô ruộng khoai rừng, thảng thốt nếm đủ mùi cay đắng. Buổi gian nguy mà gặp Phước ; đường hiểm trở mà như bằng. Trâu thần hộ giá ở Đăng Giang(5. Sông ở tỉnh Định Trường, có nhiều cá sấu, truyền rằng khi Nguyễn ánh qua đó không lội được, có một con trâu đằm ở bên sông, bèn đứng lên mình trâu để trâu đưa qua sông.5); rắn thiêng nọ cõng thuyền nơi Phú Quốc(6. Nguyễn ánh cỡi thuyền nhỏ đi Hà Tiên, đêm tối không trông thấy gì, tự nhiên có đàn rắn cõng thuyền vượt bể đi tới Hà Tiên. 6). Côn Lôn vây chặt, nhờ gió to phá giặc tan tành(7. Nguyễn ánh bị vây tại Côn Đảo, không có đường thoát, nhờ gặp cơn bão mới cỡi thuyền con chạy thoát.7); trong biển bảy ngày, nước bỗng ngọt cho quân được uống(8. Thuyền chạy ở giữa biển bảy ngày không nước uống, sau Nguyễn ánh ngửa mặt khấn trời, bỗng nhiên nước biển hóa thành nước ngọt, quân sĩ khỏi chết khát.8). Vì thần võ nổi dậy ; nên ứng triệu khá nhiều. Khi Vọng Các trở về, quân dân mây họp ; lúc Gia Định lấy lại, điềm tốt sông trong. Quân vương giả được dạy nuôi, đánh là phải được ; dân thiên hạ theo nhân đức, đâu phải một ngày ! Thần mưa giúp đức. Khúc Hoài Nam(9. Khúc Hoài nam : Tức bài Hoài Nam Ca khúc của Hoàng Quang. 9) trăm họ câu ca ; trời bảo phục thù, hịch Bình Tây ba quân đua sức.

Bước thứ nhất lấy lại Thuận Hóa, kinh cũ thu về ; bước thứ hai lấy được Thăng Long, quân thù quét sạch. Tội nhân bắt được ; võ công cáo thành. Trả thù cho Miếu Xã ; rửa giận cho thần người. Nam từ Thuận Quảng, Bắc từ Linh Giang, cùng một bản dư đồ nhất thống ; Hồng Bàng về sau, Trần, Lê từ trước, chung một dòng chính thống tương truyền. Thành công hơn cả thời xưa ; sự nghiệp vượt qua người trước. Vận Lê đã hết, mười bốn năm nước dựng nguyên niên ; trong nước đã yên, qua năm năm mới ban chính sóc. Nghĩa đổi mới quang minh chính đại ; phép trị nước tề chỉnh thung dung. Đắp đô thành, lập triều thị, dựng Giao Miếu, Xã Tắc, chế độ đổi mới một phen ; định thuế ruộng, dựng nhà trường, ban luật lệnh chương trình, kỷ cương rỡ ràng mọi mặt. Tắt mà dấy lên, đứt mà nối lại, đúng nghĩa mà rõ nhân ; ngăn từ khi mới, ngừa từ việc con, nghĩ sâu mà lo rộng.

Tốt đẹp thay ! Lấy thánh võ mà trung hưng ; đủ gian nan mà khai sáng. Ba mươi năm kinh dinh trong bóng tối, vẫy vùng đất một thành quân một lữ mà lấy được sơn hà ; mười tám năm xếp đặt đời thái bình, nói có phép làm có khuôn để lại cho hậu thế. Rạng nền các thánh xưa gây dựng ; truyền Phước cho nhà nước lâu bền. Thực thánh đức thần công khôn tả xiết ; cùng hoàng biên đế điển để vô cùng. Đến đời Thánh tổ Nhân hoàng đế ta, kính nhớ công xưa, đầu mở Sử cục.

Kịp đến Hiến tổ Chương hoàng đế ta, xa noi chí trước, xuống mệnh soạn biên. Từ năm Minh Mệnh thứ 2 đến năm Thiệu Trị thứ 7, biên chép trải 27 năm, bắt đầu từ nguyên niên năm Mậu tuất đến năm Kỷ mão đời Gia Long làm Chính biên đệ nhất kỷ. Duy việc soạn thuật muốn tinh tường, sự tỏ nêu cần chờ đợi. Nay vâng Hoàng thượng nối cầm quyền lớn, sửa sang nghiệp to. Tinh nhất giữ trung, lấy phép truyền tâm làm cốt ; kính cung nhớ đạo, noi gương kê cổ không dời. Sách làm xong tỏ rõ nghiệp xưa ; khắc in để thi hành việc lớn. Đóng thành từng quyển, đem để vào kho. Tiếp sau bộ Liệt thánh tiền biên mà hoàn thành; mở đầu bộ Đại Nam chính biên mà xuất hiện. Vòi vọi thay ! Công to đức lớn, rạng rỡ trong khắp khoảng cao dày ; mênh mông thay ! Lời đẹp khuôn hay, nêu rõ cả muôn đời kinh pháp. Để tỏ công thần đức thánh ; để rộng chí nối việc theo. Bọn thần dự hàng áo mũ, giữ chức bút nghiên. Điển cũ giữ trong kho sách, ra sức dùi mài ;

nghĩa lệ quyết ở ý trên, kính vâng xét định. Thấy sách xong mà vui mừng khôn xiết ; vâng mệnh chúa mà phô diễn nên lời. Cúi mong Hoàng thượng ta, dốc nối nghiệp nhà, nêu cao phép tổ. Xem nhạc Vũ Lâu và chậm, nhớ công sáng nghiệp gian nan ; soi gương trước mãi không dời, nghĩ việc thủ thành chẳng dễ. Phô công bày sáng, để tỏ rõ mưu xưa ; hưởng lộc giữ dân, để hòa vui Phước tốt. Bọn thần xiết bao mong mỏi vui mừng ! Kính đem

bộ Thực lục chính biên đệ nhất kỷ đã khắc xong lần này, gồm 60 quyển, mục lục 2 quyển, hợp cộng 62 quyển dâng lên, và phụng biểu dâng theo đệ trình.

Năm Tự Đức thứ 1, tháng 12, ngày mồng 2 đề

Thần Trương Đăng Quế.

Thần Vũ Xuân Cẩn.

Thần Hà Duy Phiên.

Thần Đỗ Quang.

Thần Phạm Hữu Nghi.

Thần Tô Trân.

Thần Trần Trứ.

Chính biên

Đệ nhất kỷ

Đệ nhất kỷ - Quyển I - Thực lục về Thế tổ Cao hoàng đế

Phàm lệ

1. Trong kỷ này chép nguyên niên có ba lần, có chính lệ, có đặc lệ. Năm Nhâm tuất mùa hạ, tháng 5, nhà vua mới bắt đầu kiến nguyên, chép là Gia Long nguyên niên, đó là chính lệ. Trước khi chưa kiến nguyên, như mùa xuân năm Mậu tuất mới quyền coi quốc chính thì chép là "nguyên niên", mùa xuân năm Canh tý mới lên ngôi vương thì chép "lại nguyên niên", một là để buộc nối mối lớn, một là để tỏ lúc mới bắt đầu, đó là

đặc lệ.

2. Từ trước tháng 4 mùa hạ năm Nhâm tuất vẫn dùng niên hiệu nhà Lê như cũ, nay thì năm Mậu tuất và năm Canh tý bắt đầu chép nguyên niên, mà niên hiệu nhà Lê và nhà Thanh thì chia chua ở dưới để tỏ rõ thế đại.

3. Sau cuộc đại định, những chế độ kỷ cương lần lượt cử hành, phàm việc mới bắt đầu làm, đều chép chữ sơ(1. Sơ : Mới, bắt đầu. 1).

4. Lời vua ban xuống gọi là sắc, là dụ. Công đồng tuân theo ý vua mà truyền bảo, cũng viết chữ sắc chữ dụ.

Chép việc thì dùng tháng nối mùa, mùa nối năm. Phàm việc thì không chép ngày, duy việc lớn mới kính chép ngày.

5. Như một việc đầu đuôi cách nhau xa, mà việc ấy cần phải chép suốt, thì hoặc ở điều mới chép nói đến đủ cả cuối, hoặc ở điều cuối cùng nói ngược lên cả đầu, thì dùng những chữ tiên thị(1. Tiên thị : Trước là.1), chí thị(2. Chí thị : Đến đây. 2), sơ(3. Sơ : Đầu là. 3), tầm(4. Tầm ; Rồi thì 4) để cho phân biệt.

6. Tên đất thay đổi hay lệ thuộc vào đâu, đều chua rõ ở nơi thấy lần đầu, sau không nói lại nữa.

7. Tên đất mà gặp phải những chữ húy của vua, thì hoặc viết theo tên ngày nay, hoặc viết thiếu một nét ; đến như tên người thì đều đổi chữ khác.

8. Những người chi phái bà con xa gần của nhà vua, trước biên theo quốc tính(5. Họ nhà vua. 5) thì nay theo tôn phả(6. Thế phả của nhà vua. 6) mà chép là tôn thất.

9. Tên quan hay hiệu quân về sau có sửa đổi nhiều, trước khi chưa đổi thì vẫn chép tên cũ để giữ cho đúng thực (như những tên quản trường đà, cai bạ tàu, nội hầu, tiểu sai v.v...)

10. Những danh hiệu ngụy của giặc Tây Sơn, trong hơn 20 năm mặc ý xưng cần rất nhiều, nay cứ việc gì có tương quan với ta thì giữ, còn dư thì bỏ hết.

chính biên

Đệ nhất kỷ

Đệ nhất kỷ - Quyển I - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Vầng sắc khai chép chức và tên các sử thần :

Tổng tài :

Cố mệnh lương thần phụ chính đại thần Thái bảo Cần chính điện đại học sĩ lãnh Binh bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần quản lý Khâm thiên giám kiêm lãnh Quốc tử giám sự vụ Tuy Thịnh quận công, thần Trương Đăng Quế.

Ngự tiền đại thần Thái tử Thái bảo Đông các đại học sĩ quản lý Lại bộ sự vụ kiêm sung hoàng thân sư bảo kiêm lãnh Quốc tử giám sự vụ, thần Vũ Xuân Cẩn.

Phó tổng tài :

Thái tử thiếu bảo hiệp biện đại học sĩ lãnh Hộ bộ thượng thư sung Cơ mật viện đại thần, thần Hà Duy Phiên.

Toản tu :

Nguyên thự Lễ bộ hữu tham tri, nay điều thự tuần phủ Định Tường, thần Đỗ Quang.

Thiêm sự phủ thiêm sự, thần Phạm Hữu Nghi.

Thự Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ, thần Tô Trân.

Nguyên Hồng lô tự khanh, nay bổ thụ Hàn lâm viện trực học sĩ sung biện Nội các sự vụ, thần Vũ Phạm Khải.

Nguyên Hồng lô tự khanh, nay bổ Bố chính sứ Vĩnh Long, thần Nguyễn Tường Vĩnh.

Nguyên Hồng lô tự khanh, nay bổ thụ Quang lộc tự khanh sung như Thanh ất phó sứ, thần Nguyễn Thu.

Thự Hồng lô tự khanh, thần Trần Trứ.

Biên tu :

Nguyên Hàn lâm viện thị độc học sĩ, nay bổ thụ án sát sứ Sơn Tây, thần Phạm Chi Hương.

Nguyên Hàn lâm viện thị độc, nay bổ thụ án sát sứ Quảng Nam, thần Hoàng Trọng Từ.

Nguyên Hàn lâm viện thị độc, nay điều bổ Đốc học Hà Nội, thần Dương Duy Thanh.

Nguyên Hàn lâm viện thị độc, nay bổ thụ Quang lộc tự khanh biện lý Lễ bộ sự vụ, thần Phan Huy Vịnh.

Hàn lâm viện thị độc gia hàm thị giảng học sĩ, thần Lê Hiếu Hữu.

Nguyên Hàn lâm viện thị giảng học sĩ, nay thự Hộ bộ Nam kỳ ty lang trung, thần Vũ Công Độ.

Thự Hàn lâm viện thị độc, thần Nguyễn Kim Xuyến.

Hàn lâm viện tu soạn, thần Đỗ Huy Diễm.

Hàn lâm viện tu soạn, thần Nguyễn Huy Phan.

Nguyên Hàn lâm viện tu soạn, nay bổ thụ đồng tri phủ Kiến Thuỵ phủ, thần Phạm Lân.

Khảo hiệu :

Hàn lâm viện biên tu, thần Lê Văn Huy.

Hàn lâm viện kiểm thảo, thần Tống Văn Vạn.

Hàn lâm viện kiểm thảo, thần Nguyễn Trọng Cầu.

Thự Hàn lâm viện kiểm thảo, thần Lê Quang Huân.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển I - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Thế tổ Khai Thiên Hoằng Đạo Lập Kỷ Thùy Thống Thần Văn Thánh Võ Tuấn Đức Long Công Chí Nhân Đại Hiếu Cao hoàng đế, tên huý là Chủng, lại là Noãn (Đầu là Duệ Tông bảo vua rằng chữ này là tượng của mặt trời khi giữa trưa, nhân đó mà đặt tên). Lại tên húy nữa là ánh. Sinh năm Nhâm ngọ [1762] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 23, Thanh ? Càn Long năm thứ 27), là con thứ 3 của Hưng tổ Hiếu khang hoàng đế. Mẹ là Hiếu khang hoàng hậu Nguyễn thị.

Mùa thu năm ất dậu [1765], Hưng tổ băng, khi ấy vua mới lên 4 tuổi, rồng ẩn ở nhà riêng. Lớn lên, thông minh vốn sẵn, vua Duệ Tông rất quý trọng, cho ở trong cung. Năm Quý tỵ [1773], giặc Tây Sơn nổi, mùa đông năm Giáp ngọ quân Trịnh đến lấn. Vua theo Duệ Tông vào Quảng Nam

(13 tuổi). Mùa xuân năm ất mùi vào Gia Định, được trao chức Chưởng sử, coi quân Tả dực. Mỗi khi có việc quân, Duệ Tông cùng với vua bàn tính, nhiều điều rất đúng, các tướng đều tâm phục.

Vua theo giá không lúc nào rời. Một hôm, trong khi đi đường chợt nghe tin giặc đến. Duệ Tông bảo vua rằng : "Việc gấp rồi ! cho cưỡi ngựa ngự chạy trước đi !" Vua không chịu. Duệ Tông khóc và nói rằng : "Nay gặp bước gian truân thế này, tài ta không dẹp được loạn, việc Miếu Xã quan hệ ở cháu, cháu còn thời nước mới còn". Vua bất đắc dĩ vâng mệnh. Nhưng đi được nửa giờ, dừng ngựa đứng đợi. Giặc đã đi phương khác. Duệ Tông theo đến. Vua đón ở bên đường. Duệ Tông bảo các tướng rằng : "Lòng cháu ta như thế, trời thực đã soi xét !". Mùa đông năm Bính thân [1776] vua đến Ba Giòng [Tam Phụ] (thuộc tỉnh Định Tường), chiêu tập binh sĩ ở Đông Sơn. Mùa xuân năm Đinh dậu [1777], giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ vào đánh cướp Sài Gòn (thuộc tỉnh Gia Định). Duệ Tông đi Đăng Giang(1. Đăng giang: Sông Chanh. 1) (thuộc tỉnh Định Tường).Vua đem binh Đông Sơn đến ứng viện, đón Duệ Tông đến Cần Thơ (tức đạo Trấn Giang thuộc tỉnh An Giang), rồi đến Long Xuyên (thuộc tỉnh Hà Tiên). Tháng 9 mùa thu, quân giặc theo ngặt, ngày Canh thìn, Duệ Tông bị nạn băng. Một mình vua được thoát, lên thuyền đậu ở sông Khoa (thuộc Long Xuyên), định nhân ban đêm vượt biển để lánh giặc. Bỗng có con cá sấu cản ngang mũi thuyền ba lần, bèn thôi. Sớm mai dò biết đêm ấy có thuyền giặc ở phía trước. Vua bèn dời sang đóng ở đảo Thổ Châu. Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ lui quân về Quy Nhơn, để lại đồ đảng là Tổng đốc Chu, Hổ tướng Hãn, Tư khấu Oai, Điều khiển Hòa, Cai cơ Chấn (đều không rõ họ), chia giữ các dinh ở Gia Định.

Tháng 10 mùa đông, vua cử binh ở Long Xuyên, tiến đến Sa Đéc (tên đất, thuộc tỉnh An Giang). Chưởng dinh ngoại hữu (xưng là Phương quận công) Đỗ Thanh Nhân cùng với thuộc hạ là cai đội Lê Văn Quân (có thuyết là họ Nguyễn) nhóm họp những nghĩa dũng ở Ba Giòng, làm hịch bá cáo các đạo ; Thống nhung Nguyễn Văn Hoằng, Chưởng dinh Tống Phước Khuông và Tống Phước Lương (đều xưng là quận công), điều khiển Dương Công Trừng, Cai cơ Hồ Văn Lân đều đem quân đến họp. Ba quân đều mặc áo tang, thanh thế lừng lẫy. Tháng 11, đánh úp Điều khiển giặc là Hòa ở dinh Long Hồ (tức tỉnh Vĩnh Long ngày nay) cả phá được. Tháng 12, tiến đánh được Sài Gòn.

Mậu tuất năm thứ 1 [1778] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 39, Thanh ? Càn Long năm thứ 43; năm ấy, tuy chưa lên ngôi vương, nhưng Duệ Tông đã mất vì việc nước, quyền lớn đã thuộc về ngài, cho nên chép là năm thứ 1 để nối chính thống), mùa xuân, tháng giêng, vua đóng ở Sài Gòn, Đỗ Thanh Nhân cùng các tướng tôn vua lên làm Đại nguyên soái, quyền coi việc nước (17 tuổi). Vua đem các tướng dâng tôn thụy Duệ Tông là Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định vương, dâng tôn thụy hoàng khảo là Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang vương.

Thủ ngự đạo Quang Hóa là cai đội Lê Chử đem kim sách và quốc bảo của tiên triều đến dâng. Vua khen và thưởng (Đầu là giặc Tây Sơn vào cướp, Duệ Tông đi Ba Giòng. Ngoại tả Nguyễn Cửu Đàm đem quân đi hộ giá. Duệ Tông sai Chử giữ bốn tờ kim sách, một quả ấn vàng, ba quả ấn đồng đi theo. Đến sông Tra Giang gặp giặc, Chử sợ chạy, quăng cả sách và ấn xuống sông. Đến đây lại về chỗ cũ mò được, đem dâng. Tra Giang thuộc tỉnh Gia Định).

Tháng 2, Tổng đốc giặc là Chu đem thủy binh phá cướp những địa phương ven sông ở Trấn Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia Định). Hộ giá giặc là Phạm Ngạn lại từ Quy Nhơn đến đạo Hòa Nghĩa. Trần Phượng chống đánh ở sông Phước Lộc không được.

Tháng 3 vua sai Đỗ Thanh Nhân giữ Sài Gòn. Vua tự làm tướng đóng ở Lật Giang, dựng cờ "Tam quân tư mệnh" để chỉ huy tướng sĩ. Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Hoằng đem đại binh đánh giặc ở các lộ Lật Giang và Ô Nguyên, đều thắng. Giặc phải lui về Trường Giang, rình những nơi sơ hở để cướp bóc.

Sai các quân đắp luỹ đất ở bờ phía tây sông Bến Nghé [Ngưu Chử] cho đến kênh Thông [Thông cảng], ở cửa kênh đóng cọc gỗ để chống giặc. Đóng hơn 50 chiếc chiến hạm, gọi tên là các hiệu thuyền Long Lân, lại sắm nhiều bè hỏa công, để làm kế đánh giặc.

Mùa hạ tháng 5, Lê Văn Quân đem thủy binh cùng giặc giao chiến, đánh được luôn. Đỗ Thanh Nhân cũng đem quân hợp đánh, chém được Tư khấu giặc là Oai ở Bến Nghé, cướp được hết chiến thuyền. Nguyễn Văn Hoằng tiến quân đến Đồng Nai [Lộc Dã] (thuộc Biên Hòa), đánh vỡ quân giặc, chém được tướng là Liêm và Lăng (hai người đều không rõ họ), thu phục được Trấn Biên. Tướng giặc Phạm Ngạn chạy về Quy Nhơn. Gia Định dẹp xong. Lê Văn Quân đem binh tiến đánh được Bình Thuận.

Vua triệu Quân về, sai Thống nhung chưởng cơ Nguyễn Văn Hoằng và Lễ bộ Nguyễn Nghi lãnh bộ binh đi giữ đất ấy, cùng hợp binh với Chu Văn Tiếp.

Dựng nhà Tôn miếu, xây lăng Duệ Tông và phần mộ Tân chính vương.

Đặt công đường ở các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ. Đóng chiến thuyền, chứa quân lương để mưu đồ cuộc phục hưng.

Sai Cai đội Trần Văn Phước sang đạo Tân Châu, Nguyễn Đức Huy sang đạo Quang Hóa, để đóng thuyền đi biển.

Tháng 6, sai Cai cơ Lưu Phước Trưng sang Xiêm. Đầu là Long Xuyên thất thủ, Mạc Thiên Tứ và Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm cầu viện, vua Xiêm hậu đãi, giữ ở lại. Vua đã lấy lại được Gia Định, sai sứ sang giao hiếu và thăm hỏi tin tức của bọn Thiên Tứ.

Tháng 6 nhuận, lấy Cai đội Nguyễn Văn Nhân làm Khâm sai cai cơ, giữ đạo Cường Thành (thuộc tỉnh An Giang).

Năm ấy giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc tự lập làm vua, xưng ngụy hiệu là Thái Đức năm thứ 1.

Kỷ hợi, năm thứ 2 [1779] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 40, Thanh ? Càn Long năm thứ 44), mùa xuân, tháng 3, xa giá Từ cung [mẹ vua] đến Gia Định. Đầu là trong cuộc biến năm Giáp ngọ, xa giá Từ cung đến xã Yên Du (thuộc huyện Minh Linh, tỉnh Quảng Trị), các trưởng công chúa đều đi theo. Đến đây sai Cai cơ Lê Phước Điển (lấy trưởng công chúa Ngọc Tú) đến đón. Khi quốc mẫu đã đến, vua đem các quan đến mừng được bình an.

Mùa hạ, tháng 4, lấy Trần Xuân Trạch làm Chưởng cơ Tả chi, Nguyễn Kim Phẩm làm Chưởng cơ Hữu chi. Xuân Trạch và Kim Phẩm đều là người Sơn Nam hạ (nay là tỉnh Nam Định) cùng với thuộc hạ là bọn Trần Xuân Cách, Nguyễn Kim Loan, Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn Kim Phan, Nguyễn Kim Chức, họp đảng ở ngoài biển hơn 300 người, đến Gia Định xin ứng nghĩa ra sức. Vua khen ngợi, trao cho hai người làm Tả Hữu chi, còn thì đều trao cho chức vụ theo thứ bực khác nhau. Lại thấy Xuân Trạch và Kim Phẩm đều am hiểu võ nghệ, thường sai huấn luyện sĩ tốt ở các dinh.

Tháng 6, sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân và Dương Công Trừng đem quân đi đánh Chân Lạp. Chân Lạp tự khi Nặc Vinh giết Nặc Thâm thì Nặc Tôn buồn bực mà chết. Bề tôi là Chiêu Chùy Mô và Đê Đô Luyện giữ Phong Xuy để chống Nặc Vinh, Vị Bôn Xuy giữ La Bích để hưởng ứng, và cầu viện ở dinh Long Hồ. Vua sai bọn Thanh Nhân đi đánh, bắt Nặc Vinh giết đi, lập con Nặc Tôn là Nặc ấn làm vua, lưu Văn Lân ở lại bảo hộ.

Mùa đông, tháng 11, xem đồ bản các dinh đất Gia Định, chia vạch địa giới ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ khiến cho liên lạc nhau. Dinh Trấn Biên lãnh 1 huyện (Phước Long), có 4 tổng (Tân Chính, Bình An, Long Thành và Phước An), dinh Phiên Trấn lãnh 1 huyện là Tân Bình, có 4 tổng (Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc và Bình Thuận) ; dinh Long Hồ đổi làm dinh Hoằng Trấn, lãnh 1 châu là Đinh Viễn, có 3 tổng (Bình An, Bình Dương và Tân An). Lại thấy đạo Trường Đồn là nơi yếu địa của ba dinh nên đặt làm dinh Trường Đồn (nay là tỉnh Định Tường), lãnh 1 huyện (Kiến An), có 3 tổng (Kiến Đăng, Kiến Hưng và Kiến Hòa). Đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục để cai trị. Buổi quốc sơ, đất Gia Định còn là nơi nhiều rừng rú đầm lầy, mộ dân tới ở, cho tùy tiện lập ấp vỡ hoang (có nơi ở về Phiên Trấn mà đánh thuế làm đất Trấn Biên, cũng có nơi ở về Trấn Biên mà đánh thuế làm đất Phiên Trấn), các thửa ruộng đất chỉ ước số đại khái, không chia ra hạng tốt, hạng xấu, đặt chín trường khố nạp riêng (các kho Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Giản Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Bả Canh, Tân Thịnh) để thu thuế. Số thuế nhiều ít không đều nhau. Đến đây vạch định cương giới, bỏ chín khố trường, sai các dinh châm chước lệ cũ thuế điền thổ mà chữa lại cho cân bằng.

Năm Canh tý, lại năm thứ 1 [1780] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 41, Thanh ?

Càn Long năm thứ 45, năm ấy vua mới lên ngôi nên lại chép năm thứ 1) mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý mão, vua lên ngôi vương. Khi vua mới quyền coi quốc chính, quần thần đều khuyên lên ngôi. Vua cho rằng thù nước chưa trả xong, nhún nhường không chịu, quần thần hai ba lần nài xin, vua mới theo, lên ngôi vương ở Sài Gòn. Văn thư đưa xuống gọi là chỉ truyền, sai phái gọi là chỉ sai, dùng ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh trấn chi bảo (ấn này do Hiển tông Hiếu minh hoàng đế chế, nay dùng làm của báu truyền ngôi), nhưng vẫn theo niên hiệu nhà Lê ; biểu chương của quần thần đều xưng là bẩm.

Luận công tôn phù, thăng Đỗ Thanh Nhân làm ngoại hữu phụ chính thượng tướng công ; ngoại tả Tống Phước Khuông, nội hữu Tống Phước Lương, nội tả Nguyễn Đình Thuyên (có thuyết chép là họ Tống), tham nghị Trần Đại Thể, Lại bộ Hồ Đồng, Hộ bộ Trần Phước Giai, Lễ bộ Nguyễn Nghi, Binh bộ Minh (không rõ họ), Hình bộ Trần Minh Triết và các tướng sĩ đều được thăng thưởng theo thứ bực. Tháng 3, ngày Tân tỵ, hoàng tử cả Cảnh (tức là Anh Duệ hoàng thái tử) sinh, do nguyên phi Tống thị (tức là Thừa thiên Cao hoàng hậu ; phi là con gái ngoại tả chưởng dinh Tống Phước Khuông, tổ tiên là người Bùi Xá, huyện Tống Sơn, buổi đầu theo Thái tổ vào Nam trấn, ở tại An Quán dinh Quảng Nam. Khi Duệ Tông vào Nam, phi theo Phước Khuông vào Gia Định. Năm Mậu tuất vua sửa lễ cưới, tấn phong làm nguyên phi).

Mùa hạ, tháng 4, sai Đỗ Thanh Nhân đánh phủ Trà Vinh (nay là huyện Trà Vinh, thuộc tỉnh Vĩnh Long) chiếm được.

Người Chân Lạp đến ở Trà Vinh đã lâu thành dân nội thuộc, hằng năm cung nộp phú thuế ; kịp khi binh cách nhiều việc, tù trưởng là ốc Nha Suất mưu làm phản. Vua sai đem quân đi đánh. Giặc giữ vững lũy chống lại. Nơi ấy rừng sâu chằm lớn, rậm rạp um tùm, Suất dựa địa thế hiểm trở để chống, lấy nỏ khoẻ làm món sở trường, quan quân đánh không được. Vua bèn sai Thanh Nhân đốc chiến, Dương Công Trừng thuộc theo. Công Trừng sai các quân dùng vòng sắt móc liền các chiến thuyền với nhau, bắc sàn ở trên, kèm dựng cây chuối để đỡ tên đạn, nhân nước thủy triều lên cho thuyền đến sát lũy để đánh. Giặc mất thế hiểm vỡ chạy. Thanh Nhân đem quân tinh nhuệ đuổi đánh, chặt phá cây rừng, mở thông đường lối, lại đặt phục binh trong rừng, bốn bề nổ súng. Suất cùng đường bị quan binh bắt được. Thanh Nhân chiêu dụ dân chúng trở về làm ăn. Trà Vinh bèn yên.

Đổi tên dinh Hoằng Trấn làm dinh Vĩnh Trấn.

Tháng 6, sai Cai cơ là Sâm và Tĩnh (hai người đều không rõ họ) sang Xiêm để giao hiếu. Vừa khi thuyền buôn Xiêm từ Quảng Đông trở về đến phần biển Hà Tiên, bị lưu thủ Thăng (không rõ họ) giết và cướp hết của cải, vua Xiêm giận, đem Sâm và Tĩnh giam vào ngục. Lại có người Chân Lạp là Bô Ông Giao nói gièm với vua Xiêm rằng Gia Định đã gởi mật thư bảo Tôn Thất Xuân và Mạc Thiên Tứ làm nội ứng, mưu lấy thành Vọng Các. Vua Xiêm rất ngờ, liền bắt hết mọi người để tra hỏi. Mạc Tử Duyên hết sức cãi là chuyện vu cáo, bị vua Xiêm đánh chết. Thiên Tứ tự tử. Tôn Thất Xuân cùng Sâm, Tĩnh và quyến thuộc của Thiên Tứ cộng 53 người đều bị hại hết. Nhân dân nước ta ngụ ở Xiêm đều bị dời hết ra nơi biên thùy. (Duyên là con của Thiên Tứ).

Mùa thu, tháng 7, sai các quân đóng binh thuyền. Đỗ Thanh Nhân sai thủy quân lấy thứ gỗ nam [kiền kiền] để đóng thuyền trường đà [bánh lái dài], trên gác sàn chiến đấu, hai bên dựng phên tre che thủy binh ở dưới để cho chuyên sức mà chèo, còn trên thì bày bộ binh để xung trận mà đánh. Do đó đi đường biển thuận lợi mà nghề thủy quân sở trường càng tinh thêm.

Mùa đông, tháng 12, ban lịch về năm sau (gọi là lịch Vạn Toàn).

Tân sửu, năm thứ 2 [1781] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 42, Thanh ? Càn Long năm thứ 46), mùa xuân, tháng 3, Đỗ Thanh Nhân có tội bị giết. Đầu là Thanh Nhân cầm quân Đông Sơn, thường có ý vượt quyền. Đến khi vua lên ngôi, Thanh Nhân cậy mình có công tôn phù, lòng kiêu ngạo càng tăng, quyền sinh sát cho đi lấy lại đều ở trong tay ; kinh phí trong cung thì giảm bớt đi, không chịu cung hiến ; phàm người bè cánh gần gũi thì tự tiện cho theo họ mình ; người có tội thì đem nướng than hừng, hình phạt rất thảm khốc, ai cũng nghiến răng. Vua cho là người có công, vẫn ưu đãi dung thứ, thường đến thăm tận nhà, cũng không giữ lễ. Bè đảng lại phụ họa thêm, lấn át không kiêng nể gì, toan mưu làm phản. Chưởng cơ Tống Phước Thiêm nói riêng với vua : "Xin giết giặc ở bên cạnh vua". Vua thầm nghĩ hồi lâu. Phước Thiêm nói : "Thanh Nhân lòng muốn theo Mãng Tháo(1. Vương Mãng và Tào Tháo là gian thần ở đời Tây Hán và đời Đông Hán. 1), không thể để được. Nếu dùng đến kế mà trừ thì chỉ một tay võ sĩ cũng đủ". Vua rất lấy làm phải, giả cách ốm cho vời Thanh Nhân vào cung bàn việc. Vệ sĩ nhân đó bắt giết rồi tức thì tuyên bố tội trạng của Thanh Nhân mà tha tội cho các tướng hiệu sở thuộc. Sai chưởng Thủy dinh là Hoảng (không rõ họ) lãnh bộ binh, Phước Thiêm lãnh thủy binh, rồi chia quân Đông Sơn ra làm bốn quân, sai Lê Văn Quân coi Tiền quân, Vũ Doãn Triêm coi Hữu quân, Tống Phước Lương coi Tả quân, Trương Văn Bác coi Hậu quân. Thanh Nhân chết rồi, đồ đảng nhiều kẻ trốn đi Ba Giòng làm trộm cướp. Vua sai chiêu dụ, đều chống cự không chịu.

Thống nhung trấn Bình Thuận Nguyễn Văn Hoằng và Lễ bộ Nguyễn Nghi đều ốm chết. Sai Tôn Thất Dụ (cháu Chưởng cơ quận công Tôn Thất Tú và con Cai đội Tôn Thất Thắng) coi Trung quân, tiết chế bộ binh để trấn giữ Bình Thuận.

Gia chức cho Chu Văn Tiếp làm khâm sai đô đốc chưởng cơ quận công, trông coi công việc tướng sĩ và binh dân ở Phú Yên.

Mùa hạ, tháng 5, vua sai điểm duyệt số quân các dinh thủy bộ ở trong ngoài, không dưới 3 vạn người, thuyền đi biển 80 chiếc, thuyền chiến lớn 3 chiếc, tàu tây 2 chiếc, bàn cử đại binh đánh giặc Tây Sơn. Sai tiết chế Tôn Thất Dụ đem bộ binh ở Bình Thuận, Chưởng cơ Tống Phước Thiêm, Nguyễn Hữu Thụy và Dương Công Trừng đem thủy quân ở Gia Định cùng tiến đi. Bọn Dụ đến Nha Trang và Hòn Khói (thuộc tỉnh Khánh Hòa) cùng Chu Văn Tiếp hợp quân, đắp lũy đối diện với giặc. Thủy binh giặc ít không dám ra đánh giặc bèn đem bộ binh bày trận, voi chiến rất nhiều, Quân ta thấy thế lùi, Văn Tiếp không ngăn cản nổi, bèn lùi giữ núi Trà Lang (thuộc tỉnh Phú Yên). Vừa lúc ở Gia Định xảy ra cuộc biến Đông Sơn, quân sau không ra nữa, bọn Dụ đều rút quân về.

Tháng 5 nhuận, thuộc tướng quân Đông Sơn là Võ Nhàn và Đỗ Bảng giữ đất Ba Giòng làm phản. Vua sai Nguyễn Đình Thuyên và Tống Phước Lương chia đường tiến đánh. Phước Lương đánh ở sông Lương Phú (tên thôn) bị thua ; Thống binh cai cơ Tống Văn Phước (con Thống suất điều khiển ngũ dinh Tống Văn Khôi) chết trận.

Vua thấy quân Phước Lương không có tiết chế, bãi đi, bèn thêm quân để hợp đánh mà sai Cai cơ Nguyễn Văn Quý và Phan Văn Huyên nhập bọn với giặc, bắt được tên Nhàn tên Bảng giết đi, dư đảng đều dẹp yên. (Văn Phước được truy tặng chưởng cơ).

Đổi tên dinh Trường Đồn làm dinh Trấn Định.

Lấy Phạm Văn Nhân làm Phó vệ úy vệ Đẳng Giao.

Mùa đông, tháng 10, Xiêm La sai tướng là Chất Tri và Sô Si (hai anh em) xâm lấn nước Chân Lạp. Nặc ấn đem việc báo lên.

Nhâm dần, năm thứ 3 [1782] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 43, Thanh ? Càn Long năm thứ 47), mùa xuân, tháng giêng, sai giám quân Trung dinh là Chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy đem binh thuyền cùng với Hồ Văn Lân đi cứu viện nước Chân Lạp. Quân đến La Bích, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh (có thuyết là Trịnh Sinh) bị bệnh thần kinh, bắt tù cả vợ con Chất Tri và

Sô Si, Chất Tri và Sô Si oán. Khi quân ta đến, bèn họp nhau bàn bạc. Sô Si nói : "Vua ta vô cớ bắt tù vợ con chúng ta, chúng ta dù có hết sức liều chết thì ai biết cho, chi bằng cùng với người Hán(1. Tài liệu của nhà Nguyễn tự gọi người nước ta là người Hán. 1) xin hòa, kết làm ngoại viện". Chất Tri nói : "Điều đó rất hợp ý tôi". Bèn sai người đến quân Hữu Thụy cầu hòa, và mời đến trại để hội ước. Hữu Thụy nhận lời. Khi sứ Xiêm ra rồi, em Hữu Thụy là Hựu can rằng : "Người Man hay dối trá, sợ có biến thì sao?". Hữu Thụy nói : "Ta tính toán đã kỹ rồi. Vua Xiêm vô cớ mà bắt giam vợ con họ nên họ muốn nhờ ta làm viện binh, lời xin của họ không phải là dối đâu. Huống chi ta đã nhận lời mà không đi thì họ cho ta là nhát". Sáng mai Hữu Thụy đem vài mươi người đi theo thẳng vào trại quân Xiêm. Quân Xiêm nhìn nhau ngơ ngác. Chất Tri và Sô Si đón vào khoản đãi rất hậu, đều đem lòng thực bày tỏ, rượu say rồi bẻ mũi tên để thề. Hữu Thụy nhân đó đem ba bảo vật là cờ, đao và kiếm tặng cho rồi trở về. Lúc đó nước Xiêm vừa có giặc ở thành Cổ Lạc nổi lên, Trịnh Quốc Anh sai Phi Nhã Oan Sản đi đánh. Tướng giặc ấy là em Oan Sản, Oan Sản bèn đảo qua hợp quân đánh thành Vọng Các. Người trong thành mở cửa cho vào. Trịnh Quốc Anh nghe tin biến, trốn vào chùa, Oan Sản bắt giam lại, chạy tin báo cho Chất Tri về nước. Chất Tri được báo, cho rằng mình đã cùng Hữu Thụy nghị hòa, không lo về sau nữa, bèn luôn đêm đem quân về thành Vọng Các. Khi sắp đến nơi, ngầm sai người giết Trịnh Quốc Anh mà đổ tội cho Oan Sản, phơi bày tội ác, buộc tội làm loạn, khóa giam ở nhà riêng rồi giết đi. Chất Tri uy hiếp dân chúng để tự lập nhà vua Xiêm La, tự hiệu là vua Phật (vì tục Xiêm rất chuộng đạo Phật, nên gọi như thế), phong cho em là Sô Si làm vua thứ hai, cháu là Ma Lặc làm vua thứ ba. Những nạn dân nước ta trước bị Trịnh Quốc Anh đày đi nơi khác đều được thả về thành Vọng Các, cấp cho tiền gạo, nuôi nấng đầy đủ. Hữu Thụy đem việc ấy báo lên. Vua cho rút quân.

Tháng 3, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Văn Nhạc nghe tin Đỗ Thanh Nhân đã bị giết, mừng nói : "Thanh Nhân chết rồi, các tướng khác không đủ sợ nữa !" Bèn đem chiến thuyền vài

trăm chiếc, cử đại binh vào đánh. Quân Tây Sơn đến cửa biển Cần Giờ.

Vua sai Tống Phước Thiêm điều bát trận thủy binh ở Ngã bảy [Thất kỳ giang]. Giặc nhân gió mạnh xông thẳng tới. Quân ta phải lùi. Một mình Cai cơ là Màn Hòe(2. Tức là Emmanuel.2) đi tàu tây cố sức đánh rất lâu. Giặc đổ quân bao vây bốn mặt, ném hỏa khí đốt tàu, Màn Hòe bị chết. (Màn Hòe là người Phú Lãng Sa(1. Phú Lãng Sa: Pháp. 1), Bá Đa Lộc giới thiệu là người dùng được, vua trao cho chức Khâm sai cai cơ, coi đội Trung Khuông, sau được tặng là Hiệu nghĩa công thần phụ quốc thượng tướng quân).

Vua nghe tin báo, thân đốc binh thuyền tiếp ứng, đến Ngã ba (Tam kỳ giang) thì gặp giặc. Vua mặc áo chiến đội nón chiến đứng ở đầu thuyền, vẫy quân đánh gấp. Giặc nhắm đầu thuyền bắn, gẫy cả cột buồm, quân sĩ đều thất sắc ; vua đứng yên không động, tay cầm súng chim bắn lại thuyền giặc, và hạ lệnh cho quân sĩ vừa đánh vừa lùi. Tây Sơn cũng không dám đuổi theo. Bèn thu quân về Bến Nghé. Quân giặc tiếp đến. Quân ta đánh mãi không lợi. Vua dời đi Ba Giòng. Phước Thiêm thì sau bị đảng Đông Sơn thù giết chết. Từ đó vùng Sài Gòn lại bị Tây Sơn chiếm. (Vua ra trận giỏi dùng súng chim. Mỗi khi đánh nhau với giặc hễ bắn là trúng, người ta đều cho rằng được trời giúp. Khoảng năm Minh Mệnh đặt tên súng ấy là

Võ công lương khí, cất giữ với áo chiến và nón chiến).

Mùa hạ, tháng 4, tiết chế dinh Bình Thuận là Tôn Thất Dụ đem Tả chi Trần Xuân Trạch, thuộc tướng là Trần Văn Tự, và thuộc tướng đạo Hòa Nghĩa là Trần Công Chương vào cứu viện. Gặp tiền binh của giặc, ập đánh, chém được hộ giá giặc là Phạm Ngạn ở cầu Tham Lương. Tham tán Hồ Công Siêu bị súng giặc bắn chết. Nguyễn Văn Nhạc nghe tin Ngạn chết, đau như mất hai tay, cho rằng đạo quân Hòa Nghĩa toàn người Thanh, bèn sai bắt hết người Thanh hơn một vạn người ở Gia Định, không kể là lính là dân hay là người buôn bán, đều giết hết mà quăng xác đầy sông. Hơn một tháng trời, không ai dám ăn tôm cá và uống nước sông. Sự tàn sát thê thảm đến thế ! (Công Siêu được truy tặng là Tham khám).

Vua dời đi Lữ Phụ [Giòng Lữ] (thuộc tỉnh Định Tường). Bầy tôi theo hầu là bọn Nguyễn Hoàng Đức (Đức vốn họ Hoàng, cho họ là Nguyễn, nên xưng là Nguyễn Hoàng), Trần Xuân Trạch, Nguyễn Kim Phẩm, Dương Công Trừng, thống binh Hạp và Kính (hai người đều không rõ họ, đều là người Thanh), thu họp quân còn lại được hơn 300 người. Vua sai dựng đồn để chống giặc. Gặp quân của tướng giặc là đô đốc Nguyễn Học bỗng đến. Vua tuốt gươm đứng dậy, thân đốc binh thuyền đón đánh. Quan quân đua sức tiến lên. Kim Phẩm chém được Học ở trận. Giặc thua to, chạy. Quân ta bắt được hơn 30 chiếc thuyền giặc, thừa thắng đuổi đến dinh Trấn Định. Sai Nguyễn Hoàng Đức làm Tiên phong, Tôn Thất Cốc (con Tôn Thất Đàm) làm Trung quân, Trần Xuân Trạch và Nguyễn Kim Phẩm hộ giá, tiến đóng ở Ngã tư [Tứ kỳ giang] (thuộc tỉnh Gia Định). Nguyễn Văn Huệ đem quân mạnh ập đến ; bày trận quay lưng xuống nước mà đánh dữ. Quân ta thua, lùi giữ sông Lật Giang. Lưu thủ là Thăng, tiên phong là Túy (không rõ họ) từ dinh Vĩnh Trấn đem chiến thuyền tới viện trợ, đón xa giá sang miền

Hậu Giang.

Sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng cai cơ Cao Phước Trí mượn đường Chân Lạp sang Xiêm cầu viện. Chân Lạp ngầm giúp Tây Sơn, bèn giết chết bọn Hữu Thụy. (Hữu Thụy và Xuân Trạch đều được truy tặng Chưởng dinh quận công, Phước Trí tặng Chưởng cơ).

Vua đến Giá Khê [Rạch Giá] (thuộc huyện Kiên Giang). Chân Lạp họp binh thuyền hơn 30 chiếc, đuổi đến Sơn Chiết. Tiên phong Túy đón chặn đường sau đánh lùi được.

Vua đến Hà Tiên, đi thuyền nhỏ qua biển. Đêm tối không thấy rõ, ở gầm thuyền hình như có vật gì đội, tang tảng sáng nhìn ra thì đó là một đàn rắn. Người đi theo đều lấy làm sợ. Vua giục cứ đi, một lát thì đàn rắn đi mất. Thuyền vua bèn đến đảo Phú Quốc. Tháng 5, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ dẫn quân về Quy Nhơn, lưu hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập cùng Hộ bộ giặc là Bá (không rõ họ) lãnh 3.000 quân giữ Gia Định, đóng đồn ở Bến Nghé. Nhàn Trập hung tàn bạo ngược, nhiều người oán ghét.

Tháng 6, Hồ Văn Lân thu họp dư chúng, đánh được đô đốc giặc là Nguyễn Loan ở Long Hồ, rồi cùng với Điều khiển Dương Công Trừng và Cai cơ Nguyễn Văn Quý họp binh tiến đánh giặc ở sông Lật Giang, bắt được chiến thuyền hơn 10 chiếc.

Mùa thu, tháng 8, trưởng công chúa là Ngọc Toàn mất. Công chúa là con gái thứ ba Hưng Tổ, mùa xuân năm Kỷ hợi theo giá đến Gia Định, gả con cho Chưởng cơ Nguyễn Hữu Thụy, khi Tây Sơn vào Sài Gòn, công chúa cùng Hữu Thụy đem binh thuộc hạ ra giữ đồn Bình Hóa (thuộc tỉnh Biên Hòa) để chống cự. Binh nhung giặc là Nguyễn Văn Kim đem quân đánh úp. Hữu Thụy ra đánh không lợi, lui về Giang Lăng, thu quân để ra đánh nữa, cũng không được. Kim bèn giữ đồn Bình Hóa. Hữu Thụy sang Xiêm cầu viện. Công chúa náu ngụ ở Ba Phủ (Giang Lăng và Ba Phủ đều là tên đất, thuộc tỉnh Biên Hòa). Kim dò biết tin, ép đón công chúa về đồn. Đốc chính giặc là Nguyễn Danh Tập lại bức dời công chúa đi Sài Gòn. Khi thuyền đến sông Tam Đà, công chúa giữ danh nghĩa không chịu nhục, nghiêm nét mặt mắng giặc, rồi gieo mình xuống sông tự tử. (Năm Minh Mệnh thứ 19 tặng phong là Minh nghĩa thái trưởng công chúa).

Quân ta lấy lại được Gia Định. Từ khi thua trận ở Cần Giờ, xa giá

ra ngoài, Chu Văn Tiếp đem quân vào cứu viện, cờ đề bốn chữ Lương Sơn tá quốc, cùng thiếu phó Tôn Thất Mân (con thứ năm Hưng Tổ) chia cắt các tướng, Phạm Văn Sĩ làm Tiên phong, Lê Văn Quân làm Tả chi, Nguyễn Văn Thuận làm Hữu chi, Nguyễn Văn Thảo làm Hậu đạo, Nguyễn Long và Phan Viện làm bảo hộ, Tôn Thất Mân làm Trung quân ; Văn Tiếp tự lãnh quân mạnh làm sách ứng. Hộ bộ của giặc là Bá nghe tin bảo Nhàn Trập rằng : "Văn Tiếp võ nghệ tuyệt vời, nay đem trọng binh đến, thế ta chưa thể địch nổi, chi bằng tạm bỏ đất này, lui quân về Quy Nhơn, sang mùa xuân hãy đánh lại cũng chưa muộn". Nhàn Trập không nghe, đem hết quân ra đón đánh. Phạm Văn Sĩ tiến trước giết giặc, quân các đạo nối theo đánh, quân giặc vỡ to, chết không xiết kể. Bọn Nhàn Trập chạy về Quy Nhơn. Văn Tiếp thu lại Sài Gòn, sai người tới đảo Phú Quốc báo tin thắng trận và tự đem quân đón xa giá. Vua được tin báo rất mừng, tức thì ra lệnh hồi loan. Đến Ngã tư, Văn Tiếp lạy rạp bên đường, khóc và nói rằng : "Không ngờ ngày nay lại được gặp chúa thượng, thực là Phước của Xã tắc". Vua yên ủi hồi lâu, rồi xa giá về Sài Gòn.

Lấy Chu Văn Tiếp làm ngoại tả chưởng dinh, Tôn Thất Dụ làm ngoại hữu chưởng dinh.

Tôn Thất Hy (con Chưởng cơ quận công Tôn Thất Dục) cùng Ngũ trưởng Đặng Đình Vân, Tri huyện Nguyễn Đô, Huyện giáo Nguyễn Bảo Trí, tự Phú Xuân đến yết kiến. Vua cho Hy làm Trung dinh giám quân, Đình Vân làm Binh bộ, Bảo Trí làm Tham mưu, Đô làm Thị giảng.

Sai Cai cơ Trung thủy là Võ Di Nguy, Cai cơ Tiền thủy là Trương Phước Dĩnh về tập hợp những thủy binh ngạch cũ, sửa đóng chiến thuyền. Sai Cai cơ Lê Phước Điển, Tham mưu Lê Phước Bình sang Xiêm. Vua thấy giặc Tây Sơn liền năm vào cướp, lòng lo lắm, dụ cho các tướng rằng : "Giặc nay dẫu thua, sang xuân hẳn lại vào cướp. Ta quân yếu tướng ít thì lấy gì mà chống? Kế sách ngày nay không gì bằng kết hảo với nước Xiêm để nhờ giúp đỡ khi hoãn cấp". Bèn chế hoa vàng hoa bạc, sai bọn Phước Điển sang thông hiếu.

Tháng 9, Trịnh Sâm triều Lê chết ; con nhỏ là Cán lên nối. Trước là Sâm say đắm vợ bé là Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Đống, dựng con vợ bé là Cán làm thừa tự, trối cho bề tôi là Hoàng Tố Lý giúp. Không bao lâu quân ưu binh túc vệ (nhà Lê dùng binh Thanh Nghệ làm ưu binh) giết Tố Lý, rồi bỏ Cán mà dựng Đống. Từ đó ưu binh cậy công làm ngang, không có kỷ cương gì.

Mùa đông, tháng 11, Tham quân của Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh chạy theo về với Tây Sơn. Chỉnh là người làng Đông Hải tỉnh Nghệ An, thuộc tướng của Hoàng Tố Lý. Tố Lý bị quân Trịnh giết, Chỉnh muốn mượn quân Tây Sơn để trừ kiêu binh, bèn vượt biển vào theo Nhạc. Nhạc gặp được Chỉnh rất yêu tài, dùng làm đô đốc. Chỉnh ngày đêm vì giặc bày mưu, cuối cùng làm tai họa cho Bắc Hà.

Vua nghe tin giặc Tây Sơn mưu vào cướp, sai đặt đồn Thảo Câu [Vàm Cỏ] ở bờ phía nam sông lớn Gia Định, giao cho Dương Công Trừng giữ, ở bờ phía bắc thì đặt đồn Dác Ngư [Cá Dốc], giao cho Tôn Thất Mân giữ, ngang sông bắc cầu phao để tiện qua lại. Trong sông thì bày hơn trăm chiến thuyền để làm thế dựa nhau, do Chu Văn Tiếp, Tôn Thất Cốc, Võ Di Nguy, lưu thủ Thăng, tiên phong Túy quản lãnh. Đằng trước đặt một con rồng cỏ để phòng giặc. Sai giám quân Tô (không rõ họ) coi bè hỏa công, đợi khi giặc đến, theo dòng nước chảy mà phóng hỏa để đốt thuyền giặc.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển II - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Quý mão, năm thứ 4 [1783] (Lê ??Cảnh Hưng năm thứ 44, Thanh ??Càn Long năm thứ 48), mùa xuân, tháng giêng, lấy Hồ Văn Lân, Đặng Văn Lượng và Nguyễn Văn Thảo làm Khâm sai chưởng cơ.

Tháng 2, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Thuyền Tây Sơn từ cửa biển Cần Giờ ngược dòng mà lên. Tư khấu giặc là Nguyễn Văn Kim tiến sát đến đồn bờ bắc, đô đốc giặc là Lê Văn Kế tiến sát đến đồn bờ nam. Lưu thủ Thăng và tiên phong Túy đem kỳ binh đón đánh, nhử giặc vào trận. Giám quân Tô phóng lửa đánh hỏa công, gặp thủy triều dâng to, gió đông bắc thổi mạnh, bè lửa lại trở lại đốt cháy thuyền quân ta, binh đều vỡ chạy. Giặc thừa thắng áp tới. Tôn Thất Mân thấy thế không chống nổi, lùi chạy. Nhưng Kế chặt đứt cầu phao, Mân rơi xuống nước chết (năm Gia Long thứ 5, Mân được tòng tự ở Thái miếu ; năm Minh Mệnh thứ 5 đổi cho tòng tự ở Thế miếu ; năm thứ 12 phong làm An Biên quận vương). Dương Công Trừng bị Tây Sơn bắt. Chu Văn Tiếp cũng

lui chạy.

Vua dời đi Ba Giòng, bầy tôi đi theo chỉ còn bọn Nguyễn Kim Phẩm 5, 6 người, số quân không đầy một trăm.

Mùa hạ, tháng 4, quân các đạo lại nhóm họp. Vua sai Nguyễn Kim Phẩm làm tiên phong, Nguyễn Hoàng Đức quản binh Chân Lạp làm hậu ứng. Tôn Thất Dụ, Nguyễn Đình Huyên cùng Lại bộ Hồ Đồng, Binh bộ Minh, Tham nghị Trần Đại Thể, Tham mưu Trần Đại Huề (con Đại Thể) làm Trung quân, Hoảng làm Tả chi, Nguyễn Văn Quý làm Hữu chi, đem quân đóng đồng ở Đồng Tuyên (tên đất). Nguyễn Văn Huệ được tin đem hết bộ binh ra đánh bừa. Quân ta thua, Đồng bị giặc bắt, Minh, Quý, Thuyên, Huề đều chết.

Vua đi Lật Giang. Quân giặc đuổi sau, nước sông chảy mạnh, không có thuyền chở sang được, binh sĩ lội qua, nhiều người chết đuối. Vua vốn biết bơi, lội qua được. Đến sông Đăng Giang, sông có nhiều cá sấu, không thể lội được. Nhân có con trâu nằm bên sông, vua cưỡi để sang sông ; giữa dòng nước thủy triều lên mạnh, trâu chìm mất, cá sấu đến giúp. Vào đến bờ, vua đi Mỹ Tho, lấy thuyền đem quốc mẫu và cung quyến trú ở đảo

Phú Quốc.

Sai Tôn Thất Cốc điều bát thủy binh, cùng với Điều khiển đạo quân Hòa Nghĩa là Trần Đĩnh trở về cửa biển Cần Giờ, dò xét tình thế của giặc. Đĩnh vốn khinh Cốc, việc quân phần nhiều không theo lệnh. Cốc giết đi. Đảng của Đĩnh là Tổng binh Trần Hưng và Lâm Húc (đều người Thanh) bèn giữ Hà Tiên để làm phản. Nguyễn Kim Phẩm vào Hà Tiên thu quân, Thái trưởng công chúa là Ngọc Đảo (con gái thứ bảy của Thế Tông, gả cho Trương Phước Nhạc là Cai cơ thuyền Nghi Giang) cũng đến để trù biện quân nhu. Bọn Hưng úp giết Kim Phẩm, công chúa cũng bị hại. Vua nghe tin giận lắm, thân đem binh thuyền đến đánh. Hưng và Húc đều vỡ chạy (Kim Phẩm được truy tặng là Chưởng dinh quận công).

Tướng Xiêm là Vinh Li Ma đến xin theo. Vinh Li Ma lánh loạn Oan Sản ra ở đảo Cổ Long, nghe tin vua đến Hà Tiên, đem hơn 200 quân của mình, hơn chục chiến thuyền, tình nguyện theo về. Vua nhận.

Tháng 6, vua đóng ở hòn Điệp Thạch [hòn Đá Chồng] thuộc Phú Quốc. Thống suất giặc là Phan Tiến Thận thình lình đem quân đến. Cai cơ Lê Phước Điển xin mặc áo ngự mà đứng ở đầu thuyền. Giặc tranh nhau đến bắt. Vua bèn đi thuyền khác ra đảo Côn Lôn. Tôn Thất Điển (con thứ sáu Hưng Tổ), cùng Chưởng Thủy dinh Tôn Thất Cốc, Chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma đều bị Tây Sơn bắt. Giặc lấy lời dụ dỗ và muốn dùng. Cốc cả tiếng mắng rằng : "Ta thà làm ma ở Đông Phố, không thèm làm tôi của Tây Sơn!" Tôn Thất Điển và Lê Phước Điển lại chửi mắng không ngớt. Tây Sơn đều giết cả. (Tôn Thất Điển năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu; năm Minh Mệnh thứ 5 đổi cho tòng tự ở Thế miếu ; năm thứ 12 phong Thông Hóa quận vương ; Cốc được tặng Chưởng dinh, Phước Điển tặng Chưởng cơ). Vợ Hoảng là Thị Tính bị giặc bắt, đến đây nghe tin Hoảng bị hại, cũng gieo mình xuống sông tự tử.

Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Văn Huệ nghe tin vua ở đảo Côn Lôn, sai người đảng là phò mã Trương Văn Đa đem hết thủy binh đến vây ba vòng, tình thế rất nguy cấp. Bỗng mưa gió nổi lớn, bốn bề mây mù kín mít, người và thuyền cách nhau gang tấc cũng không thấy nhau. Sóng biển nổi lên dữ dội. Thuyền giặc tan vỡ chìm đắm không xiết kể. Thuyền vua bèn vượt các vòng vây, đến đậu ở hòn Cổ Cốt, rồi lại trở về đảo Phú Quốc. Quân lương thiếu thốn, binh sĩ đến nỗi phải hái cỏ tìm củ mà ăn. Có người đàn bà buôn bán ở Hà Tiên tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng. Vua khen ngợi hồi lâu. Thuyền vua gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền buôn đem lá buồm gồi đến dâng.

Vua nghe tin Bá Đa Lộc ở Chan Bôn(1. Chantabun.1) (đất Xiêm), sai người đến mời. Bá Đa Lộc là người Phú Lãng Sa, thường qua lại khoảng Chân Lạp và Gia Định, nhân đến yết kiến vua và xin giúp sức. Vua lấy lễ khách mà đãi. Đến đây vua mời đến, dụ rằng : "Hiện nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào ở yên được, vận nước ta gặp bước gian truân, khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta được không ?". Bá Đa Lộc xin đi. Hỏi lấy gì làm tin. Vua nói : "Đời xưa các nước giao ước cùng nhau, lấy con làm tin. Ta lấy con là Cảnh làm tin. Cảnh 4 tuổi, mới lìa lòng mẹ, ta đem ủy thác cho khanh, mong khanh khéo bảo hộ. Non sông cách trở, đường sá gian nan, nếu có biến cố thì khanh nên giữ Cảnh mà tránh". Bá Đa Lộc lạy xin vâng mệnh. Vua và phi cầm nước mắt đưa con. Sai bọn Phó vệ úy Phạm Văn Nhân và Cai cơ Nguyễn Văn Liêm cùng đi. Cảnh đi rồi, vua bỏ ra một thoi vàng (vàng mười tuổi, 20 lạng) chặt đôi trao cho phi một nửa dặn rằng : "Con ta đi rồi, ta cũng đi đây. Phi ở lại phụng thờ quốc mẫu, chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào, ngày nào, hãy lấy vàng này làm tin" (Năm Minh Mệnh thứ 1, kính khắc và thoi vàng những chữ Thế tổ đế hậu quý mão bá thiên nhật tín vật(2. Vật làm tin ngày Thế tổ và Hoàng hậu chia lìa nhau năm Quý mão. 2), tôn cất ở điện Phụng Tiên).

Vua đến cửa biển Ma Li, dò thăm tình hình hư thực của giặc, gặp hơn 20 thuyền giặc bỗng đến vây chặt. Thuyền vua kéo buồm, nhằm hướng đông mà chạy, chơi vơi ngoài biển suốt bảy ngày đêm, trong thuyền quân sĩ đều khát. Vua lo lắm, ngửa mặt lên trời khấn rằng : "Ta nếu có phận làm vua thì xin cho thuyền này dạt vào bờ biển để cứu lấy mạng cho cả thuyền, nếu không thì chìm đắm giữa biển cũng cam lòng". Dứt lời thì gió yên sóng lặng, trước mũi thuyền nhìn thấy mặt nước đen trắng hai dòng, nước trong sủi lên. Mọi người trong thuyền nếm thử thấy ngọt, kêu lớn lên rằng : "Nước ngọt ! nước ngọt!". Do đó mọi người tranh nhau múc uống, ai nấy đỡ khát. Vua mừng rỡ, sai múc 4, 5 chum, rồi nước biển lại mặn như cũ. Giặc đã lui, thuyền vua lại trở về đảo Phú Quốc. Quốc mẫu nghe tin vua đến mừng. Vua đem hết nỗi cay đắng ngoài biển thuật lại. Quốc mẫu than rằng: "Con ta góc biển bên trời, trải bao gian hiểm, nhưng xem trận gió bão ở Côn Lôn, dòng nước ngọt ở ngoài biển, thì biết lòng trời, vậy con đừng lấy khó nhọc mà nản lòng". Vua lạy tạ nói: "Xin kính vâng lời dạy".

Vua dầu còn ở trong vòng mờ tối, mà những việc gió núi nước biển, điềm ứng rất nhiều, kẻ thức giả ai cũng cho là có chân mệnh đế vương. (Khi vua ở ngoài, bữa ăn không có nhiều vị, thường dùng mắm tôm và bảy vị hồ tiêu, ớt, hồi hương, quế chi, tỏi, gừng, ô mai, tán nhỏ hòa lẫn với nhau, bữa nào cũng dùng, lại cho những người đi theo và bảo rằng : "Lam chướng ở rừng biển, ăn thức ăn này tốt lắm; vả để tỏ ta cùng các khanh tân khổ có nhau").

Sai bọn tiên phong Cai cơ Võ Văn Chính vào Long Xuyên, chiêu tập binh mã để sẵn chờ sai khiến.

Thuyền vua đến cửa biển Đốc Công [Ông Đốc], gặp thuyền của giặc bắt được quản Nguyệt (không rõ họ), sai đưa cho bọn Chính chém để oai thêm thanh thế của quân. Nhưng bọn Chính lại giữ quản Nguyệt để làm hướng đạo. Vua giận trái lệnh, tức thì lấy gươm quy y (gươm này là gươm báu của liệt triều, hễ khi giết người thì đêm phải tháo nắp ra trước, vua ghét nó hay giết người, nên đem cúng cho Phật, cho nên gọi tên như thế) trao cho Trương Phước Giáo đi chém quản Nguyệt mà khiển trách bọn Chính. Quản Nguyệt trước giữ Long Xuyên, tàn ngược nhân dân, ai cũng oán ghét; khi nghe tin quản Nguyệt bị giết chẳng ai là chẳng hả lòng.

Tháng 8, thuyền vua ở Long Xuyên. Lưu thủ giặc là Nguyễn Hóa dò biết được, sai hơn 50 chiếc chiến thuyền phục ngầm ở cửa biển Đốc Công để triệt đường đi. Cai cơ Nguyễn Văn Giảng và Cai đội Nguyễn Văn Oai đêm đi tuần ngoài biển bắt được một chiếc thuyền tuần của giặc và phó chiến giặc là Khương (không rõ họ). Vua nhân hỏi Khương mới biết được cái kế phục binh của Hóa, tức thì sai chèo nhanh ra cửa biển, Hóa đuổi không kịp. Vua bèn tha tội cho Khương, sai đi theo quân.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ đem quân về Quy Nhơn, lưu bè đảng là phò mã Trương Văn Đa và chưởng tiền Bảo (không rõ họ) ở lại đóng giữ Gia Định.

Thuyền vua ở hòn Chông, rồi sang hòn Thổ Châu. (Từ Gia Định thất thủ, xa giá phải dời luôn, tòng thần là bọn Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, Đỗ Văn Hựu, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm và Nguyễn Đức Xuyên theo luôn, trên bộ thì khiêng kiệu, dưới nước thì buồm chèo ; có khi trong thuyền hết lương, đến mấy ngày không được ăn. Vua thương tướng sĩ khó nhọc, có khi tự mình chèo thay, bọn Huy thấy thế lại càng đem lòng trung nghĩa mà cố gắng, không chút trễ biếng).

Mùa đông, tháng 10, Chưởng cơ Hồ Văn Lân đánh giặc ở Tân Châu, Điều bát giặc là Nguyễn Kế Nhuận lui chạy. Lân tiến quân đến Cần Thơ, lại đánh bại lưu thủ giặc là Nguyễn Hóa, bắt được 13 chiếc thuyền đi biển.

Chưởng cơ Tôn Thất Hội (em chưởng dinh Tôn Thất Dụ) thu họp tướng sĩ sở thuộc giữ đồn Tinh Phụ [Giòng Sao] để chống giặc. Giặc đánh vây mà không hạ được. Tiền quân Lê Văn Quân cũng thu quân mới theo để giữ sông Tân Hòa (tên thôn) đánh nhau với giặc.

Nước Chà Và đánh nước Chân Lạp. Nước Chân Lạp loạn, vua là Nặc ấn chạy sang Xiêm, vua Xiêm giữ lại, rồi sai Chiều Chùy Biện trấn giữ lấy nước.

Tháng 12, Ngoại hữu chưởng dinh lãnh đại tư nông là Tôn Thất Dụ chết. (Truy tặng Hữu quân đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công).

Giáp thìn, năm thứ 5 [1784] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 45, Thanh ? Càn Long năm thứ 49), mùa xuân, tháng giêng, vua trú ở đảo Thổ Châu.

Tháng giêng nhuận, Chưởng cơ Hồ Văn Lân đem quân sở bộ tiến đến đồn Tinh Phụ. Tôn Thất Hội nghe tin có viện binh đến, trổ vòng vây mà ra, thẳng tới sông Tân Hòa, hợp với quân Lê Văn Quân. Phò mã giặc là Trương Văn Đa đuổi đánh. Các tướng thua chạy. Quân chạy sang Xiêm.

Tháng 2, vua sang Xiêm La. Trước là sau cuộc bại trận ở Bến Nghé, Chu Văn Tiếp chạy sang Xiêm cầu viện. Vua Xiêm bằng lòng, sai Văn Tiếp theo đường núi trở về, mà sai tướng là Thát Xỉ Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, tiếng là sang cứu viện mà ngầm dặn đón vua sang nước họ. Văn Tiếp cũng có mật biểu ủy người theo quân Xiêm mang về. Vua nhận được biểu rất mừng, bèn đến Long Xuyên họp với tướng Xiêm. Tướng Xiêm cố mời vua sang Xiêm. Vua bất đắc dĩ phải theo lời. Trước sai cai cơ Ngô Công Quý rước quốc mẫu và cung quyến dời sang ở đảo Thổ Châu. (Đầu thì quốc mẫu và cung quyến ở Lạp Khê. Vua sắp đi Xiêm nên sai Công Quý rước sang Thổ Châu. Vua sang Xiêm, quốc mẫu thương nhớ không nguôi. Công Quý nói : "Thần vâng mệnh trông coi hầu hạ, nếu có sự gì thì thần phải chịu tội". Tức thì đem cả vợ con rước quốc mẫu và cung quyến theo đường rừng mà đi. Nghe ở trong rừng có tiếng người, Công Quý leo lên cây để trông, thấy vài chục quân Xiêm đương họp nhau bắt người. Công Quý cả sợ, liền bỏ vợ con, đón quốc mẫu và cung quyến tìm đường chạy mau đến cửa Đại, được một chiếc thuyền con, mừng nói: "Đây là trời giúp!" Bèn rước quốc mẫu và cung quyến xuống thuyền ra Thổ Châu để ở).

Vua bèn đi một thuyền sang Xiêm, bầy tôi đi theo có Tôn Thất Hội, Trương Phước Giáo, Hồ Văn Bôi, Lưu Văn Trung, Nguyễn Văn Trị,

Nguyễn Văn Huấn, Trần Văn Xạ, Nguyễn Văn Tồn (người Chân Lạp),

Bùi Văn Khoan, Lê Thượng và nội trù Nguyễn Văn Hội, hơn 30 người, quân theo cũng vài mươi người. Lại bộ Bạch Doãn Triều theo vua không kịp, chết ở giữa đường. Vua Xiêm nghe tin vua sắp tới, sai người vời

Chu Văn Tiếp về.

Tháng 3, vua đến thành Vọng Các. Vua Xiêm đón rước ủy lạo hết lễ. Vua buồn thương khôn xiết. Vua Xiêm nói : "Chiêu Nam Cốc nhát sao ? (Vua Xiêm tự gọi là vua Phật, mà gọi vua ta là vua trời, chiêu tức là vua, Nam Cốc tức là Nam Việt thiên vương vậy). Vua nói, "Không phải thế! Nước tôi truyền nối đã hơn 200 năm : nay vận nước nửa chừng suy đốn, tôi tài kém không thể giữ được ngôi thiêng, vì thế mà buồn ! Nghĩ sao rửa được nhục thù, đem giặc Tây Sơn mà ăn thịt nằm da, thì dù chết cũng cam tâm, sao lại có nhát !" Vua Xiêm khen phục lời nói, hỏi đến việc nước. Nói chưa hết thì Chu Văn Tiếp từ ngoài đi vào, đến trước mặt vua quỳ ôm gối vua khóc không thôi. Vua Xiêm thấy mà cảm động, bảo bầy tôi rằng : "Chiêu Nam Cốc có bầy tôi như thế là có lòng trời". Bèn ước hẹn giúp quân để mưu đồ khôi phục. Vua thứ hai nước Xiêm nhân đó nhắc đến việc năm trước giảng hòa với Nguyễn Hữu Thụy đã có thề ước với nhau là gặp hoạn nạn thì cứu nhau, thì ngày nay xin phải ra sức. Bèn đưa những vật Nguyễn Hữu Thụy tặng là cờ đao và gươm ra để làm tin, rồi định ngày cử binh.

Vua sai Văn Tiếp sửa sang thuyền ghe súng ống, sẵn sàng để chờ điều khiển. Cho Mạc Tử Sinh làm cai cơ. Đầu là Mạc Thiên Tứ và quyến thuộc bị vua Xiêm giết hại, duy những người con thứ là Tử Sinh, Tử Tuấn, Tử Thiêm và cháu là Công Bình, Công Du, Công Thê, Công Tài còn nhỏ được thoát, đến đây mới đến hành tại bái yết. Vua nghĩ thương dòng dõi công thần, cho Tử Sinh làm Cai cơ, sai hầu ở bên cạnh.

Mùa hạ, tháng 6, vua từ nước Xiêm đem quân về Gia Định. Vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 2 vạn thủy quân và 300 chiến thuyền để giúp.

Vua lấy Chu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, điều bát các quân. Ngày Nhâm thìn, xuất phát từ thành Vọng Các, đi ra cửa biển Bắc Nôm.

Mùa thu, tháng 7, quân ta tiến đánh được đạo Kiên Giang, phá được Đô đốc giặc là Nguyễn Hóa ở sông Trấn Giang, rồi thẳng đến xứ Ba Xắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc, chia quân đóng đồn.

Lấy Mạc Tử Sinh làm Tham tướng trấn Hà Tiên, quản lý binh dân sự vụ.

Sai Cai cơ Trịnh Ngọc Trí đem mật chỉ đến các đồn chiêu dụ những bề tôi cũ và những sĩ dân hào kiệt. Ngọc Trí đến Liêm áo [Vũng Liêm], phó đốc chiến giặc là Lý (không rõ họ) vâng mệnh đem quân sở bộ đến hàng.

Người Sa Đéc có người tự xưng là Tôn Thất Thăng khởi binh ở Sa Đéc, nhân dân có nhiều người đi theo. Vua ở Xiêm nghe tin ấy, đã ngờ là giả dối. Kịp khi xa giá về Trà Ôn, sai người vời người kia đến quân thứ, hỏi ra sự trạng, bèn sai giết đi.

Bọn Cai cơ Nguyễn Tiến Văn từ cuộc bại trận ở Dốc Ngư, đã đầu hàng Tây Sơn, đến đây nghe tin vua hồi loan, đến cửa quân xin chịu tội, vua đều tha cho.

Mùa đông, tháng 10, Ngoại tả chưởng dinh bình tây đại đô đốc Chu Văn Tiếp đem thủy binh đánh giặc ở sông Mân Thít. Chưởng tiền giặc là Bảo cự chiến hồi lâu. Văn Tiếp nhảy lên thuyền, bị giặc đâm trúng. Vua vẫy quân đánh gấp, chém được Chưởng tiền Bảo. Quân giặc bị tử thương rất nhiều, phải bỏ thuyền chạy. Phò mã giặc là Trương Văn Đa chạy đến Long Hồ. Quân ta bắt được thuyền ghe khí giới rất nhiều. Văn Tiếp bị thương nặng, hét lớn lên rằng : "Trời chưa muốn dẹp giặc Tây Sơn à !" Rồi chết. (Lại có một thuyết nói trận ấy quân ta đã phá được thuyền giặc đậu ở bờ sông, Văn Tiếp nhảy qua thuyền khác bị mũi gươm trần đâm phải mà chết). Vua thương tiếc điếng người than rằng : "Văn Tiếp cùng ta chung cuộc vui buồn, nay đến nửa đường bỏ ta, thực khiến tình người khó nỗi". Cho gấm lụa để hậu táng. (Năm Minh Mệnh thứ 5, tòng tự ở Thế miếu, năm 12, phong Lâm Thao quận công).

Tháng 11, lấy Lê Văn Quân làm Khâm sai tổng nhung chưởng cơ. Quân đổng lãnh đại quân để đánh giặc, tiến đánh thắng được hai đồn Ba Lai và Trà Tân. Chưởng cơ Đặng Văn Lượng chết ở trận (truy tặng Chưởng dinh).

Thái giám Lê Văn Duyệt và đội trưởng Nguyễn Văn Khiêm đến hành tại bái yết. Trước là sau trận Đồng Tuyên, Văn Duyệt và Văn Khiêm theo xa giá không kịp, bị giặc bắt được, đến đây mới lẩn về.

Sai Tham tướng Mạc Tử Sinh giữ Trấn Giang, tham tán Nguyễn Thừa Diễn giữ Bình áo [Vũng Bèo].

Cai đội Nguyễn Văn Thành đi Bát Chiêm và Quang Hóa thu họp dư chúng của quân Đông Sơn.

Vua thấy quân Xiêm tàn bạo, đến đâu là cướp bóc đấy, nhân dân ta oán rất nhiều, bảo các tướng rằng : "Muốn được nước phải được lòng dân. Nay Chu Văn Tiếp đã mất, quân Xiêm không ai chế ngự được. Nếu được Gia Định mà mất lòng dân thì ta cũng không nỡ làm. Thà hãy lui quân để đừng làm khổ nhân dân".

Tháng 12, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc nghe tin cáo cấp, tức thì sai Nguyễn Văn Huệ đem binh thuyền vào cứu Sài Gòn. Huệ đến, đánh vài trận không được, muốn đem quân về. Có tên phản thần là Lê Xuân Giác bày kế cho Huệ đem hết quân mạnh mai phục ở Rạch Gầm và ở sông Xoài Mút (thuộc tỉnh Định Tường), rồi dụ quân Xiêm lại đánh. Tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương không hiểu địa thế khó dễ ra sao, cậy mình thắng luôn, bèn dẫn quân tiến thẳng đến Mỹ Tho, cuối cùng bị phục binh của giặc thủy bộ hai mặt ập đánh. Chiêu Tăng và Chiêu Sương thua to bỏ chạy, chỉ còn vài nghìn lính theo đường núi Chân Lạp mà chạy về. Lê Văn Quân và các quân cũng đều vỡ chạy. Cai cơ quản Nội thủy Trung thủy là Nguyễn Văn Oai chết trận (truy tặng Chưởng cơ).

Vua đi Trấn Giang. Bầy tôi theo hầu chỉ có bọn Hộ bộ Trần Phước Giai, Cai cơ Nguyễn Văn Bình, Thái giám Lê Văn Duyệt hơn mười người. Đi đường hết lương, có người dân đem cơm ngô dâng. Mạc Tử Sinh bỗng đi thuyền tới. Vua bèn sai Tử Sinh và Cai cơ Trung (không rõ họ, cậu Chu Văn Tiếp) sang Xiêm báo tin.

Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cùng Bá Đa Lộc đem hoàng cả Cảnh sang Tây.

ất tỵ, năm thứ 6 [1785] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 46, Thanh ? Càn Long năm thứ 50), mùa xuân, tháng giêng, vua trú ở đảo Thổ Châu.

Hoàng cả Cảnh sang tới Tiểu Tây Dương(1. Thuộc địa Pháp ở ấn Độ.1), gặp khi trong nước Đại Tây có biến, bèn đỗ ở thành Phong Tỳ Sê Ri(2. Pondichéry. 2) nước Tiểu Tây.

Tháng 3, ngày Canh tuất, vua lại sang Xiêm. Quân Tây Sơn đuổi bức sát đến Thổ Châu. Vua lại sang đảo Cổ Cốt, gặp Cai cơ Trung đem binh thuyền Xiêm đến đón, vua bèn sang Xiêm. Bầy tôi đi theo có Thiếu phó Tôn Thất Huy (con ý công Tôn Thất Bảo), Chưởng cơ Tôn Thất Hội, Lưu thủ Đoàn Văn Khoa, Cai cơ Trương Phước Dĩnh, Nguyễn Văn Định, Nguyễn Văn Bình, Mai Đức Nghị, Nguyễn Văn Thụy, Trương Phước Luật, Tống Phước Ngoạn, Lê Thượng, Nguyễn Tân, Dụ Kỷ (không rõ họ), Cai đội Nguyễn Văn Thành, Đỗ Văn Hựu, Tô Văn Đoài, Nguyễn Văn Mẫu, Lê Văn Luật, Nguyễn Văn Thịnh, Đoàn Công Duệ, Nguyễn Thái, Tống Đồng, Hộ bộ Trần Phước Nhai, Tri bạ Phan Thiên Phước, Tham mưu Ngô Hữu Hựu, Thư ký Võ Tiến Sinh, Thái giám Lê Văn Duyệt, Đội trưởng Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Văn Khiêm ; quân đi theo hơn 200 người, thuyền 5 chiếc (thuyền Phượng, thuyền Bằng Phi, thuyền Hùng Trì, thuyền Chính Nghi, thuyền Ô) mà thôi.

Mùa hạ, tháng 4, vua đến thành Vọng Các. Vua Xiêm nhân hỏi tình trạng sự thất bại. Vua nói : "Ngài trọng tình láng giềng giao hảo cho quân sang giúp, nhưng vì Chiêu Tăng Chiêu Sương kiêu ngạo và phóng túng, tới đâu cũng tàn bạo, dân đều oán cả, cho nên đến nỗi thất bại". Vua Xiêm giận lắm, muốn chém Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Vua lại can giải rằng : "Hai tướng đành là có lỗi, nhưng công việc nên chăng là bởi tại trời, lòng trời hãy còn chờ đợi, vậy xin rộng tha hai tướng". Vua Xiêm bèn khuây giận.

Vua cho rằng thế giặc Tây Sơn còn đương mạnh chưa có thể thừa cơ được, bèn xin trú ở Long Kỳ (Xiêm gọi là Đồng Khoai, ở ngoại thành Vọng Các), sai người đi rước quốc mẫu và cung quyến về hành tại.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ dẫn quân về Quy Nhơn, lưu bè đảng là Đô úy Đặng Văn Trấn giữ Gia Định.

Tháng 5, Lê Văn Quân đem 600 quân sở bộ đến hành tại bái yết; các tướng sĩ cũng đều tìm đường kế đến, một ngày một nhiều.

Chuyên làm đồn điền để cấp lương thực cho quân. Lại sai ra hải đảo mà đóng chiến thuyền, hoặc ngầm về Gia Định để mộ người nghĩa dũng, dần làm kế hưng phục.

Mùa đông, tháng 12, Điều khiển Dương Công Trừng đánh giặc ở Long Xuyên. Công Trừng từ khi thua trận Dốc Ngư, bị Tây Sơn bắt được. Nghe tin vua trú ở thành Vọng Các, nhân lúc hở đem quân sở thuộc và 3 chiếc chiến thuyền dong ra biển, đến Đại Đồng (bờ biển Xiêm La), vừa Cai cơ Lê Thượng và Nguyễn Tần cũng vâng mệnh đem 10 chiếc binh thuyền ngầm đến Long Xuyên dò tình hình giặc, bèn cùng nhau hợp quân, nhân đêm đánh úp phá được đồn Tây Sơn ở Long Xuyên, bắt được bình nhung của giặc là Trực (không rõ họ). Bọn Công Trừng đóng quân ở Ông Do (tên đất), sai Nguyễn Văn Nhân và Tống Văn Khương hiến phù ở hành tại.

Vua nói : "Long Xuyên là đất trọng yếu của Gia Định, thế nào giặc cũng giành. Vả Ông Do lại ở mé biển, đường thủy đường bộ đều không tiện cả, nay các tướng lấy cô quân giữ đó, quân giặc chợt đến thì lấy gì mà đối phó ?" Tức thì sai Văn Nhân kíp báo cho các tướng dời thuyền ra hải đảo để tính sau. Văn Nhân chưa đến thì Thái bảo giặc là Phạm Văn Tham đã từ Sài Gòn đem quân đi tắt đến đánh úp. Bọn Công Trừng quân ít không giữ nổi, Lê Thượng, Nguyễn Tần đều chết trận. Công Trừng lại bị giặc bắt lần nữa. Tham hỏi : "Mày đã về với chúng ta, chúng ta đãi mày rất hậu, cớ sao mày lại làm phản ?" Công Trừng mắng rằng : "Ta hàng các người là dối, bỏ các người đi là nghĩa. Chủ ta còn đó, ta không có lý gì lại hàng các người! Muốn giết cứ giết, không phải hỏi nhiều". Tham liền giết. Công Trừng đến lúc chết vẫn chửi giặc không dứt tiếng. Vua nghe tin than rằng : "Các tướng không biết binh pháp cho nên thua như thế". Thương tiếc không thôi. (Công Trừng là người Long Xuyên).

Bính ngọ, năm thứ 7 [1786] (Lê ? Cảnh Hưng năm thứ 47, Thanh ??Càn Long năm thứ 51), mùa xuân, tháng giêng, vua trú ở hành tại Vọng Các. Tháng 2, Diến Điện do ba đường tiến binh xâm lấn đất Sài Nặc nước Xiêm. Vua Xiêm tự đem quân chống cự, xin vua giúp kế hoạch. Vua nói: "Diến Điện cất quân từ xa lại, chở lương đi hàng nghìn dặm, kể đã mệt rồi. Tôi xin giúp sức, đánh chóng hẳn được!" Vua Xiêm tiến binh ngay. Vua tự đem quân của mình trợ chiến, sai Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành đi trước, dùng ống phun lửa để đánh. Quân Diến Điện sợ chạy, chết không kể xiết, bị bắt 500 người. Vua Xiêm thán phục, trở về đem vàng lụa đến tạ, muốn lại giúp quân cho vua thu phục Gia Định.

Vua họp các tướng bàn. Nguyễn Văn Thành tâu rằng : "Vua Thiếu Khang chỉ có một lữ còn dựng được cơ nghiệp nhà Hạ. Ta nuôi sức mạnh mà thừa chỗ sơ hở thì việc còn có thể làm được, chứ nếu mượn người ngoài giúp, đưa Di Địch vào trong tâm Phước thì sợ để lo về sau. Không bằng cứ yên tĩnh để chờ cơ hội là hơn". Vua khen phải, việc bèn thôi.

Tháng 3, sai bọn Tổng nhung chưởng cơ Hoàng Tiến Cảnh, Tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Nhàn, Cai cơ Võ Di Nguy, Nguyễn Văn Định, Trương Phước Luật, đem quân ra núi Giàng Khảm đóng một chục chiến thuyền.

Quân Chà Và đánh Xiêm. Vua sai Lê Văn Quân đem thủy binh cùng với vua thứ hai nước Xiêm đánh dẹp được. Vua Xiêm trọng Quân là tướng giỏi, đãi ngộ rất hậu.

Mùa hạ, tháng 5, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tiến đánh Phú Xuân, quân Trịnh thua to. Trước là Huệ muốn đánh Phú Xuân, Nguyễn Văn Nhạc ngăn lại nói rằng : "Con ong có nọc, đừng đến cho nó đốt". Vừa khi tướng Trịnh là Phạm Ngô Cầu sai Nguyễn Phu Như ngầm sang Tây Sơn để do thám, Phu Như vốn quen với tướng giặc Nguyễn Hữu Chỉnh, nói với Chỉnh về tình hình Thuận Hóa có thể lấy được. Chỉnh nói với Nhạc, Nhạc sai Chỉnh làm hữu quân, Võ Văn Nhậm làm tả quân, Nguyễn Văn Lữ đốc thủy quân, theo Huệ quản suất để tiến đánh Phú Xuân. Khi bộ binh của giặc đến Hải Vân, Chỉnh biết Cầu là người nhút nhát, gửi thư đi trước dụ hàng. Cầu được thư, ngầm có ý đón giặc. Lúc giặc đến, phó tướng Trịnh là Hoàng Đình Thể ra thành cự chiến, thuốc đạn không được tiếp tế, sai người về hỏi Cầu thì Cầu không cho. Thể giận lắm, muốn vào thành chém Cầu trước rồi mới ra đánh, quân hơi lùi thì giặc thừa thế tiến. Cầu ở trên thành dựng cờ trắng. Quân Tây Sơn vừa đánh trống vừa reo la tiến vào. Thế cùng hai con đều chết trận. Cầu tự trói tay ra hàng Tây Sơn, sau bị giết ngay. Tây Sơn thừa thắng chia quân tới Quảng Bình. Thủ tướng Trịnh trông bóng vỡ chạy. Tây Sơn bèn chiếm giữ Thuận Hóa.

Tháng 6, Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân Tây Sơn theo đường biển thẳng tới đô thành An Nam (tức tỉnh lỵ Hà Nội ngày nay). Nguyễn Văn Huệ sai Nguyễn Văn Lữ giữ Phú Xuân, tự đem thủy binh tiến kế ra. Tướng Trịnh là Hoàng Phùng Cơ cự đánh không được, sáu người con đều chết ở trận. Cơ trốn chạy, Trịnh Đống cũng chạy, bị người Tây Sơn là Nguyễn Trang bắt nộp cho giặc. Đống tự vẫn chết. Chỉnh liền bày kế cho Huệ giả tiếng phù Lê, ép xin vua Lê ra chầu cho Huệ vào yết kiến, dâng đồ bản và sổ sách trong nước. Vua Lê đem người con gái út là Ngọc Hân gả cho.

Nguyễn Văn Nhạc nghe tin Huệ đã diệt Trịnh rồi, ngờ là phản mình, bèn dẫn quân đi gấp đường theo ra, cướp hết của cải châu báu rồi đem nhau cùng về. Bắc Hà rối loạn, không ai là không nghiến răng với Chỉnh. Trận này anh em Tây Sơn tranh nhau vì tài và sắc, bởi thế sinh ra ác cảm với nhau.

Bá Đa Lộc đem hoàng cả Cảnh sang nước Đại Tây, Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cho Hồ Văn Nghị phụng biểu về hành tại ở Vọng Các báo tin, rồi ở lại hầu vua.

Mùa thu, tháng 7, vua Lê nước An Nam băng, đặt thụy là Hiển tông Vĩnh hoàng đế. Cháu là Duy Kỳ nối ngôi, lấy năm sau là Đinh mùi làm năm Chiêu Thống thứ 1 [1787].

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc sai Nguyễn Văn Huệ giữ Phú Xuân, tự dẫn quân về Quy Nhơn. Trước kia anh em Nhạc dấy loạn, Huệ là người rất giỏi. Đến đây Huệ đã đánh được Bắc Hà, muốn tự lập, bèn nói rõ tội ác của Nhạc, dẫn quân vây thành Quy Nhơn. Nhạc đóng thành chống giữ, báo tin gấp cho bè đảng là Đặng Văn Trấn. Trấn để cho Tham đốc giặc là Trần Tú giữ Gia Định, tự đem quân về cứu viện. Khi đến Tiên Châu ở Phú Yên thì bị quân Huệ đón đánh bắt được. Trấn thua rồi, Huệ cùng Nhạc đánh nhau, giết hại rất nhiều, rồi giảng hòa. Huệ lui quân giữ từ Thăng Hoa, Điện Bàn, trở về Bắc, đóng ở Phú Xuân, tự xưng là Bắc Bình Vương. Từ đấy, thế Tây Sơn rối từ trong, không còn rảnh mà nhòm ngó miền Nam nữa, Tháng 9 nhuận, tướng giặc là Trần Tú giữ Gia Định, những hào kiệt sở tại dò thấy sơ hở muốn nổi lên. Người Trấn Biên là Nguyễn Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Tuyết đều dựng cờ nghĩa đánh Tây Sơn. Người Phiên Trấn là Lê Công Trấn, Phạm Điền cũng họp quân mưu đánh úp đồn Bến Nghé, công việc bị lộ, Tú úp bắt được giết.

Mùa đông, tháng 12, sai Cai cơ Phạm Văn Châu và Nguyễn Văn Định về Hà Tiên, chiêu tập nghĩa binh, dò thăm thế giặc.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển III - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Đinh mùi, năm thứ 8 [1787] (Lê ? Chiêu Thống năm thứ 1, Thanh ? Càn Long năm thứ 52), mùa xuân, tháng giêng, vua trú ở hành tại Vọng Các. Người nước Bút Tu Kê(1. Nước Bồ Đào Nha (Portugal)1) là Ăng Tôn Nui đưa quốc thư cùng vải tây, súng tay đến hành tại để dâng, nói rằng hoàng cả Cảnh cầu nước ấy giúp quân, hiện đã có 56 chiếc thuyền tại thành Cô A(2. Goa, thuộc địa của Bồ Đào Nha ở ấn Độ. 2) để giúp. Lại đem lễ vật biếu vua Xiêm, và xin đón vua sang nước mình. Vua Xiêm thấy y giúp quân cho ta, rất không bằng lòng.

Vua bảo kín Ăng Tôn Nui hãy về.

Tháng 2, giám quân Tống Phước Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô, Cai cơ Tống Phước Ngọc, Cai bạ Nguyễn Văn Thiệm đến hành tại bái yết. Phước Đạm nhân nói : "Anh em giặc Tây Sơn giao binh chém giết lẫn nhau, Đô úy giặc là Đặng Văn Trấn đã từ Gia Định đem hết quân bộ thuộc về cứu viện Quy Nhơn, Gia Định đơn yếu, có thể thừa thế đánh được, xin hồi loan để tính việc khôi phục". Vua lấy làm phải. Phước Đạm trình bày việc võ bị, trù hoạch việc quân cơ. Vua tin dùng lắm.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc sai Nguyễn Văn Lữ giữ Gia Định, xưng ngụy hiệu là Đông Định Vương và sai Thái bảo giặc là Phạm Văn Tham giúp việc.

Mùa thu, tháng 7, ngày Bính dần, vua tự nước Xiêm về, trú ở Hòn Tre [Trúc Dữ]. Người Xiêm từ sau cuộc bại trận năm Giáp thìn, miệng tuy nói khoác mà lòng thì sợ Tây Sơn như cọp, cho nên đối với vua dẫu tình lễ có trung hậu hơn, nhưng sự thực là giữ lại đó mà thôi. Vua thầm tính trong lòng biết rốt cuộc họ không thể giúp mình được, túng sử có giúp cũng vô ích. Bởi thế vua quyết chí hồi loan, trước sau Phạm Văn Nhân về Hòn Tre chỉnh bị thuyền ghe để đợi. Vua lại nghĩ rằng nếu nói rõ cho họ biết thì họ hẳn lấy cớ lần trước giúp không thành công mà sẽ tìm lời ngăn đón, bèn nhân đêm viết thư tạ ơn để ở hành tại, rồi rước quốc mẫu và cung quyến xuống thuyền, vẫy quân chèo mau ra cửa biển Bắc Nôm. Đến tang tảng sáng, vua thứ hai nước Xiêm biết, đi thuyền thoi nhẹ đuổi theo nhưng không kịp, phải trở về.

Thuyền vua đến Hòn Tre đậu lại. Cai cơ Trung cướp thuyền buôn Xiêm và giết hết mọi người. Vua sai chém, đưa thủ cấp sang Xiêm. Vua Xiêm sai người đến tạ.

Thuyền vua đến đảo Cổ Cốt. Người Thanh là Hà Hỷ Văn (người đảng Bạch Liên giáo ở Tứ Xuyên nước Thanh, tự xưng là Thiên địa hội, cướp bóc ở miền Mân Việt), đem binh thuyền về theo. Hỷ Văn đầu ở đảo Côn Lôn, ý muốn theo về giúp. Vua nghe tin, khiến Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Thái Nguyên đến tiếp. Hỷ Văn đem quân đi theo, nhưng bị gió bão không đến nơi được. Tới nay mới đến bái yết, được trao chức quản Tuần hải đô dinh đại tướng quân. Những người thuộc hạ là bọn Lương Văn Anh, Chu Viễn Quyền, Trương Bát Quan, cả thảy 10 người, được trao các chức Khâm sai tổng binh, thống binh, phi kỵ úy.

Sai Võ Di Nguy và Phạm Văn Nhân ở lại hầu quốc mẫu và cung quyến tại đảo Phú Quốc.

Thuyền vua đến Long Xuyên. Nguyễn Văn Trương đem binh thuyền sở bộ đến xin theo. Văn Trương là người huyện Lễ Dương dinh Quảng Nam, tài lược hơn người. Đầu theo Tây Sơn làm Chưởng cơ ; trong trận Long Xuyên, vua chạy đi Trà Sơn (thuộc huyện Long Xuyên), Văn Trương đuổi theo sau gần kịp. Chợt trong rừng không gió mà cây to đổ xuống lấp mất đường, Văn Trương cho là có thần, dẫn quân trở về. Đến bấy giờ trấn giữ Long Xuyên, nghe tin vua đã về, trước sai thuộc hạ là Hoàng Văn Điểm ra đón ở ngoài biển, tự đem hơn 300 quân tinh nhuệ và 15 chiến thuyền bày ở bên đường để bái yết. Vua rất vui lòng, trao cho chức Khâm sai chưởng cơ, quản đạo tiên phong của Thủy dinh thuộc Trung quân. Thuộc hạ đều được trao các chức cai cơ, cai đội.

Tháng 8, sai Cai cơ Ngô Công Quý giữ đạo Long Xuyên.

Nguyễn Văn Trương tiến đánh phá vỡ đồn Trà Ôn.

Nguyễn Văn Nghĩa đem quân sở bộ đến đón để bái yết. Vua trao cho chức Chưởng cơ, sai theo quan quân đi đánh giặc.

Tháng 9, thuyền vua tiến đến cửa biển Cần Giờ. Nghĩa quân bốn phương kéo lại như mây để hưởng ứng, tiếng quân lừng lẫy.

Nguyễn Văn Lữ nghe tin quân ta đến, dẫn quân lánh đi Lạng Phụ (thuộc tỉnh Biên Hòa), đắp lũy đất để ở. Thái bảo giặc là Phạm Văn Tham giữ Sài Gòn, đóng thành giữ vững, quan quân đánh mãi không hạ được.

Vua dùng kế để phá. Nhân bắt được một chiếc thuyền mui vàng lớn của giặc và một tờ bằng sắc, lại ở dong thuyền bắt được Thị Lộc là vợ lẽ yêu của Hộ đốc Lý (không rõ họ), không giết mà đối xử hậu, rồi theo tự dạng ấn triệu ở tờ bằng sắc ấy mà giả làm bức thư kín của Nguyễn Văn Nhạc nói Tham là người kiêu ngạo ngang ngược sai Lữ thiết kế giết đi, cho Thị Lộc cầm đến cáo với Tham. Tham xem thư sợ quá, tức thì giả kéo cờ trắng, rồi đem thủy quân thẳng tới Lạng Phụ. Lữ trông thấy cờ trắng, ngờ là Tham đã đầu hàng, bèn chạy về Quy Nhơn, rồi chết. Tham lại đóng giữ Sài Gòn.

Vua sai các tướng đem quân về Hổ Châu. Đến sông Ba Việt, Điều bát giặc là Nguyễn Kế Nhuận đem hơn 10 chiến thuyền đến đầu hàng. Vua nhận, trao cho chức Hữu quân dinh khâm sai bình tây đô đốc.

Lê Văn Quân đánh, phá giặc ở Ba Lai. Ngự úy giặc là Nguyễn Văn đóng quân ở Ba Lai, bày chiến thuyền chặn cửa sông để ngăn quân ta. Quân xin tự lẫn vào trong giặc đốt lửa làm rối giặc để đại binh tiếp ứng ở ngoài.

Sai Hồ Văn Bôi, Nguyễn Văn Trị, Trương Phước Giáo và Nguyễn Văn Tồn cùng đi với Quân, đến ngoài đồn giặc, nấp ở dưới gầm cầu. Gặp trời đã tối, binh giặc có vài người ra lấy nước, Quân bắt lấy hỏi, biết được tên họ và khẩu hiệu của giặc, bèn giết đi, rồi cùng với bọn Hồ Văn Bôi dùng khẩu hiệu giặc mà vào. Giặc đương uống rượu đêm, Quân ở trong đồn phóng lửa đốt. Lửa bốc, giặc quả rối loạn. Quân chạy thẳng đến chém Văn. Binh ta ập đến đánh, giặc tan vỡ, xác chết đầy sông. Quan quân thu được ghe thuyền khí giới rất nhiều, bèn thừa thắng tiến đóng ở Mỹ Tho.

Thái bảo giặc là Phạm Văn Tham xâm phạm Mỹ Tho. Quân ta đánh không lợi, Cai cơ Nguyễn Đăng Vân chết. Đăng Vân giỏi võ nghệ, sức mạnh hơn người, khi còn nhỏ theo Nguyễn Văn Huệ, Huệ rất yêu, nuôi làm con, lớn lên, Vân biết Tây Sơn làm việc tiếm ngụy, bèn muốn bỏ chỗ tối theo chỗ sáng. Vua đương trong khi bôn ba mà được nước ngọt ở biển, gió bão Côn Lôn, nhiều điềm kỳ dị, khiến Đăng Vân biết mệnh trời đã tựa, nên quyết ý đi theo. Giặc mỗi khi dò biết chỗ vua ở, đem hết quân đuổi theo, thì Đăng Vân bỗng cáo ốm không đi. Kịp vua đi Vọng Các. Đăng Vân bèn lẩn ra hải đảo đến hành tại xin hàng Vua tin dùng, trao cho chức Cai cơ. Vân đem thủy quân đánh Tham thua, bị Tham bắt, Vân chửi mắng sau đó bị giết (truy tặng Chưởng cơ).

Vua trú ở Hổ Châu, thu họp tướng sĩ hơn 300 người, chiến thuyền hơn 20 chiếc, sai Nguyễn Văn Tồn chiêu tập dân Phiên hai xứ Trà Vinh và Mân Thít được vài nghìn người, biên bổ làm lính, gọi là đồn Xiêm binh (năm Gia Long thứ 9 đổi làm đồn Uy Viễn), cho Tồn làm Thuộc nội cai đội để cai quản.

Đặt hai vệ Vũ Cự nhất và Vũ Cự nhị, lấy dân ở hai thôn An Hòa đông và Tân Hòa tổng Tân An dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc huyện An Xuyên tỉnh An Giang) sung vào. Vua từ nước Xiêm trở về, dân hai thôn đều đóng thuyền chứa sẵn lương thực, xin theo quan quân đánh giặc. Vua khen, sai đặt làm hai vệ ấy.

Mùa đông, tháng 10, sai Hồ Văn Lân đánh giặc ở sông Lương Phú. Đô đốc giặc là Nguyễn Văn Mân thua chạy sang Thán Lung. Chưởng cơ Châu và Hữu hiệu Huấn (đều không rõ họ) đem binh thuyền sở bộ đến đầu hàng, vua cho làm tiên phong. Lại sai Nguyễn Văn Trương và Đỗ Văn Hựu làm hậu tập đi đánh Chưởng cơ giặc là Trì (không rõ họ) ở sông Mỹ Lung. Trì bỏ trại chạy, quân lính đều hàng. Bắt được vài chục thuyền giặc, binh uy

lại nổi.

Vua tiến đóng ở Mỹ Lung, sai Tả quân dinh thiếu phó quân công Tôn Thất Huy và Tiền quân dinh khâm sai tổng nhung chưởng cơ Lê Văn Quân đắp đồn phòng thủ, sai Hậu quân dinh khâm sai đốc chiến chưởng cơ Tôn Thất Hội lãnh quân đi Ba Giòng [Tam Phụ] để tiếp ứng. Thái bảo giặc Phạm Văn Tham nghe tin Trì thua, liền đem hết quân đến đánh Mỹ Lung. Các tướng đóng chặt thành để giữ. Tham đánh không được, lui giữ Ba Lai, vừa lúc thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng từ Quy Nhơn đem thuyền vận tải 30 chiếc đến, hợp với quân Tham góp sức chống đánh. Các tướng đều lấy làm lo. Vua nói : "Bộ khúc(1. Binh chế nhà Hán, dinh quân chia làm bộ, dưới bộ có khúc. Nghĩa rộng là quân lính. 1) của Hưng dẫu nhiều, nhưng chỉ lo việc vận tải không dự việc chiến đấu, há lại chịu vì Tham mà gắng sức ư ? Nay hãy ra lệnh cho các đạo cứ đóng quân cố giữ. Hưng bất quá vài tháng chở đầy thuyền thì về. Hưng đã về thì Tham cô thế, phá sẽ rất dễ". Không bao lâu Hưng quả đem quân đi. Tham lui về sông Mỹ Tho, đánh bị thua luôn, lại quay về giữ Sài Gòn. Các tướng đều phục vua tính toán thần diệu.

Vua tiến đóng ở Hồi Oa (thuộc tỉnh An Giang, chỗ hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang giáp nhau, nhiều dòng nước chạy tranh nhau thành nước xoáy nên gọi tên như thế), sai các tướng đắp thành đất, Hoàng Văn Khánh và Tống Phước Ngạn đóng bên tả, Nguyễn Văn Trương và Tô Văn Đoài đóng bên hữu, đối lũy với giặc, đánh vất vả luôn mấy ngày. Bèn sai chế thêm súng gỗ và kết hột cau khô làm đạn, dùng để đánh giặc. Giặc phải rút lui.

Sai thuộc nội cai đội là Tô Văn Đoài đêm đi thuyền nhẹ lẻn vào các ngả đường Hàm Luông (tên sông), Bình Phượng (tên bãi) để dò tình

hình địch.

Tháng 11, sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân và Tôn Thất Hội chia nhau đóng ở Trà Tân và Mai Giang để chống giặc.

Tây Sơn lại tiến công nước An Nam(1. Triều đình nhà Lê đóng đô ở Hà Nội theo vua Thanh sắc phong là An Nam.

2. Vũ Văn Sĩ : Vốn tên là Nhậm, tránh tên Tự Đức bớt đi một nét thành chữ Sĩ. 1). Đầu là Nguyễn Văn Huệ ra cướp miền Bắc, do Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn đường. Kịp Nhạc đến, Huệ mưu với Nhạc mà bỏ Chỉnh lại, ngầm đem quân về Nam. Chỉnh sợ, quay về Nghệ An họp quân để tự vệ. Gặp lúc Trịnh Đống chết, Trịnh Đệ và Trịnh Bồng đem quân đánh lẫn nhau. Đệ thua. Người đảng của Bồng là Đinh Tích Nhưỡng cầm trọng binh, bức xin vua Lê cho Bồng nối ngôi chúa. Bất đắc dĩ vua Lê phải cho, rồi ngầm muốn chế ngự họ Trịnh, bèn vời Chỉnh. Do đó Chỉnh trở lại với nhà Lê, cầm quân chuyên chính. Huệ nghe tin, rất ghét, sai người gọi Chỉnh về. Chỉnh không đến. Huệ tức thì sai Tiết chế Võ Văn Sĩ(2) [Nhậm] đem quân ra giết Chỉnh. Chỉnh đánh nhau với Sĩ [Nhậm] thua to. Vua Lê chạy sang Kinh Bắc (nay là tỉnh Bắc Ninh). Quân giặc bắt được Chỉnh giết. Giặc bèn chiếm giữ đô thành An Nam. Huệ sai Sĩ [Nhậm] làm lưu thủ, Ngô Văn Sở làm phó.

Tháng 12, ốc Nha Long người Chân Lạp theo giặc chiếm giữ đồn Cần Thơ, bày chiến thuyền để chống cự quan quân. Vua tự đem quân đi đánh, bắt hết được thuyền, ốc Nha Long chỉ thoát được thân. Vua lại về Hồi Oa. Lấy Cai cơ Hà Văn Lộc làm Chưởng cơ, giữ đồn Tinh Phụ [Giòng Sao], Lộc đánh nhau với giặc ở Sầm Phụ [Giòng Gầm] bị chết.

Lấy Nguyễn Đình Đắc làm khâm sai cai cơ dinh Trung quân. Đình Đắc là người Chân Lộc xứ Nghệ An, sức mạnh, thạo binh pháp, mùa thu năm ấy vượt biển vào Gia Định, vừa khi vua ở Xiêm về, đến hành tại bái yết. Vua sai theo Tôn Thất Huy đánh giặc, đến đây trao cho chức ấy.

Mậu thân, năm thứ 9 [1788] (Lê ? Chiêu Thống năm thứ 2, Thanh ? Càn Long năm thứ 53), mùa xuân tháng giêng, vua đóng ở Hồi Oa. Sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Nguyễn Kế Nhuận, đóng giữ các đồn Tinh Phụ [Giòng Sao] và Triệu Phụ [Giòng Triệu].

Tháng 2, đặt quan công đường dinh Vĩnh Trấn, lấy Phạm Văn Thận làm Ký lục.

Tháng 3, lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ là Phạm Văn Sĩ làm Phó tướng Tả quân.

Cho Phạm Văn Nhân làm Khâm sai thuộc nội sai đội thay Ngô Công Quý để giữ đạo Long Xuyên.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ giết người đảng là Võ Văn Sĩ [Nhậm]. Trước là Sĩ [Nhậm] giữ đô thành An Nam. Cựu thần nhà Lê là bọn Nguyễn Đăng Tiến, Trần Quang Châu đều nổi nghĩa binh đánh nhau với giặc, đều bị quân Sĩ [Nhậm] đánh thua. Sĩ [Nhậm] phát nhiều quân dân đắp thêm đô thành, oai quyền rất lớn. Tướng giặc là Ngô Văn Sở cùng Sĩ [Nhậm] có hiềm khích, gửi mật thư cho Huệ nói rằng Sĩ [Nhậm] sẽ làm phản. Huệ tin lời, đem binh bắt Sĩ [Nhậm]. Sĩ [Nhậm] kêu oan. Huệ bảo rằng : "Mày thiệt không có tội, nhưng làm ta sợ là có tội rồi", rồi giết. Đổi tên thành làm Bắc Thành, lưu Văn Sở làm Trấn phủ.

Mùa hạ, tháng 4, Võ Tánh đem quân về theo. Tánh là người Bình Dương thuộc Phiên Trấn, trí dũng hơn người. Đầu họp đảng ở Gò Công [Khổng Tước nguyện], có hơn một vạn người, hễ quân giặc đi qua là úp đánh giết ngay. Giặc thường răn nhau rằng : "Gia Định có ba anh hùng, Võ Tánh là một (Tánh với Chu Văn Tiếp và Đỗ Thanh Nhân, người ta gọi là ba anh hùng), chớ nên xâm phạm". Đến đây [Tánh] đem bộ thuộc đến hành tại bái yết.

Vua được Tánh mừng lắm, trao cho chức Khâm sai tổng nhung chưởng cơ dinh Tiên phong, rồi đem trưởng công chúa là Ngọc Du (con gái thứ hai Hưng tổ) gả cho. Thuộc hạ là Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô đều trao chức Cai cơ.

Vua tiến đóng ở Bát Tiên (thuộc tỉnh Vĩnh Long). Sai Tôn Thất Huy và Lê Văn Quân đánh đồn Trấn Định. Tướng giặc là Chưởng cơ Diệu cùng Cai cơ Viện (đều không rõ họ) đóng thành giữ vững. Bọn Quân ngầm khiến Cai cơ Hoàng Ngọc Phong dụ Viện hàng. Viện nhân đêm mở cửa đồn. Quân ta thẳng vào bắt Diệu. Lại tiến quân đến Thán Lung, đánh bắt được Đô đốc giặc là Nguyễn Văn Mân.

Tháng 5, cấm các tướng không dung túng bộ khúc, cướp bóc quấy nhiễu tài sản và đàn bà con gái trong dân gian. Kẻ nào phạm thì giết ngay, bắt tội cả người cai quản. Có Điều khiển Hương, Cai đội Lan (đều không rõ họ) nhiễu tệ, việc phát giác, lập tức chém để răn quân.

Vua cho rằng quan quân ở Thuận Hóa nhiều người bị giặc Tây Sơn bắt ép theo, sợ họ trốn tránh vào thôn xóm mà không được dung nạp, bèn sắc xuống cho dân trong hạt Gia Định, ai chứa nuôi được một người trong số quan quân ở Thuận Hóa thì miễn cho nửa suất binh dao, chứa nuôi được 2 người thì miễn cả suất, được 3 người trở lên thì lượng mà hậu thưởng thêm. Lại dụ cho bọn quan quân Thuận Hóa rằng : "Xưa Thái tổ ta dựng nghiệp ở cõi Nam đã hơn 200 năm, thần dân trong ngoài ai cũng là con đỏ của triều đình, mà xứ Thuận Hóa lại là nơi Xã Tắc và Tôn miếu của liệt thánh ta, cho nên nhân dân xứ ấy ta xem như xương thịt. Từ khi ta còn trẻ đã gặp hoạn hạn, phải ngụ ở nước láng giềng, vẫn lo dựng lại nghiệp lớn, lấy lại vật cũ. Ngày nay trời còn tựa Hán, dân chưa quên Đường, giáo trời mới chỉ, giặc đã thua tan. Chúng lại xua dân Thuận Hóa các người vào vòng gươm giáo, khiến thây nằm đầy nội, máu chảy thành sông. Vả bọn các ngươi đều là tôi con, vẫn nhờ ơn nước, lấy con em mà đánh lại cha anh, lòng ai muốn thế ? Chẳng qua là vì thế ép mà bỏ họ hàng lìa cha mẹ, đến nơi đất khách quê người, tới lui đều khó. Làm thinh suy nghĩ, thực rất xót thương, cho nên đã hạ lệnh thu nuôi để các người có chỗ nương tựa, các ngươi nên sớm vào ngụ ở các thôn ấp, đợi sau khi ta lấy lại Sài Gòn, ai muốn ở thì ở, ai muốn về quê cũng không ngăn. Nếu không thì khi núi Côn lửa cháy, ngọc đá đều tan, hối làm sao kịp ?".

Tôn Thất Huy và Lê Văn Quân truyền hịch trưng binh Chân Lạp mà không báo vua biết. Vua xuống chỉ khiển trách rằng : "Việc ở trong cõi thì tướng quân tài chế được rồi. Nhưng việc có quan hệ tới phiên bang, sao được tự chuyên ? Thử nghĩ xem, đạo người tôi con có nên làm thế không ? Sau đừng làm thế".

Sai Cai cơ Trương Phước Luật tuyên triệu Tuần hải đô dinh Hà Hỷ Văn đến hành tại. Đầu là trận Mỹ Tho quân ta thất lợi, Hỷ Văn đem binh thuyền sở bộ chạy ra đậu ở đảo Côn Lôn. Đến đây, vua sai mang chỉ đến ủy dụ, cho tiền 100 quan, gạo 200 phương, lụa vải 25 tấm.

Cho quân chiến tâm(1. Chiến tâm : Tức quân cảm tử. 1) dinh Trung quân phàm dao dịch trong quân đều được miễn cả, duy có việc sửa đắp đồn lũy thì cùng làm với các tướng sĩ.

Tháng 6, sai Tham tướng là Mạc Tử Sinh làm lưu thủ Hà Tiên. Sinh chết, tặng Chưởng cơ.

Lấy Ngô Ma (người Xiêm) là Khâm sai cai cơ tạm quản tán vụ trấn

Hà Tiên.

Lấy Nguyễn Văn Nhân làm Khâm sai thuộc nội cai cơ vệ Thần sách dinh Trung quân.

Vua sắp cử đại binh tiến lấy Sài Gòn, sắc cho bọn Tôn Thất Huy,

Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội và Nguyễn Kế Nhuận sửa soạn đợi mệnh. Dụ rằng: "Bọn khanh từ khi lãnh quân bộ chiến tới nay, đánh giặc phá trận kể đã lâu ngày. Xem sự thế ngày nay thì đánh chóng lợi hơn, nếu để lâu quân sinh trễ nải thì không phải là đắc kế. Nên đều sửa sang binh khí, chờ ngày tiến phát". Lại sai ghi chiến công của các tướng sĩ đi trận, và ban cho 2.000 tờ giấy để trống đầu, có ai nên thăng tước trật thì điền vào mà cấp.

Mùa thu, tháng 7, sai Nguyễn Văn Trương quản suất thủy binh đóng ở Mỹ Tho để ứng tiếp với bộ binh ở Trấn Định.

Vua tiến đóng ở Ba Giòng. Sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem quân vây Đốc chiến giặc là Lê Văn Minh ở đồn Cầu Ngũ [Ngũ Kiều]. Vua thân đốc thủy quân giáp đánh, dùng đuốc hỏa chiến đốt trại giặc. Quân Tây Sơn sợ vỡ chạy, bắt được vô số.

Đặt quan công đường ở dinh Trấn Định, sai Tôn Thất Huy, Phạm Văn Sĩ và Tống Phước Đạm cai quản mọi công việc tướng sĩ binh dân trong

dinh hạt.

Nguyễn Văn Nghĩa cả phá quân giặc ở Đồng Nai.

Sai Ngô Công Quý đem phẩm vật đến đảo Phú Quốc dâng quốc mẫu và ban cho các tướng sĩ hộ vệ hầu hạ, triệu cai cơ Võ Di Nguy đến hành tại.

Tháng 8, ngày Đinh dậu, chiếm lại thành Gia Định. Vua từ Ba Giòng tiến quân đến Nghị Giang. Thái bảo giặc là Phạm Văn Tham dàn hàng rào từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung để chống cự.

Vua sai Võ Tánh đem quân đi vòng phía nam đồng tập trận thẳng vào Bến Nghé để chặn nẻo sau. Các tướng chia đường đánh giáp lại. Quân giặc vỡ tan. Tham thu lượm ghe thuyền, muốn theo cửa biển Cần Giờ trốn chạy. Vua bèn sai Lê Văn Quân điều bát quân các đạo đón đánh.

Sông Bến Nghé nước trong ba ngày.

Vua đã chiếm lại được thành Gia Định, cấm quân sĩ không được cướp bóc, bỏ pháp luật hà khắc của Tây Sơn, dụ bảo trăm họ yên ổn làm ăn như cũ. Bấy giờ nhân dân tranh nhau đem dâng tiền, thóc, đồ đồng, gỗ ván để giúp quân nhu. Vua khen là chuộng nghĩa, đều cho miễn thuế dịch.

Triệu Tống Phước Đạm về Sài Gòn.

Đặt quan công đường ở hai dinh Phiên Trấn và Trấn Biên, lấy Ký lục Vĩnh Trấn là Phạm Văn Thận làm Cai bạ Phiên Trấn, Nguyễn Doãn Thống làm Ký lục, cựu lưu thủ Đoàn Văn Khoa làm Lưu thủ Trấn Biên, Tham mưu Trương Đức Khoa làm Ký lục.

Cho Lê Văn Quân làm Khâm sai bình tây đô đốc chưởng Tiền quân dinh quận công, quản lãnh tướng sĩ dinh Trấn Biên, cho tiền 300 quan và thưởng khắp cho quân sở bộ 1.000 quan và 10 tấm sa. Quân nhân đó xin được tiện nghi đặt chức Thống chi hiệu úy. Vua nói : "Hiệu úy cũng là chức đại viên quản suất, phải có mệnh của triều đình mới được". Bèn không cho.

Đặt thự công đồng, làm nơi các quan văn võ hội nghị. Phàm theo chỉ vua mà truyền thị và sai phái đều xưng là công đồng (ấn khắc bốn chữ Thiêm ngôn doãn hiệp(1. Thiêm ngôn doãn hiệp : Đều bàn hiệp nhau. 1) in bằng mực).

Thả cho hương binh về quê nghỉ ngơi. Trước là khi vua đến Hồi Oa và Bát Tiên, dân sở tại đều xin quy phụ rất nhiều, sai cứ số hiện có lấy một nửa làm hương binh cho đánh giặc. Đến đây vua thương vì nhọc mệt nên cho về.

Trị tội những người quân cấm vệ và thủy quân cũ đi theo giặc.

Trước là khi vua phải bước bôn ba, nhiều kẻ nhân loạn theo giặc, đến đây giặc thua, lại đầu quân. Vua ghét, sai truyền dụ cho Thiếu phó Tôn Thất Huy rằng : "Bọn này đều là thân binh của ta, bình nhật ta đãi không phải là bạc, thực là nuôi nghìn ngày dùng một ngày, cốt để chống ngoài giữ trong, không bì với đám quân khác. Trước đây gặp lúc loạn ly, hoặc có kẻ bị thế giặc ép buộc, không theo không được. Từ khi ta về Hồi Oa kẻ nào biết ra lập công chuộc tội thì tình còn nên tha, còn kẻ nào lừng khừng đã lâu, ngồi xem thua được, đến khi ta tiến đóng Bát Tiên, quân giặc thua chạy rồi mới đầu quân vào các chi hiệu, thì không kể là đã làm thống binh, tổng nhung, cai cơ, cai đội, cho đến hàng quân sĩ, khanh nên nã bắt hết thảy để trị tội, không khoan túng chút nào".

Sai Khâm sai thống nhung cai cơ là Nguyễn Văn Tính giữ đạo Đồng Môn.

Sai quan quân các chi hiệu đội thuyền dinh Trung quân cứ theo danh sắc gửi về làng để ghi vào sổ (người cũ thì có thẻ chỉ sai đeo ở lưng, người mới thì có giấy quản quan kết nhận). Lại ra lệnh cho các tổng xã thôn phường, phàm có dân lậu ngụ cư và tàn tốt của giặc Tây Sơn trốn về thì đều đăng hết vào sổ hộ, kẻ không có tư sản thì cho làm hạng cùng cố, cho miễn thị nạp (như các món thóc, gạo, đồng, thiếc, mây, gỗ, hạt cau, không phải là thuế chính cung mà dân phải nộp gọi là thị nạp), duy dao dịch thì chịu như dân. Đến như người Đường [Hoa kiều] mới hay cũ thì đều do Cai phủ làm sổ riêng để nộp.

Lấy Tả quân phó tướng Phạm Văn Sĩ làm Khâm sai cai cơ.

Lấy Cai đội Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu úy tiền chi dinh Trung quân. Thành, người xã Bác Vọng, huyện Triệu Phong, là người trì trọng nhiều mưu lược, khi nhỏ thường theo cha là Cai đội Nguyễn Văn Hiền đi đánh giặc, năm ất mùi, Hiền chết trận. Duệ Tông vời Thành trao cho chức Cai đội. Từ khi Sài Gòn thất thủ, Thành lẩn ở trong dân gian. Mùa thu năm Giáp thìn xa giá vua từ Xiêm về, lại theo đi đánh dẹp, đến đây mới trao cho chức ấy.

Sai bọn Nội viên Trịnh Tân Tài và Chu Văn Quan đi Hạ Châu(1. Hạ Châu : Tức là Xingapo hay Tân Gia Ba, tục ta gọi là Miền Dưới.1) tìm mua súng đạn, và lưu hoàng, diêm tiêu để dùng vào việc binh.

Lấy Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên làm Lại bộ, Tri bạ Phan Thiên Phước, Tham mưu Nguyễn Bảo Trí làm Hộ bộ, Giám quân Tống Phước Đạm kiêm hành công việc Binh bộ, Tham mưu Ngô Hữu Hựu làm Hình bộ.

Định lệ lương tháng, áo quần và tiền phụ dưỡng cho các đội thuyền quân cấm vệ túc trực và ban trực và các vệ nội thủy, mỗi người mỗi tháng cấp gạo 1 phương, tiền 1 quan, một năm cấp quần áo hai lần, cấp riêng cho một người dân nội tịch, mỗi năm thu tiền miễn dịch 40 quan để làm lộc thường, lại cho một người dân ngoại tịch để sai khiến.

Lưu thủ Trấn Biên là Đoàn Văn Khoa chết, tặng Khâm sai tổng nhung chưởng cơ. Lấy Tổng nhung cai cơ Phùng Văn Nguyệt làm Lưu thủ Trấn Biên, Ký lục Trương Đức Khoan làm Cai bạ, Tham mưu Nguyễn Văn Hương làm Ký lục.

Đổi cửa biển Cần Giờ thuộc Trấn Biên cho thuộc về Phiên Trấn ; lấy Khâm sai thuộc nội cai đội Phan Văn Đồng làm Thủ ngự đánh thuế cảng các thuyền buôn. Rồi ra lệnh dự trữ lương thực, phàm có người cùng dân từ Bình Thuận trở ra đến Thuận Hóa đáp thuyền buôn đến thì lượng cấp cho.

Thái bảo giặc Phạm Văn Tham đóng giữ Ba Xắc. Tham đầu muốn chạy ra Cần Giờ, vì quân ta chặn đường, phải lui giữ Hàm Luông, nhờ ốc Nha ốc viện trợ (ốc là người Chân Lạp, theo Tây Sơn giữ các xứ Trà Vinh và Mân Thít, họp đảng cướp bóc). Vua tự cầm các quân thủy bộ đi đánh, sai người đến lấy lẽ thuận nghịch chỉ bảo họa Phước mà dụ. Tham không chịu hàng, đắp thành đất ở hai bên bờ sông Ba Xắc, bày chiến thuyền làm kế liều giữ. Vua bảo các tướng rằng : "Tham giữ Ba Xắc là ý muốn chờ gió vượt biển để chạy về Quy Nhơn. Nhưng không nên để cho giặc lọt lưới mà để mối lo về sau". Bèn chia quân đóng đồn ở các cửa biển triệt đường chạy của giặc.

Thuyền vua về Sài Gòn, lưu Tôn Thất Hội ở lại cai quản tướng sĩ dinh Vĩnh Trấn và điều bát quân các đạo để đánh.

Đặt đài hiệu lửa ở các trấn Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu. Sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân đi tuần các cửa biển.

Sai bọn Bảo hộ Nguyễn Văn Nhân và Cai đội Tống Phước Châu sang Xiêm báo tin thắng trận.

Tháng 9, sai bọn Nguyễn Văn Nhân và Trương Phước Giáo ra đảo Phú Quốc đón quốc mẫu và cung quyến về Gia Định.

Sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân và Tôn Thất Hội ghi tên tuổi quê quán ở tướng hiệu sở bộ cùng là năm tháng và chỗ đầu quân để báo lên.

ốc Nha nước Chân Lạp là Đầu Rồng Ong dâng hai thớt voi đực.

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ Nguyễn Long làm phó tướng Tả quân.

Lấy Phan Như Đăng, Trần Đại Luật, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu và Hoàng Minh Khánh làm Hàn lâm viện chế cáo, Lê Xuân Minh, Lê Phước Mão, Hồ Phước Uẩn, Vũ Công Chấn, Hồ Văn Định và Hoàng Văn Đệ sung Hàn lâm viện.

Định lệ cấm kêu thay và kêu vượt. Phàm nhân dân có oan khuất thì cho tự mình đi kêu, nếu đem tiền của ỷ thác người khác, hay riêng đi kêu thay cho ai, việc phát giác thì đều bị xử một trăm roi và xiềng bắt làm dịch phu một tháng. Lại đầu đơn kêu thì không được vượt bực, binh thì do Sở quản và Đại viên thống lĩnh, dân thì do quan công đường sở tại xét đoán, nếu xét đoán không thỏa đáng thì kêu ở sở công đồng, nếu vẫn còn chưa phục tình thì mới được đón kêu khi vua đi, làm trái thì bị tội.

Mùa đông, tháng 10, định lệnh cấm đánh bạc. Phàm văn khế nợ đánh bạc từ trước đều bỏ. Từ nay ai mở sòng chứa bạc, có người tố cáo, xét thực thì gia tài người chủ sòng phải sung công, thu tiền mặt ở sòng và thu ở mỗi người đánh bạc 10 quan để thưởng cho người cáo giác. Người đánh bạc mà cáo giác cũng được thưởng như thế. Những người phạm đều bị xử 100 roi và làm dịch phu 3 năm. Ai vu cáo thì bị phản tọa(1. Phản tọa : Bị buộc vào tội chính mình vu cáo.1).

Vua Lê là Duy Kỳ đem quân nhà Thanh đánh lấy lại đô thành An Nam. Trước là vua Lê xuất bôn, sai văn thần là Trần Danh án và Lê Duy Đản dâng thư sang nhà Thanh, đến Nam Ninh không đạt được phải trở về. Hoàng thái hậu nhà Lê bèn chạy đi Cao Bằng sai đốc đồng Nguyễn Huy Tú đem thư sang Long Bằng(2. Tức Long Châu và Bằng Tường tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). 2) để xin quân với nhà Thanh. Lưỡng Quảng tổng đốc là Tôn Sĩ Nghị xin giúp, vua Thanh ưng cho, liền sai Tôn Sĩ Nghị đem quân Lưỡng Quảng và Vân Nam, Quý Châu chia làm bốn đạo sang giúp. Thủ tướng giặc Tây Sơn là Ngô Văn Sở lùi giữ Thanh Hoa. Vua Lê bèn khôi phục đô thành An Nam.

Sai các quân chia đi các đạo Đồng Môn, Quang Hóa và Ba Can để lấy gỗ ván.

Bắt đầu đặt phủ binh.

Dụ dân chúng ở phủ Gia Định rằng : "Dân là gốc của nước, binh là để giữ dân. Từ khi vận nước gian truân, người gặp khốn khổ, nhân dân mong ta như con mong mẹ, nay mới bắt đầu khôi phục nên cần vỗ yên nuôi nấng để hả lòng dân mong đợi. Nhưng giặc chưa dẹp xong mà số quân lại ít, không thể không tìm cách chế ngự, nên hãy tạm tòng quyền theo việc cũ nhà Chu nhà Đường, không việc thì cày ruộng, có việc thì làm binh. Các tổng xã thôn phường các ngươi đều phải ghi số dân đệ nộp, kén những người đinh tráng, lấy một nửa lập làm phủ binh, kết thành thập và ngũ để phòng việc gấp mà đánh giữ. Ngày sau việc quân bớt bận sẽ đều cho về nghỉ ngơi. Bọn ngươi nên thể lòng ta, đừng nên nghi sợ". Bèn sai thi hành trước ở dinh Phiên Trấn.

Lấy Tham mưu Nguyễn Văn Nghị làm Khâm sai tham mưu Trung dinh.

Lấy Bùi Phụ Huyên làm Khâm sai tham tán Văn giáp Trung dinh, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Phú làm Khâm sai tham mưu, Lê Đạt làm Hàn lâm viện thị giảng gián nghị. Lấy thuộc nội cai đội Phạm Văn Nhân làm Khâm sai thuộc nội cai cơ cai quản thuyền Tả vệ, thuộc nội cai đội Tô Văn Đoài làm Khâm sai thuộc nội cai cơ cai quản thuyền Hữu vệ, Cai đội đẳng giao Đỗ Văn Hựu làm Khâm sai thuộc nội cai cơ cai quản đội Tiểu sai.

Lấy Cai đội Nguyễn Văn Mẫn làm Khâm sai thuộc nội cai cơ vệ úy vệ Tiền trực dinh Trung quân, Trương Phước Luật làm Khâm sai thuộc nội cai cơ phó vệ úy, Nguyễn Quý làm Khâm sai thuộc nội cai đội vệ úy Hậu trực, Tăng Đức Thần làm Khâm sai thuộc nội cai cơ phó vệ úy.

Vua mở rộng đường ngôn luận, dụ rằng :

"Phàm đường ngôn luận mở hay lấp là có quan hệ đến đạo chính trị thịnh hay suy. Đời xưa trong triều có cờ tiến thiện, có cây cầu châm [câu lời răn] là vì lẽ đó. Vì thế mà tình người dưới đạt lên trên, ý người trên thông xuống dưới, lời hay không bị che lấp, mà đạo chính trị nên được. Hiện nay loạn giặc mới yên, những người chìm lấp chưa được cất nhắc, mà việc dùng người giỏi cầu lời hay canh cánh vẫn để trong lòng. Chỉ sợ màn trướng cách trở hơn chín lần, dưới thềm xa xôi hơn muôn dặm, tai mắt bị che, nghe trông thiên lệch, hại cho chính trị không gì lớn hơn. Cho nên ta không thể không quên mình để theo người mà mở rộng con đường ngôn luận. Các ngươi, trong các quan, ngoài trăm họ, nên cố gắng giúp ta, chính trị hay hay dở, công việc nên hay chăng, cùng binh lương làm sao cho đầy đủ mà không hại dân, loạn tặc làm cho dẹp yên mà đừng khổ dân, đều nên trình bày hết thảy cho rõ sự thực. Lời dùng được thì thu dùng cho thân được vẻ vang, lời không hay thì để đó mà không bắt tội. Ta đương dốc lòng để nghe, các ngươi chớ nên giấu giếm".

Tháng 11, kén phủ binh ở dinh Trấn Biên.

Giặc Tây Sơn là Nguyễn Văn Huệ tự lập làm vua, xưng ngụy hiệu là Quang Trung năm thứ 1. Chính lệnh của Tây Sơn đều tự Huệ mà ra, Nhạc chỉ giữ có Quy Nhơn, Phú Yên mà thôi.

Miễn binh dịch và dao dịch cho học trò. Vua rất lưu ý nghệ văn, thường lấy sự bồi dưỡng nhân tài làm việc gấp. Phàm ai có đơn xin theo học, đều cho được miễn binh đao, khiến cho gắng công tập nghiệp để đợi khoa thi.

Đặt hòm bỏ thư. Vua cho rằng dân gian phần nhiều hay bỏ thư nặc danh vu tội cho người, bèn đặt một cái hòm ở dưới cửa khuyết, cho ai có chuyện gì oan ức muốn bày tỏ thì làm đơn bỏ vào. Dụ rằng : "Pháp luật là của chung của thiên hạ, không phải của riêng một người, lẽ nào lại lấy những lời không căn cứ mà buộc tội bất trắc cho người. Từ nay về sau, không kể quân hay dân, ai có oan khuất hoặc bị người hãm hại thì cho ghi rõ họ tên quê quán trong đơn, bỏ vào hòm ấy, để tiện xét ngay gian, mà tỏ oan khuất. Nếu kẻ nào còn quen thói cũ, múa miệng nói phao, lừa phỉnh dân chúng, phát giác ra thì trị nặng không tha".

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ là Trương Văn Giao làm Tri Tượng chính, Võ Di Nguy làm quản Nội thủy thủy trung thuyền.

Tháng 12, sai Nguyễn Văn Nhân giữ đạo Long Xuyên.

Dựng kho Bốn Dinh, nhân nền cũ của kho Giản Thảo làm thêm và mở rộng ra (thu tô thuế ở bốn dinh chứa ở đấy, còn tô thuế hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang thì nộp phụ ở kho Vĩnh Trấn).

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển IV - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Kỷ dậu, năm thứ 10 [1789] (năm ấy nhà Lê mất, Thanh ? Càn Long năm thứ 54), mùa xuân, tháng giêng, thưởng cho các tướng sĩ ở quân thứ Ba Xắc. Dụ rằng : "Thờ vua lấy trung vốn là chức phận của người làm tôi, mà sai bề tôi lấy lễ cũng là đạo của người làm vua. Nay gặp buổi xuân hòa, muôn vật đều được vui tươi, nghĩ đến các ngươi ở mãi chốn nhung trường, dầu sương giãi tuyết, gian nan như thế, công lao như thế, muốn hậu đãi nhau há lại tiếc sao ! Song vì đất nước mới khôi phục, tài sản chưa dồi dào, lấy gì mà thưởng cho thỏa lòng được ? Nay đặc sai Trung sứ đem cho các ngươi một nghìn quan tiền và các thứ chè bánh để tỏ tình cam khổ cùng nhau".

Tha những món trốn thiếu. Trước là khôi phục Sài Gòn, những lương thực, đồng, thiếc, gỗ, ván đều căn cứ vào sổ hộ năm Đinh mùi mà cậy vào dân nộp, nhiều người trốn không nộp được. Đến đây gặp tiết đầu xuân vui mừng nên tha cho. Ra lệnh từ nay về sau những khoản thị nạp [cậy vào dân nộp] thì lấy sổ hộ năm nay làm chuẩn.

Quân Thanh đánh nhau dữ dội với giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ ở Thanh Trì bị thua. Tôn Sĩ Nghị chạy về, Điền Châu thái thú Sầm Nghi Đống chết. Vua Lê cũng chạy sang nước Thanh. Nhà Lê mất. Huệ lại chiếm giữ đất An Nam, sai con là Quang Thùy cùng với Tư khấu giặc là Võ Văn Dũng giữ Bắc Thành, Quang Bàn giữ Thanh Hoa, Trấn thủ Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An, rồi lại dẫn quân về.

Quân ta đánh phá Thái bảo giặc Phạm Văn Tham ở Hổ Châu. Tham ở Ba Xắc đem binh thuyền toan vượt biển về Quy Nhơn. Vua sai Lê Văn Quân, Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương hợp quân để đánh.

Cai cơ Nguyễn Văn Mẫn và Đỗ Văn Hựu gặp giặc trước, đánh giết được đô đốc giặc là Nguyễn Hùng. Súng giặc bắn xuống như mưa, hai người đều chết trận. Bọn Quân thúc quân thẳng tiến, đánh vào Hổ Châu. Quân Tây Sơn tán loạn. Tham lại lùi giữ Ba Xắc. (Nguyễn Văn Mẫn người Gia Định, Đỗ Văn Hựu người Phú Vang, năm Minh Mệnh thứ 5 được tòng tự ở Thế miếu, năm thứ 12 Mẫn được phong Duy Tiên hầu, Hựu được phong Phụ Dực hầu).

Định lệ thuế cảng và lễ cho những thuyền buôn của người Thanh. (Thuyền Hải Nam, tiền thuế 650 quan, lễ cai tàu sa mặc mát 6 cây, hàng tơ màu 12 tấm, tiền xem cơm 60 quan ; thuyền Triều Châu, tiền thuế 1.200 quan, lễ cai tàu sa mặc mát 8 cây, hàng tơ màu 15 tấm, tiền xem cơm 80 quan ; thuyền Quảng Đông, tiền thuế 3.300 quan, lễ cai tàu sa mặc mát 12 cây, hàng tơ màu 25 tấm, tiền xem cơm 100 quan ; thuyền Phước Kiến, tiền thuế 2.400 quan, lễ cai tàu sa mặc mát 10 cây, hàng tơ màu 20 tấm, tiền xem cơm 80 quan ; thuyền Thượng Hải, tiền thuế 3.300 quan, lễ cai tàu sa mặc mát 15 tấm, hàng tơ màu 25 tấm, tiền xem cơm 100 quan. Phàm lễ ơn riêng cho các nha đều miễn cả. Đến như lễ thượng tiến thì tùy nghi, không có định hạn). Ra lệnh phàm hàng hóa của thuyền, nếu có vật gì quan hệ đến binh dụng như chì, sắt, đồng, diêm tiêu, lưu hoàng, thì nộp cho quan, trả lại đúng giá, nếu cùng nhau mua bán riêng thì có tội.

Nguyễn Hoàng Đức từ Xiêm về Gia Định. Hoàng Đức là người Kiến Hưng tỉnh Trấn Định, sức mạnh tuyệt vời, người ta vẫn khen là hổ tướng. Vua từng đánh nhau với giặc không thắng, phải thúc ngựa để tránh giặc, Hoàng Đức đi bộ chạy theo kịp. Chợt ngựa vua sa lầy mà quân giặc sắp tới sau chân, Hoàng Đức lội xuống bùn mang vua lên bờ, rồi lại ra sức dắt ngựa ra khỏi bùn lầy, rước vua lên ngựa. Vua mệt quá, Hoàng Đức phải xóc nách vua để lên mình ngựa. Ngựa cũng mệt, Hoàng Đức nắm tay đấm ngựa, ngựa mới chạy nhanh. Nhờ đó mà giặc đuổi không kịp. Lại từng theo thuyền vua, do một con lạch nhỏ mà chèo đi. Quân giặc đuổi sát, mà phu chèo chỉ có 5, 6 người. Vua nhân mệt quá, ở trong thuyền gối lên đùi Hoàng Đức mà nằm. Nơi ấy rất nhiều muỗi, Hoàng Đức lấy tay xua muỗi để cho vua nằm yên mà mình thì suốt đêm không ngủ. Ban đêm phu

chèo xa trông thấy bên bờ có nhiều chỗ trắng, ngờ là bóng buồm, hoảng báo thuyền giặc đến gần. Vua thức dậy, muốn lội nước lên bờ. Hoàng Đức cho rằng sông có nhiều cá sấu, cố can vua đừng lội, xin cứ theo mé sông chèo thong thả để xem hư thực thế nào. Vua lấy làm phải, ngồi dậy nhìn kỹ nói rằng : "Buồm giặc sao lại trắng nhiều thế". Tới gần thì là một đàn cò trắng đỗ ở trên cây. Hoàng Đức đi theo ngựa vua, vì nước hết lòng trung, vua rất khen ngợi từng ví với những người bầy tôi nhà Nguyên trong khi đêm tuyết dăng chiên che cho vua. (Công thần nhà Nguyên lúc đầu có

Mộc Hoa Lê, Bác Nhĩ Mộc, Bác Nhi Hốt, Xích Lão Ôn, Nguyên Thái tổ thường gọi là "bát lý ban khúc luật", cũng như tiếng Hán là tứ kiệt. Quân Nguyên Thái tổ từng đánh thua, gặp trời xuống tuyết lớn, nằm giữa đầm cỏ, Mộc Hoa Lê và Bác Nhĩ Mộc dăng chiên đứng che, từ chập tối tới sáng, không chút dời chân. Sau hai người đều làm đến chức Thái sư, phong tước vương, con cháu đều lãnh chức túc vệ). Sau Hoàng Đức thế cùng, bị Tây Sơn bắt được. Tây Sơn yêu là người có sức mạnh nên dùng. Hoàng Đức lòng vẫn bùi ngùi không vui. Chợt một đêm nằm mê, gọi tên Văn Huệ mà chửi. Các tướng giặc muốn giết, nhưng Huệ ngăn rằng : "Nói mơ thì có tội gì?" rồi tha và lại cho thêm châu báu, muốn cảm phục để vui lòng giúp. Hoàng Đức cuối cùng vẫn không theo. Tây Sơn ra Bắc xâm lấn nước An Nam, trở về, lưu Hoàng Đức ở lại theo trấn thủ Nguyễn Văn Duệ giữ Nghệ An. Duệ vốn là tướng của Nhạc, vốn không thích làm cho Huệ. Hoàng Đức nhòm biết ý ấy, bàn thầm với Duệ lẻn theo đường núi về Quy Nhơn để hợp với Nhạc, mà mình thì nhân lúc hở sẽ về với bản triều. Duệ cho là phải, tức thì bỏ Huệ, đem hơn 5.000 quân sở bộ cướp bóc xứ Nghệ An và theo đường núi mà về Nam, sai Hoàng Đức dẫn 500 quân thân tùy đi trước. Đi được hơn một tuần, Hoàng Đức sai người đến tạ Duệ rằng : "Kẻ sĩ ai cũng có chủ, Duệ không phụ Tây Sơn cũng như Hoàng Đức không phụ chúa cũ. Nếu Duệ có biết Tây Sơn là ngụy, chúa cũ của tôi là chính thì nên cùng đi với tôi đến hàng để cùng nhau hưởng giàu sang". Duệ biết Hoàng Đức muốn lừa mình, giận lắm, muốn lừa lại mà giết đi. Lập tức cho lệnh tiễn đến triệu và nói rằng : "Lời khanh nói rất hợp ý ta, nên dừng lại cùng nhau họp mặt nói chuyện, để quyết việc theo hay không". Hoàng Đức được tin báo, cười bảo rằng : "Việc theo hay không là do trấn thủ quyết định, cần gì phải họp mặt mà bàn nữa". Lại sợ chậm thì Duệ chụp được, tức thì nhân đêm tối đi đường khác, theo Lạc Hoàn qua Vạn Tượng, đường lối quanh quất, quân sĩ hết lương, tình thế rất nguy ngập. (Từng ba ngày không được ăn, chỉ hái lá cây mà ăn ; chợt thấy trên một cây to có rất nhiều chim đậu, không biết bao nhiêu mà kể tức thì chụp bắt, thì ra chim ấy đều do lá cây hóa ra, có con đã có hai cánh mà đầu mình còn dính ở cành cây, ăn rất ngon, nhờ đó mà quân sĩ khỏi chết đói. Người ta đều cho rằng việc ấy là báo ứng của lòng trung nghĩa). Vừa các bộ lạc Man nghe tiếng Hoàng Đức, đem cho lương khô, mới đến được Xiêm La. Khi đến thì vua đã hồi loan. Vua Xiêm muốn giữ ở lại. Hoàng Đức bực lắm, trước mặt vua Xiêm bày tỏ hết mọi nỗi vất vả vì việc đi tìm vua và nói : "Nếu giữ lại thì chỉ có chết mà thôi". Khí uất bừng bừng, rồi thổ ra một hòn máu. Vua Xiêm thấy người trung nghĩa đãi rất tôn trọng. Mùa thu năm Mậu thân, vua đã khôi phục Gia Định, nghe tin Hoàng Đức ở Xiêm, sai người đem lương thực cấp cho, và sai nói với vua Xiêm cho mượn chiến thuyền chở quân về nước. Vua Xiêm giúp cho 50 chiếc thuyền cùng lưu hoàng, diêm tiêu, súng ống. Đến Gia Định vào yết kiến. Vua yên ủi rồi trao cho chức Trung dinh giám quân chưởng cơ.

Thái bảo giặc Phạm Văn Tham hàng. Tham giữ Ba Xắc, quân ta nhiều lần khiêu chiến, vẫn giữ vững thành không ra. Vua tự cầm quân đi đánh. Bộ tướng của Tham có người tên là Thanh Hàm (không rõ họ) là tướng cũ của vua. Từ khi Sài Gòn thất thủ, đầu theo Tây Sơn, Tham lấy làm người tâm Phước, sai đóng đồn ở ngoài cùng với tướng ta là Nguyễn Văn Mân đối lũy chống nhau. Thanh Hàm với Mân là người quen biết cũ, ngày thường ra khỏi đồn gặp nhau. Hàm bảo Mân rằng : "Trước tôi làm tôi chúa cũ, nay tôi làm tướng giặc Tây Sơn, sự thể đến lúc này, chỉ có đợi chết mà thôi, khanh thử vì tôi tính xem". Mân nói : "Khanh đầu hàng giặc là thế bất đắc dĩ thôi. Nay giặc là cá trong lưới, khanh không sớm liệu, một mai bị bắt còn mặt mũi nào mà nhìn thấy chúa thượng nữa". Thanh Hàm nói : "Tội tôi nặng, sợ chúa thượng không dung". Mân nói : "Chúa thượng như trời đất cha mẹ, cái gì lại chẳng dung. Khanh đừng ngờ. Chuyển họa làm Phước như trở bàn tay." Thanh Hàm nói : "Khanh hãy vì tôi xin mệnh lệnh, tôi nguyện đem cả đồn này để hiến, không phải nhọc sức tướng sĩ nữa". Mân nhận lời, luôn đêm ấy vào yết kiến để báo việc ấy. Vua cho. Mân tức thì báo cho Thanh Hàm. Sáng ngày mai vua đến lũy của Mân, Thanh Hàm vào yết kiến, lạy rạp xuống đất xin chịu tội. Vua vỗ về yên ủi, sai về đồn trước. Mân đem đại binh theo sau, đến cửa đồn kéo quân thẳng vào, quân Tây Sơn tán loạn. Tham lui về sông Cổ Cò [Lộ Cảnh]. Tham đốc giặc là Trần Hiếu Liêm, chỉ huy là Nguyễn Chuẩn đem thủy binh từ cửa biển Mỹ Thanh đến giúp. Vua tự đốc binh thuyền đón đánh, Chuẩn thua chết. Hiếu Liêm đem bộ thuộc đầu hàng. Tham nghe tin sợ quá, thế đã cùng bách, quân viện ở ngoài lại không có, cùng đến cửa quân xin hàng. Vua tha tội cho, trao cho chức Tiên phong đô đốc dinh Trung quân, giải tán bộ khúc chia vào quân. Từ đó đất Gia Định dẹp yên hết.

Tháng 2, vua trở về Sài Gòn, lưu Lê Văn Quân và Võ Tánh ở lại chiêu vỗ dân Man. Bộ tướng của Quân là Cai cơ Nguyễn Văn Phong tìm bắt được ốc Nha ốc ở Cần Thơ, giết đi. (ốc mới nghe tin Tham hàng thì trốn chạy đến Cần Thơ). Người Man ra hàng có hơn 1.500 người, sai ghi vào sổ, mỗi người phải nộp 10 hộc thóc để cấp lương quân.

Cấm quân sĩ làm bếp ở Nội trù và các nha từ nay không được cậy thế mua hiếp hàng hóa ở chợ búa. Làm trái thì thị trưởng bắt nộp, xử 100 roi và làm dịch phu 3 tháng.

Cấm giết trâu. Vua cho rằng việc làm ruộng đương bận, mà trâu bị chết dịch nhiều, cho nên cấm. Kẻ nào phạm cấm này, quan thì xử bãi, dân thì xử 100 roi và sung dịch phu. Lại thấy rằng tổng Kiến Hòa thuộc dinh Trấn Định nhiều ruộng bỏ hoang, nhà nước cấp trâu để cày, nếu bị dịch chết thì không bắt đền.

Tháng 3, triệu Lê Văn Quân và Võ Tánh về Sài Gòn. Sai Già Tri Giáp (người Chân Lạp) coi phủ Ba Xắc. Vua thấy dân Man khi phục khi phản, khó có người cai trị ngăn giữ mà Giáp vốn được quan liêu Phiên tôn phục, cho nên đặc cách có mệnh ấy.

Bãi phủ binh giữ các đồn ở Phiên Trấn về làm ruộng. Dụ rằng : "Trước đây bờ cõi chưa yên, việc quân đương bận, phủ binh chia nhau đóng đồn, khó nhọc chẳng phải một ngày. Nay uy vua lan rộng, đảng nghịch dẹp yên, nơi rậm rạp đã không quân ẩn nấp, chốn gia đình nên có thú vui vầy. Vậy tinh binh ở đồn thì tạm để lại phòng thủ, còn phủ binh hết thảy cho về".

Xây hai thành Cá Dốc [Dốc Ngư] và Vàm Cỏ [Thảo Câu]. Vua cho đất ấy là con đường cổ họng của Sài Gòn, nơi xung yếu để chống địch, bèn sai Nguyễn Văn Thành kiêm lãnh các tướng sĩ Tuần hải đô dinh coi giữ, hằng năm cứ mùa xuân mùa hạ thì giữ đồn, mùa thu mùa đông thì đi tuần biển.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai đội Tôn Thất Huyên cai quản các đội Ban trực tiền vệ Thần sách dinh Trung quân, Tôn Thất Chương cai quản các đội Ban trực hậu, Khâm sai thuộc nội cai cơ Phạm Văn Nhân cai quản các đội Ban trực tả, Tô Văn Đoài cai quản các đội Ban trực hữu.

Lấy Mạc Công Bính làm Khâm sai cai đội lưu thủ đạo Long Xuyên. Công Bính là con của Tử Hoàng. Tử Sinh chết rồi, vừa lúc người Xiêm đưa Công Bính về, vua nhân đó sai làm chức này. Lại lấy Bùi Văn Hiếu làm Cai bạ, Nguyễn Kim làm Ký lục, sai chiếu dân số của đạo, cứ 50 người thì đặt hai hương trưởng để đốc suất, chia làm bốn phiên để ứng chực sai phái, mỗi tháng một lần đổi phiên.

Định quy ước cho dinh Trung quân (Phàm nghe trong dinh đánh một hồi thanh la, thì không kể ngày đêm, cửa bốn vệ phải tức thì đóng khóa lại. Các vệ ở ngoài thì cứ địa phận của mình, các đội ở trong thì đứng trước trại, đều cầm binh khí, đợi điểm số xong thì về hàng ngũ canh giữ, làm trái thì xử theo quân pháp).

Kén phủ binh ở hai dinh Vĩnh Trấn và Trấn Định.

Định lệ thuế cho các ty biệt nạp về trừu nam, lĩnh mộc, lĩnh thâm của Nội viện. (Trừu nam mỗi năm thu mỗi người 1 tấm dài 30 thước quan đồng(1. Thước quan đồng : Thước bằng đồng của nhà nước. 1), khổ 7 tấc, cân nặng 1 cân ; lĩnh mộc mỗi người 1 tấm dài 22 thước, khổ 7 tấc, nặng sáu lạng ; lĩnh thâm mỗi người 1 tấm dài 20 thước, khổ 7 tấc, thuế sai dư mỗi người nộp 1 quan 1 tiền).

Lấy Khâm sai cai cơ Nguyễn Đạo làm lưu thủ Trấn Định.

Lấy Nguyễn Đăng Hựu làm Hàn lâm viện chế cáo. Đặng Hựu trải theo quân ngũ, quan chức đến Khâm sai cai cơ. Vua thấy là người vốn có văn học mới đổi cho làm chức này.

Lấy Nguyễn Khắc Thiệu, Trần Quang Tĩnh, Đinh Công Khiêm sung Thị thư viện.

Sai các nha văn võ làm sổ thuộc binh. Từ đây về sau hễ có sai phái mà không có tên ở sổ, thì người ấy bị phạt 100 roi và sung dịch phu, quan cai quản cũng bị liên tọa.

Mùa hạ, tháng 4, sai Lê Văn Quân đem quân sở bộ đóng giữ Bà Rịa.

Thưởng các tướng sĩ dinh Hậu quân. (Lĩnh và trừu các thứ 106 tấm, sa 49 tấm, nhiễu 2 tấm, gấm nửa cây).

Cho em Tiền quân khâm sai tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Loan là Nguyễn Văn Xuân được miễn dao dịch. Đâu là trong trận Ba Lai, Loan chết trận, vua rất thương, đến đây nghe mẹ Loan còn sống, nên cho người em được miễn dao dịch để hầu nuôi.

Xiêm La bị hạn và đói, xin đong gạo ở nước ta. Vua ra lệnh cho hơn 8.800 phương gạo (bằng 200 xe của Xiêm).

Cấm thuyền buôn nước ngoài chở trộm vật cấm. Phàm thóc gạo, kỳ nam, trầm hương, ngà voi, sừng tê đều cấm, ai dám mua bán riêng những thứ ấy thì xử 100 roi và xiềng sung dịch phu 3 năm, tài sản sung công. Người được sai phái không kiểm xét ra tội cũng như thế. Tố cáo đúng thực thì thưởng tiền 300 quan.

Ra lệnh cho quan công đường bốn dinh cáo khắp cho nhân dân trong hạt biết : Phàm quan và binh của giặc Tây Sơn ngày trước trốn về thôn ấp mà còn để di lậu, như nay muốn theo quân ngũ thì ghi vào binh tịch, muốn ở yên làm ruộng thì ghi vào hộ tịch. Kẻ nào lọt sổ thì xử tội chết. Thôn trưởng biết mà không nêu ra thì xử 100 roi, sung dịch phu 3 năm.

Lấy Khâm sai cai đội Nguyễn Ngoạn làm phó hiệu úy Hữu chi ở Trung quân.

Tháng 5, lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Văn Nhân làm vệ úy vệ Tả tiệp Thủy dinh Trung quân, Khâm sai đốc chiến cai cơ Nguyễn Hữu Chỉnh làm vệ úy vệ Hữu tiệp.

Định lệnh bắt giải lính trốn. Phàm quân nhân đã có ngạch binh được cấp lương mà trốn đi thì bắt cha mẹ vợ con và anh em ruột phải tìm bắt bằng được đích thân để trị tội. Còn những lính trốn từ trước hoặc đã đầu vào các thôn phường hay các chi hiệu thì đều tha truy bắt ; nếu cứ một niềm trốn tránh lậu sổ thì cho ai cũng được bắt giải, dân bắt được 1 người thì miễn dao dịch một năm, quân bắt được 1 người thì thưởng tiền 30 quan. (Duy lính trốn thuộc về các đội thuyền chi hiệu của dinh Trung quân, như quân mà bắt được 1 người thì thu ở hương trưởng và ở oa chủ số tiền 40 quan để thưởng). Người lính trốn thì lấy quân pháp luận tội.

Sai quan công đường bốn dinh chiêu tập dân xiêu dạt. Dụ rằng : "Từ khi ta lấy lại được đất Gia Định, dân chúng một phủ được cởi dây treo ngược, nhưng nghĩ tới dân các phủ từ Bình Thuận trở ra đã khổ với chính sách bạo ngược của Tây Sơn từ lâu, những người vào nhờ ta chính như thoát khỏi miệng cọp mà về với mẹ hiền, nên phải yên ủi vỗ về. Từ nay như có dân các phủ khác lưu ngụ thì cho sở tại ghi lấy tên tuổi quê quán, miễn trừ thuế thân, đợi sau khi thanh bình, cho họ trở về làng cũ để khỏi thất sở.

Chuẩn định rằng những thuyền buôn của người Thanh từ nay hễ chở đến bốn thứ sắt, gang, kẽm, lưu hoàng, thì nhà nước mua cả, lại theo số hàng nhiều ít để định cấp bực mà chước tha thuế cảng và cho đong gạo chở về nước nhiều ít khác nhau. (Phàm bốn thứ ấy chở được 10 vạn cân là hạng nhất, miễn thuế cảng, cho chở gạo về 30 vạn cân, chở được 6 vạn cân là hạng nhì, cho chở gạo về 22 vạn cân, chở được 4 vạn cân thì cho chở gạo về 15 vạn cân ; còn thuyền nào không đủ số trên thì cứ 100 cân hàng được chở gạo về 300 cân, thuế cảng vẫn phải nộp như thường). Từ đó những thuyền buôn vui lòng chở đến bán, mà quân dụng được dồi dào.

Sai Cai cơ tri Tượng chính là Trương Văn Giao kiêm quản trường đà [thuyền bánh lái dài].

Sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Đức Thiện và phó vệ úy vệ Tả trực Lâm Văn Giảng dò thám hai dinh Trấn Định và Vĩnh Trấn xem có kẻ nào cậy quyền thế mạo danh hiệu sách nhiễu bắt bớ bình dân, cùng bọn ngoan ngạnh giặc giã, cướp bóc của cải, bắt con em người, phàm hết thảy những việc hại dân, dò hỏi được đúng, cho tức thì bắt giải trị tội.

Lấy ốc Nha Chích (người Chân Lạp) làm an phủ Trà Vinh.

Tháng 5 nhuận, định rõ lệ tố giác việc lậu đinh. Trước là sai dân làm sổ hộ, lệ định rằng phàm ẩn lậu đinh khẩu, người nào biết rõ tố giác được 1 đinh, dân thì được miễn dao dịch một năm, quân thì trách thu ở ấp trưởng sở tại và ở oa chủ số tiền 40 quan để thưởng. Đến đây dân gian có nhiều kẻ nhiễu việc, ăn đút bừa bãi, vua nghe thấy, sắc cho từ nay phàm ai tố cáo việc lậu đinh thì phải có công đồng hay quan công đường phê chữ làm bằng mới được bắt nộp, theo lệ thưởng cho. Bằng cậy thế bắt riêng, lấy của rồi thả, thì cho ấp trưởng và người đinh lậu ấy thú tội và tố cáo, sẽ được thu lại tang vật và tha tội cho. Nếu đồng tình không chịu phát giác mà việc lộ ra, thì người ấp trưởng, người oa chủ, người đinh lậu và kẻ bắt riêng ấy đều bị xử 100 roi, xiềng sung dịch phu 6 tháng.

Bãi bỏ thuế sân chim [điểu đình] ở Hà Tiên.

ở đạo Kiên Giang thuộc Hà Tiên, hai thôn Đông An và Vĩnh Hòa thường có chim tụ tập rất nhiều, nhân dân đánh lấy lông chim đem bán mà nộp tiền thuế, gọi là thuế sân chim. Vua cho việc ấy có hại loài sinh vật nên bãi đi và cấm từ nay không được đánh lấy trộm nữa.

Sai bọn Nội viện là Trần Thụy Quan và Chi Văn Yên sang Quảng Đông mua các hóa hạng.

Vua bàn sẽ cử đại quân tiến đánh Tây Sơn, bèn ban quân chính cho các dinh để dạy tập tướng sĩ cho quen thuộc, lại ra lệnh dự nộp lương riêng để chờ lệnh phát trưng (ở Chính danh thì ty Xá sai, ty Tướng thần lại, ty Lệnh sử, ty Nội lệnh sử, ty Lệnh sử tầu, ty Chiêm hậu lại, ty Lệnh sử các nha, cùng những nhân viên và người đi theo ở các thuyền các đội thuộc về hiệu Kiên, ở bốn dinh thì thư ký, cai án, tri bạ, cho đến tạp lưu hai ty Xá sai và Tướng thần lại, tòng thuộc các ty, thợ các nha, các cuộc cùng là tinh binh và thuộc binh, từ cai cơ, cai đội, chánh thứ đội trưởng, và cai đội thủ ngự, cai án, tham mưu các đầu nguồn cửa biển, đạo nội lệnh sử và quân, phủ binh và dân thực nạp các tổng xã thôn phường, cho đến những người nhiêu thân, nhiêu học, cùng người có đơn xin miễn dịch và những sái phu và phụ lũy biệt nạp đã vào sổ vào án và những người lão hạng, lão nhiêu trong hộ tịch của Tây Sơn, mỗi viên nộp 2 tháng lương, gạo thì 60 bát quan đồng, nộp thóc thì gấp đôi. Các dinh Tiên phong, Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu từ tổng nhung, thống binh, cai cơ, cai đội cho đến quân sĩ, phàm người mới thêm vào từ tháng giêng về sau cũng nộp 2 tháng, người ngạch cũ thì nộp 1 tháng, trừ những người thuộc sổ Chiến tâm thì được miễn".

Sau nghe tin giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ ở Thuận Hóa đóng nhiều chiến hạm, mưu đánh phương Nam, lại không cử binh nữa.

Cấm phù thủy và đồng bóng. Vua cho là tả đạo lừa dân nên cấm. Kẻ nào còn phạm cấm, phù thủy thì xử 100 roi và sung dịch phu 6 tháng ; cô đồng thì xử 100 roi và sung giã gạo 6 tháng. Lại ra lệnh cho bốn dinh bãi bỏ những nhân viên ở hai ty Pháp lục và Đạo sĩ cho sung bổ và hai ty Xá sai và Tướng thần lại.

Cấm con hát không được ghi lộn vào sổ quân. Vua dụ tướng hiệu các dinh rằng : "Trên chốn triều đình, cao thấp có thứ tự, phẩm trật có lệ thường. Nay quân lính tuy ở hàng ngũ, ngày khác bàn công biết đâu lại chẳng có người làm tướng súy. Như con hát lại là bọn vô loại, mà cho lẫn vào đó, thế chẳng là để đá vũ phu lẫn với ngọc sao ? Nay các dinh từ chưởng quân cho đến cai đội, nếu ai muốn nuôi con hát thì cho lập riêng sổ "ban chơi xuân", thuế thân theo như quân hạng, sắc quần áo không được giống như các quân, Khi có việc thì tòng chinh, không việc thì hát xướng. Nếu đã vào sổ quân mà còn đi hát xướng, có người tố phát thì xử 100 roi, xiềng sung dịch phu 1 năm, quan cai quản bị phạt tiền 30 quan để thưởng cho người cáo giác.

Tháng 6, hoàng cả Cảnh từ nước Tây Dương về. Đầu là vua sai Cảnh sang Đại Tây cầu việc, trải hai năm mới đến nước ấy. Vua nước ấy đãi theo vương lễ, nhưng cuối cùng không thể giúp được, mới sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Văn Chấn theo Bá Đa Lộc đưa Cảnh về. Cảnh từ khi vâng mệnh sang Tây, đã được bốn năm, vua để lòng thương nhớ, kịp được tin báo, tức thì sai Tôn Thất Hội đem binh thuyền ra cửa biển Cần Giờ đón về. Về đến nơi, vua vui mừng lắm, Thắng và Chấn đều xin ở lại làm tôi tớ. Vua cho, đều cho chức Cai đội và cho một nghìn quan tiền (Thắng, Chấn đều là tên của vua cho).

Truy tặng Tôn Thất Đồng làm Đặc tiến phục quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng cơ, Tôn Thất Mân làm Dực vận công thần đặc tiến phụ quốc đại đô đốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng dinh, Tôn Thất Điển làm Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng cơ.

Bắt đầu đặt quan Điền tuấn, lấy bọn Hàn lâm chế cáo là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tống Chu, Hoàng Minh Khánh cộng 12 người chuyên coi việc điền tuấn, chia đi bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định, để khuyên bảo nông dân, cứ theo sổ đinh, từ phủ binh cho đến hạng cùng cố, đều phải gắng sức làm ruộng. Người dân nào không theo nghề làm ruộng thì sung thay chân phủ binh. Đến khi lúa chín, xét số thu hoạch, người nào cấy ruộng cỏ [ruộng lầy] được 100 thúng thóc (mỗi thúng đong 24 bát), cấy ruộng núi [ruộng cao] được 70 thúng thóc trở lên, phủ binh thì miễn một năm tòng chinh, dân đinh thì miễn một năm dao dịch. Không kịp số ấy thì không được hưởng lệ miễn. Lại mộ dân ngoại tịch lập làm điền tốt, thuộc về quan điền tuấn, cấp cho ruộng hoang, trâu cày và điền khí, nếu không đủ thì nhà nước cho vay, sau mùa gặt thì nộp thóc để trả nợ.

Đặt đạo Kiên Đồn (ở cửa sông Tà Ôn dinh Vĩnh Trấn), sai Tham mưu Nguyễn Ngọc Chương và Cai cơ Nguyễn Văn Thư coi giữ và kiêm thu thuế của người Đường [Hoa kiều] (mỗi người mỗi năm nộp 1 đồng bạc phiên).

Sai năm ty ở Chính dinh chia phiên trực ở công thự, ai bỏ thiếu thì trị tội. (Năm ty Xá sai, Tướng thần lại, Lệnh sử, Nội lệnh sử, Lệnh sử tầu, mỗi ty đều 2 người, sáng sớm lên trực, một ngày đêm thì đổi phiên, ai bỏ thiếu xử 30 roi, ty trưởng liên tọa. Sau đặt thêm ty Lệnh sử Binh bộ và ty Chiêm hậu lại, đều thuộc Chính dinh, cộng bảy ty).

Đặt bảo Trấn Di (ở phía bắc sông Ba Xắc), sai Cai cơ Tống Phước Khoa coi giữ. Thuế muối qua đó, 10 phần phải nộp 1 phần. Lại thấy dân Phiên mới phụ, sai chở gạo nhà nước 500 phương cho vay, khiến họ

cày cấy.

Xuống lệnh ân xá. Dụ rằng : "Vừa rồi qua loạn Tây Sơn, thói nhơ bẩn chưa trừ hết, đến nỗi tiểu dân không biết mà dễ phạm lỗi. Vả không dạy mà giết thì lòng ta không nỡ. Những kẻ phạm tội sung dịch phu không kể mới hay lâu, đều tha hết, duy tội ăn cướp giết người cùng với tội đại nghịch bất đạo thì không dự lệ ân xá này".

Sai các dinh kén quân chiến tâm. Dụ rằng : "Tướng quý biết mưu mô, quân cần có vũ dũng, cho nên ba nghìn quân cùng một đức mà gây dựng được nhà Tây Chu, hai mươi tám tướng cùng lập công mà trung hưng được nhà Đông Hán. Từ xưa dùng quân không bao giờ không lấy vũ dũng làm đầu. Các ngươi thống quản các dinh, nên ra lệnh cho các trưởng chi trưởng hiệu kén chọn cho tinh, từ cai cơ cai đội cho đến quân lính, ai là người dũng cảm có chí chiến đấu thì làm sổ tiến lên, để hậu cấp lương tiền, khiến cho chuyên học tập việc binh, người cai quản không được bắt làm việc riêng". Thế rồi số người ở trong bộ khúc của Tiền quân có 3.800 người, kén được 2.000 người, làm danh sách dâng lên. Vua cho rằng lấy nhiều như thế không thể không có người quá lạm, bèn sai kén lại. Lại sắc cho các dinh phàm người đã ghi tên ở sổ chiến tâm đều phải lập thành thập ngũ, chịu ước thúc của dinh Trung quân mà chăm luyện tập. Trong bình thời mà đào ngũ thì bắt tội đến cha mẹ anh em vợ con, ra trận mà lùi thì dùng quân pháp luận tội.

Mùa thu, tháng 7, truy tặng Cai cơ Lê Phước Điển làm Dực vận công thần phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng cơ.

Lấy Cai cơ tri Tượng chính Trương Văn Giáo làm Lưu thủ Phiên Trấn, cựu tham đốc Trần Hiếu Liêm làm Cai bạ, Hàn lâm Nguyễn Mộng Bi làm Cai bạ Vĩnh Trấn, Nguyễn Đăng Hựu làm Ký lục.

Lấy Phó vệ úy vệ Tiền trực Trương Phước Luật làm Vệ úy.

Sai cai cơ Thủy dinh Trung quân Nguyễn Công Nga mộ dân lập nậu sáp ong (mỗi người mỗi năm nộp sáp ong 10 cân, dao dịch đều miễn, thuế thân thì theo như quân hạng).

Dân cư thôn Tân Lập ở Trấn Biên có nạn cọp. Vua ra lệnh tìm cách bắt cọp, ai bắt sống thì thưởng tiền 15 quan, giết chết thì thưởng 10 quan.

Hàng tướng Phạm Văn Tham có tội bị giết. Đầu là giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ sai người tin cậy là Diệm đưa mật thư cho Tham. Diệm đến, nghe tin Tham đã đầu hàng, bèn nhân đêm lẻn vào gặp Tham. Tham được thư nói rằng : "Nay việc đã như thế, thì làm thế nào được?". Diệm nói : "Nay dầu bị thua, nhưng không bao lâu chúa ta hẳn trở lại, Gia Định tất lại về tay chúng ta. Tướng quân nên liệu tính đi". Tham yên lặng hồi lâu, bèn giữ Diệm ở lại với mình. Có người mật đem việc ấy tố cáo. Vua sai Nguyễn Hoàng Đức rủ Tham cùng vào. Đến cửa cung, vệ sĩ trói Tham đem dâng. Vua kể tội cho nghe rồi sai giết, bêu đầu cho công chúng xem, lại xuống dụ cho các tướng sĩ mới hàng khiến cứ yên tâm.

Lấy Trương Văn Khánh làm Khâm sai cai cơ. Khánh từng theo đi Vọng Các, đến khi hộ giá trở về, đánh nhau với giặc súng bắn bị thương và bị giặc bắt, không chịu khuất, lại nhân lúc sơ hở lẻn về, theo quân đánh giặc. Vua khen nên có mệnh này.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ đặt tên cho trấn Nghệ An là Trung Đô, sửa thành lũy, đặt kho tàng, dùng trọng binh túc trực ở đấy.

Lê Duy Kỳ khởi binh ở Cao Bằng. Duy Kỳ là em vua Lê. Vua Lê sang nước Thanh, Duy Kỳ chạy ra Cao Bằng. Cựu thần nhà Lê là Nguyễn Đình Lượng giận giặc cướp ngôi, đem quân rước về, liên kết với những tù trưởng Man ở Tuyên Quang, Hưng Hóa, cử binh đánh giặc. Đô đốc giặc là Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 tinh binh theo đường Thái Nguyên đến đánh đuổi, bèn tan.

Hộ bộ là Trần Phước Giai chết (truy tặng Tham chính).

Đặt nhà sứ quán (có hai tòa nhà, mỗi tòa 5 gian, lính lệ 20 người, phàm sứ giả các nước Chân Lạp, Xiêm La đến đều ở đấy).

Tháng 8, định lệnh cấm kẻ cướp. Vua nghe ở dân gian có nhiều trộm cướp, quan quân cũng có người phạm tội ấy, dụ rằng : "Bọn này sở dĩ làm trộm cướp, một là người thống quản không biết nghiêm cấm bộ khúc của mình, hai là những cha anh không biết ngăn cấm con em, ba là hương trưởng không biết dò xét bọn du thủ du thực. Nếu không có phép nghiêm thì muốn ngăn trừ trộm cướp cho dân được yên thế nào được. Từ nay kẻ nào phạm tội ăn cướp, hễ là quan quân thì không kể thủ phạm hay tòng phạm, đều xử chém, cha mẹ vợ con cũng đều phải tội chết. Lại bắt tội đến người phân quản, xử 100 roi và xiềng sung phu dịch. Dân thì chỉ giết kẻ chính phạm, hương trưởng và oa chủ đều bị tội liên can như tội phân quản. Người nào biết rõ mà tố giác đúng thực thì thưởng tiền 100 quan. Cha mẹ vợ con và hương trưởng, oa chủ cùng những đồ đảng đi theo mà biết thú cáo trước thì được miễn tội, cũng thưởng như thế.

Sai các quân đóng chiến thuyền lớn hơn 40 chiếc, thuyền đi biển hơn 100 chiếc, lại sai các nha văn võ cùng các đạo thủ thuộc các dinh Trấn Biên, Trấn Định và Vĩnh Trấn đi lấy ván gỗ để nộp. Những dân phụ lũy, sái phu và cục tượng các dinh, các đội nậu biệt nạp, thuộc binh các nha, cứ 40 người thì nộp ván đóng một chiếc sai thuyền, các đạo thủ(1. Đạo thủ: Quan coi giữ một đạo.1) Long Xuyên 10 chiếc, Kiên Giang 3 chiếc, Trấn Giang 5 chiếc, Phú Quốc 8 chiếc.

Tháng 9, sai binh các đội Hùng Diêm và An Công chia làm hai phiên, mỗi tháng hai lần thay đổi. Kẻ nào phạm tội lấy cắp diêm tiêu lưu hoàng, từ 1 lạng trở lên, cai đội thì lấy quân pháp xử trị, binh thì xử 100 roi và sung quân. Ai biết mà tố giác thì thu tiền ở cai đội 100 quan để thưởng.

Cải tổ Hộ bộ Nguyễn Bảo Trí sang làm Lại bộ, Lại bộ Nguyễn Thái Nguyên làm Lễ bộ, Lễ bộ Nguyễn Đô làm Hộ bộ. Rồi ra lệnh cho các nha trong ngoài từ nay chương sớ tâu lên thì bản sớ dùng hai phong, một phong bản chánh, một phong bản phó, duy việc cơ mật thì dùng một phong, đều phải đưa qua Lại bộ trước sau mới tâu lên.

Sai Cai cơ vệ Hữu trực là Nguyễn Công Doanh giữ đạo Quang Uy, theo dân cư và địa thế cứ 10 nhà làm một ấp nhỏ, 50 nhà làm một ấp lớn, mỗi ấp có trưởng ấp, sai đặt xích hậu đề phòng ngừa trộm cướp.

Vua đến đạo Hưng Phước để xem xét hình thế đồn lũy, duyệt tướng sĩ Tiền quân, xong rồi về.

Xây bảo Thanh Sơn ở dinh Trấn Định (ở sông Ba Lai).

Lấy giám quân chưởng cơ Trung dinh là Nguyễn Hoàng Đức cai quản tướng sĩ Trung chi.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ Tống Phước Ngoạn làm Vệ úy vệ Hữu trực dinh Trung quân, Phạm Văn Đàn làm Phó vệ úy, Võ Văn Chấn làm Phó vệ úy vệ Hậu trực, thuộc nội chia đôi Tống Viết Phước làm vệ úy Ban trực tuyển phong tiền vệ Thần sách, Võ Văn Chất làm Phó vệ úy, Tổng binh cai cơ Cao Văn Lý làm Phó vệ úy Ban trực tả, Cai đội Hoàng Viết Toản làm Phó vệ úy Ban trực hữu.

Mùa đông, tháng 10, đại duyệt tướng sĩ các dinh ở đồng Tập Trận.

Định lệ báo trộm cướp. Phàm các nhà bị mất trộm cướp phải làm hai bản đơn, quan công đường được báo thì phê bằng một bản, lưu án một bản, rồi tức thì phái lính đi truy nã, cuối tháng đều làm sớ tâu lên.

Miễn thuế ruộng cho đạo Long Xuyên, thuế thân thì cũng như dân các huyện.

Tha thuế thân sang năm cho dân sở Phú Quốc. Vua thấy xứ ấy đất hẹp dân nghèo, nên tha cho.

Hình bộ Ngô Hữu Hựu vì xử đoán ngục tụng không minh nên bị miễn chức ; lấy tham mưu Nguyễn Văn Nghị làm Hình bộ.

Tha thuế thiếu về ruộng vườn bỏ hoang trong bốn dinh; sai quan công đường khám thực làm sổ để cho dân sở tại trưng.

Lấy Phan Văn Thúy làm phó sự cai đội Tuyển phong hậu vệ Thần sách. Thúy đầu theo giặc, mùa thu năm Mậu thân theo về, cho lệ vào Hậu quân do Tôn Thất Hội sai phái, đến đây mới có mệnh này.

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Đức làm chánh trưởng chi đạo Tiền du dinh Hậu quân, Nguyễn Văn Thành làm phó trưởng chi, Nguyễn Văn Thư làm Chánh trưởng chi Tiền chi, Võ Công Bửu làm Phó trưởng chi, Phan Tiến Hoàng làm Chánh trưởng chi Tả chi, Trần Lương Điện làm Phó trưởng chi, Trần Quang Minh làm Chánh trưởng chi Hữu chi, Nguyễn Văn Dương làm Phó trưởng chi, Trương Tiến Bửu làm Chánh trưởng chi Hậu chi, Phạm Văn Súy làm Phó trưởng chi, Phạm Tiến Tuấn làm Chánh tiền hiệu Trung chi, Trần Văn Trung làm Phó tiền hiệu.

Tháng 11, sai các quân thao diễn chiến trận. Vua nghe Cai cơ Nguyễn Đình Đắc biết việc binh, sai đem trận pháp để huấn luyện cho quân sĩ.

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ Đoàn Ngọc Quyền làm Chánh trưởng chi đạo Tiền du dinh Tả quân, Trần Viết Thành làm Phó trưởng chi, Nguyễn Văn Tuấn làm Chánh trưởng chi Trung chi, Lê Tiến Tham là Phó trưởng chi, Vũ Văn Cẩn làm Chánh trưởng chi tiền chi, Nguyễn Tiến Lượng làm Phó trưởng chi, Nguyễn Văn Tĩnh làm Chánh trưởng chi Tả chi, Nguyễn Văn Thịnh làm Phó trưởng chi, Nguyễn Văn Hưng làm Chánh trưởng chi Hữu chi, Vũ Tiến Đẩu làm Phó trưởng chi, Đoàn Cảnh Cư làm Chánh trưởng chi Hậu chi, Phùng Văn Tiêm làm Phó trưởng chi, Trần Văn Tín làm Chánh trưởng chi đạo Tiền du dinh Tiên phong, Nguyễn Khoa làm Phó trưởng chi, Mạc Văn Tô làm Chánh trưởng chi Tiền chi, Phạm Văn Nho làm Phó trưởng chi, Nguyễn Văn Thành làm Chánh trưởng chi Tả chi, Mai Văn Hiên làm Phó trưởng chi, Trần Văn Lan làm Chánh trưởng chi Hữu chi, Nguyễn Văn Biện làm Phó trưởng chi, Hồ Đức Vạn làm Chánh trưởng chi Hậu chi, Lê Công Hanh làm Phó trưởng chi, Lê Văn Long làm Chánh tiền hiệu Trung chi, Lương Văn Ba làm Phó tiền hiệu.

Nước Tà Ni (biệt danh nước Chà Và), sai sứ đến hiến sản vật địa phương và xin quân giúp đánh Xiêm La.

Vua cho rằng nước ta cùng nước Xiêm tình nghĩa láng giềng vốn hậu, nên khước từ phẩm vật mà bảo về, nhân viết thư báo cho nước Xiêm, người Xiêm cảm tạ.

Cấm chọn tiền. Phàm quan thu thuế và chợ búa đổi chác, đồng tiền không kể sứt mẻ, hễ còn có thể xâu lạt được đều cho thông dụng, ai chọn bỏ bị tội (quan, quân, dân phạm cấm đều đánh 50 roi, quan thì xử biếm bãi, quân thì sung hỏa đầu [làm bếp] một năm, dân thì đóng xiềng sung

dịch phu một năm, phụ nữ thì sung phường giã gạo một năm, ai tố cáo đúng thực thì thu tiền ở kẻ phạm 10 quan mà thưởng cho. Kẻ nào vu cáo thì bị phản tọa).

Định lệ lên phiên xuống phiên cho các quân. Vua thấy quân sĩ theo việc chinh chiến đã lâu, nghĩ muốn cho nghỉ ngơi, sai chia làm ba phiên, mỗi tháng thay đổi một lần, cứ một phiên lên ứng trực thì hai phiên xuống nghỉ ngơi.

Sai dinh Trấn Biên đặt mua đường cát, mỗi năm lấy 10 vạn cân làm hạn, cứ số đường 100 cân thì phát trước tiền công cho 10 quan. Đến ngày nộp đường cho nhà nước thì theo giá chợ mà cấp thêm, để sẵn mà đổi cho người Tây Dương lấy đồ binh khí.

Hạ lệnh cho hàng quan lại, binh lính, thợ thuyền theo quê quán mà ghi vào sổ, văn từ sáu bộ cho tới công đường bốn dinh, võ từ chưởng cơ, trưởng chi, trưởng hiệu, chánh phó vệ úy, hoặc chính quán hoặc ngụ quán, ở thôn ấp nào, đều có tờ truyền ; ty lại và binh lính thời do sở quản cấp phó ; đều phải chua rõ tên tuổi quê quán để gửi về cho hương trưởng sở tại chép vào sổ dân. (Phàm biến binh các quân dinh thì do quan chưởng dinh cấp ; các thuyền ty đội nậu tinh binh thuộc bốn dinh thì do quan công đường cấp ; Văn giáp, Võ giáp, các hậu thuyền Trung hầu, Tả hầu, Hữu hầu, Nội phủ công tôn, công tử, tòng thuộc, triều hạ, Thuyền bàn, Mộc đĩnh thì do Binh bộ cấp ; hàn lâm chế cáo, thị thư, trị bạ tàu, Chiêm hậu ty lại, lão thuyền, đội Tiểu hầu thì do Hộ bộ cấp ; tượng ty các cục ở Chính dinh thì do quan tri Đồ gia cấp ; còn những người không điền sản và không cha mẹ anh em vợ con mà mạo ghi quê quán thì cho hưởng trưởng chua rõ ở trong đơn, kẻ nào trốn thì miễn bắt ; nếu có kẻ lậu sổ thì nã bắt giải trị tội).

Tháng 12, đắp bảo((1) Bảo : Thành đắp bằng đất1) Đồng Môn dinh Trấn Biên.

Lấy vệ úy vệ Hổ oai dinh Trung quân là Hoàng Tiên Thanh làm Lưu thủ Vĩnh Trấn, Hàn lâm viện Lê Phước Diễn làm Cai bạ Trấn Định, Trần Mậu Khanh làm Ký lục.

Bọn tù trưởng phản nghịch ở Ba Xắc nổi dậy, xâm phạm thành Trấn Di. Trước là ốc Nha ốc đã bị giết, sai Già Tri Giáp giữ đất ấy, đến đây Giáp về Nam Vang, dư đảng của ốc lại họp quân quấy rối biên thùy, Thủ bảo Tống Phước Khoa không thể chống được. Vua sai Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Trương đem binh thuyền đánh dẹp yên, bèn đặt một bảo lớn ở Bãi Xau (Xao Châu, ở phía bắc cửa biển Mỹ Thanh), phái quân đến phòng giữ, để tựa nhau với thành Trấn Di.

Truy lục chiến công.

Dụ rằng : "Thưởng để đền công, đó là lễ thường của nhà nước. Nghĩ tới tướng sĩ các dinh của ta, đi theo đánh trận, từ Mỹ Lung cho đến Ba Lai, Tinh Phụ, trăm trận khó nhọc, cũng đã siêng năng. Người xưa đối với trâu ngựa còn không quên công khó nhọc ngày trước, huống chi là đối với tướng sĩ. Vậy lần này hễ ai đã dự có chiến công, quan chưởng lãnh phải ghi hết vào sổ tâu lên, người sống thì gia phong, người chết thì truy tặng, để đền công lớn".

Định lệ thuế thuyền nghề cá. (Thuyền trong lòng ruộng 6 thước trở lên là hạng nhất, tiền thuế 10 quan ; 5 thước trở lên là hạng nhì, tiền thuế 7 quan 5 tiền ; 3, 4 thước trở lên là hạng ba, tiền thuế 5 quan).

Định lệnh bắt trộm cướp. Dụ rằng : "Muốn bón lúa tốt trước hết phải làm cỏ. Muốn yên dân phải trừ bọn hung bạo. Vừa rồi nghe lũ côn đồ cướp của bắt người, làm hại dân ta. Các ngươi, quan công đường các dinh, là thành lũy của một phương, ngăn trộm yên dân, chức phận ấy ở đâu ? Vậy nay hạn trong hai tháng phải bắt được bọn gian giải trị, truy thu tang vật trả dân, ngoài hạn đó mà không bắt được thì phải đền".

Ban thưởng mũ áo và tiền cho tướng sĩ dinh Tiền quân. (Chưởng dinh Lê Văn Quân áo bào gấm và mũ đai một bộ, thuộc tướng Chánh phó trưởng chi, trưởng hiệu 42 người, áo dài sa mỗi người một cặp, quần nhiễu mỗi người một chiếc. Ngoài ra, 2.000 quan tiền, 30 tấm lụa, 20 tấm trừu nam, phàm biền binh theo đi Vọng Các và có dự chiến công ở Mỹ Lung, Ba Lai, Bát Tiên đều được chia cấp).

Canh tuất, năm thứ 11 [1790] (Thanh ? Càn Long năm thứ 55), mùa xuân, tháng giêng, lấy Vệ úy vệ Tiền trực Trung quân là Trương Phước Luật làm Vệ úy vệ Hổ oai, Phó vệ úy vệ Hổ oai, Nguyễn Văn Luật làm Vệ úy vệ Tiền trực.

Lấy Khâm sai chưởng cơ Nguyễn Văn Nghĩa làm Hiệu úy Hữu chi Trung quân, Cai cơ Vũ Văn Lượng làm Hiệu úy Tả chi, Vũ Văn Sĩ làm Phó hiệu úy, Nguyễn Hoán làm Hiệu úy Hậu chi, Tôn Thất Trung làm Phó hiệu úy Trung chi, Phan Tiến Quý làm Phó hiệu úy Tiền chi.

Quân thuyền Súng nhất thuộc Tiền quân xuống làng quấy rối, dân kiện. Vua hạ lệnh giao Lê Văn Quân xét xử, và dụ rằng : "Tướng quân ở ngoài, triều đình dựa làm thành lũy, phải nên ngăn cấm bộ khúc, cho yên lòng dân. Cái việc ngày nay xảy ra [ta đối với khanh] cũng như việc Tống Thái Tổ đối với Hán Siêu(1. Tống Thái Tổ dùng Lý Hán Siêu làm chức binh mã ở Quan Nam. Bị dân kiện vì tội ép con gái nông dân làm vợ lẽ và vay tiền không trả. Việc ấy Tống Thái Tổ một mặt giải thích cho dân, một mặt báo Hán Siêu phải cho con gái dân về và trả nợ dân rồi tha tội cho, vì Hán Siêu là người có công lớn trong việc đánh giặc Khiết Đan. 1). Khanh có thể không nghĩ sao ?".

Cấm quân dân mang binh khí riêng.

Nước Tam Hoạt sai sứ thần là Giáp Tất Đan Điền Hòa đến hiến đồ binh khí, khi sứ trở về, vua gửi cho quốc trưởng [nước ấy] một cái tàn vàng và một vạn cân gạo.

Sai Lê Văn Quân phái đi dò thăm tình hình giặc Tây Sơn động tĩnh thế nào. Quân tâu rằng : "Nếu nay bọn giặc thừa lúc thuận gió vào cướp, thì sợ bọn hoang man miền thượng đạo nổi lên quấy rối sau lưng, xin đóng bộ binh ở Quang Hóa và đặt thủy sư ở Hưng Phước để đề phòng việc không ngờ. Đợi khi cuối mùa gió bấc quân giặc không dám dời xa sào huyệt thì sai một đại tướng đem trước quân thủy và quân bộ thẳng tới Bình Thuận và Bình Khang thiết lập đồn lũy, mộ dân làm lính để liên lạc ứng tiếp với nhau, giặc có đến cũng không làm gì được".

Vua dụ rằng : "Tướng quân lo xa, cũng hợp ý ta, duy khéo dụng binh, không để cho giặc biết manh mối thì mới giữ phần thắng được. Nay Hưng Phước là nơi liền với giặc, quân chưa hoạt động mà giặc đã biết trước, đó không phải là đắc kế. Hãy nên dò kỹ tình hình giặc rồi sau đặt phòng bị thì cũng không muộn. Đến như hai phủ Bình Thuận, Bình Khang thì dân bị lầm than đã lâu, sầu khổ buồn rầu, nay lại cho tướng sĩ tới đó đóng đồn, lâu ngày sẽ sinh tệ, không khỏi nhờ cậy lương tiền của dân và xua dân đi làm phu dịch, thế cũng như nước thêm sâu, lửa thêm hừng, sao gọi là quân vương giả được ? Vậy hãy thong thả tính đại cử để lấy toàn thắng. Quân đi tới đâu không phạm của dân mảy may. Lấy được một thước đất là đất của ta, về được một người dân là dân của ta, thì hết thảy nhân dân trong chín phủ hẳn khua tay vẫy cánh, tranh nhau giết giặc, như thế thì lấy lại non sông cũ có thể hẹn ngày được vậy". Bèn triệu Quân về để bàn định kế hoạch tiến đánh.

Dựng nhà kho tạm ở bảo Ba Lai, thu chứa thóc thuế phủ Bình An dinh Vĩnh Trấn để phòng cấp phát.

Tháng 2, hạ lệnh cho bốn dinh sửa lại sổ tiêu bạ(1. Tiêu bạ: Cũng gọi là sổ tiêu sai, như sổ hộ tịch. 1). (Trong sổ liệt đủ họ, tên, tuổi, quê quán các hạng dân. Quan quân thì ghi riêng ở sau sổ). Lại ra lệnh cho những người Đường [Hoa kiều] thuộc các tỉnh Quảng Đông, Phước Kiến, Hải Nam, Triều Châu, Thượng Hải ngụ ở trong hạt, mỗi tỉnh đặt một người Cai phủ và một người Ký phủ, rồi chiếu theo số hiện tại, hoặc làm binh hoặc làm dân, làm thành hai sổ do Binh bộ và Hộ bộ phê chữ làm bằng. Hương trưởng sở tại nếu dám ẩn lậu một người thì đánh 100 roi và sung dịch phu 3 năm.

Thưởng tướng sĩ dinh Hậu quân. (Tiền 2.000 quan, lụa 30 tấm, trừu nam 20 tấm, phàm người đi theo Vọng Các và dự có chiến công ở Mỹ Lung, Tinh Phụ, Bát Tiên đều được chia cấp).

Định rõ lệnh cấm đánh bạc. Phàm quan quân dân thứ, ai phạm cấm thì cho hưởng trưởng sở tại bắt giải trị tội, cấp thưởng như lệ. Nếu vì tình mà dung túng bị người tố giác thì hương trưởng bị đánh 50 roi, sung dịch phu 6 tháng, lại thu 50 quan tiền để thưởng cho người cáo giác.

Lấy túc trực cai đội Nguyễn Đức Xuyên làm thuộc nội cai đội, suất lãnh sáu đội Túc trực trung, thuộc nội cai cơ Tống Phước Ngọc quản đội Tiểu sai.

Lấy Khâm sai đô đốc dinh Hữu quân là Nguyễn Kế Nhuận làm Phó tướng Tiền quân.

Sai đạo thủ các đạo Quang Hóa, Đồng Môn, Ba Can, Băng Bọt lấy nộp ván gỗ để đóng thuyền đi biển.

Lấy Lưu thủ Trấn Định là Nguyễn Đạo quản Hữu chi dinh Tả quân, Cai cơ quản cơ Hậu thủy là Nguyễn Đức Thiện làm Lưu thủ Trấn Định.

Thao diễn các quân ở đồng Tập Trận.

Tháng 3, lấy Chưởng cơ Thủy dinh Trung quân là Hồ Văn Lân quản cơ Hữu thủy, Cai cơ Nguyễn Thoan quản cơ Hậu thủy, Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn quản cơ Tả thủy.

Lấy Tham mưu Võ Tiến Sinh làm Khâm sai tham mưu dinh Trung quân, thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thịnh làm Phó hiệu úy Tuyển phong hậu vệ Thần sách.

Ngày Kỷ sửu, đắp thành đất Gia Định. Vua thấy thành cũ ở thôn Tân Khai chật hẹp, bàn mở rộng thêm. Dụ rằng : "Vương công giữ nước, tất phải đặt nơi hiểm yếu trước. Nay đất Gia Định mới thu phục, cần sửa thành trì cho bền vững để chỗ ở được vững mạnh". Bấy giờ mới huy động quân dân để khởi đắp, hẹn trong mười ngày đắp xong. Thành đắp theo kiểu bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt cục Chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm tòa vọng đẩu(1. Vọng đẩu: Đài có lan can hình như cái đấu để trông xa. Có nóc là vọng lâu.1) bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu lệnh cho các quân. Thành xong, gọi tên là kinh thành Gia Định. Thưởng cho quân dân hơn 7.000 quan tiền (Tám cửa thành đều xây bằng đá ong, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Ly Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiểm, phía đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấn Chỉ, phía tây là cửa Tôn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Ngang dọc có tám đường, đông sang tây dài 131 trượng 2 thước, nam sang bắc cũng thế, cao 13 thước, chân dầy 7 trượng 5 thước. Phía ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước, sâu 14 thước, có cầu treo bắc ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng. ở ngoài là đường phố chợ búa, dọc ngang la liệt đều có thứ tự. Hai bên đường quan đều trồng cây thích nghi, gọi là đường thiên lý).

Dựng Hậu điện để phụng sự quốc mẫu. Dựng Phương điện [điện vuông], điện Kim ấn, điện Kim Hoa và gác Triêu Dương.

Vua chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rỗi. Sai Thị thư viện sung chức khởi cư chú(2. Khởi cư chú: Chức quan ghi chép những lời nói việc làm của vua. 2), phàm vua làm công việc gì đều chép hết.

Định lễ tiết Chính đán và Đoan dương. (Ngày ấy vua đến Thái miếu làm lễ, rồi đến Hậu điện chúc mừng, lễ xong, vua ngự ở điện, bầy tôi chầu mừng).

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ sai người sang chầu nước Thanh. Đầu là Huệ đã đánh bại quân Thanh, lại xưng tên là Nguyễn Quang Bình mà cầu phong với nhà Thanh. Vua Thanh cho, lại yêu cầu vào chầu. Huệ lấy người cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị, nét mặt giống mình, sai đi thay, cùng đi với bọn Ngô Văn Sở và Phan Huy ích. Vua Thanh thẹn vì thua trận, nên cũng nhận cho qua, ban cho rất hậu. Huệ tự lấy làm đắc chí, càng ngông càn lắm.

Mùa hạ, tháng 4, lấy Lưu Thiên Hựu làm việc Binh bộ.

Sai chưởng Tiền quân Lê Văn Quân lãnh quân thủy quân bộ hơn 6.000 người tiến lấy Bình Thuận. Đầu là Quân từ Bà Rịa vào yết kiến, chủ trì bàn việc xuất quân. Nguyễn Bảo Trí và Tống Phước Đạm đều phụ theo. Chỉ có Nguyễn Văn Thành cho rằng đất Gia Định mới khôi phục, dân tâm chưa bền chắc, phòng thủ chưa chu đáo, mà Bình Thuận là nơi tứ chiến, lấy được tuy dễ mà giữ được rất khó, không bằng ta nuôi oai chứa sức để đợi thời cơ mới là kế hay vạn toàn. Cuối cùng, vua theo lời bàn của Quân, bèn sai Tiên phong dinh Võ Tánh đem binh thuyền sở bộ đi trước, Nguyễn Văn Thành làm phó, theo sự tiết chế của Quân. Lại lấy Hàn lâm Chiêu (không rõ họ) làm Khâm sai tán lý, giữ quân chính, hiệp đồng điều bát tướng sĩ Tiền quân. Khi ra đi, vua bảo Quân rằng : "Việc đánh giặc Tây Sơn ủy cả cho khanh, cốt bình định được giặc, yên họp được dân. Đi lần này là để cứu nhân dân một phủ Bình Thuận cho khỏi lầm than, khiến có thể ra vào thông thương được mà nhờ lợi cá muối để sung việc chi dùng cho quân và dân mà thôi, chớ nên thừa thắng đuổi dài, vào sâu đất hiểm. Bọn giặc hoặc biết quân ta còn ít mà đem hết quân đến đánh vào lúc không ngờ thì ta không khỏi thương uy bị nhục. Luận ngữ nói : "Tới việc nên sợ, khéo mưu mới thành", đó là điều chủ yếu trong việc hành quân, khanh nên cẩn thận". Nhân cho 10 cây gấm hồng, hơn ba chục bộ áo chiến, sai đem đến quân thứ để sẵn mà thưởng cấp.

Vua lại nghĩ Quân với Tánh không ưa nhau, hoặc khi lỡ việc, bèn vời Thành dặn rằng : "Hai người này nếu có chuyện dị đồng thì nên khéo điều đình, công và lỗi của ngươi cũng giống như Quân đó". Thành lạy vâng mệnh.

Sai cai cơ quản Ban trực tả là Phạm Văn Nhân và cai đội quản Ban trực tiền là Tôn Thất Huyên đem quân giữ Bà Rịa.

Lấy Khâm sai cai cơ Tiền quân là Lê Văn Lân giữ đạo Hưng Phước, Cao Văn Cửu giữ đạo Đồng Môn, Đặng Văn Trinh giữ cửa biển Tắc Khái, Vũ Văn Kế giữ thượng đạo Hưng Phước, Đỗ Văn Thịnh giữ hai đạo Lý Lê và Xích Lam, Tạ Văn Nhuệ giữ đạo Vũng Tàu.

Ra lệnh cho quan công đường bốn dinh, phàm các tổng xã thôn phường trong hạt, cứ dân số từ 40 người trở lên thì chọn đặt một xã trưởng, hầu lãnh bằng thị chữ son, lại cấp cho một người khinh phu ; nơi nào không đủ số ấy thì tạm cấp văn bằng.

Lấy ốc Nha Kê (người Chân Lạp) làm ốc Nha Nhâm Lịch, coi phủ Ba Xắc, thu thuế hoa chi(1. Thuế hoa chi: Thuế sòng bạc. 1) của người Đường [Hoa Kiều], cho theo đạo Trấn Di sai khiến việc công.

Ra lệnh thợ rèn, thợ súng, thợ bạc, phàm thuộc về Nhà đồ thì chia làm hai phiên, thuộc về bốn dinh thì chia làm bốn phiên, cứ mỗi tháng đổi phiên một lần.

Sai Khâm sai chưởng cơ dinh Trung quân quản đạo Toàn Dũng là Trần Công Dẫn (người Thanh) cai quản người Đường [Hoa Kiều] mới cũ ở các tỉnh, người nào đã làm lính ở các chi hiệu thì cho rút hết về, làm sổ

phụng nộp.

Quân ta tiến đánh được Phan Rí. Lê Văn Quân mới đến, khiến Nguyễn Văn Thành đem quân tiến trước đến Húc Trâm (tên đất) để chặn đường giặc chạy, rồi cùng Võ Tánh chia đường đánh giặc. Đô đốc giặc là Đào Văn Hổ rút lui. Thành đón đánh được, bèn thu phục được Bình Thuận. Nghe tin thắng trận, vua dụ rằng : "Quân ta mới đánh một lần giặc đã lui chạy, thực đáng khen. Nhưng đạo làm tướng chớ cậy được mà khinh giặc. Cần phải đánh giữ cho đúng thì mới giỏi. Phủ Bình Thuận đã thu phục được, nên xem đất cắm đồn, chiêu an dân thứ, để thỏa lòng ta".

Rồi Quân nhặt được thư của giặc nói rằng Tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Dực và Nguyễn Văn Lợi ngầm thông với giặc, Quân đem việc tâu lên. Vua bảo rằng : "Đó là mưu phản gián của giặc, bọn Dực trung thành hẳn không chí khác, ngươi đừng nên ngờ".

Nhân sai đem cho bọn Dực mỗi người một chiếc áo chiến.

Tháng 5, kén bổ phủ binh ở các dinh quân. Vua muốn làm chính sách "ngụ binh ư nông". Trước hết khiến các nhân viên và quân lính các chi hiệu đội thuyền thuộc các dinh quân thủy bộ, do quan sở quản kén lựa cho tinh từ trưởng chi đến đội trưởng để định làm thực số, người nào không được kén thì cùng với thuộc binh các nha mà biệt tính biệt nạp (tính riêng nộp riêng), bổ hết về các địa phận để liên lạc với nhau ; lại sai quan chia đi kén lựa chọn những người tinh nhanh mạnh khỏe đặt làm phủ binh bổ vào các chi hiệu đội của các dinh quân ; nếu không đủ ngạch thì lấy phủ binh ngạch cũ và dân đinh sung bổ vào. Khi không việc thì về làm ruộng, mùa màng xong thì tập võ, có việc thì gọi ra. (Năm dinh Trung quân, Tả quân, Hữu quân, Hậu quân, Tiên phong, mỗi dinh đều là 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 4 thập. Trung quân thủy dinh gồm 5 thuận chi, mỗi chi 3 hiệu, mỗi hiệu 2 đội, mỗi đội 5 thập, 5 khuông hiệu và 5 dực hiệu, mỗi hiệu 3 đội, mỗi đội 5 thập. Chi đặt chánh phó trưởng chi, hiệu đặt chánh phó trưởng hiệu, đội đặt cai đội, thập đặt đội trưởng, đều một người. Trung quân thì ghi sổ thuộc dinh Phiên Trấn ; Tả quân thuộc tổng Kiến Đăng dinh Trấn Định và tổng Bình Yên dinh Vĩnh Trấn ; Hữu quân thuộc tổng Kiến Hưng dinh Trấn Đinh ; Hậu quân thuộc hai tổng Bình Dương và Tân An dinh Vĩnh Trấn ; dinh Tiên phong thuộc tổng Kiến Hòa dinh "Trấn Định. Duy dinh Tiền quân thì đương vận việc chinh chiến, chưa kịp kén bổ). Những viên quân lạc tòng kén được thì cho quan sở quản làm sổ riêng, không ở trong lệ tuyển. Rồi sắc rằng phàm nhà nào bốn anh em ruột hoặc có ba người tòng quân, thì do Binh bộ xét thực, cho một người được miễn binh dịch dao dịch để ở nhà nuôi cha mẹ.

Lấy Chưởng cơ giám quân Trung dinh quản Trung chi là Nguyễn Hoàng Đức cho quản tướng sĩ dinh Hữu quân, Phó hiệu úy Trung chi là Tôn Thất Trung làm phó tướng Hữu quân, Khâm sai chưởng cơ quản Tiên phong đạo Thủy dinh Trung quân là Nguyễn Văn Trương làm giám quân Trung dinh, Khâm sai cai cơ quản Trung chi là Hoàng Văn Điểm làm Phó trưởng chi Trung chi.

Lấy Chưởng cơ Thủy dinh Trung quân là Hồ Văn Lân quản Trung thuận chi, Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn quản Tả thuận chi, Cai cơ Nguyễn Văn Huấn quản Tiền thuận chi, Nguyễn Văn Nhân quản Hữu thuận chi, Nguyễn Hoan quản Trung khuông hiệu, Nguyễn Công Nga quản Tiên khuông hiệu, Phan Văn Đồng quản Tả khuông hiệu, Nguyễn Hữu Chính quản Hữu khuông hiệu, Hoàng Văn Quý quản Hậu khuông hiệu, Nguyễn Thoan quản Trung dực hiệu, Nguyễn Bình quản Tiền dực hiệu, Nguyễn Hữu Nghị quản Tả dực hiệu, Nguyễn Văn Linh quản Hữu dực hiệu, Nguyễn Văn Châu quản Hậu dực hiệu.

Lê Văn Quân đã lấy lại Bình Thuận, bàn muốn sai Nguyễn Văn Thành tiến lấy Diên Khánh, Võ Tánh đóng ở Ba Ngòi [Tam Độc] để tiếp ứng. Thành cho rằng thế chưa làm được, cãi lại. Quân giận nói : "Trái lệnh thì chém". Thành nói : "Thành bại ở trong quân, Thành cũng dự phần trách nhiệm, dù chết cũng không dám nghe lệnh". Quân bất đắc dĩ sai Thành giữ Chợ Mơ [Mai Thị], Tánh giữ Phan Rí, mà tự dẫn quân dời đóng ở Phan Rang, chia sai thuộc tướng đặt ba đồn ở Nha Phân, Mai Nương (đều là tên đất) để giữ.

Tháng 6, lấy Chánh trưởng chi Tiền chi Hậu quân là Nguyễn Văn Thư làm Phó tướng Hậu quân, Cai cơ Nguyễn Văn Viện làm Chánh trưởng chi Tiền chi.

Lấy Chưởng cơ Nguyễn Văn Nghĩa hành chức Lưu thủ Trấn Biên. Vì Lưu thủ Phùng Văn Nguyệt theo Lê Văn Quân đi Bình Thuận đánh giặc, cho nên lấy Nghĩa để thay.

Tướng giặc là bọn Đô đốc Hồ Văn Tự, Nguyễn Công Thái và Tham tán Từ Văn Tú đi Diên Khánh đem hơn 9.000 quân giặc, thủy binh đậu ở cửa biển Phan Rang, bộ binh đánh hãm Nha Phân và Mai Nương. Lê Văn Quân ít binh không địch nổi, tướng sĩ chết và bị thương rất nhiều, bèn vỡ tan. Quân lùi về ỷ Na (tên đất) chạy thư cáo cấp. Đầu là vua thấy Bình Thuận đã lấy lại được, bèn vời Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành đem binh thuyền về mà để Quân ở lại giữ. Giữa đường Thành nghe tin Quân thua, kéo Tánh cùng trở lại, Tánh không quay lại, cứ đi. Kịp tin báo đến, vua tức thì dụ cho Nguyễn Văn Thành đem quân trở lại cứu ứng, lấy Phạm Văn Nhân làm Phó tiên phong dinh, hiệp với Võ Tánh đem quân tiến theo và dụ Quân

rằng : "Được thua là việc thường của nhà binh, khanh nên khuyến khích sĩ tốt, bèn giữ lấy thành để đợi, viện binh sẽ tới. Đừng vì một trận thua mà nhụt chí để phụ danh đại tướng".

Vua thân đem thủy quân ra cửa biển Tắc Khái, sai bọn Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội và Tống Phước Đạm ở lại giữ Gia Định.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển V - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Canh tuất, năm thứ 11 [1790], mùa thu, tháng 7, Lê Văn Quân cùng Nguyễn Văn Thành giữ thành Phan Rí, giặc đem hết quân để vây. Quân dâng biểu xin thêm quân.

Vua lại sai Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Trương, Vũ Văn Lượng đem quân sở bộ đến cứu viện.

Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Cần Giờ, sai chạy dụ cho các tướng rằng : "Các ngươi liệu coi thế giặc có thể đánh được thì nên gắng sức cùng lòng mà đánh cho giặc mảnh giáp không còn, để rửa hổ thua trận ngày trước. Nếu thời cơ chưa có thể thì hãy nên bền giữ đợi đại binh sách ứng. Vả các tướng hòa nhau là Phước cho nhà nước, dẫu giặc lớn cũng có thể đánh vỡ, huống chi là giặc nhỏ!".

Võ Tánh và Nguyễn Hoàng Đức đến Phan Rí, chia đường đánh giặc. Lê Văn Quân và Nguyễn Văn Thành cũng mở cửa thành ra đánh. Từ sáng đến chiều, trong ngoài giáp đánh, giặc chết và bị thương nhiều, bèn lui giữ thành Phan Rang. Quân tiến binh tới lũy Chàm [Lam Lũy], đem tình trạng tâu lên. Vua nói rằng : "Quân giặc dầu có thua một chút, thế tất lại trở lại. Nếu cầm cự thì đến mùa gió bấc, vận chở không tiện, chi bằng xếp giáp nghỉ quân, rồi sẽ tính cuộc sau". Bèn dụ các tướng rút quân về, lưu Tán lý Chiêu hiệp cùng cai cơ Nguyễn Văn Tánh giữ thành Phan Rí. Lê Văn Quân về giữ thành Hưng Phước. Rồi vua trở về Gia Định.

Lấy Võ Bá Diên làm Khâm sai Trung dinh tham tán quân cơ (Diên người Bắc Hà).

Sai Cai cơ Nguyễn Đình Đắc đi dò tình hình Bắc Hà. Mùa hạ năm Kỷ dậu [1789], vua nghe tin người Thanh đem quân Lưỡng Quảng vì nhà Lê mà đánh giặc Tây Sơn, bèn sai sứ thần là bọn Phan Văn Trọng và Lâm Đề mang thư sang Thanh và đem 50 vạn cân gạo giúp lương cho quân. Gặp bão đắm cả ở biển lâu không nghe tin tức. Đến đây nghe tin quân Thanh bị giặc đánh bại, đã không đánh lại mà còn phong cho [giặc]. Vì vậy mới sai Đình Đắc đi dò tin tức vua Lê, nhân tiện chiêu dụ những hào kiệt Bắc Hà.

Những Tổng nhung, Thống binh, Cai cơ, Cai đội các dinh quân bổ về các địa phận, thẹn với binh lính, không chịu tới quân. Vua bèn vời hết đến hỏi, ai còn có thể gắng sức làm việc thì đều ban cấp tiền lương, cho ở chầu hầu, tùy tài lục dụng, ai già yếu muốn về điền lý nghỉ ngơi thì cũng cho.

Ra lệnh cho hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn mộ người lập các nậu biệt nạp (Nậu dầu rái(1. Dầu rái: Chữ Hán là mãnh hỏa du, bắt lửa rất mạnh. 1), mỗi người mỗi năm nộp 8 vò ; nậu dầu trám, mỗi người nộp 800 cân, đèn nến lớn mỗi người nộp 1 cây dài 4 thước, lưng tròn 1 thước 2 tấc, nến nhỏ 40 cây ; nậu mây sắt mây nước, mỗi người nộp 14.000 sợi, mỗi sợi dài 7 thước, bề ngang 3 phân ; nậu lá buôn, mỗi người 4.000 lá ; nậu buồm lá, mỗi người 80 bó ; thuế thân thì nộp theo lệ thường, dao dịch đều miễn).

Tháng 8, tha thuế thân và dao dịch hai năm cho Bình Thuận.

Định rõ lệnh khuyến nông. Dụ rằng : "Việc gốc của thiên hạ là làm ruộng, không thể hoãn được. Nay giặc giã mới yên, thuế má chưa đủ, quan công đường các dinh nên khuyên bảo các phủ binh và dân làng trong hạt hết sức chăm nom ruộng nương, đừng nên lười biếng. Người siêng năng làm ruộng thì dao dịch đều miễn ; nếu quan quản suất và xã trưởng dám bắt người làm việc riêng thì có tội. Ngày lúa chín, quan điền tuấn đến khám số thu hoạch, so với năm trước thêm bớt thế nào thì tâu lên".

Ra lệnh cho các vệ đội dinh Trung quân chia làm hai phiên, một phiên ứng trực, một phiên nghỉ ngơi, mỗi tháng đổi một lần.

Lấy Cai bạ Phiên Trấn là Trần Hiếu Liêm hành việc Hộ bộ.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ Hoàng Đăng Diệu làm Hiệu úy Hậu chi Trung quân, Trương Phước Luật làm Vệ úy vệ Long võ, Hoàng Văn Khánh làm Vệ úy vệ Hổ oai, Nguyễn Hiên làm Phó vệ úy vệ Tiền trực, Lê Công Cúc làm Phó vệ úy Ban trực hậu vệ Thần sách, Nguyễn Văn Hựu làm Phó vệ úy Ban trực tuyển phong tiền, Trương Phước Dĩnh làm Phó trưởng chi chi Hậu Thuận.

Lấy Thuộc nội cai cơ quản đội Tiểu sai là Tống Phước Ngọc cho quản các đội thuyền Bả cái(1. Bả cái: Mang Lọng.1), Nội mã nhất, Nội mã nhị, Tả mã, Hữu mã, Tiểu hầu, Bả lệnh(2. Bả lệnh: Cầm lệnh. 2).

Sai các đạo thủ làm sổ quân dân trong hạt. Lại ra lệnh cho các tổng xã thôn phường bốn dinh, phàm tăng ni đạo đồng các chùa chiền đều phải ghi vào sổ, do quan công đường phụng nộp, để biết rõ số nhiều ít.

Vua thấy những đường sông bốn dinh có nhiều ngả, bọn trộm cướp thường tụ họp để cướp bóc, bèn sai biền binh các chi hiệu các dinh quân chia đặt đồn để giữ những nơi hiểm yếu, ngày đêm tuần phòng ngăn bắt. Từ đó trộm cướp im hơi, nhân dân được yên ổn.

Năm ấy gạo cao dân đói, tha nửa số thóc thị nạp(3. Thị nạp: Số thóc cho nhà nước nhờ cậy vào dân nộp để nuôi quân. 3) cho dân bốn dinh, lại phát thóc gạo bán và cho vay. (Hai dinh Trấn Định và Vĩnh Trấn mỗi dinh bán cho dân 5.500 hộc thóc, đạo Long Xuyên cho vay 500 hộc thóc phủ Ba Xắc bán 300 phương gạo). Duy ở Phú Quốc đói lắm, phát chẩn cho 500 hộc thóc.

Tháng 9, lấy Khâm sai thống nhung cai cơ là Nguyễn Văn Tường làm Vệ úy vệ Hữu trực Trung quân.

Giáng Võ Tánh là Khâm sai tổng nhung chưởng cơ Tiên phong dinh làm Khâm sai tổng nhung cai cơ, vẫn quản tướng sĩ dinh Tiên phong. Tánh hay vì tình riêng che chở người cho nên bị giáng.

Lấy Nguyễn Văn Chiêu trấn Thuận Thành (con Thắng là phiên vương trước) làm Khâm sai chưởng cơ, quản mọi việc quan và dân Phiên. Trước là quân ta tiến lấy Bình Thuận, Chiêu đem quân ứng theo đánh giặc, đến khi giặc lui, bọn quan Phiên đều xin lập Chiêu quyền lãnh việc trấn. Lê Văn Quân tâu xin. Vua cho, nên có mệnh ấy. Lại lấy quan Phiên là Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Hào làm Khâm sai thống binh cai cơ. Rồi Chiêu có tội bị bãi chức. (Chiêu, Chấn, Hào đều là tên họ vua cho. Chiêu nguyên tên là Môn Lai Phù Tử, Chấn là Bô Cà Đáo, Hào là Thôn Ba Hú).

Lấy Cai bạ Trấn Biên là Trương Đức Khoan làm Binh bộ, Hàn lâm viện chế cáo Hoàng Tư Chung làm Tham tri Binh bộ, Thư ký Lê Đăng Khoa làm Tham tri Hình bộ, Hàn lâm viện Ngũ Khắc Bạn làm Cai bạ Trấn Biên.

Khởi phục Nguyễn Thái Nguyên làm Khâm sai tham mưu. Nguyên trước làm Lễ bộ. Vì nói trái chỉ vua nên bị bãi, đến nay được phục chức ấy.

Lấy hàng thần là Nguyễn Tử Châu làm tham mưu Trung dinh. Tử Châu trước theo Tây Sơn làm Thái thường khanh. Vua đương cần thu dùng người hào kiệt nên mới cất dùng. Bọn Tham mưu Đoàn Trọng Viễn, Ký lục Lê Văn Quý, Cai bạ Nguyễn Đức Chí đều là hàng thần được chia thuộc vào các vệ Trung quân, khiến giúp đỡ việc quân.

Phó tướng Tả quân là Khâm sai chưởng cơ Phạm Văn Sĩ chết (truy tặng Tả quân thự phủ sự).

Mùa đông, tháng 10, sai các quân làm sổ binh ngạch. Từ đấy về sau lấy tháng giêng và tháng 10 làm định kỳ.

Lấy Khâm sai cai cơ Lê Thành Lý làm vệ úy Ban trực tuyến phong tả vệ Thần sách. Trần Văn Tín làm Phó vệ úy Ban trực tiền, Phan Văn Triệu làm Phó vệ úy Ban trực tiền, Phan Văn Triệu làm Phó vệ úy Ban trực hữu.

Sai Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào quản ba sách thuộc man là Chủ Chân, Trà Dương Đại, Trà Dương Tiểu, để thu nộp thuế hương (trầm hương, kỳ nam).

Bắt đầu đặt đồn điền.

Vua dụ cho các quan văn giai rằng : "Đạo trị nước, trước hết phải cho đủ ăn. Nếu thóc nhiều của thừa thì việc gì chẳng nên ? Bốn dinh Gia Định đất đai rất rộng. Trước kia việc quân chưa xong, đói kém xảy ra luôn, đến nỗi ruộng vườn bỏ hoang, dân chưa ra sức việc nông, của nước lương quân còn chưa đầy đủ. Đồn điền là phép hay đời xưa, nay muốn cử hành mà chưa nắm được chỗ cốt yếu. Các khanh vốn có mưu xa kinh quốc, ở vị mình tất phải tính việc mình, đều nên điều trần quy thức, viết thành tập riêng tiến trình, trẫm sẽ chọn những điều hay mà đem thi hành". Rồi ra lệnh cho các đội túc trực và các vệ thuyền dinh Trung quân ra vỡ ruộng ở Vàm Cỏ, đặt tên là trại Đồn Điền, cấp cho trâu bò điền khí và thóc ngô đậu giống. Đến ngày thu hoạch đem hết về kho (tức kho Chừ Tích, sau đổi làm kho Đồn Điền). Lấy cai cơ hiệu Tiền dực là Nguyễn Bình trông coi việc ấy.

Lại hạ lệnh cho các nha văn võ mộ người lập các đội nậu đồn điền, hằng năm thu thóc sưu mỗi người 6 hộc. Dân thực nạp ai mộ được 10 người trở lên thì cho làm cai trại và rút tên khỏi sổ của thôn.

Đặt lại phép duyệt tuyển. Phép duyệt tuyển thời quốc sơ, cứ ba năm một lần là điển nhỏ, sáu năm một lần là điển lớn. Phàm dân đinh đến tuổi thì tục thêm vào sổ, già yếu tàn tật thì thải ra. Đến đây vua lại cử hành. Trước là ra lệnh cho các tổng xã thôn phường bốn dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định đóng sổ tuyển bạ, rồi sai Lưu thủ Trương Văn Giao, Hộ bộ Trần Hiếu Liêm, Chưởng cơ Nguyễn Hoàng Đức, Lễ bộ Nguyễn Đô, Chưởng Hậu quận Tôn Thất Hội, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Cai cơ Nguyễn Văn Nhân, Lưu thủ Nguyễn Đức Thiện, chia nhau đi làm duyệt tuyển. (Phép tuyển, mỗi dinh một quan văn và một quan võ phụng hành châu phê(1. Vâng mệnh vua mà phê chữ son. 1), hai người cai án để kiểm duyệt sổ sách, hai người đội trưởng để xem xét các hạng lão tật).

Đặt Thái y viện, sai thuộc nội cai đội Nguyễn Thận kiêm quản.

Dựng kho hỏa dược (12 gian ở trong thành).

Sửa hai bảo Vàm Cỏ [Thảo Câu] và Cá Dốc [Dốc Ngư], sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Nghĩa trông coi công việc.

Sai chăn ngựa nhà nước ở đảo Côn Lôn.

Cấm thuyền buôn không được đi qua các đạo thủ Quang Hóa, Tuyên Uy, Thông Bình để sang buôn ở Chân Lạp. Thủ ngự sở tại ai dám ăn của đút mà tự tiện cho đi qua thì xử theo quân pháp.

Đặt đội tân sài [củi], mộ dân ngoại tịch sung vào. (Mỗi người mỗi tháng nộp củi 150 cân, dao dịch đều miễn, thuế thân thì xem như quân hạng).

Lấy cai cơ Tả quân là Nguyễn Công Thịnh giữ đạo Đông Khẩu, Vũ Công Lễ giữ đạo Châu Đốc, Trương Văn Phước giữ đạo Cường Uy, Cai cơ Trung quân là Phạm Lâm giữ đạo Cường Thành, Ngô Văn Duyên giữ đạo Quang Oai.

Tháng 11, miễn dao dịch cho thuộc binh và dân phụ lũy ở các đạo thủ cửa biển bốn dinh. Dinh Phiên Trấn, đạo thủ cửa biển Đồng Tranh, thôn Tân Hòa phụ lũy, đạo thủ cửa biển Cần Giờ, thôn An Thịnh phụ lũy ; dinh Trấn Biên, đạo thủ Xích Lam, thuyền Kiên Nhất đội Kiên Hải thuộc binh, đạo thủ Lý Lê, ba thuyền Thuận Nhất, Thuận Nhị, Thuận Tam làm hải đội, thuyền Tân Nhất thuộc binh, đội Hàm Ngư, nhất thôn Thanh Chử phụ lũy, đạo thủ cửa biển Tắc Khái, thôn Tỉnh Bổng phụ lũy ; đạo thủ Vũng Tàu Ghềnh Rái, ba thuyền Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam thuộc binh ; dinh Trấn Định, đạo thủ cửa Đại cửa Tiểu, thôn Thăng Huy, thôn Dương Phước, thôn Bình Đại phụ lũy, đạo thủ Nhật Bản, hai thuyền Hải Nhất, Hải Nhị làm đội Tân Hải, thuyền Nghĩa Nhất đội Thuận Nghĩa thuộc binh, đạo thủ cửa biển Ba Lai, thuyền Hải Nhất, đội Thanh Hải thuộc binh ; dinh Vĩnh Trấn, đạo thủ Ngao Châu, Băng Côn, ba thuyền Ngự Nhất, Ngự Nhị, Ngự Tam đội Ngự Hải, thôn An Thịnh phụ lũy, đạo thủ cửa biển Cổ Chiên, xã Dưỡng Mộng, hai thôn Tân An phụ lũy, đạo thủ Bạch Châu, xã Thanh Châu thôn Hòa Tú phụ lũy).

Định lệ thu thóc phụ ngoài về thuế ruộng, phàm ruộng núi, ruộng cỏ, thóc thuế 1 hộc thì phụ hao 1 thăng.

Đặt mười bạn du xuân(1. Bạn du xuân : Bạn hát, đi các nhà các làng để hát thuê. 1) biệt nạp, lấy Cai cơ Ngô Công Quý cai quản. (Mỗi bạn 15 người làm hạn, mỗi năm nộp tiền sưu 600 quan, thuế thân cũng coi như quân hạng).

Sai Cai cơ Võ Di Nguy coi đóng một chiếc chiến thuyền lớn và 15 chiếc thuyền đi biển.

Khiến Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn, Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng sung chức Chánh phó sứ sang Xiêm đáp lễ sính vấn. (Tặng Phật vương một đôi lồng đèn pha lê, hai tấm gương lớn, một cây hoa vàng, một cây hoa bạc, một chiếc thuyền lê đại. Cho vua thứ hai một đôi lồng đèn pha lê, hai tấm gương lớn, 500 cân đường cát, 500 cân đường phèn, 500 cân sáp ong). Trước là phụ chính Chân Lạp là Chiêu Chủy Biện vì cớ ta sai người giữ Ba Xắc nên không được tự chuyên, trong lòng để giận ngầm, nói với vua Xiêm rằng nước ta đương trị binh đúc súng, muốn mưu đánh nước Xiêm. Vua Xiêm ngờ, định ngày cất quân sang xâm lấn. Vua nghe tin, bèn làm thư sai bọn Nhàn đưa cho vua Xiêm. Vua Xiêm nhận được thư, bèn thôi.

Lấy Tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Lợi tạm quản tướng sĩ dinh Tiền quân, đóng giữ Bà Rịa. Chưởng Tiền quân Lê Văn Quân từ khi trở về Hưng Phước, thường lấy việc bại binh làm thẹn. Kịp khi vua nghe tin nước Xiêm muốn gây hấn, triệu Quân về. Quân dùng dằng không lên đường ngay, và dâng biểu nói : "Ngày trước khi giặc rút khỏi Bình Thuận, quan quân ứng viện phần nhiều cướp bóc, xin phái người đến dò xét". Vua dụ và khiển trách rằng : "Việc đã qua rồi, cần gì phải dò xét nữa, lại thêm phiền nhiễu. Vả triều đình đương có việc lo ở trong, không nghĩ về việc ấy mà lại nghĩ việc quân ngoài thì là nghĩa gì ?". Quân sợ tội, bèn xưng bệnh, nên lấy Lợi tạm coi quân.

Tháng 12, vua yết lăng (tức lăng Duệ tông).

Đảng giặc lại từ Phan Rang vào cướp. Tán lý Chiêu và Cai cơ Nguyễn Văn Tánh bỏ Phan Rí, lui về Phù Mĩ (tên đất). Đầu là bọn Chiêu dò biết tình hình giặc, đã báo lên. Vua dụ rằng : "Quân giặc trở lại, ta đã đoán biết rồi. Binh pháp chẳng nói rằng "biết mình biết người trăm trận không thua" sao? Bọn khanh liệu xem thế giặc có thể đánh được thì đánh, không đánh được gì giữ toàn quân là hơn". Kịp khi giặc đến, bọn Chiêu bèn lùi. Vua nghe tin báo, tức hạ lệnh rút quân về Bà Rịa, hiệp với Nguyễn Văn Lợi đóng giữ. Lại sai xem đất đắp thành có thể dung được tướng sĩ một nghìn người, để phòng giữ cho nghiêm.

Sửa đắp thành đất Gia Định. Đường quan ở bốn bôn thành có mở vào nhà dân thì phát tiền công cấp cho.

Sai Nội viện Trần Vũ Khách đi Giang Lưu Ba(1. Tức là Giacacta, thủ đô nước Inđônêxia ngày nay.1) tìm mua đồ binh khí.

Lấy Cai đội Phan Văn Thúy làm Phó vệ úy vệ Hổ oai.

Cấp 5 người từ phu coi đền thời khai quốc công thần Nguyễn Hữu Kính (đền ở thôn Bình Kính Đông, Biên Hòa); hằng năm cấp tiền kho để cung việc thờ tự.

Hạ lệnh cho Long Xuyên mộ 100 người dân ngoại tịch lập làm bốn đội Hùng đạo, Bình đạo, Thắng sai, An khố, chia làm hai phiên mà ứng hầu, còn những dân trước bắt phụ giữ ở đấy thì tha hết về.

Chia tướng sĩ dinh Tiền quân làm ba đạo Trung chi, Tiền chi và Hậu chi. Vua thấy chưởng Tiền quân Lê Văn Quân bệnh lâu chưa khỏi mới chia quân ra, sai Khâm sai tổng nhung cai cơ Phùng Văn Nguyệt coi Trung chi và Nguyễn Văn Lợi coi Tiền chi giữ Bà Rịa, Nguyễn Văn Tánh coi Hậu chi giữ đạo Đồng Môn.

Sai Cai cơ Nguyễn Văn Nhân, Tham tri Hoàng Tú Chung kén phủ binh ở Trấn Biên, chia bổ và Hữu chi dinh Trung quân và các chi hiệu đội dinh Tiền quân.

Vua tự cầm quân ra trận, hiểu rõ những việc binh biến, dụ các tướng rằng : "Dùng binh cốt ở chỗ quân hiểu ý tướng, tướng hiểu tình quân, nếu không quen thuộc vỗ về thì làm thế nào khiến người ta liều chết ra sức được". Từ đó ra lệnh cho các quân chiêu mộ nghĩa binh, ai có thể tổ chức thành cơ vệ đội thì trao cho quan chức cho cầm binh ấy, từ cai cơ trở lên đều được tự lập tiêu thuộc (như loại thuộc binh và quân lạc tòng), khi phát binh, đều được đem đi theo. Chưởng quân các dinh đều cho giữ chức lâu, như có điều động đi nơi khác thì quân cũng cho thuộc theo (như chức chưởng Hậu quân điều sang chức chưởng Tiền quân thì những hiệu quân hiệu cờ của dinh Hậu quân cũng đều đổi làm Tiền quân, ngoài ra cứ lệ ấy mà suy). Những tỳ tốt sở thuộc ai ra trận có công trạng, đều do quan chưởng lãnh tiện nghi cất nhắc, rồi tâu sau. Do đó ai ai cũng vui lòng làm việc, đến đâu đánh cũng được.

Sai Hữu ty bàn định việc dâng lễ mừng tiết Chạp và các tiết lễ Ban lịch, Phong bảo, Khai bảo. (Hằng năm cứ giờ thìn ngày 22 tháng 12, vua đem các quan đến Hậu điện tiến lễ mừng. Làm lễ mừng rồi, vua trở về cung, đổi áo chầu, ngự gác Triêu Dương, các quan rảo đến sân, tiến lễ mừng, cùng lạy. Lễ xong, vua ngự vào Nội điện. Các quan lại đến Hậu điện, hậu cung, phủ hoàng tử làm lễ tiến mừng. Đầu giờ dần ngày 28 tháng ấy, quan Thái giám bưng hòm bảo ấn đệ giao cho quan Lại bộ và quan Tả vệ cùng bưng đến gác Triêu Dương, đặt ở trên án ở gian chính giữa rồi bước ra, lễ bốn lạy. Ty Tướng thần lại làm việc lau rửa ấn rồi quan thái giám cùng với quan Lại bộ và quan Tả vệ kính bưng hòm bảo ấn tiến vào Nội điện. Đến cuối giờ dần, dâng lịch ở Thái miếu, dâng lịch vào Nội. Đầu giờ thìn, vua ngự ở gác Triêu Dương. Quan Hộ bộ đến trước quỳ tâu rằng : "Năm mới ban lịch, chúc mừng hoàng thượng muôn tuổi". Lễ bốn lạy, vái, đứng dậy ra. Phụng chỉ truyền ban lịch. Hộ bộ truyền cho thuyền kiệu Thủy quân bưng hai tráp lịch đặt ở trên án gian chính giữa. Quan Hộ bộ quỳ tâu rằng : "Phụng chỉ ban lịch năm mới cho các văn võ thần liêu". Lễ bốn lạy, vái, đứng dậy ra. Hoàng tử và các quan văn võ đến trước lễ bốn lạy. Lễ xong, vua ngự vào Nội. Các quan đều lui ra. Lễ Khai bảo năm mới. Đêm mồng 5 tháng giêng, ty Chiêm hậu đợi đến lúc trước khắc chính quý một nấc thì gửi tâu ; Thái giám bưng hòm ấn ra ; đội Túc trực đủ nghi trượng hộ vệ, quan Lại bộ theo ra, do cửa bên tả đến trước cửa chính. Ty Tướng thần lại cùng quan Hộ bộ cùng bưng ra, để ở trên án gian bên hữu gác Triêu Dương. Quan Hộ bộ và quan Lại bộ đến trước lễ bốn lạy, lại đến đứng ở bên hữu. Đợi khi thái giám mở hòm, quan Hộ bộ hầu dùng ấn xong, quan thái giám lại phong khóa rồi, ty Tướng thần lại phụng dán bảng văn lên bảng. Quan hai bộ Lại, Hộ kính đệ hòm ấn, do quan thái giám tiến vào Nội. Thái giám gửi tấu : Làm việc ở ngoài. Vua ngự ở gác Triêu Dương. Quan Hộ bộ đến trước quỳ tâu rằng : "Năm mới khai bảo, đã kính dùng đóng ở bảng văn rồi, lạy mừng hoàng thượng muôn muôn tuổi!". Lễ bốn lạy, bước ra. Có chỉ truyền treo bảng văn. Quan Hộ bộ quỳ tâu rằng : "Vâng chỉ truyền cho bọn thần treo bảng văn, lạy mừng hoàng thượng muôn muôn tuổi". Lễ bốn lạy, bước ra. Truyền đội che lọng treo bảng. Xong, quan Hộ bộ rảo vào phục mệnh, quỳ tâu rằng : "Bọn thần đã treo bảng ở cửa Vệ môn". Lễ bốn lạy, bước ra. Bấy giờ hai ban văn võ bước vào, một viên đại thần đứng trước tâu rằng : "Năm mới hoàng thượng ngự triều khai bảo, các thần liêu văn võ chúc mừng hoàng thượng muôn muôn tuổi". Lễ bốn lạy. Lễ xong, vua ngự vào Nội. Các quan đều lui).

Ngày Giáp tuất, vua ngự ở gác Triêu Dương ban lịch sang năm, từ đấy hằng năm lấy làm lệ thường.

Dựng trường hải quan, thu thuế thuyền buôn các nước.

Lập xưởng thủy sư, từ bờ sông Tân Bình đến bờ sông Bình Trị, trên ba dặm, thuyền đi biển, thuyền chiến (hình thức như thuyền buôn, không mui mà nhỏ), thuyền ô (sơn đen nên gọi là ô thuyền), thuyền son (sơn đỏ gọi là chu thuyền), thuyền lê (đầu đuôi thuyền đều chạm vẽ gọi là lê thuyền), đều đậu ở đó.

Vua từ khi lấy được Gia Định, mọi việc bắt đầu xây dựng, hằng lưu ý kinh dinh quy hoạch, sửa quân chế, định quan chế, nêu phép cấm, chính triều nghi, quy mô mở nước đại lược đã định.

Tân hợi, năm thứ 12 [1791] (Thanh ? Càn Long năm thứ 56), mùa xuân, tháng giêng, lấy ngày thánh đản (ngày 15) làm tiết Vạn thọ. Sai hữu ty bàn định nghi chú để làm. (Trước một hôm vua thân đến Thái miếu kính cáo. Lễ xong các quan cùng vào lạy. Vua lại đem bầy tôi đến Hậu điện làm lễ khánh an, lễ bốn lạy. Lễ xong, vua trở về cung. Cho các quan vào Phương điện ăn. Đến ngày lễ, đầu giờ sửu các quan chỉnh tề mũ áo đứng chờ. Giờ dần vua ngự ở Phương điện, bầy tôi làm lễ khánh hạ, chia ban đứng chầu. Tiểu hầu hát múa xong, Trung hầu và Hữu hầu bắn đại bác mừng bảy phát. Vua trở vào nội. Cho các quan ăn yến một lần). Đến ngày lễ, vua ngự ở Phương điện, bầy tôi làm lễ mừng xong, cho ăn yến. Từ đấy hằng năm lấy làm lệ thường.

Sai thuộc nội cai cơ Tăng Đức Thần sức cho những người Đường [Hoa Kiều] cũ mới ở các tỉnh, có ai mộ được 30 người hay 25 người, thì cũng cho lập làm một đội, mỗi đội đặt một người đầu mục, coi một chiếc thuyền ô, có việc thì tòng quân, không việc doanh nghiệp mà sống, cho miễn

dao dịch.

Ra lệnh cho các hạng dân và người Đường [Hoa Kiều] cũ mới ở đạo Long Xuyên, ai muốn làm đồn điền mà đồ làm ruộng không đủ thì nhà nước cho vay, mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 8 hộc, thuế thân xem như quân hạng, dao dịch đều miễn. Kẻ nào không muốn làm đồn điền thì bắt phải thụ dịch tòng chinh, để răn kẻ chơi bời lười biếng. Những người Phiên và người Đường [Hoa Kiều] ở hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh cũng cho khẩn đất làm đồn điền mỗi năm thu thóc sưu mỗi người 15 hộc (sau giảm cho

5 hộc).

Sai bọn Cai cơ quản đạo Thanh Châu là Ngô Công Quý và tham luận Lê Đình Kiểm đi các đạo thủ Cổ Chiên, Bạch Châu, Băng Côn, Ngao Châu, Nhật Bản, Ba Lai, Cửa Đại, Cửa Tiểu, Tắc Khái, Lý Lê, Xích Lam, để xét sổ đinh mà kén những người khỏe mạnh sung bổ vào các đội thuyền đạo Thanh Châu (Đạo thủ Cổ Chiên, Bạch Châu, 2 thuyền Dũng ngự nhất nhị thuộc đội Ngự hải nhất, binh số 58 người ; đạo thủ Băng Côn và Ngao Châu, 3 thuyền Hùng ngự nhất nhị tam thuộc đội Ngự hải nhị, binh số 83 người ; đạo thủ Nhật Bản và Ba Lai, 3 thuyền Tráng ngự nhất nhị tam thuộc đội Ngự hải tam, binh số 104 người ; đạo thủ Cửa Đại, Cửa Tiểu, 3 thuyền Tiệp ngự nhất nhị tam thuộc đội Ngự hải tứ, binh số 109 người ; đạo thủ cửa biển Tắc Khái, 2 thuyền Cường ngự nhất nhị thuộc đội Ngự hải ngũ, binh số 90 người ; đạo thủ Lý Lê, 4 thuyền Uy ngự nhất nhị tam tứ thuộc đội Ngự hải lục, binh số 161 người ; đạo thủ Xích Lam, thuyền thắng ngự nhất thuộc đội Ngự hải thất, binh số 26 người).

Đại duyệt tướng sĩ các dinh quân. Từ đấy cứ đầu mùa xuân thì duyệt binh, hằng năm lấy làm lệ thường.

Vua thấy các dinh thu tô thuế, bọn lại điển lý dịch phần nhiều có tệ sách nhiễu lấn dân, hạ lệnh nghiêm cấm. (Phàm dân đóng nộp thóc thuế, tiền thập vật, tiền thuế sai dư, thì những người cai trưng, cai lại và đề lãnh, khố tử thuộc bản phủ bản trường, không được đòi thu lúa sân và tiền chìm mất; về dân mới tục vào sổ, thì cho thu 10 đồng tiền tục sổ ; cứ 10 quan tiền thuế thì thu 2 tiền xem đếm và dầu đèn. Làm trái và nhũng lạm thì bị tội chết. Các điền hộ đến kỳ nộp thuế muốn nộp cho quan hay cho lý dịch đều được tùy tiện. Lý dịch vơ vét vào mình thì phải tội. Như gặp tha thuế hay hoãn thuế mà điền hộ đã nộp rồi, thì lý dịch cứ nộp vào kho, không được trả lại, cũng không được lấy riêng ; làm trái thì trị tội nặng. Lý dịch đã thu rồi mà cố ý trốn thì cho điền hộ bắt giải, nếu không bắt được thì phải bồi).

Chưởng Tiền quân Lê Văn Quân có tội phải tự sát. Đầu là Quân xưng bệnh ở mãi tại Hưng Phước. Vua hai ba lần vời đến. Lúc đến, cho đình thần nghị xử. Đình thần đều định rằng : "Tội Quân nên chết". Vua nghĩ Quân có công, không nỡ giết, chỉ lột quan chức. Quân xấu hổ, bực tức uống thuốc độc chết. Vua vừa giận vừa thương tiếc, đến tận nhà khóc rất thảm, lại đánh vào quan tài 100 roi, rồi cho thuộc binh 8 người giữ mộ. Lại cho cha Quân 2 người phu mộ. Mẹ Quân là Trần Thị Du tuổi già, có thuộc tướng là Cai cơ Lê Văn Khâm xin cáo bệnh về hưu, vì Quân mà nuôi nấng cho trọn đời. Vua cho. Con Quân tên là Chính, đã lớn, cũng được miễn dao dịch. (Quân là người Kiến Hưng dinh Trấn Định, sức khỏe đánh giỏi, xưng là Dũng Nam công(1. Ông mạnh nhất nước Nam. 1), theo vua trong lúc bôn ba, đủ mọi gian hiểm. Trong cuộc khôi phục Gia Định, chiến công rất nhiều, vua vốn yêu lắm. Nhưng là người bất học vô thuật, trong khoảng vua tôi có khi thiếu lễ. Thấy Võ Tánh là người tuổi trẻ mới tiến, cùng mình một hàng mà lại lấy công chúa, lòng sinh bất bình, thường hay hiềm khích, cơ hồ đánh nhau. Đến khi đánh giặc không công, mà Tánh thì lại được thành tích, càng thêm hổ thẹn và bực tức, đến nỗi mắc phải tội lệ. Vua dẫu lột quan chức, song còn muốn cho lập công chuộc tội để dùng, không ngờ Quân lại oán vọng mà uống thuốc độc chết, cho nên đã thương lại giận. Khoảng đời Minh Mệnh, Nguyễn Đức Xuyên và Lê Văn Duyệt từng xin truy lục công trạng, nhưng Lễ bộ thượng thư Phạm Đăng Hưng kể bày các lỗi, bèn thôi.

Định lệ thuế cho hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh. Lấy ốc Nha Lá làm An phủ phủ Ba Xắc, cai quản những bộ lạc của bọn quan Phiên, Lâm Ngũ Quan làm tổng phủ, cai quản người Đường [Hoa Kiều], Tường Vĩnh Quan làm đồng khấu cai quản ruộng và nại muối, Lư Việt Quan làm tổng phủ phủ Trà Vinh, cai quản người Đường [Hoa Kiều], đều tuân lệ trưng thu thuế nhà nước. Sắc cho Hậu quân phó tướng là Nguyễn Văn Thư và Văn giáp Hàn lâm viện tham luận là Trương Tiến Lộc trông coi các việc thuế khóa kiện tụng ở hai phủ.

Tháng 2, phụ chính nước Chân Lạp là Chiêu Chủy Biện sai ốc Nha Tha La Ma và ốc Nha Sa Thi sang dâng phẩm vật. Bọn Tha La Ma muốn nhân đó mà kinh dinh buôn bán, đem theo 14 chiếc thuyền và hơn 170 người đi theo. Dinh thần Vĩnh Trấn báo lên. Vua sai dẫn hết về Gia Định bái yết. Khi trở về, ban cho rất hậu (Cho Chiêu Chủy Biện súng chim một cây, lồng đèn thủy tinh một đôi, đồng hồ một chiếc, đoạn hồng 1 tấm, vải tây trắng 2 tấm, cho bọn Tha La Ma và những người đi theo chở gạo lật 240 phương). Nhân sắc cho đạo Tân Châu rằng : "Từ nay có sứ Chân Lạp đến thì chỉ cho hai chiếc thuyền chở Chánh phó sứ đi do sông Tiền Giang tiến vào, còn bao nhiêu thì lưu hết ở thủ sở. Như có muốn sang buôn bán thì cho theo sông Hậu Giang ở Châu Đốc mà đi, không được trái vượt".

Ra lệnh cho dân ở các dinh lãnh trưng ruộng đất bỏ hoang, ba năm bắt đầu thu thuế, ai xin trưng thì hạn 20 ngày là thôi, ngoài hạn ấy cấp cho quan quân cày cấy, không được tranh nữa.

Người nước Bút Tu Kê(1. Bồ Đào Nha (Portugal).1) tên là Chu Di Nô Nhi đến buôn bán, nhân đó vua sai gửi thư cho quốc trưởng nước ấy để mua binh khí. (1 vạn cây súng chim, 2.000 cỗ súng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân, 2.000 viên đạn nổ, đường kính 10 tấc).

Cấp cho đạo Kiên Giang súng lớn, súng nhỏ và thuốc đạn, sai đóng 5 chiếc thuyền sai, phân phái đi tuần.

Sai Tán lý Chiêu đi từ đầu nguồn Bà Rịa cho đến Ma Li (tên đất thuộc tỉnh Bình Thuận) hỏi rõ các sách người Đê, sách nào thuộc về đạo thủ, sách nào thuộc về Thuận Thành, ghi lấy số đinh để tiện chọn người cai quản.

Đảng giặc có tên Phó Tín từ Bình Thuận lẻn vào Vĩnh Trấn, giả câm, ngầm mưu làm phản, bắt được đem giết.

Tháng 3, tiết Thanh minh, vua thân đến yết Thái miếu, hằng năm lấy làm lệ thường.

Đổi Trung chi dinh Tiền quân làm dinh Chấn Võ, hiệu Tiền du làm chi Tiền du, Ngũ hiệu làm chi Ngũ chấn.

Thao diễn các quân ở đồng Tập Trận.

Dinh thần Trấn Định xin dựng xưởng thuyền ở Sa Khê (tên đất, tiếp với Mỹ Tho). Vua chuẩn cho.

Lấy Nguyễn Đàn làm Hàn lâm viện chế cáo, Lê Đại Nghĩa sung Hàn lâm viện. Bọn Đàn từ Thuận Hóa vào yết kiến, xin phục vụ. Vua khen là người có chí, nên có mệnh này. Nguyên là vua từng mật sai người tháo vát cùng những người cẩn tín trong các nhà buôn lẻn đi từ Bình Thuận trở ra Bắc đến Thuận Hóa, vâng mật dụ kêu gọi các hào kiệt, bấy giờ có người thì lặn lội từ xa mà đến, có người thì khởi nghĩa để hưởng ứng, cũng có người ở trong lòng giặc mà ngấm ngầm quy thuận. Gián điệp qua lại luôn, tin tức không đứt, Tây Sơn động tĩnh thế nào, không việc gì là không biết.

Sai thống binh cai cơ chi Tiền du dinh Chấn Võ là Nguyễn Văn Thụy giữ cửa biển Tắc Khái, Lưu Tiến Hòa giữ hai đạo Lý Lê và Xích Lam.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Đinh mão, hoàng tử thứ tư (tức Thánh tổ Nhân hoàng đế) sinh, con phi thứ hai là Trần thị (tức là Thuận tiên Cao hoàng hậu. Phi là con gái Lễ bộ tham tri Trần Hưng Đạt, năm 14 tuổi cưới về. Đương lúc Tây Sơn hoành hành, phải bôn ba, mỗi đêm phi đốt hương khấn trời rằng : Hiện nay vận nước còn rối ren, vua tôi bôn ba chửa có nơi yên. Nếu nhờ Phước lớn, nhất đán sinh con, thì sợ trong bước loạn ly, khi ra đi mà bỏ thì không nỡ, mà bồng bế theo nhau thì không khỏi phiền lòng chúa thượng, hai bề đều khó xử cả. Nếu mệnh ta đáng có con, xin chờ thiên hạ bình yên rồi hãy sinh. Thực nhờ ơn trời cho vậy. Khi vua lấy lại được

Gia Định, phi một đêm mộng thấy thần nhân đem trình một cái tỷ và hai cái ấn(1. Tỷ: ấn của vua - ấn : ấn của quan. 1), cái tỷ sắc đỏ, sáng tươi như mặt trời, ấn thì một cái sắc tía một cái sắc nhạt. Phi đều nhận cả. Năm ấy phi 24 tuổi, sinh ra mình thánh là ứng điềm đầu, thánh sinh ở xóm Tân Lộc về phía hữu thành Gia Định. Năm Minh Mệnh thứ 3 dựng chùa Khải Tường ở đó).

Lấy Chưởng Hậu quân dinh Tôn Thất Hội làm chưởng Tiền quân dinh, Cai cơ Tiên phong dinh Võ Tánh quản Hậu quân dinh, Hiệu úy Tiền chi Trung quân dinh là Nguyễn Văn Thành quản Tiên phong dinh.

Lấy Phó tướng Hậu quân là Nguyễn Văn Thư làm phó tướng Tiền quân, trưởng chi Tiền chi Tiên phong dinh Mạc Văn Tô làm Phó tướng Hậu quân.

Chưởng cơ hiệu úy Hữu chi Trung quân dinh hành Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Văn Nghĩa vì ốm miễn chức. Lấy Cai cơ quản Hữu thuận chi là Nguyễn Văn Nhân làm Lưu thủ Trấn Biên kiêm quản tướng hiệu Hữu chi.

Mở khoa thi, lấy trúng cách 12 người là bọn Nguyễn Đình Quát, Nguyễn Công Xanh, Nguyễn Hữu Thứ, Đoàn Văn Hoằng. (Phép thi: Kỳ đệ nhất, chế nghĩa(1. Chế nghĩa : Kinh nghĩa. 1) thì kinh truyện đều một đạo, thi thì dùng sử dùng cảnh đều một bài ; kỳ đệ nhị, chiếu chế biểu dùng sử dùng cảnh đều ba đạo. Hạng ưu thì bổ làm nho học huấn đạo, phủ lễ sinh, hạng thứ thì làm nhiêu học. Chước miễn thuế thân và binh dao theo thứ bực. Người chưa biết làm văn, đọc thuộc được hai ba quyển tứ thư, hoặc hạch hỏi một chương mà trúng thì cũng được chước miễn dao dịch).

Vua thấy số thi hỏng nhiều, lại sai khảo hạch lại, ai trúng thì cho miễn binh dao để được theo học ; hai hạng đọc thuộc và hạch hỏi thì không dự.

Đóng hơn 100 chiếc chiến thuyền, sai tri Tàu vụ Lê Đăng Trung, Khâm sai cai cơ Nguyễn Ngọc Tốt đem các đội Ngoại sai, Triều hạ, Mộc đĩnh [xuồng gỗ], thuyền bàn [chở thuyền] chia đi đạo Quang Hóa và các xứ Sơn Phủ, Sơn Bốc, Sơn Trung (thuộc đất Chân Lạp) kiếm lấy ván gỗ.

Nguyễn Văn Quế lấy lính thổ ở thượng đạo Bình Khang ứng nghĩa đánh giặc, được trao chức Khâm sai tổng binh cai cơ.

Sai Tán lý Tiền quân cũ là Chiêu, Cai cơ quản Tiền chi là Nguyễn Văn Lợi, Cai cơ quản Hậu chi là Nguyễn Văn Tánh chọn đất ở Bà Rịa và Đông Môn nơi nào có thể mở đồn điền được thì lường chia quân sở bộ mà cày cấy, làm lấy mà ăn.

Tháng 5, hoãn việc tố cáo lậu đinh và các việc tạp tụng. Vua thấy việc làm ruộng đương bận nên hoãn các việc ấy. Lại ra lệnh phát thóc giống một vạn hộc cho nông dân vay.

Xiêm La sai sứ thần là Sa Lật Vằn Tri Khôn Sĩ Thi Na đến hiến sản vật (hai con ngựa hồng và bạch, mười cây long bào gấm, bốn chiếc chiêng đồng). Trước là Tây Sơn đánh Vạn Tượng đòi lễ cống, Vạn Tượng không chịu, đánh cho thua, rồi đưa tù sang nước Xiêm. Nước Xiêm nhân sai sứ sang báo tin và đưa cả những cờ trống đã bắt được của Tây Sơn để làm tin. Khi sứ giả đến, vua hậu đãi rồi cho về, sai Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn và Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng cùng đi. (Tặng Phật vương 30 cỗ cáng [nhuyến dư], cho vua thứ hai một đôi hoa vàng bạc).

Sai Mạc Công Bính trở về Hà Tiên. Trước là người Xiêm đưa Bính về trấn giữ Hà Tiên, vua cho rằng nơi ấy từ khi trải qua binh hỏa, nhân vật tiêu điều, bèn khiến lưu giữ đạo Long Xuyên. Đến đây nước Xiêm gửi thư lại trách Bính. Bính sợ, bày tỏ với triều đình, dâng biểu xin vào chầu. Vua dụ rằng : "Ngươi một niềm trung ái, theo được thói tốt của ông ngươi, ta há không biết sao ! Nhưng từ Hà Tiên thất thủ quyến thuộc nhà ngươi đều chạy sang Xiêm nương nhờ, dẫu không ơn lớn, cũng có ơn nhỏ. Nay hãy nín náu theo họ, trở về Hà Tiên, đợi khi mọi việc yên rồi, sẽ có cách xử trí. Cũng bất tất phải vào chầu, hoặc có kẻ nhỏ nhen, nhân đó gièm pha, lại thêm hiềm khích".

Trời lâu không mưa, giá gạo cao vọt. Vua dụ khiến các quan dân cùng người Minh Hương và người Đường [Hoa Kiều] thông thương với Chân Bôn (đất nước Xiêm) để đong mua thóc gạo, ai không có thuyền thì nhà nước cho mượn. Các đội trường đà hay thuyền công thuyền tư có ai tình nguyện đi hạt khác buôn gạo cũng cho, đều cho miễn sưu dịch.

Vua lo trời hạn, sai dinh thần Trấn Biên cầu đảo ở Văn Miếu và đền Long vương, trời bèn mưa.

Tháng 6, cấm dân Hán [người Việt] tranh chiếm ruộng đất của dân Phiên [người Miên]. Hai phủ Ba Xắc, Trà Vinh, đất rộng người thưa, dân Hán nhiều người ở lẫn vào để khai khẩn. Vua cho rằng người Hán và người Di đã có giới hạn, không thể chiếm của người ta được. Nhân sắc rằng những nơi nào từ trước đã cày cấy thành điền thì vẫn cho ở lại mà trông coi sản nghiệp, còn dư thì để hết cho dân Phiên, từ nay về sau không được trưng chiếm nữa. Duy có người Đường [Hoa Kiều] lưu ngụ thì không ví như người dân Hán, phàm đất hoang nhàn ; có xin quan khẩn trị thì cho. Lại theo tục man, nhà giàu cho vay lãi gấp ba bốn lần, đến nỗi có kẻ bắt vợ con người làm nô lệ, sắc khiến chỉ cho một vốn một lãi, làm trái thì phải tội.

Giảm một nửa thuế lệ cho những thuyền ngoại quốc đến buôn ở Long Xuyên, vì cớ Long Xuyên đất hẹp dân nghèo, hàng hóa của lái buôn đều loàng xoàng cả.

Cho sở Phú Quốc lệ thuộc vào đạo Long Xuyên, phàm công việc quân dân đều do đấy hết ; hằng năm cứ theo số đinh hiện tại làm sở đệ nộp.

Đại hạn, nhân dân kiếm ăn khó khăn. Cấm nấu rượu, tha thuế thiếu, phát thóc kho bán cho dân theo giá bình thường (một hộc thóc giá 1 quan tiền). Lại sai quan chia đi các nơi, ra lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra, định thêm giá, cho dân túng thiếu sở tại vay (một hộc thóc giá 2 quan tiền, đợi sau khi thu hoạch sẽ trả đúng giá).

Dinh Trấn Định cũng lấy cớ đại hạn xin thả tù bị giam. Vua y cho.

Mùa thu, tháng 7, lấy Cai bạ Phiên Trấn là Trần Hiếu Liêm làm Hộ bộ, Tham mưu Trung dinh là Nguyễn Tử Châu làm Cai bạ Phiên Trấn, Hàn lâm chế cáo là Nguyễn Đàn làm Ký lục.

Ký lục Long Xuyên là Nguyễn Kim chết ; lấy Tham mưu Vũ Tiến Sinh làm Ký lục Long Xuyên.

Cai bạ Trấn Định là Lê Phước Diễn ốm, xin nghỉ việc dinh, lấy Tham tri Binh bộ là Hoàng Tú Chung thay.

Ký lục Trấn Định là Trần Mậu Khánh chết, cho tiền 50 quan.

Lấy Vệ úy vệ Hổ oai Trung dinh là Hoàng Văn Khánh làm Trưởng chi chi Hậu thuận.

Định lệ biệt nạp dầu rái cho đạo Long Xuyên (Dân ở hòn Sơn Lại mỗi năm phải nộp 5 vò dầu rái, 100 cây nến hạng nhỏ, được miễn thuế thân).

Tháng 8, sai quản Tiền phong dinh là Nguyễn Văn Thành đem binh thuyền tiến thẳng đến Quy Nhơn do thám quân giặc, rồi trở về.

Lấy Khâm sai thống binh cai cơ Tả chấn dinh Chấn võ là Nguyễn Văn Đắc quản tiền chi dinh Trung quân, Khâm sai thống binh cai cơ dinh Tiền quân cũ là Phan Văn Kỳ làm phó Tiền chi.

Sai Tán lý Chiêu mộ dân ngoại tịch và lính trốn của các chi hiệu dinh Tiền quân cũ, lập làm quân lạc tòng(1. Quân lạc tòng: Quân tình nguyện.1).

Tháng 9, Cai bạ Trấn Định là Lê Phước Diễn bệnh đã khỏi, lại nhận chức như cũ, đổi bổ Hoàng Tú Chung làm Ký lục Trấn Định.

Ra lệnh cho các dinh phải xét xong những việc hình ngục. Dụ rằng: "Việc ngục tụng quan hệ đến mệnh lớn của nhân dân, Ngu Thuấn nặng lòng thương những kẻ bị hình, Chu Văn Vương để lòng cẩn thận việc hình phạt, chính vì như thế. Nay ta nghe ở dinh kiện tụng chồng chất, liên lụy đến người không tội, cần đem ngay những kẻ phạm xét hỏi, tội đáng chết thì dâng biểu xin quyết định, tội đáng đồ thì đưa sung dịch phu. Những kẻ mới phạm lầm lỗi và oan uổng thì tha đi, không được để đọng trệ".

Mùa đông, tháng 10, trời hạn, sai các dinh thần đến đền thiêng cầu đảo.

Định lệ lễ ở Văn Miếu và ở các miếu dự tự điển(1. Dự tự điển: Dự vào lệ thờ tự của nhà nước.1). Vua thấy sau cơn loạn lạc, việc tế lễ bỏ lâu, ra lệnh cho các dinh làm sổ kê những vị thần ở trong hạt đã được quốc tế mà dâng lên, sai công đồng bàn định thể lệ làm lễ để ban hành. (Văn Miếu, một sở ở Trấn Biên, một sở ở Vĩnh Trấn, mỗi năm lấy hai ngày đinh mùa xuân và mùa thu để tế ; tiền lễ mỗi nơi là 75 quan, sái phu(2. Sái phu: Phu quét dọn lau chùi trong miếu. 2) mỗi nơi 20 người. Miếu Hội đồng, ba sở : ở Trấn Biên, Vĩnh Trấn và Trấn Định, tế Xuân Thu hai kỳ, tiền lễ đều 70 quan. ở Trấn Biên, hai miếu Chưởng dinh Lễ Thành hầu và Chưởng cơ Duyên Lộc hầu, lễ Chính đán mỗi sở tiền 10 quan, sái phu mỗi sở 5 người, hai miếu Chưởng dinh Đại Đức hầu và Ký lục kiêm cai cơ Giáp, tiền lễ Chính đán đều 5 quan, sái phu đều 3 người. ở Phiên Trấn, miếu Đô đốc đồng tri An Bình hầu Trần Quý công, tiền lễ Chính đán 6 quan, sái phu 3 người. Miếu Phi vận Tùng giang Văn trung vô tự tướng quân, ba lần tế tháng giêng, tháng 7, tháng 10, tiền lễ 45 quan).

Truy tặng các tướng sĩ trận vong ở Mỹ Tho. Dụ rằng : "Đấng vương giả dựng nghiệp truyền mối, trước phải tôn người có đức, báo người có công. Nhà nước ta trăm trận vất vả mà khôi phục non sông, đành là mệnh trời yêu mến, mà thực là nhờ ở sức tướng sĩ cùng ta chống kẻ thù chung. Nghĩ tới trận đánh ở sông Mỹ Tho tháng 9 năm Đinh mùi, phàm người có chiến công, còn sống thì đã được vinh gia tước trật, duy những người vì nước bỏ mình, trong lúc can qua bận rộn, chưa kịp truy phong, mà sổ ghi công trạng vẫn còn, thì hạn đến sáng ngày 14 tháng này, các quan chưởng lãnh và chánh phó trưởng chi đều tới trước điện hầu nghe bàn công truy tặng, để cho yên ủi hồn thơm đã khuất". Lại ra lệnh thu dùng con cái, không con thì dùng cháu, không cháu thì dùng em, tùy theo công lao nặng nhẹ, hoặc trao cho quan chức, hoặc cho miễn binh dao trọn đời.

Lập đền Hiển trung. Dụ rằng : "Đền công báo đức là lẽ thường xưa nay. Nêu trung khen lương là thịnh điển của nhà nước. Từ giặc Tây Sơn nổi loạn, vận nước gian nan, phàm tướng sĩ ta, đi theo sang Vọng Các và trải từ

các trận Mỹ Lung, Hồi Oa, Tinh Phụ, Bát Tiên, Trấn Định, Ba Xắc, cho đến Bình Thuận, bốn năm tới nay, ai không may mà chết vì việc nước thì đã từng định công khen tặng, lại ưu đãi cho vợ con được miễn dao dịch để chăm thờ cúng. Riêng nghĩ những người không ai thừa tự, hương lửa chẳng biết nhờ đâu, nếu không lập đền thờ cúng, thì lấy gì để yên ủi người đã mất mà khuyến khích hậu lai ?". Bèn sai Phiên Trấn chọn đất xây đền, đặt tên là đền Hiển trung, thờ chung những công thần không người thừa tự, sắc cho Lễ bộ bàn định điển thờ và đồ thờ, hằng năm xuân thu làm lễ tế. Đặt phu coi đền 25 người. Vua lại nghĩ rằng quan chưởng lãnh ở các quân dinh trước kia dâng sổ công quan trạng, hoặc còn bỏ sót, lại sai hỏi rõ bộ khúc, cứ thực tục khai, do Trung quân giám quân Tống Phước Đạm họp thành tập tâu lên, để bàn định tặng điển. (Những người chết trận từ Mỹ Lung đến Ba Xắc : Trung quân dinh khâm sai thống binh cai cơ là Lê Phước Cảnh, Đặng Mậu Nhĩ, Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Tiến Đoài, Khâm sai tổng nhung cai cơ là Trần Văn Long, Khâm sai cai cơ là Hoàng Văn Trung, Vũ Văn Dực, Nguyễn Văn Văn, Nguyễn Văn Huệ, Trần Văn Vạn, Cai cơ là Vũ Văn Loan, Khâm sai cai đội là Trần Văn Dụng, Trần Văn Chiếu, Trần Văn Kỷ, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Văn Thuyên, Bùi Văn Ngữ, Lê Văn Cẩn, Cai đội là Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Văn Thịnh, Đỗ Văn Huề, Trần Văn Toán, Đỗ Thanh Quý, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Thuận, Vũ Văn Linh, Nguyễn Văn Liêm, Trần Văn Đương, Đặng Văn Hóa, Lương Văn Thanh, Trần Văn ất, Đinh Văn Tiềm, Nội đội trưởng là Nguyễn Văn Thận, Đội trưởng là Nguyễn Văn Lược, Nguyễn Văn Hương, Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Văn Thiện, Thứ đội trưởng là Nguyễn Văn Định, Trương Tiến Lộc, Tiền quân dinh, Khâm sai tổng nhung cai cơ là Nguyễn Văn Loan, Nguyễn Văn Long, Hồ Công Vân, Khâm sai thống binh cai cơ là Phan Văn Dụ, Nguyễn Văn Phong, Khâm sai cai cơ là Phạm Tiến Thông, Tống Viết Huề, Phan Văn Thiện, Lê Văn Lợi, Phan Văn Tiến, Nguyễn Đắc Xứng, Nguyễn Văn Trí, Trần Văn Quyến, Nguyễn Văn Điền, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Càn, Đặng Văn Học, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Sĩ, Nguyễn Văn Hùng, Hồ Tuấn Kiệt, Nguyễn Văn Thụy, Khâm sai cai đội là Hoàng Văn Chân, Trần Văn Lượng, Nguyễn Công Nhật, Nguyễn Văn Luật, Nguyễn Văn Thụy, Nguyễn Văn Càn, Phan Văn Minh, Phan Văn Mi, Hoàng Văn Thao, Nguyễn Văn Thập, Nguyễn Văn Tường, Lê Văn Hiền, Nguyễn Văn Sĩ, Cai đội là Nguyễn Văn Hưng, Lê Văn Quảng, Nguyễn Văn Huấn, Bùi Văn Thái, Nguyễn Văn Hòa, Lê Văn Lý, Lê Văn Nhự, Nguyễn Văn Đặng, Đội trưởng là Nguyễn Văn Như, Bùi Văn Hóa, Lê Văn Quý ; Tả quân dinh, khâm sai tổng nhung cai cơ là Hà Phước Triệu, Nguyễn Văn Thanh, Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Văn Huệ,

Nguyễn Văn Ba, Khâm sai tổng binh cai cơ là Nguyễn Văn Thành, Phan Văn Kính, Nguyễn Văn Toán, Khâm sai cai cơ là Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Quả, Lê Văn Diên, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Văn Lộc, Vũ Văn Ba, Nguyễn Văn Lộc, Hà Phước An, Nguyễn Văn Châu, Lê Văn Quản, Hoàng Văn Nguyệt, Trấn Văn Sách, Khâm sai cai đội là Nguyễn Văn Hiền, Trần Văn Châu, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Kỷ, Cao Văn Niệm, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Loan, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Văn Thông, Vũ Văn Lan, Nguyễn Văn Hùng, Trần Văn An, Nguyễn Văn Toán, Nguyễn Văn Trí, Cai đội là Nguyễn Văn Sương, Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Cảnh, Nguyễn Văn Tĩnh, Trương Văn Tĩnh, Nguyễn Văn Tai, Dương Văn Thiêm, Hoàng Văn Đông, Nguyễn Văn Sạ, Nguyễn Văn Điều, Thứ đội trưởng là Nguyễn Văn Sách, Hậu quân dinh, Khâm sai đốc chiến cai cơ là Phạm Văn An, Khâm sai tổng nhung cai cơ là Hồ Văn Huệ, Trương Văn Lý, Khâm sai thống binh cai cơ là Phạm Văn Trị, Lê Văn Trung, Lê Văn Kính, Bùi Văn Vãng, Đặng Văn Nhân, Lê Văn Bình, Phan Văn Nhị, Cao Văn Thanh, Trần Văn Tú, Khâm sai cai cơ là Đoàn Văn Sở, Nguyễn Văn Vạn, Trần Văn Loan, Hoàng Văn Nhan, Lương Văn Nhị, Nguyễn Văn Trâm, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Diệu, Tống Phước Trung, Nguyễn Văn Chiếu, Ngô Văn Đằng, Nguyễn Văn Long, Trần Văn Phước, Nguyễn Văn Đằng, Nguyễn Văn Hổ, Nguyễn Văn Sương, Ngô Phú Nghĩa, Phạm Văn Hưng, Trần Văn Chấn, Hồ Văn Hán, Nguyễn Văn Giáo, Ngô Công Cẩm, Hà Phước Lộc, Nguyễn Hữu Phú, Khâm sai cai đội là Nguyễn Văn Nho, Trần Văn Thịnh, Nguyễn Văn Nhạn, Đặng Văn Đức, Phan Văn Hổ, Hoàng Văn Chấn, Nguyễn Văn Tiến, Lê Văn Viết, Trần Văn Bản, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Phân, Nguyễn Văn Nho, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Văn Thảo, Trần Văn Chấn, Cai đội là Trần Văn Phượng, Mai Văn Quý, Hồ Văn Tĩnh, Nguyễn Văn Vãng, Nguyễn Văn Thái, Trần Văn Cẩm, Lê Văn Long, Đội trưởng là Vũ Công Vi, Hồ Viết Biện, Nguyễn Văn Điêu, Nguyễn Văn Biện ; Tiên phong dinh khâm sai cai cơ là Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Văn Thanh, Đặng Văn Triệu, Nguyễn Văn Đức, Hoàng Văn Nguyệt, Nguyễn Văn Trị, Vũ Văn Loan, Nguyễn Văn Thịnh, Khâm sai tham mưu Nguyễn Thiện Giảng, Cai cơ là Nguyễn Văn Chử, Vũ Văn Long, Lê Văn Quỳnh, Trần Văn Nghị, Nguyễn Văn Thuận, Lê Văn Hào, Khâm sai cai đội là Nguyễn Văn Đào, Lê Văn Tuyên, Nguyễn Văn Hòa, Hoàng Văn Quý, Cai đội là Nguyễn Văn Dư, Trần Văn Khách, Lê Văn Dụng, Nguyễn Văn Chử, Nguyễn Văn Xung, Hoàng Văn Quý, Phan Văn Ân,

Lê Văn Khả. Cộng là hơn 320 người binh đinh. Chết trận ở Bình Thuận: Khâm sai cai cơ là Trần Văn Hòa, Nguyễn Văn Đẳng, Phạm Văn Thuận, Trần Văn Phong, Đào Văn Khóa, Nguyễn Văn Khách, Vũ Văn Lục, Phạm Văn Thuận, Nguyễn Văn Đức, Lâm Tiến Phú, Bùi Văn Mai, Hoàng Văn Sĩ, Nguyễn Văn Thuận, Bạch Phi Chấp, Nguyễn Đình Tiến, Nguyễn Văn Nghiêm, Thư ký tham luận là Đinh Công Nguyên, Tổng nhung cai cơ là Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Văn Chiêu, Nguyễn Văn Dực, Thống binh cai cơ là Nguyễn Văn Chiêu, Trần Văn Liên, Tổng nhung cai cơ là Nguyễn Văn Hùng, Khâm sai cai đội là Nguyễn Văn Quyền, Nguyễn Văn Lưỡng, Phan Văn Nhiên, Nguyễn Văn Trì, Nguyễn Văn Khuê, Vũ Văn Thương, Nguyễn Văn Lan, Trần Văn Tuyết, Đào Văn Tĩnh, Hoàng Văn An, Mai Văn Cẩm, Nguyễn Văn Thuận, Phạm Văn Tiên, Nguyễn Văn Khảng, Nguyễn Văn Công, Nguyễn Văn Nhạn, Nguyễn Văn Bang, Nguyễn Văn Tại, Hồ Văn Thái, Nguyễn Văn Nhiên, Cai đội là Nguyễn Khoa Minh, Nguyễn Văn Tụy, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Xuân, Trương Văn Bảo, Nguyễn Văn Khuê, Hồ Văn Tự, Nguyễn Văn Bằng, Nguyễn Văn Trúc, Hồ Văn Bản, Trần Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Xuân, Hồ Văn Thành, Trương Văn Dính và hơn 600 binh đinh).

Đổi đắp thành Đồng Môn. Vua thân đến nơi, xem xét hình thể, ủy cho cai cơ Nguyễn Văn Tánh sửa đắp lại.

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu Trung dực dinh Trung quân là Nguyễn Thoan làm Chánh trưởng chi Hữu thuận, Khâm sai cai cơ hiệu

Hữu dực là Nguyễn Văn Linh làm Phó trưởng chi, Khâm sai thống binh cai cơ dinh Hậu quân là Nguyễn Văn Tín làm Chánh trưởng chi đạo Tiền du, Phó Hữu chi là Nguyễn Văn Biện làm Chánh trưởng chi Tiền chi, Trưởng hiệu Hữu hiệu là Trần Công Đề làm Phó trưởng chi Hữu chi.

Đặt sở hoạn dưỡng(1. Sở hoạn dưỡng: Chỗ nuôi quân lính đau ốm. 1) cho những bệnh binh ở các vệ đội thuyền thuộc dinh Trung quân. ở đấy, nhà nước cấp cho thuốc men để điều trị. Các viên quản suất chia ngày với nhau để thăm nom, đem tình trạng báo lên. Ai bị bệnh nặng mà cha mẹ vợ con xin lãnh về nhà nuôi cũng cho.

Tháng 11, đắp thêm đồn bảo ở Hưng Phước. Trước là bọn Tán lý Chiêu và Cai cơ Nguyễn Văn Lợi xin chọn nơi hiểm yếu ở thượng đạo Hưng Phước đặt thêm ba bảo, chia quân đóng giữ để chống giặc. Vua nói rằng: "Nơi ấy rừng núi rộng dài, đường sá xa cách, chỉ nên đắp bảo nhỏ để tuần xét mà thôi, nếu phòng giữ nhiều ngả thì quân chia thế yếu. Nên xem xét địa lợi ở gần đạo Hưng Phước, lập một bảo lớn để đóng quan quân, khi giặc đến thì họp nhau lại mà đánh mới dễ thắng được". Đến đây bọn Chiêu đem địa đồ dâng lên. Bèn sai phó tướng Tả quân là Nguyễn Long đến coi công việc.

Lấy Khâm sai cai cơ chi Hữu thuận Thủy dinh Trung quân là Dương Công Bảo làm Phó trưởng chi Hữu chi dinh Trung quân, Khâm sai thống binh cai cơ dinh Chấn võ là Trần Văn Lưu làm Hiệu úy hiệu Trung dực Thủy dinh Trung quân, Khâm sai cai cơ Hồ Văn Trương làm Trưởng hiệu Tả hiệu chi Trung thuận.

Đổi Tiền chi của dinh Tiền quân cũ làm chi Túc uy, Hậu chi làm chi Kiến võ, cho lệ vào dinh Trung quân, vẫn lấy Cai cơ Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh để quản.

Sai tri đồ gia là bọn Phan Văn Tào, Trịnh Phước Thường, Nguyễn Quang Diệu kén chọn trong 62 ty các cục tượng lấy những người tinh xảo bổ làm các chức cai đội, cai quan, ty quan, thủ hợp, thứ bực khác nhau. (Chính dinh: Ty thợ mộc, ty thợ làm nhà, ty thợ chạm bạc giỏi ở Nội viện, ty thợ chão [thừng chão], ty thợ tiện nội, ty thợ cưa, ty thợ bạc nội, ty thợ bạc ở cơ Tả trung, ty thợ bạc ở cơ Hữu trung, ty thợ đúc, ty thợ may nội, ty thợ thêu nội, ty thợ sơn nội, ty thợ sơn, ty thợ nhuôm nội, ty thợ khắc ty [dệt hoa], ty thợ vẽ, ty thợ lọng nội, ty thợ the, ty thợ giầy nội, ty thợ thếp vàng ở Nội viện, ty muội đèn thuộc Nhà đồ. Dinh Vĩnh Trấn : Ty thợ mộc, đội xẻ ván nhất, đội xẻ ván nhì, ty thợ rèn, ty thợ sơn, ty thợ nhuộm. Dinh Phiên Trấn: Ty thợ súng, ty thợ Mậu Tài(1. Thợ Mậu Tài (vốn ở Thuận Hóa) chuyên môn làm dây thép, dây đồng và kim. Có câu ca: "Chợ Dinh bán áo con trai, Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim".1), ty thợ đúc, ty thợ đúc mới, ty thợ sơn, ty thợ nhuộm, ty thợ giày ngoại, ty thợ tiện, ty thợ đắp tượng, ty thợ thiếc, ty thợ lược, ty thợ mài, ty thợ đồ ngựa, ty thợ bút, ty thợ gương, ty khắc chữ, ty thợ mành, ty thợ đồi mồi, ty thợ lồng đèn, ty thợ ngói mộc(2. Chứ Hán là Ngõa khôi tượng. Ngõa là ngói, khôi là tro. Ngói mộc đóng khuôn xong thì rắc tro trên mặt cho nên mặc dầu đối với ngữ pháp không đúng, chúng tôi cũng đoán đấy là thợ ngói mộc, thợ này khác với thợ đốt lò.2), ty thợ ngõa, ty thợ lò gạch, ty thợ lò vôi, ty thợ lò chum, hai ty thợ giấy sắc, ty thợ giấy. Dinh Trấn Biên : Ty thợ bạc, ty thợ đúc, ty thợ nhuộm, ty trường sắt, nghề trường sắt, xã trường sắt, phường thợ sắt, ty thợ sắt).

Cai bạ Long Xuyên là Bùi Văn Hiếu có tội bị miễn chức. Lấy Khâm sai cai cơ đạo Kiên Giang là Nguyễn Văn Thiện hiệp cùng Ký lục là Vũ Tiến Sinh giữ đạo Long Xuyên.

Cai bạ Vĩnh Trấn là Nguyễn Mộng Bi, Ký lục là Nguyễn Đăng Hựu, vì dung túng cho người thuộc quyền nhũng lạm, bị bãi chức. Lấy Tham mưu Tiền quân là Nguyễn Ngọc Chương làm Cai bạ Vĩnh Trấn, Tham luận là Nguyễn Tiến Lộc làm Ký lục.

Tháng 12, lấy Phó tướng Hậu quân là Mạc Văn Tô làm Vệ úy vệ Hổ oai dinh Trung Quân, Vệ úy vệ Long võ là Trương Phước Luật quản các đội thuyền Tiểu sai, Bả cái, Nội mã nhất nhị, Tả mã, Hữu mã, Tiểu hầu, Bả lệnh và kiêm tri Tượng chính, Cai cơ phó Trung chi Tả quân là Đoàn Cảnh Cư làm chánh trưởng chi Tả chi, Phùng Văn Triêm làm phó trưởng chi Trung chi.

Giảm nửa số thóc thị nạp sang năm cho các dinh.

Sai Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn và Cai cơ Lưu Phước Tường sung chức chánh phó sứ sang Xiêm để giao hiếu. Khi Nhàn bệ từ, vua dụ rằng : "Nước Chân Lạp, làm tôi thờ phụng triều ta giữ chức phiên thần đã lâu, là nước thần xỉ(1. Thần xỉ: Như môi và răng, để che miệng.1) của ta. Từ khi ta khôi phục đất cũ, Chiêu Chủy Biện đem lòng oán giận, chỉ muốn nhân ta có việc mà làm rối động biên cương. Ta vì cớ đó, chẳng lúc nào quên. Ngươi nên nhân cơ hội này bày tỏ với vua Xiêm khiến họ để ý, nếu không giúp ta thì cũng không nên làm lo cho ta, để cho ta có thể chuyên lòng đánh giặc, không lo ở trong nữa. Ngươi nên nói khéo, đừng làm nhục mệnh vua!".

Cai bạ Trấn Định là Lê Phước Diễn vì ốm miễn chức. Lấy Hàn lâm viện chế cáo Phạm Như Đăng làm Cai bạ Trấn Định.

Lấy Cai bạ Nguyễn Đức Chí là Tham tri Hộ bộ, Hàn lâm viện chế cáo Ngô Tòng Chu làm Tham tri Lễ bộ.

Nhân dân miền Thuận Quảng chán ghét chính sách bạo ngược của Tây Sơn từ lâu, hằng ngày mong đợi quân vua, mỗi khi thấy gió nồm thổi thì đều nói rằng : "Chúa cũ chúng ta đã đến đấy!". Xử sĩ xã Thai Dương (thuộc huyện Hương Trà) là Hoàng Quang làm bài ca Hoài Nam khúc (bằng quốc âm) thuật lại công lao khai thác khó nhọc của các vua đời trước, ơn trạch thấm khắp mọi người, cuối cùng truy tội bọn quyền thần, nghiến răng với quân ngụy tặc, lời rất não nùng mạnh mẽ, nhân dân truyền nhau hát. Thái trưởng công chúa là Ngọc Huyên (con gái cả của Thế tông) ẩn ở xã Vân Dương (thuộc huyện Hương Thủy) được bài hát ấy, sai người đưa vào Gia Định để hiến. Vua sai đem truyền bá khắp trong quân, được nghe lời ca ai cũng rỏ nước mắt. Vua nói : "Ngày xưa lòng người nhớ nhà Hán, mà tự Bạch Thủy(2. Một huyện thuộc về tỉnh Cam Túc (Trung Quốc) là nơi Quang Vũ nhà Hán khởi nghĩa đánh Vương Mãng để khôi phục cơ nghiệp nhà Hán, gọi là Đông Hán. 2) dựng nghiệp trung hưng, lòng người nhớ nhà Đường mà tự Linh Vũ(3. Một huyện ở Cam Túc (Trung Quốc), trong khi nhà Đường bị An Lộc Sơn cướp ngôi mà Minh hoảng chạy vào Ba Thục, thì vua Túc Tông lại lên ngôi ở đó để kế nghiệp. 3) gây nền tái tạo. Nay lòng người như thế, thì bọn nghịch tặc lo gì không dẹp yên?".

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển VI - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Nhâm tý, năm thứ 13 [1792] (Thanh ? Càn Long năm thứ 57), mùa xuân, tháng giêng, đóng năm hiệu thuyền Hoàng long, Xích nhạn, Thanh tước, Bạch yến và Huyền hạc.

Vua hăng chí đánh giặc, bảo các tướng rằng : "Hiện nay thế giặc đương mạnh mà quân ta vừa mới tập họp, chưa có thể nắm ngay cái chết của quân địch. Nhưng thù nước một ngày chưa trả thì lòng ta còn lo một ngày. Nếu năm nay không đánh, sang năm không đánh, cứ để cho giặc được rỗi thì thế không phải là kế hay. Chi bằng dùng nhiều phương để lừa nó, đánh gấp để cho nó mệt. Hằng năm gặp mùa gió, thủy quân theo đường biển mà tiến, nhân chỗ hở mà đánh. Bộ binh đi từ Bình Thuận, Bình Khang, lần lượt tiến lấy được một châu thì xây thành ở một châu, được một huyện thì đóng đồn ở một huyện, để làm phên giậu cho Gia Định, khiến thế giặc chia ra, sức giặc yếu đi, như thế thì có thể lấy thiên hạ được". Từ năm ấy trở đi, hễ gặp mùa gió nồm là ra quân đánh giặc, gió thuận thì tiến, gió vãn thì về. Khi phát thì quân lính họp hết, khi về thì tản ra đồng ruộng. Quân ta không vì đóng lâu mà mỏi, không vì ngồi ăn mà tốn; mà quân giặc Tây Sơn thì phải chạy vạy đối phó, không rỗi mà tính mưu.

Sai Phó vệ úy Ban trực hữu vệ Thần sách là Phan Văn Triệu giữ đạo Châu Đốc, Khâm sai cai cơ là Nguyễn Văn Thịnh giữ đạo Kiên Giang.

Các phủ Phú Yên, Khang Thuận khổ với chính sách hà ngược của giặc, nhân dân nhiều người dắt vợ con chạy vào Bà Rịa và Sài Gòn. Vua thương xót dụ cho Tán lý Chiêu và Lưu thủ Trương Văn Giao chọn nơi cho họ ở yên để làm ăn, kẻ nào đói khát thì chẩn cấp. Có bọn ngụy quan ngụy quân trốn giặc mà đến thì cho kêu bày tình thực, như muốn ra sức làm việc thì cho giữ chức cũ, mà không muốn thì cũng không ép. Nếu ẩn nấp trong dân, tức là có ý nhòm ngó, biết được không tha.

Đắp thành Mỹ Tho (góc thành đắp như dáng hoa mai, chu vi 499 trượng), phát quan quân các dinh đến ứng dịch. Vua ngự đến xem.

Tháng 2, tổng Tân An dinh Vĩnh Trấn mùa màng kém. Sai Võ giáp khâm sai cai cơ là Nguyễn Đức Thịnh và Hàn lâm viện Hồ Văn Giao đến khám để lượng giảm thuế cho.

Tháng 2 nhuận, Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn và Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng từ nước Xiêm về.

Tháng 3, nước Xiêm La đưa thư đến nói xin giúp quân đi theo miền thượng đạo đánh giặc Tây Sơn. Trước là giặc Tây Sơn gây oán với nước Vạn Tượng, lại dẫn quân đến đánh Vạn Tượng, Vạn Tượng thua to. Vua Xiêm muốn báo thù cho Vạn Tượng, xin ta giúp quân và yêu cầu ta đem Long Xuyên, Kiên Giang cho Mạc Công Bính, và đem Ba Xắc cho Chân Lạp. Vua sai viết thư trả lời rằng : "Quả nhân từ khi lấy lại được Gia Định tới nay, dằn dọc một nơi, ăn không biết ngon, nằm không yên gối, rất lo nghĩ thù nước chưa trả xong. Nay nghe giặc Nguyễn Văn Huệ chọn quân Hà Bắc được hơn hai ba mươi vạn người, mưu cử đại binh thủy bộ vào cướp. Quân bộ thì trước đánh các dân Man ở miền thượng đạo, tiến đánh Nam Vang, quay lại đánh sau lưng Sài Gòn. Quân thủy thì vào Côn Lôn, phá Hà Tiên, theo đường Long Xuyên, Kiên Giang để đánh mặt trước Sài Gòn. Nếu thắng, sẽ đánh tới Xiêm. Đó chẳng những là thù riêng của quả nhân, mà cũng là thù của nước Xiêm nữa. Tính kế ngày nay thì quả nhân đem quân thủy quân bộ đánh Quy Nhơn, mà vương thì đem trọng binh đánh Nghệ An. Giặc giữ Nghệ An thì vương đánh ngả trước, quả nhân đánh

ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân thì vương quấy rối ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi giáp đánh thì giặc không còn đi đâu được nữa. Đến như Long Xuyên và Kiên Giang, sau khi loạn lạc dân vật tan tác, quân giặc nhòm ngó miền Nam, thì đó tất là nơi phải chịu binh cách. Mạc Công Bính còn nhỏ, chưa có thể đương việc quân, nên sai quan giữ đó chứ không phải là tiếc đâu ? Còn đất Ba Xắc không cho Chân Lạp là vì cớ phụ chính Chiêu Chủy Biện. Nếu được người khác của Xiêm đến thì quả nhân nào có tiếc gì ? Những việc nhỏ nhặt ấy vương bất tất phải quan tâm, cũng không phải đi lại nói nhiều làm gì".

Mùa hạ, tháng 4, đặt vệ Thần Võ ở dinh Tả quân, vệ Phấn võ ở dinh Tiền quân, hai vệ Hùng phong và Nghị võ ở dinh Hậu quân, vệ Võ dũng ở dinh Hữu quân, vệ Kiên võ ở dinh Tiên phong, đều lấy quân lạc tòng sở thuộc sung vào.

Định rõ lệnh khuyến nông. Dụ rằng : "Thứ tự trong bát chính(1. Bát chính trong Kinh Thư là :

1) Thực (sự ăn),

2) Hóa (của cải).

3) Tự (việc tế tự)

4) Tư không (việc nhà cửa của dân),

5) Tư đồ (việc ruộng đất).

6) Tư khấu (việc hình án).

7) Tân (tiếp đón tân khách).

8) Sự (quân sự)

2. Tứ dân : Sĩ nông công thương. 1) thì việc ăn đứng đầu. Công việc trong tứ dân(2) thì nghề nông là gốc. Gia Định đất đai màu mỡ mà của chứa chưa đủ, thực vì cớ nhân dân phần nhiều đi buôn, không chăm làm ruộng. Nay đương mùa làm ruộng, các dinh thần nên truyền khắp cho các tổng xã thôn phường ở trong hạt, từ phủ binh cho đến người kiều ngụ, ai chăm làm ruộng thì được miễn dịch, kẻ du thủ du thực thì phải phục dịch. Lý trưởng thiên vị ẩn dấu thì có tội".

Lưu thủ Phiên Trấn là Trương Văn Giao vì ốm miễn chức, cho vẫn quản Trường Đà. Lấy Võ giáp Khâm sai cai cơ là Nguyễn Đức Thịnh làm Lưu thủ Phiên Trấn.

Lấy Vệ úy Ban trực tiền vệ Thần sách là Hoàng Viết Toản làm Vệ úy Ban trực tuyển phong hữu.

Tháng 5, truy lục các tướng sĩ trận vong. Dụ rằng : "Giúp vua đánh giặc là lúc thần tử lập công, nêu hiệu rạng danh là lệ triều đình báo đức. Kể từ buổi Tây Sơn nổi loạn, vận nước khó khăn, các tướng sĩ bỏ mình vì nước, kể biết bao người. Trước đây lập đền Hiển Trung, phàm từ năm Đinh mùi xa giá trở về, như các tướng sĩ trận vong ở Mỹ Tho, Mỹ Lung, Hồi Oa, Bát Tiên, Tinh Phụ, Triệu Phụ, Trấn Định, Ba Xắc, thì đã liệt vào tự điển. Song nghĩ từ năm Quý tỵ về sau, năm Bính ngọ về trước, hoặc có kẻ ra trận mà mất, hoặc có người bị bắt mà chết, đương lúc bấy giờ ta còn tuổi trẻ, mới lên nối ngôi, việc nước hãy còn có chỗ chưa rõ, mà những bề tôi ra trận, sổ ghi công lại không khảo được, nếu nay không truy lục, thì chẳng là phụ các trung thần ấy hay sao ? Hỡi các thần liêu văn võ và tướng sĩ các dinh, trong khoảng trước sau 14 năm kia, ai có thể nhớ được ai đánh trận nào, ai chết về việc gì, không kể thân quyến bộ khúc, bè bạn cố cựu, cho được cứ thực ghi hết đưa lên bộ để bàn bao tặng, liệt thờ ở đền Hiển Trung, ngõ hầu nêu được thịnh điểm nhớ công".

Giáng chức Khâm sai tổng nhung cai cơ phó tướng Tiền quân là Nguyễn Văn Thư làm Khâm sai cai đội. Thư dung túng cho thuộc hạ quấy nhiễu dân Phiên, việc phát giác nên bị giáng chức. Lấy Phó trưởng chi Trung chi Tiền quân là Phạm Tiến Tuấn thay quản hai phủ Ba Xắc và Trà Vinh.

Sai Phó tướng Tả quân là Nguyễn Long quản tướng sĩ dinh Chấn Võ.

Sai Tán lý Chiêu và Cai cơ Nguyễn Văn Lợi đắp hai thành Lâm Thang và Sa Đàm, nghiêm phòng đường hiểm yếu để ngăn ngừa sự bất trắc.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ kết với 40 chiếc thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi khiến chúng men các vụng biển từ miền Khang Thuận(1. Khang Thuận : Bình Khang và Bình Thuận.1) trở vào, cướp bóc nhân dân. Vua nghe tin, sai Phó tướng Tả quân là Nguyễn Long đem binh thuyền giữ cửa biển Tắc Khái kiêm quản hai đạo Lý Lê và Xích Lam, phân phái đi tuần ngoài biển, phòng bị nghiêm nhặt.

Tháng 6, lấy khâm sai cai đội là Ôlivi(2. Olivier.2) (người Tây) làm Vệ úy Ban trực tuyển phong hậu vệ Thần sách.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc đóng nhiều chiến thuyền để ở cửa biển Thị Nại, mưu toan vào cướp, kẻ gián điệp báo tin. Vua muốn ra đánh trước để chặn giặc, mới dụ cho tướng sĩ các dinh Tiên Phong và Chấn Võ thuộc Trung quân chỉnh bị lương thực súng ống khí giới như phép hành quân, định ngày thử các chiến hạm ở ngoài biển (thuyền đại hiệu và thuyền ô sai(3. Thuyền đại hiệu là loại thuyền lớn, thuyền ô sai là thuyền nhẹ dễ sai phái, sơn màu đen.3) 128 chiếc). Bèn sai Chưởng Tả quân dinh là Tôn Thất Huy, Quản Hậu quân dinh là Võ Tánh, Giám quân Trung quân là Tống Phước Đạm lưu giữ kinh thành, Chưởng Tiền quân dinh là Tôn Thất Hội đi Vĩnh Trấn và Trấn Định kiêm quản tướng sĩ hai dinh, quản Hữu quân dinh là Nguyễn Hoàng Đức đi Bà Rịa hiệp đồng với Tán lý Chiêu đóng giữ.

Thuyền vua ra từ cửa biển Cần Giờ, gặp khi gió nam thổi mạnh, thuận chiều thẳng đến Diên áo [Vũng Diên], bắt được du thuyền của giặc, biết ở Thị Nại không có phòng bị, bèn bí mật định ước thúc, trao kỳ hiệu và khẩu hiệu cùng cơ nghi hành động, nói là do Thiếu phó quận công Tôn Thất Huy điều bát tướng sĩ. Sai quản Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Thành tiến trước, kế đến quản Ban trực tả là Phạm Văn Nhân tiến thứ nhì.

Giám quân Trung quân Nguyễn Văn Trương hộ giá, Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận tiếp sau. Khi quân đến ngoài cửa biển Thị Nại, thì trước hết sai quân tinh nhuệ đổ bộ phóng lửa đốt thủy trại giặc. Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Thành dùng thuyền Long và Phụng thẳng vào, các quân tiến theo. Đô đốc giặc là Thành (không rõ họ) thấy đại quân chợt đến, bỏ chạy, thuyền ghe và khí giới bị quân ta bắt được hết (thuyền chiến lớn 5 chiếc, thuyền đi biển 30 chiếc, thuyền sai 40 chiếc). Lại sai tìm bắt bọn giặc biển Tề Ngôi, bắt được 3 chiếc thuyền. Vua đóng ở chợ Thị Nại, dựng cờ chiêu an phủ dụ dân chúng, cấm quân sĩ không được cướp bóc. Rồi ra lệnh rút quân về. Chiến dịch này, từ lúc xuất quân đến lúc khải hoàn chỉ hơn 10 ngày. Người ta cho là thần binh.

Mùa thu, tháng 7, thuyền vua về đậu ở Vũng Tàu Phan Rang(1. Vũng Tàu tức là cửa biển Phan Rang, khác với Vũng Tàu ở cửa biển Cần Giờ.

2. Tấn Dương: Huyện Tấn Dương, nay là huyện Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc), Lý Uyên là Cao tổ nhà Đường khởi nghiệp ở đấy. 1). Vì không thuận buồm xuôi gió, bèn sai chạy dụ cho Nguyễn Hoàng Đức và Tán lý Chiêu đem bộ binh đánh úp lấy Phố Hài, đợi thủy quân đến hội ở Thạch Cốc (tên đất thuộc Bình Thuận).

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ chết. Trước là một hôm Huệ ngồi chơi buổi chiều, bỗng mơ thấy một ông già đầu bạc từ trên không xuống, mặc áo trắng, tay cầm gậy sắt chỉ vào Huệ mà bảo rằng : "Ông cha mày sinh ở đất vua, đời làm dân vua, mày sao dám vô lễ xâm phạm lăng tẩm ?". Rồi đánh vào trán một cái. Huệ mê ngất ngã ra. Tả hữu đều sợ. Giờ lâu mới tỉnh. Đem việc ấy nói với trung thư Trần Văn Kỷ. Nhân đó, ốm không dậy được, dặn con là Quang Toản (lại tên nữa là Trát) rằng : "Ta sẽ chết đây ! thần kinh Phú Xuân không phải của mày có được. Nghệ An là đất của cha mẹ ta (Tổ tiên Huệ là người huyện Hưng Nguyên, khi Thái tông Hiếu triết hoàng đế tiến lấy được bảy huyện Nghệ An, dời dân vào Quy Nhơn), đất ấy là nơi hiểm yếu có thể trông cậy được. Ta đắp thành dày để làm Trung đô là làm kế Tấn Dương(2) ngày khác cho mày. Sau khi ta chết, mày nên về đó. Nếu có biến cố còn có thể giữ được". Rồi Huệ chết. Quang Toản lên nối, xưng là Cảnh Thịnh. Quang Toản tuổi trẻ chỉ thích chơi bời. Đảng giặc tôn tham chính Bùi Đắc Tuyên làm Thái sư quốc công nhiếp chính. Phàm công việc đều quyết định ở nhà tư Đắc Tuyên, thế giặc ngày càng suy yếu.

Tháng 8, Nguyễn Hoàng Đức và Tán lý Chiêu tiến quân đánh lấy Phố Hài, giặc bỏ thành không mà đi. Bàn muốn đuổi đánh lấy Phan Rí, dâng biểu lên. Vua dụ rằng : "Phép dùng binh tất phải lấy lương ở giặc. Nay từ Bình Thuận trở ra Bắc mùa mất dân đói, không lấy lương vào đâu, dù lấy được Phan Rí cũng không ích gì. Ta sẽ rút quân, bọn khanh cũng nên rút về Bà Rịa để tính cuộc sau".

Ngự giá đến Gia Định, thả cho các quân về nghỉ ngơi, triệu Nguyễn Hoàng Đức về.

Tháng 9, sai Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng và Nguyễn Văn Thụy sung chức chánh phó sứ sang Xiêm báo tin thắng trận, đưa bọn giặc biển Tề Ngôi đã bắt được sang. (Tặng Phật vương và cho vua thứ hai đường cát mỗi người 500 cân).

Sai Cai bạ Phiên Trấn là Nguyễn Tử Châu hiệp với Trương Văn Giao trông coi công việc Trường Đà.

Bỏ lệ cấm rượu ở các dinh. Năm ngoái vì mất mùa nên cấm nấu rượu, mùa này hơi được nên bỏ cấm.

Lấy phủ Ba Xắc cho nước Chân Lạp. Bọn quan Phiên là ốc Nha Vu Bông Sa, ốc Nha Phì Miệt Bông Sa, ốc Nha Liên Song Lam đệ thư của vua Xiêm đến xin đất Ba Xắc để cho bọn họ ở giữ, thu tô thuế để nộp cho vua họ là Nặc ấn. Vua thuận cho. Cho Nặc ấn một con ngựa đực, bọn Vu Bông Sa 2.000 phương gạo, 200 quan tiền, những thóc sưu các đồn điền còn thiếu đều miễn cả.

Mùa đông, tháng 10, ít mưa, sai các dinh thần cầu đảo.

Tháng 11, sai Tả quân khâm sai đốc chiến cai cơ là Vũ Công Bảo và Khâm sai cai cơ là Đoàn Văn Trí đem quân đi bắt voi ở các xứ Đồng Nai, Bà Rịa và Hỗn Thủy để nộp.

Chưởng Tả quân dinh là thiếu phó quận công Tôn Thất Huy chết. Huy theo sang Vọng Các. Đến lúc theo giá về Gia Định thì cùng các tướng chia đường đánh giặc, lập nhiều chiến công. Đến nay chết. Vua thương tiếc không nguôi, tặng Thái phó, thụy là Trung tĩnh, sai chi tiền công để hậu táng. Cấp cho 7 người mộ phu (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu, năm Minh Mệnh thứ 5 đổi tòng tự ở Thế miếu, năm thứ 12 phong An Tây công).

Sai Khâm sai tổng nhung Cai cơ dinh Trung quân là Nguyễn Đức Thành giữ đạo Tân Châu, kiêm quản hai đạo Hùng Thắng và Chiến Sai.

Tháng 12, giặc biển Chà Và lén đến bãi biển Hà Tiên. Sai Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn đem quân đánh dẹp. Bọn giặc nghe tin liền trốn xa. Vừa lúc Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng và Nguyễn Văn Thụy đi sứ Xiêm về, gặp giặc ở Hòn Cau [Lang Dữ], đánh nhau với giặc, chém hơn 30 đầu, bắt sống hai tên, lấy được một chiếc thuyền đem về hiến. Vua khen. Thưởng cho bọn Thụy mỗi người một chiếc áo chiến và 200 quan tiền, sai đưa tù bắt được sang Xiêm.

Các sách người Man ở Phố Châm, Ba Phủ, thuộc trấn Thuận Thành xin quy phục. Sai cai cơ Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh cùng với Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Hào đem phẩm vật của nhà nước đến cho. Tù trưởng là bọn điều khiển Cường bèn đem bộ lạc đến Gia Định bái yết. Vua cho gươm, yên ủi rồi bảo về. Quản đạo Ba Phủ là Chưởng cơ Cố cũng từ đất Hoàng Băng về theo. Sai chiêu phủ những người Man đầu hàng để chống giặc.

Vua bàn muốn cử đại quân đánh giặc. Nhưng vì kho chứa chưa đầy đủ mà chi tiêu việc quân lại rất rộng, bèn sắc cho các hạng binh dân, các cục tượng, các đồn điền, các trại nậu đều phải nộp thị túc mỗi người từ 1 phương đến 5 phương, theo bậc khác nhau.

Quý sửu, năm thứ 14 [1793] (Thanh ? Càn Long năm thứ 58), mùa xuân, tháng giêng, sắc dụ cho những quan quân dân thứ Gia Định, sai hữu ty niêm yết ở cổng Tiền vệ, hằng năm làm lệ thường, Sắc rằng : "Đạo trời một âm một dương, đạo người lúc loạn lúc trị. Nay vận nước nhân trời giúp, nguyện vọng hợp người theo, chính nghĩa như nhà Hạ khôi phục nghiệp cũ, nên đương mùa xuân ban bố mấy điều : Quan văn thì ở miếu đường mà mưu dẹp giặc, không cần đánh mà thắng được người, quan võ thì đem sức can thành mà chống giặc, ngăn chặn không cho giặc tiến lên, đều nên kính giữ quan châm, chớ sai quân pháp. Quân thủy gõ chèo quét giặc(1. Tổ Địch đời Tấn, đi qua sông gõ chèo thề rằng nếu không quét sạch Trung nguyền thì không trở về nữa.1), gắng tập giỏi hơn ở Côn Minh(2. Tên hồ ở Vân Nam, từng dùng để tập thủy chiến. 2); quân bộ uốn cung sai bắn trúng(3. Mệnh trúng : Sai bắn trúng : người bắn giỏi, sai bắn vào chỗ nào là bắn trúng ngay. 3), phải rèn luyện hơn đời Hiển Đức(4. Hiển Đức : Niên hiệu của nhà Chu thời Ngũ đại, năm Giáp dần kén binh nuôi quân tinh nhuệ không đời nào bì kịp.4). Đó là quân thì mạnh khỏe như thế; còn dân đông đúc thì sĩ nông công thương chuyên việc không nên biếng, ngư tiều canh mục chăm nghề mà phải siêng. Có của thường, có lòng thương, không ăn chơi, không lêu lổng. Phàm chơi là vô ích, sao hăng đánh cờ đánh bạc, không chuyển làm hăng rửa thẹn trả thù ? Chớ chơi đến quá lạm, sao cuộc chọi gà chọi cá, không đổi làm cuộc đánh giặc giúp vua ? Sắc dụ phải nghe, chớ sa lưới tội".

Đóng thêm các thuyền đại hiệu Long ngự, Long thượng, Long hưng, Long phi, Bằng phi, Phượng phi, Hồng phi, Loan phi, Ưng phi.

Ký lục Trấn Biên là Nguyễn Văn Hướng chết. Lấy Tham tri Lễ bộ Ngô Tòng Chu làm Ký lục Trấn Biên.

Triệu Hàn lâm viện chế cáo hành chức Ký lục Phiên Trấn là Nguyễn Đàn về; khởi phục cho Nguyễn Đăng Hựu làm Ký lục Phiên Trấn.

Lấy Trung quân thuộc nội cai đội là Mai Đức Nghị làm Vệ úy Ban trực tả vệ Thần sách, Hoàng Viết Toản làm Vệ úy Ban trực tuyển phong hữu, Nguyễn Kế Loát làm Vệ úy vệ Long võ, Trần Văn Tín làm Vệ úy vệ Hổ oai, Khâm sai tổng nhung cai cơ Trần Văn Nhàn làm chánh trưởng chi Hữu chi Hữu quân, Khâm sai thống binh cai cơ Trần Công Đề làm chánh trưởng chi Hữu chi Hậu quân, Trần Tiến Voi làm Phó trưởng chi.

Định thuế chiếu các dinh Phiên Trấn và Vĩnh Trấn. (Thôn Tân Cơ ở Phiên Trấn, thôn An Tịch ở Vĩnh Trấn, mỗi năm phải nộp các hạng chiếu là 185 đôi).

Tháng 2, triệu Lưu thủ Trấn Định là Khâm sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Đức Thiện về. Lấy Phó tướng Hậu quân là Khâm sai thống binh cai cơ Mạc Văn Tô làm Lưu thủ Trấn Định.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ quản Tả vệ là Phạm Văn Nhân làm phó tướng Tả quân kiêm tri Tàu vụ.

Đổi dinh Chấn Võ làm chi Chấn Võ thuộc Trung quân dinh, vẫn cho Phó tướng Tả quân là Nguyễn Long thống quản.

Lấy Khâm sai tham mưu Nguyễn Thái Nguyên làm Khâm sai tham mưu ở Trung dinh.

Miễn thóc sưu đồn điền năm nay cho dân Phiên ở đạo Kiên Giang.

Định cách thưởng người bắt trộm cướp. (Phàm nhân dân ai bắt được kẻ cướp, không kỳ nhiều ít, thưởng tiền 100 quan, bắt được kẻ trộm thưởng tiền 50 quan, bắt được kẻ cắp thưởng tiền 25 quan).

Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai người đảng đem 25 binh thuyền đóng giữ cửa biển Đại Chiêm để phòng quân ta. Thuyền gặp gió chìm đắm mất nhiều, có 2 thuyền của đô ty giặc (thiếu họ tên) và hơn 100 quân chạy vào Gia Định hàng phục. Vua vời đến hỏi, biết Nguyễn Văn Nhạc và Quang Toản nghi kỵ nhau, có ý nuốt nhau (năm ngoái Huệ chết, Nhạc từ Quy Nhơn đến viếng, vừa đến Quảng Ngãi, nghe tin Quang Toản sai 1.000 quân vào Quảng Nam, Nhạc ngờ, lại dẫn quân trở về), bèn quyết ý đánh.

Khâm sai tán lý điển quân chính của dinh Tiền quân cũ là Chiêu chết. Sai Hình bộ Nguyễn Văn Nghị đi Bà Rịa thay coi bộ thuộc, hiệp cùng cai cơ chi Túc oai là Nguyễn Văn Lợi quản quân dân đạo Hưng Phước và các sách thuộc man ở Phố Châm, để chia giữ những nơi hiểm yếu lợi hại.

Tháng 3, ngày Giáp dần, lập hoàng tử cả Cảnh làm Đông cung (14 tuổi), ban cho ấn Đông Cung. Sắc rằng : "Cha có con như trời có nguyên khí. Nguyên khí lớn lên, thì đạo trời mới thịnh. Họ có ngành như sông có nhánh, nhánh trên mà sâu, thì dòng sông càng xa. Cho nên thánh đế minh vương, đương lúc thái bình, còn nghĩ lập ngôi thái tử; huống nay đánh đông đánh tây, đương lúc dẹp loạn, há quên dựng người nối ngôi ! Nguyễn Phước Cảnh là con cả của nhà, là vua sau của nước. Học thì lo cầu văn chương lễ nhạc, gần theo những bực hiền lương; đạo thì lo tìm tâm pháp thánh hiền, nhờ cậy các quan sư phó. Tuy trạc tuổi hãy còn non trẻ, việc nên chăng chẳng khác mọi người; nhưng gian hiểm đã từng trải quan, lịch số trời tất ở con đó. Nay lập làm Đông cung Cảnh quận công, để thống nhất lòng dân, hợp lời nghị luận. Phải làm cho tâm đức xứng ánh sáng của Tiền tinh(1, 2. Tiền tinh là sao trước; Tiểu hải là biển nhỏ, đều chỉ ngôi Thái tử. 1); khiến cho người đời thấm ơn sâu của Tiểu hải(2). Mưu hay để cho con cháu, hoa vàng rõ như nhật nguyệt sáng thêm; điềm lành vun đắp cơ đồ, lịch ngọc dài như càn khôn muôn thuở. Cho làm nguyên súy lĩnh dinh Tả quân; chỗ ở cho gọi là Súy phủ (sau gọi là Tân phủ); văn thư trao xuống cho gọi là giáo".

Vua cho rằng Đông cung còn trẻ tuổi, muốn được thái phó thái bảo tốt để giúp, bèn dựng nhà Thái học, đặt một Đông cung phụ đạo, 2 thị giảng, 8 Hàn lâm thị học, 6 Quốc tử giám thị học, mỗi ngày hai buổi họp các quan đốc học ở nhà thái học để giảng bàn kinh sử. Phàm Đông cung nói gì làm gì, thị học phải ghi hết, mỗi tháng một lần tiến lên vua xem, để xem đức nghiệp tiến ích thế nào.

Lấy Hàn lâm viện chế cáo là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định làm Đông cung thị giảng.

Triệu Cai bạ Phiên Trấn quản Trường Đà là Nguyễn Tử Châu về; lấy Tham luận tri Đồ gia là Nguyễn Quang Diệu làm Cai bạ Phiên Trấn.

Lấy Khâm sai thống binh Chu Viễn Quyền là Phó Tuần hải đô dinh.

Chọn thêm những dân mới tục vào sổ ở phủ Kiến Hòa dinh Trấn Định 600 người khỏe mạnh sung bổ vào ngạch binh dinh Hậu quân.

Sai bọn ốc Nha Đầu Rồng Sông Sàm (người Chân Lạp) chiêu tập dân Man sung bổ vào đội Xiêm hầu.

Sai Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng phụng sứ sang Xiêm. Trước là ở Bắc Hà nghe tin giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ chết, nơi nơi đều nổi dậy, cùng tôn Lê Duy Vạn (con Lê Hiển tông) lên làm minh chủ. Duy Vạn bèn sai thuộc hạ là bọn Cai cơ Chấn bảy người đưa thư hẹn ta cử binh để trong ngoài ứng nhau. Chấn mượn đường thượng đạo đi sang Xiêm, người Xiêm đưa sang ta, giữa đường bị giặc biển Chà Và bắt đem bán ở Hạ Châu(1. Hạ Châu : Xingapo hay Tân Gia Ba. 1). Vua nghe tin ấy, ủy cho người Tây buôn là An Tôn Ngâm Bô chuộc về. Đến đây cho về Bắc, vì đường biển nhiều cản trở, nên sai Tiến Lượng đưa thư sang Xiêm để đưa Chấn theo đường thượng đạo mà đi.

Triệu Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Văn Nhân về; lại lấy Chưởng cơ Nguyễn Văn Nghĩa làm Lưu thủ Trấn Biên.

Mùa hạ, tháng 4, vua cho rằng kỳ hạn ra quân đã gần đến, gọi hết tướng sĩ các dinh quân thủy bộ họp lại, định ngày tiến phát. Sắc rằng các phủ binh đi trận được miễn thuế thân năm nay. Cha mẹ vợ con ở nhà gặp sự tang ma thì lý dịch phải giúp đỡ. Sáu trăm binh người Phiên ở Trà Vinh ứng lệnh tòng chinh cũng được miễn thóc thiếu năm trước và thóc sưu năm nay. Cho Chưởng Tiền quân dinh Tôn Thất Hội làm Khâm sai bình Tây đại tướng quân, quản Hậu quân dinh Võ Tánh làm Khâm sai chưởng Hậu quân dinh bình Tây tham thặng tướng quân, quản Hữu quân dinh Nguyễn Hoàng Đức làm Khâm sai chưởng Hữu quân dinh bình Tây phó tướng quân, quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai bình Tây tiền tướng quân.

Đặt ba dinh Trung Thủy, Tiên Thủy và Hậu Thủy, lấy Chưởng cơ Hồ Văn Lân quản chi Trung thuận dinh Trung thủy, Cai cơ Nguyễn Văn Huấn quản chi Tiền thuận dinh Tiền thủy, Nguyễn Thoan cai quản chi Hữu thuận dinh Hậu thủy.

Vua thân đi đánh Quy Nhơn, để Đông cung Cảnh ở lại trấn giữ Gia Định, lấy Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân và Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm giúp việc.

Sai Tôn Thất Hội điều bát bộ binh các đạo tiến đánh Phan Rí, Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Văn Thành đều thuộc theo. Lại sai Cai cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Hào, Chưởng cơ đạo Ba Phủ là Cố, điều khiển là Cường, đều đem quân man theo đường thượng đạo thẳng tới Phan Rang, đợi bộ binh đến thì ứng theo sai bát.

Thuyền vua ra cửa biển Cần Giờ. Sai Nguyễn Văn Trương và Võ Di Nguy đem thủy quân các vệ đi trước, Võ Tánh theo ngự giá, Hộ bộ Phan Thiên Phước và Tham tri Nguyễn Đức Chí chia coi thuyền lương đi theo cấp cho các quân thủy bộ.

Tháng 5, thuyền vua tiến đến Vũng Tàu, Phan Rang. Sai Đô đốc quản chi Hùng võ là Nguyễn Kế Nhuận đánh bảo Mai Nương. Quân giặc nghe tin chạy trốn trước. Bèn lưu đạo binh thuyền của vệ úy vệ Long võ là Nguyễn Hiên đậu ở đấy để chờ bộ binh.

Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Nha Trang. Sai Hiệu úy Tiền chi Trung quân là Nguyễn Văn Đắc, Hiệu úy Tả chi là Vũ Văn Lượng đánh bảo Hoa Bông. Quân giặc bỏ chạy. Lấy lại được phủ Diên Khánh. Lại sai Võ Tánh đem quân ba vệ Tuyển phong tả, Ban trực hậu và Hổ oai tiến thẳng đến phủ Bình Khang.

Thuyền vua tiến đóng ở vụng Hòn Khói [Yên Cương]. Quân giặc nghe tin, không đánh tự vỡ. Chỉ huy Trí (không rõ họ) chạy về Quy Nhơn. Quân và tướng còn lại đều đầu hàng. Lấy lại được phủ Bình Khang. Ra lệnh cho các tướng đầu hàng đều giữ ngạch binh như cũ, nhóm họp quân của mình và những bại binh tàn tốt của Tây Sơn, đều lệ thuộc vào dinh Hậu quân để sai bát.

Đặt quan công đường dinh Bình Khang, lấy quản Hậu thủy dinh là Nguyễn Thoan làm Lưu thủ, Hình bộ tham tri Lê Đăng Khoa làm Cai bạ, Hàn lâm viện Đặng Hữu Đào làm Ký lục. Dụ rằng : "Quân của vương giả đến đâu là cầu cho dân yên. Nơi này khổ vì giặc Tây Sơn tàn ác đã lâu, nhân dân khó sống. Trước đã có lệnh cấm trấp, không được phạm mảy may. Nhưng vì quân nhiều, sợ có kẻ ra ngoài pháp luật. Từ nay quan quân người nào tự tiện đến các làng xóm cướp bóc tiền của, không kể nhiều ít, đều phải chấp hành quân pháp, để dân được yên". Lại thấy trong quân có những binh người Đường [Hoa Kiều], người Tây, người Xiêm La, tính tình hung hãn, khi say rượu thì khó ngăn giữ, nên cấm các hàng quán ở chợ không được bán rượu, trái lệnh phạt 50 roi".

Bộ binh của bọn Tôn Thất Hội đánh bảo Phan Rí. Đô đốc giặc là Hồ Văn Tự lui giữ Mai Nương, quân ta đuổi theo. Tự đem quân theo thượng đạo Sâm Lô chạy trốn. Lấy lại được phủ Bình Thuận. Tin báo đến hành tại, vua sai chạy dụ giục bọn Hội phải tiến quân mau chóng để hội với

thủy quân.

Đặt quan công đường dinh Bình Thuận, lấy Khâm sai thống binh cai cơ Hữu quân là Trần Văn Búa làm Lưu thủ, Hàn lâm viện chế cáo Nguyễn Đàn làm Cai bạ, Hàn lâm viện Hồ Văn Giao làm Ký lục. Dụ sai theo sổ đinh sổ điền thuộc hạt và ở Thuận Thành mà thu tô thuế như lệ năm Nhâm tý, để cung cấp lương quân (tiền thuế nộp thay bằng gạo). Sai Tham luận đạo Thanh Châu là Lê Đình Kiêm đốc thu tô thuế hai phủ Bình Khang và Diên Khánh.

Tôn Thất Thăng từ Phú Xuân đến. (Thăng là con thứ 18 của Thế Tông). Đầu là khi Duệ Tông và Nam, Thăng vì còn nhỏ không được đi theo, bị giặc bắt. Đến đây nghe biết vua thân đánh Quy Nhơn, bèn cùng Tôn Thất Liêm (con Chưởng cơ Tôn Thất Văn) lẻn vượt biển trốn đến quân thứ Hòn Khói. Đến nơi vua vừa mừng vừa thương, cầm tay rỏ nước mắt nói : "Vì nhiều biến cố, thân thích lìa nhau, không ngờ ngày nay lại còn được thấy nhau, thế không phải là hồng Phước của tiên vương khiến cho nguy mà lại may, nan mà lại yên sao ?". Bèn đặt yến tiệc, trọn vui mới thôi. Rồi gia cho Thăng làm quốc thúc(1. Quốc thúc : Chú của vua.1) Chưởng cơ Liêm làm Khâm sai cai đội.

Sai đốc chiến cai cơ chi Chấn Võ là Mai Tiến Vạn đem quân sở bộ đến thượng đạo Phú Yên để đặt phục binh ở nơi hiểm mà chặn đường giặc chạy.

Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Xuân Đài. Sai Võ Tánh đem quân đánh bảo La Thai(2. La Thai : Tức là La Hai. 2). Tham đốc giặc là Phạm Văn Điềm thua chạy. Ta cướp hết lương thực. Lấy lại được phủ Phú Yên. Báo tin thắng trận. Vua khen ngợi, thưởng cho tướng sĩ 300 quan tiền, 150 chiếc áo chiến, sai đặt bảo ở chợ Hội An, lượng để quân phòng thủ.

Đặt quan công đường dinh Phú Yên, lấy Phó Trung thủy dinh là Nguyễn Văn Nhân làm Lưu thủ, lấy hàng thần là Tuần phủ Nguyễn Y Mân làm Cai bạ, Văn giáp tham mưu là Nguyễn Văn Diệu làm Ký lục.

Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Thị Nại. Sai Võ Tánh đem quân các vệ đánh bảo giặc ở chợ Thị Nại, lấy được.

Tháng 6, Võ Tánh đánh vỡ quân giặc ở cầu Tân Hội. Giặc lui về úc Sơn, giữ chỗ hiểm đặt quân phòng thủ. Quân ta tiến đến cánh đồng Bình Thịnh. Giặc Nguyễn Văn Nhạc sai con là Nguyễn Văn Bảo (ngụy xưng là Tiểu triều) đem quân tinh nhuệ và voi đực ra thành đánh. Quân ta đánh cho chạy. Vừa gặp bộ binh của bọn Tôn Thất Hội theo hai đường Hà Nha và Cù Mông kéo đến. Giặc Nguyễn Văn Bảo bèn đặt liền đồn trại từ Thổ Sơn đến úc Sơn để chống quân ta.

Vua mật bảo Tôn Thất Hội ở gò Phú Quý, dùng dân phụ cận gỡ gai chặt cây giả cách làm đường sạn đạo, rồi đến đêm cùng Nguyễn Văn Thành dẫn quân ngậm tăm ngầm vượt Kỳ Sơn, họp với đạo quân Võ Tánh để đánh úp sau lưng giặc. Giặc đương lúc chẳng ngờ, quân và voi tán loạn, giày xéo lẫn nhau, chết không xiết kể. Lại sai Vũ Văn Lượng đem quân Tả chi đánh vào trước bảo úc Sơn, phóng lửa đốt trại lán. Thuộc nội cai đội Lê Văn Duyệt đem quân sở thuộc lên núi xông đánh. Giặc thua chạy. Ta bắt được súng ống khí giới rất nhiều. Nguyễn Văn Bảo cùng tướng giặc là bọn đô đốc Đào Văn Hổ lui về thành Quy Nhơn. Các bảo giặc ở Phú Trung, Tân An, Lam Kiều, Thạch Yển đều về ta cả, do đó quân ta thủy bộ thông nhau. Thưởng cho quân Tả chi 1.000 quan tiền.

Hạ lệnh chiêu an. Sai Cai bạ tri Trường Đà là Nguyễn Tử Châu đem 20 người quân túc trực xem xét các quân thủy bộ, có kẻ nào phạm cấm mà cướp bóc, bị dân tố cáo, xét đúng thì dùng ngay quân pháp để xử, không đợi phải bẩm lên.

Bắt những dân tráng ở hai dinh Phú Yên và Bình Khang, mỗi người đều đem một tháng lương, đi theo Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân và Cai bạ Lê Đăng Khoa đến quân thứ để chia đóng đồn. Lại hạ lệnh cho Bình Khang chiêu tập những binh ngạch súng đội cũ (giỏi bắn đại bác) để theo quân đánh giặc.

Sai Nguyễn Văn Trương quản 20 chiếc binh thuyền tiến đóng ở bãi biển xã Phường Mới để ngăn chặn thuyền giặc.

Giặc Nguyễn Văn Nhạc sai tướng là đô đốc Đẩu (không rõ họ) đem 4.000 quân mạnh giữ bảo Khố Sơn (Bảo dựng ở núi Càn Dương là nơi phủ mới của Nhạc, cùng với thành Quy Nhơn làm thế dựa nhau).

Vua thân đốc cấm binh chia sai các tướng tiến đánh. Giặc dựa chỗ cao bắn súng, đan xuống như mưa, quân ta không thể tiến được. Có Trần Công Hiến người Quảng Ngãi đến xin phục vụ, xin lẩn vào trong thành giặc để làm nội ứng. Vua cho. Sai Nguyễn Đức Xuyên tới trước thành gọi binh

giữ thành của giặc mà bảo rằng : "Nay các thành đã bị quân vua lấy được cả, thế của Nhạc khốn bách, phải lui giữ cô thành. Đại binh bốn mặt vây đánh, chẳng mấy ngày sẽ hạ được. Các người muốn vì tên Đẩu giữ thành này để tự chuốc lấy chết hay sao ?" Binh nghe nói, không bắn súng nữa. Quân ta thúc trống reo hò tiến lên. Hiến xung đột ở trong thành, quân giặc chạy tán loạn tứ tung. Đẩu trốn thoát. Bắt được chỉ huy Trí đem giết, còn bao nhiều đều khoan xá cả. (Trí trước giữ phủ Bình Khang tàn ngược nhân dân, người ta đều oán. Đến khi trốn về, lại chống cự quân vua, cho nên kể tội rồi giết đi).

Trong trận này, quân ta thu được đại bác đồng và gang 35 cỗ, thuyền biển hơn 80 chiếc, voi ba thớt, gạo lương một kho, cá mắm một kho, súng tay và khí giới không xiết kể. Hiến được trao chức cai cơ, sai về Quảng Ngãi mộ được hơn 700 người thổ binh bổ làm chi Hiệu nghĩa.

Quan quân dân thứ Quảng Ngãi đều biểu xin quân vua tiến ra, họ sẽ ứng theo đánh giặc. Vua sai truyền dụ rằng : "Những người trung nghĩa

đời nào chẳng có ! Các ngươi chán Vương Mãng nhớ họ Lưu, tấm lòng ấy thật đáng khen. Vả nay quân nhà vua thẳng đến Quy Nhơn, đã dẹp yên miền ấy và bốn mặt vây thành. Tên Nhạc kia cũng chẳng kẻo như Côn Dương(1. Tên một huyện thời Hán (Trung Quốc), nay là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam. Xưa vua Quang Vũ nhà Đông Hán đánh bại quân Vương Mãng ở đó.1) nước ngập, binh sĩ tự tan, như Tuyên Thất(2. Một cái cung của nhà Ân, khi Vũ Vương đánh được Trụ, bắt treo cổ giết ở cung ấy.2) lửa bùng, trơ nhìn chuôi đẩu. Ta sẽ sai một đạo quân đến cứu sống phủ các ngươi để chặt cánh tay phải của giặc và để yên ủi lòng dân. Các ngươi nên hiệp lực đồng tâm, khi nghe tin quân đến thì ứng theo ngay. Quan quân thì quay giáo đánh đàng sau, dân chúng thì chém cây làm khí giới, một là để trả ơn cho đất nước, một là để rửa hận cho cha anh. Thấy nghĩa làm ngay, thành công hẳn được. Các ngươi gắng lên".

Sai các đạo quân Tôn Thất Hội, Võ Tánh, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Thành tiến sát đến ngoài thành Quy Nhơn, dăng Trại để vây. Giặc Nguyễn Văn Nhạc sai bọn đô đốc Đào Văn Hổ đóng đồn ở các xứ Dê Phụ, Ngạc Trì, Tam Tháp để cùng ta chống cự.

Vua muốn dùng phép "thả diều phóng lửa" của nước Tây để đánh đốt thành giặc. Nhưng lại lo cho nhân dân trong thành, phần nhiều bị giặc ức hiếp bắt theo, sợ khi "thành cháy vạ lây" có chỗ không nỡ. Sắc cho các quân không nên đánh gấp, để cho dân tự ra.

Mùa thu, tháng 7, vua thân đốc binh thuyền tiến đến cửa biển An Dụ. Sai bọn Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân, Nguyễn Đức Thiện chia quân làm ba đạo tiến đánh trường ván Lệ Dương, bọn giặc vỡ chạy, quân ta bắt được 30 chiếc thuyền biển mới đóng, còn thuyền sai, thuyền chiến cùng gỗ ván thì đốt cháy hết.

Tướng giặc là bọn Đô đốc Trung dũng đạo Nguyễn Công Thái, Cai bạ kiêm Công bộ Trần Văn Thái, Vệ úy các vệ Hổ hầu Hổ dực Nguyễn Văn Chinh, chỉ huy Đào Văn Lương và Nguyễn Văn Phát, đem hơn 300 quân đến đầu hàng.

Quản sáu đạo Quảng Ngãi là Nguyễn Tiến Lộc, Trần Công Chủ đến cửa quân xin theo để phục vụ. Đều trao cho chức Chưởng cơ, theo dinh Trung quân sai bát.

Lại cho Nguyễn Đức Thiện làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, quản chi Hiệu nghĩa, tiến giữ sông Trà Khúc phủ Quảng Ngãi, phàm những quan và binh ứng nghĩa trong hạt đều theo quyền quản hạt. (Đức Thiện trước nhân có lỗi bị giáng làm thuộc nội cai cơ).

Vua lại đem quân về cửa biển Thị Nại, rồi đến cầu Thạch Yển hạ lệnh cho quân các đạo dùng hỏa xa đại bác(1. Đại bác của người Tây có bánh xe để di động như xe.1) đánh thành Quy Nhơn. Quân giặc trong thành ấy còn hơn 10.000 người, Nguyễn Văn Nhạc cố chết giữ, đánh mãi không hạ được thành. Quân ta lại đánh bảo Dê Phụ, bắt được đô đốc giặc là Đào Văn Hổ, các tướng hiệu đều hàng. Quân giặc ở Ngạc Trì nghe tin sợ chạy. Trong thành chỉ còn một bảo Tam Tháp mà thôi. (Hổ sau nhân sơ hở lẩn trốn, sau bắt được giết).

Sai Cai cơ là Phùng Văn Nguyệt, Tham luận Lê Đình Kiêm đốc thu tô thuế phủ Quy Nhơn.

Sai Hình bộ Nguyễn Văn Nghị thay Nguyễn Tử Châu tra xét những quân thủy bộ phạm pháp.

Tháng 8, quân ta vây thành Quy Nhơn đã lâu, giặc Nguyễn Văn Nhạc thế cùng, sai người báo cấp với Phú Xuân, Nguyễn Quang Toản sai đảng là Thái úy Nguyễn Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn, Tư lệ Lê Trung, Tư mã Ngô Văn Sở đem bộ binh 17.000 người, voi 80 thớt cùng Đô đốc Hố và Chưởng cơ Thiêm (đều không rõ họ) đem hơn 30 chiếc binh thuyền, đại cử vào cứu viện. Bộ binh tới sông Trà Khúc thì đánh nhau với quân ta. Chưởng cơ Trần Ngọc Chử chết ở trận, Nguyễn Đức Thiện lui giữ đèo Cung Quăng (chỗ tiếp giới Quảng Ngãi và Quy Nhơn). Tin báo lên, Vua sai Nguyễn Văn Thành thống lĩnh hơn 8.000 quân các vệ tiến Bến Đá [Thạch Tân], chia đóng ở các ngả đường trọng yếu Sa Lung [Lòng Cát] và Hôn Cốc [Hang Tối], Đô đốc Nguyễn Kế Nhuận đem chi Hùng Võ, Nguyễn Công Thái đem chi Hiệu Trung, đều theo Thành điều khiển. Dụ rằng : "Việc đánh giặc Quảng Ngãi giao cả cho khanh. Phải làm thế nào để ngoài thì ngăn được quân giặc, trong thì giữ được nhân dân, mới xứng trách nhiệm can thành"(2. Can thành : Can qua và thành quách, chỉ vũ khí và thành để bảo vệ đất nước. 2). Lại nói : "Trong bọn hàng tướng có Nguyễn Công Thái là người trọng hậu, lão luyện về việc binh, khanh nên khéo đối xử, đừng coi như

mọi người".

Thủy binh giặc đóng ở cửa biển Đại áp.

Vua sai Cai cơ quản Tiểu sai đội là Trương Phước Luật quản hơn hai chục chiếc binh thuyền túc trực ban trực tiễn đến Thái Cần, đánh cướp được 7 chiếc thuyền lương của giặc, thừa thắng đến cửa Đại áp đốt thủy trại. Đô đốc Hố chạy về Đại Chiêm (Thái Cần, Đại Chiêm đều là tên cửa biển). Bộ binh của giặc lui giữ sông Vệ. Nguyễn Văn Thành xin tiến đánh. Vua dụ rằng : "Sách binh pháp nói : trước hãy đứng ở chỗ không có thể thắng để đợi khi có thể thắng, hãy giữ vững mình rồi sau mới đánh người. Hãy bền giữ đồn trại, không nên đánh gấp, đợi lúc cô thành đã nhổ được rồi sẽ hợp sức đuổi dài, thế mới là mưu hay vạn toàn".

Vua thấy quân ta bắt được nhiều thuyền biển của giặc, ra lệnh cho các quan quản thủy quân cứ theo ngạch thủy quân cũ ở hai phủ Quy Nhơn và Phú Yên cùng dân hạ bạn các thuộc Võng Nhi và Hà Bạc, ghi hết vào sổ để sung bổ thủy quân.

Sai Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân trở về Phú Yên đắp bảo La Thai, dựng kho tạm trữ thóc thuế để sẵn lương thực cho quân.

Triệu Tham tri Hình bộ hành cai bạ Bình Khang là Lê Đăng Khoa đến hành tại. Lấy Cai bạ Phú Yên là Nguyễn Y Mân làm cai bạ Bình Khang.

Có tên lính giặc từ sông Vệ đến đầu hàng, quân tiền du Lục đạo đã cướp lấy của lại cắt cả tai. Vua nghe tin, sai chém kẻ phạm tội để răn. Lại dụ Nguyễn Văn Thành rằng : "Nó dù là đảng giặc mà biết bỏ chỗ tối tới chỗ sáng như thế, há không động được lòng người sao mà lại cắt đứt con đường chạy lại của người ta ? Vả quân Lục đạo chưa quen kỷ luật, từ nay nên lấy quân các vệ làm tiền du, quân Lục đạo làm hậu ứng. Phàm có quân hay tướng giặc quy hàng, tức thì đưa đến hành tại, không được ngăn trở quấy nhiễu".

Cấp 5 người từ phu giữ đền thờ cho Cai cơ Nguyễn Văn Hiền là cha Nguyễn Văn Thành, đó là theo Thành xin.

Tháng 9, vua thứ hai nước Xiêm La cùng với đại tướng là Phi Nhã Chất Tri đem quân sang giúp ta, quân bộ 5 vạn đóng ở Nam Vang, chiến thuyền 5 trăm đậu ở Hà Tiên, khiến sứ mang thư đến Gia Định. Quan lưu trấn dùng lễ vật khoản đãi rồi đưa sứ giả đến hành tại.

Vua sai trả lời, đại lược nói tiết trời gần mùa gió bấc, đường thủy không tiện. Quân Xiêm bèn kéo về.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản phát thêm viện binh do đường thượng đạo Sa Lung kéo vào, thế quân rất thịnh.

Vua mật bảo Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Đức Thiện lui về hành tại.

Vua thấy quân ta vây thành phải chống giặc hai mặt, mà tướng sĩ thì lâu ngày mỏi mệt, lại gặp mùa mưa, bèn ra lệnh cho các tướng rút quân về.

Thuyền vua từ cửa Thị Nại về đóng ở cửa Xuân Đài. Bọn Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương đều đem thủy binh đi theo.

Sai Tôn Thất Hội lấy bộ binh ở lại trấn thủ Phú Yên, Nguyễn Hoàng Đức quản hai chi Túc Oai và Kiến Võ giữ trung đạo La Thai, Nguyễn Long cai quản chi Chấn Võ giữ thượng đạo Thạnh Thành, Vũ Văn Lượng và Nguyễn Văn Nhân quản 36 chiếc sai thuyền giữ hạ đạo Vũng Lấm [Lấm áo], đều do Hội điều bát.

Cho Nguyễn Long làm Khâm sai thượng đạo tướng quân.

Lại cho Vũ Văn Lượng làm Khâm sai tổng nhung cai cơ. (Lượng trước bị lỗi, giáng làm Khâm sai cai đội).

Thuyền vua đến cửa biển Nha Phu.

Đắp bảo Mông Phụ [Gò Xoài] ở Bình Khang. Vua đến xem. Bảo đắp xong, sai Nguyễn Văn Thành ở lại giữ.

Đặt nhà trạm và kho tạm từ Bình Thuận vào Nam (Bào Lạp 1 nhà trạm, Cựu Dinh 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 1.000 phương gạo, Y Na 1 nhà trạm, dinh Bình Thuận 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 500 phương gạo, Vị Nê 1 nhà Trạm, Phan Thiết 1 nhà trạm, Ma Li 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 500 phương gạo, Phù Mi Thượng 1 nhà trạm, Xích Lam 1 nhà trạm, Hưng Phước 1 nhà trạm, 1 kho tạm chứa 1.000 phương gạo).

Sai Võ Tánh quản năm vệ Ban trực tả, hữu, Tuyển phong tả, hữu và Long võ, cùng bệnh binh các vệ và các tướng tốt mới đầu hàng, đi chiến thuyền về trước Gia Định, Nguyễn Văn Trương đem thủy quân đậu ở cửa biển Cù Huân để đợi ngự giá. Ngự giá về Diên Khánh. Thấy bảo cũ Hoa Bông địa thế tốt, đánh hay giữ đều tiện, bèn sai các quân và phát 3.000 dân Bình Thuận, 1.000 dân Thuận Thành khởi đắp trọn một tháng thì thành xong, gọi là thành Diên Khánh (Tức là tỉnh lỵ Khánh Hòa ngày nay, thành cao 1 trượng, chu vi hơn 510 trượng, mở sáu cửa, đông và nam đều một cửa, tây và bắc đều hai cửa, trên cửa có lầu, bốn góc có cồn đất).

Triệu Lưu thủ Bình Khang là Nguyễn Thoan và Ký lục là Đặng Hữu Đào đến hành tại, lưu Cai bạ Nguyễn Y Mân hiệp theo Nguyễn Văn Thành để biện lý các việc ở dinh.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết. Tướng giặc là Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Huấn, nhân quân ta đã lùi, bức Nhạc mà giữ lấy thành, Nhạc tức giận phát bệnh chết. Quang Toản phong con Nhạc là Nguyễn Văn Bảo làm Hiếu công, cắt huyện Phù Ly cho làm thực ấp. ý Bảo rất bất bình, mẹ Bảo nói khích rằng : "Mở mang bờ cõi đều là công của cha mày, nay Quang Toản cho mày ăn lộc một huyện, thà chết còn hơn chịu nhục". Bảo bèn cùng Quang Toản thất hòa.

Mùa đông, tháng 10, Tôn Thất Hội dâng biểu nói : "Mùa mưa lụt, nước sông Đà Diễn chảy gấp, sợ quân giặc lấn vào, tiến thoái đều khó, xin lùi về sông Bàn Thạch mà đóng".

Vua dụ quở rằng : "Hiện nay đối với Xã Tắc và nhân dân, mối lo của ta tức là mối lo của khanh vậy. Đất Phú Yên là nơi đứng mũi chống giặc, được khanh ở đó ta mới yên lòng. Thế mà khanh là đại tướng trấn nơi trọng yếu, thấy giặc nhòm ngó mà đã sợ không dám tiến, lại vô cớ muốn lui quân, chẳng phải là tự mình tỏ ra hèn yếu để cho giặc cười sao. Huống chi thượng đạo thì có Nguyên Long, hạ đạo thì có Nguyễn Văn Nhân, đủ giúp đỡ nhau. Nếu giặc đến mà chống không nổi, bấy giờ lui cũng chưa muộn. Nay nếu sợ giặc mà muốn lánh thì đem đầu về hiến, tự có tướng khác thay ngay. Ta nghe khanh ở trong quân ngày đêm say mềm, nếu quân giặc biết, há chẳng hỏng việc ư ? Lại nghe quân sĩ xuống làng cướp phá, không ngăn cấm được, lỗi ấy ở ai ? Phép đáng trị nặng, nhưng e người ta bàn tán nên hãy tạm tha. Từ nay phải nghiêm thêm tướng lệnh mà giữ yên lấy dân trong hạt, cũng như Doãn Đạc(1. Doãn Đạc vâng lệnh Triệu Giản tử ra giữ ấp Tấn Dương, xin làm phên giậu giữ dân, chính khoan thuế nhẹ. Sau họ Triệu bị Trí Bá đánh phải chạy ra Tấn Dương, được nhân dân ủng hộ, nhờ đó họ Triệu mới lập mưu giết được Bá Cao.1) nước Triệu giữ đất Tân Dương, á Phu(2. Chu á Phu là một tướng quân đời Hán Văn Đế, khi đóng quân ở dinh Tế Liễu chống giặc Hung Nô; vua đến dinh không có lệnh nên quân không mở cửa thành, sau ra lệnh, xa giá vua mới được vào. Quân luật rất nghiêm minh, mọi người đều phục. 2) nhà Hán đóng đồn Tế Liễu, để xứng với trách nhiệm được ủy thác".

Tù trưởng Man ở Đồng Hương phủ Bình Khang đến hành tại bái yết; ban cho y phục, cho lệ theo Cai cơ Nguyễn Văn Quế trở về thượng đạo, tập họp dân Man để đặt đồn phòng giữ.

Đặt 25 người miếu phu cho Văn Miếu Bình Khang.

Truy cấp 3 người mộ phu cho trấn thủ Bình Khang là Nguyễn Kế (Năm ất mùi, Kế trấn giữ Bình Khang, đánh giặc chết trận, tặng Chưởng dinh).

Truy lục các tướng sĩ chết về việc nước ở hai phủ Diên Khánh và Bình Khang. Dụ rằng : "Báo đức đền công là điển hậu của nhà nước. Từ thuở Tây Sơn gây loạn, hai phủ Bình Khang, Diên Khánh, cho đến miền thượng đạo, những người theo nghĩa lập công, vì nước bỏ mình, thực là không ít. Trong buổi can qua bận rộn chưa kịp ghi công. Quan công đường phủ Bình Khang các người nên truyền khắp cho dân trong hạt biết rằng, phàm từ năm Kỷ dậu tới nay người nào hoặc chịu chỉ sai chỉ truyền mà chiêu lập nghĩa binh, hoặc theo quan quân thượng đạo đánh giặc mà bị Tây Sơn giết, chết vì việc nước, thì cho cha mẹ anh em vợ con cứ thực bày tỏ, lại hỏi rõ con cái anh em người ấy, chọn lấy một người thân nhất biên rõ họ tên, làm sổ chuyển nộp, để tiện tùy công mà lục dụng".

Triệu Nguyễn Văn Thành về giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức thay giữ Bình Khang.

Vua đem quân về Gia Định. Khi thuyền ra biển, gió to nổi. Thuyền đi theo của Tham tri Hộ bộ Nguyễn Đức Chí và Cai đội túc trực Lưu Văn Trung bị lật chìm. Vua bèn ra lệnh cho các quân lên bộ mà về.

Khiến Khâm sai cai cơ Trần Phước Chất sang Xiêm báo tin thắng trận. (Tặng Phật vương một chiếc thuyền rồng, hai cây hoa vàng bạc, mười lạng ký nam, sáp ong và đường cát đều 500 cân. Cho vua thứ hai 2 cây hoa vàng bạc, sáp ong và đường cát đều 500 cân).

Tổ chức những quân lạc tòng và các tướng sĩ mới hàng làm ba vệ Uy võ, Trung kích và Tiền kích dinh Hậu quân, lấy Khâm sai cai cơ Võ Di Minh làm chánh vệ vệ Uy Võ.

Đổi vệ Thần sách làm quân Thần sách, các đội Ban trực tiền, tả hữu, hậu làm bốn vệ tiền, tả, hữu, hậu, các đội Ban trực tuyển phong tiền, tả, hữu, hậu làm bốn vệ tiền, tả, hữu, hậu, các đội Túc trực làm vệ Túc trực, đều lệ vào quân Thần sách.

Tháng 11, vua nghĩ quân cấm vệ theo đi đánh trận đã lâu ngày, ra lệnh cho chia làm hai phiên để nghỉ ngơi, cứ 15 ngày một hạn, hết hạn lại đến hàng ngũ.

Lấy thuộc nội cai đội là Thái giám Lê Văn Duyệt làm thuộc nội vệ úy. Duyệt là người Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi, sinh ra thiếu bộ phận sinh dục, đầu sung làm chức Thái giám, từng đem quân sở thuộc theo ra trận, trầm mặc đánh giỏi. Đến nay vì tòng chinh có công được trao chức này.

Đặt vệ Hùng võ quân Thần sách, lấy quân ba đội của vệ Ban trực tuyển phong hậu mà quê ở Bắc Hà sung bổ vào. Sắc rằng phàm các chi hiệu vệ đội các quân có người Bắc Hà đều khiến trích bổ vào. Lấy Thuộc nội nội cai đội Nguyễn Đức Xuyên làm Vệ úy, Trần Văn Huy làm Phó vệ úy.

Sai hàng thần là Cai bạ Trần Văn Phái hiệp với Cai cơ Nguyễn Đức Giảng và Cai đội Phan Văn Tào coi các việc đồ gia và cục tượng.

Sai kén phủ binh ở Bình Thuận và Bình Khang, theo như phép ở Gia Định. Rồi lại cho rằng việc mới bắt đầu, bèn theo nguyện vọng của dân mà lập hương binh, chọn người có thể cáng đáng trông coi, có việc thì gọi ra.

Triệu Cai bạ Bình Thuận là Nguyễn Đàn về; lấy Tham luận đạo Thanh Châu là Lê Đình Kiêm thay.

Lấy Binh bộ Trương Đức Khoan làm Cai bạ Hộ bộ quản Trường Đà, Nguyễn Tử Châu làm Binh bộ, Hàn lâm viện chế cáo Hoàng Minh Khánh làm Tả tham tri Hộ bộ, Tri bạ Chính dinh Nguyễn Văn Mỹ làm Tả tham tri Hộ bộ, Câu kê tri Đồ gia Nguyễn Kỳ Kế làm Hữu tham tri, Trần Phước Tuy làm Tả tham tri Binh bộ, Đông cung thị giảng Lê Quang Định làm Hữu tham tri, Nguyễn Cửu Hanh làm Tham tri Lễ bộ.

Sai Khâm sai thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tri Tượng chính là Trương Phước Luật kiêm quản Trường Đà.

Lấy Hậu quân Khâm sai cai cơ là Mai Văn Huệ làm Chánh vệ vệ Hùng phong, Nguyễn Phượng Giao làm Chánh vệ vệ Nghị võ, Tả quân Khâm sai cai cơ là Nguyễn Văn Kỷ làm Chánh vệ vệ Thần võ, Hữu quân Khâm sai cai cơ là Nguyễn Công Thắng làm Chánh vệ vệ Võ dũng.

Tổ chức quân Lục đạo Quảng Ngãi làm ba đội Trung võ, Tả võ, Hữu võ hiệu Quảng Vũ dinh Trung quân, lấy Khâm sai cai cơ đội Trịnh Quang Chiêu làm trưởng hiệu để quản suất.

Sai Cai đội Quàng Nói Vè, đội trưởng Pa Đơ Chê (đều là người Tây) sang thành Cô á(1. Cô á : Thành Goa ở ấn Độ, thuộc địa của Bồ Đào Nha.1) và xứ Mã La Kha(2. Mã La Kha : Tức là Malacca. 2) để tìm mua đồ binh khí.

Lấy Nguyễn Văn Khiêm làm Hàn lâm viện thị học.

Triệu Nguyễn Văn Thành về. Sai Đông cung nguyên soái Cảnh quận công trấn thành Diên Khánh, cho Bá Đa Lộc và bọn thị học đi theo. Khiến Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm, Lưu thủ cai cơ quản suất Trấn Định là Mạc Văn Tô, Cai cơ đạo Tân Châu là Nguyễn Đức Thành cùng các tướng sĩ đi theo để điều bát. Khi đi nhà vua dụ Đông cung rằng : "Đất Diên Khánh bốn mặt đều là chiến trường, dân chúng lầm than lắm rồi. Ta ngày đêm vất vả, nếm đủ đắng cay mới giành được miếng đất ấy. Con nên chuyên tâm, trong giữ yên dân, ngoài lo chống giặc, để đáp tấm lòng mong mỏi của dân và khiến quân giặc phải sợ. Con phải gắng làm như chính ta trông thấy". Lại nói : "Đế vương từ xưa chưa ai là không học. Thế cho nên Thái Giáp làm được cháu hiền của Vua Thang, Thành Vương làm được vua giỏi của nhà Chu, cũng đều nhờ học mà nên đức. Khi việc binh rỗi con nên vâng theo sư phó, chăm đọc kinh sách, khiến cho sự học được sáng tỏ, nghiệp đức được tiến lên. Đến như đối với xung quanh thì nên gần người ngay thẳng, xa kẻ gian tà, thế mới gọi là sáng suốt biết người. Đi ra nên kính nhớ lấy".

Lại dụ Phạm Văn Nhân và Tống Phước Đạm giúp đỡ Đông cung, định nghiêm tướng lệnh, tự cai cơ trở xuống, không tuân mệnh thì chém.

Triệu Nguyễn Hoàng Đức về, khiến lưu những quân Chân Lạp, Chà Và do Đức cai quản, ở lại Diên Khánh để sung sai bát.

Triệu Tôn Thất Hội về, khiến Vũ Văn Lượng và Nguyễn Long hiệp với Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân để cùng giữ Phú Yên.

Đông Cung Cảnh đến Diên Khánh, lại sai Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đi Phú Yên hội đồng với bọn Vũ Văn Lượng trù tính việc quân.

Sai Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tả quân Thần sách là Lê Thành Lý tri Tàu vụ, Tham mưu Trung dinh là Nguyễn Thái Nguyên quản việc thuế thủy lợi.

Cho Khâm sai cai cơ thượng đạo Bình Khang là Nguyễn Văn Nguyện và Trần Văn Luật mỗi người một chiếc áo chiến.

Lấy Lưu thủ Bình Thuận là Trần Văn Bô làm Lưu thủ Trấn Định, Thống nhung cai cơ chi Kiến võ là Nguyễn Văn Tánh làm Lưu thủ

Bình Thuận.

Sai các dinh trong ngoài và hai đạo Long Xuyên, Kiên Giang, thu trước tô thuế năm Giáp dần, những binh đinh đi tòng chinh thì hoãn không thu. Ruộng đất đầm ao ba dinh Bình Thuận, Bình Khang, Phú Yên thì đều theo lệ trước, duy có thuế sai dư thì y theo phép sẵn ở Gia Định đã gửi đến mà thi hành. (Tráng hạng thu tiền thuế 2 quan 9 tiền, quân hạng 2 quan 4 tiền 30 đồng, dân hạng 2 quan, lão hạng cũng như dân hạng, tàn tật hạng 1 quan 6 tiền).

Bãi thuộc tìm hương (tìm kỳ nam) ở Bình Khang. Vua cho rằng trong khi đánh giặc hương thơm không phải là món cần dùng cho nên bãi đi, để cho cùng với dân trong huyện chịu dao dịch.

Bắc cầu Vàm Cỏ [Thảo Câu] (từ bờ sông Lò Vôi ngang qua bờ sông Vàm Cỏ), sai Trương Phước Luật trông nom công việc.

Tháng 12, lấy Cai cơ phó Tiền chi Tiền quân Nguyễn Tiến Lượng quản đạo Kiên Giang, Cai cơ đốc chiến Nguyễn Khoa Cương quản hai đạo Tân Châu và Châu Đốc, Cai cơ Tiền chi Hậu thủy dinh là Nguyễn Bình quản đạo Cần Giờ, kiêm hai đạo Vũng Tàu và Đồng Tranh.

Dân Xiêm La đói, xin mua gạo ở Kiên Giang, quản đạo Nguyễn Tiến Lượng đem việc tâu lên. Vua nói : "Nước ta với nước Xiêm vốn có tình láng giềng tốt với nhau, dân Xiêm cũng như dân ta, sao nỡ thấy người ta đói kém mà không thương?". Bèn ra lệnh bán gạo cho.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển VII - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Giáp dần, năm thứ 15 [1794] (Thanh ? Càn Long năm thứ 59), mùa xuân, tháng giêng, chưởng dinh Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức về đến Diên Khánh, dâng biểu nói rằng tướng sĩ bộ thuộc của mình đều xin lưu lại để giúp Đông cung. Vua khen, sai đem cho áo mùa xuân, sau lại triệu về.

Bảy chiếc thuyền sai tuần biển của Phú Yên bị giặc biển Tề Ngôi cướp, Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân báo lên. Vua xuống dụ nghiêm trách, sai triệt hết thuyền về Diên Khánh.

Sai các quân đóng thêm chiến thuyền và đúc thêm binh khí.

Cấm quan quân không được bán ngựa cho người nước ngoài, trái lệnh không kể ngựa tốt hay xấu, đều bị tội chết.

Đặt đội biệt nạp buồm lá ở Bình Thuận (Người ở ba ấp An Hải, An Hòa và Thiện Chính, mỗi năm phải nộp 50 tấm buồm lá).

Lấy Thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Khiêm làm Phó vệ úy vệ Túc trực quân Thần sách, sai đến thành Diên Khánh lệ theo việc quân.

Tháng 2, bãi việc kén lấy phủ binh ở Phú Yên, vì cớ là gần đất giặc, công việc phiền tạp nặng nề.

Vua nghĩ đến sự khó nhọc của các trạm dọc đường, muốn cho họ đỡ sức, sắc rằng từ nay trở đi, phàm nhân việc được sai phải có ấn cấp của công đồng hay của Đông cung mới được trạm chuyển đệ. Ai lạm bắt một người trở lên thì luận tội theo quân pháp.

Ban áo mùa xuân cho Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long, Lưu thủ Phú Yên Nguyễn Văn Nhân, Hiệu úy Tả chi Vũ Văn Lượng và các tướng hiệu. Lại lấy ở kho nội thảng 10 cây gấm đoạn, cho đem đến Diên Khánh dụ Đông cung rằng như có tù trưởng người Đê đến yết kiến thì ban cấp cho.

Đặt chức chánh và phó trấn ở Thuận Thành. Thuận Thành từ con cháu vua Phiên Kế Bà Tử truyền nhau đến chưởng cơ Tá mà chịu mệnh triều đình, coi giữ việc trấn. Năm Nhâm dần, Tây Sơn vào cướp. Tá đem hết những khí bảo truyền quốc hàng giặc. Năm Mậu thân, vua lấy lại được Gia Định, nhiều lần dụ bảo, Tá sợ tội không dám ra, trộm giữ động man. Quân ta qua Bình Thuận nhiều lần bị đón giết. Mùa hè năm ngoái, quân ta tiến đánh Phan Rí, Tá theo đô đốc giặc là Hồ Văn Tự trốn lên miền thượng đạo. Cai cơ Nguyễn Văn Hào dẫn quân đuổi bắt, Tá thế cùng bị bắt, sai xử tội giết đi. Từ đó bèn bỏ vương hiệu Thuận Thành, cho Nguyễn Văn Hào chức Chưởng cơ, làm Chánh trấn trấn Thuận Thành, Cai cơ Nguyễn Văn Chấn làm Phó trấn, cai quản các quan phiên và sách man, lệ vào dinh Bình Thuận. Sai mộ 10 người lập ty Lệnh sử để làm việc trấn. Lại thấy ruộng đất trong trấn nhiều nơi bỏ hoang và hay bị hạn lụt, sắc cho dinh thần Bình Thuận đi khám xét mà lượng tha thuế. Ruộng ở Trà Nương có bỏ hoang thì cũng tha. (Ruộng này ở các xứ Long Hương, Phan Rí, Phố Hài, là ruộng ngụ lộc của vua Phiên, năm nào có người mướn cày thì cứ theo số thóc giống mà nộp thuế, nếu không thì miễn).

Cho cháu Hộ bộ Trần Phước Giai là Phước Trinh được miễn dao dịch.

Sai dinh thần Trấn Định kén lấy những người tinh tráng ở trong bốn thuyền Mã đội, Trung súng, Tiền súng, Hậu súng để sung bổ vào thuyền Uy bính (60 người), sai chuyên tập bắn súng, để giữ bảo Mỹ Tho.

Quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành xin sai bọn hàng tướng là Cai cơ Từ Văn Chiêu và Vệ úy Nguyễn Văn Quý chiêu tập các quân Thiên trường, Thiên sách, Hổ bí, Hổ hầu cũ, cho theo đi đánh giặc. Vua cho.

Sai quản đạo Kiên Giang là Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng mộ lập ba thuyền của đội Kiên Dực tinh binh để phòng thủ trong hạt.

Sửa lại Văn Miếu. Miếu ở dinh Trấn Biên, do Hiển tông Hiếu minh hoàng đế dựng, lâu năm đổ nát, nay nhân nền cũ mà sửa sang lại. Sai Lễ bộ Nguyễn Đô trong coi công việc. Thể chế thì ở giữa là điện Đại thành, cửa Đại thành, bên đông là Thần khố, bên tây là đền Dục thánh, bên tả là cửa Kim thanh, bên hữu là cửa Ngọc chấn, phía trước dựng các Khuê văn, treo chuông trống ở trên, bên tả là nhà Sùng văn, bên hữu là nhà Dụy lễ, xung quanh có thành vuông, trước là cửa Văn Miếu và hai cửa Nghi môn tả hữu. Đặt 50 người lễ sinh và 50 người miếu phu.

Thống lĩnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái sai người dâng biểu xin theo. Vua ban tứ hậu rồi bảo về, khiến chiêu tập quân nghĩa dũng để hưởng ứng quân vua.

Tháng 3, lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn quản Hậu thủy dinh vẫn quản chi Tả thuận, Khâm sai đốc chiến cai cơ Nguyễn Hữu Chính làm Phó Hậu thủy dinh.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai tướng là Thái úy Nguyễn Văn Hưng và Tổng quản Trần Quang Diệu đem quân thủy quân bộ vào thành Quy Nhơn, gián điệp báo tin.

Vua sai truyền dụ cho Đông cung Cảnh chỉnh đốn tướng sĩ, phòng bị nghiêm cẩn. Đông cung dâng biểu nói : "Quân lấy lương ăn làm đầu, nay lương quân ở Diên Khánh chỉ đủ dùng một tháng, sợ thiếu". Vua liền sai quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành thống lĩnh binh thuyền chở hơn 4 vạn phương gạo lương. Đến Vũng Tàu ngược gió chưa tiến được. Lại sắc cho Lưu thủ Bình Thuận Nguyễn Văn Tánh theo đường bộ chở 3.000 phương gạo kho đi suốt ngày đêm, để sẵn mà chi phát.

Sai Cai cơ chi Túc vệ là Nguyễn Văn Lợi đem quân sở thuộc và quân chi Kiến Võ đi Bình Thuận thay cho Nguyễn Văn Tánh mà chia phái đi tuần phòng các đường thủy đường bộ trọng yếu.

Hơn 60 du thuyền giặc đậu ở hòn Đồi Mồi, chợt bị bão, một chiếc thuyền của quán quân Lực (không rõ họ) với 25 binh dạt vào cửa Tiểu, sở tại bắt giải đến Gia Định.

Tướng giặc là Nguyễn Văn Hưng đem 40.000 quân bộ xâm phạm Phú Yên. Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân chạy báo cho Diên Khánh. Đông cung ra lệnh cố giữ để chờ viện binh. Nhân cho rằng quân ít không chống nổi, cùng với Vũ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành đều rút lui. Chợt có tin gián điệp báo rằng quân giặc đi đường núi xuống Ba Ngòi để triệt đường lương của ta. Đông cung bèn sai bọn Nhân thẳng vào Mai Nương để phòng bị. Việc tâu lên, Vua dụ giục Nguyễn Văn Thành đốc các thuyền lương tiến vào Bình Thuận và vẫn quản hai chi Túc Uy và Kiến Võ cứ chở gạo lương đến Diên Khánh. Sai Giám quân Trung dinh Nguyễn Văn Trương thay lĩnh binh thuyền để nghiêm việc phòng bị.

Mùa hạ, tháng 4, đặt hai vệ Túc Võ và Dương Võ quân Thần sách, lấy Phó vệ úy vệ Ban trực tả là Cao Văn Lý làm Vệ úy vệ Túc Võ, Khâm sai thuộc nội cai cơ chi Chấn Võ là Nguyễn Văn Trương làm Vệ úy vệ Dương võ, Khâm sai cai cơ Trần Văn Bảo làm Phó vệ úy.

Lấy Khâm sai tổng binh cai cơ Hữu quân Nguyễn Công Đằng làm Chính vệ vệ Dũng Võ, Khâm sai cai cơ Lê Văn Do làm Phó vệ.

Tướng giặc Trần Quang Diệu đem thủy binh vào cửa biển Nha Trang; bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng đến Bình Khang; bèn họp quân tiến sát thành Diên Khánh, vây ba mặt. Đông cung triệu Vũ Văn Lượng về thành chống giữ, sai Nguyễn Văn Nhân đóng đồn Long Cương [Gò Rồng], Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đóng đồn ở Ba Ngòi, Nguyễn Long đóng đồn ở Thượng đạo, để chặn đường không cho giặc thông viện. Quân Nguyễn Văn Thành đến, bèn cùng Nhân tiến đóng ở các xứ Phong Lộc và Cầu Dài [Trường Kiều]. Giặc đánh thành liền mấy ngày, súng trong thành bắn ra quân giặc chết và bị thương rất nhiều.

Vua nghe tin, bèn thân cử đại binh đi đánh, sai chạy dụ cho Đông cung rằng : "Giặc cậy đông mà kiêu, không đáng lo. Con nên cùng các tướng giữ thành cho vững, không bao ngày nữa đại binh sẽ tới. Nếu bỏ thành ấy thì từ Chánh phó tướng trở xuống đều lấy quân pháp trị tội".

Sai Chưởng Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phước, Hình bộ Nguyễn Văn Nghị ở lại trấn giữ Gia Định, kiêm coi các việc binh dân bốn dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Trấn Định, Vĩnh Trấn; Vệ úy vệ Ban trực hữu Tô Văn Đoài quản quân các vệ để phòng giữ cung thành.

Vua thân đem thủy quân tiến ra. Sai Chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội điều bát dinh Tiền thủy làm tiên phong, Chưởng Hậu quân Võ Tánh điều bát dinh Hậu thủy làm hậu tập, thuộc nội cai cơ Võ Di Nguy thống suất dinh Trung thủy để hộ giá, Hộ bộ Trần Đức Khoan, tham tri Nguyễn Văn Mỹ và Nguyễn Kỳ Kế đi theo trông coi việc lương.

Thuyền vua tiến đến Vũng Diên [Diên áo], nhìn xa thấy du thuyền của Tây Sơn ở Hòn Chông. Đạo tiên phong đuổi theo không kịp, bèn đóng lại Vũng Tàu Phan Rang.

Giặc nghe tin đại binh đến, tức thì giải vây Diên Khánh, quân thủy chạy về Quy Nhơn, quân bộ lui về Phú Yên.

Vua được tin liền dụ cho Nguyễn Văn Thành đều đem quân theo Đông cung điều bắt, đuổi chặn, để Nguyễn Đức Thành ở lại giữ thành Diên Khánh.

Răn các quân đi trận không được đánh bạc, ai phạm thì tội chết, quan cai quản bị liên tọa.

Tháng 5, thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Xuân Đài, sai Võ Tánh đem quân đánh giặc ở chợ Hội An, giặc tan vỡ, bỏ đồn lùi giữ Thị Dã. Bộ binh của Đông cung và bọn Nguyễn Văn Thành vừa đến. Vua với Tánh về

mà sai Nguyễn Văn Thành kiêm quản cả Nguyễn Long, Võ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Tánh, Nguyễn Văn Lợi do các xứ Hà Nha,

An Tượng ở thượng đạo mà đánh sau lưng giặc, vẫn theo lệnh tiết chế của Đông cung.

Thuyền vua tiến đến cửa biển Thị Nại. Sai Tôn Thất Hội lãnh quân các vệ đánh các bảo Tiêu Cơ, Mai Nương, đều lấy được. Giặc tan chạy. Ta bắt được hơn 40 cỗ đại bác và khí giới không xiết kể. Phó tướng Tiền quân Nguyễn Văn Thư bị trúng đạn chết (Sau tặng Chưởng dinh). Hội sai cai cơ Nguyễn Đình Đắc đuổi theo tới núi Tam Tòa, bắt được 800 quân giặc. Tổng quản giặc là Trần Quang Diệu và Đổng lý giặc là Nguyễn Văn Thận đem 8.000 quân chia đóng ở Nhạn Châu [Bãi Nhạn], Sâm áo [Vũng Sâm]. Quân ta lại đánh vỡ, giặc chết và bị thương rất nhiều.

Thủy quân ta chặn ngang cửa biển. Thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng, thống lĩnh là Nguyễn Văn Chân ở trong cửa biển chẹn chỗ hiểm chống giữ. Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giữ chợ Vân Sơn và Điểm Kiểm Trấn Viết Kết giữ bảo Hà Nha để chống bộ binh ta. Đông cung dâng biểu xin chia đường tiến đánh.

Vua dụ rằng : "Thủy binh giặc đương khốn với ta, tiến lui đều khó. Thủy thua thì bộ cũng thua theo, việc gì mà lo. Con nên ra lệnh cho Nguyễn Văn Thành cùng các tướng tùy địa thế đặt đồn bảo ở khoảng La Thai và Hà Nha, lại đặt thêm trọng binh ở Cù Mông, hễ giặc tiến thì ta lùi, giặc lùi thì ta tiến, làm thế "bạng duật tương trì", chờ khi ta phá được thủy binh giặc thì bấy giờ sẽ đánh úp lấy thành Quy Nhơn, dễ như trở bàn tay vậy".

Lấy Khâm sai thống binh Cai cơ Nguyễn Đức Trinh làm Lưu thủ Phú Yên.

Tháng 6, sai Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Nhân đem binh thuyền đánh giặc ở cửa biển An Dụ, cướp được hơn 10 chiếc thuyền lương, thừa thắng tiến thẳng đến cửa biển Đại Cổ Lũy (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), đánh kho Phú Đăng. Tiết độ giặc là Nguyễn Văn Giáp thua chạy, [quân ta] vét hết lương thực rồi trở về.

Sai Vệ úy Phan Văn Triệu, Ôlivi(1. Olivier. 1), Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt,

Cao Văn Lý cùng Cai đội quản Xiêm binh Nguyễn Văn Tổn và Cai cơ Trương Văn Phụng, đều đem quân bộ thuộc theo Đông cung điều bát

đánh giặc.

Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2.000 quân giặc. Điểm kiểm giặc là Trần Viết Kết lùi chạy. Nguyễn Văn Thành khinh suất tiến theo, gặp phục binh nên bị thua. Quân ta bèn giữ bảo Hà Nha.

Vua thấy thủy binh giặc giữ thế hiểm, chưa đánh phá vội được, mà lại gió to sóng lớn, thuyền ghe khó ở lâu được bèn sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem hết binh thuyền về đậu ở cửa biển Xuân Đài, mật dụ Đông cung đem quân về bảo Tân Thị [Chợ Mới] để đợi ngự giá. Nguyễn Văn Thành quản các vệ đóng ở La Thai để phòng giặc.

Mùa thu, tháng 7, sai truyền dụ cho quan Lưu trấn Gia Định phái chở gạo lương ra chứa ở Diên Khánh.

Ngự giá trở về Diên Khánh. Để Nguyễn Văn Trương ở lại kiêm quản binh thuyền hai vệ Ban trực hậu và Tuyển phong hậu đóng giữ địa đầu Phú Yên, Trương Phước Luật kiêm quản binh thuyền ba vệ Ban trực tả, Ban trực hữu, Tuyển phong tiền, đóng giữ Vũng Lấm, rồi lại rút về cửa biển Cù Huân.

Triệu Nguyễn Văn Thành đến hành tại. Sai Nguyễn Long và Võ Văn Lượng giữ Phú Yên, Mai Tiến Vạn và Nguyễn Văn Nguyện giữ Thạch Thành.

Miễn việc bắt lính cho Phú Yên. Có ai tòng quân thì được miễn sưu thuế.

Sửa đắp thành Diên Khánh, xong việc cho các quân ăn yến.

Cho quân Xiêm về. Sắc cho quan Lưu trấn Gia Định phát 1.000 quan tiền kho để cấp.

Tháng 8, vua thấy Đông cung ở lâu chốn biên thành, sai đem tướng sĩ dinh Tả quân về Gia Định trước.

Ban cho Nguyễn Long và những quan quân bộ thuộc quán ở Gia Định áo chiến theo thứ bực khác nhau.

Miễn thuế ruộng trốn thiếu năm nay cho dân Bình Khang.

Cho phép quan hai dinh Bình Thuận và Bình Khang đặt mỗi nơi một lò nấu rượu, để cung việc tế tự. Cấm dân gian không được đặt lò riêng.

Sai Nguyễn Văn Tánh về Bình Thuận, vẫn làm việc lưu thủ, Nguyễn Văn Lợi về Bà Rịa, vẫn giữ chức quản thủ như cũ.

Bắt đầu làm sổ ruộng Thuận Thành. Ruộng ở Thuận Thành không có ranh giới, phần nhiều bị dân Hán(1. Tức người Việt, người Kinh.1) xâm chiếm, hoặc có kiện đến quan cũng khó phân phải trái. Bèn sắc cho quan công đường Bình Thuận, cứ lời quan Phiên dân Phiên báo rõ về số ruộng, chỗ tọa lạc và đông tây bốn mặt mà làm sổ nộp lên để dứt mối tranh nhau.

Tháng 9, vua đem quân về Gia Định, để Chưởng hậu quân Võ Tánh ở lại trấn thành Diên Khánh.

Đặt hai vệ Kiên uy và Phấn uy quân Thần sách, lấy Thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thịnh làm Vệ úy vệ Kiên uy, hàng tướng là chỉ huy Dương Văn Khái làm Phó vệ úy, Thuộc nội cai đội Hoàng Phước Bảo làm Vệ úy vệ Phấn uy, hàng tướng là chỉ huy Nguyễn Văn Hậu làm Phó vệ úy.

Lấy Khâm sai cai cơ chi Túc uy Trung quân là Nguyễn Công Doanh, Tham mưu chi Kiến võ là Nguyễn Quang An quản đạo Phố Hài và kiêm lĩnh hai đạo Phan Thiết và Vị Nê [Mũi Né], mộ những dân lậu và quân tàn đặt ba thuyền của đội Bình Thủy.

Lấy Cai đội quân Thần sách là Trần Văn Năng làm Thuộc nội cai đội vệ Túc trực.

Người Xiêm đưa vua nước Chân Lạp là Nặc ấn về nước, ấn trước bị người Chà Và đánh, chạy sang Xiêm. Vua từng sai sứ sang Xiêm giao hiếu, hẹn cho ấn về nước làm vua. Đến đây người Xiêm mới đưa ấn về, mà rút Chiêu Thùy Biện về giữ Bắc Tầm Bôn. Khi ấn đã về, sai sứ đến tạ ơn.

Vua sai Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn và Vệ úy Lê Thành Lý đem các thứ gấm đoạn tuyên ý chỉ của vua mà thưởng cấp, lại cho 4.000 hộc thóc, 800 phương gạo.

Ban phẩm vật cho vua nước Thủy Xá. Vua Thủy Xá mới lên ngôi, sai man thuộc đến thông hiếu ở thượng đạo Phú Yên, xin làm phiên thuộc và xin ban ơn cho. Bọn Nguyễn Long và Võ Văn Lượng đem việc tâu lên. Vua nói rằng : "Họ đã theo về thì triều đình có tiếc gì". Sai ban cho 2 chiếc áo gấm và những vật như cồng thau theo như lời xin.

Đặt vệ Hùng uy quân Thần sách. Sai chọn ở các đội trong vệ Hùng võ những người quán ở Bắc Hà, cùng những quân mới hàng sung bổ làm 10 đội, lấy Khâm sai thống binh cai cơ Nguyễn Đình Đắc làm vệ úy, Cai đội Lê Đình Đán làm phó vệ úy. Đình Đắc trước vâng mệnh đi chiêu dụ hào kiệt ở Bắc Hà, được nhiều người theo. Mùa đông năm ngoái về, đem tình hình giặc trình bày rất kỹ, vua khen thưởng. Đến đây, vì theo đi đánh có công nên có mệnh ấy.

Sai Vệ úy vệ Hùng võ là Nguyễn Đức Xuyên ủy cho bọn hàng tướng thuộc quyền là quán quân Trần Văn Tại, chỉ huy Hoàng Công Kỷ, mộ dân ngoại tịch gồm với những viên và quân Thuận Hóa mới hàng, sung bổ vào các đội.

Khâm sai thuộc nội cai cơ Chánh Hậu chi dinh Trung thủy quản đạo Thanh Châu là Ngô Công Quý chết. Tặng Chưởng cơ. Lấy Cai cơ Thủy dinh Trung quân là Cù Văn Liêm quản đạo Thanh Châu, Phó Tiền chi dinh Trung thủy là Nguyễn Văn Thụy làm phó.

Lấy hàng thần là Phụng nghị Đặng Đại Cương làm Tham tri Hộ bộ, Nguyễn Duy Hòa làm Hàn lâm viện chế cáo (Duy Hòa người Quảng Bình).

Lại sai Cai cơ Nguyễn Đức Thành giữ đạo Tân Châu, kiêm quản hai đạo Hùng Thắng và Chiến Sai.

Lấy Đặng Trần Thường làm Hữu tham tri Lại bộ. Thường là người Chương Đức xứ Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Nội), đỗ sinh đồ triều Lê, gặp loạn phải ẩn tích, hăng hái có chí lớn. Mùa đông năm ngoái cùng người đồng quận ở Thanh Oai là Nguyễn Bá Xuyến theo Nguyễn Đình Đắc vượt biển đến. Khi qua thành Diên Khánh, vái Đông cung Cảnh mà nói rằng : "Chưa gặp được vua nên không dám lạy" Đông cung hậu đãi. Khi đến Cần Giờ, Đình Đắc trước sai người đem tờ biểu của Thường thảo dâng lên.

Vua lấy làm lạ, giục dẫn vào yết kiến, hỏi về sự thế ở Bắc Hà, Thường trình bày mọi điều đều hợp ý vua. Vua cho 300 quan tiền, 100 phương gạo. Trong chiến dịch Thị Nại, Thường theo bàn việc quân. Đến đây được cất lên chức ấy. Nguyễn Bá Xuyên cũng bổ làm cai đội, sai vâng chỉ trở về Bắc Hà chiêu dụ hào kiệt.

Mùa đông, tháng 10, sai bọn Khâm sai cai cơ chánh Hậu hiệu Tiền chi dinh Trung thủy Võ Văn Khách sang Xiêm thăm hỏi.

Tướng giặc là Tổng quản Trần Quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đem quân thủy bộ lại xâm phạm Phú Yên. Nguyễn Long và Võ Văn Lượng lui đóng giữ Bình Khang. Võ Tánh đem việc báo lên, và xin một mình chống giữ cả mặt ấy mà sai bọn Long về Gia Định. Vua cho. Lại dụ rằng : "Quân địch ở xa lại lợi ở đánh chóng. Khanh nên bền giữ, lấy mình thong thả đợi nó mệt nhọc. Đó là kế sách vạn toàn. Phải nên cẩn thận".

Dựng thêm kho tạm ở hai đạo Phố Hài và Ma Li. Sai Bình Thuận thu trước thóc thuế năm ất mão xay thành gạo 3.000 phương, chứa ở kho Phố Hài ; chở 2.000 phương gạo lương ở Gia Định đem chứa ở kho Ma Li.

Lấy Hàn lâm viện thị học Phạm Ngọc Uẩn làm Tả tham tri Hình bộ, Cống sĩ viện Trần Phước Hậu làm Hữu tham tri, Cống sĩ viện Nguyễn Bảo Tiến làm Hàn lâm viện chế cáo, Cống sĩ viện Phạm Quang Triệt làm Hàn lâm viện thị học, Thị thư viện Dương Văn Chiêu, Quốc tử giám thị học Lê Bá Phẩm và Phan Tiến Dưỡng sung Hàn lâm viện, theo sự bảo cử của công đồng (Bảo Tiến là con Lại bộ Nguyễn Bảo Trí).

Lấy Phó Hậu chi dinh Trung thủy là Lưu Tiến Hòa quản đạo Ma Li, kiêm lĩnh ba thủ Kê Khê [Khe Gà], La Di, Phù Mĩ, Cai cơ chi Chấn Võ là Vũ Văn Lân quản đạo Phan Rang kiêm lĩnh hai thủ Ma Vằn, Du Lai. Sắc cho Lưu Tiến Hòa lập đội Tuyển phong, Vũ Văn Lân lập đội Chiến phong, mộ những dân lậu và quân tàn sung vào.

Đổi dựng kho chừ súc [chứa lương] (150 gian). Sai bốn dinh tính số ruộng mà thu số tiền thuê khoán để làm, (thuế ruộng thực trưng mỗi mẫu 5 tiền, ruộng núi, ruộng cỏ và ruộng hai thuộc Cảnh Dương, Thiên Mụ, mỗi hộc nộp 5 tiền 30 đồng).

Lấy Mạc Văn Tô làm Hiệu úy Hậu chi dinh Trung quân.

Lấy Khâm sai thống binh cai cơ Hồ Đức Vạn làm Lưu thủ Vĩnh Trấn.

Ký lục Vĩnh Trấn là Trương Tiến Lộc bị tội bãi chức; lấy Tham tri Hình bộ Lê Đăng Khoa thay. Tiến Lộc bị giáng làm Hàn lâm viện chế cáo.

Lấy Quốc tử giám thị học Nguyễn Cư Tuấn sung Hàn lâm viện thị học. (Cư Tuấn là con Lại bộ Nguyễn Cư Trinh), Phủ lễ sinh Lê Quách và Nhiêu học Bùi Công Kim sung Cống sĩ viện, Thị học Đỗ Thành Lâm, Ngô Đức Tuấn, và Nguyễn Duy Hàn sung Hàn lâm viện (Bọn Thành Lâm đều là người Kinh Bắc).

Tháng 11, cho các vệ đội thuyền quân Thần sách về quán nghỉ ngơi, hạn 15 ngày trở lại hàng ngũ. Cai bạ Bình Khang là Nguyễn Y Mân, Ký lục là Đặng Hữu Hào, vì gạo kho hao mất hơn 2.000 phương mà không xét ra, đều bị bãi chức. Lấy Cai bạ Trấn Biên là Ngũ Khắc Bạn làm Cai bạ Bình Khang, Ký lục Trấn Định là Hoàng Tú Chung làm Ký lục Bình Khang.

Lấy Khâm sai thống binh cai cơ Tôn Thọ Vinh làm Phó trưởng chi chi Kiến vũ Trung quân.

Đặt ty biệt nạp trừu nam(1. Trừu nam : Một thứ hàng tơ dày.1) ở Bình Khang (Mỗi người mỗi năm phải nộp thuế thân 1 quan 1 tiền, 1 tấm trừu khổ 7 tấc dài 30 thước, dao dịch đều miễn). Sắc có ai muốn xin lập các ty lĩnh sống, lĩnh thâm, lĩnh tráng, nhiễu trắng, sa trắng thì thuế lệ xem đấy làm chuẩn.

Ban quần áo cho Hậu quân dinh Võ Tánh và các tướng sĩ bộ thuộc.

Dụ rằng : "Tướng sĩ dinh ngươi là nanh vuốt của ta đó. Mới rồi tiến đánh

Thị Nại, ngày mặc giáp sắt, đêm cầm giáo lạnh, trải 5, 6 tháng mà việc vua không lỗi. Huống lại đóng giữ biên đình đã lâu, xông pha sương tuyết, khó nhọc như thế, rất đáng nên khen thưởng. Đặc biệt ban cho quần áo để tỏ ý vua tôi như một".

Sai bốn dinh ở Gia Định và dinh Bình Khang thu trước tô thuế năm

ất mão.

Sửa đắp quách ngoài bốn mặt thành Gia Định, lấy dân bốn dinh làm.

Tháng 11 nhuận, đặt đội Am Sơn ở Thuận Thành (lấy kỳ nam để nộp).

Giám quân Trung dinh là Khâm sai cai đội Tống Phước Đạm chết. Đạm là người trầm tĩnh nhiều mưu lược. Việc từ Vọng Các hồi loan do Đạm hết sức đề nghị. Vua rất quý trọng. Mùa đông năm ngoái, theo giúp Đông cung trấn thành Diên Khánh, hiệu lệnh nghiêm minh, không nể người thân quý. Mùa thu này Đông cung trở về, Đạm vì có bệnh ở lại, đến đây chết, đưa quan tài về Gia Định, làm lễ hậu táng. Cấp cho 5 người mộ phu. (Đạm người Hương Trà, năm Minh Mệnh thứ 5 được tòng tự ở Thế miếu, năm thứ 13 phong Tuân nghĩa hầu).

Tha thuế thân năm nay cho những binh đinh tòng chinh, sau lấy làm lệ thường.

Lấy Hàn lâm viện Đông cung thị giảng là Trịnh Hoài Đức làm Ký lục Trấn Định, Hàn lâm viện trưởng Võ Công Chấn làm Cai bạ Trấn Biên.

Bắt đầu đặt chức giám thành sứ (Quản suất các viên quân tuần thành để phòng giữ trong ngoài kinh thành), lấy Cai cơ quản vệ Ban trực hữu là Tô Văn Đoài làm Giám thành sứ, Cai đội Nguyễn Văn Yên làm Phó giám thành sứ.

Lấy Phó vệ úy vệ Long võ quân Thần sách là Nguyễn Hiên làm Vệ úy, Cai cơ chi Chấn võ là Trần Văn Xung làm Phó vệ úy.

Quân giặc lấn vào địa đầu Bình Khang, Võ Tánh báo lên. Vua dụ rằng : "Nay đương mùa gió bấc, giặc nhân thuận gió đem quân thủy bộ vào cướp, ý giặc là ở Diên Khánh. Thành này chứa lương thực và chiến cụ nhiều, chính đã làm kế cố thủ. Nếu giặc xông đến thì cần phải thận trọng, giặc khéo đánh thì ta khéo giữ, dẫu có trăm chước nhử ta cũng chớ nên khinh động; đợi lâu ngày, giặc sinh trễ nải, thừa cơ đánh úp tất phải phá được". Bèn sai lưu thủ Bình Thuận là Nguyễn Văn Tánh đem quân Kiến Võ đi Diên Khánh theo Võ Tánh sai khiến, Cai cơ Nguyễn Văn Lợi đem quân chi Túc uy thay giữ Bình Thuận; Nguyễn Văn Hào và Nguyễn Văn Chấn trấn Thuận Thành đem quân Phiên đi phòng ngự miền thượng đạo.

Sai Chưởng cơ Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức điều bát bộ binh, quản Tiên phong Nguyễn Văn Thành làm phó, thẳng tiến đến Phan Rang để làm thanh ứng ở xa với thành Diên Khánh, Hiệu úy Mạc Văn Tô và Cai cơ Nguyễn Văn Lợi đều thuộc theo. Lại sai thu 5.000 phương gạo thị nạp ở Thuận Thành chứa ở kho Mai Nương để cấp cho quân.

Tổng quản giặc là Trần Quang Diệu đem quân đánh thành Diên Khánh. Tư lệ là Lê Trung lấn vào Du Lai (tên đất), chặn đường tiếp viện của Bình Thuận. Quân Nguyễn Văn Tánh không tiến được, phải kéo về. Vua nghe tin, khiến lệ theo Nguyễn Hoàng Đức điều khiển để đánh giặc. Sai Hiệu úy Tiền chi Trung quân là Nguyễn Văn Đắc quản 10 chiếc binh thuyền đóng giữ ở Vũng Tàu.

Dựng tuyển trường ở đồng Tập Trận, sai bốn dinh ở Gia Định đều theo số người trong sổ đinh, thu lấy tiền thuế khoán để làm (mỗi người nộp 10 đồng).

Tháng12, lấy Phó vệ úy vệ Ban trực tiền quân Thần sách là Trần Đại Luật làm Vệ úy vệ Phấn uy, thuộc nội cai đội Vũ Văn Trinh làm Phó vệ úy vệ Ban trực tiền thuộc nội cai cơ Lê Văn Thuận làm Vệ úy vệ Dương võ, Khâm sai cai cơ Lê Tiến Sâm làm chánh trưởng chi Hậu chi Tả quân, Nguyễn Văn Sự làm Phó trưởng chi Tiền chi Trung quân.

Nước Chân Lạp sai ốc Nha Phi Biệt Vọng Sa đến dâng phẩm vật địa phương (đậu khấu, sơn đen).

Tướng giặc Trần Quang Diệu cắt đứt đường lấy nước của thành Diên Khánh. Võ Tánh sai ba vệ Tiền du, Tiền kích, Trung kích đánh được. Quân giặc lăn sát vào để lên thành, bị súng trên thành bắn chết rất nhiều. Giặc ở ngoài đắp lũy cao vây bốn mặt. Tánh cố giữ, lại nhân giặc sơ hở cho quân ra đánh úp, bắt được đô đốc giặc là Định (không rõ họ), quân của giặc hàng nhiều. Giặc đánh càng gấp. Trong thành thiếu muối, tướng sĩ ăn uống rất khổ. Tánh lấy điều trung nghĩa mà khuyến khích, mọi người đều xin cố chết [chống giặc]. Bèn mộ những người cảm tử, nhân đêm lọt vây ra chạy dâng biểu báo tin.

Một tháng trước vua đã nghe tin giặc đánh Diên Khánh, mà Bình Thuận bị ngăn đường, tin báo không thông. Khi được biểu, vua rất mừng, hỏi tình hình, người dâng biểu nói rõ tình trạng tướng sĩ trong thành. Vua khen rằng : "Tướng sĩ như thế dẫu người đời xưa cũng không hơn, thực là may lớn cho nhà nước". Bèn dụ Tánh rằng : Đạo làm đại tướng, quý ở mưu trí mà không quý ở sức mạnh, không tham thắng nhỏ mới được công to. Kế ngày nay chém tướng nhổ cờ không bằng đóng quân giữ vững, đợi giặc hao mòn, chờ ta chỉnh đốn binh thuyền định ngày thẳng tiến, bấy giờ trong ngoài giáp đánh, thừa thế đuổi dài, một mẻ lưới thì bắt hết, đó là thượng sách. Nên cẩn thận".

Chọn quân ở hai thôn An Hòa đông và Tân Hòa dinh Vĩnh Trấn. Năm Đinh mùi trước, dân hai thôn này lập thành hai vệ Võ Cự theo đánh giặc. Đến khi lấy lại được Gia Định thì cho về làm ăn miễn cho dao dịch. Đến đây, sai chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội theo sổ đinh mà biên thành đội ngũ, lấy những cai đội, đội trưởng cũ để cai quản, cho theo việc quân. (Người hai thôn là 89 người, tráng hạng 54 người).

Quản Hậu thủy dinh là Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn, Hiệu úy Hữu chi Trung quân là Nguyễn Văn Nhân sung Chánh phó sứ sang Xiêm (cho vua thứ hai 20 cái cáng).

Trước là giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai sứ đem vàng bạc lễ hậu cầu thông hiếu với Xiêm, làm kế "hòa xa đánh gần". Người Xiêm biết ý, vừa gặp sứ ta đến, đem hết việc nói cho ta biết. Lại nói : "Nếu nay bắt sứ ấy đưa cho ta giết thì giặc cũng không hết, chi bằng nhân kế làm kế khiến cho giặc tin, Phú Xuân tất không đề phòng". Nhân cùng ta hẹn ngày cất quân. Quân Xiêm theo đường núi đánh mặt sau, quân ta do đường thủy đánh mặt trước. Phú Xuân đã lấy được thì Quy Nhơn không đánh cũng vỡ. Sứ ta về báo cáo. Vua bèn sai bọn Nhàn sang ước ngày phát quân. Vừa nước Xiêm có việc với Diến Điện nên việc ấy không thực hiện. Bọn Nhàn trở về.

Sai Chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội đem quân đóng đồn ở Bà Rịa để điều bát tướng sĩ các đạo, tùy cơ tiến đánh.

Tư lệ giặc là Lê Trung đánh cướp bảo Phan Rí. Bọn Nguyễn Hoàng Đức lui về Phố Hài, đem việc báo lên. Vua dụ sai Nguyễn Hoàng Đức đem hết quân bộ thuộc về giữ Ma Li, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Tánh, Mạc Văn Tô vẫn ở lại Phố Hài để chống giặc. Vua răn bảo rằng : "Nếu giặc đến mà không địch nổi thì từ từ đặt phục binh mà rút lui. Nếu chưa gặp giặc mà đã lui trước để giặc khinh thì có quân pháp đó".

Lấy Cai án Vĩnh Trấn là Lê Viết Nghĩa làm tham luận vệ Túc trực, Trần Đình Trưng, Nguyễn Tiến Trinh, Vũ Văn Khánh, Lê Văn Hy sung Thị thư viện.

Cấp 15 người từ phu cho ngoại tả chưởng dinh Chu Văn Tiếp (Đền ở thôn An Hội, châu Định Viễn) và 13 người mộ phu cho gia đình.

ất mão, năm thứ 16 [1795] (Thanh ? Càn Long năm thứ 60), mùa xuân, tháng giêng, lấy Khâm sai cai cơ Nguyễn Đại Tiến quản cơ Trung tượng, Nguyễn Tiến Văn quản cơ Tả tượng, Nguyễn Đại Châu quản cơ Tiền tượng, Hoàng Văn Long quản cơ Hữu tượng, Vũ Văn Kiên quản cơ Hậu tượng.

Ban ấn thông hành ở nước Chân Lạp (khắc bốn chữ triện "Ngự tứ thông hành"). ấn của nước Phiên chạm khắc hình người, thật hay giả khó phân biệt được, sợ kẻ buôn gian có làm giả mạo nên cho ấn này. Sắc rằng từ nay những thuyền sai của nước Phiên chở muối gạo từ Ba Xắc tới Nam Vang, đi qua các đạo thủ Trấn Di và Châu Đốc, khám thực thì cho đi. Vua Phiên lại dâng biểu xin cho thuyền buôn nước ngoài đi từ Ba Xắc tới Nam Vang để buôn bán. Vua cho.

Lấy Hữu tham tri Lại bộ là Đặng Trần Thường làm Khâm sai tán ký binh vụ, đến Bà Rịa, theo chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội để trù hoạch mưu lược trong quân. Vua dụ Tôn Thất Hội rằng : "Ta nghe quân giặc vào cướp Phan Rí chẳng qua chỉ hai nghìn, khí thế xem cũng hơi chùn. Khanh nên đem trước hơn nghìn quân chở súng đạn đến Phố Hài và Phan Thiết, hiệp cùng các đạo tiên phong đóng giữ địa đầu, chớ để quân giặc vào sâu. Đợi có lệnh tức thì đem quân thẳng tiến để thu phục Bình Thuận. Ta đương sửa soạn ghe thuyền, cũng định ngày thuận gió thì đi".

Tư lệ giặc là Lê Trung lấn vào Phố Hài. Quân ta đánh thua, lùi về Bà Rịa.

Vua nghe tin, nói : "Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Văn Thành vâng mệnh đánh giặc, rút rát phải lui, chẳng được công gì, không biết chống giặc giữ biên, lại để cho vua phải lo giặc cướp, tội nói sao xiết !". Lập tức sai giám thành sứ Tô Văn Đoài đem hai đội Nội hầu Nội trực kíp đến bắt Hoàng Đức và Văn Thành về Gia Định, lấy hết quân đội giao cho Tôn Thất Hội thống quản, tiến giữ Ma Li.

Cai đội quản Xiêm binh là Nguyễn Văn Tồn xin lập phiên binh phủ Trà Vinh làm một chi 5 hiệu, phiên binh xứ Mân Thít làm đạo Tiền du, đặt các chức chánh phó trưởng chi, trưởng hiệu, cai đội, đội trưởng để cai quản. Vua y cho. Bèn lấy ốc Nha Diệp và ốc Nha Oa, làm chánh phó trưởng chi quản các hiệu đội phiên binh 1.500 người, theo Nguyễn Văn Tồn đến Bà Rịa để theo việc quân.

Tết Vạn thọ, vua thấy việc đương bận, miễn cho trăm quan khỏi chầu mừng.

Lấy Chánh trưởng chi Tả chi Tả quân là Đoàn Cảnh Cư làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách, Khâm sai cai cơ Từ Văn Chiêu làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền, Khâm sai cai đội Hoàng Tiến Trường làm Phó vệ úy vệ Túc Võ.

Sai quản Tiểu sai đội tri Tượng chính là Trương Phước Luật kiêm quản ba vệ Ban trực tả hữu và Tuyển phong tiền quân Thần sách, đem binh thuyền tiến trước ra Bình Thuận đánh giặc, Hiệu úy Tiền chi Trung quân là Nguyễn Văn Đắc kiêm quản năm vệ Ban trực hậu, Tuyển phong hữu, Long võ, Túc võ, Dương võ để theo lệnh điều bát.

Vua sai mật dụ Võ Tánh rằng : "Năm ngoái ta đem quân trở về Diên Khánh, sửa đồn lũy, chứa lương thực, khanh đã liệu trước mùa gió bấc đến thì giặc hẳn trở lại, tự xin một mình chống giữ mặt ấy, cho nên ta đem thành ấy phó thác cho khanh. Rồi việc quả nhiên như thế. Nay quân thủy quân bộ đã định ngày tiến phát, khanh nên khuyến khích tướng sĩ một lòng dốc sức, chờ khi thủy sư tiến đến Cù Huân thì sẽ úp đánh, một trận có thể thành công".

Hoãn duyệt tuyển và khoa thi ở bốn dinh Gia Định, đợi sau khi đem quân về sẽ làm. (Năm ngoái có chỉ định năm nay mùa xuân tháng 2 thì duyệt tuyển, tháng 3 mở khoa thi).

Tháng 2, sai Hữu tham tri Hộ bộ là Nguyễn Kỳ Kế đốc suất chở gạo muối đến cửa biển Tắc Khái để cấp lương cho bộ binh.

Lấy Chánh trưởng chi Tiền chi dinh Trung thủy là Nguyễn Văn Thái quản hiệu Tả khuông, Phó Tiền thuận chi dinh Tiền thủy là Hoàng Văn Định làm Phó Tiền chi quản hiệu Hậu dực, Phó Tiền chi dinh Hậu thủy là Hoàng Văn Quý làm chánh Tiền chi quản hiệu Hậu khuông, Trưởng hiệu Tiền hiệu chi Tả thuận là Lê Văn Quế làm Phó Tiền chi quản hiệu Trung dực, Khâm sai thống binh cai cơ Nguyễn Thụy quản hiệu Tiền dực.

Nước Xiêm La hiến 20 thớt voi đực.

Sai Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách là Ôlivi sang Hồng Mao mua binh khí.

Vua thân đem thủy quân cứu viện Diên Khánh, để Đông cung Cảnh ở lại trấn Gia Định. Lấy Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám thành sứ Tô Văn Đoài, Lễ bộ Nguyễn Đô, Tham mưu Nguyễn Thái Nguyên, Hộ bộ Phan Thiên Phước, Hình bộ Nguyễn Văn Nghị giúp.

Sai Giám quân Trung dinh là Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương quản dinh Trung thủy, kiêm quản tướng sĩ hai dinh Tiền thủy và Hậu thủy, theo Trung quân điều bát đánh giặc.

Thuyền vua đậu ở Vũng Tàu, chờ thuận gió thì đi.

Tôn Thất Hội điều bát bộ binh các đạo tiến đến Phan Thiết. Nghe Tư lệ Lê Trung còn giữ Phan Rí, bèn đóng đồn ở Xuy Mít (tên đất) để phòng bị.

Trương Phước Luật điều bát thủy binh các vệ tiến đóng ở ỷ Na, đánh kho Phan Rang của giặc, cướp được mấy nghìn phương gạo. Chợt binh thuyền của giặc từ Vũng Diên [Diên áo] đến, quản vệ Tuyển phong tiền Tống Viết Phước đem vệ binh đón đánh phá được, chém được đô đốc giặc là Nguyễn Văn Sĩ, đánh đắm một chiếc thuyền, bắt được 7 chiếc, còn thì lui chạy cả. Tin thắng trận báo lên. Vua dụ rằng : "Đạo dùng binh quý ở vạn toàn, trận thắng nhỏ ấy chưa đủ mừng. Vả nghe số chiến thuyền của giặc khá nhiều, mà đại binh ta thì còn bị gió cản, chưa thể vượt biển được, nếu giặc đem hết quân đến thì thua chưa chắc gì. Vậy tạm trở về Vị Nê, giả cách sợ lùi để cho chí giặc sinh kiêu. Đợi đại binh thuận gió thẳng tiến, bây giờ cùng ra sức đánh, chưa muộn vậy". Rồi Viết Phước được trao chức Chưởng cơ.

Vua nước Chà Và sai Chế Phú (tên người) đưa trả những quân bị nạn của ta. Vua khen lòng mộ nghĩa, tặng cho tàn, lọng, cáng cùng một chiếc chiến thuyền; lại hậu cấp lương thực cho Chế Phú rồi bảo về.

Sai Giám thành sứ Tô Văn Đoài kiêm quản Trường Đà.

Tháng 3, triệu Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Văn Thành đến hành tại, tha tội cho, lại sai lãnh quân sở bộ: Hoàng Đức thì theo Tôn Thất Hội điều khiển. Văn Thành thì theo ngự giá đi đánh giặc. Vua nghĩ hai người có công, không nỡ vì lỗi nhỏ mà bỏ.

Thuyền vua ra cửa biển Cần Giờ, sai Vệ úy vệ Ban trực hậu là Tôn Thất Chương quản 40 binh thuyền theo Trương Phước Luật làm tiền đạo. Khi đến Cam Ranh thì thủy binh giặc đã trốn từ trước.

Thuyền vua tiến đến cửa biển Cù Huân. Tổng quản Trần Quang Diệu cùng Nội hầu Lê Văn Lợi, Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Điểm kiểm Trấn Viết Kết còn vây thành Diên Khánh, chưa chịu lui binh.

Vua bèn khiến quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành và Vệ úy Lê Văn Duyệt lên bờ đóng đồn giữ, bắn liền đại bác để cho trong thành biết. Đại binh thẳng tiến đến Chử Châu (thuộc tỉnh Phú Yên), xem khắp hình thế. Sai Tả chi Võ Văn Lượng đóng đồn ở đèo Gian Nan [đèo Gieo Neo ?], chặn đường giặc về, Đốc chiến Mai Tiến Vạn và Cai cơ Nguyễn Văn Nguyện giữ Thạch Thành, chặn đường tắt của giặc. Lại từ núi Cổ Ngựa đến Đèo Cả [Đại Lĩnh] chia đặt đồn trại, ủy cho Trương Phước Luật quản binh thuyền các vệ ở lại Chử Châu để giữ, rồi kéo quân về. Qua Vụng Hòn Khói, sai Nguyễn Văn Đắc đem ba vệ Ban trực hậu, Long Võ và Túc Võ đánh bảo Lạp Trường, quân giặc vỡ chạy, chém Đô đốc Gia, Binh bộ Tiến (đều không rõ họ) ở trận, thu được khí giới, đốt cả kho vựa. Tây Sơn do đó không dám giữ Bình Khang nữa. Văn Đắc được trao chức Chưởng cơ.

Thuyền vua về đóng ở Cù Huân. Giặc Trần Quang Diệu đặt nhiều đồn trại ở Khố Sơn để chống quân ta.

Vua bèn chia sai các tướng đóng đồn ở núi Ngư Cốt [Xương Cá] cho đến Trà Phụ [Gò Chè], đối lũy với giặc. Răn bảo các quân đi kiếm củi không đi quá sơn phận, nếu không nghiêm cấm, để giặc bắt được một người trở lên thì quản quan bị xử theo quân pháp.

Nguyễn Văn Đắc cùng với Hùng uy vệ Nguyễn Đình Đắc. Uy võ vệ Võ Di Minh đánh bảo Lò Rèn [Dã Lô] chưa hạ được. Lê Văn Duyệt mật bảo Nguyễn Đức Xuyên rằng : "Bảo này nhỏ nhưng mà vững, đánh rất khó. Nay nếu lấy hai vệ quân của ta, một vệ đánh sau bảo khiến cho giặc phải chống giữ, một vệ đào trước bảo cho lũy đổ, lũy đổ thì ta thúc trống reo hò mà tiến, thế nào cũng phá được". Xuyên nói : "Việc binh nguy lắm, vả chưa có mệnh thì làm thế nào ?" Duyệt nói : "Đã có mệnh rồi, nếu có tội Duyệt xin chịu cả". Duyệt bèn đem quân sang sông, đánh gấp sau bảo. Giặc quả nhiên đem hết quân ra chống. Xuyên tức thì đem vệ Hùng Võ kíp tới trước bảo để đào lũy, một lát lũy đổ, liền thúc quân vào. Tây Sơn vỡ chạy, bị bắt rất nhiều. Đô đốc giặc là Lê Danh Phong chạy thoát thân. Vua nghe tin thắng trận, tới xem. Duyệt và Xuyên xin chịu tội. Vua dụ rằng : "Đánh giặc thắng trận thì tội gì ?"

Tư lệ giặc là Lê Trung tự Phan Rí đem quân xâm phạm bảo Xuy Mít. Tôn Thất Hội đánh, giặc chạy. Việc báo lên. Vua sai Khâm sai đô đốc chi Hiệu trung là Nguyễn Công Thái, Hiệu úy Hữu chi là Nguyễn Văn Nhân đem binh thuyền đóng ở Ba Ngòi để cắt đứt đường về của giặc.

Mùa hạ, tháng tư, Đô đốc giặc là Nguyên, Phượng, Quế (đều không rõ họ) giữ sông Đà Diễn(1. Sông Đà Răng, thuộc Phú Yên. 1). Có Võ Văn Sở là người thượng đạo Phú Yên tụ họp quân Man, đi theo Võ Văn Lượng và Mai Tiến Vạn đánh phá đồn và trận của giặc, chém được đô đốc Phượng. Quân giặc tán loạn, vứt bỏ khí giới lương thực mà chạy. Bọn Nguyên lùi giữ chợ Hội An. Vua nghe tin, khen ngợi, cho Sở làm Khâm sai cai cơ, ban cho một cây súng cò đá lửa của Tây Dương, một thanh gươm đầu hổ, một tấm nhiễu đỏ, một chiếc áo chiến bằng trừu bách hoa, 100 quan tiền.

Vua thấy quân đi đánh lâu ngày, phí tổn rất nhiều, sắc cho Đông cung và các quan lưu trấn theo sổ đinh sổ điền bốn dinh mà thu số gạo thị nạp, chở đến quân thứ. (Điền hộ thì thu thêm một kỳ gạo thị nạp; các hạng dân thực nạp, biệt nạp, biệt tái(1. Biệt nạp : Dân nộp thuế riêng.

Biệt tái : Dân nộp thuế chở riêng.1) cùng phủ binh, thuộc binh và lạc tòng quân mà chưa tòng chinh thì mỗi người nộp 2 phương gạo).

Tư lệ giặc là Lê Trung chống giữ với quân ta đã lâu, lương thực thiếu hụt, mưu muốn lui giữ Phan Rang, sai người chạy thư cho Trần Quang Diệu, quân đi tuần ở Ba Ngòi bắt được đem dâng về hành tại.

Vua liền sai Nguyễn Văn Đắc đem binh thuyền ba vệ Ban trực hậu, Long Võ, Túc Võ đến họp với Nguyễn Công Thái, ngầm qua sông sang Phan Rang chiếm địa thế tốt để đặt đồn ngăn chặn. Bọn Đắc đến nơi, đánh cướp kho lương của giặc ở Mai Nương, đóng ở chợ Kinh Dinh, đem tình trạng báo lên. Vua dụ rằng : "Nơi ấy xa nước không nên đóng quân, nếu giặc nhòm biết thấy quân ta ít đổ đến vây đánh thì lấy gì ứng phó ? Nên chọn ngay nơi gần nước để đóng giữ, rồi mật báo cho Tôn Thất Hội tiến đánh đằng trước giặc, mà các khanh thì đánh úp ở sau, thế mới giữ được toàn thắng". Dụ chưa tới, thì quả nhiên giặc đã đem quân và voi đến, quân ta phải lùi, bị phục binh đánh thua. Lại hạ lệnh rút về Ba Ngòi đóng giữ.

Sai Trương Phước Luật đem binh thuyền các vệ đánh Phú Yên, Võ Văn Lượng thay giữ Chử Châu để làm sách ứng. Lượng dâng biểu xin đem thủy binh lấy Quy Nhơn trước. Vua dụ rằng : "Quân nên tụ tập, không nên phân tán. Phú Yên còn có quân giặc đóng, nên đánh úp trước để cắt bớt vây cánh của giặc đi. Khi đã được, lại trở về họp ở một chỗ để cùng tiễu trừ giặc Diệu. Diệu mà thua thì xa gần nghe tin đều sợ, chẳng những đánh lấy Quy Nhơn, mà đô cũ cũng định ngày thu phục được, cần chi phải bỏ gần mà mưu xa". Rồi Phước Luật gặp thuyền đi tuần của giặc, đuổi bắt được một chiếc dẫn về. Lại hạ lệnh đều đóng giữ như cũ.

Tôn Thất Hội đóng quân ở sông Lũy [Lũy Giang], đánh nhau với Tư lệ giặc là Lê Trung phá được, giết quân và voi của giặc, thây chết đầy đồng. Trung đem hết quân đóng giữ sông Cạn [Hạc Giang] (Lũy Giang và Hạc Giang đều thuộc thượng đạo Bình Thuận). Phan Rí không có phòng bị. Hội bèn dâng biểu xin thêm quân. Vua sai cùng với thủy binh của Nguyễn Văn Đắc ngầm vào La Hàn(2. Tục gọi là La Gàn. 2), nhân giặc sơ hở mà đánh úp. Vua dụ rằng : "Việc khanh tâu xin cũng là nên để thắng giặc. Nhưng nay gió nam đương mạnh, Vụng Diên khó đi, chờ thuận gió thì chưa biết ngày nào, mà tướng sĩ Hậu quân thì ở trong thành chịu khổ đã lâu. Chính ta sắp triệu bọn Nguyễn Văn Đắc họp quân bốn mặt xông đánh để giải vây cho Diên Khánh. Khanh tạm hãy chống giữ, đánh vỡ được Diệu thì Trung cũng tự tan vỡ thôi". Nguyễn Văn Nhân cũng xin như Hội. Không cho.

Sai Thượng đạo tướng quân Nguyễn Long quản suất bọn Mai Tiến Vạn, Nguyễn Văn Nguyện, Nguyễn Văn Quế, Trần Văn Luật, theo đường vắng thẳng xuống Lộ Khê và Thanh Tuyền để làm thế dựa cho Diên Khánh.

Vua dụ rằng : "Binh pháp lấy phép chính mà họp, lấy phép kỳ mà thắng. Bọn khanh đến đây nên khi ra khi vào, đêm thì đốt lửa thúc trống, ngày thì cờ xí cho nhiều, giả làm như sắp sửa tiến công, giặc đến thì giữ chỗ hiểm mà đặt quân phục, giặc đi thì ta đuổi đánh, khiến cho nó mệt mỏi, thì ta cũng dễ thành công".

Tháng 5, Võ Tánh thân đem tướng sĩ đêm mở cửa thành, đánh Nội hầu giặc là Lê Văn Lợi, đốt trại giặc từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Bông tất cả bốn nơi. Quân giặc vỡ chạy, chết và bị thương vô số, súng đạn và khí giới đều bị quân ta bắt được. Tánh bèn chia quân đóng các nơi, đặt bảo để giữ.

Tư khấu giặc là Võ Văn Dũng giết Thái sư giặc là Bùi Đắc Tuyên. Đắc Tuyên là cậu Nguyễn Quang Toản, khi Huệ chết, phó thác cho giúp Quang Toản. Đắc Tuyên lên nhiếp chính, sống chết cho lấy đều ở trong tay, tướng giặc nhiều người oán. Trung thư Trần Văn Kỷ có tội, Đắc Tuyên xử tội đồ, đày ra trạm Mỹ Xuyên. Dũng từ Bắc Thành về, Kỷ đón Dũng nói hết tình trạng Đắc Tuyên chuyên chế lộng quyền, dặn Dũng dùng kế mà giết. Dũng đến Phú Xuân, bàn mưu với Thái úy Nguyễn Văn Hưng và Hộ giá Nguyễn Văn Huấn tuyên bố là ra cánh đồng phía nam để tế cờ, nhân đêm đem đồ đảng vây Đắc Tuyên ở chùa Thiền Lâm. (Đắc Tuyền dùng chùa Thiền Lâm làm dinh ở ). Đắc Tuyên lại ngẫu nhiên có việc vào ngủ ở phủ Quang Toản. Dũng bèn dời quân đến vây phủ Đắc Tuyên. Quang Toản bất đắc dĩ phải bắt Đắc Tuyên đưa cho Dũng. Dũng dìm chết. Con Đắc Tuyên là Đắc Thận và bè đảng là Ngô Văn Sở, ngự sử Chương (không rõ họ) hơn mười người đều bị Dũng giết. Quang Toản lại cho Kỷ làm phụ chính. Tư lệ Lê Trung cũng là bè đảng của Đắc Tuyên. Dũng bèn sai Huấn dẫn 500 quân vào thành Quy Nhơn, giả là đến tiếp viện, mà lập mưu trị Trung và Diệu để cướp binh quyền.

Vua nghe tin bảo các tướng rằng : "Đảng giặc giết lẫn nhau, cơ hội có thể thừa được. Đó cũng là điều may cho ta vậy".

Lấy Tôn Thất Nông (con Chưởng cơ Tôn Thất Chiêm) làm Khâm sai cai đội. Nông từ Thuận Hóa đến bái kiến ở hành tại, xin phục vụ. Vua khen là có chí, nên có mệnh này.

Đại binh từ núi Lão Lãnh qua sông, đánh nhổ được bảo Tây Sơn ở bờ sông dưới núi Thị Nghi. Vệ úy vệ Tuyển phong hậu là Đoàn Cảnh Cư chết trận. Tổng quản giặc Trần Quang Diệu cho nơi này là chỗ trọng yếu, đem hết binh voi đến tranh chiếm. Quân ta đánh hai trận đều thắng. Vua sai các quân đặt đồn trại liên tiếp, giặc không dám phạm. Từ đó quân giặc đem nhau về hàng, ngày kể hàng trăm người. Thế Diệu mỗi ngày một nguy, mật báo cho Lê Trung tìm mưu chạy thoát. Vua biết thế, bảo Tôn Thất Hội rằng trong lúc Trung lui thì thúc quân đuổi đánh, khiến không cho chúng thông với nhau. Lại dụ Trương Phước Luật và Võ Văn Lượng phòng bị nghiêm nhặt ở các xứ Đèo Cả và đèo Gian Nan để cắt đứt đường quân giặc ra vào. (Cảnh Cư được truy tặng Chưởng cơ).

Tôn Thất Hội đóng quân ở Lương Giang. Tư lệ giặc Lê Trung đem binh và voi đánh hăng liền mấy ngày, đều bị Hội đánh bại, đêm bỏ trốn, Hội đuổi đến bảo Mai Nương. Trung lùi giữ Du Lâm (tên đất).

Tháng 6, đại binh đánh lũy đất của giặc tự Đào Lô [Lò Gốm] đến chân núi Thị Nghi, Tây Sơn thua, ta thu được súng đạn khí giới rất nhiều, quân ta bèn đóng giữ đấy.

Hộ giá giặc Nguyễn Văn Huấn đem quân thủy bộ vào Đa Diễn.

Vua dụ Trương Phước Luật chia phái quân vệ Dương Võ theo Võ Văn Lượng giữ đèo Gian Nan, quân vệ Thần Võ theo Tống Viết Phước giữ đèo Cả. Lại sai Võ Di Nguy đem 10 chiếc thuyền biển tiến đỗ ở Sầm Dữ [Hòn Gầm] hiệp với Trương Phước Luật tùy cơ đánh giữ, Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Nhân đều đem binh thuyền đến Chử Châu theo Trương Phước Luật điều khiển.

Có thám tử tự trong thành Diên Khánh lẩn đến hành tại nói rằng Võ Tánh bị ốm nhẹ, tướng sĩ cũng nhiều người ốm. Vua lấy làm lo, tức thì lấy thuốc thang mật gửi cho Tánh và dụ rằng : "Trong 8 tháng nay khanh cùng tướng sĩ giữ cô thành vất vả lắm vậy. Ta cũng muốn gấp giải vây để cho tướng sĩ được nghỉ ngơi. Duy quân giặc cùng đường, liều chết cố đánh, cho nên ta dùng trí để thắng, nhân lúc nguy của nó mà đánh chỗ yếu của nó. Không bao lâu nó tất tự vỡ thôi. Nay chợt nghe thám tử nói, lòng ta thương xót. Khanh nên khéo tự điều trị cho sớm lành để cùng ta trả thù cho tổ tông Xã Tắc, cho thần dân hả giận, chứ lại chỉ khư khư giữ lấy một cái thành nhỏ hay sao ? Ta nghĩ một mình khanh còn hơn trăm thành Diên Khánh; chỉ trong tuần nhật ta phải đánh tan giặc ấy để cùng khanh gặp mặt". Lại dụ Tôn Thất Hội rằng : "Bầy tôi quan hệ của Xã Tắc, duy có khanh với Tánh ! Nay Diên Khánh bị vây đã lâu, mà Tánh lại ốm, nếu muôn một thế nào thì vua tôi ta chẳng thẹn với tướng sĩ lắm sao ? Nên gấp tiến binh, trước sau giáp đánh, để giải ngay nguy khổ cho tướng sĩ trong thành".

Sai Vệ úy vệ Hùng uy Nguyễn Đình Đắc kiêm quản viên quân các chi vệ Tiền chi, Ban trực tiền, Tuyển phong tả, Hổ oai, Kiên oai đi ra dinh Bình Khang xem xét địa thế để đóng đồn. Lại sai Chưởng cơ Tiền chi Trung quân là Nguyễn Văn Tứ, Phó Tiền chi Hậu thủy là Lê Văn Quế, Tham tri Binh bộ là Trần Phước Tri, Cựu ký lục Đăng Hữu Đào đi ra xứ Phần Tân dinh Bình Khang, chia đi vét mua thóc gạo cho dân gian và thu chứa mắm muối ở đạo thủ Hòn Khói để làm kế thanh dã, đợi sau khi giặc yên thì sẽ trả lại.

Quân của Tôn Thất Hội đến Du Lâm, đánh thắng Tư lệ Lê Trung, rồi thừa thắng lại đánh tan Tây Sơn ở Bồng Bong, Trung chạy đến Diên Khánh để họp quân với Trần Quang Diệu.

Vua dụ giục Hội tiến mau đến Lạp Quán, định kỳ hội đánh. (Bồng Bong, Lạp Quán đều là tên đất).

Giặc phạm đèo Gian Nan, Võ Văn Lượng đốc quân giao chiến mấy hợp, giết và đẩy lùi giặc. Giặc còn đóng đối lũy. Lượng xin thêm quân. Vua liền phái thêm quân vệ Kiên uy Hữu chi đến ứng viện.

Lấy Chánh trưởng chi Hữu chi Tiền quân là Trần Quang Minh làm Phó tướng Tiền quân, Khâm sai cai cơ quân Thần sách là Nguyễn Văn Trinh làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hữu, Hàng tướng là chỉ Trần Vĩnh Khoa làm Phó vệ úy vệ Hùng võ.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển VIII - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

ất mão, năm thứ 16 [1795], mùa thu, tháng 7, Tây Sơn chiếm giữ

Khố Sơn, đồn lũy rất vững, quân ta đánh mãi không phá được. Vừa có một lính tuần giặc là Nguyễn Danh Nho đầu hàng, vua sai mật hỏi lối đi tắt để ngầm đánh úp, Nho xin dẫn đường. Bèn kén hơn 300 quân chiến tâm ở các đội Túc trực và Nội trực, đêm sang sông Ngư Trường, sĩ tốt đều cởi quần, bò lên Khố Sơn, phóng lửa đốt bảo. Vua tự đem đại binh tiếp đến, tiếng hét vang trời. Gió mạnh lửa bốc, giặc cả sợ tan vỡ. Quân ta phá liền 12 bảo giặc. Tướng giặc là Trần Quang Diệu bỏ vây trốn chạy, bỏ lại voi, đại bác hỏa xa và khí giới không xiết kể.

Vua sai quản Tiên phong dinh là Nguyễn Văn Thành kiêm lĩnh tướng sĩ [vệ] Ban trực hậu, [vệ] Túc Võ, Tiền chi và [chi] Hiệu trung đuổi theo.

Thưởng 1 vạn quan tiền cho tướng sĩ dinh Hậu quân. Vua dụ Võ Tánh rằng : "Từ khi ta ủy cho khanh một dinh tướng sĩ để ở giữ đất này, đã 9 tháng nay, đói không được ăn, nhọc không được nghỉ, lại thêm dầu dãi sương gió lâu ngày, sinh nhiều tật bệnh, mà vẫn gắng sức cùng lòng, trong giữ được toàn thành, ngoài chống được giặc dữ, có thể bảo là cỏ cứng trước gió mạnh, thông già gặp năm rét gian nan trung trinh như thế, nghĩ thật là thương. Nay giặc đã trốn lui, cho khanh cùng tướng sĩ yên dưỡng nghỉ ngơi ở trong thành". Rồi sai xét trong bộ khúc, từ chánh phó trưởng chi, trưởng hiệu, cho đến cai đội, đội trưởng, ai là người dũng cảm mở thành ra đánh được thắng, cùng người tuy không ra đánh mà hết sức bền giữ và những

văn thư, tham luận, thư ký, ai có học hơi thông, nói năng lanh lẹ có nết đáng khen, có tài đáng lấy, thì đều làm thành danh sách, chờ chỉ để bàn khen thưởng.

Vua thân đem thủy quân tiến đến Chử Châu, sai Hùng võ vệ Nguyễn Đức Xuyên, Long võ vệ Nguyễn Hiên, Tuyển phong tả vệ Lê Thành Lý đều đem vệ binh đi gấp tới đèo Gian Nan, đặt ba bảo ở chân núi để ngăn giặc. Giặc chạy đến Tu Hà, đem hết quân vây đánh bảo, quân ta lấy đại bác bắn, quân và voi Tây Sơn chết và bị thương nhiều. Quân Nguyễn Văn Thành đuổi vừa tới, giặc vỡ chạy. Chưởng cơ Tiền chi Nguyễn Văn Đắc chặn đánh bị trúng đạn chết ở trận. Võ Văn Lượng và Nguyễn Đức Xuyên đem quân theo sau, đánh bắt được tướng binh và voi ngựa của giặc rất nhiều. Tướng giặc là Trần Quang Diệu bèn theo đường núi Nhà Cắp(1. Nhà Cắp : Đại Nam nhất thống chí chép là Nhự Phi.1) chạy về Quy Nhơn.

Thuyền vua trở về cửa biển Cù Huân, để Nguyễn Văn Trương và Trương Phước Luật giữ Chử Châu. Tướng quân thượng đạo Nguyễn Long giữ Đèo Cả và đèo Gian Nam.

Ngự giá đến thành Diên Khánh, triệu Nguyễn Văn Thành và Võ Văn Lượng rút quân về.

Khi Tây Sơn sắp lui đem nhiều súng đạn chôn giấu đi. Sắc cho quan dinh Bình Khang truyền khắp cho quân dân trong hạt, có ai đào được đem nộp thì sẽ tùy theo hạng lớn hạng nhỏ mà cấp tiền cho.

Tướng giặc Trần Quang Diệu đã về Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn mưu không thành về Thuận Hóa trước, Diệu cũng dẫn quân đi theo. Đến nơi, Nguyễn Quang Toản đem lời giảng giải, bèn lấy Diệu làm Thiếu phó, Huấn làm Thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm Tư đồ, Nguyễn Văn Danh làm Tư mã, gọi là tứ trụ. Từ đó bọn tướng giặc chia thành bè đảng, đánh giết lẫn nhau, Quang Toản không thể ngăn được.

Cai bạ Bình Khang là Ngũ Khắc Bạn và Ký lục là Hoàng Tú Chung đều bị bệnh chết. Lại lấy Nguyễn Y Mân làm Cai bạ Bình Khang, Đặng Hữu Đào làm Ký lục.

Tháng 8, sửa lại thành Diên Khánh, làm thêm kho tàng.

Tha tô thuế cho Diên Khánh và Bình Khang. Vua thấy mới đây Tây Sơn vào đánh, Diên Khánh bị hại nhất, thứ đến Bình Khang, dụ rằng năm nay Diên Khánh đều miễn cả tô thuế, Bình Khang thì được miễn tô. Những nhà dân ở ngoài thành bị giặc đốt cháy thì sưu dịch đều được miễn.

Vua dụ cho các tướng đem quân về, để Chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội ở lại trấn thành Diên Khánh. Sai Chưởng Hậu quân Võ Tánh kiêm quản binh thuyền Trung dinh quân Thần sách cùng các chi vệ hiệu đội Tiên phong và Hữu quân về Gia Định trước.

Sai Cai cơ dinh Trung quân Nguyễn Đức Thành tạm quản tướng sĩ Tiền chi theo ngự giá khải hoàn. Trích bổ chi Tiền du dinh Tiên phong làm chi Tiền du dinh Hậu quân, cùng hai vệ Trung kích, Tiền kích ở lại Diên Khánh theo Tôn Thất Hội sai khiến.

Vua về Gia Định, đi qua Bình Thuận, dụ nhân dân sở tại rằng : "Bổ quan đặt lại, chỉ là vì dân. Người chăn dân thì phải vâng mệnh mà tuyên truyền giáo hóa khiến dân yên nghiệp. Duy kẻ công bằng thì ít mà kẻ nhũng tệ thì nhiều, cho nên dân thường có điều ta thán, triều đình đã từng nghe. Nay loan giá đi qua, cũng muốn trú lại vài ngày để ai có oan khuất thì được tâu lên. Nhưng vì quân nhà vua nhọc mệt đã lâu, không tiện dừng lại. Đã sai Binh bộ Nguyễn Tử Châu ở lại, như quan công đường nhũng

lạm hối lộ cùng quan quân các đạo đi lại có những tình tệ lấn cướp sách nhiễu, thì cho làm thư kín cho Binh bộ đệ lên đợi xét để trừ mối tệ cho dân khỏi khổ.

Lấy Phó trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn làm Chánh trấn, Khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Điển làm Phó trấn.

Tháng 9, ngự giá về đến Gia Định, đặt yến tiệc ủy lạo tướng sĩ, luận công ban thưởng theo thứ bậc.

Nước Chân Lạp dâng 2 thớt voi đực.

Cấm thuyền buôn nước ngoài thu mua vải lụa.

Vua bảo Phó tướng Tả quân tri Tàu vụ là Phạm Văn Nhân rằng : "Vải lụa là vật thổ sản của ta, rất cần thiết cho nhân dân, nên để trao đổi nhau ở trong nước mà dùng cho đủ, nếu tham lợi mà bán ra nước khác thì giá ngày một đắt, khiến rét không có áo, chẳng hóa ra lợi ít mà hại nhiều sao ? Từ nay thuyền buôn của người Thanh xuất cảng hễ chở tơ sống từ 5 cân, vải lụa từ 5 tấm trở lên đều cấm. Làm trái thì cho Tấn thủ((1) Tấn thủ : Quan giữ cửa biển.1) bắt giải trị tội.

Lấy Cai đội Nội trực quân Thần sách là Mai Văn Nghị làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tả, Chánh đội trưởng Nội hầu Trương Phước Thọ làm Phó vệ úy vệ Long Võ.

Tháng 10, mùa đông, sai Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân phụ đạo Đông cung. Dụ rằng : "Đông cung là ngôi trừ nhị((2) Ngôi sẵn để làm vua.2), tuổi còn non trẻ, tuy công phu học vấn vốn nhờ giảng viện, nhưng nhiệm vụ giúp bảo [phụ đạo] là ở đại thần. Tướng sĩ giáp binh dinh Tả quân cho khanh vẫn quản lãnh như trước, còn việc trong môn đình của Đông cung, như quan lại, liêu thuộc, thị vệ, tôi tớ, hết thảy mọi việc đều ủy cho khanh. Cốt sao giúp đỡ Thái tử, hun đúc đức tốt, chẳng những trong khi nói năng nghĩ ngợi sao cho ít lỗi, lại mong mọi việc quốc gia thảy đều biết cả, đừng để cho chỉ Y Doãn nhà Thương và Thiệu công nhà Chu được tiếng tốt riêng về trước".

Cho Khâm sai tổng nhung cai cơ chưởng Hậu quân dinh Võ Tánh làm Khâm sai chưởng Hậu quân dinh bình Tây tham thặng đại tướng quân quận công, Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu úy Tả chi Trung quân dinh Võ Văn Lượng làm Khâm sai chưởng cơ. Lấy Khâm sai đô đốc chi Hiệu trung dinh Trung quân là Nguyễn Công Thái làm Hiệu úy Tiền chi, Khâm sai tổng nhung cai cơ chi Kiên uy là Nguyễn Đức Thành làm Phó trưởng chi Hậu chi, Phó vệ úy vệ Ban trực hậu quân Thần sách là Lê Công Cúc làm Vệ úy vệ Ban Trực tuyển phong tả, Khâm sai cai cơ Phạm Phước Ư làm Phó vệ úy vệ Ban trực hậu, Cai đội Hồ Văn Huệ làm Phó vệ úy vệ Phấn uy.

Lấy Binh bộ Nguyễn Tử Châu làm Hình bộ, cựu Lưu thủ Nguyễn Đức Thiện làm Binh bộ, Tham mưu Trung dinh Nguyễn Thái Nguyên làm Lễ bộ kiêm việc đốc học, Tham luận vệ Hổ uy Nguyễn Hoài Quỳnh làm Hữu tham tri Hình bộ, Khâm sai tham mưu đạo Long Xuyên Bùi Chí Thành làm Tả tham tri Hình bộ, Hàn lâm viện trưởng Lê Công Xuân làm Tả tham tri Lễ bộ, Viện trưởng Thị thư viện Hoàng Kim Cơ làm Viện trưởng Hàn lâm viện, Thị thư viện Trần Quang Tĩnh, Nguyễn Khắc Thiệu, Đinh Công Khiêm sung Hàn lâm viện.

Lấy người học trò ở Quy Nhơn là Hoàng Tử Cao làm Hàn lâm viện thị học, do Lễ bộ Nguyễn Thái Nguyên tiến cử.

Thu vải trắng của dân trại đồn điền nộp thay thuế để may áo chiến cho quân sĩ. (Mỗi người nộp 1 tấm vải trắng, trị giá 2 quan 5 tiền, khấu trừ tiền thuế năm Bính thìn).

Chọn những tướng sĩ bị bệnh bị thương ở các dinh quân. Vua cho rằng liền năm chinh chiến, các tướng sĩ bị bệnh bị thương về quê quán nhiều, mà tên vẫn còn ở cuối sổ, hư thực chưa rõ ràng, sắc cho các quan cai quản đều căn cứ vào sổ binh, từ năm Giáp dần tới nay, phàm những viên quân ngạch tinh binh kén lựa hay lạc tòng(1. Lạc tòng : Tức quân tình nguyện. 1), người nào bị bệnh bị thương, cùng với những người bị bệnh thải năm trước cho về quê quán, thì làm một sổ riêng, hạn đến thượng tuần tháng sau đều đến đợi tuyển để chia suất, nếu có người tư tình hối lộ tha cho không đến tuyển, việc phát giác thì xử theo quân pháp.

Bàn làm duyệt tuyển. Bốn dinh hai đạo ở Gia Định thì tuyển kỳ vào tháng 2 sang năm Bình Khang, Bình Thuận thì vào tháng 12 năm nay. Sai đều phải làm sẵn sổ tuyển. (Phàm dân thực nạp biệt nạp các tổng xã thôn phường trong hạt và các đội thuyền thuộc binh, các đội nậu đồn điền, các cục tượng ty, cai đội, đội trưởng, xã trưởng, tri thu, cai trại, cứ theo sổ chấp bằng năm nay mà chia làm ba hạng tráng quân dân, cùng với những hạng lão, tàn tật, cùng, cố và những người chưa đến tuổi và đến 17 tuổi trở lên, cùng những hạng ngoại tiêu sai và biệt tính, có nhà hay ở ngụ, cho đến những người mới về, mới tục sổ, mới đến tuổi, đều ghi vào sổ, chưa rõ họ tên, tuổi, quê quán. Những hạng lão nhiêu, nhiêu tật trong kỳ tuyển trước và những người khai trốn khai chết các năm trước thì ghi cuối sổ. Làm sổ tuyển bìa xanh ba bản Giáp ất Bính, tới kỳ nộp cho quan tuyển trường).

Sai Bảo hộ quản Hậu thủy dinh là Nguyễn Văn Nhàn vâng mệnh sang sứ Xiêm báo tin thắng trận. (Tặng Phật vương 2 cành hoa vàng hoa bạc, 10 lạng kỳ nam, sáp ong, đường cát đều 500 cân ; cho vua thứ hai 2 cành hoa vàng hoa bạc, sáp ong, đường cát đều 500 cân).

Bọn Cai cơ thuộc dinh Tiền quân là Nguyễn Văn Triệu, Ngô Văn Bình, Nguyễn Văn Đại có tội bị giết. Trước là khi đại binh xuất chinh, bọn Triệu thác bệnh không theo, lại họp đảng đi ăn cướp, bị các dinh Trấn Định và Vĩnh Trấn bắt được giải nộp. Ra lệnh chém bêu đầu cho dân chúng biết.

Sai Giám thành sứ là Tô Văn Đoài kiêm quản các đội Hùng Diệm và An Công trông nom các việc nấu luyện và thu phát thuốc súng, diêm tiêu, lưu hoàng, hỏa khí, lại sai trông nom các đội nậu đồn điền chăn nuôi trâu dê bò để cung cho việc tế tự yến tiệc.

Sai Cai cơ phó chi Kiến vũ là Tôn Thọ Vinh quản đạo Phố Hài, kiêm hai đạo Phan Thiết và Vị Nê.

Sai Binh bộ Nguyễn Đức Thiện quản việc thuế thủy lợi.

Chuẩn định rằng từ nay thuyền buôn đi các xứ Nam Vang, Long Xuyên, Kiên Giang, Hà Tiên, Chân Bôn để buôn bán thì do Lại bộ Nguyễn Bảo Trí phê bằng đóng dấu triện Thông hành thủ tín(1. Thông hành thủ tín : Thông hành giữ làm tin. 1) để phòng sự giả mạo. Quan địa phương không được cho riêng. Làm trái thì có tội.

Tháng 11, định rõ điều lệ nấu rượu. Phàm lò nấu rượu không cứ số lò bao nhiêu, mỗi lò mỗi năm nộp 200 quan tiền thuế. Võ từ cai đội, đội trưởng, văn từ câu kê, cai hợp, cho đến quân dân đều được lĩnh nấu, nộp tiền thuế trước rồi mới được phê bằng đóng dấu triện : Dữ dân đồng lợi(1. Dữ dân đồng lợi : Cùng hưởng lợi với dân. 1). Có người nào nấu trộm nấu lạm thì cho người lãnh nấu được bắt giải ; quan thu lấy đồ nấu rượu ấy để thưởng cho người bắt ; lại cứ số lò nấu trộm lạm ấy mà thu thuế, một nửa sung công, một nửa thưởng cho người bắt ; lại đánh người phạm tội 100 roi. Nếu người bắt được ăn tiền riêng mà tha và không phải là người lãnh nấu mà tự tiện bắt tự tiện tha thì đều phải tội cả.

Lấy Khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tả quân Thần sách là Lê Văn Tự làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu, Cai đội Dương Bá Quý làm Phó vệ úy, Thuộc nội cai đội khâm sai cai đội Lê Nhân Sử làm Phó vệ úy vệ Tuyển phong tả, Khâm sai thuộc nội cai đội khâm sai đốc chiến cai cơ Đào Duy Dụng làm Phó vệ úy vệ Ban trực tiền, Khâm sai thuộc nội cai cơ cai đội Bùi Công Tân làm Phó vệ úy vệ Ban trực hậu, Thuộc nội cai đội Tôn Thất Hoảng làm Phó vệ úy vệ Ban trực tả, Khâm sai thuộc nội cai đội khâm sai cai đội Tôn Thất Nông làm Phó vệ úy vệ Ban trực hữu, Khâm sai thuộc nội cai đội khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Liên làm Phó vệ úy vệ Hổ oai, Khâm sai thuộc nội cai cơ cai đội Lê Công Thành làm Phó vệ úy vệ Hùng oai, Thuộc nội cai đội cai đội Nguyễn Văn Tuyết làm Phó vệ úy vệ Kiên úy, Thuộc nội cai đội là hàng tướng đô đốc Đoàn Công Minh làm thuộc nội Phó vệ úy vệ Túc võ. Sắc từ nay chánh phó vệ úy các vệ quân Thần sách đều thêm hai chữ "thuộc nội".

Đặt vệ Võ uy quân Thần sách, lấy những hàng binh người Bắc Hà sung vào. Lấy hàng tướng là Phó vệ úy Hoàng Văn Thành làm Thuộc nội vệ úy vệ Võ uy, Cai cơ Võ Công Ân và chỉ huy Phạm Xuân Cảnh đều làm Thuộc nội phó vệ úy.

Lấy hàng tướng chỉ huy Nguyễn Văn Thư làm Phó hiệu úy Tiền chi Trung quân, Khâm sai cai cơ Nguyễn Liêm làm Phó hiệu úy Hậu chi, Khâm sai cai đội Tả quân Nguyễn Văn Sử, Trung dinh Võ Giáp, Khâm sai cai đội Phan Mạnh Chính, đều làm Phó vệ úy vệ Thần võ.

Sai Chưởng cơ Thuận Thành Nguyễn Văn Hào và Chánh trấn Nguyễn Văn Chấn, cứ theo ngạch cũ mà lập cơ An tượng 20 người, bắt voi hiến nộp.

Dựng kho tạm ở bảo Mỹ Tho dinh Trấn Định, sai dinh thần lấy 15.000 phương thóc thuế và 1.600 phương muối ở bảo Trấn Di mà chứa vào.

Cai bạ Bình Thuận là Lê Đình Kiêm vì ốm miễn chức ; lấy cựu Tri phủ Trần Văn Thuyên làm Cai bạ Bình Thuận.

Sai Chưởng Tiền quân dinh là Tôn Thất Hội làm duyệt tuyển ở hai phủ Bình Khang, Diên Khánh, quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành, Chưởng cơ Võ Văn Lượng, Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế làm duyệt tuyển ở phủ Bình Thuận. Tuyển xong lại kén những người tinh nhanh khỏe mạnh làm hương binh, biến thành đội ngũ. ở hai phủ Bình Khang và Diên Khánh

thì đặt 36 đội Bình Sơn, Bình Hòa, Bình Yên, Bình Thành, Bình Thủy. (Bình Sơn 10 đội, Bình Hòa 10 đội, Bình Yên 6 đội, Bình Thành 2 đội,

Bình Thủy 8 đội), phủ Bình Thuận thì đặt 43 đội Thuận Nghĩa, Thuận Hòa, Thuận Đức, Thuận An, Thuận Thủy (Thuận Nghĩa 11 đội, Thuận Hòa

10 đội, Thuận Đức 8 đội, Thuận An 4 đội, Thuận Thủy 10 đội). Mỗi đội

đặt 1 cai đội, 1 đội trưởng, lấy người thổ dân cho làm. Binh lính thì đều miễn dao dịch.

Tháng 12, sai dinh Bình Thuận thu trước số tiền thuế sai dư năm Bính thìn cùng số tiền thuế năm nay, chở đến chứa ở Diên Khánh.

Lấy Phó chưởng chi Hậu chi Trung quân là Nguyễn Đức Thành làm Hiệu úy Hữu chi, Chánh vệ vệ Uy võ Hậu quân là Võ Di Minh làm Vệ úy vệ Dương võ quân Thần sách, Khâm sai thuộc nội cai đội Trần Văn Bảo, hàng tướng chỉ huy Phan Văn Đức, đều làm Phó vệ úy, Khâm sai cai đội Hoàng Văn Hán làm Phó vệ úy vệ Hùng võ, Cai đội Dương Tiến Dực làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hữu.

Cho vua nước Chân Lạp là Nặc Chăn thuyền rồng và đồ ngựa, sai Chưởng cơ Hồ Văn Lân và Tham tri Hộ bộ Nguyễn Văn Mỹ đem chỉ dụ đến cấp cho.

Lấy Quốc tử giám thị học Hoàng Ngọc Uẩn, Hoàng Công Xuân, Nguyễn Công Hạc, Nguyễn Thừa Gia, Trần Văn Đàn, Nguyễn Chính Thị, Nguyễn Văn Yên làm Hàn lâm viện thị học.

Định rõ phép thi. Trước là nhà vua thắng trận khải hoàn, sắc định lấy tháng 3 sang năm mở khoa thi Hội gồm ba kỳ, đều theo đúng điển lệ tiền triều. Đến đây, Lễ bộ Nguyễn Thái Nguyên, Lại bộ Nguyễn Bảo Trí, Hình bộ Nguyễn Tử Châu, Binh bộ Nguyễn Đức Thiện kiến nghị rằng điển lệ thi Hội khoa này có hơi khác với khoa Tân hợi, e học trò có điều chưa rõ, không khỏi ngơ ngác, xin nghĩ định phép thi : Kỳ đệ nhất 2 bài kinh nghĩa truyện nghĩa, 2 bài thơ vịnh sử, vịnh cảnh ; kỳ đệ nhị văn sử và văn tả cảnh mỗi thứ đều 3 bài ; kỳ đệ tam thơ và phú, vịnh sử, vịnh cảnh đều một bài. Người đỗ chia làm ba hạng Giáp ất Bính, lượng bổ quan chức và cho được miễn binh dịch dao dịch theo thứ bực. (Kỳ đệ nhất kinh nghĩa truyện nghĩa 2 bài, người trúng cách hạng giáp thì được miễn binh dịch dao dịch 6 năm, hạng ất 5 năm, hạng bính 4 năm ; thơ sử 2 đề, người trúng cách hạng giáp miễn binh dịch dao dịch 5 năm, hạng ất 4 năm, hạng bính 3 năm ; thơ cảnh 2 bài, người trúng cách hạng giáp miễn binh dao 4 năm, hạng ất 3 năm, hạng bính 2 năm. Như kinh nghĩa không trúng cách mà thơ trúng cách thì cũng không được vào kỳ đề nhị. Vào thi kỳ đệ nhị mà trúng cách về văn sử thì hạng giáp bổ lễ sinh, hạng ất làm nhiêu học 6 năm, hạng bính làm nhiêu học 5 năm. Về văn cảnh trúng cách thì hạng giáp làm nhiêu học 6 năm, hạng ất làm nhiêu học 5 năm, hạng bính làm nhiêu học 4 năm. Người nào khoa trước đã trúng cách được bổ bực gì thì thăng một cấp, nếu không trúng cách thì không được vào thi kỳ đệ tam. Vào kỳ đệ tam thi thơ phú về sử mà trúng cách thì hạng giáp được bổ cống sĩ, hạng ất được bổ huấn đạo, hạng bính được bổ lễ sinh ; thi thơ phú về cảnh mà trúng cách thì hạng giáp bổ huấn đạo, hạng ất bổ lễ sinh, hạng bính làm nhiêu học suốt đời. Người nào khoa trước đã trúng cách được bổ bực gì thì tùy bực mà thăng một cấp). Kiến nghị dâng lên. Vua nghe theo.

Vua nghe dân trại đồn điền trốn nhiều, không còn được mấy, sắc cho Hộ bộ báo khắp cho cai trại các trại phải mộ thêm mà bổ sung, mỗi trại lấy 15 người làm hạn. Nếu trong một tháng mà không đủ thì cai trại phải sung làm binh. Từ nay về sau cái lệ cho dân thực nạp mộ lập đồn điền làm cai trại và rút bỏ tên ở sổ thôn đi thì không cho làm nữa.

Bính thìn, năm thứ 17 [1796] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 1), tháng giêng, mùa xuân, sai Cai cơ Nguyễn Tiến Lượng và Nguyễn Văn Thụy sung Chánh phó sứ sang Xiêm. (Tặng Phật vương một tòa bảo tháp bằng đá trắng, một xâu đèn thủy tinh, 10 lạng kỳ nam, sáp ong, đường phèn, đường hoa, đường cát mỗi thứ đều 500 cân).

Sửa bảo Mỹ Tho dinh Trấn Đinh.

Triệu Chưởng cơ hành lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Văn Nghĩa về. Lại lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ hiệu úy Hữu chi Trung quân là Nguyễn Văn Nhân làm Lưu thủ Trấn Biên.

Sai trạm đưa chè bánh đến thành Diên Khánh để ban cho các tướng sĩ dinh Tiền quân. Vua dụ Tôn Thất Hội rằng : "Đây ta lấy lòng thành đem quà cho tướng sĩ, khanh nên chia khắp để cùng được vinh hưởng ơn vua".

Tháng 2, làm duyệt tuyển ở bốn dinh đất Gia Định. Sai Khâm sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Văn Châu, Lưu thủ Vĩnh Trấn Hồ Đức Vạn, Lễ bộ Nguyễn Thái Nguyên, Tả tham tri Binh bộ Trần Phước Tri làm quan tuyển trường Trấn Biên và Phiên Trấn ; Lưu thủ Phiên Trấn Nguyễn Đức Thịnh, Hiệu úy Hữu chi Trung quân Nguyễn Đức Thành, Hộ bộ Phan Thiên Phước, Hữu tham tri Lễ bộ Lê Công Xuân làm quan tuyển trường Trấn Định và Vĩnh Trấn. (Hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang phụ vào đó). Tuyển xong, sai theo sổ ban cấp giấy bằng tích, để có thể kiểm soát phòng gian dối.

Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản chia sai bè đảng đem quân đóng giữ từ Quảng Nam đến Quy Nhơn. Thám tử về báo.

Vua mật dụ Tôn Thất Hội rằng : "Diên Khánh tiếp giáp Quy Nhơn, khanh lưu trấn ở đó, tình hình giặc chắc biết rõ, nếu có thể thừa cơ đánh được, hoặc đi xa mà thắng được, hoặc đánh gần mà thành công, thì binh giáp thuyền bè của ta đều đã đầy đủ sẵn sàng, hoặc hãy xem thời cơ rồi sau hành động, không nên vội vã, nên xét kỹ sự thế ngay, chạy biểu báo lên". Rồi sai đem áo mát cho Tiền quân dinh và thượng đạo tướng quân Nguyễn Long, Cai cơ chi Kiến nghĩa Nguyễn Văn Quế, Cai cơ chi Nghĩa dũng Nguyễn Văn Nguyện, cùng các tướng sĩ theo thứ bậc.

Đóng 15 chiến thuyền lớn hiệu "Gia", xếp theo tam tài và thập nhị chi :

1 – Thuyền Gia hưng hiệu chữ Thiên

2 – Thuyền Gia khánh hiệu chữ Địa

3 – Thuyền Gia nguyên hiệu chữ Nhân

4 – Thuyền Gia hạnh hiệu chữ Tý

5 – Thuyền Gia trinh hiệu chữ Sửu

6 – Thuyền Gia tường hiệu chữ Dần

7 – Thuyền Gia minh hiệu chữ Mão

8 – Thuyền Gia hòa hiệu chữ Thìn

9 – Thuyền Gia trị hiệu chữ Tỵ

10 – Thuyền Gia thịnh hiệu chữ Ngọ

11 – Thuyền Gia vĩnh hiệu chữ Mùi

12 – Thuyền Gia hựu hiệu chữ Thân

13 – Thuyền Gia hi hiệu chữ Dậu

14 – Thuyền Gia hội hiệu chữ Tuất

15 – Thuyền Gia thiện hiệu chữ Hợi

Đặt 15 tĩnh hải úy chia nhau cai quản.

Tuyên úy sứ thị giảng hành Lễ bộ sự là Nguyễn Đô chết (truy tặng Lễ bộ thượng thư).

Lấy Hàn lâm viện Đỗ Thành Lâm làm Khâm sai thuộc nội cai đội phó vệ úy vệ Hùng võ quân Thần sách.

Tháng 3, mở khoa thi lấy đỗ 273 người. Trúng tam trường là Ngũ Khắc Minh, Phạm Đăng Hưng (14 người) ; trúng nhị trường là Trần Văn Đản, Nguyễn Văn Uyên (54 người) ; trúng nhất trường là Trần Văn Tính, Trần Lợi Trinh, Lê Đăng Doanh, Hoàng Văn Diễn, Nguyễn Tường Vân (205 người).

Đổi định lại lệ thuế sai dư của dân biệt nạp. (Theo phép cũ, các trại đồn điền, các nậu sáp ong, mỗi năm thu mỗi người 2 quan 4 tiền 30 đồng, các đội nậu sái phu [phu quét dọn], tân sài [kiếm củi] mỗi người 2 quan 3 tiền 30 đồng, các ty nam trừu [trừu ta], quang lăng [lĩnh láng], hắc lăng [lĩnh thâm] mỗi người đều 1 quan 1 tiền. Đến đây đổi định mỗi người đều 3 quan).

Cấp thẻ hợp phù cho lính và thợ. Vua thấy quân và dân lẫn lộn, danh thực hỗn tạp, có kẻ giả mạo làm cấm vệ đi cướp của người ta, có kẻ trốn ra thôn xóm để khỏi thuế dịch, bèn ra lệnh kiểm điểm các vệ đội thuyền chi hiệu thủy bộ trong ngoài của dinh Trung quân, cùng thuộc binh tinh binh kén lựa và lạc tòng của các vệ các dinh và các cục tượng ty thuộc Nhà đồ, cấp cho thẻ hợp phù mà đeo để xét thực giả.

Đặt vệ Uy võ quân Thần sách, lấy cựu Phó vệ úy là Thuộc nội cai đội Tống Văn Thạnh (con điều kiển Tống Văn Khôi) làm Vệ úy, Khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Đồng làm Phó vệ úy.

Ban cho Tiền quân Tôn Thất Hội 3 cây gấm hoa nho sóc.

Sai đội Nội mã ra đảo Côn Lôn chọn ngựa công về dâng.

Bốn dinh ở Gia Định nhiều trộm cướp, sắc cho các dinh thần phái quân đi xét bắt cho dân yên ổn.

Tháng 4, mùa hạ, sai biến 5 chi dinh Hữu quân làm Trung chi và Hậu chi dinh Hữu quân ; trích bổ Hậu chi dinh Trung quân làm Tiền chi dinh Hữu quân, Tả chi dinh Trung quân làm Tả chi dinh Hữu quân, Hữu chi dinh Trung quân làm Hữu chi dinh Hữu quân ; biên 5 đội Trung kiên, Tiền kích, Tả kích, Hữu kích, Hậu kích dinh Tiên phong và hương binh Bình Thuận 8 đội Thuận đức, 2 đội Thuận hòa, tất cả 15 đội làm Trung chi Tín võ dinh Tiên phong ; trích bổ chi Túc uy dinh Trung quân làm Tiền chi Túc uy dinh Tiên phong, chi Kiến vũ làm hậu chi Kiến vũ dinh Tiên phong. Tên quan và hiệu quân đều đổi theo danh sắc biên chế mới.

Lấy Khâm sai chưởng cơ hiệu úy Tả chi Trung quân là Võ Văn Lượng làm Phó tướng Hữu quân, Khâm sai tổng nhung cai cơ chi Túc uy là Nguyễn Văn Lợi, Khâm sai tổng nhung cai cơ chi Kiến võ là Nguyễn Văn Tính làm Phó tướng Tiên phong, Khâm sai thống binh cai cơ hiệu úy Hậu chi Trung quân là Mạc Văn Tô quản Tiền chi Hữu quân, Khâm sai tổng nhung cai cơ hiệu úy Hữu chi Trung quân là Nguyễn Đức Thành quản Hữu chi Hữu quân, Khâm sai tổng nhung cai cơ phó hiệu úy Tả chi Trung quân là Võ Văn Sĩ làm chánh trưởng chi Tả chi Hữu quân, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Hữu hiệu là Võ Văn Giáo làm Phó trưởng chi, Khâm sai cai cơ chi Chánh tả Hữu quân là Nguyễn Văn Tuyển làm Chánh trưởng chi Trung chi, Khâm sai cai cơ chi Phó tả là Nguyễn Đình Phước làm Phó trưởng chi, Khâm sai thống binh cai cơ chi Chánh tiền là Phạm Đắc Chất làm chánh trưởng chi Hậu chi, Khâm sai cai cơ Phó tiền là Hồ Văn Cửu làm Phó trưởng chi, Khâm sai cai cơ chi Chánh tiền dinh Tiên phong là Nguyễn Huệ làm Chánh trưởng chi Trung chi Tín võ, Khâm sai cai cơ Chánh hữu là Nguyễn Văn Kiên làm Phó trưởng chi, Khâm sai thống binh cai cơ quản đạo Hưng Phước là Lê Văn Lân làm Chánh trưởng chi Tiền chi Túc uy, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tả hiệu chi Túc uy là Nguyễn Văn Tường làm Phó trưởng chi, Khâm sai thống binh cai cơ phó chi Kiến võ là Tôn Thọ Vinh làm Chánh trưởng chi Hậu chi Kiến võ, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Hậu hiệu là Phạm Văn Tòng làm Phó trưởng chi.

Sai Phó tướng Tiên phong Nguyễn Văn Tánh lấy bản chức hành Lưu thủ Bình Thuận.

Đặt bốn vệ Thần uy, Thần dũng, Thần lược, Thần toán thuộc Tả quân. Lấy Cai đội vệ Hùng võ quân Thần sách là Phạm Văn Trí làm Chánh vệ vệ Thần uy, Cai cơ Nguyễn Văn Lân, Cai đội Nguyễn Văn Thuận làm Phó vệ, Khâm sai cai cơ hậu hiệu Hữu chi Tả quân là Nguyễn Văn Thống làm Chánh vệ vệ Thần dũng, Cai đội Nguyễn Văn Hưng, Trương Đình Điêu làm Phó vệ, Khâm sai thống binh cai cơ Tiền quân Nguyễn Văn Châu làm Chánh vệ vệ Thần lược, Khâm sai cai cơ Tả quân Hoàng Cổng Yên, Khâm sai cai đội Mai Văn Bảo làm Phó vệ, Khâm sai cai đội Tiền quân Nguyễn Văn Thùy làm Chánh vệ vệ Thần toán, Khâm sai cai đội Tiền quân Nguyễn Văn Xuân, Khâm sai cai đội Tả quân Bùi Văn Hoan làm Phó vệ.

Đặt 5 vệ Nhuệ phong, Chiến phong, Chiêu võ, Tuyên võ, Chương võ thuộc Hậu quân. Lấy hàng tướng Đô úy Ngô Văn Sở làm Chánh vệ vệ Nhuệ phong, Cai đội Bùi Văn Trương, Nguyễn Triêm làm Phó vệ, Khâm sai tham tá chánh trưởng chi Tả chi Hậu quân là Nguyễn Văn Thành làm Chánh vệ vệ Chiến phong, Cai đội Nguyễn Quang Thuận, Nguyễn Văn Thủ làm

Phó vệ, Khâm sai cai đội Nguyễn Văn Phụng làm Chánh vệ vệ Chiêu võ, Cai đội Trương Văn Tú, Nguyễn Văn Đạo làm Phó vệ, Văn hàn cai hợp

Lê Xuân Thái làm Chánh vệ vệ Tuyên võ, Cai đội Trần Công Thịnh, Nguyễn Văn Quý làm Phó vệ, Khâm sai cai đội Phan Công Minh làm Chánh vệ vệ Chương võ, Cai đội Nguyễn Văn Thìn, hàng tướng chỉ huy Lê Nho Can làm Phó vệ.

Lấy Khâm sai cai cơ dinh Tiền phong là Đặng Tiến Hòa làm Chánh vệ vệ Kiên võ, Đoàn Văn Tình, Nguyễn Văn Huyên làm Phó vệ, Khâm sai

cai cơ trưởng hiệu hiệu Tiền du Hữu quân làm Dương Văn Hợp làm Phó

vệ dũng.

Lấy Chánh trưởng chi Hậu chi Tả quân là Lê Tiến Tham làm Chánh trưởng chi Trung chi, Trưởng hiệu Tả hiệu Nguyễn Văn Lữ làm Phó trưởng chi, Cai đội Võ dũng là Cao Văn Lược làm Chánh trưởng chi Tả chi, Trưởng hiệu Tiền hiệu Bạch Văn Đoài làm Phó trưởng chi, Phó trưởng chi Hậu chi Nguyễn Văn Nhàn làm Chánh trưởng chi, Trưởng hiệu Tả hiệu Nguyễn Văn Thiện làm Phó trưởng chi.

Lấy Chánh vệ vệ Hùng phong Hậu quân Mai Tiến Huệ làm Chánh trưởng chi Trung chi, Trưởng hiệu Tiền hiệu Lương Văn Ba làm Phó trưởng chi, Trưởng hiệu Tả hiệu Tả chi Đỗ Văn Súng làm Chánh trưởng chi Tả chi, Trưởng hiệu Tiền hiệu Nguyễn Hữu Phước làm Phó trưởng chi, Trưởng hiệu Hữu hiệu Tiền chi Nguyễn Văn Tín làm Phó trưởng chi Tiền chi, Phó trưởng chi Hữu chi Trần Tiến Voi làm Phó trưởng chi Hậu chi, Trưởng hiệu Hữu hiệu Hữu chi Nguyễn Văn Hiếu làm Phó trưởng chi Hữu chi, Phó vệ vệ Hùng phong Phạm Văn Trường làm Chánh vệ, Khâm sai cai cơ Trần Văn ất làm Phó vệ, Khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Hưng, Khâm sai cai đội Nguyễn Văn Minh làm Phó vệ Nghị võ.

Lấy nho học Huấn đạo Phạm Văn Nhàn và Mai Văn Dụ sung Công sĩ viện.

Chưởng cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào và Chánh trấn Nguyễn Văn Chấn hiến 20 thớt voi nhà.

Vua nghĩ tướng sĩ liền năm đánh dẹp, không nỡ bắt nhọc mệt nữa, bàn nghỉ binh, đợi đến sang năm sẽ đánh lớn. Sắc cho các đinh quân cho hết quân lính về quê để kịp ngày mùa.

Tháng 5, Phó tướng Hữu quân Võ Văn Lượng dâng sớ xin mộ thêm quân lạc tòng để bổ sung cho vệ Võ dực và 2 đội Hùng kỳ và Tiệp sai.

Vua cho.

Ra lệnh khuyến nông.

Vua dụ quan công đường các dinh rằng : "Nghề nông là gốc của nước, ăn có đủ thì quân mới mạnh, cho nên người xưa đi thăm dân cày, đi thăm dân gặt, là cốt khuyên dân biết chăm việc gốc. Nay đương mùa làm ruộng, nên dụ bảo cho quân dân trong hạt, hết sức chăm việc làm ruộng, ai không ruộng thì mướn ruộng mà cày. Lý dịch sở tại đều phải biên sổ, đợi khám để phân biệt kẻ siêng người lười.

Lấy Phủ lễ sinh là Phạm Đăng Hưng sung Cống sĩ viện, Phủ lễ sinh Hoàng Văn Diễn và Nhiêu học Trần Văn Tính sung Thị thư viện. Lấy bọn nho học Huấn đạo Nguyễn Hữu Thứ, Phủ lễ sinh Nguyễn Hữu Định, Nhiêu học Nguyễn Tường Vân, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Đức Chí 17 người sung Nội thị thư viện.

Sai bọn nội viện Chu Văn Yên sang nước Thanh mua sách và hàng hóa.

Tháng 6, cải bổ 10 đội An nghĩa thuộc Hậu chi cũ của Trung quân (nguyên là quân lạc tòng thuộc Mạc Văn Tô) làm vệ Võ lương thuộc Tiền chi Hữu quân, 6 đội thuộc chi Kiên uy cũ của Trung quân (nguyên là tinh binh thuộc Nguyễn Đức Thành) làm vệ Hoàng võ thuộc Hữu chi Hữu quân. Lấy Khâm sai cai cơ Phan Văn Thịnh làm Chánh vệ vệ Võ lương,

Phạm Văn Lý làm Phó vệ, Khâm sai cai đội Phan Văn Khả làm Phó vệ vệ Hoằng võ.

Xiêm La sai sứ sang hiến voi đực.

Vua bảo bọn quan chiêm hậu là Lê Đức Lộc và Nguyễn Ngọc Lân rằng: "Nhật thực nguyệt thực đều có độ thường, có thể tính được, cho nên người tính giỏi thì không lầm. Trước kia hễ có nhật thực nguyệt thực thì cứ đợi gần đến ngày mới báo lên, bây giờ đã có lịch nhà Thanh đem sang rồi, chẳng phải là ăn cắp cái giỏi của người để làm của mình ư ? Sao gọi là thực học được ? Từ nay về sau như có nhật thực nguyệt thực ở ngày tháng năm nào, mới khuyết, khuyết nhiều, lại tròn vào giờ nào, phải suy tính độ số trước, vào khoảng thượng tuần tháng 10 năm trước, mỗi người làm một bản riêng tiến trình, tới kỳ xét nghiệm, tính trúng thì được thưởng, không trúng thì có phạt".

Chở tiền gạo ở Gia Định và Bình Thuận đến chứa ở thành Diên Khánh (Gia Định gạo lương 11.400 phương, tiền quan 30.000 quan. Bình Thuận gạo lương hơn 1.400 phương).

Sai Lưu thủ Bình Khang Nguyễn Thoan kén quân lạc tòng để sung bổ vào 2 thuyền Nhưng súng, Kiên súng của bản dinh, mỗi thuyền 60 người.

Triệu Tôn Thất Hội về, sai Chưởng Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức thay Trấn thành Diên Khánh, Phó tướng Võ Văn Lượng đem bộ khúc đi theo, Tán lý Đặng Trần Thường giúp việc quân cơ.

Mùa thu, tháng 7, lấy quản Hữu quân Tiền chi Mạc Văn Tô làm Phó tướng Hữu quân.

Lấy Cai bạ tri Đồ gia là Trần Văn Thái làm Công bộ.

Đặt 5 dinh thủy quân. Trước mới đặt 3 dinh Trung thủy, Tiền thủy, Hậu thủy, người quản dinh chỉ quản một chi, đến đây mới đặt thêm Tả thủy, Hữu thủy nữa làm 5 dinh, lấy chi hiệu các vệ Ngũ tiệp, Ngũ thuận, Ngũ khuông, Ngũ dực chia bổ vào, mỗi dinh đều có 3 chi trung, tiền, hậu. Chánh quản dinh thống lĩnh tướng sĩ bản dinh, phó dinh chuyên quản Trung chi. Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ quản thuyền Nội thủy Trung thủy của Trung quân là Võ Di Nguy quản dinh Trung thủy, hiệp cùng Công bộ Trần Văn Thái kiêm coi công việc sửa đóng thuyền ghe năm dinh, Khâm sai thống binh cai cơ quản chi Tiền thuận dinh Tiền Thủy là Nguyễn Văn Huấn quản dinh Tiền thủy, Khâm sai đốc chiến cai cơ phó dinh Hậu thủy là Nguyễn Hữu Chính làm phó dinh Tiền thủy, Khâm sai thuộc nội cai cơ chi Chánh hậu dinh Tiền thủy là Hoàng Văn Khánh quản dinh Tả thủy, Phó hậu chi dinh Tiền thủy là Nguyễn Hữu Nghị làm Phó dinh Tả thủy, Khâm sai cai cơ chánh Tiền chi dinh Tiền thủy là Nguyễn Công Nga quản dinh Hữu thủy, Khâm sai thống binh cai cơ phó chi Trung thuận là Nguyễn Văn Cẩm làm Phó dinh Hữu thủy, Khâm sai tổng nhung cai cơ quản chi Tả thuận quản dinh Hậu thủy là Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn quản dinh Hậu thủy, Khâm sai thống nhung cai cơ phó Tiền chi quản hiệu Trung dực dinh hậu thủy là Lê Văn Quế làm Phó dinh Hậu thủy, Khâm sai thống binh cai cơ chánh Hậu chi dinh Trung thủy quản đạo Thanh Châu là Cù Văn Liêm làm Chánh Tiền chi dinh Trung thủy, Khâm sai cai cơ phó Hậu chi quản đạo Thanh Châu là Võ Văn Khách làm Phó Tiền chi, Khâm sai cai cơ chánh Tiền chi dinh Trung thủy là Nguyễn Văn Thái làm Chánh Tiền chi dinh Tiền thủy, Khâm sai thống binh cai cơ phó Tiền chi dinh Trung thủy là Nguyễn Văn Thụy làm Phó Tiền chi dinh Tiền thủy, Khâm sai thống binh cai cơ phó Tiền chi dinh Tiền thủy là Hoàng Văn Định làm Chánh Hậu chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Hậu hiệu chi Tiền thuận là Võ Văn Thị làm Phó Hậu chi, Khâm sai cai cơ chánh trưởng chi chi Hữu thuận là Tống Phước Ngoạn làm Chánh Tiền chi dinh Tả thủy, Khâm sai cai đội trưởng hiệu chi Hữu thuận là Đặng Phước Trung làm Phó Tiền chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu chi Hiệu thuận là Trần Công Lại làm Chánh Hậu chi, Cai đội chi Hậu thuận là Phan Văn Tam làm Phó Hậu chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tả hiệu chi Trung thuận là Hồ Văn Trương làm Chánh Tiền chi dinh Hữu thủy, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tiền hiệu chi Trung thuận là Trần Văn Phước làm Phó Tiền chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tiền hiệu chi Tiền thuận là Trần Văn Trung làm Chánh Hậu chi, Khâm sai cai đội hiệu Tiền khuông là Nguyễn Văn Khương làm Phó Hậu chi, Khâm sai chỉ huy chánh trưởng chi chi Quy thuận là Đào Văn Lương làm Chánh Tiền chi dinh Hậu thủy, Phó trưởng chi Trần Văn Giáo làm Phó Tiền chi, Khâm sai thuộc nội cai cơ chánh trưởng chi Tiền chi là Hoàng Văn Quý làm Chánh Hậu chi, Khâm sai thống binh cai cơ quản hiệu Tiền dực là Nguyễn Thụy làm Phó Hậu chi.

Lấy Khâm sai thống binh cai cơ phó Trung chi Hữu quân là Hoàng Văn Thắng làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách.

Lấy Nội điện câu kê Nguyễn Thành Chẩn làm Cai bạ Chính dinh hiệp cùng Khâm sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Đức Giảng và Cai đội Cáp Văn Hiếu coi công việc các cục tượng của Nhà đồ.

Lấy Cống sĩ viện Phạm Đăng Hưng làm Tham luận vệ Phấn võ quân Thần sách.

Sai phó hậu chi dinh Trung thủy quản đạo Ma Li là Lưu Tiến Hòa quản đạo Phan Rang kiêm hai thủ Ma Vằn và Du Lai.

Cho Khâm sai cai đội Đỗ Văn Huy làm Khâm sai đô thống chiêu thảo sứ. Huy dâng sớ nói : "Giặc Tây Sơn mấy năm đây thường bị quân nhà vua đánh thua. Nay nó dựa lũy cao hào sâu cho quân sĩ nghỉ ngơi, cốt để nuôi sức cho khẻo mà đợi quân ta mỏi mệt, chờ xem thế biến. Nếu ta không đánh trước thì e bị trúng kế giặc. Nhưng thế đánh hay giữ trước hết phải được địa lợi. Ngày nào đại binh tiến đánh, xin trước hãy đánh úp lấy Quảng Nam, chiếm giữ ba ải Hải Vân, chặn đường tiếp viện của địch. Quảng Nam đã lấy được thì Quy Nhơn, Quảng Ngãi có thể truyền hịch mà định được". Vua khen phải, cất bổ cho chức ấy, sai cùng bọn Tuyên úy sứ Phan Văn Loan, Tuyên úy sứ Phan Văn Phụng, Tuyên võ sứ Phạm Văn Tuy, Tham hiệp Đỗ Văn Chân, Trần Văn Phú, lẩn về các phủ Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thuận Hóa để chiêu dụ nghĩa binh, chờ ngày quân nhà vua đến sẽ ứng theo đánh giặc.

Tháng 8, Phó tướng Hữu quân Mạc Văn Tô ốm, xin nghỉ. Sai Khâm sai thuộc nội chưởng cơ vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền quân Thần sách là Tống Viết Phước tạm làm Phó tướng Hữu quân, quản các vệ Ban trực tiền, tả, hậu, Tuyển phong tiền, tả, hữu, hậu, Hổ oai và Hùng võ, đến thành Diên Khánh theo Lưu trấn Nguyễn Hoàng Đức điều bát.

Vua nhân dụ Hoàng Đức và Đặng Trần Thường rằng : "Điều chủ yếu trong việc dụng binh là trí và dũng giúp nhau. Tống Viết Phước là người dũng cảm, nhưng tính chưa thuần, các khanh nên khuyên bảo, khiến cho gặp việc biết sợ, lấy mưu mà thành. Phỏng gặp lúc hoãn cấp, đó cũng là một tay giúp đỡ. Còn việc điều động binh các vệ thì cũng nên nghiêm ngặt, trái lệnh thì chém, đừng cho là lính trong lính ngoài mà coi khác nhau. Dân là gốc nước, quân cốt phải nghiêm. ở ngoài biên khổn là quyền tướng quân, không cần nói nhiều".

Giặc biển Chà Và có 17 chiếc thuyền đậu ở Hòn Tre, lấy 3 chiếc sam bản vào cướp Kiên Giang, quân ở đạo ngăn đánh, chém được 5 thủ cấp, đoạt được một thuyền, đánh đắm một chiếc, còn một chiếc chạy về phía đông. Việc tâu lên. Vua sai Vệ úy vệ Hùng võ Nguyễn Đức Xuyên đem binh thuyền 10 vệ quân Thần sách và Tả quân thẳng đến Hòn Tre. Xuyên chia quân làm ba đạo đánh úp, bắt được tướng và quân giặc hơn 80 người, 15 chiếc thuyền, súng ống khí giới không xiết kể. Dân biên thùy bị giặc bắt được hơn 70 người đều khiến tha cho về hết. Từ đó giặc Chà Và khiếp sợ không dám xâm phạm nữa, đường buôn bán từ đó được thông.

Lấy Tham luận quân Thần sách là Nguyễn Tiến Bảo làm Ký lục Vĩnh Trấn, thu thuế sai dư của quân và dân sở Phú Quốc. (Tiền thuế của hạng tráng, quân, dân thực nạp và của hạng lão hạng tật thì y theo lệ bốn dinh. Những thú binh, mộ phu, người Minh Hương, người Đường [Hoa Kiều] thì mỗi người 3 quan).

Chuẩn định lệ nộp tiền ấn (phàm được cấp giấy châu thị [đóng dấu son], như các ty ở Chính dinh và hai ty Xá sai và Tướng thần lại ở các dinh, các chức cục tượng, huấn đạo, xướng suất, bản hiệu, đều nộp tiền 5 quan; các ty lĩnh láng, lĩnh thâm, trừu nam, vải trắng, bản phủ thì nộp 10 quan tiền, xã trưởng thì 3 quan, người dân dâng tạp đồng được công đồng cấp bằng cho làm thủ hợp tại gia được nhiêu thân(1. Nhiêu thân : Được miễn dao dịch. 1) thì nộp 10 quan).

Lấy Hàn lâm viện chế cáo Đoàn Trọng Viễn làm Hữu tham tri Lại bộ, Hồ Văn Định làm Tham tri Binh bộ, Huấn đạo Trần Minh Đức và Tham mưu Nguyễn Bá Tốn làm Hàn lâm viện chế cáo.

Sai quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành làm cai Tàu vụ ; lấy Thái y viện Nguyễn Thận là Thuộc nội cai đội làm Phó tri Tàu vụ.

Sai quản hậu thủy dinh là Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn đi Nam Vang và Bắc Tầm Bôn để chọn mua voi đực.

Sai lấy 68 sở thủy lợi ở Hậu Diện thuộc Tiền Giang và ở Châu Đốc thuộc Hậu Giang trả về Chân Lạp, cấm các ngư hộ không được xâm lấn, cũng không được mua riêng, làm trái thì xử tử.

Các quan văn võ là Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm, Nguyễn Thái Nguyên, Trần Phước Tri, Lê Quang Định và bọn cai cơ, cai đội, tri bạ, tham luận thấy việc quân rỗi rãi, thường cùng nhau chơi cờ bạc, chọi gà, chọi cá, được thua kể có trăm nghìn. Vua nghe biết, xuống chỉ quở trách. Bọn Văn Trương sợ hãi xin chịu tội. Vua đặc biệt rộng tha mà răn bảo thôi.

Tháng 9, sửa miếu ở Hội đồng ở Phiên Trấn.

Đặt mua đường cát ở Trấn Biên, cứ 100 cân đường giá 9 quan. Dụ quan công đường rằng : "Đường cát dùng để đổi mua binh khí, đương cần, không bắt sản xuất không được, cho nên phải phát vốn trước để trưng mua. Thế là công tư đều tiện lợi, không phải vét lợi của dân mà làm lợi cho nhà nước đâu. Nên thông dụ cho các đường hộ biết".

Sai Khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ chi Chấn võ là Võ Văn Lân giữ đạo Ma Li và kiêm ba thủ Khe Gà, La Di, Phù Mi.

Lấy Khâm sai chưởng cơ hiệu úy Tả chi Trung quân hành phó tướng Hữu quân là Võ Văn Lượng làm phó tướng Tả quân, rồi sai Phạm Văn Nhân chuyên quản năm vệ Thần võ, Thần uy, Thần dũng, Thần toán, Thần lược và Võ Văn Lượng chuyên quản năm chi, đều cho theo Đông cung điều bát.

Từ Phú Yên trở ra mất mùa, đói kém.

Vua nghĩ đã tới mùa gió bấc, giặc Tây Sơn có thể nhân thuận gió đến cướp tài vật của dân, dụ cho Nguyễn Hoàng Đức nghiêm sức cho các tấn thủ cửa biển ngày đêm tuần xét, và truyền khắp cho các phủ Bình Khang, Diên Khánh rằng mùa lúa gặt xong, phải chọn nơi mà cất, không để gần bãi biển, để phòng bất trắc ; lại nghiêm cấm những hộ đan buồm không được bán lén cho địch. Làm trái thì trị tội nặng.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển IX - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Bính thìn, năm thứ 17 [1796], mùa đông, tháng 10, ngày Kỷ mão, vua thân đem các quan bưng sách vàng ấn vàng tôn mẫu phi làm Quốc mẫu vương Thái phi.

Lời sách rằng : "Cúi nghĩ, lễ của thánh đế minh vương trước phải lấy chính danh làm trọng ; lòng của nhân nhân hiếu tử phải tôn vị hiệu trước tiên. Thế cho nên Hán Văn đế nối ngôi, liền tôn danh hiệu cho Bạc hậu; Tống Thái tổ mở nghiệp, bèn tôn vị hiệu cho Đỗ phi.

Há phải mẹ nhờ con mới quý !.

Chỉ vì đạo phải trọng luân thường.

Kính nghĩ, mẫu phi tính vốn nhu mì, nết gồm chín chắn. Thờ Hoàng khảo khi rồng ẩn dấu, như vợ vua Thuấn, chốn cung quyết vẫn vui hòa, giữ con thơ thuở hổ thét gầm, như mẹ vua Nghiêu, trong gia đình lưu Phước tốt. Công đức cao dày như thế, suy tôn chậm trễ sao nên ?

Ngặt vì đương khi đánh dẹp, bờ cõi chưa thống nhất dư đồ. Vừa nay, nhân lúc thư nhàn, quần thần đã nhiều lần dâng biểu. Cho nên tính trời khó cấm ; mới hay dễ hợp tình dân.

Nay con thân đem quần thần văn võ bưng sách vàng ấn vàng kính tôn làm Quốc vương thái phi, để theo phép cổ, để hợp ý người. Cúi mong như mặt trời lên, như trăng thường tỏ, sách với Thái Tự, Thái Nhâm((1) Thái Tự đẻ ra Chu Võ vương.

Thái Nhâm đẻ ra Chu Văn vương.1); tuổi càng cao mãi, đức càng lớn thêm, truyền Phước cho con cho cháu".

Lễ xong, bố cáo trong ngoài.

Dụ rằng : "Đạo thống của đế vương hiếu đễ trước hết ; kỷ cương của triều đình, danh phận làm đầu. Cho nên Hán Văn đế nối ngôi liền tôn danh hiệu cho Bạc hậu ; Tống Thái tổ mở nghiệp, bèn tôn hiệu cho Đỗ phi.

Trải qua liệt thánh triều ta, các đời đều tiến tôn quốc mẫu thái phu nhân, thực là đạo do trời đất, lễ suốt xưa nay.

Kính nghĩ mẫu phi : trải thờ Hoàng khảo, một nhà vui hòa ; nuôi nấng con thơ, trăm bề khó nhọc. Công đức như thế, gian nan như thế, ba mươi bốn năm nay, mọi người đều mắt thấy tai nghe.

Muốn đợi thống nhất được thổ vũ, khôi phục được giang sơn, rồi sau lấy cả thiên hạ để thờ, lấy cả thiên hạ để phụng dưỡng, mới thực hả lòng hiếu kính. Nhưng nay mẫu phi tuổi càng cao, đức càng thịnh, mà các quan ở triều lại dâng sớ xin tôn, khiến ta phải tin theo lời bàn ấy. Kính lấy ngày mồng 7 tháng 10 năm nay, thân đem các quan tiến sách ấn, dâng tôn hiệu làm Quốc mẫu vương thái phi cho hợp lời tâu. Nay tuyên truyền cho mọi người đều biết".

Lấy Thuộc nội cai đội vệ úy vệ Phấn uy quân Thần sách là Trần Đại Luật làm Chánh trưởng chi Tiền chi Hữu quân, Thuộc nội cai đội cựu phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hữu là Hoàng Văn Đệ làm Vệ úy vệ Phấn uy, Khâm sai thuộc nội cai đội phó vệ úy vệ Kiên uy là Nguyễn Văn Thịnh làm Vệ úy.

Sai Cai đội là Ba Lang Hy và Ba La Di (đều người Hồng Mao) đi Hạ Châu tìm mua binh khí.

Lấy Tham luận vệ Túc trực quân Thần sách là Lê Viết Nghĩa làm thư ký Chính dinh, Nội điện câu kê Trần Tiến Bảo, Hàn lâm viện Đinh Công Khiêm, Thị thư viện Lê Xuân Tần làm Tri bạ Chính dinh, cùng coi Nội

đồ gia.

Lấy Phó trưởng chi Hậu chi dinh Hậu thủy là Nguyễn Thụy làm Chánh trưởng chi, Khâm sai cai cơ suất Tiền dực hiệu là Phan Văn Ngũ làm Phó trưởng chi, Cai đội vệ Hữu tiệp dinh Trung thủy là Đặng Văn Doãn làm Chánh trưởng chi Hậu chi, Trần Văn Phan làm Phó trưởng chi.

Kén thêm quân ở ba huyện Phước Long, Tân Bình và Kiến An sung bổ và Tiền chi Túc uy dinh Tiên phong và bốn chi Trung, Tiền, Hữu, Hậu dinh Hữu quân ; sai bọn Phó tướng Tiên phong Nguyễn Văn Lợi, Chánh Tiền chi Hữu quân Trần Đại Luật, Tả tham tri Binh bộ Trần Phước Tri, Hữu tham tri Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế chia nhau đi kén. (Dân số tổng Phước An huyện Phú Long là 581 người, điểm thêm 170 người ; dân số tổng Long Thành là 476 người, điểm thêm 130 người, bổ vào Tiền chi Túc uy dinh Tiên phong ; dân số hai tổng Bình Dương, Tân Long huyện Tân Bình là 331 người, điểm thêm 100 người, bổ vào Tiền chi dinh Hữu quân ; dân số tổng Bình An là 754 người, điểm thêm 250 người, bổ vào Hữu chi dinh Hữu quân ; dân số tổng Kiến Hưng huyện Kiến An là 600 người, điểm thêm 200 người, bổ vào Trung chi và Hậu chi dinh Hữu quân).

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ phó Hữu chi Tả quân là Võ Tiến Đẩu làm Chánh trưởng chi Tả chi, Khâm sai cai đội vệ Thần võ là Đào Quang Lý làm Phó trưởng chi Hữu chi, Khâm sai cai cơ phó hiệu úy Hậu chi Trung quân là Nguyễn Liêm làm Phó trưởng chi Tiền chi Hữu quân.

Sai Khâm sai cai cơ hành lưu thủ Phú Yên là Nguyễn Đức Trinh quản đạo Hưng Phước, Khâm sai cai cơ Nguyễn Tiến Lượng quản đạo Trấn Giang.

Triệu Vệ úy vệ Tuyển phong tiền tạm hành Phó tướng Hữu quân là Tống Viết Phước về.

Sai Phó tướng Tiên phong Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh quản suất Tiền chi Túc uy và Hậu chi Kiến võ đến thành Diên Khánh tạm hành chức Phó tướng Hữu quân, cho theo Lưu trấn Nguyễn Hoàng Đức điều bát.

Sai Khâm sai cai cơ quản đạo Phan Rang là Lưu Tiến Hòa thay Nguyễn Văn Tánh tạm quản công việc dinh Bình Thuận.

Bọn Chưởng cơ trấn Thuận Thành Nguyễn Văn Hào và Chánh trấn Nguyễn Văn Chấn dâng sớ nói rằng 38 sách man Trà Nương thuộc trấn trước bị Tây Sơn cướp phá, phải dời sang ở ba đạo Đồng Môn, Hưng Phước và Lá Bôn [Buôn], nay đã thành sản nghiệp, xin đổi cho lệ theo sổ đinh Trấn Biên để hằng năm nộp thuế. Vua cho.

Tháng 11, lấy Bùi Đức Mân làm Tham luận vệ Nhuệ phong Hậu quân. Trước là vua sai Lễ bộ kiêm đốc học Nguyễn Thái Nguyên kén trong học trò thi năm ấy những người trúng vào hạng tạm để lại văn chương dùng được là 12 người bổ làm tham luận các chi vệ dinh Hậu quân, Đức Mân được dự vào số ấy.

Sai Khâm sai thuộc nội cai đội Trung quân quản Côn Lôn đảo là Nguyễn Văn Đức quản đạo Cần Giờ, kiêm hai đạo Vũng Tàu và Đồng Tranh.

Lấy Tống Hữu Xuân làm Khâm sai chiêu thảo sứ (Xuân là con Thống suất đạo Lưu Đồn Tống Hữu Trường), sai đi mật thám miền Quy Nhơn và Thuận Hóa để chiêu lập nghĩa binh ứng theo đánh giặc.

Tù trưởng Ba Phủ thuộc Thuận Thành là Toàn Phù tụ họp hơn 1.000 người, từ núi Đàn Linh ngầm xuống Cà Trập cướp bóc dân địa phương. Việc tâu lên. Vua sai tạm quản dinh Bình Thuận là Lưu Tiến Hòa, Chưởng cơ trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào, Chánh phó trấn là Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Điển đem quân đi Phan Thiết để tùy cơ đánh chống. Lại sai Chưởng cơ quản Lục đạo là Nguyễn Tiến Lộc, Cai đội quản Xiêm binh là Nguyễn Văn Tồn đều đem quân bộ thuộc đi Ma Li theo quản đạo Võ Văn Lân để phòng triệt các đường trọng yếu. Khi quân Tiến Hòa đến Ma Chiết, quân man nghe biết, lui giữ Phố Châm. Vua dụ Tiến Hòa triệt quân về, vẫn ủy cho Nguyễn Văn Hào lượng để trấn binh lại đóng giữ sách man Đàn Linh (Cà Trập, Ma Chiết, Phố Châm đều là tên đất).

Sai Chánh phó trưởng chi Trung chi Tín võ dinh Tiên phong là Nguyễn Huệ và Nguyễn Văn Kiên quản suất chi binh để giữ địa phương Phan Thiết, kiêm quản các đạo thủ Phố Hài và Vị Nê.

Lấy Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Hữu hiệu Tả chi Tả quân là Trần Ngọc Bản làm Phó trưởng chi Trung chi.

Sai thu trước thóc thuế năm Đinh tỵ của bốn dinh đất Gia Định.

Lấy Khâm sai cai cơ hai đội Phấn dực dinh Trung thủy là Hoàng Văn Huân làm chánh Tiền chi dinh Tạ thủy.

Tháng 12, sửa nhà Thái miếu. Vua thân đến làm lễ kính yết.

Vua đến dinh Trấn Định, cho quân đi tuần các địa phương Sa Đéc và Long Hồ vài ngày rồi trở về.

Bắt đầu đúc tiền Gia Hưng thông bảo.

Các đội Tiểu sai Tiểu hầu nhiều kẻ giả được sai xuống làng lừa dối kiếm lợi, Đông cung Cảnh dâng sớ hết sức trình bày tệ ấy, lời rất thiết đáng. Vua khen. Sai cứ theo việc mà giết đi ; ai nghe thấy cũng đều vui sướng. Sau đó có đội Tiểu hầu xuống dinh Phiên Trấn thu tiền chiếu của xã dân, Hậu quân Võ Tánh nghe biết, nói với Đông cung xin đem việc tâu lên. Đông cung nói rằng : "Việc đó có nội chỉ, không phải tự bọn nó làm". Tánh nói : "Súy phủ là ngôi thái tử của nhà nước, bọn Tánh làm bầy tôi thân của nhà nước, việc gì bất tiện thì phải tâu ngay, nếu cứ dạ dạ vâng vâng thì không thể gọi rằng nhà có con biết can, nước có tôi biết can được. Nếu súy phủ không nói thì Tánh cùng Tiền quân Hội cũng phải nói, quyết không dám bưng miệng nín lặng để phụ nhà nước. Huống chi cái tệ riêng của kẻ sai dịch ngày trước súy phủ đã xin trừ, đã được chúa thượng khen nhận và xuống lệnh cấm hẳn. Nay bọn kia lại đem việc ấy mà cầu xin được chỉ, chẳng hóa ra để người ngoài đồn rằng bọn tiểu sai chống lại súy phủ à?". Đông cung liền đem việc ấy tâu. Vua lại ra lệnh cấm.

Chuẩn định lệ thuế thuyền buôn người Thanh và người Hồng Mao mua ngà voi, sừng tê, đậu khấu, sa nhân. (Tàu vụ chiếu theo số cân và giá khai của người Minh Hương cứ giá mua 100 quan thì chiết thu 5 quan tiền thuế).

Ban mũ đai áo cho bọn Lưu trấn thành Diên Khánh là Nguyễn Hoàng Đức cùng Đặng Trần Thường, Nguyễn Long, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Tánh (Hoàng Đức một bộ mũ đại trào, một áo rét ; bọn Trần Thường mỗi người một áo rét).

Sửa năm đài phong hỏa(1. Đài phong hỏa : Nơi đốt lửa để báo tin nguy cấp. 1) ở Vũng Tàu, Tắc Khái, Thùy Vân, Xích Lam và Ma Li.

Quản Tả thủy dinh Hoàng Văn Khánh cáo bệnh ; sai Phó Tả thủy dinh Nguyễn Hữu Nghị tạm quản Tả thủy dinh, Chánh Hậu chi Trần Công Lại làm Phó Tả thủy dinh tạm quản Trung chi, Khâm sai cai cơ Dương Công Trấn làm Phó Trung chi.

Giặc man Ba Phủ ở Thuận Thành lấn quấy sách Tà Lạp ; bọn Chưởng cơ Nguyễn Văn Hào và Chánh trấn Nguyễn Văn Chấn dâng biểu nói rằng nay đương vừa tiết mùa đông, đường núi khô ráo, xin phái quân đánh. Vua dụ rằng: "Nhân thiên thời không bằng chiếm địa lợi thì mới dễ thành công. Như nay tiến quân hoặc do Phố Hài đi Đàn Linh, hoặc do Ma Li đi Bào Tỏa, hoặc ngoài từ Trà Dê mà vào, trong từ Lầy Nục mà lại, trong bốn đường đó, đường nào là lợi và có thể ra đánh sau lưng giặc được, tính xem đường sá xa gần hiểm dễ thế nào mà tâu lên". (Bào Tỏa, Trà Dê, Lầy Nục đều là tên đất).

Lấy Khâm sai thuộc nội cai đội phó vệ úy vệ Túc võ quân Thần sách là Hoàng Tiến Trường làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tả, Khâm sai thuộc nội cai đội vệ Ban trực tiền là Nguyễn Văn Khánh làm Phó vệ úy vệ Kiên uy, Cai đội vệ Túc trực là Nguyễn Tiến Quỳnh làm Phó vệ úy vệ Túc võ, Cai đội vệ Long võ là Đinh Văn Khoa làm Phó vệ úy vệ Võ uy, Cai đội vệ Ban trực hữu là Nguyễn Văn Phượng, Cai đội vệ Long võ là Nguyễn Văn Mỹ làm Phó vệ úy vệ Võ uy, Khâm sai cai cơ dinh Tiên phong là Nguyễn Vĩnh Hựu làm Phó vệ úy vệ Dương võ, Phó đội vệ Túc trực là Trần Đăng Long làm Thuộc nội cai đội.

Tướng quân thượng đạo Nguyễn Long giữ Bình Khang, trong bộ khúc hoặc có kẻ thông thương với giặc mà không biết ngăn cấm. Vua nghe tin, dụ Nguyễn Hoàng Đức triệt Long về Diên Khánh, sai Chánh vệ vệ Trung kích là Nguyễn Văn Tường thay.

Đinh tỵ, năm thứ 18 [1797] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 2), mùa xuân, tháng giêng, tiết Vạn thọ, ban áo cho các quan theo thứ bậc.

Đặt vệ Diệu võ quân Thần sách, đổi bổ Lê Văn Duyệt làm Thuộc nội vệ úy vệ Diệu võ, hàng tướng là Cai cơ Hoàng Đăng Lý và chỉ huy Nguyễn Văn Phát đều làm Thuộc nội phó vệ úy. Duyệt mộ được 500 dân ngoại tịch xin lập làm một vệ, cho nên có mệnh này.

Vua từng nói về việc quân với Duyệt. Duyệt nhân nói Nguyễn Văn Thành là người mưu mà ít dũng, Tống Viết Phước dũng mà ít mưu, duy có Tôn Thất Hội thì trí dũng kiêm toàn, thực là tướng giỏi. Vua cho là phải.

Lấy Cai đội Trung chi Trung quân là Nguyễn Văn Vân làm Chánh vệ vệ Chấn phong, Khâm sai cai cơ cai đội Nguyễn Văn Đẩu làm Phó vệ. Vân là con Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương. Mùa hạ, năm Quý sửu [1793] theo thủy sư đi đánh Quy Nhơn, gặp gió giạt đến Phú Xuân bị giặt bắt được, nhân lúc sơ hở lẻn về, mộ được 500 dân ngoại tịch lập làm vệ Chấn phong lệ vào Trung chi Trung quân, có nhiều chiến công, đến đây vì Trương xin nên có lệnh này. Con thứ của Trương là Nguyễn Văn Ngoạn cũng được trao Chức Cai đội năm đội vệ Chấn phong.

Sai bọn Chánh phó phi kỵ Tuần hải đô dinh là bọn Hoàng Trung Đồng, La á Lục chia giữ 19 chiếc thuyền đại hiệu. (Long ngự, Long hưng, Long thượng, Long đại, Long nhất, Long nhị, Long tam, Phượng đại, Phượng nhị, Hồng đại, Hồng nhị, Hồng tam, Loan đại, Loan nhất, Loan nhị, Bằng đại, Bằng nhất, Bằng nhị, Bằng tam).

Đặt năm hiệu của chi Quảng võ Trung quân (binh số 622 người). Lấy Khâm sai đô đốc quản chi Hùng võ là Nguyễn Kế Nhuận kiêm quản cả, bọn Khâm sai chưởng cơ Nguyễn Văn Tứ, Khâm sai cai cơ Võ Văn Sở, mỗi người quản một hiệu, lệ theo việc quân.

Sai Khâm sai đô đốc hiệu úy Tiền chi Trung quân là Nguyễn Công Thái điều bát quân và coi các đạo và quân Xiêm, từ Ma Li thẳng đến Phố Châm đánh dẹp bọn giặc Xiêm, từ Ma Li đến Phố Châm đánh dẹp bọn giặc man Ba Phủ. Khâm sai đô đốc quản chi Hùng võ là Nguyễn Kế Nhuận

làm phó ; Quản đạo Phố Hài Nguyễn Huệ, Chưởng cơ trấn Thuận Thành Nguyễn Văn Hào, Chánh phó trấn Nguyễn Văn Chấn và Nguyễn Văn Điển tiến từ Đàn Linh lên, Chánh vệ vệ Nhuệ phong Ngô Văn Sở, Quản đạo Đông Môn Cao Văn Cửu đi đường tắt ra sau lưng giặc, đều theo lệnh Công Thái điều khiển.

Chở 3.000 phương gạo lương ở Gia Định đến Ma Li để cấp lương cho quân. Lại đặt ngựa trạm ở các trạm dọc đường từ Xích Lam đến Ma Li, cho tin tức ngoài biên được nhanh.

Dân Man thuộc đạo Đồng Môn cũng làm phản. Sai Chưởng cơ Tống Viết Phước đem quân giữ bảo Giao Loan để vỗ về ngăn giữ.

Tháng 2, Khâm sai chưởng cơ hiệu úy Tả chi Trung quân hành phó tướng Tả quân là Võ Văn Lượng chết, tặng Chưởng dinh. Sai quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành tạm hành Phó tướng Tả quân hiệp cùng Phạm Văn Nhân theo Đông cung sai bát.

Lấy Khâm sai thống binh cai cơ hành Lưu thủ Vĩnh Trấn là Hồ Đức Vạn làm Hiệu úy Tả chi Trung quân, Khâm sai thuộc nội cai cơ Tống Phước Châu làm Lưu thủ Vĩnh Trấn.

Phó tướng Hữu quân Mạc Văn Tô bệnh khỏi, sai đi thành Diên Khánh quản tướng sĩ Tiền chi Hữu quân, theo Nguyễn Hoàng Đức mà trấn giữ. Triệu chánh Tiền chi Trần Đại Luật về.

Nguyễn Công Thái tiến đến Phố Châm, đánh úp phá tan giặc man Ba Phủ. Tù trưởng man là Toàn Phù vượt núi trốn chạy. Quân ta đốt trại kho vựa, bắt sống hơn 100 người man về trú ở bảo Đăng Trại. Được tin thắng trận, vua dụ rằng : "Tội phản trắc của Ba Phủ vốn không đáng khoan dung, nhưng nghĩ bọn man mọi ngu dại, chưa thấm nhuần phong hóa, vì Toàn Phù lừa dối đến nỗi bị tội, sao nỡ khép vào pháp luật ! Vậy tha cho hết. Và nay tù trưởng nghịch còn chạy trốn xa, sợ khi bèo tan lại hợp, ngươi nên chọn đất hiểm yếu ở hai bên sông Dã Dương mà đặt ba sở bảo để bọn Nguyễn Văn Hào ở lại, chia nhau đóng giữ và dỗ bảo các sách dân Đê khiến họ hàng phục, còn thì cho triệt về". Sau Hào ốm, sai Khâm sai cai cơ Trung quân là Lê Văn Niệm thay giữ.

Niệm tới bảo Đăng Trại, tuyên rõ đức ý của triều đình. Dân Man dần dần trở về, đến cửa quân đầu hàng hơn 480 người.

Tống Viết Phước dâng biểu nói bọn thuộc man ở Đồng Môn ngang ngạnh chưa phục, xin đem quân đánh dẹp.

Vua dụ rằng : "Nó chưa phục, vì chưa nghe tin đảng nó ở Ba Phủ đã vỡ, chẳng mấy ngày nữa cũng sẽ tự tan vỡ, cần gì phiền đến quân nữa !" Liền sai Quốc thúc là Tôn Thất Thăng đến bảo Đồng Môn, Cai cơ hành Lưu thủ Trấn Định là Trần Văn Búa quản ba vệ Thiết kỵ, Cường uy, Tín uy theo đi. Thăng đến nơi, không đầy một tuần mà quân man quả tan. Ra lệnh chiêu vỗ cho ở yên như cũ.

Lấy Khâm sai đốc chiến chánh trưởng chi Tả quân là Nguyễn Văn Hưng làm Lưu thủ Trấn Định.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ Trương Phước Dĩnh quản đạo Long Xuyên.

Lấy Khâm sai thống lĩnh Cai cơ chánh trưởng chi Tiền chi Hậu quân là Nguyễn Văn Biện và Khâm sai thống binh cai cơ chánh trưởng chi Hữu chi là Trần Công Đề làm Phó tướng Hậu quân, Khâm sai thống nhung cai cơ phó trưởng chi Trung chi là Nguyễn Văn Triệu làm Chánh trưởng chi Tiền chi, Khâm sai cai cơ phó trưởng chi Hữu chi là Nguyễn Văn Hiếu làm Chánh trưởng chi Hữu chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tiền hiệu là Nguyễn Văn Cẩn làm Phó trưởng chi, Khâm sai cai cơ Phạm Văn Ba làm Phó vệ vệ Hùng phong.

Tha thuế sai dư từ năm nay về sau cho sở Phú Quốc. Vua nghĩ sở ấy ở trên hải đảo hẻo lánh, đất xấu dân nghèo, nên đặc biệt tha thuế, còn sưu dịch thì chịu như lệ thường.

Lấy Khâm sai đốc chiến cai cơ chánh trưởng chi Hậu chi Tiền quân là Trương Tiến Bảo, Khâm sai tổng nhung cai cơ chánh trưởng chi Tả chi là Phan Tiến Hoàng làm Phó tướng Tiền quân, Khâm sai cai cơ phó vệ vệ Phấn võ là Đặng Tiến Phước làm Chánh vệ, Khâm sai cai cơ Võ Văn Kiên và Nguyễn Văn Nghị làm Phó vệ, Khâm sai cai cơ phó vệ vệ Tiền du là Trần Văn Tứ làm Chánh vệ, Khâm sai cai đội là Võ Văn Dĩnh và hàng tướng là Vệ úy Lê Tiến Vạn làm Phó vệ, Khâm sai thống binh cai cơ Hậu kích là Nguyễn Văn Triệu làm Chánh vệ, hàng tướng là Hộ quân Phạm Hữu Lộc và Quán quân Nguyễn Văn Chí làm Phó vệ, Khâm sai tổng nhung cai cơ vệ Phấn kích là Nguyễn Văn Viện làm Chánh vệ, Khâm sai thống binh cai cơ là Lê Văn Thuật và Khâm sai cai đội là Nguyễn Văn Hiếu làm Phó vệ, Khâm sai tổng nhung cai cơ phó trưởng chi Trung chi là Phạm Tiến Tuấn làm Chánh trưởng chi, Khâm sai đốc chiến cai cơ trưởng hiệu là Bạch Dương Huyên làm Phó trưởng chi, Khâm sai thống binh cai cơ phó trưởng chi Tiền chi là Nguyễn Văn Lân làm Chánh trưởng chi Tả chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu là Lê Công Nhị làm Phó trưởng chi Tiền chi, Khâm sai tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Đức làm Chánh trưởng chi Hữu chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Lê Công Lý làm Phó trưởng chi, Khâm sai cai cơ phó trưởng chi hậu chi là Nguyễn Văn Tuy làm trưởng chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu là Nguyễn Văn ý làm Phó trưởng chi. Sau đổi vệ Tiền du làm vệ Định Võ, vệ Hậu kích làm vệ Quảng Võ, vệ Phấn kích làm vệ Tiệp Võ.

Lấy Khâm sai cai đội phó trưởng chi Hữu chi Tả quân là Đào Quang Lý làm Chánh trưởng chi, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu là Nguyễn Văn Nghiêm làm Phó trưởng chi.

Sai Nội viện Tăng Quang Lư sang nước Nhu Phật(1. Nước Johore ở đầu phía nam bán đảo Mã Lai.1) tìm mua binh khí.

Sai Vệ úy vệ Ban trực tiền quân Thần sách là Phan Văn Triệu kiêm quản ba vệ Ban trực hậu, Kiên uy, Võ uy, Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền là Tống Viết Phước kiêm quản ba vệ Ban trực hữu, Túc võ, Phấn võ, Vệ úy vệ Ban trực tả là Mai Đức Nghị kiêm quản ba vệ Ban trực tuyển phong tả, Dương võ, Hùng võ, Vệ úy vệ Hùng uy là Nguyễn Đình Đắc kiêm quản ba vệ Long võ, Ban trực tuyển phong hậu, Uy võ, Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hữu là Hoàng Viết Toàn kiêm quản ba vệ Túc trực, Diệu võ, Hổ oai.

Vua dụ rằng : "Các ngươi nên giữ kỷ luật nghiêm minh, thao luyện cho thuộc, đợi ngày tiến đánh. Duy chỉ theo mệnh, cốt ở một lòng, để hòa với ý chí mọi người".

Nước Chà Và sai sứ lại cống.

Tháng 3, lấy Khâm sai đô đốc hiệu úy Tiền chi Trung quân là Nguyễn Công Thái làm Phó tướng Tả quân, Khâm sai thuộc nội cai cơ quản Tả thủy dinh là Hoàng Văn Khánh làm Hiệu úy Tiền chi Trung quân.

Lấy Tham tán Võ Bá Diên làm Khâm sai tham tán quân cơ Trung dinh, hiệp cùng Phó tướng Phạm Văn Nhân và Nguyễn Công Thái quản suất tướng sĩ dinh Tả quân, theo Đông cung điều bát, Cai đội Nguyễn Bá Xuyến làm Vệ úy, Nguyễn Đình Hoằng, Nguyễn Đình Hiệu, Trần Đình Quý làm Phó vệ úy, Nguyễn Trí Hòa, Hồ Sĩ Thu làm Tham luận binh vụ, đều theo Bá Diên sai khiến. (Bọn Đình Hoằng đều là người Bắc Hà).

Lấy Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Tả chi Trung quân Nguyễn Tiến Nghị làm Phó hiệu úy Tả chi, Khâm sai thống binh cai cơ là Phan Văn Tự

làm Chánh vệ vệ Võ dực Tả chi, Nguyễn Văn Tại và Trần Văn Long làm Phó vệ.

Lấy Cai bạ Trấn Định là Phạm Như Đăng làm Tả tham tri Hình bộ, Tham luận vệ Ban trực tuyển phong hữu là Nguyễn Tăng Địch làm Cai bạ Trấn Định.

Lấy Hàn lâm viện chế cáo Trương Tiến Lộc làm Cai bạ Trấn Biên, Tham luận vệ Hùng võ là Nguyễn Đình Đức làm Cai bạ Chính dinh tri

Đồ gia.

Lấy Khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Triều làm Phó trưởng chi Tiền chi dinh Trung thủy quản đạo Thanh Châu.

Lấy Thuộc nội cai đội chánh trưởng chi Tiền chi Hữu quân là Trần Đại Luật làm Vệ úy vệ Long võ quân Thần sách, Thuộc nội cai đội phó vệ úy vệ Uy võ là Nguyễn Văn Mỹ, Khâm sai cai cơ Tả chi Trung quân là Võ Văn Giáo làm Phó vệ úy vệ Long võ, Cai đội vệ Ban trực hữu là Đoàn Quang Sĩ làm Phó vệ úy vệ Ban trực hữu, Cai đội Hậu quân là Phạm Văn Hương làm Phó vệ vệ Nhuệ phong.

Lấy Câu kê Chính dinh là Nguyễn Văn Phú làm Tham tri Hộ bộ, Cống sĩ viện Bùi Đức Minh làm Tham luận vệ Ban trực tuyển phong hữu quân Thần sách, Nguyễn Văn Thục làm Tham luận vệ Hùng võ, Nguyễn Hoài Châu làm Tham luận vệ Long võ, Hoàng Văn Viễn làm Tham luận vệ Hổ oai, Huấn đạo Trần Đình Anh làm Tham luận vệ Ban trực tuyển phong hữu.

Sai Phó tướng Tiền quân là Phan Tiến Hoàng tạm quản các việc quân dân dinh Bình Thuận, Phó Hậu chi dinh Trung thủy là Lưu Tiến Hòa lại quản đạo Phan Rang.

Lấy Chánh trưởng chi Trung chi Tiền quân là Phạm Tiến Tuấn quản đạo Phố Hài, kiêm hai thủ Phan Thiết và Vị Nê.

Mùa hạ, tháng 4, đổi đội Nội dực của Tả quân làm vệ Nội dực, lấy Khâm sai cai đội Tống Phước Lương làm Vệ úy, Nguyễn Đặng và Lê Trực làm Phó vệ úy. Lại trích Tiền chi của Trung quân bổ làm vệ Trung uy của Tả quân, lấy Khâm sai cai cơ Bùi Văn Thuận làm Vệ úy, Hoàng Văn Nga và Trần Văn Thụy làm Phó vệ úy.

Lấy Hàn lâm viện chế cáo Nguyễn Bảo Tiến và Nguyễn Bá Tốn làm Tham tri Lại bộ, Hàn lâm viện Trần Hưng Đạt làm Tham tri Lễ bộ.

Triệu Khâm sai thuộc nội cai cơ hiệu úy Hữu chi Trung quân hành Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Văn Nhân về ; lại lấy Khâm sai cai cơ lưu thủ hưu trí là Nguyễn Đạo tạm hành công việc Lưu thủ Trấn Biên.

Lấy Hàn lâm viện thị học Trần Tử Cao, Cống sĩ viện Phạm Văn Nhàn, Mai Văn Dụ, Ngũ Khắc Minh, Nguyễn Khắc Thành làm Hàn lâm viện chế cáo.

Lễ bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên là người thanh liêm chính trực, nhưng tính thích rượu. Vua thường khiển trách điều ấy. Nguyên xin chừa uống, rồi lại phạm. Vua nghĩ là người có công và già cả, không nỡ

xa bỏ, đặc cách cho nghỉ việc bộ, nhưng được lấy nguyên hàm kiêm việc Đốc học.

Lấy Ký lục Trấn Biên là Ngô Tòng Chu làm Lễ bộ, Cai bạ Chính dinh là Nguyễn Đình Đức làm Ký lục Trấn Biên.

Lấy Phó vệ úy vệ Hùng võ quân Thần sách là Hoàng Văn Hán làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu, Phó vệ úy vệ Long võ là Võ Văn Giáo làm Phó vệ úy vệ Hùng võ, Phó vệ úy vệ Dương võ là Trần Văn Bảo làm Phó vệ úy vệ Long võ.

Vua thân đem binh thuyền đi đánh Quy Nhơn. Đông cung Cảnh đi theo. Sai chưởng Tiền quân Tôn Thất Hội lưu trấn Gia Định, bọn Cai cơ Nguyễn Văn Nhân, Hộ bộ Phan Thiên Phước, Trương Đức Khoan, Lễ bộ Ngô Tòng Chu, tham biện cơ vụ ; Tham tri Hộ bộ là Nguyễn Kỳ Kế và Nguyễn Văn Phú đốc suất thuyền chở lương, theo quân để chi cấp. (Gạo 12.700 phương, muối 500 phương).

Thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Cù Huân, triệu chưởng Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức đem tướng sĩ bộ thuộc theo ngự giá đi đánh giặc, để Phó tướng Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Lợi ở lại giữ thành Diên Khánh.

Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương đem binh thuyền tiến đánh đô đốc giặc là Thiêm (không rõ họ) ở Tiên Châu (thuộc tỉnh Phú Yên). Thiêm thua chạy. Lại phá được đô đốc giặc là Tính (không rõ họ) ở Đạm Thủy (thuộc tỉnh Bình Định), bắt được 6 chiếc thuyền.

Chưởng Hậu quân Võ Tánh và quản Tiên phong dinh Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đánh Tây Sơn ở chợ Hội An, phá được đồn, đô đốc giặc là Hiếu lùi chạy về La Thai.

Thuyền vua tiến thẳng đến cửa biển Thị Nại, đánh phá Tư lệ giặc là Lê Trung, bắt hết thuyền ghe, súng ống, khí giới. Trung lui quân để chống giữ.

Tháng 5, ban quân giới(1. Quân giới : Những điều răn cấm quân đội, tức kỷ luật. 1) cho các dinh.

Vua dụ rằng : "Cất quân đánh dẹp cốt ở yên dân, mà quân nhân nghĩa cần rõ kỷ luật. Gần đây nghe các đạo, nhân thắng trận, nhiều nơi dung túng sĩ tốt tự tiện vào làng, cướp bóc của cải, thực là trái với bản ý dẹp giặc yên dân của ta. Từ nay về sau, phàm quân thủy không được đậu thuyền ở bến đò. Nếu buồm chèo có hư hỏng thì phải trình quan cai quản xét thực, rồi mới được ở lại sửa chữa. Quân bộ thì không được rẽ vào nhà dân ; các đồn đóng thì nên đến gần rừng rú mà lấy củi lấy cỏ, không được sách nhiễu ở dân. Làm trái thì chém bêu đầu, tội đến cả người cai quản". Rồi sai Hình bộ Nguyễn Tử Châu đi tuần xem xét.

Vua cho rằng thành Quy Nhơn quân Tây Sơn đóng nhiều, thế chưa đánh được, bèn thân đem hơn 100 chiếc chiến thuyền tiến ra cửa biển Đà Nẵng ở Quảng Nam. Thống lĩnh giặc là Nguyễn Văn Chân đem hết tàu thuyền lùi đậu vào trong cảng, Thiếu bảo giặc Nguyễn Văn Huấn đóng quân ở hai bên bờ, quân thủy quân bộ tiếp nhau để chống quân ta.

Vua sai các quân dàn thuyền bao vây ở ngoài cảng. Lại chia quân lên bộ đến sát lũy giặc mà đánh, hai lần giao chiến, giặc bị thương chết nhiều, đầu hàng cũng lắm.

Lại sai Nguyễn Văn Trương cùng với bọn Vệ úy vệ Kiên uy Nguyễn Văn Thịnh, Chánh vệ vệ Định võ Trần Văn Tứ và Cai cơ Trần Văn Búa, chia nhau đi về phía Cu Đê (tên đất), đến cửa ải Hải Vân, theo chỗ hiểm mà đặt đồn giữ. Giặc Nguyễn Quang Toản nghe tin rất sợ, sai người đảng là Thiếu phó Trần Quang Diệu giữ cửa Eo và Đô đốc Lê Văn An đem quân Thuận Hóa vào cứu viện.

Sai Đông cung Cảnh đem tướng sĩ dinh Tả quân vào cửa biển Đại Chiêm đánh lấy Chiêm Dinh (tức là dinh Quảng Nam), triệu Võ Tánh ở Phú Yên đem quân đến họp.

Vua dụ rằng : "Giặc nay đem hết quân ra giữ Đà Nẵng, Chiêm Dinh không có phòng bị. Khanh nên kíp tiến cùng Đông cung chiếm đoạt đất ấy, rồi sau đem quân ra mặt sau Đà Nẵng, như thế thì quân giặc sau lưng trước bụng đều bị đánh, lấy dễ như trở bàn tay".

Vua lại ra lệnh trong quân rằng : "Quân mạnh ở đánh giết. Ngày này quân giặc chỉ đánh bộ, cậy có nhiều voi. Từ nay gặp giặc ai đâm giết được người ngồi đầu voi và trong bành voi, giết mỗi người thưởng 50 quan tiền, lại thăng một cấp (như cai đội thì thăng lên cai cơ, phó đội thì thăng lên cai đội, đội trưởng thì thăng lên phó đội [phó chánh đội trưởng], binh đinh thì thăng đội trưởng".

Đông cung Cảnh tiến quân lấy chợ Đông An ở Hội An, thẳng tới Chiêm Dinh, chia đặt đồn sở để phòng giặc.

Võ Tánh dẫn quân ra Đại Chiêm, gặp Đô đốc giặc là Nguyễn Văn Ngũ và thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi ở ngoài khơi, đánh vỡ, bắt được bọn giặc là Dương Khả Đại, Dương Long Phát, thu được thuyền chiến và tàu Ô hơn 30 chiếc. Khi đến thì đóng quân ở Hà Thân, thanh thế lừng lẫy.

Tư lệ giặc Lê Trung đem thêm quân đánh bảo Hội An.

Vua nghe tin, dụ Nguyễn Văn Thành triệt quân về Bình Khang, phòng giữ nơi trọng yếu.

Lấy Khâm sai tham mưu Võ Tiến Trung làm Khâm sai thống binh quản đạo Trung Chấn. Tiến Trung trước vâng mật sai đến Quảng Nam ngầm họp được hơn 300 nghĩa quân. Tới đây đến hành tại bái yết, xin lập làm 6 hiệu đạo Trung Chấn (Tiền du, Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu).

Vua y cho và sai lệ theo Võ Tánh đánh giặc.

Tháng 6, Nguyễn Văn Trương đón đánh viện binh của Đô đốc giặc là Lê Văn An ở gò Phú Gia, An lui chạy về Cu Thai (tên đất).

Sai Võ Tánh chở quân sang Mỹ Khê (tên xã) đánh Tiết độ giặc là Nguyễn Văn Giáp. Lại thấy Tham tri Binh bộ Hồ Văn Định là người

Mỹ Khê có biết việc binh, sai đi với Tánh tham biện nhung vụ.

Đông cung Cảnh cho quân đi đánh giặc ở La Qua, giết được voi giặc, giặc vỡ chạy. Báo tin thắng trận, vua thưởng cho 1.000 quan tiền. Mật dụ Phạm Văn Nhân quản chiến thuyền giữ cửa biển Đại Chiêm, Võ Bá Diên theo Đông cung đóng đồn ở Phú Chiêm, Nguyễn Công Thái đóng đồn ở Tam Thai, chờ có chỉ thì đánh úp sau lưng giặc. (La Qua, Phú Chiêm đều là tên đất, Tam Thai là tên núi).

Sai Phó vệ úy vệ Túc trực Nguyễn Văn Khiêm và Thuộc nội vệ úy Ô Li Vi đóng thuyền sam bản đánh hỏa công, kén quân chiến tâm cưỡi thuyền ấy, đêm phóng lửa đốt được mấy chiếc thuyền của giặc, giặc do đó lại cố chết mà giữ để xin quân ở Quy Nhơn. Tư lệ giặc Lê Trung sai bọn đại đô đốc Lê Chất và Đoàn Văn Cát, đô đốc Nguyễn Văn Xuân và Hàn (không rõ họ) đem 2.000 quân và 40 thớt voi đến cứu viện. Quân ta đánh với chúng mấy trận, giết được nhiều voi giặc, bắn được đô đốc Hàn chết ngay ở trận, quân giặc sợ hãi.

Sai quan Lưu trấn Gia Định phái chở tiền gạo đến đậu ở cửa biển Cù Huân (tiền 12.000 quan, gạo 12.800 phương), rồi sai Trương Phước Luật hộ vệ chở đến quân thứ để kế tiếp cấp phát cho quân.

Lấy Khâm sai cai đội Trần Văn Phương làm Phó vệ úy vệ Túc võ quân Thần sách.

Lấy Vũ Nguyên Lượng làm Khâm sai chiêu thảo sứ. Lượng là người Đông Thành Nghệ An, mới đến Gia Định vâng giữ chức nạp ngôn(1. Nạp ngôn : ở bên cạnh vua để tâu bày.1), đến đây cho làm chức này, sai cùng với tham mưu Trần Trung Bình ra Bắc Hà chiêu dụ hào kiệt. Giặc dò biết, bắt giết đi. Vợ là Hoàng Thị Hân lẻn đến đem tình hình giặc tâu lên, lại xin về Bắc dò tình hình giặc. Việc tiết lộ, bị giặc Nguyễn Quang Thùy giết.

Người man Ba Phủ là Toàn Phù lại họp đảng hơn nghìn người đến đánh bảo Ma Đế. Thủ binh Thuận Thành chống không được, phải bỏ bảo chạy. Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng nghe tin báo đem quân thẳng tới, gặp giặc ở Cà Tán (tên đất), bắn chết mười mấy người. Giặc lui. Gặp trời mưa dầm, Hoàng bèn chia quân đóng đồn giữ các đường trọng yếu để phòng bị.

Mùa thu, tháng 7, sai Phó tướng Hậu quân Nguyễn Văn Biện và Binh bộ Nguyễn Đức Thiện đem quân vào cửa biển Hiệp Hòa, đóng đồn ở Bến Ván [Bản Tân] để ngăn đường cứu viện của giặc từ Quy Nhơn đến. Vua mật dụ Khâm sai thống binh cai cơ Hoàng Công Khanh và Khâm sai cai đội Tôn Thất Lịch đem chi quân ứng nghĩa Quảng Nam lệ theo để sai bát. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Soạn và Cai đội Lê Văn Nhị cũng xin về Quảng Ngãi chiêu lập nghĩa binh để theo đánh giặc. Vua y cho.

Sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường tiến lấy Phú Yên. Bọn Thành dâng biểu nói : "Thế đánh dẹp cần phải có đầu đuôi ứng nhau mới dễ thành công. Nay một đường thẳng tiến, chỉ đủ chống giữ, sợ hoặc không có công mà bị tội".

Vua dụ rằng : "Quân và voi ở Quy Nhơn đã họp hết ở Đà Nẵng, mà Phú Yên chỉ còn một tên giặc Hiếu, quân cũng không nhiều, hễ đánh là được, còn có tội gì ? Nên sắp quân tiến ngay, chớ ngần ngại nữa".

Đô đốc giặc là Lê Văn An lại đem quân đánh bảo Trạm Dã [Đồng Trạm]. Bọn Nguyễn Văn Thịnh đón đánh, phá được, giặc chết và bị thương rất nhiều, bèn phải rút lui, không dám phạm nữa. Vua khen là dũng cảm, thưởng cho 1.000 quan tiền.

Nguyễn Văn Biện và Nguyễn Đức Thiện đánh vỡ quân đô đốc giặc là Gia (không rõ họ) ở Thạch Đậu, đặt bảo đóng giữ, dâng biểu báo tin và xin tiến lấy kho giặc ở Trà Khúc để dùng lương của giặc.

Vua dụ rằng : "ở Trà Khúc giặc còn nhiều quân, đánh chưa chắc lấy được, hãy ở yên đợi, bất nhật quân bộ ta tiến đến Phú Yên, tướng giặc Lê Trung tất phải lấy binh ở Trà Khúc, bấy giờ có thể thừa cơ hội đó lấy cũng chưa muộn". Bèn sai Nguyễn Công Thái đem quân bốn vệ Trung uy, Thần lược, Thần toán, Thần dũng đến họp với. Lại cho rằng dân Thăng Hoa tích trữ được nhiều, lương giặc đều lấy ở đó, dụ bọn Biện phái quân giữ Tam Kỳ để triệt đường vận lương của giặc. Lại sai trưởng chi Lê Tiến Tham đem binh thuyền năm chi Tả quân từ Thanh Hà mà tiến lên, đốt bảo giặc cướp lương giặc để cho giặc phải khốn.

Vua sai người mật bảo Tham tán giặc là Từ Văn Tú khuyên Tiểu triều Nguyễn Văn Bảo rằng : "Nay quân ta tiến lấy Quảng Nam, sau tới Quy Nhơn, ngươi muốn rửa thù cho cha thì nên chiêu tập quân cũ, chờ quân ta tới dưới thành thì giết Lê Trung để đón quân vua, mang tội lập công. Làm được việc ấy thì không nên ngờ tội cha sẽ lây tới con. Ta quyết không giết kẻ đầu hàng. Nên liệu đi".

Sai vệ úy vệ Diệu võ là Lê Văn Duyệt kiêm quản ba vệ Long võ, Kiên uy, Dương võ, giữ bảo Trạm Dã, Vệ úy vệ Hùng võ là Nguyễn Đức Xuyên kiêm quản ba vệ Định võ, Thiết kỵ, Cường uy, giữ bảo Phường Lạc.

Trương Phước Luật hộ vệ thuyền lương bị ngược gió, lâu không đến được, nhiều lần chạy ra biển lại bị giặc biển ngăn chặn không đến được. Trong quân chỉ còn có 5 ngày lương.

Vua cho rằng đại binh vào sâu đất giặc mà quân nhu không tiếp tế được, bèn dụ các tướng đem quân về. Sai làm lời của các quan Gia Định bảo các tướng giặc rằng :

"Phàm chuyển vần thế thiên hạ là ở thời cơ mà không ở sức khỏe, thu phục lòng người là lấy nhân mà không lấy bạo. Trước đây quân ta thừa thắng thẳng tới trước lũy Đà Nẵng, chưa có một trận đánh lớn để quyết định sống mái, đó là vua ta thương trăm họ tự nhiên mắc phải nạn binh đao nên chỉ có 3, 4 trận giao binh nho nhỏ mà thôi, ai được ai thua thì người ta đã tai nghe mắt thấy. Hiện nay thời cơ chưa tiện, tạm đem quân về, cố nhiên không thể lấy mạnh yếu mà luận. Vả nói mấy tháng gần đây các ông cứ khư khư tự giữ, nếu trước kia không nhờ ở dân Thăng, Điện thì sao có ngày nay ? Nên yêu dân ấy như con, xem dân ấy như người bị thương mới được. Nếu có một vài dân nhỏ còn biết lẽ trời lòng người mà thấy thế lại coi là điên dại phản nghịch thì cũng nên khoan dung, không nên lấy thế làm hiềm mà dày xéo thêm tàn khốc".

Bọn Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đánh Phú Yên, phá được luôn các bảo Hội An và La Thai của giặc. Tin báo đến. Vua dụ rằng: "Quân ta đánh Đà Nẵng, đảng giặc gần nguy, mà tin thuyền lương lâu không thấy, nay đem quân về. Đất Phú Yên kia có thể đánh mà không có thể giữ, nên rút quân về".

Tháng 7 nhuận.

Thuyền vua đến cửa biển Hiệp Hòa. Nghe tin thuyền lương đã đến Vũng Quýt [Quất áo] (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), bảo các tướng rằng : "Thế mới biết mưu người không bằng ý trời". Bèn lùi về đóng ở Diên Khánh. Thấy quân sĩ theo đi chinh chiến lâu ngày, nhiều người đau ốm, sai chở 1.500 cân thuốc ở Gia Định đến để chữa.

Bổ quân chiến tâm làm vệ Nội trực.

Sai bọn Khâm sai tham mưu Đào Duy Mẫn (cháu bốn đời nội tán Đào Duy Từ) và Cai đội đội Mật sai Phạm Văn Quyền đi từ Quy Nhơn đến Thuận Hóa dò xét tình hình giặc.

Lấy Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong Tiền quân Thần sách là Nguyễn Vĩnh Hựu làm Vệ úy vệ Ban trực hữu.

Lấy Phó trưởng chi chi Tiền du Hậu quân Trương Công Kế làm Chánh trưởng chi, Khâm sai cai cơ Nguyễn Văn Đắc làm Phó trưởng chi, Khâm sai cai cơ Võ Văn Hội làm Chánh vệ vệ Trung kích.

Tháng 8, sai đặt đàn tế tướng sĩ trận vong.

Xa giá vua trở về Gia Định. Trao cho Khâm sai tổng nhung cai cơ Tiên phong dinh bình Tây tiền tướng quân Nguyễn Văn Thành làm Khâm sai chưởng cơ chưởng Tiên phong dinh bình Tây tiền tướng quân Lưu trấn thành Diên Khánh, Tán lý Đặng Trần Thường hiệp đồng lưu trấn để trù biện việc quân, Phó tướng Tiên phong là Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh, Hiệu úy Tiền chi Trung quân là Hoàng Văn Khánh, Phó hiệu úy

Tả chi là Nguyễn Tiến Nghị, Chánh vệ vệ Võ dực là Phạm Văn Tự đều thuộc quyền.

Vua thấy binh lính chi hiệu các quân nhiều người ăn chơi dông dài, lẩn trốn trong làng xóm, bảo Nguyễn Văn Thành truyền khắp các tổng xã hai phủ Bình Khang, Diên Khánh bắt nộp, được mỗi một tên thưởng 10 quan tiền. Ai dám chứa nuôi mà bị người tố cáo thì lý dịch bị xử 100 trượng, lại phải nộp tiền thưởng cho người tố cáo.

Cho Khâm sai cai cơ chi Dũng nghĩa thượng đạo Phú Yên là Nguyễn Văn Nguyện các thứ sa đoạn để chia cấp cho bộ khúc. (Trừu bảo lam 1 tấm, sa địa đen 4 tấm, nhiễu hồng, nhiễu lam đều 1 tấm). Dụ rằng : "Từ khi khanh đóng giữ đèo Gian Nan, giữ vững bờ cõi, không phụ ủy thác của triều đình, ta khen ngợi. Vả lại gần nước biết cá, gần núi biết chim, nay nên kén người tâm Phước làm thám tử để đi dò xét tình hình giặc ở Phú Yên, Quy Nhơn và chiêu dụ những sách Man ở các đầu nguồn khiến họ quy thuận. Còn việc phòng bị ngoài biên thì nên gia ý canh giữ. Người ta nói một người giữ ải muôn kẻ khó địch, khanh nên nghĩ đấy.

Sai Khâm sai cai cơ Trần Phước Chất mang quốc thư sang Xiêm để báo việc binh, và nói có nghe tin Diến Điện mượn thủy binh Hồng Mao để đánh Xiêm, nếu nó đánh thực thì ta đem thủy quân đón đánh. Người Xiêm viết thư cảm tạ, hiến 10 vạn cân diêm tiêu, trong thư nói : Ngày nào quân ta đánh Tây Sơn, nếu thiếu quân dụng sẽ xin giúp. Lại xin chọn người giỏi hội với bộ binh Xiêm theo đường thượng đạo thẳng tới Vạn Tượng để đánh úp lấy Nghệ An, một là để chặn đường viện binh từ Bắc Hà, một là để đánh sau lưng Thuận Hóa, đến đâu thì quân nhu sẽ có người Man Lào cung ứng, không phải lo.

Vua trước kia muốn thông với Vạn Tượng, từng sai người đến Bắc Tầm Bôn hỏi Chiêu Chùy Biện xem đường thượng đạo xa gần thế nào. Đến nay được thư rất mừng.

Lấy Phó Tiền chi dinh Tiền thủy là Nguyễn Văn Thụy làm Chánh trưởng chi dinh Trung thủy, quản đạo Thanh Châu.

Tháng 9. Chi hiệu các quân đóng ở Diên Khánh, tiền lương tháng của trưởng chi hoặc có khác nhau, Lưu trấn Nguyễn Văn Thành đem việc ấy nói lên.

Vua dụ rằng : "Chức trưởng chi cùng như nhau mà công lao có khác, xem công mà cấp lương, sao lại không phân biệt ? Vả lại người ở xa có lòng đến theo, nhà cửa cách xa thì cũng nên ưu đãi. Đó là hậu ý đãi người đến hàng, sao lại suy bì ?".

Tham tri Hộ bộ Nguyễn Văn Mỹ chết. Mỹ trước hộ vệ dinh chở lương theo đánh giặc, khi trở về chết dọc đường. Dinh thần Bình Thuận tâu lên. Sai đưa quan tài về hậu táng ở Gia Định.

Lấy Cai đội Thần sách là Nguyễn Vĩnh Thị làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền, Thuộc nội cai cơ cai đội Mai Văn Đạo làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu, Khâm sai cai cơ thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Tuyên làm Phó vệ úy vệ Hổ oai, Khâm sai thuộc nội cai cơ khâm sai cai cơ Hậu quân là Lương Văn Vân làm Phó trưởng chi Tiền chi, Trịnh Văn Sĩ làm Phó vệ vệ Hùng phong.

Sai Tham tri Hộ bộ Nguyễn Văn Phú đi Bình Thuận, hội đồng với Phó tướng Phan Tiến Hoàng để kiểm xét những số tiền thuế, thóc tô, gạo thị nạp trong hạt bốn năm, từ năm Quý sửu đến năm Bính thìn, thu chi còn thiếu thế nào, làm sổ nộp lên.

Chuẩn định thuyền buôn Xiêm La từ sau có sang buôn ở nước ta, hạng thuyền lớn phải chở 30.000 cân sắt, hạng trung 20.000 cân, hạng nhỏ 10.000 trở lên ; còn diêm tiêu thì không kỳ nhiều ít, đều nộp vào quan, theo giá trả tiền, thì mới cho đổi mua các thứ sản vật thổ nghi, như tơ vải, nếu không thì cấm không cho.

Sai Khâm sai thuộc nội cai cơ Nguyễn Văn Nhân và Tham tri Hình bộ Phạm Như Năng đi Vĩnh Trấn soát lục những tù phạm còn giam từ tháng 2 năm Bính thìn trở về trước mà chưa xử, kẻ nào tình lý đã rõ ràng thì không kể nhẹ nặng đều cho xét xử, nếu còn ngờ thì giải cho triều đình xét xử, không được lạm hình.

Lưu thủ Vĩnh Trấn là Tống Phước Châu có tội bị miễn chức, lấy Vệ úy vệ Kiên uy quân Thần sách là Nguyễn Văn Thịnh làm Lưu thủ Vĩnh Trấn, Phó vệ úy vệ Phấn uy là Nguyễn Văn Hậu làm Vệ úy vệ Kiên uy.

Giặc Man Ba Phủ là Toàn Phù đem quân vây bảo Tà Lạp, lại ủy cho người đảng giữ núi La A để ngăn quân viện của ta. Phó tướng Phan Tiến Hoàng thống quản quân sở bộ và quan binh Thuận Thành, chia đường tiến đến La A. Hoàng cùng Quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn đánh mặt trước, Cai cơ Lê Văn Niệm đánh mặt sau. Giặc thua vỡ to. Quân ta thừa thắng tiến thẳng đến Thuận Thành. Bọn Cai cơ Nguyễn Văn Vĩnh ở Tà Lạp nghe tin quân viện đến, mở bảo ra đánh, Toàn Phù bèn giải vây, vượt núi chạy. Hoàng thấy xứ ấy đường núi hiểm xa, chuyển vận rất khó, lại thêm mưa lụt lam chướng, quân nhiều người ốm, bèn rút quân về, để quân Thuận Thành đóng giữ các bảo Đăng Trại, Cà Tán, dâng sớ xin đợi đến mùa đông tạnh ráo sẽ cất quân đánh dẹp. Vua cho.

Mùa đông, tháng 10, sửa bảo Vàm Cỏ [Thảo Câu]. Đặt lệnh sử ty Công bộ ở Chính dinh, sai quản Trung thủy dinh là Võ Di Nguy và Công bộ Trần Văn Thái mộ người sung vào.

Lấy Thuộc nội cai đội vệ Túc trực quân Thần sách là Lê Văn Chử làm Phó vệ úy vệ Kiên uy, Cai đội Nguyễn Văn Uy làm Phó vệ úy vệ Ban trực hữu.

Định lệnh cứu hỏa. (Phàm quan quân các vệ quân Thần sách ở trong thành ban ngày thấy trên cột cờ treo cờ cứu hỏa, ban đêm thấy treo đèn lồng, nghe một hồi thanh la và ba hồi trống lệnh của Trung quân, thì đều phải theo địa phận của mình mà thổi tù và, đem quân cầm khí giới, hoặc ở trên thành, hoặc ở ngoài quách, bày hàng nghiêm chỉnh, đợi khi kỳ đài ngày thì cờ kéo xuống, đêm thì tắt đèn lồng, mới lui về trại. Quan quân cứu hỏa ở ngoài thành thì phàm ngày đêm nghe được nơi nào bị cháy, tức thì đánh ba tiếng trống lệnh, đến nơi mà cứu chữa, lửa tắt mới về. Làm trái thì có tội).

Lại lấy quản đạo Phan Rang là Lưu Tiến Hòa tạm hành việc Lưu thủ Bình Thuận, Phó tướng Tiền quân là Phan Tiến Hoàng quản các tướng sĩ sở bộ kiêm quản công đường Bình Thuận ; và các đạo thủ phàm binh dân đều theo quyền quản hạt, kiện tụng thuế má thì do quan công đường xét xử.

Lấy Khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ quản đạo Ma Li là Võ Văn Lân quản đạo Phan Rang, kiêm hai thủ Ma Vằn và Du Lai, Khâm sai thống binh cai cơ cựu chánh Hậu chi Hữu quân là Nguyễn Văn Cẩm quản đạo Ma Li, kiêm ba thủ Khe Gà, La Di và Phù Mi.

Người Man hoang ở Chân Lạp họp đảng cướp đạo Tuyên Uy. Sai Khâm sai thuộc nội thống binh cai cơ đạo Tiền du Trung quân là Lê Văn Tự, Khâm sai thống binh cai cơ chánh Hữu chi Hữu quân là Phạm Đắc Chất quản suất binh thuyền đi đánh dẹp yên.

Định rõ lệnh bắt trộm. Gia Định có nhiều bọn côn đồ vô lại cướp bóc ở trên bộ và dưới nước, cũng có kẻ đeo hiệu quân. Vua muốn vì dân trừ hại, bèn sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh mật sai quan quân đêm đi tuần từ Cát Ngang đến Nghi Giang, phàm bắt được kẻ trộm cướp và kẻ cắp có thực tang thì đều cho chém bêu đầu ở nơi ấy ; nhân dân bắt nộp quả tang thì cũng cho chém bêu đầu ở nơi sở phát, không đợi phải tâu bẩm. Cách thưởng thì theo lệ năm Quý sửu. Kẻ phạm tội bị bắt thuộc chi hiệu nào thì người cai quản bị liên can. Lại sai quản quan ở các dinh thủy bộ trong ngoài cứ theo những nơi tuần phòng cũ mà phái chọn cai đội đem quân đi dẹp bắt. Hai dinh Trấn Định và Vĩnh Trấn đều cứ tình hình động tĩnh trong hạt, mỗi tháng một lần báo cho bọn Hội chuyển đạt lên.

Ban áo mùa đông cho Lưu trấn Diên Khánh là Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường và các tướng hiệu (Văn Thành, Trần Thường đều một áo một chăn, phó tướng Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Văn Tánh, Cai cơ Hoàng Văn Khánh, Tôn Thọ Vinh, Lê Văn Lân, Nguyễn Huệ, mỗi người một áo). Dụ rằng : "Bọn khanh đối với quốc gia, nghĩa là vua tôi, nhưng tình như cha con. Người làm cha mẹ lòng yêu con không cái gì không chu đáo. Nay tiết mùa đông rét lạnh, ta ở chốn thâm cung mà trong mình còn thấy rét, huống bọn khanh đi thú xa xôi ở biên thành, gió bấc mưa tuyết chịu làm sao nổi. Vậy ban cho áo chống rét, để tỏ ý vua tôi thân nhau như một".

Lại cho Phó tướng quản dinh Bình Thuận là Phan Tiến Hoàng, Chưởng cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào, Cai cơ giữ Đại Lĩnh là Mai Tiến Vạn, Cai cơ giữ đèo Sầm Dương là Nguyễn Văn Quế, Cai cơ giữ đèo Gian Nan là Nguyễn Văn Nguyện mỗi người một chiếc áo rét.

Thưởng cho tướng sĩ đánh giặc Man ở Bình Thuận và Thuận Thành. Gần đây bọn Man Ba Phủ thường quấy rối ngoài biên, quan quân bộ thuộc của Phan Tiến Hoàng và Nguyễn Văn Hào đuổi bắt cũng có khó nhọc. Vua nghĩ thương, đặc sai Tả tham tri Lễ bộ Nguyễn Cửu Hanh đem áo vóc đoạn cho bọn Tiến Hoàng, tùy theo công trạng mà cấp khác nhau.

Chở 1.000 phương gạo lương ở Gia Định đem chứa ở đạo Ma Li.

Lưu trấn Diên Khánh là Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường dâng sớ rằng : "Bình Thuận phía ngoài giáp với Diên Khánh, phía trong thông với Gia Định đường đi lại ắt phải qua đó. Nay bọn Man Ba Phủ thói cũ chẳng chừa, chạy như lang, chũi như lợn, tuy chỉ là ghẻ ngoài da mà thực là mối lo ở tâm Phước. Nếu đánh thì nó trốn, mình chưa có thể đuổi thú cùng rừng ; mà giữ thì chẳng quen thủy thổ, chỉ mệt mỏi quân ta. Vậy xin mật kén vài chục người quen thuộc tính tình người Man, cho giả làm quân trốn mà theo giặc, đợi quân ta đánh sát đến thì trong ứng ngoài hợp để cho thành công. Hoặc là dỗ tù trưởng đi xa nhà lán để đặt phục binh mà bắt, rồi sau càn bừa sào huyệt, có thể mối lo biên giới mới yên. Sớ tâu vào, không trả lời.

Tháng 11. Sai Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Đạo đốc suất binh dân đến bảo Đồng Môn, dựng chòi canh [thang trông] sửa đường quan, để nghiêm việc phòng bị. Vua đến xem 10 ngày rồi về.

Cai cơ quản đạo Đồng Môn là Cao Văn Cửu và Tri bạ Trương Văn Lợi xin mộ dân ngoại tịch 40 người lập làm một thuyền của đội Du lâm thuộc binh, chia phái đi phòng thủ. Vua y cho.

Vua nước Chân Lạp là Nặc ấn chết. Con là Nặc Chăn nối ngôi. Sai Chưởng cơ Tống Viết Phước và Tham tri Lễ bộ Trần Hưng Đạt sang phúng (100 cân sáp ong, 500 cân đường cát).

Sai các quân đóng thêm 50 chiếc thuyền đi biển, 100 chiếc thuyền sai và 200 chiếc thuyền chiến.

Sai Chánh Tiền chi Tiền quân là Ngô Văn Nhậm, Phó Trung chi là Bạch Dương Huyên đều đem chi binh đi Bình Thuận hợp cùng Chánh Trung chi quản đạo Phố Hài là Phạm Tiến Tuấn, theo Phó tướng Phan Tiến Hoàng sai bát.

Đắp bảo Kinh Dinh ở Bình Thuận (thuộc đạo Phan Rang, cùng bảo Mai Nương làm thế dựa nhau), sai Phan Tiến Hoàng trông coi công việc.

Tháng 12, cấm sai phu trạm làm việc riêng. Trước là những nhân viên được sai phái, phần nhiều tự tiện bắt phu trạm kiêng chở của riêng và đòi cung đốn ăn uống, người ta lấy làm khổ. Vua nghe tệ ấy, sắc rằng : "Từ nay hễ công việc khẩn yếu mới cho lấy phu trạm, đi qua đâu phải ghi sổ, cuối tháng do đạo chuyển đạt. Sai việc tư và yêu sách thì đều cấm".

Sai Phó tướng Phan Tiến Hoàng đem tướng sĩ Tiền chi và Trung chi Tiền quân cùng Xiêm binh và hương binh hơn 1.600 người, tiến đánh giặc Man Ba Phủ. Khi quân đến Phố Châm thì Toàn Phù trốn xa, dư chúng ra hàng nhiều. Bèn dẫn quân về.

Lấy Khâm sai tổng nhung cai cơ chánh trưởng chi Hữu chi Hữu quân, là Nguyễn Đức Thành làm Phó tướng Hữu quân, Khâm sai cai cơ phó trưởng chi Hữu chi Dương Công Bảo làm Chánh trưởng chi, Khâm sai cai đội trưởng hiệu Võ Danh Thìn làm Phó trưởng chi.

Lấy Lưu Văn Vượng làm Viện trưởng Cống sĩ viện, Lê Đăng Doanh sung Cống sĩ viện.

Lập đền Tinh Trung ở núi Hà La phủ Diên Khánh (ở phía bắc cửa biển Cù Huân). Trong chiến dịch Diên Khánh năm ất mão, tướng sĩ có nhiều người chết trận và ốm chết. Vua nhớ đến sai lập đền ở núi Hà La để thờ cúng, gọi là đền Tinh Trung, hằng năm mùa xuân, mùa thu cúng tế, đặt 20 người từ phu và một người tự thừa. (Chính giữa đền thờ những người trận vong là : Khâm sai cai cơ chi Trung du dinh Tiền quân tặng Chưởng cơ Vũ Văn An, Nguyễn Lân, Tống Phước Đắc, Khâm sai cai cơ đội Hùng kỳ thượng đạo tặng Chưởng cơ Nguyễn Đình Lan, Khâm sai cai cơ hiệu Hữu du dinh Tiền quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Châu, Khâm sai thống binh cai cơ chi Chính trung dinh Hậu quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Uy, Khâm sai cai cơ chưởng hiệu Tiền hiệu, Hậu chi tặng Chưởng cơ Ngô Văn Lễ, Khâm sai cai cơ trưởng chi dinh Hữu quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Minh. Cai cơ chi hiệu trung dinh Trung quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tiến. Phó đội cai cơ Hữu chi dinh Tiền quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thuận cộng 10 người.

Hai bên tả hữu liệt thờ [dự thờ] những người trận vong là :

Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Thư, Nguyễn Văn Toản, Châu Văn Tứ, Phạm Văn Dụ, Nguyễn Văn Thiện, Trần Văn Chấn, Nguyễn Văn Sinh, Đào Văn Long, Lê Văn Trí, Đặng Văn Hiền, Hồ Văn Hóa, Hoàng Văn Pháp, Nguyễn Văn Nhâm, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Cảnh, Lê Phước Tri, Nguyễn Văn Vân, Trần Văn Điểu, Nguyễn Văn Khương, Lê Công An, Vũ Văn Linh, Phạm Văn Hóa, Nguyễn Văn ý, Lê Văn Bứa, Nguyễn Công Hựu, Vũ Văn Động, Lê Văn Lượng, Trần Văn Trương, Phan Văn Chử, Vũ Văn Thiêm, Nguyễn Văn Liễu, Ngô Văn Hiến, Nguyễn Văn Tư, Nguyễn Văn Gia, Dương Văn Phí, Vũ Văn Hiếu, Nguyễn Văn Huề, Nguyễn Hữu Huyên, Đặng Văn Tư, Đỗ Văn Diệu, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Văn Liễu, Trương Văn Thành, Nguyễn Văn Diệu, Trần Đức Luật, Lưu Thậm Thùy, Trần Văn Phù ; Phó đội tặng Cai đội Nguyễn Bảo, Hoàng Văn Cần, Hồ Văn Tuấn, Trần Văn Yển, Trần Văn Trí, Đặng Đình Thường, Phan Văn Khoa, Nguyễn Văn Hiền, Hồ Viết Tống, Hoàng Văn Thản, Lê Văn Nghĩa ; Chánh đội trưởng tặng Phó đội Nguyễn Văn Đê, Trần Văn Mãn, Đinh Công Phượng, Nguyễn Văn Đồng, Nguyễn Văn Từ, Trịnh Văn Dụng, đội trưởng Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Văn Vạn, Hoàng Văn Sách, Đặng Văn Quyến, Lê Văn Đơ, Nguyễn Văn Vạn, Phạm Văn Trì, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Trí, Nguyễn Văn Vàng, Nguyễn Văn Tòng, Trần Văn Thậm, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Văn Trì, Nguyễn Văn Đệ, Lê Văn Điện, Nguyễn Văn Dưỡng, Trần Văn Khoa, Phan Văn Thanh, Bùi Văn Cả, Nguyễn Văn Nghĩa, Trần Văn Phú, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Văn Kim, Hoàng Văn Bông, Nguyễn Văn Hoan, Lê Văn Nhiên, Hoàng Văn Liễu, Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Văn Thoan, Nguyễn Văn Ba, Hoàng Văn Nghị, Cao Văn Búa, Hoàng Văn Chư, Trần Văn Thuận, Nguyễn Văn Tính, Phan Văn Thụy, Nguyễn Văn Vạn, Phan Văn Duyên, Nguyễn Tử Nhàn, Nguyễn Văn Thiều, Nguyễn Văn Lược, Nguyễn Văn Diễm, Trần Văn Tuấn, Nguyễn Văn Hội, Lê Văn Xa, Nguyễn Văn Hưng, Trương Văn Tín, Trần Đình Huy, Phạm Văn Ngôn, Nguyễn Văn Quy, Trương Văn Tính, Bùi Văn Trinh, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Văn Toán, Đặng Công Khiêm, Trần Văn Sạ, Hồ Văn Tòng, Trần Văn Hạnh, Lê Văn Đơ, Lê Văn Tây, Nguyễn Văn Điền, Nguyễn Văn Thi, Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Văn Loan, Dương Văn Thiêm, Lê Tiến Lộc, Vũ Văn Búa, Nguyễn Văn Diệu, Lê Văn Chiêm, Nguyễn Văn Phong, Lê Văn Gia, Nguyễn Văn Phú, Trần Văn Thận, Lê Văn Giao, cộng 141 người.

Những người chết bệnh là : Khâm sai thống binh cai cơ phó trưởng chi Mai Vạn, Khâm sai cai cơ Vũ Ngọc Quỳnh, Nguyễn Văn Tú, Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Văn Tứ, Nguyễn Văn Xạ, Phan Long Dốc, Bùi Văn Trương, Cai đội Lê Tường, Ngô Văn Giảng, Trần Văn Bình, Nguyễn Văn Phượng, Đào Văn Phương, Lê Văn Nghị, Trần Văn Hợp, Nguyễn Văn Nghiêm, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Đồng, Dương Văn Khương, Trần Văn Bảo, Lê Văn Yến, Nguyễn Văn Yển, Hoàng Phú Lục, Đặng Văn Triệu, Nguyễn Văn Thúy, Nguyễn Văn Phầu, Nguyễn Luận, Nguyễn Văn Trinh, Hồ Văn Hề, Lê Văn Cối, Lê Hữu Tử, Phạm Văn Thìn, Nguyễn Văn Thực, Phạm Văn Vĩnh, Siêu Đức, Siêu Tài, Từ Văn Nghị, Trương Văn Nho, Ngô Văn Cần, Hoàng Văn Duy, Nguyễn Thuyên, Nguyễn Văn Chư, Nguyễn Văn Đán, Trần Văn Tinh, Trần Văn Bình, Lê Văn Trí, Trần Văn Diệp, Cai bạ dinh Bình Khang tặng Cai bạ dinh Quảng Nam Ngũ Khắc Bạn. Ký lục dinh Bình Khang tặng Ký lục dinh Quảng Nam Hoàng Tú Chung, Cai án tham luận Trung chi Trung dinh tặng Cai bạ Tống Văn Bảo, Trung úy Phạm Văn Vĩnh, Trần Văn Thuyết, Nguyễn Tiền Phú, Nguyễn Văn Nhi, Đặng Văn An, Phó đội Lục đội vệ Dương võ quân Thần sách Nguyễn Đài, Chánh đội trưởng Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Tiến, đội trưởng Phạm Đặng Thụy, Nguyễn Văn Tâm, Vũ Văn Điền, Nguyễn Văn Thọ, Ngô Văn Trường, Đặng Văn Tứ, Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Triều, Nguyễn Văn Phượng, Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Chi, Mai Văn Thiết, Nguyễn Văn Trướng, Lữ Văn Tâm, Đào Văn Quảng, Nguyễn Văn Ngoạn, Trần Văn Lực, Nguyễn Văn Triệu, Nguyễn Văn Nghị, Lê Văn Công, Lê Văn Lộc, Dương Văn Nguyên, Nguyễn Văn Trường, Phạm Trọng Hương, Phạm Văn Điền, Trương Văn Ngữ, Vũ Văn Trí, Hoàng Văn Siêu, Nguyễn Văn Khách, Nguyễn Văn Nhật, Chế Văn Tiến, Nguyễn Văn Thận, Hoàng Văn Yến, Hoàng Văn Đột, Trương Văn Hỗ, cộng 99 người. Cộng tất cả là 250 người).

Cai bạ Vĩnh Trấn là Nguyễn Ngọc Chương vì ốm yếu xin về hưu. Khởi phục cựu Tham tri Hình bộ Phạm Ngọc Uẩn làm Cai bạ Vĩnh Trấn. (Ngọc Uẩn trước vì có lỗi bị truất, đến nay được dùng lại).

Sai Chưởng cơ Tống Viết Phước cai Tàu vụ.

Ngoài biển Bình Khang có một chiếc thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi đậu ở Hòn Tre, Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành sai Cai cơ Lê Quang Tường đem binh đội thắng thủy đánh bắt được. Việc tâu lên. Vua thưởng cho 3 tấm sa đoạn và 100 quan tiền.

Chính biên

Đệ nhất kỷ - Quyển X - Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Mậu ngọ, năm thứ 19 [1798] (Thanh ? Gia Khánh năm thứ 3), mùa xuân, tháng giêng, lấy Cai đội thuộc nội Trương Phước Thọ quản hai đội Nội hầu và Thị trà, phụng giữ chìa khóa hòm ấn vàng.

Sai Cai phủ tàu Chính dinh là Dư Hải Quan đi Hạ Châu tìm mua đồ binh khí.

Cải bổ vệ Võ dực Tả chi Trung quân lệ vào dinh Tiên phong, rồi lại đổi làm vệ Địch võ.

Tháng 2, tế xuân ở Văn Miếu, vua thân đến làm lễ.

Xiêm La bị Diến Điện đánh, sai sứ xin ta giúp quân. Vua sai Chưởng Hữu quân Nguyễn Hoàng Đức và Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương đem hơn 7.000 thủy binh, hơn 100 chiến thuyền đến viện trợ. Khi quân ta đến Côn Lôn thì người Xiêm đã phá được quân Diến sang báo tin thắng trận. Nhân đó vua sai Hoàng Đức cùng với Bảo hộ Nguyễn Văn Nhàn đem vài chiếc binh thuyền sang Xiêm nói chuyện việc binh, còn thì rút về hết.

Lấy Phó vệ Chương võ Hậu quân là Lê Nho Can làm Phó vệ úy vệ Phấn oai quân Thần sách, Cai đội Võ Văn Toán và Nguyễn Văn Thắng làm Phó vệ vệ Tuyên võ Hậu quân, Dương Văn Lộc làm Phó vệ vệ Nhuệ phong.

Sửa lại thành Mỹ Tho dinh Trấn Định, sai phó tướng Phạm Văn Nhân trông nom công việc.

Tham tri Hộ bộ là Nguyễn Văn Phú có tội bị miễn chức ; Phó tướng Tiền quân tổng nhung cai cơ Phan Tiến Hoàng bị giáng xuống hàm Tổng nhung cai đội, vẫn quản dinh Bình Thuận. Trước Phú phụng mệnh kiểm tra tiền thóc ở Bình Thuận, cùng họp làm việc với Hoàng, quá nghe bọn thuộc lại ở dinh vu cáo Ký lục Hồ Văn Giáo lấy cắp tiền kho, xin bãi chức Giao và tịch thu gia tài. Giao không có tội, bắt tội Phú 100 roi và cách chức. Hoàng thì được nghị công(1. Nghị công : Theo lệ bát nghị của pháp luật, người có công với nước mà phạm tội thường thì được giảm miễn.1) nên chỉ bị giáng. Giao được chuyển bổ Ký lục đạo Long Xuyên.

Sĩ tốt các dinh quân và quân Bắc Hà Thuận Hóa mới phụ, nhiều người trốn ra ở thôn xóm để tránh dao dịch. Vua bèn sắc cho quan công đường bốn dinh Gia Định truyền khắp cho các tổng xã trong hạt nã bắt để trị tội. Ai dám chứa giấu, hương trưởng xã trưởng sở tại thì xử theo quân pháp, dân thì sung làm binh.

Sai các đội mộc đĩnh [xuồng gỗ] ở Chính dinh đi Quang Hóa tìm chở ván gỗ để đóng chiến thuyền lớn và thuyền kiểu Tây dương. Vua đến xem.

Hai chiếc thuyền giặc biển Tề Ngôi vào vụng Thùy Vân dinh Trấn Biên xin hàng. Hạ lệnh đưa về Gia Định.

Tháng 3, lấy Hàn lâm viện thị học Nguyễn Văn Khiêm làm Ký lục Bình Thuận.

Chở 1.000 phương thóc ở Long Xuyên đem chứa ở đạo Kiên Giang.

Đông cung Cảnh xin làm sách Hiển trung chư thần liệt truyện để khích lệ lòng người. Vua lấy làm phải.

Người Hồng Mao đến hiến phương vật.

Chưởng cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Hào vì suy yếu xin nghỉ việc trấn. Vua y cho.

Giặc biển Tề Ngôi đóng ở phần biển Cù Huân. Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành nghe báo, sai bọn Cai cơ Lê Quang Tường đem quân đuổi theo bắt, tới Diên áo [Vũng Diên] bắt được hai chiếc thuyền, còn thì chạy thẳng về đông. Vua thưởng cho bọn Tường các thứ nhiễu 2 tấm, sa mát 4 tấm và tiền 100 quan.

Ban áo mùa xuân cho Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường cùng các tướng hiệu.

Lại thấy Phó tướng Tiên phong Nguyễn Văn Lợi và Nguyễn Văn Tánh theo việc quân đã lâu, ra lệnh cho đem hai chi Túc oai và Kiến võ sở thuộc về Gia Định nghỉ ngơi.

Mùa hạ, tháng 4, cho Vệ úy vệ Ban trực hữu quân Thần sách là Nguyễn Vĩnh Hựu làm Vệ úy vệ Dương võ.

Định lệ đúc tiền. Cứ 100 cân kẽm thì đúc thành tiền 35 quan, mỗi quan tiền cân nặng 1 cân 14 lạng làm hạn. Sai tri Đồ gia là bọn Cáp Văn Hiếu và Nguyễn Thành Chẩn mộ người Đường [Hoa Kiều] để đúc.

Sai Lễ bộ Ngô Tòng Chu hiệp cùng nguyên Lễ bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên phụ đạo Đông cung. Tòng Chu là người Tân Bình dinh Phiên Trấn, người thanh liêm, học hạnh thuần chính, vua đặc biệt để ý, nên có mệnh này. Tòng Chu từ nói rằng : "Thần tài sơ đức mỏng, lạm dự văn ban còn sợ chưa được xứng chức, trách nhiệm phụ đạo, thần sợ làm không nổi". Vua nói : "Đông cung là ngôi trừ nhị của nhà nước, kén người sư phó, không phải khanh thì không được, đừng nên chối nữa". Tòng Chu vâng mệnh, hết lòng uốn nắn, nói thẳng không giấu giếm. Đông cung rất kính trọng.

Lấy Hữu tham tri Lại bộ Đoàn Trọng Viễn kiêm Phó đốc học Quốc Tử Giám.

Lính trốn ở các dinh quân, quan địa phương phần nhiều bắt vợ con đem giam ở quân xá. Đông cung Cảnh thấy thế, nói với vua rằng : "Trai gái có phân biệt, đó là chế độ xưa, người đàn bà bị giam kín một đêm, trọn đời khó lòng biện bạch. Nay vợ con lính trốn bắt giam lẫn lộn, sợ không được phân biệt, xin hạ lệnh cho hữu ty làm chốn giam riêng". Vua khen lời nói phải.

Lấy Khâm sai tham tá chánh vệ vệ Chiến phong Hậu quân là phó tướng Nguyễn Văn Thành làm Hậu quân, Phó vệ vệ Chiến phong là Nguyễn Văn Thủ làm Chánh vệ, Cai cơ Nguyễn Văn Biên làm Phó vệ.

Giảm lệ thuế đồn điền đạo Long Xuyên. Lệ cũ mỗi người mỗi năm nộp 8 hộc thóc sưu, đến đây giảm 2 hộc, y theo lệ thuế đồn điền Gia Định mà thu.

Tháng 5, lấy Trưởng hiệu Trung chi Hậu quân là Lê Văn Tài làm Chánh trưởng chi, Phó trưởng chi Hậu chi Tiền quân là Nguyễn Văn Y làm Chánh trưởng chi, Cai cơ Hoàng Văn Long làm Phó trưởng chi.

Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường dâng sớ nói : "Hiện nay ta với Tây Sơn chính là nước nọ địch với nước kia, thế không thể không đánh về ngoại giao để cầu viện, khiến cho thế giặc ngày càng cố, thế mới là mưu hay vạn toàn. Vả người Thanh từ khi có chuyện với Bắc Hà, bị Tây Sơn đánh bại, sao lại không đau lòng nhức óc, chứa thẹn ngậm hờn, tạm để đó chờ cơ hội tốt. Nay vua Gia Khánh nhà Thanh nối ngôi, buổi đầu hăng hái, tưởng không phải khí tượng đời Càn Long. Vả lại người Thanh lo giặc biển chưa có cách khống chế đã từng thông hịch cho Tây Sơn tìm bắt, nhưng nó lơ đi thì mối căm giận của người Thanh không những là ở giặc biển mà cũng lan đến Tây Sơn. Duy vì non sông hiểm trở, phong tục và tiếng nói khác nhau, nếu lại dùng binh, sợ khó thắng được. Vả Nam Bắc đường xa dặm cách, sự thế khó hiểu, họ cũng cho Tây Sơn đã chiếm cả bờ cõi Nam Việt, không ai đối địch nổi, sự thực hư mạnh yếu chỉ nghe bọn khách buôn truyền tin, chưa lấy gì làm chắc, nên vẫn bồi hồi ngóng trông, chưa định ngày xuất quân hoặc giả đó cũng là một cớ. Ngày nay từ khi quân ta thắng trận ở Đà Nẵng, bọn giặc biển Tàu Ô bắt được nhiều, bọn thần muốn nhân việc làm việc, soạn một bài biểu, lấy mấy chiếc thuyền giặc đem dâng để làm mối lái, tất vua Thanh phải khen nhận, không nỡ cho ta là tầm thường mà lơ. Nếu được đến chầu tận nơi, thì tùy nghi mở đóng, biện bạch phải trái. Một là nói rõ Tây Sơn xưng thần ở Trung Quốc mà xưng đế ở ngoài, đập vào chỗ kỵ của họ để gây sự hiềm khích. Hai là ta thăm hỏi vua Lê, ngầm thông tin tức, để cùng nài xin. Nếu họ còn giữ được cái thói lễ nghĩa liêm sỉ thì sao nỡ bỏ đấy mà không hỏi ! Làm được thế thì lợi có nhỏ đâu ? Ví họ lại lần chần, lấy nghĩa nói khích mà không đồng lòng, thì cũng tỏ rõ được danh tiết của ta, làm nổi tiếng văn hiến, đủ làm cho người ta kính sợ, đối với việc cũng không hại gì. Nhưng nghĩ việc đi sứ không phải là nhẹ, chỉ nhờ một lời nói mà làm hay cho nước, thực không phải người rộng học suốt lý thì không thể làm nổi. Bọn thần xin cử hai người, một là Đông cung thị học họ Ngô tên Tĩnh, hai là Vĩnh Trấn ký lục họ Phạm tên Thận, dẫu không phải là tài lương sứ đời xưa, nhưng lòng trì thủ khá chắc, học vấn khá rộng, cũng không đến nỗi nhục quân mệnh đâu". Vua cho là phải.

Lấy Phó vệ vệ Tiệp võ Tiền quân là Nguyễn Văn Hiếu làm Chánh vệ, Cai đội Vương Văn Học và hàng tướng Phan Văn Vân làm Phó vệ, Cai đội Thái Văn Quý làm Phó vệ vệ Phấn võ.

Khâm sai cai cơ tạm hành Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Đạo có tội bị miễn chức ; lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ tri Đồ gia là Nguyễn Đức Giảng làm Lưu thủ Trấn Biên.

Chở 300 phương gạo ở Gia Định đem chứa ở đạo Hưng Phước.

Tháng 6, Khâm sai thuộc nội cai cơ quản đội Tiểu sai tri Tượng chính kiêm Trường đà sự là Trương Phước Luật chết ; lấy Thuộc nội cai đội Nguyễn Cửu Kỷ quản đội Tiểu sai kiêm suất các thuyền Trung hầu.

Bắt đầu đặt năm đồn quân Thần sách. (Trung đồn có 4 vệ Túc trực, Hùng uy, Phấn uy và Võ uy ; Tiền đồn có 4 vệ Ban trực tiền, Ban trực hậu, Long võ và Kiên uy ; Tả đồn có 4 vệ Ban trực tuyển phong hữu, Diệu võ, Dương võ và Túc võ ; Hữu đồn có 4 vệ Ban trực hữu, Ban trực tuyển phong tiền, Hổ oai và Uy võ ; Hậu đồn có 4 vệ Ban trực tả, Ban trực tuyển phong tả, Ban trực tuyển phong hậu và Hùng võ). Mỗi đồn đặt một Chánh thống và một Phó thống. Chánh thống thì thống quản 4 vệ, phó thống thì quản một vệ mình và kiêm 3 vệ khác, theo chánh thống sai bát.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ hành phó tướng Tả quân là Phạm Văn Nhân làm Chưởng cơ giám quân quân Thần sách quản tướng sĩ năm đồn, kiêm tri Tượng chính Mã chính và các đội Bả cái, Tiểu hầu, Bả lệnh, Vệ úy vệ Ban trực tiền là Phan Văn Triệu làm Chánh thống tiền đồn, Vệ úy vệ Ban trực hậu là Tôn Thất Chương làm Phó thống, Vệ úy vệ Diệu võ là Lê Văn Duyệt làm Chánh thống Tả đồn, Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hữu là Hoàng Viết Toản làm Phó thống, Vệ úy vệ Hổ oai là Trấn Văn Tín làm Chánh thống Hữu đồn, Vệ úy Ban trực hữu là Phan Văn Kỳ làm Phó thống Vệ úy vệ Ban trực tả là Mai Đức Nghị làm Chánh thống Hậu đồn, Vệ úy vệ Hùng võ là Nguyễn Đức Xuyên làm Phó thống Trung đồn. Những người trước mang hàm Cai đội đều thăng Cai cơ.

Lấy Vệ úy vệ Tuyển phong tiền quân Thần sách là Chưởng cơ Tống Viết Phước làm Phó tướng Tả quân.

Lấy Phó vệ úy vệ Hổ oai quân Thần sách là Phan Văn Thúy làm Vệ úy, Cai đội Nguyễn Cửu An làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Ban trực tả là Võ Văn Tài làm Vệ úy, Cai đội Nguyễn Văn Châu làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Diệu võ là Nguyễn Văn Phát làm Vệ úy, Cai đội Lê Văn Phong làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Hùng võ là Trần Vĩnh Khoa làm Vệ úy, Cai đội Nguyễn Đức Tần làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Hùng uy là Đỗ Thành Lâm làm Vệ úy, Cai đội Trần Văn Phương làm Phó vệ úy, Vệ úy vệ Dương võ là Nguyễn Vĩnh Hựu làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền, Cai đội Nguyễn Văn Quế làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Ban trực tiền là Võ Đức Trinh làm Vệ úy, Cai đội Đinh Công Đông làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền là Từ Văn Chiêu làm Vệ úy vệ Dương võ, Cai đội Nguyễn Văn Thiêm làm Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tả, Cai đội Nguyễn Văn Di làm Phó vệ úy vệ Uy võ.

Nước Chân Lạp sai sứ đến dâng voi đực.

Bọn Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Văn Nhàn từ nước Xiêm trở về.

Vua cho rằng tiết trời gần đến mùa thu, nắng mưa bất thường, sắc cho các dinh Trấn Biên, Vĩnh Trấn và Trấn Định phái người đi khắp trong hạt xem ruộng nương có được nước mưa không, cứ 10 ngày một lần báo lên.

Bình Thuận bị hạn, sai dinh thần đảo vũ.

Lấy Hàn lâm viện thị học Ngô Nhân Tĩnh làm Tham tri Binh bộ, đem quốc thư theo thuyền buôn người Thanh sang Quảng Đông để hỏi thăm tin tức vua Lê. Nhân Tĩnh đến, nghe được tin vua Lê đã chết, bèn trở về.

Sai Chánh phó thống Tả đồn quân Thần sách là Lê Văn Duyệt và Hoàng Viết Toản đốc suất chở thóc gạo và thuốc men ở Gia Định đem chứa ở Diên Khánh (Gạo 22.100 phương, thóc 53.500 phương, vị thuốc 300 cân).

Mùa thu, tháng 7, triệu Lưu trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Thành về Gia Định thương nghị việc binh. Sai Lê Văn Duyệt kiêm quản tướng sĩ dinh Tiên phong hiệp cùng Đặng Trần Thường tạm trấn Diên Khánh, hơn một tháng thì Thành ra trấn, lại gọi Duyệt về.

Hộ bộ Phan Thiên Phước tuổi già xin nghỉ việc. Vua nghĩ là người kỳ cựu đặc biệt cho nghỉ việc bộ, vẫn giữ nguyên hàm coi thuế rượu để có lộc ăn.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai cơ là Nguyễn Văn Nhân quản Trường đà kiêm hành việc Hộ bộ.

Lấy Chánh trưởng chi Tiền chi Túc uy dinh Tiên phong là Lê Văn Lân quản đạo Hưng Phước.

Dân Phú Yên đói, nhiều người dìu già dắt trẻ đến kiếm ăn ở Diên Khánh. Vua sai phát tiền gạo chẩn cấp.

Đặt vệ Lương võ ở dinh Tiên phong, lấy Khâm sai cai cơ Nguyễn Công Trọng làm Chánh vệ, Trần Văn Tại và Đặng Văn Sĩ làm Phó vệ.

Dân Chân Lạp ở miền Hậu Giang dinh Vĩnh Trấn nhiều người bị dân Hán [người Việt] xâm chiếm vườn đất, kiện ở quan. Sai Khâm sai chưởng cơ Hồ Văn Lân hội đồng với Cai bạ Phạm Ngọc Uẩn đi khám, hễ nơi nào dân Chân Lạp có trồng cây rồi thì trả cho người ta làm ăn, còn đất hoang nhàn thì cho dân Hán lập làm vườn tược, đều chia vạch giới hạn, cho dứt mối tranh nhau.

Cho Tham tri Nguyễn Văn Mỹ được dự thờ ở đền Hiển Trung. Ngô Tòng Chu tâu rằng : "Mỹ khi làm quan chỉ ham vơ vét, nhiều người oán. Đặt đền Hiển Trung là để khuyên người trung, Mỹ là tiểu nhân như thế thì lấy gì để làm gương, xin đình việc ấy". Vua nói : "Lời khanh nghị luật rất đúng, nhưng Mỹ là người có công theo hầu bên ngựa [trong khi bôn ba], vì cái vết mà bỏ mất hòn ngọc, lòng ta không nỡ".

Đặt đội dệt thảm [cói] ở dinh Bình Khang. (Đội gồm 10 người, mỗi người mỗi năm nộp 3 đôi thảm cói dài 5 thước ngang 4 thước, năm hạn không trồng được thì cho nộp thay bằng tiền mỗi người 15 quan, thuế thân thì theo hạng biệt nạp).

Tháng 8, tế thu ở Văn Miếu. Vua thân đến làm lễ.

Lấy Ký lục Trấn Định là Trịnh Hoài Đức làm Hữu tham tri Hộ bộ, Thư ký Chính dinh tri Đồ gia là Lê Viết Nghĩa làm Tham tri Hộ bộ, Cai bạ Bình Khang là Nguyễn Y Mân làm Hữu tham tri Lễ bộ, Tham luận vệ Dương võ là Nguyễn Cử Trinh làm Tả tham tri Công bộ, Hàn lâm viện Lê Bá Phẩm làm Ký lục Trấn Định, Hàn lâm viện thị học Hoàng Ngọc Uẩn làm Cai bạ Bình Khang, Thị thư Trần Đinh Trưng làm Thị thư viện phụng chỉ, Cống sĩ viện Trần Văn Tuân sung Hàn lâm viện.

Tục Gia Định hay thờ Phật. Có nhà sư tên là Cao phạm tội, vua muốn giết ngay, có kẻ nói sư là người chân tu, vua nói : "Có chân tu nữa thì ích gì cho nước ?". Sai các dinh thần xét hết những chùa trong hạt, từ hòa thượng cho đến đạo đồng phải ghi hết số người vào sổ để dâng, rồi sai Lại bộ truyền bảo rằng : Phàm tăng đồ tuổi từ 50 trở lên thì vẫn miễn dao dịch, chưa đến 50 thì phải chịu dao dịch như dân, kẻ nào dám trốn lánh thì bắt tội. Bầy tôi bàn ra nói vào nhiều, vua còn chưa quyết. Lễ bộ Ngô Tòng Chu nói với Đông cung Cảnh rằng : "Nhà vua bài trừ đạo Phật làm việc rất hay, bầy tôi không biết tán thành lại còn rườm lời. Tôi sợ việc này mà nửa chừng bỏ thì kẻ kia lại ngông cuồng hơn trước. Tôi không ghét riêng gì nhà sư. Nhưng mối hại của Phật Lão còn quá hơn Dương Mặc, không thể không nói được". Đông cung nói : "Phải đấy". Tòng Chu bèn dâng sớ, chỉ trích cái bậy của nhà sư. Vua bèn quyết ý. Bá Đa Lộc nghe Tòng Chu bài xích tả đạo, trong lòng cũng ghét.

Chi Tiền du của 2 vệ Tiền kích và Trung kích của Hậu quân nhiều binh trốn, số hiện tại thưa thớt. Vua hạ lệnh cho hương binh hai phủ Bình Khang Diên Khánh có ai tình nguyện xin vào thì cho ghi tên sung vào quân ngạch; lấy Khâm sai thống binh cai cơ là Nguyễn Văn Tín cho kiêm quản, theo quan lưu trấn sai bát.

Sai Phó tướng Hữu quân Nguyễn Đức Thành và Tham tri Hình bộ Nguyễn Hoài Quỳnh đi sứ sang Xiêm.

Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Phong giữ sách Cà Hô mưu nổi loạn. Dinh thần Bình Thuận sai bọn Cai cơ Nguyễn Văn Hưng đem quân ập đánh giết được. Việc báo lên. Thưởng cho bọn Hưng ba cái áo chiến gấm hoa và 50 quan tiền.

Tháng 9, lấy Thuộc nội nội cai đội vệ Túc trực cũ quân Thần sách là Trương Phước Giao quản đạo Kiên Giang, Cai đội Trung quân là Nguyễn Văn Ngũ quản đạo Kiên Đồn.

Vua thấy số thuyền Trường đà có ít, phải đóng thêm chiến thuyền để chuyên chở, sắc cho các dinh thần ở Gia Định cứ chiếu dân số các hạng thu lấy tiền thuê khoán để đóng. (Các hạng thực nạp, tráng, quân, dân, cùng, cố cùng các hạng biệt tính, biệt nạp, đồn điền, trại nậu, mỗi người nộp 3 quan 1 tiền 20 đồng, hạng lão và tật thì nộp một nửa).

Mùa đông, tháng 10, lấy Cai cơ phó dinh Tiền thủy là Nguyễn Hữu Chính làm quản dinh Tiền thủy, Cai cơ phó dinh Hậu thủy là Lê Văn Quế quản dinh Hậu thủy.

Sai các dinh thu trước thuế tô năm Kỷ mùi.

Triệu Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường về. Cho Đông cung nguyên súy Cảnh quận Công thống quản tướng sĩ dinh Tả quân và vệ Ban trực tuyển phong tiền quận Thần sách đến trấn giữ Diên Khánh, cho Bá Đa Lộc đi theo, Phó tướng Tống Viết Phước và Nguyễn Công Thái đều lệ theo.

Đặt đài phong hỏa ở các cửa biển ở Bình Thuận và Bình Khang. (Bình Thuận thì từ Vũng Tàu đến địa đầu Bình Khang, Bình Khang thì từ Hòn Gầm đến cuối địa giới Bình Thuận).

Lấy Vệ úy vệ Long võ quân Thần sách là Trần Đại Luật làm Vệ úy vệ Hùng uy, Phó vệ vệ Thần dũng Tả quân là Nguyễn Văn Hưng làm Chánh vệ, Cai đội Nguyễn Văn Hữu làm Phó vệ.

Lấy Khâm sai thống nhung cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Thịnh làm Phó trấn.

Lấy Cựu Hàn lâm Đặng Đức Siêu làm Tham mưu Trung dinh. Siêu là người văn học súc tích, gặp loạn đi ở ẩn. Giặc Tây Sơn thấy là danh sĩ, vời ra không đến. Năm Tân hợi, vua thấy Siêu là cựu thần mật sai người đến triệu. Đến đây Siêu lẻn vào Gia Định, hiến phương lược đánh Tây Sơn. Vua khen nhận, bèn trao cho chức này. Từ đó Siêu thường theo vua ở chốn binh nhung, dự mưu cơ mật, càng ngày càng được vua yêu.

Tháng 11, lấy tạm Quản dinh Tả thủy là Nguyễn Hữu Nghị quản dinh Tả thủy, Chánh Hậu chi dinh Tiền thủy là Nguyễn Văn Định làm Phó dinh Tiền thủy, Chánh Hậu chi dinh Tả thủy là Trần Công Lại làm Phó dinh Tả thủy, Chánh Tiền chi dinh Trung thủy quản đạo Thanh Châu là Nguyễn Văn Thụy làm Phó dinh Hậu thủy, Chánh phó Tiền chi dinh Hậu thủy là Đào Văn Lương và Trần Văn Giáo làm Chánh phó Tiền chi dinh Trung thủy, Phó dinh Hữu thủy cũ là Nguyễn Văn Cẩm làm Chánh Tiền chi dinh Tiền thủy, Cai đội Nguyễn Văn Tài làm Phó Tiền chi, Nguyễn Văn Sĩ làm Chánh Hậu chi, Phó Tiền chi dinh Tả thủy là Đặng Phước Trung làm Chánh hậu chi, Phó Hậu chi Phan Văn Tam làm Phó Tiền chi, Phó Trung chi Dương Công Trấn làm Phó Hậu chi, Phó Tiền chi dinh Hữu thủy là Trần Văn Phước làm Chánh Tiền chi, Phó Hậu chi Nguyễn Văn Khương làm Phó Tiền chi, Cai đội Trần Văn Nghị làm Phó Hậu chi, Phó Hậu chi dinh Hậu thủy là Phan Văn Ngũ làm Chánh Tiền chi, Cai đội Nguyễn Văn Bảo làm Phó Tiền chi, Cai cơ Tống Văn Khương làm Chánh Hậu chi, Cai đội Tống Phước Duyệt làm Phó Hậu chi.

Sai Chưởng dinh Tiên phong Nguyễn Văn Thành và Tán lý Đặng Trần Thường đem quân đóng ở sông Đà Diễn thuộc Phú Yên. Trước kia giặc Tây Sơn là Tiểu triều Nguyễn Văn Bảo đánh úp thành Quy Nhơn, bọn Thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng thua chạy, Bảo sai người đảng là đại đô đốc Đoàn Văn Cát và đô đốc Nguyễn Văn Thiệu giữ chợ Hội An, sai người dâng biểu xin hàng, và nói : Xưa Vi Tử(1. Vi Tử : Anh vua Trụ nhà Thương thấy Trụ bạo ngược, tất mất nước, đem đồ tế khí chạy về nhà Chu.

2. Trương Lương : Người nước Hàn, biết trước Hán Cao Tổ có thể nên nghiệp đế nên theo giúp để trả thù cho Hàn mà đánh Tần. 1) về nhà Chu, Trương Lương(2) về nhà Hán, thực vì mệnh trời đã cho nhà Chu nhà Hán. Xin quân nhà vua cứ đến, nguyện làm quân đi trước.

Vua sai bọn Thành đến tiếp ứng. Quân ta chưa đến thì giặc Nguyễn Quang Toản đã đem quân vây thành, bắt Bảo giết đi mà sai đại tổng quản Lê Văn Thanh làm Lưu thủ. Cát và Thiệu đến Diên Khánh lậy xin theo, bọn Thành dẫn quân về.

Giặc Nguyễn Quang Toản tính hay nghi kỵ, nghe lời gièm pha. Trong việc biến Tiểu triều, Toản ngờ Tư lệ Lê Trung ở Trà Khúc có dự mưu, gọi Trung về Thuận Hóa, rồi hỏi phụng chính là Trần Văn Kỷ rằng : "Tội Trung có đáng không ?" Kỷ nói : "Đáng". Toản bèn giết Trung. Lại nghe lời nói vu của Thượng thư Hồ Công Diện mà giết Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. Từ đó các tướng giặc đâm lòng ly tán, nhiều người có chí bỏ chỗ tối về chỗ sáng.

Chưởng Tiền quân điều bát chư đạo bộ binh bình Tây đại tướng quân quận công Tôn Thất Hội chết. Hội hai lần hộ giá sang thành Vọng Các, khi về Gia Định cầm quân đánh giặc, công trạng rực rỡ, tính nghiêm trang, giữ gìn lễ độ, các tướng đều kính mà sợ. Đến bấy giờ chết, vua rất thương tiếc truy tặng Nguyên phụ công thần đặc tiến thượng trụ quốc Chưởng dinh (Năm Minh Mệnh thứ 5 được tòng tự ở Thế Miếu, đến năm thứ 12 được phong Lạng Giang quận công).

Lấy Chưởng dinh Tiên phong Nguyễn Văn Thành làm Chưởng dinh Tiền quân, Phó tướng Tiên phong Nguyễn Văn Tánh quản dinh Tiên phong.

Sai chánh thống Tiền đồn quân Thần sách là Phan Văn Triệu quản Tàu vụ.

Nước Nhu Phật(1. Nước Johore ở đầu phía nam bán đảo Mã Lai.1) sai sứ là A Băng Cà Trạc đến dâng phẩm vật địa phương. Vua tặng rất hậu cho về. (Tặng quốc trưởng gấm đỏ hoa vàng và gấm bảo lam hoa vàng mỗi thứ 2 cây, nhiễu đỏ và nhiễu ngọc lam mỗi thứ 2 tấm, lĩnh thâm 4 tấm).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro