(Dark Castle) - Lâu đài bóng tối

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tòa lâu đài cổ mang tên dòng họ Vonteris, một dòng họ danh tiếng và lâu đời nhất trên mảnh đất của mùa xuân đã nhiều năm nay không có ai lui tới. Thay vì cái tên mĩ miều vốn có, người ta thượng gọi nó là "Lâu đài ma" hay "Lâu đài chết". Có lẽ, cả thị trấn chỉ có chú chó Dorish là đủ can đảm bước chân vào cái nơi hãi hùng đó. Thật khó để quan sát toàn bộ quang cảnh chung quanh lâu đài bởi nó được phủ kín bởi lớp cỏ dại mọc cao hơn đầu người và những tán cây cổ thụ cao lớn, trông gớm ghiếc như những cánh tay gân guốc ngoi lên từ địa ngục, chỉ thấy lớp tường bao bên ngoài cũ kĩ phủ đầy rêu xanh rì như một chiến tích của thời gian và từ nơi đó bốc ra thứ mùi ẩm mốc của hàng trăm năm mưa nắng dội xuống.

Không chỉ thế, những âm thanh ma quái, rùng rợn tựa như tiếng thì thầm của hồn ma hay như những tiếng động xé lên từ những chiếc máy chém thời trung cổ, rồi đến con cú khổng lồ như cận vệ của từ thần với đôi mắt hung ác cứ nhìn chòng chọc xuống người nào đi ngang qua, nó tọa vị chễm chệ trên nóc của tòa lâu đài khiến bất cứ ai dù vô tình hay bắt buộc phải đi qua cũng cảm thấy dựng hết tóc gáy. Quả thực, ngay cả người can đảm nhất thị trấn cũng không dám có ý nghĩ sẽ đặt chân tới đó. Hàng ngày, người ta chỉ thấy nhân viên đưa hàng đến đặt một vài món đồ trước cổng rồi đi. Không ai biết đằng sau cánh cổng ấy là cái gì, là người hay quái vật. Có ai hỏi, anh nhân viên đều trả lời: "Cha tôi đã làm như vậy, giờ tôi cũng chỉ biết làm theo". Chà, Có vẻ như đó là một nghề truyền thống và tất nhiên, chẳng còn ai dám động chạm thêm vào cái đã được gắn mác bảo hành truyền thống ấy thêm nữa. Và mọi chuyện xung quanh tòa lâu đài này vẫn cứ là một câu hỏi không có lời giải đáp.

Nhiều năm trước đây, hàng trăm bản tin nhanh qua vệ tinh của địa phương đều đưa tin dòm dỏ về nơi mà họ cho là kì thú này. Cánh nhà báo hết lần này tới lần khác đều thất bại trong việc đột kích và tòa nhà. Nhưng sau một sự kiện gây nhiều tranh cãi, không còn thấy bóng dáng một tay nhà báo hay phóng viên nào lảng vảng qua nơi này nữa. Đó là phản ứng sợ hãi dây chuyền từ hậu quả tai hại của một nhà báo dũng cảm có tên Stephen Roblin.

Chuyện là thế này, vào một buổi tối có thể coi là đẹp trời, không khí mát mẻ, thoáng đãng và tạnh ráo. Thời tiết dễ chịu như thế thường khiến người ta liên tưởng tới khung cảnh hẹn hò lãng mạn. Nhưng không, anh chàng nhà báo thích chơi trội này lại gạt phăng chuyện tình tứ sang một bên, dành khoảnh khắc đó để làm chuyện cực kì táo bạo và sốc nổi. Đột nhập vào lâu đài Vonteris! Tôi cho đó là một cách tiêu hao năng lượng vô cùng lãng phí! Nhưng con người mà, kể cả biết là lãng phí, đôi khi vẫn cứ thích làm. Stephen bẩm sinh mưu trí hơn người, thêm nữa lại gan dạ. Đến người sống sờ sờ, cầm khẩu "Bình địa hạng nặng", một viên đạn có thể lấy mạng cả chục người hắn còn chẳng sợ, huống chi mấy người đã chết thành ma. Chuyện thiên hạ đồn thổi, ai mà tin được. Tuy nhiên, cẩn thận vẫn hơn, Stephen cho con chip dò đường đi trước. Không hề xuất hiện bóng dáng kẻ thù nào. Anh chàng nhà báo trẻ hăn hái trèo qua bờ tường bằng một tác phong hết sức chuyên nghiệp. Người bình thường, làm gì có ai băng tường, vượt rào cao siêu như thế. Đúng là chỉ có cái bờ tường thôi mà khác hẳn! Đằng sau bức tường cao vợi, ngăn cách với cuộc sống bên ngoài, không khí đã có chiều biến đổi. Cái mùi tanh tanh theo con gió ào tới. Tanh tưởi tới mức ngửi qua cũng muốn nôn mửa ra mật xanh, mật vàng, ruột gan lộn tùng phèo. Bất chấp tất cả, Stephen vẫn quyết xông lên, càng tiến vào sâu mùi tanh càng nồng nặc. Đến nỗi cảm thấy các hạt không khí nặng hơn chúng vốn có, đầu óc trở nên bất an, rối loạn. Stephen không hề có ý định từ bỏ nhưng đã phải rút vũ khí tự vệ lăm lăm trong tay. Cuối cùng, lòng trời nhân từ cũng cho anh chàng đến đích. Việc nghiên cứu sơ đồ tòa lâu đài của người khác trong nhiều năm tỏ ra vô cùng hữu hiệu. Cái sự chuyên nghiệp là ở chỗ đó.

Lâu đài không hề cửa đóng then cài như người ta vẫn rót vào tai nhau. Stephen có thể thản nhiên mở cửa vào. Cánh cửa gỗ cao gần năm mét và nặng cả trăm kí, đến ngay một chàng thanh niên sức vóc vạm vỡ như Stephen cũng có vài phần e ngại này tỏ ra không mấy thân thiện. Tiếng cọt kẹt của nó rít vào tận ống tai, làm cho đầu óc căng ra, mồ hôi gã túa ra như tăm. Đôi giày siêu thanh phi trọng của Stephen, món quà vô cùng quý giá của Thủ tướng dành cho nhà báo ưu tú của năm, khi đi vào, cơ thể sẽ được nâng cách mặt đất tới vài centimet, ngay chiếc tai thính của những con chó săn thiện nghệ cũng không thể phát hiện ra, vậy mà Stephen vẫn nghe thấy được đâu đó những tiếng bước chân lộp cộp văng vẳng dội vào. Bước chân Stephen bắt đầu run rẩy vì anh nhận ra mùi tanh tưởi chính là mùi đặc trưng của máu, càng lúc càng gần và rõ rệt. Chỉ không chắc là màu gì... Có thể, lâu đài này thực chất chỉ là một lò mổ chui hoặc cũng cũng có thể, là máu của những người mất tích. Gió lạnh thổi vát qua trán Stephen làm anh giật mình và cứ vài bước lại như có bàn tay ai đó vừa khẽ vỗ vào vai. Càng đi, càng thấy nhiệt độ giảm xuống đáng kể. Lạnh đến độ Stephen nổi hết toàn bộ gai ốc từ chân lên tới đầu. Hành lang dài hun hút, đi mãi mới tới một cánh cửa khác. Từ khe cửa hắt ra ánh sáng đỏ leo lét như đèn thắp trong nghĩa địa. Có lẽ, đây không phải là một lò mổ chui, đèn trong lò mổ phải sáng hơn thế. Stephen hít một hơi dài, căng phồng hai lá phổi bầu dũng khí khắp sáng sự thật. Anh siết chặt tay nắm cửa, lách người qua cái khe nhỏ, từ từ, thận trọng từng bước một. Ánh sáng nhỏ nhoi, khiêm tốn trong căn phòng lớn chỉ đủ để người ta nhìn thấy chiếc bàn mổ phi trọng đang đỡ tử thi trên nó và một gã đàn ông đang lúi húi chọc ngoáy vào cái tử thi đó. Stephen im lặng theo dõi và lẩm bẩm: "Thì ra là một gã điên với một cái xác chết. Chả có cái quái gì để người ta cứ phải bàn ra tán vào". Nhưng anh đã nhầm to. Đó không phải là một tử thi, đó là một người còn sống, nửa người dưới đã bị phân hủy, nửa trên vẫn ngúc ngoắc, ngoáy ngó được. tanh tưởi chắc là bốc ra từ người này. Cái thây ma có vẻ điềm tĩnh, vui vẻ để gã đàn ông mổ xẻ hắn. Người kia thao tác trông giống một pháp ý chuyên nghiệp, tóc hắn dài, bạc phếch, buộc túm đằng sau. Hắn nạo vét thản nhiên từng thớ thịt trên phần cơ thể bị thối rữa, hắn vừa nào, vừa nắn nắn trên tay thứ bầy nhầy kinh tởm đó một cách sung sướng như những chuyên gia sưu tầm gặp được món đồ quý giá. Máu chảy lem nhem trên sàn và trên mũi giày của hắn. Hắn nói với cái thây nửa người trên bàn.

- Chúng ta sắp tách đến bộ não rồi. Đừng sốt ruột!

Bóng tối trong góc phòng vẫn không đủ để nguy trang cho anh nhà báo đang lên cơn đau tim. Cái thây nửa người đã phát hiện ra Stephen. Hắn quay đầu về phía góc tường. Có lẽ, hơi thở và nhịp tim của Stephen tăng quá cao, nên âm thanh thình thịch lộ liễu trong lồng ngực vang lên giữa chốn u tịch đã lật tẩy sự có mặt của gã. Cái thây ma không nói gì, chỉ nhìn Stephen rồi nở nụ cười hết sức man rợ. Cái miệng hắn cười không hở một chiếc răng, chỉ thấy khóe mép vểnh lên, đôi mắt của hắn sáng quắc như dao, trắng dã, lóe lên trong bóng tối, nhìn trừng trừng vào mặt Stephen, tròng mắt hắn trồi hẳn ra. Tên pháp y kinh hoàng cũng quay ngoắt lại, nhấc cái chân vừa được lôi ra khỏi khớp, cầm trên tay chĩa về phía Stephen vẻ đầy thích thú. Hắn cất giọng rền rền, âm u:

- Cuối cùng cậu cũng đã đến. Bọn ta tường cậu sẽ tới sớm hơn chứ!

Hai kẻ đó nhất định không phải người! Và bọn chúng có vẻ như đã rất chờ đợi sự xuất hiện của Stephen. Gã pháp y cầm hăm hở cái cẳng chân trong tay tiến về phía tay nhà báo. Anh chàng gan dạ sỡ hãi bỏ chạy bán sống bán chết, hai chân gã quấn vào nhau, không biết đã ngã bao nhiêu lần mà kể. Thửu tưởng tượng gã bị biến thành cái thây ma tiếp theo nằm trên bàn mổ mà xem. Ai mà chẳng ba chân bốn cẳng chạy chứ!

Thế rồi ngay sáng hôm sau, hàng loạt tin gây sốc nhanh chóng xuất hiện trên khắp các mặt báo. Tôi xin được trích nguyên văn bản tin trên chuyên mục: "Không có gì là bí hiểm" của một tờ báo địa phương cách đây gần hai mươi năm như sau: "Nhà báo kì cựu Stephen Roblin mà chúng ta vô cùng yêu mến và kính trọng đã hoàn toàn mất trí sau lần đột kích vào tòa nhà bí hiểm nhất thị trân, lâu đài Vonteris. Toàn bộ thiết bị chuyên nghiệp bất li thân của anh gồm:máy quay phim điều khiển từ xa, con chip dò đường và máy vi sóng tự về đều bị cháy không rõ nguyên nhân. Người ta nhận ra anh ngoài phố trong tình trạng tình thần hoàn toàn hoảng loạn, nét mặt lộ vẻ kinh hãi tột độ. Thân nhân vô cùng bàng hoàng và lo lắng cho sức khỏe của anh. Hiện nay, tại bệnh viện Vonteris, nơi chính cụ tổ của dòng họ Vonteris đã xây dựng nên, do được sự chăm sóc tận tình và chu đáo của đội ngũ y bác sĩ, nhà báo Stephen đã hồi phục sức khỏe và không còn hoảng loạn như trước. Tuy nhiên, gặp ai anh cũng chỉ lặp đi lặp lại hai chữ: "Có ma". Toàn thì trấn chúng ta xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới nhà báo Stephen Roblin vì sự cống hiến không mệt mỏi, tấm lòng và sự dũng cảm quên mình cho sự thạt và sự nghiệp báo giới của anh. Mọi thông tin chi tiết về con người can đảm này sẽ tiếp tục được đăng tải vào kì sau."

Không biết người ta đã nhớ đến vị anh hùng này trong bao lâu nhưng có một điều hiển nhiên là doanh số của vài số báo liên tục có tên Stephen Roblin và Lâu đài ma đã tăng lên gấp mười lần so với bình thường. Và các chủ bút quả thực thông minh khi sử dụng thông tin hi hữu này bằng cách nhỏ giọt một loạt các bản tin vắn. Chỉ có thiên hạ là dại dột, rút tiền túi để thỏa mãn trí tò mò của bản thân trong khi những món tiền khổng lồ kiếm được từ vụ án bí ẩn này không hề được chia bôi chút nào cho các nhân vật chính mà nó nói tới. Tuy nhiên, không phải là quá thiệt thòi. Một điều an ủi chút xíu tất yếu kéo theo là tên tuổi của các bên liên quan đã nổi tiếng lại càng nổi tiếng hơn, nhất là trong thời buôi thông tin vệ tinh, chỉ cần bắn một tin thôi thì ngay lập tức cả vũ trụ này đều biết tỏng. Vì vậy, đừng ngạc nhiên nếu hôm nay bạn còn là một kẻ vô danh tiểu tốt, sáng hôm sau khi tỉnh dậy bạn đã trở thành một người nổi tiếng vì một lý do có thể là vớ vẩn nào đó nhưng kích thích được sự tò mò, hợp thị hiếu của dân tình.

Nghe nói, sau một thời gian dài, nhà báo này đã hoàn toàn hồi phục sức khỏe, sóng không còn nhớ một chút gì về lần đột kích đêm đó. Một thời gian sau, ông ta bỗng dưng mất tích một cách khó hiểu và chẳng còn ai nhắc tới câu chuyện kinh hoàng ấy nữa. Còn tương lại, nó có bị đào xới lên hay không, chẳng có ai dám chắc. Chỉ biết, không có gì là vĩnh cửu, kể cả những bí mật!

Cùng với sự biến mất không dấu vết của Stephen, mọi chuyện cũng trở thành dĩ vãng xa xăm, bị quên lãng như bao điều quan trọng khác mà người ta vẫn hàng ngày quên lãng....

Lại nói về hiện tại, chỉ có chú chó Dorish là vẫn vô tư ra vào lâu đài, người ta còn bàn tán xôn xao với nhau rằng, Dorish chính là hiện thân của quỷ dữ. Thật tội nghiệp cho một con chó, nếu hiểu tiếng người, hắn nó sẽ buồn lắm. Tất nhiên, chó vẫn là chó, chả có quỷ nào lại đi đội lốt chó bao giờ. Dọa ai? MÀ ai sợ? Không phải quỷ cũng không sống chung với ma quỷ, Dorish chỉ sống chung với một quái nhân mà thôi. Gọi là quái nhân vì người bình thường chả có ai giống thế, mái tóc bù xù, phủ kín gương mặt, vón vào nhau như tổ của một con quạ vụng về, không biết hắn nhìn và hắn ăn bằng cách nào thậm chí có thể hắn không có cả mắt và miệng cũng nên. Hắn vận bộ quần áo rộng thùng tình màu xám tro, bám đầy muội đen, khó mà biết được đằng sau lớp bùi nhùi đó, hình dạng hắn ra sao. Ngày nào cũng vậy, hắn cứ hí ha hí hoáy một mình trong tầng hầm, nơi tối tăm nhất tòa lâu đài, không biết làm gì. Căn phòng có rất ít ánh sáng, ánh đèn xanh lét kì quái hắt ra từ con vẹt máy chỉ đủ cho cái bàn của hắn. Không hiểu vì tiết kiệm năng lượng hay vì lý do khác mà hắn lại sử dụng ánh sáng khiêm tốn đến vậy. Trong lâu đài có rất nhiều cửa sổ những cũng không ai hiểu nổi vì sao mà chúng luôn được kéo ro đô kín mít. Ngoài ma cà rồng ra, chẳng mấy ai sợ ánh sáng đến thế. Toàn thú vui lập dị như vậy, bảo sao thiên hạ không đồn thổi thế này, thế kia. Cũng phải có cái cớ cho người ta đưa chuyện chứ. Đúng là thế gian! LẮm thứ oái oăm, không sao hiểu nổi!

Một ngày nồng nàn như bao ngày khác trên xứ sở mùa xuân, bầu trời cao và trong xanh, những đám mây trắng bồng bềnh như mái tóc người con gái thả trôi trên mặt nước lặng lờ, ánh nắng ngọt ngào và dịu dàng đến nỗi người ta tưởng như đang được vỗ về, ôm ấp. Cả trời đất và con người dường như đều say sưa trong hương mùa xuân, trong mật ngọt của ngàn hoa và vũ điệu của những cặp bươm bướm đang yêu đương, hò hẹn. Còn hắn, vẫn một mình trong bóng tối, đăm đăm vào một thứ gì đó đang được đặt trên bàn. Dorish thè lưỡi, nằm im, kiên nhẫn chờ phản ứng của chủ nhân. Bỗng hắn cất cao giọng, cái chất giọng cầu viện đầy bất lực.

- Della, cô có thấy tác phẩm mới của tôi thiếu một cái gì đó không?

- Đợi một chút. Theo phân tích trong dữ liệu của tôi thì hầu hết bộ phận của nó đều rất đẹp, cân đối và hoàn thiện.

- Hầu hết là thế nào Della. Cô phải nói rõ hơn chứ. Cô biết là vấn đề này cô giỏi hơn tôi mà.

- Chỗ này màu sắc không hợp. Màu vàng sẽ đẹp hơn rất nhiều so với màu nâu.

- Ồ ồ, đúng thế. Cảm ơn rất nhiều, Della. Cô thật tuyệt vời!

Nói rồi hắn ôm chầm lấy Della, dí cái mặt đầy lông lá lại gần và hôn một cái rất kêu.

- Ôi trời, anh làm tôi thẹn đấy.

- Cô vừa nói sao Della. Cô biết thế nào là thẹn không?

- Có chứ, thứ đó có trong bộ nhớ của tôi.

Della gằn giọng! cô ả có vẻ là loại không thích bị nghi ngờ. Cũng đúng thôi, hoài nghi về năng lực luôn làm người ta khó chịu.

- Tôi đâu có yêu cầu cô nêu định nghĩa, Della. Ý tôi là cô thực sự có cái cảm giác đó hay sao? Còn ai chẳng biết tôi đã cài nó trong bộ nhớ của cô.

- Anh quên à. Bộ não của tôi là một nguồn mở nên có thể tiếp thu và ghi nhớ thêm dữ liệu. Thế mà cũng phải hỏi! Lạy Đấng sáng thế. Có đúng anh đã tạo ra tôi không? Anh không rơi mất bộ phần nào đấy chứ?

Giọng Della ráo hoảnh

- Giờ thì tôi cũng không rõ, Della ạ. Tôi đâu có ghi vào não bộ của cô những lời lẽ chanh chua đó.

Hắn cười sảng khoái.

Chắc quý vị độc giả đang thắc mắc quái nhân này là ai. Xin thưa, đó chính là Howard Vonterris, hậu nhân đời thứ chín của dòng họ Vonterris, một thiên tài về công nghệ chế tạo rô bốt. Howard đã tự tay chế tao rô bốt xén cỏ từ năm sáu tuổi. Có thể con rô bốt đó đã bị rỉ sét từ lâu nên tòa lâu đài mới bị cỏ lau che kín mít như vậy. Nói về Della, một con rô bốt mà cha của Howard đã chế tạo, tầm cao 10 centimet, cân nặng ba trăm gram, được tạo thành từ một loại đặc chất, dễ dàng thay đổi cấu trúc phân từ vì vậy Della có thể thay đổi hình dáng theo ý của nó hoặc cậu chủ. Không thể xác định được hình dạng chính xác của Della, chỉ biết nó thường xuyên xuất hiện dưới dạng một quả cầu đỏ choét. Còn khi cao hứng nó lại thích thể hiện mình dưới dạng bất thường nào đó, vượt qua sức tưởng tượng của con người. Chắc chắn là chẳng giống thứ nào trên đời này cả! Nói đến đoạn này, thoạt nghĩ, không biết ông nhà báo Stephen có xui xẻo đến đọ gặp đúng hôm cao hứng của cô ả hay không. Nếu đúng thì sự kinh hãi là điều không có gì phải bàn cãi. Tình tình nói chung là mềm mỏng, hài hước, biết cách chiều lòng chủ nhân nhưng hơi lòe loẹt, còn vì sao lại nói nó lòe loẹt chắc hẳn bạn đọc đã biết. Duy có thỉnh thoảng phát ngôn rất kì cục, đã được Howard nâng cấp sau khi cha qua đời. Chẳng biết chính xác là Howard đã nâng cấp bộ phận nào, chỉ biết sau lần lên đời đó cô ả nói năng ngày chàng chỏng lỏn. Khó trách được! Có lẽ, đó cũng là một cách mà người ta dùng để khẳng định đẳng cấp!. 

- Della yêu quý, hãy giúp tôi chuẩn bị bữa trưa nhé. Tôi sắp hoàn thiện tác phẩm vĩ đại nhất thế kỉ này rồi.

- Có ngay, Howard. Chỉ vài thao tác vớ vẩn thôi mà. Còn chuyện vĩ đại...ừm mmmm, tôi e là anh quá phô trương thì phải

- Ồ, thôi nào Della...

Trên đời, coi việc nấu ăn chỉ là vài thao tác vớ vẩn chỉ có thể là một rô bốt. Không có con người nào có thể nói ra điều này khi mọi con đường ngắn nhất đến trái tim đều phải qua cái dạ dày. Điều này tôi nghe qua thấy rất khó chấp nhận nhưng nó lại là sự thật. Trên đời có nhiều sự thật phải chấp nhận như thế. Della chĩa đôi mắt đen láy vào chiếc máy nấu ăn tự động, trông nó có vẻ xù xì, xấu xí và cục mịch nhưng rất được việc. Chỉ cần cho sẵn nguyên liệu và đưa công thức chính xác là sẽ có ngay một món ăn tuyệt hảo mà chẳng cần sắn tay vào bếp làm gì.

- Ngăn trên nào, thịt bò, muối, bơ, hạt tiêu.... Ngăn dưới, bột mì, bơ... được rồi. Quá hoàn hảo!

Della lấy làm thích thú. có vẻ như cô nàng rất thành thạo cong việc này, nhất là với một ông chủ dễ tính như Howard, khi mải suy nghĩ tới những sáng chế của mình, kể cả cho rơm vào miệng, anh ta cũng không hề hay biết. Việc phục vụ lại càng đơn giản hơn.

- Howard này, đây mới thực sự là một tác phẩm tuyệt vời đấy. Tôi mới đọc nó trong một quyển sách nấu ăn tối qua. Tôi nghĩ là nên cải thiện cho anh. Trông anh giống một gã suy dinh dưỡng quá. Anh cứ suốt ngày mê mẩn với cái thứ đó làm sao có thời gian chăm sóc cho mình chứ. anh cứ như rô bốt vậy mà không chán à. Rành rành, Della tự cho mình là một yếu nhân chứ chả liên quan gì đến máy móc. Quả thực sự tự phụ làm người ta quên mất gốc gác của mình. KHông biết cô ả học được cái thói ấy ở đâu nhưng chắc chắn không phải Howard, lại càng không phải từ Dorish hoặc giả cô ta bị ''chập mạch" chăng?

- Cô lại thế rồi Della. Nhìn này, đúng là vĩ đại thật mà!

Della chưa kịp phản ứng gì, Dorish đã quẫy đuôi đầy thích chí.

- Rất đẹp phải không Dorish? Đến mày cũng phải công nhận là đẹp ngỡ ngàng cơ mà. Sao lại im lặng thế Della?

Della không nói một lời, quay ngoắt bỏ lên gác.

- Della có vẻ lạ thế nhỉ Dorish. Phụ nữ đúng là khó hiểu thật!

- Không khó hiểu đâu, Howard. Cô ấy đang ghen đấy. Có thể cô ấy cho rằng cậu tạo ra một thứ mới để thay thế cô ấy. Cái mới sinh ra vốn là để thay thế những cái cũ. Della đủ thông minh để phân tích điều đó.

- Ồ không, Santta. Tôi chẳng bao giờ có cái suy nghĩ phản bội ấy cả, vả lại thật khó để tìm người phụ nữ này thay thế cho người phụ nữ kia. Mỗi người họ đều đem lại những phiền phức khác nhau mà. Chẳng phải ông luôn nhắc nhở tôi như vậy sao?

Có lẽ, Santta không nhận ra rằng, điều lão nói với Howard hoàn toàn thừa thãi, vô ích vì Howard có gặp người nào thực sự gọi được là phụ nữ đâu. Hơn nữa, nếu có gặp, tôi đoan chắc một điều, họ sẽ có chung một phản ứng là bỏ chạy trước khi kịp gây ra phiền phức gì đó cho anh chàng này. Không ai biết Dorish nghĩ gì những rõ ràng, biểu hiện cho thấy nó rất tán thành với quan điểm về phụ nữ của cậu chủ.

- Gương mặt tròn trịa và thon thả, đôi mắt to mang màu xanh sâu thẳm của đại dương, hàng mi cong vút như sải cánh thiên nga, đôi môi hồng chín mọng, làn da trắng mịn như tuyết với đôi má ửng hồng, mái tóc vàng óng ánh buông dài ngang thắt lưng làm cho người ta liên tưởng tới mẫu phụ nữ truyền thống dịu dạng và e lệ. Gương mặt thiên thần và không chỉ thế, hình thể lí tưởng này, ngay cả đến siêu mẫu khi nhìn thấy cũng phải hổ thẹn. Thế gian chẳng có gì đẹp hơn thế nữa. Howard thao thao bất tuyệt về tác phẩm vĩ đại của mình bằng một giọng đầy xúc động, tự hào và có đôi chút tiểu thuyết. Dù căn phòng không có đủ ánh sáng, qua cặp kính dày cộm, người ta vẫn có thể thấy đôi mắt anh chàng sáng lên như tinh cầu đêm lấp lánh. Hẳn là sung sướng lắm!
 Santta là một người có bề dày kinh nghiệm về đánh giá phụ nữ và đủ bản lĩnh để ít bị choáng váng trước nhan sắc nhưng lão cũng phải thốt lên

- Tuyệt vời!

- Cảm ơn ông, Satta!

- Tôi chỉ nói sự thật thôi. hoàn hảo trên mọi đường nét. Đến tôi cũng phải ghen tị nữa là.

Lão tỏ ra mê mẩn còn Howard thực sự kinh ngạc.

- Ông là đàn ông mà. Sao lại so sánh với một cô gái chứ?

- Tất nhiên, tôi thấy ghen tị là không thể trẻ lại bảy mươi tuổi. Tuổi trẻ và sắc đẹp luôn là thứ người ta thấy nuối tiếc nhất mà.

Đàn bà ghen tị nhau đã đành, đến đàn ông mà cũng phải ghanh tị là bạn biết đẹp thế nào rồi đấy.

Howard đặt tên cho tác phẩm vĩ đại của mình là Maderliene. Dường như, đó là lần đầu tiên anh chàng ý thức được thế nào là vẻ đẹp của một người phụ nữa. Mặc dù Maderliene là do anh chàng tạo ra nhưng mọi thứ mà nàng có đều là nhờ dựa trên phân tích của Della. Thật tệ khi phải nói điều này nhưng phải công nhận, Howard hoàn toàn không có bất kì khái niệm nào về nửa thế giới đang tồn tại thản nhiên ngoài kia. Thật khó có thể trách anh chàng bởi lẽ, thế giới mà anh biết tới chỉ là người cha đã mất, một tấm ảnh đã ngả màu về người mẹ quá cố và một tòa lâu đài cổ lô như một biệt khu với toàn thiết bị và máy móc. Từ khi sinh ra, howard không hề bước chân ra khỏi nơi đó. có lẽ đó cũng là một phần lỗi của người cha. Sự báng bổ của người đời về những nghiên cứu của ông đã khiến nhà khoa học già nua và gàn dở này truyền sự thù ghét loài người sang cậu con trai. Tất nhiên, những điều mà hàng ngày đều được nghe đã dần in sâu trong tiềm thức, khiến ngay cả chính Howard, một người chưa từng nhìn thấy một con người nào ngoài cha mình và lão Santta cũng ghét loài người, ghét cái thế giới đã tổn thương người cha mà anh hết mực thương yêu, kính trọng và có thể sẽ gây thương tổn cho mình nữa. Những suy nghĩ như lối mòn ấy đã khiến Howard chôn chân trong tòa lâu đài và vùi đầu vào thế giới của máy móc vô hồn, lạnh lẽo. Tuy vậy, Howard không cảm thấy cô đơn và uất ức như cha mình mà ngược lại, anh thấy vui và hạnh phúc trong cái thế giới riêng nho nhỏ ấy.

Cha của Howard là một nhà khoa học danh tiếng trên thế giới, tiến sĩ Alexander Vonteris. Ở cái thời của ông, tạo ra một rô bốt mang tính người là hoàn toàn điên rồ và phi thực tế. Không chỉ thế, ông còn hùng hồn tuyên bố về một thế hệ rô bốt có cấu tạo sinh học giống con người, có trí tuệ siêu việt, có tính người và hiểu được tình cảm của con người. Và tất nhiên, nếu điều đó xảy ra, bạn có thể phân biệt được, đâu là người, đâu là ro bốt khi đi trên phố hay không? Và hãy nghĩ xem, thế giới sẽ ra sao nếu có một rô bốt như thế tồn tại. Một trí tuệ đủ để thống trị cả thế giới. Và lẽ tất yếu, khi cảm thấy nguy cơ bị tiếm quyền, con người phải có phản ứng, mà rõ ràng phải là phản ứng vô cùng quyết liệt để bảo vệ mình. Ông đã nhận được những lời phỉ bàng thậm chí là những lời nguyền rủa cho những nghiên cứu mang tính cách mạng mà mình đã dành cả đời để tìm ra nó. Ông đã quan đời ngay trong lúc còn nghiên cứu dở dang công trình mơ ước. Tài sản lớn nhất ông để lại cho cậu con trai chính là một xấp tài liệu về những nghiên cứu chưa có hồi kết ấy. Và cuối cùng, Howard cũng đã thực hiện được di nguyện đó của cha.

Đôi mi cong của Maderliene khẽ chuyển động

- Thành công rồi, hoạt động rồi!

Maderliene chỉ tròn xoe mắt nhìn ngơ ngác. Howard dương như không lấy gì làm lạ.

- Phải rồi, tôi không cái bất kỳ dữ liệu nào cho cô. Giờ cô chỉ giống như một đứa trẻ sơ sinh thôi. Tôi muốn cô tự tìm hiểu về thế giới xung quanh chứ không phải là một cái máy được cài đặt sẵn, như thế mới giống một con người.

Howard trò chuyện đầy hứng khởi dù biết Maderlien chẳng hiểu gì. Bộ não của nàng hoàn toàn trắng xóa, vì vậy việc đầu tiên cần học là nghe vànói. Có lẽ, một đứa trẻ sơ sinh còn hiểu biết hơn Mad (cách gọi thân mật của Howard), chí ít nó cũng có tình cảm nào đó với những gương mặt, với thế giới mà lần đầu tiên nó nhìn thấy. Còn Maderliene, hiển nhiên là hoàn toàn vô cảm. Howard dạy cho Mad những hiểu biết đầu tiền. Mad học rất nhanh, tức thì hành động y hệt, nàng chỉ tay về phía Howard: "Howard", rồi đặt tay lên mình: "Maderliene"

- Đúng rồi, đúng rồi. Cô thông minh lắm!

- Della! Della, cô ở đâu vậy? Có thể hâm nóng lại bữa trưa cho chúng tôi không, thành viên mới của gia đình chúng ta không thích ăn đồ nguội đâu.

- Cô ta không phải bà chủ của tôi.

Della không bao giờ biết che giấu cảm xúc. Và có vẻ như cô ả cũng chẳng làm thế làm gì. Bộc lộ một cách tự nhiên luôn làm người ta thấy dễ chịu và khoan khoái. Đúng thôi! Nếu ả ta là một rô bốt biết tính toàn, hẳn đã không làm thế. Bởi vì không phải người nào cũng có đức tính kiên nhẫn và mềm mỏng như Howard để chịu đựng cô ả suốt nhiều năm như vậy. Đoan chắc, Đáng Sáng tạo hài lòng nhất với anh chàng ở điểm này.

- Ồ, thôi nào Della. Cô sao vậy, cô không mừng à. Tôi đã tạo ra một rô bốt siêu hạng có cấu trúc gen giống con người đấy.

- Tôi không thích cô ta.... cô ta... quá cao, mái tóc vàng nhõng nhão, buông thõng, thứ mốt từ thủa sơ khai của loài người ấy làm tôi khó chịu.

Della lùn tịt nói với cái giọng đầy tức tối, hậm hực và rõ ràng là sặc mùi ganh ghét. Howard vẻ hiểu ra và dịu dàng nói.

- Đúng đấy, hơn nữa cô ấy không thông minh như cô đâu Della. Cô ấy thậm chí còn không biết nói.

- Thật hả, thế thì quả thực là ngu ngốc. Anh tạo ra một thứ vô dụng như vậy làm gì?

- Vì vậy hãy giúp tôi Della, hãy dạy cho cô ấy những gì mà cô biết nhé. Giúp cô ấy cũng là giúp tôi nữa. Xin cô mà Della!

- Nể anh khẩn khoản tôi sẽ làm. Được rồi, giờ tôi đi hâm lại bữa trưa, quá muộn rồi!

Chiếc bàn ăn xoay một vòng, từng đĩa thức ăn chạy xuống đường băng và được đặt gọn vào máy nấu ăn tự động. Chỉ nhìn thôi cũng thấy, mọi thứ trong nhà này đều được thiết kế rất hạn chế sức lao động. Thời buổi công nghệ mà. Nhất là trong gia đình toàn chuyên gia về rô bốt, động chân động tay nhiều kể cũng mất mặt. Della sẵng giọng gọi

- Này, tóc vàng hoe!

Della vốn rất trịnh thượng và kênh kiệu. Nêu không trông thấy vóc dáng của cô nàng, hẳn người ta sẽ nghĩ ngay đến bà chủ nhà hợm hĩnh.

- Gọi thế cô ấy không hiểu đâu. Thử gọi Maderliene xem và làm ơn đừng bay lơ lửng trên đầu tôi như vậy.

- Trước nay tôi vẫn bay nhảy như vậy đấy chứ, có thấy anh kêu ca gì đâu. Sao hôm nay có cô ta, tôi bỗng trở thành kẻ phiền phức chứ.

Phụ nữ mà đã mở giọng trách móc thì thật là kinh khủng. Thật may là chưa đến nỗi chao chát chứ nếu không, bão cấp mười hai cũng chỉ là cái móng tay của các nàng. Howard đưa tay về phía Santta và Dorish

- Santta, Della, Dorish.

Lần này, Mad hiểu ngay và nhắc lại bằng một cách phát âm vô cùng chuẩn xác. Chắc chắn là giỏi hơn nhiều so với một đứa trẻ sơ sinh. Maderliene là một rô bốt có cấu tạo sinh học giống con người. Bằng cách nuôi cấy các tế bào gốc, MAd đã trở thành một con người nhân tạo đầu tiên trên thế giới. Tất nhiên là nếu tính ở thời điểm này, Mad được xem là người ngớ ngẩn hay không có trí nhớ. Tuy vậy, cụm từ "không có trí nhớ" có vẻ chính xác hơn vì hiếm có người ngớ ngẩn nào lại tiếp thu nhanh đến thế. Bộ não siêu việt giúp Mad có thể phân tích hơn ba mươi nghìn dữ liệu trên giây. Vì vậy học nghe, nói có vẻ không so được với cái móng tay của nàng mà phải là cái gì đó nhỏ bé hơn. Mad tỏ ra rất chăm chỉ, tự tìm được phương pháp tiếp cận với kiến thức theo cách riêng của mình. Nàng vô cùng thích đọc sách. Khối lượng sách mà Mad đã đọc trong một tháng tương đương với một trăm người đọc liên tục mười tám tiếng mỗi ngày trong vòng một năm. Tất nhiên với kiến thức khổng lồ đó, MAd thừa sức làm giáo sư của tất cả chuyên ngành mà con người đã nghĩ ra. Và biết đâu Mad sẽ đưa con người lên định cư tại mặt trăng xinh đẹp và thơ mộng. Không ai biết trước điều gì chỉ biết rằng đến Della đôi khi còn sai sót, quên bằng việc nấu bữa trưa cho cậu chủ còn Mad thì tuyệt nhiên không, không trục trặc, không đau ốm vì vậy không cần bảo dưỡng. Đặc biệt là không quên bao giờ. 

Thật may vì MAd chỉ biết định nghĩa từ thù hận chứ tịnh chẳng biết thù ai bao giờ. Nếu không, với cái giọng lưỡi của bà chủ nhà lùn tịt Della, Mad đã cho ả lên vỉ nướng từ lâu. Mad là một một rô bốt sinh học nhưng không hẳn giống Della, cô ả có những chức năng hóa mã chuyên biệt. Với Della, việc nấu ăn rất đơn giản, chỉ cần chuyển công thức từ bộ nhớ qua mắt tới bộ đọc tín hiệu của các thiết bị tự đọng là có ngay một bữa ăn như ý muốn và tất cả các thiết bị khác trong lâu đài đều được Della cai quản theo cách đó. Mad thì khác hẳn, phải tự tay làm những điều đó như một con người nhưng Mad cũng không hẳn giống người. Các tế bào gốc tự sản sinh và thay mới liên tục vì vậy mà nàng không hề chịu tác động của virus và thời gian. Nghĩa là Mad không cần mảy may lo lắng tới ảnh hưởng của bệnh truyền nhiêm hay tuổi tác làm hao mòn sức khỏe và sắc đẹp. Có thể nói, đó là người bất tử. Tất nhiên nếu có bom nguyên tử dội xuống thì một chứ mười Howard cũng không cứu nổi. Vì vậy, sự bất tự trong trường hợp này cần đặt ở điều kiện sinh hoạt và chịu đựng dưới góc độ của con người chứ không phải siêu nhân.

Hết chương 1

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro