Chương III: Tên trộm trên cây thập giá

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Mỗi người đều sẽ vượt qua những khó khăn này.

Và rất nhiều người vẫn mắc kẹt trong chướng ngại vật này suốt cả cuộc đời.

       Có những kỷ niệm tươi đẹp, tuyệt diệu và dịu dàng từ thời ấu thơ mà tôi có thể đưa vào câu chuyện này - sự an toàn của tôi khi ở cùng Cha Và Mẹ, đoạn đời tuổi thơ tinh nghịch và thoải mái, trong môi trường dịu dàng yêu thương và tràn đầy ánh sáng. Nhưng ở đây, tôi chỉ quan tâm tới những bước đi tôi đã trải qua trong đời để đến được với chính mình. Tôi sẽ bỏ xa những ốc đảo dấu yêu, những hòn đảo đầy phúc lành, và những thiên đường ma thuật từng trải nghiệm qua; tôi chẳng còn chút ham muốn đặt chân vào những nơi ấy thêm lần nào nữa.

       Và như vậy, khi nói về những năm tháng thiếu niên này, tôi sẽ chỉ đề cập tới những điều mới mẻ đã đẩy tôi về phía trước, giúp tôi vỗ cánh sổ lồng.

       Những sự thúc giục đến từ "thế giới kia" vẫn không ngừng xuất hiện, mỗi lần đều đem theo nỗi sợ, sự trói buộc và tín ngưỡng xấu xa. Chúng luôn đe dọa lật đổ sự bình yên mà tôi vẫn cố gắng giữ gìn.

       Thế rồi, những năm sau đó, tôi phải thừa nhận lại một niềm thôi thúc căn bản trong lòng mình, một thứ đã phải co cụm và ẩn giấu trong thế giới ánh sáng hợp pháp. Giống như tất cả những người khác, tôi coi những cảm xúc tình dục đang dần dần thức giấc là địch thù, là kẻ hủy diệt, là một thứ phi pháp tựa như cám dỗ và tội lỗi. Trong nỗi tuyệt vọng, tôi vẫn tò mò muốn lý giải sự bí ẩn ghê gớm của tuổi dậy thì, thứ đem đến cho tôi những giấc mộng, dục vọng và sợ hãi, mà tất thảy những điều này không hề hòa hợp với sự hạnh phúc trọn vẹn êm ả của thế giới tuổi thơ hiền hòa. Nên tôi cũng làm như tất cả những người khác: tôi sống cuộc đời hai mặt của một đứa trẻ đã không còn trẻ dại. Cuộc sống có ý thức của tôi hiện hữu trong không gian quen thuộc của những thứ được phép, và phủ nhận thế giới đang trỗi dậy như một bình minh ngày mới trong lòng tôi. Cùng lúc ấy, tôi cũng sống trong một cuộc đời ngầm của những giấc mộng hoang đường, những thôi thúc, khao khát, nơi mà ý thức của tôi xây nên những cây cầu còn bất an và hãi hùng hơn, trong khi thế giới tuổi thơ của tôi đang dần sụp đổ. Cũng như hầu hết các bậc phụ huynh, khi những thế lực tự nhiên thức tỉnh trong tôi, cha mẹ chẳng giúp được gì và chuyện này cũng không hề được đề cập tới. Họ chỉ cố gắng miệt mài, không biết mệt nhọc giúp tôi bất lực chối bỏ thực tại và nán lại trong một thế giới con trẻ ngày càng trở nên sai lệch và phi thực tế. Tôi không biết liệu các bậc cha mẹ còn có thể làm gì khác không, và tôi cũng chẳng trách cứ gì cha mẹ mình. Chuyện lớn lên và tự tìm con đường của mình chỉ phụ thuộc vào riêng tôi; tôi làm điều ấy rất tệ, cũng như hầu hết những đứa trẻ được nuôi dạy tử tế khác.

       Mỗi người đều sẽ phải vượt qua những khó khăn này. Đối với một người bình thường, đây là thời điểm mà những nhu cầu trong cuộc sống của anh ta rơi vào cuộc xung đột gay gắt nhất với môi trường xung quanh - anh ta phải chiến đấu hết sức để đi xa hơn trên con đường của mình, Nhiều người trải qua cái chết và sự tái sinh - hay còn gọi là định mệnh của cuộc đời chỉ một lần duy nhất này mà thôi, khi tuổi thơ thối rữa từ bên trong và dần phân rã, khi mọi thứ chúng ta đã gắng sức yêu thương từ bỏ chúng ta, và chúng ta đột nhiên cảm thấy sự cô độc, lạnh lẽo chết người của vũ trụ bao trùm tất thảy. Và, rất nhiều người vẫn mắc kẹt trong chướng ngại vật này suốt cả cuộc đời, tuyệt vọng đeo bám vào quá khứ không thể cứu vãn và bấu víu vào giấc mơ về một thiên đường đã mất - giấc mơ tệ hại và nguy hiểm nhất trong tất cả các giấc mơ.

       Hãy cùng quay trở lại câu chuyện của chúng ta. Những cảm giác và hình ảnh tưởng tượng mà đoạn kết thúc trong thời thơ ấu của tôi tự thể hiện ra không đáng để kể ở đây. Điều quan trọng là "thế giới bóng tối", "thế giới kia" ấy, đã trở lại. Thứ từng tượng trưng cho Franz Kromer nay dường như là một phần của chính tôi. "Thế giới kia" đồng thời cũng đang ngày càng chi phối tôi nhiều hơn.

       Đã vài năm trôi qua kể từ sự kiện với Kromer. Tôi cảm giác rằng, quãng thời gian đầy kịch tích và tội lỗi của cuộc đời mình đã bị bỏ lại rất xa phía sau; nó tựa như một cơn ác mộng trong chốc lát và tiêu biến tuyệt không để lại dấu vết gì. Franz Kromer từ lâu đã chẳng còn ý nghĩa gì trong cuộc sống của tôi, đến mức tôi còn suýt không nhận ra khi chạm mặt hắn. Dù vậy, nhân vật chính khác trong tấn bi kịch - Max Demian lại không bao giờ hoàn toàn biến mất. Một thời gian dài anh ấy yên vị bên lề, ở trong tầm nhìn nhưng không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến tôi; anh chỉ dần dần tiến lại gần hơn, tỏa ra sức mạnh và tầm ảnh hưởng.

       Tôi đang cố nhớ lại mọi thứ về Demian khi đó. Có lẽ trong một năm hoặc hơn thế, tôi chẳng nói lời nào với anh ấy. Tôi gần như là tránh mặt anh, và anh ấy cũng chẳng hề cố ý tiếp cận tôi. Cùng lắm khi tình cờ gặp nhau anh sẽ gật nhẹ đầu. Những lúc như thế, tôi thấy mình như vừa dò ra một vẻ nhạo báng hoặc mỉa mai tinh tế xen lẫn trong sự thân thiên của anh ấy, nhưng cũng có thể là tự tôi tưởng tượng ra. Như thể quãng đời trải qua cùng anh ấy và ảnh hưởng kỳ lạ mà anh ấy gây ra cho tôi đã bị cả hai lãng quên hoàn toàn.

       Bây giờ, khi tôi cố gắng nhớ về anh ấy, thực ra tôi vẫn luôn nhận thức được sự hiện diện của anh và để ý tới anh. Tôi thấy anh ấy đi học, hoặc một mình hoặc cùng hai cậu học sinh lớn tuổi, và tôi thấy anh ấy đi giữa những kẻ khác như một sinh vật ngoại lai, cô độc và lặng lẽ, như một ngôi sao xa xôi, xung quanh là một bầu không khí hoàn toàn khác biệt, anh ấy luôn sống theo những luật lệ của riêng mình. Không ai thích anh, không ai gần gũi với anh trừ mẹ anh, và anh cũng cư xử như một người trưởng thành chứ không phải trẻ con trước mặt bà. Các giáo viên cố hết sức để không phải quấy rầy anh; anh là một học sinh gương mẫu nhưng không nguyện ý lấy lòng họ, thi thoảng chúng tôi lại nghe được lời đồn thổi rằng anh ấy đã bình phẩm và cãi cọ hết sức thô lỗ, thách thức và mỉa mai với một giáo viên nào đó.

       Tôi nhắm mặt lại và nghĩ ngợi, rồi tôi thấy thân ảnh của anh ấy hiện lên trước mắt. Đâu ấy nhỉ? À đây rồi, anh ấy ở kia. Đó là con phố ở trước nhà chúng tôi. Một ngày nọ, tôi thấy anh ấy đứng vẽ ở đấy với một cuốn sổ trong tay. Anh đang vẽ chiếc huy hiệu có hình con chim cũ treo trên cửa chính nhà tôi. Tôi đứng cạnh cửa sổ, khuất sau tấm rèm, ngắm nhìn anh ấy trong sự ngưỡng mộ sâu sắc, ngắm khuôn mặt sắc sảo, điềm tĩnh và sáng sủa của anh hướng về phía chiếc huy hiệu - khuôn mặt của một người đàn ông, một học giả hoặc nghệ sĩ, siêu phàm và sống có mục đích, rạng rỡ nhưng lạnh lẽo lạ thường, với đôi mắt đầy hiểu biết.

       Và rồi, tôi gặp lại anh ấy trên đường phố sau đó ít lâu. Lũ học trò tan trường chúng tôi đang đứng vây quanh một con ngựa bị ngã. Nó nằm trước một chiếc xe đẩy nhà nông, yên cương vẫn còn đóng vào càng xe, cặp lỗ mũi to lớn của nó phì phò như đang kêu than và trách vấn, máu túa ra từ vết thương không nhìn thấy. Chất lỏng sẫm màu từ từ thẩm thấu vào lớp bụi trắng trên con đường kế cận. Khi tôi thấy khó chịu và quay lưng đi, tôi nhìn thấy khuôn mặt của Demian. Anh ấy không chen lên phía trước; anh chỉ thoải mái đứng một mình ở đằng sau và trông vẫn rất lịch lãm như thường lệ. Ánh mắt của anh chĩa vào đầu con ngựa, lại là sự chăm chú cao độ, lặng lẽ, tưởng như cuồng tín nhưng vẫn dửng dưng đó. Tôi không nhịn được mà cứ chằm chằm nhìn anh ấy mãi, và ngay cả hồi đó tôi đã vô thức cảm nhận được anh ấy có một vẻ rất khác thường và đặc biệt. Nhìn vào khuôn mặt của Demian, tôi thấy khuôn mặt của một người đàn ông chứ không phải của một cậu nhóc; nhưng không chỉ vậy, có lẽ tôi cũng đã nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy rằng, đây không chỉ là khuôn mặt của một người đàn ông, nó còn là một thứ gì đó khác nữa. Dường như cũng có đường nét của nữ giới, mà thật ra có những khoảnh khắc khuôn mặt ấy hiện lên không phải là của người trưởng thành hay của trẻ con, không già cũng không trẻ, mà cứ như đã ngàn năm tuổi, không biến đổi theo thời gian, đầy những dấu tích thời đại của văn minh loài người. Có lẽ động vật, cây cối hoặc sao trời có thể trông như vậy, tôi cũng không biết nữa, khi lớn lên tôi vẫn không thể giải thích rõ cảm giác khi ấy, nhưng nó là như thế. Có lẽ do anh ấy đẹp trai, có lẽ tôi bị anh ấy thu hút, cũng có lẽ anh ấy làm tôi ác cảm, không biết làm sao để xác nhận điều đó. Tôi chỉ thấy được anh ấy khác với chúng tôi – anh ấy giống như một loài động vật, hoặc giống như một linh hồn, hay giống như một bức tranh, tôi không biết là gì nhưng anh ấy vô cùng khác biệt, khắc hẳn với tất cả chúng tôi.

       Ký ức của tôi chẳng còn gì nữa. Có khi cảm giác ấy cũng được tạo nên một phần bởi cả những ấn tượng sau này.

       Phải đến vài năm sau đó tôi mới tiếp xúc gần gũi trở lại với anh ấy. Trái với thông lệ, Demian không được làm lễ Kiên tín(6. Lễ Kiên tín (Confirmation): Một trong bảy thánh lễ của người theo đạo Cơ Đốc) ở nhà thờ như hội bạn học cùng lớp, thế là hàng tá tin đồn lập tức thi nhau xuất hiện. Người ta lại xì xào trong trường rằng, anh là người Do Thái, hoặc là hạng ngoại đạo, và có những học sinh khác vẫn quả quyết rằng, anh ấy cùng mẹ là người vô thần, hoặc là thành viên của một giáo phái xấu xa bí hiểm nào đó. Tôi còn nghe phong thanh rằng, có nghi ngờ hai người bọn họ thực chất là tình nhân. Chắc hẳn từ bé anh ấy không được nuôi dưỡng theo đạo, nhưng họ cảm thấy điều này có thể gây rắc rối cho tương lai của anh, nên cuối cùng mẹ anh ấy cũng quyết định cho anh tham gia lễ Kiên tín, muộn hai năm so với bạn đồng trang lứa. Vậy là, anh ấy trở thành bạn cùng lớp học lễ Kiên tín của tôi trong mấy tháng liền.

      Tôi cực lực tránh mặt anh trong mấy tháng đầu. Tôi không muốn có quan hệ gì với anh ấy, vì anh hoàn toànbị che phủ trong những tin đồn và bí mật. Song thật ra, điều khiến tôi bứt rứtlà cảm giác đã theo chân tôi kể từ sự vụ với Kromer: rằng tôi mắc nợ anh ấy. Vàngay cả khi đó, tôi cũng đã quá bận rộn với những bí mật của riêng mình. Lớp họclễ Kiên tín trùng khớp với thời kỳ tôi được khai sáng những vấn đề mấu chốt vềtình dục, và mặc dù tôi đã cố gắng hết sức, nhưng những điều mới được tiết lộnày đã quyết liệt cản trở sự hứng thú của tôi đối với giáo huấn tôn giáo. Nhữngđiều mục sư rao giảng yên vị ở một chỗ nào đó thật xa xăm trong lãnh thổ lặng lẽvà thiêng liêng của sự phi thực tế; dẫu có đẹp đẽ và đáng giá tới nhường nào đichăng nữa cũng chẳng hề cần kíp hay thú vị, còn những vấn đề kia lại có haitính chất này ở mức độ cao nhất.

       Trong hoàn cảnh càng thờ ơ với lớp học Kiên tín, tôi càng có hứng thú trở lại với Max Demian. Dường như giữa chúng tôi có một loại ràng buộc nào đó. Tôi cần phải lần lại theo sợi dây kết nối này hết sức cẩn thận. Nếu tôi nhớ không nhầm, nó thành hình vào một buổi sáng nọ trong lớp, khi phòng học vẫn còn thắp đèn. Giáo sĩ lớp Kiên tín đang giảng tới câu chuyện của Cain và Abel. Tôi gần như chẳng để ý gì; buồn ngủ và chỉ nghe giảng loáng thoáng. Thế rồi, người mục sư cất cao giọng và bắt đầu hùng hồn diễn thuyết về dấu ấn của Cain. Vào lúc ấy, tôi bỗng cảm thấy một mối liên kết, hoặc một sự nhắc nhở nào đó. Ngước mắt nhìn lên, tôi thấy khuôn mặt của Demian đang quay về phía tôi từ hàng ghế trước, với ánh mắt sáng rỡ, đầy ý nghĩa và trưng ra một biểu cảm, hoặc chế giễu, hoặc nghiêm nghị. Anh ấy chỉ nhìn vào tôi trong một thoáng, rồi đột nhiên tôi chăm chú lắng nghe những gì mục sư đang nói; tôi nghe ông ấy giảng về Cain và dấu hiệu của gã, sâu thẳm trong lòng tôi hiểu biết rằng những gì ông ấy đang dạy không phải là bản chất thực sự, rằng có thể nhìn vào sự việc theo một cách khác, rằng hoàn toàn có thể phê phán lại!

       Kể từ giây phút đó, mối liên hệ giữa Demian và tôi chính thức hiện diện trở lại. Và lạ lùng thay, mối liên kết tâm linh nảy nở trong tâm hồn gần như đồng thời với sự chuyển dời vào không gian vật lý. Tôi không biết là anh ấy đang cố tình làm điều đó hay chỉ thuần là một sự tình cờ - nhưng sau vài ngày, Demian đột nhiên chuyển sang ngồi chỗ khác trong lớp tôn giáo, ngay trước mặt tôi. (Tôi vẫn còn nhớ mình đã hạnh phúc như thế nào khi được hít hà mùi xà phòng sạch sẽ tươi mát từ cổ anh ấy, trong thứ không khí kinh hoàng buổi sáng của căn phòng học quá tải, bốc mùi như một nhà tế bần!); Dăm ngày sau, anh lại đổi chỗ ngồi, và bấy giờ anh ngồi mãi ngay cạnh tôi, suốt mùa đông và cả mùa xuân.

       Những buổi học hoàn toàn biến đổi, chúng không còn gây buồn ngủ và nhàm chán nữa. Không những thế, tôi còn mong chờ chúng. Đôi khi cả hai chúng tôi chăm chú hết cỡ lắng nghe mục sư giảng bài - chỉ cần một cái liếc mắt từ anh láng giềng cũng đủ khiến tôi lưu tâm tới một câu chuyện đáng chú ý hoặc một châm ngôn kỳ lạ. Và thêm một lần liếc mắt nữa - một kiểu liếc riêng đặc biệt - là tôi trở nên cảnh giác, và sự nghi ngờ lẫn phê bình sẵn sàng trỗi dậy.

       Dẫu vậy, bình thường chúng tôi vẫn là những học sinh tồi không biết nghe lời. Demian luôn cư xử tốt với các giáo viên và bạn học - tôi chưa bao giờ thấy anh ấy bày trò chơi khăm, cười phá lên hay thầm thì nhỏ to trong lớp; không một giáo viên nào từng phải khiển trách anh. Nhưng thay vì lời nói, anh ấy biết cách giao tiếp tích cực với tôi hơn qua những dấu hiệu lặng lẽ và những cái liếc mắt. Và đôi lúc, anh ấy chia sẻ với tôi những suy nghĩ và ý tưởng rất đỗi kỳ lạ.

       Ví dụ, anh ấy từng kể với tôi về những bạn học mà anh thấy thú vị, và cách anh nghiên cứu về họ. Anh hiểu rất rõ một số người trong bọn họ. Thí dụ trước khi vào học, anh ấy sẽ nói với tôi: "Khi tôi giơ ngón cái ra hiệu cho cậu, cậu này cậu kia sẽ quay lại nhìn vào chúng ta." hoặc gãi cổ, hoặc làm một hành động nào đó. Thế là trong giờ học, thường thì tôi sẽ gần như quên béng chuyện này, và Max sẽ đột nhiên quay sang tôi, ra dấu một cử chỉ dễ thấy bằng ngón tay cái của anh, rồi tôi sẽ nhanh chóng liếc tới cậu học sinh mà anh ấy trỏ vào, và lần nào cậu ta cũng thực hiện hành vi đã dự đoán trước như một chú rối buộc dây. Có lúc tôi nài nỉ Max thử nghiệm với thầy giáo, nhưng anh ấy không thích. Tuy vậy, vẫn có một dịp anh ấy chiều theo tôi, khi đến lớp tôi bảo anh ấy rằng mình chưa làm bài tập về nhà và thực sự mong mục sư sẽ không gọi tới. Vị mục sư đảo quanh một lượt để tìm học sinh lên đọc thuộc một đoạn của bài giáo lý, và ánh mắt dò xét của ông ấy dừng lại trên khuôn mặt tội lỗi của tôi. Ông ấy dần bước tới, vươn ngón tay về phía tôi, tên tôi dường như ngấp nghé trên môi ông - rồi đột nhiên trông ông rất bối rối hoặc mất tập trung, ông kéo mạnh cổ áo và đi về phía Demian người đang nhìn thẳng vào mặt ông. Dường như ông muốn hỏi anh ấy gì đó, nhưng bất ngờ quay đi lần nữa, ho một hai tiếng và gọi tên người khác.

       Những trò chơi này khiến tôi vô cùng thích thú; rồi tôi mới dần nhận ra rằng anh bạn của tôi cũng áp dụng cùng một mánh khóe với tôi. Đôi lúc khi đi bộ tới trường tôi bỗng có cảm giác Demian đang bước đi phía sau tôi, và khi tôi quay người, đúng là anh đang ở đó.

       "Anh thực sự có thể khiến người khác suy nghĩ theo ý mình sao?" Tôi hỏi anh ấy.

       Anh trả lời không chút do dự, bình tĩnh và khách quan như phong thái người lớn thông thường vẫn có.

       "Không," anh nói, "không ai có thể làm vậy. Vì chúng ta không có ý chí tự do, ngay cả khi mục sư giả vờ là chúng ta có. Người khác không thể nghĩ về những gì họ muốn, nên tôi cũng không thể khiến họ nghĩ về những gì tôi muốn. Nhưng có thể quan sát kỹ càng một ai đó đến mức, đôi lúc ta có thể nói ra gần chuẩn xác những thứ họ nghĩ hay những điều họ cảm nhận, và thế rồi cậu cũng có thể dự đoán những việc họ sắp làm. Người ta chỉ không biết cách, chứ việc này rất đơn giản. Dĩ nhiên trăm hay không bằng tay quen. Để tôi kể cho cậu một ví dụ: Trong chi bướm có một số loài mà số lượng con cái ít hơn hẳn so với con đực. Chúng sinh sản giống như những động vật khác, con đực thụ tinh cho con cái đẻ trứng. Các nhà khoa học đã thử nghiệm nhiều lần, nếu bạn có một con cái thuộc một trong những loài ấy, suốt đêm dài các con đực sẽ bay về vị trí có con cái này, đôi khi từ cách xa hàng giờ. Hàng giờ đấy, thử nghĩ mà xem! Những con đực cảm nhận được sự hiện diện của con cái duy nhất trong khu vực từ cách xa hàng dặm đường! Người ta đã cố giải thích hiện tượng này, nhưng rất khó hiểu. Chắc hẳn chúng phải có một cơ quan khứu giác đặc biệt hoặc hoặc một thứ gì đó, giống như cách những con chó săn lão luyện có thể dò được và lần theo những dấu vết hầu như không thể nhận ra. Cậu hiểu chứ? Thiên nhiên luôn đầy ắp những thứ không ai có thể giải thích. Và còn một điều tôi muốn nói là: nếu con cái cũng phổ biến như con đực, loài bướm này sẽ không có khứu giác nhạy cảm như vậy! Chúng chỉ có khả năng này, bởi chúng đã tự luyện tập để thành như vậy. Nếu một con vật, hoặc một người, kiên định hướng toàn bộ ý chí và sự chú tâm của mình vào một điều cụ thể, anh ta sẽ đạt được nó. Chỉ đơn giản như vậy thôi. Và nó cũng giống với những gì cậu đang nghĩ. Nếu cậu nhìn vào ai đó đủ chăm chú, cậu sẽ biết nhiều về anh ta hơn là anh ta biết chính mình."

       Cụm từ "đọc suy nghĩ" quẩn quanh trên đầu lưỡi, tôi chỉ muốn bật nó ra để nhắc lại về sự việc với Kromer trong quá khứ. Nhưng, đó là một điều kỳ lạ khác giữa chúng tôi: cả hai người đều chẳng bao giờ đề cập nửa lời đến sự can thiệp mang tính quyết định của anh ấy vào cuộc đời tôi. Như thể giữa hai chúng tôi chưa từng có gì, hoặc như thể mỗi người đều tin chắc rằng người kia đã quên rồi. Thậm chí chúng tôi còn chạm mặt Franz Kromer một hai lần khi đang đi bộ trên phố, nhưng chúng tôi không hé răng một chữ, không hề trao nhau lấy một ánh nhìn.

       "Ý anh về ý chí tự do là gì?" Tôi hỏi. "Anh nói chúng ta không có nó, nhưng rồi anh lại bảo chỉ cần kiên định hướng ý chí vào một thứ gì đó là có thể đạt được nó. Chẳng hợp lý gì cả! Nếu tôi không cai quản được ý chí của riêng mình thì tôi cũng không thể ra lệnh cho nó hướng về chỗ này chỗ kia theo mong muốn được."

       Anh vỗ vai tôi. Anh ấy luôn làm điều này khi tôi khiến anh ấy hài lòng.

       "Hỏi là tốt!" Anh vừa nói vừa cười. "Điều quan trọng là phải luôn luôn nghi vấn, luôn luôn ngờ vực. Nhưng câu trả lời rất đơn giản, nếu chú bướm của chúng ta cố hướng ý chí của mình vào một ngôi sao chẳng hạn, nó sẽ chẳng bao giờ thành công. Đơn giản là nó không cần phải cố. Nó chỉ tìm kiếm những gì có giá trị và ý nghĩa với bản thân nó, những gì nó cần, những gì nó nhất định phải sở hữu. Và rồi điều khó tin xảy ra, nó phát triển loại giác quan thứ sáu kỳ diệu mà không loài động vật nào khác có được! Con người chúng ta chắc chắn có nhiều không gian hơn và hứng thú với nhiều điều hơn so với động vật, nhưng chúng ta cũng bị mắc kẹt trong một vòng tròn tương đối hẹp và không thể thoát khỏi nó. Tất nhiên tôi có thể tưởng tượng vu vơ, quyết định rằng tôi nhất quyết phải đến Bắc Cực chẳng hạn, nhưng tôi chỉ có đủ ý chí để thực hiện nó nếu mong ước đó thực sự xuất phát từ trong lòng tôi, hoàn toàn ăn khớp với bản chất của tôi. Nếu điều như vậy xảy ra, khi cậu cố gắng tuân theo một mệnh lệnh đến từ bên trong, rồi sau đó nó thành công, thì cậu hoàn toàn có thể khai thác ý chí của mình như một con ngựa tốt. Ví dụ, nếu tôi nảy ra ý tưởng trong đầu rằng tôi muốn vị mục sư ngừng đeo kính, nó sẽ chẳng đi đâu về đâu. Vì đấy chỉ là chơi đùa thôi. Nhưng hồi mùa thu, khi tôi quyết định chắc chắn rằng mình phải chuyển chỗ lên phía trước, chuyện đó đã thành công một cách hoàn hảo. Bỗng nhiên một cậu bạn học vốn đổ bệnh mới đi học lại, tên cậu ta ở trước tôi theo thứ tự chữ cái, và bởi phải có ai đấy di chuyển để nhường chỗ cho cậu ta, người đó tất nhiên chính là tôi vì ý chí của tôi đã sẵn sàng chộp lấy cơ hội khi nó xuất hiện.

       "Phải." Tôi nói: "Tôi cũng cảm thấy rất lạ. Ngay khi chúng ta để ý tới nhau, anh càng ngày càng lại gần tôi hơn. Nhưng làm thế nào được chứ? Anh không thể ngồi cạnh tôi ngay lập tức, đầu tiên anh ngồi trước tôi mấy hàng đúng không? Thế rồi chuyện gì đã xảy ra?"

       "Chuyện là như thế này: Khi tôi vừa cảm nhận được thôi thúc phải chuyển chỗ, tôi không rõ lắm mình muốn chuyển tới đâu, chỉ biết rằng tôi cần ngồi ở xa phía sau. Lúc ấy, ý chí muốn ngồi cạnh cậu của tôi hình thành, nhưng tôi vẫn chưa nhận thức được nó. Cùng lúc ấy, ý chí của cậu gây tác động giúp đỡ cho tôi. Chỉ khi ngồi ở trước mặt cậu, tôi mới ngộ ra là mong muốn của mình mới chỉ thực hiện được một nửa - tôi nhận thức được rằng, điều tôi thực sự muốn phải là được ngồi ngay bên cạnh cậu."

       "Nhưng lúc ấy đâu có học sinh mới nào xuất hiện."

       "Không có, nhưng tôi chỉ làm những gì mình muốn và ngồi xuống bên cạnh cậu. Cậu nhóc bị tôi chiếm chỗ cũng rất ngạc nhiên, nhưng cậu ta còn có thể làm gì? Cậu ấy phải chuyển đi chỗ khác. Mục sư nhận ra sự thay đổi - thật ra mỗi khi ông ấy gọi hay nhìn tôi, ông ấy đều âm thầm cảm thấy một sự khó chịu, ông biết tên tôi là Demian và thật sai trái khi người tên D lại ngồi tít phía sau cùng người tên S - nhưng chuyện đó không bao giờ nổi được lên trên tầng ý thức của ông ấy, vì ý chí của tôi chống lại nó và tôi luôn ngăn cản nó xảy ra. Ông ấy luôn nhận thấy có gì đó không ổn, người thầy tốt nhìn vào tôi và bắt đầu xét nét tôi kỹ càng hơn, nhưng mỗi khi cảnh ấy bắt đầu, tôi chỉ làm một hành động đơn giản giống nhau. Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ấy. Gần như chẳng ai có thể chống đỡ điều này. Họ đều trở nên lo lắng. Nếu cậu muốn thứ gì từ ai đó, và cậu nhìn thẳng vào mắt người ấy nhưng họ không hề thấy khó chịu chút nào thì cậu phải từ bỏ thôi! Cậu sẽ không bao giờ có được thứ cậu muốn từ họ, không bao giờ! Nhưng điều đó rất hiếm khi xảy đến. Thật ra, tôi chỉ biết đúng một người miễn dịch với kế sách này."

       "Ai vậy?" Tôi nhanh nhảu hỏi.

       Anh nhìn tôi bằng đôi mắt hơi nheo lại mỗi khi anh cần suy nghĩ về việc gì đó. Thế rồi, anh quay mặt đi và chẳng trả lời. Dù sự hiếu kỳ trong lòng đang cháy bỏng, tôi cũng không thể lặp lại câu hỏi.

       Tôi nghĩ anh ấy đang nói đến mẹ của mình - Rõ ràng anh sống rất thân cận với bà, nhưng anh chưa bao giờ kể về bà cho tôi nghe, chưa bao giờ mời tôi tới nhà anh ấy. Tôi gần như không biết mẹ anh trông như thế nào.

       ...

       Hồi ấy, đôi lúc tôi cũng thử bắt chước những gì Demian làm, mạnh mẽ hướng ý chí của tôi tới một thứ gì đó hòng đạt được nó. Dĩ nhiên những mong ước của tôi cũng rất cấp bách, tôi thấy vậy. Nhưng chẳng có gì xảy ra; cách đấy không dùng được. Tôi cũng không thể kể với Demian về chúng. Tôi sẽ không dám thừa nhận với anh ấy những gì tôi muốn. Mà anh ấy cũng không hề hỏi.

       Cùng lúc đó, những khoảng trống đã nhen nhóm trong đức tin tôn giáo của tôi. Tuy vậy vẫn có một sự khác biệt lớn giữa cách nghĩ của tôi - người hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Demian và suy nghĩ của những bạn học tuyệt đối không có đức tin. Có những đứa nhóc thi thoảng lại đưa ra một lời bình phẩm rằng tin vào thánh thần thực lố bịch và mất phẩm giá, những truyền thuyết về Chúa ba ngôi(7. Thiên Chúa là duy nhất, nhưng hiện hữu trong ba ngôi vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần) hay sự ra đời vô nhiễm(8. Đức Mẹ Maria còn nguyên trinh tiết khi mang thai Jesus) của Jesus quả là nực cười, và việc người ta còn kháo nhau những điều vô nghĩa như vậy trong thời đại này là cả một sự bê bối. Đó hoàn toàn không phải là quan điểm của tôi. Ngay cả khi tôi nung nấu những nghi ngờ, thì toàn bộ trải nghiệm thời thơ ấu đã dạy cho tôi đủ hiểu về một cuộc sống ngoan đạo trong thực tế, một cuộc đời giống như của cha mẹ tôi, rằng nó không hề mất phẩm giá hay đạo đức giả. Tôi vẫn mang lòng tôn trọng sâu sắc nhất đối với tôn giáo, không khác gì trước kia. Chỉ là Demian đã khiến tôi bắt đầu nhìn nhận và thấu hiểu các câu chuyện cũng như học thuyết theo một cách tự do, riêng tư, vui tươi và sáng tạo hơn; ít nhất những diễn giải anh đặt ra luôn khiến tôi cảm thấy dễ chịu và thích thú. Dĩ nhiên nhiều thứ trong số đó rất khó để tôi có thể chấp nhận, như vụ việc của Cain chẳng hạn. Một lần trong lớp học Kiên tín, anh ấy đã khiến tôi choáng váng bằng một ý tưởng cấp tiến hết cỡ. Thầy giáo đang giảng cho chúng tôi nghe về Đồi Sọ(9. Jesus tới Jerusalem, bị bắt giữ ở vườn Gethsemane và chịu hình phạt hành quyết bằng cách đóng đinh trên Đồi Sọ. Ngày kỷ niệm cái chết của Jesus gọi là Thứ Sáu Tuần Thánh, toàn bộ quá trình mang tên Cuộc Khổ Nạn này là một sự kiện quan trọng trong học thuyết Cơ Đốc giáo, liên quan tới các giáo lý về sự cứu rỗi và chuộc tội). Lời kể trong Kinh thánh về sự khổ đau và cái chết của Đấng Cứu thế vẫn luôn để lại cho tôi một ấn tượng rất sâu sắc, tôi nhớ là như thế; lúc còn là một cậu bé, chẳng hạn vào Thứ Sáu Tuần Thánh(10. Là một ngày lễ diễn ra vào Thứ sáu trước Lễ Phục Sinh. Lễ này kỷ niệm sự đóng đinh vào thập giá và sự chết của Chúa Giêsu tại Canvary (Can-vê)) sau khi nghe cha đọc câu chuyện về Cuộc Khổ Nạn của chúa Giêsu, tôi sẽ mang niềm xúc động nội tâm sâu sắc, trầm mình trong thế giới sống động buồn rầu, đẹp đẽ, nhợt nhạt, ma mị và cũng rất quái đản đó, trong vườn Gethsemane(11. Là một vườn dưới chân núi Olives ở Jerusalem, nổi tiếng vì là nơi Chúa Giêsu và các tông đồ đã cầu nguyện trong đêm trước khi Ngài bị bắt đem đi đóng đinh vào thập giá) và trên Đồi Sọ, rồi khi tôi nghe khúc 'Nỗi khổ nạn theo phúc âm thánh Matthew' của Bach(12. 'St. Matthew's Passion': bản ontario (tác phẩm âm nhạc tôn giáo viết cho dàn nhạc giao hưởng) được Johann Sebastitan Bach sáng tác năm 1727. 'Actus tragicus' cũng là một tác phẩm khác của Bach soạn cho tang lễ), toàn bộ sự khổ đau rực rỡ trong khung cảnh tối tăm hùng vĩ của thế giới bí ẩn kia nhấn chìm tôi trong những cơn rùng mình mạnh mẽ và huyền diệu. Tôi vẫn cho rằng nhạc phẩm này và bản 'Actus tragicus' là chuẩn mực của tất cả những hình thái nghệ thuật khác.

       Cuối buổi học, Demian trầm tư bảo: "Có một chi tiết tôi không ưng trong câu chuyện này, Sinclair ạ. Hãy đọc lại lần nữa, để đầu lưỡi mình tự kiểm nghiệm: có thứ gì đó để lại một hương vị khó chịu trong vòm miệng. Đấy là phần về hai tên trộm. Dĩ nhiên, ba chiếc thánh giá dựng cạnh nhau trên đồi thì hẳn là rất tráng lệ! Nhưng rồi đoạn tiểu luận đầy mến thương về tên trộm lành(13. Có hai tên trộm cùng bị đóng đinh với Chúa Jesus, một bên phải và một bên trái. Thánh sử Luke có viết: "Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: 'Ông không phải là Đấng Cứu thế sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!'. Nhưng tên kia mắng nó: 'Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là thích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!'. Rồi anh ta thưa với Đức Jesus: 'Ông Jesus ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!'. Và Người nói với anh ta: 'Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng." Tên trộm van xin Jesus gọi là tên trộm lành, được rửa tội và trở thành Thánh Dismas) là sao! Hắn vốn là một tên tội phạm, hắn phạm những tội lỗi chỉ có Chúa mới biết rõ, thế rồi hắn bỗng trở nên ủy mị và tự rên rỉ một mớ nghi thức về sự hối cải và ăn năn?! Tôi hỏi thật, khi cận kề nấm mồ thì việc hối cải còn có ý nghĩa gì? Đó chỉ là một câu chuyện cổ tích cao đạo, đường mật và không trung thực, tẻ nhạt, ướt át và rõ ràng mang tính giáo huấn. Nếu ta gặp gỡ hai tên trộm này và phải chọn một kẻ làm bạn, hoặc phải quyết định lựa một người để tin tưởng, hiển nhiên là mọi người sẽ không chọn tên cải đạo khóc lóc. Nhưng, ta sẽ chọn tên còn lại - hắn là một kẻ có cá tính. Hắn ta khinh thường sự cải đạo, mà trong trường hợp của hắn cũng chẳng có gì to tát, chỉ là vài câu nói xuôi tai; hắn đi theo con đường của mình tới tận cùng và không hề chùn bước dù ở phút cuối, không thèm biện hộ những gì hắn mắc nợ quỷ dữ, kẻ chắc hẳn đã trợ lực cho hắn trong suốt quãng đường. Hắn có cá tính, và những người có cá tính thường không có kết cục tốt đẹp trong các câu chuyện Kinh thánh. Có khi hắn lại là một hậu duệ khác của Cain. Cậu nghĩ sao?

       Tôi thất kinh. Ở nhà tôi đã hoàn toàn tin tưởng vào câu chuyện Cuộc Khổ Nạn, nhưng tới bây giờ tôi mới nhận ra sự gắn kết của cá nhân tôi với câu chuyện lỏng lẻo ra sao, sức mạnh tưởng tượng khi nghe và đọc nó yếu ớt đến thế nào. Dù vậy, ý tưởng mới của Demian có vẻ rất nguy hiểm, thậm chí tới mức chết người; nó đe dọa lật đổ sự tồn tại của một số quan niệm mà tôi nhất quyết phải bám víu vào. Không, người ta không thể thoải mái đùa giỡn với bất kỳ thứ gì, với những thứ thiêng liêng nhất như thế!

       Như mọi khi, anh nhận ra sự phản kháng của tôi ngay lập tức, thậm chí còn trước cả khi tôi mở miệng.

       "Tôi biết vậy," anh nói với vẻ nhẫn nhịn. "Vẫn là câu chuyện cũ: Mọi thứ đều sẽ ổn cho tới khi cậu bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc về nó. Nhưng tôi muốn nói với cậu rằng, đây là một trong số những điểm thiếu sót rõ ràng của tôn giáo này, Đấng Thiên Chúa này, trong cả Cựu Ước(14. Là phần đầu của toàn bộ Kinh thánh Kitô Giáo được tuyển chọn từ phần lớn kinh Tanakh của Do Thái giáo) và Tân Ước(15. Là phấn cuối của Kinh thánh Cơ Đốc giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 sau công nguyên tới trước năm 140 sau công nguyên (sau Cựu Ước)), đều là một nhân vật kỳ diệu và chân chính, nhưng ông ấy chưa phải là những gì ông ấy nên trở thành. Ông là người tốt và cao thượng, người Cha, người cao quý và đẹp đẽ, đấng nhân từ - tất cả đều đúng! Nhưng thế giới còn chứa đựng những thứ khác nữa. Và tất cả những thứ khác kia tự động bị gán cho danh xưng của quỷ dữ; toàn bộ phần kia của thế giới, toàn bộ một nửa đó, luôn bị đè nén và giấu diếm. Giống như cách Chúa ca ngợi Đức Cha của mọi sự sống, trong khi tất thảy những thứ thuộc về nhục dục, những thứ thật sự là điểm tựa của cuộc sống, người ta chỉ lẳng lặng ỉm đi hoặc tìm mọi cách để mô tả chúng như là sản phẩm của ác quỷ, và dĩ nhiên là đầy tội lỗi! Tôi không hề phản đối việc tôn vinh và tôn thờ Thiên Chúa Jehovah(16. Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật trong Kinh thánh, là Đấng Tạo Hóa của muôn vật) này. Nhưng tôi nghĩ chúng ta nên tôn vinh tất cả mọi thứ, tôn thờ tất cả mọi thứ, cả thế gian đều thiêng liêng chứ không riêng gì phân nửa chính quy nhân tạo ấy! Chúng ta không chỉ cần các buổi lễ nhà thờ mà còn cần thờ phụng cho ma quỷ. Tôi nghĩ vậy đấy. Bằng không, chúng ta cần phải tạo ra một Thiên Chúa bao hàm cả quỷ dữ, đôi mắt Chúa sẽ không cần chúng ta che phủ khi những điều tự nhiên nhất trên thế gian xảy ra trước mặt Người."

       Lời nói của anh mang theo sự mãnh liệt, gần như là bạo lực, khá bất thường đối với anh ấy, nhưng anh mỉm cười ngay khi bài diễn thuyết kết thúc và không nâng tầm quan điểm thêm nữa.

...

       Tuy nhiên, ở trong lòng tôi, những từ ngữ này đâm sầm vào điều bí hiểm bao trùm cả tuổi thiếu niên của tôi, thứ mà tôi vẫn giữ rịt bên mình từng giây từng phút, chủ đề mà tôi chưa từng hé răng tiết lộ cho bất kỳ ai. Những gì Demian vừa nói về Thần và Quỷ, về thế giới hợp pháp của thần thánh và thế giới giấu diếm của ác quỷ, chính là ý niệm của riêng tôi, thần thoại của chính tôi: ý tưởng về hai thế giới, hoặc hai nửa-thế-giới, một cái thuộc về ánh sáng còn cái kia chìm trong bóng tối. Sự giác ngộ rằng vấn đề của tôi cũng là vấn đề mà tất cả mọi người gặp phải - một vấn đề gây ảnh hưởng tới toàn thể cuộc sống và các ý nghĩ - ào đến với tôi như một chiếc bóng đen thần thánh khiến tôi vừa hãi hùng vừa kinh sợ, rồi đột nhiên tôi nhận ra rằng cuộc sống cùng suy nghĩ trong thâm tâm của mình thực sự là một phần thuộc về dòng sông vĩnh cửu của những ý tưởng tuyệt vời. Sự nhận thức này tuy khiến tôi thỏa mãn nhưng lại không mang tới niềm vui. Ngược lại, tôi cảm thấy mệt mỏi - dư vị khó nhằn còn lưu lại trong miệng - vì một tiếng chuông trách nhiệm rền lên, một cảm giác chẳng thể nào mãi làm một đứa trẻ, và sẽ phải đứng vững chỉ có một mình.

       Tôi đã kể với một người bạn của mình về ý niệm nhen nhóm từ những năm tháng tuổi thơ đầu đời ấy, về "hai thế giới" - đấy là lần đầu tiên trong đời tôi tiết lộ bí mật sâu sắc tới nhường đó - và anh ấy ngay lập tức hiểu rằng, tôi chấp nhận chia sẻ tức là tôi cũng đồng tình cùng anh từ sâu thẳm tấm lòng. Nhưng anh không phải là kiểu người lợi dụng thời cơ. Anh nghe tôi giãi bày, chú tâm vào tôi như anh luôn thế, và nhìn thẳng vào mắt tôi cho tới khi tôi phải quay đi. Một lần nữa, tôi cảm nhận được trong ánh mắt anh sự phi thời gian kỳ lạ tựa như dã thú, và ngưỡng tuổi tác không thể đo đếm được ấy.

       "Chúng ta sẽ nói thêm vào dịp khác," anh hòa nhã nói. "Tôi biết cậu đang nghĩ ngợi nhiều điều hơn những thứ cậu bày tỏ. Nhưng nếu thực sự là như vậy, thì có nghĩa là cậu chưa sống hết mình như những gì cậu nghĩ, và như thế không ổn chút nào cả. Điều duy nhất có giá trị là việc chúng ta đã sống và trải nghiệm hết mình. Cậu biết rằng thế giới "được cho phép" của cậu chỉ là một nửa của thế giới, nhưng cậu đã cố đàn áp nửa còn lại y như cách các mục sư và giáo viên luôn làm. Cậu không làm được đâu! Một khi đã bắt đầu ngẫm nghĩ, sẽ chẳng ai có thể làm được chuyện đó."

       Những điều này như đánh trúng tim tôi.

       "Nhưng vẫn có những thứ xấu xa và thực sự bị cấm đoán," tôi gần như hét lên, "anh không thể phủ nhận điều này! Chúng không được phép hiện diện, chúng ta không được thực thi chúng. Tôi biết người ta giết chóc và làm đủ thứ chuyện xấu xa ác độc, nhưng chẳng lẽ tôi cũng phải trở thành tội phạm như thế?"

       "Hôm nay không tranh luận ngã ngũ được đâu," Max nói rất nhẹ nhàng. "Dĩ nhiên cậu không được cưỡng hiếp hoặc giết hại ai cả. Nhưng cậu chưa đạt tới cảnh giới có thể nhìn nhận điều gì là "được phép" và điều gì là "cấm kị" đâu. Cậu mới chỉ lờ mờ cảm thấy được mảnh ghép đầu tiên của sự thật. Nhưng chớ lo, những phần còn lại sẽ xuất hiện ngay thôi. Chẳng hạn như, cậu đang nuôi dưỡng một khao khát trong lòng phải đến cả năm trời và nó bị coi là "cấm đoán". Người Hi Lạp và nhiều dân tộc khác lại không như vậy, họ gọi thứ khao khát này là một vị Thần, họ tôn vinh nó trong những lễ hội linh đình. Nói cách khác, "cấm đoán" không phải là một chân tướng vĩnh hẳng - nó có thể thay đổi. Ngày nay, chỉ cần đưa một người phụ nữ tới trước mục sư làm lễ cưới là cậu có thể ngủ với cô ấy. Nhưng với những dân tộc khác thì lại hoàn toàn khác. Bởi vậy, chúng ta phải tự xác định cho chính mình thứ gì được phép và thứ gì bị cấm - bị cấm đối với chính bản thân ta. Cậu có thể chẳng phạm vào bất cứ một điều cấm kị nào nhưng vẫn là một tên vô lại đúng nghĩa, và ngược lại. Nó chỉ là vấn đề về sự an nhàn! Bất cứ ai an nhàn tới mức không thèm nghĩ cho bản thân và tự làm thẩm phán của riêng mình sẽ dễ dàng tuân theo luật pháp. Hắn ta sẽ sống một cách thoải mái. Lại có những kẻ khác cảm thấy lời răn dạy của Chúa luôn theo sát bên mình - những điều cấm kị với họ được tầng lớp chính trực thực thi suốt ngày, những thứ họ được phép làm khiến người ta cau mày. Tất cả chúng ta phải tự đứng trên đôi chân của mình mà thôi."

       Bỗng nhiên anh có vẻ hối hận vì đã nói hơi nhiều, và anh bỏ đi. Về mặt cảm xúc, ngay cả khi ấy tôi cũng hiểu được ít nhiều tại sao anh lại có cảm giác như vậy. Anh chỉ nêu ra ý kiến đại khái qua loa và dễ hiểu, nhưng thực tế anh đã chán ngấy những cuộc trò chuyện mà anh từng mô tả là "nói cho có mà thôi". Anh biết tôi thực sự có hứng thú với những vấn đề này, nhưng cũng thấy tôi chỉ muốn đùa chơi, quá hứng khởi với những cuộc tán gẫu khôn khéo, kiểu như thế - tóm lại là sự thiếu nghiêm túc cao độ của tôi.

...

       Khi đọc lại cụm từ cuối tôi vừa viết - "nghiêm túc cao độ", đột nhiên tôi nhớ lại một dịp khác, trải nghiệm đậm nét nhất của tôi với Max Demian trong khoảng thời gian tôi vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi lứa tuổi trẻ con.

       Lễ Kiên tín của chúng tôi đang tới dần, và đề tài cuối cùng được đề cập trong lớp học tôn giáo là Bữa tiệc cuối cùng(17. Bữa ăn cuối cùng của Jesus và các tông đồ trước khi ông bị bắt giữ và hành hình. Kẻ phản bội bán đứng Jesus là Judas cũng có mặt trong bữa tối đó). Đó là một chủ đề quan trọng với mục sư, ông dường như phải cố gắng hết sức để truyền tải cho chúng tôi; có một bầu không khí trang trọng nhất định bao trùm lên những buổi học cuối khóa ấy. Nhưng, người ở trong lớp học mà suy nghĩ của tôi lại lưu lạc ở nơi khác - thật ra tôi chỉ nghĩ về người bạn của mình. Lễ Kiên tín được giải thích là nghi lễ mở lối bước vào cộng đồng giáo hữu, nhưng khi nó càng cận kề tôi càng không thể ngừng cho rằng giá trị của học kỳ nghiên cứu tôn giáo này đối với tôi không phải là những gì tôi học được, mà là sự hiện diện và ảnh hưởng của Demian. Bấy giờ tôi đã sẵn sàng nhưng không phải để bước vào nhà thờ, mà là tiếp cận một thứ khác biệt: một tổ chức của những ý tưởng và nhân vật khác thường tồn tại ở đâu đó trên trái đất, mà người bạn của tôi là đại diện hoặc sứ giả của nó.

       Tôi cố gắng kìm nén ý nghĩ này - việc trải qua lên Kiên tín rất có ý nghĩa đối với tôi, dẫu có chuyện gì xảy ra thì tôi vẫn phải hoàn thành nó với thái độ đàng hoàng, còn những ý tưởng mới mẻ này đang cản trở điều đó. Vậy mà, dù tôi có cố gắng làm gì đi nữa thì ý nghĩ ấy vẫn không tiêu biến, nó còn dần dà được não bộ liên hệ ngay khi nhắc đến buổi lễ nhà thờ sắp tới. Tôi đã sẵn lòng cho một buổi lễ kỷ niệm khác với những người kia; đối với tôi nó sẽ biểu thị cho lối vào thế giới ý tưởng mà tôi khám phá ra qua Demian.

       Trong khoảng thời gian đó, một lần ngay trước giờ học, tôi lại vướng vào một trận cãi vã gay gắt với anh. Người bạn của tôi không nói năng gì nhiều chỉ tỏ vẻ bất mãn với bài diễn thuyết của tôi, một bài diễn văn có lẽ hơi khoa trương và cao ngạo.

       "Chúng ta nói nhiều quá rồi," anh nghiêm túc lạ thường. "Ra vẻ thông thái không có tác dụng gì cả đâu. Nó chỉ khiến cậu ngày càng đi xa khỏi chính mình. Rời xa bản ngã là một tội lỗi. Con người ta cần phải thụt vào gần với bản ngã, như loài rùa ấy."

       Ngay sau đó, chúng tôi bước vào lớp. Buổi học bắt đầu, tôi cố gắng tập trung và Demian cũng không khiến tôi xao nhãng. Sau một lúc, tôi bắt đầu cảm thấy một thứ kỳ lạ tỏa ra từ phía bên cạnh, nơi anh ấy đang ngồi: một sự lạnh lẽo, trống rỗng, hoặc một cái gì đó tương tự, như thể chỗ ngồi bỗng dưng không còn bị lấp đầy. Khi cảm giác ngày càng ngột ngạt, tôi quay đầu lại.

       Tôi thấy anh bạn tôi vẫn ngồi thẳng lưng với tư thế chuẩn mực như thường lệ. Nhưng trông anh hoàn toàn khác thường ngày, anh mang một dáng vẻ, một khí chất mà tôi chưa từng bắt gặp. Anh vẫn mở mắt mà tôi tưởng như anh đang nhắm nghiền. Đôi mắt ấy không trông không nhìn, chúng lờ đờ như thể đang xoáy sâu vào bên trong, hoặc nhắm ra xa vào một vật thể vô định. Anh ngồi đó hoàn toàn bất động, cảm tưởng như không hề hít thở; khuôn miệng như được tạc bằng gỗ hoặc đá cẩm thạch. Mặt anh tái mét, nhợt nhạt từ trên xuống dưới, trơ như đá, mái tóc nâu là thứ duy nhất còn có vẻ sống động. Anh để tay trên bàn học, vô hồn và như tĩnh vạt, như sỏi đá, như hoa quả, tuy bất động không tươi tắn nhưng không tới mức mỏng manh - giống như những vỏ sò chắc chắn, cứng cáp bao quang một sự sồn mạnh mẽ đang ẩn nấp.

       Tôi run rẩy trước cảnh tượng đó. Anh ấy đã chết! Tôi nghĩ thế, suýt thì thốt ra tiếng. Nhưng tôi biết anh ấy chưa chết. Tôi nhìn chằm chằm vào mặt anh ấy, vào lớp mặt nạ sắt đá nhờ nhờ đấy, và tôi cảm nhận được: đây là Demian! Phong cách thường lệ khi anh rảo bước và nói chuyện cùng tôi chỉ là một nửa của anh ấy - một Demian đóng vai trò tạm thời, thích nghi với cộng đồng xung quanh và hòa hợp với mọi thứ chỉ bởi phép lịch sự. Còn Demian chân chính lại trông như thế này: sắt đá, cổ xưa, như một loài dã thú, như đá cẩm thạch, đẹp đẽ mà lạnh lùng, chết chóc nhưng cũng bí mật chứa đựng một nguồn sống phi thường. Và bao trùm lấy anh là một sự trống rỗng im lìm, một không gian vô tận, một nỗi cô đơn của sự chết chóc!

       Tôi rùng mình nhận ra anh ấy đã hoàn toàn nhập tâm vào chính mình. Chưa bao giờ tôi cảm thấy bị bỏ rơi như thế. Không có phần nào của anh lưu lại cùng tôi; anh ở ngoài tầm với; dẫu anh có ở trên cô đảo xa xăm nhất của thế gian cũng không xa cách bằng.

       Không thể tin được, ngoài tôi ra không một ai thấy cảnh tượng đấy. Chắc chắn anh ở trong tầm mắt của mọi người, đáng ra ai ai cũng phải rùng mình chứ! Nhưng không một ai để tâm tới anh. Anh ngồi cứng nhắc như một pho tượng - tôi không nhịn được phải nghĩ tới: một tượng thần. Một chú ruồi đậu vào trán anh, chậm rãi bò qua mũi và môi anh, vậy mà cơ mặt của anh vẫn không hề nhúc nhích.

       Anh ấy ở đâu rồi, ở nơi nào? Anh đang nghĩ gì, anh cảm thấy thế nào? Có phải anh đang ở Thiên đường, hay một Địa ngục nào đó?

       Tôi chẳng thể hỏi anh về chuyện đó. Khi tôi thấy anh sống dậy và hít thở trở lại, cuối buổi học, đôi mắt chúng tôi chạm nhau, nó lại như trước kia. Anh đã trở về từ nơi nào thế? Anh đã ở đâu? Trông anh có vẻ kiệt sức. Khuôn mặt anh đã hồng hào trở lại, tay chân anh đã cử động, nhưng mái tóc nâu của anh giờ lại xỉn màu và mỏi mệt.

       Những ngày tiếp theo, tôi liên tục thử luyện tập trong  phòng ngủ: tôi ngồi im như phỗng trên ghế, mắt nhìn đờ đẫn, tuyệt không nhúc nhích, xem xem tôi có thể chịu được bao lâu và cảm thấy như thế nào. Tất cả những gì tôi cảm nhận được là sự mệt mỏi, và mí mắt ngứa ngáy khủng khiếp.

       Chẳng mấy chốc đã tới lễ Kiên tín. Tôi chẳng nhớ được gì rõ ràng về nó.

       Rồi mọi thứ thay đổi. Tuổi thơ vỡ vụn xung quanh tôi. Cha mẹ bối rối với tôi. Chị em tôi trở thành những sinh vật hoàn toàn xa lạ. Một loại vỡ mộng khiến cho tất cả những xúc cảm và niềm vui quen thuộc trở nên nhạt nhòa và phi thực tế; khu vườn không còn mùi hương ngọt ngào, khu rừng không còn vẻ cám dỗ, thế giới trải phẳng ra xung quanh tôi như một dịp đại hạ giá hàng tồn kho của những đồ vật cũ kỹ và vô dụng, tẻ nhạt và chán ngắt. Sách chỉ là giấy, âm nhạc chỉ là tiếng ồn. Giống như một thân cây trút lá mùa thu: cây không cảm thấy gì khi mưa rơi, nắng chiếu hay tuyết đổ, mầm sống bên trong cây từ từ rút vào những nơi nhỏ hẹp ở tận cùng phía trong. Nó không chết đi. Nó chỉ đang chờ đợi. 

       Cha mẹ đã quyết định gửi tôi đến một trường học khác vào năm sau, lần đầu tiên tôi sống xa nhà. Suốt mùa hè năm ấy, mẹ chăm sóc tôi với một sự dịu dàng đặc biệt, nói sẵn trước những lời tạm biệt, cố ý gợi lên tình yêu và nỗi nhớ nhà, những kỷ niệm khó quên trong lòng tôi. Demian đã đi du lịch. Tôi chỉ còn có một mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro