Chương 1. Tây tiến người đi
Bắc Bộ (1), 1947.
Làm trai bạt núi phá rừng
Nước sông tát cạn vẫy vùng bể khơi. (2)
"Mày đã thưa chuyện với thầy u (3) chưa?"
Tôi còn đang nghịch ống tiêu cụ cố để lại, nghe vậy liền vội vàng chạy đến bịt miệng anh Thạc, đầu ngó nghiêng ra ngoài cửa sổ, chỉ sợ u đi ngang nghe được thì hỏng chuyện. Thấy anh nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu, tôi bèn nói khẽ: "Em định trốn đi."
Anh nhăn mặt: "Trốn là trốn thế nào?"
"Thì..." Tôi gãi đầu, chột dạ nhìn xuống đôi bàn chân. "Sáng sớm em sang nhà anh cùng đi. Em viết xong thư rồi, để trên bàn cho thầy u. U mà biết em theo anh lên Tây Bắc, kiểu gì cũng khóc hết nước mắt giữ em ở lại."
Anh Thạc vốn là hàng xóm của tôi, lớn hơn tôi bốn tuổi. Lên mười lăm anh đã thưa chuyện với thầy u xin nhập ngũ, những lúc được nghỉ phép vẫn thường thăm nhà tôi, lại đặt tôi lên vai cõng đi khắp xóm. Anh được phân bổ vào Tiểu đoàn 145 Liên khu 3 Hà Nội, từng chiến đấu suốt 60 ngày đêm ở Thủ đô trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (4). Đầu năm 47 anh Thạc sang chơi, trên người còn nguyên bộ quân phục phẳng phiu, đầu đội mũ ca lô, eo giắt khẩu súng ngắn, đúng là bộ dạng của anh chiến sĩ Vệ quốc quân, trông oách phải biết. Tôi trêu anh, anh lại cười mà bảo: "Ở nhà được mấy hôm thôi, anh sắp phải đi xa rồi."
Hỏi ra, mới biết anh vừa ghi danh đi Tây Bắc. Từ hồi tổ quốc phân hai, quân Tưởng vào miền Bắc giải giáp phát xít Nhật, bọn thằng Pháp vẫn chưa thôi nhòm ngó vùng Đông Dương béo bở này mà bắt đầu chuyển mục tiêu tiến vào Bắc Lào, âm mưu lập các xứ Thái, xứ Mường tự trị. Đầu năm 46 chúng còn cho lính nhảy dù xuống Mộc Châu, nghe đâu đã đánh hết Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình! Dọc sông Mã đều do chúng kiểm soát. Anh Thạc bảo, sau Cách mạng Tháng Tám đã có đại đội Anh Đệ - Tuấn Sơn tiên phong từ Hà Nội hành quân lên Mộc Châu rồi, nối gót theo sau còn nhiều đoàn quân khác nữa, đã lập không ít chiến công oanh liệt (5). Năm nay anh Thạc cũng muốn đi Tây Bắc. Anh nói với tôi: "Ở mãi thành đô này cứ cảm thấy tay chân thừa thãi, chẳng bằng Tây tiến giết giặc đền nợ nước, trả thù nhà."
"Tây tiến?" Tôi hỏi lại.
"Ừ." Anh Thạc cười. "Lính tráng đều gọi chuyện hành quân Tây Bắc là Tây tiến."
Hôm ấy tiễn anh Thạc về, tôi cứ nghĩ mãi về lời anh nói, cảm thấy hổ thẹn trong lòng. Anh Thạc mười lăm đã nhập ngũ, đã biết xách súng bảo vệ đồng bào, tôi giờ mười sáu rồi mà vẫn chỉ ru rú trong nhà và trường học. Nếu tay chân anh là thừa thãi, vậy chẳng phải cái thân này của tôi là phế phẩm ư? Không được! Làm trai cho đáng thân trai, tôi không thể sống như một phế phẩm được! Thế là sáng hôm sau, tôi lén thầy u chạy sang nhà anh Thạc, vòi anh dẫn mình theo cùng "Tây tiến". Ban đầu anh không chịu, nhưng tôi cứ bám lấy anh chẳng buông, rốt cuộc anh cũng thở dài dẫn tôi đi đăng ký.
"Thế mày sửa soạn cả chưa?" Anh Thạc lại hỏi, chắc hẳn đã bó tay chịu trói với sự bướng bỉnh của tôi rồi. Tôi cười khì, anh liền bực mình nhéo lỗ tai tôi một cái.
"Rồi ạ." Tôi chỉ vào chiếc ba lô cũ mèm giấu ở góc phòng mình. Đấy vốn là tôi tìm được trong kho, nghe thầy bảo là di vật cụ cố đi lính để lại. "Em mang đơn giản lắm, chỉ có hai cái áo và hai cái quần cộc thôi. Thêm chút ít đồ ăn nữa. À, với mấy quyển sách!"
"Đi lính mà còn mang sách, thật hết cách với mày!" Anh Thạc lắc đầu. "Nếu thèm chữ nghĩa thì ở lại đây cho rồi, tội tình gì phải đặt mình vào nơi rừng thiêng nước độc? Mày mới có mười sáu tuổi..."
Tôi chưa nghe xong, đã không chịu được mà phản bác: "Anh Thạc nói em, sao không nhìn lại mình? Chẳng phải anh cũng tự đặt thân vào nơi rừng thiêng nước độc đấy thôi! Vả lại, ở thời chiến loạn này, cái chữ cái nghĩa chẳng lấy được một sợi tóc của giặc, nhưng khẩu súng con dao thì có thể! Em biết anh xót em, nhưng thầy u đã sinh ra em là thân trai rồi, không sống cho đáng thân trai thì mặt mũi nào về gặp ông bà? Nợ nước chưa trả, mặt mũi nào còn viết chữ, làm văn?"
Anh Thạc không nói nữa, chỉ khe khẽ thở dài. Ngay lúc ấy, cửa phòng tôi vang lên tiếng gõ. U tôi từ ngoài nói vọng vào: "Quốc, cái Sa tới tìm này!"
Tôi giật mình. Còn chưa kịp phản ứng, đã nghe anh Thạc cười trêu: "Người ta tới tận cửa rồi kìa."
Sượng mặt, tôi đẩy vai anh một cái, gãi đầu bước ra.
Ngoài hiên cửa, tôi có trồng hai bụi hoa nhài trắng muốt nho nhỏ. Thầy vẫn thường đùa bảo là tôi ướp hương cho con dâu sắp vào cửa của u. Mỗi lần thầy nói thế, u sẽ bật cười to trong khi tôi chỉ biết gãi đầu ngượng ngùng, hai gò má nóng bừng bừng như phải lửa. Đấy là vì thầy u biết chuyện tình cảm giữa tôi và người con gái tôi tương tư từ thuở bé: cái Sa con ông Hai Đồ ở đầu xóm.
Ông Hai Đồ tên thật là Trần Văn Hai, nhưng do ông thạo Hán ngữ, lại hay dạy chữ cho mấy đứa nhỏ trong xóm nên người ta gọi ông là ông Hai Đồ. Nhà ông có ba con trai lớn, đến đứa thứ tư mới là con gái nên ông cưng còn hơn cưng trứng, đặt cho cái tên "Sa". Tôi còn nhớ đã hỏi Sa rằng tên ấy ý nghĩa là chi, em đáp "Sa" là cát (6). Bởi ông Hai Đồ quê gốc ở vùng duyên hải miền Trung, ông mong em dù lớn lên ở đô thành thì vẫn biết nhớ về cố hương.
Tôi và Sa quen nhau từ thuở lọt lòng, sinh cùng năm với nhau cả, nhưng tôi vẫn cứ thích gọi thầm Sa là "em". Ba người anh của em đều nhập ngũ, còn mỗi em ở nhà phụng dưỡng u thầy. Ông Hai Đồ coi trọng cái chữ, dạy dỗ em thành người thiếu nữ vừa có sắc vừa có tài. Tôi đã từng ngồi cùng em cả buổi sáng để đàm luận về thơ văn, rằng em thổn thức trước mảnh trăng nửa điên nửa tỉnh của Hàn Mặc Tử; em ám ảnh những xương, sọ, máu và đổ nát trong "Điêu tàn" của Chế Lan Viên; em buồn cái hồn thơ đẹp ảo não, đẹp bơ vơ của Huy Cận (7). Và làm thơ! Ôi chao, Sa làm thơ hay phải biết! Em thích dùng cổ ngữ trong những dòng thơ tự do, tạo nên chất thơ vừa cổ kính lại vừa phóng khoáng lãng mạn. Mấy năm trước em đưa tôi đọc bài vịnh hoa nhài của mình, hỏi ra mới biết đó chính là loài hoa em thích nhất. Tôi bèn chạy đi xin cụ Tư Kiểng hai bụi nhài nhỏ đem về nhà trồng, thầm nhủ rằng đợi tới ngày tình tôi và em nên duyên nên nợ, tôi sẽ bứng hai gốc nhài ấy làm một mâm sính lễ mang đến nhà em.
Tôi còn đang nghĩ vẩn vơ, chân đã bước ra ngoài hiên cửa. Bên bụi hoa nhài, tôi thấy Sa trong bộ áo dài màu tím yêu kiều. Em hay mặc áo dài tím, bảo rằng vừa không bẩn như khi mặc màu trắng, vừa không phô trương như mặc màu đỏ, lại đằm thắm hơn những màu lục, lam. Cả xóm này chỉ có cái Sa con ông Hai Đồ mới mặc áo dài tím thôi, và cũng chỉ có cái Sa mặc màu tím mới đẹp được nhường này. Tà áo em quấn quýt lấy những bông hoa nhài trắng, mái tóc em đổ dài xuống tấm lưng mảnh mai tựa thước lụa nhung đen trải trên nền vải tím biếc, e lệ mà duyên dáng đến xao xuyến lòng tôi.
Nhưng vừa nhìn thấy mặt tôi, Sa đã thẳng thừng hỏi: "Quốc định đi đâu xa đúng không?"
Tôi giật mình, hỏi lại: "Làm sao Sa biết?"
"Vậy là đúng rồi ư..." Em thở nhẹ, hàng mi cụp xuống. Lúc này tôi mới nhận ra mình đã lỡ lời, xấu hổ quay mặt đi nhìn dây trầu bà mọc lủng lẳng trên tường. "Hôm qua gặp anh Thạc, anh có hỏi đã từ biệt Quốc chưa. Sa nói từ biệt chuyện gì, anh liền bảo Sa tìm Quốc mà hỏi."
Tôi thầm than trong lòng, trách anh Thạc sao lại nhiều lời. Nhưng rồi nhìn thấy đôi mắt to tròn của Sa vương nét buồn, tôi chợt nhận ra nếu không có anh, ắt hẳn tôi sẽ bỏ Sa lại Hà Nội này mà không lời từ giã vì chẳng biết phải nói thế nào với em.
"Quốc định đi đâu?" Em lại hỏi.
"Tây Bắc. Vốn chỉ có anh Thạc đi, tôi biết được, bèn xin theo cùng anh."
"Tây Bắc..." Em lẩm bẩm. "Chốn rừng thiêng nước độc, biết bao người đã phải bỏ mạng nơi ấy? Anh hai của Sa, anh hai cũng..."
Rồi em im bặt. Anh hai của Sa năm ngoái vừa hi sinh, cũng là trên đường hành quân từ Sơn Tây lên đất Thượng Lào cùng tiểu đoàn Vũ Yến (8). Tôi còn nhớ hôm nhận tin là hôm tôi sang thăm ông Hai Đồ, đột ngột ngoài cửa có tiếng gọi lanh lảnh. Nhìn ra, chỉ thấy một người sàn sàn tuổi tôi, dáng người nhỏ thó, xưng là chân liên lạc của tiểu đoàn Vũ Yến. Cậu ta thông báo, người con trai nhà Hai Đồ đã hi sinh vì bệnh sốt rét rồi.
Nghe tin, bà Hai Đồ lảo đảo ngất xỉu, ông Hai Đồ thì cặp mắt đỏ rực. Còn Sa, Sa khóc nhiều lắm, khóc đến lả đi trên vai tôi. Sau này em có nói, em sợ Tây Bắc lắm. Đó là cái chốn mà người ta chưa kịp hi sinh trên chiến trường thì đã chết vì suối rừng hiểm độc.
Tôi hiểu tâm sự của Sa, nhưng tôi không thể dừng lại. Nếu bây giờ rút lui, chẳng khác nào tự thừa nhận mình là thằng ham sống sợ chết, sinh ra thân nam nhi mà lo nỗi lo đàn bà. Tôi phải đi, phải "Tây tiến" thôi. Đó là con đường của tôi, là vận mệnh tôi lựa chọn cho chính mình.
Tôi vươn tay, vuốt một lọn tóc trước trán em ra sau tai, nhẹ giọng nói: "Quốc đi Tây Bắc, không phải đến tử địa. Quốc là đi đến nơi mặt trời say ngủ, mang nắng về cho Sa, cho đồng bào."
Sa ngước mắt nhìn tôi, đôi con ngươi đen láy lấp lánh ánh sáng, đẹp như thứ mực tàu người giáo già ở trường Thăng Long mài ra nghiên sứ mỗi lần viết thư pháp. Em hơi nhoẻn miệng cười, vấn vương buồn nơi khoé mắt đầu môi.
"Dù vậy... Quốc cũng không muốn nói với Sa? Định sẽ để lại cho Sa một phong thư, rồi ra đi biệt xứ?"
Tôi cúi đầu, không biết nên làm sao mới phải.
"Thôi, ai bảo Sa mắc duyên phải nợ với khách tang bồng làm chi." Đuôi mắt Sa buồn tê tái. Em vươn ra nắm nhẹ lấy tay tôi. Tay em trắng nõn nà, sờ vào mịn như cánh sen, ấp trong bàn tay tôi như khắc ghi niềm thương nỗi nhớ. Khẽ khàng, em hỏi: "Quốc đi rồi, biết bao giờ... biết bao giờ mới được gặp lại?"
Tôi im lặng hồi lâu, rồi siết tay em mà nói: "Sa còn chờ, Quốc còn về."
Chú thích
(1) "Bắc Bộ cùng với một phần của Bắc Trung Bộ thuộc địa danh Miền Bắc Việt Nam. Bắc Bộ trong lịch sử trải qua nhiều tên gọi, thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh được gọi là Đàng Ngoài hay Bắc Hà, thời Pháp thuộc gọi là Bắc Kỳ, dưới thời chính phủ Bảo Đại trong cuộc Chiến tranh Đông Dương còn được gọi là Bắc Phần... Ngày 20 tháng 3 năm 1945, Thống sứ Nhật đã đổi tên Bắc Kỳ thành Bắc Bộ." - Trích bài viết "Bắc Bộ Việt Nam", vi.wikipedia.org
(2) Ca dao Việt Nam.
(3) Xưng hô thay cho "cha mẹ". Vào thời điểm này, các nhà khá giả ở thành thị miền Bắc học theo người Tây gọi cha mẹ là "cậu mợ", tuy nhiên ở vùng nông thôn hoặc nhà có gia cảnh nghèo khó thì vẫn gọi là "thầy u".
(4)(5) Nguồn từ bài báo "Nhớ về đoàn quân Tây Tiến" - qdnd.vn
(6) 沙 - "sa", nghĩa là cát, thông dụng trong tiếng Hán cổ lẫn hiện đại.
(7) Ba nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam:
- Hàn Mặc Tử (1912-1949) là người khởi xưởng xướng ra "Trường thơ Loạn". Nhà thơ có một cuộc đời lận đận và cô đơn. Năm 1935 người ta thấy được dấu hiệu bệnh phong trên cơ thể ông nhưng ông xem nhẹ, đến 1937-1939 là giai đoạn bệnh phát dữ dội nhất, năm 1940 ông bị đưa vào trại phong Quy Hoà và chết đi trong sự cách ly với xã hội. Tập "Thơ Điên" (1938, sau đổi thành "Đau thương") của ông là tiêu biểu cho Trường thơ Loạn, ám ảnh với những hồn - trăng - máu. Đó là tập thơ mà người ta nghe thấy tiếng gào thét câm lặng của Hàn Mặc Tử trong nỗi đau điên cuồng từ thể xác đến tâm hồn. Đặc biệt, vầng trăng của Hàn Mặc Tử được xem là một thực thể có hồn, có máu, ám ảnh trong từng vần thơ của ông, là biểu tượng cho khổ đau cùng tận và cô độc tuyệt đối, là người bạn cũng là suối nguồn cảm hứng của nhà thơ (người ta cho rằng nguyên nhân đến từ việc Hàn Mặc Tử phải nằm liệt trên giường bệnh cạnh khung cửa sổ, đêm đêm nhìn ra sẽ thấy vầng trăng).
- Chế Lan Viên (1920-1989) có đường thơ nhiều biến động. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông cũng theo Trường thơ Loạn: "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời "Điêu tàn" (1937) với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm". Sau đó thơ ông đã có nhiều thay đổi trong nội dung, gần với đồng bào, với đất nước hơn, hào hùng hơn, cũng trăn trở hơn.
- Huy Cận (1919-2005) là một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ Mới. Trước Cách mạng Tháng Tám, các sáng tác của Huy Cận (đặc biệt là tập "Lửa Thiêng", 1940) mang một nỗi buồn da diết, đẹp mà ảo não quạnh hiu. "Nỗi buồn trong Lửa Thiêng là cái buồn nhân thế cộng với nỗi buồn vũ trụ hoà hợp với nhau... Yêu quê hương đất nước, nhưng không tìm được ra lối thoát. Và tuổi trẻ cũng rất yêu cuộc sống, cuộc đời rất đáng sống nhưng càng yêu cuộc đời càng thấy bế tắc, xoáy sâu vào bế tắc. Sau này tôi thâu tóm lại trong mấy chữ: Yêu đời nhưng đau đời", theo Huy Cận.
(8) Một tiểu đoàn từ Sơn Tây lên Thượng Lào chiến đấu, có góp mặt trong Trung đoàn 52 (Trung đoàn Tây Tiến). Nguồn từ bài báo "Nhớ về đoàn quân Tây Tiến" - qdnd.vn
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro