Chương hai : TẠI CÕI ÂM VONG LINH BỊ NHỮNG ĐỊNH LUẬT CỦA VŨ TRỤ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương hai : TẠI CÕI ÂM  VONG LINH BỊ NHỮNG ĐỊNH LUẬT CỦA VŨ TRỤ

A. Vong Linh, Âm hồn, Thể Vía, Cõi Trung Giới :

Vệ binh âm phủ sửa lại tư thế đứng của tội phạm rồi chào Diêm Vương, báo cáo  đã thi hành xong.

Tội phạm cố giữ bình tĩnh khi đứng trước vành móng ngựa. 

Diêm Vương nghiêm nghị hỏi :

– Nhà ngươi có biết ngôn ngữ là phản ảnh cái tinh hoa của vũ trụ, một lơi nói ra không được làm buồn lòng bất cứ một sinh vật nào. Vậy mà nhà ngươi dám ra lệnh cho  thuộc hạ sử dụng máy bay mang bom trút xuống địa cầu, làm chấn động Chư Thiên, tan hoang thành phố, bình địa khu dân cư làng mạc, gây cảnh màn trời chiếu đất và làm chết hàng vạn người. Những sự đau khổ chết chóc oán hờn đó, nó theo xuống đây đòi nhà ngươi thường mạng. Nhà ngươi có biết một lệnh của nhà ngươi gây đau khổ bao nhiêu người không ?

Tội phạm cúi đầu nói nhỏ :

– Tôi có nghe đọc báo cáo. Tôi chỉ tin những gì mắt tôi phải thấy còn không thấy tôi không tin.

Diêm Vương ngó thẳng vào tội phạm nói rõ từng tiếng :

– Tin hay không là việc riêng của nhà ngươi. Định luật của vũ trụ có một chuỗi dài liên tục, mỗi động lực đều đem lại cái phản động lực; động lực và phản động lực không thể chia ly được. Nói cho gọn là nguyên nhân nào cũng tạo ra hậu qủa nấy. Không có một đấng nào hay một quyền lực nào nói rằng : “Ta đã triệt tiêu cái hậu qủa, chỉ còn lại nguyên nhân”. Nếu triệt tiêu được hậu quả tức cái phản động lực, không khác nào nói rằng : “Tôi đụng cái đầu của tôi thật mạnh vô tường; vì tôi đã triệt tiêu  cái phản độnglực thì làm sao cái đầu của tôi có sự sưng, đau, dập, bể”.

Nếu nhà ngươi triệt tiêu được cái phản động lực thì có lẽ ta bị nghỉ việc. Không phải riêng ta mà tất cả những xí nghiệp trên thế gian, trước tiên là hãng máy bay phản lực; vì không có cái phản động lực thì làm sao máy bay phóng tới.

Nhưng ta có một  niềm tin mãnh liệt cái “job” của ta vững bền; vì ta có đọc trong Thánh Kinh đức Jésus nói :

“Nhà ngươi thiếu một quan tiền thì nhà ngươi phải đi ở tù”. Chỉ khi nào đức Jesus nói ta trả thế cho nhà ngươi thì chừng đó ta mới bị mất “job”. Nhưng ta thiết nghĩ một bậc siêu phàm như đức Jesus, Ngài quán thông tất cả đinh luật của vũ trụ thì không bao giờ có cái việc “ta trả thế cho nhà ngươi”, không bao giờ xảy ra như thế cả.

Nghĩa là bất cứ hành động nào cũng có cái hậu qủa tiếp theo sau đó; nó tùy thuộc thời gian đến nhanh hay chậm mà thôi.

Như vậy không có ai được quyền lãnh thế tội cho bất cứ một  người nào. Nếu được lãnh thế tội lỗi cho người khác thì phải triệt tiêu được cái phản động lực  tức thì định luật của vũ trụ bị bẻ gãy tiếp theo là cả vũ trụ này tan tành theo mây khói.

Diêm Vương ngừng nói, nhìn xuống quan sát một vòng. Các quan sổ bộ đang bận rộn vì các thổ địa báo cáo không chính xác ngày tử và có sự trùng tên.

Tội phạm cúi đầu suy nghĩ : không biết Diêm Vương học ở trường nào mà lí luận nghe lạ quá. Chỉ có cái việc, ta triệt tiêu được cái phản lực thì ta không có tội, gọi là trắng án, còn thách đố không có một đấng nào triệt tiêu được cái phản lực. Kẹt quá ! Cố vấn trí khôn của ta đã chết rồi sao không nó thấy ở đây, biết hỏi ý kiến của ai để triệt tiêu cái phản động lực thì ta khỏe ru. Còn Hitler, Tần Thủy Hoàng, tội phạm ngước lên lễ phép hỏi : 

– Thưa Diêm Vương tôi muốn biết Hitler và Tần thủy Hòang ở đâu ?  

Diêm vương sắp xếp lại hồ sơ, thong thả nói :

– Ở đây không giải quyết việc riêng tư, chỉ căn cứ vào luật tự nhiên. Ai vi phạm luật tự nhiên thì có một hệ thống điều hòa trở lại để lập lại sự quân bình. Vì vũ trụ vốn quân bình tuyệt đối, nên bất cứ điều gì làm cho nó xáo trộn thì nó sẽ tạo ra các khí lực để phục hồi sự quân bình.

Dưới con mắt trần tục không hề thấy sức mạnh của tư tưởng, sự tức giận, phẫn uất, uất khí của những người bị đàn áp, bóc lột; những thứ đó đã làm cho các vũ trụ tuyến thay đổi; ảnh hưởng của nó sẽ tạo ra những thiên tai : hạn hán, bão lụt, động đất. Theo luật quân bình thì các bầu tinh tú ảnh hưởng đến con người, ngược lại thì con người cũng ảnh hưởng đến các bầu tinh tú, nên mới có vấn đề thay đổi các vũ trụ tuyến.

 Vì cùng chung “MỘT SỰ SỐNG” nên tất cả vật chất đều tương quan và thu hút lẫn nhau.  Như trong một Nguyên Tử có Âm và Dươmg luôn luôn gắn bó với nhau, cái mà làm cho nó không rời nhau nghĩa là phải kết dính lại với nhau đó là một Mãnh Lực (strong force), còn gọi là một Thần Lực, một Sự Sống; nếu có gom hết con mắt của nhân loại cũng không hề thấy được cái Mãnh Lực đó. Vũ trụ là một môi trường, trong đó Sự Sống luôn luôn biểu hiện, chớ không phải là khoảng không gian trống rỗng vô ích, như cái "suy luận" của người phàm tục. Vũ Trụ TƯƠNG ĐỐI, chỉ là những động lực chi phối ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên không có sự chấm dứt mà chỉ có sự thay đổi, biến thiên, chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác; vừa mất quân bình thì phải có một khí lực lập lại sự quân bình. Bão tố cũng là hình thức lập lại sự quân bình của vũ trụ.

  Mặt trăng và địa cầu là hai vật khổng lồ còn không dám phạm luật tư  nhiên,  nghĩa là vẫn giữ khoảng cách đã qui định. Nếu mặt trăng tiến gần địa cầu thì sinh ra ngập lụt, còn dang ra xa thì hạn hán. Địa cầu là nơi chứa hơn sáu tỉ người, trục của nó vẫn giữ đúng độ nghiêng 23 độ. Nếu không nghiêng 23 độ thì làm sao có thời tiết bốn mùa.

Định luật của vũ trụ định rằng : Một tia sáng xuất phát từ đại thể sẽ trở về nguồn gốc của nó.

Từ đó ta suy ra : bất cứ một động lực nào cũng có cái phản động lực để lập lại sự quân bình. Nói cho có mùi nhang khói , đó chính là định luật Nhân Quả để dạy con người, chớ không phải sự trừng phạt của Đấng Tạo Hóa, như một số người phàm tục đã nghĩ. Đấng Tạo Hóa là bác ái, Ngài thương tất cả sinh vật trong vũ  trụ, trong đó con người là sinh vật cao quí nhất, cũng do Ngài tạo ra gọi là Chơn Thần, rồi cũng trở về với Ngài. Trong Thánh Kinh Do Thái giáo, đức  Jésus  nói : “Các ngươi là những vị Thượng Đế trong tương lai”.

 Cha mẹ thương con vô bờ bến đó là tập con người trải qua nhiều kiếp cũng có tình thương và bác ái như Ngài. Định luật tình thương mạnh nhất trong các  đinh luật của vũ trụ. Người nào chất chứa nhiều tình thương thì đi đến mọi nơi đều cảm hóa muôn loài. Bởi vì, không một mãnh lực hắc ám nào khống chế được mãnh lực tình thương. Mãnh lực tình thương triệt tiêu và hóa giải tất cả mãnh lực xấu xa hắc ám. 

Sau khi bỏ thể xác ở cõi trần, nếu vong linh lúc sinh tiền có được tình thương yêu vạn vật, giúp đỡ muôn loài; nó là vật cao quí nhất, phát ra tia sáng. Thứ ánh sáng này không một mãnh lực tà đạo hắc ám nào dám bén mảng đến.

Nhà ngươi kiểm điểm lại xem : sau khi bỏ thể xác, chức quyền danh vọng, dinh thự, lâu đài, tài sản chìm và nổi rải rác trên địa cầu, hiện tại nhà ngươi mang theo được những gì ?

Tội phạm ngước nhìn Diêm Vương, xòe hai bàn tay.

Diêm Vương mỉm cười, nói nhẹ nhàng :

– Ta hiểu rồi, nhà ngươi trắng tay. Khi chào thế gian bằng tiếng khóc, nhà ngươi tay trắng. Nếu có du lịch qua Châu Phi, những người da đen, dù da của họ thật là đen nhưng lòng bàn tay vẫn trắng. Đó là bài học nhập môn đơn giản nhắc nhở con người đừng có đam mê vật chất mà đã trải qua hàng ngàn kiếp rồi, hể vừa biết mùi đời là bon chen trong biển vật chất, gây tội lỗi chất chồng, tranh giành ngôi thứ, đôi khi còn đảo chánh làm chết hàng vạn người.

Tóm lại tại cõi này nhà ngươi chỉ mang theo tình thương và những hành vi nhân từ bác ái, thương yêu vạn vật và giúp đỡ muôn loài. Nó như một thứ vàng ròng, dầu bị lửa hay bị cái gì chăng nữa nó vẫn không thay đổi mà còn theo nhà ngươi muôn đời muôn kiếp.

Tình thương và bác ái phải thể hiện bằng hành động chớ không phải nổ như trong những bài diễn văn của các ứng cử viên.

“Nghĩ đến cảnh thiên tai động đất, lũ lụt, bão tố và mất job của đồng bào lòng tôi đau như kim châm muối sát, trằn trọc  không ngủ được. Tôi bèn gượng ngồi dậy ăn cháo bào ngư, uống sâm và thuốc trường sanh mới tạm ngủ được”.  

Diêm Vương nhìn chăm chú váo hồ sơ, lướt qua vài trang, ôn tồn nói :

– Nhà ngươi nên nhớ đức khiêm tốn là cao quí nhứt. Người nào có được tánh khiêm tốn thì được mọi người yêu mến. Vậy mà nhà ngươi tự tôn tự đại, ai nhà ngươi cũng cho là chậm tiến, lạc hậu, cần dạy cho bài học. Ai cần nhà ngươi làm cái việc tào lao đó.

Cái này mới đích thực của nhà ngươi mà nhà ngươi không biết. Đó là từ nguồn gốc xa xưa, khi còn dạng Hồn Khóm thuộc loài động vật thì chúng nó hoàn toàn lệ thuộc thiên nhiên, nghĩa là chúng nó sống theo Bản Năng. Nhưng từ khi “con vật” thoát khỏi Hồn Khóm để trở thành Linh Hồn con người thì bắt đầu có Cá Tánh riệng biệt. 

Người ta đã thí nghiệm khi nhốt cùng một loài động vật vào một khung cảnh khắc nghiệt thì phản ứng của chúng đều giống nhau; vì chúng sống theo bản năng, phải lệ thuộc vào thiên nhiên. Nhưng khi nhốt con người, đẩy con người vào một hoàn cảnh “éo le ngang trái” thì phản ứng của mỗi người có sự khác nhau ( người nào có bị tù thì thấy rõ điều này); vì con người có một Ý CHÍ  hoàn toàn tự do. Cái phản ứng khác nhau đó Giáo lý Huyền Môn nói là “tùy theo cá tánh của mỗi người mà có được phẩm hạnh cá nhân. Hay nói cách khác tùy theo sự tiến hóa của LINH HỒN mà có cái phản ứng khác nhau.

Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người một đặc ân : Ý CHÍ TỰ DO. Nghĩa là con người có toàn quyền quyết định số phận của mình và không một đấng thần linh nào có quyền can thiệp,với một điều kiện duy nhất : ĐỪNG CÓ VI PHẠM ĐỊNH LUẬT  CỦA VŨ TRỤ.

 Thí dụ : cảm hứng của một nhạc sĩ sáng tác bản nhạc thuộc về Ý Chí được hoàn toàn tự do, nhưng sự phối hợp của âm thanh hoàn toàn tùy thuộc quy luật của âm nhạc.  Qui luật của âm nhạc cũng giống như định luật của vũ trụ. Nếu nhạc sĩ vi phạm quy luật của âm nhạc, kết quả bản nhạc đó không có “ma” nào hát còn mang tiếng “dốt” về quy luật âm nhạc; giống như con người trần tục vi phạm định luật của vũ trụ, làm xáo trộn sự quân bình của vũ trụ, thì dĩ nhiên phải nhận cái phản động lực để tái lập sự quân bình.

Không phải vong linh nào xuống cõi âm này cũng đều là tội phạm. Chỉ khi nào vi phạm định luật của vũ trụ như nhà ngươi thì mới gọi là tội phạm.

Từ góc phòng đông nam, cô thư ký riêng kiêm chánh văn phòng, khệ nệ mang một bao để lên bàn, cho biết đó là cáo trạng bổ túc hồ sơ.

Tội phạm đưa tay chùi mồ hôi chảy dài xuống mí mắt, lầm bầm nho nhỏ. 

“Ở đâu mà gởi tới nhiều quá vậy”, cúi đầu suy nghĩ :

“Không biết Diêm Vương kiếm ở đâu ra cái lí luận này, cứ lập đi, lập lại luật tự nhiên còn gọi là định luật của vũ trụ. Ta đã đi thăm viếng tất cả đại học, các đại học này vẫn thường tự hào là kiến thức loài người nằm ở trong đó mà sao không nghe nói đến vấn đề này. Các cơ quan không gian đã đi tìm khắp nơi trong vũ trụ, đến khi trở về cũng không nói gì ngoài ba cái chuyên môn của họ”.

Diêm Vương sửa lại hồ sơ cho có thư tự, chậm rãi nói :

– Từ ngày ta được Đấng Tạo Hóa trang bị cái máy đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu, rất tối tân, hoàn toàn tự động, thì ta ra lệnh  hủy bỏ tất cả hợp đồng : cung cấp quỉ sứ, chảo nấu dầu và dụng cụ tra tấn. Tất cả phải di chuyển gấp khỏi nơi này. Bây giờ công việc của ta nhàn hạ thoải mái. Ta chỉ cần gom tất cả hồ sơ của nhà ngươi : đã có những hành động, tình cảm và tư tưởng lúc còn sinh tiền. Rồi ta đưa tất cả vào máy, thì máy tự động chạy giống như nhà ngươi  sử dụng máy đếm tiền.

Cái máy này có tốc độ rất nhanh để đúng với sự vận hành của vũ tru.

Căn cứ vào hồ sơ của nhà ngươi có những hành động, tình cảm và tư tưởng như thế nào thì nó tự động có được tần số rung động. Nếu khi còn sống, nhà ngươi có những việc làm như nhân từ bác ái thì  nó rút toàn khí thanh nhẹ tạo ra sự rung động nhanh. Theo luật đồng khí tương cầu, nó tự động đưa vút nhà ngươi lên cảnh thanh bai tươi sáng, ai muốn đặt tên gì cũng được như thiên đàng cực lạc. Vì ta thấy tất cả là những người lòng dạ nhân từ, làm làmh lánh dữ, sống theo đạo lý, ta gọi cảnh của người hiền lương.

B. Sự cầu siêu, vấn đề siêu thoát :

Diêm Vương trầm ngâm hồi lâu, ngài ngó thẳng vào tội phạm : 

– Nhà ngươi nên bình tĩnh lắng nghe, có lẽ khi còn quyền cao chức trọng, ăn trên ngồi trước, nhà ngươi cũng ham muốn khi chết rồi, thân nhân sẽ nhờ người ta đọc vài câu kinh, lễ nhạc, cầu siêu, cầu nguyện để đưa nhà ngươi vọt lên thiên đàng. Giống như mua vé máy bay, khi bỏ thể xác bèn lấy vé lên thiên đàng.

Nhà ngươi LẦM TO RỒI ! Các hình thức lễ nhạc, tế lễ, siêu độ, kinh cầu nguyện chỉ là những hình thức an ủi, vỗ về, làm cho vong linh mau thức tỉnh để từ bỏ vật chất, hướng lên điều cao thượng. Những âm thanh nĩ non thanh thoát, nó làm cho êm dịu và điều hòa thể vía. Khi vừa bỏ thể xác, vong linh mất bình tĩnh làm xáo trộn thể vía; bất cứ sự vui, buồn, giận hờn, hốt hoảng, đều làm thể vía bị rối lọan. Vì thể vía là trung tâm tình cảm và cảm giác, vừa bỏ thể xác, vong linh "sống" bằng thể vía. Vong linh ở lẩn quẩn bên cạnh tử thi và nhìn thấy tất cả người thân đang than khóc. Chính sự than khóc thảm thiết của thân nhân làm cho vong linh muôn vàn đau khổ. Trong sách bí truyền “Tử Thư” có dạy rằng : Thân nhân không nên than khóc, mà hãy cố gắng giữ bình tĩnh trong tâm hồn và cầu nguyện cho người thân : “hãy từ bỏ những nhỏ nhoi thấp hèn của cõi trần gian để hướng lên những gì cao thượng”.

Định luật huyền âm qui định : Tất cả âm thanh từ cõi hữu hình đều làm thức động cõi vô hình với một mật độ tương đương.  

Những câu thần chú, cầu nguyện, cầu siêu “nhạc lễ đám ma” cũng áp dụng nguyên tắc đó. Nếu thân nhân đừng than khóc thì vong linh được tỉnh táo, chỉ thành tâm cầu nguyện  điều tốt đẹp cao thượng, những hình thức đó là một thứ êm dịu như nghe một bản tình ca. 

Khi xác thân không còn sử dụng được nữa thì các thể : phách, vía, và hạ trí cấu tạo ra Người Giả, cần phải được giải phóng ra khỏi tử thi. 

Tất cả sự cầu siêu, lễ nhạc, kinh cầu nguyện, với âm thanh êm dịu thanh thoát cùng với những tư tưởng thanh khiết, cao thượng của người cầu nguyện; những hình thức đó giúp vong linh mau thức tỉnh để chấp nhận sự ra đi còn gọi là siêu thoát. Siêu thoát có nghĩa là vong linh đã ý thức được sự việc phải ra đi, không còn quyến luyến say mê bất cứ một hình thức vật chất nào.

Có một số  vong linh  không muốn ra đi, vẫn còn mê say cái của mà đã tốn nhiều mồ  hôi nước mắt, hoặc quá đam mê vật chất chỉ có biết vật chất là trên hết; những vong linh này vô cùng khổ sở, vì chết không ra chết mà sống cũng không ra sống.

Luật thiên nhiên qui định “sau khi bỏ thể xác, vong linh sống bằng thể vía thì chỉ có sống tại âm cảnh mà thôi”.  Thể xác chỉ sống ở cõi Hồng trần, linh hồn sống trong thể vía gọi là vong linh chỉ sống tại cõi Trung giới . 

Vì con người có 7 thể khác nhau, vũ trụ cũng  có 7 cõi  giới khác nhau, theo luật đồng khí tương cầu thì “MỖI THỂ CHỈ HÒA HỢP ĐƯỢC MỘT CÕI GIỚI”. Nghĩa là thể xác được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần (cõi giới có ba chiều đo) cho nên chỉ sống bằng vật chất hồng trần. Khi bỏ thể xác vong linh sống trong thể vía được cấu tao bằng nguyên tử thanh khí, vong linh chỉ “sống” tại cõi Âm là cõi Trung giới (có bốn chiều đo) mà thôi. Cũng chính vì VONG LINH không chấp nhận cái cảnh mà luật thiên nhiên qui định phải đến, mà “cố ở lại” cho nên đã vi phạm luật thiên nhiên. Giáo lý Huyền Môn cho biết : Tất cả sự đau khổ của con người là do vi phạm luật thiên nhiên.

Diêm vương đổi giọng buồn bã bi ai như than thở trong bóng đêm : 

– Có bao giờ cái chòi tranh mà có ma ? Ma là vong linh của người chết, không chấp nhận việc mình đã chết. Chỉ có lầu đài sang trọng là có ma; vì chủ của nó còn ham mê quyến luyến cảnh cũ người xưa và  say mê vật chất nên không đành bỏ đi, cứ sống “bằng bóng ma” vất vơ vất vưỡng trong tòa lâu đài. Xin lập lại vì vô cùng quan trọng : “Vong linh cố bám vào cảnh cũ người xưa, do đó vong linh bị ở trong tình trạng sống không ra sống mà chết cũng không ra chết nên vong linh vô cùng khổ sở”.

Thiên đàng hay địa ngục chỉ do  kết quả tất yếu của của mấy chục năm sống tại cõi trần, chớ không phải vài chục phút đọc kinh cầu nguyện, lễ nhạc, cầu siêu là có đủ sức lực đẩy vong linh vọt lên cảnh thanh bai tươi sáng.

Những mãnh lực trọng trược, hắc ám, xấu xa nó quyện chặt vào vong linh thì không thể vài chục phút đọc kinh cầu nguyện mà biến thành thanh nhẹ. Luật thiên nhiên cái gì cũng phải từ từ; chẳng hạn như loài thực vật, phải có nụ rồi đâm bông thì mới đậu trái. Cũng như người ngu xuẩn thì không thể dạy khôn vài giờ rồi trở thành nhà bác học.

Bản chất của nhà ngươi là thích danh vọng, chức quyền và tất cả vật chất phải thõa mãn cho thể xác. Do đó thuở còn sinh tiền, nhà ngươi cũng muốn khi bỏ thể xác thì sẽ được lên cảnh tươi vui, sáng lạng mà nhà ngươi chưa từng thấy, chỉ có nghe nói  là “không bút mực nào tả xiết”.           

Nhà ngươi nặng mùi trần tục, bị dục vọng sai khiến, đó là chuyện bình thường của đa số mọi người.

Nhưng cũng có những người không còn sự vọng động của mùi danh bả lợi. Họ từ bỏ tất cả ham muốn của cải thế gian mà chỉ còn sót lại một cái ham muốn duy nhất, đó là sự ham muốn được lên thiên đàng. Đôi khi họ gọi là sự giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. 

Họ ngoảnh mặt làm ngơ trước sự đau khổ của mọi người. Họ tham thiền định trí ngày đêm để triệt tiêu những cái dục lỗm dỗm của vật chất mà chỉ còn sót lại một cái dục là cầu mong được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, lên thiên  đàng hoặc một cõi trời có trăm hoa đua nở, nó ở trong cái dục vọng và cái trí phàm tục của họ.

Họ quên rằng, mục đích của tham thiền là huấn luyện cái hạ trí, chớ không phải được giải thoát sinh tử luân hồi, để biến thành đấng nầy đấng nọ, cái đó chỉ có trong trí tưởng tượng của người còn vô minh.

Vì bản chất của hạ trí là lao chao lóc chóc, vừa buông cái này thì bắt cái kia, nó như con ngựa không cương chạy nhẩy lung tung, rất khó kềm chế. Muốn làm chủ được thể hạ trí phải tham thiền định trí và tập luyện thường xuyên.

Sau khi họ nhắm mắt xuôi tay, thể xác chôn sâu vào lòng đất lạnh thì thể vía  cũng lên một cảnh theo cái dục vọng của họ.

Đức bà Anne Besant nói :

“Người nào nhắm vào những điều phàm tục, đặt đời sống của mình vào mục đích phàm tục thì tất nhiên bị dục vọng lôi cuốn trói buộc. Mỗi dục vọng đều trói buộc linh hồn và quyến rũ linh hồn để đưa nó đến tận nơi mà nó có thể thỏa mãn được”.

Đấng Tạo Hóa ban cho con người một Ý CHÍ hoàn toàn TỰ DO.

Với một ý chí tự do mà được chĩa mũi dùi vào cái dục vong lên thiên đàng hay giải thoát khỏi sinh tử luân hồi; nó đẩy y lên một cảnh “không giống ai”, đó là thiên đàng gỉa tạm hay một sự giải thoát giả do cái tâm thức vô minh của y tao ra. Nơi đây y có thể sống nghêu ngao nhiều thế kỷ trong khi những người bạn cùng thế hệ của y, họ đã lên xuống thế gian nhiều kiếp để học hỏi theo cơ tiến hóa của vũ trụ; vì thế gian là trường học của “CON TRỜI”. Cho đến khi nào y thức tỉnh và tự biết rằng mình đã lầm đường .

Nhà ngươi thấy chưa ! Chọn con đương đi tu đôi  khi vẫn lầm đường lạc lối. Y đã phạm vào một lỗi nghiêm trọng là “chỉ lo cho mình tức là người đó còn tánh ích kỷ”. Tánh ích kỷ là một trở ngại rất lớn trên bước đường tu tập bản thân. Y lầm đường vì y còn mong muốn cho mình có được cái này cái nọ, cái đó cũng là một hình thức của dục vọng. Y tự cho là đã “giác ngộ”. Y không biết và không ngờ rằng y chỉ có “hội ngộ” được vô minh mà thôi.

C. Cảnh bị dục vọng hành hạ người phàm gọi là địa ngục :

Diêm Vương ngừng nói  ra dấu hiệu cho chuyên viên ánh sáng chỉnh lại cái đèn 7 màu cho sáng rự rỡ, Ngài nói tiếp :

– Con số 7 là con số tạo lập vũ trụ, có 7 âm thanh, 7 thứ rung động 7 màu  sắc. Cõi trung giới có 7 cảnh, theo thứ tự : từ cảnh thứ nhất  có nguyên tử rung động cực nhanh, thanh nhẹ tươi sáng, xuống từ từ đến cảnh thứ bảy trọng trược nhất, có nguyên tử rung động chậm, xấu xa, hắc ám, nặng nề. Nhà ngươi muốn đặt tên gì cũng được như địa ngục, lửa luyện tội. Nhưng ta thấy toàn những vong linh có lòng dạ xấu xa, ích kỷ hại nhân, oán thù chém giết, tán tận lương tâm, có quá nhiều dục vọng hắc ám, đam mê nhục dục thấp hèn, ta gọi là cảnh của những vong linh bị dục vọng hành hạ.

Những dục vọng và tư tưởng mà nhà ngươi đã tạo ra hồi còn sinh tiền, chúng nó là một sinh vật hoạt động rất rõ ràng. Do đó chúng nó vây quanh và tác động vào nhà ngươi, cho tới khi nào tan rã cái năng lực mà nhà ngươi đã trút cho chúng. Cũng tùy theo những hành động, tình cảm và tư tưởng lúc sinh tiền, nó tạo ra sự rung động trong tâm thức của nhà ngươi. Chính  sự rung động của nguyên tử tâm thức, nó tự động thu hút nhà ngươi đến MỘT trong BẢY cảnh theo định luật đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu.

Nói một cách cụ thể, tất cả các hành động, tình cảm và tư tưởng của nhà ngươi được ghi chép, lưu trữ trong hồ sơ rồi đưa vào máy thì máy báo cho biết “chất khí” của hồ sơ có sự rung động nhanh hay chậm để tự động hòa nhập MỘT trong BẢY cảnh theo luật đồng khí tương cầu. Vì sự tạo lập vũ trụ phải có sự rung động; do đó giải quyết  tất cả vấn đề trong vũ trụ phải thông qua sự rung động. 

Diêm Vương ngừng nói đưa mắt đảo quanh một vòng, rút hồ sơ thể xác có ghi chép những hành động, hồ sơ thể vía hiện lên tình cảm và tánh tình, hồ sơ thể hạ trí vọt ra những hình tư tưởng.

 Tội phạm cúi đầu suy nghĩ : “Lại một vấn đề nữa, hết luật tự nhiên rồi đến sự rung động còn nói sự tạo lập vũ trụ này chỉ là sự rung động. Cho nên giải quyết tất cả vấn đề trong vũ trụ phải thông qua sự rung động. Cái sự rung động này đâu có dính dấp gì với ta mà cũng gài vô, còn nói là đã cài đặt trong ta hết rồi. Sự rung động nằm trong tâm thức của ta mà chính ta đã có những hành động, tình cảm và tư tưởng cho nên mới tạo ra sự rung động đó. 

Tùy theo tâm thức thanh hay trược để có sự rung động nhanh hay chậm của nguyên tử tâm thức rồi nó tự động thu hút vong linh đến  MỘT trong BẢY cảnh theo luật đồng khí tương cầu.

Nói cái gì ta chẳng hiểu gì cả còn hơn vu khống”.

  “Tại sao cố vấn trí khôn của ta, nó tự hào là hiểu biết tất cả lãnh vực : chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự mà sao vấn đề này nó chưa lần nào nói với ta. Phải chi nó biết được sự rung động của nguyên tử tâm thức, tường trình cho ta biết và thấu hiểu, để ta tránh  thì đỡ biết chừng nào !”.   

“Có lần trong cơn say, chập chờn hư ảo, ta bèn dựa sát vào nó.Ta nửa tỉnh, nửa mê, lè nhè, cái đầu cà gục cà gặt, nói bằng cái giọng như bài ca có quá nhiều dấu lặng :

– Cố vấn trí khôn ơi ! Nàng có biết gì về cõi giới vô hình ?

Nó đẩy từ từ ta qua một bên, sửa tư thế ngồi cho nghiêm chỉnh, liếc mắt nhìn ta rồi mỉm cười. Nó nói nhẹ nhàng  như sương lướt trên sóng, rằng nó “chỉ biết những gì phải thấy bằng mắt”. Ta mơ màng lắng nghe rồi cũng như không, vì ta cũng có mắt, vậy mà cũng bày đặt trả lời.

 Tội phạm đảo mắt nhìn cô thư ký đang vén mái tóc làm duyên, y tự hỏi sao giống tòa án ở dương gian, thư ký cũng là nữ và lúc nào trang phục cũng làm động lòng “quan trên”, chỉ có khác là sử dụng từ ngữ sao nghe lạ quá.

D. Tâm thức :

– Thưa Diêm Vương, tôi muốn hiểu nghĩa : Sự rung động của nguyên tử TÂM THỨC,  làm sao tôi biết được cái đó là tâm thức, nó ở đâu và sự hoạt động như thế nào ?

Diêm Vương rất hài lòng với một người chịu học hỏi, Ngài mỉm cười thân mật :

– Nhà ngươi nên biết không có Thiên Thần hay Ác Qui nào mà đưa rước vong linh trong Thiên Cơ của Đấng Tạo Hóa, chỉ do cái chu kỳ rung động của Tâm Thức vong linh rồi nó tự động thu hút vong linh về cõi ấy theo định luật “đồng khí tương cầu”.

Nếu thuở sinh tiền, mấy chục năm sống taị cõi trần, vong linh có đời sống cao thượng, thi ân bố đức, làm lành lánh dữ, từ bi bác ái thì TÂM THỨC có được những chất khí thanh nhẹ rung động nhanh, tần số cao. Do đó, theo luật "đồng khí tương cầu" thì nó tự động thu hút vong linh lên cảnh thanh bai, tươi sáng, người phàm gọi là Thiên Đàng. 

Nếu mấy chục năm sống tại cõi trần vong linh có tâm địa xấu xa, hắc ám, ích kỷ hại nhân thì Tâm Thức có toàn là chất khí nặng, rung động chậm, tần số thấp. Cho nên nó tự động thu hút vong linh xuống cảnh u tối nặng nề xấu xa có những hình tư tưởng như : Nửa người, nửa thú, oán thù, chém giết, cụt tay, cụt chân, mất đầu; những người không hiểu biết về hình tư tưởng ở cõi Âm gọi là Địa Ngục.

 Vì cõi Âm là cõi tư tưởng (có bốn chiều đo), cho nên vong linh nghĩ cái gì thì có ngay một hình tư tưởng của cái đó.Vì Tâm Thức bị ô trược nên không tiếp nhận được phần thanh cao, giống như người gian ác thì làm sao họ có lòng nhân; do đó chỉ có hình tư tưởng xấu xa mà thôi. Ngoài ra còn có thêm hình tư tưởng lúc sinh tiền, nó rượt bám theo vong linh và những hình tư tưởng xấu xa của những vong linh khác. 

Nó giống như : Khi ta sống trong một mội trường có hương thơm thì ta thưởng thưc mùi thơm còn ngược lại trong một môi trường toàn là mùi hôi thúi thì ta phải nhận cái mùi  đó mà thôi.

Chính trong cuộc sống hàng ngày, mấy chục năm bon chen trong “biển trầm luân” của vật chất trần gian, con người đã tự tạo cho mình cái tần số rung động của Tâm Thức mà ai nào hay biết.

– Tất cả tinh hoa của Ý Niệm được đem gạn lọc thì có được TRÍ KHÔN.

– Tất cả tinh hoa của Kiến Thức được đem gạn lọc thì có được sự Hiểu Biết.

– Tất cả Kinh nghiệm được đem lên cõi Thượng Thiên gạn lọc thì có đươc sự Minh Triết.

 Minh Triết là tinh hoa gạn lọc từ toàn thể, là cái khôn ngoan rõ rệt mà Linh Hồn đã gặt hái được trong tất cả các kiếp sống.

TÂM THỨC  là cái ý thức của sự việc xảy ra ngay trong thời điểm ấy, đó là ý nghĩa phổ thông.

 Giáo Lý Huyền Môn giải nghĩa Tâm Thức như sau :

* TÂM THỨC là một điểm nhỏ của LINH HỒN, nó di chuyển trong trung tâm của các thể : thể xác, thể vía và thể trí, nó là một “vận cụ” của linh hồn. Do đó khi TÂM THỨC trụ trong trung tâm của thể nào thì cái "HIỂU BIẾT" của nó là thuộc về cái hiểu biết của thể ấy.

Tâm thức vốn đơn nhất, khi nó biểu lộ ra ngoài dường như là vô số. Sự thật TÂM THỨC không mất bản tính đơn nhất của nó mà nó chỉ biểu lộ ra dưới những hình thức khác nhau. Nói theo nhà nho là “nhất bổn tám vạn thù”. Biểu lộ của sự sống luôn luôn bị những hình thức của nó hạn chế; bởi vì tùy theo tâm thức hoạt động trong thể trí, trong thể vía hay trong thể xác. Cũng chính vì tâm thức trong những thể khác nhau mà tạo ra cái bản ngã của mỗi người có những đặc tính khác nhau. Cái “bản ngã hiểu biết” giống như một “vận cụ” mà tâm thức làm cho LINH HOẠT trong lúc ấy. Tâm thức bị thu hút vào một trung tâm nhất định và cũng chính cái trung tâm này thu nhận và cũng tống ra.

Tội phạm châu mày, cố gắng tập trung tư tưởng, nhưng cũng không hiểu , bèn lễ phép :

– Thưa Diêm Vương nói cho cụ thể hơn.

Diêm Vương trầm ngâm một hồi rồi tiếp :

–  Ta thí dụ về dòng điện cho dễ hiểu : 

• Nếu DÒNG ĐIỆN chạy qua bạch kim tạo ra Ánh Sáng.

• Nếu DÒNG ĐIỆN chạy qua dây sắt tạo ra Hơi Nóng.

• Nếu DÒNG ĐIỆN chạy qua chung quanh một thanh sắt mỏng tạo ra Từ Lực .

• Nếu DÒNG ĐIỆN chạy qua dung dịch đặc biệt tạo ra một Mãnh Lực có thể phân tích và tổng hợp lại.

• TÂM THỨC cũng giống như dòng điện nêu trên.

 * Khi TÂM THỨC hoạt động trong thể Vía, nó sẽ là bản ngã của giác quan, ưa ghét, buồn vui, giận hờn, ham muốn.

* Khi TÂM THỨC hoạt động trong thể Trí, nó sẽ là bản ngã của trí tuệ, suy tư, quan niệm cụ thể hay trừu tượng.

* Khi TÂM THỨC hoạt động trong ẢO ẢNH, nó bị vật chất bao bọc, do đó nó bị đồng hóa với nhu cầu khẩn thiết của những giác quan hay sự suy luận của trí tuệ, nó bèn “la lên” tôi muốn, tôi tưởng.

Những cảm giác và những tư tưởng là những hoạt động tạm thời trong những thể : xác, vía và trí bao bọc tâm thức. Tâm thức làm ra trung tâm điểm tạm thời cho “đời sống của nó” trong thể này hay thể kia.

Hay nói cách khác khi tâm thức họat động trong thể xác thì nó chỉ biết có thể xác, nên nó cho sự sống ở cõi trung giới hay âm cảnh là ảo ảnh. Khi tâm thức hoạt động trong thể Vía, tức sự sống của vong linh thì nó thương xót đời sống ảo ảnh cõi trần gian. Khi tâm thưc hoạt động tại cõi Thương Giới trong thể Trí thì nó nhận thức ra tính cách hư ảo của cõi trung giới và hồng trần.

Tâm thức bị những va chạm của ngoại giới hấp dẫn làm cho nó hoạt động.

 Khi tâm thức họat động trong thể nào thì nó tự đồng hóa với thể ấy. Cũng chính vì TÂM THỨC thường đi lại trong các trung tâm của ba thể : xác, vía và trí; khi linh hồn chưa tiến hóa thì tâm thức bị đồng hóa với ba thể ấy; nhưng khi linh hồn tiến hóa thì tâm thức phát hiện ra ba thể đó chỉ là thứ “vật chất đi xuống”. Bây giờ tâm thức muốn vươn lên, nghĩa là nó muốn tách rời bản ngã thấp hèn, nó nhìn ba thể: xác, vía và trí như là một dụng cụ cho nó sử dụng chớ không còn đồng hóa với nó nữa. 

Nói cách khác, ba thể của NGƯỜI GIẢ : Xác, Vía và Trí KHÔNG PHẢI THẬT LÀ NÓ, chính lúc đó TÂM THỨC mới tìm được sự YÊN TỊNH. Vì Tâm Thức tự biết rằng : nó là sự SỐNG chớ không phải là HÌNH DẠNG, Nó là CHI PHÚC chớ không phái là DỤC VỌNG, nó là MINH TRIẾT chớ không phải là TƯ TƯỞNG.

 Khi linh hồn tiến hóa, nghe được tiếng nói của Thiêng Liêng, thì có sự hợp nhất giữa Người Giả và Người Thật tức linh hồn, còn gọi là Phàm Nhơn liên lạc được Chơn Nhơn (hạ trí liên lạc với thượng trí). Linh Hồn trường sanh bất tử và ba cái thể của nó cũng trường sanh bất tử là : Thượng Trí, Kim Thân và Tiên Thể.

Khi TÂM THỨC hoạt động trong thể Thượng Trí, chất khí của cõi Thượng Thiên, nó nhìn mọi sinh vật đều có sự sống của Thiêng Liêng ở trong đó; tất cả xuất phát từ một nguồn gốc, thế gian gọi là tình Huynh Đệ đại đồng, tất cả đều là con của Đấng Tạo Hóa. Có bao giờ ta cầm dao mà cắt thịt mình. Khi nó nhìn người khác như chính nó “trông người mà ngẫm đến ta”, nếu Tâm Thức nhân loại đạt được như vậy thì khó mà tìm ra cái cảnh người giết người vì quyền lợi, vì miếng ăn.

Khi TÂM THỨC hoạt động trong thể Kim Thân, chất khí của cõi Bồ Đề, nó không còn sự cách biệt giữa ta và người mà có sự hợp nhất, Tâm Thức Duy Nhất, nhưng cái ý niệm cá nhân vẫn không mất. Đó là cái tâm thức thể hiện qua hành động Bác Ái,( đức bác ái phải thể hiện qua hành động, vì cõi Hồng Trần là cõi hoạt động, nếu chỉ nói suông thì không phải là đức bác ái) thương yêu vạn vật, giúp đỡ muôn loài, Từ Bi phổ độ chúng sanh bằng những hành động vì mọi người.

Khi TÂM THỨC hoạt động trong Tiên thể, chất khí cõi Niết Bàn, đó là Tâm Thức Thượng Đế ở trong tôi. Tâm thức này chỉ có linh hồn đã được Điểm Đạo, vào hàng Thánh Nhơn.

Đức C.W. Leadbeater nói :

“Tất cả cõi giới này tuy rất xa xăm nhưng cũng rất gần, và luôn luôn lúc nào cũng ở trong người chúng ta nếu chúng ta có thể nhìn thấy nó; bởi vì muốn đạt đến những cõi đó, chúng ta không cần phải đi đế chốn xa xôi trong không gian, CHỈ CẦN KHAI MỞ TÂM THỨC của ta để đón nhận sự huy hoàng của nó”. 

Khi xưa Đức Phật nói “Người chớ than khóc, cầu khẩn, mà hãy mở mắt ra để nhìn thấy, vì ánh sáng vốn ở chung quanh các người, một ánh sáng huyền diệu thay, tốt đẹp thay, đẹp hơn tất cả những gì mà con người đã từng mơ ước, cầu xin, và nó là thứ ánh sáng trường cửu và bất diệt”. Đức Di Lạc nói : “Thượng Đế là Ánh Sáng vậy mà các ngươi cứ lầm lũi đi trong bòng tối rồi nói đời hắc ám”.

Nói tóm lại khi tâm thức đồng hóa với những hình thể, hình như nó là hằng hà sa số, còn khi nó đồng hóa với SỰ SỐNG ( Đấng Tạo Hóa ) nó trở thành ĐƠN NHẤT. Vì Đấng Tạo Hóa là Sự Sống, là Yên Tịnh, người nào lắng nghe đươc sự yên tịnh là cảm nhận được Đấng Tạo Hóa trong tâm mình. 

Tội phạm lắng nghe có vẻ say mê mà không biết có hiểu gì không vì kiến thức HUYỀN MÔN thuộc về ẨN GIÁO,( muốn hiểu biết kiến thức này, ta phải đặt tâm thức lên chiều đo thứ tư, trong khi tâm thức cõi trần chỉ biết chiều đo thứ ba ) Do đó kiến thức này không hề có trong các trường Đại Học, Chùa và Nhà Thờ, hoặc các tu viện, vì các tu viện chỉ giảng dạy cho các tu sĩ phần Hiện Giáo (kiến thức chiều đo thứ ba) là kiến thức phổ thông trong quảng đại quần chúng.         

Diêm Vương mở từng hộc theo thứ tự rồi đưa ba hồ sơ : thể xác, thể vía và thể hạ trí nằm gọn trong máy rồi kiểm tra hệ thống điện và các đèn vàng xanh đỏ là ký hiệu của thể xác, thể vía và thể hạ trí hiện ra đầy đủ . Diêm vương đưa mắt đảo quanh một vòng, liếc nhìn tội phạm, thong thả nói :

– Từ ngày ta có cái máy này thì quan luận tội không còn việc làm. Khi hồ sơ đưa đầy đủ vào máy, ta nhấn nút start cho máy chạy đúng với với tần số rung động của hồ sơ thì máy tự động phát ra âm thanh, lời lẽ rõ ràng, từng chi tiết về việc làm tốt hay xấu của nhà ngươi lúc sinh tiền. Lời lẽ đó giúp nhà ngươi hiểu rõ việc làm sai trái tốt xấu như thế nào để nhà ngươi rút kinh nghiệm.

Tóm lại, nó như bài giảng đạo đức nhập môn để nhà ngươi thức tỉnh lần hồi tu tâm sửa tánh.

Khi máy đọc xong, hàng chữ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu hiện ra rõ ràng, một tia chớp cực nhanh giống như máy báo động. Ngay sau đó một mãnh lực vô hình cuốn hút nhà ngươi đến cái cảnh đúng theo sự rung động tâm thức của nhà ngươi để hòa nhập vào cảnh ấy theo luật đồng khí tương cầu .

Trước khi nhấn nút start ta chúc nhà ngươi có đủ nghị lực để vượt qua cảnh ngộ.

Ta bảo đảm, không có hung thần hay ác quỉ nào hành hạ, tra tấn nhà ngươi. Nguồn gốc là do những hành động, tư tưởng, tình cảm và dục vọng của nhà ngươi lúc sinh tiền đã tạo ra cảnh tượng của sự sống nhà ngươi tại  âm cảnh.

Chính cái dục vọng đã tạo ra một tinh linh nhân tạo, nó bám vào và quyện chặt vong linh. Trong quyển Giáo Lý Nhiệm Mầu, Đức bà H.P.Blavatsky nói :

“Cái gì vật chất nhất trong con người, cái gì cột chặt con người vào vật chất, chẳng phải là những nguyên tử hồng trần và xác thịt mà chính là thể Vía là thể môi giới mới thật là trung tâm thú tánh của con người. Đến khi con người lâm chung tưc là lúc cái nhà ấy tan rã thì "con thú" vẫn còn sống”.                            

Nhà ngươi thấy chưa, chính con thú dục vọng, nó hành hạ nhà ngươi . Mà dục vọng của ai? Của chính nhà ngươi . Như vậy tự “Con người làm tội cho mình chớ không hề có quỉ  sứ hay hung thần nào làm hết”.

Nói đến đây ta chợt nhớ, cô mặc cái váy thật ngắn màu đỏ, áo sát nách màu xanh mây trời 2pm mùa hạ, mang đôi giầy cao gót và có bàn tay búp măng đó là cô thư ký riêng kiêm chánh văn phòng của ta, cô ấy đã để trên bàn một bao gọi là bổ túc hồ sơ. Cái bao này khi ta mở thì vọt ra những hình tư tưởng và những tinh linh nhân tạo của nhà ngươi và của những người mà nhà ngươi gây cho họ đau khổ và oán hận.

Những tinh linh nhân tạo và mãnh lực dục vọng, chúng nó bám vào nhà ngươi như con trăn quấn vào người hay ma da siết cổ. Tất cả do nhà ngươi tạo ra bây giờ phải nhận trở lại;  nó giống như cái phản động lực, nhà ngươi phải hứng trọn vẹn vào mình. Không một người nào có quyền điều chỉnh cái phản động lực hay triệt tiêu nó. Chính những hình tư tưởng oán thù, chém giết, nợ máu phải trả máu, xấu xa bỉ ổi, hắc ám, tà tâm; người không có kiến thức về cõi Âm, cho là Địa Ngục.

E. Tri thức sau khi bỏ thể xác : 

Diêm Vương ra dấu hiệu cho cô thư ký đi thật chậm một vòng trước mặt tội phạm rồi trở về văn phòng riêng.

Diêm vương sửa lại tư thế ngồi cho có vẻ bình dân, đưa tay chậm rãi vuốt  mái tốc, liếc nhìn tội phạm, Ngài chúm chím cười :

– Nhà ngươi nên nhớ, cõi âm là cõi tư tưởng, cho nên bất cứ sự suy nghĩ cái gì là hiện ra hình tư tưởng của cái đó. Cõi này, tất cả sự trao đổi ý kiến chỉ bằng tư tưởng, nếu một người có tư tưởng được phóng ra thì người đối diện hiểu ngay.

Có phải nhà ngươi vừa nhìn cô thư ký mặc cái váy thật ngắn, áo sát nách và mang đôi giầy cao gót rồi nhà ngươi động lòng ham muốn phải không ? 

Tội phạm “hơi quê” đỏ mặt cúi đầu nói nhỏ

– Dạ phải.

Diêm Vương cất giọng ôn tồn :

– Nhà ngươi nên biết, sự chết chỉ bỏ lại thế gian cái thể xác;  nhưng tánh tình, duc vọng, kiến thức của nhà ngươi không thay đổi gì hết : vẫn chứng nào tật nấy, không thêm mà cũng không bớt. 

Sự chết chỉ bỏ lại thế gian cái thể xác, nhưng phần Tâm Linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Tất cả những đức hạnh, tánh tình : Cao thượng hay hèn hạ, thương yêu hay thù hận, nhân từ hay hung ác, vị tha hay ích kỷ, và những năng khiếu, kiến thức,  âm nhạc, khoa học, thần học, triết học kể cả trí khôn cũng vẫn y nguyên. Giống như nhà ngươi đi du lịch từ Việt Nam qua Mỹ; chẳng lẽ chỉ có lên và xuống máy bay mà từ ngu trở thành khôn hoặc khôn biến thành ngu.

Bản tánh của con người, nó đã có từ hàng trăm kiêp trước và mỗi kiếp nó chỉ có tập được một vài đức tánh. Đôi khi nó cũng chẳng học được tánh tốt nào mà chỉ sa vào “lục dục thất tình”, nó đẩy nhà ngươi vào mê hồn trận vô phương thoát khỏi; thì không thể một người tham sân si chất chứa đầy mình, khi vừa bỏ thể xác lại biến thành đấng nầy đấng nọ. Sỡ dĩ có người thanh kẻ trược, người thánh kẻ phàm, người khôn kẻ dại là do đặc tánh khác nhau của mỗi thể. Vì lẽ đó, mỗi người có tâm tánh khác nhau và hành động “không ai giống ai”. Không bao giờ, một vong linh có tâm thức ô trược, xấu xa, hắc ám mà vọt lên một cảnh thanh bai tế nhị tươi sáng. Hay ngược lại, một vong linh  có tâm thức nhân từ bác ái, thương yêu vạn vật, giúp đỡ muôn loài mà bị đẩy xuống cảnh nặng nề hắc ám.

Từ cõi trần “rơi xuống” âm cảnh chỉ là sự chuyển tâm thức, có sự thay đổi tâm thức chớ không có gì là huyền bí,  nghĩa là chỉ có thay đổi “cách sống” từ cõi hữu hình sang cõi vô hình. Chỉ vô hình đối với con mắt trần tục. Vì “con mắt” được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần, cho nên chỉ thấy được vật chất hồng trần mà thôi. Định luật của vũ trụ cho biết “Mỗi cõi giới có chiều đo riệng biệt, và sự rung động của nguyên tử mỗi cõi giới khác nhau”.

Sự chết giống như cởi bỏ cái áo mục nát để thay vào cái áo mới có tên là thể vía còn gọi là âm hồn, cô hồn, vong linh. Vì linh hồn trường sanh bất tử và tương lai của nó huy hoàng không có giới hạn. Do đó sự chết chỉ bỏ lại thế gian cái thể xác đã “lão hóa”, linh hồn thấy rằng “cái  dụng cụ này không còn hữu ích nữa, nó bèn bỏ ra đi”, nói ra nghe đau lòng, giống như: hết xôi rồi việc.

Nói cách khác, sự chết là một giai đoạn cần thiết trong cái trường sanh bất tử của linh hồn. Thời gian trong cõi vô hình, linh hồn duyệt xét lại những việc làm để rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho việc “giáng phàm” được mang nhãn hiệu “con trời đi học”.

Như đã xảy ra khi nhà ngươi lìa bỏ thể xác thì thể vía lo sắp xếp những lớp thanh khí của nó : lớp thanh nhẹ nằm trong, từ thanh cho đến trược và lớp trược bao bọc ở ngoài. Sự sắp xếp này ấn định cảnh giới mà vong linh phải đến theo luật đồng khí tương cầu. Nguyên tử của lớp ngoài nặng nề, hắc ám thì lâu tan rã. Sự chết của thể xác thì còn nguyên hình dạng, nhưng thể vía chỉ có tan rã từng lớp cho đến không còn lớp nào nữa thì tự động thăng lên cõi của hạ trí, đó là cõi hạ thiên.

Tùy theo dục vọng nhiều hay ít để có cái lớp bao bọc ngoài dầy hay mỏng. Chính cái dục vọng không được thỏa mãn nên sinh ra đau khổ. Cái dục vọng này là của nhà ngươi tạo ra lúc sinh tiền thì bây giờ nhà ngươi phải đối diện với nó. Nó hành hạ còn hơn tra tấn; vì cõi trần nhà ngươi có thể xác để thỏa mãn cho dục vọng như sự ham muốn xác thịt, nghiện rượu, hút á phiện tới cử phải có.

Dục vọng nằm trong thể vía, khi còn thể xác thì đôi khi kiềm chế thể vía được phần nào, nhưng bây giờ chỉ còn có thể vía, thì dục vọng tha hồ tung hoành, làm chủ tình hình. “Chính vì lẽ đó mà vong linh đau khổ tùy theo dục vọng của mình nhiều hay ít”.

Vì bị dục vọng hành hạ mà lại thiếu hiểu biết về các thể của linh hồn và mỗi cảnh giới của cõi trung giới, nên người phàm tục đặt tên cảnh địa ngục, đôi khi còn nói địa ngục đời đời.

Không bao giờ có cái địa ngục đời đời, vì  thể Xác, thể Vía và thể Hạ Trí cấu tạo ra “con Người Giả” bị thay đổi trong mỗi kiếp luân hồi tức là thời gian có giới hạn, còn cái “đời đời” là cái thời gian không có giới hạn. Cái đã được qui định “có giới hạn” theo cơ tiến hóa của vũ trụ thì không bao giờ trở thành cái “Không có giới hạn”. Hay nói cách khác không bao giờ có cái nhân hạn định mà lại sinh ra cái quả vô hạn định.

Nhà ngươi yên tâm và bỏ cái địa ngục đời đời  ra khỏi cái trí khôn của nhà ngươi, cái đó là sự bịa đặt của thời trung cổ để hù dọa con người giống như nhát ma con nít.

Trong cơ tiến hóa của vũ trụ, không có cái địa ngục đời đời mà chỉ có nằm trong trí tưởng tượng của những người còn mê tín, tin dị đoan và vô minh.

Diêm Vưong ngừng nói, có vẻ hơi mệt vì nói nhiều quá mà không biết có ai thấu hiểu không. Theo luật trao đổi tư tưởng thì phải cùng “tần số rung động” thì tư  tưởng mới truyền cho nhau được, nếu không cùng “tần số rung động” mà có được nghe nói, cũng giống như nghe tiếng gió lùa qua vách lá hay nước đổ lá môn vậy thôi.

Tội phạm cúi đầu suy nghĩ : Bảo đảm với ta, không bao giờ có cái địa ngục đời đời giam giữ linh hồn và một lũ hung thần ác quỉ tra tấn, hành hạ tội nhân, ta yên tâm, hết ám ảnh rồi. Còn vấn đề đầu thai  làm súc vật, ngạ quỉ  và người muối thì như thế nào ?

Tội phạm thở dài ngao ngán, ngước lên hỏi :

– Thưa Diêm Vương, có một số người trên dương gian nói kẻ hung ác đầu thai thành súc vật, ngạ quỉ và câu chuyện người muối với  biển cả, được họ giải nghĩa là con người  không có linh hồn.

Diêm Vương nhìn tội phạm bằng ánh mắt thiện cảm với một người chịu học hỏi :

– Vấn đề này ta đã nghe nhiều vong linh cũng thắc mắc như nhà ngươi. Ta đã giải nghĩa cho nhiều vong linh thấu hiểu về cơ tiến hóa của vũ trụ là bất cứ sinh vật nào cũng do Đấng Tạo Hóa tạo ra trong Thiên Cơ của Ngài  và chỉ có tiến nhanh hay chậm mà thôi. 

Như loài động vật thuộc dạng Hồn Khóm, chúng nó sống theo bản năng, hoàn toàn lệ thuộc luật thiên nhiên .Chúng  nó cũng đầu thai lên cõi trần và khi chết thì nó trở về Hồn khóm của nó. Giống như múc một ly nước trong thùng rồi một thời gian sau đem đổ trở vô thùng. Trong thời gian sống cõi trần con thú cũng mở thêm một ít trí khôn như loài chó, mèo, ngựa, khỉ ,v.v … Cho đến một giai đoạn nào đó, con thú có chút đỉnh trí khôn, nghĩa là nó đã mở được cái mầm non của thể Hạ Trí .

Đến giai đoạn này, CON VẬT được thoát ra khỏi Hồn Khóm để trở thành một LINH HỒN có cá tánh tức được đầu thai làm "CON NGƯỜI". Vì thể Hạ Trí còn quá thô sơ, non nớt, yếu kém, nhiều thú tánh, theo luật đồng khí tương cầu, linh hồn ấy chỉ  đầu thai trong những người của bộ lạc dã man rừng rú hoang dã.

Trong cơ tiến hóa không có một sinh vật nào được đi “lùi trở lại”.  Như  “quả rụng” thì không có ai làm được cái việc là đem nó gắn dính liền vào cái cuống, cũng như em bé muốn chui vô bụng của mẹ nó như trước kia, chắc chắn là không được, và người thông minh thì không một quyền lực nào bắt họ phải ngu.

Do đó vấn đề người hung ác bị đầu thai thành “súc sanh ngạ quỉ” là hoàn toàn mê tín dị đoan của cái trí tưởng tượng phàm tục còn vô minh, không hiểu biết gì về định luật tiến hóa của vũ trụ còn gọi là Thiên Cơ. Đó là một vấn đề gây ám ảnh tai hại trong tâm trí của một số người.

 Vấn đề người muối : Chẳng lẽ chỉ có câu chuyện người muối đi xuống biển bèn vội vàng kết luận rằng con người không có linh hồn. Cái lối giải nghĩa đó là “sự thiếu hiểu hiểu biết về sự tiến hóa của linh hồn ; vì linh hồn là trường sanh bất tử và sự tiến hóa của nó không có giới hạn”. 

Có ba CHÂN LÝ Tuyệt Đối, ba chân lý này lớn lao như sự sống mà cũng đơn giản như một tâm hồn giản dị nhất. Hãy dùng nó để hướng về LINH HỒN, đặt tin tưởng vào ba Chân Lý sau đây.

* 1 _ Linh Hồn con người vốn bất tử và tương lai của nó phát triển huy hoàng không biên giới.

* 2 _ NGUYÊN LÝ sinh ra sự sống ở nơi chúng ta và ở ngoài chúng ta, NGUYÊN LÝ đó không khi nào chết, đời đời ban phước; nó không sao thấy được, nghe được, cảm giác được nhưng kẻ nào muốn nhận thức nó sẽ nhận thức được. Người ta gọi NGUYÊN LÝ đó là ÔNG TRỜI, THƯỢNG ĐẾ, ĐẤNG TẠO HÓA. Thượng Đế là một NGUYÊN LÝ vi diệu chớ KHÔNG phải là một Đấng có cá thể riêng biệt. (Một số người còn tin dị đoan và mê tín, trong cái trí tưởng tượng, đó là hình ảnh Thượng Đế như ông vua già, đôi khi nóng tính, ngồi xét xử người đời sau khi chết ở một cõi trời nào đó). 

* 3 _ Mỗi người đều là người lập luật lệ cho chính mình một cách tuyệt đối, vừa là người ban phát sự vinh quang hay sự tối tăm cho mình, vừa là người cầm vận mạng mình, thưởng, phạt mình. 

Tội phạm có vẻ bớt ưu tư bèn hỏi  tiếp :

– Thưa Diêm Vương cho biết về “thuyết Sáng Tạo đăc biệt”, theo giả thuyết này thì số mạng của con người ở trần gian chỉ có “ÔngTrời” tạo riêng cho nó và bắt buộc nó phải tuân theo chớ nó không được chọn lựa bất cứ cái gì.

Diêm Vương vui vẻ :

– Cái thuyết Sáng Tạo đặc biệt này, đúng là đặc biệt vì nó không nằm ở trong các định luật của vũ trụ mà do một cái trí phàm tục tự ý “chế ra”.

Theo thuyết này thì con người không có một dĩ vãng cá nhân mà chỉ có một tương lai vô  tận, đó là địa ngục đời đời hay thiên đàng vĩnh viễn. Đó là sự lí luận giống như nói  “cây gậy chỉ có một đầu”. 

Con người sinh ra đã có tội ngay từ trong bản thể, phải nhờ phục lụy mới được cứu rỗi, đó là vấn đề bôi bát đức tánh bác ái và công bằng của Đấng Tạo Hóa. Cái thuyết này, nó đặt con người trong tình trạng bị lệ thuộc hoàn toàn vào Đấng đã sanh ra “chúng con” mà không cho “chúng con” có được một ý chí tự do.

Sự sai lầm nghiêm trọng này đã tạo ra hàng triệu kẻ trong “đạo”, đã bỏ đạo thành “người vô thần” bởi đầu óc khôn ngoan không công nhận cái lối lí luận “cây gậy chỉ có một đầu”.

 Đó là dù con người có cần cù lao động, ra công nghiên cứu, tu tâm sửa tánh, hoặc lêu lỏng chơi bời, trà đình tửu quán làm vua, quan, lính, giàu, nghèo, ăn mày, tu nhân tich đức, trộm cướp lưu manh, bon chen trong bể trần ai dưới nắng lửa mưa dầu; cho đến  phút cuối cùng tắt thở, thể xác chôn sâu vào lòng đất lạnh thì chỉ có “hai lối đi” đó là địa ngục đời đời hay thiên đàng vĩnh viễn .

Trước một tương lai hắc ám và hoàn cảnh xấu xa đen tối  “chúng con” sa sầm nét mặt cúi đầu than thở một cách thảm thiết. Tại sao Ngài “sáng tạo đặc biệt” con ra như thế này ?  Còn người khác thì “sáng tạo đặc biệt” như thế kia ! Con có tội gì ! Và công bằng ở chỗ nào ? Than ôi ! Chẳng lẽ con đành chấp nhận cái thuyết cây gậy chỉ có một đầu !

F. Linh hồn sống trong các  cõi trời :

Diêm vương ra dấu hiệu cho chuyên viên ánh sáng mang cái đèn hình vành khăn để trên bàn, cái đèn này có 7 điểm sáng, mỗi điểm sáng có một màu riêng biệt .

Tội phạm đâm chiêu không biết “tương lai” đi về đâu bèn ngước lên lễ phép hỏi :

– Thưa Diêm Vương, tôi muốn biết tại các cõi trời, tôi sẽ sinh hoạt và sống như thế nào? Thời gian bao lâu tôi được trở về thế gian để thủ vai  con trời đi học.

Diêm Vương mĩm cười hồn nhiên ôn tồn :

– Một số người nhìn vào cái thể xác  được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần nên phải bon chen trong lãnh vực vật chất  hồng trần để cung phụng cho thể xác. Từ khi sanh ra cho đến chết họ chỉ biết có thể xác là vật yêu quí nhất, họ nâng niu và chiều chuộng nó đủ thứ. Đối với họ phải có nhiều vật chất để bao quanh thể xác, trong bất cứ giờ phút nào, thể xác cần là phải có. Cái  vật có  được để thỏa mãn cho nhu cầu của ngũ quan đó là hạnh phúc nhất  rồi.

Khi bỏ thể xác thì “chuyện đời” có khác, đó là linh hồn chỉ còn sống sống bằng thể Vía.

Khi con người bước vào tuổi “gần đất xa trời” giống như mặt trời còn mấy sào “lật bật” là khuất bóng. Đôi khi “ông, bà già ấy” cũng ưu tư thắc mắc không biết khi bỏ thể xác này rồi đi về đâu ?

 Mục đích của triết học là sắp xếp một hệ tư tưởng cho có “ngăn nắp” và tra cứu cho ra cái lí  lẽ cuối cùng của tư tưởng ấy; nhưng khi bàn đến vấn đề “sau khi con người tắt thở thì cái gì tiếp theo sau đó”. Người ta tránh né câu trả lời như tránh một thây ma.

 Con người bất lực trong cái trí khôn vì chỉ có lí luận quanh co của ba cái vật chất hồng trần. Vì  tâm thức cõi trần gian chỉ nhận thức được có “BA CHIỀU ĐO” tức không gian ba chiều : chiều dài ,chiều ngang và chiều đứng.

Nếu con người chịu tìm hiểu các định luật của vũ trụ thì những hiện tượng dù là cõi hữu hình hay cõi vô hình cũng không có gì gọi là huyền  bí. Đinh luật của vũ trụ qui định “Mỗi cõi giới có CHIỀU ĐO RIÊNG BIỆT và SỰ RUNG ĐỘNG của nguyên tử KHÁC NHAU”. Cái khó hiểu là mỗi cõi giới có chiều đo riêng biệt. 

Tâm thức của con người ở cõi hồng trần chỉ nhận thức được có ba chiều đo như sau :

Thí dụ ta có một đoạn thẳng D, nếu ta có hai đoạn D, hai đoạn thẳng này phải thẳng góc tại giao điểm cuối, ta bèn đem hai đoạn D bình phương thì ta có một hình vuông, đó là hình học phẳng có hai hiều đo. Nếu ta có một đoạn D nữa phải thẳng góc tại góc vuông của hình vuông theo chiều thẳng đứng nghĩa là cùng thẳng góc với hai đoạn D kia  và tiếp tục lấy D bình phương nhân với D thì ta có D lũy thừa ba đó là hình khối vuông gọi là không gian ba chiều.Vậy ta biết được BA CHIỀU ĐO.

“Cứ mỗi  một con số, mỗi  một chiều đo là ta có một hình tưng ứng” đó là D một đoạn thẳng (mét), D bình phương là hình vuông (mét vuông), D lũy thừa ba là hình khối (mét khối), ta bèn tiếp tục lấy D lũy thừa ba nhân với D ta có D lũy thừa bốn, theo thứ tự thì nó phải có một hình của không gian bốn chiều  còn gọi là CHIỀU ĐO THỨ TƯ. Bây giờ ta mới bật ngửa ra là D lũy thừa bốn không biết nó hình gì và cái đơn vị cũng không phải là mét khối vì lũy thừa ba là khối vuông còn lũy thừ bốn là khối gì ?

Vì tâm thức con người trần gian chỉ có biết được ba chiều đo : chiều dài, chiều ngang và chiều đứng. Ta không biết cái hình có bốn chiều đo  là hình gì  thì cũng đúng theo định luật của vũ trụ qui định “Một người có tâm thức của cõi hồng trần chỉ nhận thức được CHIỀU ĐO THỨ BA” . Nếu một người tai phàm mắt thịt và bộ não trần tục mà biết được CHIỀU ĐO THỨ TƯ thì định luật vụ trụ bị bẻ gãy. Chính vì lẽ đó, khi con người đặt tâm thức trong cõi hồng trần thì tất cả sự hiểu biết và lí luận chỉ quanh đi quẫn lại của nguyên tử hồng trần mà thôi . Hay nói cách khác chỉ giới hạn trong phạm vi của ngũ quan là cái dụng cụ của thể xác để tiếp xúc với “cõi đời trần tục”.

“Người giả”, vì thay đổi trong mỗi kiếp luân hồi nên gọi là giả, còn “người thật” thi trường sanh bất tử.

Người giả gồm có : thể xác, thể vía và thể hạ trí.

Thể xác được cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần, chỉ biết có cõi hồng trần qua năm giác quan : Lưỡi để biết  vị ngọt đắng chua, tai để nghe, mắt để thấy, da để biết ấm lạnh và mũi để biết mùi, đó là năm cơ quan để tiếp xúc với thế giới  hữu hình.

Còn thể phách chỉ là cái thể tạo ra sinh lực cho thể xác, cấu tạo bằng chất dĩ thái khoa học gọi là nhân điện.

Sau khi thể xác chết thì hai mươi bốn giờ sau thể phách tan rã.

G. Thể vía, cõi trung giới :   

Thể vía được cấu tạo bằng nguyên tử thanh khí của cõi trung giới. Sau khi bỏ thể xác thì người giả chỉ còn thể vía và thể hạ trí.     

Vong linh sống trong cõi trung giới bằng thể Vía.

Thiên thơ cho biết một nguyên tử hồng trần bằng 49 lũy thừa sáu đơn vị tiên thiên khí . Một nguyên tử thanh khí cõi trung giới bằng 49 lũy thừa năm đơn vị tiên thiên khí.

Như vậy nguyên tử thanh khí nhỏ và rung động nhanh hơn nguyên tử hồng trần và xuyên qua và bao phủ tất cả nguyên tử hồng trần. Thiên thơ cho biết cõi trung giới  có bốn chiều đo. Vì tâm thức cõi hồng trần chỉ có biết được ba chiều đo, nên khi còn mang “cái xác phàm” thì không bao giờ “thấy” dược cõi trung giới là đúng với định luật vũ trụ. Vì tất cả những cái gọi là sự thấy, hiểu, biết phải đúng với sự rung động của tâm thức theo luật đồng khí tương cầu.  

Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua 7 trung tâm giao điểm gọi là LUÂN XA, tại đây có một tấm màn cấu tạo bằng nguyên tử hồng trần để ngăn chặn ảnh hưởng cõi âm, nếu tấm màn này bị rách thì các vong ở cõi âm nhập vô thể xác dễ dàng. Không phải vong linh muốn phập vô thể xác ai cũng được, chỉ có người nào tấm màn ngăn chặn ảnh hưởng cõi âm bị rách thì mới nhập vô thể xác được mà thôi. Đó là những hiện tượng người bị ma, quỉ, âm hồn, cô hồn, âm hồn, vong linh nhập là như vậy.   

Một người bình thường muốn tập khai mở giác quan thể vía, đôi khi một kiếp người cũng không thấm vào đâu. Chỉ khi nào khai mở được giác của thể vía thì mới ngồi trên cõi trần mà thấy được cõi trung giới, tức là thấy được những vong linh đang nghêu ngao sống nơi âm cảnh.

Giáo lý Huyền Môn cho biết : Các giác quan thể vía chỉ hoạt động ở một chu kỳ và chỉ khi nào thể vía rung động đúng chu kỳ này thì nó mới được đánh thức để hoạt động.

Diêm Vương ngừng nói đưa mắt quan sát cái đèn có 7 điểm sáng và 7 màu khác nhau và nhìn xuống tội phạm :

– Như đã nói con số 7 là con số tạo lập vũ trụ. Cái đèn có 7 điểm sáng là tượng trưng cho tất cả : 7 màu sắc, 7 âm thanh, 7 sự rung động. Các biểu tượng trong Kim Tự Tháp có hình cây đàn 7 dây tượng trưng cho 7 sự rung động. Cõi trung giới có 7 cảnh và 7 sự rung động khác nhau. Tại cõi này người giả sống bằng thể vía.

 Thể vía không có sự chết  như thể xác mà chỉ có sự tan rã từng lớp. Cứ một lần tan rã một lớp thì thể vía được thăng lên  một cảnh kế tiếp  tươi sáng hơn và cứ như thế cho đến lớp cuối cùng tan rã là chấm dứt “một kiếp” của thể vía 

Thời gian vong linh ở đây lâu hay mau là tùy theo tính chất của thể vía thanh bai hay trọng trược. Chính trong những việc làm “thuở sinh tiền” đã tạo ra “đời sống của vong linh nối tiếp tại âm cảnh”. 

 H. Thể hạ trí : Cõi hạ thiên :

Khi thể vía hoàn toàn tan rã thì người giả “thăng lên” cõi hạ thiên, sống trong  thể hạ trí .

Thể trí sinh họat tại cõi Thượng Giới.

Cõi thượng giới có 7 cảnh chia ra hai phần : Hạ thiên có 3 cảnh là của thể Hạ Trí và Thượng Thiên có 4 cảnh là của thể Thượng Trí.

* 3 cảnh của cõi Hạ Thiên là cái cảnh cuối cùng của người giả sống bằng thể Hạ Trí, cho đến khi nào thể Hạ Trí tan rã là chấm dứt một kiếp của người giả. (3 cái võ vật chất: thể xác "bỏ mạng" taị cõi trần còn  thể vía và thể hạ trí thì  tan  rã và trở về cõi của nó thì khi đó người giả mới thật sự trải qua một kiếp).

Trong cơ sáng tạo của Đấng Tạo Hóa, không có cái chi gọi là dư thừa, từ hạt bụi cho đến côn trùng sống dưới mặt đất đều có công dụng riêng của nó. Chính vì không có cái chi gọi là dư thừa, trong cơ sáng tạo của Ngài , có “cài đặt” ba hột lưu tánh nguyên tử mỗi hột cài đặt  một thể. Ba thể : xác, vía và hạ trí đều có hột nguyên tử lưu tánh.

Đến giai đoạn này, người thật còn gọi là linh hồn bồi hồi nhớ lại chuyện xưa : từ cõi Thượng Thiên, nơi đó mới thật sự là quê hương của linh hồn có một sự hối thúc, ước muốn xuống trần gian để học và thực hành để có được sự  tiến hóa của linh hồn. Vì tất cả sinh vật đều là phần tử củasức mạnh Thiêng Liêng. Để có tính chất Thiêng Liêng nẩy nở và phát sinh trọn vẹn thì mỗi sinh vật phải biến hóa qua nhiều kiếp sống thì mới có được những kinh nghiệm về sự rung động các nguyên tử của những cõi trời. Cái phần Thiêng Liêng trong mỗi người có sự khác nhau, vì trong cuộc “trường chinh” của nhiều kiếp sống, linh hồn mỗi người có sự “thu hoạch” không ai giống ai. Cũng chính vì sự nẩy nở phần Thiêng Liêng của mỗi người khác nhau nên mới có người thánh kẻ phàm người thanh kẻ trược.

 Nếu con người biết dùng lửa để thử vàng thì Đấng Tạo Hóa sử dụng 3 cái vỏ vật chất của ba cõi Hạ Thiên, Trung Giới, Hồng Trần  để bao bọc linh hồn. Cầm thịt thì mỡ dính tay, cho nên khi đụng vào  3 lớp vỏ vật chất : thể xác, vía và hạ trí  thì linh hồn mới bật ngửa và tối mắt, biết  “đụng thứ dữ” không phải dễ sai khiến .

Vì bản chất của 3 lớp vỏ vật chất là đi xuống để va chạm vào những thứ trọng trược càng nhiều càng tốt, nó chỉ thích những sự rung động nặng nề, thô bạo, xấu xa, hắc ám. Đó là Thiên Cơ giàn dựng như vậy, trong sự tiến hóa nó phải đi xuống. Nếu hiểu ra “cớ sự” thì đối với những người thô lỗ cộc cằn có lẽ ta không còn giận hờn. Vì cái thô lỗ cộc cằn, đó là cái lớp vỏ vật chất của con người giả đang biểu diễn mà thôi.

I. Thể thượng trí : Cõi thượng thiên :

Sau khi ba thể của Người Giả tan rã vào cõi vô cùng thì Người Thật còn gọi là Chơn Thân, Chơn Nhơn, hoặc Linh Hồn bèn gom ba hột lưu tánh nguyên tử  trong đó có lưu trữ tất cả những gì đã thu hoặch trong một kiếp người. Ba hột lưu tánh nguyên tử được gìn giữ nơi thể THƯỢNG TRÍ.  

Theo luật đồng khí tương cầu, Linh Hồn đến cõi Thượng Thiên, sinh hoạt trong thể Thượng Trí. Chính nơi đây mới thật sự là quê hương của linh hồn. Thể Thượng Trí là cái túi chứa tất cả nguyên nhân để có đươc hậu quả trong đó có ba hột lưu tánh nguyên tử. Chính Thể Thượng Trí này, nó định phần số cho mỗi người theo định luật vũ trụ. Tất cả những gì mà con người đã hành động đều có “đưa vào bộ nhớ của hột lưu tánh nguyên tử”. Căn cứ vào ba hột lưu tánh nguyên tử này mà mỗi người khi giáng phàm có diện mạo, nhan sắc, tánh tình, sự thông minh và phẩm hạnh cá tánh khác nhau .

Tại cõi Thượng Thiên, Linh Hồn đem tất cả kinh nghiệm của một kiếp “sống” vừa qua để biến thành minh triết .

Minh triết là tinh hoa gạn lọc từ toàn thể, là cái sự khôn ngoan rõ rệt mà linh hồn đã gặt hái được bằng kinh nghiệm trong các kiếp sống tại cõi Hồng Trần. Tất cả những kinh nghiệm mà Linh Hồn đã có được trong một kiếp người, khi đến cõi Thượng Thiên được biến đổi thành minh triết.

Đức bà Anni Besant nói :

“Cái điều cao cả mà chúng ta gọi là tri thức của con người  chỉ là một  phần của linh hồn đang cố gắng, đang chịu nhọc nhằn trong khối  óc để có thể giúp cho cá nhân thiệt thọ được phát triển. Nó biểu lộ qua khối óc làm ra sự thông minh nhiều hay ít là tùy theo sự tiến hóa của linh hồn”.

Linh hồn cư ngụ tại cõi Thượng Thiên một thời gian thì có sự giục giã xuống cõi trần để tiếp tục làm con trời đi học. Trong buổi lễ tiễn đưa con trời giáng phàm, nó được biết một cách tổng quát những cái gì nó cần phải học và hoàn cảnh “éo le ngang trái” để cho nó có kinh nghiệm về sự đau khổ; vì đau khổ cũng là một bài học quan trọng.

 Luật thiên nhiên thì : cái gì thật sự là của ta thì phải chính ta từng trải qua cái đó thì mới thật sự “biết mùi đời”, còn chỉ nghe nói thì không có một giá trị nào cả.

Theo giáo lý Huyền Môn : Đấng Tạo Hóa phóng ra một tia sáng nhỏ gọi là Chơn Thần, có đồng bản tính với Đấng Tạo Hóa. Chơn Thần phân ra một điểm nhỏ gọi là Linh hồn, ngay từ buổi đầu, Linh Hồn “trắng tay” nghĩa là Linh Hồn chưa có một sự hiểu biết và kinh nghiệm về sự rung động của các cõi. Muốn có được sự hiểu biết Linh Hồn phải lao mình vào các cõi Hạ thiên, Trung giới và Hồng trần để tiếp xúc thì mới có cảm, có biết, có hiểu về những thứ rung động. 

Thí dụ như : Ta đã từng bị đau khổ thì ta mới hiểu đau khổ là như thế nào và ta có cảm biết về sự rung động đó. Nếu ta đã biết về sự đau khổ thì ta rất dễ động lòng trắc ẩn trước một người xa lạ đang bị đau khổ. Nói cho cụ thể là khi ta có đau khổ về sự tản cư, chạy giặc, tài sản bị bom cày nát, thân nhân bị tan da nát thịt trong chiến tranh; thì ta mới ghê tởm chiến tranh, và thương những người tản cư chạy giặc, những người có thân nhân trong cuộc chiến. Nếu ta chưa từng bị những thứ phũ phàng đó, thì ta chỉ nhìn chiến tranh một cách lạnh lùng; vì ta chưa từng có sự rung động đau khổ của chiến tranh. Cũng đúng như câu nói : “chỉ người có tài có đức mới biết được người có tài có đức”. Thì cũng ngược lại người không tài không đức thì sử dụng người không tài không đức, đó là định luật đồng khí tương cầu mà ông bà ta nói rất gọn là thầy nào trò nấy, nhà nho nói “mã tầm mã, ngưu tầm ngưu”. 

Để có sự hiểu biết về sự rung động trong các chất khí, nó có những thứ rung động khác nhau, Linh Hồn phóng ra ba thể thay đổi trong mỗi kiếp luân hồi. Đó là NGƯỜI GIẢ có ba xác : thể vía, thể hạ trí, tiếp xúc với cõi trần tục. 

Cái đó chính là NGƯỜI GIẢ đi vào thơ mộng của màu hoa phượng, nổi buồn hiu hắt như tiếng ve sầu rỉ rả trong bụi tre già. Tiếng côn trùng nỉ non trong đêm khuya khóc than cho mệnh bạc. Cái an nhàn nghe tiếng thông vi vu bên bờ suối vắng. Và cái thuở nhìn đời như bướm say mê mật hoa trong tia nắng ban mai của trời đất vào xuân. Đó là hình ảnh “Con Trời đi học”, mượn cõi trần để học những gì trong Thiên Cơ, theo sự tiến hóa của Vũ trụ. Chính vì lẽ đó mà linh hồn phải trải qua nhiều kiếp tại cõi hồng trần, mỗi một kiếp là một bài học.

 Diêm Vương ngừng nói, nhìn xuống tội phạm đang bồi hồi xúc động vì được hiểu biết về cõi  âm và những gì cần thiết cho sự tiến hóa của linh hồn. Mặc dù không một người phàm nào thấy được sự tiến hóa của linh hồn trong lớp sương mù của một kiếp trần ai còn gọi là cuộc đời của thế tục; nhưng con người vẫn tiếp tục “tìm những chốn đoạn trường” mà đi.

Diêm Vương kiểm tra hệ thống tín hiệu, tần số rung động rồi nhẹ nhàng :

– Giờ start đã điểm, ta tạm biệt và hy vọng kiếp sau nhà ngươi làm người lương thiện .  

                                    Atlanta mùa hạ năm 2003

                                            Hoàn Công Đình

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro