"Thân thể con người cũng như một yên ngựa, phải biết rời bỏ khi đã tới cuối hành trình"
Ibn Sina (Avicenne)
Vấn đề trợ tử (euthanasie) là một vấn đề nóng bỏng của thời đại vẫn được nêu lên báo
chí và các phương tiện truyền thông khác một cách thường xuyên. Những vụ án gần đây
chung quanh cái chết của Vincent Humbert (1) và Terri Schiavo (2) đã làm sôi nổi dư luận
thế giới, và gây nên những phản ứng mạnh mẽ giữa hai phe ủng hộ và chống đối trợ tử,
ngay cả trong giới lãnh đạo chính trị, như tổng thống G.W. Bush đã vội vã ban ra một đạo
luật đặc biệt nhằm ảnh hưởng lên quyết định của Toà án Tối cao Mỹ (2). Và tháng tư vừa
qua, Thượng Nghị viện Pháp đã thông qua một đạo luật cho phép ngừng điều trị bệnh nhân
khi đã tới giai đoạn cuối đời.
Thoạt nhìn, vấn đề đặt ra có vẻ giản dị: Khi một người bị bệnh nặng đã tới giai đoạn cuối
đời, đang kéo dài trong sự đau đớn, thì có thể nào giúp người đó ra đi một cách nhẹ nhàng,
êm ái, và mau chóng hơn không? Nhất là khi ngày hôm nay, người ta có đầy đủ phương
tiện để gây nên cái chết nhẹ nhàng, dưới sự trợ giúp của y khoa.
Thật ra, xét kỹ lại chúng ta mới thấy rằng trợ tử là một trong những vấn đề phức tạp
nhất trong xã hội, bởi vì liên quan tới nhiều lĩnh vực của cuộc sống: khoa học, kỹ thuật,
kinh tế, văn hoá, đạo đức, tôn giáo, luật pháp... Trợ tử nằm trong khung cảnh rộng lớn hơn
của những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique), mới được đặt ra từ khoảng ba chục năm nay,
do những bước tiến khổng lồ của ngành sinh học.
Trong bài này, chúng ta sẽ lần lượt xem xét:
1) Định nghĩa của các từ liên quan tới trợ tử
2) Lịch sử của sự hình thành khái niệm trợ tử
3) Cuộc tranh luận về trợ tử tại các nước Tây phương
4) Luật pháp về trợ tử hiện nay trên thế giới
5) Thái độ của các tôn giáo thần khải
6) Thái độ của đạo Phật về trợ tử.
Định nghĩa các từ liên quan tới trợ tử
Đầu tiên, chúng ta phải định nghĩa một số từ liên quan tới trợ tử một cách chính xác.
Euthanasie là một chữ xuất hiện vào thế kỷ thứ XVII, có nghĩa là "làm cho cái chết tốt
đẹp" (từ chữ Hy Lạp eu là tốt và thanazein là chết), và có thể định nghĩa là "hành động cố
tình gây nên cái chết một cách êm thắm, cho một người bị bệnh nặng không chữa khỏi
được, chắc chắn sẽ chết, đang vô cùng đau đớn, bằng cách dùng thuốc men hay một sự can
thiệp khác". Người ta còn gọi nó là giết người vì thương hại hay vì nhân đạo (meurtre par
compassion, mercy killing).
Tiếng Việt có thể dịch là "ưu tử", "an tịch", "trợ tử", "hộ tử" hay "gây chết êm ái, nhẹ
nhàng", nhưng chữ "trợ tử" được dùng nhiều hơn hết, tuy rằng không chính xác lắm.
Có hai loại trợ tử cần phải được phân biệt là trợ tử tích cực (euthanasie active) nghĩa là
gây nên cái chết bằng một hành động tích cực, và trợ tử thụ động (euthanasie passive),
nghĩa là ngưng mọi điều trị để cho người bệnh chết một cách tự nhiên. Người ta còn gọi trợ
tử thụ động là "sự ngưng hay bỏ các phương pháp điều trị kéo dài cuộc sống". Trong trường
hợp Vincent Humbert chẳng hạn (1), khi bà mẹ bơm vào ống dẫn dạ dày của con mình một
liều thuốc pentobarbital mạnh với mục đích trợ tử, nhưng không chết mà lâm vào tình
trạng hôn mê, khi BS Chaussoy tắt máy hô hấp nhân tạo và tiêm chlorure de potassium để
tim bệnh nhân ngừng đập, thì cả hai đều là hành động trợ tử tích cực. Ngược lại, quyết định
của toà án Florida ngừng cấp dinh dưỡng cho Terri Schiavo (2) bằng ống dẫn dạ dày là một
hành động trợ tử thụ động. Thật ra, ý muốn và kết quả của trợ tử tích cực và trợ tử thụ động
cũng như nhau, tuy rằng hình thức có khác nhau.
Trợ tử còn được phân chia làm trợ tử tự nguyện (euthanasie volontaire), trợ tử không
tự nguyện (euthanasie non volontaire), và trợ tử không tùy ý (euthanasie involontaire).
Trợ tử tự nguyện (euthanasie volontaire) là trợ tử do người bệnh yêu cầu một cách rõ
ràng, với sự chấp thuận sáng suốt của người đó (consentement éclairé)(như trường hợp
Vincent Humbert). Trợ tử không tự nguyện (euthanasie non volontaire) là trợ tử trên
người bệnh trong tình trạng hôn mê hoặc lú lẫn, không còn khả năng yêu cầu trợ tử (như
trường hợp Terri Schiavo). Trợ tử không tùy ý (euthanasie involontaire) là trợ tử trên
người bệnh còn minh mẫn, không yêu cầu cái chết hoặc không chấp thuận trợ tử (chẳng
hạn như khi câu hỏi không được đặt lên cho người đó).
Trợ giúp tự tử (aide au suicide) hay tự tử trợ giúp bằng y khoa (suicide médicalement
assisté) là sự giúp đỡ, thường thường do một người thầy thuốc, một người bệnh đã quyết
định chấm dứt cuộc sống của mình, bằng một liều thuốc độc hay một phương tiện khác.
Hành động đưa tới cái chết là do người bệnh, nhưng người trợ giúp là người thầy thuốc.
Giảm đau cuối đời (sédation terminale), còn gọi là trợ tử gián tiếp (euthanasie
indirecte) là sự điều trị bằng thuốc giảm đau loại morphine, nhằm giảm đau cho bệnh
nhân, nhưng có thể đưa tới cái chết do tai biến suy giảm hô hấp. Thật ra, ai cũng biết rằng
tất cả là tùy liều thuốc, nhẹ hay nặng, mà hành động này mang tính chất giảm đau hay trợ
_ _s_ム_ _ntử.
Điều trị tạm thời (soins palliatifs) là điều trị không nhằm khỏi bệnh, mà nhằm thuyên
giảm sự đau đớn của người bệnh, về thể xác cũng như tinh thần.
Điều trị tới cùng (acharnement thérapeutique, còn gọi là bướng bỉnh vô lý, obstination
déraisonnable) là điều trị bằng mọi cách, nhằm kéo dài cuộc sống, tuy biết rằng bệnh nhân
ở trong tình trạng cuối đời.
Tình trạng thực vật (état végétatif) là một thực thể y khoa xuất hiện từ những năm
1960–1970, do những bước tiến của các phương pháp hồi sinh (2). Đó là một trong những
hình thái tiến hoá của hôn mê, sau khi não bị chấn thương nặng hoặc thiếu oxy. Người
bệnh có vẻ tỉnh, mở mắt, nhưng không có hoạt động ý thức nào và hoàn toàn phụ thuộc sự
điều dưỡng trong đời sống hàng ngày. Sau một thời gian khoảng một năm, tình trạng có
thể gọi là thực vật mạn tính (état végétatif chronique, persistent vegetative state), không
còn hi vọng đảo ngược lại, với những biến chứng xảy ra do liệt giường lâu ngày. Đó là tình
trạng của Terri Schiavo (2), kéo dài trong 15 năm trời và mới kết thúc gần đây.
Lịch sử của sự hình thành khái niệm trợ tử
Hành động trợ tử chắc chắn đã có từ lâu, nhưng khái niệm trợ tử và những tranh luận
chung quanh khái niệm này mới xuất hiện từ khoảng hai thế kỷ nay tại Tây phương.
Người chống đối trợ tử đầu tiên chính là Hippocrate (thế kỷ V – IV trước CN), ông tổ của
ngành y học Tây phương, ngược lại với quan điểm của đa số thầy thuốc Hy Lạp thời bấy giờ.
Trong lời tuyên thệ, ông kêu gọi người thầy thuốc "không bao giờ cho ai một liều thuốc
độc, dù người đó yêu cầu, và không bao giờ gợi ý về điều đó".
Vào thời đại Trung Cổ, thái độ chống trợ tử trở thành đa số, và tình trạng này tiếp diễn
tới thế kỷ thứ XIX, mặc dù có vài người như Sir Thomas More (thế kỷ XVI) và Francis
Bacon (thế kỷ XVII) lên tiếng chủ trương hành động trợ tử do các thầy thuốc thực hiện.
Francis Bacon là người đầu tiên dùng chữ euthanasia, trong một cuốn sách in năm 1623.
Ông viết: "Phận sự của người thầy thuốc không phải chỉ là chữa khỏi bệnh tật, mà còn làm
vơi dịu những khổ đau do bệnh tật gây nên. Và không phải chỉ làm vơi dịu khổ đau và
khỏi bệnh, mà còn đem lại cho bệnh nhân, khi không còn hi vọng sống sót, một cái chết
êm dịu và an lành. Trợ tử như vậy là một phần không nhỏ của hạnh phúc".
Vấn đề trợ tử lại đặt lên vào thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của gây mê và thuốc morphine.
Cường độ của các cuộc tranh luận này tùy thuộc ở bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của mỗi
địa phương. Các nước Anh, Hoa Kỳ, Đức và Hoà Lan là những nơi mà các cuộc tranh luận
về trợ tử diễn ra sôi nổi nhất.
Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, tại nước Anh, Hoa Kỳ đã có nhiều bài báo y học và luật
pháp đề cập tới vấn đề trợ tử, và đặc biệt Samuel Williams tại Birmingham năm 1870 đã
gây ảnh hưởng lớn trong dư luận khi trình bày ý định của ông dùng éther và chloroforme
để chấm dứt cuộc sống của bệnh nhân. Năm 1906, một dự án đạo luật nhằm hợp pháp hoá
trợ tử tại tiểu bang Ohio bị bác bỏ do gặp nhiều phản đối.
Năm 1920, một bác sĩ và một luật sư Đức, tên là Hoche và Binding, đồng xuất bản một
cuốn sách trình bày quan điểm sau: Một số bệnh nhân bị chứng nan y, bệnh tâm thần và
trẻ con dị dạng, sống những cuộc sống "không đáng sống", và đem lại cái chết cho họ là một
lối điều trị nhân đạo, phù hợp với y đức. Tác giả cũng nhấn mạnh tới gánh nặng kinh tế
phải trả để kéo dài cuộc sống của những bệnh nhân đó. Quan điểm của Hoche và Binding sẽ
có ảnh hưởng lớn trên tư tưởng Đức sau này và được Đức Quốc xã áp dụng một cách triệt
để, đặc biệt trong chương trình "trợ tử T4".
Năm 1931, bác sĩ Killick Millard đề nghị trước Hội đoàn Sĩ quan Y khoa Anh một đạo
luật hợp pháp hoá trợ tử, và từ đó, các hội đoàn y sĩ ủng hộ trợ tử được thành lập, các bài
của các chứng nhân về hành động trợ tử, cùng những yêu cầu trợ tử của bệnh nhân được
đăng tải trong báo chí. Năm 1936, một dự án đạo luật nhằm hợp pháp hoá trợ tử được đưa
ra trước Nghị viện Anh, và bị bác bỏ với tỷ lệ 35 phiếu chống 14 phiếu thuận.
Sự bác bỏ đó, cùng với sự bùng nổ của Đệ nhị thế chiến, và sự khám phá sau này của các
trại tập trung Phát xít với sự cộng tác của các thầy thuốc Đức trong công cuộc diệt chủng, đã
làm vấn đề trợ tử tàn lụi dần, tuy rằng vẫn còn âm ỉ.
Khoảng cuối những năm 50, tranh luận về trợ tử lại trở lại, dưới khía cạnh pháp lý. Năm
1969, một dự án định luật nhằm hợp pháp hoá trợ tử lại được đưa ra trước Nghị viện Anh,
và cũng lại bị bác bỏ với tỷ lệ 61 phiếu chống 41 phiếu thuận.
Tại Hòa Lan, năm 1970 xảy ra vụ án Geertruida Postma, một người thầy thuốc đã bị truy
tố về tội giết người vì cố ý tiêm cho một bệnh nhân bị liệt, câm và điếc đã nhiều lần yêu cầu
ông làm việc đó, một liều thuốc morphine nặng làm người đó qua đời. Trong bản án rất nhẹ
(ông chỉ bị ở tù một tuần, và quản thúc tại gia một năm), quan tòa cho biết trong những
điều kiện nào một trường hợp trợ tử có thể chấp nhận được. Tiếp theo đó, năm 1973, Hội
đoàn Y sĩ Hòa Lan tuyên bố rằng trợ tử vẫn được coi là bất hợp pháp, nhưng người thầy
thuốc có thể dùng để làm vơi sự khổ đau của bệnh nhân, "trong trường hợp bất khả kháng",
nghĩa là khi người thầy thuốc ở trong tình trạng mâu thuẫn giữa một đằng bổn phận bảo vệ
sự sống, và một đằng bổn phận làm giảm sự đau đớn của bệnh nhân.
Trong những năm 80, nhiều trường hợp trợ tử đã bị truy tố trước pháp luật, và dần dần
xã hội Hòa Lan đã tiến tới ủng hộ trợ tử. Một sự thỏa thuận ngầm xuất hiện về sự cho phép
trợ tử và không bị pháp luật truy tố, nếu hội đủ ba điều kiện sau:
1. Sự yêu cầu trợ tử phải tới từ bệnh nhân, và được lặp lại nhiều lần, một cách có ý thức và
tự do.
2. Bệnh nhân phải ở trong tình trạng vô cùng đau đớn, không có phương pháp nào làm
thuyên giảm, ngoài cái chết.
3. Người thầy thuốc phải tham khảo ý kiến một thầy thuốc khác, và người đó cũng phải
xem trợ tử như là một giải pháp có thể chấp nhận được.
Sau công tác của nhiều ủy ban và nhiều dự án đạo luật, Nghị viện Hòa Lan ban ra năm
1993 một đạo luật miễn truy tố pháp luật các thầy thuốc trợ tử với điều kiện là hội đủ ba yếu
tố trên và báo cáo những trường hợp trợ tử.
Tại Hoa Kỳ, năm 1988, trong tờ báo y khoa JAMA có đăng một bài tựa là "It's over,
Debbie"(Xong rồi, Debbie), thuật một câu chuyện xảy ra tại khoa phụ sản một bệnh viện.
Người nội trú trực đêm bị gọi tới vì một thiếu phụ 20 tuổi tên là Debbie đang khó thở.
Cô ta bị ung thư buồng trứng tới giai đoạn cuối cùng, dùng hóa trị không có hiệu quả. Cô
chỉ còn có 40 kí, từ hai ngày không ăn uống được gì, đôi mắt hốc hác, tuyệt vọng, nôn mửa
thốc tháo và hơi thở rất khó khăn. Bên cạnh cô, người mẹ cầm tay cô, như mất hồn. Debbie
thì thào với người nội trú: "Thôi, cho xong đi". Anh đi lấy một ống tiêm với 20 mg
morphine, nói với người mẹ cầm tay cô và chúc cô ngủ ngon, vì anh sắp cho cô một liều
thuốc để cô nghỉ yên. Nét mặt cô từ từ thư giãn, không còn cau lên vì đau đớn, hơi thở điều
hoà và yếu dần, rồi 4 phút sau Debbie trút hơi thở cuối cùng. Trong ánh mắt người mẹ, vẻ
biết ơn hiện lên rõ rệt.
Bài tường thuật này đã gây nên nhiều phản ứng và làm sống dậy những tranh luận về
trợ tử tại nước Anh và Hoa Kỳ, với những dự án đạo luật hợp pháp hoá trợ tử tại các tiểu
bang Washington, Californie và một số tiểu bang khác.
Cuộc tranh luận về trợ tử hiện nay
Tại Tây phương
Cuộc tranh luận về trợ tử tại các nước Tây phương vẫn chưa được kết thúc, và sự tranh
chấp giữa hai phe ủng hộ và chống đối trợ tử hiện đang mang màu sắc của sự tranh chấp
giữa hai khuynh hướng đòi và chống sự hợp pháp hóa (légaliser), hay đúng hơn ra luật
(légiférer) về trợ tử.
Những người chống đối trợ tử, và chống đối hợp pháp hóa trợ tử, thường đưa ra những
luận cứ như sau:
– Nhiệm vụ của người thầy thuốc là bảo vệ sự sống chứ không phải là tiêu diệt sự sống.
Theo điều 38 của Luật Y đức (Code de Déontologie), người thầy thuốc không có quyền cố
tình gây nên cái chết;
– Những trường hợp yêu cầu trợ tử thực sự rất hiếm hoi, theo kinh nghiệm của các thầy
thuốc và điều dưỡng trông nom các bệnh nhân vào giai đoạn cuối đời;
– Thay vì trợ tử thì phải cải tiến sự điều trị tạm thời (soins palliatifs) và đem lại cho
bệnh nhân những điều kiện cuối đời an lành nhất, về thể xác cũng như tinh thần;
– Hợp pháp hóa trợ tử có thể đưa tới những sự lạm dụng, quá trớn, trơn tuột (pente
glissante, slippery slope) qua những trường hợp trợ tử không tùy ý bệnh nhân, nhưng tùy ý
thầy thuốc, điều dưỡng và gia đình, hoặc trợ tử những bệnh nhân yếu đuối, tàn tật nhất.
Trong khoảng hai chục năm gần đây đã có nhiều vụ án liên quan tới trợ tử, tại các nước Âu
châu và Mỹ châu, với những trường hợp gây chấn động như: Bác sỹ Jack Kevorkian, mệnh
danh "Bác sỹ tự tử", đã đưa 130 bệnh nhân qua thế giới bên kia, trong 10 năm hành nghề,
trước khi bị vào tù; tại nước Áo, hai cô phụ tá điều dưỡng và đồng phạm, mệnh danh là "4
tử thần", đã bị kết án tù chung thân vì đã giết hoặc tìm cách giết 42 bệnh nhân bằng các
phương pháp dã man ; và gần đây hơn, năm 1998, cô y tá Christine Malèvre đã bị kết án 12
năm cấm cố và phạt bồi thường 160.000 euro vì đã cố tình gây nên cái chết của 7 bệnh
nhân tại bệnh viện Mantes la Jolie;
– Cuối cùng, hợp pháp hóa trợ tử có thể gây tổn hại cho uy tín của y khoa và sự tin cậy
của bệnh nhân đối với người thầy thuốc.
Mặt khác, những người ủng hộ trợ tử, và chủ trương hợp pháp hóa trợ tử, đưa ra một số
luận cứ khác, không hẳn là ngược lại:
– Nhiệm vụ của người thầy thuốc là "trong mọi trường hợp, phải cố gắng làm giảm sự
đau đớn của bệnh nhân, nâng đỡ tinh thần và tránh mọi bướng bỉnh vô lý về thăm dò và
điều trị" (điều 37 của Luật Y đức);
– Dù điều trị tạm thời được phát triển tới đâu chăng nữa (và còn lâu mới có đủ phương
tiện kinh tế để phát triển các đơn vị điều trị tạm thời – phải nhớ rằng mỗi bệnh nhân trong
đơn vị này cần đến 4 người điều dưỡng), cũng vẫn sẽ còn nhiều trường hợp có nhu cầu trợ
tử;
– Với những bước tiến của y học, những đổi thay của xã hội, số bệnh nhân qua đời tại
bệnh viện mỗi ngày một gia tăng (70%), và các công trình nghiên cứu gần đây cho biết số
tử vong do y khoa trợ giúp (décès médicalement assistés) rất cao: Trong hai công trình
nghiên cứu (Lancet 02/08/2003) trên 20.000 ca tử vong tại các nước Âu châu, tỷ lệ chết do
y khoa trợ giúp đi từ 23% (Ý) tới 51% (Thụy Sĩ). Tỷ lệ dùng chế phẩm loại thuốc phiện
(opiacés) nhằm giảm đau nhưng có thể đưa tới tử vong rất cao, từ 19 tới 26%. Tại Hòa Lan,
57% thầy thuốc công nhận đã ít nhất một lần trong đời có hành động trợ tử hoặc giúp bệnh
nhân tự tử. Tại Pháp, 50 % bệnh nhân qua đời tại phòng hồi sức là do ngừng điều trị, khi
các phương pháp điều trị trở thành vô ích. Và, theo Bộ trưởng Y tế Douste–Blazy, mỗi năm
có khoảng 150.000 ca ngừng máy hô hấp được quyết định ngoài khuôn khổ luật pháp. Như
vậy, tiếp tục chối cãi trợ tử trong khi hành động trợ tử vẫn thường xuyên xảy ra là một thái
độ giả dối, đạo đức giả, không thích hợp với hiện trạng xã hội.
– Hợp pháp hóa trợ tử, nếu được quy định một cách chặt chẽ, sẽ không làm tăng những
trường hợp "trợ tử" giả hiệu, tức là những trường hợp giết người bệnh một cách tùy tiện;
trái lại, có thể phân biệt một cách rõ ràng hơn hai hiện tượng với những động cơ hoàn toàn
khác nhau này.
Vấn đề còn phức tạp hơn nữa khi một số người cho rằng không có sự khác biệt giữa trợ
tử tích cực, ngừng điều trị, giúp tự tử và giảm đau cuối đời, vì theo họ, ý muốn và kết quả
cũng như nhau, tuy rằng có khác trong hình thức. Một số khác thì lại cho rằng những
trường hợp đó hoàn toàn khác nhau: Trợ tử là cố ý gây cái chết, trong khi ngừng điều trị chỉ
là để cái chết tới một cách tự nhiên; và vì vậy họ đồng ý với ngừng điều trị mà không đồng ý
với trợ tử.
Trong hai cuộc thăm dò dư luận tháng 3/2001 tại Pháp do cơ quan SOFRES thực hiện
và tháng 12/2002 do cơ quan IFOP thực hiện thì từ 86 tới 88% dân chúng đồng ý với trợ
tử, 33% đồng ý một cách tuyệt đối và 55% đồng ý trong một số trường hợp, cho những
người bị bệnh không thể chịu đựng nổi và vô phương cứu chữa.
Luật pháp về trợ tử hiện nay
Trên thế giới
Hiện nay, chỉ có 3 nước tại Tây phương có đạo luật không phạt tội (dépénalisation) trợ
tử và trợ giúp tự tử bằng y khoa: Nước Hòa Lan, ban hành năm 2001, mở rộng và bổ túc
đạo luật 1993 và 1994, không phạt tội trợ tử và trợ giúp tự tử bằng y khoa; nước Bỉ, ban
hành năm 2002, không phạt tội trợ tử; và tiểu bang Oregon (Hoa Kỳ), ban hành năm 1994,
và được tiếp tục qua cuộc trưng cầu dân ý năm 1997, không phạt tội trợ giúp tự tử bằng y
khoa trong giai đoạn cuối đời (3).
Tại Pháp, năm 2000, Ủy ban Tư vấn Quốc gia Đạo đức về Sinh học và Y học (Comité
Consultatif National d'Ethique sur les Sciences de la Vie et la Santé) đưa ra một báo cáo
tên là "Cuối đời, ngừng sống và trợ tử", yêu cầu sự khoan hồng pháp luật cho những người
phạm tội trợ tử, một loại "trợ tử ngoại lệ" (euthanasie d'exception), trong những tình
huống đặc biệt đau đớn của bệnh nhân không thể chữa chạy được, với sự thỏa thuận của gia
đình và sự quyết định tập thể của ê kíp y khoa.
Vào tháng 11/2004, trước sự sôi động dư luận sau vụ án chung quanh cái chết của
Vincent Humbert tháng 9/2003, một dự án đạo luật về cuối đời đã được thảo luận và thông
qua tại Quốc Hội Pháp, và được Thượng Nghị viện phê chuẩn ngày 13/04/2005 vừa qua.
Đạo luật này cho phép bệnh nhân, bị bệnh nặng không chữa khỏi được, có quyền từ chối
điều trị; cho phép người thầy thuốc ngừng áp dụng những phương pháp điều trị vô ích và
quá đáng, và làm giảm sự đau đớn của bệnh nhân vào giai đoạn cuối, bằng cách dùng thuốc
giảm đau có thể thu ngắn lại cuộc đời, với điều kiện thông tin cho bệnh nhân biết rõ; nhìn
nhận giá trị của sự quyết định trước của một bệnh nhân khi người đó từ chối điều trị vào
giai đoạn cuối cùng. Thật ra, đạo luật này mới thiết lập một quyền "để chết" (laisser
mourir) người bệnh nặng vào lúc cuối đời, nhưng vẫn chưa cho phép "gây chết" (faire
mourir).
Nói chung, trên thế giới hiện nay có một sự tiến hóa rõ rệt về chiều hướng từ chối và
ngừng điều trị đến cùng (trợ tử thụ động), cho phép giảm đau cuối đời (trợ tử gián tiếp), và
trợ giúp tự tử bằng y khoa. Nhưng đa số các nước vẫn chưa cho phép trợ tử tích cực, chưa
hợp pháp hóa trợ tử.
Trong tương lai, vấn đề chỉ có thể giải quyết được khi hành động trợ tử được luật pháp
chính thức quy định như đã làm cho việc phá thai, nghĩa là được chấp thuận trong một số
trường hợp đặc biệt, với sự yêu cầu của bệnh nhân và gia đình, với sự hội chẩn của một Uỷ
ban Đạo đức (Comité d'éthique) có mặt trong mỗi cơ quan, bệnh viện, để quyết định trợ tử
không trở thành một gánh nặng lương tâm nằm trên vai của một cá nhân.
Thái độ của các tôn giáo thần khải
Thái độ của các tôn giáo về vấn đề trợ tử dĩ nhiên có một ảnh hưởng quan trọng trên thái
độ chung của xã hội trên vấn đề này.
Phải nhấn mạnh rằng vấn đề trợ tử chưa hề được đặt ra vào lúc các tôn giáo lớn trên thế
giới ra đời, cho nên thái độ chính thức của các tôn giáo về vấn đề này chỉ là những suy diễn,
những phỏng đoán của các giáo hội ngày hôm nay, dựa lên những Kinh điển hay Thánh
kinh ngày xưa. Không ai có thể khẳng định rằng Đức Phật Thích Ca, đức Jésus hay đức
Muhamad sẽ có thái độ như thế nào trước những vấn đề sinh đạo đức hiện đại mà họ không
bao giờ tưởng tượng nổi, do những bước tiến khổng lồ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt trong
ngành sinh học.
Đối với các tôn giáo thần khải, sự sống có tính chất thiêng liêng và phải được tôn trọng
một cách tuyệt đối, bởi vì sự sống là do Thượng Đế ban cho con người, và chỉ có Thượng Đế
mới có quyền lấy lại được. "Ngươi không bao giờ được giết hại" là một trong 10 điều của
Bảng Luật do Thượng Đế trao cho Moses trên núi Sinai, làm nền tảng cho giáo lý của ba
tôn giáo gốc Abraham. Hơn nữa, vì tội lỗi nguyên thủy, con người phải chịu đựng sự đau
đớn khổ đau, trong khi chờ đợi sự cứu rỗi của Thượng Đế, cũng như đức Jésus đã hy sinh
hứng chịu cực hình trên thập tự để cứu vớt nhân loại.
Do đó, cả ba tôn giáo thần khải lớn, Do Thái giáo, Công giáo và Hồi giáo, đều chống đối
và kết án trợ tử, xem trợ tử, dù tích cực hay thụ động, đều là một sự giết người. Ngay cả sự
tự tử cũng không được cho phép. Chỉ có đạo Tin Lành có một thái độ dè dặt hơn, vì đặt
phẩm giá của con người lên trên hết, nên không coi trợ tử là một sự giết người, cũng không
chủ trương hợp pháp hóa trợ tử.
Trong trường hợp của Terri Schiavo, phát ngôn viên của Hội nghị giám mục Công giáo
Hoa Kỳ cho rằng trường hợp này không liên quan tới điều trị đến cùng mà tới quyền cơ bản
được cấp dinh dưỡng. Đức Giáo hoàng Jean–Paul II, trong một bài diễn văn về tình trạng
thực vật mạn tính, đã nhắc lại: "Những người anh em chúng ta đang ở trong tình trạng
thực vật cũng giữ trọn vẹn nhân phẩm của họ [...] Như vậy, họ có quyền được trợ giúp về y
tế căn bản cũng như được phòng ngừa những biến chứng do liệt giường [...] Cái chết vì đói
hay khát là kết quả duy nhất có thể xảy ra sau khi ngừng cấp dinh dưỡng [...] Trong chiều
hướng đó, nếu được thực hiện một cách có ý thức và suy tính, nó sẽ mang hình thức một
sự trợ tử thực sự thuộc loại bỏ phương pháp kéo dài sự sống".
Thái độ của đạo Phật
Thái độ của đạo Phật trước vấn đề trợ tử ra sao?
Nếu muốn tìm câu trả lời trong kinh điển, thì chúng ta sẽ thất vọng, bởi vì ngược lại với
hộ tử (accompagnement) là một trong những lĩnh vực được phát triển mạnh mẽ, đặc biệt
qua những lời dạy của cuốn Bardo Thodol (Tử Thư Tây Tạng), thì trợ tử lại rất ít được đề
cập trong đạo Phật.
Trong một bài viết về "Quan niệm về trợ tử của đạo Phật", đạo hữu Nguyễn Phúc Bửu
Tập cho biết học giả Nanayakkara có dẫn trong kinh Vinaya Pitaka (Luật Tạng) ba trường
hợp trợ tử, đều bị Đức Phật Thích Ca khiển trách, và trong hai trường hợp các vị tỳ kheo
phạm tội bị loại ra khỏi tăng đoàn.
Xét kỹ ra thì trường hợp thứ nhất (năm người tỳ kheo hiểu sai kinh điển tìm cách tự
vẫn) không phải là trợ tử, mà là một vụ mưu toan tự tử tập thể. Điều đó không khác gì
những vụ tự tử tập thể của các giáo phái như "Đền Mặt Trời" mới gần đây, và dĩ nhiên đạo
Phật không thể nào chấp nhận được. Trường hợp thứ hai, sáu người tỳ kheo xúi giục một
người đàn bà kết liễu đời sống của chồng mình bị bệnh nặng gần chết, thiết tưởng cũng nên
xét lại. Vì sao cả sáu người tu hành, lấy từ bi, cứu khổ làm gốc đều xúi dục điều đó? Có phải
chăng vì tình trạng khổ đau đã tới cùng cực, cho nên họ đành phải tìm cách làm chấm dứt
mạng sống đi liền với khổ đau? Trường hợp thứ ba lại càng bất nhẫn hơn nữa: một vị tỳ
kheo quá già yếu, mắc bệnh nan y, đau khổ triền miên, yêu cầu một người bạn giúp đỡ cho
ông sớm chết. Chúng ta có thể tự hỏi điều gì quan trọng, sự sống như là một giá trị, hay cái
khổ của con người, là cái hiện thực nhất, là cái căn bản gốc rễ của đạo Phật? Tôi không tin
rằng Đức Phật có thể lên án một kẻ khổ đau cùng cực, và một người vì lòng nhân ái đi cứu
trợ kẻ khổ đau.
Nếu lấy kinh điển ra để dẫn chứng, thì tôi nghĩ rằng một số kinh điển Phật giáo, ngay cả
thuộc vào Tam Tạng kinh điển, là kinh điển gần nhất với những lời dạy của Đức Phật, cũng
có thể đáng ngờ vực là bị thêm bớt ít nhiều sau đó. Bởi vì những lời dạy được truyền khẩu
đó phải đợi tới Hội nghị Kết Tập lần thứ ba, 200 năm sau khi Đức Phật viên tịch, mới được
đúc kết lại thành kinh Tạng, và sau đó còn sao đi chép lại nhiều lần, thì làm sao tránh khỏi
sai lạc ít nhiều.
Hơn nữa, bối cảnh xã hội đã đổi thay rất nhiều so với 2.500 năm trước, với những bước
tiến của khoa học, y học, v.v. cùng với những biến chuyển về giá trị xã hội và tâm tính con
người. Chúng ta chỉ có thể dựa lên trên giáo lý căn bản của đạo Phật mà rút ra những kết
luận về thái độ của đạo Phật trước vấn đề thời đại phức tạp này:
1) Ai cũng biết rằng đạo Phật chủ trương tôn trọng sự sống, và giới luật đầu tiên của
người Phật tử là không được giết hại (ahimsa). Nhưng đạo Phật không coi sự sống là một
điều thiêng liêng bất khả xâm phạm như các tôn giáo thần khải. Đối với đạo Phật, sự sống
cũng như sự chết nằm trong một vòng sinh tử rộng lớn, cũng như lão – tử chỉ là một chiếc
vòng trong dây chuyền 12 nhân duyên. Chết chỉ là một giai đoạn, sinh ra cũng chỉ là một
giai đoạn.
2) Nghiệp (karma) trong đạo Phật là hành động có ý thức, chứ không phải là bất cứ
hành động nào, vô tình hay cố ý, như trong Ấn Độ giáo và đạo Jain. Trong Tăng Chi Bộ
Kinh (Anguttara Nikaya), Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, chính tác ý (cetana) ta gọi là
nghiệp; sau khi muốn, người ta hành động bằng thân, khẩu, ý". Trong Kinh này, ngài
cũng nói, "Sát sinh do duyên sát sinh tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ
hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu". Nếu sát sinh không phải là do
tâm sát sinh gây nên, thì kết quả không phải là sợ hãi hận thù, khiến cho tâm phải khổ
đau.
3) Đạo Phật trước hết là đạo diệt khổ. Khổ đau (dukkha) là đối tượng chính của đạo
Phật, cũng như Đức Phật đã nói cùng với các đệ tử: "Này các tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta
chỉ nói lên sự khổ và diệt khổ" (Trung Bộ Kinh, Majjhima Nikaya).
4) Đạo Phật là một con đường khế cơ, khế lý, tùy duyên mà hành động. Trong Jataka,
những câu chuyện tiền thân của Đức Phật, có kể lại trong một kiếp trước ngài đã phải bắt
buộc giết một tướng cướp để cứu sống hàng chục người vô tội. Trong trường hợp đặc biệt,
giết người để cứu người vì lòng nhân đạo, chính là tinh thần "tùy duyên nhưng bất biến"
của đạo Phật.
Như vậy, theo tôi chỉ cần dựa vào những điểm chính đó, mà chúng ta có thể nghĩ rằng
hành động trợ tử, gây nên cái chết một cách nhẹ nhàng, nhằm mục đích làm thuyên giảm
những khổ đau của người bệnh trong giai đoạn cuối của cuộc đời, vì lòng từ bi cứu khổ,
không đi ngược lại với tinh thần của đạo Phật.
Đối với bản thân tôi, hành nghề thuốc từ hơn ba chục năm nay đồng thời là một cư sĩ
Phật tử, tôi không thấy có gì mâu thuẫn giữa hành động trợ tử của người thầy thuốc và con
đường diệt khổ của Đức Phật. Cũng như nhiều đồng nghiệp và y tá chăm sóc những bệnh
nhân tới giai đoạn cuối đời, chúng tôi đã hơn một lần quyết định, với sự thoả thuận và
nhiều khi do sự yêu cầu của gia đình, dùng những loại thuốc "cocktail lytique", những liều
thuốc opiacés gây hôn mê dần rồi tắt thở, đã viết trong hồ sơ mật hiệu DNR (do not
ressuscitate), để từ chối điều trị đến cùng... Mỗi trường hợp là một trường hợp đặc biệt và
không khỏi gây xúc động, nhưng chúng tôi đều có cảm tưởng đã hành động theo đúng y
đức, đã làm giảm bớt và ngắn đi nỗi khổ đau của người bệnh và của gia đình, thay vì một cái
chết kéo dài lê thê, hạ thấp phẩm giá con người, một cách vô ích.
Có người cho rằng đạo Phật có thể chủ trương để cho cái chết tới một cách tự nhiên,
nhưng không chủ trương gây nên cái chết, và như vậy cho phép trợ tử thụ động, tức là
ngưng điều trị, tắt máy thở, bỏ ống dẫn dạ dày, nhưng không cho tiêm thuốc ngưng tim đập
hay ngưng thở. Nhưng theo tôi, sự phân chia này có phần giả tạo và thiếu thực tế, điều
quan trọng vẫn là cái "tâm ý" của người bệnh và của gia đình: Khi sự khổ đau trở nên cùng
cực, cuộc sống nặng nề vô nghĩa, thì tại sao không cho phép người bệnh được giúp đỡ ra đi
một cách tốt đẹp, nhanh chóng và an lành? Đó chính là ý nghĩa cao đẹp của sự trợ tử, phù
hợp với tinh thần từ bi và trí tuệ, không chấp trước của đạo Phật.
Chúng ta có cái may mắn là đạo Phật đặt con người, hay đúng hơn cái tâm con người
vào trung tâm điểm của cuộc sống. "Tâm dẫn đầu các pháp" là câu đầu của Kinh Pháp Cú
(Dhammapada). Đạo Phật ra đời cũng vì cái khổ của con người, cho nên người Phật tử luôn
luôn lấy diệt khổ làm kim chỉ nam. Khác với các tôn giáo thần khải, lấy Thượng Đế làm
trung tâm điểm, lấy con người làm hình ảnh của Thượng Đế, với những giá trị tuyệt đối,
những giáo điều cứng nhắc, cho nên khó lòng đổi thay, thích hợp với thời đại. Sau các cuộc
cách mạng văn hóa mang lại bởi Copernic, Darwin, Freud, Einstein, v.v., ngày hôm nay
cuộc cách mạng sinh học cũng đang làm lay chuyển tháp ngà của các tôn giáo thần khải.
Đạo Phật chỉ cần dựa lên giáo lý căn bản của mình mà hiện đại hóa, mà thích hợp với thời
đại. Nếu không thì cũng sẽ, như các tôn giáo thần khải, càng ngày càng tách xa khoa học,
xa xã hội, xa bước tiến của nhân loại...
Cuối cùng, tôi xin đọc một câu của Tuệ Trung Thượng Sĩ, vị thầy của Sơ tổ Trúc Lâm
Trần Nhân Tông, trong bài "Sinh tử nhàn nhi dĩ" (Sống chết nhàn thôi vậy), để chúng ta
cùng nhau suy ngẫm:
Tâm chi sinh hề, sinh tử sinh.
Tâm chi diệt hề, sinh tử diệt.
(Khi tâm sinh, thì sinh tử cũng sinh.
Khi tâm diệt, thì sinh tử cũng diệt.)
Sinh tử không ở ngoài cái tâm. Vậy thì còn sợ gì sinh tử?
Olivet, ngày 8 tháng 5 năm 2005
(Nhân ngày kỷ niệm 5 năm Người Cư Sĩ)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro