"Ngày xưa, tại một vương quốc nọ có một nhà vua về già mới bắt đầu đi tìm chân lý.
Ông cho triệu tập tất cả các tăng sĩ trong nước, và ra lệnh cho họ tìm kiếm tất cả những
sách vở, kinh điển giảng dạy về con đường giải thoát, để mang trở về cung điện. Sau vài
năm trời, các tăng sĩ đã thu thập được một kho sách lớn gồm hàng vạn cuốn viết bằng đủ
thứ tiếng, tiếng Pali, tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa, tiếng Nhật Bản, và ngay cả tiếng Việt
Nam... Nhà vua không thể nào đọc được tất cả những cuốn sách đó, nên hạ lệnh cho
những vị cao tăng đã thấu hiểu đạo lý lựa chọn cho ông một vài cuốn sách quan trọng,
khả dĩ giúp cho ông tiến mau trên con đường đạo hạnh. Vài năm sau, các vị tăng dâng
lên cho ông một số kinh căn bản do chính Đức Phật giảng dạy, cùng với một vài bộ kinh
Ðại Thừa, mà họ tin rằng là nòng cốt của đạo Phật. Hỡi ôi, lúc bấy giờ nhà vua đã già yếu
lắm rồi, ông không còn đủ sức cầm lên một cuốn sách. Ông chỉ còn lại một yêu cầu: Đúc
kết lại những tinh hoa của đạo Phật thành một câu hay một chữ thôi, để may ra ông được
cứu độ sang bên kia bờ giác. Sau khi hội ý khẩn trương bàn bạc, các vị cao tăng cùng
nhau viết ra một chữ, và dâng lên cho nhà vua đang hấp hối. Nhà vua thều thào đọc:
'TÂM', và tắt thở với một nụ cười mãn nguyện..."
Thật ra, đây là một câu chuyện cổ quen thuộc mà tôi đã mạn phép tráo đổi chữ cuối
cùng bằng chữ TÂM. Sự tráo đổi này dĩ nhiên có một hậu ý. Ý nghĩa đó là, dù học Phật
trong bao nhiêu sách vở, tụng bao nhiêu kinh điển đi chăng nữa, cũng không thể nào thấu
hiểu được đạo Phật, nếu không thấy rõ được là: "Phật tại tâm".
Ðối với tôi, "Phật tại tâm" là một câu ngắn gọn chứa đựng được tinh hoa cốt tủy của đạo
Phật, cần phải suy ngẫm lâu ngày (hay ôm ấp trong lòng như một công án Thiền) cho tới
khi thông hiểu được rồi, thì bỗng thấy mọi việc đều sáng tỏ, cũng như mặt trời giữa ban
ngày.
Nhưng hiểu được như vậy cũng đừng vội cho rằng mình đã ngộ đạo. Chưa đâu, đó mới
chỉ là sự hé mở một cánh cửa đưa vào thế giới mênh mông của đạo pháp. Hiểu được "Phật
tại tâm" là một chuyện, thành tựu được "tâm là Phật" lại là chuyện khác, còn phải tu luyện
cái tâm rất lâu đời, mà chưa chắc cuối cùng đã đạt được.
Tâm là tất cả, tất cả tại tâm, tất cả từ tâm mà ra
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), thuộc vào Tam Tạng kinh điển Pali, một quyển
kinh phổ biến, sáng sủa, giản dị, được coi là phản ánh trung thành nhất của những lời Đức
Phật dạy, câu đầu đã nhấn mạnh ngay vào vai trò chính yếu của tâm: "Tâm dẫn đầu tất cả;
tâm là chủ; tâm tạo tác tất cả "...(Dh. 1)
Kinh Lăng Già (Lankavatara), thuộc vào kinh điển Ðại Thừa, cũng có câu: "Dĩ tâm vi
tông, dĩ vô môn vi pháp môn" (Lấy tâm làm chủ, lấy cửa không làm cửa Pháp).
Nhưng tâm là gì? Câu hỏi đó cũng không khác gì một câu hỏi trung tâm của triết học,
một câu hỏi đã ám ảnh bao nhiêu thế hệ con người: "Ta là ai?"
Tâm chính là mình, chứ không đâu xa lạ. Là cái "ta" tạm thời, cái ta bao gồm và phát
sinh ra thân, khẩu, ý. Tâm tạo tác ra tất cả, cái nhân cũng như cái quả. Mỗi người do cái
tâm tự tạo nên cái nghiệp (karma), nên phải chịu trách nhiệm tất cả những gì mình đã làm.
Kinh Pháp Cú cũng có câu:
"Chỉ có tự mình gây nên điều xấu, tự mình làm nhơ uế mình,
Tự mình hủy bỏ điều xấu, tự mình làm mình thanh tịnh.
Thanh tịnh hay nhơ uế đều tùy thuộc mình,
Không ai làm ai thanh tịnh được." (Dh. 165)
Tâm bao gồm tất cả, ngay cả "Khổ, Tập, Diệt, Ðạo" cũng là ở tâm. Vì nếu không có tâm,
thì làm gì có "Khổ" (dukkha) – hòn đá, mặt trăng đâu có khổ – làm gì có "Tập", tức là tham
sân si dấy lên chính trong tâm con người, chứ không nơi nào khác. Và dĩ nhiên nếu không
có "Khổ", thì đâu có cần tới "Diệt" mà cũng không cần tới "Ðạo" làm chi nữa.
Tông phái Duy thức (Vijnanavada) của Ðại Thừa còn đi xa hơn nữa, với quan niệm rằng
tất cả mọi hiện tượng trên thế gian này là do tâm thức con người mà ra (gồm có bảy thức và
A lại da thức). Nhưng khác với thái độ thụ động của các triết lý duy tâm Tây phương, Duy
thức chủ trương một thái độ tích cực bằng cách tu luyện tâm thức bằng Yoga, bằng thiền
định (do đó còn được gọi là Yogacara), để đi tới giác ngộ.
Phật tại tâm, tâm tức Phật
Mục đích đầu tiên của người tu theo đạo Phật, dù là tăng sĩ hay cư sĩ (là hai lối sống, chứ
không phải là hai con đường), là làm chủ được cái tâm của mình.
Bằng cách tôn trọng giới luật (sila), trong thân khẩu ý, mỗi người cố gắng giữ cho cái
tâm thanh tịnh, không bị dao động, giằng co, để có thể định (samadhi) được cái tâm của
mình cho an nhiên, tĩnh lặng. Ðịnh được cái tâm của mình là một giai đoạn quyết định,
một giai đoạn quan trọng đến nỗi chính Đức Phật cũng phải công nhận rằng "niệm" là con
đường duy nhất (ekayano maggo) đưa tới giải thoát. Ngài đã trình bày một cách cặn kẽ
phương pháp quán niệm trong kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana sutta) là một trong những
quyển kinh được phổ biến nhất trong Phật giáo Nguyên thủy. Chữ "niệm" gồm có chữ "kim"
ở trên và chữ "tâm" ở dưới, như vậy niệm bao hàm ý nghĩa "chú tâm tới hiện tại".
Trì giới, định tâm đã là những điều khó khăn không phải một sớm một chiều đạt được,
nhưng kết quả sẽ đi đôi với cố gắng của mỗi người, tức là sẽ mang lại sự thanh thản, an vui
trong tâm hồn. Diệt trừ được những tâm lý tiêu cực như si mê, nóng giận, loạn động, nghi
ngờ, phát triển được những tâm lý tích cực như từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ được sự sáng suốt,
và làm chủ được cái tâm của mình, đã là những thành quả đáng kể trên con đường đạo
hạnh.
Nhưng mục đích của đạo Phật còn cao xa hơn nữa. Mục đích của đạo Phật là đạt được
giác ngộ, bằng trí tuệ Bát Nhã (pañña), tức là làm hiển lộ cái Phật tánh sẵn có nơi mình, cái
nhân mầm Như Lai (tathagatha–garbha) chỉ đợi chờ một ngày kia vươn lên trong mỗi
người. Ðó là một thông điệp mang đầy hi vọng và tinh thần bình đẳng, mà cách đây hơn
2.500 năm Đức Phật Thích Ca, một con người siêu việt, đã trao lại cho nhân loại: "Ta là
Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành".
Như vậy, tất cả những ai đi tìm Phật ở ngoài mình cũng chỉ như người đi tìm "lông rùa,
sừng thỏ". Trong những câu chuyện Thiền có rất nhiều chuyện về tìm tâm, kiếm Phật:
"Ngài Huệ Khả, sau khi tự cắt tay, đứng trên tuyết cầu xin Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma an cho cái
tâm của mình. Tổ trả lời:
– Ðưa cái tâm ra đây ta an cho.
– Con không biết cái tâm ở đâu.
– Vậy thì ta đã an tâm cho ngươi rồi!
Nghe câu đó, ngài Huệ Khả hốt nhiên chứng ngộ."
"Khi sư Huệ Hải tới tham vấn Mã Tổ Ðạo Nhất, Mã Tổ hỏi:
– Ngươi tới đây tìm gì?
– Tới cầu Phật Pháp.
– Kho báu nhà mình, chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?
– Kho báu nào?
– Kho báu nhà ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, việc gì phải tìm
bên ngoài.
Nghe vậy, ngài Huệ Hải cũng hốt nhiên nhận được bản tánh của mình."
Khi nhận diện được cái bản tánh của mình, thì mới tin rằng "Tâm tức là Phật" và "bản
tánh của mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh tịnh", nhưng vì bị vẩn đục bởi những tham
sân si, ô nhiễm bởi những ý tưởng vọng niệm, cho nên như mặt trời bị áng mây che lấp
không làm sao sáng tỏ được. Một khi giác ngộ, không còn cái nhị nguyên chánh tà, tốt xấu,
trong đục, v.v., và ngay cả cái ta cũng không còn. Tâm không còn, Phật cũng không còn.
Thực tại, Không (shunyata), hay Chân Như (tathata), được nhận chân bằng trực giác, vượt
qua khỏi mọi ngôn từ, biểu tượng. Ðó cũng là sự thành tựu của sự hòa nhập con người với
bản thể vũ trụ. Bằng cái tâm mình, con người đại giác vượt khỏi cái vỏ hữu hạn của mình để
hòa mình trong cái vô hạn.
Không tìm Phật ở đâu ngoài mình
Nhận định như vậy, người tu theo đạo Phật một cách đúng đắn luôn luôn phải trở về với
cái tâm sâu thẳm của mình, để không bị những cảm xúc, những vọng niệm, những tưởng
tượng mông lung lôi kéo đi xa sang thế giới bên ngoài.
Nhưng thường tình ít ai có can đảm đi sâu vào nội tâm của mình, và tự đối diện với
mình, trong yên lặng cô đơn. Ít người tin tưởng vào sức mạnh của chính mình, vào khả
năng tự lực, tuy rằng Đức Phật trước khi tịch diệt đã căn dặn các đệ tử của ngài: "Các con
hãy là hòn đảo cho chính mình! Ðừng đi tìm một nơi trú ẩn bên ngoài nào! Hãy lấy
Chánh Pháp làm hòn đảo, lấy Chân lý làm nơi trú ẩn. Ðừng lấy nơi trú ẩn nào khác"
(Kinh Ðại Niết Bàn, Maha–Paranibbana Sutta).
Người ta thường cần dựa vào tha lực, vào những sức mạnh bên ngoài. Ðầu tiên là những
vị thầy, là những người dẫn dắt, chỉ bảo mình, để không bị sai đường lạc lối. Dĩ nhiên vai
trò của các vị thầy rất quan trọng, dù là guru, thiền sư hay roshi, họ là những người đã đi
trước, đã được các thế hệ trước chỉ đường và tiếp tục chỉ đường cho những thế hệ sau.
Những quan hệ thầy trò có thể rất sâu đậm, và có thể trở thành quyết định cho sự chứng
ngộ của người học trò.
Nhưng đó chỉ là những quan hệ thầy trò, không hơn không kém. Thầy trò chỉ là địa vị
của người đi trước và đi sau, tuyệt nhiên không phải là ranh giới của sự giác ngộ. Giác ngộ
hay không chỉ có một mình mình biết. Trong kinh Pháp Cú có câu: "Các người phải tự
mình cố gắng, chư Phật chỉ là những bậc thầy chỉ đường" (Dh. 276). Ngay cả chư Phật
cũng chỉ là những bậc thầy chỉ đường, điều đó tỏ rõ tinh thần bình đẳng và tự lực của đạo
Phật. Hơn nữa, vị thầy giỏi là người biết tùy duyên thích nghi sự chỉ dậy với căn cơ, trình độ
của người học trò, và đồng thời để người học trò tự do tự phát triển lấy, và tự tìm ra con
đường của mình.
Ðiểm nương tựa thứ hai mà người ta thường dựa vào là kinh điển, sách vở. Kinh điển,
sách vở là nơi mà người ta mong tìm được chánh Pháp, nghe được những lời dạy của chư
Phật, chư Tăng trong quá khứ. Nhưng kinh điển mênh mông như rừng như biển, số kinh
được chép đi chép lại, trước tác, dịch thuật, thêm bớt trong quá trình phát triển của đạo
Phật, đã trở thành quá bề bộn, rậm rạp, cho nên người học Phật khó lòng nào tự mình xoay
sở trong rừng biển đó. Hơn nữa, chính Đức Phật đã cảnh giác các đệ tử của mình: "Những
điều ta dạy đây chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, đừng cho ngón tay là mặt trăng". Do đó,
phải coi kinh điển, sách vở như những phương tiện không hơn không kém, và cố gắng vận
dụng trí tuệ mình để phân biệt điều hay điều dở, điều còn có giá trị, điều đã lỗi thời, điều
tinh hoa cốt tủy, điều phù phiếm vô dụng. Và luôn luôn nhớ rằng điều quan trọng trong đạo
Phật không phải là học, mà là hành. Rằng trí không phải là tuệ, tuy rằng hai cái có liên
quan với nhau. Trí là sự hiểu biết bằng lý trí, lý luận, ngôn từ, biểu tượng, trong khi đó tuệ
(pañña) là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn, bằng trực giác, vượt qua khỏi biểu tượng, ngôn
từ. Và tuệ không thể nào có được nếu không có định, tức là quay lại nhìn thẳng vào cái tâm
của mình. Tất cả rồi cũng quay trở về tâm...
Ngoài ra, người ta cũng thường hay tìm sự hỗ trợ của các tha lực như các sức mạnh
huyền bí, siêu nhiên (hay được người ta coi là huyền bí, siêu nhiên), và kêu gọi những sức
mạnh đó giúp đỡ mình. Ðó là tất cả những nghi lễ, cúng vái, cầu xin, kinh kệ hướng về các
vị Phật, Bồ Tát, thần linh, như là những thực thể bên ngoài, có quyền hành trên vận mạng
của mình. Thật ra, người hiểu đúng đắn đạo Phật sẽ không bao giờ quan niệm như vậy:
Theo luật nhân quả, không ai ngoài mình có thể cứu vớt được mình, chỉ có mình mới cứu
vớt được mình, mới giải thoát được mình. Và khi cầu xin, dù không phải cho riêng mình
mà là cho gia đình mình, dù không phải được thêm tiền bạc, danh vọng mà là thêm công
quả, phước đức, người ta vẫn không tránh khỏi tăng thêm cái chấp ngã của mình. Mà còn
chấp ngã thì làm sao mong được giải thoát?
Xét cho cùng, khi một người tu Phật thành khẩn lễ lạy trước bàn thờ Phật, thắp hương,
tụng kinh theo hồi chuông tiếng mõ, thì thật ra người đó thành khẩn lễ lạy những vị Phật,
Bồ Tát trong chính mình. Khi niệm danh hiệu Đức Phật Thích Ca, thì mình tưởng nhớ tới
vị thầy đã chỉ dẫn cho nhân loại con đường giác ngộ, đồng thời hướng vào trong chiều sâu
tâm thức để kêu gọi cái Phật tánh trong mình. Khi niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế
Âm, thì mình khơi dậy lòng từ bi trong mình, và phát hạnh nguyện lắng nghe những đau
khổ của thế gian như ngài. Cũng như lời của một nhà sư Trung Hoa nói với John Blofeld:
"Các vị Bồ Tát có thực cũng như bầu trời và trái đất, và họ có một sức mạnh vô biên cứu
vớt chúng sinh. Nhưng sự có mặt của họ chính là ở trong tâm thức của chúng ta, là nơi
chứa đựng cả bầu trời và trái đất."
Thật ra, Phật không ở trong những bức tượng, những viên xá lợi, Phật không nghe thấy
những lời cầu xin, không nhìn thấy những lễ lạy, không cần đến những cây nhang, cây hoa
cắm trên bàn thờ. Bởi vì Phật chính ở trong tâm ta. Thiên đàng hay địa ngục, luân hồi hay
Niết Bàn, cõi Ta Bà hay thế giới Tây Phương Cực Lạc cũng là ở tại tâm.
Nói như vậy không có nghĩa là ta phải bác bỏ mọi nghi lễ, tụng niệm, hay coi thường sự
thành khẩn. Lòng tin (saddha), sự thành khẩn trong đạo Phật là những sức mạnh vô cùng
mãnh liệt, có khả năng giúp đỡ rất nhiều cho người Phật tử, nhất là trong những giờ phút
khó khăn. Nhưng lòng tin trong đạo Phật không phải là đức tin không bờ bến, đức tin
không điều kiện của những tôn giáo thần khải. Ðó là sự tin tưởng nơi những người đi trước,
nơi những vị thầy dẫn dắt cho mình, cho tới khi chính mình thực nghiệm được con đường
chỉ dẫn. Dần dần sự tin tưởng tạm thời đó sẽ được thay thế bằng sự tin tưởng vững chắc
mang lại bởi kinh nghiệm bản thân.
Như vậy, người tu Phật phải hiểu rằng mỗi khi mình lễ lạy, tụng niệm, là mình hướng về
những sức mạnh tâm linh bên trong mình, chứ không phải là hướng về những quyền lực
huyền bí trên trời dưới biển bên ngoài. Và nếu sức mạnh mình cầu khẩn tưởng là bên ngoài
nhưng kỳ thật là sức mạnh bên trong, thì tự lực và tha lực trong thực tế liệu còn có khác gì
nhau?
Một con đường, nhiều phương tiện
Giáo lý của Đức Phật có nhiều phương pháp tu luyện tâm linh, thích hợp với những nhu
cầu, tâm tính và căn cơ của mỗi người.
Nhưng cuối cùng tất cả đều hướng về một trung tâm điểm là "niệm" (chú tâm), mà Đức
Phật gọi là "con đường duy nhất" (ekayano maggo). Người ta có thể nhìn con đường đó
như là "trái tim của giáo pháp", đập ở giữa tất cả những mạch máu trong cơ thể của đạo
pháp. Trong "Bát chánh đạo", chánh niệm giữ một địa vị vô cùng quan trọng. Nhờ chánh
niệm, con người mới làm chủ được cái tâm của mình, giữ cho cái tâm an tịnh và chống được
phiền não, khổ đau.
Trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthana–sutta), Đức Phật đã trình bầy một cách rõ ràng
phương pháp quán niệm theo 4 nhóm chủ đề là Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Ðó là căn bản của
thiền định, là phương pháp ngắn gọn, trực tiếp nhất để đi tới giải thoát. Sau này Thiền Ðại
Thừa cũng không khác gì trong bản chất, được thâu gọn trong câu kệ xuất hiện sau ngài
Huệ Năng: "Giáo ngoại biệt truyền, Bất lập văn tự, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành
Phật" (Dạy ngoài truyền riêng, Không dựa văn tự, Chỉ thẳng vào tâm, Thấy tánh thành
Phật).
Nhưng nếu con đường là một, thì cũng có nhiều phương tiện chở đi, như những cỗ xe
hay những chiếc bè (yana) khác nhau. Vì con người có nhiều tâm tính, căn cơ khác nhau,
cho nên mới xuất hiện nhiều phương tiện khác nhau, tuy cùng đi trên một con đường.
Trong suốt hành trình phát triển của đạo Phật, nhiều trường phái (vada) đã xuất hiện, và đã
pha trộn ít nhiều với nền văn hóa bản xứ, cho nên đạo Phật đã trở thành phong phú và đa
dạng, trong hình thức cũng như trong nội dung. Người ta có cảm tưởng có rất nhiều khác
biệt giữa đạo Phật Nguyên thủy, Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Nhật Liên Tông,
v.v.. Ðến nỗi có khi tự hỏi còn có gì chung giữa khung cảnh bình dị, yên lặng của một thiền
đường Nhật Bản và khung cảnh mầu mè, náo nhiệt của một ngôi chùa Tây Tạng?
Câu trả lời có thể rất là giản dị, nếu lấy cái tâm làm trung tâm điểm. Ai nấy đều đi tìm
Phật, tìm giác ngộ trong cái tâm của mình. Còn tất cả những hình thức chỉ là phương tiện,
những phương tiện thiện xảo (upaya–kausalya) giúp con người định tâm giữa những xao
động, cám dỗ, nghi vấn xuất hiện trên con đường tu tập. Những phương tiện đó là: cảnh trí,
y phục, chuông mõ, chiêng trống, ấn quyết (mudra), thần chú (mantra), đồ hình
(mandala), tụng kinh, niệm Phật, lần tràng hạt, v.v.. Tất cả những phương tiện đó có khả
năng ảnh hưởng rất mạnh trên tâm lý con người, và có thể giúp đỡ rất nhiều trong sự tu
tập. Ngay cả trong Thiền tông cũng có khi dùng phương tiện, chẳng hạn như công án
(koan), hay tác động mạnh gây nên đốn ngộ trong phái Lâm Tế (Rinzai), hoặc là kinh kệ
trong phái Tào Ðộng (Soto), tuy rằng thiền sư Dogen phái Soto chủ trương "chỉ cần ngồi"
(shi–kantaza) là đủ.
Chọn lựa một phương tiện này hay một phương tiện khác là tùy tâm tính, căn cơ của
mỗi người. Không có trường phái nào hay hơn, hay cao hơn trường phái khác. Chỉ có thích
hợp hay không với mỗi người, thế thôi.
Nhìn như vậy, người ta không còn lý do nào nữa để chỉ trích nhau giữa các tông phái
Phật giáo: Nguyên thủy, Ðại thừa, Kim Cương thừa, Thiền, Tịnh Ðộ, Mật tông, v.v.. Cái tâm
là cái hòa đồng tất cả, là nơi gặp gỡ của tất cả những ai, ở mọi chân trời và thời đại, đã có
can đảm đi tìm giác ngộ, Chân Lý hay Tuyệt Ðối, trong chiều sâu thẳm của tâm linh.
Ðể kết luận, nếu chúng ta thấy đạo Phật có phần nào phức tạp, rườm rà và khó hiểu, thì
nên đem ra soi sáng bởi câu "Phật tại tâm", thì mọi sự sẽ trở nên sáng sủa và giản dị.
Giản dị cũng như hai câu sau này của Kinh Pháp Cú:
Không làm các điều ác,
Thành tựu những việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Ấy lời chư Phật dậy. (Dh 183)
Không Ðịnh nào không Tuệ,
Không Tuệ nào không Ðịnh,
Ai cùng lúc Ðịnh Tuệ,
Người ấy gần Niết Bàn. (Dh 372)
Tháng 1/1999
(Viết để tưởng nhớ tới Thầy Thích Thiện Châu, pháp danh Tâm Thật)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro